BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN NGỌC HÀ

VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ

CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN NGỌC HÀ

VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ

CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS -TS Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, tài

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài

liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và chính xác!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Ngọc Hà

LỜI CẢM ƠN

Qua quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ quản lý

công tại Học viện Hành chính Quốc gia, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:

- Toàn thể giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình

truyền đạt những tri thức mới, những kinh nghiệm thực tiễn phong phú giúp tôi

không ngừng nâng cao khả năng nhận thức và vận dụng thực tiễn vào công tác.

- Lãnh đạo và cán bộ chiến sĩ Công an quận Long Biên thành phố Hà

Nội đã hỗ trợ tôi trong việc cung cấp số liệu, xử lý thông tin, các ý kiến

chuyên gia trong quá trình thực hiện hoàn thành luận văn Thạc sĩ.

- PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà đã dành thời gian quý báu tận tình hướng

dẫn, chỉ bảo giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn tôi đã dành nhiều thời

gian và công sức. Tuy đã cố gắng, nỗ lực nhưng trong giai đoạn đầu của

nghiên cứu khoa học, có nhiều kiến thức lý luận và thực tiễn nghiên cứu lần

đầu tôi được tiếp cận, vì vậy luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi

rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và đồng nghiệp giúp

tôi ngày càng hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Nguyễn Ngọc Hà

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ANCT : An ninh chính trị

ANQG : An ninh quốc gia

ANTĐ : An ninh Thủ đô

ANTT : An ninh trật tự

BCA : Bộ Công an

CAHN : Công an Hà Nội

CAND : Công an nhân dân

CATP : Công an Thành phố

CBCS : Cán bộ, chiến sỹ

CMND : Chứng minh nhân dân

CSKV : Cảnh sát khu vực

CSND : Cảnh sát nhân dân

QLHC : Quản lý hành chính

TTATXH : Trật tự an toàn xã hội

TTXH : Trật tự xã hội

UBND : Ủy ban nhân dân

VPPL : Vi phạm pháp luật

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu ................................................................................................................. 1

Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ......................... 8

1.1. Khái niệm chung ................................................................................ 8

1.2.Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ...................................... 12

1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát quản

lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ......................... 21

Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long

Biên thành phố Hà Nội ................................................................... 30

2.1. Các yếu tố tác động đến vai trò quản lý cư trú của lực lượng

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận

Long Biên thành phố Hà Nội ............................................................ 30

2.2. Thực trạng công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát

quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận Long Biên,

thành phố Hà Nội ............................................................................. 35

2.3. Đánh giá chung ................................................................................ 56

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của lực

lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong

quản lý cư trú tại quận Long Biên thành phố Hà Nội ................ 66

3.1. Phương hướng nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát quản

lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ........................ 66

3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại địa bàn

quận Long Biên thành phố Hà Nội ................................................... 67

Kết luận ........................................................................................................... 93

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Quản lý cư trú là một nội dung cơ bản trong quản lý hành chính về

ANTT. Tiến hành công tác quản lý cư trú góp phần tạo điều kiện tối đa để

công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, phục vụ cho công tác

quản lý xã hội của Nhà nước và công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh

chống tội phạm và các hành vi VPPL, tệ nạn xã hội, trong đó lực lượng Cảnh

sát QLHC về TTXH đóng vai trò vô cùng quan trọng.

Với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của cả nước,

Hà Nội có sức hút lớn đối với người dân từ tỉnh khác, các quốc gia trên thế

giới đến làm việc, học tập, sinh sống, du lịch... Tuy nhiên, sự gia tăng cơ học

về dân số trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tạo ra những vấn đề tiêu cực

bất ổn về an ninh trật tự, quản lý cư trú... Quận Long Biên là quận được thành

lập trên cơ sở tách ra từ huyện Gia Lâm và có vị trí về phía Bắc sông Hồng,

Thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn diễn ra nhiều hoạt động kinh tế xã hội, tập trung

nhiều thành phần dân cư, nơi tập trung đầu mối giao thông, giao thương,

trung chuyển đi, về của các tỉnh phía về phía Bắc; Quận Long Biên có ga Gia

Lâm và bến xe ô tô liên tỉnh Gia Lâm là những trọng điểm phức tạp về trật tự

công cộng, nhiều khu đô thị mới được thành lập.Trong những năm qua, chính

quyền các cấp đã tăng cường công tác chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ

chuyên môn thực hiện nghiêm công tác đăng ký, quản lý cư trú, trong đó có

việc phát huy tối đa vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong

quản lý cư trú.

Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an

quận Long Biên đã có rất nhiều đóng góp tích cực, ưu điểm trong quản lý cư

trú, góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.Tuy nhiên, việc phát huy vai

1

trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú của vẫn còn

tồn tại, hạn chế như việc tổ chức thực hiện, áp dụng Luật Cư trú vẫn còn nhiều

khó khăn, bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế; Công tác tuyên truyền,

hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện quản lý cư trú chưa được phát huy

hiệu quả; Hệ thống phương tiện, trang thiết bị như máy móc, phần mềm,

phương tiện đi lại, hồ sơ quản lý còn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình

mới, việc quản lý vẫn còn thủ công; Đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện công tác

quản lý cư trú còn thiếu, nhiều cán bộ còn hạn chế về nhận thức pháp luật,

nghiệp vụ và các kỹ năng công tác khác; Tình trạng cán bộ xa rời địa bàn, chưa

làm tốt trong công tác tuyên truyền; hoạt động kiểm tra, giám sát tại địa bàn

chưa thực sự chặt chẽ; Cơ chế quản lý người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh

viên trên địa bàn quận chưa hợp lý; Số lượng CBCS thực hiện nhiệm vụ quản

lý cư trú trên địa bàn còn thiếu; Sự phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH với các lực lượng khác vẫn nặng về hình thức, nội dung chưa đồng bộ,

phương pháp tiến hành chưa thực sự hiệu quả; Nhiều khu đô thị, chung cư cao

tầng được xây dựng mới, kéo theo hàng nghìn hộ, nhân khẩu về cư trú nhưng

quá trình quy hoạch, phê duyệt chưa có sự tham gia đóng góp ý kiến của Cảnh

sát QLHC về TTXH dẫn đến khó khăn trong bố trí cán bộ, tổ chức công tác

quản lý cư trú. Tình hình thực tiễn trên đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi, nâng cao

hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH

tại địa bàn cơ sở trong quản lý cư trú.

Dưới góc độ lý luận, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về vai

trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý

nhà nước về an ninh trật tự, tuy nhiên thời gian nghiên cứu đã lâu, chưa đi sâu

trực tiếp vào công tác quản lý cư trú, đặc biệt trên địa bàn quận Long Biên

thành phố Hà Nội. Đây vẫn là khoảng trống đòi hỏi cần được nghiên cứu, bổ

sung và hoàn thiện. Chính vì vậy, việc chọn vấn đề: “Vai trò của lực lượng

2

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú - từ thực

tiễn quận Long Biên thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ có ý

nghĩa thiết thực trên phương diện lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu

Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực

cư trú và quản lý cư trú, vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH

trong quản lý cư trú. Có thể kể đến các công trình, đề tài sau: đề tài khoa học

cấp Bộ Công an năm 2006 của GS- TS Nguyễn Xuân Yêm: “Đổi mới quản

lý cư trú của công dân Việt Nam trong tình hình hiện nay”; Quản lý nhà

nước về cư trú - thực trạng và giải pháp (từ thực tiễn thành phố Hà Nội),

Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Ẩn, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia năm 2009; “ Quản lý cư trú - Qua thực tiễn ở Hải Phòng”,

Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Tư, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2014. Bên cạnh đó còn có một số bài viết chuyên đề như: “Một số vấn

đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu trong xây dựng Luật Cư trú Việt

Nam” đăng trên tạp chí CAND tháng 7 năm 2007 của PGS, TS Đinh Trọng

Hoàn; bài viết: “Mô hình quản lý cư trú theo Luật cư trú ở Việt Nam trong

tình hình mới” của GS, TS Nguyễn Ngọc Anh đăng trên tạp chí CSND

tháng 8 năm 2008; bài viết “Thay đổi bước ngoặt trong quản lý cư trú”

đăng trên báo An ninh Thủ đô tháng 11 năm 2017; bài viết “Nâng cao hiệu

quả công tác đăng ký, quản lý cư trú phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo

đảm an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hải

Phòng” của tác giả Vũ Thanh Chương đăng trên tạp chí CSND tháng 3 năm

2018...

Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề

mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú. Nhưng đến nay chưa có công trình

3

nghiên cứu nào đi sâu về việc tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú trên địa

bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Có thể khẳng định, đề tài “Vai trò

của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư

trú - từ thực tiễn quận Long Biên thành phố Hà Nội” là đề tài đầu tiên nghiên

cứu về khía cạnh này tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp, phân tích những kiến thức lý luận và

đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật

tự xã hội trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội

luận văn góp phần đưa ra một số giải pháp cho việc nâng cao vai trò của lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long

Biên, Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung.

- Nhiệm vụ:

+ Nghiên cứu, hệ thống hóa, bổ sung làm rõ lý luận vai trò của lực

lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.

+ Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng cư trú, thực trạng vai trò của

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú trên địa bàn quận

Long Biên, thành phố Hà Nội.

+ Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả vai trò của lực lượng Cảnh sát

quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú trên địa bàn quận

Long Biên thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu:

Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội

trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu:

4

+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu vai trò của lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH trong quản lý cư trú đối với công dân Việt Nam trên địa bàn

quận Long Biên thành phố Hà Nội gắn liền với các công tác quản lý thường

trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng, xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu

về dân cư, cư trú.

+ Về đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu trong phạm vi hoạt

động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH chuyên môn thuộc Đội Cảnh

sát QLHC về TTXH ở Công an quận và lực lượng Cảnh sát khu vực tại Công

an phường.

+ Địa bàn nghiên cứu: Địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.

+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2014 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận:

Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt các chủ trương, đường

lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước,

phương châm, nguyên tắc của Ngành Công an trong quản lý về an ninh, trật

tự nói chung, trong công tác quản lý cư trú nói riêng.

-Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu hệ thống các giáo trình,

tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, nghiên cứu hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý cư trú theo chức năng

của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Qua đó, tác giả đã bổ sung cách

nhìn tổng quát, các vấn đề đã được các tài liệu chỉ ra về lý luận, thực tiễn của

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH.

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng

xuyên suốt trong nội dung luận văn để làm rõ các vấn đề lý luận, đánh giá

5

đúng tình hình thực trạng. Trên cơ sở tổng hợp các số liệu, thông tin từ các

báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Công an quận, đội Cảnh sát QLHC

về TTXH, Công an các phường, qua đó xây dựng thành hệ thống bảng phụ

lục, biểu đồ để so sánh về dữ liệu dân cư qua các năm.

+ Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ, trao đổi khoa học với cán bộ thực

tiễn nhiều kinh nghiệm trực tiếp thực hiện quản lý cư trú. Mặt khác, trao đổi

với cán bộ thực tiễn làm công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên,

thành phố Hà Nội để làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện

công tác này. Ngoài ra, phương pháp chuyên gia còn được sử dụng khi trao

đổi, tham vấn các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về những vấn đề lý luận có

liên quan đến đề tài luận văn. Đồng thời, xin ý kiến chuyên gia về bố cục, nội

dung phân tích trong luận văn, ngôn ngữ, văn phong trong quá trình hoàn

thiện luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận:

Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần hoàn thiện lý luận vai trò của

lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú

của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH và góp phần xây dựng hệ thống tài

liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu về chuyên ngành quản lý hành

chính về ANTT.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Luận văn trực tiếp đánh giá, phân tích tình hình VPPL về cư trú; thực

trạng hoạt động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH về cư trú trên địa

bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Từ đó, tìm ra những hạn chế, nguyên

nhân của những tồn tại và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai

trò công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trên địa

bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.

6

Kết quả nghiên cứu luận văn có thể được sử dụng nhằm giúp cho lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên thành phố Hà Nội

chỉ đạo, tiến hành quản lý cư trú phục vụ trong quản lý xã hội và phòng ngừa,

đấu tranh chống tội phạm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ

lục, nội dung luận văn được cấu trúc thành 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.

Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính

về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long Biên thành phố Hà Nội.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận

7

Long Biên thành phố Hà Nội.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG

QUẢN LÝ CƯ TRÚ

1.1. Khái niệm chung.

1.1.1. Khái niệm về cư trú.

Theo Giản yếu Hán - Việt từ điển giải thích: “Cư trú là ở tại một chỗ

nào trong một thời gian dài”[1,tr.23].

Trong lịch sử, vấn đề cư trú đã được chế độ phong kiến quan tâm nhằm

phục vụ cho chính sách bình định, đánh thuế, di dân và đi lính. Công dân khi

đi ra khỏi địa bàn nơi họ sinh sống thường xuyên phải khai báo với chính

quyền. Nghĩa của từ cư trú qua các giai đoạn gắn với sự đa dạng trong hoạt

động ở, nghỉ, đi lại của công dân và trong góc độ pháp luật đã dẫn đến sự đa

dạng trong cách hiểu.

Cư trú theo nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt xác định là:“sự hiện diện

của cá nhân tại một số nơi ở”[46, tr.17]. Một người có thể cư trú ở hai hoặc

nhiều nơi, như trong một thành phố và người ở trong nước, nhưng chỉ có một

nơi cư trú mang tính ổn định. Cư trú có nghĩa là sống tại một địa phương cụ

thể, nơi cư trú sinh sống tại địa phương đó với ý định cố định và lâu dài.

Tự do cư trú, đi lại là một trong những quyền cơ bản của công dân

được khẳng định tại Điều 23 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2013: "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong cả nước, có

quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này

do pháp luật quy định"[40, tr.15]. Như vậy, quyền cư trú của công dân là một

trong những quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ. Công dân có quyền sống,

8

làm việc, cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Điều 1 Luật Cư trú 2006 quy định:

“Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị

trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú”. [42, tr.5]. Cư trú của công dân

được xác định tại từng vị trí theo địa giới hành chính phường, xã, thị trấn

bằng hai hình thức đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú với cơ quan

Công an.

Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật Cư trú và các

quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký

thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền

đăng ký thường trú, tạm trú. Tuy nhiên, quyền tự do cư trú của công dân chỉ

bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình

tự, thủ tục do pháp luật quy định. Để đảm bảo thực hiện quyền cư trú của

công dân, Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp khác nhau như bảo đảm quyền

tự do cư trú của công dân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền tự do

cư trú của công dân phải bị xử lý nghiêm minh. Mặt khác, nhà nước có chính

sách và biện pháp đồng bộ để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do cư trú

của công dân. Đồng thời, nhà nước bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, nguồn

nhân lực, đầu tư phát triển công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho hoạt động đăng

ký về cư trú.

Như vậy, có thể hiểu: Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa

điểm thuộc xã, phường, thị trấn, huyện đảo nơi không tổ chức đơn vị hành

chính cấp xã dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú có đăng ký với cơ quan

có chức năng quản lý cư trú.

1.1.2. Khái niệm quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội.

Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công,

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi ba quyền

9

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cơ chế đó, quyền lập pháp được trao

cho một cơ quan duy nhất thực hiện là Quốc hội. Ngoài chức năng chủ yếu là

lập pháp, quyền hành pháp được trao cho Chính phủ và bộ máy hành chính

địa phương thực hiện bao gồm quyền lập quy và điều hành hành chính, quyền

tư pháp được trao cho hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân các cấp và hệ thống

Tòa án nhân dân các cấp thực hiện.

Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước để điều

chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người phục vụ đảm bảo

ANTT và phát triển đất nước. Quản lý nhà nước có nội dung và đối tượng điều

chỉnh rất rộng, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, như về

kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông

tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã

hội,... trong đó, quản lý cư trú là một bộ phận của quản lý nhà nước về an ninh,

trật tự. Để quản lý xã hội, Nhà nước quản lý nhiều đối tượng khác nhau, trong

đó con người là đối tượng cần chú ý nhất. Để quản lý con người, nhà nước thực

hiện các nội dung, biện pháp khác nhau trong đó có quản lý cư trú.

Nhà nước giao cho Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý cư trú và

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành

quản lý toàn diện hoạt động cư trú của công dân. Hiện nay, các lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH chuyên môn thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú bao

gồm: Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh; Cảnh sát đăng ký, quản lý dữ liệu quốc gia về dân cư; CSKV tại các địa

bàn có bố trí Công an chính quy. Quản lý cư trú là quá trình các lực lượng

chức năng dựa vào các quy định của pháp luật để tổ chức hoạt động đăng ký,

thực hiện công tác quản lý đối với hoạt động cư trú của công dân nhằm phục

vụ hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, bảo vệ vững chắc quốc phòng, an

ninh, đảm bảo việc thực hiện nghiêm quyền và nghĩa vụ của công dân.

10

Quản lý cư trú gồm hai bước lớn là tổ chức đăng ký và tiến hành việc

quản lý các nội dung có liên quan. Các nội dung cụ thể để thực hiện hoạt động

đăng ký, quản lý thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng. Để thực hiện tốt các

nội dung đó, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH thực hiện công tác điều tra

nghiên cứu nắm tình hình về hoạt động cư trú; trực tiếp hoặc phối hợp tuyên

truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện các quy định về cư trú; tổ

chức tiếp nhận, giải quyết các hồ sơ đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm

vắng, thông báo lưu trú, điều chỉnh, bổ sung thông tin, hay hồ sơ quản lý cư

trú; sử dụng công tác nghiệp vụ cơ bản; kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính

trong quá trình công dân cư trú, kinh doanh cho thuê lưu trú trên địa bàn được

phân công phụ trách, tiến hành việc phối hợp, hợp tác quốc tế trong quản lý

cư trú,… Trong quá trình thực hiện quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy định của ngành

Công an. Thực hiện quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH

với nhiều mục đích khác nhau như thực hiện quản lý xã hội cho Nhà nước,

phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm và đảm bảo cho công dân thực hiện

quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.

Như vậy, có thể hiểu: “Quản lý cư trú của Cảnh sát quản lý hành chính

về trật tự xã hội là quá trình các chủ thể theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn được giao tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động thường trú, tạm

trú, tổ chức tiếp nhận, quản lý lưu trú và tạm vắng đối với công dân Việt Nam

tại các phường, thị trấn hoặc huyện đảo nơi chưa tổ chức đơn vị hành chính

cấp xã nhằm phục vụ công tác quản lý dân cư của Nhà nước, góp phần phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, đảm

bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân[30, tr.17].

1.1.3. Khái niệm về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú

11

Vai trò thường là từ chỉ tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng, dùng

để nói về vị trí chức năng, nhiệm vụ, mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng

trong một hoàn cảnh, bối cảnh và mối quan hệ nào đó. [37, tr.148].

Ví dụ : Vai trò của Đảng đối với sự phát triển đất nước, vai trò của tác

phẩm văn học nào đó đối với sự nghiệp sáng tác văn học của tác giả, vai trò

của từ đối với câu...

Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội

trong quản lý cư trú là vị trí, chức năng, nhiệm vụ tầm quan trọng của lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đối với hoạt động quản lý cư trú của công

dân nhằm thực hiện các mục đích về quản lý cư trú trong khuôn khổ quy định

của pháp luật nói chung, pháp luật về cư trú nói riêng.

1.2. Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú

1.2.1. Điều tra nghiên cứu, nắm tình hình về đối tượng quản lý cư trú

và các vấn đề có liên quan

Tập trung đi sâu nắm vững những vấn đề cơ bản về từng hộ gia đình và

từng người từ đủ 14 tuổi trở lên. Lực lượng trực tiếp tiến hành đăng ký, quản

lý thường trú phải có kế hoạch thường xuyên đi sâu điều tra nghiên cứu nắm

vững tình hình, các thông tin, tài liệu về từng người dân ở từng địa bàn. Cần

nắm vững tổng số, tình hình đặc điểm, tính chất, sự di biến động và những

vấn đề thay đổi về nơi cư trú của từng người trong hộ gia đình đó, số hộ gia

đình đã đăng ký thường trú và số đang có mặt trên địa bàn nhưng chưa được

đăng ký thường trú, lý do và các biện pháp đã áp dụng giải quyết đối với từng

trường hợp. Chú ý nắm vững những hộ gia đình có những vấn đề đặc biệt

phức tạp như: Có người là đối tượng trong diện quản lý; có người là đối tượng

có nghi vấn hoạt động phạm tội; những hộ gia đình có mâu thuẫn tranh chấp

trong nội bộ, những người tham gia hoạt động làm nghề kinh doanh có điều

12

kiện về ANTT,... để có kế hoạch quản lý cho phù hợp.

Đối với cá nhân thường trú, tạm trú hiện đang cư trú tại địa bàn, từ đủ

14 tuổi trở lên đều phải điều tra nắm vững 4 nội dung yêu cầu cụ thể về:lai

lịch bản thân; mối quan hệ gia đình; nghề nghiệp, đời sống kinh tế, thái độ

chính trị hiện tại. Nắm vững các thông tin về số lượng người lưu trú, các

thông tin lai lịch của nhân khẩu lưu trú, mục đích lưu trú,...

1.2.2. Tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện quy

định về cư trú

Thông qua quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, Cảnh

sát QLHC về TTXH thường xuyên thực hiện nội dung công tác tuyên truyền,

phổ biến các kiến thức pháp luật về cư trú cho quần chúng nhân dân. Nội

dung tuyên truyền tập trung vào các chính sách của Đảng, Nhà nước trong

vấn đề về cư trú. Quy định của pháp luật có liên quan về chế độ đi lại, thường

trú, tạm trú, tạm vắng, lưu trú, quy định về quản lý các ngành nghề kinh

doanh cho thuê lưu trú để người dân nắm rõ và thực hiện nghiêm túc, đặc biệt

là các quy định mới được ban hành. Giải thích các quy định, trình tự thủ tục

giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú để công dân

thực hiện quyền của mình, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ có liên quan. Một

nội dung quan trọng khác là vận động quần chúng nhân dân đồng lòng, ủng

hộ, hỗ trợ Cảnh sát QLHC về TTXH trong thực hiện công tác quản lý cư trú

như đóng góp ý kiến, hỗ trợ trong việc thu thập dữ liệu quốc gia về dân cư,

hợp tác trong công tác kiểm tra, bổ sung thông tin cư trú, giải quyết các

vướng mắc, tuyên truyền tới công dân khác,...

Nội dung tuyên truyền tập trung đi sâu hướng dẫn nhân dân nắm và thực

hiện các quy định trong Luật Cư trú, các văn bản hướng dẫn có liên quan.

Đồng thời phải nắm vững các văn bản, hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Công an và

các cơ quan chức năng trong quản lý cư trú. Những nội dung tuyên truyền phải

13

thiết thực, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với khả năng nhận thức của

người dân, gắn với quản lý cư trú. Các cơ quan chức năng, Công an các địa

phương cần tập trung thể chế hoá các quy định quản lý cư trú thành các nội

quy, quy ước để mọi người dân, cơ quan, tổ chức dễ nắm và thực hiện.

Quá trình tuyên truyền, vận động thực hiện các nội dung, cần phải khai

thác và dựa vào các lực lượng nòng cốt, các tổ chức, đoàn thể quần chúng và

gắn liền với các cuộc vận động lớn ở từng địa bàn, khu vực, cụm dân cư.

Ngoài việc sử dụng các hình thức, phương tiện tuyên truyền tập trung như:

Loa, đài, báo chí, truyền thanh, truyền hình,... cần khai thác sử dụng kết hợp

với các hình thức vận động cá biệt. Trong tuyên truyền vận động cần chú ý đi

sâu vào việc hướng dẫn những nội dung yêu cầu cụ thể đối với từng trường

hợp để người dân có thể dễ dàng tham gia thực hiện việc quản lý thường trú.

1.2.3. Tổ chức đăng ký cư trú cho công dân

Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu,

điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết

một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Thủ tục hành chính nhà

nước rất đa dạng, bao gồm nhiều hệ, loại do nhiều cơ quan ban hành, trên các

lĩnh vực quản lý khác nhau, trong đó có thủ tục hành chính trong quản lý về

thường trú. quản lý cư trú, đặc biệt đăng ký cư trú là một trong những biện

pháp quan trọng của Nhà nước trong xác định quyền cư trú của công dân trên

một địa bàn nhất định. Qua công tác đăng ký cư trú giúp cơ quan Công an

nắm được số người đã đăng ký cư trú và người cư trú nhưng chưa đăng ký cư

trú trên địa bàn phục vụ cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước như thống

kê dân số; quy hoạch, bố trí dân cư; đăng ký nghĩa vụ quân sự; thực hiện bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; trả lương hưu cho người về hưu,... và công tác

nghiệp vụ của ngành Công an. Đồng thời, đây là cơ sở để các cơ quan thống

kê, tổng hợp số liệu, tài liệu về dân số, tình hình dân cư cung cấp cho Nhà

14

nước, các cấp, các ngành nghiên cứu sử dụng trong số mặt công tác quản lý

xã hội của Nhà nước. Đảm bảo quyền tự do cư trú hợp pháp của công dân,

phục vụ lợi ích chính đáng và đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và

nghĩa vụ của mình theo pháp luật. Đăng ký cư trú bao gồm đăng ký thường

trú, đăng ký tạm trú, đăng ký lưu trú và khai báo tạm vắng. Tuỳ vào từng

trường hợp khác nhau, ngành Công an có sự phân công thực hiện công tác

đăng ký khác nhau như đối với địa bàn thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thị xã,

quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương do lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH của Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đăng ký thường

trú, đối với địa bàn xã, thị trấn thuộc huyện trực thuộc tỉnh do Công an cấp xã

tiến hành đăng ký thường trú; đối với đăng ký tạm trú, tạm vắng, lưu trú do

Công an cấp phường, xã, thị trấn tiến hành đăng ký.

1.2.4. Rà soát, điều tra, phân loại nhân khẩu

Với mục đích trên, quá trình tiến hành quản lý cư trú đòi hỏi phải đầy

đủ, chính xác, khách quan, toàn diện, thường xuyên và kịp thời, phải đi sâu

nắm vững cả những mặt tốt, mặt xấu, mặt tích cực và mặt tiêu cực của mỗi hộ

gia đình và từng cá nhân đã đăng ký cư trú và chưa đăng ký cư trú. Tập trung

đi sâu nắm vững những vấn đề cơ bản về từng hộ gia đình và từng người từ

đủ 14 tuổi trở lên. Để đảm bảo yêu cầu trên, lực lượng Công an, đặc biệt là

các lực lượng trực tiếp tiến hành quản lý cư trú ở cơ sở phải có kế hoạch

thường xuyên đi sâu điều tra nghiên cứu nắm vững tình hình, các thông tin,

tài liệu về từng người dân ở từng địa bàn, khu vực. Quá trình tiến hành cần

tập trung thu thập các thông tin, tài liệu sau:

Đối với các hộ gia đình cần phải nắm vững tổng số, tình hình đặc điểm,

tính chất, sự di biến động và những vấn đề thay đổi về nơi cư trú, của từng

người trong hộ gia đình đó. Phải nắm vững được số hộ gia đình đã đăng ký cư

trú và số đang có mặt trên địa bàn nhưng chưa được đăng ký cư trú, lý do và

15

các biện pháp đã áp dụng giải quyết đối với từng trường hợp. Tập trung đi sâu

nắm vững những hộ gia đình có những vấn đề đặc biệt phức tạp như: Có

người là đối tượng trong diện quản lý; có người là đối tượng có nghi vấn hoạt

động phạm tội; những hộ gia đình có mâu thuẫn tranh chấp trong nội bộ,

những người tham gia hoạt động làm nghề kinh doanh có điều kiện về

ANTT,... để kịp thời có các kế hoạch và biện pháp quản lý cho phù hợp.

Đối với mỗi hộ gia đình cần nắm vững những đặc điểm về nhân khẩu

học bao gồm: chủ hộ và những người hiện có trong hộ gia đình, nắm được đặc

điểm từng người theo yêu cầu quản lý. Mỗi nhà ở tập thể, nhà chung cư ngoài

việc phải nắm được đặc điểm, tính chất của nhà ở tập thể, nhà chung cư đó

còn phải đi sâu nắm vững các đặc tính, tính chất và sự hoạt động, việc chấp

hành chính sách, pháp luật, các quy định về cư trú và các quy định khác của

địa phương, của từng cá nhân trong nhà ở tập thể, nhà chung cư. Kịp thời nắm

bắt những vấn đề phức tạp liên quan đến ANTT đối với mỗi hộ gia đình, nhà

ở tập thể, nhà chung cư về việc thực hiện các quy định về đăng ký, quản lý cư

trú để có biện pháp giải quyết cụ thể.

Đối với từng cá nhân đã đăng ký cư trú không phải trong các hộ gia

đình hiện có mặt trên địa bàn đều phải được tiến hành quản lý. Đối với tất cả

số cá nhân cư trú hiện đang cư trú tại địa bàn, từ đủ 14 tuổi trở lên đều phải

điều tra nắm vững 4 nội dung yêu cầu cụ thể về: lai lịch bản thân; mối quan

hệ gia đình; nghề nghiệp, đời sống kinh tế, thái độ chính trị hiện tại.

Trong quá trình điều tra nắm vững tình hình về những người từ đủ 14

tuổi trở lên cần có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số trường hợp sau

đây: những người được coi là đối tượng nằm trong diện quản lý, giáo dục ở

địa bàn cơ sở; những người có lai lịch không rõ ràng hoặc có những vấn đề

nghi vấn về chính trị, hình sự, có những quan hệ bất minh về kinh tế, hình sự,

ma tuý,... cần tìm hiểu để có kết luận; những người mới chuyển đến lưu trú

16

hoặc tạm trú tại địa bàn và có những thay đổi về cư trú.

1.2.5. Kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm trong thực hiện các

quy định về cư trú của các cơ quan, cá nhân

Biện pháp kiểm tra, kiểm soát thực hiện các quy định về cư trú không

thể thiếu trong các hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, không có kiểm tra

hướng dẫn thì coi như không có tổ chức thực hiện. Trong quản lý cư trú, vấn

đề kiểm tra, hướng dẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, nó có tính chất

quyết định đến chất lượng và hiệu quả của cả quá trình công tác. Vì vậy, đi

đôi với việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia thực hiện các quy

định về thường trú, điều tra nghiên cứu nắm chắc tình hình về cư trú, các cơ

quan có trách nhiệm phải tiến hành kiểm tra hướng dẫn, phát hiện và xử lý

các trường hợp vi phạm các quy định trong đăng ký, quản lý cư trú. Việc

kiểm tra hướng dẫn không phải chỉ tiến hành có tính chất định kỳ, hình thức

mà phải được tiến hành một cách thường xuyên, có hệ thống.

Theo quy định hình thức kiểm tra cư trú được tiến hành định kỳ, đột

xuất hoặc do yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn

ANTT. Đối tượng kiểm tra cư trú được áp dụng đối với công dân Việt Nam,

hộ gia đình, cơ quan đăng ký cư trú các cấp, cơ quan tổ chức liên quan đến

quản lý cư trú. Nội dung kiểm tra việc đăng ký, quản lý cư trú bao gồm việc

triển khai và tổ chức thực hiện các nội dung đăng ký, quản lý cư trú; quyền và

trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức trong đăng ký, quản

lý cư trú và các nội dung khác theo pháp Luật Cư trú.

Cán bộ, chiến sĩ Công an được giao chuyên trách quản lý cư trú tại địa

bàn có quyền kiểm tra trực tiếp việc chấp hành pháp Luật Cư trú đối với công

dân, hộ gia đình, cơ quan tổ chức thuộc địa bàn quản lý, việc kiểm tra được

quyền huy động lực lượng quần chúng làm công tác bảo vệ ANTT ở cơ sở,

bảo vệ cơ quan doanh nghiệp, tổ chức cùng tham gia. Khi cơ quan Công an

17

cấp trên tiến hành kiểm tra cư trú tại địa bàn dân cư phải có cán bộ, chiến sĩ

Công an được giao chuyên trách quản lý cư trú tại địa bàn chứng kiến.

Việc kiểm tra, xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú cần đạt được

một số các nội dung yêu cầu cụ thể sau: Việc kiểm tra phải được tiến hành

thường xuyên có hệ thống, kết hợp chặt chẽ giữa việc kiểm tra định kỳ với

kiểm tra đột xuất, có trọng tâm trọng điểm. Quá trình tiến hành kiểm tra phải

có chương trình, kế hoạch và các nội dung yêu cầu cụ thể. Quá trình kiểm tra,

xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú phải nắm chắc tình hình việc chấp

hành các quy định về đăng ký, quản lý cư trú của từng cá nhân, tổ chức ở từng

khu vực, địa bàn. Kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những bất hợp

lý để điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi. Phát hiện những trường hợp lợi dụng đăng

ký, quản lý thường trú để VPPL hoặc thực hiện không đúng quy định về đăng

ký, quản lý cư trú. Thông qua kiểm tra chủ động áp dụng các biện pháp giải

quyết xử lý vi phạm theo đúng phạm vi thẩm quyền. Quá trình kiểm tra cần

phát hiện các đối tượng từ địa phương khác đến hoạt động, các cá nhân, tổ

chức không chấp hành các quy định về đăng ký, quản lý cư trú, lợi dụng việc

cư trú để hoạt động VPPL,... để đề xuất các biện pháp giải quyết, xử lý.

Kịp thời phát hiện những tồn tại, thiếu sót của lực lượng Công an trong

quá trình tiến hành, những bất hợp lý, những cản trở, khó khăn phức tạp trong

đăng ký, quản lý cư trú để có biện pháp khắc phục hoặc đề xuất các biện pháp

khắc phục.

Nắm chắc tình hình, phát hiện những thiếu sót, bất hợp lý trong các quy

định về thủ tục, chế độ đăng ký, quản lý và các quy định trong các văn bản

hướng dẫn của Nhà nước và của từng địa phương kịp thời báo cáo đề nghị các

cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh các quy định trong đăng ký,

quản lý cư trú.

Nắm vững tình hình, số liệu về tình hình đăng ký, quản lý cư trú trong

18

từng thời gian đối với mỗi địa phương để phục vụ yêu cầu quản lý xã hội của

Nhà nước và việc thực hiện đường lối chính sách, các nội dung yêu cầu trong

phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Công an.

Phát hiện các trường hợp vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú, kịp

thời nhắc nhở giáo dục hoặc xử lý, phát hiện các đối tượng có các biểu hiện

nghi vấn hoạt động phạm tội, các đối tượng truy nã, truy tìm các loại đối

tượng khác để kịp thời có biện pháp ngăn chặn, bắt giữ hoặc theo dõi giám

sát. Tuyên truyền, giáo dục, đôn đốc các cá nhân, tổ chức chấp hành nghiêm

chỉnh các quy định của Nhà nước và địa phương về đăng ký, quản lý cư trú.

Việc kiểm tra định kỳ trong quản lý cư trú được tiến hành theo định kỳ

12 tháng một lần ở các địa phương. Việc kiểm tra đột xuất trong đăng ký,

quản lý cư trú được tiến hành áp dụng đối với từng hộ gia đình, cá nhân đã

đăng ký thường trú, trong những trường hợp cần thiết đột xuất theo yêu cầu

chính trị, nghiệp vụ. Thông qua hình thức kiểm tra này chủ yếu nhằm phát

hiện các trường hợp vi phạm để kịp thời có biện pháp xử lý. Hình thức này

thường được áp dụng đối với những trường hợp đã nhiều lần vi phạm các quy

định về đăng ký, quản lý quản lý cư trú, đã được giáo dục mà không chịu sửa

chữa, cần có căn cứ cơ sở để xử lý, quản lý. Đồng thời được áp dụng đối với

những trường hợp có nhiều biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội, những hộ

nghi có đối tượng phạm tội lẩn trốn hoặc trường hợp cần kiểm tra nhằm phục

vụ cho các yêu cầu nghiệp vụ khác của lực lượng Công an.

Qua kiểm tra phát hiện những trường hợp vi phạm thì tuỳ theo tính chất

mức độ vi phạm mà vận dụng các hình thức xử lý cho phù hợp. Việc xử lý

phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước, Luật Xử lý vi phạm hành chính và

các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực ANTT. Nếu phát hiện các

trường hợp nghi vấn hoạt động phạm tội, phạm pháp quả tang, đối tượng có

lệnh truy nã, truy tìm phải hết sức thận trọng có kế hoạch và biện pháp kết

19

hợp với các lực lượng nghiệp vụ để thực hiện đạt hiệu quả cao.

1.2.6. Cập nhật, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, tài liệu quản lý cư trú

Công tác đăng ký, quản lý cư trú là quá trình điều tra nghiên cứu về

người dưới góc độ ANTT và điều tra nghiên cứu về các biện pháp để quản lý

con người. Quá trình tiến hành nó không chỉ phục vụ yêu cầu trước mắt mà nó

còn có ý nghĩa phục vụ cho các yêu cầu lâu dài, là cơ sở và tạo tiền đề cho

cho các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an. Hơn nữa, các thông tin

tài liệu qua đăng ký, quản lý cư trú còn là cơ sở để các ngành, các cấp dựa vào

đó khai thác sử dụng. Hoạt động đăng ký, quản lý cư trú được xác định là

biện pháp quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý xã hội. Vì vậy, trong

quá trình tiến hành đăng ký quản lý quản lý cư trú không thể tiến hành qua

loa, đại khái cho xong hoặc mang tính chất hành chính đơn thuần. Đây là một

công tác thường xuyên, lâu dài gắn liền với việc thực hiện các nội dung khác

của quản lý hành chính nhà nước về ANTT, quá trình tiến hành đòi hỏi phải

có ý thức thu thập tài liệu, củng cố hồ sơ sổ sách phục vụ cho yêu cầu quản lý

trước mắt và lâu dài của lực lượng Công an.

Việc thu thập tài liệu về đăng ký, quản lý cư trú phải đảm bảo các yêu

cầu cụ thể sau đây: Quá trình thu thập tài liệu phải tiến hành thường xuyên có

hệ thống theo quy định ngay từ khâu đăng ký và các nội dung của biện pháp

quản lý thường trú. Các tài liệu phải phản ánh đầy đủ chính xác về từng hộ gia

đình, từng cá nhân thường trú và về quá trình tổ chức thực hiện đăng ký, quản

lý thường trú. Tài liệu qua hoạt động đăng ký quản lý cư trú phải đảm bảo

chính xác khách quan. Việc thu thập, tích luỹ, chuyển giao, lưu giữ và xử lý tài

liệu đăng ký, quản lý thường trú phải theo đúng nguyên tắc thủ tục quy định.

Những tài liệu cần phải thu thập tích luỹ phục vụ việc lập hồ sơ đăng

ký, quản lý cư trú bao gồm rất nhiều loại khác nhau. Trong đó chủ yếu là một

20

số loại tài liệu chính cần thiết sau đây: các tài liệu thu thập được thông qua

các nội dung của QLHC về ANTT có liên quan đến đăng ký, quản lý cư trú,

liên quan đến hoạt động của con người. Những tài liệu thu thập được qua việc

điều tra nắm tình hình về cư trú, thông qua các hoạt động đăng ký, quản lý cư

trú. Các tài liệu do quần chúng cung cấp, báo cáo, tố giác, đề nghị liên quan

đến việc đăng ký, quản lý cư trú. Tài liệu do các đối tượng VPPL hoặc các

nhân khẩu cư trú tự khai trong quá trình làm thủ tục đăng ký, quản lý.

Những tài liệu trên về đăng ký, quản lý thường trú không tồn tại ở một

nguồn, mà nằm rải rác ở các nguồn khác nhau. Do vậy, khi thu thập tích luỹ

cần phải kết hợp các biện pháp, các lực lượng tiến hành điều tra khai thác các

nguồn tài liệu có liên quan. Trong đăng ký, quản lý cư trú cần tập trung vào

các nguồn tài liệu chính đó là nguồn tài liệu nghiệp vụ thông qua các biện

pháp công tác nghiệp vụ trong đấu tranh phòng chống tội phạm lực lượng

Công an đã thu thập tích luỹ được, nguồn tài liệu do quần chúng phản ánh,

cung cấp và do các tổ chức, đoàn thể, ban ngành khác cung cấp. Trong quá

trình tiến hành cần phải kiểm tra đối chiếu so sánh các tài liệu thu thập ở các

nguồn để kết luận chính xác trước khi đưa vào lưu giữ trong tàng thư, cơ sở

dữ liệu về cư trú phục vụ cho việc khai thác, sử dụng.

Tài liệu thu thập được sau khi đã kiểm tra xác minh cần phải tích luỹ và

chuyển giao cho bộ phận tàng thư cơ sở dữ liệu để bảo quản, sắp xếp khai

thác sử dụng phục vụ cho các yêu cầu đặt ra. Việc chuyển giao, lưu giữ, khai

thác sử dụng tài liệu về đăng ký, quản lý thường trú phải tuân thủ các nguyên

tắc, thủ tục quy định về hồ sơ tài liệu nghiệp vụ của ngành và chế độ thông tin

nghiệp vụ trong lực lượng CAND.

1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát Quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.

1.3.1. Yếu tố thể chế chính trị, hệ thống pháp luật

21

Thể chế chính trị là hoạt động của các chính đảng, các tổ chức đại diện

nhóm lợi ích xã hội trong việc giành, chia sẻ và thực thi quyền lực nhà nước.

Nhà nước giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là sự phản ánh

cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Hệ thống chính

trị ở nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và các

đoàn thể chính trị - xã hội. Các quyết sách chính trị của Đảng Cộng sản Việt

Nam là cơ sở chính trị, định hướng cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH trong quản lý cư trú, bởi vậy, hoạt động này mang tính

chính trị sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với chính trị, có cơ sở chính trị vững chắc.

Cụ thể là:

Thứ nhất, Nhà nước ban hành và và tổ chức thực thi các chính sách,

pháp luật dựa trên các quyết sách chính trị của Đảng để đưa các mục tiêu

chính trị của Đảng vào cuộc sống.

Thứ hai, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng, lực lượng

CAND và các cơ quan hành chính nhà nước nói chung tổ chức thực hiện các

chính sách, pháp luật đã ban hành dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong

mỗi cơ quan. Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc ban

hành các nghị quyết và giám sát việc triển khai các nghị quyết đó.

Thứ ba, các hoạt động quản lý cư trú được triển khai thực hiện với sự

tham gia tích cực của đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước nói chung,

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng. Các đảng viên trong cơ quan

hành chính nhà nước nói chung, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói

riêng có nghĩa vụ gương mẫu thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước phù hợp với cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Các đảng

viên ưu tú của Đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ trong các cơ quan hành

chính nhà nước hợp thành đội ngũ những người lãnh đạo, các công chức cấp

22

cao, chuyên gia, chuyên viên... Thông qua đội ngũ này, các đường lối, chủ

trương của Đảng được chuyển hóa thành hoạt động cụ thể, sinh động trong bộ

máy nhà nước.

Thứ tư, hoạt động quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Hoạt động quản lý nhà nước chịu

sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức (Quốc hội, Hội đồng nhân dân,

cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc...), đồng thời cũng chịu sự kiểm tra, giám

sát của Đảng.

Hệ thống pháp luật về cư trú là cơ sở pháp lý của quản lý cư trú. Nhà

nước cũng như pháp luật là công cụ và phương tiện đảm đương vai trò dẫn dắt

và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối

với các thành viên trong xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phát

huy khả năng của mình để khởi nghiệp và phát triển. Pháp luật đảm đương vai

trò kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã

hội phát huy tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân

mình, đồng thời phát triển xã hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các

thành viên của xã hội nói riêng sẽ có điều kiện để phát triển.

Để tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà

nước về cư trú trong thời kỳ đổi mới và nhằm cụ thể hoá quy định của Hiến

pháp năm 1992 về quyển tự do cư trú công dân, Luật Cư trú đã được xây

dựng và ngày 29/11/2006 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XI đã thông qua,

có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2007. Luật Sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật cư trú (Luật số: 36/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013).

Có thể nói Luật Cư trú đã tạo được bước tiến mới trong việc tiếp tục hoàn

thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về quản lý cư trú của Nhà nước

nói riêng.

Luật Cư trú quy định về quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ

23

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống.

Thủ tướng, các Bộ trưởng các bộ hữu quan (Bộ Công an, Bộ Tư pháp,

Văn phòng Chính phủ) đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thi hành.

Hệ thống pháp luật về cư trú phục vụ thiết thực và tác động lớn tới vai trò của

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú.

1.3.2. Yếu tố kinh tế xã hội, phong tục tập quán của địa phương

Hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay bao gồm: quy phạm

đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư,

những thể chế của các tổ chức xã hội và tổ chức tôn giáo... Tuy các quy phạm

xã hội ấy không mang tính cưỡng chế cao như quy phạm pháp luật, song lại

có tính đa dạng đặc biệt ở chỗ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cưỡng chế

với tự nguyện, xử phạt với giáo dục, răn đe với thuyết phục. Hơn nữa, các quy

phạm ấy không chỉ trực tiếp điều tiết mọi hành vi mà còn chế ước cả về

phương diện tư tưởng - tâm lý của từng người. Chính vì vậy, để việc quản lý

cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đạt hiệu quả cao, phản ánh

đầy đủ tính chất của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đối

với nước ta - một quốc gia đa dân tộc, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt việc

kết hợp giữa pháp luật với hệ thống các thiết chế xã hội khác, trong đó gần

gũi và trực tiếp nhất là yếu tố về đặc điểm kinh tế xã hội, phong tục, tập quán

địa phương.

Phong tục, tập quán là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị

quy định bởi cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế - xã hội phù hợp,

chúng bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Nếu

pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì phong tục, tập quán hướng đến

trật tự cộng đồng.

Phong tục, tập quán là: "Những thói quen đã được mọi người tuân thủ

24

tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy

như một phần luật pháp của địa phương", những quy tắc xử sự mang tính

cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong

một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Nó luôn chi phối, ràng buộc hành

vi của con người, buộc con người phải thích nghi, buộc phải tuân theo trong

quan hệ với nhau ở mức độ này hay mức độ khác và "Những quy chế trong

việc quản lý cộng đồng chỉ có thể được cộng đồng chấp nhận và thực hiện

một cách tự giác và nghiêm chỉnh, nếu chúng trở thành văn hoá, thành phong

tục, tập quán".

Các quy tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói

chung, các quan hệ mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực nói riêng.

Do đó, các thành viên của cộng đồng thường tin tưởng vào tính công bình,

sáng suốt, chính xác của các quy tắc xử sự này, chúng thường có tính hiệu lực

cao (đặc biệt, khi những phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức

hương ước hoặc luật tục). Trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội,

pháp luật từng bước được hoàn thiện, và các quan hệ xã hội từng bước được

pháp luật quy định thì phong tục, tập quán vẫn tồn tại và hỗ trợ cho việc thực

hiện pháp luật. Chính vì vậy, việc xác định và đánh giá đúng đắn mối quan hệ

tương hỗ giữa thể chế, hệ thống pháp luật và phong tục, tập quán có ý nghĩa

rất quan trọng trong phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH

trong quản lý cư trú.

Thực tế trong điều kiện hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình

phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, thực hiện

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh việc:

"quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy

truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc". Pháp luật của

chúng ta trong thời gian qua đã từng bước thể chế hoá quan điểm, đường lối

25

này của Đảng vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật trong nhiều

lĩnh vực khác nhau, như Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình,...

Điều 5, Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,

chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền

thống và văn hoá tốt đẹp của mình"; Chỉ thị số 24/1998/CT/TTg ngày

19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước

quy ước của bản làng, thôn ấp, cụm dân cư cũng chỉ rõ: "Nội dung quy ước căn

cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với tình hình kinh tế văn

hoá, xã hội, phong tục, tập quán của địa phương", "duy trì và phát triển phong

tục, tập quán tốt đẹp ở cơ sở", kịp thời " phát hiện và đấu tranh chống các biểu

hiện tiêu cực sai trái hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục,

tập quán lạc hậu'”. Vì vậy, trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật, yếu tố

phong tục, tập quán cần phải được quan tâm thoả đáng. Điều này vừa làm

phong phú thêm pháp luật, vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh của pháp luật, phát

huy được pháp luật trong hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện phong tục tập quán.

Tuy không đóng vai trò là công cụ thực thi quyền lực cao nhất của nhà

nước nhưng phong tục tập quán trong điều kiện nhất định, có khả năng thay

thế pháp luật. Bởi trên thực tế, trình độ phát triển ở từng vùng, từng địa

phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn cả về trình độ phát

triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó, không phải lúc nào, ở đâu pháp luật

cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đặc biệt,

đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những vùng sâu, vùng xa thì những

quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của

họ, nhất là các quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao sẽ khó thâm nhập

vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống cộng đồng. Trong khi đó, phong tục, tập

quán với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp luật,

đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã

26

hội cụ thể, nhất là trong quá trình tự quản ở cộng đồng dân cư.

Sự ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến quản lý cư trú như là một

hiện tượng có tính quy luật. Phong tục, tập quán lạc hậu, phản tiến bộ sẽ trở

thành lực cản trong việc chấp hành pháp luật về cư trú. Ngược lại, phong tục,

tập quán tốt đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội

bộ, giải quyết các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt,

kịp thời, có tình, có lý các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với

điều kiện của từng địa phương bảo đảm ổn định trật tự xã hội và do vậy, sẽ hỗ

trợ cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật nói chung, ý thức

về pháp luật cư trú nói riêng. Đây vừa là nguồn bổ sung, vừa là môi trường

đưa pháp luật về cư trú vào cuộc sống, đồng thời là chất liệu quý để hoàn

thiện vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH khai thác nhằm nâng

cao hiệu quả về quản lý cư trú.

1.3.3. Yếu tố về tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực thực hiện hoạt động

quản lý cư trú

Cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nguồn lực con người luôn là vấn đề

quan trọng quyết định sức mạnh của đất nước nói chung, hoạt động quản lý

cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng.

Con người là yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoạt động của tổ

chức: Một bộ máy muốn hoạt động cần có sự tham gia của con người. Một bộ

máy muốn hoạt động đạt hiệu quả cao cần có sự phối kết hợp giữa mọi người

trong tổ chức cùng thực hiện mục tiêu chung mang lại lợi ích cho cả một tập

thể, qua đó khai thác tiềm năng của con người nâng cao hiệu quả công việc

đồng thời nó cũng tạo ra cơ hội phát triển cho công tác tổ chức thực hiện pháp

luật về cư trú.

Một tổ chức muốn hoạt động hiệu quả cần tái cấu trúc lại từ việc sắp

xếp lại nguồn lực về vật chất, sắp xếp lại công tác nhân lực theo hướng gọn

27

nhẹ, năng động nhất trong đó yếu tố con người mang tính quyết định. Do đó

việc sắp xếp, tìm kiếm người bố trí vào đúng vị trí, đúng cương vị là điều mà

các tổ chức quan tâm.

Cũng với sự phát triển của khoa học công nghệ và những thay đổi của

nền kinh tế thị trường buộc các nhà lãnh đạo, quản lý phải biết thích ứng. Do

đó việc tuyển chọn, điều động, sắp xếp, đào tạo nhân lực trong quản lý cư trú

đạt hiệu quả tối ưu là điều mà mỗi cơ quan, đơn vị Cánh sát QLHC về TTXH

cần quan tâm. Trong đó có các đặc điểm về trình độ lao động, độ tuổi, đặc

điểm về sức khỏe, phẩm chất, nhận thức chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, kỹ

năng giao tiếp, ứng xử, năng lực của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH ảnh

hưởng lớn tới chất lượng của hoạt động quản lý cư trú của lực lượng này.

1.4.4. Yếu tố cơ sở vật chất phục vụ việc quản lý cư trú

Yếu tố cơ sở vật chất có tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú. Khi cơ sở vật chất

được trang bị đầy đủ, tăng cường hiện đại hóa bàn, ghế, tủ, máy tính, điện

thoại, máy fax, máy photo coppy, giá kệ, hộp, cặp, bìa hồ sơ… theo đúng tiêu

chuẩn của ngành giúp lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH quản lý cư trú

được thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả hơn.

Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý cư trú như phần

mềm quản lý đăng kí nhân hộ khẩu, đăng ký văn bản đi, văn bản đến, quản lý

văn bản và lập hồ sơ trong môi trường mạng nhằm tiết kiệm được thời gian,

công sức và hạn chế khối lượng văn bản giấy ngày càng gia tăng. Ứng dụng

công nghệ mới vào công tác quản lý cư trú giúp lưu giữ thông tin được lâu

dài, ổn định, an toàn, rà soát, tìm kiếm dễ dàng hơn, nâng cao năng suất chất

lượng, hiệu quả công việc và khả năng hội nhập xu thế ứng dụng của xã hội

28

trong thời đại cách mạng 4.0.

Tiểu kết chương 1

Quản lý cư trú là một nội dung cơ bản trong quản lý hành chính về

ANTT. Tiến hành công tác quản lý cư trú góp phần tạo điều kiện tối đa

đểcông dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, phục vụ cho công tác

quản lý xã hội của Nhà nước và công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh

chống tội phạm và các hành vi VPPL, tệ nạn xã hội.

Tại chương 1, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu hệ thống các giáo trình,

tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến công tác quản lý cư trú và vai trò của lực lượng Cánh sát

QLHC về TTXH, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về cư trú, quản lý cư trú và

vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú gồm:

Khái niệm cư trú, quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH;Các

phương pháp quản lý về cư trú đang được thực hiện trên thực tế. Đồng thời,

để làm rõ trách nhiệm, vai trò của các chủ thể trong tiến hành hoạt động quản

lý phức tạp này, tác giả đã tập trung phân tích vai trò, đặc điểm, chức năng,

nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú; Sự

phân công, phân cấp, mối quan hệ phối hợp giữa Cảnh sát QLHC về TTXH

với các cơ quan, tổ chức, lực lượng nghiệp vụ trong quá trình quản lý cư trú.

Đồng thời nêu lên các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH trong quản lý cư trú như: Yếu tố thể chế chính trị, hệ thống

pháp luật, yếu tố nguồn nhân lực, yếu tố kinh tế xã hội, phong tục tập quán

địa phương và yếu tố về cơ sở vật chất ảnh hưởng đến quản lý cư trú. Những

nghiên cứu tại Chương 1 là nền tảng cơ sở lý luận quan trọng định hướng

chính xác cho việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng vai trò

của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTTXH trong quản lý cư trú từ thực tiễn

29

địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Chương 2

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ

HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ CƯ TRÚ

TẠI QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Các yếu tố tác động đến vai trò quản lý cư trú của lực lượng

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận Long Biên

thành phố Hà Nội.

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội tác động đến vai trò quản

lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội tại

quận Long Biên thành phố Hà Nội

Quận Long Biên là một trong 30 quận huyện của Thủ đô Hà Nội, có

diện tích 60,38 km2, được thành lập theo nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày

6 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, gồm 14 phường cụ thể: Ngọc Thụy,

Phúc Đồng, Phúc Lợi, Sài Đồng, Thạch Bàn, Thượng Thanh, Việt Hưng, Bồ

Đề, Gia Thụy, Cự Khối, Đức Giang, Giang Biên, Long Biên. Ngọc Lâm.

Quận Long Biên là cửa ngõ phía Bắc của thủ đô có vị trí chiến lược quan

trọng, là đầu mối trục giao thông về đường bộ nối liền thủ đô Hà Nội với các

tỉnh phía Bắcnhư: quốc lộ 1A, tuyến giao thông quốc lộ 5A, 5B (Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh), tuyến đường cao tốc liên tỉnh giao cắt, hai cầu giao

thông quan trọng là cầu Vĩnh Tuy, Chương Dương ...

Theo kết quả thu thập và nhập dữ liệu thông tin về quản lý nhân hộ

khẩu năm 2017, quận Long Biên có dân số gồm 73.088 hộ và 262.967 nhân

khẩu, mật độ bình quân 3850 người/km2. Trong đó: KT1 là 63.914 hộ với

207.113 nhân khẩu; KT2 là 4.867 hộ với 18.249 nhân khẩu; nhân khẩu lẻ với

2.868 nhân khẩu.Tỉnh ngoài đến tạm trú: 4.307 hộ với 17.653 nhân khẩu;nhân

30

khẩu lẻ = 16.013 nhân khẩu; Sinh viên: 1.071 nhân khẩu.

Năm 2017, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn quận đạt: 9,0 -

9,5%; GDP bình quân đầu người trên 75.000.000 đồng; Hàng năm, các doanh

nghiệp kinh doanh nhà ở đã và đang thực hiện thủ tục xây dựng hàng triệu

mét vuông diện tích nhà chung cư. Tuy nhiên, giá bán của các căn hộ còn quá

cao so với thu nhập của người dân. Điều này dẫn tới cư dân của quận Long

Biên Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện

chật chội, thiếu tiện nghi. Đa số các gia đình trẻ ở quận Long Biên thành phố

Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm. Điều này

cũng gây khó khăn cho công tác quản lý cư trú, đặc biệt là khó khăn trong

việc xác định chỗ ở hợp pháp để đăng ký cư trú.

2.1.2. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn quận

Long Biên thành phố Hà Nội

2.1.2.1. Tình hình phạm pháp hình sự

Trong thời gian nghiên cứu từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2018,

trên địa bàn quận Long Biên đã xảy ra 1961 vụ phạm pháp hình sự, với mức

trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 400 vụ. Năm 2015, toàn quận đã phát hiện

448 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 67 vụ trọng án. Riêng trong 6 tháng

đầu năm 2018 cũng đã phát hiện 316 vụ, đã điều tra khám phá hơn 265 vụ,

các vụ việc khác vẫn đang tiếp tục được điều tra, làm rõ. Một số loại tội phạm

như giết người còn chiếm tỷ lệ cao, các tội trong nhóm tội phạm xâm phạm sở

hữu chiếm 71,3% tổng số vụ phạm pháp hình sự, xảy ra một số vụ cướp tài

sản với tính chất liều lĩnh, manh động. Bên cạnh đó là sự gia tăng của tội

phạm buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản... (Bảng phụ lục 2.1).

Trong quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH đã phát hiện nhiều trường hợp đối tượng tội phạm, trực tiếp

hoặc phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra trong trấn áp bắt giữ. Trong

31

tổng thời gian nghiên cứu đã phát hiện 33 vụ phạm pháp hình sự, với 48 đối

tượng. Đã làm thủ tục bàn giao cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục theo

quy định. Năm 2015 phát hiện nhiều nhất với 21 vụ, 32 đối tượng, riêng 6

tháng đầu năm 2018 cũng đã xuất hiện 13 vụ, với 19 đối tượng.

Biểu đồ 1: Thể hiện tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Long

Biên từ năm 2014 đến tháng 6/2018 (nguồn: Công an quận Long Biên)

2.1.2.2. Tình hình vi phạm hành chính về cư trú

Từ năm 2014 đến hết tháng 6/2018, toàn quận đã phát hiện 1967 vụ,

2.342 trường hợp vi phạm liên quan đến công quản lý cư trú. Trong năm

2014, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện 397vụ với 495 trường

hợp vi phạm. Năm 2015, có số vụ việc xảy ra nhiều nhất trong 5 năm trở lại

đây với 474 vụ. Năm 2017, xảy ra với số lượng 443 vụ, 336 đối tượng. Chỉ

tính riêng 6 tháng đầu năm 2018 đã phát hiện 212 vụ việc, 256 đối tượng.

Trong các lỗi vi phạm được phát hiện thì các hành vi vi phạm quy định

về quản lý thường trú, tạm, trú, lưu trú, tạm vắng diễn ra phổ biến nhất. Từ

năm 2014 đến tháng 6/2018 đã phát hiện 1.579 vụ vi phạm lưu trú, tạm vắng,

32

chiếm 80,2%, các lỗi vi phạm khác là 388 vụ, chiếm 19.8 %. Trong đó, lỗi vi

phạm về khai báo lưu trú vẫn xảy ra nhiều nhất, sau đó tới vi phạm về thường

trú, vi phạm về tạm trú và tạm vắng. Số lượng các vụ vi phạm tăng lên khá

nhanh qua các năm, cụ thể năm 2014 chỉ có 397 vụ,đến 2015 đã lên đến 475

vụ (tăng 78 vụ). Riêng 6 tháng đầu năm 2018 đã phát hiện 212 vụ vi phạm

liên quan đến cư trú, trong đó có 156 vụ vi phạm về thường trú, tạm trú, lưu

trú, tạm vắng; lỗi khác là 56 trường hợp. (Bảng phụ lục 2.2).

Biểu đồ 2: Tình hình số vụ vi phạm hành chính về cư trú trên địa bàn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến tháng 6/2018 (Nguồn:

Công an quận Long Biên).

Đáng chú ý hiện nay là tình trạng người lao động ngoại tỉnh, học sinh

sinh viên từ tỉnh khác đến tạm trú, lưu trú trên địa bàn nhưng không làm các

thủ tục về tạm trú, tạm vắng; khách, bạn bè đến ở qua đêm, thậm chí ở trong

thời gian nhiều ngày nhưng không khai báo. Qua khảo sát tại một số phường có

nhiều nhà nghỉ, khách sạn cho thấy tình hình vi phạm về cư trú vẫn diễn ra

tương đối phức tạp.

Ví dụ, vào 23 giờ 40 phút ngày 09/8/2015, Đội CSĐT tội phạm về ma

33

túy, Công an quận Long Biên phối hợp với Công an phường Bồ Đề bất ngờ

kiểm tra một nhà nghỉ trên phường Bồ Đề. Qua kiểm tra phát hiện 7 thanh

niên gồm cả nam và nữ thuê để nghỉ nhưng đang có hành vi sử dụng ma túy

đá. Qua kiểm tra, có 5 trong số 7 đối tượng có kết quả dương tính với ma túy.

Lực lượng Công an đã thu giữ một gói ma tuý tổng hợp trọng lượng 0,332

gam. Ngày 09/7/2016, Công an quận Long Biên bắt giữ Nguyễn Thu Yến, 39

tuổi, trú tại phường Ngọc Lâm về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Yến

là đối tượng thường xuyên cung cấp ma túy cho một số khách tại các nhà

nghỉ, phòng trọ trên địa bàn.

Trong các vụ việc được phát hiện, hầu hết đều bị xử lý hành chính. Cụ

thể trong thời gian nghiên cứu, toàn quận đã xử lý hành chính 1967 vụ/2139

vụ việc phát hiện, chiếm 92% tổng số vụ việc. Đã phối hợp xử lý hình sự 108

vụ (chiếm 8%). Riêng trong 6 tháng đầu năm 2018, đã chuyển cơ quan điều

tra 11 vụ liên quan đến phạm pháp hình sự, 19 đối tượng. Trong tổng thời

gian nghiên cứu, đã xử phạt được 89.950.000 đồng nộp vào ngân sách nhà

34

nước.(Bảng phụ lục 2.3).

Biểu đồ 3: Tình hình xử lý vi phạm pháp luật về cư trú trên địa bàn của lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên từ năm 2014

đến tháng 6/2018 (Nguồn: Công an quận Long Biên)

2.2. Thực trạng công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

2.2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long Biên thành

phố Hà Nội.

- Đội Cảnh sát QLHC về TTXH - Công an quận Long Biên

Lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên được tổ

chức theo mô hình hai cấp, ở Công an quận có Đội Cảnh sát QLHC về

TTXH, Công an các phường có Tổ Cảnh sát khu vực. Thực trạng tổ chức lực

lượng của Đội Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên. Hiện nay

Đội Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên hiện tại biên chế có

35 đồng chí trong đó có 04 đồng chí chỉ huy, chia làm 4 tổ công tác.

Tổ Tổng hợp, hướng dẫn CSKV: Gồm có 03 đồng chí chiếm 8,5%; Tổ

Hộ khẩu: Gồm có 12 đồng chí chiếm 34,0%; Tổ Căn cước công dân: Gồm có 10

đồng chí chiếm 35%; Tổ Tàng thư hộ khẩu: Gồm có 10 đồng chí chiếm 35%.

Khảo sát cho thấy: có 02 đồng chí trình độ cao học chiếm 5,7%; 21

đồng chí có trình độ đại học chiếm 60%; 12 đồng chí có trình độ trung cấp

chiếm 34%. Hiện tại có 08 đồng chí đang đi học hệ đại học tại chức. Đội

QLHC về TTXH Công an quận Long Biên có 21 nữ, 14 nam giới.

Về độ tuổi: Trên 40 tuổi có 5 đồng chí; từ 30 đến 39 tuổi có 19 đồng

chí; dưới 30 tuổi có 11 đồng chí. Như vậy độ tuổi trung bình là 25 tuổi.

35

- Lực lượng Cảnh sát khu vực

Tổ Cảnh sát khu vực thuộc Công an 14 phường có 148 đồng chí trong

có trình độ đại học có 37 đồng chí chiếm tỷ lệ 25%; 111 đồng chí trình độ

trung cấp chiếm 75%. Có 99 nữ, 49 nam giới.

Biểu đồ 4: Biểu đồ thể hiện trình độ chuyên môn của lực lượng Cảnh sát

quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an Quận Long Biên

36

tháng 6/2018(nguồn: Công an quận Long Biên)

Biểu đồ 5: Thể hiện độ tuổi của lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính

về Trật tự xã hội Công an quận Long Biên, tháng 6/2018

(nguồn: Công an quận Long Biên)

Về độ tuổi: Trên 40 tuổi có 15 đồng chí; từ 30 đến 39 tuổi có 36 đồng

chí; dưới 30 tuổi có 97 đồng chí. Cấp tá có 20 đồng chí, cấp úy 120 đồng chí,

hạ sỹ quan có 08 đồng chí. (Bảng phụ lục 2.4).

2.2.2. Thực trạng quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội

2.2.2.1. Thực trạng công tác tham mưu, đề xuất ban hành các văn bản

phục vụ quản lý cư trú và xây dựng, triển khai các chương trình công tác

chuyên môn

Luật Cư trú được Quốc hội thông qua và có hiệu lực, lực lượng Cảnh

sát QLHC về TTXH đã chủ động đề xuất CATP tham mưu cho UBND Thành

phố Hà Nội có các kế hoạch, chỉ thị và công văn hướng dẫn triển khai trên địa

bàn thành phố, cụ thể: Kế hoạch số 52/KH-UB ngày 19/6/2007 của Chủ tịch

UBND thành phố Hà Nội, Chỉ thị số 14/2007/UBND ngày 27/6/2007 của Chủ

tịch UBND Thành phố về việc triển khai, thực hiện Luật Cư trú, Công văn số

4787/UBND-NC ngày 5/9/2007 chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các cấp

triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả Luật Cư trú.

Phòng Cảnh sát QLHC về TTXH CATP Hà Nội đã tham mưu hoặc

trực tiếp ban hành một số kế hoạch, công văn thực hiện như: Kế hoạch số

60/KH/CAHN(PV11-PC13) ngày 30/5/2007 về việc triển khai Luật Cư trú

trong toàn lực lượng; Quyết định số 209-QĐ/CAHN(PV11) ngày 08/6/2007

thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Luật Cư trú; Kế hoạch số 16/KH-

CAHN(PC64) ngày 02/02/2012 triển khai thực hiện Thông tư 80/2011/TT-

BCA quy định về quy trình đăng ký cư trú và Thông tư số 81/2011/TT-BCA

37

ngày 15/12/2011 của Bộ Công an quy định về biểu mẫu được sử dụng trong

đăng ký, quản lý cư trú.

Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc CATP Hà Nội, phòng

Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội CATP Hà Nội đã xây dựng một

số công văn hướng dẫn thực hiện như: Công văn số 651/SL-PC64 ngày

26/7/2014 sao y Công văn 1036-C64 hướng dẫn về việc Công an quận, huyện

nhận giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp bản sao y bản chính có giá trị như

bản chính; Công văn số 844/CV-PC64 ngày 05/10/2016 gửi Công an quận,

huyện về việc phối hợp thực hiện quản lý liên quan đến quan hệ hôn nhân và

gia đình có yếu tố nước ngoài...

Ở cấp quận, huyện, Công an quận, huyện đã tham mưu cho UBND

quận, huyện tổ chức triển khai Luật Cư trú tới lãnh đạo các phòng, ban, Chủ

tịch UBND phường, xã, thị trấn, Bí thư chi bộ, Tổ trưởng dân phố, Trưởng

thôn, Bảo vệ dân phố, dân phòng. Công an quận, huyện đều tổ chức tập huấn

những nội dung cơ bản của pháp luật về cư trú, về việc thực hiện thủ tục hành

chính trong đăng ký cư trú tới chỉ huy các đội nghiệp vụ, Chỉ huy Công an

phường, thị trấn, Đồn Công an, Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và toàn bộ lực

lượng CSKV.

2.2.2.2. Thực hiện công tác đăng ký, quản lý cư trú.

- Tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện các quy

định về cư trú

Nhằm tuyên truyền sâu rộng kiến thức pháp luật về Luật Cư trú nói

chung và các quy định về quản lý cư trú đối với công dân nói riêng, UBND

quận đã giao cho phòng Văn hóa thông tin, Đài phát thanh quận viết nhiều tin,

bài tuyên truyền về các quy định mới và các thủ tục hành chính trong quản lý

về thường trú đối với công dân và chỉ đạo các Ban văn hóa thông tin của

phường, hệ thống đài truyền thanh của phường phát thanh tuyên truyền về nội

38

dung đổi mới của Luật Cư trú.

Là cơ quan quản lý trực tiếp Công an quận cũng đã hướng dẫn, giải

thích trên nhiều bài báo của báo an ninh thủ đô để tuyên truyền về các tiêu

chuẩn đăng ký, thủ tục đăng ký cư trú, đồng thời được thông báo công khai tại

các trụ sở tiếp dân ĐKHK tại quận và các trụ sở Công an phường. Đồng thời

phối hợp với chính quyền các cấp hàng ngày tuyên truyền trên hệ thống

truyền thanh của phường về nội dung Luật Cư trú, đặc biệt là phổ biến các

tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú, thông báo lưu trú,

tạm vắng,... để cán bộ, quần chúng nhân dân biết tổ chức thực hiện; mặt khác

thông qua các buổi họp chi bộ, họp tổ dân phố, cụm dân cư để tuyên truyền và

vận động nhân dân thực hiện tốt Luật Cư trú. Ngoài ra, chỉ đạo cho lực lượng

CSKV làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn cán bộ, nhân dân thực hiện

tốt Luật Cư trú trong khu vực, địa bàn. Nội dung đổi mới của Luật Cư trú

được đưa vào là một trong các nội dung sinh hoạt thường kỳ của các tổ dân

phố, cụm dân cư và công tác thăm hỏi hàng ngày của lực lượng CSKV.

Công an quận đã tổ chức soạn thảo, cung cấp tài liệu tuyên truyền cho

các đài, báo, in, cấp phát bản hướng dẫn điều kiện thủ tục đăng ký cư trú để

cấp phát cho 14 phường. Đã in 12.000 tờ rơi tuyên truyền các quy định, điều

kiện, thủ tục về công tác đăng ký cư trú để phát tới từng cụm dân cư, các hộ

nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân nắm được các quy định của Luật Cư trú.

Niêm yết thông báo công khai các thủ tục, điều kiện về công tác đăng ký cư

trú tại các trụ sở tiếp dân của đội Cảnh sát QLHC về TTXH và 14

phường.[38, tr.8].

Với kết quả của công tác trên đã có tác dụng làm cho các cơ quan, tổ

chức và mỗi công dân nắm được những quy định của pháp luật về cư trú phải

chấp hành. Tuy nhiên, công tác này chưa được tiến hành thường xuyên, quá

trình công tác thường chỉ chú trọng ở giai đoạn triển khai công tác ban đầu,

39

theo kế hoạch của Công an cấp trên, trong các đợt thực hiện nhiệm vụ nhiệm

vụ chính trị ở địa phương. Việc tổ chức, thực hiện công tác này chưa có trọng

tâm, trọng điểm, nội dung còn nặng về thủ tục hành chính, thiên về các biện

pháp xử lý, chưa quan tâm nhiều đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục.

Mặt khác, công tác này chưa động viên, thu hút, phát huy được vai trò, trách

nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức quần chúng và công dân tham gia

nên làm hạn chế đến kết quả công tác này trong thời gian qua.

- Tổ chức tiếp nhận hồ sơ đăng ký cư trú cho công dân

+ Đăng ký thường trú.

Từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2018 Công an quận Long Biên thành

phố Hà Nội đã đăng ký thường trú 21.145 hộ, 60.808 nhân khẩu. Trong đó:

Đăng ký thường trú cho người ngoại tỉnh đến: 6290 hộ, 18862 nhân khẩu;

điều chỉnh nơi thường trú trong thành phố và điều chỉnh thay đổi khác trong

sổ hộ khẩu:1280 trường hợp; Đăng ký mới sinh: 2106 nhân khẩu; Tách hộ:

796 hộ; Cấp đổi sổ hộ khẩu: 12125 trường hợp.(Bảng phụ lục 2.5).

+ Đăng ký tạm trú.

Toàn quận hiện có: 2.472 hộ; 4.869 nhân khẩu trong diện đăng ký tạm

trú. Đã có 1.171 trường hợp làm thủ tục đăng ký tạm trú, đã cấp sổ tạm trú cho

1.258 trường hợp, 14.698 nhân khẩu. Cấp lại cho 286 trường hợp, 673 nhân

khẩu, đính chính thông tin cho 152 trường hợp, 269 nhân khẩu. [45, Tr 12].

+ Thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng.

Công an các phường đã lập 428 điểm tiếp nhận thông báo lưu trú được

duy trì hoạt động từ 19h đến 22h hàng ngày. Tại các điểm tiếp nhận thông báo

lưu trú, Công an phường đã tổ chức tốt việc tiếp nhận và quy trình tiếp nhận

thông báo lưu trú. Tất cả các trường hợp thông báo lưu trú được thực hiện

trực tiếp thì cán bộ làm công tác tiếp nhận thông báo lưu trú luôn kiểm tra

giấy tờ tuỳ thân của người lưu trú; ghi đầy đủ, chính xác thông tin về người

40

lưu trú vào sổ tiếp nhận lưu trú (theo mẫu quy định). Đối với một số ít trường

hợp thông báo lưu trú được thực hiện bằng điện thoại thì cán bộ tiếp nhận

thông báo lưu trú hỏi rõ tên, địa chỉ, số điện thoại của người gọi điện thoại;

hỏi và ghi đầy đủ, chính xác thông tin về người làm lưu trú vào sổ tiếp nhận

lưu trú (theo mẫu quy định).

Cán bộ tiếp nhận thông báo lưu trú thường xuyên tập hợp tình hình, số

liệu, thông tin lưu trú tại điểm tiếp nhận lưu trú do mình phụ trách và báo cáo

về Công an phường trước 24 giờ hàng ngày. Những trường hợp do yêu cầu bảo

đảm an ninh, trật tự thì báo cáo ngay về Công an phường. Việc báo cáo tình

hình, số liệu, thông tin lưu trí từ điểm tiếp nhận lưu trú về Công an phường

được thực hiện bằng văn bản hoặc báo cáo trực tiếp hoặc bằng điện thoại. Tổng

số khách thông báo lưu trú: 6.728 trường hợp. Hình thức thông báo: Thông báo

trực tiếp: 3.454 trường hợp; thông báo qua điện thoại: 2.778 trường hợp; thông

báo qua mạng máy tính: 2.496 trường hợp. Khai báo tạm vắng: tổng số 1.938

trường hợp. Trong đó: Tạm vắng theo Khoản 1 điều 32 Luật Cư trú: 1.156;

Tạm vắng theo Khoản 2 điều 32 Luật Cư trú: 782. [45, Tr 14].

Đặc biệt, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã không ngừng thực

hiện cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký cư trú như sau:

Vận dụng quy trình đăng ký thường trú theo hướng rút ngắn thời gian

giải quyết và giảm số lần đi lại cho người dân. Lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH đã nghiên cứu quy định của Bộ Công an quy định thủ tục hành chính

trong quản lý thường trú đối với công dân áp dụng đối với các trường hợp

thay đổi nơi đăng ký ra ngoài phạm vi quận, huyện, thị xã trong cùng một

tỉnh, thành phố quy định công dân phải mất ít nhất 6 lần đi lại; mất ít nhất 18

ngày làm thủ tục đăng ký thường trú; mất ít nhất 10 đến 20 ngày để hoàn tất

thủ tục xóa tên tại nơi đăng ký thường trú cũ. Việc vận dụng quy trình theo

hướng rút ngắn thời gian và giảm số lần đi lại cho công dân trong quá trình

41

giải quyết đăng ký thường trú là một sáng kiến, cải tiến cải cách thủ tục hành

chính trong quản lý về thường trú đối với công dân của Công an quận Long

Biên thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện vẫn còn gặp phải

một số khó khăn nhất định: một số Công an quận, huyện khi giải quyết đăng

ký thường trú chưa viết phiếu thông tin thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu kịp thời

để Công an nơi ở cũ xóa gốc và cấp giấy chuyển hộ khẩu; một số quận huyện

viết thông tin thay đổi còn sai lệch địa chỉ hoặc không ghi khối, tập, trang

trong sổ hộ khẩu… do đó Công an nơi ở cũ không xóa được gốc và cấp phiếu

chuyển; việc cử cán bộ về CATP họp bàn giao HK07, HK02 chưa đều, chưa

thường xuyên.

Mặt khác, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã bố trí linh hoạt các

điểm tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân đi làm thủ

tục hành chính đăng ký cư trú. Tại các trụ sở tiếp dân đăng ký thường trú đều cơ

bản đảm bảo diện tích theo quy định, được trang bị đủ ánh sáng, quạt, thông gió,

bàn ghế cho cán bộ, chiến sỹ làm công tác tiếp dân và nhân dân đến làm các thủ

tục hành chính. Trong trụ sở tiếp dân đều được niêm yết công khai các điều kiện,

thủ tục đăng ký thường trú theo quy định của Luật Cư trú, đối tượng thu lệ phí,

có các bản hướng dẫn kê khai biểu mẫu để công dân thực hiện.

Đặc biệt, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã vận dụng, giải quyết

một số trường hợp cụ thể, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền và nghĩa

vụ của mình như: Trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 20, Luật Cư trú

(KT3) khi đăng ký cả hộ, giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp đứng tên một

trong các thành viên đi cùng có quan hệ là ông, bà nội, ngoại, bố, mẹ, anh, chị,

em, cháu ruột kèm theo, thì giải quyết đăng ký thường trú luôn một lần không

phải tách hồ sơ giải quyết cho bố, mẹ trước, sau đó ông, bà, anh, chị, em ruột

hoặc cháu ruột mới làm thủ tục đăng ký về theo bố, mẹ, ông bà sau.

Trường hợp là Bộ đội, Công an đăng ký thường trú đối với vợ, chồng

42

áp dụng theo Điểm a, Khoản 2, Điều 20 Luật Cư trú. Trường hợp còn hộ khẩu

ở địa phương khác thì không xuất trình quyết định điều động, tuyển dụng

nhưng phải có Giấy chuyển hộ khẩu. Trường hợp ở tập thể không còn hộ

khẩu ở địa phương khác thì phải có giấy giới thiệu, quyết định điều động hoặc

quyết định tuyển dụng như quy định để thay Giấy chuyển hộ khẩu. Trường

hợp không có bản chính các giấy tờ trên thì sử dụng bản sao theo quy định

của pháp luật hoặc của đơn vị xác nhận bản sao là được xem xét giải quyết.

Trường hợp sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân

viên quốc phòng, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên

môn kỹ thuật, công nhân viên Công an công tác tại các doanh nghiệp quân đội

và CAND khi đăng ký thường trú nếu đã có quyết định điều động tuyển dụng,

nâng lương, thăng cấp bậc hàm, quyết định bổ nhiệm chức vụ thì không yêu

cầu phải có hợp đồng lao động như những trường hợp khác.

Trường hợp mất Giấy chuyển hộ khẩu nếu có xác nhận đã cấp Giấy

chuyển thì được tiếp nhận giải quyết. Sau khi giải quyết viết phiếu thông tin

về việc giải quyết để Công an nơi cấp Giấy chuyển hộ khẩu trước đó biết để

làm thủ tục xóa tên.

Đăng ký thường trú cho các trường hợp mới sinh, thủ tục trình Giấy

khai sinh (bản chính hoặc bản sao). Trường hợp các công dân khai sinh quá 6

tháng mà bố mẹ không có hộ khẩu cùng một nơi tại Hà Nội thì yêu cầu xuất

trình sổ hộ khẩu của cả bố mẹ hoặc xác nhận của Công an phường là cháu

chưa đăng ký thường trú về với bố hoặc mẹ. Đối với các trường hợp bố hoặc

mẹ có hộ khẩu ở tỉnh ngoài có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi

bố hoặc mẹ để tránh trường hợp các công dân đã đăng ký hộ khẩu thường trú

theo bố hoặc mẹ rồi nay lại đăng ký tiếp dẫn đến việc có hộ khẩu ở hai nơi.

- Điều tra, nghiên cứu nắm tình hình về nhân khẩu, hộ khẩu

Trên cơ sở hướng dẫn của Giám đốc CATP Hà Nội, hiện nay lực lượng

43

CSKV tiến hành phân loại hộ, nhân khẩu theo quy định của CATP Hà Nội

bao gồm:

*Hộ, nhân khẩu đăng ký thường trú trong khu vực (ký hiệu là KT1)

gồm: hộ, nhân khẩu cư trú tại nơi đăng ký thường trú; hộ, nhân khẩu vắng mặt

khỏi nơi đăng ký thường trú (ký hiệu là KT2 đi).

*Hộ, nhân khẩu đăng ký tạm trú trong khu vực gồm các loại sau: hộ,

nhân khẩu ký thường trú tại các phường khác thuộc địa bàn Hà Nội nhưng

thường xuyên đến cư trú tại địa bàn quản lý (ký hiệu là KT2 đến); hộ, nhân

khẩu đăng ký thường trú ở tỉnh, thành phố khác đến cư trú ổn định tại địa bàn

nhưng chưa đăng ký thường trú (ký hiệu là KT3); hộ, nhân khẩu đăng ký

thường trú ở tỉnh, thành phố khác đến cư trú không ổn định tại địa bàn để làm

ăn, sinh sống (ký hiệu là KT4); học sinh, sinh viên là nhân khẩu đăng ký

thường trú ở tỉnh, thành phố khác về Hà Nội học tập tại các học viện, trường

đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề,... cư trú trong ký túc xá của nhà

trường hoặc hộ nhà dân ở địa bàn khu dân cư; hộ, nhân khẩu gốc Hà Nội chưa

đăng ký thường trú; hộ, nhân khẩu sinh sống, làm việc trên sông nước không

có nơi cư trú ổn định trên bờ. Người lưu trú trong khu vực. Hộ có nhà cho

thuê để ở (cho thuê trọ bình dân), chủ sử dụng lao động phổ thông. Các loại

trọng hộ phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội.

Trên cơ sở kết quả rà soát danh sách nhân, hộ khẩu cư trú trên địa bàn,

đối với các hộ gia đình, CSKV tiến hành các biện pháp để nắm tên chủ hộ,

những người trong hộ và mối quan hệ với chủ hộ, địa chỉ nơi đăng ký thường

trú, tạm trú. Đồng thời, lực lượng CSKV cũng tiến hành nắm các điều kiện

hoàn cảnh riêng biệt của từng hộ như: hộ nguyên là lãnh đạo cao cấp của

Đảng, Nhà nước, Thành phố; hộ, nhân khẩu lão thành cách mạng; hộ thương,

bệnh binh; hộ, nhân khẩu người Hoa; hộ, nhân khẩu hồi hương từ nước ngoài

về; hộ có nhân khẩu là đối tượng có tiền án, tiền sự, đang có biểu hiện nghi

44

vấn hoạt động phạm tội; hộ có đối tượng truy nã, truy tìm;... Đối với từng loại

nhân khẩu, CSKV đều tiến hành nắm 4 yêu cầu về nhân khẩu, người từ 14

tuổi trở lên: Lai lịch; quan hệ gia đình; quan hệ xã hội; nghề nghiệp; nguồn

thu nhập chính; việc thực hiện chính sách pháp luật(trước hết là đối tượng) bổ

sung vào hồ sơ hộ khẩu.

Để nắm chắc tình hình nhân, hộ khẩu thực tế cư trú trên địa bàn phục

vụ kịp thời cho yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, QLHC về

ANTT, CSKV đã thường xuyên tiến hành thăm hỏi, kiểm tra, phân loại các

hộ, nhân khẩu trên địa bàn; tổ chức vận động phong trào toàn dân tham gia

công tác quản lý cư trú mà lực lượng nòng cốt là đội ngũ tổ trưởng tổ dân

phố, trưởng ban công tác mặt trận, lực lượng bảo vệ dân phố; thông qua công

tác đăng ký thường trú, tạm trú để thiết lập, củng cố, bổ sung các loại hồ sơ,

sổ sách về hộ khẩu, nhân khẩu, hệ thống dữ liệu dân cư trên máy tính theo

quy định từ đó có các tài liệu về hộ, nhân khẩu; thông qua tổ chức xác minh,

trao đổi thông tin, tài liệu về hộ, nhân khẩu với các đơn vị, địa phương, các

lực lượng Công an; tăng cường công tác nắm tình hình phục vụ phòng ngừa

và trấn áp tội phạm (theo đó mỗi tổ dân phố lập 01 quyển sổ phản ánh tình

hình, vụ việc, những thay đổi di biến động nhân khẩu, hộ khẩu, những vấn đề

nghi vấn khác do tổ trưởng dân phố giữ, ghi chép hàng ngày, ít nhất 01 tuần/1

lần CSKV phải gặp tổ dân phố trao đổi tình hình và ký xác nhận vào sổ);

nhiều Công an phường, đã tích cực, chủ động xây dựng các mô hình, chuyên

đề trong công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu ở địa bàn cơ sở; định kỳ hàng

tháng, lực lượng CSKV tập hợp tình hình, số liệu hộ khẩu, nhân khẩu theo

mẫu (HK15b), định kỳ quý I, III, 6 tháng đầu năm, tổng kết năm báo cáo về

tình hình kết quả công tác của CSKV theo mẫu (KV8, KV10) gửi về Công an

quận, huyện, thị xã để tổng hợp báo cáo CATP theo quy định; định kỳ tháng

10 hàng năm, CSKV đều tham gia tiến hành tổng kiểm tra định kỳ hộ khẩu

45

theo kế hoạch của Giám đốc CATP.

CATP đã ban hành triển khai một số kế hoạch để chỉ đạo lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH điều tra, nắm tình hình về người lao động ngoại

tỉnh, học sinh, sinh viên như kế hoạch quản lý người các tỉnh về cư trú lao

động tại Hà Nội; kế hoạch tăng cường công tác nắm tình hình quản lý học

sinh, sinh viên tạm trú trên địa bàn thành phố Hà Nội; kế hoạch quản lý hộ có

nhà cho thuê trọ bình dân; quy định trách nhiệm trong công tác quản lý tạm

trú, tạm vắng; kế hoạch tập trung các biện pháp nghiệp vụ quản lý đối tượng

tỉnh ngoài của lực lượng Cảnh sát QLHC Hà Nội;...

Với người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên mới đến địa bàn,

CSKV tiến hành hướng dẫn họ khai báo tạm trú, kê khai bản khai nhân khẩu

để nắm được sơ bộ về lịch sử bản thân, lý do tạm trú. Hiện nay, Công an các

phường, xã, thị trấn đã tổ chức duy trì hoạt động của 1.320 điểm tiếp nhận

thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng tại các khu dân cư. Đồng thời, CSKV

viết phiếu yêu cầu xác minh gửi về Công an phường, thị trấn nơi ở của họ

trước khi đến Hà Nội để trao đổi, nắm về nhân thân. Đến nay đã xác minh hai

chiều được trên 80% số người lao động ngoại tỉnh trên địa bàn. 50% số này đã

có kết quả trả lời, qua đó đã phát hiện hàng trăm đối tượng có tiền án, tiền sự,

tệ nạn xã hội hoặc khai báo sai thông tin về địa chỉ gốc.

Tiến hành cấp sổ chứng nhận tạm trú cho người nhập cư như: Với các

hộ mua nhà tạm trú, Công an phường, thị trấn cấp sổ tạm trú được 70%; với

các trường hợp thuê nhà, Công an phường cấp sổ tạm trú được 50%; với các

trường hợp là học sinh, sinh viên tạm trú, Công an phường, thị trấn cấp sổ

chứng nhận tạm trú được khoảng 90%.

Quản lý dân nhập cư thông qua người tổ chức sử dụng lao động, các cơ

sở tuyển dụng lao động như: Các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, cơ sở sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ xây dựng, các hộ thuê người giúp việc; phải có

46

trách nhiệm thông báo hoặc xác nhận với Công an phường, thị trấn danh sách

những người làm trong cơ sở của mình; có danh sách tạm trú được điều chỉnh

biến động thường xuyên; có hợp đồng lao động với người lao động (theo quy

định); có cam kết giữ gìn ANTT với Công an phường; với các trường hợp

này, CSKV phải lập hồ sơ để quản lý, kết quả đã lập 80% theo yêu cầu.

Quản lý người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên thông qua các

hộ có nhà cho thuê trọ, các cơ sở kinh doanh lưu trú: Công an các phường, thị

trấn đã tiến hành quản lý về ANTT với trên 25.000 hộ có nhà cho thuê trọ

bình dân, chủ các hộ này phải có trách nhiệm trình báo danh sách người thuê

nhà, tạm trú, có sổ sách theo dõi người tạm trú, có cam kết về ANTT. Tuy

vậy, công tác này kết quả còn hạn chế, nhất là những thay đổi biến động của

người thuê nhà không được thông báo kịp thời,…

Mọi công dân ở tỉnh ngoài khi nghỉ lại qua đêm ở Hà Nội phải khai báo

tạm trú, nhưng việc thực hiện qui định này mới đạt khoảng 50%. Nguyên

nhân là do sự hiểu biết, ý thức tự giác chấp hành của người đến tạm trú và chủ

hộ chưa cao. Cá biệt có một số cố ý không chấp hành. Mức độ xử lý vi phạm

còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, giáo dục; công tác kiểm tra, xử lý vi phạm

của lực lượng Công an chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết,… Các cấp chính

quyền, các ngành, đoàn thể, quần chúng còn cho rằng đây là trách nhiệm của

riêng ngành Công an[45, Tr 16].

Đặc biệt, Cảnh sát QLHC về TTXH đã điều tra, nghiên cứu nắm chắc

tình hình về các hộ, nhân khẩu hoạt động kinh doanh dịch vụ mà các đối

tượng thường lợi dụng để hoạt động phạm tội, còn gọi là “trọng hộ”. Thực tế

trong những năm qua, số hộ, nhân khẩu từ tỉnh, thành phố khác đến cư trú

ngày càng gia tăng, thường xuyên biến động, nhận thức, chấp hành các quy

định trong công tác đăng ký, quản lý tạm trú đối với người sử dụng lao động,

cơ sở kinh doanh lưu trú, cơ sở cho thuê trọ và người tạm trú còn nhiều hạn

47

chế. Trong khi, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm hình sự, kinh tế, ma

tuý, công nghệ cao, tệ nạn xã hội, tội phạm cướp tiệm vàng có những diễn

biến phức tạp, hoạt động lưu động trên các tuyến, địa bàn, liên kết, móc nối

với đối tượng tỉnh ngoài, thuê nhà tạm trú trong các nhà nghỉ, nhà trọ, khu

vực giáp ranh phức tạp, thường xuyên thay đổi chỗ ở,... để tụ tập, hoạt động

phạm pháp gây khó khăn trong công tác quản lý cư trú.

Trước tình hình đó, ngoài việc thực hiện các quy định của pháp luật

trong công tác quản lý cư trú, đồng thời căn cứ vào đặc điểm tính chất địa bàn

đã xác định các hộ có điều kiện, nguy cơ tội phạm lợi dụng sơ hở để hoạt

động phạm pháp (trọng hộ) từ đó tập trung các biện pháp quản lý góp phần

vào công tác phòng ngừa, đấu tranh trấn áp với các loại tội phạm đảm bảo giữ

vững TTATXH trên địa bàn Thủ đô.

Cho đến nay, lực lượng CSKV đã thiết lập 100% hồ sơ các loại trọng

hộ cần quản lý. Trong năm 2017, đã xảy ra 19 vụ việc VPPL xảy ra, bắt giữ 8

vụ với 6 đối tượng (so với năm 2016 giảm 4 vụ việc VPPL; giảm 3 vụ, với 13

đối tượng); đồng thời phối hợp với công tác quản lý đối tượng đã góp phần

bắt giữ nhiều đối tượng đang có biểu hiện hoạt động hiện hành.

Lực lượng CSKV đã làm tốt công tác rà soát đưa vào quản lý trọng hộ

đã quy định trong kế hoạch góp phần làm giảm tình hình phạm tội nói chung,

đối với các trọng hộ nói riêng. Tuy vậy, qua theo dõi ở một số đơn vị nhận

thức của lực lượng CSKV về các trọng hộ chưa đầy đủ, đưa vào trọng hộ vẫn

tràn lan để tính điểm qua các đợt kiểm tra chất lượng CSKV, hiểu đúng nghĩa

hộ độc thân là như thế nào để lập hồ sơ biện pháp phòng ngừa. CSKV phải

thường xuyên điều chỉnh, bổ sung những thay đổi biến động của từng trọng

hộ, thực hiện nhắc nhở các biện pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tội phạm

lợi dụng để hoạt động,... góp phần giữ vững ANCT, TTATXH trên địa bàn.

2.2.2.3. Xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu công dân phục vụ

48

quản lý cư trú

Tháng 8/2013, được sự đồng ý của lãnh đạo Bộ Công an, Thành ủy,

UBND Thành phố Hà Nội, CATP Hà Nội đã lựa chọn 10 phường trong đó có

Công an phường Gia Thụy - Long Biên các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân

lực; có thành phần dân cư đa dạng để thí điểm triển khai việc chuyển đổi quản

lý, theo dõi dữ liệu nhân, hộ khẩu từ sổ sách vào quản lý, theo dõi bằng dữ

liệu điện tử.

Tính đến tháng 4/2014, toàn quận đã lập được 636.432 phiếu thông tin

quản lý nhân khẩu (đạt tỷ lệ 68% tổng số nhân khẩu trong diện kê khai); nhập

liệu được 687.860 phiếu thông tin vào hệ thống (đạt 89,8%). Hiện nay, công

tác này đang được tiếp tục triển khai, hoàn thiện trên tất cả các địa phương

trên toàn thành phố.

Việc chuyển đổi quản lý, theo dõi dữ liệu dân cư từ sổ sách vào quản

lý, theo dõi bằng dữ liệu điện tử đã tạo một bước đột phá trong công tác quản

lý dữ liệu dân cư trên địa bàn quận, làm giảm tải và nâng cao hiệu quả công

tác quản lý của CSKV. Đồng thời, sau khi hoàn thành việc chuyển đổi, sẽ

phục vụ đắc lực cho công tác cải cách hành chính công của Công an quận.

Để đảm bảo thông tin được chính xác, không sót lọt, Công an quận tiếp

tục xây dựng, triển khai kế hoạch mở đợt cao điểm kiểm tra, bổ sung các

thông tin còn thiếu, chưa chính xác. Qua đó, Công an các phường thành lập

các Tổ công tác tiến hành kiểm tra quyết liệt công tác rà soát, bổ sung, điều

chỉnh thông tin còn thiếu, chưa chính xác tại Công an các phường; kê khai,

nhập liệu đối với những nhân khẩu mới phát sinh. Kết thúc đợt cao điểm các

đơn vị đã bổ sung, nhập liệu 3.903 nhân khẩu mới vào hệ cơ sở dữ liệu dùng

chung của quận. Đã bổ sung, điều chỉnh 566.737 thông tin về dân cư. Công an

các phường Ngọc Lâm, Bồ Đề, Thạch Bàn đã thu thập, bổ sung 14 trường

thông tin còn thiếu được 442.451 phiếu, nhập liệu được 652.728 phiếu vào hệ

49

cơ sở dữ liệu dùng chung của quận. Tính đến ngày 15/6/2018, Công an quận

đã nhập được tổng cộng 703.182 phiếu thông tin vào Hệ cơ sở dữ liệu dùng

chung của quận.

Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã thu thập, bổ sung,

xác minh tài liệu hồ sơ hộ khẩu, nhân khẩu; xây dựng hệ thống tàng thư hộ

khẩu hay còn gọi là cơ sở dữ liệu về cư trú. Bộ Công an đã tổ chức thực hiện

làm công tác đăng ký quản lý hộ khẩu của từng người dân từ khi sinh ra, lớn

lên đến lúc chết bởi hệ thống sổ sách, biểu mẫu mà người dân kê khai và báo

cáo của lực lượng Công an về di biến động của từng hộ, từng người tại tàng

thư hộ khẩu ở cấp huyện. Đến tháng 6 năm 2018, cơ sở dữ liệu về cư trú của

công dân trên phạm vi quận có 1 tàng thư hồ sơ. Số tàng thư đi vào hoạt động

nề nếp có hiệu quả tốt là: 14/14 đơn vị. Tổng số hộ đã lập là 14.

Hàng năm, việc bổ sung thông tin, tài liệu vào tàng thư hồ sơ đạt tỷ lệ

cao. Nhìn chung, công tác tàng thư hồ sơ hộ khẩu tuy đã được Công an các

quận quan tâm, đầu tư xây dựng, nhưng hiện tại cơ sở vật chất của tàng thư hồ

sơ hộ khẩu vẫn còn thiếu thốn, đặc biệt là cán bộ làm công tác tàng thư hồ sơ

hộ khẩu. Theo báo cáo của các đơn vị và qua kiểm tra thực tế tại các các

quận, huyện của thành phố tàng thư hồ sơ hộ khẩu đã được lập, quản lý và sử

dụng theo quy định. Nội dung thu thập các loại tài liệu về bản khai nhân khẩu

phản ánh về 4 yêu cầu quản lý hộ khẩu chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số hồ sơ

nhân khẩu trên địa bàn (chiếm 37%). Trong các nội dung tài liệu nói trên chủ

yếu bổ sung về sự thay đổi lý lịch của những công dân từ 14 tuổi trở lên khi

các đối tượng này có yêu cầu làm CMND hoặc lý do chuyển đến. Các nội

dung thu thập, bổ sung về các thái độ chính trị của đối tượng, các loại nhân

khẩu là tôn giáo, người Hoa còn chiếm tỷ lệ thấp. Tài liệu về hồ sơ nhân khẩu

khi có sự chuyển đi, chuyển đến chiếm tỷ lệ cao (chiếm 75%) trong quá trình

thu thập, bổ sung. Mỗi khi có sự thay đổi, CSKV thực hiện chế độ báo cáo về

50

Đội Cảnh sát QLHC về TTXH để điều chuyển, bổ sung về tàng thư hộ khẩu

của Công an quận cho phù hợp. Các tài liệu về thu thập, bổ sung tài liệu về hồ

sơ hộ khẩu đối với các loại đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú chiếm tỷ

lệ thấp gồm 14 hồ sơ có đối tượng. Chủ yếu tập trung vào đối tượng án treo,

quản chế và giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung cơ sở dữ liệu, lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH chỉ tập trung vào các thời điểm Công an phường tiến hành

đánh giá kết quả công tác để bình bầu, phân loại chất lượng công tác của

CSKV cuối năm; trong các đợt kiểm tra, thi tay nghề của Bộ và Công an cấp

trên hoặc theo quy định. Công an địa phương tiến hành các chiến dịch như tập

trung bổ sung tài liệu đối với các hồ sơ hộ khẩu, nhân khẩu là người hồi

hương, đối với số người Hoa, các loại tài liệu do Công an cấp trên yêu cầu

xác minh. Đối với tài liệu báo cáo định kỳ về đối tượng so với tỷ lệ phải bổ

sung thường xuyên 1 tháng một lần thì công tác bổ sung còn chiếm tỷ lệ thấp

và có chiều hướng giảm dần. Các báo cáo bổ sung, sửa đổi kết quả xác minh

về đối tượng hàng năm thực hiện khi có những yêu cầu nghiệp vụ như đối

tượng có hành vi VPPL cần phải xác minh, những trường hợp các địa phương

khác đến xác minh, yêu cầu cung cấp tài liệu, khi đối tượng có sự thay đổi về

nghề nghiệp nơi cư trú,... song chất lượng các loại tài liệu này chỉ tập trung

vào các hoạt động của đối tượng hoạt động trên địa bàn, còn tình hình đối

tượng hoạt động ở ngoài phạm vi địa bàn quản lý thì CSKV chưa có sự bổ

sung kịp thời và thường chậm so với yêu cầu đặt ra.

Các báo cáo bổ sung về bản khai nhân khẩu (HK01) lập ban đầu khi lập

hồ sơ hộ khẩu hoặc khi công dân có sự biến động cơ học đạt tỷ lệ cao. Việc

bổ sung các tài liệu vào hồ sơ chưa chấp hành đúng các quy định không đảm

bảo thời gian bổ sung theo quy định 1 tháng một lần theo chế độ quy định.

Qua nghiên cứu điển hình thu thập, bổ sung, xác minh tài liệu một số

51

đơn vị cho thấy: công tác bổ sung tài liệu tuy đã đạt được cơ bản về số lượng

tài liệu cần thu thập, xác minh, bổ sung theo quy định, song nội dung tài liệu

còn mang nặng hình thức, chưa đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ. Việc thu

thập, bổ sung tài liệu chủ yếu chỉ áp dụng đối với các nhân khẩu đang hoạt

động trên địa bàn quản lý, còn các nhân khẩu, các đối tượng hoạt động ở các

địa phương khác chất lượng quản lý đạt kết quả thấp và chưa thường xuyên,

kịp thời. Quá trình thực hiện công tác này, lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH chưa có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi của các lực lượng nghiệp vụ

khác có liên quan đến công tác quản lý cư trú. Do đó, lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH còn bị động, lúng túng trong công tác quản lý cư trú ở địa

bàn công tác.

2.2.2.4. Kiểm tra, xử lý các vi phạm quy định quản lý cư trú, phối hợp

chặt chẽ với các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ được phân công

Công tác kiểm tra, xác minh, xử lý vi phạm là hoạt động không thể

thiếu trong các hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước. Đối với việc quản lý

cư trú thì vấn đề kiểm tra hướng dẫn lại có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc

biệt, nó có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu quả của cả quá trình

công tác. Vì vậy, đi đôi với việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia,

điều ra nghiên cứu nắm chắc tình hình về hộ khẩu, nhân khẩu vẫn cần phải đề

cập và tiến hành việc kiểm tra hướng dẫn, phát hiện và xử lý các trường hợp

vi phạm trong quá trình đăng ký, quản lývề cư trú. Việc kiểm tra không tiến

hành có tính chất định kỳ, hình thức mà phải được tiến hành một cách thường

xuyên, có hệ thống. Nội dung, phương pháp và hình thức kiểm tra tập trung

chủ yếu: đoàn kiểm tra nghe báo cáo chung kết hợp kiểm tra thực tế; công tác

đăng ký quản lý hồ sơ đăng ký cư trú đã, đang giải quyết; sổ sách biểu mẫu,

tàng thư, thông tin báo cáo, nơi tiếp dân; các vụ việc khiếu nại, tố cáo tại

Công an cấp huyện, Công an phường, thị trấn.

52

Cụ thể trong thời gian từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018, đã xử phạt

được 89.950.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước. Việc phát hiện và xử lý

vi phạm về đăng ký, quản lý về cư trú chủ yếu thông qua đăng ký thường trú

ở quận, huyện và kiểm tra các cơ sở ở kinh doanh lưu trú còn việc phát hiện

vi phạm không thông báo lưu trú xử lý trong các hộ nhà dân còn quá ít. Kiểm

tra thường trú thời gian qua, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH chủ yếu tiến

hành hình thức kiểm tra định kỳ 6 tháng một lần ở các địa phương. Đối với

các hộ gia đình thì CSKV căn cứ vào sổ hộ khẩu và các loại giấy tờ cần thiết

khác đến từng hộ để đối chiếu so sánh, phát hiện bổ sung những thay đổi của

từng hộ, từng người phục vụ cho công tác quản lý nắm chắc từng hộ, từng

người. Đối với các nhà ở tập thể, CSKV và các lực lượng tiến hành phối kết

hợp kịp thời với bảo vệ cơ quan xí nghiệp với tổ chức hoặc người có trách

nhiệm của cơ quan, của nhà ở tập thể tiến hành kiểm tra.

Đối với công tác kiểm tra đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú: lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phối hợp tiến hành kiểm tra, kiểm diện

6.718 lượt đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú. Đối với số đối tượng

thuộc diện đưa vào diện giáo dục tại xã, phường, thị trấn, việc kiểm tra, kiểm

danh, kiểm diện chiếm tỷ lệ cao, chỉ tính riêng năm 2017, lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH đã tiến hành kiểm tra, kiểm danh được 1.496 lượt. Hình thức

kiểm tra tập trung nhiều nhất vào các thời điểm phức tạp về ANTT ở địa

phương, nhất là trong thời gian kỷ niệm Quốc khánh 02/9; các chiến dịch tấn

công, truy quét bọn tội phạm hình sự; các ngày Tết cổ truyền của dân tộc,...

Qua công tác kiểm tra, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện

được nhiều vi phạm của đối tượng. Ví dụ: Năm 2017, qua công tác kiểm tra

của Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện 188 đối tượng không về nơi cư

trú; 231 đối tượng đi ra khỏi địa phương không báo cáo với chính quyền; 352

đối tượng theo pháp luật quy định ở địa bàn cơ sở VPPL đồng thời phát hiện

53

nhiều trường hợp có dấu hiệu nghi vấn hoạt động vi phạm, phải báo cáo lên

Công an cấp trên, phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ có liên quan để xác

minh làm rõ.

Kết quả công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm trong đăng ký quản lý cư

trú của công dân đã đạt được nhiều kết quả, phục vụ tốt cho công tác quản lý

xã hội của Nhà nước và công tác nghiệp vụ của ngành Công an. Tuy nhiên,

công tác này cũng còn bộc lộ một số hạn chế: như việc kiểm tra, xử lý chỉ tập

trung theo đợt, theo sự chỉ đạo của Công an cấp trên; chưa xây dựng được kế

hoạch cụ thể ở từng địa bàn, với từng loại đối tượng ; hoạt động kiểm tra còn

mang nặng tính hành chính đơn thuần, chưa sử dụng quyền lực quản lý của

Nhà nước để xử lý kiên quyết đối với các trường hợp vi phạm.

Trong thời gian nghiên cứu, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã

phối hợp với các lực lượng Cảnh sát điều tra xử lý hình sự 23 vụ (chiếm 0,6%),

28 đối tượng (chiếm 0,9%), phối hợp trong thực hiện công tác quản lý đối với

các cư dân có tiền án, tiền sự, đối tượng trong diện quản lý, giáo dục tại xã,

phường, thị trấn. Phối hợp với Phòng hồ sơ nghiệp vụ trong công tác trích lục

hồ sơ, xác minh lý lịch, đính chính, bổ sung thông tin cho hàng vạn trường hợp.

Phối hợp cung cấp nhiều thông tin, quản lý cư dân có biểu hiện bất mãn, đối

tượng có liên quan đến các tổ chức phản động, chống phá chính quyền. Lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH phối hợp với Hội đồng phối hợp công tác phổ

biến giáo dục pháp luật của Bộ Công an và UBND thành phố tổ chức cuộc thi

tìm hiểu Luật Cư trú. Kết quả: Đã có 2.837 bài tham gia dự thi, qua chấm thi đã

có 6 giải thưởng được Ban tổ chức trao cho các tập thể và cá nhân.

2.2.2.5. Thực hiện công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, giải

quyết khiếu nại, tố cáo trong thực hiện công tác quản lý cư trú

Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp Đội đã trực tiếp

tiến hành việc sơ kết, tổng kết công tác năm trong đó đánh giá kết quả công tác

54

quản lývề cư trú; Đã hướng dẫn Công an phường trong tổ chức cho Cảnh sát

khu vực thực hiện việc sơ kết, tổng kết công tác, tổng kết đánh giá công tác

quản lý về cư trú gắn với địa bàn quản lý. Qua quá trình triển khai thực hiện

Luật cư trú, đã tổ chức việc rút kinh nghiệm trong giải quyết các công việc cụ

thể, tổ chức việc giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật.

Nổi bật trong thời gian nghiên cứu, năm 2017 lực lượng Cảnh sát

QLHC về TTXH đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Luật Cư trú để đánh

giá lại toàn bộ quá trình tiến hành công tác quản lý cư trú đối với công dân

trên địa bàn.

Năm 2017, Phòng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phối hợp với các đơn

vị có liên quan trong tổ chức Hội nghị sơ kết 01 năm thực hiện Chương trình

lịch số 13 về củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng Cảnh sát khu vực. Qua

đó đã đánh giá lực lượng CSKV, Chỉ huy Công an phường, cán bộ hướng dẫn

đã dược củng cố cơ bản đủ về số lượng, đã được trang bị bổ sung công cụ hỗ

trợ cho Cảnh sát khu vực, trang thiết bị làm việc đảm bảo CSKV hoàn thành

tốt nhiệm vụ được giao.

Để tăng cường công tác kiểm tra quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý

cư trú của Cảnh sát khu vực, trong 6 tháng đầu năm 2016 Công an thành phố

đã thành lập 04 Đoàn công tác tiến hành phúc tra chất lượng thông tin nhân

khẩu trong Hệ cơ sở dữ liệu dùng chung của Công an Thành phố. Tiếp tục triển

khai công tác rút kinh nghiệm quá trình xây dựng Hệ cơ sở dữ liệu dùng chung.

Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đều tổ chức tổng kiểm

tra định kỳ hộ khẩu. Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá định kỳ về kết quả

công tác của lực lượng Cảnh sát khu vực trong đó kiểm tra về công tác quản

lý cư trú là một nội dung quan trọng. Trong quá trình tiến hành, lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH, các đơn vị đã tiến hành việc giải quyết các trường

hợp khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú. Qua

55

quá trình sơ kết, tổng kết các chuyên đề chuyên môn, giải quyết khiếu nại, tố

cáo trong công tác quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã tiến

hành đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác, chấn chỉnh, hướng dẫn lực lượng

Công an cơ sở trong thực hiện các nội dung công tác. Trao đổi, tìm ra hướng

giải quyết đối với các vấn đề mới, các vấn đề nảy sinh. Cũng thông qua nội

dung này, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã biểu dương, khen thưởng

những Cảnh sát khu vực giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao, có những thành

tích xuất sắc trong công tác quản lý cư trú.

2.3. Đánh giá chung.

2.3.1. Những kết quả đạt được

- Thực hiện tốt công tác triển khai Luật Cư trú và các văn bản hướng

dẫn thi hành

Quá trình tổ chức thực hiện Luật Cư trú trên địa bàn quận Long Biên

thành phố Hà Nội đã cho thấy sự triển khai nghiêm túc, hiệu quả của các cơ

quan, ngành, UBND, Công an các cấp. Công an quận đã tham mưu UBND

chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi việc triển khai, thực hiện Luật Cư trú đạt nhiều

kết quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tiến hành rộng rãi,

hiệu quả, qua đó đã nâng cao nhận thức pháp luật về cư trú của các cơ quan,

tổ chức và của người dân.

Bên cạnh đó, thông qua triển khai tập huấn Luật Cư trú, Công an các

cấp trên địa quận đã có chuyển biến tích cực cả về nhận thức, trách nhiệm và

phương pháp tổ chức thực hiện, nhất là những đổi mới về ý thức phục vụ

nhân dân của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác đăng ký, quản lý cư trú.

Do đó, ngoài nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm,

nhiều địa phương đã thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung, yêu cầu cải

cách hành chính trong đăng ký, quản lý cư trú.

Thông qua việc triển khai các biện pháp đăng ký cư trú, một số lượng lớn

56

hộ, nhân khẩu đã được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, cấp sổ hộ khẩu, sổ

tạm trú theo quy định, tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền, lợi ích

khác theo pháp luật, giải quyết những bức xúc cho nhiều người về vấn đề cư trú.

Qua công tác đăng ký, quản lý cư trú đã cung cấp kịp thời tình hình số liệu về

nhân, hộ khẩu giúp cho cấp ủy, chính quyền và các ngành có liên quan xây dựng

các kế hoạch, chỉ tiêu kinh tế, xã hội, dự toán phân bổ ngân sách, bố trí cơ cấu

cán bộ,… đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế địa phương.

Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH phối hợp quản lý chặt

các đối tượng trong diện quản lý, giáo dục tại địa bàn cơ sở, nắm chắc tâm tư,

nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm

bảo an toàn tuyệt đối các ngày lễ lớn của Đảng, Nhà nước và dân tộc, các hoạt

động chính trị, văn hóa xã hội, thể thao của Trung ương và địa phương.

- Kết quả công tác đăng ký, quản lý cư trú góp phần phòng ngừa, đấu

tranh chống tội phạm giữ gìn ANTT

Thông qua công tác đăng ký, quản lý cư trú lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ khác bổ sung, củng cố hồ sơ

tài liệu các loại đối tượng quản lý. Quận xác định hiện có 422 đối tượng theo

chức năng quản lý của Cảnh sát QLHC về TTXH, trong đó: 322 đối tượng tù

tha, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, chấp hành xong án treo, cơ sở cai

nghiện bắt buộc được tha về; 100 đối tượng tệ nạn xã hội.

Thông qua công tác kiểm tra tạm trú, tạm vắng đã phát hiện bắt 36đối

tượng truy nã, đối tượng trốn trường, trại, bắt đối tượng thi hành án, bắt đối

tượng đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh. Thông qua

công tác đăng ký, quản lý cư trú, lực lượng CSKV đã nắm hàng chục nghìn

tin có liên quan đến ANTT góp phần phát hiện, giải quyết vụ việc phạm pháp

hình sự, tệ nạn xã hội. Đáng chú ý, qua công tác ĐKQL quản lý cư trú đã phát

hiện, cung cấp thông tin cho lực lượng an ninh phát hiện kịp thời các đối

57

tượng, các thế lực thù địch chống phá Đảng, nhà nước và cung cấp cho chính

quyền các cấp giải quyết kịp thời các điểm nóng phức tạp về an ninh nông

thôn như tranh chấp khiếu kiện, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,… góp phần

hạn chế sự gia tăng các loại tội phạm và hành vi vi phạm TTATXH trên địa

bàn quận.

- Kết quả công tác đăng ký, quản lý cư trú đảm bảo ANTT trên địa bàn

Thông qua công tác quản lý cư trú, Công an các phường đã đồng bộ

triển khai các nội dung đăng ký, quản lý như: thường trú, tạm trú, tạm vắng,

thông báo lưu trú. Kết quả đăng ký, quản lý cư trú đã phục vụ tích cực việc

thực hiện các quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; quy định

về điều kiện ANTT đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; về

đăng ký và quản lý, sử dụng con dấu; về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt

pháo và lồng ghép vào nhiều chương trình kinh tế - xã hội khác. Qua công tác

đăng ký, quản lý cư trú đã giúp cho Công an các cấp xác định được 26 khu

vực giáp ranh phức tạp về ANTT; thường xuyên tổ chức kiểm tra tạm trú, lưu

trú tại những địa bàn phức tạp về ANTT, các cơ sở kinh doanh có điều kiện

phức tạp về ANTT.

Qua quản lý cư trú nắm được những người tốt, có điều kiện từ đó làm cơ

sở cho việc lựa chọn người tham gia vào các tổ chức bảo vệ ANTT tại cơ sở,

góp phần tích cực trong công tác phát động quần chúng tham gia bảo vệ an

ninh tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Trong những năm qua, các tổ

chức bảo vệ ANTT tại cơ sở đã phối hợp tuyên truyền, vận động, nhân dân

giao nộp hàng trăm vũ khí thô sơ, hàng ngàn bánh pháo, cây pháo các loại, tự

giác di chuyển hàng trăm lều quán lấn chiếm vỉa hè; cùng lực lượng Công an

tại cơ sở tuần tra, phát hiện, đề nghị xử lý các trường hợp vi phạm các quy định

về thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng và các vi phạm khác về QLHC về

TTXH khác; tham mưu xây dựng các quy tắc, nội quy, quy ước bảo vệ ANTT

58

tại địa bàn dân cư; tham mưu giải quyết hàng trăm vụ việc có liên quan đến

ANTT tại địa bàn dân cư, hòa giải các tranh chấp trong nội bộ nhân dân.

2.3.2. Những hạn chế.

- Tinh thần trách nhiệm, việc chấp hành các quy định, yêu cầu trong

công tác quản lý cư trú chưa đáp ứng được yêu cầu

Sự nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của các cấp, các ngành trong

công tác quản lý cư trú chưa đầy đủ, thậm chí có nhiều nơi cho đây là việc của

cơ quan Công an; chưa thấy hết đây là biện pháp quan trọng của Nhà nước để

quản lý xã hội, giữ gìn ANTT nên trong quá trình triển khai thực hiện đã phát

sinh những vấn đề khó khăn, vướng mắc nhưng chưa được phát hiện, giải

quyết kịp thời. Tình trạng cán bộ, chiến sĩ vi phạm quy định trong quá trình

công tác, nhũng nhiễu, gây khó khăn, kéo dài thời gian giải quyết giấy tờ, nhận

tiền từ người dân nhằm giải quyết các thủ tục hành chính vẫn còn diễn ra.

- Trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân về các

quy định liên quan đến công tác quản lý cư trú chưa cao, còn nhiều sai phạm

trong cư trú

Hoạt động tuyên truyền chủ yếu dừng lại ở một số băng rôn, khẩu hiệu

nhỏ tại các khu dân cư hay CSKV gặp gỡ tại nhà, tại buổi họp dân phố, hình

thức, cường độ như trên là chưa phù hợp. Mặt khác, do còn nhiều cán bộ, chiến

sĩ Cảnh sát QLHC về TTXH thiếu kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý

cư trú dẫn đến rụt rè trong công tác tuyên truyền, tuyền truyền chưa sâu, nội

dung chưa đủ. Đối tượng tuyên truyền chủ yếu là công dân thường trú, trong

khi một bộ phận lớn là người lao động, học sinh sinh viên, khách lưu trú lại

thiếu sự chú trọng. Khi người dân vi phạm thường chỉ tập trung kiểm tra, xử lý

vi phạm mà gần như chưa thực hiện công tác tuyên truyền. Do đó, mức độ

nhận thức của người dân về các quy định của pháp luật về cư trú còn hạn chế,

vẫn còn nhiều sai phạm trong quá trình thực hiện hoạt động cư trú.

59

- Hệ thống các văn bản pháp lý cho công tác quản lý cư trú chưa thống

nhất, đầy đủ, vẫn còn nhiều bất cập

Trong quá trình thực hiện quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH phải vận dụng nhiều văn bản khác nhau, mỗi văn bản có đối tượng

điều chỉnh riêng. Trong thực tế, có nhiều tình huống phức tạp, vấn đề mới nảy

sinh nhưng chưa được quy định chặt chẽ dẫn đến các đơn vị, địa phương

không dám làm vì sợ trách nhiệm. Mặt khác, nhiều quy định của nhà nước

không còn phù hợp với thực tế cuộc sống hoặc có nhiều vướng mắc nhưng

không được xử lý kịp thời. Hệ thống các văn bản pháp lý vẫn còn nhiều lỗ

hổng dẫn đến tình trạng người dân, cán bộ lợi dụng để thực hiện hành vi trái

pháp luật nhằm mục đích trục lợi.

- Việc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ chưa đảm bảo yêu cầu nắm

tình hình, quản lý cư trú, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

Mặc dù các biện pháp nghiệp vụ đã được lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH khai thác, sử dụng tuy nhiên vẫn còn những tồn tại như hướng dẫn

trong công tác nghiệp vụ cơ bản chưa thực sự chặt chẽ, một bộ phận CBCS

vẫn còn tư tưởng xem nhẹ vai trò của các biện pháp nghiệp vụ. Nhiều địa bàn

hiện nay chưa được điều tra cơ bản, bổ sung thông tin địa bàn. Công tác sưu

tra vẫn còn nhiều lỗ hổng, vẫn còn tình trạng bỏ sót đối tượng. Việc xây dựng

sử dụng cơ sở bí mật vẫn còn nặng tính hình thức, việc lựa chọn, khai thác, sử

dụng chưa hiệu quả.

- Hệ thống trang thiết bị, phương tiện quản lý cư trú hiện nay về cơ bản

vẫn còn lạc hậu, thủ công

Hầu như tất cả các đơn vị, CBCS Cảnh sát QLHC về TTXH hiện nay

vẫn đang sử dụng, kế thừa các phương pháp truyền thống như làm bằng tay,

sổ sách, giấy tờ. Trong đăng ký, quản lý cư trú ở một số địa phương còn hạn

chế, nhiều nơi làm còn hình thức, chưa đáp ứng đầy đủ nội dung, yêu cầu

60

công tác cải cách, vẫn khó khăn, phiền hà cho nhân dân. Tại một số địa

phương, việc tổ chức thực hiện các quy định mới của Luật Cư trú và các văn

bản hướng dẫn thi hành có thời điểm chưa thực sự đầy đủ, nghiêm túc, nhất là

ở cấp cơ sở; việc kiểm tra và xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú cũng

chưa thường xuyên, kịp thời. Sự quản lý với mô hình thủ công sẽ dẫn đến thất

lạc hồ sơ, sai sót nhiều, thời gian giải quyết các thủ tục kéo dài, ẩm mốc, mờ

thông tin trong hồ sơ lưu.

2.3.3 Nguyên nhân của hạn chế.

- Nhận thức, trình độ của một bộ phận cấp ủy, chính quyền, lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH chưa thực sự tiến bộ

Bản thân một bộ phận cấp ủy, chính quyền, cán bộ chỉ huy và lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH còn coi nhẹ công tác quản lý cư trú nên chưa thực

sự đầu tư, tập trung quyết liệt vào hoàn thiện hệ thống cơ chế, thắt chặt công

tác quản lý, chỉ đạo CBCS thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Đặc biệt, tầm

nhìn trong đổi mới phương thức, biện pháp, ứng dụng công nghệ thông tin,

cải cách hành chính còn chưa thực sự được quan tâm thường xuyên. Việc thực

hiện công tác chỉ đạo, công tác quản lý còn mang tính hình thức, chưa chú

trọng vào chất lượng, hiệu quả thực hiện. Một số đồng chí chỉ huy công tác

quản lý cư trú nhưng vẫn có tư tưởng bảo thủ, không chịu đổi mới. Một bộ

phận lãnh đạo chỉ đạo, cán bộ Cảnh sát QLHC về TTXH chất lượng công tác

hạn chế, không có trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm công tác, chưa

làm chủ được các phần mềm, kỹ năng tin học yếu. Nguyên nhân đó dẫn đến

việc làm ẩu, làm chủ quan, qua loa đại khái, cán bộ vi phạm quy định của

ngành, quy định của pháp luật, thậm chí một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư

tưởng đi ngược lại so với các chủ trương đổi mới, tiến bộ trong công tác quản

lý. Bản thân một số cán bộ, chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ vẫn có thái độ bỏ

mặc địa bàn, làm việc thiếu quyết tâm, tâm huyết, chạy theo thành tích, thiếu

61

chú trọng về nội dung, chất lượng công tác.

- Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về cư trú ở một số địa bàn

còn đơn giản, chưa có tính đột phá

Nhiều nơi chỉ tập trung tuyên truyền trước thời điểm Luật Cư trú có hiệu

lực thi hành, mới tổ chức tuyên truyền những quy định của Luật mà chưa đi sâu

giải đáp những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mà người dân quan tâm

trong đăng ký cư trú. Do vậy, một bộ phận quần chúng nhân dân nhận thức

chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình trong cư trú, ý thức chấp hành

pháp luật về cư trú chưa thật sự nghiêm túc. Hình thức tuyên truyền vẫn còn

nghèo nàn, chủ yếu dựa vào các hình thức cũ, lạc hậu, kém hiệu quả. Nội dung

tuyên truyền đơn giản, chưa đi đúng nội dung, yêu cầu của tình hình thực tế.

Chưa áp dụng các biện pháp mới trong công tác tuyên truyền như mạng

Internet, phim tuyên truyền, phối hợp giữa các lực lượng, đơn vị, tổ chức chính

trị - xã hội để tuyên truyền. Cán bộ, chiến sĩ vẫn nặng tư tưởng quan liêu, coi

việc người dân là người phụ thuộc nên có xu hướng kéo sự thuận lợi về phía cơ

quan Công an, đẩy sự bất lợi, khó khăn về phía người dân.

- Hệ thống các văn bản quản lý cư trú hiện nay, đặc biệt là các văn bản

hướng dẫn chưa được quan tâm xây dựng, thực hiện rộng rãi, công tác hướng

dẫn thống nhất chưa rõ ràng

Trách nhiệm trước hết từ Cục nghiệp vụ có liên quan, Phòng Cảnh sát

QLHC về TTXH. Trong nhiều trường hợp Cục, Phòng, Chỉ huy Đội, Chỉ huy

Công an Phường chưa có hướng dẫn rõ ràng dẫn đến cán bộ, chiến sỹ không

dám thực hiện. Các trường hợp khó như người gốc Hà Nội chưa được nhập hộ

khẩu, con lai được đưa từ nước ngoài về, xác định chỗ ở hợp pháp,... trong

thời gian dài chưa có sự hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó khăn trong công tác

triển khai thực hiện. Cũng do thiếu hệ thống văn bản hướng dẫn dẫn tới hồ sơ,

thủ tục giải quyết công việc ở các đơn vị, địa phương còn có sự khác nhau

62

tương đối. Phần mềm chuyên dụng phục vụ công tác quản lý cư trú đối với

công dân đã được triển khai thực hiện, tuy nhiên các vướng mắc khi được đề

nghị giải đáp, hướng dẫn vẫn còn chậm.

- Quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú vẫn thực hiện dàn trải,

thiếu trọng tâm, trọng điểm, một số tồn tại kéo dài nhưng chưa được giải

quyết kịp thời

Thực tế cho thấy, mỗi một nội dung công tác, ở các giai đoạn thời gian

cụ thể có sự tăng giảm, tính chất phức tạp khác nhau, trong khi việc quản lý

nếu thực hiện dàn trải sẽ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ quản lý. Ví

dụ: Thời gian gần đây, số lượng người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên

đến Hà Nội rất nhiều, đi lại, cư trú trên các địa bàn phức tạp nhưng chưa được

tập trung quản lý chặt chẽ; các thời điểm có nhiều khách du lịch, trong khi việc

huy động các lực lượng khác tham gia hỗ trợ lại khó khăn, dẫn đến tình trạng

quá tải. Một số vấn đề tồn tại từ nhiều năm nhưng chưa được giải quyết triệt để

như việc quản lý hộ, nhân khẩu sinh sống trên mặt nước, con lai.

- Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý cư trú chưa được

đầu tư, quan tâm thực hiện thỏa đáng

Mặc dù lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã thực hiện sự chỉ đạo

của CATP trong tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản

lý cư trú, đặc biệt việc khai thác, sử dụng phần mềm quản lý dữ liệu dân cư.

Tuy nhiên, chưa thu được kết quả cao, vẫn còn nhiều lỗi, chưa triển khai đồng

bộ, đặc biệt trong thực hiện thủ tục hành chính về cư trú còn nhiều thủ tục,

giấy tờ, người dân còn mất nhiều thời gian đi lại, chờ đợi. Việc tra cứu thông

tin về hộ khẩu, nhân khẩu phục vụ quản lý xã hội cho nhà nước và phòng

ngừa đấu tranh chống tội phạm còn chưa kịp thời, thường xuyên. Việc giải

quyết các thủ tục còn mang tính thủ công dẫn đến các vấn đề bất cập như lãng

phí thời gian, nhân lực, mất, thất lạc dữ liệu.

63

- Tình hình di dân cơ học, lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên,

khách du lịch đến quận ngày càng nhiều, đa dạng về mục đích, nơi cư trú

Hà Nội với vị trí là Thủ đô, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội của cả nước. Hàng năm, đón nhận hàng triệu lượt khách du lịch từ nước

ngoài, trong nước, người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên cư trú có

thời hạn đến địa bàn quận Long Biên nói riêng và thành phố Hà Nội nói

chung để thăm quan, làm việc, học tập, khám chữa bệnh,... gây áp lực lớn cho

lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý chặt chẽ tình hình cư trú,

đi lại của công dân. Số lượng người đến, đi trong ngày diễn ra thường xuyên.

Cùng với đó là trình độ dân trí, ý thức pháp luật về cư trú của một bộ phận

không nhỏ quần chúng còn hạn chế. Với tình hình, sự biến động đó đang gây

nên khó khăn lớn cho lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý tốt

64

tình hình cư trú trong phạm vi địa bàn được phân công quản lý.

Kết luận chương 2

Trong nội dung của chương 2, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ các

vấn đề liên quan đến công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên

thành phố Hà Nội như tình hình địa lý, dân cư, tình hình kinh tế xã hội, tình

hình về ANTT; phân tích sâu về tình hình cư trú của công dân trên địa bàn

quận Long Biên thành phố Hà Nội theo hướng các nội dung đăng ký, quản lý

như thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắn, công tác điều chỉnh thông tin cư trú,

xây dựng hệ thống tàng thư dân cư, các vấn đề xoay quanh công tác quản lý

cư trú đối với công dân; nghiên cứu làm rõ về thực trạng tình hình tổ chức

biên chế lực lượng; những thuận lợi, khó khăn trong công tác tổ chức của

Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp Đội; lực lượng CSKV từ tháng 01 năm 2014

đến hết tháng 6 năm 2018 để thực hiện nhiệm vụ quản lý về cư trú; phân tích

thực trạng công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà

Nội. Qua đó, phân tích những thuận lợi, khó khăn, tồn tại đồng thời làm rõ

nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên.

Những vấn đề được làm rõ trong Chương 2 là tiền đề, cơ sở quan trọng

để đánh giá đúng tình hình cư trú, quản lý cư trú trên địa bàn; làm cơ sở để

đưa ra những dự báo chính xác về tình hình có liên quan trong thời gian tiếp

theo, đưa ra các giải pháp cụ thể, đúng hướng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội

gắn với hoạt động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, lực lượng Cảnh

65

sát khu vực.

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA

LỰCLƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ

HỘI TRONG QUẢN LÝ CƯ TRÚ - TỪ THỰC TIỄNQUẬN

LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phương hướng nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.

Qua quá trình thực hiện quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo

đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố trong tình hình mới,

đảm bảo quản lý cư trú một cách khoa học, hiệu quả.

Nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý

cư trú góp phần rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ Công an các cấp,

tăng cường cho Công an cơ sở, bồi dưỡng cho cán bộ chiến sỹ về kiến thức

pháp luật, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp, có tinh thần

trách nhiệm trước công việc và nhân dân. Nâng cao ý thức về vị trí tầm quan

trọng của công tác quản lý cư trú đến toàn thể cán bộ chiến sỹ trong lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH, trong đó xác định rõ vai trò trách nhiệm của cấp

ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện.

Thông qua các giải pháp về hoàn thiện công tác quản lý cư trú, góp

phần tuyên truyền sâu rộng về Luật cư trú và các văn bản hướng dẫn, nâng

cao nhận thức và ý thức chấp hành của công dân và cơ quan tổ chức; góp

phần đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, xây dựng xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh.

Nghiên cứu cải tiến, góp phần hoàn thiện nội dung, biện pháp công tác

66

đăng ký, quản lý cư trú đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, yêu

cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong từng giai đoạn, gắn việc thực hiện

đăng ký, quản lý cư trú với công tác cải cách hành chính, nâng cao chất lượng

phục vụ nhân dân, làm tốt công tác nắm tình hình hộ, người, di biến động của

các loại đối tượng, phục vụ hiệu quả công tác đăng ký, quản lý cư trú nói

riêng và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tệ nạn xã hội nói chung;

kịp thời giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân về cư trú, không để xảy ra

tình trạng khiếu nại, phức tạp.

Đảm bảo đầy đủ về kinh phí, trang bị máy móc, phương tiện có trọng

tâm, trọng điểm, nhằm từng bước thực hiện lộ trình tin học hóa công tác đăng

ký, quản lý cư trú, phục vụ yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an nói riêng và

yêu cầu quản lý xã hội nói chung.

3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý

hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại địa bàn quận Long

Biên thành phố Hà Nội

3.2.1. Sửa đổi luật cư trú các văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt

động tác quản lý cư trú.

Thứ nhất, cải cách về thể chế liên quan đến công tác quản lý cư trú

Hệ thống các văn bản pháp lý khi được tính toán xây dựng cần chú

trọng vào việc giảm thiểu hệ thống các thủ tục. Tập trung xác định rõ trách

nhiệm của các cấp, các đơn vị trong thực hiện công tác quản lý cư trú. Cần tập

trung khắc phục các văn bản cũ, hoàn thiện các văn bản để đáp ứng yêu cầu

quản lý đối với các vấn đề mới nảy sinh.

Hoàn thiện các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,

tổ chức bộ máy của các lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, Cảnh sát đăng

ký, quản lý cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cảnh sát khu vực.

Bên cạnh đó, hiện nay, nhiều trường hợp người dân khiếu nại về quá

67

trình giải quyết các thủ tục về cư trú nhưng vẫn chưa được giải quyết thỏa

đáng, xử lý đối với cán bộ vi phạm chưa thực sự nghiêm, ảnh hưởng đến uy

tín của cơ quan, chưa đủ sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong thời gian tiếp

theo. Do đó, cần chú trọng hoàn thiện các quy định về chế tài xử lý hành

chính cả các hành vi vi phạm của công dân, cả đối với cán bộ, chiến sĩ vi

phạm quy định.

Những trường hợp vướng mắc trên thực tế như con lai do mẹ đưa từ

nước ngoài về, trường hợp không có hồ sơ, giấy tờ gốc để đăng ký thường trú,

trường hợp vợ chồng ly hôn nhưng do bất đồng quan điểm nên không phối

hợp trong việc tách sổ,... đang gây khó khăn cho công tác triển khai thực hiện,

giải quyết yêu cầu của công dân. Xem xét tính thực tế của các chế định về

quản lý thông tin lưu trú với thực tiễn khó khăn trong việc giám sát thực hiện

để có những điều chỉnh phù hợp hơn.

Thứ hai, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp

luật làm căn cứ cho công tác quản lý cư trú

Hiện nay các quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn thiếu đồng bộ,

chồng chéo, mâu thuẫn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Cụ thể:

Thứ nhất, theo quy định của Luật Cư trú, cơ quan Công an có thẩm

quyền đăng ký thường trú được quy định như sau: Đối với địa bàn các thành

phố trực thuộc Trung ương thì nộp hồ sơ tại Công an quận, huyện, thị xã; đối

với địa bàn các tỉnh thì nộp hồ sơ tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện; Công

an thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Quy định này hoàn toàn phù hợp với địa bàn

nông thôn, khi mà điều kiện đường xá, giao thông đi lại hết sức khó khăn,

nhiều xã cách quá xa trung tâm huyện. Việc phân cấp cho Công an xã,

phường tiếp nhận, thẩm định giải quyết đăng ký thường trú là hoàn toàn phù

hợp. Khi nghiên cứu nội dung, phương pháp đăng ký, quản lý cư trú ở nước ta

cho thấy: đăng ký cư trú là khâu mở đầu, là cơ sở thông tin và căn cứ pháp lý

68

để tiến hành các biện pháp quản lý cư trú cho phù hợp. Nếu gắn kết được giữa

khâu đăng ký và quản lý về cùng một cấp cơ quan sẽ phát huy được tối đa tác

dụng nghiệp vụ của công tác này. Do vậy, nên chăng trong thời gian tới, Luật

Cư trú cần tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng ký thường trú tại các thành

phố, thị xã xuống cho Công an các phường, xã, thị trấn. Việc phân cấp này,

vừa tạo thuận tiện cho công dân khi làm thủ tục đăng ký thường trú, vừa gắn

kết được tác dụng nghiệp vụ của hoạt động hành chính trong đăng ký thường

trú với việc tiến hành các biện pháp quản lý nhân, hộ khẩu thường trú của lực

lượng lượng CSKV.

Thứ hai, chưa thống nhất trong cách hiểu về nội dung của công tác

đăng ký, quản lý cư trú. Tại Điều 1 Luật Cư trú quy định: “Cư trú là việc công

dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức

thường trú hoặc tạm trú”. Theo quy định này, công tác đăng ký, quản lý việc

cư trú được hiểu gồm 2 nội dung là: Đăng ký, quản lý thường trú và đăng ký,

quản lý tạm trú. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 31/2014/NĐ-CP

có quy định về hộ khẩu theo Luật Cư trú, bao gồm các nội dung sau: a) Đăng

ký, quản lý thường trú; b) Đăng ký, quản lý tạm trú; c) Thông báo lưu trú; d)

Khai báo tạm vắng [8,tr.13]. Như vậy, nội dung quy định này thực chất là quy

định về hộ khẩu. Hộ khẩu là một phương thức quản lý nhân khẩu của một số

quốc gia tại Á Đông. Trong phương thức này, đơn vị quản lý xã hội là hộ gia

đình, tập thể do một chủ hộ chịu trách nhiệm. Sổ hộ khẩu do cơ quan công an

cấp. Khi sinh ra, con được nhập theo hộ khẩu của cha mẹ. Hộ khẩu có liên

quan đến các quyền lợi khác như: phân chia ruộng đất, nhà ở, lương thực,

thực phẩm, việc làm, giấy tờ, tiêu chuẩn điện nước, trường học...Khi thay đổi

chỗ ở, người dân phải thực hiện thủ tục thay đổi hộ khẩu. Với người dân nhập

cư vào thành phố, việc thay đổi hộ khẩu này còn được gọi là nhập hộ khẩu.

Hệ thống hộ khẩu hiện nay tồn tại ở các nước: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật

69

Bản, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Sổ hộ khẩu đơn giản chỉ là giấy chứng

nhận đăng ký thường trú của các hộ gia đình. Với mỗi quốc gia, việc đăng ký

thường trú của công dân tại địa phương là cần thiết, không chỉ để quản lý cư

trú mà còn để công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và hưởng các

quyền lợi của mình tại địa phương đăng ký.

Thứ ba, chưa có sự phân biệt về điều kiện đăng ký thường trú áp dụng

đối với công dân ngoại tỉnh với công dân ở ngoại thành khi đăng ký thường

trú vào các quận nội thành. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 20 Luật Cư trú, quy định

nếu công dân: “Có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ

một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá

nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn

bản;” [40, tr.36] thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung

ương. Điểm b khoản 1 và khoản 4 Điều 8 Nghị định 31/2014/NĐ-CP quy

định về thời gian tạm trú để được đăng ký thường trú trên địa bàn thành phố

trực thuộc Trung ương, mà theo đó:

- Tạm trú liên tục từ 1 năm trở lên tại thành phố trực thuộc trung ương

đối với trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực

thuộc trung ương đó.

- Tạm trú liên tục 2 năm trở lên đối với trường hợp đăng ký thường trú

vào quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.

- Theo khoản 4 Điều 19 Luật Thủ đô Công dân thuộc một trong các

trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú ở nội thành:

a) Các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 20 của Luật cư trú;

b) Các trường hợp không thuộc điểm a khoản này đã tạm trú liên tục tại

nội thành từ 3 năm trở lên, có nhà ở thuộc sở hữu của mình hoặc nhà thuê ở

nội thành của tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhà ở; đối với nhà thuê

phải bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định củaHội đồng

70

nhân dân thành phố Hà Nội và được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức, cá

nhân có nhà cho thuê cho đăng ký thường trú vào nhà thuê [40,tr.29].

Với quy định về điều kiện thời gian công dân đăng ký tạm trú để được

đăng ký thường trú tại các quận nội thành, việc công dân trước đó có hộ khẩu

thường trú ở tỉnh ngoài hay hộ khẩu tại ngoại thành của thành phố trực thuộc

trung ương đó đều là như nhau. Trong khi đó, công dân ở tỉnh ngoài muốn

nhập hộ khẩu thường trú vào các địa bàn ngoại thành của thành phố trực

thuộc trung ương phải tạm trú tại địa phương đó từ đủ 1 năm trở lên. Từ thực

tế đó, cần thiết có sự phân biệt giữa hai trường hợp vừa nêu dưới góc độ điều

kiện đăng ký thường trú để đánh giá đúng tính chất cư trú, cũng như các tác

động về sức ép dân số đối với các thành phố trực thuộc Trung ương nói

chung.

Thứ tư, bất cập trong một số trường hợp xóa đăng ký thường trú.Theo

quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Cư trú, quy định về những trường hợp xóa

đăng ký thường trú. Qua nghiên cứu thấy rằng, trường hợp công dân đã đăng

ký thường trú mà ra nước ngoài định cư, Luật Cư trú hiện hành không quy

định cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý xuất nhập cảnh với Cảnh sát Quản

lý hành chính về trật tự xã hội. Do đó, cơ quan quản lý thường trú công dân

không có cơ sở để làm thủ tục xóa đăng ký thường trú. Dẫn tới việc hồ sơ

quản lý thường trú công dân vẫn có, song thực tế, công dân lại không sinh

sống tại Việt Nam. Cũng tương tự như vậy đối với trường hợp công dân

chuyển đi nơi khác nhưng không làm thủ tục chuyển hộ khẩu, hoặc người

đang chấp hành án phạt tù chung thân tại các trại giam cũng không thuộc diện

xóa đăng ký thường trú, dù rằng theo quy định về việc giảm án tha tù, những

người đang chấp hành án chung thân vẫn có cơ hội trở về tái hòa nhập với

cộng đồng, nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLHS, họ phải bảo đảm

chấp hành án thời hạn thực tế là 20 năm. Nghĩa là trong suốt thời gian 20 năm

71

phải chấp hành án, họ không có mặt tại địa phương nơi đã đăng ký thường

trú, điều này dẫn tới sự khác biệt giữa quản lý hồ sơ và quản lý thực tế việc

công dân cư trú.

Thứ năm, Luật Cư trú cũng chưa quy định cụ thể về cách hiểu và áp

dụng đối với cụm từ “thường xuyên sinh sống”. Theo quy định tại khoản 1

Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP: “Mỗi công dân chỉ được đăng ký thường

trú tại một chỗ ở hợp pháp và là nơi thường xuyên sinh sống”. Vậy hiểu như

thế nào là thường xuyên? Vì quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định

31/2014/NĐ-CP, công dân chỉ được đăng ký thường trú tại một nơi ở, mà nơi

đó là chỗ ở hợp pháp và cũng là nơi công dân đó thường xuyên sinh sống. Rõ

ràng các điều kiện mà nhà làm luật đưa ra trong quy định vừa nêu có mối

quan hệ bắt cầu và bổ sung cho nhau, điều kiện này là tiền đề của điều kiện

kia, nếu thiếu một trong hai điều kiện đã nêu thì không thể thỏa quy định tại

khoản 1 Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP.Trong khi đó, cụm từ “thường

xuyên sinh sống” chưa được giải thích cụ thể và chỉ là yếu tố định tính, dẫn

tới cách hiểu và cách áp dụng ở mỗi địa phương là không giống nhau. Có nơi

coi việc công dân mỗi tháng cư trú 2 - 3 tuần là thỏa mãn quy định “thường

xuyên sinh sống”, nhưng cũng có nơi lại quy định công dân phải cư trú tuy

không liên tục, nhưng ít nhất từ 09 tháng trở lên trong một năm mới được coi

là “thường xuyên sinh sống”. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 5

Nghị định 31/2014/NĐ-CP trường hợp của anh A trong ví dụ trên, anh ấy có

nơi thường trú không? Và trong thực tế hiện nay, trường hợp như anh A là rất

và rất phổ biến. Do vậy, để giúp lực lượng công an tại địa phương thực hiện

nhiệm vụ đăng ký, quản lý việc cư trú của công dân nói chung được thuận lợi

và thống nhất khi áp dụng, rất cần quy định cụ thể vấn đề này [6, tr.15].

Đối với các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký quản lý cư trú cần

sửa đổi một số nội dung, cần thống nhất các quy định liên quan đến thủ tục

72

đăng ký và quản lý cư trú giữa các luật với nhau: hiện nay các quy định liên

quan đến thủ tục đăng ký, quản lý, cư trú còn rời rạc, tách riêng, không gắn

kết với quy định pháp luật về đất đai, nhà ở...

Sự thiếu hụt khung pháp lý về quản lý nhà nước về cư trú làm phát sinh

nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách dân cư, chiến lược phát triển đô

thị và quy mô quy hoạch nhà ở. Các thủ tục đăng ký còn gặp nhiều rào cản

của các cơ quan chuyên ngành khác. Hoàn thiện pháp luật nội dung sẽ hạn

chế được những khó khăn, vướng mắc trong đăng ký quản lý cư trú, đồng thời

cũng sẽ giúp cho cơ quan tham mưu có cơ sở pháp lý để thực thi thống nhất,

đồng bộ khi xem xét giải quyết đăng ký, quàn lý cư trú. Cần bổ sung chức

năng, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về cư trú một cách rõ

ràng, tránh sự chồng chéo mâu thuẫn giữa chúng. Trong đó, xác định thẩm

quyền của UBND từng cấp, đặc biệt là thẩm quyền ban hành các văn bản

quản lý nhà nước về cư trú phù hợp đặc điểm hoàn cảnh của từng địa phương

nhưng không trái luật và cũng không làm hạn chế về quyền tự do cư trú, đảm

bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Như vậy mới phát huy

được hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú, phục vụ nhu cầu phát triển

kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội, đảm bảo được an ninh chính trị và trật tự

an toàn xã hội.

3.2.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện.

Giữa hệ thống pháp luật về đăng ký, quản lý cư trú theo Luật Cư trú

hiện hành và các quy định về điều kiện và thủ tục đăng ký thường trú ở nội

thành Hà Nội theo Luật Thủ đô 2012 có nhiều điểm khác biệt theo hướng thu

hẹp hơn điều kiện đăng ký thường trú vào khu vực nội thành so với khu vực

ngoại thành Hà Nội. Đến nay, Luật Thủ đô đã chính thức có hiệu lực, để các

quy định mới về đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội được áp dụng một

cách có hiệu lực, hiệu quả và thống nhất thì các cơ quan chức năng nhà nước

73

cần tiếp tục nghiên cứu, thống nhất một số vấn đề sau:

Cần hướng dẫn và thống nhất hóa các quy định về điều kiện, thủ tục

đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội. Đối với những trường hợp nhập nhờ

vào người có sổ hộ khẩu và có chỗ ở hợp pháp ở nội thành theo quy định tại

điểm a, khoản 4, Luật Thủ đô thì áp dụng theo pháp luật về cư trú. Như đã

phân tích ở trên, đối với những trường hợp này theo pháp luật về cư trú, công

dân sẽ không phải xuất trình giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp nhưng theo

Luật Thủ đô thì “có chỗ ở hợp pháp ở nội thành” lại là một điều kiện bắt buộc

để đăng ký thường trú cho những trường hợp này. Do vậy, để có cách hiểu

thống nhất ngay trong cùng một điều luật, thì cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cần hướng dẫn đối với những trường hợp đăng ký thường trú theo diện

chuyển về với người đang có hộ khẩu ở nội thành. Nên quy định đối với

những trường hợp này khi làm thủ tục đăng ký thường trú không cần phải

xuất trình giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp để thực sự phù hợp với pháp

luật về cư trú, vừa giảm bớt phiền hà, thủ tục cho công dân.

Đối với phạm vi điều chỉnh nơi đăng ký thường trú vào khu vực nội

thành cũng cần có cách hiểu thống nhất. Theo pháp luật về cư trú, những

trường hợp đăng ký thường trú theo Điều 20 Luật Cư trú chỉ áp dụng đối với

những người đang thường trú ở tỉnh ngoài chuyển về địa bàn các thành phố

trực thuộc Trung ương, không áp dụng đối với những trường hợp chuyển nơi

thường trú trong phạm vi thành phố trực thuộc Trung ương. Đến Luật Thủ đô

đã đưa ra những quy định riêng trong đăng ký thường trú vào khu vực nội

thành, nhưng trong Luật chưa chỉ rõ quy định này chỉ áp dụng đối với những

trường hợp chuyển từ tỉnh ngoài vào khu vực nội thành hay áp dụng cả đối với

những trường hợp thay đổi nơi thường trú từ ngoại thành và nội thành Hà Nội.

Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp “siết

chặt” điều kiện đăng ký thường trú trong việc kìm hãm tốc độ nhập cư tự phát

74

vào nội thành, nội thị Thủ đô, cũng như tại các thành phố trực thuộc Trung

ương. Tình trạng nhập cư với tốc độ nhanh từ nông thôn về thành thị nói

chung, vào khu vực nội thành Hà Nội nói riêng, phải thừa nhận đó là một quy

luật xã hội khách quan, tất yếu và việc kìm hãm, điều tiết luồng nhập cư này

cũng là trách nhiệm và chức năng của mọi Nhà nước. Hầu hết các nhà nghiên

cứu đều đồng ý với quan điểm: bên cạnh những chính sách xã hội ở tầm vĩ mô

đến những biện pháp vi mô, bên cạnh những “ưu tiên đầu tư và huy động các

nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội

đồng bộ, hiện đại, thuận tiện ở ngoại thành; phối hợp với các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương trong vùng Thủ đô và các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương khác phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm nhằm hạn

chế tình trạng di dân tự phát vào nội thành thì vai trò điều tiết của nhà nước

thông qua hệ thống chính sách pháp luật và công cụ quản lý là một nhân tố

vẫn giữ vai trò không nhỏ trong giai đoạn hiện nay. Chính sách pháp luật quy

định điều kiện rằng buộc khi đăng ký thường trú vào khu vực nội thành trong

chừng mực nào đó góp phần phân bố đồng đều mật độ dân cư của Thủ đô Hà

Nội. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp mang tính hành chính này trong thực

tiễn nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là công cụ giảm nhập cư “trên giấy”, tức là

hạn chế số người được đăng ký hộ khẩu thường trú, chứ hoàn toàn không hạn

chế được số người chuyển về nội thành sinh sống. Người dân đã, đang và sẽ

còn kéo đến sinh sống ở nơi nào mưu sinh tốt hơn, mà không hề quan tâm đến

việc có được ĐKHK thường trú hay không. Một mặt không chỉ vô nghĩa về

mặt hạn chế nhập cư, các biện pháp này còn sẽ gây khó khăn cho công tác

quản lý dân cư của cơ quan chức năng khi số người có hộ khẩu thường trú

một nơi nhưng thường xuyên sinh sống ở một nơi khác ngày một gia tăng. Có

lẽ bài toán về vấn đề nhập cư vào nội thành Hà Nội không phải là vấn đề một

ngày, hai ngày, của một cơ quan hay hai cơ quan mà trách nhiệm chung thuộc

75

về toàn xã hội.

Luật Quốc tịch 2008 đã và đang phát huy những vai trò quan trọng

trong bảo đảm việc thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tuy

nhiên, trong bối cảnh trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi, tình hình

di cư của một bộ phận người dân từ quốc gia này sang quốc gia khác, tình

hình người di cư tự do từ Việt Nam sang các nước láng giềng và ngược lại,

cũng như nhu cầu giải quyết các việc về quốc tịch Việt Nam của người dân ở

trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng..., đã phát sinh nhiều khó khăn,

vướng mắc như nguyên tắc xác định quốc tịch Việt Nam, vấn đề xác định

quốc tịch của trẻ em, việc công nhận và xử lý hệ quả của tình trạng hai quốc

tịch, một số thủ tục hành chính quy định tại Luật còn chưa minh bạch, chưa

bảo đảm tính khả thi, vấn đề cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam,... cần

được nghiên cứu một cách nghiêm túc, cũng như tham khảo kinh nghiệm của

nước ngoài để có hướng giải quyết, khắc phục, đáo ứng yêu cầu bảo đảm tốt

nhất quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực quốc tịch trên cơ sở

Hiến pháp năm 2013 và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết

tham gia.

Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các Thông tư hướng dẫn về công tác đăng

ký, quản lý cư trú theo hướng thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc cải cách

thủ tục hành chính, giảm phiền hà, tiêu cực trong công tác đăng ký, quản lý cư

trú. Chú ý hơn nữa các nội dung nghiệp vụ quản lý cư trú nhất là quản lý

thường trú, tạm trú, tạm vắng, lưu trú. Thông qua quản lý cư trú phải chủ

động đề ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm, các hành vi VPPL góp phần

đảm bảo ANTT; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong cư trú, phục vụ

quản lý xã hội, phát triển kinh tế của đất nước.

Thể chế hóa các hành vi vi phạm hành chính cũng như các chế tài xử lý

để đảm bảo tính răn đe, giáo dục nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

76

về cư trú. Theo cơ chế điều chỉnh của Luật Cư trú, khi công dân thay đổi nơi

đăng ký thường trú ngoài phạm vi quận, huyện, thị xã công dân phải mất ít

nhất 6 lần đi lại: 02 lần làm thủ tục cấp giấy chuyển hộ khẩu, 02 lần làm thủ

tục đăng ký thường trú tại nơi chuyển đến, 02 lần làm thủ tục xóa tên trong sổ

hộ khẩu tại nơi chuyển đi. Điều đó gây khó khăn cho công dân và cho chính

cơ quan Công an có thẩm quyền đăng ký thường trú.

Trong thời gian tới, để giảm thiểu số lần đi lại của người dân khi làm

thủ tục thay đổi nơi thường trú trong phạm vi thành phố Hà Nội, cần tiếp tục

tham mưu cho Giám đốc CATP thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính

trong quản lý cư trí trú đối với công dân, áp dụng đối với tất cả địa bàn. Trình

tự giải quyết một hồ sơ đăng ký thường trú sẽ bao gồm 03 bước như sau:

Bước 1: Hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính.

Đây là bước đầu tiên trong quy trình đăng ký thường trú, liên quan trực

tiếp đến hiệu quả của việc đăng ký thường trú. Việc tiếp dân, hướng dẫn thủ

tục, tiếp nhận hồ sơ đăng ký thường trú cũng thể hiện hình ảnh, uy tín của

ngành Công an. Cán bộ đăng ký phải xem xét hồ sơ, đối chiếu với các quy

định của Luật Cư trú và thực hiện theo đúng quy định. Những trường hợp

không thuộc điều kiện đăng ký thường trú thì không nhận hồ sơ và giải thích,

nêu rõ lý do bằng văn bản để người nộp hồ sơ biết.

Bước 2: Thẩm định, xem xét duyệt hồ sơ.

Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến tiến độ và hiệu quả của

công việc đăng ký thường trú. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày

tiếp nhận hồ sơ, cán bộ đăng ký phải nghiên cứu, xem xét hồ sơ. Đối với hồ

sơ hợp lệ thì ghi vào bản photocopy các giấy tờ, tài liệu (không cần công

chứng, chứng thực) là đã đối chiếu đúng với bản chính và ký, ghi rõ họ tên;

chuyển hồ sơ và đề xuất Chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về TTXH bằng văn bản

và ghi rõ các thông tin cơ bản sau: ngày, tháng, năm nhận hồ sơ; các tài liệu

77

có trong hồ sơ; nội dung yêu cầu phải quyết, ý kiến đề xuất (căn cứ, nội dung

đề xuất) và ký ghi rõ họ tên.

Đối với trường hợp đủ điều kiện nhưng thiếu thủ tục, kê khai biểu mẫu,

giấy tờ chưa đúng thì thông báo bằng văn bản hoặc qua điện thoại cho công

dân biết để bổ sung, kê khai lại. Những trường hợp hồ sơ không thuộc điều

kiện đăng ký thường trú thì đề xuất chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về TTXH

báo cáo lãnh đạo Công an cấp huyện trả lời công dân bằng văn bản, nêu lý do

không giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ

sơ và ý kiến đề xuất của cán bộ đăng ký, chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về

TTXH phải thẩm tra hồ sơ.

Đối với trường hợp hồ sơ hợp lệ thì đề xuất lãnh đạo Công an cấp

huyện duyệt đăng ký thường trú ghi trực tiếp vào văn bản đề xuất. Đối với

trường hợp hồ sơ đủ điều kiện nhưng thiếu thủ tục cần bổ sung, nội dung cần

kê khai lại để cán bộ để cán bộ đăng ký thông báo lại cho công dân bổ sung,

kê khai lại. Đối với hồ sơ đủ điều kiện nhưng cần tiếp tục phải làm rõ một số

nội dung thì lập, gửi phiếu xác minh hộ khẩu, nhân khẩu theo mẫu quy định

hoặc cử cán bộ trực tiếp xác minh. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được hồ sơ và ý kiến đề xuất của chỉ huy Đội cảnh sát QLHC về

TTXH, Trưởng Công an cấp huyện hoặc Phó Trưởng Công an cấp huyện

được uỷ quyền bằng văn bản, phải xem xét hồ sơ.

Đối với trường hợp hồ sơ hợp lệ thì duyệt đăng ký thường trú; giao cho

Đội cảnh sát QLHC về TTXH cử người viết sổ hộ khẩu và lập phiếu thông tin

thay đổi về hộ khẩu, nhân khẩu để thông báo việc đăng ký thường trú.

Những trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện thì ký văn bản trả lời

công dân nêu rõ lý do không giải quyết, trả hồ sơ cho Đội cảnh sát QLHC về

TTXH để trả lại công dân.

Để đảm bảo thời gian trả kết quả cho công dân, quy trình quy định

78

trách nhiệm của cơ quan Công an nhận được yêu cầu xác minh: trong thời hạn

03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh, Công an xã,

phường, thị trấn nơi công dân đề nghị đăng ký thường trú có trách nhiệm phải

trả lời xác minh. Trường hợp phải xác minh nhiều nơi hoặc xác minh nhiều

nội dung khác nhau thì được kéo dài thời gian, nhưng tối đa không quá 06

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh.

Bước 3: Trả kết quả.

Đối với trường hợp được đăng ký thường trú: cán bộ đăng ký thường

trú thu lệ phí đăng ký cư trú theo quy định pháp luật về lệ phí; thu sổ hộ khẩu

cũ có đóng dấu huỷ để lưu hồ sơ đăng ký thường trú đối với trường hợp

chuyển đến cả hộ; trả lại giấy tờ, tài liệu bản chính cho người đến nhận kết

quả. Để đảm bảo tính chính xác của các thông tin đã đăng ký, tránh tình trạng

công dân phải đi lại bổ sung nhiều lần. Khi trả kết quả, cán bộ đăng ký phải

yêu cầu người nhận kết quả kiểm tra lại giấy tờ, tài liệu bản chính, đối chiếu

các thông tin được ghi trong sổ hộ khẩu và ký nhận (ký, ghi rõ họ tên và ngày,

tháng, năm nhận kết quả) vào sổ theo dõi quyết hộ khẩu theo mẫu quy định.

Đối với hồ sơ không đủ điều kiện đăng ký thường trú: cán bộ đăng ký trả lại

hồ sơ đã tiếp nhận; yêu cầu người nhận kết quả kiểm tra lại giấy tờ, tài liệu có

trong hồ sơ và ký nhận (ký, ghi rõ họ tên và ngày, tháng, năm nhận kết quả)

vào sổ theo dõi giải quyết hộ khẩu theo mẫu quy định; đồng thời giao văn bản

trả lại giấy tờ cho công dân về việc không giải quyết đăng ký thường trú.

Xác minh hộ khẩu, nhân khẩu (đây là một khâu trong bước 2, bước

thẩm định, xem xét duyệt hồ sơ) được tiến hành như sau:

Xác minh nơi công dân đang ở hiện nay. Nội dung xác minh do nội cần

viết (theo mẫu HK03), chỉ huy Đội ký theo quy định (Nội cần không ký phiếu

xác minh như trước).

Xác minh về nơi công dân ĐKHK trước khi chuyển đến. Những trường

79

hợp mâu thuẫn giữa Phiếu báo thay đổi 6 hộ khẩu, nhân khẩu (HK02) với sổ

hộ khẩu (HK08) và những trường hợp chưa rõ các nội dung thông tin để đăng

ký thường trú, sổ hộ khẩu tẩy xóa, không rõ ràng thì Công an quận, huyện nơi

chuyển đến gọi điện thoại (hoặc Fax) cho Công an quận, huyện nơi công dân

chuyển đi để xác minh, các trường hợp còn lại không phải xác minh.

Các trường hợp đủ điều kiện giải quyết (ăn ở thường xuyên, chỗ ở hợp

pháp, các trường hợp phải xác minh về nơi ở trước đó mà không có thông tin

phản hồi qua điện thoại hoặc Fax), Công an quận, huyện căn cứ vào sổ hộ khẩu

của công dân nơi chuyển đi để ghi vào sổ hộ khẩu của công dân nơi chuyển đến

đồng thời điều chỉnh và ký vào mục “Đã chuyển đến” ở phần cuối của trang

ghi tên nhân khẩu chuyển đi (việc này hiện này do Công an quận, huyện nơi

chuyển đi ký khi làm thủ tục xóa theo Phiếu thông tin thay đổi về hộ khẩu,

nhân khẩu (HK04) của Công an quận, huyện nơi chuyển đến gửi tới).

Thông báo ngay cho Công an quận, huyện nơi công dân ĐKHK trước

đó biết về sự thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu theo phiếu HK04 (kèm phiếu báo

thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu HK02). Viết phiếu HK04 phải ghi đầy đủ Khối,

tập, trang vào (mục 4) để Công an các quận, huyện nơi chuyển đi làm thủ tục

xóa gốc và viết giấy chuyển hộ khẩu được thuận tiện.

Trả kết quả cho công dân theo Giấy hẹn: Sau khi trả kết quả cho công

dân, nội cần đề xuất hồ sơ đăng ký phải chuyển giao hồ sơ nhập đến cho bộ

phận tàng thư (Bàn giao có sổ sách và ký nhận các tài liệu có trong hồ sơ).

Xử lý đối với các trường hợp vướng mắc: Nếu nhận được thông báo trả

lời của Công an nơi công dân đăng ký thường trú trước đây cho biết sổ đăng

ký thường trú (sổ gốc HK11) có mâu thuẫn với phiếu thông tin thay đổi về

nhân khẩu, hộ khẩu (sai lệch ngày, tháng, năm sinh, họ tên chữ đệm, đã bị xóa

gốc hoặc thuộc diện bị hạn chế quyền tự do cư trú…). Trường hợp chưa trả

kết quả thì thông báo cho công dân về nơi ở cũ để làm thủ tục điều chỉnh

80

thống nhất trước khi đăng ký. Trường hợp đã trả kết quả cho công dân rồi thì

thông báo ngay cho Công an phường, thị trấn và công dân biết làm thủ tục

điều chỉnh thống nhất. Những trường hợp khai man giả mạo để được giải

quyết nhập đến khi phát hiện, phải hủy kết quả và xử lý vi phạm hành chính

theo quy định.

Đối với Công an quận, huyện nơi công dân đăng ký chuyển đi.Chỉ đạo

Công an các phường, xã, thị trấn lập danh sách những người thuộc diện bị hạn

chế quyền tự do cư trú theo Điều 10 Luật Cư trú, được bổ sung, điều chỉnh

thường xuyên gửi về Đội Cảnh sát QLHC về TTXH để kiểm tra đối chiếu khi

làm thủ tục cấp giấy chuyển hộ khẩu cho công dân hoặc trả lời yêu cầu xác

minh của Công an các quận, huyện khác.

Trả lời xác minh: Trường hợp nhận được yêu cầu xác minh của Công

an quận, huyện khác về hộ khẩu, nhân khẩu chuyển đi (qua điện thoại hoặc

Fax) phải kiểm tra đối chiếu với sổ đăng ký thường trú (sổ gốc HK11) và

danh sách những đối tượng thuộc diện bị hạn chế quyền tự do cư trú do Công

an phường, thị trấn gửi lên, nếu có sai lệch thông tin trong sổ đăng ký thường

trú (sổ gốc HK11) hoặc có trong danh sách người bị hạn chế quyền tự do cư

trú thì trong thời gian 03 ngày làm việc, phải điện báo (hoặc Fax) cho Công

an nơi công dân chuyển đến biết để xử lý tiếp.

Khi nhận được thông báo của Công an quận, huyện nơi công dân chuyển

đến đã giải quyết cho đăng ký thường trú thì tiến hành làm các bước sau:

Kiểm tra đối chiếu để xóa tên trong sổ đăng ký thường trú (sổ gốc

HK11). Trường hợp qua kiểm tra đối chiếu với sổ đăng ký thường trú có sai

lệch nội dung thông tin về hộ khẩu, nhân khẩu thì thông báo lại cho Công an

quận, huyện nơi công dân chuyển đến biết (thông báo qua điện thoại hoặc

Fax). Thông báo cho bộ phận tàng thư để điều chỉnh hồ sơ hộ khẩu và thông

báo cho CSKV, Công an xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT,

81

Công an xã điều chỉnh sổ sách theo dõi. Viết giấy chuyển hộ khẩu để làm thủ

tục chuyển Công an quận, huyện nơi công dân đăng ký chuyển đến.

3.2.3. Giải pháp tổ chức bổ sung nhân sự.

Trong những năm qua, mặc dù được sự quan tâm, chỉ đạo thường

xuyên từ chính quyền, lãnh đạo Công an các cấp trong nâng cao nhận thức và

trách nhiệm của CBCS thực hiện công tác quản lý cư trú. Tuy vậy, vấn đề

nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ CBCS Cảnh sát QLHC về

TTXH, CSKV vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục có những chính

sách, định hướng quán triệt chặt chẽ. Một số đồng chí có tư tưởng cho rằng

mô hình quản lý cư trú hiện này là đã tốt, không cần đổi mới nhiều, coi đây là

trách nhiệm lâu dài, nên tiến hành không thể thực hiện quyết liệt, nhanh

chóng do đó quá trình họ triển khai thực hiện công tác quản lý cư trú chậm

chạp, nảy sinh nhiều vi phạm, coi nhẹ việc giải quyết các thủ tục của người

dân. Một số cán bộ vẫn còn tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhũng

nhiễu, gây khó khăn cho người dân, nhận tiền hối lộ mới giải quyết nhanh các

thủ tục. Do một bộ phận cán bộ, chiến sỹ chưa được đào tạo chính quy, bài

bản nên kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý

cư trú của chưa đáp ứng được yêu cầu, gây lãng phí thời gian đào tạo, đào tạo

lại, dễ sai sót. Giữa các cán bộ, các đơn vị vẫn chưa thực sự quan tâm đến

việc chủ động phối hợp thực hiện công tác quản lý, thường được thực hiện khi

có vấn đề xảy ra. Nhiều cán bộ chậm đổi mới, làm việc theo tư duy cũ, lạc

hậu. CSKV mặc dù theo quy định phải có ít nhất một nữa thời gian có mặt tại

địa bàn nhưng nhiều đồng chí còn ngại xuống địa bàn, ngại vào nhà dân.

Công tác kiểm tra của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH còn chưa thực sự

sâu sát, chặt chẽ. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ cho các lực

lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Thời gian tới, cần tập trung vào một

số giải pháp sau:

82

Chính quyền các cấp, lãnh đạo CATP, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị

Cảnh sát QLHC về TTXH thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú cần tăng cường

việc nắm tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; đánh giá đúng phẩm chất

chính trị, đạo đức cách mạng; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những tồn tại,

phát sinh, đưa ra biện pháp xử lý, khắc phục nhanh chóng, tránh để kéo dài

gây ảnh hưởng đến uy tín, lòng tin trong quần chúng. Cần hỗ trợ, tạo điều

kiện tối đa để CBCS Cảnh sát QLHC về TTXH tham gia các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ công tác quản lý cư trú, bồi dưỡng lý luận chính trị, để các đồng chí

trẻ có điều kiện học cảm tình đảng, kết nạp đảng viên mới. Lãnh đạo các đơn

vị, địa phương thông qua các buổi giao ban, làm việc, đối thoại phải chú trọng

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và trao đổi, nâng cao kiến thức pháp luật,

nghiệp vụ cho CBCS biên chế tại đơn vị, chỉ đạo lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH cấp dưới thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng. Chỉ huy các đơn

vị cần thông qua các buổi giao ban định kỳ, đột xuất, họp đơn vị, thông qua

các đợt tập huấn nghiệp vụ để giáo dục cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng và có

trách nhiệm trong thực hiện công tác quản lý cư trú. Quá trình thực hiện chế

độ chính sách, quy hoạch lãnh đạo, thăm hỏi,... cần được thực hiện bình đẳng,

tôn trọng dân chủ, tránh tư tưởng chuyên quyền, độc đoán dẫn đến nảy sinh tư

tưởng tiêu cực, chống đối, gây mất đoàn kết nội bộ trong đơn vị.

Gắn liền với công tác chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng, lãnh đạo, cấp ủy

các đơn vị, các cấp cần thường xuyên tiến hành kiểm tra tình hình chính trị, tư

tưởng, nhận thức của cấp dưới, qua đó đánh giá đúng thực tế để có định

hướng tiếp theo. Kịp thời phát hiện các biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, hạn chế

về nhận thức của CBCS trong nội bộ đơn vị để có biện pháp tác động tư

tưởng, giáo dục, hoặc làm rõ các vấn đề còn vướng mắc để tìm ra hướng giải

quyết phù hợp. Đồng thời, cũng cần xử lý nghiêm đối với những cán bộ có

biểu hiện vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm quy định của ngành, tính

83

toán, đề nghị điều chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với các đồng chí làm

việc yếu kém, lệch lạc về tư tưởng; xử lý kỷ luật đối với các trường hợp vi

phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật, của ngành Công an. Quá trình

xử lý vi phạm cần được tiến hành nghiêm minh, nghiêm túc, đảm bảo vừa

đúng quy định, vừa hợp lý, hợp tình, tránh tình trạng bao che, xử lý sai phạm

nhưng lại cả nể, làm thiếu quyết liệt dẫn đến giảm tính kỷ luật.

Lãnh đạo các đơn vị, địa phương đổi mới phương pháp quản lý, giám

sát vấn đề chính trị, tư tưởng, nhận thức của CBCS, trên cơ sở mở rộng các

hình thức, biện pháp như lấy ý kiến đóng góp phản hồi, khiếu nại từ phía

người dân đối với kết quả công tác cán bộ, chiến sĩ thực hiện công tác quản lý

cư trú. Tăng thêm trách nhiệm cho lãnh đạo các đơn vị nếu có vi phạm xảy ra

nhưng không biết, không báo cáo hoặc bao che. Kết hợp mở rộng nội dung

trong các đợt thi sát hạch chất lượng CSKV,... Với nhiều phương pháp, hình

thức khác nhau sẽ giúp lãnh đạo các cấp có sự nhìn nhận đầy đủ, đa chiều về

vấn đề chính trị, tư tưởng, chất lượng công tác của cán bộ. Kịp thời có biện

pháp xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm nếu cán bộ vi phạm, đồng thời có biện

pháp động viên, khen thưởng kịp thời đối với cán bộ, chiến sĩ có thành tích

nổi bật.

Trong thời gian tới, lãnh đạo Công an các cấp cần có sự đổi mới trong

công tác tổ chức cán bộ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chính

trị, tư tưởng, năng lực công tác như hạn chế tối đa việc điều động, luân

chuyển sang làm Cảnh sát QLHC về TTXH, CSKV. Đặc biệt, tuyệt đối tránh

tư tưởng bố trí những đồng chí thiếu năng lực, cán bộ vi phạm kỷ luật, lệch

lạc về tư tưởng về làm CSKV. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn theo hướng tiêu

cực về kỷ luật, chất lượng công tác, uy tín, và danh dự của lực lượng Công an.

Đối với cá nhân từng CBCS trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý

cư trú cần nhận thức rõ, đúng đắn các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

84

nước công tác quản lý cư trú. Phải có ý thức tích cực, tự giác học tập, nâng

cao trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Phải coi trách việc quản lý

cư trú là trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, chiến sĩ chứ không phải là “ban

phát” cho người dân nên làm tùy ý theo quan điểm cá nhân. Chủ động tham

gia học tập các lớp về chính trị, nghiệp vụ, tự nghiên cứu nâng cao phẩm chất

chính trị, kiến thức, trau dồi kinh nghiệm công tác chuyên môn.

Lực lượng Cảnh sát khu vực hiện nay vẫn còn thiếu 71 đồng chí, nhiều

đồng chí đang phải quản lý với số lượng dân cư quá quy định theo hướng dẫn

của Điều lệnh Cảnh sát khu vực. Do đó, cần kịp thời hoàn thiện về mặt biên chế

trong bố trí đủ cán bộ, chiến sĩ, nâng cao chất lượng công tác thông qua các lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ, cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn.

3.2.4. Thực hiện cải cách hành chính và ứng dụng cách mạng 4.0

trong đăng ký, quản lý cư trú.

Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội

được xây dựng từ lâu, thông tin được lưu trữ khá đa dạng, tuy nhiên còn có

nhiều bất cập khi mà thông tin không được bổ sung thường xuyên, giấy tờ, tài

liệu có thể bị thất lạc, mục nát làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý

cư trú của công dân trên địa bàn thành phố. Cơ sở dữ liệu lạc hậu như vậy gây

cản trở không nhỏ cho quá trình thực hiện các mặt công tác nghiệp vụ của

ngành Công an, từ đó tạo tâm lý e ngại cho cán bộ, chiến sĩ khi muốn tìm hay

bổ sung thông tin khi có yêu cầu. Công tác quản lý cư trú theo phương pháp

truyền thống của Công an thành phố Hà Nội đã không phát huy cao hiệu quả

quản lý, từ đó yêu cầu phải có phương pháp quản lý mới. Ứng dụng công

nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú đang từng bước được triển khai,

yêu cầu sự chỉ đạo, thực hiện thống nhất của các cơ quan, ban ngành có liên

quan. Tuy thời gian đầu thực hiện đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về

dân cư còn gặp nhiều khó khăn, chịu sự phản hồi của nhiều luồng tư tưởng

85

trái chiều từ phía công dân. Nhưng Công an Thành phố Hà Nội luôn linh hoạt,

tích cực phát hiện những tồn tại, thiếu sót trong quá trình thực hiện để kịp thời

sửa chữa phù hợp tình hình hiện nay. Đồng thời tìm ra những ưu điểm từ

phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu cư

trú để tiếp tục khai thác, phát huy. Việc chuyển đổi quản lý, theo dõi dữ liệu

dân cư từ sổ sách vào quản lý, theo dõi bằng dữ liệu điện tử đã tạo một bước

đột phá trong công tác quản lý dữ liệu dân cư trên địa bàn Thủ đô, làm giảm

tải đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Cảnh sát QLHC về

TTXH. Đồng thời, sau khi hoàn thành việc chuyển đổi, sẽ phục đắc lực cho

công tác cải cách hành chính công của Công an thành phố.

Trong thời gian tới, nhằm khai thác có hiệu quả đồng thời tiếp tục phát

triển dữ liệu dân cư đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quản lý cư trú, Công an

thành phố Hà Nội cần tập trung vào một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, khảo sát đánh giá hiệu quả việc thực hiện đề án ứng dụng

công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của Công an

thành phố Hà Nội

+ Thu thập, chọn lọc, sắp xếp thông tin dữ liệu dân cư.

Thu thập thông tin: đây là nhiệm vụ đầu tiên trong toàn bộ các bước

thực hiện đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về

cư trú. Các đơn vị cần thu thập đầy đủ, có hệ thống các thông tin đa dạng,

nhiều nguồn để phục vụ hoạt động lưu trữ. Để đảm bảo cho việc thu thập

thông tin được chính xác, nhanh chóng, mỗi cán bộ cơ sở phải trực tiếp xuống

địa bàn gặp gỡ, trao đổi, lấy các thông tin cần thiết để phục vụ việc hoàn thiện

biểu mẫu trong phiếu “Thu thập thông tin dân cư”.

Chọn lọc, sắp xếp thông tin: Từ các thông tin thu thập được ban đầu từ

các nguồn tin khác nhau như phiếu thu thập thông tin dân cư, sổ quản lý nhân

khẩu, hộ khẩu, bản khai, phiếu báo nhân khẩu, thông tin về quản lý đối tượng,

86

hồ sơ tàng thư nghiệp vụ,… cần phải có sự sắp xếp theo trật tự, tiêu chuẩn cụ

thể, loại bỏ những thông tin không cần thiết để phù hợp với yêu cầu lưu trữ

phục vụ công tác chuẩn bị cho việc cập nhật dữ liệu vào máy tính được nhanh

chóng và hạn chế sai sót.

+ Lưu trữ thông tin.

Các thông tin sau khi đã thu thập, chọn lọc, sắp xếp cần được tiến hành

cập nhật, lưu trữ vào máy tính theo các biểu mẫu được quy định sẵn trong

phần mềm. Việc cập nhật thông tin phải do Cảnh sát khu vực trực tiếp tiến

hành thông qua mã số đươc cung cấp đúng chức năng, nhiệm vụ phân công và

theo đúng phạm vi quản lý. Ngoài ra mỗi cán bộ, chiến sĩ phải xây dựng kế

hoạch cụ thể phù hợp đảm bảo việc nhập thông tin dân cư đúng tiến độ chất

lượng cũng như yêu cầu nghiệp vụ đã đề ra.

+ Sử dụng, khai thác, tra cứu và tìm kiếm thông tin.

Việc sử dụng tra cứu thông tin cần thực hiện theo đúng quy định, chỉ

khi nào có yêu cầu mới tiến hành tra cứu, bám sát nội dung cần tìm. Cơ sở dữ

liệu về cư trú của công dân sau khi được nhập vào máy tính sẽ cho phép khai

thác thông tin bất cứ lúc nào khi cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo yếu tố bí

mật của thông tin thì trong quá trình sử dụng và khai thác cần quy định rõ

mức độ mật của thông tin gắn với đó những loại thông tin nào được phép

cung cấp, những người nào được phép khai thác, sử dụng. Với mỗi cấp độ

khác nhau có thể sử dụng, khai thác, tìm kiếm thông tin phù hợp yêu cầu công

tác của mình. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng khai thác thiếu sự kiểm

soát, phục vụ các mục đích, cơ hội cá nhân.

Để phát huy vai trò, tác dụng của công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư

trú, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra thì việc sử dụng, khai thác, tra cứu và tìm

kiếm thông tin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để thông tin dữ liệu về cư trú

không bị chế, khô cứng, kém hiệu quả, cần có kế hoạch cụ thể, tập trung các

87

biện pháp để khai thác sử dụng chúng. Đây là một nội dung, yêu cầu không

thể thiếu trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân đặc

biệt là khi đã tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác này.

+ Kiểm tra, đánh giá công tác, cập nhật dữ liệu thông tin.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng cơ sở dữ liệu về cư

trú của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội tính đến nay đã cơ bản được

triển khai. Để nâng cao hiệu quả công tác này, trong quá trình thực hiện các

đơn vị cần định kì hoặc theo yêu cầu đột xuất tổ chức các buổi họp tổng kết

rút kinh nghiệm chuyên đề về quá trình thực hiện ứng dụng công nghệ thông

tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân trên địa bàn thành phố

Hà Nội. Qua đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện,

những mặt đã đạt được cũng như những tồn tại từ đó đề xuất lên lãnh đạo

Công an thành phố chỉ đạo hướng giải quyết. Lãnh đạo các cấp cần thường

xuyên làm tốt công tác theo dõi đánh giá hoạt động ứng dụng công nghệ

thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của cán bộ, chiến sĩ đơn vị

mình thông qua hệ thống quản lý, cấp độ quản lý đã được phân quyền trên

phần mềm ứng dụng.

Bên cạnh việc xây dựng, khai thác, sử dụng, quản lý thông tin ban đầu

thì một nhiệm vụ hết sức quan trọng khác đặt ra là cần cập nhật cơ sở dữ liệu

dân cư một cách thường xuyên, liên tục. Sở dĩ cần cập nhật dữ liệu là bởi có

những thông tin chỉ có tính ổn định tạm thời thậm chí khá lâu nhưng cũng có

thông tin thay đổi thường xuyên như thông tin lưu trú, tạm trú, tạm vắng,...

mà nếu chúng ta không tiến hành cập nhật thì sẽ dẫn tới tình trạng bỏ sót, để

lọt thông tin. Bên cạnh đó, một yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ những thông tin

cũ, không còn cần thiết và điều chỉnh những thông tin mà vào thời điểm hiện

tại đã có sự thay đổi so với thông tin khi lưu trữ ban đầu. Do vậy, mỗi cán bộ,

chiễn sĩ cần chú ý để cập nhật kịp thời, tránh tình trang hời hợt, chỉ tập trung

88

vào lần đầu mà buông lỏng trong việc cập nhật thông tin, kéo theo hệ quả là

hiệu quả công tác không đạt theo yêu cầu đề ra.

- Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện phần mềm, hệ thống lưu trữ thông tin và

đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú

Nghiên cứu và hoàn thiện phần mềm công nghệ, hệ thống lưu trữ thông

tin là khâu chủ chốt, quan trọng nhất trong các nội dung cần làm trong công

tác ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công

dân. Quá trình xây dựng phần mềm đã được tiến hành với sự tính toán kĩ

lưỡng nhằm đáp ứng đầy đủ nội dung, yêu cầu quản lí, khoa học, nghiệp vụ.

Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng phần mềm vào hoạt động thực tiễn vẫn

còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục

hoàn thiện phần mềm, hệ thống lưu trữ thông tin.

Trước tiên phải hoàn thiện hoạt động đăng ký, cấp tài khoản đảm bảo

tính bí mật, tính phân quyền quản lý đối với mỗi loại tài khoản riêng.

Hoàn thiện các nội dung trong hệ thống các biểu mẫu. Một số nội dung

không cần thiết, liên quan và phục vụ công tác quản lý cư trú có thể loại bỏ để

tránh nặng chương trình, hạn chế nhầm lẫn trong quá trình vận hành.

Cần phải có tính đúng đắn và chuẩn xác của dữ liệu. Hệ thống cơ sở dữ

liệu chuẩn sẽ mang lại những lợi ích thiết thực trong quá trình sử dụng, khai

thác, tra cứu, tìm kiếm thông tin phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ và góp phần

giảm bớt thời gian, tính phức tạp trong quá trình tìm kiếm cho cán bộ, chiến sĩ

vận hành hệ thống cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin.

Để đạt được điều này cần hoàn thiện hệ thống từ điển chuyên dùng, xây dựng

những chuẩn hóa về nội dung, mã hóa.

Hệ thống lưu trữ thông tin để đảm bảo yêu cầu có ý nghĩa rất quan

trọng. Việc xây dựng một hệ thống lưu trữ chung cho toàn bộ phần mềm là

hết sức quan trọng. Hệ thống này cần làm tốt công tác bảo mật những số liệu

89

đã nhập vào máy, hệ thống thông tin trên máy cần được quản lý chặt chẽ

nhằm ngăn chặn sự truy nhập của những người không được phép.

Không ngừng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện, xây

dựng cơ sở dữ liệu về cư trú. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến

hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú

của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chậm chưa thực sự đáp ứng

yêu cầu đặt ra là do nguồn tài chính, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị

phương tiện còn hạn chế. Do đó, trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả

công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu cư trú

của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, lãnh đạo các đơn vị Công an

cũng như lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an

các cấp cơ sở cần:

Nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện nhập dữ liệu

hiện có, tiếp tục khai thác những thiết bị nào còn phát huy tác dụng, còn khả

năng đáp ứng yêu cầu công tác. Đối với những trang thiết bi, phương tiện đã

cũ, hoạt động kém hiệu quả thì cần thay mới không để tình trạng máy móc,

thiết bị đã cũ, chậm sửa chữa, cấp mới gây trở ngại cho hoạt động ứng dụng

công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.

Đẩy nhanh việc trang bị, cấp phát thêm đồng bộ máy tính, thiết bị hiện

đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hoạt động lưu trữ, khai thác, sử

dụng thông tin. Đảm bảo sự thống nhất về trang thiết bị, phương tiện giữa các

cơ sở với nhau. Ngoài ra, các đơn vị cũng cần chủ động tự huy động các

nguồn kinh phí khác nhau để tự trang bị máy tính, thiết bị cho đơn vị mình.

Tổ chức lực lượng có trình độ về công nghệ thông tin, có khả năng sửa

chữa, cài đặt thành thạo máy tính nhằm phục vụ công tác lưu trữ, khai thác

thông tin dân cư diễn ra thuận lợi, đạt kết quả cao. Cần xây dựng hệ thống cơ

sở hạ tầng, trang cấp các thiết bị, vật dụng phục vụ công tác như tủ sắt, cặp hồ

90

sơ, máy đọc mã vạch trên căn cước công dân, máy tính, hồ sơ, sổ sách,... đảm

bảo tốt nhất điều kiện vật chất phục vụ cho quá trình công tác.

Thời gian tới cần tập trung nâng cao trình độ tin học cho cán bộ làm

công tác quản lý cư trú đối với công dân. Vấn đề này có ý nghĩa quyết định

tới chất lượng, hiệu quả công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây

dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.

Thay đổi nhận thức cán bộ về khoa học công nghệ thông tin và hoạt

động ứng dụng nó trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân. Mỗi

cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức về ý nghĩa to lớn từ việc đổi mới phương pháp

làm việc truyền thống trên hồ sơ giấy tờ với việc kết hợp các công việc này

với hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Trong đó phải xác định ứng

dụng công nghệ thông tin là chủ yếu, mang tính chiến lược lâu dài trong công

tác quản lý cư trú công dân. Bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tự giác tích cực

học tập, bồi dưỡng kiến thức về công nghệ thông tin, việc ứng dụng công

nghệ thông tin trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.

Kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng bảo thủ, chậm đổi mới, chậm ứng

dụng khoa học công nghệ trong quá trình công tác.

Nắm tình hình, thống kê số lượng, trình độ của cán bộ, chiến sĩ liên quan

đến công nghệ thông tin, đánh giá nhu cầu về cán bộ trong đơn vị mình từ đó

kịp thời đề xuất lãnh đạo bổ sung cán bộ có chuyên môn về công nghệ thông

tin, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ đang tiến hành công tác này.

Ngoài ra, có thể tuyển chọn cán bộ bên ngoài được đào tạo chính quy về công

nghệ thông tin vào công tác trong lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Đảm

bảo mỗi Đội Cảnh sát QLHC về TTXH, Công an phường đều có cán bộ

chuyên môn về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tiếp nhận sinh

viên của các trường Công an đã được gửi đi đào tạo ở khối các trường tự nhiên,

kĩ thuật, sinh viên được cử đi nước ngoài về công nghệ thông tin.

91

Cần có chính sách ưu tiên trong công tác đào tạo nâng cao trình độ hiểu

biết về công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây

dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Phối

hợp với các Trung tâm đào tạo tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức tin

học, các lớp tập huấn về công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong xây

dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân cho cán bộ, chiến sĩ cấp phòng, Đội

Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội và Cảnh sát khu vực. Thường

xuyên kiểm tra, đánh giá kiến thức tin học của cán bộ để tiếp tục kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng.

Trong thời gian tới, khi hệ thống các phần mềm, các thiết bị khoa học,

thiết bị kiểm tra căn cước công dân được hoàn thiện, Hà Nội có thể thí điểm

thực hiện theo mô hình mà hiện nay nhiều quốc gia đã triển khai là bỏ quản lý

theo hộ khẩu bằng bản giấy, thay vào đó là quản lý đồng bộ trên mạng máy

tính, phần mềm chuyên biệt. Đây là cơ sở để nhân rộng ra trên phạm vi toàn

quốc góp phần giảm tải về áp lực quân số CBCS, hiện đại hóa trong công tác

của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, góp phần đưa công tác quản lý cư

92

trú lên tầm cao mới.

KẾT LUẬN

Quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH là biện pháp

quản lý hành chính của nhà nước được thực hiện thông qua việc điều hành và

chấp hành của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trên cơ sở pháp luật về cư

trú và công tác nghiệp vụ của ngành Công an nhằm bảo đảm quyền tự do cư

trú của công dân, góp phần phòng, chống tội phạm, giữ gìn ANQG và

TTATXH, củng cố quốc phòng an ninh phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của

đất nước.

Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học,

thông qua nghiên cứu hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo, cũng như qua

thực tế tìm hiểu của bản thân, tác giả đã đưa ra hệ thống các khái niệm, xác

định vai trò, vị trí, đặc điểm, các yếu tố tác động đến vai trò, sự phân công,

phân cấp của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH và mối quan hệ của lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú.

Bằng phương pháp luận khoa học, tổng kết thực tiễn, luận văn đã đi sâu

nghiên cứu, đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH trong quản lý cư trú - từ thực tiễn quận Long Biên. Trên cơ sở phân

tích tình hình đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế - xã hội, tình hình dân cư quận

Long Biên, tình hình vi phạm pháp luật và thực trạng tổ chức biên chế của lực

lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên, luận văn đã làm

rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận

Long Biên trong hoạt động quản lý cư trú trên các mặt công tác như: tham

mưu, tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân về quản lý cư trú; công

tác cải cách hành chính; công tác điều tra nghiên cứu nắm tình hình về nhân

hộ khẩu; xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư,... Qua đó, đã đưa ra nhận xét, đánh

93

giá về ưu điểm, kết quả đã đạt được, tồn tại, khó khăn và nguyên nhân của

những tồn tại hạn chế trong quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH trên địa bàn.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực trạng, tác giả đã đề xuất

một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về

TTXH trong quản lý cư trú từ thực tiễn quận Long Biên, góp phần bổ sung lý

luận, là tài liệu tham khảo, có thể vận dụng để nâng cao chất lượng của công

tác quản lý cư trú theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH từ

thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Tuy nhiên, quá trình thực hiện đề tài luận văn cũng như kết quả nghiên cứu

sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định do những nguyên nhân chủ quan,

khách quan. Tác giả rất mong được sự đóng góp, xây dựng của các thầy cô, các

94

nhà khoa học cũng như cán bộ thực tiễn để luận văn được hoàn thiện hơn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2012), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thượng, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Bộ Công an (2010), Quyết định số 584/QĐ-BCA ngày 23/02/2010 của Bộ

trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức

bộ máy của Cục Cảnh sát QLHC về TTXH, Hà Nội.

3. Bộ Công an (2011), Quyết định số 484/QĐ-BCA ngày 11/02/2011 của

Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ

chức bộ máy Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.

4. Bộ Công an (2011), Quyết định số 757/2011/QĐ-BCA ngày 08/3/2011

của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,

tổ chức bộ máy của Công an phường, Hà Nội.

5. Bộ Công an (2013), Thông tư số 54/2013/TT-BCA ngày 06/11/2013 quy

định phân công trách nhiệm trong CAND về công tác quản lý nhập

cảnh, xuất cảnh, cư trú và hoạt động của người nước ngoài tại Việt

Nam, Hà Nội.

6. Bộ Công an (2014), Thông tư số 35/2014/TT-BCA ngày 09/9/2014 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú và Nghị định số

31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.

7. Bộ Công an (2014), Thông tư số 61/2014/TT-BCA ngày 20/11/2014 quy

định về quy trình đăng ký cư trú, Hà Nội.

8. Bộ Công an (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BCA ngày 10/02/2015 của

Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Điều lệnh CSKV, Hà Nội.

9. Bộ Công an (2014), Thông tư số 61/2014/TT-BCA ngày 20/11/2014 quy

định về quy trình đăng ký cư trú, Hà Nội.

10. Bộ Công an (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BCA ngày 10/02/2015 của

Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Điều lệnh CSKV, Hà Nội.

11. Chính phủ (2014), Nghị định số 106/NĐ-CP quy định chức năng nhiệm

vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, Hà Nội.

12. Chính phủ (2014), Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều

và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.

13. Chính phủ(2013),Nghị định số 167/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống

tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình,

Hà Nội.

14. Chính phủ (2014), Nghị định số 106/NĐ-CP quy định chức năng nhiệm

vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, Hà Nội.

15. Chính phủ (2014), Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều

và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.

16. Chính phủ (2016), Nghị định số 46/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, Hà Nội.

17. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 1245-CV/CAHN(PV11-

PC13) ngày 01/10/2007 hướng dẫn UBND các quận, huyện, thành phố

chỉ đạo UBND các phường, xã, thị trấn tiếp nhận hồ sơ tờ khai xác nhận

tình trạng chỗ ở hợp pháp để phục vụ cho đăng ký thường trú theo ý kiến

chỉ đạo của UBND thành phố.

18. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 1605/CV-CAHN(PC13-

Đ3) ngày 01/12/2007 về việc hướng dẫn giải quyết một số vướng mắc

trong công tác đăng ký cư trú.

19. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 649-CV/PC13(Đ3) ngày

24/8/2007 hướng dẫn đăng ký thường trú cho số nhân khẩu đã bị xóa hộ

khẩu thường trú tại nơi ở cũ, đồng thời phổ biến quán triệt.

20. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 815/PC13(Đ3) ngày

1/11/2007 sao lục công văn số 1595 ngày 25/10/2007 của Cục C13 (nay

là Cục C64) - Bộ Công an về việc hướng dẫn vận dụng giải quyết một số

khó khăn vướng mắc trong công tác đăng ký, QLNN về cư trú.

21. Công an thành phố Hà Nội (2012), Kế hoạch số 16 /KH-CAHN(PC64)

ngày 02/02/2012 triển khai thực hiện Thông tư 80/2011/TT-BCA quy

định về quy trình đăng ký cư trú và Thông tư số 81/2011/TT-BCA ngày

15/12/2011 của Bộ Công an quy định về biểu mẫu được sử dụng trong

đăng ký, QLNN về cư trú.

22. Cục thống kê thành phố Hà Nội (2013), Bảng thống kê dân số và lao

động, Hà Nội.

23. Nguyễn Quốc Cường, (2017), Hướng dẫn đăng ký và quản lý cư trú,

Nxb Tư pháp.

24. Phạm Trọng Cường (2014), Về quản lý hộ tịch, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

25. Phạm Trọng Cường (2015), Quản lý nhà nước về cư trú - Lý luận, thực

trạng và phương hướng đổi mới, Luận án tiến sỹ, Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ XII, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Đạm (2016), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt,

Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

28. Nguyễn Hữu Đính (2015), Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những

vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

29. Phạm Hồng Hoàn (2013), Quản lý nhà nước về cư trú ở cấp xã, huyện

Đan Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính

quốc gia.

30. Học viện CSND (2008), Giáo trình Luật Cư trú và công tác quản lý cư

trú, Nxb Hà Nội.

31. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Lý luận chung

về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

32. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hành

chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Khôn (2012), Hán - Việt từ điển, Nxb Tổng hợp, TP Hồ

Chí Minh.

34. Nhà xuất bản Lao Động (2008), Sách Quy định mới hướng dân đăng ký

và quản lý cư trú, Nxb Lao Động, Hà Nội.

35. Nguyễn Lân (2009), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Tổng hợp TP Hồ

Chí Minh.

36. Nghị định số 51/CP ngày 10/5/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và

quản lý hộ khẩu.

37. Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/6/2007 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú.

38. Quận Long Biên, Báo cáo công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh

sát QLHC về TTXH quận Long Biên và Công an thành phố Hà Nội từ

năm 2014 đến tháng 6/2018.

39. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội.

40. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội.

41. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội

42. Quốc hội (2013), Luật Cư trú sửa đổi, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội

43. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội

44. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình lý luận nhà nước và

pháp luật, Nxb công an nhân dân,TP Hà Nội.

45. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa và Nxb Tư pháp.

46. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin.

BẢNG 2.1

Tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội

(từ năm 2014 đến tháng 6/2018)

Buôn lậu

Cướp tài sản Trộm cắp tài sản Tội danh khác

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Năm Tổng số vụ phạm pháp hình sự

Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng

423 16 6 6 5 388 2 2014

448 18 7 8 16 396 3 2015

318 21 6 9 14 266 2 2016

456 19 8 5 20 403 1 2017

316 8 3 2 9 294 0

Từ T1 đến hết T6/2018

Tổng 1961 82 30 30 64 1747 8

(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)

BẢNG 2.2

Tình hình vi phạm hành chính về cư trú trên địa bàn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Các lỗi vi phạm khác Năm

Tổng số vi phạm hành chính liên quan đến cư trú vi phạm về quản lý thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng

397 55 342 2014

474 117 357 2015

450 38 412 2016

434 122 312 2017

212 56 156

6 tháng đầu năm 2108 Tổng 388 1579

1967 (từ năm 2014 đến tháng 6/2018)

(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)

BẢNG 2.3

Tình hình xử lý vi phạm pháp luật về cư trú trên địa bàn của lực lượng

Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên

(từ năm 2014 đến tháng 6/2018)

Năm Số vụ việc phát hiện Xử lý hành chính Phối hợp xử lý hình sự

397 19 563 2014

474 15 347 2015

450 18 415 2016

434 24 513 2017

212 11 301 6 tháng đầu năm 2108

Tổng 2139 1967 108

(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)

BẢNG 2.4

Thống kê tình hình quân số, tổ chức bộ máy lực lượng Cảnh sát QLHC

về TTXH Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Giới tính

Độ tuổi

Cấp hàm

Trình độ chuyên môn

Đơn vị

Tổng

số

Nam Nữ

Sau ĐH

ĐH, CĐ

Trung Cấp

Cấp tá Cấp úy

Hạ sỹ quan

Dưới 30 tuổi

Từ 30- 39 tuổi

Từ 40 tuổi trở lên

Đội

35

02

21

12

14

21

11

09

05

07

25

03

Cảnh

sát

QLHC

về

TTXH -

Công an

quận

Long

148

0

37

111

49

99

97

36

15

20

120

08

Biên Cảnh

sát khu vực các

phường

(Từ 2014 đến tháng 6/2018)

Tổng

183 2 58 123 63 120 108 45 20 183 2 58

(Nguồn: Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội)

BẢNG 2.5

Tình hình đăng ký thường trú trên địa bàn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Tổng số đăng kí

Trong đó

thường trú

Đăng kí cho người

ngoại tỉnh

Điều chỉnh

Đăng

Số hộ

Số nhân

Tách

Năm

khẩu

khẩu

hộ

Số nhân

Số hộ

ký mới sinh

nơi thưởng

Cấp đổi sổ hộ khẩu

khẩu

trú

khẩu

3557 4531 5612 5013

10132 12321 15239 14213

4239 3028 4791 4215

462 497 348 512

312 412 213 209

142 210 178 159

1826 2621 3862 3295

1209 1320 1378 1402

(Từ 2014 đến tháng 6/2018)

2432

8903

981

2589

287

134

107

521

2014 2015 2016 2017

6 tháng đầu năm 2018

21145

60808

6290

18862

2106

1280

796

12125

Tổng

(Nguồn: Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội)

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------

GIẤY CAM ĐOAN

Kính gửi: - Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia

- Lãnh đạo Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc Gia

Họ và tên học viên: Nguyễn Ngọc Hà

Ngày, tháng, năm sinh: 24/10/1978

Cơ quan công tác: Công an phường Gia Thụy - Quận Long Biên - Thành phố

Hà Nội.

Theo Quyết định số: 3809/QĐ-HCQG ngày 15 tháng 10 năm 2018 của Giám

“VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT

đốc Học viện, em thực hiện luận văn về đề tài:

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ

CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN”

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03

Người hướng dẫn: PGS -TS Nguyễn Thị Thu Hà

Cơ quan công tác của người hướng dẫn: Học viện Hành chính Quốc gia

1. Em xin cam đoan về các nội dung sau khi thực hiện luận văn:

2. Đề tài luận văn không thuộc lĩnh vực bảo mật theo quy định của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền.

3. Danh mục tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn được phép công

bố công khai và được trích dẫn theo quy định.

4. Các kết quả, số liệu được trích dẫn trong luận văn trung thực, có nguồn gốc

rõ ràng, đáng tin cậy và không thuộc Danh mục bí mật nhà nước.

Em xin chịu trách nhiệm về những nội dung cam đoan trên trước pháp luật./.

Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2018

Người viết đơn

(Ký và ghi rõ họ tên)