BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN NGỌC HÀ
VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ
CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN NGỌC HÀ
VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ
CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS -TS Nguyễn Thị Thu Hà
HÀ NỘI – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, tài
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài
liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ và chính xác!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Ngọc Hà
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ quản lý
công tại Học viện Hành chính Quốc gia, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
- Toàn thể giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình
truyền đạt những tri thức mới, những kinh nghiệm thực tiễn phong phú giúp tôi
không ngừng nâng cao khả năng nhận thức và vận dụng thực tiễn vào công tác.
- Lãnh đạo và cán bộ chiến sĩ Công an quận Long Biên thành phố Hà
Nội đã hỗ trợ tôi trong việc cung cấp số liệu, xử lý thông tin, các ý kiến
chuyên gia trong quá trình thực hiện hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
- PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà đã dành thời gian quý báu tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn tôi đã dành nhiều thời
gian và công sức. Tuy đã cố gắng, nỗ lực nhưng trong giai đoạn đầu của
nghiên cứu khoa học, có nhiều kiến thức lý luận và thực tiễn nghiên cứu lần
đầu tôi được tiếp cận, vì vậy luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và đồng nghiệp giúp
tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Ngọc Hà
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ANCT : An ninh chính trị
ANQG : An ninh quốc gia
ANTĐ : An ninh Thủ đô
ANTT : An ninh trật tự
BCA : Bộ Công an
CAHN : Công an Hà Nội
CAND : Công an nhân dân
CATP : Công an Thành phố
CBCS : Cán bộ, chiến sỹ
CMND : Chứng minh nhân dân
CSKV : Cảnh sát khu vực
CSND : Cảnh sát nhân dân
QLHC : Quản lý hành chính
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
TTXH : Trật tự xã hội
UBND : Ủy ban nhân dân
VPPL : Vi phạm pháp luật
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ................................................................................................................. 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ......................... 8
1.1. Khái niệm chung ................................................................................ 8
1.2.Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ...................................... 12
1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát quản
lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ......................... 21
Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long
Biên thành phố Hà Nội ................................................................... 30
2.1. Các yếu tố tác động đến vai trò quản lý cư trú của lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận
Long Biên thành phố Hà Nội ............................................................ 30
2.2. Thực trạng công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát
quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận Long Biên,
thành phố Hà Nội ............................................................................. 35
2.3. Đánh giá chung ................................................................................ 56
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của lực
lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong
quản lý cư trú tại quận Long Biên thành phố Hà Nội ................ 66
3.1. Phương hướng nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát quản
lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú ........................ 66
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại địa bàn
quận Long Biên thành phố Hà Nội ................................................... 67
Kết luận ........................................................................................................... 93
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Quản lý cư trú là một nội dung cơ bản trong quản lý hành chính về
ANTT. Tiến hành công tác quản lý cư trú góp phần tạo điều kiện tối đa để
công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, phục vụ cho công tác
quản lý xã hội của Nhà nước và công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh
chống tội phạm và các hành vi VPPL, tệ nạn xã hội, trong đó lực lượng Cảnh
sát QLHC về TTXH đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Với vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của cả nước,
Hà Nội có sức hút lớn đối với người dân từ tỉnh khác, các quốc gia trên thế
giới đến làm việc, học tập, sinh sống, du lịch... Tuy nhiên, sự gia tăng cơ học
về dân số trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tạo ra những vấn đề tiêu cực
bất ổn về an ninh trật tự, quản lý cư trú... Quận Long Biên là quận được thành
lập trên cơ sở tách ra từ huyện Gia Lâm và có vị trí về phía Bắc sông Hồng,
Thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn diễn ra nhiều hoạt động kinh tế xã hội, tập trung
nhiều thành phần dân cư, nơi tập trung đầu mối giao thông, giao thương,
trung chuyển đi, về của các tỉnh phía về phía Bắc; Quận Long Biên có ga Gia
Lâm và bến xe ô tô liên tỉnh Gia Lâm là những trọng điểm phức tạp về trật tự
công cộng, nhiều khu đô thị mới được thành lập.Trong những năm qua, chính
quyền các cấp đã tăng cường công tác chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ
chuyên môn thực hiện nghiêm công tác đăng ký, quản lý cư trú, trong đó có
việc phát huy tối đa vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong
quản lý cư trú.
Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an
quận Long Biên đã có rất nhiều đóng góp tích cực, ưu điểm trong quản lý cư
trú, góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.Tuy nhiên, việc phát huy vai
1
trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú của vẫn còn
tồn tại, hạn chế như việc tổ chức thực hiện, áp dụng Luật Cư trú vẫn còn nhiều
khó khăn, bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế; Công tác tuyên truyền,
hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện quản lý cư trú chưa được phát huy
hiệu quả; Hệ thống phương tiện, trang thiết bị như máy móc, phần mềm,
phương tiện đi lại, hồ sơ quản lý còn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình
mới, việc quản lý vẫn còn thủ công; Đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện công tác
quản lý cư trú còn thiếu, nhiều cán bộ còn hạn chế về nhận thức pháp luật,
nghiệp vụ và các kỹ năng công tác khác; Tình trạng cán bộ xa rời địa bàn, chưa
làm tốt trong công tác tuyên truyền; hoạt động kiểm tra, giám sát tại địa bàn
chưa thực sự chặt chẽ; Cơ chế quản lý người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh
viên trên địa bàn quận chưa hợp lý; Số lượng CBCS thực hiện nhiệm vụ quản
lý cư trú trên địa bàn còn thiếu; Sự phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH với các lực lượng khác vẫn nặng về hình thức, nội dung chưa đồng bộ,
phương pháp tiến hành chưa thực sự hiệu quả; Nhiều khu đô thị, chung cư cao
tầng được xây dựng mới, kéo theo hàng nghìn hộ, nhân khẩu về cư trú nhưng
quá trình quy hoạch, phê duyệt chưa có sự tham gia đóng góp ý kiến của Cảnh
sát QLHC về TTXH dẫn đến khó khăn trong bố trí cán bộ, tổ chức công tác
quản lý cư trú. Tình hình thực tiễn trên đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi, nâng cao
hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH
tại địa bàn cơ sở trong quản lý cư trú.
Dưới góc độ lý luận, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về vai
trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý
nhà nước về an ninh trật tự, tuy nhiên thời gian nghiên cứu đã lâu, chưa đi sâu
trực tiếp vào công tác quản lý cư trú, đặc biệt trên địa bàn quận Long Biên
thành phố Hà Nội. Đây vẫn là khoảng trống đòi hỏi cần được nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện. Chính vì vậy, việc chọn vấn đề: “Vai trò của lực lượng
2
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú - từ thực
tiễn quận Long Biên thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn Thạc sĩ có ý
nghĩa thiết thực trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
cư trú và quản lý cư trú, vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH
trong quản lý cư trú. Có thể kể đến các công trình, đề tài sau: đề tài khoa học
cấp Bộ Công an năm 2006 của GS- TS Nguyễn Xuân Yêm: “Đổi mới quản
lý cư trú của công dân Việt Nam trong tình hình hiện nay”; Quản lý nhà
nước về cư trú - thực trạng và giải pháp (từ thực tiễn thành phố Hà Nội),
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Ẩn, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia năm 2009; “ Quản lý cư trú - Qua thực tiễn ở Hải Phòng”,
Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Tư, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2014. Bên cạnh đó còn có một số bài viết chuyên đề như: “Một số vấn
đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu trong xây dựng Luật Cư trú Việt
Nam” đăng trên tạp chí CAND tháng 7 năm 2007 của PGS, TS Đinh Trọng
Hoàn; bài viết: “Mô hình quản lý cư trú theo Luật cư trú ở Việt Nam trong
tình hình mới” của GS, TS Nguyễn Ngọc Anh đăng trên tạp chí CSND
tháng 8 năm 2008; bài viết “Thay đổi bước ngoặt trong quản lý cư trú”
đăng trên báo An ninh Thủ đô tháng 11 năm 2017; bài viết “Nâng cao hiệu
quả công tác đăng ký, quản lý cư trú phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo
đảm an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hải
Phòng” của tác giả Vũ Thanh Chương đăng trên tạp chí CSND tháng 3 năm
2018...
Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề
mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú. Nhưng đến nay chưa có công trình
3
nghiên cứu nào đi sâu về việc tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú trên địa
bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Có thể khẳng định, đề tài “Vai trò
của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư
trú - từ thực tiễn quận Long Biên thành phố Hà Nội” là đề tài đầu tiên nghiên
cứu về khía cạnh này tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp, phân tích những kiến thức lý luận và
đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật
tự xã hội trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội
luận văn góp phần đưa ra một số giải pháp cho việc nâng cao vai trò của lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long
Biên, Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu, hệ thống hóa, bổ sung làm rõ lý luận vai trò của lực
lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.
+ Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng cư trú, thực trạng vai trò của
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú trên địa bàn quận
Long Biên, thành phố Hà Nội.
+ Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả vai trò của lực lượng Cảnh sát
quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú trên địa bàn quận
Long Biên thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội
trong quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
4
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu vai trò của lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH trong quản lý cư trú đối với công dân Việt Nam trên địa bàn
quận Long Biên thành phố Hà Nội gắn liền với các công tác quản lý thường
trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng, xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu
về dân cư, cư trú.
+ Về đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu trong phạm vi hoạt
động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH chuyên môn thuộc Đội Cảnh
sát QLHC về TTXH ở Công an quận và lực lượng Cảnh sát khu vực tại Công
an phường.
+ Địa bàn nghiên cứu: Địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.
+ Phạm vi thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt các chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước,
phương châm, nguyên tắc của Ngành Công an trong quản lý về an ninh, trật
tự nói chung, trong công tác quản lý cư trú nói riêng.
-Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu hệ thống các giáo trình,
tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, nghiên cứu hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý cư trú theo chức năng
của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Qua đó, tác giả đã bổ sung cách
nhìn tổng quát, các vấn đề đã được các tài liệu chỉ ra về lý luận, thực tiễn của
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp được sử dụng
xuyên suốt trong nội dung luận văn để làm rõ các vấn đề lý luận, đánh giá
5
đúng tình hình thực trạng. Trên cơ sở tổng hợp các số liệu, thông tin từ các
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Công an quận, đội Cảnh sát QLHC
về TTXH, Công an các phường, qua đó xây dựng thành hệ thống bảng phụ
lục, biểu đồ để so sánh về dữ liệu dân cư qua các năm.
+ Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ, trao đổi khoa học với cán bộ thực
tiễn nhiều kinh nghiệm trực tiếp thực hiện quản lý cư trú. Mặt khác, trao đổi
với cán bộ thực tiễn làm công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên,
thành phố Hà Nội để làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện
công tác này. Ngoài ra, phương pháp chuyên gia còn được sử dụng khi trao
đổi, tham vấn các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về những vấn đề lý luận có
liên quan đến đề tài luận văn. Đồng thời, xin ý kiến chuyên gia về bố cục, nội
dung phân tích trong luận văn, ngôn ngữ, văn phong trong quá trình hoàn
thiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần hoàn thiện lý luận vai trò của
lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú
của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH và góp phần xây dựng hệ thống tài
liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu về chuyên ngành quản lý hành
chính về ANTT.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn trực tiếp đánh giá, phân tích tình hình VPPL về cư trú; thực
trạng hoạt động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH về cư trú trên địa
bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Từ đó, tìm ra những hạn chế, nguyên
nhân của những tồn tại và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vai
trò công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trên địa
bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội.
6
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể được sử dụng nhằm giúp cho lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên thành phố Hà Nội
chỉ đạo, tiến hành quản lý cư trú phục vụ trong quản lý xã hội và phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, nội dung luận văn được cấu trúc thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.
Chương 2: Thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long Biên thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận
7
Long Biên thành phố Hà Nội.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG
QUẢN LÝ CƯ TRÚ
1.1. Khái niệm chung.
1.1.1. Khái niệm về cư trú.
Theo Giản yếu Hán - Việt từ điển giải thích: “Cư trú là ở tại một chỗ
nào trong một thời gian dài”[1,tr.23].
Trong lịch sử, vấn đề cư trú đã được chế độ phong kiến quan tâm nhằm
phục vụ cho chính sách bình định, đánh thuế, di dân và đi lính. Công dân khi
đi ra khỏi địa bàn nơi họ sinh sống thường xuyên phải khai báo với chính
quyền. Nghĩa của từ cư trú qua các giai đoạn gắn với sự đa dạng trong hoạt
động ở, nghỉ, đi lại của công dân và trong góc độ pháp luật đã dẫn đến sự đa
dạng trong cách hiểu.
Cư trú theo nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt xác định là:“sự hiện diện
của cá nhân tại một số nơi ở”[46, tr.17]. Một người có thể cư trú ở hai hoặc
nhiều nơi, như trong một thành phố và người ở trong nước, nhưng chỉ có một
nơi cư trú mang tính ổn định. Cư trú có nghĩa là sống tại một địa phương cụ
thể, nơi cư trú sinh sống tại địa phương đó với ý định cố định và lâu dài.
Tự do cư trú, đi lại là một trong những quyền cơ bản của công dân
được khẳng định tại Điều 23 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013: "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong cả nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định"[40, tr.15]. Như vậy, quyền cư trú của công dân là một
trong những quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ. Công dân có quyền sống,
8
làm việc, cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Điều 1 Luật Cư trú 2006 quy định:
“Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị
trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú”. [42, tr.5]. Cư trú của công dân
được xác định tại từng vị trí theo địa giới hành chính phường, xã, thị trấn
bằng hai hình thức đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú với cơ quan
Công an.
Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật Cư trú và các
quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký
thường trú, tạm trú thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký thường trú, tạm trú. Tuy nhiên, quyền tự do cư trú của công dân chỉ
bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định. Để đảm bảo thực hiện quyền cư trú của
công dân, Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp khác nhau như bảo đảm quyền
tự do cư trú của công dân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền tự do
cư trú của công dân phải bị xử lý nghiêm minh. Mặt khác, nhà nước có chính
sách và biện pháp đồng bộ để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do cư trú
của công dân. Đồng thời, nhà nước bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, nguồn
nhân lực, đầu tư phát triển công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho hoạt động đăng
ký về cư trú.
Như vậy, có thể hiểu: Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa
điểm thuộc xã, phường, thị trấn, huyện đảo nơi không tổ chức đơn vị hành
chính cấp xã dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú có đăng ký với cơ quan
có chức năng quản lý cư trú.
1.1.2. Khái niệm quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi ba quyền
9
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cơ chế đó, quyền lập pháp được trao
cho một cơ quan duy nhất thực hiện là Quốc hội. Ngoài chức năng chủ yếu là
lập pháp, quyền hành pháp được trao cho Chính phủ và bộ máy hành chính
địa phương thực hiện bao gồm quyền lập quy và điều hành hành chính, quyền
tư pháp được trao cho hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân các cấp và hệ thống
Tòa án nhân dân các cấp thực hiện.
Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người phục vụ đảm bảo
ANTT và phát triển đất nước. Quản lý nhà nước có nội dung và đối tượng điều
chỉnh rất rộng, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, như về
kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông
tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội,... trong đó, quản lý cư trú là một bộ phận của quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự. Để quản lý xã hội, Nhà nước quản lý nhiều đối tượng khác nhau, trong
đó con người là đối tượng cần chú ý nhất. Để quản lý con người, nhà nước thực
hiện các nội dung, biện pháp khác nhau trong đó có quản lý cư trú.
Nhà nước giao cho Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý cư trú và
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành
quản lý toàn diện hoạt động cư trú của công dân. Hiện nay, các lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH chuyên môn thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú bao
gồm: Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; Cảnh sát đăng ký, quản lý dữ liệu quốc gia về dân cư; CSKV tại các địa
bàn có bố trí Công an chính quy. Quản lý cư trú là quá trình các lực lượng
chức năng dựa vào các quy định của pháp luật để tổ chức hoạt động đăng ký,
thực hiện công tác quản lý đối với hoạt động cư trú của công dân nhằm phục
vụ hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, bảo vệ vững chắc quốc phòng, an
ninh, đảm bảo việc thực hiện nghiêm quyền và nghĩa vụ của công dân.
10
Quản lý cư trú gồm hai bước lớn là tổ chức đăng ký và tiến hành việc
quản lý các nội dung có liên quan. Các nội dung cụ thể để thực hiện hoạt động
đăng ký, quản lý thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng. Để thực hiện tốt các
nội dung đó, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH thực hiện công tác điều tra
nghiên cứu nắm tình hình về hoạt động cư trú; trực tiếp hoặc phối hợp tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện các quy định về cư trú; tổ
chức tiếp nhận, giải quyết các hồ sơ đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm
vắng, thông báo lưu trú, điều chỉnh, bổ sung thông tin, hay hồ sơ quản lý cư
trú; sử dụng công tác nghiệp vụ cơ bản; kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính
trong quá trình công dân cư trú, kinh doanh cho thuê lưu trú trên địa bàn được
phân công phụ trách, tiến hành việc phối hợp, hợp tác quốc tế trong quản lý
cư trú,… Trong quá trình thực hiện quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy định của ngành
Công an. Thực hiện quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH
với nhiều mục đích khác nhau như thực hiện quản lý xã hội cho Nhà nước,
phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm và đảm bảo cho công dân thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.
Như vậy, có thể hiểu: “Quản lý cư trú của Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội là quá trình các chủ thể theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động thường trú, tạm
trú, tổ chức tiếp nhận, quản lý lưu trú và tạm vắng đối với công dân Việt Nam
tại các phường, thị trấn hoặc huyện đảo nơi chưa tổ chức đơn vị hành chính
cấp xã nhằm phục vụ công tác quản lý dân cư của Nhà nước, góp phần phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, đảm
bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân[30, tr.17].
1.1.3. Khái niệm về vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú
11
Vai trò thường là từ chỉ tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng, dùng
để nói về vị trí chức năng, nhiệm vụ, mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng
trong một hoàn cảnh, bối cảnh và mối quan hệ nào đó. [37, tr.148].
Ví dụ : Vai trò của Đảng đối với sự phát triển đất nước, vai trò của tác
phẩm văn học nào đó đối với sự nghiệp sáng tác văn học của tác giả, vai trò
của từ đối với câu...
Vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội
trong quản lý cư trú là vị trí, chức năng, nhiệm vụ tầm quan trọng của lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đối với hoạt động quản lý cư trú của công
dân nhằm thực hiện các mục đích về quản lý cư trú trong khuôn khổ quy định
của pháp luật nói chung, pháp luật về cư trú nói riêng.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú
1.2.1. Điều tra nghiên cứu, nắm tình hình về đối tượng quản lý cư trú
và các vấn đề có liên quan
Tập trung đi sâu nắm vững những vấn đề cơ bản về từng hộ gia đình và
từng người từ đủ 14 tuổi trở lên. Lực lượng trực tiếp tiến hành đăng ký, quản
lý thường trú phải có kế hoạch thường xuyên đi sâu điều tra nghiên cứu nắm
vững tình hình, các thông tin, tài liệu về từng người dân ở từng địa bàn. Cần
nắm vững tổng số, tình hình đặc điểm, tính chất, sự di biến động và những
vấn đề thay đổi về nơi cư trú của từng người trong hộ gia đình đó, số hộ gia
đình đã đăng ký thường trú và số đang có mặt trên địa bàn nhưng chưa được
đăng ký thường trú, lý do và các biện pháp đã áp dụng giải quyết đối với từng
trường hợp. Chú ý nắm vững những hộ gia đình có những vấn đề đặc biệt
phức tạp như: Có người là đối tượng trong diện quản lý; có người là đối tượng
có nghi vấn hoạt động phạm tội; những hộ gia đình có mâu thuẫn tranh chấp
trong nội bộ, những người tham gia hoạt động làm nghề kinh doanh có điều
12
kiện về ANTT,... để có kế hoạch quản lý cho phù hợp.
Đối với cá nhân thường trú, tạm trú hiện đang cư trú tại địa bàn, từ đủ
14 tuổi trở lên đều phải điều tra nắm vững 4 nội dung yêu cầu cụ thể về:lai
lịch bản thân; mối quan hệ gia đình; nghề nghiệp, đời sống kinh tế, thái độ
chính trị hiện tại. Nắm vững các thông tin về số lượng người lưu trú, các
thông tin lai lịch của nhân khẩu lưu trú, mục đích lưu trú,...
1.2.2. Tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện quy
định về cư trú
Thông qua quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, Cảnh
sát QLHC về TTXH thường xuyên thực hiện nội dung công tác tuyên truyền,
phổ biến các kiến thức pháp luật về cư trú cho quần chúng nhân dân. Nội
dung tuyên truyền tập trung vào các chính sách của Đảng, Nhà nước trong
vấn đề về cư trú. Quy định của pháp luật có liên quan về chế độ đi lại, thường
trú, tạm trú, tạm vắng, lưu trú, quy định về quản lý các ngành nghề kinh
doanh cho thuê lưu trú để người dân nắm rõ và thực hiện nghiêm túc, đặc biệt
là các quy định mới được ban hành. Giải thích các quy định, trình tự thủ tục
giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú để công dân
thực hiện quyền của mình, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ có liên quan. Một
nội dung quan trọng khác là vận động quần chúng nhân dân đồng lòng, ủng
hộ, hỗ trợ Cảnh sát QLHC về TTXH trong thực hiện công tác quản lý cư trú
như đóng góp ý kiến, hỗ trợ trong việc thu thập dữ liệu quốc gia về dân cư,
hợp tác trong công tác kiểm tra, bổ sung thông tin cư trú, giải quyết các
vướng mắc, tuyên truyền tới công dân khác,...
Nội dung tuyên truyền tập trung đi sâu hướng dẫn nhân dân nắm và thực
hiện các quy định trong Luật Cư trú, các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Đồng thời phải nắm vững các văn bản, hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Công an và
các cơ quan chức năng trong quản lý cư trú. Những nội dung tuyên truyền phải
13
thiết thực, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với khả năng nhận thức của
người dân, gắn với quản lý cư trú. Các cơ quan chức năng, Công an các địa
phương cần tập trung thể chế hoá các quy định quản lý cư trú thành các nội
quy, quy ước để mọi người dân, cơ quan, tổ chức dễ nắm và thực hiện.
Quá trình tuyên truyền, vận động thực hiện các nội dung, cần phải khai
thác và dựa vào các lực lượng nòng cốt, các tổ chức, đoàn thể quần chúng và
gắn liền với các cuộc vận động lớn ở từng địa bàn, khu vực, cụm dân cư.
Ngoài việc sử dụng các hình thức, phương tiện tuyên truyền tập trung như:
Loa, đài, báo chí, truyền thanh, truyền hình,... cần khai thác sử dụng kết hợp
với các hình thức vận động cá biệt. Trong tuyên truyền vận động cần chú ý đi
sâu vào việc hướng dẫn những nội dung yêu cầu cụ thể đối với từng trường
hợp để người dân có thể dễ dàng tham gia thực hiện việc quản lý thường trú.
1.2.3. Tổ chức đăng ký cư trú cho công dân
Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu,
điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết
một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Thủ tục hành chính nhà
nước rất đa dạng, bao gồm nhiều hệ, loại do nhiều cơ quan ban hành, trên các
lĩnh vực quản lý khác nhau, trong đó có thủ tục hành chính trong quản lý về
thường trú. quản lý cư trú, đặc biệt đăng ký cư trú là một trong những biện
pháp quan trọng của Nhà nước trong xác định quyền cư trú của công dân trên
một địa bàn nhất định. Qua công tác đăng ký cư trú giúp cơ quan Công an
nắm được số người đã đăng ký cư trú và người cư trú nhưng chưa đăng ký cư
trú trên địa bàn phục vụ cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước như thống
kê dân số; quy hoạch, bố trí dân cư; đăng ký nghĩa vụ quân sự; thực hiện bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; trả lương hưu cho người về hưu,... và công tác
nghiệp vụ của ngành Công an. Đồng thời, đây là cơ sở để các cơ quan thống
kê, tổng hợp số liệu, tài liệu về dân số, tình hình dân cư cung cấp cho Nhà
14
nước, các cấp, các ngành nghiên cứu sử dụng trong số mặt công tác quản lý
xã hội của Nhà nước. Đảm bảo quyền tự do cư trú hợp pháp của công dân,
phục vụ lợi ích chính đáng và đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình theo pháp luật. Đăng ký cư trú bao gồm đăng ký thường
trú, đăng ký tạm trú, đăng ký lưu trú và khai báo tạm vắng. Tuỳ vào từng
trường hợp khác nhau, ngành Công an có sự phân công thực hiện công tác
đăng ký khác nhau như đối với địa bàn thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thị xã,
quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương do lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH của Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đăng ký thường
trú, đối với địa bàn xã, thị trấn thuộc huyện trực thuộc tỉnh do Công an cấp xã
tiến hành đăng ký thường trú; đối với đăng ký tạm trú, tạm vắng, lưu trú do
Công an cấp phường, xã, thị trấn tiến hành đăng ký.
1.2.4. Rà soát, điều tra, phân loại nhân khẩu
Với mục đích trên, quá trình tiến hành quản lý cư trú đòi hỏi phải đầy
đủ, chính xác, khách quan, toàn diện, thường xuyên và kịp thời, phải đi sâu
nắm vững cả những mặt tốt, mặt xấu, mặt tích cực và mặt tiêu cực của mỗi hộ
gia đình và từng cá nhân đã đăng ký cư trú và chưa đăng ký cư trú. Tập trung
đi sâu nắm vững những vấn đề cơ bản về từng hộ gia đình và từng người từ
đủ 14 tuổi trở lên. Để đảm bảo yêu cầu trên, lực lượng Công an, đặc biệt là
các lực lượng trực tiếp tiến hành quản lý cư trú ở cơ sở phải có kế hoạch
thường xuyên đi sâu điều tra nghiên cứu nắm vững tình hình, các thông tin,
tài liệu về từng người dân ở từng địa bàn, khu vực. Quá trình tiến hành cần
tập trung thu thập các thông tin, tài liệu sau:
Đối với các hộ gia đình cần phải nắm vững tổng số, tình hình đặc điểm,
tính chất, sự di biến động và những vấn đề thay đổi về nơi cư trú, của từng
người trong hộ gia đình đó. Phải nắm vững được số hộ gia đình đã đăng ký cư
trú và số đang có mặt trên địa bàn nhưng chưa được đăng ký cư trú, lý do và
15
các biện pháp đã áp dụng giải quyết đối với từng trường hợp. Tập trung đi sâu
nắm vững những hộ gia đình có những vấn đề đặc biệt phức tạp như: Có
người là đối tượng trong diện quản lý; có người là đối tượng có nghi vấn hoạt
động phạm tội; những hộ gia đình có mâu thuẫn tranh chấp trong nội bộ,
những người tham gia hoạt động làm nghề kinh doanh có điều kiện về
ANTT,... để kịp thời có các kế hoạch và biện pháp quản lý cho phù hợp.
Đối với mỗi hộ gia đình cần nắm vững những đặc điểm về nhân khẩu
học bao gồm: chủ hộ và những người hiện có trong hộ gia đình, nắm được đặc
điểm từng người theo yêu cầu quản lý. Mỗi nhà ở tập thể, nhà chung cư ngoài
việc phải nắm được đặc điểm, tính chất của nhà ở tập thể, nhà chung cư đó
còn phải đi sâu nắm vững các đặc tính, tính chất và sự hoạt động, việc chấp
hành chính sách, pháp luật, các quy định về cư trú và các quy định khác của
địa phương, của từng cá nhân trong nhà ở tập thể, nhà chung cư. Kịp thời nắm
bắt những vấn đề phức tạp liên quan đến ANTT đối với mỗi hộ gia đình, nhà
ở tập thể, nhà chung cư về việc thực hiện các quy định về đăng ký, quản lý cư
trú để có biện pháp giải quyết cụ thể.
Đối với từng cá nhân đã đăng ký cư trú không phải trong các hộ gia
đình hiện có mặt trên địa bàn đều phải được tiến hành quản lý. Đối với tất cả
số cá nhân cư trú hiện đang cư trú tại địa bàn, từ đủ 14 tuổi trở lên đều phải
điều tra nắm vững 4 nội dung yêu cầu cụ thể về: lai lịch bản thân; mối quan
hệ gia đình; nghề nghiệp, đời sống kinh tế, thái độ chính trị hiện tại.
Trong quá trình điều tra nắm vững tình hình về những người từ đủ 14
tuổi trở lên cần có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số trường hợp sau
đây: những người được coi là đối tượng nằm trong diện quản lý, giáo dục ở
địa bàn cơ sở; những người có lai lịch không rõ ràng hoặc có những vấn đề
nghi vấn về chính trị, hình sự, có những quan hệ bất minh về kinh tế, hình sự,
ma tuý,... cần tìm hiểu để có kết luận; những người mới chuyển đến lưu trú
16
hoặc tạm trú tại địa bàn và có những thay đổi về cư trú.
1.2.5. Kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm trong thực hiện các
quy định về cư trú của các cơ quan, cá nhân
Biện pháp kiểm tra, kiểm soát thực hiện các quy định về cư trú không
thể thiếu trong các hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, không có kiểm tra
hướng dẫn thì coi như không có tổ chức thực hiện. Trong quản lý cư trú, vấn
đề kiểm tra, hướng dẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, nó có tính chất
quyết định đến chất lượng và hiệu quả của cả quá trình công tác. Vì vậy, đi
đôi với việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia thực hiện các quy
định về thường trú, điều tra nghiên cứu nắm chắc tình hình về cư trú, các cơ
quan có trách nhiệm phải tiến hành kiểm tra hướng dẫn, phát hiện và xử lý
các trường hợp vi phạm các quy định trong đăng ký, quản lý cư trú. Việc
kiểm tra hướng dẫn không phải chỉ tiến hành có tính chất định kỳ, hình thức
mà phải được tiến hành một cách thường xuyên, có hệ thống.
Theo quy định hình thức kiểm tra cư trú được tiến hành định kỳ, đột
xuất hoặc do yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn
ANTT. Đối tượng kiểm tra cư trú được áp dụng đối với công dân Việt Nam,
hộ gia đình, cơ quan đăng ký cư trú các cấp, cơ quan tổ chức liên quan đến
quản lý cư trú. Nội dung kiểm tra việc đăng ký, quản lý cư trú bao gồm việc
triển khai và tổ chức thực hiện các nội dung đăng ký, quản lý cư trú; quyền và
trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức trong đăng ký, quản
lý cư trú và các nội dung khác theo pháp Luật Cư trú.
Cán bộ, chiến sĩ Công an được giao chuyên trách quản lý cư trú tại địa
bàn có quyền kiểm tra trực tiếp việc chấp hành pháp Luật Cư trú đối với công
dân, hộ gia đình, cơ quan tổ chức thuộc địa bàn quản lý, việc kiểm tra được
quyền huy động lực lượng quần chúng làm công tác bảo vệ ANTT ở cơ sở,
bảo vệ cơ quan doanh nghiệp, tổ chức cùng tham gia. Khi cơ quan Công an
17
cấp trên tiến hành kiểm tra cư trú tại địa bàn dân cư phải có cán bộ, chiến sĩ
Công an được giao chuyên trách quản lý cư trú tại địa bàn chứng kiến.
Việc kiểm tra, xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú cần đạt được
một số các nội dung yêu cầu cụ thể sau: Việc kiểm tra phải được tiến hành
thường xuyên có hệ thống, kết hợp chặt chẽ giữa việc kiểm tra định kỳ với
kiểm tra đột xuất, có trọng tâm trọng điểm. Quá trình tiến hành kiểm tra phải
có chương trình, kế hoạch và các nội dung yêu cầu cụ thể. Quá trình kiểm tra,
xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú phải nắm chắc tình hình việc chấp
hành các quy định về đăng ký, quản lý cư trú của từng cá nhân, tổ chức ở từng
khu vực, địa bàn. Kịp thời phát hiện những vấn đề vướng mắc, những bất hợp
lý để điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi. Phát hiện những trường hợp lợi dụng đăng
ký, quản lý thường trú để VPPL hoặc thực hiện không đúng quy định về đăng
ký, quản lý cư trú. Thông qua kiểm tra chủ động áp dụng các biện pháp giải
quyết xử lý vi phạm theo đúng phạm vi thẩm quyền. Quá trình kiểm tra cần
phát hiện các đối tượng từ địa phương khác đến hoạt động, các cá nhân, tổ
chức không chấp hành các quy định về đăng ký, quản lý cư trú, lợi dụng việc
cư trú để hoạt động VPPL,... để đề xuất các biện pháp giải quyết, xử lý.
Kịp thời phát hiện những tồn tại, thiếu sót của lực lượng Công an trong
quá trình tiến hành, những bất hợp lý, những cản trở, khó khăn phức tạp trong
đăng ký, quản lý cư trú để có biện pháp khắc phục hoặc đề xuất các biện pháp
khắc phục.
Nắm chắc tình hình, phát hiện những thiếu sót, bất hợp lý trong các quy
định về thủ tục, chế độ đăng ký, quản lý và các quy định trong các văn bản
hướng dẫn của Nhà nước và của từng địa phương kịp thời báo cáo đề nghị các
cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh các quy định trong đăng ký,
quản lý cư trú.
Nắm vững tình hình, số liệu về tình hình đăng ký, quản lý cư trú trong
18
từng thời gian đối với mỗi địa phương để phục vụ yêu cầu quản lý xã hội của
Nhà nước và việc thực hiện đường lối chính sách, các nội dung yêu cầu trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Công an.
Phát hiện các trường hợp vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú, kịp
thời nhắc nhở giáo dục hoặc xử lý, phát hiện các đối tượng có các biểu hiện
nghi vấn hoạt động phạm tội, các đối tượng truy nã, truy tìm các loại đối
tượng khác để kịp thời có biện pháp ngăn chặn, bắt giữ hoặc theo dõi giám
sát. Tuyên truyền, giáo dục, đôn đốc các cá nhân, tổ chức chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định của Nhà nước và địa phương về đăng ký, quản lý cư trú.
Việc kiểm tra định kỳ trong quản lý cư trú được tiến hành theo định kỳ
12 tháng một lần ở các địa phương. Việc kiểm tra đột xuất trong đăng ký,
quản lý cư trú được tiến hành áp dụng đối với từng hộ gia đình, cá nhân đã
đăng ký thường trú, trong những trường hợp cần thiết đột xuất theo yêu cầu
chính trị, nghiệp vụ. Thông qua hình thức kiểm tra này chủ yếu nhằm phát
hiện các trường hợp vi phạm để kịp thời có biện pháp xử lý. Hình thức này
thường được áp dụng đối với những trường hợp đã nhiều lần vi phạm các quy
định về đăng ký, quản lý quản lý cư trú, đã được giáo dục mà không chịu sửa
chữa, cần có căn cứ cơ sở để xử lý, quản lý. Đồng thời được áp dụng đối với
những trường hợp có nhiều biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội, những hộ
nghi có đối tượng phạm tội lẩn trốn hoặc trường hợp cần kiểm tra nhằm phục
vụ cho các yêu cầu nghiệp vụ khác của lực lượng Công an.
Qua kiểm tra phát hiện những trường hợp vi phạm thì tuỳ theo tính chất
mức độ vi phạm mà vận dụng các hình thức xử lý cho phù hợp. Việc xử lý
phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước, Luật Xử lý vi phạm hành chính và
các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực ANTT. Nếu phát hiện các
trường hợp nghi vấn hoạt động phạm tội, phạm pháp quả tang, đối tượng có
lệnh truy nã, truy tìm phải hết sức thận trọng có kế hoạch và biện pháp kết
19
hợp với các lực lượng nghiệp vụ để thực hiện đạt hiệu quả cao.
1.2.6. Cập nhật, quản lý, khai thác hệ thống thông tin, tài liệu quản lý cư trú
Công tác đăng ký, quản lý cư trú là quá trình điều tra nghiên cứu về
người dưới góc độ ANTT và điều tra nghiên cứu về các biện pháp để quản lý
con người. Quá trình tiến hành nó không chỉ phục vụ yêu cầu trước mắt mà nó
còn có ý nghĩa phục vụ cho các yêu cầu lâu dài, là cơ sở và tạo tiền đề cho
cho các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an. Hơn nữa, các thông tin
tài liệu qua đăng ký, quản lý cư trú còn là cơ sở để các ngành, các cấp dựa vào
đó khai thác sử dụng. Hoạt động đăng ký, quản lý cư trú được xác định là
biện pháp quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý xã hội. Vì vậy, trong
quá trình tiến hành đăng ký quản lý quản lý cư trú không thể tiến hành qua
loa, đại khái cho xong hoặc mang tính chất hành chính đơn thuần. Đây là một
công tác thường xuyên, lâu dài gắn liền với việc thực hiện các nội dung khác
của quản lý hành chính nhà nước về ANTT, quá trình tiến hành đòi hỏi phải
có ý thức thu thập tài liệu, củng cố hồ sơ sổ sách phục vụ cho yêu cầu quản lý
trước mắt và lâu dài của lực lượng Công an.
Việc thu thập tài liệu về đăng ký, quản lý cư trú phải đảm bảo các yêu
cầu cụ thể sau đây: Quá trình thu thập tài liệu phải tiến hành thường xuyên có
hệ thống theo quy định ngay từ khâu đăng ký và các nội dung của biện pháp
quản lý thường trú. Các tài liệu phải phản ánh đầy đủ chính xác về từng hộ gia
đình, từng cá nhân thường trú và về quá trình tổ chức thực hiện đăng ký, quản
lý thường trú. Tài liệu qua hoạt động đăng ký quản lý cư trú phải đảm bảo
chính xác khách quan. Việc thu thập, tích luỹ, chuyển giao, lưu giữ và xử lý tài
liệu đăng ký, quản lý thường trú phải theo đúng nguyên tắc thủ tục quy định.
Những tài liệu cần phải thu thập tích luỹ phục vụ việc lập hồ sơ đăng
ký, quản lý cư trú bao gồm rất nhiều loại khác nhau. Trong đó chủ yếu là một
20
số loại tài liệu chính cần thiết sau đây: các tài liệu thu thập được thông qua
các nội dung của QLHC về ANTT có liên quan đến đăng ký, quản lý cư trú,
liên quan đến hoạt động của con người. Những tài liệu thu thập được qua việc
điều tra nắm tình hình về cư trú, thông qua các hoạt động đăng ký, quản lý cư
trú. Các tài liệu do quần chúng cung cấp, báo cáo, tố giác, đề nghị liên quan
đến việc đăng ký, quản lý cư trú. Tài liệu do các đối tượng VPPL hoặc các
nhân khẩu cư trú tự khai trong quá trình làm thủ tục đăng ký, quản lý.
Những tài liệu trên về đăng ký, quản lý thường trú không tồn tại ở một
nguồn, mà nằm rải rác ở các nguồn khác nhau. Do vậy, khi thu thập tích luỹ
cần phải kết hợp các biện pháp, các lực lượng tiến hành điều tra khai thác các
nguồn tài liệu có liên quan. Trong đăng ký, quản lý cư trú cần tập trung vào
các nguồn tài liệu chính đó là nguồn tài liệu nghiệp vụ thông qua các biện
pháp công tác nghiệp vụ trong đấu tranh phòng chống tội phạm lực lượng
Công an đã thu thập tích luỹ được, nguồn tài liệu do quần chúng phản ánh,
cung cấp và do các tổ chức, đoàn thể, ban ngành khác cung cấp. Trong quá
trình tiến hành cần phải kiểm tra đối chiếu so sánh các tài liệu thu thập ở các
nguồn để kết luận chính xác trước khi đưa vào lưu giữ trong tàng thư, cơ sở
dữ liệu về cư trú phục vụ cho việc khai thác, sử dụng.
Tài liệu thu thập được sau khi đã kiểm tra xác minh cần phải tích luỹ và
chuyển giao cho bộ phận tàng thư cơ sở dữ liệu để bảo quản, sắp xếp khai
thác sử dụng phục vụ cho các yêu cầu đặt ra. Việc chuyển giao, lưu giữ, khai
thác sử dụng tài liệu về đăng ký, quản lý thường trú phải tuân thủ các nguyên
tắc, thủ tục quy định về hồ sơ tài liệu nghiệp vụ của ngành và chế độ thông tin
nghiệp vụ trong lực lượng CAND.
1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát Quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.
1.3.1. Yếu tố thể chế chính trị, hệ thống pháp luật
21
Thể chế chính trị là hoạt động của các chính đảng, các tổ chức đại diện
nhóm lợi ích xã hội trong việc giành, chia sẻ và thực thi quyền lực nhà nước.
Nhà nước giữ vai trò trung tâm trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là sự phản ánh
cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Hệ thống chính
trị ở nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Các quyết sách chính trị của Đảng Cộng sản Việt
Nam là cơ sở chính trị, định hướng cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH trong quản lý cư trú, bởi vậy, hoạt động này mang tính
chính trị sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với chính trị, có cơ sở chính trị vững chắc.
Cụ thể là:
Thứ nhất, Nhà nước ban hành và và tổ chức thực thi các chính sách,
pháp luật dựa trên các quyết sách chính trị của Đảng để đưa các mục tiêu
chính trị của Đảng vào cuộc sống.
Thứ hai, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng, lực lượng
CAND và các cơ quan hành chính nhà nước nói chung tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật đã ban hành dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong
mỗi cơ quan. Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc ban
hành các nghị quyết và giám sát việc triển khai các nghị quyết đó.
Thứ ba, các hoạt động quản lý cư trú được triển khai thực hiện với sự
tham gia tích cực của đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước nói chung,
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng. Các đảng viên trong cơ quan
hành chính nhà nước nói chung, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói
riêng có nghĩa vụ gương mẫu thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước phù hợp với cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Các đảng
viên ưu tú của Đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ trong các cơ quan hành
chính nhà nước hợp thành đội ngũ những người lãnh đạo, các công chức cấp
22
cao, chuyên gia, chuyên viên... Thông qua đội ngũ này, các đường lối, chủ
trương của Đảng được chuyển hóa thành hoạt động cụ thể, sinh động trong bộ
máy nhà nước.
Thứ tư, hoạt động quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Hoạt động quản lý nhà nước chịu
sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức (Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc...), đồng thời cũng chịu sự kiểm tra, giám
sát của Đảng.
Hệ thống pháp luật về cư trú là cơ sở pháp lý của quản lý cư trú. Nhà
nước cũng như pháp luật là công cụ và phương tiện đảm đương vai trò dẫn dắt
và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối
với các thành viên trong xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phát
huy khả năng của mình để khởi nghiệp và phát triển. Pháp luật đảm đương vai
trò kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã
hội phát huy tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân
mình, đồng thời phát triển xã hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các
thành viên của xã hội nói riêng sẽ có điều kiện để phát triển.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về cư trú trong thời kỳ đổi mới và nhằm cụ thể hoá quy định của Hiến
pháp năm 1992 về quyển tự do cư trú công dân, Luật Cư trú đã được xây
dựng và ngày 29/11/2006 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XI đã thông qua,
có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2007. Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật cư trú (Luật số: 36/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013).
Có thể nói Luật Cư trú đã tạo được bước tiến mới trong việc tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về quản lý cư trú của Nhà nước
nói riêng.
Luật Cư trú quy định về quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ
23
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống.
Thủ tướng, các Bộ trưởng các bộ hữu quan (Bộ Công an, Bộ Tư pháp,
Văn phòng Chính phủ) đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thi hành.
Hệ thống pháp luật về cư trú phục vụ thiết thực và tác động lớn tới vai trò của
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú.
1.3.2. Yếu tố kinh tế xã hội, phong tục tập quán của địa phương
Hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay bao gồm: quy phạm
đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư,
những thể chế của các tổ chức xã hội và tổ chức tôn giáo... Tuy các quy phạm
xã hội ấy không mang tính cưỡng chế cao như quy phạm pháp luật, song lại
có tính đa dạng đặc biệt ở chỗ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cưỡng chế
với tự nguyện, xử phạt với giáo dục, răn đe với thuyết phục. Hơn nữa, các quy
phạm ấy không chỉ trực tiếp điều tiết mọi hành vi mà còn chế ước cả về
phương diện tư tưởng - tâm lý của từng người. Chính vì vậy, để việc quản lý
cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đạt hiệu quả cao, phản ánh
đầy đủ tính chất của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đối
với nước ta - một quốc gia đa dân tộc, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt việc
kết hợp giữa pháp luật với hệ thống các thiết chế xã hội khác, trong đó gần
gũi và trực tiếp nhất là yếu tố về đặc điểm kinh tế xã hội, phong tục, tập quán
địa phương.
Phong tục, tập quán là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị
quy định bởi cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế - xã hội phù hợp,
chúng bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Nếu
pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì phong tục, tập quán hướng đến
trật tự cộng đồng.
Phong tục, tập quán là: "Những thói quen đã được mọi người tuân thủ
24
tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy
như một phần luật pháp của địa phương", những quy tắc xử sự mang tính
cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong
một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Nó luôn chi phối, ràng buộc hành
vi của con người, buộc con người phải thích nghi, buộc phải tuân theo trong
quan hệ với nhau ở mức độ này hay mức độ khác và "Những quy chế trong
việc quản lý cộng đồng chỉ có thể được cộng đồng chấp nhận và thực hiện
một cách tự giác và nghiêm chỉnh, nếu chúng trở thành văn hoá, thành phong
tục, tập quán".
Các quy tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói
chung, các quan hệ mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực nói riêng.
Do đó, các thành viên của cộng đồng thường tin tưởng vào tính công bình,
sáng suốt, chính xác của các quy tắc xử sự này, chúng thường có tính hiệu lực
cao (đặc biệt, khi những phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức
hương ước hoặc luật tục). Trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội,
pháp luật từng bước được hoàn thiện, và các quan hệ xã hội từng bước được
pháp luật quy định thì phong tục, tập quán vẫn tồn tại và hỗ trợ cho việc thực
hiện pháp luật. Chính vì vậy, việc xác định và đánh giá đúng đắn mối quan hệ
tương hỗ giữa thể chế, hệ thống pháp luật và phong tục, tập quán có ý nghĩa
rất quan trọng trong phát huy vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH
trong quản lý cư trú.
Thực tế trong điều kiện hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh việc:
"quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc". Pháp luật của
chúng ta trong thời gian qua đã từng bước thể chế hoá quan điểm, đường lối
25
này của Đảng vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, như Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình,...
Điều 5, Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hoá tốt đẹp của mình"; Chỉ thị số 24/1998/CT/TTg ngày
19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước
quy ước của bản làng, thôn ấp, cụm dân cư cũng chỉ rõ: "Nội dung quy ước căn
cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với tình hình kinh tế văn
hoá, xã hội, phong tục, tập quán của địa phương", "duy trì và phát triển phong
tục, tập quán tốt đẹp ở cơ sở", kịp thời " phát hiện và đấu tranh chống các biểu
hiện tiêu cực sai trái hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục,
tập quán lạc hậu'”. Vì vậy, trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật, yếu tố
phong tục, tập quán cần phải được quan tâm thoả đáng. Điều này vừa làm
phong phú thêm pháp luật, vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh của pháp luật, phát
huy được pháp luật trong hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện phong tục tập quán.
Tuy không đóng vai trò là công cụ thực thi quyền lực cao nhất của nhà
nước nhưng phong tục tập quán trong điều kiện nhất định, có khả năng thay
thế pháp luật. Bởi trên thực tế, trình độ phát triển ở từng vùng, từng địa
phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn cả về trình độ phát
triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó, không phải lúc nào, ở đâu pháp luật
cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đặc biệt,
đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những vùng sâu, vùng xa thì những
quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của
họ, nhất là các quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao sẽ khó thâm nhập
vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống cộng đồng. Trong khi đó, phong tục, tập
quán với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp luật,
đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã
26
hội cụ thể, nhất là trong quá trình tự quản ở cộng đồng dân cư.
Sự ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến quản lý cư trú như là một
hiện tượng có tính quy luật. Phong tục, tập quán lạc hậu, phản tiến bộ sẽ trở
thành lực cản trong việc chấp hành pháp luật về cư trú. Ngược lại, phong tục,
tập quán tốt đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội
bộ, giải quyết các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt,
kịp thời, có tình, có lý các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với
điều kiện của từng địa phương bảo đảm ổn định trật tự xã hội và do vậy, sẽ hỗ
trợ cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật nói chung, ý thức
về pháp luật cư trú nói riêng. Đây vừa là nguồn bổ sung, vừa là môi trường
đưa pháp luật về cư trú vào cuộc sống, đồng thời là chất liệu quý để hoàn
thiện vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH khai thác nhằm nâng
cao hiệu quả về quản lý cư trú.
1.3.3. Yếu tố về tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực thực hiện hoạt động
quản lý cư trú
Cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nguồn lực con người luôn là vấn đề
quan trọng quyết định sức mạnh của đất nước nói chung, hoạt động quản lý
cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH nói riêng.
Con người là yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoạt động của tổ
chức: Một bộ máy muốn hoạt động cần có sự tham gia của con người. Một bộ
máy muốn hoạt động đạt hiệu quả cao cần có sự phối kết hợp giữa mọi người
trong tổ chức cùng thực hiện mục tiêu chung mang lại lợi ích cho cả một tập
thể, qua đó khai thác tiềm năng của con người nâng cao hiệu quả công việc
đồng thời nó cũng tạo ra cơ hội phát triển cho công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về cư trú.
Một tổ chức muốn hoạt động hiệu quả cần tái cấu trúc lại từ việc sắp
xếp lại nguồn lực về vật chất, sắp xếp lại công tác nhân lực theo hướng gọn
27
nhẹ, năng động nhất trong đó yếu tố con người mang tính quyết định. Do đó
việc sắp xếp, tìm kiếm người bố trí vào đúng vị trí, đúng cương vị là điều mà
các tổ chức quan tâm.
Cũng với sự phát triển của khoa học công nghệ và những thay đổi của
nền kinh tế thị trường buộc các nhà lãnh đạo, quản lý phải biết thích ứng. Do
đó việc tuyển chọn, điều động, sắp xếp, đào tạo nhân lực trong quản lý cư trú
đạt hiệu quả tối ưu là điều mà mỗi cơ quan, đơn vị Cánh sát QLHC về TTXH
cần quan tâm. Trong đó có các đặc điểm về trình độ lao động, độ tuổi, đặc
điểm về sức khỏe, phẩm chất, nhận thức chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, kỹ
năng giao tiếp, ứng xử, năng lực của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH ảnh
hưởng lớn tới chất lượng của hoạt động quản lý cư trú của lực lượng này.
1.4.4. Yếu tố cơ sở vật chất phục vụ việc quản lý cư trú
Yếu tố cơ sở vật chất có tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú. Khi cơ sở vật chất
được trang bị đầy đủ, tăng cường hiện đại hóa bàn, ghế, tủ, máy tính, điện
thoại, máy fax, máy photo coppy, giá kệ, hộp, cặp, bìa hồ sơ… theo đúng tiêu
chuẩn của ngành giúp lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH quản lý cư trú
được thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý cư trú như phần
mềm quản lý đăng kí nhân hộ khẩu, đăng ký văn bản đi, văn bản đến, quản lý
văn bản và lập hồ sơ trong môi trường mạng nhằm tiết kiệm được thời gian,
công sức và hạn chế khối lượng văn bản giấy ngày càng gia tăng. Ứng dụng
công nghệ mới vào công tác quản lý cư trú giúp lưu giữ thông tin được lâu
dài, ổn định, an toàn, rà soát, tìm kiếm dễ dàng hơn, nâng cao năng suất chất
lượng, hiệu quả công việc và khả năng hội nhập xu thế ứng dụng của xã hội
28
trong thời đại cách mạng 4.0.
Tiểu kết chương 1
Quản lý cư trú là một nội dung cơ bản trong quản lý hành chính về
ANTT. Tiến hành công tác quản lý cư trú góp phần tạo điều kiện tối đa
đểcông dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, phục vụ cho công tác
quản lý xã hội của Nhà nước và công tác phòng ngừa, phát hiện đấu tranh
chống tội phạm và các hành vi VPPL, tệ nạn xã hội.
Tại chương 1, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu hệ thống các giáo trình,
tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến công tác quản lý cư trú và vai trò của lực lượng Cánh sát
QLHC về TTXH, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về cư trú, quản lý cư trú và
vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú gồm:
Khái niệm cư trú, quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH;Các
phương pháp quản lý về cư trú đang được thực hiện trên thực tế. Đồng thời,
để làm rõ trách nhiệm, vai trò của các chủ thể trong tiến hành hoạt động quản
lý phức tạp này, tác giả đã tập trung phân tích vai trò, đặc điểm, chức năng,
nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú; Sự
phân công, phân cấp, mối quan hệ phối hợp giữa Cảnh sát QLHC về TTXH
với các cơ quan, tổ chức, lực lượng nghiệp vụ trong quá trình quản lý cư trú.
Đồng thời nêu lên các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH trong quản lý cư trú như: Yếu tố thể chế chính trị, hệ thống
pháp luật, yếu tố nguồn nhân lực, yếu tố kinh tế xã hội, phong tục tập quán
địa phương và yếu tố về cơ sở vật chất ảnh hưởng đến quản lý cư trú. Những
nghiên cứu tại Chương 1 là nền tảng cơ sở lý luận quan trọng định hướng
chính xác cho việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng vai trò
của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTTXH trong quản lý cư trú từ thực tiễn
29
địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ CƯ TRÚ
TẠI QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Các yếu tố tác động đến vai trò quản lý cư trú của lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận Long Biên
thành phố Hà Nội.
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội tác động đến vai trò quản
lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội tại
quận Long Biên thành phố Hà Nội
Quận Long Biên là một trong 30 quận huyện của Thủ đô Hà Nội, có
diện tích 60,38 km2, được thành lập theo nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày
6 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ, gồm 14 phường cụ thể: Ngọc Thụy,
Phúc Đồng, Phúc Lợi, Sài Đồng, Thạch Bàn, Thượng Thanh, Việt Hưng, Bồ
Đề, Gia Thụy, Cự Khối, Đức Giang, Giang Biên, Long Biên. Ngọc Lâm.
Quận Long Biên là cửa ngõ phía Bắc của thủ đô có vị trí chiến lược quan
trọng, là đầu mối trục giao thông về đường bộ nối liền thủ đô Hà Nội với các
tỉnh phía Bắcnhư: quốc lộ 1A, tuyến giao thông quốc lộ 5A, 5B (Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh), tuyến đường cao tốc liên tỉnh giao cắt, hai cầu giao
thông quan trọng là cầu Vĩnh Tuy, Chương Dương ...
Theo kết quả thu thập và nhập dữ liệu thông tin về quản lý nhân hộ
khẩu năm 2017, quận Long Biên có dân số gồm 73.088 hộ và 262.967 nhân
khẩu, mật độ bình quân 3850 người/km2. Trong đó: KT1 là 63.914 hộ với
207.113 nhân khẩu; KT2 là 4.867 hộ với 18.249 nhân khẩu; nhân khẩu lẻ với
2.868 nhân khẩu.Tỉnh ngoài đến tạm trú: 4.307 hộ với 17.653 nhân khẩu;nhân
30
khẩu lẻ = 16.013 nhân khẩu; Sinh viên: 1.071 nhân khẩu.
Năm 2017, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn quận đạt: 9,0 -
9,5%; GDP bình quân đầu người trên 75.000.000 đồng; Hàng năm, các doanh
nghiệp kinh doanh nhà ở đã và đang thực hiện thủ tục xây dựng hàng triệu
mét vuông diện tích nhà chung cư. Tuy nhiên, giá bán của các căn hộ còn quá
cao so với thu nhập của người dân. Điều này dẫn tới cư dân của quận Long
Biên Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện
chật chội, thiếu tiện nghi. Đa số các gia đình trẻ ở quận Long Biên thành phố
Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm. Điều này
cũng gây khó khăn cho công tác quản lý cư trú, đặc biệt là khó khăn trong
việc xác định chỗ ở hợp pháp để đăng ký cư trú.
2.1.2. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa bàn quận
Long Biên thành phố Hà Nội
2.1.2.1. Tình hình phạm pháp hình sự
Trong thời gian nghiên cứu từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2018,
trên địa bàn quận Long Biên đã xảy ra 1961 vụ phạm pháp hình sự, với mức
trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 400 vụ. Năm 2015, toàn quận đã phát hiện
448 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 67 vụ trọng án. Riêng trong 6 tháng
đầu năm 2018 cũng đã phát hiện 316 vụ, đã điều tra khám phá hơn 265 vụ,
các vụ việc khác vẫn đang tiếp tục được điều tra, làm rõ. Một số loại tội phạm
như giết người còn chiếm tỷ lệ cao, các tội trong nhóm tội phạm xâm phạm sở
hữu chiếm 71,3% tổng số vụ phạm pháp hình sự, xảy ra một số vụ cướp tài
sản với tính chất liều lĩnh, manh động. Bên cạnh đó là sự gia tăng của tội
phạm buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản... (Bảng phụ lục 2.1).
Trong quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH đã phát hiện nhiều trường hợp đối tượng tội phạm, trực tiếp
hoặc phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra trong trấn áp bắt giữ. Trong
31
tổng thời gian nghiên cứu đã phát hiện 33 vụ phạm pháp hình sự, với 48 đối
tượng. Đã làm thủ tục bàn giao cơ quan điều tra thực hiện các thủ tục theo
quy định. Năm 2015 phát hiện nhiều nhất với 21 vụ, 32 đối tượng, riêng 6
tháng đầu năm 2018 cũng đã xuất hiện 13 vụ, với 19 đối tượng.
Biểu đồ 1: Thể hiện tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Long
Biên từ năm 2014 đến tháng 6/2018 (nguồn: Công an quận Long Biên)
2.1.2.2. Tình hình vi phạm hành chính về cư trú
Từ năm 2014 đến hết tháng 6/2018, toàn quận đã phát hiện 1967 vụ,
2.342 trường hợp vi phạm liên quan đến công quản lý cư trú. Trong năm
2014, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện 397vụ với 495 trường
hợp vi phạm. Năm 2015, có số vụ việc xảy ra nhiều nhất trong 5 năm trở lại
đây với 474 vụ. Năm 2017, xảy ra với số lượng 443 vụ, 336 đối tượng. Chỉ
tính riêng 6 tháng đầu năm 2018 đã phát hiện 212 vụ việc, 256 đối tượng.
Trong các lỗi vi phạm được phát hiện thì các hành vi vi phạm quy định
về quản lý thường trú, tạm, trú, lưu trú, tạm vắng diễn ra phổ biến nhất. Từ
năm 2014 đến tháng 6/2018 đã phát hiện 1.579 vụ vi phạm lưu trú, tạm vắng,
32
chiếm 80,2%, các lỗi vi phạm khác là 388 vụ, chiếm 19.8 %. Trong đó, lỗi vi
phạm về khai báo lưu trú vẫn xảy ra nhiều nhất, sau đó tới vi phạm về thường
trú, vi phạm về tạm trú và tạm vắng. Số lượng các vụ vi phạm tăng lên khá
nhanh qua các năm, cụ thể năm 2014 chỉ có 397 vụ,đến 2015 đã lên đến 475
vụ (tăng 78 vụ). Riêng 6 tháng đầu năm 2018 đã phát hiện 212 vụ vi phạm
liên quan đến cư trú, trong đó có 156 vụ vi phạm về thường trú, tạm trú, lưu
trú, tạm vắng; lỗi khác là 56 trường hợp. (Bảng phụ lục 2.2).
Biểu đồ 2: Tình hình số vụ vi phạm hành chính về cư trú trên địa bàn
quận Long Biên, thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến tháng 6/2018 (Nguồn:
Công an quận Long Biên).
Đáng chú ý hiện nay là tình trạng người lao động ngoại tỉnh, học sinh
sinh viên từ tỉnh khác đến tạm trú, lưu trú trên địa bàn nhưng không làm các
thủ tục về tạm trú, tạm vắng; khách, bạn bè đến ở qua đêm, thậm chí ở trong
thời gian nhiều ngày nhưng không khai báo. Qua khảo sát tại một số phường có
nhiều nhà nghỉ, khách sạn cho thấy tình hình vi phạm về cư trú vẫn diễn ra
tương đối phức tạp.
Ví dụ, vào 23 giờ 40 phút ngày 09/8/2015, Đội CSĐT tội phạm về ma
33
túy, Công an quận Long Biên phối hợp với Công an phường Bồ Đề bất ngờ
kiểm tra một nhà nghỉ trên phường Bồ Đề. Qua kiểm tra phát hiện 7 thanh
niên gồm cả nam và nữ thuê để nghỉ nhưng đang có hành vi sử dụng ma túy
đá. Qua kiểm tra, có 5 trong số 7 đối tượng có kết quả dương tính với ma túy.
Lực lượng Công an đã thu giữ một gói ma tuý tổng hợp trọng lượng 0,332
gam. Ngày 09/7/2016, Công an quận Long Biên bắt giữ Nguyễn Thu Yến, 39
tuổi, trú tại phường Ngọc Lâm về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Yến
là đối tượng thường xuyên cung cấp ma túy cho một số khách tại các nhà
nghỉ, phòng trọ trên địa bàn.
Trong các vụ việc được phát hiện, hầu hết đều bị xử lý hành chính. Cụ
thể trong thời gian nghiên cứu, toàn quận đã xử lý hành chính 1967 vụ/2139
vụ việc phát hiện, chiếm 92% tổng số vụ việc. Đã phối hợp xử lý hình sự 108
vụ (chiếm 8%). Riêng trong 6 tháng đầu năm 2018, đã chuyển cơ quan điều
tra 11 vụ liên quan đến phạm pháp hình sự, 19 đối tượng. Trong tổng thời
gian nghiên cứu, đã xử phạt được 89.950.000 đồng nộp vào ngân sách nhà
34
nước.(Bảng phụ lục 2.3).
Biểu đồ 3: Tình hình xử lý vi phạm pháp luật về cư trú trên địa bàn của lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên từ năm 2014
đến tháng 6/2018 (Nguồn: Công an quận Long Biên)
2.2. Thực trạng công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
2.2.1. Thực trạng tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại quận Long Biên thành
phố Hà Nội.
- Đội Cảnh sát QLHC về TTXH - Công an quận Long Biên
Lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên được tổ
chức theo mô hình hai cấp, ở Công an quận có Đội Cảnh sát QLHC về
TTXH, Công an các phường có Tổ Cảnh sát khu vực. Thực trạng tổ chức lực
lượng của Đội Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên. Hiện nay
Đội Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên hiện tại biên chế có
35 đồng chí trong đó có 04 đồng chí chỉ huy, chia làm 4 tổ công tác.
Tổ Tổng hợp, hướng dẫn CSKV: Gồm có 03 đồng chí chiếm 8,5%; Tổ
Hộ khẩu: Gồm có 12 đồng chí chiếm 34,0%; Tổ Căn cước công dân: Gồm có 10
đồng chí chiếm 35%; Tổ Tàng thư hộ khẩu: Gồm có 10 đồng chí chiếm 35%.
Khảo sát cho thấy: có 02 đồng chí trình độ cao học chiếm 5,7%; 21
đồng chí có trình độ đại học chiếm 60%; 12 đồng chí có trình độ trung cấp
chiếm 34%. Hiện tại có 08 đồng chí đang đi học hệ đại học tại chức. Đội
QLHC về TTXH Công an quận Long Biên có 21 nữ, 14 nam giới.
Về độ tuổi: Trên 40 tuổi có 5 đồng chí; từ 30 đến 39 tuổi có 19 đồng
chí; dưới 30 tuổi có 11 đồng chí. Như vậy độ tuổi trung bình là 25 tuổi.
35
- Lực lượng Cảnh sát khu vực
Tổ Cảnh sát khu vực thuộc Công an 14 phường có 148 đồng chí trong
có trình độ đại học có 37 đồng chí chiếm tỷ lệ 25%; 111 đồng chí trình độ
trung cấp chiếm 75%. Có 99 nữ, 49 nam giới.
Biểu đồ 4: Biểu đồ thể hiện trình độ chuyên môn của lực lượng Cảnh sát
quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an Quận Long Biên
36
tháng 6/2018(nguồn: Công an quận Long Biên)
Biểu đồ 5: Thể hiện độ tuổi của lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính
về Trật tự xã hội Công an quận Long Biên, tháng 6/2018
(nguồn: Công an quận Long Biên)
Về độ tuổi: Trên 40 tuổi có 15 đồng chí; từ 30 đến 39 tuổi có 36 đồng
chí; dưới 30 tuổi có 97 đồng chí. Cấp tá có 20 đồng chí, cấp úy 120 đồng chí,
hạ sỹ quan có 08 đồng chí. (Bảng phụ lục 2.4).
2.2.2. Thực trạng quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội
2.2.2.1. Thực trạng công tác tham mưu, đề xuất ban hành các văn bản
phục vụ quản lý cư trú và xây dựng, triển khai các chương trình công tác
chuyên môn
Luật Cư trú được Quốc hội thông qua và có hiệu lực, lực lượng Cảnh
sát QLHC về TTXH đã chủ động đề xuất CATP tham mưu cho UBND Thành
phố Hà Nội có các kế hoạch, chỉ thị và công văn hướng dẫn triển khai trên địa
bàn thành phố, cụ thể: Kế hoạch số 52/KH-UB ngày 19/6/2007 của Chủ tịch
UBND thành phố Hà Nội, Chỉ thị số 14/2007/UBND ngày 27/6/2007 của Chủ
tịch UBND Thành phố về việc triển khai, thực hiện Luật Cư trú, Công văn số
4787/UBND-NC ngày 5/9/2007 chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các cấp
triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả Luật Cư trú.
Phòng Cảnh sát QLHC về TTXH CATP Hà Nội đã tham mưu hoặc
trực tiếp ban hành một số kế hoạch, công văn thực hiện như: Kế hoạch số
60/KH/CAHN(PV11-PC13) ngày 30/5/2007 về việc triển khai Luật Cư trú
trong toàn lực lượng; Quyết định số 209-QĐ/CAHN(PV11) ngày 08/6/2007
thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Luật Cư trú; Kế hoạch số 16/KH-
CAHN(PC64) ngày 02/02/2012 triển khai thực hiện Thông tư 80/2011/TT-
BCA quy định về quy trình đăng ký cư trú và Thông tư số 81/2011/TT-BCA
37
ngày 15/12/2011 của Bộ Công an quy định về biểu mẫu được sử dụng trong
đăng ký, quản lý cư trú.
Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc CATP Hà Nội, phòng
Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội CATP Hà Nội đã xây dựng một
số công văn hướng dẫn thực hiện như: Công văn số 651/SL-PC64 ngày
26/7/2014 sao y Công văn 1036-C64 hướng dẫn về việc Công an quận, huyện
nhận giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp bản sao y bản chính có giá trị như
bản chính; Công văn số 844/CV-PC64 ngày 05/10/2016 gửi Công an quận,
huyện về việc phối hợp thực hiện quản lý liên quan đến quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài...
Ở cấp quận, huyện, Công an quận, huyện đã tham mưu cho UBND
quận, huyện tổ chức triển khai Luật Cư trú tới lãnh đạo các phòng, ban, Chủ
tịch UBND phường, xã, thị trấn, Bí thư chi bộ, Tổ trưởng dân phố, Trưởng
thôn, Bảo vệ dân phố, dân phòng. Công an quận, huyện đều tổ chức tập huấn
những nội dung cơ bản của pháp luật về cư trú, về việc thực hiện thủ tục hành
chính trong đăng ký cư trú tới chỉ huy các đội nghiệp vụ, Chỉ huy Công an
phường, thị trấn, Đồn Công an, Đội Cảnh sát QLHC về TTXH và toàn bộ lực
lượng CSKV.
2.2.2.2. Thực hiện công tác đăng ký, quản lý cư trú.
- Tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân thực hiện các quy
định về cư trú
Nhằm tuyên truyền sâu rộng kiến thức pháp luật về Luật Cư trú nói
chung và các quy định về quản lý cư trú đối với công dân nói riêng, UBND
quận đã giao cho phòng Văn hóa thông tin, Đài phát thanh quận viết nhiều tin,
bài tuyên truyền về các quy định mới và các thủ tục hành chính trong quản lý
về thường trú đối với công dân và chỉ đạo các Ban văn hóa thông tin của
phường, hệ thống đài truyền thanh của phường phát thanh tuyên truyền về nội
38
dung đổi mới của Luật Cư trú.
Là cơ quan quản lý trực tiếp Công an quận cũng đã hướng dẫn, giải
thích trên nhiều bài báo của báo an ninh thủ đô để tuyên truyền về các tiêu
chuẩn đăng ký, thủ tục đăng ký cư trú, đồng thời được thông báo công khai tại
các trụ sở tiếp dân ĐKHK tại quận và các trụ sở Công an phường. Đồng thời
phối hợp với chính quyền các cấp hàng ngày tuyên truyền trên hệ thống
truyền thanh của phường về nội dung Luật Cư trú, đặc biệt là phổ biến các
tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú, thông báo lưu trú,
tạm vắng,... để cán bộ, quần chúng nhân dân biết tổ chức thực hiện; mặt khác
thông qua các buổi họp chi bộ, họp tổ dân phố, cụm dân cư để tuyên truyền và
vận động nhân dân thực hiện tốt Luật Cư trú. Ngoài ra, chỉ đạo cho lực lượng
CSKV làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn cán bộ, nhân dân thực hiện
tốt Luật Cư trú trong khu vực, địa bàn. Nội dung đổi mới của Luật Cư trú
được đưa vào là một trong các nội dung sinh hoạt thường kỳ của các tổ dân
phố, cụm dân cư và công tác thăm hỏi hàng ngày của lực lượng CSKV.
Công an quận đã tổ chức soạn thảo, cung cấp tài liệu tuyên truyền cho
các đài, báo, in, cấp phát bản hướng dẫn điều kiện thủ tục đăng ký cư trú để
cấp phát cho 14 phường. Đã in 12.000 tờ rơi tuyên truyền các quy định, điều
kiện, thủ tục về công tác đăng ký cư trú để phát tới từng cụm dân cư, các hộ
nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân nắm được các quy định của Luật Cư trú.
Niêm yết thông báo công khai các thủ tục, điều kiện về công tác đăng ký cư
trú tại các trụ sở tiếp dân của đội Cảnh sát QLHC về TTXH và 14
phường.[38, tr.8].
Với kết quả của công tác trên đã có tác dụng làm cho các cơ quan, tổ
chức và mỗi công dân nắm được những quy định của pháp luật về cư trú phải
chấp hành. Tuy nhiên, công tác này chưa được tiến hành thường xuyên, quá
trình công tác thường chỉ chú trọng ở giai đoạn triển khai công tác ban đầu,
39
theo kế hoạch của Công an cấp trên, trong các đợt thực hiện nhiệm vụ nhiệm
vụ chính trị ở địa phương. Việc tổ chức, thực hiện công tác này chưa có trọng
tâm, trọng điểm, nội dung còn nặng về thủ tục hành chính, thiên về các biện
pháp xử lý, chưa quan tâm nhiều đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục.
Mặt khác, công tác này chưa động viên, thu hút, phát huy được vai trò, trách
nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức quần chúng và công dân tham gia
nên làm hạn chế đến kết quả công tác này trong thời gian qua.
- Tổ chức tiếp nhận hồ sơ đăng ký cư trú cho công dân
+ Đăng ký thường trú.
Từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2018 Công an quận Long Biên thành
phố Hà Nội đã đăng ký thường trú 21.145 hộ, 60.808 nhân khẩu. Trong đó:
Đăng ký thường trú cho người ngoại tỉnh đến: 6290 hộ, 18862 nhân khẩu;
điều chỉnh nơi thường trú trong thành phố và điều chỉnh thay đổi khác trong
sổ hộ khẩu:1280 trường hợp; Đăng ký mới sinh: 2106 nhân khẩu; Tách hộ:
796 hộ; Cấp đổi sổ hộ khẩu: 12125 trường hợp.(Bảng phụ lục 2.5).
+ Đăng ký tạm trú.
Toàn quận hiện có: 2.472 hộ; 4.869 nhân khẩu trong diện đăng ký tạm
trú. Đã có 1.171 trường hợp làm thủ tục đăng ký tạm trú, đã cấp sổ tạm trú cho
1.258 trường hợp, 14.698 nhân khẩu. Cấp lại cho 286 trường hợp, 673 nhân
khẩu, đính chính thông tin cho 152 trường hợp, 269 nhân khẩu. [45, Tr 12].
+ Thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng.
Công an các phường đã lập 428 điểm tiếp nhận thông báo lưu trú được
duy trì hoạt động từ 19h đến 22h hàng ngày. Tại các điểm tiếp nhận thông báo
lưu trú, Công an phường đã tổ chức tốt việc tiếp nhận và quy trình tiếp nhận
thông báo lưu trú. Tất cả các trường hợp thông báo lưu trú được thực hiện
trực tiếp thì cán bộ làm công tác tiếp nhận thông báo lưu trú luôn kiểm tra
giấy tờ tuỳ thân của người lưu trú; ghi đầy đủ, chính xác thông tin về người
40
lưu trú vào sổ tiếp nhận lưu trú (theo mẫu quy định). Đối với một số ít trường
hợp thông báo lưu trú được thực hiện bằng điện thoại thì cán bộ tiếp nhận
thông báo lưu trú hỏi rõ tên, địa chỉ, số điện thoại của người gọi điện thoại;
hỏi và ghi đầy đủ, chính xác thông tin về người làm lưu trú vào sổ tiếp nhận
lưu trú (theo mẫu quy định).
Cán bộ tiếp nhận thông báo lưu trú thường xuyên tập hợp tình hình, số
liệu, thông tin lưu trú tại điểm tiếp nhận lưu trú do mình phụ trách và báo cáo
về Công an phường trước 24 giờ hàng ngày. Những trường hợp do yêu cầu bảo
đảm an ninh, trật tự thì báo cáo ngay về Công an phường. Việc báo cáo tình
hình, số liệu, thông tin lưu trí từ điểm tiếp nhận lưu trú về Công an phường
được thực hiện bằng văn bản hoặc báo cáo trực tiếp hoặc bằng điện thoại. Tổng
số khách thông báo lưu trú: 6.728 trường hợp. Hình thức thông báo: Thông báo
trực tiếp: 3.454 trường hợp; thông báo qua điện thoại: 2.778 trường hợp; thông
báo qua mạng máy tính: 2.496 trường hợp. Khai báo tạm vắng: tổng số 1.938
trường hợp. Trong đó: Tạm vắng theo Khoản 1 điều 32 Luật Cư trú: 1.156;
Tạm vắng theo Khoản 2 điều 32 Luật Cư trú: 782. [45, Tr 14].
Đặc biệt, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã không ngừng thực
hiện cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký cư trú như sau:
Vận dụng quy trình đăng ký thường trú theo hướng rút ngắn thời gian
giải quyết và giảm số lần đi lại cho người dân. Lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH đã nghiên cứu quy định của Bộ Công an quy định thủ tục hành chính
trong quản lý thường trú đối với công dân áp dụng đối với các trường hợp
thay đổi nơi đăng ký ra ngoài phạm vi quận, huyện, thị xã trong cùng một
tỉnh, thành phố quy định công dân phải mất ít nhất 6 lần đi lại; mất ít nhất 18
ngày làm thủ tục đăng ký thường trú; mất ít nhất 10 đến 20 ngày để hoàn tất
thủ tục xóa tên tại nơi đăng ký thường trú cũ. Việc vận dụng quy trình theo
hướng rút ngắn thời gian và giảm số lần đi lại cho công dân trong quá trình
41
giải quyết đăng ký thường trú là một sáng kiến, cải tiến cải cách thủ tục hành
chính trong quản lý về thường trú đối với công dân của Công an quận Long
Biên thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện vẫn còn gặp phải
một số khó khăn nhất định: một số Công an quận, huyện khi giải quyết đăng
ký thường trú chưa viết phiếu thông tin thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu kịp thời
để Công an nơi ở cũ xóa gốc và cấp giấy chuyển hộ khẩu; một số quận huyện
viết thông tin thay đổi còn sai lệch địa chỉ hoặc không ghi khối, tập, trang
trong sổ hộ khẩu… do đó Công an nơi ở cũ không xóa được gốc và cấp phiếu
chuyển; việc cử cán bộ về CATP họp bàn giao HK07, HK02 chưa đều, chưa
thường xuyên.
Mặt khác, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã bố trí linh hoạt các
điểm tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân đi làm thủ
tục hành chính đăng ký cư trú. Tại các trụ sở tiếp dân đăng ký thường trú đều cơ
bản đảm bảo diện tích theo quy định, được trang bị đủ ánh sáng, quạt, thông gió,
bàn ghế cho cán bộ, chiến sỹ làm công tác tiếp dân và nhân dân đến làm các thủ
tục hành chính. Trong trụ sở tiếp dân đều được niêm yết công khai các điều kiện,
thủ tục đăng ký thường trú theo quy định của Luật Cư trú, đối tượng thu lệ phí,
có các bản hướng dẫn kê khai biểu mẫu để công dân thực hiện.
Đặc biệt, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã vận dụng, giải quyết
một số trường hợp cụ thể, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình như: Trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 20, Luật Cư trú
(KT3) khi đăng ký cả hộ, giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp đứng tên một
trong các thành viên đi cùng có quan hệ là ông, bà nội, ngoại, bố, mẹ, anh, chị,
em, cháu ruột kèm theo, thì giải quyết đăng ký thường trú luôn một lần không
phải tách hồ sơ giải quyết cho bố, mẹ trước, sau đó ông, bà, anh, chị, em ruột
hoặc cháu ruột mới làm thủ tục đăng ký về theo bố, mẹ, ông bà sau.
Trường hợp là Bộ đội, Công an đăng ký thường trú đối với vợ, chồng
42
áp dụng theo Điểm a, Khoản 2, Điều 20 Luật Cư trú. Trường hợp còn hộ khẩu
ở địa phương khác thì không xuất trình quyết định điều động, tuyển dụng
nhưng phải có Giấy chuyển hộ khẩu. Trường hợp ở tập thể không còn hộ
khẩu ở địa phương khác thì phải có giấy giới thiệu, quyết định điều động hoặc
quyết định tuyển dụng như quy định để thay Giấy chuyển hộ khẩu. Trường
hợp không có bản chính các giấy tờ trên thì sử dụng bản sao theo quy định
của pháp luật hoặc của đơn vị xác nhận bản sao là được xem xét giải quyết.
Trường hợp sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
viên quốc phòng, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên
môn kỹ thuật, công nhân viên Công an công tác tại các doanh nghiệp quân đội
và CAND khi đăng ký thường trú nếu đã có quyết định điều động tuyển dụng,
nâng lương, thăng cấp bậc hàm, quyết định bổ nhiệm chức vụ thì không yêu
cầu phải có hợp đồng lao động như những trường hợp khác.
Trường hợp mất Giấy chuyển hộ khẩu nếu có xác nhận đã cấp Giấy
chuyển thì được tiếp nhận giải quyết. Sau khi giải quyết viết phiếu thông tin
về việc giải quyết để Công an nơi cấp Giấy chuyển hộ khẩu trước đó biết để
làm thủ tục xóa tên.
Đăng ký thường trú cho các trường hợp mới sinh, thủ tục trình Giấy
khai sinh (bản chính hoặc bản sao). Trường hợp các công dân khai sinh quá 6
tháng mà bố mẹ không có hộ khẩu cùng một nơi tại Hà Nội thì yêu cầu xuất
trình sổ hộ khẩu của cả bố mẹ hoặc xác nhận của Công an phường là cháu
chưa đăng ký thường trú về với bố hoặc mẹ. Đối với các trường hợp bố hoặc
mẹ có hộ khẩu ở tỉnh ngoài có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi
bố hoặc mẹ để tránh trường hợp các công dân đã đăng ký hộ khẩu thường trú
theo bố hoặc mẹ rồi nay lại đăng ký tiếp dẫn đến việc có hộ khẩu ở hai nơi.
- Điều tra, nghiên cứu nắm tình hình về nhân khẩu, hộ khẩu
Trên cơ sở hướng dẫn của Giám đốc CATP Hà Nội, hiện nay lực lượng
43
CSKV tiến hành phân loại hộ, nhân khẩu theo quy định của CATP Hà Nội
bao gồm:
*Hộ, nhân khẩu đăng ký thường trú trong khu vực (ký hiệu là KT1)
gồm: hộ, nhân khẩu cư trú tại nơi đăng ký thường trú; hộ, nhân khẩu vắng mặt
khỏi nơi đăng ký thường trú (ký hiệu là KT2 đi).
*Hộ, nhân khẩu đăng ký tạm trú trong khu vực gồm các loại sau: hộ,
nhân khẩu ký thường trú tại các phường khác thuộc địa bàn Hà Nội nhưng
thường xuyên đến cư trú tại địa bàn quản lý (ký hiệu là KT2 đến); hộ, nhân
khẩu đăng ký thường trú ở tỉnh, thành phố khác đến cư trú ổn định tại địa bàn
nhưng chưa đăng ký thường trú (ký hiệu là KT3); hộ, nhân khẩu đăng ký
thường trú ở tỉnh, thành phố khác đến cư trú không ổn định tại địa bàn để làm
ăn, sinh sống (ký hiệu là KT4); học sinh, sinh viên là nhân khẩu đăng ký
thường trú ở tỉnh, thành phố khác về Hà Nội học tập tại các học viện, trường
đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề,... cư trú trong ký túc xá của nhà
trường hoặc hộ nhà dân ở địa bàn khu dân cư; hộ, nhân khẩu gốc Hà Nội chưa
đăng ký thường trú; hộ, nhân khẩu sinh sống, làm việc trên sông nước không
có nơi cư trú ổn định trên bờ. Người lưu trú trong khu vực. Hộ có nhà cho
thuê để ở (cho thuê trọ bình dân), chủ sử dụng lao động phổ thông. Các loại
trọng hộ phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội.
Trên cơ sở kết quả rà soát danh sách nhân, hộ khẩu cư trú trên địa bàn,
đối với các hộ gia đình, CSKV tiến hành các biện pháp để nắm tên chủ hộ,
những người trong hộ và mối quan hệ với chủ hộ, địa chỉ nơi đăng ký thường
trú, tạm trú. Đồng thời, lực lượng CSKV cũng tiến hành nắm các điều kiện
hoàn cảnh riêng biệt của từng hộ như: hộ nguyên là lãnh đạo cao cấp của
Đảng, Nhà nước, Thành phố; hộ, nhân khẩu lão thành cách mạng; hộ thương,
bệnh binh; hộ, nhân khẩu người Hoa; hộ, nhân khẩu hồi hương từ nước ngoài
về; hộ có nhân khẩu là đối tượng có tiền án, tiền sự, đang có biểu hiện nghi
44
vấn hoạt động phạm tội; hộ có đối tượng truy nã, truy tìm;... Đối với từng loại
nhân khẩu, CSKV đều tiến hành nắm 4 yêu cầu về nhân khẩu, người từ 14
tuổi trở lên: Lai lịch; quan hệ gia đình; quan hệ xã hội; nghề nghiệp; nguồn
thu nhập chính; việc thực hiện chính sách pháp luật(trước hết là đối tượng) bổ
sung vào hồ sơ hộ khẩu.
Để nắm chắc tình hình nhân, hộ khẩu thực tế cư trú trên địa bàn phục
vụ kịp thời cho yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, QLHC về
ANTT, CSKV đã thường xuyên tiến hành thăm hỏi, kiểm tra, phân loại các
hộ, nhân khẩu trên địa bàn; tổ chức vận động phong trào toàn dân tham gia
công tác quản lý cư trú mà lực lượng nòng cốt là đội ngũ tổ trưởng tổ dân
phố, trưởng ban công tác mặt trận, lực lượng bảo vệ dân phố; thông qua công
tác đăng ký thường trú, tạm trú để thiết lập, củng cố, bổ sung các loại hồ sơ,
sổ sách về hộ khẩu, nhân khẩu, hệ thống dữ liệu dân cư trên máy tính theo
quy định từ đó có các tài liệu về hộ, nhân khẩu; thông qua tổ chức xác minh,
trao đổi thông tin, tài liệu về hộ, nhân khẩu với các đơn vị, địa phương, các
lực lượng Công an; tăng cường công tác nắm tình hình phục vụ phòng ngừa
và trấn áp tội phạm (theo đó mỗi tổ dân phố lập 01 quyển sổ phản ánh tình
hình, vụ việc, những thay đổi di biến động nhân khẩu, hộ khẩu, những vấn đề
nghi vấn khác do tổ trưởng dân phố giữ, ghi chép hàng ngày, ít nhất 01 tuần/1
lần CSKV phải gặp tổ dân phố trao đổi tình hình và ký xác nhận vào sổ);
nhiều Công an phường, đã tích cực, chủ động xây dựng các mô hình, chuyên
đề trong công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu ở địa bàn cơ sở; định kỳ hàng
tháng, lực lượng CSKV tập hợp tình hình, số liệu hộ khẩu, nhân khẩu theo
mẫu (HK15b), định kỳ quý I, III, 6 tháng đầu năm, tổng kết năm báo cáo về
tình hình kết quả công tác của CSKV theo mẫu (KV8, KV10) gửi về Công an
quận, huyện, thị xã để tổng hợp báo cáo CATP theo quy định; định kỳ tháng
10 hàng năm, CSKV đều tham gia tiến hành tổng kiểm tra định kỳ hộ khẩu
45
theo kế hoạch của Giám đốc CATP.
CATP đã ban hành triển khai một số kế hoạch để chỉ đạo lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH điều tra, nắm tình hình về người lao động ngoại
tỉnh, học sinh, sinh viên như kế hoạch quản lý người các tỉnh về cư trú lao
động tại Hà Nội; kế hoạch tăng cường công tác nắm tình hình quản lý học
sinh, sinh viên tạm trú trên địa bàn thành phố Hà Nội; kế hoạch quản lý hộ có
nhà cho thuê trọ bình dân; quy định trách nhiệm trong công tác quản lý tạm
trú, tạm vắng; kế hoạch tập trung các biện pháp nghiệp vụ quản lý đối tượng
tỉnh ngoài của lực lượng Cảnh sát QLHC Hà Nội;...
Với người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên mới đến địa bàn,
CSKV tiến hành hướng dẫn họ khai báo tạm trú, kê khai bản khai nhân khẩu
để nắm được sơ bộ về lịch sử bản thân, lý do tạm trú. Hiện nay, Công an các
phường, xã, thị trấn đã tổ chức duy trì hoạt động của 1.320 điểm tiếp nhận
thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng tại các khu dân cư. Đồng thời, CSKV
viết phiếu yêu cầu xác minh gửi về Công an phường, thị trấn nơi ở của họ
trước khi đến Hà Nội để trao đổi, nắm về nhân thân. Đến nay đã xác minh hai
chiều được trên 80% số người lao động ngoại tỉnh trên địa bàn. 50% số này đã
có kết quả trả lời, qua đó đã phát hiện hàng trăm đối tượng có tiền án, tiền sự,
tệ nạn xã hội hoặc khai báo sai thông tin về địa chỉ gốc.
Tiến hành cấp sổ chứng nhận tạm trú cho người nhập cư như: Với các
hộ mua nhà tạm trú, Công an phường, thị trấn cấp sổ tạm trú được 70%; với
các trường hợp thuê nhà, Công an phường cấp sổ tạm trú được 50%; với các
trường hợp là học sinh, sinh viên tạm trú, Công an phường, thị trấn cấp sổ
chứng nhận tạm trú được khoảng 90%.
Quản lý dân nhập cư thông qua người tổ chức sử dụng lao động, các cơ
sở tuyển dụng lao động như: Các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ xây dựng, các hộ thuê người giúp việc; phải có
46
trách nhiệm thông báo hoặc xác nhận với Công an phường, thị trấn danh sách
những người làm trong cơ sở của mình; có danh sách tạm trú được điều chỉnh
biến động thường xuyên; có hợp đồng lao động với người lao động (theo quy
định); có cam kết giữ gìn ANTT với Công an phường; với các trường hợp
này, CSKV phải lập hồ sơ để quản lý, kết quả đã lập 80% theo yêu cầu.
Quản lý người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên thông qua các
hộ có nhà cho thuê trọ, các cơ sở kinh doanh lưu trú: Công an các phường, thị
trấn đã tiến hành quản lý về ANTT với trên 25.000 hộ có nhà cho thuê trọ
bình dân, chủ các hộ này phải có trách nhiệm trình báo danh sách người thuê
nhà, tạm trú, có sổ sách theo dõi người tạm trú, có cam kết về ANTT. Tuy
vậy, công tác này kết quả còn hạn chế, nhất là những thay đổi biến động của
người thuê nhà không được thông báo kịp thời,…
Mọi công dân ở tỉnh ngoài khi nghỉ lại qua đêm ở Hà Nội phải khai báo
tạm trú, nhưng việc thực hiện qui định này mới đạt khoảng 50%. Nguyên
nhân là do sự hiểu biết, ý thức tự giác chấp hành của người đến tạm trú và chủ
hộ chưa cao. Cá biệt có một số cố ý không chấp hành. Mức độ xử lý vi phạm
còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, giáo dục; công tác kiểm tra, xử lý vi phạm
của lực lượng Công an chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết,… Các cấp chính
quyền, các ngành, đoàn thể, quần chúng còn cho rằng đây là trách nhiệm của
riêng ngành Công an[45, Tr 16].
Đặc biệt, Cảnh sát QLHC về TTXH đã điều tra, nghiên cứu nắm chắc
tình hình về các hộ, nhân khẩu hoạt động kinh doanh dịch vụ mà các đối
tượng thường lợi dụng để hoạt động phạm tội, còn gọi là “trọng hộ”. Thực tế
trong những năm qua, số hộ, nhân khẩu từ tỉnh, thành phố khác đến cư trú
ngày càng gia tăng, thường xuyên biến động, nhận thức, chấp hành các quy
định trong công tác đăng ký, quản lý tạm trú đối với người sử dụng lao động,
cơ sở kinh doanh lưu trú, cơ sở cho thuê trọ và người tạm trú còn nhiều hạn
47
chế. Trong khi, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm hình sự, kinh tế, ma
tuý, công nghệ cao, tệ nạn xã hội, tội phạm cướp tiệm vàng có những diễn
biến phức tạp, hoạt động lưu động trên các tuyến, địa bàn, liên kết, móc nối
với đối tượng tỉnh ngoài, thuê nhà tạm trú trong các nhà nghỉ, nhà trọ, khu
vực giáp ranh phức tạp, thường xuyên thay đổi chỗ ở,... để tụ tập, hoạt động
phạm pháp gây khó khăn trong công tác quản lý cư trú.
Trước tình hình đó, ngoài việc thực hiện các quy định của pháp luật
trong công tác quản lý cư trú, đồng thời căn cứ vào đặc điểm tính chất địa bàn
đã xác định các hộ có điều kiện, nguy cơ tội phạm lợi dụng sơ hở để hoạt
động phạm pháp (trọng hộ) từ đó tập trung các biện pháp quản lý góp phần
vào công tác phòng ngừa, đấu tranh trấn áp với các loại tội phạm đảm bảo giữ
vững TTATXH trên địa bàn Thủ đô.
Cho đến nay, lực lượng CSKV đã thiết lập 100% hồ sơ các loại trọng
hộ cần quản lý. Trong năm 2017, đã xảy ra 19 vụ việc VPPL xảy ra, bắt giữ 8
vụ với 6 đối tượng (so với năm 2016 giảm 4 vụ việc VPPL; giảm 3 vụ, với 13
đối tượng); đồng thời phối hợp với công tác quản lý đối tượng đã góp phần
bắt giữ nhiều đối tượng đang có biểu hiện hoạt động hiện hành.
Lực lượng CSKV đã làm tốt công tác rà soát đưa vào quản lý trọng hộ
đã quy định trong kế hoạch góp phần làm giảm tình hình phạm tội nói chung,
đối với các trọng hộ nói riêng. Tuy vậy, qua theo dõi ở một số đơn vị nhận
thức của lực lượng CSKV về các trọng hộ chưa đầy đủ, đưa vào trọng hộ vẫn
tràn lan để tính điểm qua các đợt kiểm tra chất lượng CSKV, hiểu đúng nghĩa
hộ độc thân là như thế nào để lập hồ sơ biện pháp phòng ngừa. CSKV phải
thường xuyên điều chỉnh, bổ sung những thay đổi biến động của từng trọng
hộ, thực hiện nhắc nhở các biện pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất tội phạm
lợi dụng để hoạt động,... góp phần giữ vững ANCT, TTATXH trên địa bàn.
2.2.2.3. Xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu công dân phục vụ
48
quản lý cư trú
Tháng 8/2013, được sự đồng ý của lãnh đạo Bộ Công an, Thành ủy,
UBND Thành phố Hà Nội, CATP Hà Nội đã lựa chọn 10 phường trong đó có
Công an phường Gia Thụy - Long Biên các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân
lực; có thành phần dân cư đa dạng để thí điểm triển khai việc chuyển đổi quản
lý, theo dõi dữ liệu nhân, hộ khẩu từ sổ sách vào quản lý, theo dõi bằng dữ
liệu điện tử.
Tính đến tháng 4/2014, toàn quận đã lập được 636.432 phiếu thông tin
quản lý nhân khẩu (đạt tỷ lệ 68% tổng số nhân khẩu trong diện kê khai); nhập
liệu được 687.860 phiếu thông tin vào hệ thống (đạt 89,8%). Hiện nay, công
tác này đang được tiếp tục triển khai, hoàn thiện trên tất cả các địa phương
trên toàn thành phố.
Việc chuyển đổi quản lý, theo dõi dữ liệu dân cư từ sổ sách vào quản
lý, theo dõi bằng dữ liệu điện tử đã tạo một bước đột phá trong công tác quản
lý dữ liệu dân cư trên địa bàn quận, làm giảm tải và nâng cao hiệu quả công
tác quản lý của CSKV. Đồng thời, sau khi hoàn thành việc chuyển đổi, sẽ
phục vụ đắc lực cho công tác cải cách hành chính công của Công an quận.
Để đảm bảo thông tin được chính xác, không sót lọt, Công an quận tiếp
tục xây dựng, triển khai kế hoạch mở đợt cao điểm kiểm tra, bổ sung các
thông tin còn thiếu, chưa chính xác. Qua đó, Công an các phường thành lập
các Tổ công tác tiến hành kiểm tra quyết liệt công tác rà soát, bổ sung, điều
chỉnh thông tin còn thiếu, chưa chính xác tại Công an các phường; kê khai,
nhập liệu đối với những nhân khẩu mới phát sinh. Kết thúc đợt cao điểm các
đơn vị đã bổ sung, nhập liệu 3.903 nhân khẩu mới vào hệ cơ sở dữ liệu dùng
chung của quận. Đã bổ sung, điều chỉnh 566.737 thông tin về dân cư. Công an
các phường Ngọc Lâm, Bồ Đề, Thạch Bàn đã thu thập, bổ sung 14 trường
thông tin còn thiếu được 442.451 phiếu, nhập liệu được 652.728 phiếu vào hệ
49
cơ sở dữ liệu dùng chung của quận. Tính đến ngày 15/6/2018, Công an quận
đã nhập được tổng cộng 703.182 phiếu thông tin vào Hệ cơ sở dữ liệu dùng
chung của quận.
Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã thu thập, bổ sung,
xác minh tài liệu hồ sơ hộ khẩu, nhân khẩu; xây dựng hệ thống tàng thư hộ
khẩu hay còn gọi là cơ sở dữ liệu về cư trú. Bộ Công an đã tổ chức thực hiện
làm công tác đăng ký quản lý hộ khẩu của từng người dân từ khi sinh ra, lớn
lên đến lúc chết bởi hệ thống sổ sách, biểu mẫu mà người dân kê khai và báo
cáo của lực lượng Công an về di biến động của từng hộ, từng người tại tàng
thư hộ khẩu ở cấp huyện. Đến tháng 6 năm 2018, cơ sở dữ liệu về cư trú của
công dân trên phạm vi quận có 1 tàng thư hồ sơ. Số tàng thư đi vào hoạt động
nề nếp có hiệu quả tốt là: 14/14 đơn vị. Tổng số hộ đã lập là 14.
Hàng năm, việc bổ sung thông tin, tài liệu vào tàng thư hồ sơ đạt tỷ lệ
cao. Nhìn chung, công tác tàng thư hồ sơ hộ khẩu tuy đã được Công an các
quận quan tâm, đầu tư xây dựng, nhưng hiện tại cơ sở vật chất của tàng thư hồ
sơ hộ khẩu vẫn còn thiếu thốn, đặc biệt là cán bộ làm công tác tàng thư hồ sơ
hộ khẩu. Theo báo cáo của các đơn vị và qua kiểm tra thực tế tại các các
quận, huyện của thành phố tàng thư hồ sơ hộ khẩu đã được lập, quản lý và sử
dụng theo quy định. Nội dung thu thập các loại tài liệu về bản khai nhân khẩu
phản ánh về 4 yêu cầu quản lý hộ khẩu chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số hồ sơ
nhân khẩu trên địa bàn (chiếm 37%). Trong các nội dung tài liệu nói trên chủ
yếu bổ sung về sự thay đổi lý lịch của những công dân từ 14 tuổi trở lên khi
các đối tượng này có yêu cầu làm CMND hoặc lý do chuyển đến. Các nội
dung thu thập, bổ sung về các thái độ chính trị của đối tượng, các loại nhân
khẩu là tôn giáo, người Hoa còn chiếm tỷ lệ thấp. Tài liệu về hồ sơ nhân khẩu
khi có sự chuyển đi, chuyển đến chiếm tỷ lệ cao (chiếm 75%) trong quá trình
thu thập, bổ sung. Mỗi khi có sự thay đổi, CSKV thực hiện chế độ báo cáo về
50
Đội Cảnh sát QLHC về TTXH để điều chuyển, bổ sung về tàng thư hộ khẩu
của Công an quận cho phù hợp. Các tài liệu về thu thập, bổ sung tài liệu về hồ
sơ hộ khẩu đối với các loại đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú chiếm tỷ
lệ thấp gồm 14 hồ sơ có đối tượng. Chủ yếu tập trung vào đối tượng án treo,
quản chế và giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung cơ sở dữ liệu, lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH chỉ tập trung vào các thời điểm Công an phường tiến hành
đánh giá kết quả công tác để bình bầu, phân loại chất lượng công tác của
CSKV cuối năm; trong các đợt kiểm tra, thi tay nghề của Bộ và Công an cấp
trên hoặc theo quy định. Công an địa phương tiến hành các chiến dịch như tập
trung bổ sung tài liệu đối với các hồ sơ hộ khẩu, nhân khẩu là người hồi
hương, đối với số người Hoa, các loại tài liệu do Công an cấp trên yêu cầu
xác minh. Đối với tài liệu báo cáo định kỳ về đối tượng so với tỷ lệ phải bổ
sung thường xuyên 1 tháng một lần thì công tác bổ sung còn chiếm tỷ lệ thấp
và có chiều hướng giảm dần. Các báo cáo bổ sung, sửa đổi kết quả xác minh
về đối tượng hàng năm thực hiện khi có những yêu cầu nghiệp vụ như đối
tượng có hành vi VPPL cần phải xác minh, những trường hợp các địa phương
khác đến xác minh, yêu cầu cung cấp tài liệu, khi đối tượng có sự thay đổi về
nghề nghiệp nơi cư trú,... song chất lượng các loại tài liệu này chỉ tập trung
vào các hoạt động của đối tượng hoạt động trên địa bàn, còn tình hình đối
tượng hoạt động ở ngoài phạm vi địa bàn quản lý thì CSKV chưa có sự bổ
sung kịp thời và thường chậm so với yêu cầu đặt ra.
Các báo cáo bổ sung về bản khai nhân khẩu (HK01) lập ban đầu khi lập
hồ sơ hộ khẩu hoặc khi công dân có sự biến động cơ học đạt tỷ lệ cao. Việc
bổ sung các tài liệu vào hồ sơ chưa chấp hành đúng các quy định không đảm
bảo thời gian bổ sung theo quy định 1 tháng một lần theo chế độ quy định.
Qua nghiên cứu điển hình thu thập, bổ sung, xác minh tài liệu một số
51
đơn vị cho thấy: công tác bổ sung tài liệu tuy đã đạt được cơ bản về số lượng
tài liệu cần thu thập, xác minh, bổ sung theo quy định, song nội dung tài liệu
còn mang nặng hình thức, chưa đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ. Việc thu
thập, bổ sung tài liệu chủ yếu chỉ áp dụng đối với các nhân khẩu đang hoạt
động trên địa bàn quản lý, còn các nhân khẩu, các đối tượng hoạt động ở các
địa phương khác chất lượng quản lý đạt kết quả thấp và chưa thường xuyên,
kịp thời. Quá trình thực hiện công tác này, lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH chưa có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi của các lực lượng nghiệp vụ
khác có liên quan đến công tác quản lý cư trú. Do đó, lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH còn bị động, lúng túng trong công tác quản lý cư trú ở địa
bàn công tác.
2.2.2.4. Kiểm tra, xử lý các vi phạm quy định quản lý cư trú, phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ được phân công
Công tác kiểm tra, xác minh, xử lý vi phạm là hoạt động không thể
thiếu trong các hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước. Đối với việc quản lý
cư trú thì vấn đề kiểm tra hướng dẫn lại có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc
biệt, nó có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu quả của cả quá trình
công tác. Vì vậy, đi đôi với việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia,
điều ra nghiên cứu nắm chắc tình hình về hộ khẩu, nhân khẩu vẫn cần phải đề
cập và tiến hành việc kiểm tra hướng dẫn, phát hiện và xử lý các trường hợp
vi phạm trong quá trình đăng ký, quản lývề cư trú. Việc kiểm tra không tiến
hành có tính chất định kỳ, hình thức mà phải được tiến hành một cách thường
xuyên, có hệ thống. Nội dung, phương pháp và hình thức kiểm tra tập trung
chủ yếu: đoàn kiểm tra nghe báo cáo chung kết hợp kiểm tra thực tế; công tác
đăng ký quản lý hồ sơ đăng ký cư trú đã, đang giải quyết; sổ sách biểu mẫu,
tàng thư, thông tin báo cáo, nơi tiếp dân; các vụ việc khiếu nại, tố cáo tại
Công an cấp huyện, Công an phường, thị trấn.
52
Cụ thể trong thời gian từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018, đã xử phạt
được 89.950.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước. Việc phát hiện và xử lý
vi phạm về đăng ký, quản lý về cư trú chủ yếu thông qua đăng ký thường trú
ở quận, huyện và kiểm tra các cơ sở ở kinh doanh lưu trú còn việc phát hiện
vi phạm không thông báo lưu trú xử lý trong các hộ nhà dân còn quá ít. Kiểm
tra thường trú thời gian qua, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH chủ yếu tiến
hành hình thức kiểm tra định kỳ 6 tháng một lần ở các địa phương. Đối với
các hộ gia đình thì CSKV căn cứ vào sổ hộ khẩu và các loại giấy tờ cần thiết
khác đến từng hộ để đối chiếu so sánh, phát hiện bổ sung những thay đổi của
từng hộ, từng người phục vụ cho công tác quản lý nắm chắc từng hộ, từng
người. Đối với các nhà ở tập thể, CSKV và các lực lượng tiến hành phối kết
hợp kịp thời với bảo vệ cơ quan xí nghiệp với tổ chức hoặc người có trách
nhiệm của cơ quan, của nhà ở tập thể tiến hành kiểm tra.
Đối với công tác kiểm tra đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú: lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phối hợp tiến hành kiểm tra, kiểm diện
6.718 lượt đối tượng bị hạn chế quyền tự do cư trú. Đối với số đối tượng
thuộc diện đưa vào diện giáo dục tại xã, phường, thị trấn, việc kiểm tra, kiểm
danh, kiểm diện chiếm tỷ lệ cao, chỉ tính riêng năm 2017, lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH đã tiến hành kiểm tra, kiểm danh được 1.496 lượt. Hình thức
kiểm tra tập trung nhiều nhất vào các thời điểm phức tạp về ANTT ở địa
phương, nhất là trong thời gian kỷ niệm Quốc khánh 02/9; các chiến dịch tấn
công, truy quét bọn tội phạm hình sự; các ngày Tết cổ truyền của dân tộc,...
Qua công tác kiểm tra, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện
được nhiều vi phạm của đối tượng. Ví dụ: Năm 2017, qua công tác kiểm tra
của Cảnh sát QLHC về TTXH đã phát hiện 188 đối tượng không về nơi cư
trú; 231 đối tượng đi ra khỏi địa phương không báo cáo với chính quyền; 352
đối tượng theo pháp luật quy định ở địa bàn cơ sở VPPL đồng thời phát hiện
53
nhiều trường hợp có dấu hiệu nghi vấn hoạt động vi phạm, phải báo cáo lên
Công an cấp trên, phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ có liên quan để xác
minh làm rõ.
Kết quả công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm trong đăng ký quản lý cư
trú của công dân đã đạt được nhiều kết quả, phục vụ tốt cho công tác quản lý
xã hội của Nhà nước và công tác nghiệp vụ của ngành Công an. Tuy nhiên,
công tác này cũng còn bộc lộ một số hạn chế: như việc kiểm tra, xử lý chỉ tập
trung theo đợt, theo sự chỉ đạo của Công an cấp trên; chưa xây dựng được kế
hoạch cụ thể ở từng địa bàn, với từng loại đối tượng ; hoạt động kiểm tra còn
mang nặng tính hành chính đơn thuần, chưa sử dụng quyền lực quản lý của
Nhà nước để xử lý kiên quyết đối với các trường hợp vi phạm.
Trong thời gian nghiên cứu, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã
phối hợp với các lực lượng Cảnh sát điều tra xử lý hình sự 23 vụ (chiếm 0,6%),
28 đối tượng (chiếm 0,9%), phối hợp trong thực hiện công tác quản lý đối với
các cư dân có tiền án, tiền sự, đối tượng trong diện quản lý, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Phối hợp với Phòng hồ sơ nghiệp vụ trong công tác trích lục
hồ sơ, xác minh lý lịch, đính chính, bổ sung thông tin cho hàng vạn trường hợp.
Phối hợp cung cấp nhiều thông tin, quản lý cư dân có biểu hiện bất mãn, đối
tượng có liên quan đến các tổ chức phản động, chống phá chính quyền. Lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH phối hợp với Hội đồng phối hợp công tác phổ
biến giáo dục pháp luật của Bộ Công an và UBND thành phố tổ chức cuộc thi
tìm hiểu Luật Cư trú. Kết quả: Đã có 2.837 bài tham gia dự thi, qua chấm thi đã
có 6 giải thưởng được Ban tổ chức trao cho các tập thể và cá nhân.
2.2.2.5. Thực hiện công tác tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong thực hiện công tác quản lý cư trú
Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp Đội đã trực tiếp
tiến hành việc sơ kết, tổng kết công tác năm trong đó đánh giá kết quả công tác
54
quản lývề cư trú; Đã hướng dẫn Công an phường trong tổ chức cho Cảnh sát
khu vực thực hiện việc sơ kết, tổng kết công tác, tổng kết đánh giá công tác
quản lý về cư trú gắn với địa bàn quản lý. Qua quá trình triển khai thực hiện
Luật cư trú, đã tổ chức việc rút kinh nghiệm trong giải quyết các công việc cụ
thể, tổ chức việc giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật.
Nổi bật trong thời gian nghiên cứu, năm 2017 lực lượng Cảnh sát
QLHC về TTXH đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Luật Cư trú để đánh
giá lại toàn bộ quá trình tiến hành công tác quản lý cư trú đối với công dân
trên địa bàn.
Năm 2017, Phòng Cảnh sát QLHC về TTXH đã phối hợp với các đơn
vị có liên quan trong tổ chức Hội nghị sơ kết 01 năm thực hiện Chương trình
lịch số 13 về củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng Cảnh sát khu vực. Qua
đó đã đánh giá lực lượng CSKV, Chỉ huy Công an phường, cán bộ hướng dẫn
đã dược củng cố cơ bản đủ về số lượng, đã được trang bị bổ sung công cụ hỗ
trợ cho Cảnh sát khu vực, trang thiết bị làm việc đảm bảo CSKV hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Để tăng cường công tác kiểm tra quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý
cư trú của Cảnh sát khu vực, trong 6 tháng đầu năm 2016 Công an thành phố
đã thành lập 04 Đoàn công tác tiến hành phúc tra chất lượng thông tin nhân
khẩu trong Hệ cơ sở dữ liệu dùng chung của Công an Thành phố. Tiếp tục triển
khai công tác rút kinh nghiệm quá trình xây dựng Hệ cơ sở dữ liệu dùng chung.
Hàng năm, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đều tổ chức tổng kiểm
tra định kỳ hộ khẩu. Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá định kỳ về kết quả
công tác của lực lượng Cảnh sát khu vực trong đó kiểm tra về công tác quản
lý cư trú là một nội dung quan trọng. Trong quá trình tiến hành, lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH, các đơn vị đã tiến hành việc giải quyết các trường
hợp khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú. Qua
55
quá trình sơ kết, tổng kết các chuyên đề chuyên môn, giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong công tác quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã tiến
hành đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác, chấn chỉnh, hướng dẫn lực lượng
Công an cơ sở trong thực hiện các nội dung công tác. Trao đổi, tìm ra hướng
giải quyết đối với các vấn đề mới, các vấn đề nảy sinh. Cũng thông qua nội
dung này, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã biểu dương, khen thưởng
những Cảnh sát khu vực giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao, có những thành
tích xuất sắc trong công tác quản lý cư trú.
2.3. Đánh giá chung.
2.3.1. Những kết quả đạt được
- Thực hiện tốt công tác triển khai Luật Cư trú và các văn bản hướng
dẫn thi hành
Quá trình tổ chức thực hiện Luật Cư trú trên địa bàn quận Long Biên
thành phố Hà Nội đã cho thấy sự triển khai nghiêm túc, hiệu quả của các cơ
quan, ngành, UBND, Công an các cấp. Công an quận đã tham mưu UBND
chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi việc triển khai, thực hiện Luật Cư trú đạt nhiều
kết quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tiến hành rộng rãi,
hiệu quả, qua đó đã nâng cao nhận thức pháp luật về cư trú của các cơ quan,
tổ chức và của người dân.
Bên cạnh đó, thông qua triển khai tập huấn Luật Cư trú, Công an các
cấp trên địa quận đã có chuyển biến tích cực cả về nhận thức, trách nhiệm và
phương pháp tổ chức thực hiện, nhất là những đổi mới về ý thức phục vụ
nhân dân của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác đăng ký, quản lý cư trú.
Do đó, ngoài nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm,
nhiều địa phương đã thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung, yêu cầu cải
cách hành chính trong đăng ký, quản lý cư trú.
Thông qua việc triển khai các biện pháp đăng ký cư trú, một số lượng lớn
56
hộ, nhân khẩu đã được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, cấp sổ hộ khẩu, sổ
tạm trú theo quy định, tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền, lợi ích
khác theo pháp luật, giải quyết những bức xúc cho nhiều người về vấn đề cư trú.
Qua công tác đăng ký, quản lý cư trú đã cung cấp kịp thời tình hình số liệu về
nhân, hộ khẩu giúp cho cấp ủy, chính quyền và các ngành có liên quan xây dựng
các kế hoạch, chỉ tiêu kinh tế, xã hội, dự toán phân bổ ngân sách, bố trí cơ cấu
cán bộ,… đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH phối hợp quản lý chặt
các đối tượng trong diện quản lý, giáo dục tại địa bàn cơ sở, nắm chắc tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm
bảo an toàn tuyệt đối các ngày lễ lớn của Đảng, Nhà nước và dân tộc, các hoạt
động chính trị, văn hóa xã hội, thể thao của Trung ương và địa phương.
- Kết quả công tác đăng ký, quản lý cư trú góp phần phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm giữ gìn ANTT
Thông qua công tác đăng ký, quản lý cư trú lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ khác bổ sung, củng cố hồ sơ
tài liệu các loại đối tượng quản lý. Quận xác định hiện có 422 đối tượng theo
chức năng quản lý của Cảnh sát QLHC về TTXH, trong đó: 322 đối tượng tù
tha, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, chấp hành xong án treo, cơ sở cai
nghiện bắt buộc được tha về; 100 đối tượng tệ nạn xã hội.
Thông qua công tác kiểm tra tạm trú, tạm vắng đã phát hiện bắt 36đối
tượng truy nã, đối tượng trốn trường, trại, bắt đối tượng thi hành án, bắt đối
tượng đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh. Thông qua
công tác đăng ký, quản lý cư trú, lực lượng CSKV đã nắm hàng chục nghìn
tin có liên quan đến ANTT góp phần phát hiện, giải quyết vụ việc phạm pháp
hình sự, tệ nạn xã hội. Đáng chú ý, qua công tác ĐKQL quản lý cư trú đã phát
hiện, cung cấp thông tin cho lực lượng an ninh phát hiện kịp thời các đối
57
tượng, các thế lực thù địch chống phá Đảng, nhà nước và cung cấp cho chính
quyền các cấp giải quyết kịp thời các điểm nóng phức tạp về an ninh nông
thôn như tranh chấp khiếu kiện, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân,… góp phần
hạn chế sự gia tăng các loại tội phạm và hành vi vi phạm TTATXH trên địa
bàn quận.
- Kết quả công tác đăng ký, quản lý cư trú đảm bảo ANTT trên địa bàn
Thông qua công tác quản lý cư trú, Công an các phường đã đồng bộ
triển khai các nội dung đăng ký, quản lý như: thường trú, tạm trú, tạm vắng,
thông báo lưu trú. Kết quả đăng ký, quản lý cư trú đã phục vụ tích cực việc
thực hiện các quy định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; quy định
về điều kiện ANTT đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; về
đăng ký và quản lý, sử dụng con dấu; về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt
pháo và lồng ghép vào nhiều chương trình kinh tế - xã hội khác. Qua công tác
đăng ký, quản lý cư trú đã giúp cho Công an các cấp xác định được 26 khu
vực giáp ranh phức tạp về ANTT; thường xuyên tổ chức kiểm tra tạm trú, lưu
trú tại những địa bàn phức tạp về ANTT, các cơ sở kinh doanh có điều kiện
phức tạp về ANTT.
Qua quản lý cư trú nắm được những người tốt, có điều kiện từ đó làm cơ
sở cho việc lựa chọn người tham gia vào các tổ chức bảo vệ ANTT tại cơ sở,
góp phần tích cực trong công tác phát động quần chúng tham gia bảo vệ an
ninh tổ quốc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Trong những năm qua, các tổ
chức bảo vệ ANTT tại cơ sở đã phối hợp tuyên truyền, vận động, nhân dân
giao nộp hàng trăm vũ khí thô sơ, hàng ngàn bánh pháo, cây pháo các loại, tự
giác di chuyển hàng trăm lều quán lấn chiếm vỉa hè; cùng lực lượng Công an
tại cơ sở tuần tra, phát hiện, đề nghị xử lý các trường hợp vi phạm các quy định
về thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng và các vi phạm khác về QLHC về
TTXH khác; tham mưu xây dựng các quy tắc, nội quy, quy ước bảo vệ ANTT
58
tại địa bàn dân cư; tham mưu giải quyết hàng trăm vụ việc có liên quan đến
ANTT tại địa bàn dân cư, hòa giải các tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
2.3.2. Những hạn chế.
- Tinh thần trách nhiệm, việc chấp hành các quy định, yêu cầu trong
công tác quản lý cư trú chưa đáp ứng được yêu cầu
Sự nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của các cấp, các ngành trong
công tác quản lý cư trú chưa đầy đủ, thậm chí có nhiều nơi cho đây là việc của
cơ quan Công an; chưa thấy hết đây là biện pháp quan trọng của Nhà nước để
quản lý xã hội, giữ gìn ANTT nên trong quá trình triển khai thực hiện đã phát
sinh những vấn đề khó khăn, vướng mắc nhưng chưa được phát hiện, giải
quyết kịp thời. Tình trạng cán bộ, chiến sĩ vi phạm quy định trong quá trình
công tác, nhũng nhiễu, gây khó khăn, kéo dài thời gian giải quyết giấy tờ, nhận
tiền từ người dân nhằm giải quyết các thủ tục hành chính vẫn còn diễn ra.
- Trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân về các
quy định liên quan đến công tác quản lý cư trú chưa cao, còn nhiều sai phạm
trong cư trú
Hoạt động tuyên truyền chủ yếu dừng lại ở một số băng rôn, khẩu hiệu
nhỏ tại các khu dân cư hay CSKV gặp gỡ tại nhà, tại buổi họp dân phố, hình
thức, cường độ như trên là chưa phù hợp. Mặt khác, do còn nhiều cán bộ, chiến
sĩ Cảnh sát QLHC về TTXH thiếu kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý
cư trú dẫn đến rụt rè trong công tác tuyên truyền, tuyền truyền chưa sâu, nội
dung chưa đủ. Đối tượng tuyên truyền chủ yếu là công dân thường trú, trong
khi một bộ phận lớn là người lao động, học sinh sinh viên, khách lưu trú lại
thiếu sự chú trọng. Khi người dân vi phạm thường chỉ tập trung kiểm tra, xử lý
vi phạm mà gần như chưa thực hiện công tác tuyên truyền. Do đó, mức độ
nhận thức của người dân về các quy định của pháp luật về cư trú còn hạn chế,
vẫn còn nhiều sai phạm trong quá trình thực hiện hoạt động cư trú.
59
- Hệ thống các văn bản pháp lý cho công tác quản lý cư trú chưa thống
nhất, đầy đủ, vẫn còn nhiều bất cập
Trong quá trình thực hiện quản lý cư trú, lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH phải vận dụng nhiều văn bản khác nhau, mỗi văn bản có đối tượng
điều chỉnh riêng. Trong thực tế, có nhiều tình huống phức tạp, vấn đề mới nảy
sinh nhưng chưa được quy định chặt chẽ dẫn đến các đơn vị, địa phương
không dám làm vì sợ trách nhiệm. Mặt khác, nhiều quy định của nhà nước
không còn phù hợp với thực tế cuộc sống hoặc có nhiều vướng mắc nhưng
không được xử lý kịp thời. Hệ thống các văn bản pháp lý vẫn còn nhiều lỗ
hổng dẫn đến tình trạng người dân, cán bộ lợi dụng để thực hiện hành vi trái
pháp luật nhằm mục đích trục lợi.
- Việc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ chưa đảm bảo yêu cầu nắm
tình hình, quản lý cư trú, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
Mặc dù các biện pháp nghiệp vụ đã được lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH khai thác, sử dụng tuy nhiên vẫn còn những tồn tại như hướng dẫn
trong công tác nghiệp vụ cơ bản chưa thực sự chặt chẽ, một bộ phận CBCS
vẫn còn tư tưởng xem nhẹ vai trò của các biện pháp nghiệp vụ. Nhiều địa bàn
hiện nay chưa được điều tra cơ bản, bổ sung thông tin địa bàn. Công tác sưu
tra vẫn còn nhiều lỗ hổng, vẫn còn tình trạng bỏ sót đối tượng. Việc xây dựng
sử dụng cơ sở bí mật vẫn còn nặng tính hình thức, việc lựa chọn, khai thác, sử
dụng chưa hiệu quả.
- Hệ thống trang thiết bị, phương tiện quản lý cư trú hiện nay về cơ bản
vẫn còn lạc hậu, thủ công
Hầu như tất cả các đơn vị, CBCS Cảnh sát QLHC về TTXH hiện nay
vẫn đang sử dụng, kế thừa các phương pháp truyền thống như làm bằng tay,
sổ sách, giấy tờ. Trong đăng ký, quản lý cư trú ở một số địa phương còn hạn
chế, nhiều nơi làm còn hình thức, chưa đáp ứng đầy đủ nội dung, yêu cầu
60
công tác cải cách, vẫn khó khăn, phiền hà cho nhân dân. Tại một số địa
phương, việc tổ chức thực hiện các quy định mới của Luật Cư trú và các văn
bản hướng dẫn thi hành có thời điểm chưa thực sự đầy đủ, nghiêm túc, nhất là
ở cấp cơ sở; việc kiểm tra và xử lý vi phạm trong đăng ký, quản lý cư trú cũng
chưa thường xuyên, kịp thời. Sự quản lý với mô hình thủ công sẽ dẫn đến thất
lạc hồ sơ, sai sót nhiều, thời gian giải quyết các thủ tục kéo dài, ẩm mốc, mờ
thông tin trong hồ sơ lưu.
2.3.3 Nguyên nhân của hạn chế.
- Nhận thức, trình độ của một bộ phận cấp ủy, chính quyền, lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH chưa thực sự tiến bộ
Bản thân một bộ phận cấp ủy, chính quyền, cán bộ chỉ huy và lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH còn coi nhẹ công tác quản lý cư trú nên chưa thực
sự đầu tư, tập trung quyết liệt vào hoàn thiện hệ thống cơ chế, thắt chặt công
tác quản lý, chỉ đạo CBCS thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Đặc biệt, tầm
nhìn trong đổi mới phương thức, biện pháp, ứng dụng công nghệ thông tin,
cải cách hành chính còn chưa thực sự được quan tâm thường xuyên. Việc thực
hiện công tác chỉ đạo, công tác quản lý còn mang tính hình thức, chưa chú
trọng vào chất lượng, hiệu quả thực hiện. Một số đồng chí chỉ huy công tác
quản lý cư trú nhưng vẫn có tư tưởng bảo thủ, không chịu đổi mới. Một bộ
phận lãnh đạo chỉ đạo, cán bộ Cảnh sát QLHC về TTXH chất lượng công tác
hạn chế, không có trình độ chuyên môn, thiếu kinh nghiệm công tác, chưa
làm chủ được các phần mềm, kỹ năng tin học yếu. Nguyên nhân đó dẫn đến
việc làm ẩu, làm chủ quan, qua loa đại khái, cán bộ vi phạm quy định của
ngành, quy định của pháp luật, thậm chí một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư
tưởng đi ngược lại so với các chủ trương đổi mới, tiến bộ trong công tác quản
lý. Bản thân một số cán bộ, chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ vẫn có thái độ bỏ
mặc địa bàn, làm việc thiếu quyết tâm, tâm huyết, chạy theo thành tích, thiếu
61
chú trọng về nội dung, chất lượng công tác.
- Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về cư trú ở một số địa bàn
còn đơn giản, chưa có tính đột phá
Nhiều nơi chỉ tập trung tuyên truyền trước thời điểm Luật Cư trú có hiệu
lực thi hành, mới tổ chức tuyên truyền những quy định của Luật mà chưa đi sâu
giải đáp những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mà người dân quan tâm
trong đăng ký cư trú. Do vậy, một bộ phận quần chúng nhân dân nhận thức
chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình trong cư trú, ý thức chấp hành
pháp luật về cư trú chưa thật sự nghiêm túc. Hình thức tuyên truyền vẫn còn
nghèo nàn, chủ yếu dựa vào các hình thức cũ, lạc hậu, kém hiệu quả. Nội dung
tuyên truyền đơn giản, chưa đi đúng nội dung, yêu cầu của tình hình thực tế.
Chưa áp dụng các biện pháp mới trong công tác tuyên truyền như mạng
Internet, phim tuyên truyền, phối hợp giữa các lực lượng, đơn vị, tổ chức chính
trị - xã hội để tuyên truyền. Cán bộ, chiến sĩ vẫn nặng tư tưởng quan liêu, coi
việc người dân là người phụ thuộc nên có xu hướng kéo sự thuận lợi về phía cơ
quan Công an, đẩy sự bất lợi, khó khăn về phía người dân.
- Hệ thống các văn bản quản lý cư trú hiện nay, đặc biệt là các văn bản
hướng dẫn chưa được quan tâm xây dựng, thực hiện rộng rãi, công tác hướng
dẫn thống nhất chưa rõ ràng
Trách nhiệm trước hết từ Cục nghiệp vụ có liên quan, Phòng Cảnh sát
QLHC về TTXH. Trong nhiều trường hợp Cục, Phòng, Chỉ huy Đội, Chỉ huy
Công an Phường chưa có hướng dẫn rõ ràng dẫn đến cán bộ, chiến sỹ không
dám thực hiện. Các trường hợp khó như người gốc Hà Nội chưa được nhập hộ
khẩu, con lai được đưa từ nước ngoài về, xác định chỗ ở hợp pháp,... trong
thời gian dài chưa có sự hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó khăn trong công tác
triển khai thực hiện. Cũng do thiếu hệ thống văn bản hướng dẫn dẫn tới hồ sơ,
thủ tục giải quyết công việc ở các đơn vị, địa phương còn có sự khác nhau
62
tương đối. Phần mềm chuyên dụng phục vụ công tác quản lý cư trú đối với
công dân đã được triển khai thực hiện, tuy nhiên các vướng mắc khi được đề
nghị giải đáp, hướng dẫn vẫn còn chậm.
- Quá trình thực hiện công tác quản lý cư trú vẫn thực hiện dàn trải,
thiếu trọng tâm, trọng điểm, một số tồn tại kéo dài nhưng chưa được giải
quyết kịp thời
Thực tế cho thấy, mỗi một nội dung công tác, ở các giai đoạn thời gian
cụ thể có sự tăng giảm, tính chất phức tạp khác nhau, trong khi việc quản lý
nếu thực hiện dàn trải sẽ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ quản lý. Ví
dụ: Thời gian gần đây, số lượng người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên
đến Hà Nội rất nhiều, đi lại, cư trú trên các địa bàn phức tạp nhưng chưa được
tập trung quản lý chặt chẽ; các thời điểm có nhiều khách du lịch, trong khi việc
huy động các lực lượng khác tham gia hỗ trợ lại khó khăn, dẫn đến tình trạng
quá tải. Một số vấn đề tồn tại từ nhiều năm nhưng chưa được giải quyết triệt để
như việc quản lý hộ, nhân khẩu sinh sống trên mặt nước, con lai.
- Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý cư trú chưa được
đầu tư, quan tâm thực hiện thỏa đáng
Mặc dù lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH đã thực hiện sự chỉ đạo
của CATP trong tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản
lý cư trú, đặc biệt việc khai thác, sử dụng phần mềm quản lý dữ liệu dân cư.
Tuy nhiên, chưa thu được kết quả cao, vẫn còn nhiều lỗi, chưa triển khai đồng
bộ, đặc biệt trong thực hiện thủ tục hành chính về cư trú còn nhiều thủ tục,
giấy tờ, người dân còn mất nhiều thời gian đi lại, chờ đợi. Việc tra cứu thông
tin về hộ khẩu, nhân khẩu phục vụ quản lý xã hội cho nhà nước và phòng
ngừa đấu tranh chống tội phạm còn chưa kịp thời, thường xuyên. Việc giải
quyết các thủ tục còn mang tính thủ công dẫn đến các vấn đề bất cập như lãng
phí thời gian, nhân lực, mất, thất lạc dữ liệu.
63
- Tình hình di dân cơ học, lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên,
khách du lịch đến quận ngày càng nhiều, đa dạng về mục đích, nơi cư trú
Hà Nội với vị trí là Thủ đô, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của cả nước. Hàng năm, đón nhận hàng triệu lượt khách du lịch từ nước
ngoài, trong nước, người lao động ngoại tỉnh, học sinh, sinh viên cư trú có
thời hạn đến địa bàn quận Long Biên nói riêng và thành phố Hà Nội nói
chung để thăm quan, làm việc, học tập, khám chữa bệnh,... gây áp lực lớn cho
lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý chặt chẽ tình hình cư trú,
đi lại của công dân. Số lượng người đến, đi trong ngày diễn ra thường xuyên.
Cùng với đó là trình độ dân trí, ý thức pháp luật về cư trú của một bộ phận
không nhỏ quần chúng còn hạn chế. Với tình hình, sự biến động đó đang gây
nên khó khăn lớn cho lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý tốt
64
tình hình cư trú trong phạm vi địa bàn được phân công quản lý.
Kết luận chương 2
Trong nội dung của chương 2, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ các
vấn đề liên quan đến công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên
thành phố Hà Nội như tình hình địa lý, dân cư, tình hình kinh tế xã hội, tình
hình về ANTT; phân tích sâu về tình hình cư trú của công dân trên địa bàn
quận Long Biên thành phố Hà Nội theo hướng các nội dung đăng ký, quản lý
như thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắn, công tác điều chỉnh thông tin cư trú,
xây dựng hệ thống tàng thư dân cư, các vấn đề xoay quanh công tác quản lý
cư trú đối với công dân; nghiên cứu làm rõ về thực trạng tình hình tổ chức
biên chế lực lượng; những thuận lợi, khó khăn trong công tác tổ chức của
Cảnh sát QLHC về TTXH ở cấp Đội; lực lượng CSKV từ tháng 01 năm 2014
đến hết tháng 6 năm 2018 để thực hiện nhiệm vụ quản lý về cư trú; phân tích
thực trạng công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà
Nội. Qua đó, phân tích những thuận lợi, khó khăn, tồn tại đồng thời làm rõ
nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên.
Những vấn đề được làm rõ trong Chương 2 là tiền đề, cơ sở quan trọng
để đánh giá đúng tình hình cư trú, quản lý cư trú trên địa bàn; làm cơ sở để
đưa ra những dự báo chính xác về tình hình có liên quan trong thời gian tiếp
theo, đưa ra các giải pháp cụ thể, đúng hướng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác quản lý cư trú trên địa bàn quận Long Biên thành phố Hà Nội
gắn với hoạt động của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, lực lượng Cảnh
65
sát khu vực.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
LỰCLƯỢNG CẢNH SÁT QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ
HỘI TRONG QUẢN LÝ CƯ TRÚ - TỪ THỰC TIỄNQUẬN
LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phương hướng nâng cao vai trò của lực lượng cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú.
Qua quá trình thực hiện quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố trong tình hình mới,
đảm bảo quản lý cư trú một cách khoa học, hiệu quả.
Nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý
cư trú góp phần rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ Công an các cấp,
tăng cường cho Công an cơ sở, bồi dưỡng cho cán bộ chiến sỹ về kiến thức
pháp luật, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp, có tinh thần
trách nhiệm trước công việc và nhân dân. Nâng cao ý thức về vị trí tầm quan
trọng của công tác quản lý cư trú đến toàn thể cán bộ chiến sỹ trong lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH, trong đó xác định rõ vai trò trách nhiệm của cấp
ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Thông qua các giải pháp về hoàn thiện công tác quản lý cư trú, góp
phần tuyên truyền sâu rộng về Luật cư trú và các văn bản hướng dẫn, nâng
cao nhận thức và ý thức chấp hành của công dân và cơ quan tổ chức; góp
phần đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Nghiên cứu cải tiến, góp phần hoàn thiện nội dung, biện pháp công tác
66
đăng ký, quản lý cư trú đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong từng giai đoạn, gắn việc thực hiện
đăng ký, quản lý cư trú với công tác cải cách hành chính, nâng cao chất lượng
phục vụ nhân dân, làm tốt công tác nắm tình hình hộ, người, di biến động của
các loại đối tượng, phục vụ hiệu quả công tác đăng ký, quản lý cư trú nói
riêng và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tệ nạn xã hội nói chung;
kịp thời giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân về cư trú, không để xảy ra
tình trạng khiếu nại, phức tạp.
Đảm bảo đầy đủ về kinh phí, trang bị máy móc, phương tiện có trọng
tâm, trọng điểm, nhằm từng bước thực hiện lộ trình tin học hóa công tác đăng
ký, quản lý cư trú, phục vụ yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an nói riêng và
yêu cầu quản lý xã hội nói chung.
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội trong quản lý cư trú tại địa bàn quận Long
Biên thành phố Hà Nội
3.2.1. Sửa đổi luật cư trú các văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt
động tác quản lý cư trú.
Thứ nhất, cải cách về thể chế liên quan đến công tác quản lý cư trú
Hệ thống các văn bản pháp lý khi được tính toán xây dựng cần chú
trọng vào việc giảm thiểu hệ thống các thủ tục. Tập trung xác định rõ trách
nhiệm của các cấp, các đơn vị trong thực hiện công tác quản lý cư trú. Cần tập
trung khắc phục các văn bản cũ, hoàn thiện các văn bản để đáp ứng yêu cầu
quản lý đối với các vấn đề mới nảy sinh.
Hoàn thiện các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy của các lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, Cảnh sát đăng
ký, quản lý cư trú và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cảnh sát khu vực.
Bên cạnh đó, hiện nay, nhiều trường hợp người dân khiếu nại về quá
67
trình giải quyết các thủ tục về cư trú nhưng vẫn chưa được giải quyết thỏa
đáng, xử lý đối với cán bộ vi phạm chưa thực sự nghiêm, ảnh hưởng đến uy
tín của cơ quan, chưa đủ sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong thời gian tiếp
theo. Do đó, cần chú trọng hoàn thiện các quy định về chế tài xử lý hành
chính cả các hành vi vi phạm của công dân, cả đối với cán bộ, chiến sĩ vi
phạm quy định.
Những trường hợp vướng mắc trên thực tế như con lai do mẹ đưa từ
nước ngoài về, trường hợp không có hồ sơ, giấy tờ gốc để đăng ký thường trú,
trường hợp vợ chồng ly hôn nhưng do bất đồng quan điểm nên không phối
hợp trong việc tách sổ,... đang gây khó khăn cho công tác triển khai thực hiện,
giải quyết yêu cầu của công dân. Xem xét tính thực tế của các chế định về
quản lý thông tin lưu trú với thực tiễn khó khăn trong việc giám sát thực hiện
để có những điều chỉnh phù hợp hơn.
Thứ hai, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật làm căn cứ cho công tác quản lý cư trú
Hiện nay các quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn thiếu đồng bộ,
chồng chéo, mâu thuẫn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Cụ thể:
Thứ nhất, theo quy định của Luật Cư trú, cơ quan Công an có thẩm
quyền đăng ký thường trú được quy định như sau: Đối với địa bàn các thành
phố trực thuộc Trung ương thì nộp hồ sơ tại Công an quận, huyện, thị xã; đối
với địa bàn các tỉnh thì nộp hồ sơ tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện; Công
an thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Quy định này hoàn toàn phù hợp với địa bàn
nông thôn, khi mà điều kiện đường xá, giao thông đi lại hết sức khó khăn,
nhiều xã cách quá xa trung tâm huyện. Việc phân cấp cho Công an xã,
phường tiếp nhận, thẩm định giải quyết đăng ký thường trú là hoàn toàn phù
hợp. Khi nghiên cứu nội dung, phương pháp đăng ký, quản lý cư trú ở nước ta
cho thấy: đăng ký cư trú là khâu mở đầu, là cơ sở thông tin và căn cứ pháp lý
68
để tiến hành các biện pháp quản lý cư trú cho phù hợp. Nếu gắn kết được giữa
khâu đăng ký và quản lý về cùng một cấp cơ quan sẽ phát huy được tối đa tác
dụng nghiệp vụ của công tác này. Do vậy, nên chăng trong thời gian tới, Luật
Cư trú cần tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng ký thường trú tại các thành
phố, thị xã xuống cho Công an các phường, xã, thị trấn. Việc phân cấp này,
vừa tạo thuận tiện cho công dân khi làm thủ tục đăng ký thường trú, vừa gắn
kết được tác dụng nghiệp vụ của hoạt động hành chính trong đăng ký thường
trú với việc tiến hành các biện pháp quản lý nhân, hộ khẩu thường trú của lực
lượng lượng CSKV.
Thứ hai, chưa thống nhất trong cách hiểu về nội dung của công tác
đăng ký, quản lý cư trú. Tại Điều 1 Luật Cư trú quy định: “Cư trú là việc công
dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức
thường trú hoặc tạm trú”. Theo quy định này, công tác đăng ký, quản lý việc
cư trú được hiểu gồm 2 nội dung là: Đăng ký, quản lý thường trú và đăng ký,
quản lý tạm trú. Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 31/2014/NĐ-CP
có quy định về hộ khẩu theo Luật Cư trú, bao gồm các nội dung sau: a) Đăng
ký, quản lý thường trú; b) Đăng ký, quản lý tạm trú; c) Thông báo lưu trú; d)
Khai báo tạm vắng [8,tr.13]. Như vậy, nội dung quy định này thực chất là quy
định về hộ khẩu. Hộ khẩu là một phương thức quản lý nhân khẩu của một số
quốc gia tại Á Đông. Trong phương thức này, đơn vị quản lý xã hội là hộ gia
đình, tập thể do một chủ hộ chịu trách nhiệm. Sổ hộ khẩu do cơ quan công an
cấp. Khi sinh ra, con được nhập theo hộ khẩu của cha mẹ. Hộ khẩu có liên
quan đến các quyền lợi khác như: phân chia ruộng đất, nhà ở, lương thực,
thực phẩm, việc làm, giấy tờ, tiêu chuẩn điện nước, trường học...Khi thay đổi
chỗ ở, người dân phải thực hiện thủ tục thay đổi hộ khẩu. Với người dân nhập
cư vào thành phố, việc thay đổi hộ khẩu này còn được gọi là nhập hộ khẩu.
Hệ thống hộ khẩu hiện nay tồn tại ở các nước: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
69
Bản, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Sổ hộ khẩu đơn giản chỉ là giấy chứng
nhận đăng ký thường trú của các hộ gia đình. Với mỗi quốc gia, việc đăng ký
thường trú của công dân tại địa phương là cần thiết, không chỉ để quản lý cư
trú mà còn để công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và hưởng các
quyền lợi của mình tại địa phương đăng ký.
Thứ ba, chưa có sự phân biệt về điều kiện đăng ký thường trú áp dụng
đối với công dân ngoại tỉnh với công dân ở ngoại thành khi đăng ký thường
trú vào các quận nội thành. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 20 Luật Cư trú, quy định
nếu công dân: “Có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ
một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá
nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn
bản;” [40, tr.36] thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung
ương. Điểm b khoản 1 và khoản 4 Điều 8 Nghị định 31/2014/NĐ-CP quy
định về thời gian tạm trú để được đăng ký thường trú trên địa bàn thành phố
trực thuộc Trung ương, mà theo đó:
- Tạm trú liên tục từ 1 năm trở lên tại thành phố trực thuộc trung ương
đối với trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực
thuộc trung ương đó.
- Tạm trú liên tục 2 năm trở lên đối với trường hợp đăng ký thường trú
vào quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.
- Theo khoản 4 Điều 19 Luật Thủ đô Công dân thuộc một trong các
trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú ở nội thành:
a) Các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 20 của Luật cư trú;
b) Các trường hợp không thuộc điểm a khoản này đã tạm trú liên tục tại
nội thành từ 3 năm trở lên, có nhà ở thuộc sở hữu của mình hoặc nhà thuê ở
nội thành của tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhà ở; đối với nhà thuê
phải bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định củaHội đồng
70
nhân dân thành phố Hà Nội và được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức, cá
nhân có nhà cho thuê cho đăng ký thường trú vào nhà thuê [40,tr.29].
Với quy định về điều kiện thời gian công dân đăng ký tạm trú để được
đăng ký thường trú tại các quận nội thành, việc công dân trước đó có hộ khẩu
thường trú ở tỉnh ngoài hay hộ khẩu tại ngoại thành của thành phố trực thuộc
trung ương đó đều là như nhau. Trong khi đó, công dân ở tỉnh ngoài muốn
nhập hộ khẩu thường trú vào các địa bàn ngoại thành của thành phố trực
thuộc trung ương phải tạm trú tại địa phương đó từ đủ 1 năm trở lên. Từ thực
tế đó, cần thiết có sự phân biệt giữa hai trường hợp vừa nêu dưới góc độ điều
kiện đăng ký thường trú để đánh giá đúng tính chất cư trú, cũng như các tác
động về sức ép dân số đối với các thành phố trực thuộc Trung ương nói
chung.
Thứ tư, bất cập trong một số trường hợp xóa đăng ký thường trú.Theo
quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Cư trú, quy định về những trường hợp xóa
đăng ký thường trú. Qua nghiên cứu thấy rằng, trường hợp công dân đã đăng
ký thường trú mà ra nước ngoài định cư, Luật Cư trú hiện hành không quy
định cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý xuất nhập cảnh với Cảnh sát Quản
lý hành chính về trật tự xã hội. Do đó, cơ quan quản lý thường trú công dân
không có cơ sở để làm thủ tục xóa đăng ký thường trú. Dẫn tới việc hồ sơ
quản lý thường trú công dân vẫn có, song thực tế, công dân lại không sinh
sống tại Việt Nam. Cũng tương tự như vậy đối với trường hợp công dân
chuyển đi nơi khác nhưng không làm thủ tục chuyển hộ khẩu, hoặc người
đang chấp hành án phạt tù chung thân tại các trại giam cũng không thuộc diện
xóa đăng ký thường trú, dù rằng theo quy định về việc giảm án tha tù, những
người đang chấp hành án chung thân vẫn có cơ hội trở về tái hòa nhập với
cộng đồng, nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLHS, họ phải bảo đảm
chấp hành án thời hạn thực tế là 20 năm. Nghĩa là trong suốt thời gian 20 năm
71
phải chấp hành án, họ không có mặt tại địa phương nơi đã đăng ký thường
trú, điều này dẫn tới sự khác biệt giữa quản lý hồ sơ và quản lý thực tế việc
công dân cư trú.
Thứ năm, Luật Cư trú cũng chưa quy định cụ thể về cách hiểu và áp
dụng đối với cụm từ “thường xuyên sinh sống”. Theo quy định tại khoản 1
Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP: “Mỗi công dân chỉ được đăng ký thường
trú tại một chỗ ở hợp pháp và là nơi thường xuyên sinh sống”. Vậy hiểu như
thế nào là thường xuyên? Vì quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định
31/2014/NĐ-CP, công dân chỉ được đăng ký thường trú tại một nơi ở, mà nơi
đó là chỗ ở hợp pháp và cũng là nơi công dân đó thường xuyên sinh sống. Rõ
ràng các điều kiện mà nhà làm luật đưa ra trong quy định vừa nêu có mối
quan hệ bắt cầu và bổ sung cho nhau, điều kiện này là tiền đề của điều kiện
kia, nếu thiếu một trong hai điều kiện đã nêu thì không thể thỏa quy định tại
khoản 1 Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP.Trong khi đó, cụm từ “thường
xuyên sinh sống” chưa được giải thích cụ thể và chỉ là yếu tố định tính, dẫn
tới cách hiểu và cách áp dụng ở mỗi địa phương là không giống nhau. Có nơi
coi việc công dân mỗi tháng cư trú 2 - 3 tuần là thỏa mãn quy định “thường
xuyên sinh sống”, nhưng cũng có nơi lại quy định công dân phải cư trú tuy
không liên tục, nhưng ít nhất từ 09 tháng trở lên trong một năm mới được coi
là “thường xuyên sinh sống”. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 5
Nghị định 31/2014/NĐ-CP trường hợp của anh A trong ví dụ trên, anh ấy có
nơi thường trú không? Và trong thực tế hiện nay, trường hợp như anh A là rất
và rất phổ biến. Do vậy, để giúp lực lượng công an tại địa phương thực hiện
nhiệm vụ đăng ký, quản lý việc cư trú của công dân nói chung được thuận lợi
và thống nhất khi áp dụng, rất cần quy định cụ thể vấn đề này [6, tr.15].
Đối với các quy định liên quan đến thủ tục đăng ký quản lý cư trú cần
sửa đổi một số nội dung, cần thống nhất các quy định liên quan đến thủ tục
72
đăng ký và quản lý cư trú giữa các luật với nhau: hiện nay các quy định liên
quan đến thủ tục đăng ký, quản lý, cư trú còn rời rạc, tách riêng, không gắn
kết với quy định pháp luật về đất đai, nhà ở...
Sự thiếu hụt khung pháp lý về quản lý nhà nước về cư trú làm phát sinh
nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách dân cư, chiến lược phát triển đô
thị và quy mô quy hoạch nhà ở. Các thủ tục đăng ký còn gặp nhiều rào cản
của các cơ quan chuyên ngành khác. Hoàn thiện pháp luật nội dung sẽ hạn
chế được những khó khăn, vướng mắc trong đăng ký quản lý cư trú, đồng thời
cũng sẽ giúp cho cơ quan tham mưu có cơ sở pháp lý để thực thi thống nhất,
đồng bộ khi xem xét giải quyết đăng ký, quàn lý cư trú. Cần bổ sung chức
năng, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về cư trú một cách rõ
ràng, tránh sự chồng chéo mâu thuẫn giữa chúng. Trong đó, xác định thẩm
quyền của UBND từng cấp, đặc biệt là thẩm quyền ban hành các văn bản
quản lý nhà nước về cư trú phù hợp đặc điểm hoàn cảnh của từng địa phương
nhưng không trái luật và cũng không làm hạn chế về quyền tự do cư trú, đảm
bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Như vậy mới phát huy
được hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú, phục vụ nhu cầu phát triển
kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội, đảm bảo được an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội.
3.2.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện.
Giữa hệ thống pháp luật về đăng ký, quản lý cư trú theo Luật Cư trú
hiện hành và các quy định về điều kiện và thủ tục đăng ký thường trú ở nội
thành Hà Nội theo Luật Thủ đô 2012 có nhiều điểm khác biệt theo hướng thu
hẹp hơn điều kiện đăng ký thường trú vào khu vực nội thành so với khu vực
ngoại thành Hà Nội. Đến nay, Luật Thủ đô đã chính thức có hiệu lực, để các
quy định mới về đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội được áp dụng một
cách có hiệu lực, hiệu quả và thống nhất thì các cơ quan chức năng nhà nước
73
cần tiếp tục nghiên cứu, thống nhất một số vấn đề sau:
Cần hướng dẫn và thống nhất hóa các quy định về điều kiện, thủ tục
đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội. Đối với những trường hợp nhập nhờ
vào người có sổ hộ khẩu và có chỗ ở hợp pháp ở nội thành theo quy định tại
điểm a, khoản 4, Luật Thủ đô thì áp dụng theo pháp luật về cư trú. Như đã
phân tích ở trên, đối với những trường hợp này theo pháp luật về cư trú, công
dân sẽ không phải xuất trình giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp nhưng theo
Luật Thủ đô thì “có chỗ ở hợp pháp ở nội thành” lại là một điều kiện bắt buộc
để đăng ký thường trú cho những trường hợp này. Do vậy, để có cách hiểu
thống nhất ngay trong cùng một điều luật, thì cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần hướng dẫn đối với những trường hợp đăng ký thường trú theo diện
chuyển về với người đang có hộ khẩu ở nội thành. Nên quy định đối với
những trường hợp này khi làm thủ tục đăng ký thường trú không cần phải
xuất trình giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp để thực sự phù hợp với pháp
luật về cư trú, vừa giảm bớt phiền hà, thủ tục cho công dân.
Đối với phạm vi điều chỉnh nơi đăng ký thường trú vào khu vực nội
thành cũng cần có cách hiểu thống nhất. Theo pháp luật về cư trú, những
trường hợp đăng ký thường trú theo Điều 20 Luật Cư trú chỉ áp dụng đối với
những người đang thường trú ở tỉnh ngoài chuyển về địa bàn các thành phố
trực thuộc Trung ương, không áp dụng đối với những trường hợp chuyển nơi
thường trú trong phạm vi thành phố trực thuộc Trung ương. Đến Luật Thủ đô
đã đưa ra những quy định riêng trong đăng ký thường trú vào khu vực nội
thành, nhưng trong Luật chưa chỉ rõ quy định này chỉ áp dụng đối với những
trường hợp chuyển từ tỉnh ngoài vào khu vực nội thành hay áp dụng cả đối với
những trường hợp thay đổi nơi thường trú từ ngoại thành và nội thành Hà Nội.
Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp “siết
chặt” điều kiện đăng ký thường trú trong việc kìm hãm tốc độ nhập cư tự phát
74
vào nội thành, nội thị Thủ đô, cũng như tại các thành phố trực thuộc Trung
ương. Tình trạng nhập cư với tốc độ nhanh từ nông thôn về thành thị nói
chung, vào khu vực nội thành Hà Nội nói riêng, phải thừa nhận đó là một quy
luật xã hội khách quan, tất yếu và việc kìm hãm, điều tiết luồng nhập cư này
cũng là trách nhiệm và chức năng của mọi Nhà nước. Hầu hết các nhà nghiên
cứu đều đồng ý với quan điểm: bên cạnh những chính sách xã hội ở tầm vĩ mô
đến những biện pháp vi mô, bên cạnh những “ưu tiên đầu tư và huy động các
nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
đồng bộ, hiện đại, thuận tiện ở ngoại thành; phối hợp với các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trong vùng Thủ đô và các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương khác phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm nhằm hạn
chế tình trạng di dân tự phát vào nội thành thì vai trò điều tiết của nhà nước
thông qua hệ thống chính sách pháp luật và công cụ quản lý là một nhân tố
vẫn giữ vai trò không nhỏ trong giai đoạn hiện nay. Chính sách pháp luật quy
định điều kiện rằng buộc khi đăng ký thường trú vào khu vực nội thành trong
chừng mực nào đó góp phần phân bố đồng đều mật độ dân cư của Thủ đô Hà
Nội. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp mang tính hành chính này trong thực
tiễn nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là công cụ giảm nhập cư “trên giấy”, tức là
hạn chế số người được đăng ký hộ khẩu thường trú, chứ hoàn toàn không hạn
chế được số người chuyển về nội thành sinh sống. Người dân đã, đang và sẽ
còn kéo đến sinh sống ở nơi nào mưu sinh tốt hơn, mà không hề quan tâm đến
việc có được ĐKHK thường trú hay không. Một mặt không chỉ vô nghĩa về
mặt hạn chế nhập cư, các biện pháp này còn sẽ gây khó khăn cho công tác
quản lý dân cư của cơ quan chức năng khi số người có hộ khẩu thường trú
một nơi nhưng thường xuyên sinh sống ở một nơi khác ngày một gia tăng. Có
lẽ bài toán về vấn đề nhập cư vào nội thành Hà Nội không phải là vấn đề một
ngày, hai ngày, của một cơ quan hay hai cơ quan mà trách nhiệm chung thuộc
75
về toàn xã hội.
Luật Quốc tịch 2008 đã và đang phát huy những vai trò quan trọng
trong bảo đảm việc thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tuy
nhiên, trong bối cảnh trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi, tình hình
di cư của một bộ phận người dân từ quốc gia này sang quốc gia khác, tình
hình người di cư tự do từ Việt Nam sang các nước láng giềng và ngược lại,
cũng như nhu cầu giải quyết các việc về quốc tịch Việt Nam của người dân ở
trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng..., đã phát sinh nhiều khó khăn,
vướng mắc như nguyên tắc xác định quốc tịch Việt Nam, vấn đề xác định
quốc tịch của trẻ em, việc công nhận và xử lý hệ quả của tình trạng hai quốc
tịch, một số thủ tục hành chính quy định tại Luật còn chưa minh bạch, chưa
bảo đảm tính khả thi, vấn đề cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam,... cần
được nghiên cứu một cách nghiêm túc, cũng như tham khảo kinh nghiệm của
nước ngoài để có hướng giải quyết, khắc phục, đáo ứng yêu cầu bảo đảm tốt
nhất quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực quốc tịch trên cơ sở
Hiến pháp năm 2013 và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết
tham gia.
Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các Thông tư hướng dẫn về công tác đăng
ký, quản lý cư trú theo hướng thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc cải cách
thủ tục hành chính, giảm phiền hà, tiêu cực trong công tác đăng ký, quản lý cư
trú. Chú ý hơn nữa các nội dung nghiệp vụ quản lý cư trú nhất là quản lý
thường trú, tạm trú, tạm vắng, lưu trú. Thông qua quản lý cư trú phải chủ
động đề ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm, các hành vi VPPL góp phần
đảm bảo ANTT; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong cư trú, phục vụ
quản lý xã hội, phát triển kinh tế của đất nước.
Thể chế hóa các hành vi vi phạm hành chính cũng như các chế tài xử lý
để đảm bảo tính răn đe, giáo dục nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
76
về cư trú. Theo cơ chế điều chỉnh của Luật Cư trú, khi công dân thay đổi nơi
đăng ký thường trú ngoài phạm vi quận, huyện, thị xã công dân phải mất ít
nhất 6 lần đi lại: 02 lần làm thủ tục cấp giấy chuyển hộ khẩu, 02 lần làm thủ
tục đăng ký thường trú tại nơi chuyển đến, 02 lần làm thủ tục xóa tên trong sổ
hộ khẩu tại nơi chuyển đi. Điều đó gây khó khăn cho công dân và cho chính
cơ quan Công an có thẩm quyền đăng ký thường trú.
Trong thời gian tới, để giảm thiểu số lần đi lại của người dân khi làm
thủ tục thay đổi nơi thường trú trong phạm vi thành phố Hà Nội, cần tiếp tục
tham mưu cho Giám đốc CATP thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính
trong quản lý cư trí trú đối với công dân, áp dụng đối với tất cả địa bàn. Trình
tự giải quyết một hồ sơ đăng ký thường trú sẽ bao gồm 03 bước như sau:
Bước 1: Hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính.
Đây là bước đầu tiên trong quy trình đăng ký thường trú, liên quan trực
tiếp đến hiệu quả của việc đăng ký thường trú. Việc tiếp dân, hướng dẫn thủ
tục, tiếp nhận hồ sơ đăng ký thường trú cũng thể hiện hình ảnh, uy tín của
ngành Công an. Cán bộ đăng ký phải xem xét hồ sơ, đối chiếu với các quy
định của Luật Cư trú và thực hiện theo đúng quy định. Những trường hợp
không thuộc điều kiện đăng ký thường trú thì không nhận hồ sơ và giải thích,
nêu rõ lý do bằng văn bản để người nộp hồ sơ biết.
Bước 2: Thẩm định, xem xét duyệt hồ sơ.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến tiến độ và hiệu quả của
công việc đăng ký thường trú. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày
tiếp nhận hồ sơ, cán bộ đăng ký phải nghiên cứu, xem xét hồ sơ. Đối với hồ
sơ hợp lệ thì ghi vào bản photocopy các giấy tờ, tài liệu (không cần công
chứng, chứng thực) là đã đối chiếu đúng với bản chính và ký, ghi rõ họ tên;
chuyển hồ sơ và đề xuất Chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về TTXH bằng văn bản
và ghi rõ các thông tin cơ bản sau: ngày, tháng, năm nhận hồ sơ; các tài liệu
77
có trong hồ sơ; nội dung yêu cầu phải quyết, ý kiến đề xuất (căn cứ, nội dung
đề xuất) và ký ghi rõ họ tên.
Đối với trường hợp đủ điều kiện nhưng thiếu thủ tục, kê khai biểu mẫu,
giấy tờ chưa đúng thì thông báo bằng văn bản hoặc qua điện thoại cho công
dân biết để bổ sung, kê khai lại. Những trường hợp hồ sơ không thuộc điều
kiện đăng ký thường trú thì đề xuất chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về TTXH
báo cáo lãnh đạo Công an cấp huyện trả lời công dân bằng văn bản, nêu lý do
không giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ và ý kiến đề xuất của cán bộ đăng ký, chỉ huy Đội Cảnh sát QLHC về
TTXH phải thẩm tra hồ sơ.
Đối với trường hợp hồ sơ hợp lệ thì đề xuất lãnh đạo Công an cấp
huyện duyệt đăng ký thường trú ghi trực tiếp vào văn bản đề xuất. Đối với
trường hợp hồ sơ đủ điều kiện nhưng thiếu thủ tục cần bổ sung, nội dung cần
kê khai lại để cán bộ để cán bộ đăng ký thông báo lại cho công dân bổ sung,
kê khai lại. Đối với hồ sơ đủ điều kiện nhưng cần tiếp tục phải làm rõ một số
nội dung thì lập, gửi phiếu xác minh hộ khẩu, nhân khẩu theo mẫu quy định
hoặc cử cán bộ trực tiếp xác minh. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được hồ sơ và ý kiến đề xuất của chỉ huy Đội cảnh sát QLHC về
TTXH, Trưởng Công an cấp huyện hoặc Phó Trưởng Công an cấp huyện
được uỷ quyền bằng văn bản, phải xem xét hồ sơ.
Đối với trường hợp hồ sơ hợp lệ thì duyệt đăng ký thường trú; giao cho
Đội cảnh sát QLHC về TTXH cử người viết sổ hộ khẩu và lập phiếu thông tin
thay đổi về hộ khẩu, nhân khẩu để thông báo việc đăng ký thường trú.
Những trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện thì ký văn bản trả lời
công dân nêu rõ lý do không giải quyết, trả hồ sơ cho Đội cảnh sát QLHC về
TTXH để trả lại công dân.
Để đảm bảo thời gian trả kết quả cho công dân, quy trình quy định
78
trách nhiệm của cơ quan Công an nhận được yêu cầu xác minh: trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh, Công an xã,
phường, thị trấn nơi công dân đề nghị đăng ký thường trú có trách nhiệm phải
trả lời xác minh. Trường hợp phải xác minh nhiều nơi hoặc xác minh nhiều
nội dung khác nhau thì được kéo dài thời gian, nhưng tối đa không quá 06
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh.
Bước 3: Trả kết quả.
Đối với trường hợp được đăng ký thường trú: cán bộ đăng ký thường
trú thu lệ phí đăng ký cư trú theo quy định pháp luật về lệ phí; thu sổ hộ khẩu
cũ có đóng dấu huỷ để lưu hồ sơ đăng ký thường trú đối với trường hợp
chuyển đến cả hộ; trả lại giấy tờ, tài liệu bản chính cho người đến nhận kết
quả. Để đảm bảo tính chính xác của các thông tin đã đăng ký, tránh tình trạng
công dân phải đi lại bổ sung nhiều lần. Khi trả kết quả, cán bộ đăng ký phải
yêu cầu người nhận kết quả kiểm tra lại giấy tờ, tài liệu bản chính, đối chiếu
các thông tin được ghi trong sổ hộ khẩu và ký nhận (ký, ghi rõ họ tên và ngày,
tháng, năm nhận kết quả) vào sổ theo dõi quyết hộ khẩu theo mẫu quy định.
Đối với hồ sơ không đủ điều kiện đăng ký thường trú: cán bộ đăng ký trả lại
hồ sơ đã tiếp nhận; yêu cầu người nhận kết quả kiểm tra lại giấy tờ, tài liệu có
trong hồ sơ và ký nhận (ký, ghi rõ họ tên và ngày, tháng, năm nhận kết quả)
vào sổ theo dõi giải quyết hộ khẩu theo mẫu quy định; đồng thời giao văn bản
trả lại giấy tờ cho công dân về việc không giải quyết đăng ký thường trú.
Xác minh hộ khẩu, nhân khẩu (đây là một khâu trong bước 2, bước
thẩm định, xem xét duyệt hồ sơ) được tiến hành như sau:
Xác minh nơi công dân đang ở hiện nay. Nội dung xác minh do nội cần
viết (theo mẫu HK03), chỉ huy Đội ký theo quy định (Nội cần không ký phiếu
xác minh như trước).
Xác minh về nơi công dân ĐKHK trước khi chuyển đến. Những trường
79
hợp mâu thuẫn giữa Phiếu báo thay đổi 6 hộ khẩu, nhân khẩu (HK02) với sổ
hộ khẩu (HK08) và những trường hợp chưa rõ các nội dung thông tin để đăng
ký thường trú, sổ hộ khẩu tẩy xóa, không rõ ràng thì Công an quận, huyện nơi
chuyển đến gọi điện thoại (hoặc Fax) cho Công an quận, huyện nơi công dân
chuyển đi để xác minh, các trường hợp còn lại không phải xác minh.
Các trường hợp đủ điều kiện giải quyết (ăn ở thường xuyên, chỗ ở hợp
pháp, các trường hợp phải xác minh về nơi ở trước đó mà không có thông tin
phản hồi qua điện thoại hoặc Fax), Công an quận, huyện căn cứ vào sổ hộ khẩu
của công dân nơi chuyển đi để ghi vào sổ hộ khẩu của công dân nơi chuyển đến
đồng thời điều chỉnh và ký vào mục “Đã chuyển đến” ở phần cuối của trang
ghi tên nhân khẩu chuyển đi (việc này hiện này do Công an quận, huyện nơi
chuyển đi ký khi làm thủ tục xóa theo Phiếu thông tin thay đổi về hộ khẩu,
nhân khẩu (HK04) của Công an quận, huyện nơi chuyển đến gửi tới).
Thông báo ngay cho Công an quận, huyện nơi công dân ĐKHK trước
đó biết về sự thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu theo phiếu HK04 (kèm phiếu báo
thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu HK02). Viết phiếu HK04 phải ghi đầy đủ Khối,
tập, trang vào (mục 4) để Công an các quận, huyện nơi chuyển đi làm thủ tục
xóa gốc và viết giấy chuyển hộ khẩu được thuận tiện.
Trả kết quả cho công dân theo Giấy hẹn: Sau khi trả kết quả cho công
dân, nội cần đề xuất hồ sơ đăng ký phải chuyển giao hồ sơ nhập đến cho bộ
phận tàng thư (Bàn giao có sổ sách và ký nhận các tài liệu có trong hồ sơ).
Xử lý đối với các trường hợp vướng mắc: Nếu nhận được thông báo trả
lời của Công an nơi công dân đăng ký thường trú trước đây cho biết sổ đăng
ký thường trú (sổ gốc HK11) có mâu thuẫn với phiếu thông tin thay đổi về
nhân khẩu, hộ khẩu (sai lệch ngày, tháng, năm sinh, họ tên chữ đệm, đã bị xóa
gốc hoặc thuộc diện bị hạn chế quyền tự do cư trú…). Trường hợp chưa trả
kết quả thì thông báo cho công dân về nơi ở cũ để làm thủ tục điều chỉnh
80
thống nhất trước khi đăng ký. Trường hợp đã trả kết quả cho công dân rồi thì
thông báo ngay cho Công an phường, thị trấn và công dân biết làm thủ tục
điều chỉnh thống nhất. Những trường hợp khai man giả mạo để được giải
quyết nhập đến khi phát hiện, phải hủy kết quả và xử lý vi phạm hành chính
theo quy định.
Đối với Công an quận, huyện nơi công dân đăng ký chuyển đi.Chỉ đạo
Công an các phường, xã, thị trấn lập danh sách những người thuộc diện bị hạn
chế quyền tự do cư trú theo Điều 10 Luật Cư trú, được bổ sung, điều chỉnh
thường xuyên gửi về Đội Cảnh sát QLHC về TTXH để kiểm tra đối chiếu khi
làm thủ tục cấp giấy chuyển hộ khẩu cho công dân hoặc trả lời yêu cầu xác
minh của Công an các quận, huyện khác.
Trả lời xác minh: Trường hợp nhận được yêu cầu xác minh của Công
an quận, huyện khác về hộ khẩu, nhân khẩu chuyển đi (qua điện thoại hoặc
Fax) phải kiểm tra đối chiếu với sổ đăng ký thường trú (sổ gốc HK11) và
danh sách những đối tượng thuộc diện bị hạn chế quyền tự do cư trú do Công
an phường, thị trấn gửi lên, nếu có sai lệch thông tin trong sổ đăng ký thường
trú (sổ gốc HK11) hoặc có trong danh sách người bị hạn chế quyền tự do cư
trú thì trong thời gian 03 ngày làm việc, phải điện báo (hoặc Fax) cho Công
an nơi công dân chuyển đến biết để xử lý tiếp.
Khi nhận được thông báo của Công an quận, huyện nơi công dân chuyển
đến đã giải quyết cho đăng ký thường trú thì tiến hành làm các bước sau:
Kiểm tra đối chiếu để xóa tên trong sổ đăng ký thường trú (sổ gốc
HK11). Trường hợp qua kiểm tra đối chiếu với sổ đăng ký thường trú có sai
lệch nội dung thông tin về hộ khẩu, nhân khẩu thì thông báo lại cho Công an
quận, huyện nơi công dân chuyển đến biết (thông báo qua điện thoại hoặc
Fax). Thông báo cho bộ phận tàng thư để điều chỉnh hồ sơ hộ khẩu và thông
báo cho CSKV, Công an xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT,
81
Công an xã điều chỉnh sổ sách theo dõi. Viết giấy chuyển hộ khẩu để làm thủ
tục chuyển Công an quận, huyện nơi công dân đăng ký chuyển đến.
3.2.3. Giải pháp tổ chức bổ sung nhân sự.
Trong những năm qua, mặc dù được sự quan tâm, chỉ đạo thường
xuyên từ chính quyền, lãnh đạo Công an các cấp trong nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của CBCS thực hiện công tác quản lý cư trú. Tuy vậy, vấn đề
nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ CBCS Cảnh sát QLHC về
TTXH, CSKV vẫn còn nhiều hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục có những chính
sách, định hướng quán triệt chặt chẽ. Một số đồng chí có tư tưởng cho rằng
mô hình quản lý cư trú hiện này là đã tốt, không cần đổi mới nhiều, coi đây là
trách nhiệm lâu dài, nên tiến hành không thể thực hiện quyết liệt, nhanh
chóng do đó quá trình họ triển khai thực hiện công tác quản lý cư trú chậm
chạp, nảy sinh nhiều vi phạm, coi nhẹ việc giải quyết các thủ tục của người
dân. Một số cán bộ vẫn còn tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhũng
nhiễu, gây khó khăn cho người dân, nhận tiền hối lộ mới giải quyết nhanh các
thủ tục. Do một bộ phận cán bộ, chiến sỹ chưa được đào tạo chính quy, bài
bản nên kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý
cư trú của chưa đáp ứng được yêu cầu, gây lãng phí thời gian đào tạo, đào tạo
lại, dễ sai sót. Giữa các cán bộ, các đơn vị vẫn chưa thực sự quan tâm đến
việc chủ động phối hợp thực hiện công tác quản lý, thường được thực hiện khi
có vấn đề xảy ra. Nhiều cán bộ chậm đổi mới, làm việc theo tư duy cũ, lạc
hậu. CSKV mặc dù theo quy định phải có ít nhất một nữa thời gian có mặt tại
địa bàn nhưng nhiều đồng chí còn ngại xuống địa bàn, ngại vào nhà dân.
Công tác kiểm tra của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH còn chưa thực sự
sâu sát, chặt chẽ. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ cho các lực
lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Thời gian tới, cần tập trung vào một
số giải pháp sau:
82
Chính quyền các cấp, lãnh đạo CATP, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị
Cảnh sát QLHC về TTXH thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú cần tăng cường
việc nắm tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; đánh giá đúng phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những tồn tại,
phát sinh, đưa ra biện pháp xử lý, khắc phục nhanh chóng, tránh để kéo dài
gây ảnh hưởng đến uy tín, lòng tin trong quần chúng. Cần hỗ trợ, tạo điều
kiện tối đa để CBCS Cảnh sát QLHC về TTXH tham gia các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác quản lý cư trú, bồi dưỡng lý luận chính trị, để các đồng chí
trẻ có điều kiện học cảm tình đảng, kết nạp đảng viên mới. Lãnh đạo các đơn
vị, địa phương thông qua các buổi giao ban, làm việc, đối thoại phải chú trọng
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và trao đổi, nâng cao kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ cho CBCS biên chế tại đơn vị, chỉ đạo lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH cấp dưới thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng. Chỉ huy các đơn
vị cần thông qua các buổi giao ban định kỳ, đột xuất, họp đơn vị, thông qua
các đợt tập huấn nghiệp vụ để giáo dục cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng và có
trách nhiệm trong thực hiện công tác quản lý cư trú. Quá trình thực hiện chế
độ chính sách, quy hoạch lãnh đạo, thăm hỏi,... cần được thực hiện bình đẳng,
tôn trọng dân chủ, tránh tư tưởng chuyên quyền, độc đoán dẫn đến nảy sinh tư
tưởng tiêu cực, chống đối, gây mất đoàn kết nội bộ trong đơn vị.
Gắn liền với công tác chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng, lãnh đạo, cấp ủy
các đơn vị, các cấp cần thường xuyên tiến hành kiểm tra tình hình chính trị, tư
tưởng, nhận thức của cấp dưới, qua đó đánh giá đúng thực tế để có định
hướng tiếp theo. Kịp thời phát hiện các biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, hạn chế
về nhận thức của CBCS trong nội bộ đơn vị để có biện pháp tác động tư
tưởng, giáo dục, hoặc làm rõ các vấn đề còn vướng mắc để tìm ra hướng giải
quyết phù hợp. Đồng thời, cũng cần xử lý nghiêm đối với những cán bộ có
biểu hiện vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm quy định của ngành, tính
83
toán, đề nghị điều chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với các đồng chí làm
việc yếu kém, lệch lạc về tư tưởng; xử lý kỷ luật đối với các trường hợp vi
phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật, của ngành Công an. Quá trình
xử lý vi phạm cần được tiến hành nghiêm minh, nghiêm túc, đảm bảo vừa
đúng quy định, vừa hợp lý, hợp tình, tránh tình trạng bao che, xử lý sai phạm
nhưng lại cả nể, làm thiếu quyết liệt dẫn đến giảm tính kỷ luật.
Lãnh đạo các đơn vị, địa phương đổi mới phương pháp quản lý, giám
sát vấn đề chính trị, tư tưởng, nhận thức của CBCS, trên cơ sở mở rộng các
hình thức, biện pháp như lấy ý kiến đóng góp phản hồi, khiếu nại từ phía
người dân đối với kết quả công tác cán bộ, chiến sĩ thực hiện công tác quản lý
cư trú. Tăng thêm trách nhiệm cho lãnh đạo các đơn vị nếu có vi phạm xảy ra
nhưng không biết, không báo cáo hoặc bao che. Kết hợp mở rộng nội dung
trong các đợt thi sát hạch chất lượng CSKV,... Với nhiều phương pháp, hình
thức khác nhau sẽ giúp lãnh đạo các cấp có sự nhìn nhận đầy đủ, đa chiều về
vấn đề chính trị, tư tưởng, chất lượng công tác của cán bộ. Kịp thời có biện
pháp xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm nếu cán bộ vi phạm, đồng thời có biện
pháp động viên, khen thưởng kịp thời đối với cán bộ, chiến sĩ có thành tích
nổi bật.
Trong thời gian tới, lãnh đạo Công an các cấp cần có sự đổi mới trong
công tác tổ chức cán bộ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chính
trị, tư tưởng, năng lực công tác như hạn chế tối đa việc điều động, luân
chuyển sang làm Cảnh sát QLHC về TTXH, CSKV. Đặc biệt, tuyệt đối tránh
tư tưởng bố trí những đồng chí thiếu năng lực, cán bộ vi phạm kỷ luật, lệch
lạc về tư tưởng về làm CSKV. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn theo hướng tiêu
cực về kỷ luật, chất lượng công tác, uy tín, và danh dự của lực lượng Công an.
Đối với cá nhân từng CBCS trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý
cư trú cần nhận thức rõ, đúng đắn các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
84
nước công tác quản lý cư trú. Phải có ý thức tích cực, tự giác học tập, nâng
cao trình độ, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Phải coi trách việc quản lý
cư trú là trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, chiến sĩ chứ không phải là “ban
phát” cho người dân nên làm tùy ý theo quan điểm cá nhân. Chủ động tham
gia học tập các lớp về chính trị, nghiệp vụ, tự nghiên cứu nâng cao phẩm chất
chính trị, kiến thức, trau dồi kinh nghiệm công tác chuyên môn.
Lực lượng Cảnh sát khu vực hiện nay vẫn còn thiếu 71 đồng chí, nhiều
đồng chí đang phải quản lý với số lượng dân cư quá quy định theo hướng dẫn
của Điều lệnh Cảnh sát khu vực. Do đó, cần kịp thời hoàn thiện về mặt biên chế
trong bố trí đủ cán bộ, chiến sĩ, nâng cao chất lượng công tác thông qua các lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ, cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn.
3.2.4. Thực hiện cải cách hành chính và ứng dụng cách mạng 4.0
trong đăng ký, quản lý cư trú.
Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội
được xây dựng từ lâu, thông tin được lưu trữ khá đa dạng, tuy nhiên còn có
nhiều bất cập khi mà thông tin không được bổ sung thường xuyên, giấy tờ, tài
liệu có thể bị thất lạc, mục nát làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý
cư trú của công dân trên địa bàn thành phố. Cơ sở dữ liệu lạc hậu như vậy gây
cản trở không nhỏ cho quá trình thực hiện các mặt công tác nghiệp vụ của
ngành Công an, từ đó tạo tâm lý e ngại cho cán bộ, chiến sĩ khi muốn tìm hay
bổ sung thông tin khi có yêu cầu. Công tác quản lý cư trú theo phương pháp
truyền thống của Công an thành phố Hà Nội đã không phát huy cao hiệu quả
quản lý, từ đó yêu cầu phải có phương pháp quản lý mới. Ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác quản lý cư trú đang từng bước được triển khai,
yêu cầu sự chỉ đạo, thực hiện thống nhất của các cơ quan, ban ngành có liên
quan. Tuy thời gian đầu thực hiện đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư còn gặp nhiều khó khăn, chịu sự phản hồi của nhiều luồng tư tưởng
85
trái chiều từ phía công dân. Nhưng Công an Thành phố Hà Nội luôn linh hoạt,
tích cực phát hiện những tồn tại, thiếu sót trong quá trình thực hiện để kịp thời
sửa chữa phù hợp tình hình hiện nay. Đồng thời tìm ra những ưu điểm từ
phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu cư
trú để tiếp tục khai thác, phát huy. Việc chuyển đổi quản lý, theo dõi dữ liệu
dân cư từ sổ sách vào quản lý, theo dõi bằng dữ liệu điện tử đã tạo một bước
đột phá trong công tác quản lý dữ liệu dân cư trên địa bàn Thủ đô, làm giảm
tải đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Cảnh sát QLHC về
TTXH. Đồng thời, sau khi hoàn thành việc chuyển đổi, sẽ phục đắc lực cho
công tác cải cách hành chính công của Công an thành phố.
Trong thời gian tới, nhằm khai thác có hiệu quả đồng thời tiếp tục phát
triển dữ liệu dân cư đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quản lý cư trú, Công an
thành phố Hà Nội cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, khảo sát đánh giá hiệu quả việc thực hiện đề án ứng dụng
công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của Công an
thành phố Hà Nội
+ Thu thập, chọn lọc, sắp xếp thông tin dữ liệu dân cư.
Thu thập thông tin: đây là nhiệm vụ đầu tiên trong toàn bộ các bước
thực hiện đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về
cư trú. Các đơn vị cần thu thập đầy đủ, có hệ thống các thông tin đa dạng,
nhiều nguồn để phục vụ hoạt động lưu trữ. Để đảm bảo cho việc thu thập
thông tin được chính xác, nhanh chóng, mỗi cán bộ cơ sở phải trực tiếp xuống
địa bàn gặp gỡ, trao đổi, lấy các thông tin cần thiết để phục vụ việc hoàn thiện
biểu mẫu trong phiếu “Thu thập thông tin dân cư”.
Chọn lọc, sắp xếp thông tin: Từ các thông tin thu thập được ban đầu từ
các nguồn tin khác nhau như phiếu thu thập thông tin dân cư, sổ quản lý nhân
khẩu, hộ khẩu, bản khai, phiếu báo nhân khẩu, thông tin về quản lý đối tượng,
86
hồ sơ tàng thư nghiệp vụ,… cần phải có sự sắp xếp theo trật tự, tiêu chuẩn cụ
thể, loại bỏ những thông tin không cần thiết để phù hợp với yêu cầu lưu trữ
phục vụ công tác chuẩn bị cho việc cập nhật dữ liệu vào máy tính được nhanh
chóng và hạn chế sai sót.
+ Lưu trữ thông tin.
Các thông tin sau khi đã thu thập, chọn lọc, sắp xếp cần được tiến hành
cập nhật, lưu trữ vào máy tính theo các biểu mẫu được quy định sẵn trong
phần mềm. Việc cập nhật thông tin phải do Cảnh sát khu vực trực tiếp tiến
hành thông qua mã số đươc cung cấp đúng chức năng, nhiệm vụ phân công và
theo đúng phạm vi quản lý. Ngoài ra mỗi cán bộ, chiến sĩ phải xây dựng kế
hoạch cụ thể phù hợp đảm bảo việc nhập thông tin dân cư đúng tiến độ chất
lượng cũng như yêu cầu nghiệp vụ đã đề ra.
+ Sử dụng, khai thác, tra cứu và tìm kiếm thông tin.
Việc sử dụng tra cứu thông tin cần thực hiện theo đúng quy định, chỉ
khi nào có yêu cầu mới tiến hành tra cứu, bám sát nội dung cần tìm. Cơ sở dữ
liệu về cư trú của công dân sau khi được nhập vào máy tính sẽ cho phép khai
thác thông tin bất cứ lúc nào khi cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo yếu tố bí
mật của thông tin thì trong quá trình sử dụng và khai thác cần quy định rõ
mức độ mật của thông tin gắn với đó những loại thông tin nào được phép
cung cấp, những người nào được phép khai thác, sử dụng. Với mỗi cấp độ
khác nhau có thể sử dụng, khai thác, tìm kiếm thông tin phù hợp yêu cầu công
tác của mình. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng khai thác thiếu sự kiểm
soát, phục vụ các mục đích, cơ hội cá nhân.
Để phát huy vai trò, tác dụng của công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư
trú, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra thì việc sử dụng, khai thác, tra cứu và tìm
kiếm thông tin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để thông tin dữ liệu về cư trú
không bị chế, khô cứng, kém hiệu quả, cần có kế hoạch cụ thể, tập trung các
87
biện pháp để khai thác sử dụng chúng. Đây là một nội dung, yêu cầu không
thể thiếu trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân đặc
biệt là khi đã tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác này.
+ Kiểm tra, đánh giá công tác, cập nhật dữ liệu thông tin.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng cơ sở dữ liệu về cư
trú của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội tính đến nay đã cơ bản được
triển khai. Để nâng cao hiệu quả công tác này, trong quá trình thực hiện các
đơn vị cần định kì hoặc theo yêu cầu đột xuất tổ chức các buổi họp tổng kết
rút kinh nghiệm chuyên đề về quá trình thực hiện ứng dụng công nghệ thông
tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Qua đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện,
những mặt đã đạt được cũng như những tồn tại từ đó đề xuất lên lãnh đạo
Công an thành phố chỉ đạo hướng giải quyết. Lãnh đạo các cấp cần thường
xuyên làm tốt công tác theo dõi đánh giá hoạt động ứng dụng công nghệ
thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của cán bộ, chiến sĩ đơn vị
mình thông qua hệ thống quản lý, cấp độ quản lý đã được phân quyền trên
phần mềm ứng dụng.
Bên cạnh việc xây dựng, khai thác, sử dụng, quản lý thông tin ban đầu
thì một nhiệm vụ hết sức quan trọng khác đặt ra là cần cập nhật cơ sở dữ liệu
dân cư một cách thường xuyên, liên tục. Sở dĩ cần cập nhật dữ liệu là bởi có
những thông tin chỉ có tính ổn định tạm thời thậm chí khá lâu nhưng cũng có
thông tin thay đổi thường xuyên như thông tin lưu trú, tạm trú, tạm vắng,...
mà nếu chúng ta không tiến hành cập nhật thì sẽ dẫn tới tình trạng bỏ sót, để
lọt thông tin. Bên cạnh đó, một yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ những thông tin
cũ, không còn cần thiết và điều chỉnh những thông tin mà vào thời điểm hiện
tại đã có sự thay đổi so với thông tin khi lưu trữ ban đầu. Do vậy, mỗi cán bộ,
chiễn sĩ cần chú ý để cập nhật kịp thời, tránh tình trang hời hợt, chỉ tập trung
88
vào lần đầu mà buông lỏng trong việc cập nhật thông tin, kéo theo hệ quả là
hiệu quả công tác không đạt theo yêu cầu đề ra.
- Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện phần mềm, hệ thống lưu trữ thông tin và
đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú
Nghiên cứu và hoàn thiện phần mềm công nghệ, hệ thống lưu trữ thông
tin là khâu chủ chốt, quan trọng nhất trong các nội dung cần làm trong công
tác ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công
dân. Quá trình xây dựng phần mềm đã được tiến hành với sự tính toán kĩ
lưỡng nhằm đáp ứng đầy đủ nội dung, yêu cầu quản lí, khoa học, nghiệp vụ.
Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng phần mềm vào hoạt động thực tiễn vẫn
còn những khó khăn, tồn tại nhất định. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục
hoàn thiện phần mềm, hệ thống lưu trữ thông tin.
Trước tiên phải hoàn thiện hoạt động đăng ký, cấp tài khoản đảm bảo
tính bí mật, tính phân quyền quản lý đối với mỗi loại tài khoản riêng.
Hoàn thiện các nội dung trong hệ thống các biểu mẫu. Một số nội dung
không cần thiết, liên quan và phục vụ công tác quản lý cư trú có thể loại bỏ để
tránh nặng chương trình, hạn chế nhầm lẫn trong quá trình vận hành.
Cần phải có tính đúng đắn và chuẩn xác của dữ liệu. Hệ thống cơ sở dữ
liệu chuẩn sẽ mang lại những lợi ích thiết thực trong quá trình sử dụng, khai
thác, tra cứu, tìm kiếm thông tin phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ và góp phần
giảm bớt thời gian, tính phức tạp trong quá trình tìm kiếm cho cán bộ, chiến sĩ
vận hành hệ thống cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin.
Để đạt được điều này cần hoàn thiện hệ thống từ điển chuyên dùng, xây dựng
những chuẩn hóa về nội dung, mã hóa.
Hệ thống lưu trữ thông tin để đảm bảo yêu cầu có ý nghĩa rất quan
trọng. Việc xây dựng một hệ thống lưu trữ chung cho toàn bộ phần mềm là
hết sức quan trọng. Hệ thống này cần làm tốt công tác bảo mật những số liệu
89
đã nhập vào máy, hệ thống thông tin trên máy cần được quản lý chặt chẽ
nhằm ngăn chặn sự truy nhập của những người không được phép.
Không ngừng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện, xây
dựng cơ sở dữ liệu về cư trú. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến
hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú
của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chậm chưa thực sự đáp ứng
yêu cầu đặt ra là do nguồn tài chính, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị
phương tiện còn hạn chế. Do đó, trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả
công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu cư trú
của công dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, lãnh đạo các đơn vị Công an
cũng như lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an
các cấp cơ sở cần:
Nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện nhập dữ liệu
hiện có, tiếp tục khai thác những thiết bị nào còn phát huy tác dụng, còn khả
năng đáp ứng yêu cầu công tác. Đối với những trang thiết bi, phương tiện đã
cũ, hoạt động kém hiệu quả thì cần thay mới không để tình trạng máy móc,
thiết bị đã cũ, chậm sửa chữa, cấp mới gây trở ngại cho hoạt động ứng dụng
công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.
Đẩy nhanh việc trang bị, cấp phát thêm đồng bộ máy tính, thiết bị hiện
đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hoạt động lưu trữ, khai thác, sử
dụng thông tin. Đảm bảo sự thống nhất về trang thiết bị, phương tiện giữa các
cơ sở với nhau. Ngoài ra, các đơn vị cũng cần chủ động tự huy động các
nguồn kinh phí khác nhau để tự trang bị máy tính, thiết bị cho đơn vị mình.
Tổ chức lực lượng có trình độ về công nghệ thông tin, có khả năng sửa
chữa, cài đặt thành thạo máy tính nhằm phục vụ công tác lưu trữ, khai thác
thông tin dân cư diễn ra thuận lợi, đạt kết quả cao. Cần xây dựng hệ thống cơ
sở hạ tầng, trang cấp các thiết bị, vật dụng phục vụ công tác như tủ sắt, cặp hồ
90
sơ, máy đọc mã vạch trên căn cước công dân, máy tính, hồ sơ, sổ sách,... đảm
bảo tốt nhất điều kiện vật chất phục vụ cho quá trình công tác.
Thời gian tới cần tập trung nâng cao trình độ tin học cho cán bộ làm
công tác quản lý cư trú đối với công dân. Vấn đề này có ý nghĩa quyết định
tới chất lượng, hiệu quả công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây
dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.
Thay đổi nhận thức cán bộ về khoa học công nghệ thông tin và hoạt
động ứng dụng nó trong xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân. Mỗi
cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức về ý nghĩa to lớn từ việc đổi mới phương pháp
làm việc truyền thống trên hồ sơ giấy tờ với việc kết hợp các công việc này
với hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Trong đó phải xác định ứng
dụng công nghệ thông tin là chủ yếu, mang tính chiến lược lâu dài trong công
tác quản lý cư trú công dân. Bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tự giác tích cực
học tập, bồi dưỡng kiến thức về công nghệ thông tin, việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân.
Kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng bảo thủ, chậm đổi mới, chậm ứng
dụng khoa học công nghệ trong quá trình công tác.
Nắm tình hình, thống kê số lượng, trình độ của cán bộ, chiến sĩ liên quan
đến công nghệ thông tin, đánh giá nhu cầu về cán bộ trong đơn vị mình từ đó
kịp thời đề xuất lãnh đạo bổ sung cán bộ có chuyên môn về công nghệ thông
tin, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, chiến sĩ đang tiến hành công tác này.
Ngoài ra, có thể tuyển chọn cán bộ bên ngoài được đào tạo chính quy về công
nghệ thông tin vào công tác trong lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH. Đảm
bảo mỗi Đội Cảnh sát QLHC về TTXH, Công an phường đều có cán bộ
chuyên môn về công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tiếp nhận sinh
viên của các trường Công an đã được gửi đi đào tạo ở khối các trường tự nhiên,
kĩ thuật, sinh viên được cử đi nước ngoài về công nghệ thông tin.
91
Cần có chính sách ưu tiên trong công tác đào tạo nâng cao trình độ hiểu
biết về công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây
dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Phối
hợp với các Trung tâm đào tạo tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức tin
học, các lớp tập huấn về công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong xây
dựng cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân cho cán bộ, chiến sĩ cấp phòng, Đội
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội và Cảnh sát khu vực. Thường
xuyên kiểm tra, đánh giá kiến thức tin học của cán bộ để tiếp tục kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng.
Trong thời gian tới, khi hệ thống các phần mềm, các thiết bị khoa học,
thiết bị kiểm tra căn cước công dân được hoàn thiện, Hà Nội có thể thí điểm
thực hiện theo mô hình mà hiện nay nhiều quốc gia đã triển khai là bỏ quản lý
theo hộ khẩu bằng bản giấy, thay vào đó là quản lý đồng bộ trên mạng máy
tính, phần mềm chuyên biệt. Đây là cơ sở để nhân rộng ra trên phạm vi toàn
quốc góp phần giảm tải về áp lực quân số CBCS, hiện đại hóa trong công tác
của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH, góp phần đưa công tác quản lý cư
92
trú lên tầm cao mới.
KẾT LUẬN
Quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH là biện pháp
quản lý hành chính của nhà nước được thực hiện thông qua việc điều hành và
chấp hành của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trên cơ sở pháp luật về cư
trú và công tác nghiệp vụ của ngành Công an nhằm bảo đảm quyền tự do cư
trú của công dân, góp phần phòng, chống tội phạm, giữ gìn ANQG và
TTATXH, củng cố quốc phòng an ninh phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học,
thông qua nghiên cứu hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo, cũng như qua
thực tế tìm hiểu của bản thân, tác giả đã đưa ra hệ thống các khái niệm, xác
định vai trò, vị trí, đặc điểm, các yếu tố tác động đến vai trò, sự phân công,
phân cấp của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH và mối quan hệ của lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH trong quản lý cư trú.
Bằng phương pháp luận khoa học, tổng kết thực tiễn, luận văn đã đi sâu
nghiên cứu, đánh giá thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH trong quản lý cư trú - từ thực tiễn quận Long Biên. Trên cơ sở phân
tích tình hình đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế - xã hội, tình hình dân cư quận
Long Biên, tình hình vi phạm pháp luật và thực trạng tổ chức biên chế của lực
lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên, luận văn đã làm
rõ thực trạng vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận
Long Biên trong hoạt động quản lý cư trú trên các mặt công tác như: tham
mưu, tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân về quản lý cư trú; công
tác cải cách hành chính; công tác điều tra nghiên cứu nắm tình hình về nhân
hộ khẩu; xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư,... Qua đó, đã đưa ra nhận xét, đánh
93
giá về ưu điểm, kết quả đã đạt được, tồn tại, khó khăn và nguyên nhân của
những tồn tại hạn chế trong quản lý cư trú của lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH trên địa bàn.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực trạng, tác giả đã đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát QLHC về
TTXH trong quản lý cư trú từ thực tiễn quận Long Biên, góp phần bổ sung lý
luận, là tài liệu tham khảo, có thể vận dụng để nâng cao chất lượng của công
tác quản lý cư trú theo chức năng của lực lượng Cảnh sát QLHC về TTXH từ
thực tiễn quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Tuy nhiên, quá trình thực hiện đề tài luận văn cũng như kết quả nghiên cứu
sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định do những nguyên nhân chủ quan,
khách quan. Tác giả rất mong được sự đóng góp, xây dựng của các thầy cô, các
94
nhà khoa học cũng như cán bộ thực tiễn để luận văn được hoàn thiện hơn./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2012), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thượng, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Bộ Công an (2010), Quyết định số 584/QĐ-BCA ngày 23/02/2010 của Bộ
trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
bộ máy của Cục Cảnh sát QLHC về TTXH, Hà Nội.
3. Bộ Công an (2011), Quyết định số 484/QĐ-BCA ngày 11/02/2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
4. Bộ Công an (2011), Quyết định số 757/2011/QĐ-BCA ngày 08/3/2011
của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy của Công an phường, Hà Nội.
5. Bộ Công an (2013), Thông tư số 54/2013/TT-BCA ngày 06/11/2013 quy
định phân công trách nhiệm trong CAND về công tác quản lý nhập
cảnh, xuất cảnh, cư trú và hoạt động của người nước ngoài tại Việt
Nam, Hà Nội.
6. Bộ Công an (2014), Thông tư số 35/2014/TT-BCA ngày 09/9/2014 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú và Nghị định số
31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.
7. Bộ Công an (2014), Thông tư số 61/2014/TT-BCA ngày 20/11/2014 quy
định về quy trình đăng ký cư trú, Hà Nội.
8. Bộ Công an (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BCA ngày 10/02/2015 của
Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Điều lệnh CSKV, Hà Nội.
9. Bộ Công an (2014), Thông tư số 61/2014/TT-BCA ngày 20/11/2014 quy
định về quy trình đăng ký cư trú, Hà Nội.
10. Bộ Công an (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BCA ngày 10/02/2015 của
Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Điều lệnh CSKV, Hà Nội.
11. Chính phủ (2014), Nghị định số 106/NĐ-CP quy định chức năng nhiệm
vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, Hà Nội.
12. Chính phủ (2014), Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.
13. Chính phủ(2013),Nghị định số 167/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống
tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình,
Hà Nội.
14. Chính phủ (2014), Nghị định số 106/NĐ-CP quy định chức năng nhiệm
vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, Hà Nội.
15. Chính phủ (2014), Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Cư trú, Hà Nội.
16. Chính phủ (2016), Nghị định số 46/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, Hà Nội.
17. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 1245-CV/CAHN(PV11-
PC13) ngày 01/10/2007 hướng dẫn UBND các quận, huyện, thành phố
chỉ đạo UBND các phường, xã, thị trấn tiếp nhận hồ sơ tờ khai xác nhận
tình trạng chỗ ở hợp pháp để phục vụ cho đăng ký thường trú theo ý kiến
chỉ đạo của UBND thành phố.
18. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 1605/CV-CAHN(PC13-
Đ3) ngày 01/12/2007 về việc hướng dẫn giải quyết một số vướng mắc
trong công tác đăng ký cư trú.
19. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 649-CV/PC13(Đ3) ngày
24/8/2007 hướng dẫn đăng ký thường trú cho số nhân khẩu đã bị xóa hộ
khẩu thường trú tại nơi ở cũ, đồng thời phổ biến quán triệt.
20. Công an thành phố Hà Nội (2007), Công văn số 815/PC13(Đ3) ngày
1/11/2007 sao lục công văn số 1595 ngày 25/10/2007 của Cục C13 (nay
là Cục C64) - Bộ Công an về việc hướng dẫn vận dụng giải quyết một số
khó khăn vướng mắc trong công tác đăng ký, QLNN về cư trú.
21. Công an thành phố Hà Nội (2012), Kế hoạch số 16 /KH-CAHN(PC64)
ngày 02/02/2012 triển khai thực hiện Thông tư 80/2011/TT-BCA quy
định về quy trình đăng ký cư trú và Thông tư số 81/2011/TT-BCA ngày
15/12/2011 của Bộ Công an quy định về biểu mẫu được sử dụng trong
đăng ký, QLNN về cư trú.
22. Cục thống kê thành phố Hà Nội (2013), Bảng thống kê dân số và lao
động, Hà Nội.
23. Nguyễn Quốc Cường, (2017), Hướng dẫn đăng ký và quản lý cư trú,
Nxb Tư pháp.
24. Phạm Trọng Cường (2014), Về quản lý hộ tịch, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
25. Phạm Trọng Cường (2015), Quản lý nhà nước về cư trú - Lý luận, thực
trạng và phương hướng đổi mới, Luận án tiến sỹ, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Đạm (2016), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
28. Nguyễn Hữu Đính (2015), Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những
vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Phạm Hồng Hoàn (2013), Quản lý nhà nước về cư trú ở cấp xã, huyện
Đan Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính
quốc gia.
30. Học viện CSND (2008), Giáo trình Luật Cư trú và công tác quản lý cư
trú, Nxb Hà Nội.
31. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Lý luận chung
về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
32. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Khôn (2012), Hán - Việt từ điển, Nxb Tổng hợp, TP Hồ
Chí Minh.
34. Nhà xuất bản Lao Động (2008), Sách Quy định mới hướng dân đăng ký
và quản lý cư trú, Nxb Lao Động, Hà Nội.
35. Nguyễn Lân (2009), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Tổng hợp TP Hồ
Chí Minh.
36. Nghị định số 51/CP ngày 10/5/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và
quản lý hộ khẩu.
37. Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/6/2007 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú.
38. Quận Long Biên, Báo cáo công tác quản lý cư trú của lực lượng Cảnh
sát QLHC về TTXH quận Long Biên và Công an thành phố Hà Nội từ
năm 2014 đến tháng 6/2018.
39. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội.
40. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội.
41. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội
42. Quốc hội (2013), Luật Cư trú sửa đổi, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội
43. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Nxb Tư pháp,TP Hà Nội
44. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb công an nhân dân,TP Hà Nội.
45. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa và Nxb Tư pháp.
46. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin.
BẢNG 2.1
Tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn
quận Long Biên, thành phố Hà Nội
(từ năm 2014 đến tháng 6/2018)
Buôn lậu
Cướp tài sản Trộm cắp tài sản Tội danh khác
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Năm Tổng số vụ phạm pháp hình sự
Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
423 16 6 6 5 388 2 2014
448 18 7 8 16 396 3 2015
318 21 6 9 14 266 2 2016
456 19 8 5 20 403 1 2017
316 8 3 2 9 294 0
Từ T1 đến hết T6/2018
Tổng 1961 82 30 30 64 1747 8
(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)
BẢNG 2.2
Tình hình vi phạm hành chính về cư trú trên địa bàn
quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Các lỗi vi phạm khác Năm
Tổng số vi phạm hành chính liên quan đến cư trú vi phạm về quản lý thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng
397 55 342 2014
474 117 357 2015
450 38 412 2016
434 122 312 2017
212 56 156
6 tháng đầu năm 2108 Tổng 388 1579
1967 (từ năm 2014 đến tháng 6/2018)
(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)
BẢNG 2.3
Tình hình xử lý vi phạm pháp luật về cư trú trên địa bàn của lực lượng
Cảnh sát QLHC về TTXH Công an quận Long Biên
(từ năm 2014 đến tháng 6/2018)
Năm Số vụ việc phát hiện Xử lý hành chính Phối hợp xử lý hình sự
397 19 563 2014
474 15 347 2015
450 18 415 2016
434 24 513 2017
212 11 301 6 tháng đầu năm 2108
Tổng 2139 1967 108
(Nguồn: Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội)
BẢNG 2.4
Thống kê tình hình quân số, tổ chức bộ máy lực lượng Cảnh sát QLHC
về TTXH Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Giới tính
Độ tuổi
Cấp hàm
Trình độ chuyên môn
Đơn vị
Tổng
số
Nam Nữ
Sau ĐH
ĐH, CĐ
Trung Cấp
Cấp tá Cấp úy
Hạ sỹ quan
Dưới 30 tuổi
Từ 30- 39 tuổi
Từ 40 tuổi trở lên
Đội
35
02
21
12
14
21
11
09
05
07
25
03
Cảnh
sát
QLHC
về
TTXH -
Công an
quận
Long
148
0
37
111
49
99
97
36
15
20
120
08
Biên Cảnh
sát khu vực các
phường
(Từ 2014 đến tháng 6/2018)
Tổng
183 2 58 123 63 120 108 45 20 183 2 58
(Nguồn: Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội)
BẢNG 2.5
Tình hình đăng ký thường trú trên địa bàn
quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Tổng số đăng kí
Trong đó
thường trú
Đăng kí cho người
ngoại tỉnh
Điều chỉnh
Đăng
Số hộ
Số nhân
Tách
Năm
khẩu
khẩu
hộ
Số nhân
Số hộ
ký mới sinh
nơi thưởng
Cấp đổi sổ hộ khẩu
khẩu
trú
khẩu
3557 4531 5612 5013
10132 12321 15239 14213
4239 3028 4791 4215
462 497 348 512
312 412 213 209
142 210 178 159
1826 2621 3862 3295
1209 1320 1378 1402
(Từ 2014 đến tháng 6/2018)
2432
8903
981
2589
287
134
107
521
2014 2015 2016 2017
6 tháng đầu năm 2018
21145
60808
6290
18862
2106
1280
796
12125
Tổng
(Nguồn: Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
GIẤY CAM ĐOAN
Kính gửi: - Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia
- Lãnh đạo Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc Gia
Họ và tên học viên: Nguyễn Ngọc Hà
Ngày, tháng, năm sinh: 24/10/1978
Cơ quan công tác: Công an phường Gia Thụy - Quận Long Biên - Thành phố
Hà Nội.
Theo Quyết định số: 3809/QĐ-HCQG ngày 15 tháng 10 năm 2018 của Giám
“VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
đốc Học viện, em thực hiện luận văn về đề tài:
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ
CƯ TRÚ – TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN”
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03
Người hướng dẫn: PGS -TS Nguyễn Thị Thu Hà
Cơ quan công tác của người hướng dẫn: Học viện Hành chính Quốc gia
1. Em xin cam đoan về các nội dung sau khi thực hiện luận văn:
2. Đề tài luận văn không thuộc lĩnh vực bảo mật theo quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
3. Danh mục tài liệu tham khảo được sử dụng trong luận văn được phép công
bố công khai và được trích dẫn theo quy định.
4. Các kết quả, số liệu được trích dẫn trong luận văn trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, đáng tin cậy và không thuộc Danh mục bí mật nhà nước.
Em xin chịu trách nhiệm về những nội dung cam đoan trên trước pháp luật./.
Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2018
Người viết đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)