BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN NGỌC HÀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2016
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN NGỌC HÀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn: “Thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, thống kê và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận
văn là trung thực và có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2016
Học viên
Nguyễn Ngọc Hà
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành nghiên cứu luận văn về đề tài: ”Thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam”, trước hết, tôi xin đặc biệt cảm ơn PGS.TS
Đinh Thị Minh Tuyết, khoa quản lý Nhà nước về xã hội đã quan tâm, giúp đỡ
tận tình về nội dung và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình
thực hiện luận văn này.
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa sau đại học,
Khoa quản lý nhà nước về xã hội, các thầy, các cô tại Học viện Hành chính
Quốc gia; ban giám đốc Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em khuyết tật
thành phố Hà Nội thuộc sở Lao động Thương binh và Xã hội, cán bộ và nhân
viên Trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị nạn nhân bị nhiễm chất độc da
cam/ Điôxin, huyện Ba Vì, TP Hà Nội thuộc sở Lao động Thương binh vã Xã
hội, các cô giáo, y bác sĩ và các mẹ bảo mẫu Làng Hữu Nghị Việt Nam thuộc
Hội Cựu Chiến binh Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất, góp ý kiến, ủng hộ,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài.
Do những điều kiện chủ quan, khách quan chắc chắn kết quả nghiên cứu
của Luận văn còn những điểm thiếu sót. Tác giả luận văn rất mong tiếp tục nhận
được những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng vấn đề được
lựa chọn nghiên cứu./.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Ngọc Hà
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
Người khuyết tật NKT
Trẻ em khuyết tật TEKT
Ủy ban nhân dân UBND
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
TRẺ EM KHUYẾT TẬT ...................................................................................... 9
1.1. Khái niệm về trẻ em khuyết tật và thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ............................................................................................................... 9
1.1.1. Trẻ em khuyết tật .................................................................................. 9
1.1.2. Chính sách đối với trẻ em khuyết tật .................................................. 15
1.1.3. Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật .................................. 22
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................ 23
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ....................................................................................................... 23
1.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ..................... 24
1.2.3. Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khyết tật ...................... 24
1.2.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đối với
trẻ em khuyết tật ............................................................................................ 25
1.3. Vai trò của thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ......................... 25
1.3.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với trẻ
em khuyết tật ................................................................................................. 25
1.3.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với trẻ em khuyết tật .......... 26
1.3.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách đối với
trẻ em khuyết tật ............................................................................................ 27
1.3.4. Thực hiện an sinh xã hội đối với trẻ em khuyết tật ............................ 28
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ........... 29
1.4.1. Hệ thống thể chế nhà nước ................................................................. 29
1.4.2. Tính chất của vấn đề chính sách ......................................................... 30
1.4.3. Năng lực thực thi chính sách của cán bộ quản lý và công chức ......... 30
1.4.4. Điều kiện tài chính và cơ sở vật chất để thực thi chính sách .............. 31
1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở một số nước
và giá trị tham khảo cho Việt Nam ..................................................................... 31
1.5.1. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
Nhật Bản ....................................................................................................... 31
1.5.2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
của Malaysia ................................................................................................. 33
1.5.3. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................................................. 37
1.5.4. Giá trị tham khảo cho Việt Nam ......................................................... 39
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 41
Chương 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ................................ 42
2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật và chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay ...................................................................................................... 42
2.1.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ........................... 42
2.1.2. Thực trạng nội dung chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ...... 43
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 49
2.2.1. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
....................................................................................................................... 49
2.2.2. Kết quả thực hiện một số chính sách đối với trẻ em khuyết tật ......... 54
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 69
2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt Nam .................. 69
2.3.2. Hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam ....................................................................................................... 72
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế trong thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam ................................................................................... 72
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 74
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ....... 76
3.1.Quan điểm và định hướng giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam 76
3.1.1. Quan điểm về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ......... 76
3.1.2. Định hướng về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ........ 79
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 82
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức xã
hội về trẻ em khuyết tật, phổ biến các chính sách đối với trẻ em khuyết tật 82
3.2.2. Tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt là chính bản thân gia
đình có trẻ em khuyết tật và trẻ em khuyết tật .............................................. 84
3.2.3. Hoàn thiện chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật trong
một số lĩnh vực .............................................................................................. 85
3.2.4. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................... 86
3.2.5. Theo dõi, giám sát đánh giá, kiểm tra, sơ tổng kết hoạt động thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................................................. 88
3.2.6. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ chức xã
hội trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................. 88
3.2.7. Phối hợp các Bộ, ngành trong việc bảo đảm thực hiện chính sách về
người khuyết tật, trẻ em khuyết tật ............................................................... 89
3.3. Đề xuất mô hình tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và hướng nghiệp
cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ....................................................................... 93
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 96
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trước tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp như nội chiến, nạn
khủng bố, khủng hoảng người di cư, dịch bệnh; sự biến đổi khí hậu toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, thiên tai, tai nạn đã làm người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Nhiều tổ chức thế giới như Tổ chức
Lao động quốc tế, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp Quốc,
Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khác tiếp
tục khẳng định về quyền con người, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết
tật cũng như quyền của trẻ em khuyết tật trong các Hiến chương, Công ước,
Nghị quyết đồng thời xây dựng nhiều chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết
tật đặc biệt là trẻ em khuyết tật, tuy nhiên nhiều người khuyết tật, trẻ em khuyết
tật vẫn đang gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi, chưa được tiếp cận với
các dịch vụ dành cho người khuyết tật, nhiều trẻ em khuyết tật đang bị lãng
quên. Do đó việc xây dựng và thực hiện chính sách cho người khuyết tật và trẻ
em khuyết tật ở các nước trên thế giới là vô cùng quan trọng, giúp người khuyết
tật và trẻ em khuyết tật giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên, vượt
qua những mặc cảm, tự ti và phát triển với khả năng của mình để hòa nhập với
cộng đồng và xã hội.
Tại Việt Nam, sau chiến tranh chống Mỹ hàng triệu người bị thương và tàn
tật, những người còn sống tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã gây ra, nhiều trẻ em dị tật bẩm
sinh do di chứng của chất độc da cam/ Đi ô xin, nhiều trẻ vẫn tiếp tục bị khuyết
tật do bom mìn chưa nổ còn sót lại sau chiến tranh. Ngoài hậu quả của chiến
tranh, việc gây ra khuyết tật còn do ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh dịch, tai
nạn…Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã có nhiều
1
chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết tật, trẻ em khuyết tật, tuy nhiên đất
nước trong thời kỳ đó còn nghèo do đó việc hỗ trợ, chăm sóc cho người khuyết
tật, trẻ em khuyết tật là rất hạn chế.
Chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà
nước, chính phủ cũng như các tổ chức chính trị xã hội đã có điều kiện quan tâm
nhiều hơn đến người khuyết tật và trẻ em khuyết tật thông qua hàng loạt các
chính sách, đạo luật nhằm hỗ trợ người khuyết tật như trong Bộ Luật lao động,
Pháp lệnh người khuyết tật được ban hành ngày 30 tháng 7 năm 1998, luật giáo
dục, luật phổ cập giáo dục tiểu học, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
luật dạy nghề cùng hệ thống văn bản pháp quy liên quan, gần đây là việc dự
thảo, thu thập ý kiến đóng góp xây dựng Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung và
ban hành Luật NKT ngày 17/6/2010 nhằm bảo đảm sự bình đẳng cho NKT,
TEKT, dần dần người khuyết tật, trẻ em khuyết tật đã tiếp cận được các dịch vụ
y tế, phục hồi chức năng, giáo dục, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, giao
thông tại các nơi công cộng và công nghệ thông tin.
Căn cứ vào Luật người khuyết tật năm 2010, Nghị định Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật; Đề án giúp người
khuyết tật giai đoạn 2012 đến 2020 (trong đó có nhiều phần về trẻ em khuyết
tật), nhiều chính sách cho người khuyết tật đã được xây dựng và tổ chức thực
hiện, đặc biệt các chính sách đối với TEKT. Theo thống kê của Bộ Lao động và
Thương binh Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật và
nhiều trẻ em đang sống tại gia đình và cộng đồng chưa được chăm sóc sức khỏe,
giáo dục và các dịch vụ khác. Trước thực trạng này Đảng và Nhà nước đưa ra
nhiều chủ trương, chính sách, đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật nhằm tạo điều kiện
tốt nhất để trẻ em khuyết tật có cuộc sống tốt đẹp và được hưởng đầy đủ các
quyền về cả tinh thần và vật chất như những trẻ em bình thường khác; cấp giấy
phép hoạt động cho các Trung tâm chăm sóc TEKT, trung tâm phục hồi chức
năng cho TEKT, hỗ trợ chính sách cho những người chăm sóc TEKT, đưa các
chương trình giáo dục phù hợp cho TEKT tại các cơ sở bảo trợ xã hội, các
2
Trung tâm chăm sóc TEKT, hỗ trợ kinh phí nuôi dưỡng hàng tháng, một số tỉnh,
thành phố đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về các chính sách của Nhà
nước đối với TEKT. Song với số TEKT quá lớn như hiện nay, việc thực hiện
chính sách đối với TEKT chưa được đồng bộ, thiếu kinh phí hoạt động, thiếu
cán bộ, nhân viên có trình độ, chuyên môn và kỹ năng trong lĩnh vực này, việc
xác định mức độ khuyết tật của trẻ em ở nhiều tỉnh còn lúng túng và nhiều bất
cập, nhiều trẻ em còn bị lãng quên và bị phân biệt, đối xử. Để trẻ em khuyết tật
phát triển với khả năng thực sự của mình, hòa nhập với gia đình, với cộng đồng
nơi các em sinh ra, đưa các chương trình chăm sóc y tế, phục hồi chức năng và
giáo dục hòa nhập tại cộng đồng là một vấn đề khó khăn và đầy thách thức.
Tháo gỡ và đổi mới công tác chăm sóc trẻ khuyết tật như mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước ta đặt ra phải quan tâm đến việc xây dựng một hệ thống chích sách
đồng bộ, phù hợp cho trẻ em khuyết tật, đặc biệt trong điều kiện kinh tế - xã hội
nước ta hiện nay.
Với mong muốn của NKT nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng có một
cuộc sống tốt đẹp hơn, được sống bình đẳng như những người bình thường khác,
không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, có cơ hội được phát huy khả năng của mình
đáp ứng với nhu cầu bản thân và có ích cho xã hội. Vậy vai trò và thực trạng của
chính sách đối với trẻ em khuyết tật trong bối cảnh chung của đất nước ta hiện
nay đang rất cần một cái nhìn, một hướng nghiên cứu mới về thực hiện chính
sách đối với TEKT. Để hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam đáp ứng với yêu cầu hiện nay, tôi chọn đề tài “Thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ,
chuyên ngành hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác
nhau được thể hiện dưới các hình thức như: Đề tài khoa học; giáo trình; bài báo;
bài đăng tạp chí….Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến
3
vấn đề dưới góc độ tiếp cận như sau:
- Hồ Văn Thông (Chủ biên, 1999), tìm hiểu về khoa học chính sách công,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tương đối có hệ
thống các vần đề về chính sách công dưới góc độ lý thuyết như: khái niệm về
chính sách công và khoa học chính sách công; phân tích chính sách công trong
thực tế; những khuynh hướng phát triển cơ bản của chính sách công; công trình
là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn.
- Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Chính sách công - Cơ sở
lý luận, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề về chính sách công
như: Lý thuyết chính sách công; các công trình nghiên cứu chính sách công; các
cách tiếp cận khi nghiên cứu chính sách công.
- Vụ Pháp chế, Bộ Lao động – Thương binh xã hội và Unicef (2009), “Xây
dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: Đánh giá pháp luật và chính sách bảo
vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”. Các tác giả đã
rà soát, đánh giá các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em Việt
Nam, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sách các chuẩn mực quốc tế,
tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó kiến
nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đảm bảo từng bước
hòa nhập với pháp luật và các chuẩn mực quốc tế.
- Đề tài ”Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt Nam”,
của Nguyễn Hữu Toàn (2010). Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không chỉ là cứu
đói, hỗ trợ lương thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến
tranh, tai nạn, mà còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp đột
xuất và trợ giúp thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm các chính
sách bộ phận đặc biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng
đồng gồm các chính sách bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế,
trợ giúp về giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời trong
bài viết cũng chỉ ra được số lượng người khuyết tật (2008) trên cả nước và phạm
4
vi phân bổ người khuyết tật, dạng khuyết tật và số lượng người khuyết tật cũng
như nhu cầu của người khuyết tật và việc đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật
cũng như các chính sách cho người khuyết tật Việt Nam.
- Tác giả Trịnh Thắng và các cộng sự (2011), “Báo cáo về trẻ khuyết tật tại
An Giang và Đồng Nai năm 2011”. Baó cáo phân tích tình hình chung về kiến
thức, thái độ và hành vi của cộng đồng đối với trẻ khuyết tật ở hai tỉnh Đồng Nai
và An Giang; phân tích các yếu tố ảnh hưởng thái độ và hành vi của mọi người
đối với trẻ khuyết tật; đưa ra các đề xuất để phát triển chiến lược truyền thông và
các khuyến nghị chính đối với các nhà hoạch định chính sách.
- Tác giả Trần Nam, trong Mục chính sách và pháp luật, Hội nạn nhân Chất
độc Da cam/Dioxin – Việt Nam, năm 2012, “Chính sách đối với người bị nhiễm
chất độc hóa học còn nhiều bất cập”. Bài báo đề cập đến việc điều tra, khảo sát
các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/đi ô xin trên địa bàn tỉnh Bình Thuận;
việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam còn nhiều bất cập,
gây thiệt thòi cho các đối tượng; một số kiến nghị với Chính phủ và các bộ,
ngành có liên quan như Bộ Lao động TBXH, Bộ Y tế sớm ban hành Quy trình
xác định nạn nhân chất độc da cam/Điôxin.
- Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội (2013), “Báo cáo năm 2013 về hoạt động giúp
người khuyết tật Việt Nam”. Báo cáo tổng kết những hoạt động và kết quả chủ
yếu về hỗ trợ người khuyết tật đã triển khai trong năm của các bộ, ngành, cơ
quan chức năng, tổ chức xã hội với sự điều phối của ban điều phối các hoạt động
hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, đánh giá tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật trong năm
2014 cũng như tiếp tục thúc đẩy thực hiện Luật người khuyết tật và đề án trợ
giúp người khuyết tật của các cơ quan, tổ chức thành viên của Ban điều phối các
hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam.
- Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ
bản, Nxb chính trị quốc gia, cuốn sách đã đề cập đến chính sách công dưới góc
5
độ chung nhất, bao gồm các vấn đề như: nhận thức về chính sách công; hoạch
định chính sách công; tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách
công.
- Đề tài “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, của Nguyễn
Thị Quỳnh, năm 2014. Tác giả chỉ ra những thành tựu mà chính quyền xã Hợp
đồng đã làm được trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật sinh sống tại địa bàn trong thời gian qua, tuy nhiên tác giả cũng nêu ra
những mặt hạn chế, những bất cập như nhiều người còn chưa tiếp cận được với
chính sách trợ giúp của Nhà nước vì thiếu thông tin liên quan đến chính sách trợ
giúp, một số cán bộ của cơ quan hành chính Nhà nước gây khó khăn, phiền
nhiễu trong công tác tiếp cận các chính sách trên, đồng thời đưa ra những giải
pháp cũng như kiến nghị cho việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trong thời gian tới.
- Tác giả Thụy Bình, trong Tạp chí người khuyết tật, năm 2015, bài báo“Về
vấn đề gia tăng và một số giải pháp gia tăng người khuyết tật”. Bài báo đề cập
đến các dạng khuyết tật, tỷ lệ người khuyết tật và trẻ em khuyết tật đang có xu
hướng gia tăng do điều kiện vị trí địa lý của nước ta, thời tiết khắc nhiệt, ô
nhiễm môi trường và do nguyên nhân nhiều gia đình có người khuyết tật và
người khuyết tật dấu tình trạng khuyết tật của mình. Bài báo đề cập giải pháp
giảm thiểu sự gia tăng người khuyết tật và trẻ em khuyết tật.
- Tác giả Nguyễn Đức Minh, năm 2015, bài báo “Chính sách giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật Việt Nam”. Đảng và Nhà nước đã tạo sự bình đẳng cho trẻ
em khuyết tật Việt Nam cơ hội tiếp cận với giáo dục hòa nhập, nhưng trên thực
tế tỷ lệ trẻ tiếp cận với lĩnh vực này còn rất hạn chế, đó là do những quy định
trong luật người khuyết tật chưa sát với thực tiễn, chính sách chưa cụ thể, việc
xác nhận là người khuyết tật thường được kiểm tra bằng y tế, chưa sử dụng các
hình thức kiểm tra tâm lý do đó nhiều trẻ em là trẻ khuyết tật chưa được xác
6
định đúng về mức độ khuyết tật của mình.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về trẻ em, trẻ em khuyết tật, nhưng
chưa có một nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống việc thực hiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, do đó việc lựa chọn của em không trùng
với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài để hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với
TEKT ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật từ góc độ
lý luận.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt Nam
từ đó chỉ ra những nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách.
- Đề xuất giải pháp và hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2026.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật như
thế nào?
- Không gian: Trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
- Thời gian: Từ năm 2016 trở về trước và định hướng giải pháp cho giai
đoạn 2016 đến 2026.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận dựa trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
7
vấn đề người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Áp dụng phân tích các tình huống chính sách, từ đó tổng hợp và phát hiện
tính đặc thù, khác biệt và đưa ra những nhận định có giá trị khoa học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên cứu lý thuyết về chính sách đối với
trẻ em khuyết tật; các văn bản nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, báo
cáo kết quả trợ giúp trẻ em khuyết tật của một số tổ chức hỗ trợ trẻ em khuyết
tật.
- Phương pháp chuyên gia
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
- Luận văn đã hệ thống cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam
6.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy, học tập và cho các nhà hoạch định chính sách đối với trẻ
em khuyết tật, các cấp chính quyền địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện chính
8
sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm về trẻ em khuyết tật và thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật
1.1.1. Trẻ em khuyết tật
1.1.1.1. Trẻ em
Trong Công ước về quyền trẻ em 1989, văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện
nhất về trẻ em tính đến thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ
người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ
em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều I). Và để làm rõ khái niệm trẻ
em, ngay trong lời nói đầu của công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về
thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là
những người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non
nớt về thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là,
người từ 0 đến dưới 18 tuổi [Điều I, Công ước về quyền trẻ em].
Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp
quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày 20/11/1985)
nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Họ là người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh
nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả
năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt động phiêu lưu mạo
hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm có ý nghĩa quan trọng về mặt
pháp lý. Liên hiệp quốc đặt các em trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa
thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các nước thành viên tham gia Công ước
9
Quốc tế về quyền trẻ em phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích cực, huy
động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành niên nhằm
giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên phạm pháp một
cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả.
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm,
2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi
là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với Công ước
về quyền trẻ em vì Điều 1 Công ước về quyền trẻ em cho phép các quốc gia
thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
1.1.1.2. Trẻ em khuyết tật
Công ước về quyền của người khuyết tật đã được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua vào tháng 03/2007. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền
con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong
cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó, tại
Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm khuyết lâu
dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào
cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ
vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc dù vẫn còn những
quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái niệm “người khuyết
tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về “người khuyết tật” được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, nó là cơ sở trong việc bảo
vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này.
Tại Trung Hoa, Điều 2 Luật của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về
bảo vệ người khuyết tật năm 1990 quy định.
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một
cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải
phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các
10
hoạt động một cách bình thường.
Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết
tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và/
hoặc khuyết tật khác.
Tại Ấn Độ, Luật người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, bệnh phong; thị lực
kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm
thần.
Tại Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người
khuyết tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ cùng một khái
niệm, và được dùng song song trên cả phương diện truyền thông đại chúng và
văn bản pháp quy. Điều I Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 định nghĩa người
tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng
biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động
khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu từ 01/01/2011 thay thế Pháp lệnh về
người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho
khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với khuynh hướng nhìn nhận
chung của thế giới. Theo Quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật
năm 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này được đưa
ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm người khuyết tật
trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007.
Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ em,
theo tác giả, trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ em từ 0 đến 18 tuổi có
khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
11
hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.
Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan trọng
nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi các tiêu chí
xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống nhất.
Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người khuyết tật để hình thành
khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó, là cơ sở để phân loại, nghiên
cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dể bị tổn thương này.
1.1.1.3. Phân loại trẻ em khuyết tật theo loại dị tật
Theo luật người khuyết tật thì khuyết tật được chia làm các loại sau;
- Khuyết tật vận động:
Là dạng khuyết tật ảnh hưởng đến khả năng vận động, di chuyển: Khó khăn
trong việc ngồi, đi, đứng; Người bị yếu, liệt hoặc hạn chế vận động tay, chân,
lưng, cổ; Người bị dị tật, bị biến dạng ở đầu, cổ, lưng hoặc tay, chân.
- Khuyết tật nghe nói:
Những người khuyết tật thuộc nhóm này là những người yếu kém khả năng
nghe nên cần phải có những dụng cụ trợ thính để giúp họ nghe được tiếng nói
của người khác; vì không nghe được nên khả năng nói của họ cũng rất yếu kém.
Các biểu hiện như sau: Khó khăn khi nói hoặc không nói được, khó khăn
khi nghe hoặc không nghe được, bị biến dạng ở vùng tai, mũi và miệng.
- Khuyết tật nhìn: Là những người rất yếu kém khả năng nhìn, dù đã đeo
kính, khiến hạn chế hoạt động cần nhìn bằng mắt: khó khăn khi nhìn hoặc không
nhìn thấy đồ vật trong nhà, khó khăn khi phân biệt màu sắc hoặc không phân
biệt được các màu sắc, bị dị tật hoặc biến dạng ở vùng mắt.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần:
Là người suy yếu về cảm xúc, suy nhược tinh thần hoặc mắc bệnh tâm lý
khiến cho những nhu cầu của cá nhân và những nhu cầu mang tính xã hội của họ
bị hạn chế. Những biểu hiện thể hiện khuyết tật này:
Thường ngồi một mình, chơi một mình, không bao giờ nói chuyện hoặc
12
quan tâm đến bất kỳ ai. Có chứng hành vi bất thường như kích động, cáu giận
hoặc sợ hãi vô cớ hoặc có hành vi hủy hoại bản thân như đập đầu, cắn tay chân
của chính mình, bất ngờ dựng mọi hoạt động, mở mắt trừng trừng không chớp,
co giật tay, môi, mặt hoặc bất thình lình ngã xuống, co giật, sùi bọt mép, gọi hỏi
không biết.
- Khuyết tật trí tuệ:
Những người khuyết tật dạng này có sự suy yếu hay chậm phát triển trí não
như những người bại não, động kinh, tự kỷ, và những rối loạn tương tự khác,
Những người này thường khó khăn trong việc nhận biết người thân trong gia
đình hoặc khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh so với người
cùng tuổi. Chậm chạp ngờ nghệch hoặc không thể làm được một việc đơn giản
dù đã được hướng dẫn. Họ cũng khó khăn trong việc học tập (đọc, viết và làm
toán) so với người cùng tuổi do chậm phát triển trí tuệ.
- Khuyết tật khác: Là những người bị giảm khả năng thực hiện các hoạt
động trong học tập và lao động do tê bì hoặc mất cảm giác ở tay chân, mặc dù
đã được điều trị liên tục 3 tháng; giảm khả năng thực hiện các hoạt động trong
học tập và lao động do các nguyên nhân hô hấp hoặc do tim mạch hoặc do rối
loạn đại, tiểu tiện dù đã liên tục điều trị 3 tháng; giảm khả năng thực hiện các
hoạt động trong học tập và lao động do các nguyên nhân khác.
Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu
sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn
toàn.
Trẻ em khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần
hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một
số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc phục vụ nhu cầu
13
sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
Trẻ em khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết tật đặc
biệt nặng và khuyết tật nặng.
Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy thiên có thể nhận thấy điểm
chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn là
đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi trường thuận
lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì TEKT vẫn có thể tiếp thu được
chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của
cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để
thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển
năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống.
Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể như người khuyết tật nói chung,
lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần giống như
biết bao trẻ bình thường khác, trẻ em khuyết tật với tư cách là nhóm bị tổn
thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật đem lại.
Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân trẻ và gia
đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động xã hội của trẻ.
Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật, tính chất,
mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ em khuyết tật sẽ có tác dụng trong việc
ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang ngày càng gia tăng, từ đó hạn
chế tình trạng trẻ em bị thiệt thòi, đồng thời phân loại trẻ khuyết tật còn là cơ sở
để áp dụng các chính sách, biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ
khuyết tật vượt qua khó khăn trong cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
1.1.1.4. Đặc điểm của trẻ em khuyết tật
Do chấn thương hay do bệnh bại liệt gây ra làm què cụt, khoèo, liệt chân
tay, ngoài ra trẻ em khuyết tật vận động do tổn thương khu vận động lão bộ. Sự
phát triển nhận thức của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tham gia các hoạt
động trong môi trường xung quanh trẻ khuyết tật vận động khó đạt được trình độ
nhận thức cũng như những trải nghiệm như mọi trẻ bình thường khác. Chẳng
14
hạn, trẻ không thể có cảm giác mỏi chân nếu như trẻ bại liệt đôi chân không thể
đi được, không thể leo trèo được thì khó có cảm giác về độ cao và kỹ năng lấy
thăng bằng của cơ thể, không có cảm giác về sức đẩy của nước nếu không được
ngâm mình trong nước…
Đối với trẻ bị tổn thương về lão bộ gây rất nhiều cản trở cho hoạt động
nhận thức của trẻ, thậm trí là trình độ nhận thức ở mức độ nặng. Hoạt động nhận
thức của loại trẻ này cũng có những hạn chế tương tự như trẻ chậm phát triển trí
tuệ và còn bị ảnh hưởng thêm của khuyết tật vận động. Song cũng cần lưu ý
những trường hợp khuyết tật vận động do bại não gây nên thì hoạt động nhận
thức của trẻ hầu như không bị ảnh hưởng song trẻ khó có thể đạt được suy nghĩ,
hành động, lời nói một cách bình thường do sự cản trở của khuyết tật vận động.
Đối với trẻ chậm phát triển vận động, khó khăn khi nói, kém hiểu biết về
các quy luật xã hội căn bản, không ý thức về hậu quả về các hành vi của mình,
khó khăn khi tự phục vụ, phân tích màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém, thiếu
tích cực trong quan sát, tư duy của trẻ thường biểu hiện tính không liên tục,
chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa mới tiếp thu, thời gian chú ý của trẻ em
chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều trẻ bình thường.
Bên cạnh những đặc điểm của trẻ em khuyết tật về vận động cũng như trẻ
em khuyết tật về trí tuệ, các em đều là những người sống nội tâm, giàu cảm xúc,
giàu nghị lực để thích nghi, để vượt qua những khó khăn. Đây là ưu điểm cần
quan tâm động viên để trẻ em khuyết tật tự vươn lên hòa nhập cuộc sống xã hội.
Trẻ em khuyết tật cũng như những trẻ bình thường có những đòi hỏi thỏa mãn
các nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần và nhu cầu hoàn thiện chính
bản thân mình như những trẻ em bình thường khác. Trẻ em khuyết tật luôn
muốn được hòa nhập xã hội, mong muốn được học tập, muốn được tôn trọng để
xóa đi những mặc cảm tự tị, mặc cảm với bản thân mình.
1.1.2. Chính sách đối với trẻ em khuyết tật
1.1.2.1 Khái niệm:
Thuật ngữ “chính sách” được dùng rộng rãi trong lý thuyết phát triển hiện
15
đại. Có nhiều cách tiếp cận để đưa ra những khái niệm về chính sách, dưới các
góc độ quản lý, chính trị hay hành chính. Tiếp cận dưới góc độ quản lý , “chính
sách” được xem ở hai mức độ phạm vi:
Ở phạm vi hẹp, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý, là những quy định, điều kiện của chủ thể quản lý đặt ra và thực
thi nhằm đưa hoạt động của đối tượng quản lý theo ý chí, mục đích của mình.
Rộng hơn, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách
thể quản lý còn được hiểu như là những đối sách, ứng xử của tổ chức, quốc gia
đối với môi trường xã hội, tự nhiên và chính trị mà chính thể đó tồn tại. Nhất là
trong hệ thống mở về kinh tế, chính trị – xã hội hiện đại, ở đó xuất hiện nhiều
mối quan hệ với những vị trí, vai trò, sự tương tác khác nhau.
James Anderson đã khái quát: “chính sách là một đường lối hành động có
mục đích được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải
quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm”. Khái niệm này ở Việt Nam
được hiểu “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ
thể quyền lực, hoặc một chủ thể quản lý đưa ra, trong đó có sự ưu đãi một hoặc
một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt
động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó trong chiến lược phát triển
của một hệ thống xã hội”,
Theo Vũ Cao Đàm, thì chính sách là một thiết chế xã hội, bao gồm tập hợp
nhiều thiết chế: thiết chế bất thành văn, thiết chế công bố và thiết chế ngầm
định. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến thiết chế thành văn tức
là những chính sách được pháp luật quy định gần với nội dung quản lý nhà
nước.
- Chính sách đối với trẻ em
Chính sách đối với trẻ em là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh vực
giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đó là các chính sách và chương trình hỗ
trợ nuôi dưỡng, chăm sóc thay thế; trợ giúp giáo dục, y tế, chỉnh hình, phục hồi
16
chức năng; hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; chính sách và chương trình tiếp cận
công trình công cộng, tham gia giao thông và công nghệ thông tin đối với trẻ tàn
tật; chính sách và chương trình hỗ trợ gia đình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; các
chương trình mục tiêu quốc gia trong đó có hợp phần hoặc nội dung bảo vệ trẻ
em; các chương trình dành riêng cho trẻ em.
- Chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Chính sách đối với trẻ em là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh vực trẻ
em khuyết tật. Đó là các chính sách bảo trợ xã hội, trợ giúp về y tế, giáo dục,
hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao, tiếp cận với các dịch vụ công cộng
giúp trẻ khuyết tật phát triển với khả năng của chính mình, xoá đi những mặc
cảm, phát triển và hòa nhập với cộng đồng như những trẻ bình thường khác.
1.1.2.2. Đặc trưng của chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với TEKT mang đầy đủ đặc điểm của quá trình
thực hiện chính sách nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con người,
thực hiện chính sách đối với TEKT hàm chứa những đặc điểm chung của các
hoạt động xã hội khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện chính
sách đối với TEKT đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc thù sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chính sách đối với TEKT bao giờ cũng thông qua
những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của con người bao giờ
cũng được bộc lộ thông qua các hành vi, hoạt động cụ thể trong các mối quan hệ
xã hội. Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại của con người, chính vì lẽ
đó, việc thực hiện chính sách về người khuyết tật thường tồn tại là những dạng
hành động tích cực là chủ yếu và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong
bộ máy nhà nước. Kết quả thực hiện các chính sách đó trên thực tế không phải
lúc nào cũng hợp pháp, cũng bảo vệ và đem lại những lợi ích đối với TEKT có
thể do nhiều nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và
bảo đảm quyền lợi cho người khuyết tật không thể đạt được.
Thứ hai, Thực hiện chính sách đối với TEKT là hành vi phù hợp với pháp
17
luật về TEKT. Đó là những hành vi cụ thể của con người song thực hiện chính
sách đối với trẻ em khuyết tật có đặc điểm là phải phù hợp với các quy định hiện
hành liên quan tới TEKT. Việc phù hợp ở đây được hiểu là khi thực hiện chính
sách không được làm trái với mục tiêu của chính sách, không làm ảnh hưởng tới
quyền và lợi ích hợp pháp của TEKT, tất cả là tạo điều kiện và bảo vệ lợi ích
của người khuyết tật, trẻ em khuyết tật, quyền tiếp cận đời sống xã hội của
TEKT.
Nói đến việc thực hiện chính sách đối với TEKT bao giờ các chủ thể cũng
quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là thực hiện nội dung liên
quan tới trẻ em khuyết tật và cách thức, hình thức thực hiện bằng hình thức nào?
Như vậy, tính hợp pháp trong quá trình thực hiện chính sách đối với TEKT bao
gồm thực hiện đầy đủ quy trình thực hiện chính sách: Xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách, bao gồm: Kế hoạch tổ chức, điều hành, kế hoạch
cung cấp các nguồn vật lực, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách, dự
kiến những nội quy, quy chế; phổ biến, tuyên truyền chính sách; phân công,
phối hợp thực hiện chính sách; đôn đốc thực hiện chính sách; Đánh giá, tổng kết
rút kinh nghiệm.
Thứ ba, Thực hiện chính sách đối với TEKT là một quá trình có mục đích,
nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến những quyền và nghĩa vụ
pháp lý bảo vệ trẻ em khuyết tật thành những hành vi xử sự trong thực tế thì cần
thiết phải thông qua hàng loạt là các hoạt động cụ thể của con người mà các hoạt
động đó phải có mục tích, mục tiêu cụ thể.
Các hoạt động cụ thể đó bao gồm: Chủ thể tìm hiểu các quy định của pháp
luật có nội dung cụ thể như thế nào? Xem xét vị trí, chức năng vai trò của bản
thân, ra các quyết định về cách thức, thời gian hoạt động cụ thể. Tất cả các hoạt
động đó phải cần thiết xác định mục tiêu cụ thể là bảo vệ và bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của TEKT thông qua việc thực hiện các quy phạm cụ thể.
Tính mục đích có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện
18
pháp luật nói chung và thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật nói riêng.
1.1.2.3. Nội dung của chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Căn cứ vào Công ước quốc tế về Quyền người khuyết tật, có một số chính
sách cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật như sau:
Một là, chính sách giáo dục
Bảo đảm hệ thống giáo dục ở mọi cấp và học tập suốt đời cho người khuyết tật,
trẻ em khuyết tật.
- Phát triển trọn vẹn năng lực tiềm tàng của con người, nhận thức về nhân
cách và phẩm giá, củng cố sự tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật, quyền tự do
cơ bản và tính đa dạng của loài người.
- Phát triển trọn vẹn tiềm năng về tính cách, tài năng, sáng tạo, cũng như
những năng lực thể chất và tinh thần của trẻ em khuyết tật.
Khi bảo đảm hệ thống giáo dục ở mọi cấp cho trẻ em khuyết tật, các quốc
gia phải bảo đảm:
- Trẻ em khuyết tật không bị loại khỏi hệ thống giáo dục phổ thông trên cơ
sở sự khuyết tật, và trẻ em khuyết tật không bị loại khỏi giáo dục tiểu học mà
bắt buộc, hoặc giáo dục trung học trên cơ sở sự khuyết tật.
- Trẻ em khuyết tật có thể tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học cơ sở có
chất lượng tốt và miễn phí trên cơ sở bình đẳng với những người khác trong
cùng cộng đồng mà họ sinh sống.
- Trẻ em khuyết tật được nhận sự giúp đỡ cần thiết trong hệ thống giáo dục
phổ thông để được giáo dục hiệu quả.
- Cung cấp các biện pháp trợ giúp cá biệt hóa có hiệu quả, trong môi trường
thể hiện sự phát triển xã hội và khoa học kỹ thuật cao nhất, phù hợp với mục
đích hòa nhập trọn vẹn.
Các quốc gia thành viên tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật học tập những
kỹ năng phát triển đời sống và xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia
19
giáo dục một cách trọn vẹn và bình đẳng, với tư cách thành viên của cộng đồng.
- Tạo thuận lợi cho việc học chữ Braille, chữ viết thay thế, các cách thức,
phương tiện và dạng giao tiếp hoặc định hướng tăng cường hoặc thay thế, kỹ
năng di chuyển và khuyến khích hỗ trợ của chuyên gia.
- Tạo thuận lợi cho việc học ngôn ngữ ký hiệu và khuyến khích phát triển
bản sắc ngôn ngữ, cách thức và phương tiện giao tiếp thích hợp nhất cho người
đó, và trong những môi trường thể hiện sự phát triển xã hội và khoa học kỹ thuật
cao nhất.
Hai là, chính sách bảo trợ xã hội
Các quốc gia thành viên công nhận quyền của trẻ em khuyết tật và gia đình
của có mức sống thỏa đáng, trong đó có điều kiện ăn, mặc, ở và quyền của trẻ
em khuyết tật có điều kiện sống liên tục được cải thiện, và tiến hành các bước
thích hợp để bảo vệ và thúc đẩy việc biến quyền này thành hiện thực mà không
có sự phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật.
Quốc gia thành viên công nhận quyền của người khuyết tật, trẻ em khuyết
tật được hưởng phúc lợi xã hội và được hưởng quyền đó mà không có sự phân
biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật.
- Bảo đảm cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật, đặc biệt là phụ nữ và bé
gái khuyết tật, được hưởng các chương trình phúc lợi xã hội và chương trình xóa
đói giảm nghèo.
- Bảo đảm cho trẻ em khuyết tật và gia đình họ sống trong trình trạng
nghèo khổ được tiếp cận sự giúp đỡ từ quỹ hỗ trợ trẻ em khuyết tật.
Ba là, chính sách y tế
Các quốc gia thành viên công nhận rằng người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
có quyền hưởng tiêu chuẩn y tế cao nhất mà không có sự phân biệt nào trên cơ
sở sự khuyết tật.
- Cung cấp cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật sự chăm sóc và chương
trình y tế cùng loại, cùng chất lượng, cùng tiêu chuẩn miễn phí hoặc giá thành
vừa phải như đối với những người khác, trong đó có các chương trình giới và
20
sức khỏe sinh sản cũng như các chương trình sức khỏe cộng đồng dân cư.
- Cung cấp dịnh vụ y tế này càng gần cộng đồng càng tốt, kể cả ở khu vực
nông thôn;
- Yêu cầu cán bộ chuyên môn y tế cung cấp chăm sóc y tế cho người
khuyết tật, trẻ em khuyết tật cùng với chất lượng như cho những người bình
thường khác, kể cả trên cơ sở đồng ý tự nguyện và hiểu biết.
- Không phân biệt đối xử đối với người khuyết tật trong cung cấp bảo hiểm
y tế, bảo hiểm sinh mệnh nếu loại bảo hiểm này được pháp luật quốc gia cho
phép và phải cung cấp các loại bảo hiểm này theo cách thức hợp lý và công
bằng.
Bốn là, tham gia hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí và thể thao
- Quốc gia thành viên công nhận quyền của người khuyết tật, trẻ em khuyết
tật được tham gia vào đời sống văn hóa trên cơ sở bình đẳng với những người
khác, và tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng người khuyết tật, trẻ
em khuyết tật được tiếp cận các hoạt động văn hóa; được tiếp cận chương trình
truyền hình, phim ảnh; được tiếp cận với những nơi có các dịnh vụ văn hóa hoặc
trình diễn văn hóa như trong rạp hát, viện bảo tàng, rạp chiếu phim, thư viện và
dịch vụ du lịch, và ở mức độ có thể, được tiếp cận các dịch vụ văn hóa quốc gia
quan trọng.
- Quốc gia thành viên tiến hành mọi biện pháp thích hợp để tạo điều kiện
cho người khuyết tật có cơ hội phát triển và sử dụng tiềm năng trí tuệ, nghệ
thuật và sáng tạo của mình, không vì lợi ích của họ mà còn vì lợi ích toàn xã hội.
- Hướng tới tạo điều kiện cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật tham gia
vào các hoạt động thể thao.
Năm là, chính sách ưu tiên cho trẻ em khuyết tật khi tham gia giao thông
bằng phương tiện giao thông công cộng
Ưu tiên khi mua vé, sắp xếp chỗ ngồi:
- Trẻ em khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông
công cộng được ưu tiên mua vé tại cửa bán vé; được sử dụng chỗ ngồi dành cho
21
các đối tượng ưu tiên.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách công cộng có trách
nhiệm trợ giúp, hướng dẫn, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện cho trẻ em khuyết tật; hỗ
trợ trẻ em khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng khi lên, xuống
phương tiện và sắp xếp hành lý khi cần thiết.
Thực hiện miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ cho trẻ em khuyết tật khi tham
gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng:
- Trẻ em tật nặng, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng khi tham gia giao thông
bằng phương tiện giao thông công cộng được miễn, giảm giá vé.
- Trẻ em khuyết tật sử dụng xe lăn thông dụng không gắn động cơ hoặc sử
dụng các dụng cụ cầm tay để phục vụ việc đi lại của bản thân thì được miễn
cước hành lý đối với xe lăn, dụng cụ đó khi tham gia giao thông bằng phương
tiện giao thông công cộng.
- Trẻ em khuyết tật đồng thời thuộc đối tượng được giảm giá vé, giá dịch
vụ theo các chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một mức giảm giá vé cao nhất.
Sáu là, chính sách về công nghệ thông tin và truyền thông
Khuyến khích các tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ
thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho trẻ em khuyết tật.
Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất
và tinh thần của người khuyết tật, trẻ em khuyết tật.
Có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ
khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ, phương
tiện hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.
1.1.3. Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật là quá trình biến các chính
sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong
bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hóa các chính sách đối với trẻ em khuyết tật
22
đã đề ra.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật
Tổ chức thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật là quá trình phức tạp,
diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương
trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ
động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật được xây dựng trước khi chính sách đi vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai
thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch,
chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách đối với trẻ em
khuyết tật bao gồm những nội dung cơ bản.
- Kế hoạch tổ chức điều hành: Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về hệ
thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng
và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp
thực thi chính sách.
- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở kiến trúc,
trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách đối với trẻ em
khuyết tật; các nguồn lực tài chính.
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là dự kiến về thời gian duy trì
chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai từ tuyên truyền chính sách đến
tổ chức rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời gian
dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách là những dự kiến về tiến
độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.
- Dự kiến những nội quy, quy chế: Nội quy, quy chế trong thực thi chính
sách đối với trẻ em khuyết tật bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành;
về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà
nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật
23
cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
1.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện đối với trẻ em khuyết tật được
thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai thực hiện theo kế hoạch.
Một là, trong quá trình thực hiện chính sách, trước tiên phải tuyên truyền,
vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Phổ
biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi
người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính
đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định; và về tính khả thi
của chính sách để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước.
Tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật cần
được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách công đang được thi
hành, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền thực thi chính sách.
Hai là, phân công, phối hợp thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Khi thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật cần phải phân công, phối
hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu
tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục
tiêu chính sách. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư,
nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ
phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách
một cách ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.2.3. Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khyết tật
Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật là hoạt động của cơ
quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích
nhằm làm cho các chủ thể thực thi chính sách nêu cao ý thức trách nhiệm trong
thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách. Trên thực tế, khi triển khai
24
tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần có hoạt động đôn đốc để vừa thúc đẩy các
chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những
hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
1.2.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật
Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá
trình xem xét, kết luận về chỉ đạo – điều hành và chấp hành chính sách của các
đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ
đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính
trị – xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách đối với trẻ em
khuyết tật. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi
chính sách đối với trẻ em khuyết tật trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch
được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng ở bước 1 của phần này.
Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với
các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp
chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội đối với
nhà nước.
1.3. Vai trò của thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
1.3.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối
với trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật là đưa đường lối, chủ
chương của Đảng về chính sách đối với trẻ khuyết tật vào cuộc sống, khẳng
định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc triển
khai và tổ chức thực hiện chính sách, tổ chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo của
mình và đánh giá đúng mức về năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,
đảng viên. Đảng và Nhà nước định hướng mọi trẻ em khuyết tật đều hòa nhập
cộng đồng, tạo điều kiện phát huy mọi khả năng của mình để vươn lên trong
cuộc sống và học tập, giảm bớt gánh nặng của gia đình và xã hội, trở thành
25
những thành viên có ích cho xã hội. Từ các chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước đề ra, các chủ thể thực hiện chính sách bằng cách xây dựng và ban
hành văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách để cụ thể hóa mục tiêu và
giải pháp chính sách cho từng giai đoạn thời gian và địa bàn cụ thể. Kết quả của
chính sách phải bảo đảm mọi trẻ em khuyết tật ở các vùng sâu, vùng xa cũng
như khu vực thành phố, nông thôn đều được hưởng bình đẳng các quyền của trẻ
em khuyết tật, đó là quyền được đi học, được chăm sóc sức khỏe, được tham gia
vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, được tiếp cận với các
phương tiện giao thông công cộng dành cho trẻ em khuyết tật, được giảm vé khi
tham gia giao thông, được tiếp cận với các hoạt động công nghệ, thông tin. Vì
vậy trong quá trình thực hiện chính sách các chủ thể cần thể chế hóa định
hướng, mục tiêu của Đảng và nhà nước, và thực thiện theo đúng mục tiêu, bên
cạnh đó các chủ thể cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật trên phạm vi quốc gia và từng bước tiếp cận Công ước quốc tế về
quyền của trẻ em khuyết tật.
Không thể phủ nhận sự song hành của trẻ em khuyết tật trong đời sống xã
hội và điều đó có nghĩa rằng nhà nước cần phải có trách nhiệm đối với việc bảo
đảm cho TEKT được tiếp cận đầy các quyền như những trẻ em bình thường. Vì
vậy trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn, cách chủ thể thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
cần áp dụng thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất và hiệu quả nhằm đưa
chính sách vào đời sống xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước đặt ra để trẻ em khuyết tật nhận được sự chăm sóc tốt nhất trong điều kiện
kinh tế – xã hội của đất nước ta hiện nay.
1.3.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với trẻ em khuyết tật
Chính sách đối với trẻ em khuyết tật là tiền đề, là cơ sở pháp lý cho hoạt
động thực tế của các chủ thể thực hiện chính sách. Chính sách đối với trẻ em
khuyết tật là cơ sở pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức có thẩm
quyền tiến hành hoạt động để bảo đảm quyền tiếp cận đời sống xã hội của trẻ em
26
khuyết tật.
Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước cho thấy nếu như hệ thống chính
sách về lĩnh vực nào đó không hoàn chỉnh, không có khả thi, quá xa vời với thực
tế, không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước thì không thể có
hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như hoạt động thực hiện chính
sách, dẫn đến lãng phí về thời gian và tiền bạc. Trong những năm vừa qua, mặc
dù Luật người khuyết tật có hiệu lực từ tháng 1 năm 2011 đã tác động mạnh mẽ
tới nhận thức của cả xã hội cũng như tác động đến đời sống của người khuyết tật
nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng song vì thiếu những quy định cụ thể
hoặc một quy định trong luật còn quá xa so với khả năng nguồn ngân sách của
nước ta dẫn đến việc tiếp cận với các quyền của trẻ em khuyết tật chưa được đáp
ứng đầy đủ. Luật người khuyết tật 2010 quy định chính sách về giáo dục hòa
nhập đối với tất cả trẻ em trong phạm vi toàn quốc. Khi các chủ thể xây dựng kế
hoạch thực hiện, kế hoạch về kinh phí, kế hoạch nhân sự, cơ sở vật chất, giáo
trình đã gặp rất nhiều khó khăn như khó khăn về kinh phí, thiếu giáo viên về
lĩnh vực giáo dục hòa nhập hoặc giáo viên thiếu chuyên môn về lĩnh vực này,
đặc biệt là lúng túng trong quá trình biên soạn giáo trình. Do đó tỷ lệ trẻ em đưa
vào các trường công lập để giáo dục hòa nhập tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả
nước không cao, thậm chí do điều kiện vật chất nhiều trường còn từ chối tiếp
nhận trẻ khuyết tật vào giáo dục hòa nhập. Trong quá trình thực hiện chính sách
mà gặp phải những chính sách không phù hợp, không khả thi, cần có những kiến
nghị với Nhà nước, với các nhà hoạch định chính sách để điều chỉnh, bãi bỏ
hoặc bổ sung cho phù hợp để chính sách đối với trẻ em khuyết tật thực sự có
hiệu quả và đi vào cuộc sống, giúp trẻ khuyết tật có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.3.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách đối
với trẻ em khuyết tật
Khi hệ thống chính sách đối với TEKT đã được hoàn thiện và đi vào cuộc
sống; việc phân loại dạng tật và xác định mức độ khuyết tật rõ ràng; các chỉ tiêu
cụ thể cho từng loại chính sách và phù hợp với từng dạng khuyết tật như khuyết
27
tật vận động, khuyết tật nghe, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh, khuyết tật trí
tuệ; xác định các mức trợ cấp xã hội, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
cho TEKT, thì việc phân bổ nguồn lực và huy động các nguồn lực trong thực
hiện chính sánh đối với trẻ em khuyết tật là thực sự cần thiết, đó là nguồn lực tài
chính, con người, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác. Bên cạnh sự hỗ trợ của
nhà nước, cần vận động kêu gọi các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện, các mạnh
thường quân, các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước tham gia hỗ trợ giúp
đỡ trẻ em khuyết tật bằng nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ về công nghệ
khoa học nhằm giảm thiểu gia tăng trẻ em khuyết tật, về vật chất, về tinh thần
nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Trước thực tế số lượng trẻ em khuyết
tật trên thế giới hiện nay rất đông. Để thực hiện chính sách đầy đủ cho tất cả trẻ
em khuyết tật ở nông thôn, thành phố, vùng sâu và vùng xa là thực sự khó khăn
với kinh phí hạn hẹp của nhiều quốc gia. Các trung tâm bảo trợ xã hội giúp đỡ trẻ
em khuyết tật, các Làng, trung tâm cần xây dựng các dự án, các chương trình, đề
án, tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại nhân dân, các hình thức xã hội
hóa để kêu gọi các nhà tài trợ, các tổ chức phí chính phủ, các tổ chức cán nhân hỗ
trợ về kinh phí trong quá trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
1.3.4. Thực hiện an sinh xã hội đối với trẻ em khuyết tật
Trẻ em khyết tật là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội, hiện nay có nhiều
văn bản Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách liên quan
đến trẻ em khuyết tật. Nằm trong tổng thể chính sách an sinh xã hội của Nhà
nước thì bộ phận trẻ em khuyết tật là bộ phận không thể tách rời. Vì vậy thực
hiện tốt chính sách đối với trẻ em khuyết tật chính là thực hiện tốt các quy định
của chính sách về an sinh xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, bảo đảm quyền
của trẻ em khuyết, bảo vệ và ngăn chặn những rào cản tiếp cận cho trẻ em
khuyết tật, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục, trợ cấp xã hội,
giao thông, công nghệ thông tin, taọ cơ hội tốt nhất cho trẻ em khuyết tật hòa
nhập cộng đồng.
Hiện nay, Nhà nước đã xây dựng nhiều chương trình, dự án, đề án giúp an
28
sinh xã hội cho trẻ em khuyết tật. Các dự án về đào tạo nghề bao gồm các nghề
cắt may, nghề thêu ren, làm hoa, vi tính văn phòng, cắt uốn tóc, nấu ăn, bảo vệ,
lễ tân, phục vụ khách sạn, nhà hàng đã giúp nhiều trẻ hòa nhập vào cộng đồng
và tự nuôi sống được bản thân; các chương trình phục hồi chức năng, khám chữa
bệnh tại cộng đồng giúp các gia đình có trẻ em khuyết tật có được những kiến
thức cơ bản về sơ cứu ban đầu với trẻ bị ngã, trẻ bị bại liệt, các kiến thức về
phục hồi chức năng để có thể chăm sóc con em mình tại gia đình; các chương
trình giáo dục hòa nhập cũng đang được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương
trong cả nước. Kết quả thực thế nhiều trẻ em đã tự phục vụ được mình, nhiều
em tự nuôi sống được bản thân và giúp đỡ gia đình, giảm gánh nặng cho xã hội
về kinh phí trợ cấp hàng tháng cho trẻ em khuyết tật và thực sự nhiều trẻ em
khuyết tật đã trở thành những người có ích trong xã hội.
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
1.4.1. Hệ thống thể chế nhà nước
Hiệu lực và hiệu quả của chính sách đối với trẻ em khuyết tật phụ thuộc
vào bối cảnh, điều kiện mà nó sinh ra và tồn tại. Khi trình độ kinh tế chưa phát
triển, hệ thống thể chế, pháp luật chưa hoàn thiện thì chính sách đối với trẻ em
khuyết tật chưa đạt được những chuẩn mực mang tính hệ thống do phần lớn giải
quyết những vấn đề cụ thể hoặc tình thế trước mặt. Mặt khác, nó bị chi phối bởi
điều kiện về tài chính, nhận thức pháp luật, tâm lý, tập quán xã hội làm cho tính
khoa học của chính sách bị thiên lệch. Điều kiện kinh tế khó khăn thi nguồn lực
thực hiện chính sách bị hạn chế dẫn đến việc cắt giảm mục tiêu, nội dung hoạt
động chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
Hệ thống thể chế nhà nước là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thực hiện
chính sách. Tuổi thọ của chính sách đối với trẻ em khuyết tật không chỉ phụ
thuộc vào thời hạn của vấn đề chính sách mà còn bị chi phối bởi thể chế hành
chính nhà nước, vào chủ thể xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách và đặc biệt
29
là chủ thể quyết định ban hành chính sách.
1.4.2. Tính chất của vấn đề chính sách
Đây là yếu tố gắn liền với mỗi vấn đề chính sách đối với trẻ em khuyết tật,
có tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và tổ chức thực
thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Nếu vấn đề chính sách đơn giản, liên
quan đến ít đối tượng chính sách thì công tác tổ chức thực thi sẽ thuận tiện hơn
so với các vấn đề chính sách phức tạp có quan hệ lợi ích tới nhiều đối tượng
trong xã hội. Tính chất cấp bách của vấn đề chính sách tác động lớn đến kết quả
tổ chức thực thi chính sách. Nếu là vấn đề bức xúc cần được giải quyết ngay
mới giúp cho đối tượng phát triển theo mục tiêu định hướng, thì sẽ được nhà
nước và xã hội ưu tiên các nguồn lực cho thực hiện. Tính chất của chính sách
đối với trẻ em khuyết tật là yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ
chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn.
1.4.3. Năng lực thực thi chính sách của cán bộ quản lý và công chức
Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực thi chính sách
đối với trẻ em khuyết tật. Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là thước đo
bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ
chức, năng lực thực tế, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó
được với những tình huống phát sinh trong tương lai… Cán bộ, công chức trong
cơ quan công quyền khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách đối với
trẻ em khuyết tật cần nêu cao tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm và ý
thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực thực tế. Nếu thiếu năng
lực thực tế, các cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực thi chính sách sẽ đưa ra
những kế hoạch dự kiến không sát thực tế, làm lãng phí nguồn lực huy động,
làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính
sách trong quá trình tổ chức thực hiện. Nhìn chung cán bộ, công chức có năng
lực thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật, không những chủ động điều
phối được các yếu tố chủ quan tác động theo định hướng, mà còn khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố khách quan để công tác tổ chức thực
30
hiện thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật mang lại kết quả thực sự.
1.4.4. Điều kiện tài chính và cơ sở vật chất để thực thi chính sách
Yếu tố này ngày càng có ý nghĩa quan trọng để cùng nhân sự và các yếu tố
khác thực hiện thắng lợi chính sách của nhà nước. Theo quy luật phát triển, các
hoạt động kinh tế – xã hội ngày càng được tăng cường về quy mô và trình độ để
thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Quy mô các hoạt động
trên không chỉ tăng về lượng, mà còn lan tỏa trên một không gian rộng, vượt ra
khỏi phạm vi biên giới của quốc gia. Để quản lý mọi mặt hoạt động trong điều
kiện phát triển hiện nay, nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất
và nhân sự, trong đó nguồn lực vật chất tăng nhanh về số lượng và chất lượng.
Trong thực tế, nếu thiếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách thì các cơ quan nhà nước khó có thể chuyển tải
những nội dung chính sách đối với trẻ em khuyết tật đến với đối tượng một cách
thường xuyên.
1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở một
số nước và giá trị tham khảo cho Việt Nam
1.5.1. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật ở Nhật Bản
Chính phủ Nhật Bản đã ký công ước về quyền của người khuyết tật năm
2007, nhưng thực tế công ước chưa được thông qua. Vào tháng 10 năm 2013, có
khoảng 138 quốc gia đã thông qua công ước về quyền của người khuyết tật.
Chính phủ Nhật Bản đưa ra nhiều chính sách xã hội giúp đỡ người khuyết tật và
trẻ em khuyết tật và chuẩn bị các điều kiện để thông qua công ước này.
Những chính sách quan trọng dành cho trẻ em khuyết tật có thể được lựa
chọn để phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam như: Thành lập quỹ trợ
giúp TEKT, thiết bị thuận tiện cho trẻ em khuyết tật tiếp cận với các phương tiện
giao thông, thông tin và truyền thông; phát triển và cải thiện đời sống của
TEKT; y tế và phục hồi chức năng, giáo dục; quy định trách nhiệm của chính
phủ và cơ quan địa phương và người dân đối với TEKT, cụ thể như: Vai trò của
31
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm cung ứng các dịch vụ hỗ trợ người
khuyết tật và trẻ em khuyết tật; vai trò của Chính quyền tỉnh và thành phố có
trách nhiệm điều phối, giám sát, lập kế hoạch trung hạn cho chính quyền địa
phương về việc thực hiện chính sách cho người khuyết tật và trẻ em khuyết; vai
trò của Chính phủ xây dựng chính sách và kế hoạch quốc gia cũng như giám sát
và đánh giá các chương trình thực hiện.
Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương có biện pháp để tăng cường
nghiên cứu nguyên nhân, đưa ra các biện pháp ngăn ngừa tàn tật thông qua
tuyên truyền những kiến thức cần thiết, đẩy mạnh các dịch vụ chăm sóc y tế cho
bà mẹ và trẻ em, phòng tránh và can thiệp sớm những có thể gây ra tàn tật.
Thêm vào đó chính phủ và các cơ quan địa phương phải nỗ lực phòng ngừa và
chữa trị những bệnh gây ra tàn tật, tăng cường nghiên cứu những bệnh gây tàn
tật và có biện pháp cần thiết cụ thể đối với TEKT gặp khó khăn trong cuộc sống
hàng ngày.
Về lĩnh vực y tế: Chính phủ và các cơ quan địa phương cần cung cấp cho
TEKT các dịch vụ y tế và phục hồi chức năng để TEKT có thể phục hồi, nâng
cao khả năng học tập và duy trì cuộc sống hàng ngày; nghiên cứu phát triển các
dịch vụ y tế và các dịch vụ khác để các em khuyết tật độc lập trong cuộc sống.
Về giáo dục: Cải thiện nội dung và phương pháp giáo dục để TEKT có thể
nhận được một chương trình giáo dục phù hợp với độ tuổi, năng lực và mức độ
tàn tật; nghiên cứu, đầu tư và phát triển cơ sở vật chất giảng dạy; tạo sự thông
cảm giữa học sinh bị khuyết tật và học sinh không khuyết tật trong quá trình học
tập tại trường.
Hỗ trợ tiếp cận trang thiết bị và công trình giao thông công cộng; Chính
phủ và chính quyền địa phương cần đảm bảo cho TEKT có thể tiếp cận được các
thiết bị công cộng, giao thông công cộng và các thiết bị công cộng khác để học
có thể tham gia vào xã hội một cách độc lập; các nhà cung cấp dịch vụ giao
thông công cộng và thiết bị công cộng khác cần nỗ lực đảm bảo TEKT có thể dễ
dàng tiếp cận với các thiết bị để tạo khả năng độc lập và tham gia vào xã hội của
32
TEKT.
Truyền thông: Cung cấp máy tính tiếp cận, các thiết bị công nghệ thông tin
tiếp cận nhằm đảm bảo TEKT có thể tiếp cận thông tin và thể hiện mong muốn
của họ; các nhà cung cấp cần quan tâm đến khả năng tiếp cận của TEKT trong
khi cung cấp dịch vụ hay sản xuất thiết bị trên cơ sở đoàn kết xã hội.
Văn hóa: Khuyến khích TEKT tham gia vào các hoạt động văn hóa, giải trí,
thể thao thông qua việc điểu chỉnh các thiết bị, dụng cụ và hỗ trợ kinh phí cho
các hoạt động này.
Chính phủ và các cơ quan địa phương có trách nhiệm đối với cuộc sống của
TEKT thông qua việc đưa ra các tiêu chuẩn để bảo vệ quyền của TEKT, chống
phân biệt đối xử và hỗ trợ họ trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội một
cách độc lập.
1.5.2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật của Malaysia
Chính sách được xây dựng trên cơ sở đảm bảo chắc chắn rằng trẻ em
khuyết tật Malaysia có các quyền bình đẳng về mọi dịch vụ như các thành viên
bình thường khác của cộng đồng; loại bỏ càng nhiều càng tốt các hiện tượng,
hành vi phân biệt đối xử đối với người khuyết tật và trẻ em khuyết tật ở nhiều
lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống; khuyến khích sự công nhận và chấp nhận
của cộng đồng đối với các nguyên tắc “người tàn tật phải được hưởng các cơ hội
bình đẳng, được tham gia đầy đủ nhằm giúp họ được sống với đầy đủ quyền
công dân ”.
Về chính sách y tế: Phòng ngừa và phát hiện sớm tình trạng tàn tật thông
qua việc thực hiện một số hoạt động sau: Khảo sát, điều tra và nghiên cứu về
nguyên nhân gây khuyết tật; phát triển các phương pháp phòng ngừa, hạn chế
tình trạng khuyết tật; đảm bảo tất cả các nhân viên y tế và nhân viên hỗ trợ y tế
tại các trung tâm y tế cơ sở được đào tạo đầy đủ và được trang bị các phương
tiện chăm sóc y tế cho trẻ em khuyết tật, đảm bảo các nhân viên y tế được tiếp
cận với công nghệ và các phương pháp chăm sóc thích hợp; áp dụng các phương
33
pháp chăm sóc bà mẹ và trẻ em trước, trong và sau khi sinh; nâng cao nhận thức
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, đài, và các phương
tiện truyền thông khác về nguyên nhân dẫn đến tàn tật và các biện pháp phòng
ngừa nên được áp dụng.
Về chính sách y tế: Mọi trẻ em khuyết tật dù ở cấp độ nào cũng đều được
hưởng chương trình giáo dục miễn phí trong một môi trường phù hợp cho đến
khi đủ 18 tuổi; giáo dục cho TEKT được lồng ghép như là một phần của lập kế
hoạch giáo dục quốc gia, xây dựng giáo trình, tổ chức trường học, cho phép
chương trình giảng dạy được linh hoạt, bổ sung và phù hợp; cung cấp các
phương tiện giảng dạy có chất lượng và có thể tiếp cận được, tiếp tục đào tạo
giáo viên và hỗ trợ cho các giáo viên. Chương trình giáo dục đặc biệt có thể
được cân nhắc trong trường hợp khi hệ thống trường học nói chung không đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của tất cả các học sinh khuyết tật hoặc trong trường hợp
giáo dục đặc biệt chỉ phù hợp với một số học sinh khuyết tật, chất lượng giáo
dục đặc biệt cần phản ánh được các tiêu chuẩn và các mong muốn giống như
giáo dục bình thường. Đối với TEKT khiếm thị, ở cấp học mầm non và tiểu học,
giáo trình sửa đổi nên bao gồm các kỹ năng sống hàng ngày, các hướng dẫn đặc
biệt trong đọc và viết chữ nổi, xác định phương hướng và sự di chuyển, các kiến
thức cơ bản về máy tính với phần mềm đọc màn hình, toán học, âm nhạc và các
trò chơi nhưng không bị hạn chế đối với việc phát triển các giác quan. Đối với
trẻ em khiếm thính, giáo trình sửa đổi nên nhấn mạnh vào phát triển kỹ năng
ngôn ngữ và giao tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Giáo trình
nên bao gồm các hướng dẫn đặc biệt về lời nói, đọc bài nói, luyện khả năng
nghe và sử dụng nhịp nhàng tất cả các kỹ năng giao tiếp, các giác quan và các
phương pháp khác. TEKT cần được hỗ trợ bởi những người như phiên dịch
ngôn ngữ ký hiêu, nhà thính học, bác sỹ chuyên khoa tai, bác sĩ chuyên khoa
chữa trị các tật về nói, các giáo viên luyện kỹ năng nghe và những người khác
mà trẻ em khiếm thính cần do nhu cầu giao tiếp đặc biệt của trẻ em điếc và trẻ
em vừa mù vừa điếc, nên những người này cần phải học ở những trường phù
34
hợp hơn đối với trẻ em hoặc ở những lớp học và đơn vị đặc biệt trong các trường
học hòa nhập trong hệ thống giáo dục. Đối với những người khuyết tật vận
động, nên được giáo dục học tập như những người bình thường khác tại các
trường bình thường và họ nên được sắp xếp, bố trí học trong các lớp học ở tầng
1 nếu có thể. Chương trình và các quan tâm khác nên được xây dựng phù hợp
với các điều kiện và nhu cầu học tập của họ. Cần nỗ lực loại bỏ các rào cản về
mặt thiết kế và kiến trúc đối với TEKT trong các trường học. Đối với trẻ em
thiểu năng trí tuệ, giáo trình sửa đổi nên nhấn mạnh vào các kỹ năng tự chăm
sóc bản thân, hòa nhập xã hội, hướng nghiệp và các kỹ năng sinh hoạt hàng ngày
khác. Đối với những trẻ em thiểu năng trí tuệ nặng, nên tập trung vào phát triển
các kỹ năng tự chăm sóc bản thân. Đối với những người có vấn đề hành vi như
trẻ em bị bệnh tâm thần, trẻ em không có khả năng học tập, và những trẻ em bị
đa tật, giáo trình sửa đổi nên bao gồm các hoạt động đặc biệt và các kỹ thuật
hướng dẫn làm bình thường hóa các hành vi cư xử, các kỹ năng học thuật về kỹ
thuật và chức năng nhằm đưa những trẻ em này trở lại hòa nhập xã hội. Ngoài
ra, các cơ quan chức năng có liên quan khởi xướng hoặc phải khởi xướng các
nghiên cứu về thiết kế và phát triển các phương pháp, dụng cụ hỗ trợ mới, đồ
dùng giảng dạy, các tài liệu giảng dạy đặc biệt hoặc các hạng mục khác cần thiết
để trẻ khuyết tật được hưởng các cơ hội giáo dục ngang bằng với các trẻ bình
thường khác. Các cơ quan chức năng có liên quan sẽ thành lập một số các
trường sư phạm phù hợp và hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ phát triển các
chương trình đào tạo giáo viên chuyên biệt cho người tàn tật nhằm đáp ứng đủ
giáo viên cho các trường chuyên biệt cho TEKT và các trường có trẻ em khuyết
tật theo học. Để loại bỏ các thành kiến trong các quy định sẽ ban hành, các cơ
quan chức năng có liên quan sẽ chuẩn bị một chương trình giáo dục toàn diện
trong đó bao gồm các quy định sau: Triển khai kế hoạch giáo dục cụ thể cho trẻ
em khuyết tật ở các trường học; cung cấp các phương tiện cho TEKT hoặc thay
thế bằng các hỗ trợ tài chính cho cha mẹ hoặc người bảo hộ đẻ TEKT được đến
trường; cung cấp miễn phí sách và các trang thiết bị đặc biệt cần cho việc học
35
hành của TETT; cấp học bổng cho các học sinh tàn tật; lắng nghe và giải quyết
các phản ánh của các bậc phụ huynh về vấn đề sắp xếp chỗ học tập cho trẻ em
khuyết tật.
Chính sách về Phục hồi chức năng: Các cơ quan chức năng có liên quan
phát triển hoặc hỗ trợ phát triển các chương trình phục hồi chức năng cấp quốc
gia cho tất cả các nhóm người tàn tật. Các chương trình này nên căn cứ vào các
nhu cầu cá nhân thực sự của TEKT và dựa trên nguyên tắc về sự tham gia đầy
đủ và bình đẳng. Các chương trình phục hồi chức năng bao gồm tư vấn cho
những gia đình có TEKT, tạo dựng sự tự tin và các dịch vụ thường xuyên như
đánh giá và hướng dẫn nhưng cũng không nên bị giới hạn trong phạm vi đào tạo
các kỹ năng cơ bản để cải thiện và bù đắp một chức năng bị ảnh hưởng. Tất cả
TEKT, bao gồm cả những TEKT nặng/ đa tật và những người có nhu cầu về
phục hồi chức năng sẽ được tiếp cận với các dịch vụ phục hồi chức năng.
Về tiếp cận: Các cơ quan chức năng phải xây dựng các chính sách và
chương trình nhằm tạo môi trường xây dựng tiếp cận và cung cấp các nguồn tiếp
cận thông tin liên lạc cho những người tàn tật; cho phép những người tàn tật tiếp
cận với các công sở và nhà riêng thông qua việc thực hiện có hiệu quả quy chế
xây dựng thống nhấp; giúp TEKT được tiếp cận hơn nữa tới các phương tiện
giao thông công cộng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan phát triển
các chương trình nhằm cung cấp các dịch vụ thông tin và tài liệu cho TEKT như
chữ nổi, in chữ to và các công nghệ phù hợp khác. Để thuận tiện cho việc giao
tiếp giữa trẻ em điệc với những trẻ em khác, các dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký
hiệu nên được thiết lập tại những nơi quan trọng như tại các cơ quan giáo dục,
trung tâm y tế, trong khi đó các dịch vụ thông tin viễn thông hiện đại nên được
thiết lập và thuận tiện cho việc sử dụng, ví dụ truyền hình ảnh qua mạng
internet, hội thảo sử dụng hình ảnh và các dịch vụ tiếp âm viễn thông.
Về phòng ngừa và phát hiện sớm tình trạng khuyết tật như: Thực hiện hoặc
buộc phải thực hiện các khảo sát điều tra và nghiên cứu về nguyên nhân khuyết
tật; phát triển các phương pháp phòng ngừa, hạn chế tình trạng khuyết tật; đảm
36
bảo tất cả các nhân viên y tế và nhân viên hỗ trợ y tế tại các trung tâm y tế cơ sở
được đào tạo đầy đủ và được trang bị các phương tiện chăm sóc y tế cho người
khuyết tật; áp dụng các phương pháp chăm sóc bà mẹ và trẻ em trước, trong và
sau khi sinh; nâng cao nhận thức thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng.
Về giáo dục: trẻ em khuyết tật đi học được miễn phí cho đến khi đủ 18 tuổi;
cho phép chương trình giảng dạy được linh hoạt, bổ sung và phù hợp; giáo dục
đặc biệt là bước chuẩn bị cho học sinh được giáo dục hòa nhập.
1.5.3. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật ở nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Chính sách này được xây dựng với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích của TEKT,
đồng thời bảo đảm sự tham gia một cách đầy đủ và bình đẳng của TEKT vào đời
sống xã hội, chia sẻ vật chất và sự thịnh vượng về mặt văn hóa trong xã hội.
Trẻ em khuyết tật là người phải chịu sự không bình thường do mất một bộ
phận hay chức năng về mặt tâm lý hay thể chất, hoặc trong cấu trúc cơ thể, mất
toàn bộ hoặc một phần khả năng để thực hiện một hoạt động theo cách được coi
là bình thường.
Thuật ngữ “TEKT” chỉ những trẻ em bị khiếm thính về thị giác, thính giác,
khả năng nói, chậm phát triển trí tuệ, rối loạn trí tuệ, đa dạng vật, và/ các dạng
tật khác.
Về chính sách phục hồi chức năng: Nhà nước phải đảm bảo rằng TEKT
chấp nhận và đồng ý với quyền lợi của họ về vấn đề phục hồi chức năng, thông
qua các cơ quan ban ngành liên quan và UBND các cấp tổ chức mạng lưới dịch
vụ cộng đồng và có các chương trình đào tạo các cán bộ chuyên môn về phục
hồi chức năng.
Về chính sách giáo dục: Nhà nước phải bảo đảm rằng quyền của TEKT với
giáo dục và đưa ra các chính sách và xây dựng các chương trình cụ thể để trợ
giúp trẻ em khuyết tật như: miễn phí sách vở, cung cấp tiền ăn ở. Xây dựng hệ
37
thống giáo dục chuyên biệt ở các để giáo dục.
Về chính sách văn hóa: Bảo vệ quyền bình đẳng của TEKT trong lĩnh vực
đời sống văn hóa bằng các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí cho TEKT cần
được định hướng tới cấp cơ sở và thực hiện các biện pháp làm giàu đời sống văn
hóa, tinh thần cho TEKT như phản ánh đời sống của TEKT qua đài, phim, ti vi,
báo chí, sách, v.v., thu thập, viết và xuất bản sách in chữ nổi, tài liệu đọc cho
người điếc v.v.
Chính sách phúc lợi xã hội: Bảo vệ quyền của TEKT được hưởng đầy đủ
các chế độ phúc lợi xã hội. Để thực hiện được vấn đề này nhà nước và xã hội áp
dụng các biện pháp hỗ trợ và các phúc lợi khác để đảm bảo và cải thiện đời sống
của TEKT.
Về môi trường tiếp cận: tìm các giải pháp để tăng tính tiếp cận cho các
phương tiện cũng như xóa bỏ các rào cản về mặt thông tin liên lạc để cung cấp
môi trường cho trẻ em khuyết tật tham gia vào đời sống xã hội, bình đẳng với
mọi người trong xã hội. Thực hiện vấn đề này trong Luật đã quy định cụ thể khi
xây mới hoặc nâng cấp các công trình công cộng và các phương tiện giao thông
công cộng TEKT phải tiếp cận được.
Nhà nước cần cung cấp trợ giúp đặc biệt đối với người khuyết tật bằng
cách áp dụng/thông qua các phương pháp và biện pháp hỗ trợ để xóa bỏ hoặc
giảm thiểu ảnh hưởng của khuyết tật và những rào cản bên ngoài đồng thời đảm
bảo quyền của TEKT được bảo vệ.
Chính quyền các cấp cần hợp tác để đảm bảo người khuyết tật được lồng
ghép vào các chương trình/ kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội thông qua việc
phân bổ ngân sách, lập kế hoạch tổng thể, điều phối và các biện pháp khác để
nâng cao khả năng lãnh đạo, nhằm đảm bảo rằng các chương trình TEKT được
xây dựng có sự điều phối và kết hợp với tiến trình kinh tế, xã hội. Chính quyền
sẽ đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá để đảm bảo người khuyết tật, phù hợp với
luật pháp, tham gia vào việc quản lý nhà nước, kinh tế, văn hòa và xã hội.
Chính phủ sẽ đưa ra các chương trình quốc gia vì sự phát triển của TEKT
38
và chính quyền địa phương ở các cấp tỉnh thành sẽ tiếp nhận, thực hiện các
chương trình, kế hoạch định kỳ này theo trách nhiệm, quyền hạn tương ứng để
đảm bảo TEKT được phát triển cùng với tiến trình kinh tế, xã hội.
Ủy ban quốc gia và chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
sẽ phê duyệt những biện pháp có tính thể chế nhằm điều phối các cơ quan làm
việc về vấn đề khuyết tật. Các cơ quan liên quan trực thuộc ủy ban nhân dân các
cấp sẽ giữ liên lạc thường xuyên với người khuyết tật, lấy ý kiến của họ và hoàn
thành công việc của mình trong lĩnh vực TEKT.
Về chính sách giáo dục: Ủy ban nhân dân các cấp cần xây dựng chương
trình giáo dục cho TEKT và lồng ghép chương trình giáo dục cho TEKT trong
quá trình lập kế hoạch giáo dục tổng thể và kế hoạch hướng nghiệp cho TEKT
và tạo điều kiện cho những thanh thiếu niên có việc làm; cấp phát miễn phí sách
vở cho học sinh là TEKT cũng như học sinh có cha mẹ là người khuyết tật, hỗ
trợ tiền ăn ở, những nhu cầu khác khi TEKT tham gia vào quá trình phổ cập giáo
dục cũng như các chương trình giáo dục khác.
Tiếp cận các công trình công cộng: quy định các công trình xây dựng tiếp
cận và các công trình được nâng cấp phải phục vụ cho nhu cầu thực sự của
TEKT. Các công trình mới, công trình được nâng cấp hoạc mở rộng cũng như
đường xá và phương tiện giao thông phải phù hợp với quy định về chuẩn thiết
kế tiếp cận cho người khuyết tật.
Tiếp cận giao thông: các phương tiện giao thông công cộng phải đảm bảo
tiêu chuẩn tiếp cận. Các khu đỗ xe công cộng TEKT phải tiếp cận được.
1.5.4. Giá trị tham khảo cho Việt Nam
Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật Việt Nam được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhà nước đã ban hành và thông qua hàng loạt
chính sách về trẻ em khuyết tật, đó là các đạo luật hỗ trợ người khuyết tật trong
đó có trẻ em khuyết tật như pháp lệnh người khuyết tật được ban hành ngày 30
tháng 7 năm 1998, luật giáo dục, luật phổ cập giáo dục tiểu học, luật bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em, luật phổ cập giáo dục tiểu học, luật bảo vệ, chăm
39
sóc và giáo dục trẻ em…. Đặc biệt Luật về người khuyết tật được ban hành năm
2010, có hiệu lực vào tháng 01 năm 2011, Đề án giúp người khuyết tật giai đoạn
2012 đến 2020, trong đó có nhiều mục liên quan tới trẻ em khuyết tật. Theo
thống kê của Bộ Lao động và Thương binh Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng
1,2 triệu trẻ em khuyết tật được chăm sóc tại các Trung tâm bảo trợ xã hội, các
Làng trẻ và tại các gia đình. Với nỗ lực của các cấp chính quyền trong việc thực
hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Cuộc sống của trẻ khuyết tật đã thay
đổi, nhiều em tái hòa nhập cộng đồng, nuôi sống được bản thân và trở thành
công dân có ích trong xã hội. Tuy nhiên, nhiều em vấn còn bị lãng quên và đang
gặp rất nhiều khó khăn đối với bản thân các em và gia đình. Để chính sách đối
với trẻ em được thực hiện đồng bộ, đúng thời gian, có hiệu quả và hiệu lực.
Chúng ta có thể tham khảo một số chính sách của một số quốc gia đề cập trên.
Một là, đưa ra nhiều biện pháp ngăn ngừa khuyết tật thông qua tuyền
truyền những kiến thức cần thiết, đẩy mạnh các dịch vụ chăm sóc y tế cho bà mẹ
và trẻ em, phòng tránh và can thiệp sớm có thể gây ra khuyết tật.
Hai là, đẩy mạnh chính sách giáo dục hòa nhập để giúp trẻ khuyết tật tự tin
trong giao tiếp, hòa nhập với xã hội.
Ba là, xây dựng thêm công trình công cộng cho trẻ em khuyết tật tại các nơi
công cộng.
Bốn là, đâỷ mạnh chính sách phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật về
địa phương và gia đình.
Năm là, xây dựng một quỹ dành riêng cho trẻ em khuyết tật. Với nguồn
quỹ này các cấp, chính quyền địa phương sẽ chủ động trong việc thực hiện chính
sách. Ví dụ, như tại Nhật Bản, sau khi các em khuyết tật được đào tạo nghề
nghiệp, bước khởi nghiệp ban đầu của các em để tự lập cuộc sống thì các em
được hỗ kinh phí ban đầu từ nguồn quỹ của quốc gia và đã giúp các em giảm bớt
40
các khó khăn trong cuộc sống lập nghiệp giai đoạn đầu.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 trình bày tổng quan về trẻ em khuyết tật. Thông qua việc tìm
hiểu các khái niệm có liên quan trong phạm vi quốc tế như khái niệm về trẻ em
trong Công ước về quyền trẻ em 1998 và theo Công ước người khuyết tật, khái
niệm về người khuyết tật, trẻ em khuyết tật tại một số quốc gia khác nhau, tác
giả đã đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm trẻ em khuyết tật và chính
sách đối với trẻ em khuyết tật như chính sách giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, văn
hóa, thể dục, thể thao cho trẻ em khuyết tật… Bên cạnh đó tác giả đã khái quát
về quy trình tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, nhấn mạnh
vai trò của thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, đó là thực hiện định
hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật; huy động
các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách đối với trẻ em khuyết tật;
thực hiện an sinh xã hội đối với trẻ em khuyết tật, nội dung của từng chính sách
đối với trẻ em khuyết tật, các yếu tố tác động đến tổ chức thực thi chính sách
cũng như kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
Nhật Bản, Malaysia và ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và đã rút ra những giá
trị tham khảo cho Việt Nam như các biện pháp ngăn ngừa khuyết tật, đẩy mạnh
chính sách giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật, đẩy mạnh chính sách phục
hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật tại cộng động và gia đình trẻ em khuyết tật,
xây dựng các quỹ dành riêng cho trẻ khuyết tật. Các kết quả nghiên cứu ở
chương 1, học viên sử dụng làm cơ sở nghiên cứu thực trạng thực hiện chính
sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Việc nhận thức chung nhất về trẻ em
khuyết tật là cơ sở quan trọng để nghiên cứu hệ thống pháp luật, chính sách và
đánh giá thực trạng về thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam và những ảnh hưởng do tình trạng khuyết tật đem lại có tác dụng tích cực
trong việc xây dựng các chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ trẻ em khuyết tật tốt
41
nhất.
Chương 2
THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật và chính sách đối với trẻ em khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Số lượng, cơ cấu, độ tuổi và dạng khuyết tật
Tỷ lệ các dạng tật ở trẻ em là:
Số TT Tỷ lệ (%) Các dạng tật (độ tuổi tính từ 0 đến 17 tuổi)
1. 2. 3. 4. 5. 6. Khuyết tật vận động Khuyết tật ngôn ngữ Khuyết tật về vấn đề hành vi Khiếm thị Khiếm thính Thiểu năng trí tuệ 22,4 21,4 16.2 14,6 9,7 3,6
(Theo Nghiên cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hợp tác với
UNICEF vào năm 1998 - 1999)
Đa số trẻ khuyết em khuyết tật đều chị đa khuyết tật. Khoảng 50% trẻ em
khuyết tật sống trong cộng đồng và khoảng 90% trẻ em sống trong những trung
tâm bảo trợ và bị khuyết tật nặng. Có 6,5% trẻ em khuyết tật trong trung tâm bảo
trợ bị chính gia đình mình bỏ rơi, 2,6 % là trẻ em mồ côi và khoảng 9,1% không
có chút liên lạc nào với gia đình. Đa số trẻ khuyết tật sống với gia đình (95,85%)
và có người chăm sóc. Một nửa số hộ gia đình có trẻ khuyết tật gặp khó khăn
lớn về tài chính, nên không thể cung cấp những điều kiện đầy đủ cho trẻ được
phục hồi chức năng và học hành.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tiến hành cuộc Tổng điều tra dân số
và Nhà ở năm 2009, đây là cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên thu thập các
42
thông tin về tình trạng khuyết tật của người dân và trẻ em khuyết tật. Kết quả đã
cho thấy, tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 trở lên chiếm 7,8 % dân số tương
đương với 6,7 triệu người với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật, chiếm khoảng
19,7% số người khuyết tật trên phạm vi cả nước. Trong đó, số trẻ em khuyết tật
nặng chiếm tỷ lệ cao nhất với 31%; ngoài ra có 27% trẻ khuyết tật trí tuệ; 20%
trẻ khuyết tật vận động; 19% trẻ khuyết tật ngôn ngữ; 12,43% trẻ khiếm thính;
12% trẻ khiếm thị; 12,6% đa tật; và 7% khuyết tật khác [26].
Nguyên nhân dẫn đến khuyết tật
Nguyên nhân dẫn tới khuyết tật: Kết quả khảo sát năm 2008 của Ủy ban về
các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy: Do bẩm sinh; bệnh tật, suy dinh
dưỡng, các yếu tố di truyền, các bệnh truyền nhiễm, ô nhiễm môi trường, tai nạn
giao thông, lao động và sinh hoạt, hậu quả của chiến tranh (trẻ em khuyết tật do
di chứng chất độc da cam từ ông bà những người trực tiếp bị nhiễm chất độc da
cam trong chiến tranh chống Mỹ, trẻ em khuyết tật do bòm mìn còn sót lại của
chiến tranh), biến đổi khí hậu và các nguyên nhân khác. Các nguyên nhân này
phản ánh tố chất con người, cũng như sự chăm sóc ban đầu cho trẻ và chất lượng
dịnh vụ y tế còn khá hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật dẫn đến tỷ lệ khuyết
tật bẩm sinh cao. Nguyên nhân từ hậu quả chiến tranh cũng khá cao, không chỉ
thế hệ hiện nay mà cả thế hệ mai sau, đặc biệt là nạn nhân của chất độc da cam/
đi ô xin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.
Trong những năm tới do tai nạn giao thông, tai nạn lao động tăng; ô nhiễm
môi trường càng nghiêm trọng sẽ là các nguyên nhân làm tăng số lượng và tỷ lệ
người khuyết tật. Nguyên nhân do bẩm sinh, bệnh tật và chiến tranh trước đây
chiếm ưu thế sẽ giảm, nguyên nhân do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ảnh
hưởng ô nhiễm môi trường có xu hướng tăng do sự phát triển mạnh mẽ của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
2.1.2. Thực trạng nội dung chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
2.1.2.1. Chính sách giáo dục
Khoản 3, Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “ Nhà nước ưu tiên
43
phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng
có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân
tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học
nghề”. Nhà nước và xã hội luôn tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học
văn hóa và học nghề phù hợp bằng việc quy định chính sách học phí, học bổng
phù hợp cho TEKT. Trên cơ sở đó Luật người khuyết tật đưa ra những quyền cơ
bản về giáo dục đối với TEKT, cụ thể là:
- Nhà nước tạo điều kiện để trẻ em khuyết tật được học tập phù hợp với
nhu cầu và khả năng của trẻ em khuyết tật.
- Trẻ em khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy
định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn,
giảm một số môn học mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn,
giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng,
hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập.
- Trẻ em khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành
riêng trong trường hợp cần thiết; trẻ em khuyết tật nghe, nói được học bằng
ngôn ngữ ký hiệu; trẻ em khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo
chuẩn quốc gia.
* Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật
- Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo
dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.
- Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với trẻ em khuyết
tật.
Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện trong
trường hợp chưa đủ điều kiện để trẻ em khuyết tật học tập theo phương thức
giáo dục hòa nhập.
- TEKT, cha, mẹ hoặc người giám hộ TEKT lựa chọn phương thức giáo
dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân TEKT. Gia đình có trách nhiệm tạo
điều kiện và cơ hội thuận lợi để TEKT được học tập và phát triển theo khả năng
44
của cá nhân.
Nhà nước khuyến khích TEKT tham gia học tập theo phương thức giáo dục
hòa nhập.
2.1.2.2. Chính sách bảo trợ xã hội
* Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
- Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định
- Trẻ em khuyết tật nặng
* Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
- Gia đình có TEKT đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ
em đó.
- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc TEKT đặc biệt nặng.
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ quy định.
* Nuôi dưỡng trẻ khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội
- Trẻ khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc
sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội.
- Nhà nước cấp kinh phí nuôi dưỡng trẻ khuyết tật quy định tại khoản 1
Điều này cho các cơ sở bảo trợ xã hội.
* Chính phủ quy định điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở chăm
sóc trẻ em khuyết tật.
* Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động cho cơ sở
chăm sóc trẻ em khuyết tật công lập.
* Xã hội hóa hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật
- Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài
chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm
sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp TEKT
khuyết tật.
- Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng,
chăm sóc, giáo dục, hướng nghiệp hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ giúp
45
TEKT được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định.
- Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ, trang
thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá
nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ hoạt động văn
hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với trẻ em khuyết tật.
2.1.2.3. Chính sách chăm sóc y tế
* Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú
Trạm y tế cấp xã có trách nhiệm sau đây:
- Triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ
thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; hướng dẫn trẻ
em khuyết tật và gia đình có trẻ em khuyết tật phương pháp phòng bệnh, tự
chăm sóc chăm sức khỏe và phục hồi chức năng;
- Lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe trẻ em khuyết tật;
- Khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho trẻ em
khuyết tật.
Kinh phí để thực hiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này do
ngân sách nhà nước bảo đảm.
* Khám bệnh, chữa bệnh
- Nhà nước bảo đảm để trẻ em khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và
sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp.
- Trẻ em khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm y tế.
- Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để trẻ
em khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh.
- Trẻ em khuyết tật là người mắc bệnh tâm thần ở trạng thái kích động,
trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác được
hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều trị bắt
buộc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện khám bệnh, chữa bệnh
46
cho người khuyết tật.
2.1.2.4. Chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch đối với trẻ em
khuyết tật.
- Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
phù hợp với đặc điểm của trẻ em khuyết tật; tạo điều kiện để trẻ em khuyết tật
được hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
- Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, trẻ em khuyết tật nặng được
giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục, thể
thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật phát triển tài năng,
năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao; tham gia sáng tác, biểu diễn nghệ
thuật, tập luyện, thi đấu thể thao.
Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ, trang thiết
bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân
thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể
dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với trẻ em khuyết tật.
2.1.2.5. Chính sách ưu tiên cho trẻ em khuyết tật khi tham gia thông bằng
phương tiện giao thông công cộng
* Ưu tiên khi mua vé, sắp xếp chỗ ngồi:
- Trẻ em khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông
công cộng được ưu tiên mua vé tại cửa bán vé; được sử dụng chỗ ngồi dành cho
các đối tượng ưu tiên.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách công cộng có trách
nhiệm trợ giúp, hướng dẫn, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện cho trẻ em khuyết tật; hỗ
trợ trẻ em khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng khi lên, xuống
phương tiện và sắp xếp hành lý khi cần thiết.
* Thực hiện miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ cho trẻ em khuyết tật khi tham
47
gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng:
- Trẻ em tật nặng, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng khi tham gia giao thông
bằng phương tiện giao thông công cộng được miễn, giảm giá vé theo quy định
tại Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- Mức giảm giá vé, giá dịch vụ cho trẻ em khuyết tật do tổ chức, cá nhân
quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công cộng
tự xây dựng và công bố thực hiện nhưng không thấp hơn mức giảm giá vé quy
định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- Trẻ em khuyết tật sử dụng xe lăn thông dụng không gắn động cơ hoặc sử
dụng các dụng cụ cầm tay để phục vụ việc đi lại của bản thân thì được miễn
cước hành lý đối với xe lăn, dụng cụ đó khi tham gia giao thông bằng phương
tiện giao thông công cộng.
- Trẻ em khuyết tật đồng thời thuộc đối tượng được giảm giá vé, giá dịch
vụ theo các chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một mức giảm giá vé cao nhất.
- Tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng phương
tiện giao thông công cộng có trách nhiệm bố trí thiết bị, công cụ và nhân viên để
trợ giúp trẻ em khuyết tật lên, xuống phương tiện được thuận tiện. Phương án
trợ giúp này phải được thông báo ở những nơi dễ nhận biết tại các bến, nhà ga
để trẻ em khuyết tật tiếp cận, sử dụng.
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh điểm dừng, đỗ, bến,
nhà ga; kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công cộng
tổ chức bộ phận, cổng thông tin để tiếp nhận phản ảnh, hướng dẫn, trả lời và trợ
giúp trẻ em khuyết tật tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công
cộng.
2.1.2.6. Chính sách công nghệ thông tin và truyền thông
- Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông
tin dành cho trẻ em khuyết tật.
- Cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất và
48
tinh thần của người khuyết tật.
- Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực hiện chương trình phát
sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi
và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ,
phương tiện hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành
cho trẻ em khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho trẻ em khuyết tật nghe, nói và
trẻ em khuyết tật trí tuệ.
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật ở Việt Nam
2.2.1. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam
2.2.1.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật
Sau khi Luật người khuyết tật ban hành và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 11
năm 2011, các cấp, các ngành Trung ương và địa phương đã xây dựng nội dung,
chương trình, kế hoạch hoạt động liên quan đến chính sách đối trẻ em khuyết tật.
Dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính
sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức; những dự kiến về cơ chế
trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức thực thi; xây dựng kế hoạch thời
gian, nguồn lực, vật lực, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc cũng như dự kiến những nội
quy, quy chế trong thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Nhiều văn bản
pháp luật về trẻ khuyết tật đã được ban hành như nhóm văn bản về giáo dục cho
trẻ em khuyết tật, nhóm văn bản về y tế cho trẻ em khuyết tật, nhóm văn bản về
bảo trợ xã hội cho trẻ em khuyết tật, nhóm văn bản quy định hoạt động thể dục,
thể thao và văn hóa cho em khuyết tật, nhóm văn bản về quy chuẩn, tiêu chuẩn
xây dựng cho trẻ em khuyết tật được tiếp cận các phương tiện giao thông, công
49
trình công cộng.
2.2.1.2. Tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
- Phân công tổ chức thực hiện chính sách
Liên quan đến việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách có rất nhiều cơ
quan tham gia trong mối quan hệ phức tạp, đan xen lẫn nhau. Đối với các chính
sách chung như chính sách chăm sóc y tế, chính sách giáo dục, chính sách bảo
trợ xã hội, chính sách văn hóa thể dục, thể thao, giải trí và du lịch, chính sách ưu
tiên cho trẻ em khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông
công cộng được giao cho các bộ chuyên ngành theo lĩnh vực như đã đề cập ở
trên. Các chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện trên phạm vi toàn quốc
như đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2006 – 2010, đề án về trợ giúp
người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020. Theo nội dung được giao cho một số bộ
đảm nhận như bộ y tế về các nội dung kiểm soát chăm sóc y tế, phục hồi chức
năng, bộ Giáo dục về thực hiện các chính sách giáo dục cho trẻ em khuyết tật,
bộ Lao động Thương binh và Xã hội về các chính sách bảo trợ xã hội, bộ Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch về các hoạt động vui chơi, văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao đối với trẻ em khuyết tật, Bộ giao thông vận tải thực hiện các quy
chuẩn và xây dựng các công trình giao thông công cộng đối với trẻ em khuyết
tật.
- Tổ chức thực hiện chính sách ở cấp Trung ương
Sau khi chủ chương, chính sách được ban hành, cơ quan chủ trì theo trách
nhiệm được phân công sẽ ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa chính
sách ở cấp độ cần thiết. Hình thức phổ biến là Thông tư. Việc xây dựng văn bản
hướng dẫn cũng được thực hiện theo quy trình bao gồm từ các khâu dự thảo, lấy
ý kiến, thẩm định và ban hành theo thẩm quyền. Đây cũng là một quá trình phức
tạp và tiêu tốn khá nhiều thời gian, bởi mỗi văn bản này cũng đều phải thực hiện
theo đúng quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Tiếp theo đó là các bước tổ chức quán triệt, triển khai chính sách. Các bộ,
ngành trung ương có nhiều cố gắng trong việc hướng dẫn thực hiện nhằm tạo ra
50
sự hiểu biết đầy đủ trong hệ thống quản lý bảo đảm triển khai chính sách đi vào
cuộc sống. Những năm trở lại đây, Chính phủ quy định không tổ chức các hội
nghị quán triệt để tiết kiệm chi phí ngân sách mà qui định đưa các văn bản chính
sách lên hệ thống thông tin mạng và phổ biến qua phương tiện thông tin giúp
người dân tiếp cận chính sách được tốt hơn.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý còn ban hành các văn bản có tính chất
hướng dẫn, chỉ đạo địa phương về lập kế hoạch, chế độ báo cáo…Việc bảo đảm
kinh phí cũng là một nội dung ưu tiên quan trọng trong việc thực hiện chính
sách. Trên cơ sở đề nghị ngân sách của các địa phương và cơ quan thường trực
chính sách, kinh phí hàng năm sẽ được chính phủ xác định căn cứ vào khả năng
cân đối chung và giao cho các tỉnh thực hiện, cụ thể như sau:
Theo Quy định pháp luật thì Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ
quan tham mưu cho Chính phủ trong quản lý Nhà nước về vấn đề người khuyết
tật và trẻ em khuyết tật. Các bộ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý nhà nước quy định tại Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của mỗi Bộ; đồng thời phối hợp với Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về Người
khuyết tật, trẻ em khuyết tật. Các Bộ, ngành tham gia ý kiến với Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án nhằm hỗ trợ
giúp đỡ trẻ em khuyết tật. Cụ thể trong việc thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có thẩm quyền:
+ Chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở bảo trợ xã hội, các trung tâm, các Làng trẻ
chăm sóc trẻ em khuyết tật, các trường học có trẻ em khuyết tật học giáo dục
hòa nhập trực thuộc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật thông qua các
chương trình, kế hoạch và quản lý hệ thống văn bản theo quy định.
+ Thực hiện quản lý các cơ sở bảo trợ xã hội, các trung tâm, các Làng trẻ
chăm sóc trẻ khuyết tật … trực thuộc về tổ chức, biên chế, nhân sự, tài chính và
tài sản theo quy định của pháp luật; bảo đảm các điều kiện chăm sóc tốt nhất cho
51
trẻ em khuyết tật và các hoạt động khác.
+ Đã thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về
thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật có hành vi vi phạm.
+ Phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao
thông và các cơ quan có liên quan, tổng hợp các chương trình giáo dục, chăm
sóc y tế, phục hồi chức năng cũng như các công trình xây dựng hỗ trở trẻ em
khuyết tật.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng dự toán,
phân bổ, tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; xây dựng các chính sách, chế
độ, tiêu chuẩn, định mức về tài chính – ngân sách; bảo đảm tài chính và thực
hiện thanh tra, kiểm tra tài chính ngân sách đối với lĩnh vực thực hiện chính sách
đối với người khuyết tật và trẻ em khuyết tật theo quy định của Luật ngân sách
Nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Về tổ chức thực hiện chính sách ở địa phương:
Trên cơ sở nội dung văn bản chính sách được ban hành cơ quan thường
trực chính sách tham mưu Ủy ban nhân dân các tỉnh phân công cho các cơ quan
chủ trì, phối hợp và thông tin chính sách cho các ngành, các cấp có liên quan.
Đây là khâu đầu tiên trong triển khai chính sách ở địa phương.
Việc cụ thể hóa các văn bản hướng dẫn và phân công tổ chức và phối hợp
thực hiện chính sách ở cấp địa phương gồm: Nghiên cứu mục tiêu, nội dung, đối
tượng, mức độ hưởng lợi. Đề xuất nội dung phù hợp với địa phương theo yêu
cầu chính sách hoặc tình hình thực tế cũng như sự chỉ đạo của cấp có thẩm
quyền. Căn cứ nội dung chính sách và văn bản hướng dẫn, nhiều tỉnh ban hành
văn bản cụ thể hóa trong điều kiện địa phương, xây dựng kế hoạch thực hiện, cụ
thể hóa đối tượng, địa điểm thời gian, kinh phí, cơ quan thực hiện và phối hợp;
phê duyệt kinh phí thực hiện trên cơ sở ngân sách trung ương và việc cân đối tại
địa phương mình.
Tổ chức thực hiện chính sách theo kế hoạch, đề án được phê duyệt tại địa
52
phương, theo thẩm quyền trách nhiệm của cơ quan liên quan và kinh phí được
phân bổ, bao gồm cả tổ chức hội nghị phổ biến triển khai chính sách cho các cơ
quan có liên quan. Việc phổ biến ở cơ sở là một nội dung quan trọng do hầu hết
các chính sách liên quan trực tiếp đến quyền của các đối tượng thụ hưởng là
người nghèo, trẻ em khuyết tật và các đối tượng chính sách khác.
2.2.1.3. Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Trong quá trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, các bộ
ngành, các cấp chính quỳên Trung ương, địa phương, cán bộ, công chức có thẩm
quyền thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chính sách thông qua các công cụ
hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực hiện nêu cao ý thức trách nhiệm trong
thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách, không phải các địa phương
nào cũng đều làm tốt, thực hiện đúng tiến độ theo chương trình và kế hoạch. Vì
thế việc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật được tiến hành đồng bộ ở
các tỉnh, thành phố trong cả nước, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật
trong thực thi chính sách.
2.2.1.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật
Kiểm tra, theo dõi giám sát đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm đã được
các Bộ, ngành và các địa phương triển khai thực hiện chính sách đối với TEKT.
Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan trung ương và các địa phương thực hiện
công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện luật. Ngoài các văn bản luật, hàng năm
các Bộ, ngành còn ban hành hàng trăm công văn, quyết định cá biệt để xử lý và
hướng dẫn các địa phương, các tổ chức để xử lý những vấn đề bức xúc hoặc
tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành cơ quan cũng đã
thực hiện tương đối tốt, đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công
tác quản lý nhà nước về trẻ em khuyết tật.
Tổng hợp thống kê, kiểm tra, khảo sát đánh giá kết quả chỉ đạo việc thực
hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật để tìm ra những nguyên nhân và giải
pháp đã được quan tâm. Hàng năm Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đều có
53
văn bản chỉ đạo và hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng
hợp thống kê về tình hình thực hiện các chế độ chính sách đối với TEKT để từ
đó tạo cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với TEKT.
Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ
quan nhà nứơc, các bộ, ngành trung ương và địa phương còn xem xét, đánh giá
việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật bao gồm các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ
chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách là công dân. Thước
đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh thần hưởng ứng mới
mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ chế, biện pháp
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách
đối với trẻ em khuyết tật trong từng điều kiện về không gian và thời gian. Trong
những năm qua chính phủ, bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các địa phương
thực hiện đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật và các quy định liên quan tới chính sách. Các bộ, ngành trung
ương và địa phương hàng năm đã ban hành hàng trăm văn bản, quyết định cá
biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý những vấn đề bức xúc, hoặc tháo gỡ những khó
khăn. Công tác phối hợp trong thực hiện chính sách cũng đã được đẩy mạnh,
đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt chính sách đối với trẻ em
khuyết tật.
2.2.2. Kết quả thực hiện một số chính sách đối với trẻ em khuyết tật
2.2.2.1. Chính sách giáo dục
Nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về việc đảm bảo đầy đủ các
quyền cho trẻ khuyến tật, công tác giáo dục cho trẻ em khuyết tật đã đạt nhiều
thành tựu đáng kể:
- Ban Chỉ đạo Giáo dục trẻ em khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các Vụ, Cục và địa phương thực hiện các
chương trình, kế hoạch đã đề ra, các hoạt động giáo dục trẻ em khuyết tật của
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dần đi vào nề nếp và đạt được kết quả nhất định. Đặc
54
biệt, đã làm tốt công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ giáo
dục trẻ em khuyết tật tại các địa phương, giúp nắm bắt tình hình thực tế, kịp thời
chỉ đạo và hỗ trợ các địa phương tháo gỡ khó khăn vướng mắc, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục trẻ em khuyết tật.
- Ban hành Thông tư Liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH –
BTC ngày 31/12/2013 quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật;
xây dựng nội dung quy định về chức danh nghề nghiệp đối với nhân viên hỗ trợ
giáo dục trẻ em khuyết tật trong các cơ sở giáo dục; nghiên cứu để ban hành
Quy định về thống nhất sử dụng ngôn ngữ trong toàn quốc.
- Ban hành Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người
khuyết tật. Tại Điều 7 của Nghị định quy định phụ cấp, chính sách ưu đãi đối
với giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết
tật. Nghị định này đã được áp dụng và thực hiện ở nhiều cơ sở bảo trợ xã hội,
các Làng, trung tâm chăm sóc trẻ em khuyết tật. Quy định phụ cấp ưu đãi đối
với giáo viên, cán bộ quản lý không những tạo động lực cho giáo viên, cán bộ
quản lý mà còn nâng cao hiệu quả chăm sóc, giáo dục trẻ em khuyết tật.
Giáo dục cho trẻ em khuyết tật bao gồm các mô hình:
Giáo dục hòa nhập: Giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật được ngành
giáo dục quan tâm, nhất là ở bậc mầm non và tiểu học. Ở trung học cơ sở và
trung học phổ thông, mặc dù phần lớn các trường còn gặp nhiều khó khăn về
điều kiện giảng dạy và học tập cho học sinh khuyết tật nhưng ngành giáo dục
các địa phương đã nỗ lực tạo điều kiện, tăng số lượng học sinh khuyết tật tham
gia giáo dục hòa nhập và nâng cao chất lượng dạy học đối với trẻ em khuyết tật,
động viên các em hoàn thành chương trình học tập.
Theo báo cáo của các Sở Giáo dục và Đào tạo, được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, tính đến năm học 2007 – 2008, có 15.349 trẻ khuyết tật mầm non
được học hòa nhập, đạt tỷ lệ 62,8% tổng số trẻ khuyết tật mầm non; khoảng hơn
290.000 học sinh khuyết tật tiểu học, Trung học cơ sở hòa nhập tại các cơ sở
55
giáo dục phổ thông, chiếm 28% tổng số trẻ em khuyết tật. Không chỉ vậy, hệ
thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập được xây dựng đồng bộ;
mạng lưới bồi dưỡng đào tạo cán bộ, giáo viên cho giáo dục hoà nhập cũng
được hình thành và phát triển ở hầu khắp các trường đại học, cao đẳng và viện
nghiên cứu. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay cả nước có
khoảng 2500 trường phổ thông tiến hành giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật, 4
trường Đại học sư phạm đã mở mã ngành sư phạm giáo dục đặc biệt; 3 trường
cao đẳng sư phạm thành lập khoa giáo dục đặc biệt nhằm đào tạo giáo viên trình
độ cử nhân và cao đẳng sư phạm về tật học. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
tham gia giáo dục người khuyết tật ngày càng tăng với hơn 700 giáo viên được
đào tạo trình độ cao đẳng về giáo dục hòa nhập và hơn 10.000 giáo viên mầm
non và tiểu học đã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng dạy học và hòa nhập cho
các loại trẻ khuyết tật khác nhau. Ngoài ra, công tác xã hội hóa giáo dục hòa
nhập cũng được thúc đẩy và nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía chính quyền
địa phương, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức nhằm
thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam.
Giáo dục chuyên biệt: Hệ thống các trường giáo dục chuyên biệt được xây
dựng và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nếu năm 2001 có 90 trường
giáo dục chuyên biệt thì tính đến năm 2010, cả nước đã có 106 trường giáo dục
chuyên biệt với 7583 học sinh khuyết tật theo học. Hệ thống cơ sở vật chất,
trang thiết bị được cải tiến để chăm sóc, giáo dục và phục hồi chức năng cho trẻ
khuyết tật, đồng thời cũng xây dựng được chương trình giáo dục chuyên biệt
cho một số dạng khuyết tật như chậm phát triển trí tuệ, khiếm thính, khiếm thị.
Số lượng trẻ khuyết tật tham gia giáo dục chuyên biệt ngày càng tăng, nếu năm
học 2001 – 2002 có 7000 em thì đến năm học 2006 – 2007 có khoảng 9000 trẻ
em khuyết tật học trong các cơ sở giáo dục chuyên biệt.
Giáo dục bán hòa nhập: như: trường, lớp bán trú dân nuôi tại xã; trường
học dạy lớp ghép; trường có lớp cắm bản (trường chính và các điểm trường phân
56
hiệu); trường dân tộc nội trú; lớp học tình thương...được hình thành ở nhiều nơi
với nhiều hình thức phong phú nhằm phục vụ có hiệu quả cho công tác chăm
sóc, giáo dục và nhằm phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật.
Như vậy, việc tái hòa nhập mạnh mẽ của trẻ khuyết tật vào hệ thống giáo
dục phổ thông nêu trên chính là sự phản ánh bước tiến quan trọng trong chính
sách đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em khuyết tật hiện nay.
Mặc dù dành được nhiều thành tựu đáng kể, song hiện nay, giáo dục cho trẻ
khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng, vẫn
còn bộ phận lớn trẻ em khuyết tật chưa được đến trường, nhất là khu vực nông
thôn, miền núi và nhóm trẻ em khuyết tật trí tuệ.
Theo báo cáo năm 2007 của Viện Khoa học Giáo dục về công tác giáo dục
trẻ khuyết tật cho thấy: có đến 55,49% trẻ em gái và 39,01% trẻ em trai bị
khuyết tật chưa từng được đi học. Tỷ lệ huy động trẻ khuyết tật đến trường hàng
năm rất thấp và dấu hiệu gia tăng chậm, năm học 2005 – 2006 có 24,22%, năm
học 2006 – 2007 có khoảng gần 27,38% và năm học 2007 – 2008 chỉ có 28% trẻ
khuyết tật được đến trường và chủ yếu ở bậc mầm non và tiểu học; trong khi đó
lại có đến 32,00% trẻ khuyết tật đi học bỏ học.
Mạng lưới các cơ sở giáo dục cho người khuyết tật còn thiếu, phân bố
không đều; Chương trình, tài liệu đào tạo bồi dưỡng cho đối tượng trẻ khuyết tật
còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên thấp cả về số
lượng và chất lượng, không thể đáp ứng được yêu cầu triển khai giáo dục cho trẻ
khuyết tật với quy mô lớn và đồng đều trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra, ngân
sách Nhà nước dành cho giáo dục trẻ khuyết tật còn quá ít trong khi kinh phí để
đầu tư cho việc xây dựng, đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cũng như kinh phí
đào tạo đội ngũ giáo viên lại không nhỏ. Điều này khiến hoạt động giáo dục trẻ
khuyết tật không thực sự được đảm bảo trên thực tế.
2.2.2.2. Chính sách bảo trợ xã hội
Theo báo cáo của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội, đến năm 2008,
các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người
57
khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết tật trở lên, nuôi dưỡng tập
trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có trẻ em
khuyết tật. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh tăng từ 45.000
đồng/tháng vào năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng vào năm 2004 và 120.000
đồng/tháng vào năm 2007. Ngoài ra, những trẻ khuyết tật bị hậu quả chất độc
hóa học là con đẻ của 622.783 người khuyết tật là thương binh, người hưởng
chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân
nhân bị bệnh nghề nghiệp, 133.356 người tham gia kháng chiến cũng đang được
hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp lệnh Người có công
với cách mạng. Chính sách trợ cấp xã hội đã góp phần quan trọng trong việc ổn
định đời sống vật chất và tinh thần của trẻ khuyết tật.
Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở bảo trợ tăng nhanh. Tính đến tháng
12/2008, cả nước có khoảng 571 cơ sở bảo trợ xã hội (hơn 1/3 trong số đó là cơ
sở ngoài Nhà nước), và các cơ sở bảo trợ xã hội này hoạt động khá hiệu quả,
như:
Cơ sở nuôi dưỡng và Bảo trợ trẻ em khuyết tật Thiên Phước (Thành phố
Hồ Chí Minh): sau hơn 12 năm đi vào hoạt động, kêu gọi sự ưu ái và hỗ trợ của
các nhà hảo tâm trong và ngoài nước , cơ sở này đã đón nhận chăm sóc nuôi
dưỡng biết bao trẻ em khuyết tật và tổ chức các Chương trình sinh hoạt, tham
quan với nhiều tình nguyện viên để trẻ em khuyết tật được giao lưu với xã hội,
cộng đồng. Với ba cơ sở hoạt động được trang bị đầy đủ các phương tiện, khoa
học kĩ thuật, Thiên Phước đang ngày càng nỗ lực để giúp cho trẻ em khuyết tật
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng.
Hay trung tâm phục hồi chức năng trẻ tàn tật Thụy An, tại Ba Vì, Hà Nội
chuyên tiếp nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng, giáo
dục, hướng nghiệp cho trẻ khuyết tật là con liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, các
cháu bị tàn tật do di chứng chất độc da cam và con em các gia đình nghèo của
các tính phía Bắc Việt Nam. Thành lập từ năm 1976, trải qua gần 40 hoạt động,
Trung tâm đã đón nhận và phục hồi chức năng cho hàng nghìn trẻ em khuyết tật,
58
tổ chức nhiều sân vui chơi, giải trí nhằm khuyến khích trẻ em khuyết tật tham
gia. Gần đây nhất, với sự quan tâm và hướng dẫn của các thầy cô đến từ Trung
tâm, nhóm nhảy Nghị lực Energy khiếm thính của Trung tâm phục hồi chức
năng trẻ tàn tật Thụy An đã tham gia và lọt vào vòng bán kết Chương trình
Vietnam’ Got Tailent, gây tiếng vang lớn, giúp mọi người có bài học quý giá về
tinh thần lạc quan và nghị lực mạnh mẽ vươn lên trong cuộc sống.
Đó là những thành tựu trong việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật
trong thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đối với trẻ em khuyết tật. Nhờ có
chính sách này, đời sống của trẻ em khuyết tật được ổn định đáng kể, hơn nữa,
việc thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội với các hoạt động đầy ý nghĩa, đã góp
phần tích cực trong công tác hỗ trợ, bảo vệ và chăm sóc trẻ em khuyết tật trên
phạm vi cả nước.
Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ nhằm giúp cho trẻ em
khuyết tật bảo đảm cuộc sống của mình. Nhưng trên thực tế, vẫn còn nhiều hạn
chế khi trẻ em khuyết tật tiếp cận với quyền hưởng bảo trợ xã hội, cụ thể:
Về việc xác định đối tượng thuộc diện hưởng chính sách trợ cấp còn nhiều
bất cập. Theo đó, không phải mọi trẻ em khuyết tật đều được hưởng trợ cấp xã
hội hàng tháng, mà chỉ có trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng và trẻ khuyết tật nặng
mới là đối tượng thụ hưởng quyền này. Do đó dẫn đến tình trạng nhiều trẻ em
khuyết tật nhẹ dù gặp khó khăn cũng không được hưởng trợ cấp, trong khi bản
thân trẻ vẫn chưa có thu nhập ổn định để nuôi sống chính mình, chưa kể đến gia
đình, hoặc cơ sở nuôi hoặc nhận nuôi trẻ khuyết tật cũng gặp khó khăn nếu phải
nuôi một, hoặc hai trẻ khuyết tật nhẹ cùng một lúc. Điều này vô tình khiến nhiều
trẻ khuyết tật nhận thấy mình chưa được hưởng chính sách hỗ trợ quan tâm từ
phía Nhà nước, cho dù trẻ khuyết tật nhẹ.
Về mức độ trợ cấp hàng tháng: Dù đã được điều chỉnh tăng mức trợ cấp và
ưu tiên cho trẻ khuyết tật được hưởng mức cao hơn so với các đối tượng khác ở
cùng mức độ khuyết tật nhưng nhìn chung, mức trợ cấp xã hội còn thấp so với
mặt bằng mức sống dân cư, nên chưa thể đảm bảo được đời sống của trẻ. Cụ thể
59
như ở tỉnh Sơn La, trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách đối với
trẻ em khuyết tật còn nhiều bất cập, nhiều trẻ em khuyết tật chưa được hưởng
chế độ, chính sách, có trường hợp chậm hưởng hoặc được hưởng chưa đúng so
với quy định. Đặc biệt nhiều trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, là dân tộc thiểu số
chưa được tiếp cận đến chính sách hỗ trợ của nhà nước. Có nguyên nhân do
công tác thống kê, kiểm tra, xác định đối tượng, nhưng có những nơi cán bộ
chưa làm hết trách nhiệm…
Về cơ sở bảo trợ xã hội: Do số lượng trẻ khuyết tật ở nước ta tương đối lớn,
theo kết quả từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, Việt Nam vẫn còn 1,2
triệu trẻ em khuyết tật, nên cần khá nhiều cơ sở bảo trợ xã hội. Nhưng trên thực
tế, số cơ sở chăm sóc trẻ khuyết tật vẫn còn ít, không phải đều được thành lập ở
các địa phương, sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc thành lập cơ sở chăm
sóc trẻ khuyết tật còn rất hạn chế, vì vậy chưa thể đáp ứng được nhu cầu cần
được chăm sóc của nhóm đối tượng này.
2.2.2.3. Chính sách chăm sóc y tế
Trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vài năm trở lại đây
nhấn mạnh: Chăm sóc người khuyết tật cần tập trung vào trẻ em, vì phát hiện
sớm, phòng ngừa tốt sẽ có biện pháp xử lý kịp thời và điều trị phù hợp, hạn chế
các hậu quả do khuyết tật gây ra. Nhờ vậy, hoạt động này đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể.
Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đến nay, các địa
phương đã thực hiện khá tốt công tác phẫu thuật chỉnh hình, hỗ trợ phục hồi
chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật; cung cấp tương đối đầy đủ các
phương tiện trợ giúp như: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả; hoạt động ưu tiên, ưu đãi
trong khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật nhằm chuẩn đoán đúng và điều trị
chăm sóc kịp thời cũng đạt được hiệu quả khá cao. Bên cạnh đó, mạng lưới trạm
y tế xã đã phát triển ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước. Theo số liệu
thống kê có khoảng 98,6% xã, phường có trạm y tế xã; trong đó 67,7% xã,
phường có bác sỹ; và gần 85% thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng, đảm bảo đáp
60
ứng được nhu cầu khám chữa bệnh tối thiểu cho người dân và trẻ khuyết tật.
Đồng thời, năng lực chuyên môn chuyên ngành phục hồi chức năng cho đội ngũ
cán bộ y tế cũng được tăng cường, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác
chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật. Hoạt động phục hồi chức năng tại
cộng đồng cũng đạt được kết quả cao: Việt Nam đã điều tra, phát hiện, tạo điều
kiện quản lý sức khỏe cho hơn 170.000 người khuyết tật, tiến hành biện pháp
phục hồi chức năng cho 23,2% người có nhu cầu và 44,7% người khuyết tật,
trong số đó có trẻ em khuyết tật.
Bộ Y tế đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai các hoạt động thực hiện
Đề án 1019, chỉ đạo ngành y tế các địa phương tiếp tục triển khai các hoạt động
chăm sóc sức khỏe trẻ em khuyết tật, nhất là vấn đề phục hồi chức năng cho trẻ
em khuyết tật dựa vào cộng đồng.
Hỗ trợ y tế và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật tiếp tục tập trung
vào các hoạt động cấp thẻ bảo hiểm y tế, pháp hiện sớm, can thiệp sớm, phẫu
thuật chỉnh hình, các hoạt động phục hồi chức năng, hỗ trợ dụng cụ trợ giúp (xe
lăn, xe lắc, chân tay giả, máy trợ thính, nạng…).
Bộ Y tế đã ban hành Thông tư hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, dị
dạng, dị tật có liên quan đế phơi nhiễm chất độc hóa học; tổ chức các lớp tập
huấn về phát hiện sớm, can thiệp sớm cho cán bộ làm công tác phục hồi chức
năng cho tất cả các bệnh viện điều dưỡng – Phục hồi chức năng trên toàn quốc;
phẫu thuật chỉnh hình cho trẻ em và người khuyết tật tại các bệnh viện Điều
dưỡng – Phục hồi chức năng Trung ương, bệnh viên phong da liễu Quỳnh Lập,
bệnh viện phong da liễu Trung ương Quy Hòa.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với 7 tỉnh: Hưng Yên,
Hà Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Đắc Nông kiểm
tra việc triển khai dự án thí điểm các trạm y tế cấp xã hỗ trợ, phục hồi chức năng
cho nạn nhân bom mìn; tổ chức tập huấn nghiệp vụ đối với cán bộ, nhân viên,
cộng tác viên cấp xã về trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho nạn nhân bom
61
mìn.
Cụ thể, năm 2013, Bộ Y tế và các bộ ngành liên quan, các tổ chức xã hội đã
triển khai các hoạt động trợ giúp y tế cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
trong cộng đồng. Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam tổ chức phẫu
thuật chỉnh hình phục hồi chức năng cho 3.400 người khuyết tật và trẻ em
khuyết tật, mổ tim cho 629 trẻ em khuyết tật, khám bệnh, cấp thuốc miễn phí,
tặng sổ bảo hiểm y tế cho 287,000 người khuyết tật và trẻ em khuyết tật, 8700,
xe lăn, xe lắc, xe bại não và dụng cụ trợ giúp khác với tổng số tiền lên tới 138,3
tỷ đồng. Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam tổ chức khám sàng lọc khuyết
tật cho 773 người khuyết tật, đo thính lực cho trẻ em khiếm thính ở các tỉnh,
thành phố. Hội cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam tổ chức khám, phẫu thuật chỉnh
hình, sửa tật vận động và phục hồi chức năng bằng phương pháp vật lý trị liệu,
khám phẫu thuật, phục hồi chức năng cho hơn 14.500 trẻ em khuyết tật, đưa
tổng số trẻ em khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, sửa tật vận động và phục
hồi chức năng bằng phương pháp vật lý gần 40.000 trẻ em từ khi thành lập hội
(năm 1993) cho đến nay.
Tại một số địa phương, các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ em
khuyết tật diễn ra khá sôi nổi và tích cực. Như trong năm 2013, Quỹ Bảo trợ trẻ
em Nghệ An đã vận động hơn 18 tỷ đồng triển khai khám và phân loại bệnh cho
hơn 10.000 trẻ em khuyết tật các loại; phẫu thuật cho hơn 500 trẻ bị khuyết tật
vể tim, mắt, cơ quan vận động, sứt môi, hở vòm ếch, phẫu thuật thành công cho
133 trẻ em bị khuyết tật bẩm sinh. Hay vào tháng 4/2013, Quỹ Bảo trợ trẻ em
Thanh Hóa phối hợp với Hội Thiện Nguyện SAP – VN Hoa Kỳ tại Việt Nam,
Trung tâm Cung cấp dịch vụ xã hội Thanh Hóa, Bệnh viện mắt Thanh Hóa,
Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội các huyện, thị xã, thành phố tổ chức
khám sàng lọc cho gần 400 trẻ bị khuyết tật…
Đó là những thành tựu trong công tác thực thi nhằm bảo đảm quyền được
chăm sóc sức khỏe của trẻ em khuyết tật trên thực tế. Những hoạt động này ngày
62
càng được nhân rộng và nhận được sự quan tâm không chỉ của Đảng, Nhà nước
mà còn của toàn xã hội, từ đó góp phần giúp trẻ tham gia tích cực và hiệu quả
vào các hoạt động giải trí, văn hóa, xã hội.
Dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể song vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
trẻ em khuyết tật ở Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn.
Trước hết, trẻ khuyết tật gặp khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế,
đặc biệt là trẻ khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện đi lại không thuận
tiện. Hơn nữa, phần lớn hộ gia đình có trẻ khuyết tật có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, nên việc cho trẻ tiếp cận với dịch vụ y tế, nhất là dịch vụ y tế chất lượng
cao vượt quá khả năng tài chính của họ. Trong khi đó, việc sử dụng thẻ bảo
hiểm y tế còn nhiều bất cập, một số danh mục kỹ thuật phục hồi chức năng đang
được thực hiện tại các cơ sở y tế chưa được quỹ bảo hiểm y tế chi trả, phần lớn
các dụng cụ trợ giúp cho trẻ khuyết tật chưa được bảo hiểm y tế thanh toán.
Không chỉ vậy, nhận thức của nhiều gia đình về nhu cầu chăm sóc sức khỏe
và dinh dưỡng đối với trẻ khuyết tật vẫn còn rất hạn chế. Nhiều gia đình không
nhận thấy cần phải chăm sóc nhiều hơn cho trẻ, hoặc không biết chăm sóc sức
khỏe cho trẻ như vậy ở đâu, hoặc không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ đó
ngay cả khi dịch vụ đó có tồn tại.
Các mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng mặc dù được triển
khai ở Việt Nam từ năm 1987, nhưng cho đến nay chủ yếu thực hiện các hoạt
động trong phạm vi của lĩnh vực y tế, sự tham gia của các ngành thuộc các lĩnh
vực khác còn hạn chế. Nguồn kinh phí chi cho chương trình này còn rất hạn chế,
chủ yếu dựa vào các tổ chức Quốc tế, Tổ chức Phi chính phủ nên kết quả thực
hiện chưa cao. Bên cạnh đó việc phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật tại
cộng đồng chưa được thường xuyên, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, phụ huynh có
trẻ em khuyết tật thiếu sự hướng dẫn cơ bản về phương pháp tập phục hồi chức
năng cho trẻ từ các kỹ thuật viên vật lý trị liệu, phục hồi chức năng. Cơ chế,
chính sách sử dụng các nhân viên công tác xã hội làm cầu nối giữa gia đình có
trẻ khuyết tật và các trung tâm bảo trở xã hội, các trường học, các cơ sở y tế là
63
hạn chế.
Hoạt động phát hiện sớm khuyết tật và can thiệp sớm chưa thực sự phát
triển. Vì vậy trẻ thường được đưa đến các cơ sở y tế để chữa bệnh hơn là để
phòng bệnh, và việc chữa bệnh cũng gặp nhiều khó khăn do không được phát
hiện sớm. Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, việc quan tâm đến dự
phòng khuyết tật chưa được chú trọng, đặc biệt trong trường hợp các gia đình có
nhiều trẻ khuyết tật.
Hơn nữa, năng lực của các nhân viên y tế và những cán bộ khác trong cộng
đồng còn hạn chế và không đồng đều giữa các khu vực. Họ có thể không đủ khả
năng tư vấn và hỗ trợ cho cha mẹ trẻ khuyết tật, cũng như hướng dẫn các trường
hợp khuyết tật phức tạp hơn chuyển tuyến tới các dịch vụ đặc biệt.
Chính vì những hạn chế này nên quá trình thực hiện chính sánh chăm sóc
sức khỏe cho trẻ em khuyết tật đã vấp phải khá nhiều khó khăn, và gây ảnh
hưởng rất lớn đến việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật thực tế.
2.2.2.4. Chính sách tiếp cận văn hóa, thể thao, giải trí
Trong những năm qua, việc triển khai đảm bảo thực hiện quyền được tham
gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí của trẻ khuyết tật đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Trước hết phải kể đến việc Nhà nước đã hỗ trợ kinh
phí cho Trung ương Hội người mù sản xuất chữ nổi, sách nổi, tổ chức các buổi
liên hoan văn nghệ quần chúng các cấp, tạo diễn đàn cho trẻ khuyết tật được thể
hiện năng khiếu, vui chơi, giải trí.
Bên cạnh đó, để hưởng ứng năm quốc tế người tàn tật và thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Hội khuyến học lần thứ V khóa IV
và Quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội của người khuyết tật,
Đảng và Nhà nước đã tổ chức Hội diễn văn hóa văn văn nghệ trẻ khuyết tật toàn
quốc lần thứ nhất với chủ đề: Nghị lực và tình thương vào giữa tháng 8/2013.
Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa, nhằm tạo sân chơi bổ ích cho trẻ em khuyết
tật, giúp cho trẻ được thể hiện khả năng của mình.
Phong trào thể dục thể thao cho trẻ khuyết tật đã phát triển mạnh mẽ ở các
64
địa phương trong cả nước cả về quy mô và số lượng các môn luyện tập, thi đấu,
thu hút được đông đảo trẻ em khuyết tật tham gia. Tháng 3/2013, Sở Văn hóa -
Thể thao và du lịch Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công ty P&G VN và
Công ty Metro VN tổ chức “Giải thể thao người khuyết tật TP. HCM 2013” với
sự tham gia của gần 250 trẻ đang theo học tại hơn 15 cơ sở dành cho người
khuyết tật trên địa bàn thành phố; Hay Hội thi thể thao học sinh khuyết tật toàn
quốc lần thứ V vào cuối tháng 12/2013 do tỉnh Thái Nguyên đăng cai tổ chức đã
thu hút hơn 600 vận động viên là các học sinh khuyết tật tham gia hội thi…
Với nhiều hoạt động sôi nổi, lý thú trên phạm vi cả nước, trẻ khuyết tật đã
được tạo điều kiện vui chơi, giao lưu văn hóa văn nghệ, tham gia những trò chơi
kỹ năng bổ ích và quyền về tiếp cận văn hóa, thể thao, giải trí của trẻ em khuyết
tật nhờ đó được đảm bảo. Những hoạt động ấy không chỉ góp phần rèn luyện
sức khỏe, rèn luyện nhân cách, tinh thần vượt khó mà còn có ý nghĩa thúc đẩy
sự hòa nhập cộng đồng cho nhóm trẻ kém may mắn này.
Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tỷ lệ trẻ em
khuyết tật tham gia gia văn hóa, thể thao rất hạn chế.
Theo kết quả điều tra năm 2007 của Viện nghiên cứu Phát triển xã hội cho
thấy, có ít nhất 2/3 số người khuyết tật không tham gia bất kỳ một hoạt động văn
hóa xã hội nào trong 12 tháng trước cuộc điều tra, trong đó có trẻ em khuyết tật.
Lý do chính dẫn đến tình trạng trạng này là khó khăn trong việc đi lại, khó khăn
trong giao tiếp, kết hợp với tâm lý mặc cảm, tự ti, đồng thời trẻ khuyết tật
thường không được mời tham dự, hoặc không biết nơi nào tổ chức để tham dự.
Không khó để nhận thấy một số chương trình dành cho trẻ em trên truyền hình
như: Đồ rê mí, Con đã lớn khôn, Trẻ em luôn đúng… cơ bản không có trẻ em
khuyết tật tham gia. Một phần cũng bởi do khiếm khuyết của cơ thể mà rất ít trẻ
khuyết tật có năng khiếu về văn hóa, văn nghệ, hơn nữa sự ủng hộ, khích lệ trẻ
khuyết tật tham gia các chương trình từ phía gia đình trẻ khuyết tật, từ phía ban
tổ chức, nhà tài trợ…dường như không có.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng dành riêng cho trẻ khuyết tật chưa được đảm
65
bảo; hệ thống sân bãi, trang thiết bị phục vụ trẻ tham gia luyện tập không đủ; các
trò chơi vận động trong công viên, hầu hết là dành cho trẻ em không khuyết tật,
trẻ khuyết tật rất khó để tham gia những hoạt động này.
Có thể thấy sự tham gia của trẻ khuyết tật vào các sự kiện và các hoạt động
để làm phong phú hơn đời sống của trẻ còn rất ít và hạn chế. Vẫn biết do những
khiếm khuyết về mặt cơ thể, trẻ khuyết tật khó có thể cạnh tranh bình thường
với những trẻ không khuyết tật khác, nên việc ưu tiên và tổ chức các chương
trình riêng phù hợp dành cho trẻ khuyết tật là cần thiết. Tuy nhiên, chính những
ưu tiên, riêng biệt đó vô tình đã làm tăng thêm cảm giác khác biệt, bị cô lập của
trẻ. Điều này dẫn đến tâm lý e ngại, cản trở việc tham gia các hoạt động văn hóa
nghệ thuật thể thao của trẻ em khuyết tật.
2.2.2.5. Chính sách tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng
Trong những năm qua, nhờ quán triệt tốt tinh thần và chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật mà công tác đảm bảo quyền
cho nhóm đối tượng này đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, cụ thể:
Về giao thông tiếp cận: Hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức
về trẻ em khuyết tật được tiến hành thường xuyên thông qua các buổi hội thảo,
tập huấn. Bộ Giao thông vận tải đã hợp tác với các cơ quan, tổ chức các tuyến xe
buýt tiếp cận thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội. Ngoài
ra, Việt Nam đã chế tạo thành công xe buýt tiếp cận theo tiêu chuẩn ban hành
như: trên khoang hành khách có bố trí diện tích cũng như cơ cấu an toàn cho 01
xe lăn; lắp cơ cấu thang nâng, dẫn động thủy lực… Bên cạnh đó, hoạt động
miễn, giảm giá vé cũng được triển khai thực hiện tại hai thành phố lớn của cả
nước là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội.
Về cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng: Các công trình ở đô thị được xây
dựng trong một vài năm gần đây đã được thiết kế để trẻ khuyết tật có thể tiếp
cận thuận lợi như: Sân bay Nội Bài, Trung tâm Thương mại Tràng Tiền, hè
đường phố cổ Hội An… Một số công trình cũ đã được cải tạo và có chủ trương
cải tạo để trẻ khuyết tật dễ dàng tiếp cận như: Công trình cải tạo Nhà hát Bến
66
Thành, ga Hà Nội, Cung Văn hóa Hữu Nghị Hà Nội… Điều này, bước đầu đã
tạo ra cơ hội cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội và phát huy
khả năng của mình để hòa nhập cộng đồng.
Về công nghệ thông tin, truyền thông: Đài truyền hình Việt Nam đã có
chương trình hiện chữ và chạy chữ trên chương trình Chào Buổi Sáng phát sóng
trên VTV1 và Chương trình tổng hợp thời sự vào lúc 22h phát sóng trên VTV2
dành cho người khuyết tật khiếm thính. Đồng thời, kết hợp với Internet, trẻ
khuyết tật có thể tự mình tiếp cận tìm hiểu thông tin về mọi lĩnh vực. Hơn nữa,
các sản phẩm công nghệ dành cho trẻ khuyết tật cũng được đầu tư chú trọng
như: phần mềm đọc màn hình cho người khiếm thị hệ thống hỗ trợ giao tiếp cho
người khiếm thính…
Có thể thấy việc đảm bảo cho trẻ em khuyết tật được tiếp cận các cơ sở hạ
tầng, dịch vụ công cộng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đạt được thành
tựu này, bên cạnh chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước, còn phải kể đến sự
quan tâm của các tổ chức xã hội. Điều đó đã khích lệ trẻ khuyết tật tăng cường
tham gia các hoạt động xã hội, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.
Mặc dù đã đạt nhiều thành tựu đáng kể song trên thực tế, trẻ em khuyết tật
vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện quyền tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ
công cộng, cụ thể:
Về giao thông tiếp cận: Cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam còn nhiều
bất cập, có rất ít các công trình hạ tầng giao thông được xây mới, cải tạo hoặc
nâng cấp nhằm đảm bảo cho trẻ khuyểt tật tiếp cận, như: không có làn đường
riêng, an toàn dành cho trẻ khuyết tật; cầu vượt cho người đi bộ qua đường
không có lối lên dành cho trẻ khuyết tật… Các công trình đạt yêu cầu kỹ thuật,
đảm bảo cho trẻ khuyết tật tiếp cận thì chủ yếu mang tính chất cải tạo thí điểm.
Đồng thời, phương tiện giao thông tiếp cận qúa hạn chế với số lượng rất ít và chỉ
được xây dựng ở thành phố lớn, còn các khu vực khác, trẻ khuyết tật rất khó để
có thể tiếp cận nếu muốn di chuyển bằng phương tiện công cộng. Hơn nữa, dù
67
có khả năng tham gia giao thông bằng xe buýt, nhưng với trẻ em khiếm thị, việc
xác định số xe, điểm đến là cực kỳ khó khăn nếu không có sự hỗ trợ giúp đỡ của
người xung quanh.
Về cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng: Hiện nay, số lượng các công trình
đáp ứng sự tiếp cận và sử dụng của trẻ khuyết tật còn rất hạn chế. Một số công
trình có tính đến nhu cầu tiếp cận nhưng do không tuân thủ đúng các quy định
đã được nêu trong các văn bản hiện hành nên không đảm bảo tiếp cận, như: độ
dốc quá cao, không bố trí tay vịn, không có nhà vệ sinh cho trẻ khuyết tật, biển
báo chỉ dẫn không có hoặc khó tìm, khó nhận biết. Ngay tại các thành phố lớn
như Hà Nội, nhiều dự án cải tạo công viên, vườn hoa, vườn bách thú, quảng
trường chưa đạt tiêu chuẩn hoặc chưa tính đến nhu cầu tiếp cận của trẻ khuyết
tật. Ví dụ như đá lát tại khu vực Hồ Gươm, Vườn hoa Lê Nin đều là loại đá xẻ
tự nhiên có độ bóng cao nên rất dễ gây trơn trượt; Nhà hát lớn Hà Nội – nơi
thường xuyên tổ chức những chương trình, sự kiện mang tầm quốc gia và quốc
tế thì ngoài mặt tiền rất rộng, nhưng không hề có lối đi riêng cho trẻ khuyết tật.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, 50 tình nguyện viên của Trung tâm Khuyết tật và
phát triển đã dành ra một năm để khảo sát 1800 công trình công cộng trên địa
bàn thành phố dựa theo các tiêu chí của “Quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng
công trình để đảm bảo người tàn tật tiếp cận sử dụng” do Bộ Xây dựng ban hành
năm 2009. Kết quả: chỉ có 78 công trình xây dựng đúng chuẩn, đảm bảo tiếp cận
đạt tỷ lệ chưa đến 5%. Đây chính là những rào cản rất lớn mà xã hội dựng lên,
cản trở trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
2.2.2.6. Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020
Tính đến nay, kết quả thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật trong đó có
trẻ em khuyết tật đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: 100% các xã,
phường, thị trấn trong cả nước đã thành lập Hội đồng xác nhận mức độ khuyết
tật cấp xã theo đúng quy định; 67 cơ sở trợ giúp NKT, TEKT (trong đó có 30 cơ
sở công lập và 37 cơ sở ngoài công lập) cung cấp các dịnh vụ chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng, dạy nghề, thể dục thể thao và văn hóa văn nghệ; các
68
chế độ đối với NKT, TEKT được hưởng chính sách bảo trợ xã hội tại cộng đồng
và trong trung tâm bảo trợ xã hội được thực hiện đúng quy định; trong công tác
chăm sóc sức khỏe, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản triển khai công tác tuyên
truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu
khuyết tật, hướng dẫn NKT, TEKT tự chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng:
Công tác giáo dục, đào tạo cũng đạt được những kết quả khả thi. Hiện có trên 78
nghìn trẻ em khuyết tật có khả năng học tập đang đi học, chủ yếu là học hòa
nhập ở các trường mần non và phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo
ban hành quy định về thống nhất sử dụng ngôn ngữ kí hiệu trong toàn quốc, biên
soạn ngôn ngữ kí hiệu danh cho các cấp học phổ thông, xây dựng các chương
trình giáo dục đặc biệt đối với trẻ khuyết tật.
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
ở Việt Nam
2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt Nam
Thứ nhất, các bộ, ngành, các địa phương, các cơ quan hữu quan nghiêm túc
triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông qua năm 2010
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011; thúc đẩy thực hiện Đề án trợ giúp
NKT giai đoạn 2012 – 2020 như lên kế hoạch, đôn đốc, theo dõi, giám sát, kiểm
tra việc thực hiện, đồng thời lồng ghép các chương trình liên quan tới NKT và
TEKT theo quy định tại Luật Người khuyết tật. Các Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội xây dựng kế hoạch trình UBND tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện
sớm để tập trung nguồn lực thực hiện các chính sách đối với trẻ em khuyết tật
một cách có hệ thống, đồng bộ, nâng cao hiệu quả trong thực hiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật.
Thứ hai, đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách
nâng cao nhận thức về vấn đề trẻ em khuyết tật.
Công tác tuyên truyền đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương đặc
biệt quan tâm chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt, với vai trò là cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xã hội nói chung và lĩnh vực trẻ em khuyết
69
tật nói riêng, hàng năm Bộ Lao động –Thương binh và xã hội đã hệ thống các
văn bản quy định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ, tờ rơi, in
và phát cho các địa phương.
Năm 2011, các Bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và các địa
phương trên cả nước đã tích cực phổ biến, tuyên truyền Luật người khuyết tật và
có những hoạt động cụ thể để thực hiện các quy định của luật. Bộ y tế đã có
công văn gửi Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề
nghị phối hợp chỉ đạo Sở y tế và các Ban, Ngành có liên quan triển khai Luật
người khuyết tật, bố chí ngân sách địa phương để chi cho các hoạt động thực
hiện các nhiệm vụ chính được quy định trong luật như: Chăm sóc sức khỏe cho
TEKT, chỉnh hình, phục hồi chức năng, cung cấp dụng cụ y tế trợ giúp TEKT
(cấp xe lăn, xe lắc, chân giả, tay giả). Bộ Giáo thông vận tải có công văn số
4629/BGTVT-MT, ngày 02 tháng 8 năm 2011 của Bộ Giao thông vận tải về
việc triển khai thực hiện Luật người khuyết tật. Bộ Thông tin và Truyền thông,
Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình trung ương và các cơ quan
báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương đã tích cực, chủ động đăng tải, phát
các nội dung của luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, các địa chỉ truy
cập thông tin mạng nhằm phổ biến đến đông đảo người dân. Bộ Xây dựng, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến luật đến cán bộ, nhân viên trong ngành và đã có nhiều
hoạt động cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ của Bộ mình được quy định trong
luật.
Năm 2013, được sự hỗ trợ của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc, Bộ Lao động
– Thương binh và xã hội đã xây dựng khung truyền thông thực hiện Luật người
khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật và trẻ em khuyết tật giai đoạn
2012 – 2020 định hướng các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ
chức theo nhiệm vụ được quy định trong Luật người khuyết tật triển khai các
hoạt động thông tin, tuyên truyền Luật Người khuyết tật và những chủ trương,
chính sách, chương trình trợ giúp trẻ em khuyết tật, đặc biệt là tuyên truyền về
70
thực hiện Đề án hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020. Bộ Thông tin và
Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông thực hiện công tác tuyên
truyền về pháp luật và các chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
Thứ ba, tăng cường bồi dưỡng kiến thức chuyên môn của cán bộ, công
chức làm công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật; nhiều khóa tập
huấn về chính sách đối với trẻ khuyết tật, về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em
khuyết tật đã được quan tâm thực hiện từ Trung ương đến địa phương, góp phần
triển khai thực hiện các chế độ chính sách đối với TEKT được quy định trong
Luật người khuyết tật.
Bộ Lao động, Thương binh và xã hội đã tổ chức tập huấn cho Giám đốc,
phó giám đốc các cơ sở bảo trợ xã hội, các Trưởng phòng Bảo trợ xã hội thuộc
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố. Các Vụ chuyên môn
của Bộ tùy theo chức năng nhiệm vụ đã tổ chức các lớp tập huấn các khóa học
về chính sách, quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ khuyết tật, các kỹ năng
xây dựng kế hoạch, kỹ năng thực hiện các đề án, chương trình, kỹ năng đánh
giá, tổng kết.
Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan trung ương và các địa phương thực hiện
công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện luật. Ngoài các văn bản luật, hàng năm
các Bộ, ngành còn ban hành hàng trăm công văn, quyết định cá biệt để xử lý và
hướng dẫn các địa phương, các tổ chức để xử lý những vấn đề bức xúc hoặc
tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành cơ quan cũng đã
thực hiện tương đối tốt, đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công
tác quản lý nhà nước về trẻ em khuyết tật.
Tổng hợp thống kê, khảo sát đánh giá thực trạng TEKT và tình hình thực
hiện chính sách, giải pháp đã được quan tâm. Hàng năm Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội đều có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương tổng hợp thống kê về tình hình thực hiện các chế độ chính
sách đối với TEKT để từ đó tạo cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện các chính
71
sách đối với TEKT.
2.3.2. Hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật ở Việt Nam
Một là, tiến độ thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật của các Bộ,
ngành, địa phương còn chậm,
Hai là, việc bao quát các hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật của các Bộ,
ngành, địa phương còn chưa đầy đủ.
Ba là, công tác kiểm tra giám sát đánh giá hoạt động hỗ trợ trẻ em khuyết
tật từ trung ương đến địa phương không thường xuyên.
Bốn là, sự phối hợp giữa các bộ ngành, giữa trung ương với địa phương
trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật thiếu chặt chẽ, hài hòa,
không đồng bộ nên hạn chế kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra.
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế trong thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam
Một là, hệ thống thể chế của Nhà nước ảnh hưởng đến thực thi chính sách
đối với trẻ em khuyết tật, do những quy định không còn phù hợp với tình hình
đất nước hiện nay, cụ thể như các thủ tục về chế độ chính sách đối với trẻ em
khuyết tật, thủ tục xin, cấp phép xây dựng các dự án chăm sóc trẻ em khuyết tật,
các thủ tục về công tác xã hội hóa đối với cho trẻ khuyết tật còn rườm rà, phức
tạp và tốn thời gian; hệ thống chỉ tiêu của một số đề án, chương trình không
mang tính thực tiễn, thiếu hệ thống giám sát, đánh giá hoàn thiện để cung cấp
thông tin cho tính toán chi tiêu;
Hai là, trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức, viên chức thực
hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật còn hạn chế, do đó công tác xây dựng
các chương trình giám sát, đánh giá, theo dõi thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật chưa thật tốt; công tác thực hiện chính sách còn lúng túng; việc khảo
sát, điều tra, phân loại trẻ em khuyết tật nhẹ, đặc biệt nặng và nặng chưa chính
xác đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong tổ chức triển khai thực hiện chính
72
sách.
Ba là, cơ chế phối hợp thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật thiếu
hiệu quả. Việc tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, các hoạt
động trợ giúp trẻ em khuyết tật được nhiều đơn vị, ban, ngành tham gia. Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội là đơn vị chủ trì, các đơn vị, các ban ngành khác
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình phối hợp để thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật. Ở địa phương, Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì
các ban, ngành thực hiện. Do vậy, việc phối hợp giữa các đơn vị trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ có nhiều bất cập, chồng chéo, chậm cụ thể hóa các hướng
dẫn của trung ương do những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Bốn là, công tác tuyên truyền về chế độ, chính sách đối với trẻ khuyết tật
chưa tốt, việc huy động các nguồn lực hỗ trợ nuôi dưỡng, chăm sóc y tế, phục
hồi chức năng, giáo dục văn hóa, đào tạo nghề cho trẻ em khuyết tật từ các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước còn hạn chế, chưa hiệu quả.
Năm là, nguồn ngân sách nhà nước cho việc thực hiện chính sách đối với
trẻ em khuyết tật còn hạn chế, chưa đáp ứng được với nhu cầu ngày càng cao
của trẻ khuyết tật và đặc biệt với số lượng trẻ khuyết tật ở Việt Nam đông như
73
hiện nay.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã cung cấp những thông tin cơ bản nhất về tình hình trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, các chính sách của Nhà nước đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam như chính sách giáo dục chính sách bảo trợ xã hội; chính
sách chăm sóc y tế; chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch;
chính sách ưu tiên cho trẻ em khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương
tiện giao thông công cộng; chính sách về công nghệ thông tin va truyền thông,
đồng thời phân tích thực trạng tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam. Qua phân tích thực trạng thực hiện chính sách trên, ta
nhận thấy, với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, đây quả là vấn
nạn khá lớn và vẫn đang có chiều hướng gia tăng do ô nhiễm môi trường và hậu
quả của chiến tranh. Việc thực thi chính sách đối với trẻ khuyết tật ở nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhờ vào quan tâm của Đảng, Nhà nước, của
các tổ chức chính trị xã hội, nhờ vào sự đổi mới trong nhận thức; nhờ sự quan
tâm, chia sẻ của toàn xã hội; song thực trạng rất nhiều trẻ em vẫn không được
đến trường, được giáo dục hòa nhập, được chăm sóc y tế, tiếp cận các hoạt động
thể thao, văn hóa, du lịch…; khi thực hiện chính sách nhiều nơi thường hỗ trợ
cho TEKT, gia đình có trẻ em khuyết tật một khoản tiền để nuôi dưỡng, giúp họ
vượt qua khó khăn về kinh tế để sống và tồn tại, chưa hướng đến các chính sách
giáo dục, phục hồi chức năng hay hướng nghiệp…; chưa gắn kết TEKT với
công việc, với cuộc sống, với các dịnh vụ xã hội để tạo điều kiện để trẻ em
khuyết tật được thực hiện đầy đủ các quyền công dân; hơn nữa, thái độ kỳ thị,
phân biệt đối xử với trẻ em khuyết tật dù đã giảm nhưng không phải không diễn
ra. Nguyên nhân của những thực trạng đó là do hệ thống thể chế của Nhà nước
ảnh hưởng đến thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật, trình độ năng lực
của cán bộ quản lý và công chức làm công tác thực hiện chính sách còn hạn chế,
công tác tuyên truyền về chế độ chính sách đối với trẻ em khuyết tật chưa được
74
tốt, ngân sách của nước ta cho đối tượng trẻ em khuyết tật còn hạn hẹp, chưa
đáp ứng được nhu cầu so với số lượng trẻ em khuyết tật hiện nay; chính sách
của Nhà nước về trẻ em khuyết tật chưa rõ ràng, chưa phân biệt rõ ràng giữa
chính sách người khuyết tật nói chung với chính sách đối với trẻ em khuyết tật
nói riêng. Để mọi trẻ em khuyết tật được hòa nhập với cộng đồng, được giáo
dục, chăm sóc y tế, tiếp cận với các dịch vụ dành cho trẻ em khuyết tật như
những trẻ em bình thường, chương 3 tập trung vào việc đề ra các giải pháp hoàn
75
thiện hệ thống chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
3.1.Quan điểm và định hướng giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam
3.1.1. Quan điểm về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
Trẻ em khuyết tật cũng là những công dân nhỏ tuổi đặc biệt, là chủ nhân
tương lai của nước nhà như tất cả trẻ em không khuyết tật khác, vì vậy, sự
nghiệp chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
toàn diện của trẻ không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ, của Nhà
nước mà còn của toàn xã hội.
Từ lâu, Chính phủ Việt Nam đã đặt trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật
nói riêng vào vị trí trung tâm trong chiến lược đào tạo, phát huy nguồn nhân lực
cho nước nhà. Trong những năm qua, dù tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn
song nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn hướng đến việc
tăng cường bảo đảm các quyền cho trẻ. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “không những nâng cao đời sống
vật chất của mọi thành viên trong xã hội; chăm lo đời sống những người già cả,
neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi”. Hiến pháp 2013 quy định: Nhà
nước “có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và
người có hoàn cảnh khó khăn khác” và “tạo điều kiện để người khuyết tật và
người nghèo được học văn hóa và học nghề”. Đồng thời khẳng định mọi thành
viên, bao gồm cả trẻ em khuyết tật đều được nhà nước bảo đảm quyền công dân
như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội. Nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện các
chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn
nhân chiến tranh, người tàn tật”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
76
Trung ương Đảng khóa X đã nêu quan điểm xây dựng luật người khuyết tật là
phải thể hiện rõ truyền thống thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá
rách; thể chế tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về trẻ em khuyết
tật; quy định cụ thể các quyền mà trẻ em khuyết tật được hưởng như quyền được
chăm sóc sức khỏe, quyền được học tập, được vui chơi, giải trí, hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu,
quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động xã hội,
tạo điều kiện cho trẻ phát huy năng lực bản thân và thông qua hoạt động xã hội
hóa việc chăm sóc trợ giúp trẻ có cơ hội vươn lên, nhanh chóng hòa nhập cộng
đồng. Năm 2010, Luật người khuyết tật đã chính thức được ban hành thay thế
Pháp lệnh về người khuyết tật năm 2008, Luật người khuyết tật đã góp phần
hoàn thiện hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật và trẻ em khuyết tật,
ngoài ra, các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách đối với trẻ em còn
được nhắc đến trong các bộ luật khác, như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục.
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em.
Về chính sách liên quan đến trẻ em khuyết tật, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 267/QĐ – TTg, ngày 22-02-2011, về việc phê duyệt Chương
trình Quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015; Quyết định 65/2005/QĐ –
TTg, ngày 25-3-2005, về phê duyệt đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn dựa vào cộng đồng giai đọan 2005 – 2010;
Với tình hình nêu trên cùng với tác động và ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, thời gian qua đòi hỏi phải có các chính sách tác động kịp
thời nhằm bảo đời sống cho người khuyết tật và trẻ em khuyết tật, đồng thời
khẩn trương bổ sung các cơ chế, chính sách có tính cơ bản, lâu dài, tập trung
hướng vào một số vấn đề cốt yếu trong việc chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật,
trẻ em khuyết tật, dưới đây là quan điểm của Đảng, nhà nước về chính sách đối
với người khuyết tật, trẻ em khuyết tật [Số 356, năm 2009, LĐ & XH].
Một là, tiếp tục đánh giá, tổng kết việc thực hiện một số chính sách đang
triển khai, lựa chọn và đưa các kinh nghiệm tốt, cách làm hay vào quá trình xây
77
dựng luật cũng như quá trình tổ chức thực hiện.
Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ các chính sách, cơ chế trợ giúp
đối với NKT, trẻ em khuyết tật, đặc biệt là chế độ trợ cấp xã hội thường xuyên
theo quy đình tại Nghị định 67/2007/NĐ - CP về chính sách trợ giúp các đối
tượng bảo trợ xã hội, bảo đảm không bỏ sót người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
thuộc diện trợ cấp, tiếp tục nghiên cứu trình Chính phủ cho nâng mức trợ cấp
thường xuyên cho các đối tượng.
Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về lĩnh vực
NKT, TEKT trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là ở cấp xã, phường
để mọi người dân hiểu, chia sẻ và chăm lo, giúp đỡ; phổ biến các biện pháp
phòng ngừa khuyết tật, chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật; nêu
gương người tốt, việc tốt về công tác bảo trợ NKT, TEKT và nhưng TEKT vượt
khó vươn lên trong cuộc sống; xây dựng và xuất bản các tác phẩm văn hóa, nghệ
thuật nhằm động viên, hướng dẫn NKT, TEKT.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc trợ giúp về giáo dục văn hóa,
đào tạo nghề cho NKT, TEKT. Đẩy mạnh mô hình giáo dục hòa nhập, hoc ̣ văn
hóa kết hợp với phục hồi chức năng cho TEKT, đẩy mạnh chương trình phục hồi
chức năng đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Năm là, tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, các cá
nhân tham gia hoạt động trợ giúp NKT, TEKT.
Sáu là, nâng cao khả năng sử dụng các công trình, bảo đảm cho NKT,
TEKT ngày càng tiếp cận được dễ dàng, thuận lợi hơn. Mở rộng hoạt động văn
nghệ, thể dục, thể thao cho NKT, TEKT, tạo điệu kiện để người khuyết tật, trẻ
em khuyết tật có cơ hội tham gia các hoạt động xã hội, thúc đẩy hòa nhập cộng
đồng.
Bảy là, tiếp tục duy trì và mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức trong
khu vực và thế giới trong các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, trẻ em khuyết
tật; tích cực hưởng ứng thực hiện 7 lĩnh vực ưu tiên trợ giúp người khuyết tật,
trẻ em khuyết tật theo khuyến cáo Biwako; Công ước quốc tế về quyền của
78
NKT, Công ước quốc tế về quyền của TEKT, đẩy mạnh các hoạt động trao đổi
thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, trợ giúp kỹ thuật, đào tạo cán bộ làm việc cùng
NKT, TEKT.
3.1.2. Định hướng về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
3.1.2.1. Về an sinh xã hội
Như những trẻ em bình thường khác, để tồn tại, phát triển và có được
những quyền cơ bản, trẻ em khuyết tật cần được bảo đảm các nhu cầu cơ bản
như nhu cầu được chăm sóc về thể chất, tinh thần, được học tập; nhu cầu được
bảo vệ; nhu cầu được yêu thương; nhu cầu nhận thức và ý thức về bản thân; nhu
cầu được thể hiện bản thân.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên dành sự quan
tâm, chăm lo đến việc bảo đảm an sinh xã hội đối với trẻ em khuyết tật. Hệ
thống chính sách xã hội đối với TEKT đã hình thành, Luật về NKT đang đi vào
cuộc sống, công tác giáo dục, bảo vệ chăm sóc trẻ em đã có những chuyển biến
tích cực. TEKT, trẻ mồ côi có môi trường xã hội thuận lợi để tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản, các em đã và đang nỗ lực phấn đấu, bền bỉ rèn luyện, tự tin,
vượt qua số phận, vươn lên hòa nhập với cuộc sống, cộng đồng. Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội đã làm tốt công tác bảo trợ TEKT, trẻ mồ côi và kêu gọi
xã hội hóa công tác này với sự đồng lòng, chia sẻ quý báu, thiết thực của các tổ
chức, cá nhân trong nước cũng như sự cảm thông, trợ giúp có hiệu quả của nhiều
tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam luôn đảm bảo thực hiện
quyền của TEKT và tạo môi trường bình đẳng và không rào cản tiếp cận cho
TEKT; Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc đời sống, giáo dục, y tế, giao
thông, công nghệ thông tin cho TEKT. Cùng với đó là cải cách thủ tục hành
chính, tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát, thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật.
Theo kết quả thông kê cho thấy, nhiều TEKT được trợ cấp xã hội hàng
tháng, nhiều trường học trong cả nước đã tiếp nhận TEKT để hỗ trợ theo hướng
79
giáo dục hòa nhập, chăm sóc y tế và phục hồi chức năng TEKT đã cải thiện
đáng kể, đã mở rộng mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, địa
phương nơi trẻ em khuyết tật sinh sống, TEKT đã được giảm giá vé, phí tham
gia giao thông công cộng, các hoạt động văn hóa ở các cơ sở văn hóa, du lịch có
thu phí.
Trong thời gian tới, nhiều chủ trương, chính sách đối với trẻ em khuyết tật
được đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là xây dựng nhiều chương trình, đề
án an sinh xã hội đối với TEKT, tiếp tục hoàn thiện việc thực hiện chính sách
đối với TEKT, cụ thể là các chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, tiếp cận với các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các công trình công cộng để trẻ
em khuyết tật có thể phát huy mọi khả năng của mình, được đầy đủ những
quyền như những trẻ em bình thường, sớm hòa nhập vào cộng đồng, đặc biệt là
trẻ em khuyết tật ở vùng sâu và vùng xa, vùng nông thôn.
3.1.2.2. Mục tiêu giải quyết vấn đề TEKT Việt Nam
Mục tiêu tổng quát Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật, tạo hành lang
pháp lý cho các hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
trẻ em khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các em phát triển mọi khả
năng nỗ lực của mình vươn lên trong học tập và cuộc sống, góp phần phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước; xây dựng một xã hội bình đẳng đối với trẻ em
khuyết tật, không có sự phân biệt đối xử với đối tượng non nớt này.
Mục tiêu cụ thể:
- Trong lĩnh vực giáo dục: Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức
của trẻ em khuyết tật và gia đình có trẻ em khuyết tật về lợi ích của giáo dục đối
với bản thân trẻ em khuyết tật, gia đình và lợi ích xã hội; trên cơ sở phân dạng,
phân hạng khuyết tật, thực hiện thống kê về quy mô, độ tuổi, giới tính, cơ cấu
dạng tật của trẻ em khuyết tật làm cơ sở thiết kế các chương trình giáo dục phù
hợp; tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục hòa nhập, nâng mức phân bổ ngân
sách cho giáo dục học sinh khuyết tật; đẩy mạnh công tác phát triển nguồn nhân
80
lực cho giáo dục trẻ em khuyết tật.
Mục tiêu là 70% trẻ khuyết em tật có khả năng học tập được tiếp cận giáo
dục.
- Trong lĩnh vực y tế: Thúc đẩy việc xây dựng các chương trình phát hiện
sớm và phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật dựa vào cộng đồng, phát triển
chương trình sàng lọc, phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em; tiến hành phân dạng,
phân hạng khuyết tật theo mức độ suy giảm khả năng tự phục vụ, trên cơ sở đó
để định hướng xây dựng các chương trình chăm sóc sức khỏe phù hợp cho trẻ
em khuyết tật; phát triển mạng lưới phục hồi chức năng thống nhất trong toàn
quốc theo tuyến.
Mục tiêu giai đoạn tới là hàng năm 90% số người khuyết tật được tiếp cận
các dịnh vụ y tế dưới các hình thức khác nhau, 90% trẻ sơ sinh đến 6 tuổi được
sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp
sớm các dạng khuyết tật, khoảng 70.000 trẻ em và người khuyết tật được phẫu
thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp.
- Trong lĩnh vực tiếp cận các dịch vụ văn hóa như: tạo điều kiện cho trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ văn hóa. Đối với trẻ em
khuyết tật, tạo điều kiện có lớp học, khu năng khiếu, ấn phẩm văn hóa và
chương trình thể thao riêng; xuất bản một ấn phẩm văn hóa phục vụ độc giả là
trẻ em khiếm thị, sản xuất một bộ phim hoạt hình và xây dựng mô hình điểm
trường năng khiếu có trẻ em khuyết tật theo học.
- Trong lĩnh vực tiếp cận công trình xây dựng và giao thông công cộng:
Mục tiêu là đạt 100% công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước, nhà
ga, bến xe, bến tầu, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, dạy nghề bảo
đảm điều kiện cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật tiếp cận. Ít nhất 80%
người khuyết tật và trẻ em khuyết tật có nhu cầu tham gia giao thông được sử
dụng phương tiện giao thông bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận
hoặc là dịch vụ trợ giúp tương đương.
- Trong lĩnh vực trợ giúp xã hội cho trẻ em khuyết tật: Thúc đẩy thành lập
81
mới và cải tạo các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật cho phù hợp
với tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là sự tham gia của khu vực tư nhân; xây dựng
lộ trình nâng mức trợ cấp xã hội, bảo đảm trợ cấp xã hội đáp ứng được mức
sống tối thiểu của trẻ em khuyết tật; nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên hỗ
trợ và chăm sóc trẻ em khuyết tật tại cộng đồng và các cơ sở bảo trợ xã hội;
nghiên cứu đánh giá các mô hình trợ giúp trẻ em khuyết tật để phổ biến nhân
rộng các kinh nghiệm đối với những mô hình có hiệu quả.
- Trong lĩnh vực hướng nghiệp, dạy nghề, việc làm, như: hoàn thiện cơ chế,
chính sách trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn học nghề, việc làm tại
gia đình và nơi cư trú; xây dựng mô hình hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn học nghề gắn với tạo việc làm; liên kết với doanh nghiệp, vận động
các nhà tài trợ hỗ trợ thử nghiệm mô hình này ở một số địa phương; sau khi đạo
tạo nghề, nhà nước có chính sách hỗ trợ các em một nguồn vốn nhỏ để các em
xây dựng cuộc sống ban đầu.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với TEKT
ở Việt Nam
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức
xã hội về trẻ em khuyết tật, phổ biến các chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Công tác tuyên truyền phố biến nhận thức xã hội đối với trẻ em khuyết tật
là giải pháp đầu tiên và là bước đi ban đầu có ý nghĩa tiên quyết đối với hiệu quả
thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật bao gồm nhiều bước nối
tiếp nhau. Để hoạt động này thực sự có hiệu quả, cần thiết phải đẩy mạnh hoạt
động giáo dục nâng cao nhận thức của xã hội đối với trẻ em khuyết tật bởi đó
chính là nền tảng và là cơ sở cho hoạt động thực hiện chính sách. Trong thời
gian tới đây, đòi hỏi công tác tuyên truyền cần được cấp ủy, chính quyền các cơ
quan, tổ chức và các địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai
thực hiện. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực người khuyết tật,
trẻ em khuyết tật, hàng năm Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần hệ thống
82
hóa các văn bản quy định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ,
tờ rơi….in và phát cho các địa phương để hoạt động này càng ngày càng đạt
hiệu quả.
Các bộ, ngành, cơ quan Trung ương với chức năng của Bộ, cơ quan cũng
cần tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật, chính sách và đào
tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
hoạt động trong lĩnh vực tổ chức thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
Một số ngành có vai trò quan trọng và liên quan như: Bộ xây dựng cần biên soạn
và phổ biến các tài liệu “Giáo trình thiết kế xây dựng công trình kiến trúc bảo
đảm cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật tiếp cận sử dụng”, tập “Danh mục
các câu hỏi và trả lời” giúp cho quá trình thẩm định thiết kế, nghiệm thu, giám
sát công trình xây dựng được thuận lợi; tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong
ngành, các đơn vị có liên quan, các tổ chức của trẻ em khuyết tật và địa phương
về những quy định và các vấn đề kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng công trình để
người tàn tật tiếp cận và sử dụng. Bộ Giao thông vận tải đẩy mạnh hoạt động
biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách về
kiến thức và kỹ năng phục vụ trẻ em khuyết tật. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ
em mồ côi, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ trong cả nước hàng năm
cần thiết tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai các hoạt động về trẻ em
khuyết tật theo lĩnh vực và chức năng đơn vị mình phụ trách, biên soạn và phát
hành các văn bản liên quan đến ngày khuyết tật Việt Nam (18/4), ngày Quốc tế
của người tàn tật (03/12).
Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình Trung ương, địa
phương như: Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, báo Nhân dân,
Quân đội nhân dân, báo Lao động cần đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền chính sách về trẻ em khuyết tật bằng các hình thức như: Xây dựng
chuyên đề, chuyên mục, các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình của
83
trẻ em khuyết tật trong việc vượt khó vươn lên, học văn hóa, học nghề, tạo việc
làm ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, hoặc mở các chuyên mục để gây
quỹ hỗ trợ trẻ em khuyết tật.
Hội đồng tuyên truyền pháp luật của các địa phương cần trang bị tài liệu
hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm tình trạng khuyết tật, tài liệu
pháp luật về trẻ em khuyết tật cho “Tủ sách pháp luật”ở các xã, phường, thị trấn;
có kế hoạch tuyên truyền sâu rộng hệ thống chế độ chính sách đối với trẻ em
khuyết tật đến các ngành có liên quan, đại diện tổ dân phố, thôn, xóm và các gia
đình có trẻ em khuyết tật.
Đây là nội dung quan trọng mà nhờ nó, trẻ khuyết tật sẽ nhận được cái nhìn
cảm thông chia sẻ hơn từ phía xã hội, giúp các em có thể vượt qua mặc cảm, tự
ti, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.
3.2.2. Tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt là chính bản thân
gia đình có trẻ em khuyết tật và trẻ em khuyết tật
Khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân tham gia vào mọi hoạt động
trợ giúp trẻ em khuyết tật, tham gia các Đề án về trợ giúp người khuyết tật. Đặc
biệt là chính sự phối hợp của gia đình có người khuyết tật và trẻ em khuyết tật từ
việc xác định đối tượng, đến việc lập kế hoạch triển khai thực hiện ở xã,
phường, thị trấn, để quản lý nguồn lực, giám sát đánh giá. Thông tin đầy đủ tới
người dân về chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật và đặc biệt
chính gia đình có trẻ em khuyết tật.
Theo tác giả thì hiện nay cần thiết nhất là phải tăng cường sự tham gia của
gia đình trẻ em khuyết tật, vì hiện tại nhiều trẻ em khuyết tật đang sinh sống với
gia đình và nguồn động lực của họ cũng dựa vào sự trợ giúp của gia đình và
người thân. Chính vì vậy, gia đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng
vai trò quan trọng nhất trong việc hỗ trợ giúp đỡ trẻ em khuyết tật khắc phục
khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Vì thế, bên cạnh
chính sách hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em khuyết tật, cần phải hướng tới việc hỗ trợ
cho hộ gia đình có trẻ em khuyết tật, nhằm giúp cho đối tượng này được chăm
84
sóc tốt hơn, đồng thời qua đó lợi ích của trẻ em khuyết tật được đảm bảo một
cách bền vững và lâu dài. Trên cơ sở phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu, khó
khăn và nguyện vọng của các hộ gia đình, cần nghiên cứu và ưu tiên thực hiện
một số chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích hộ gia đình chăm sóc y tế, phục
hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật tại gia đình, khuyến khích hộ gia đình tạo
điều kiện tốt nhất cho trẻ em khuyết tật của họ tiếp cận được giáo dục, học nghề.
3.2.3. Hoàn thiện chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật
trong một số lĩnh vực
Trong hỗ trợ giáo dục, chăm sóc y tế, trợ giúp trẻ em khuyết tật cần phải
phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu xây dựng mô hình giáo dục hòa
nhập, giáo dục chuyên biệt và giáo dục đặc biệt, hướng nghiệp. Khuyến khích
các tổ chức, cá nhân mở trường, lớp giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập,
tiếp tục vận động tổ chức, cá nhân cấp học bổng hỗ trợ cho học sinh là người
khuyết tật để tạo điều kiện cho học sinh khuyết tật đến trường.
Tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực cho giáo dục trẻ em khuyết tật, bồi dưỡng
cán bộ, giáo viên dạy hòa nhập học sinh khuyết tật. Xây dựng chế độ, chính sách
ưu tiên, ưu đãi đối với người học, giáo viên dạy học hòa nhập và chuyên biệt
cho đối tượng là trẻ em khuyết tật. Ngoài ra, trong giáo dục trẻ em khuyết tật
cần phải ban hành các chương trình giáo dục trẻ em khuyết tật, như biên soạn
sách giáo khoa, tài liệu đặc thù (như ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật, trẻ
em khuyết tật), xây dựng tiêu chí và bộ công cụ đánh giá kết quả học tập của học
sinh khuyết tật, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng trong
giáo dục trẻ em khuyết tật. Tăng cường kiểm tra đôn đốc địa phương thực hiện
giáo dục trẻ em khuyết tật, động viên, khen thưởng dạy tốt, học tốt trong lĩnh
vực giáo dục trẻ em khuyết tật.
Trong lĩnh vực y tế, cần thực hiện các dịnh vụ phát hiện sớm những khiếm
khuyết ở trẻ sơ sinh, để tạo điều kiện cho trẻ được tiếp cận và hưởng các dịch vụ
can thiệp sớm dựa vào cộng đồng, tăng cường các dịch vụ tư vấn và dịch vụ
chăm sóc sức khỏe. Tăng cường năng lực đối với cán bộ quản lý, chuyên môn
85
trong phục hồi chức năng, đặc biệt là tuyến cơ sở về kỹ năng phát hiện sớm và
can thệp sớm. Mặt khác, cần phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục hồi chức năng cho các cơ sở phục hồi chức năng.
Để trợ giúp trẻ em khuyết tật tiếp cận và sử dụng công trình công cộng, cần
phải hoàn thiện các văn bản hiện có trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành, nhằm tăng cường các biện pháp bắt buộc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về xây dựng công trình để trẻ em khuyết tật có thể dễ dàng tiếp cận và
sử dụng. Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây
dựng công trình bảo đảm trẻ em khuyết tật tiếp cận sử dụng trong việc thiết kế,
xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình công cộng theo quy định của Luật
người khuyết tật. Điều tra khảo sát, tổng hợp dữ liệu, báo cáo từ địa phương về
việc thực hiện và thực trạng xây dựng công trình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về xây dựng công trình theo từng quý, sáu tháng, hàng năm để từ đó ra văn
bản nhắc nhở các địa phương tăng cường thực hiện hiệu quả quy định.
3.2.4. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thường xuyên tổ chức tập huấn cho
Chánh, phó Giám đốc các cơ sở bảo trợ xã hội, các Trưởng phòng Bảo trợ xã hội
thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố, Trưởng phòng
tổ chức Lao động và xã hội, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ về nội dung hướng
dẫn triển khai Luật người khuyết tật, đặc biệt là Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật
giai đoạn 2012 – 2020 bao gồm xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách, phổ biến tuyên truyền chính sách, phân công phối hợp, thực hiện chính
sách, đôn đốc thực hiện chính sách và đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm. Các
vụ chức năng chuyên môn của Bộ tùy theo chức năng nhiệm vụ cũng đã tổ chức
các lớp tập huấn về kỹ năng tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết
tật, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc TEKT tại trung tâm và cộng đồng; tập huấn cho
cán bộ, nhân viên về phương pháp sơ cứu ban đầu khi trẻ khuyết tật không may
86
bị tai nạn, động kinh hay đột quỵ.
Một số Bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các tổ chức đoàn thể như
Bộ Xây dựng cần tăng cường các khóa tập huấn cho các đơn vị trong ngành và
các đơn vị có liên quan tại Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Đà Nẵng, TP Hồ Chí
Minh, Cần Thơ (đối tượng tham gia tập huấn bao gồm các cán bộ quản lý thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Sở Xây dựng, Sở Giao thông công chính, Sở
Lao động – Thương Binh và Xã hội, các công ty Tư vấn Xây dựng, các Trường
Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại học kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học
Xây dựng, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Văn
phòng kiến trúc sư, Hội kiến trúc sư, các hội hỗ trợ người tàn tật ở các tỉnh như
Hội Cựu chiến binh, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hội cứu trợ trẻ em
tàn tật, Hội chữ thập đỏ, Hội nạn nhân chất độc da cam, Hội phụ nữ, thanh niên,
các hội người tàn tật…); Bộ Giao thông vận tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn
trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách trong đó có dành 01 chương
trình hướng dẫn phục vụ trẻ em khuyết tật, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Nội vụ, Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch, Hội bảo trợ người tàn tật về trẻ mồ côi,
Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn tật, Hội cựu chiến binh.
Bên cạch đó bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng chính sách đối với trẻ
em khuyết tật, cán bộ, công chức tăng cường tổ chức định kỳ các cuộc giao lưu
gặp gỡ giữa cán bộ làm chính sách đối với TEKT bằng cách: Cho trẻ khuyết tật
ở mỗi khu vực, mỗi độ tuổi, mỗi địa bàn được cử đại diện của mình đến gặp gỡ
cán bộ làm chính sách để bày tỏ nhu cầu, nguyện vọng về chính sách, chế độ áp
dụng cho nhóm đối tượng này. Điều đó giúp cán bộ, công chức trực tiếp làm
công tác xây dựng và thực hiện chính sách đối với TEKT hiểu một cách chính
xác mong muốn, nguyện vọng của trẻ để có cơ sở xây dựng chính sách cho phù
hợp và đạt hiệu quả thực thi cao trên thực tế. Ngoài ra, đẩy mạnh việc giao lưu,
hợp tác với các quốc gia trên thế giới để tiếp thu thành tựu và kinh nghiệm xây
87
dựng chính sách của họ trong quá trình xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện
chính sách cho trẻ em khuyết tật, có tính đến điều kiện kinh tế xã hội và phong
tục tập quán của Việt Nam.
3.2.5. Theo dõi, giám sát đánh giá, kiểm tra, sơ tổng kết hoạt động thực
hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan Trung ương và các địa phương cần thực hiện
tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật,
Luật người khuyết tật và các quy định khác về trẻ em khuyết tật. Cán Bộ ngành và
các địa phương thường xuyên ban hành các công văn, quyết định cá biệt để xử lý
và hướng dẫn xử lý những vấn đề bức xúc, vướng mắc hoặc tháo gỡ những khó
khăn. Duy trì tốt công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc tổ chức thực
hiện cính sách đối với trẻ em khuyết tật. Đây là điều kiện quan trọng góp phần
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về người tàn tật, trẻ em khuyết tật.
Hàng năm nhiều cơ quan, Bộ, ngành tổ chức các đoàn kiểm tra thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở các địa phương, các cơ sở chăm sóc trẻ em
khuyết tât: Các đoàn giám sát của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, các đoàn
của các Bộ, ngành, các đoàn thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
3.2.6. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ
chức xã hội trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Xã hội hóa là chủ chương chung của Đảng và nhà nước ta không chỉ trong
công tác chăm sóc trẻ em khuyết tật. Với số lượng trẻ em khuyết tật ở nước ta
đông như hiện này và xu hướng ngày càng gia tăng trẻ em khuyết tật do tác
động của môi trường, hơn nữa nguồn kinh phí của nước ta cho lĩnh vực này còn
khó khăn và hạn hẹp, việc huy động nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài
nước là cần thiết. Thực hiện chủ trương này nhà nước cần phải có chiến lược cụ
thể và khả thi với mục tiêu là khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và
cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia
88
hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật với các hình thức phù hợp.
Trong hoạt động chăm sóc sức khỏe cần đẩy mạnh hoạt động phục hồi
chức năng cả về vận động cũng như các khuyết tật khác nhằm bảo đảm trẻ em
khuyết tật có thể tham gia lao động và tích cực hòa nhập đời sống cộng đồng.
Lĩnh vực phát hiện sớm và can thiệp sớm tình trạng khuyết tật hiện nay ở
nước ta chưa quan tâm đúng mức trong khi tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh hiện rất
cao. Thực tế cho thấy gia đình nào có người khuyết tật thì vô cùng vất vả và gặp
nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực
này đòi hỏi nhà nước cần huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế
trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật, trong đó đặc biệt quan trọng là phát
hiện sớm và can thiệp sớm đối với người khuyết tật.
Trong lĩnh vực giáo dục cần thiết nghiên cứu mô hình giáo dục hòa nhập
phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng dạng khuyết tật, chủ trương này đòi
hỏi chủ trương xã hội hóa cao trong công tác nghiên cứu mô hình trung tâm hỗ
trợ phát triển giáo dục, nhiệm vụ của trung tâm là phát hiện sớm và can thiệp
sớm nhằm lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, tư vấn tâm lý tình cảm, giáo
dục hướng nghiệp và cung cấp chương trình, nội dung, thiết bị tài liệu phù hợp
đặc thù của từng dạng và hạng trẻ khuyết tật.
Các chính sách xã hội hóa cần áp dụng và mở rộng mô hình trung tâm bảo
trợ xã hội không chỉ do nhà nước thiết lập. Ngoài việc hỗ trợ những chính sách
ưu đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cần tạo sự bình đẳng trong việc thụ hưởng các
chính sách của đối tượng bảo trợ xã hội ở trung tâm bảo trợ xã hội trong hay
ngoài công lập.
3.2.7. Phối hợp các Bộ, ngành trong việc bảo đảm thực hiện chính sách
về người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với TEKT là hoạt động có mục đích và làm cho
các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan tới trẻ em khuyết tật
đi vào thực tiễn cuộc sống. Kết quả của hoạt động này liên quan chặt chẽ tới sự
phối hợp, kết hợp của các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách
89
mà đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Để đảm bảo thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật, thì chính phủ
cần phải là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nước về công tác người khuyết tật
trong phạm vi toàn quốc.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với công tác trẻ em khuyết tật trong
cả nước.
Ủy ban nhân dân các cấp và vai trò của Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước đối với công tác trẻ em khuyết tật; lồng ghép công tác TEKT vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; bảo đảm các điều kiện để trẻ
em khuyết tật thực hiện quyền và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân tham gia hỗ trợ trẻ em khuyết tật, gia đình, người thân có trẻ em
khuyết tật.
Khi xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước các cấp cần phải
đẩy mạnh hoạt động phân cấp trong các hoạt động cụ thể. Nâng cao vai trò trách
nhiệm của chính quyền địa phương, tránh hiện tượng vừa chồng chéo vừa trùng
lặp nhiệm vụ - yếu tố cản trở hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về người
khuyết tật, trẻ em khuyết tật. Để thực hiện hoạt động này cần phân nhiệm vụ cụ
thể theo hướng:
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm sau đây:
a. Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án, kế hoạch về công
tác trẻ em khuyết tật.
b. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về người khuyết tật; chương trình, đề án, kế hoạch về công tác người khuyết
tật;
c. Quy định thủ tục, hồ sơ, thời gian và quy trình thực hiện trợ giúp xã hội
90
tại cộng đồng; quy trình, thủ tục, hồ sơ tiếp nhận và điều kiện dừng nuôi dưỡng
trong cơ sở bảo trợ xã hội; tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, nhân
viên chăm sóc TEKT.
d. Nghiên cứu trình Chính phủ ban hành quy định về chế độ, chính sách đối
với người làm công tác TEKT khuyết tật; cán bộ, công chức, nhân viên chăm
sóc, nhận viên chỉnh hình phục hồi chức năng người khuyết tật, cán bộ chuyên
trách của tổ chức TEKT khuyết tật.
đ. Đào tạo nghiệp vụ cán bộ, công chức, nhân viên làm công tác TEKT và
chăm sóc trẻ em khuyết tật tại gia đình và trong cơ sở bảo trợ xã hội;
e. Xây dựng và thực hiện các chương trình nâng cao nhận thức về trẻ em
khuyết tật và công tác người khuyết tật;
g. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật;
h. Thực hiện công tác quốc tế về trẻ em khuyết tật;
i. Phối hợp với Bộ Y tế thực hiện giám định, cấp giấy chứng nhận khuyết
tật cho TEKT;
k. Xây dựng trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án trợ giúp trẻ em
khuyết tật;
l. Thực hiện điều tra, thống kê, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu, số liệu
và thông tin, định kỳ công bố báo cáo về trẻ em khuyết tật;
m. Quy hoạch và quản lý hệ thống cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng và
cơ sở bảo trợ xã hội.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm sau đây:
a. Hướng dẫn và tổ chức thực hiện chăm sóc sức khỏe trẻ em khuyết tật tại
các cơ sở y tế và cộng đồng;
b. Quy định quy trình xác định dạng khuyết tật, hạng tật; chủ trì thực hiện
xác định dạng khuyết tật, hạng khuyết tật và cấp giấy chứng nhận khuyết tật cho
trẻ em khuyết tật;
c. Thực hiện quản lý Nhà nước về chỉnh hình phục hồi chức năng và các cơ
91
sở chỉnh hình phục hồi chức năng thuộc ngành;
d. Chủ trì phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định cụ
thể hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật; đào tạo về chỉnh
hình, phục hồi chức năng; thực hiện chương trình phòng ngừa khuyết tật; hướng
dẫn thực hiện phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đối với người khuyết tật.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo có trách nhiệm sau:
a. Thực hiện quản lý Nhà nước về giáo dục đối với trẻ em khuyết tật;
b. Quy định thống nhất ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille trên phạp vi
toàn quốc;
c. Đào tạo giáo viên, nhân viên hỗ trợ và biên soạn chương trình, tài liệu,
giáo trình và sách giáo khoa áp dụng cho học sinh là người khuyết tật; chỉ đạo
nghiên cứu, sản xuất và cung ứng các thiết bị dạy học phù hợp với từng dạng
khuyết tật và hạng khuyết tật;
d. Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế
thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt đối với trẻ em khuyết tật;
đ. Phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thực hiện
đào tạo về các chuyên ngành chỉnh hình, phục hồi chức năng.
4. Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà
nước về công tác văn hóa, thể thao và giải trí đối với trẻ em khuyết tật; chỉ đạo,
hướng dẫn và thực hiện các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần
người khuyết tật.
5. Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan ban hành và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng
bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận và sử dụng; trình Chính phủ lộ trình cải
tạo nhà ở và công trình công cộng theo quy định tại khoản 4 Điều 28 Luật này.
6. Bộ Giao thông - Vận tải có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các Bộ,
ngành ban hành và thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kết cấu hạ tầng
giao thông, các công cụ hỗ trợ và chính sách ưu tiên trẻ em khuyết tật tham gia
92
giao thông công cộng; giảm, miễn cước phí.
7. Bộ thông tin và truyền thông có trách nhiệm ban hành và hướng dẫn thực
hiện các quy chuẩn tiếp cận công nghệ thông tin đối với trẻ em khuyết tật; chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện tuyên truyền phổ biến
chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật và công tác người khuyết tật.
8. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan xây dựng các quy định khuyến khích nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng các
sản phẩm hỗ trợ trẻ em khuyết tật sử dụng.
9. Bộ Tài chính bố trí ngân sách thực hiện các chính sách, chương trình, đề
án, dự án trợ giúp trẻ em khuyết tật, điều tra khảo sát và thống kê trẻ em khuyết
tật cho các Bộ, ngành và địa phương theo phân cấp ngân sách Nhà nước hiện
hành.
10. Bộ Kế hoạch và đầu tư bố trí ngân sách thực hiện các dự án Nhà nước
đầu tư chăm sóc, nuôi dưỡng , chỉnh hình phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật;
phối hợp Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội điều tra, khảo sát và thống kê
người khuyết tật.
3.3. Đề xuất mô hình tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và hướng
nghiệp cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
Ngoài những giải pháp mà luận văn đề cập trên, việc hoàn thiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật để các em hưởng đầy đủ các quyền như trẻ em bình
thường khác và hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội theo đúng khả năng
của mình, cần phải xây dựng những trung tâm chăm sóc trẻ khuyết tật, đây
không phải những Trung tâm được hiểu chỉ hỗ trợ các em ăn uống và coi trông
các em như những nhà trẻ và nuôi các em cho hết cuộc đời mà đây là những
Trung tâm theo một mô hình tổng hợp đan xen các hoạt động bao gồm hoạt
động giáo dục đặc biệt, giáo dục chuyên biệt, giáo dục hòa nhập; hướng nghiệp
và đào tạo nghề; chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao; chăm sóc nuôi dưỡng để các em có kỹ năng sống, có
một nghề để tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng, giảm gánh nặng cho xã hội và
93
trở thành những thành viên có ích cho xã hội. Hơn nữa trẻ em khuyết tật chỉ ở
tại Trung tâm với một thời gian nhất định, thời gian từ 3 đến 5 năm. Trẻ khuyết
tật được trả về cộng đồng khi các em có được kỹ năng nhất định theo khả năng
của mình như kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp cũng như kỹ năng tự lập cho cuộc
sống của mình. Ví dụ, mô hình Làng Hữu Nghị Việt Nam trực thuộc Trung
ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam có Trung tâm giáo dục – hướng nghiệp dạy
giáo dục đặc biệt, các kỹ năng sống cơ bản cho trẻ em khuyết tật, có các lớp dạy
nghề như nghề may công nghiệp, tin học văn phòng, dạy làm hoa lụa, thêu tranh
và dạy cắt tóc gội đầu; Trung tâm chăm sóc y tế khám, chữa bệnh và phục hồi
chức năng cho trẻ khuyết tật; khu nhà ở của các em; bể bơi vật lý trị liệu, nhà ăn,
thư viện. Làng có các bác sỹ, y sỹ, kỹ thuật viên phục hồi chức năng, các giáo
viên tốt nghiệp chuyên ngành dạy trẻ khuyết tật. Trẻ em khuyết tật được đưa đến
Làng được các y, bác sỹ, giáo viên phân loại theo khả năng nhận thức được xếp
vào các lớp giáo dục văn hóa, giáo dục hướng nghiệp. Sau khi các em có được
những kiến thức nhất định cho chính bản thân mình, hàng năm Làng có kế
hoạch trả các em về địa phương, tiếp tục được sự giúp đỡ của gia đình và chính
quyền địa phương, nhưng sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa phương sẽ
ít hơn rất nhiều so với lúc các em mới đến Làng bởi ngoài những kiến thức các
em được giá dục ở Làng, các em còn được các giáo viên, các y bác sĩ, kỹ thuật
viên vật lý trị liệu hướng dẫn gia đình trẻ khuyết tật các phương pháp chăm sóc,
phương pháp tập luyện vật lý trị liệu, phục hồi chức năng và các kỹ năng cơ bản
khác. Trên thực tế, sau khi được giáo dục hướng nghiệp nhiều trẻ em khuyết tật
ở Làng Hữu Nghị Việt Nam đã có việc làm ổn định và tự nuôi sống được bản
thân. Để xây dựng được những mô hình như thế này, nhà nước phải có những
chính sách đầu tư những trang thiết bị cơ bản cho những trung tâm bảo trợ xã
hội, các trung tâm chăm sóc trẻ em khuyết tật; có những chính sách hỗ trợ ưu đãi
nghề nghiệp cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các trung tâm, chính
sách nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các giáo viên, y bác sĩ tại các Trung
tâm, tuyển dụng thêm các cán bộ, nhân viên công tác xã hội nhằm tăng cường
94
công tác tuyên truyền và là cầu nối giữa các trung tâm bảo trợ với gia đình và
cộng đồng vì nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ em khuyết tật là một việc làm
khó, cần sự kiên trì, nhẫn lại và con các em như chính con cái mình. Khi các em
tái hòa nhập với gia đình và cộng đồng, nhà nước tiếp tục có chính sách hỗ trợ
các em như các chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, trợ cấp xã hội, các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, chính sách được hưởng các thành quả
chung của xã hội như tiếp cận các công trình giao thông công cộng. Bên cạnh
những chính sách của Nhà nước đối với TEKT, Nhà nước cũng cần có chính
sách xã hội hóa kêu gọi sự chung tay giúp đỡ, sẻ chia của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước đối với đối tượng trẻ em khuyết tật. Có như vậy trẻ em
khuyết tật sẽ có được sự tự tin, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập với gia đình
95
và xã hội.
Tiểu kết chương 3
Là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần, lại mang trong
mình những khiếm khuyết về cơ thể, trẻ khuyết tật với tư cách là nhóm bị tổn
thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật đem lại.
Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân trẻ và gia
đình của trẻ em khuyết tật. Do vậy, để hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách
đổi với trẻ em khuyết tật, để trẻ em khuyết tật được hưởng các quyền một cách
trọn vẹn nhất, có được cuộc sống tốt đẹp hơn, chương III đã đưa ra một loạt các
giải pháp như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức
xã hội về trẻ em khuyết tật, phổ biến các chính sách đối với trẻ em khuyết tật;
tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt chính bản thân gia đình có trẻ
em khuyết tật và trẻ em khuyết tật; hoàn thiện chính sách của nhà nước đối với
trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật; theo dõi, giám sát đánh giá, kiểm tra, sơ tổng kết hoạt động thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật; đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động
nguồn lực của các tổ chức xã hội trong thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật; phối hợp với các Bộ, ngành trong việc bảo đảm thực hiện chính sách
về người khuyết tật, trẻ em khuyết tật. Tất cả các giải pháp trên đều dựa trên nền
tảng và bám sát các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về người
khuyết tật, trẻ em khuyết tật được xác định trong các văn kiện đại hội Đảng, đặc
biệt là tư tưởng chỉ đạo trong nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhằm
phát huy thành tựu đã đạt được đồng thời khắc phục những hạn chế thiếu sót
trong các bước thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật: Xây dựng chính
sách, thực thi chính sách, đôn đốc thực hiện chính sách, kiểm tra giám sát thực
hiện chính sách. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất mô hình tổ chức chăm sóc, nuôi
96
dưỡng, giáo dục và hướng nghiệp cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam nhằm giúp
trẻ khuyết tật được hưởng đầy đủ các chính sách như những trẻ em bình thường
khác. Để trẻ em khuyết tật tiếp cận đẩy đủ các quyền, thì chính sách đối với trẻ
em khuyết tật phải được xây dựng và hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Hệ thống pháp luật đó phải nhằm thể
chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để chính sách đi vào cuộc
sống hàng ngày trợ giúp trẻ khuyết tật khắc phục khó khăn, tạo môi trường cho
trẻ em khuyết tật được phát triển toàn diện. Đồng thời, còn có ý nghĩa giáo dục
cộng đồng ý thức tôn trọng trẻ em khuyết tật, nhìn nhận trẻ em khuyết tật với tư
cách là một công dân bình đẳng. Đó là cơ sở để trẻ em khuyết tật vượt qua mặc
cảm, tự tin, nỗ lực vươn lên khẳng định mình, trở thành công dân có ích cho xã
97
hội.
KẾT LUẬN
Kể từ khi trở thành quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989, đồng thời còn là thành
viên thứ 118 tham gia ký công ước quốc tế về Quyền của Người khuyết tật năm
2007, ví trí vai trò của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi, nhằm
đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế
về quyền trẻ em khuyết tật. Hàng loạt chính sách, đề án, chương trình đã được
ban hành với mục đích xây dựng hành lang pháp lý chuẩn mực, là cơ sở cho việc
bảo đảm và thúc đẩy thực thi có hiệu quả các quyền của trẻ em trên thực tế. Đặc
biệt với sự ra đời của Luật người khuyết tật năm 2010 đã đánh dấu bước ngoặt
quan trọng về địa vị của trẻ khuyết tật trong xã hội và thể hiện nỗ lực và quyết
tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật hòa nhập
với cộng đồng. Tính đến thời điểm này, đây là văn bản luật đầu tiên quy định rõ
ràng trách nhiệm của các cơ quan trong việc bảo đảm quyền của trẻ khuyết tật.
Đồng thời ghi nhận những quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ khuyết tật một cách
hoàn chỉnh, thống nhất và có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm tới trẻ em
khuyết tật, xây dựng nhiều chủ trương, chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Các
cấp, các ngành Trung ương đã có nhiều cố gắng trong việc hướng dẫn thực hiện
nhằm tạo ra sự hiểu biết đầy đủ trong hệ thống quản lý, bảo đảm triển khai chính
sách đối với trẻ em khuyết tật đi vào cuộc sống. Các cấp chính quyền địa
phương đã tiến hành triển khai chính sách tương đối đồng bộ, toàn diện và phù
hợp với điều kiện kinh tế – xã hội tại mỗi địa phương. Do đó nhiều em đã được
đi học với các hình thức giáo dục phù hợp như giáo dục chuyên biệt, giáo dục
đặc biệt, giáo dục hòa nhập…, được chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, được
trợ cấp xã hội, hưởng các dịch vụ công cộng, tham gia vào các hoạt động thể
thao, văn hóa, văn nghệ… Đặc biệt trong những năm qua, rất nhiều hoạt động có
98
ý nghĩa nhằm giúp đỡ, tôn vinh trẻ em khuyết tật đã được thực hiện và thu hút
được sự chú ý, thiện cảm của đa số người dân trong xã hội. Đây là những hành
động rất thiết thực, tác động trực tiếp đến mỗi trẻ khuyết tật, đó là những động
lực giúp các em vơi đi những mặc cảm, tự ti, vượt lên trong cuộc sống và hòa
nhập vào cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạch những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chính
sách đối với trẻ em khuyết tật, vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc trong việc thực
thi chính sách đối với đối tượng này do một số chính sách chưa phù hợp với điều
kiện kinh tế của Việt Nam, nhiều chính sách không được thực hiện đồng bộ;
việc xác định mức độ khuyết tật còn chưa chích xác do đó gặp những khó khăn
trong việc trợ cấp xã hội hàng tháng cho trẻ em khuyết tật; chưa hướng dẫn và
phân công rõ ràng trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan trong việc tổ chức
thực hiện; việc quản lý các cơ sở bảo trợ xã hội, các cơ sở giúp trẻ em khuyết tật
chưa được chặt chẽ còn buông lỏng; một số chính sách chưa đến đúng đối tượng
đặc biệt đối với trẻ ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, nguồn lực của nhà
nước chưa đáp ứng được với nhu cầu của trẻ em khuyết tật hiện nay…
Để khắc phục thực trạng đó, việc phát huy tính tích cực, sáng tạo, đề ra
những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết có hiệu quả những hạn chế trong việc
thực hiện chính sách là thực sự cần thiết và cấp bách. Trước hết cần nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về trẻ em khuyết tật, cần có sự quan tâm nhiều hơn
của Nhà nước và cộng đồng đối với đối tượng bị ảnh hưởng về thể chất lẫn tinh
thần; xây dựng hệ thống chính sách đối với trẻ em khuyết tật toàn diện và đồng
bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội ở Việt Nam, bổ sung những quy định
riêng dành cho trẻ em khuyết tật; có chính sách hỗ trợ khuyến khích các cơ sở
nhận trẻ em khuyết tật vào học nghề; cần bổ tăng cường sự phối hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội; tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền cũng như sự nỗ lực, hợp tác của các sở, ban, ngành, các cá nhân, tổ
chức và toàn thể xã hôị nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện
99
chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo số 337/BC-UBTVQH12 ngày 14 tháng 6 năm 2010 của Ủy Ban
thường vụ Quốc hội về giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật người
khuyết tật trình Quốc hội thông qua.
2. Báo cáo số 3454/BC – BGDĐT ngày 17 tháng 6 năm 2010 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc báo cáo tình hình thực hiện Quyết định
239/2006/QĐ – TTg của Chính phủ.
3. Báo cáo 539/BC-BYT ngày 28 tháng 6 năm 2010 của Bộ Y tế về tình hình
thực hiện Quyết định số 239/2006/QĐ – TTg của Thủ tướng chính phủ.
4. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (2010), Báo
cáo thường niên về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Hà Nội.
5. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (2013), Báo
cáo thường niên về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Hà Nội.
6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Đặc san tuyên truyền pháp luật số
05: chủ đề người khuyết tật, Nxb Hà Nội, năm 2010.
7. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2009), xây dựng môi trường bảo vệ trẻ
em Việt Nam, đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Báo cáo Trẻ em ngoài nhà trường, Nghiên
cứu của Việt Nam.
9. Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (ICRPD), Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội (2011), giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Lao động – xã hội.
10. Công ước về quyền trẻ em 1998 (ICRPD), Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội (2011), giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao
động – xã hội.
11. Chỉ thị số 01/2006/CT – TTg, ngày 6/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
100
giao nhiệm vụ cho Bộ Giáo dục – Đào tạo biên soạn và trình Thủ tướng
Chính phủ Chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục trẻ khuyết tật giai
đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015.
12. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Bảo (2011), Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay, NXB Tư pháp.
16. Vũ Ngọc Bình (2001), Trẻ em tàn tật và quyền của các em, Nxb Lao động
– Xã hội, Hà Nội.
17. Hà Đình Bốn (2010), “Tuyên truyền pháp luật” (số 05), Chủ đề: “Luật
người khuyết tật”, Hà Nội.
18. Triệu Văn Cường (2016), Giáo trình Đánh giá Chính sách công, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội.
19. Triệu Văn Cường (2016), Giáo trình Hoạch định chính sách công, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội.
20. Triệu Văn Cường (2016), Giáo trình Quy trình Chính sách thông qua
nghiên cứu tình huống, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
21. Lê Vinh Danh (2001), “Chính sách của Hoa kỳ”, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Hữu Hải (2014), Giáo trình Chính sách công, Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên), Phạm Thu Lan (2006), giáo trình Hoạch định
và phân tích chính sách công, Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
24. Lê Bạch Hồng, Định hướng phát triển chính sách đối với người khuyết tật
101
trong giai đoàn tới, tạp chí Lao động và Xã hội, số 333 ( tr.14-15).
25. Lê Chi Mai (2000), “chính sách và quá trình chính sách”, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Lê Chi Mai (2001), Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính
sách, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
27. Trần Nam (2012), Chính sách đối với người bị nhiễm chất độc hóa học còn
nhiều bất cập, Báo Bình Thuận Online 19/12/2012.
28. Hồ Văn Thông (1999), tìm hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
29. Võ Thị Hoàng Yến: Giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật như thế nào?
http://www.báo văn hóa.vn/Giáo dục/print -18919.vho.
30. Nghị định 67/2007/NĐ – CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách
trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.
31. Nghị định 28/2012/NĐ - CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật người khuyết tật.
32. Nghị định 136/2013/NĐ – CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 quy định người
tàn tật từ mức độ nặng, thuộc hộ nghèo thì được hưởng trợ cấp xã hội.
33. Nghị định 26/2016/NĐ – CP ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chính phủ quy
định chế độ trợ cấp, phụ cấp đối với công chức, viên chức và người lao
động làm việc tại các cơ sở quản lý người cai nghiện, người sau cai nghiện
ma túy và cơ sở trợ giúp xã hội công lập.
34. Quyết định 1717/QĐ – TTg ngày 06 tháng 10 năm 2015 về việc thành lập
Ủy ban Quốc gia về người khuyết tật.
35. Quyết định 3553/QĐ UBND ngày 27 tháng 5 năm 2013 về việc phê duyệt
kế hoạch trợ giúp người khuyết tật thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012 –
2020.
36. Quốc hội (1991), Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Hà Nội.
37. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Hà Nội.
38. Quốc hội (2005), Luật giáo dục, Hà Nội.
102
39. Quốc hội (2006), Luật thể dục thể thao, Hà Nội.
40. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.
41. Quốc hội (2010), Luật người khuyết tật, Hà Nội.
42. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
43. Thông tư 01/2015/TT-BLĐTBXH ngày 06 tháng 01 năm 2015 hướng dẫn
về quản lý trường hợp đối với người khuyết tật.
44. Thông tư liên tịch 37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT ngày 28
tháng 12 năm 2012 của các bộ, cơ quan ngang bộ quy định về việc xác
định mức độ khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện.
45. Thông tư liên tịch 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC ngày 31
tháng 12 năm của các bộ, cơ quan ngang bộ quy định chính sách về giáo
dục đối với người khuyết tật.
46. Thông tư liên tịch 19/2015/TTLT-BKHCN-BLĐTBXH ngày 30 tháng 10
năm 2015 của các bộ, các cơ quan ngang bộ quy định về khuyến khích
nghiên cứu khoa học, chuyển giao và ứng dụng công nghệ sản xuất sản
103
phẩm hỗ trợ người khuyết tật.