BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TÔN NỮ MINH HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TÔN NỮ MINH HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG

Mã số: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất

xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất

kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Tôn Nữ Minh Huyền

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính quốc gia,

học viên đã hoàn thành luận văn thạc sĩ quản lý công. Học viên xin bày tỏ

lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến người đã tận tình hướng dẫn học

viên trong suốt thời gian nghiên cứu luận văn, cô giáo hướng dẫn PGS.TS.

Đinh Thị Minh Tuyết, Học viện Hành chính Quốc gia.

Đồng thời, học viên xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới lãnh đạo Học viện

Hành chính quốc gia, Khoa Sau đại học, các thầy cô giáo tại Học viện Hành

chính quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình

học tập và nghiên cứu.

Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành Phòng Bảo trợ xã hội - Sở Lao

động, Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế đã cung cấp tư liệu, số

liệu chính xác, khách quan, đầy đủ giúp học viên đưa ra những đánh giá và

phân tích.

Và đặc biệt, xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn

bè, đồng nghiệp đã động viên tạo mọi điều kiện thuận lợi và đóng góp những

ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn./.

Xin trân trọng cảm ơn!

Học viên

Tôn Nữ Minh Huyền

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT ............................... 9

1.1. Khái niệm cơ bản ..................................................................................... 9

1.1.1. Người khuyết tật ...................................................................................... 9

1.1.2. Trợ giúp xã hội ...................................................................................... 12

1.1.3. Chính sách trợ giúp xã hội .................................................................... 14

1.1.4. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật .................. 16

1.2. Nội dung chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật ................ 18

1.2.1. Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ............................................. 18

1.2.2. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất ...................................................... 26

1.3. Quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ... 26

1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

người khuyết tật ............................................................................................... 26

1.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ..... 27

1.3.3. Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật .... 28

1.3.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách trợ giúp

xã hội cho người khuyết tật ............................................................................. 28

1.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật ....................................................................................................... 29

1.4.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với

người khuyết tật ............................................................................................... 29

1.4.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật ............. 30

1.4.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách trợ giúp

xã hội cho người khuyết tật ............................................................................. 31

1.4.4. Thực hiện an sinh xã hội và giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng .... 32

1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết

tật ở một số địa phƣơng ................................................................................ 33

1.5.1. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình .............................................................................................. 33

1.5.2. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng .......................................................................................... 36

1.5.3. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn

tỉnh Hà Tĩnh .................................................................................................... 38

1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thừa Thiên Huế .................................... 41

Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI

CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .. 45

2.1. Thực trạng ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ..... 45

2.1.1. Số lượng, cơ cấu, độ tuổi, dạng khuyết tật và nguyên nhân khuyết tật 45

2.1.2. Chất lượng cuộc sống và nhu cầu của người khuyết tật ....................... 51

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................ 53

2.2.1. Chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng .............................................. 54

2.2.2. Hỗ trợ Giáo dục - Đào tạo ..................................................................... 56

2.2.3. Dạy nghề và việc làm ............................................................................ 58

2.2.4. Văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch ....................................... 63

2.2.5. Tiếp cận các công trình công cộng, giao thông .................................... 65

2.2.6. Công nghệ thông tin và truyền thông .................................................... 67

2.2.7. Bảo trợ xã hội ........................................................................................ 69

2.2.8. Xác định mức độ khuyết tật .................................................................. 70

2.2.9. Trợ giúp pháp lý .................................................................................... 71

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................ 73

2.3.1. Kết quả đạt được trong thực hiện chính sách ........................................ 73

2.3.2. Hạn chế trong thực hiện chính sách ...................................................... 78

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách .......................... 79

Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT

TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ............................................ 82

3.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết vấn đề của ngƣời khuyết tật .. 82

3.1.1. Quan điểm về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ............................. 82

3.1.2. Định hướng về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ............................ 89

3.1.3. Mục tiêu trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế ........................................................................................................ 92

3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ................................. 95

3.2.1. Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp xã

hội đối với người khuyết tật ............................................................................ 95

3.2.2. Tiến hành thường xuyên và toàn diện hoạt động tuyên truyền, phổ biến

các chính sách đối với người khuyết tật .......................................................... 98

3.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác thực hiện chính sách đối với người khuyết tật................................ 102

3.2.4. Huy động nguồn lực từ hoạt động xã hội hóa trong thực hiện chính sách

đối với người khuyết tật ................................................................................ 104

3.2.5. Kiểm tra, giám sát và theo dõi tiến độ thực hiện đồng thời tổng kết đánh

giá hoạt động thực hiện chính sách đối với người khuyết tật ....................... 105

3.2.6. Phối hợp thường xuyên và đồng bộ các cơ quan ban ngành trên địa bàn

trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật..................................... 105

3.3. Một số khuyến nghị .............................................................................. 106

3.3.1. Đối với Trung ương ............................................................................ 107

3.3.2. Đối với địa phương ............................................................................. 110

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC VIẾT TẮT

An sinh xã hội ASXH

Bảo trợ xã hội BTXH

LĐ-TB và XH Lao động - Thương binh và Xã hội

Người khuyết tật NKT

Trợ giúp pháp lý TGPL

Trợ giúp xã hội TGXH

Ủy ban nhân dân UBND

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang

Bảng

Bảng 2.1. Số liệu người khuyết tật và kinh phí trợ giúp trên địa bàn tỉnh giai

đoạn 2013 - 2017 .............................................................................. 45

Biểu đồ

Biểu đồ 2.1. Số người khuyết tật ở các dạng khuyết tật năm 2015 ..................... 46

Biểu đồ 2.2. Độ tuổi người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm

2017 ................................................................................................... 48

Biểu đồ 2.3. Nguyên nhân khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm

2017 ................................................................................................... 50

Biểu đồ 2.4. Mức độ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017 ... 50

Biểu đồ 2.5. Chính sách người khuyết tật đang hưởng trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế năm 2017 ........................................................................ 51

Biểu đồ 2.6. Nhu cầu, nguyện vọng của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế năm 2017 ........................................................................ 52

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Các quốc gia trên thế giới đều công nhận quyền của người khuyết tật và

gia đình của họ có được mức sống thỏa đáng, trong đó có điều kiện ăn, mặc, ở

được đảm bảo. Các nước công nhận quyền của người khuyết tật được hưởng

phúc lợi xã hội mà không có sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở sự khuyết tật.

Các nước có trách nhiệm tiến hành các bước thích hợp để bảo vệ và thúc đẩy

quyền này thành hiện thực. Quyền của người khuyết tật được khẳng định

trong các Hiến chương, Công ước, Nghị quyết, pháp luật và chính sách của

nhà nước.

Ở Việt Nam, trong những năm qua, đi cùng với quá trình đổi mới đất

nước, xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất

nước đã đạt được những thành quả lớn về kinh tế văn hóa xã hội. Tuy nhiên,

nước ta vẫn là nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai thường

xuyên xảy ra gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp

đến đời sống nhân dân và điều kiện phát triển kinh tế văn hoá xã hội. Bên

cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường: sự phân hóa giàu nghèo, chạy

theo lối sống thực dụng, suy giảm về đạo đức, lối sống, thất nghiệp đang

là những nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội như: người già cô đơn,

người lang thang, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,

các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, ngay từ xa xưa đã có những hoạt động cưu

mang giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội. Cùng với sự phát triển của xã

hội, hoạt động đó dần trở thành hoạt động có tổ chức hơn. Chính sách trợ giúp

xã hội ở nước ta hình thành ngay sau cách mạng tháng 8 năm 1945 với mục

đích trợ giúp về đời sống cho bộ phận nhân dân có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn. Sau nhiều năm phát triển chính sách trợ giúp xã hội, đặc biệt là chính

1

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật đã trở thành nội dung quan

trọng trong hệ thống chính sách của Nhà nước. Hệ thống chính sách này được

hoàn thiện và phát triển theo hướng: thể chế hóa chính sách (Luật Người

khuyết tật và các văn bản hướng dẫn dưới luật); mở rộng đối tượng thuộc diện

được trợ giúp; đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện. Bởi thế, trợ giúp xã hội

không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, nhận thức về an sinh xã hội nói chung, trợ giúp xã hội nói

riêng chưa đầy đủ. Nhận thức về trợ giúp xã hội vẫn đang nặng nề các hoạt

động từ thiện, chưa phải là sự chia sẻ trách nhiệm để góp phần nâng cao đời

sống xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền của đối tượng và đảm bảo an toàn

cho mọi thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro.

Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế

trong những qua đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững ổn định

chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh. Nhưng so với đòi hỏi thực tế thì chính sách

trợ giúp xã hội của tỉnh còn những hạn chế nhất định. Chế độ trợ cấp thấp, cơ

chế tài chính chưa rõ ràng, thiếu bộ máy tổ chức thực hiện đồng bộ ở các cấp.

Những hạn chế này đã dẫn đến tỷ lệ đối tượng thụ hưởng chính sách thấp, đời

sống vật chất và tinh thần của đối tượng được trợ cấp xã hội trong đó có

người khuyết tật vẫn khó khăn.

Mặt khác, cơ sở vật chất và trang thiết bị của các cơ sở bảo trợ xã hội bị

xuống cấp và còn thiếu. Đồng thời tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ,

nhân viên thực hiện công tác trợ giúp xã hội cho người khuyết tật còn nhiều

hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu để hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo nâng

cao chất lượng trợ cấp và số lượng đối tượng thụ hưởng là rất cần thiết. Đặc

biệt hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

phải đặt trong bối cảnh xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiện đại, đáp ứng

2

đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Đây là một

vấn đề phức tạp, khó khăn được Đảng, Nhà nước ta nói chung và tỉnh Thừa

Thiên Huế nói riêng rất quan tâm. Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc

thực tế, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.

Nhân trường hợp tỉnh Thừa Thiên Huế để làm đề tài cho luận văn của

mình, với mong muốn góp phần vào công tác thực hiện trợ giúp các đối tượng

yếu thế, thiệt thòi trong xã hội mà cụ thể là người khuyết tật để góp phần ổn

định chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh nhà.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề

này dưới nhiều góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức như: Đề

tài khoa học, giáo trình, bài báo, bài đăng tạp chí. Có thể khái quát một số

công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề dưới góc độ tiếp cận như sau:

- Đề tài “Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cộng đồng ở Việt

Nam” của Nguyễn Ngọc Toản, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân,

2010. Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không chỉ là cứu đói, hỗ trợ lương

thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến tranh, tai nạn, mà

còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp đột xuất và trợ giúp

thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm các chính sách bộ phận

đặc biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng gồm các

chính sách bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế, trợ giúp về

giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời trong bài viết

cũng chỉ ra được số lượng người khuyết tật năm 2009 trên cả nước và phạm

vi phân bổ người khuyết tật, dạng khuyết tật và số lượng người khuyết tật

cũng như nhu cầu của người khuyết tật và việc đáp ứng nhu cầu của người

khuyết tật cũng như các chính sách cho người khuyết tật Việt Nam.

3

- “Chính sách BTXH đối với một số đối tượng yếu thế ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Đại Đồng, Luận văn thạc sĩ kinh doanh

và quản lý, 2011. Công trình này đã trình bày một cách rõ nét những vấn đề

cơ bản của chính sách BTXH trong nền kinh tế thị trường; thực trạng thực

hiên chính sách BTXH ở nước ta hiện nay; phương hướng, giải pháp xây

dựng và hoàn thiện chính sách BTXH ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tình hình nghiên cứu hoạt động trợ giúp xã hội đối với đối tượng

BTXH nói chung và người khuyết tật nói riêng có ý nghĩa thực tiễn vô cùng

to lớn đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm giải

quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Vì

vậy, vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các công

trình đã được công bố, có thể kể tên một số công trình liên quan trực tiếp đến

đề tài luận văn là:

- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người

khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008.

Tác giả đã chỉ ra thực trạng thực hiện pháp luật về quyền người khuyết tật

và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở

Việt Nam.

- Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết

tật” của Hồ Thị Trâm năm 2013. Công trình này đã nghiên cứu và đưa ra giải

pháp về tạo việc làm cho người khuyết tật.

- Luận văn thạc sĩ Luật học “Chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật”

của Nguyễn Đức Hoàng năm 2013. Công trình này đã nghiên cứu cơ sở khoa

học và thực tiễn về chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật trên từng

khía cạnh và mức độ khác nhau.

4

- Luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành

phố Hà Nội” của Nguyễn Thị Quỳnh năm 2014. Tác giả chỉ ra những thành tựu

mà chính quyền xã Hợp Đồng đã làm được trong việc thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội đối với người khuyết tật sinh sống tại địa bàn trong thời gian qua, tuy

nhiên tác giả cũng nêu ra những mặt hạn chế, những bất cập như nhiều người

còn chưa tiếp cận được với chính sách trợ giúp của Nhà nước vì thiếu thông tin

liên quan đến chính sách trợ giúp, một số cán bộ của cơ quan hành chính Nhà

nước gây khó khăn, phiền nhiễu trong công tác tiếp cận các chính sách trên,

đồng thời đưa ra những giải pháp cũng như kiến nghị cho việc thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trong thời gian tới.

Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về người khuyết tật nhưng chưa

có một nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể, toàn diện việc thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Vì vậy, nghiên cứu việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật ở Thừa Thiên Huế trong quá trình xây dựng và phát triển là rất cần

thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài luận văn góp phần hoàn thiện việc thực

hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:

- Hệ thống cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thực hiện chính sách

trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

5

- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

người khuyết tật được thực hiện trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Thời gian: Nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật được thực hiện trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2013 đến

năm 2017 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.

- Nội dung: Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật bao gồm

chính sách trợ giúp thường xuyên và chính sách trợ giúp đột xuất. Trong

phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

thường xuyên cho người khuyết tật.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Việc nghiên cứu đề tài luận văn được dựa trên cơ sở phương pháp luận

về phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề

người khuyết tật và thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm:

- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

6

Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật, tài liệu, giáo

trình và các công trình, bài viết có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận.

Luận văn cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, bổ sung và phát triển

các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu

của đề tài.

- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: trên cơ sở các tài liệu thống

kê, các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Thừa Thiên Huế

trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

- Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến chuyên gia, nhà quản lý.

- Phương pháp xử lý thông tin và xử lý số liệu: Dựa trên các thông tin,

số liệu mới nhất mà Luận văn có thể thu thập được từ các nguồn thông tin

đáng tin cậy (từ các cơ quan thống kê, các cuộc điều tra) để đưa ra những

nhận định khách quan về lý luận và thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp

xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện chính sách

trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn phân tích, đánh giá và xác định nguyên nhân hạn chế trong

thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn Thừa

Thiên Huế.

- Luận văn đề xuất một số giải pháp khả thi góp phần tham mưu cho

các nhà quản lý trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật trên địa bàn Thừa Thiên Huế.

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các nhà

hoạch định thực thi chính sách.

7

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp

xã hội cho người khuyết tật

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT

1.1. Khái niệm cơ bản

1.1.1. Người khuyết tật

 Khuyết tật

Theo từ điển tiếng Việt (Nhà Xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội

1988) từ Khuyết có nghĩa là không đầy đủ vì thiếu mất một bộ phận, thiếu

mất một hay nhiều phần. Từ T t có nghĩa là: “Có điều gì đó không được

bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu, dụng cụ, máy móc. Còn ở người là

sự bất thường, nói chung không thể chữa được, của một cơ quan trong cơ thể

do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn lao động, thương tích trong chiến tranh

hay bệnh gây ra” [36].

Như vậy, khuyết tật có thể được hiểu là khiếm khuyết thực thể ở một bộ

phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức

của cơ thể và khiếm khuyết đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.

Định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới được hiểu "Là

tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý

bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui

chơi giải trí và sinh hoạt".

 Người khuyết tật

Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất

hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực

hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày.

Khái niệm Người khuyết tật theo Liên Hợp Quốc đó là những người

không có khả năng tự đảm bảo cho bản thân từng phần hoặc toàn bộ các hoạt

9

động cá nhân, xã hội do sự thiếu hụt (bẩm sinh hoặc không bẩm sinh) về thể

chất hay tâm thần của họ.

Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật của Liên Hợp Quốc

khẳng định: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài

về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương tác với những

rào cản khác nhau có thể gây cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ

trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội” [35].

Ở mỗi nước khái niệm về người khuyết tật có khác nhau về mức độ,

thời gian tác động của khuyết tật đối với đời sống con người.

Ở Anh quốc: Theo DDA (Disability Discrimination Act - Đạo luật chống

phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành); Người khuyết

tật là những người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần

mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt

động, sinh hoạt hàng ngày. Khi xét về mặt thời gian tác động người khuyết tật là

những người có: Khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài hơn 12 tháng

được coi là khuyết tật; Khiếm khuyết kéo dài dưới 12 tháng không được coi là

khuyết tật, trừ khi là bị tái đi tái lại; Một số khiếm khuyết kéo dài hơn 12 tháng

cả khi được phục hồi hoàn toàn thì vẫn được coi là người khuyết tật.

Ở Hoa Kỳ: Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990

(ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật

là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến

một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về

khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động; Khiếm khuyết về thị giác,

Khiếm khuyết về nói và nghe, Chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và

những khiếm khuyết cụ thể về học tập, Các bệnh lây và không lây như Bại

não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, bệnh lao và bệnh do

HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng).

10

Ở Việt Nam, khái niệm về người khuyết tật được hiểu thống nhất kể từ

khi có Luật Người khuyết tật, theo đó tại Khoản 1, Điều 2 có quy định:

“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể

hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,

sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [40].

 Phân loại khuyết tật

Người khuyết tật được chia làm các loại khuyết tật sau:

- Khuyết tật vận động: Là dạng khuyết tật ảnh hưởng đến khả năng vận

động, di chuyển.

- Khuyết tật nghe nói: Những người khuyết tật thuộc nhóm này là

những người yếu kém khả năng nghe nên cần phải có những dụng cụ trợ thính

để giúp họ nghe được tiếng nói của người khác; vì không nghe được nên khả

năng nói của họ cũng rất yếu kém.

- Khuyết tật nhìn: Là những người rất yếu kém khả năng nhìn, dù đã

đeo kính, khiến hạn chế hoạt động cần nhìn bằng mắt.

- Khuyết tật thần kinh, tâm thần: Là người suy yếu về cảm xúc, suy

nhược tinh thần hoặc mắc bệnh tâm lý khiến cho những nhu cầu của cá nhân

và những nhu cầu mang tính xã hội của họ bị hạn chế.

- Khuyết tật trí tuệ: Những người khuyết tật dạng này có sự suy yếu hay

chậm phát triển trí não như những người bại não, động kinh, tự kỷ, và những

rối loạn tương tự khác.

- Khuyết tật khác: Là những người bị giảm khả năng thực hiện các hoạt

động trong học tập và lao động do tê bì hoặc mất cảm giác ở tay chân, mặc dù

đã được điều trị liên tục 3 tháng; do các nguyên nhân hô hấp hoặc do tim

mạch hoặc do rối loạn đại, tiểu tiện dù đã liên tục điều trị 3 tháng; hoặc do các

nguyên nhân khác.

11

1.1.2. Trợ giúp xã hội

Trợ giúp xã hội là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật an

sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng

có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như người bình

thường khác và không đủ khả năng tự lo liệu. Ý nghĩa pháp luật của trợ giúp

xã hội xuất phát từ quyền cơ bản của con người. Mỗi người sống trong xã hội

đều có quyền được sống, được bình đẳng, được thương yêu, đùm bọc, bảo vệ

khỏi những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự sống bị đe dọa.

Theo từ điển Tiếng Việt cụm từ “Trợ giúp” có nghĩa giúp đỡ về vật

chất cho đỡ khó khăn, thiếu thốn. Cụm từ “Bảo trợ” có nghĩa là giúp đỡ cho

tổ chức hoặc cá nhân có khó khăn về vật chất trong cuộc sống. Hai thuật

ngữ “bảo trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội” có nghĩa gần tương đồng nhau tuy

nhiên trong các văn bản, sách báo và giáo trình hiện nay phần lớn sử dụng

thuật ngữ “trợ giúp xã hội”.

TGXH được hiểu theo các quan điểm tiếp cận, tính chất, chức năng,

hình thức và mô hình khác nhau. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu chưa lý giải

một cách toàn diện về khái niệm TGXH, nhưng cũng đã giải thích thuật ngữ,

từ ngữ gần với TGXH (bảo trợ xã hội, công tác xã hội, phúc lợi xã hội, an

sinh xã hội, cứu tế xã hội, cứu trợ xã hội, dịch vụ xã hội). Cụ thể:

Bộ LĐ-TB&XH (1999) “Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách,

chế độ, hoạt động của chính quyền các cấp và hoạt động của cộng đồng xã

hội dưới các hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm giúp các đối tượng

thiệt thòi, yếu thế hoặc gặp bất hạnh trong cuộc sống có điều kiện tồn tại và

có cơ hội hoà nhập với cuộc sống chung góp phần bảo đảm ổn định và công

bằng xã hội” [6].

Chuyên gia Unicef (2006) định nghĩa “Công tác xã hội là sự thúc đẩy

thay đổi trong xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa

12

con người, trao quyền và giải phóng con người đem lại sự bình yên cho xã

hội. Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống xã hội,

công tác xã hội can thiệp vào các mặt mà ở đó con người tác động trực tiếp tới

môi trường sống của họ. Nguyên tắc về quyền con người và công bằng xã hội

là cốt lõi của công tác xã hội’’ [59].

Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003) giải thích “Phúc lợi xã hội là một

bộ phận thu nhập quốc dân của xã hội được sử dụng nhằm thoả mãn những

nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội, chủ yếu được

phân phối ngoài thu nhập theo lao động. Phúc lợi xã hội bao gồm: những chi

phí xã hội như trả tiền hưu trí, các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội, học bổng cho

học sinh, những chi phí cho học tập không mất tiền, những dịch vụ y tế, nghỉ

ngơi an dưỡng, nhà trẻ, mẫu giáo” [58].

Nguyễn Hải Hữu (2007) định nghĩa “An sinh xã hội là một hệ thống

các cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ

giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế -

xã hội làm cho họ suy giảm, hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản,

tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn khả năng lao động, hoặc vì các

nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá và cung

cấp dịch vụ chăm sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách

về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, TGXH và trợ giúp đặc biệt” [33, tr.16-17].

Nguyễn Văn Định (2008) cho rằng “Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của

xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và của cộng đồng đối với các

thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như thiên

tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh

neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu,

vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường”, đồng thời

giải thích “Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội bằng tiền

13

hoặc hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ tối cần thiết cho

người được trợ cấp khi họ bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng, không còn khả

năng tự lo liệu cuộc sống thường ngày cho bản thân họ và gia đình”. Cũng

với cách tiếp cận này tác giả cũng cho rằng “TGXH là sự giúp đỡ thêm của

cộng đồng xã hội bằng tiền hoặc bằng các phương tiện thích hợp để người

được trợ giúp có thể phát huy khả năng tự lo liệu cho cuộc sống bản thân

và gia đình, sớm hòa nhập lại với cộng đồng’’[25].

Tổng hợp các giải thích trên cho thấy, hầu hết các khái niệm chưa mô tả

đầy đủ về TGXH, mà cần giải thích toàn diện hơn nữa về TGXH. TGXH không

chỉ là hoạt động của cộng đồng và xã hội mà phải là trách nhiệm của Nhà nước,

không những thế còn là hoạt động có tính chất về công tác xã hội, không dành

riêng cho một, hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH không phải là giải

pháp toàn diện về an sinh xã hội, mà chỉ là một hợp phần của an sinh xã hội.

Như vậy, có thể hiểu TGXH là hệ thống các chính sách, chế độ, hoạt

động của cộng đồng xã hội dưới các hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm

mục tiêu giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc sống có

điều kiện tồn tại và có cơ hội hòa nhập cuộc sống chung của cộng đồng, góp

phần bảo đảm ổn định và công bằng xã hội.

1.1.3. Chính sách trợ giúp xã hội

 Chính sách

Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân

hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề

(James Anderson 2003).

Theo Vũ Cao Đàm, chính sách là một thiết chế xã hội, bao gồm tập hợp

nhiều thiết chế: thiết chế bất thành văn, thiết chế công bố và thiết chế ngầm

định [20]. Trong khuôn khổ luận văn, chỉ đề cập đến thiết chế thành văn tức là

những chính sách được pháp luật quy định gần với nội dung quản lý nhà nước.

14

 Chính sách công

Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của

chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách

thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng

như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những

chương trình (Kraft and Furlong, 2004).

Chính sách công là một trong những công cụ được Nhà nước sử dụng

để quản lý, điều hành nền kinh tế - xã hội theo định hướng, được Nhà nước

ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra

trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Được Nhà nước

sử dụng để khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho

nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn

lực công một cách hiệu quả, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội,

môi trường. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà

hoạch định chính sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả

thực tế. Vì vậy, chính sách công được hiểu là: Những hành động ứng xử của

Nhà nước đối với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể

hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.

 Chính sách trợ giúp xã hội

Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) cho đối tượng BTXH ở Việt Nam

được hình thành từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945, với mục đích là cứu đói

cho những người chịu hậu quả chiến tranh, hậu quả thiên tai, trẻ em mồ côi,

người tàn tật. TGXH không chỉ là cứu đói, hỗ trợ lương thực cho cá nhân, hộ

gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến tranh, mà đã mở rộng thành các hợp

phần chính sách là trợ giúp đột xuất, trợ giúp thường xuyên (trợ giúp thường

xuyên cộng đồng, nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội). Vì vậy, chính

sách trợ giúp xã hội được hiểu là: Các quan điểm, cách thức, biện pháp của

15

nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền để thực hiện mục

tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải hoàn

cảnh khó khăn.

 Khái niệm:

1.1.4. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là các quan điểm, cách

thức, biện pháp của nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm

quyền tác động đến lĩnh vực người khuyết tật. Đó là các chính sách bảo trợ xã

hội, trợ giúp về y tế, giáo dục, hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao,

tiếp cận với các dịch vụ công cộng giúp người khuyết tật phát triển với khả

năng của chính mình, xoá đi những mặc cảm, phát triển và hòa nhập với cộng

đồng như những người bình thường khác.

Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là quá trình

biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động

có tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hóa các chính sách đối với

người khuyết tật đã đề ra.

Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật mang đầy

đủ đặc điểm của quá trình thực hiện chính sách nói chung. Với bản chất là

hoạt động xã hội của con người, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

người khuyết tật hàm chứa những đặc điểm chung của các hoạt động xã hội

khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc

thù sau đây:

Thứ nhất, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật bao

giờ cũng thông qua những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của

con người bao giờ cũng được bộc lộ thông qua các hành vi, hoạt động cụ thể

trong các mối quan hệ xã hội. Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại

của con người, chính vì lẽ đó, việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

16

người khuyết tật thường tồn tại là những dạng hành động tích cực là chủ yếu

và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ máy nhà nước. Kết quả

thực hiện các chính sách đó trên thực tế không phải lúc nào cũng hợp pháp,

cũng bảo vệ và đem lại những lợi ích cho người khuyết tật có thể do nhiều

nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và bảo đảm

quyền lợi cho người khuyết tật không thể đạt được.

Thứ hai, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là hành

vi phù hợp với pháp luật về người khuyết tật. Đó là những hành vi cụ thể của con

người song thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật có đặc

điểm là phải phù hợp với các quy định hiện hành liên quan tới người khuyết tật.

Việc phù hợp ở đây được hiểu là khi thực hiện chính sách không được làm trái

với mục tiêu của chính sách, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp

của người khuyết tật, tất cả là tạo điều kiện và bảo vệ lợi ích của người khuyết

tật, quyền tiếp cận đời sống xã hội của người khuyết tật.

Nói đến việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

bao giờ các chủ thể cũng quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là

thực hiện nội dung liên quan tới người khuyết tật và cách thức, hình thức thực

hiện bằng hình thức nào?

Thứ ba, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là

một quá trình có mục đích, nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến

những quyền và nghĩa vụ pháp lý bảo vệ người khuyết tật thành những hành

vi xử sự trong thực tế thì cần thiết phải thông qua hàng loạt là các hoạt động

 Chủ thể của chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật:

cụ thể của con người mà các hoạt động đó phải có mục tích, mục tiêu cụ thể.

Trung ương: Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

 Đối tượng: Người khuyết tật

Địa phương: Ủy ban nhân dân tỉnh

17

1.2. Nội dung chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật

1.2.1. Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên

Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cho người khuyết tật bao gồm

các chính sách sau:

Một là, chính sách về y tế

Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và

sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp.

Người khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định

của pháp luật về bảo hiểm y tế.

Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để

người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh.

Người khuyết tật là người mắc bệnh tâm thần ở trạng thái kích động,

trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác

được hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều

trị bắt buộc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện khám bệnh, chữa bệnh

cho người khuyết tật.

Hai là, chính sách về giáo dục

Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với

nhu cầu và khả năng của người khuyết tật.

Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy

định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn,

giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng

của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo,

các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ

dùng học tập.

18

Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập

dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học

bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi

Braille theo chuẩn quốc gia.

Phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập,

giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.

Người khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ người khuyết tật lựa

chọn phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân người

khuyết tật.

Nhà nước khuyến khích người khuyết tật tham gia học tập theo phương

thức giáo dục hòa nhập.

Ba là, chính sách dạy nghề và việc làm

Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí,

lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác.

Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận

nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều

kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.

Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao

động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với

sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật.

Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng

người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu

chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của

người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là

người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm

điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.

19

Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người

khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với

lao động là người khuyết tật.

Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và

giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.

Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho

người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh,

được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản

phẩm theo quy định của Chính phủ.

Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30 tổng số lao động trở lên là

người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp

cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn

với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho

thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước

phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ

khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp.

Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người

khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người

khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định.

Bốn là, chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch

Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch

phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật

được hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.

Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, người khuyết tật nặng được

giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục, thể

thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ.

20

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho người khuyết tật phát triển tài

năng, năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao; tham gia sáng tác, biểu

diễn nghệ thuật, tập luyện, thi đấu thể thao.

Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ, trang

thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan, tổ chức,

cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ hoạt động

văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người khuyết tật.

Năm là, chính sách về nhà chung cư, công trình công cộng; tham gia

giao thông

Việc phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu công trình xây dựng

mới, cải tạo và nâng cấp nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng

kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội phải tuân thủ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật

quốc gia về xây dựng để bảo đảm người khuyết tật tiếp cận.

Nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công

cộng, công trình hạ tầng xã hội được xây dựng trước ngày Luật này có hiệu

lực mà chưa bảo đảm các điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật phải

được cải tạo, nâng cấp để bảo đảm điều kiện tiếp cận .

Phương tiện giao thông cá nhân của người khuyết tật khi tham gia giao

thông phải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với điều kiện sức

khỏe của người khuyết tật. Phương tiện giao thông cá nhân đòi hỏi phải có

giấy phép điều khiển thì người khuyết tật được học và cấp giấy phép điều

khiển đối với phương tiện đó.

Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng các phương tiện giao

thông công cộng được sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoặc sự trợ giúp

tương ứng; được phép mang theo và miễn phí khi mang phương tiện, thiết

bị hỗ trợ phù hợp.

21

Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng được miễn,

giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một số phương tiện giao

thông công cộng theo quy định của Chính phủ.

Người khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi

thuận tiện khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.

Phương tiện giao thông công cộng phải có chỗ ưu tiên cho người

khuyết tật; có công cụ hỗ trợ lên, xuống thuận tiện hoặc sự trợ giúp phù hợp

với đặc điểm của người khuyết tật.

Phương tiện giao thông công cộng để người khuyết tật tiếp cận sử dụng

phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận do cơ quan

nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Đơn vị tham gia vận tải công cộng phải đầu tư và bố trí phương tiện

bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận trên các tuyến vận tải theo

tỷ lệ do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ.

Phương tiện giao thông công cộng đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

về giao thông tiếp cận được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật về

thuế khi sản xuất, nhập khẩu.

Sáu là, chính sách về Công nghệ thông tin và truyền thông

Theo khoản 1, khoản 4 Điều 43 Luật NKT năm 2010, Nhà nước khuyến

khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực công nghệ thông

tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho NKT. Nhà nước có

chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và nhiều hỗ trợ

khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ

NKT tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên

soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc

dành cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ [40]. Luật công nghệ thông tin năm

2006 cũng nhấn mạnh việc Nhà nước có chính sách ưu đãi để tổ chức, cá nhân

22

có hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đối với NKT; có

chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác cho hoạt động nghiên

cứu, phát triển công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của NKT trong

việc truy cập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua sử dụng máy

tính và cơ sở hạ tầng thông tin, cũng như hoạt động sản xuất, cung cấp công

nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và nội dung thông tin số

đáp ứng nhu cầu đặc biệt của NKT [38]. Như vậy, Luật NKT năm 2010 và

Luật công nghệ thông tin năm 2006 đều nhấn mạnh việc khuyến khích mọi tổ

chức, cá nhân có các hoạt động nhằm hỗ trợ NKT tiếp cận công nghệ thông tin.

Ngoài ra, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức và cá nhân hoạt

động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ

thông tin dành cho trẻ em khuyết tật.

Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật

chất và tinh thần của người khuyết tật, trẻ em khuyết tật.

Có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ

khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ, phương

tiện hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.

Bảy là, chính sách bảo trợ xã hội

Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm: Người khuyết tật

đặc biệt nặng (trừ trường hợp quy định) và người khuyết tật nặng.

Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm: Gia

đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc

người đó; Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;

Người khuyết tật quy định ở trên đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng

tuổi; Người khuyết tật quy định ở trên là trẻ em, người cao tuổi được hưởng

mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.

23

Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng

đối với từng loại đối tượng ở trên do Chính phủ quy định.

Người khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được

cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội.

Nhà nước cấp kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật quy định ở trên cho

các cơ sở bảo trợ xã hội. Người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hàng

tháng được hỗ trợ chi phí mai táng khi chết. Chính phủ quy định mức hỗ trợ

chi phí mai táng.

Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài

chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc,

giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết tật.

Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng,

chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ

giúp người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định.

Tám là, xác định mức độ khuyết t t

Theo Luật người khuyết tật Việt Nam việc xác nhận mức độ khuyết tật

được qui định như sau:

Trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật: Việc xác định mức độ khuyết

tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện. Hội đồng xác định mức

độ khuyết tật do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi

chung là cấp xã) thành lập.

Hội đồng xác định mức độ khuyết tật bao gồm các thành viên sau đây:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Hội đồng; Trạm trưởng trạm y tế

cấp xã; Công chức cấp xã phụ trách công tác lao động, thương binh và xã hội;

Người đứng đầu hoặc cấp phó của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội

phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh cấp xã; Người đứng đầu tổ chức

của người khuyết tật cấp xã nơi có tổ chức của người khuyết tật.

24

Chủ tịch Hội đồng có trách nhiệm tổ chức và chủ trì hoạt động của

Hội đồng.

Việc xác định mức độ khuyết tật được thực hiện bằng phương pháp

quan sát trực tiếp người khuyết tật, thông qua thực hiện hoạt động đơn giản

phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo các

tiêu chí về y tế, xã hội và các phương pháp đơn giản khác để kết luận mức độ

khuyết tật đối với từng người khuyết tật.

Thủ tục xác định mức độ khuyết tật: Khi có nhu cầu xác định mức độ

khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết

tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú. Trong

thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định

mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho

người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Hội đồng xác định

mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định

mức độ khuyết tật và ra kết luận. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày

có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định

mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.

Việc xác định lại mức độ khuyết tật được thực hiện theo đề nghị của

người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật khi có sự

kiện làm thay đổi mức độ khuyết tật.

Chín là, trợ giúp pháp lý

Truyền thông về trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật thông qua các

hoạt động thích hợp.

25

Xây dựng các chương trình, giáo trình, tài liệu và tập huấn bồi dưỡng

cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý và các thành viên Ban chủ

nhiệm câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật; Thực hiện trợ giúp

pháp lý cho người khuyết tật.

1.2.2. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất

Trợ giúp đột xuất là hình thức trợ giúp xã hội do nhà nước và cộng đồng

giúp đỡ người khuyết tật không may bị thiên tai, mất mùa hoặc gặp những biến

cố khác mà đời sống của họ bị đe dọa về tính mạng, lương thực, nhà ở, chữa

bệnh, chôn cất hay phục hồi sản xuất nếu không có sự trợ giúp khẩn cấp.

Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất bao gồm: Hỗ trợ lương thực; Hỗ trợ

làm nhà ở, sửa chữa nhà ở; Hỗ trợ tạo việc làm, phát triển sản xuất; Hỗ trợ

mai táng.

1.3. Quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật

1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết tật

Tổ chức thực thi chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là

quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được

lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện

chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện

chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật được xây dựng trước khi

chính sách đi vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ

Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình

thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách đối với người khuyết tật

bao gồm những nội dung cơ bản:

Thứ nhất, kế hoạch tổ chức điều hành: Nội dung kế hoạch gồm những

dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính

sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; cơ chế tác

động giữa các cấp thực thi chính sách.

26

Thứ hai, kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở

kiến trúc, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách đối

với người khuyết tật; các nguồn lực tài chính.

Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là dự kiến về thời

gian duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai từ tuyên truyền

chính sách đến tổ chức rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt

được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

Thứ tư, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách là những dự

kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi

chính sách.

Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế: Nội quy, quy chế trong thực

thi chính sách đối với người khuyết tật bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức,

điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và

các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện

pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách

đối với người khuyết tật.

1.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện đối với người khuyết tật được

thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai thực hiện theo kế hoạch.

Một là, trong quá trình thực hiện chính sách, trước tiên phải tuyên

truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách cho người khuyết

tật. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách

và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính

sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định; và

về tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý

của nhà nước.

27

Tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách

công đang được thi hành, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền thực thi

chính sách.

Hai là, phân công, phối hợp thực hiện chính sách cho người khuyết

tật Khi thực hiện chính sách cho người khuyết tật cần phải phân công, phối

hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các

yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực

hiện mục tiêu chính sách. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một

bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá

trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt

yêu cầu quản lý. Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực

hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật một cách chủ động,

sáng tạo để luôn duy trì chính sách một cách ổn định, góp phần nâng cao

hiệu lực, hiệu quả chính sách.

1.3.3. Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là

hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua

các công cụ hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi chính sách nêu cao ý

thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.

Trên thực tế, khi triển khai tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần có hoạt động

đôn đốc để vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm

vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

1.3.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật

Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là

quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành chính sách

28

của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng

kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung

ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức

chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực hiện chính sách

trợ giúp xã hội cho người khuyết tật. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ

đạo, điều hành thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trong

các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được

xây dựng ở bước 1 của phần này. Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản

liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy

phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính

sách của các tổ chức chính trị và xã hội đối với nhà nước.

1.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật

1.4.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với

người khuyết tật

Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là đưa đường

lối, chủ trương của Đảng về chính sách đối với người khuyết tật vào cuộc sống,

khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc

triển khai và tổ chức thực hiện chính sách, tổ chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo

của mình và đánh giá đúng mức về năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,

đảng viên. Đảng và Nhà nước định hướng mọi người khuyết tật đều hòa nhập

cộng đồng, tạo điều kiện phát huy mọi khả năng của mình để vươn lên trong

cuộc sống và học tập, giảm bớt gánh nặng của gia đình và xã hội, trở thành

những thành viên có ích cho xã hội. Từ các chủ trương, đường lối của Đảng và

Nhà nước đề ra, các chủ thể thực hiện chính sách bằng cách xây dựng và ban

hành văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách để cụ thể hóa mục tiêu và

giải pháp chính sách cho từng giai đoạn thời gian và địa bàn cụ thể. Kết quả của

29

chính sách phải bảo đảm tất cả người khuyết tật ở các vùng sâu, vùng xa cũng

như khu vực thành phố, nông thôn đều được hưởng bình đẳng các quyền của

người khuyết tật, đó là quyền được đi học, được chăm sóc sức khỏe, được tham

gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, được tiếp cận với các

phương tiện giao thông công cộng dành cho người khuyết tật, được giảm vé khi

tham gia giao thông, được tiếp cận với các hoạt động công nghệ, thông tin. Vì

vậy trong quá trình thực hiện chính sách các chủ thể cần thể chế hóa định hướng,

mục tiêu của Đảng và nhà nước, và thực thiện theo đúng mục tiêu, bên cạnh đó

các chủ thể cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

người khuyết tật trên phạm vi quốc gia và từng bước tiếp cận Công ước quốc tế

về quyền của người khuyết tật.

Không thể phủ nhận sự song hành của người khuyết tật trong đời

sống xã hội và điều đó có nghĩa rằng nhà nước cần phải có trách nhiệm đối

với việc bảo đảm cho người khuyết tật được tiếp cận đầy đủ các quyền như

những người bình thường. Vì vậy trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, các chủ thể thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật cần áp dụng thực hiện một cách

đồng bộ, thống nhất và hiệu quả nhằm đưa chính sách vào đời sống xã hội,

thực hiện tốt các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra để người khuyết tật

nhận được sự chăm sóc tốt nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước

ta hiện nay.

1.4.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật

Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là tiền đề, là cơ sở pháp

lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể thực hiện chính sách. Chính sách đối

với người khuyết tật là cơ sở pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức

có thẩm quyền tiến hành hoạt động để bảo đảm quyền tiếp cận đời sống xã

hội của người khuyết tật. Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước cho thấy nếu

30

như hệ thống chính sách về lĩnh vực nào đó không hoàn chỉnh, không có khả

thi, quá xa vời với thực tế, không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất

nước thì không thể có hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như

hoạt động thực hiện chính sách, dẫn đến lãng phí về thời gian và tiền bạc.

Trong những năm vừa qua, mặc dù Luật người khuyết tật có hiệu lực từ tháng

01 năm 2011 đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức của cả xã hội cũng như tác

động đến đời sống của người khuyết tật song vì thiếu những quy định cụ thể

hoặc một quy định trong luật còn quá xa so với khả năng nguồn ngân sách của

nước ta dẫn đến việc tiếp cận với các quyền của người khuyết tật chưa được

đáp ứng đầy đủ. Luật người khuyết tật 2010 quy định chính sách về giáo dục

hòa nhập đối với người khuyết tật trong phạm vi toàn quốc. Khi các chủ thể

xây dựng kế hoạch thực hiện, kế hoạch về kinh phí, kế hoạch nhân sự, cơ sở

vật chất, giáo trình đã gặp rất nhiều khó khăn như khó khăn về kinh phí, thiếu

giáo viên về lĩnh vực giáo dục hòa nhập hoặc giáo viên thiếu chuyên môn về

lĩnh vực này, đặc biệt là lúng túng trong quá trình biên soạn giáo trình. Do đó

tỷ lệ người khuyết tật đưa vào các trường công lập để giáo dục hòa nhập tại

nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước không cao, thậm chí do điều kiện vật chất

nhiều trường còn từ chối tiếp nhận người khuyết tật vào giáo dục hòa nhập.

Trong quá trình thực hiện chính sách mà gặp phải những chính sách không

phù hợp, không khả thi, cần có những kiến nghị với Nhà nước, với các nhà

hoạch định chính sách để điều chỉnh, bãi bỏ hoặc bổ sung cho phù hợp để

chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật thực sự có hiệu quả và đi vào

cuộc sống, giúp người khuyết tật có được cuộc sống tốt đẹp hơn.

1.4.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật

Khi hệ thống chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật đã được

hoàn thiện và đi vào cuộc sống; việc phân loại dạng tật và xác định mức độ

31

khuyết tật rõ ràng; các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại chính sách và phù hợp

với từng dạng khuyết tật như khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, khuyết

tật nhìn, khuyết tật thần kinh, khuyết tật trí tuệ; xác định các mức trợ cấp xã

hội, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho người khuyết tật, thì việc

phân bổ nguồn lực và huy động các nguồn lực trong thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật là thực sự cần thiết, đó là nguồn lực tài

chính, con người, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác. Bên cạnh sự hỗ trợ

của nhà nước, cần vận động kêu gọi các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện,

các mạnh thường quân, các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước tham gia

hỗ trợ giúp đỡ người khuyết tật bằng nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ

về công nghệ khoa học nhằm giảm thiểu gia tăng người khuyết tật, về vật

chất, về tinh thần nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Trước thực tế số

lượng người khuyết tật hiện nay rất đông. Để thực hiện chính sách đầy đủ

cho tất cả người khuyết tật ở nông thôn, thành phố, vùng sâu và vùng xa là

thực sự khó khăn với kinh phí hạn hẹp. Các trung tâm bảo trợ xã hội giúp đỡ

người khuyết tật, các Làng, trung tâm cần xây dựng các dự án, các chương

trình, đề án, tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại nhân dân, các hình

thức xã hội hóa để kêu gọi các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ

chức cán nhân hỗ trợ về kinh phí trong quá trình thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật.

1.4.4. Thực hiện an sinh xã hội và giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng

Người khuyết tật là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội, hiện nay có

nhiều văn bản Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách liên

quan đến người khuyết tật. Nằm trong tổng thể chính sách an sinh xã hội của

Nhà nước thì bộ phận người khuyết tật là bộ phận không thể tách rời. Vì vậy

thực hiện tốt chính sách đối với người khuyết tật chính là thực hiện tốt các

quy định của chính sách về an sinh xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, bảo

32

đảm quyền của người khuyết tật, bảo vệ và ngăn chặn những rào cản tiếp cận

cho người khuyết tật, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục, trợ

cấp xã hội, giao thông, công nghệ thông tin, taọ cơ hội tốt nhất cho người

khuyết tật hòa nhập cộng đồng.

Hiện nay, Nhà nước đã xây dựng nhiều chương trình, dự án, đề án giúp

an sinh xã hội cho người khuyết tật. Các dự án về đào tạo nghề bao gồm các

nghề cắt may, nghề thêu ren, làm hoa, vi tính văn phòng, cắt uốn tóc, nấu ăn,

bảo vệ, lễ tân, phục vụ khách sạn, nhà hàng đã giúp nhiều người khuyết tật

hòa nhập vào cộng đồng và tự nuôi sống được bản thân; các chương trình

phục hồi chức năng, khám chữa bệnh tại cộng đồng giúp các gia đình có

người khuyết tật có được những kiến thức cơ bản về sơ cứu ban đầu với người

khuyết tật bị ngã, người khuyết tật bị bại liệt, các kiến thức về phục hồi chức

năng để có thể chăm sóc con em mình tại gia đình; các chương trình giáo dục

hòa nhập cũng đang được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương trong cả

nước. Kết quả thực tế nhiều người khuyết tật đã tự phục vụ được mình, nhiều

người tự nuôi sống được bản thân và giúp đỡ gia đình, giảm gánh nặng cho xã

hội về kinh phí trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật và thực sự nhiều

người khuyết tật đã trở thành những người có ích trong xã hội.

1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết

tật ở một số địa phƣơng

1.5.1. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình

Quảng Bình là một trong những tỉnh nghèo của cả nước, đời sống nhân

dân toàn tỉnh nói chung và người nghèo, đối tượng yếu thế nói riêng còn gặp

nhiều khó khăn. Quảng Bình hiện có trên 45.000 người khuyết tật, chiếm

khoảng trên 5 dân số toàn tỉnh (khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói;

khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật

33

khác). Trình độ học vấn của NKT của tỉnh nhìn chung còn thấp, phần lớn học

xong bậc tiểu học; đa số NKT Quảng Bình không thể sống tự lập mà chủ yếu

dựa vào gia đình, người thân, chỉ có khoảng trên 15 tự tạo được thu nhập.

NKT chủ yếu thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Hàng năm UBND tỉnh giao trong dự toán của các huyện, thị xã, thành phố

để chi cho công tác trợ cấp xã hội hàng tháng đối với đối tượng BTXH tại cộng

đồng nói chung, NKT nói riêng, các địa phương đã chi trả đầy đủ và kịp thời cho

đối tượng hưởng trợ cấp theo đúng quy định. Công tác xã hội hóa hoạt động trợ

giúp NKT được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả: Thông qua Hoạt động của Hội

bảo trợ Người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh, Hội Vì sự phát triển của Người

khuyết tật, Hội Chữ thập đỏ, Quỹ Bảo trợ trẻ em… Từ năm 2013-2017 đã hỗ

trợ 1.092 xe lăn, xe lắc cho NKT, phẫu thuật tim, mắt cho 1.200 trẻ, phục hồi

chức năng cho 596 NKT góp phần giúp NKT giải quyết những khó khăn

trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. NKT đã được xác định dạng tật và mức

độ khuyết tật để hưởng các chính sách BTXH trên địa bàn tỉnh là: 16.094

người. 100% NKT thuộc hộ gia đình nghèo, NKT đang hưởng chế độ bảo trợ

xã hội tại cộng đồng được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Trạm y tế cấp xã, phường,

thị trấn, bệnh viện cấp huyện đã tổ chức khám sàng lọc cho trẻ khuyết tật, tư

vấn và chăm sóc sức khỏe cho NKT trên địa bàn. Các cơ sở khám bệnh, chữa

bệnh thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa bệnh và tư vấn phù hợp đối với

NKT. Đặc biệt, ưu tiên cho người NKT biệt nặng và NKT nặng, trẻ em khuyết

tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của

pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ

biến kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu

khuyết tật và PHCN: 100 các cơ sở PHCN có hoạt động tuyên truyền về

phòng ngừa khuyết tật, về PHCN; đội ngũ cộng tác viên y tế thôn/bản đều

34

được tham gia tập huấn về "kỹ năng cơ bản phục hồi chức năng" góp phần

nâng cao nhận thức về việc chăm sóc sức khỏe cho NKT.

Hằng năm 70 NKT tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác

nhau; 65 trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết

tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật;

khoảng 650 trẻ em và NKT được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng

và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp; 350 NKT trong độ tuổi lao động còn

khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm, hiện nay, trên địa bàn tỉnh

có 02 cơ sở dạy nghề chuyện dạy nghề cho NKT là: Doanh nghiệp tư nhân và

hỗ trợ việc làm cho NKT và Hội Người mù tỉnh Quảng Bình.

Thông qua các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa phương; các cơ

sở dạy nghề và tạo việc làm cho NKT, hàng năm đào tạo và dạy nghề cho

hàng trăm NKT với các nghề chủ yếu như may mặc, thủ công mỹ nghệ, sữa

chữa xe máy, điện tử…. Không chỉ đào tạo nghề cho NKT, các Trung tâm,

Cơ sở dạy nghề luôn cố gắng tìm việc làm cho NKT, giúp NKT ổn định cuộc

sống. Các cơ sở này còn đứng ra nhận hợp đồng gia công sản phẩm với các

doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tạo việc làm cho những lao động không

xin được việc làm;

Có 20% NKT được trợ giúp tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và

truyền thông; 20% NKT được hỗ trợ tham gia các hoạt động văn hóa, văn

nghệ và luyện tập thể dục, thể thao, hàng năm tham gia thi đấu giải thể thao

NKT toàn quốc và luôn đạt kết quả cao;

Có 90% NKT được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu, đã thực hiện 8.645

vụ việc trợ giúp pháp lý cho 8.645 người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.

Trong đó, có 208 vụ việc cho 208 NKT. Phần lớn các vụ việc trợ giúp pháp lý

cho người khuyết tật đều được thực hiện thông qua hình thức tư vấn pháp luật,

số vụ còn lại được thực hiện thông qua hình thức tố tụng. Tổ chức trợ giúp

35

pháp lý lưu động tại 569 điểm thôn, bản trên địa bàn tỉnh để tuyên truyền

pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân trong đó có đối tượng là

NKT. 60 cán bộ làm công tác trợ giúp NKT được tập huấn, nâng cao năng

lực quản lý, chăm sóc, hỗ trợ NKT; 40 gia đình có NKT được tập huấn về

kỹ năng, phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho NKT; 30% NKT

được tập huấn các kỹ năng sống [48].

Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho NKT trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình đã góp phần nâng cao nhận thức, quan điểm đối với công tác NKT và

trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách đối với

NKT; Đời sống vật chất, tinh thần của NKT được cải thiện đáng kể; nhiều rào

cản môi trường cũng như xã hội đã và đang từng bước được dỡ bỏ, tạo cơ hội

bình đẳng cho NKT tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, phát huy khả năng của

mình, tự lực trong cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng.

1.5.2. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng

Đà Nẵng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của

hậu quả chiến tranh và chất độc hóa học để lại, do vậy tỷ lệ NKT chiếm khá

cao. Những năm qua các ngành các cấp của thành phố Đà Nẵng đã có sự quan

tâm sâu sắc, đúng mức đến việc chăm lo cho NKT. Với mục tiêu đảm bảo và

phấn đấu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho NKT của thành phố. Qua

đó, góp phần khẳng định một hình ảnh Đà Nẵng không chỉ đi đầu trong phát

triển kinh tế, mà còn là thành phố an sinh xã hội, là điểm sáng trong thực hiện

các chính sách, các hoạt động bảo trợ xã hội.

Ngoài những chế độ trợ giúp xã hội đã được Chính Phủ quy định cho

NKT, Thành phố còn ban hành nhiều đề án hỗ trợ cho người khuyết tật, hỗ trợ

dụng cụ chỉnh hình, cho vay vốn, sửa nhà được triển khai trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng giúp hàng trăm người vượt qua mặc cảm, vươn lên hòa nhập

36

cộng đồng. Theo kết quả xác định được của Sở LĐ-TB&XH Đà Nẵng, số

NKT được trợ giúp tại cộng đồng và cơ sở xã hội tăng qua các năm. Trong

đó, số NKT được trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng tăng rất nhanh từ

1.020 người năm 2013 lên 9.677 người năm 2017 bình quân mỗi năm tăng

2.419 người; còn đối với số NKT được trợ giúp thường xuyên tại cơ sở xã hội

tăng không đáng kể từ 975 năm 2013 người lên 1.970 người năm 2017 bình

quân mỗi năm tăng 199 người.

Sở dĩ NKT được trợ giúp xã hội ngày càng tăng là do đối tượng được

hưởng có sự mở rộng, NKT nặng trong các cơ sở của nhà nước cũng được

phụ cấp thêm.

Cùng với việc tăng về số lượng, Đà Nẵng lại tiếp tục quan tâm hơn về

mức trợ giúp xã hội, từ việc mở rộng diện trợ cấp, kinh phí trợ giúp thường

xuyên cho người khuyết tật đã tăng nhanh qua các năm và tăng lên rất nhanh

trong giai đoạn 2013 - 2017, với kinh phí 1 năm hơn 50 tỷ đồng.

Song song với các trợ cấp bằng tiền và hiện vật, thành phố còn sử dụng

hình thức tài trợ qua giá như sử dụng tiền ngân sách để mua bảo hiểm y tế cho

NKT và dành kinh phí để cho vay giải quyết việc làm cho NKT: Tổng mức

cho vay trong giai đoạn 2013 - 2017 qua các chương trình tạo việc làm của

thành phố là trên 81 tỷ đồng, bình quân mỗi năm gần 18 tỷ đồng. Nhờ có

nguồn vốn cho vay trên, mỗi năm thành phố đã giải quyết được việc làm cho

hơn 1.000 người. Nhằm giúp cho NKT tìm việc làm, thành phố còn khai

trương và vận hành trang web “Người tìm việc – việc tìm người”, tổ chức liên

tục các phiên chợ việc làm. Song song với “chợ việc làm”, trung tâm giới

thiệu việc làm thành phố cũng đã được đầu tư để nâng cao năng lực hoạt động

với vốn đầu tư khoảng trên 5.500 triệu đồng. Nhờ đó, trong 5 năm qua từ

2013 - 2017, trung tâm đã tư vấn việc làm cho khoảng 600 NKT, trong đó số

người tìm được việc làm qua trung tâm là gần 500 người.

37

Ở thành phố Đà Nẵng trong những năm qua các hoạt động cứu trợ xã

hội đã thu hút được đông đảo người dân và các tổ chức từ thiện trong và ngoài

nước tham gia. Với trên 16.720 hội viên sinh hoạt trong các hội từ thiện trên

địa bàn Đà Nẵng, trong giai đoạn 2013 - 2017, các chương trình từ thiện đã

vận động và đóng góp cho cộng đồng gần 82, 8 tỷ đồng. Trong đó có nhiều tổ

chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho từ thiện như: Tổ chức Siloan (Anh), tổ

chức trẻ em Việt Nam (Hoa Kỳ), Chi hội từ thiện Quán Thế Âm, Ngân hàng

NN & PTNT, hội đồng hương Đà Nẵng tại Thành phố Hồ Chí Minh [50].

1.5.3. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn tỉnh Hà Tĩnh

Trong những năm qua, tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành nhiều hoạt động hỗ trợ

cho người khuyết tật và các nhóm lao động dễ bị tổn thương khác do bị tác

động của các chính sách kinh tế - xã hội và toàn cầu hóa. Toàn tỉnh tính đến

tháng 12 năm 2017 có 63.620 NKT theo các dạng tật, trong đó số NKT được

hưởng trợ cấp hàng tháng là 25.022 người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng và

được cấp thể bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí.

Các chính sách về tín dụng ưu đãi gắn với tạo việc làm, đào tạo nghề,

phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động tới các vùng, đã hỗ trợ nâng

cao trình độ tay nghề đảm bảo sinh kế, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu

nhập cho người lao động các hoạt động tài trợ ngoài việc tài trợ trực tiếp bằng

tiền hoặc hiện vật với hình thức tài trợ đột xuất hay tài trợ thường xuyên thì

hoạt động tài trợ thường được sử dụng và sử dụng có hiệu quả và là hiệu quả

lâu dài là tài trợ thông qua việc hỗ trợ một phần về giá, cụ thể: tài trợ bằng

chính sách tín dụng ưu đãi, sử dụng cơ chế vay tín dụng thông qua các

chương trình tổ chức, hội đoàn thể. Mục tiêu của các chính sách tín dụng rất

đa dạng, tín dụng để phát triển sản xuất, tín dụng cho học sinh, sinh viên, đối

tượng hưởng lợi là người nghèo, người dân tộc thiểu số, NKT, thanh niên,

38

người đi xuất khẩu lao động, người lao động bị mất việc làm do tác động của

khủng hoảng kinh tế, người lao động có đất phải chuyển đổi mục đích sử

dụng, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, thương nhân hoạt động

thương mại tại các vùng khó khăn, người có thu nhập thấp, một số chính sách

tín dụng đã tập trung cho các doanh nghiệp, hộ gia đình thuộc các huyện

nghèo, vùng khó khăn.

Tỉnh Hà Tĩnh cũng đã sử dụng các ưu đãi về tín dụng kết hợp với đào tạo

và giới thiệu việc làm để hỗ trợ, trở thành “bà đỡ” kích cầu tạo việc làm, đã

thành lập quỹ việc làm địa phương góp phần đưa doanh số cho vay hàng năm

của địa phương tăng lên. Với nhiều mô hình tạo việc làm có hiệu quả trong đó

nhiều đối tượng vay thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, người nghèo.

Trước đây việc thực thi các chính sách ưu đãi tín dụng còn nhiều khó khăn do

có nhiều chính sách chồng chéo trên cùng một đối tượng, chính sách tín dụng

chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay. Trong thời gian gần đây tỉnh đã

khắc phục những vấn đề này, tạo điều kiện gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ

đầu vào tiếp cận thị trường để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Công tác đào tạo

nghề, đặc biệt là đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các doanh

nghiệp và tăng cường cơ hội cho các nhóm lao động dễ bị tổn thương có việc

làm ngày càng được chú trọng. Thực hiện các chính sách hỗ trợ về học bổng

cho các nhóm đối tượng thuộc diện chính sách, chính sách về dạy nghề đối với

học sinh dân tộc thiểu số. Trên cơ sở các đề án về dạy nghề và tạo việc làm của

chính phủ, tỉnh đã xây dựng đề án tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 2013 -

2017 và đề án trợ giúp người khuyết tật đến năm 2020. Tỉnh cũng đã tổ chức

sàn giao dịch việc làm và hoạt động có hiệu quả, trong đó có nội dung tuyển

dụng việc làm cho NKT và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Một hình thức hoạt động tài trợ xã hội khác mà tỉnh Hà Tĩnh cũng rất

chú trọng là hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế. Tỉnh đã thực hiện hỗ trợ

39

toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối với NKT, nhờ áp dụng

chính sách này đã góp phần vào thực hiện mục tiêu công bằng xã hội dựa trên

việc xây dựng một cơ chế bảo đảm tài chính y tế mang tính xã hội cao.

Tỉnh cũng đã xây dựng nhiều mô hình trợ giúp xã hội phù hợp với nhu

cầu của từng nhóm đối tượng. Phát động phong trào xã hội hóa chăm sóc đối

tượng để khắc phục một phần nguồn lực còn hạn chế từ ngân sách. Hiện

toàn tỉnh có 3 trung tâm bảo trợ xã hội công lập trực thuộc Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội. Trong đó có 01 trung tâm nuôi dưỡng NKT. Các

chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng được đảm bảo, với mức hưởng: 1.210.000

đồng - 1.350.000/ người/tháng, cao hơn so với mức quy định tại Nghị định

số 136/2013/NĐ-CP (từ 810.000đ - 1.350.000đ). Hàng năm các đơn vị đã

vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước và ngoài nước tài

trợ cải thiện đời sống cho đối tượng, tăng cường cơ sở vật chất cho trung

tâm. Các đối tượng được chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, trị liệu; được

tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh

có 03 cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập trong đó có 01 trung tâm nuôi

dưỡng trẻ em khuyết tật.

Thường xuyên công tác điều tra, khảo sát, nắm tình hình đối tượng trên

địa bàn dân cư, kịp thời phát hiện đối tượng để đề xuất giải quyết kịp thời,

đúng đối tượng.

Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác LĐTBXH ở cơ sở, công

chức chuyên trách phải được đào tạo đúng trình độ chuyên môn, có tinh thần

trách nhiệm, đồng cảm với đối tượng.

Tạo nguồn lực thực hiện chính sách TGXH ngày càng lớn, sử dụng

có hiệu quả. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa nguồn lực thực hiện các chính

sách TGXH [49].

40

1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thừa Thiên Huế

Việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh cho thấy việc thực hiện

đúng các Nghị định, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thì còn tùy

thuộc vào điều kiện, đặc điểm, nhu cầu, phân bổ của các đối tượng của mỗi

tỉnh để vận dụng, thực hiện các chính sách trợ giúp cho các đối tượng khác

nhau. Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên của

tỉnh Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh từ đó rút ra một số bài

học kinh nghiệm để tỉnh Thừa Thiên Huế có thể tham khảo và vận dụng như sau:

Thứ nhất, tăng cường vai trò của Nhà nước trong hoạt động trợ giúp xã

hội thường xuyên.

Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và ngày càng có ảnh hưởng lớn

trong việc hoạch định chính sách, đường lối. Chính sách TGXH thường xuyên

phải mang tính toàn diện, phải có sự thay đổi phù hợp với từng giai đoạn phát

triển kinh tế xã hội cụ thể. chính sách về TGXH thường xuyên nhằm đảm bảo

công bằng, bảo vệ người dân trước những rủi ro của cuộc sống. Nhà nước

không chỉ đề ra chính sách và trợ giúp mà cần tuyên truyền nâng cao nhận

thức, chỉ ra vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong hoạt động

TGXH thường xuyên.

Thứ hai, phải gắn chính sách TGXH với sự phát triển kinh tế - xã hội

trong từng giai đoạn cụ thể:

TGXH được xác định là bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền

kinh tế thị trường hướng vào phát triển con người. Kinh nghiệm của tỉnh

Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh cho thấy, phát triển kinh tế

luôn đi đôi với phát triển chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách

TGXH thường xuyên nói riêng. Việc xây dựng các chính sách TGXH thường

41

xuyên cho các đối tượng yếu thế nhằm ngăn chặn nguy cơ bất ổn về kinh tế -

xã hội. Các bước đẩy mạnh hoạt động TGXH của tỉnh Thừa Thiên Huế cần

phải kịp thời hơn, linh hoạt hơn và hiệu quả hơn nữa, nhằm tường bước tiến

tới toàn dân, không để ai rơi vào nghèo đói.

Thứ ba, đa dạng hóa nguồn lực cho hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên.

Ở Đà Nẵng, nguồn lực thực hiện hoạt động TGXH thường xuyên lớn,

nhiều nguồn lực hỗ trợ cho công tác TGXH thường xuyên. Ngoài nguồn lực

từ ngân sách, thì các nguồn lực khác được huy động tối đa như: nguồn lực từ

các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức từ thiện, nhân

dân, nguồn trợ giúp của các doanh nghiệp, quốc tế và nguồn lực từ chính gia

đình, cá nhân đối tượng. Để đạt được kết quả đó, Đà Nẵng đã làm tốt công tác

tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ đảng viên, của cán

bộ làm công tác trợ giúp xã hội, của mỗi cá nhân trong cộng đồng về công tác

trợ giúp xã hội. Thống nhất ý chí, chiến lược chính sách trong toàn đảng, toàn

dân trong công tác TGXH, luôn nhấn mạnh và nêu cao quan điểm về trợ giúp

xã hội đó là: Trong hoạt động TGXH thường xuyên, trước hết là đề cao trách

nhiệm của cá nhân, trợ giúp của gia đình, cộng đồng sau đó mới đến nhà

nước. Chỉ những người sau khi đã sử dụng hết mọi phương tiện, khả năng tối

đa của bản thân, gia đình, họ hàng nhưng vẫn không vượt qua được hoàn cảnh

khó khăn mới được trợ giúp của cộng đồng, nhà nước.

Thứ tư, cần thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ hỗ trợ cho các

đối tượng yếu thế vươn lên hòa nhập cộng đồng.

Tại tỉnh Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh, việc lồng

ghép việc thực hiện chính sách TGXH thường xuyên với các chương trình

phát triển kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia được quan tâm.

42

Ngoài việc trợ giúp xã hội thường xuyên bằng tiền trợ cấp hàng tháng, nâng

mức trợ cấp cao hơn so với mức tối thiểu mà Trung ương quy định, thì Công

tác đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động

của các doanh nghiệp và tăng cường cơ hội cho các nhóm lao động dễ bị tổn

thương, kiếm việc làm, tạo điều kiện gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu

vào tiếp cận thị trường để tăng hiệu quả sử dụng vốn cho các đối tướng chính

sách ngày càng được quan tâm và đem lại hiệu quả to lớn. Ngoài ra, việc xây

dựng nhiều mô hình TGXH phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng.

Phát động phong trào xã hội hóa chăm sóc đối tượng để khắc phục một phần

nguồn lực còn hạn chế từ ngân sách.

43

Tiểu kết chƣơng 1

Chương I đã tập trung nghiên cứu về các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận

của việc hình thành chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trong đó

tập trung làm rõ các khái niệm về người khuyết tật, trợ giúp xã hội, chính sách

trợ giúp xã hội cho người khuyết tật, nội dung của chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết tật, quy trình thực hiện và vai trò của chính sách trợ giúp xã

hội cho người khuyết tật.

Phần nghiên cứu lý luận đã đưa ra một số khái niệm cơ bản của các tổ

chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước, phân tích nội dung của chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật như chính sách giáo dục, y tế, bảo

trợ xã hội, văn hóa, thể dục thể thao, trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, đã khái

quát quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật, nhấn

mạnh vai trò thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.

Như vậy, chương I đã giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của

đề tài đặt ra, đây là cơ sở cho việc đưa ra đánh giá thực trạng ở chương II và

đề ra một số giải pháp thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết

tật giai đoạn tới ở chương III.

44

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO

NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

2.1. Thực trạng ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

2.1.1. Số lượng, cơ cấu, độ tuổi, dạng khuyết tật và nguyên nhân khuyết tật

Tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có trên 29.012 người khuyết tật. Số NKT ở

cộng đồng là 28.075 người và ở các cơ sở Bảo trợ xã hội là 937 người. Trong

những năm qua, số lượng người khuyết tật trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng

do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ô nhiễm môi trường và các rủi ro như:

thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh.

Người khuyết tật cũng là nhóm đối tượng được quan tâm và mở

rộng dần trong chính sách TGXH thường xuyên. Năm 2013, số lượng

người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội là 13.187 người. Năm

2014, số lượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội là 19.312

người, đến năm 2015 là 21.364 người, năm 2016 là 23.651 người,

năm 2017 là 29.012 người [47, tr.3].

Bảng 2.1. Số liệu ngƣời khuyết tật và kinh phí trợ giúp trên địa bàn tỉnh

giai đoạn 2013 - 2017

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Số người khuyết 13.187 19.312 21.364 23.651 29.012 tật (người)

Kinh phí 4.078,08 5.853,33 6.475,31 7.141,21 8.793,38 (triệu đồng)

(Nguồn: Báo cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013

- 2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

45

Khuyết tật về vận động là dạng khuyết tật phổ biến nhất với 9.032

người chiếm tỷ lệ 31,1 , sau đó đến dạng khuyết tật thần kinh, tâm thần với

5.902 người chiếm tỷ lệ 20,3 . Sự khác biệt về số lượng dạng khuyết tật cho

thấy bức tranh tổng thể về các dạng khuyết tật trên địa bàn tỉnh, từ đó có các

chương trình, chính sách hỗ trợ phù hợp với từng dạng khuyết tật [44, tr.2].

Biểu đồ 2.1. Số ngƣời khuyết tật ở các dạng khuyết tật năm 2015

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra người khuyết t t năm 2015

của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

Số lượng người khuyết tật chiếm khoảng 2,5 dân số toàn tỉnh, 12.308

người khuyết tật sống ở khu vực thành thị chiếm tỷ lệ 42,42 , 16.704 người

khuyết tật sống ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ 57,58 do vậy họ gặp không

ít khó khăn trong việc đi lại, giao tiếp, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Trong tổng số 29.012 NKT, có 4.674 NKT thuộc hộ nghèo và 2.743 NKT

thuộc hộ cận nghèo.

46

Trình độ học vấn của người khuyết tật nhìn chung còn thấp, phần lớn

học xong bậc tiểu học. Đa số người khuyết tật không thể sống tự lập mà chủ

yếu dựa vào gia đình, người thân, chỉ có khoảng 10 tự tạo được thu nhập.

Người khuyết tật chủ yếu thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chuẩn

nghèo quy định của Chính phủ và do vậy tài sản của họ rất ít, nhất là những

tài sản có giá trị như xe máy, phương tiện nghe, nhìn vì vậy việc tiếp cận

thông tin, thông tin đại chúng rất hạn chế.

Người khuyết tật nói chung đều có nguyện vọng, mong muốn được bảo

vệ, chăm sóc, được khám chữa bệnh, được phẫu thuật chỉnh hình, được trang

cấp hoặc được hỗ trợ các dụng cụ chỉnh hình, xe lăn, xe lắc phục vụ đi lại,

sinh hoạt hằng ngày; mong muốn được đối xử bình đẳng, được hòa nhập thực

sự vào cộng đồng, được góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Thực tế

hiện nay đã có rất nhiều hoạt động thiết thực để giúp đỡ, hỗ trợ người khuyết

tật, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập do nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn huy

động còn hạn chế nên người khuyết tật, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa chưa

được quan tâm đúng mức.

Hiện tại hầu hết người khuyết tật đang sinh sống cùng với gia đình và

nguồn sống của họ cũng dựa vào sự trợ giúp của gia đình và người thân, vì

vậy gia đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng vai trò quan trọng

nhất trong việc trợ giúp NKT khắc phục khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc

sống, hòa nhập với cộng đồng. Vì lý do này mà bên cạnh các chính sách hỗ

trợ trực tiếp cho NKT, cần hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình.

Tỷ lệ NKT trong độ tuổi lao động (từ 16 đến 59 tuổi) khá cao, có

16.371 người chiếm tỷ lệ 56,43 tổng số NKT. Trong khi đó, tỷ lệ này

trong nhóm trẻ em (từ 1 đến dưới 16 tuổi) là 2.789 người chiếm tỷ lệ

9,61 và trong nhóm người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) là 9.852 người

chiếm tỷ lệ 33,96 [51, tr.2].

47

Trong nhóm trẻ em khuyết tật (từ 1 đến dưới 16 tuổi) là 2.789 người

thì trẻ từ 0 đến 6 tuổi có 702 trẻ (288 nữ), chiếm tỷ lệ 2,42 trong tổng số

29.012 NKT.

Biểu đồ 2.2. Độ tuổi ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

năm 2017

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết t t của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017)

Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây: Người

khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện

việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; Người khuyết tật nặng là

người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu

cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật có

thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.

48

Nguyên nhân dẫn tới khuyết tật: Kết quả khảo sát năm 2008 của Ủy ban

về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy: Do bẩm sinh; bệnh tật, suy dinh

dưỡng, các yếu tố di truyền, các bệnh truyền nhiễm, ô nhiễm môi trường, tai

nạn giao thông, lao động và sinh hoạt, hậu quả của chiến tranh (trẻ em khuyết

tật do di chứng chất độc da cam từ ông bà những người trực tiếp bị nhiễm chất

độc da cam trong chiến tranh chống Mỹ, trẻ em khuyết tật do bom mìn còn sót

lại của chiến tranh), biến đổi khí hậu và các nguyên nhân khác. Các nguyên

nhân này phản ánh tố chất con người, cũng như sự chăm sóc ban đầu cho trẻ và

chất lượng dịnh vụ y tế còn khá hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật dẫn đến

tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh cao. Nguyên nhân từ hậu quả chiến tranh cũng khá

cao, không chỉ thế hệ hiện nay mà cả thế hệ mai sau, đặc biệt là nạn nhân của

chất độc da cam/ đi ô xin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

Trong những năm tới do tai nạn giao thông, tai nạn lao động tăng; ô

nhiễm môi trường càng nghiêm trọng sẽ là các nguyên nhân làm tăng số

lượng và tỷ lệ người khuyết tật. Nguyên nhân do bẩm sinh, bệnh tật và chiến

tranh trước đây chiếm ưu thế sẽ giảm, nguyên nhân do tai nạn giao thông, tai

nạn lao động, ảnh hưởng ô nhiễm môi trường có xu hướng tăng do sự phát

triển mạnh mẽ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.

Riêng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, qua kết quả điều tra cho thấy gần một

nửa số NKT bị khuyết tật là do bệnh tật. Bẩm sinh là nguyên nhân phổ biến

thứ hai của khuyết tật. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc từ lâu, nhưng hậu quả

của nó để lại vẫn hiện diện rất rõ trong số liệu về khuyết tật; Chiến tranh và

tai nạn lao động, tai nạn giao thông là nguyên nhân thứ ba, thứ tư dẫn đến tình

trạng khuyết tật của NKT [52, tr.2].

49

Biểu đồ 2.3. Nguyên nhân khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

năm 2017

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế

hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

Tổng số người khuyết tật đã được xác định mức độ khuyết tật là 20.890

người, chiếm tỷ lệ 72,00 , trong đó: Đặc biệt nặng: 3.745, tỷ lệ 17,93 ;

Nặng: 15.179, tỷ lệ 72,66 ; Nhẹ: 1.966, tỷ lệ 9,41 ; Có 8.122 người chưa

được xác định dạng tật và mức độ khuyết tật, chiếm tỷ lệ 28,00 [52, tr.2].

Biểu đồ 2.4. Mức độ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế

hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

50

2.1.2. Chất lượng cuộc sống và nhu cầu của người khuyết tật

Tại thời điểm điều tra có 10.765 NKT hiện đang làm việc với các loại

hình khác nhau như làm thuê, tự làm ở nhà, làm trong các doanh nghiệp tổ

chức, cơ quan nhà nước. Số NKT còn lại không đi làm với các lý do chính là

do khuyết tật, sức khỏe, còn nhỏ và đang đi học [52, tr.3].

Trong tổng số 29.012 NKT có: 18.695 NKT đang hưởng chính sách trợ

giúp xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, Nghị định số 28/2012/NĐ-

CP; 2.577 NKT hưởng chính sách đối với người có công cách mạng; 1.078

NKT hưởng chế độ lương hưu, bảo hiểm xã hội; Tỷ lệ NKT hưởng chính sách

trợ giúp xã hội cao hơn so với các chính sách khác thể hiện mức độ bao phủ,

phù hợp của chính sách này trong việc trợ giúp các đối tượng yếu thế nói

chung, người khuyết tật nói riêng [52, tr.3].

Biểu đồ 2.5. Chính sách ngƣời khuyết tật đang hƣởng trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế năm 2017

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế

hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

51

Có 12.738 NKT có nhu cầu, nguyện vọng được trợ giúp xã hội; 1.532

NKT cần trợ giúp về học nghề, việc làm, 2.562 NKT có nhu cầu trợ giúp về y

tế, 393 NKT có nhu cầu trợ giúp về học văn hóa và 11.787 NKT có nhu cầu

trợ giúp khác. Đây là những nhu cầu, nguyện vọng thực tế đối với người

khuyết tật. Bản thân người khuyết tật rất cần trợ giúp về lĩnh vực y tế để chăm

sóc sức khỏe, phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, vấn đề học nghề, việc làm

cũng là yếu tố cần quan tâm để giúp người khuyết tật có điều kiện được làm

việc, tăng thu thập, ổn định cuộc sống hòa nhập cộng đồng [52, tr.4].

Biểu đồ 2.6. Nhu cầu, nguyện vọng của ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế năm 2017

Đơn vị tính: Người

(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế

hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)

Có 937 người khuyết tật (trong đó nữ: 306 người, chiếm 32,7 )

đang được chăm sóc, nuôi dưỡng và học nghề tại các cơ sở bảo trợ xã hội.

52

Độ tuổi từ 16 đến dưới 60 tuổi chiếm đa số so với độ tuổi dưới 16 và từ 60

tuổi trở lên [52, tr.5].

Phần lớn người khuyết tật cần được hỗ trợ các chính sách về trợ giúp xã

hội, học nghề và việc làm, y tế. Đây chính là những nhu cầu chính đáng vì

người khuyết tật tại các cơ sở Bảo trợ xã hội chủ yếu xuất thân từ những gia

đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo. Do đó, cần tăng cường

trợ giúp, hỗ trợ các chính sách trên cho nhóm đối tượng này.

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Thực hiện Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12, Quyết định

số 1100/QĐ-TTg ngày 21/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết

tật; Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ

về việc Phê duyệt Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm

thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020; Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Sở, ban, ngành, đoàn

thể, các địa phương tham mưu UBND tỉnh đã ban hành các văn bản sau: Kế

hoạch số 93/KH-UBND ngày 16/11/ 2012 của UBND tỉnh về việc triển khai

Đề án trợ giúp người khuyết tật tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2012-2020;

Kế hoạch số 144/KH-UBND ngày 20/9/2016 của UBND tỉnh về thực hiện

Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế; Kế hoạch số 37/KH-UBND ngày 14/3/2016 của UBND tỉnh

Thực hiện Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần,

người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng, giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định

số 2792/QĐ-UBND của UBND tỉnh về việc thành lập Ban Công tác Người

khuyết tật tỉnh.

53

Trên cơ sở các Kế hoạch của UBND tỉnh, các Sở, ban ngành tùy theo

chức năng, nhiệm vụ hàng năm đều ban hành Kế hoạch hoạt động theo lĩnh vực

phụ trách như: Sở Tư pháp ban hành Kế hoạch trợ giúp pháp lý cho người

khuyết tật, Sở Lao động - TB&XH ban hành Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật.

Công tác tuyên truyền về các chính sách, đề án, chương trình trợ giúp

người khuyết tật đã được các Sở, ngành, đơn vị, tổ chức có liên quan triển

khai bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng: đặc biệt là hình thức phổ biến,

tuyên truyền thông qua các hình thức như tập huấn, hội nghị, hội thảo nhằm

góp phần đảm bảo thực hiện quyền của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh nhà.

Ngoài ra, trong khuôn khổ dự án Hỗ trợ người khuyết tật tỉnh Thừa

Thiên Huế giai đoạn 2015-2018, Trung tâm ACDC phối hợp với Ban Quản lý

dự án hỗ trợ người khuyết tật tỉnh, Hội Người khuyết tật tỉnh tổ chức 09 lớp

tập huấn về chính sách pháp luật, giới và bình đẳng giới liên quan đến người

khuyết tật cho hơn 630 NKT, gia đình NKT trên địa bàn tỉnh. Qua đó, góp

phần tuyên truyền, phổ biến các chính sách đến với NKT, gia đình NKT.

Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế như sau:

2.2.1. Chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng

Tình hình cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người khuyết tật: 100 người

khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo, người khuyết tật đang hưởng chế độ bảo

trợ xã hội tại cộng đồng được cấp thẻ bảo hiểm y tế; thực hiện chỉnh hình

phục hồi chức năng và được cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí, các phương

tiện trợ giúp như: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên hàng ngàn người.

Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa

bệnh và tư vấn phù hợp đối với người khuyết tật. Đặc biệt, ưu tiên cho người

khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật, người

54

cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về

khám bệnh, chữa bệnh.

Kết quả thực hiện việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình

phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng: Chương trình phục hồi chức năng

dựa vào cộng đồng đã được triển khai ở 152/152 xã, phường, thị trấn, đảm

bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh tối thiểu cho người dân và NKT. 100

số trạm y tế xã có phân công cán bộ y tế phụ trách công tác phục hồi chức

năng; 100 bệnh viện huyện có tổ chức phục hồi chức năng (khoa, phòng, tổ

phục hồi chức năng); 100 bệnh viện đa khoa tỉnh thành lập khoa phục hồi

chức năng và có 01 bệnh viện phục hồi chức năng [47].

Kết quả hỗ trợ công cụ, dụng cụ cho NKT (xe lăn, xe lắc, máy trợ thính):

Thông qua các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật, từ năm 2013 đến năm

2017, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh đã hỗ trợ, cung cấp 1.621

xe lăn, xe lắc, xe đạp, dụng cụ hỗ trợ khác cho NKT với số tiền gần 2,7 tỷ

đồng. Bệnh viện phục hồi chức năng tỉnh hỗ trợ hơn 400 dụng cụ (xe lăn, xe

đẩy, ghế góc, ghế dùng cho trẻ bại não, ghế tắm, ghế vệ sinh; dụng cụ khác

như nạng, khung tập đi) cho người khuyết tật có nhu cầu [47].

Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về chăm

sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật và phục hồi chức năng:

100 các cơ sở phục hồi chức năng có hoạt động tuyên truyền về phòng ngừa

khuyết tật, về phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng;

đội ngũ cộng tác viên y tế thôn/bản đều được tham gia tập huấn về "kỹ năng

cơ bản phục hồi chức năng" góp phần nâng cao nhận thức về việc chăm sóc

sức khỏe cho NKT. Công tác phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã và

đang được triển khai, duy trì tại cấp xã.

55

Tuy nhiên, người khuyết tật vẫn còn nhiều khó khăn trong tiếp cận

các dịch vụ y tế, nhất là người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều

kiện đi lại không thuận tiện; Phần lớn hộ gia đình có người khuyết tật có

hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế bị hạn chế,

đặc biệt là tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao do những chi phí ngoài điều

trị (chi phí đi lại, chăm sóc, ăn ở, thuốc men) vượt quá khả năng tài chính

của người khuyết tật và hộ gia đình có người khuyết tật; bên cạnh đó những

thủ tục, quy định đối với việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi chuyển tuyến

còn phức tạp với đa số người khuyết tật; Các mô hình phục hồi chức năng

dựa vào cộng đồng mặc dù được triển khai nhưng cho đến nay chủ yếu

thực hiện các hoạt động trong phạm vi của lĩnh vực y tế, sự tham gia của

các ngành khác còn hạn chế.

2.2.2. Hỗ trợ Giáo dục - Đào tạo

Khoản 3, Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nhà nước ưu

tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng,

phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được

học văn hóa và học nghề” [42]. Nhà nước và xã hội luôn tạo điều kiện cho

trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp bằng việc quy

định chính sách học phí, học bổng phù hợp cho NKT. Trên cơ sở đó tại

Điều 27, Luật Người khuyết tật đưa ra những quyền cơ bản về giáo dục đối

với NKT, cụ thể là:

“1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết t t được học t p phù hợp

với nhu cầu và khả năng của người khuyết t t.

2. Người khuyết t t được nh p học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi

quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được

miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả

56

năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí

đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương

tiện, đồ dùng học t p.

3. Người khuyết t t được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học t p

dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết t t nghe, nói được học

bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết t t nhìn được học bằng chữ nổi Braille

theo chuẩn quốc gia” [40].

* Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật

- Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập,

giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.

- Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với trẻ em

khuyết tật.

Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện

trong trường hợp chưa đủ điều kiện để trẻ em khuyết tật học tập theo phương

thức giáo dục hòa nhập.

- NKT, cha, mẹ hoặc người giám hộ NKT lựa chọn phương thức giáo

dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân trẻ em khuyết tật. Gia đình có trách

nhiệm tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để NKT được học tập và phát triển

theo khả năng của cá nhân. Nhà nước khuyến khích NKT tham gia học tập

theo phương thức giáo dục hòa nhập.

Theo đó, việc triển khai các phương thức giáo dục đối với người khuyết

tật: Sở Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện nghiêm chỉnh việc tiếp nhận học

sinh khuyết tật vào học trong các trường công lập ở tất cả các bậc học, cấp

học theo phương thức giáo dục hòa nhập. Số lượng học sinh là người khuyết

tật tham gia các cấp học (Mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ

thông) trong năm học 2013-2017 là 876 người.

57

Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với NKT tham gia giáo dục hòa nhập.

Địa phương đã thực hiện: Người khuyết tật được nhập học ở độ cao

hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong

tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt dộng

giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; thực hiện đúng các quy

định về miễn giảm học phí, cấp học bổng và hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học

tập cho người khuyết tật theo quy định.

Hiện trên địa bàn tỉnh có 02 trường tiểu học có tổ chức lớp học chuyên

biệt dành cho học sinh khuyết tật như học sinh khuyết tật nghe, nói và nhìn

học tại trường tiểu học Vĩnh Ninh; học sinh khuyết tật trí tuệ học tại trường

tiểu học Thuận Thành [47].

Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên dạy học ở các lớp có học sinh khuyết tật

chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ cũng như phương pháp giảng dạy đối với

học sinh khuyết tật, đa số chỉ dừng lại ở mức độ quan tâm của giáo viên;

Phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị dạy học phù hợp đối với các dạng khuyết

tật của học sinh chưa có hoặc chưa đảm bảo đầy đủ; Nhận thức của người

khuyết tật và gia đình người khuyết tật về giáo dục cho người khuyết tật còn

chưa đầy đủ, không nhìn nhận đúng lợi ích của giáo dục đối với người khuyết

tật; Thiếu cơ sở giáo dục chuyên biệt cho trẻ khuyết tật, đồng thời các cơ sở

phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, do vậy không thể

đáp ứng được nhu cầu học tập của trẻ khuyết tật theo vùng, miền.

2.2.3. Dạy nghề và việc làm

Luật Người khuyết tật năm 2010 đã quy định quyền được làm việc của

tất cả người khuyết tật. Tại Khoản 3, Điều 5 luật người khuyết tật 2010 nêu rõ

chính sách của nhà nước về người khuyết tật trong đó khẳng định “nhà nước

bảo trợ xã hội, trợ giúp người khuyết t t trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục,

dạy nghề, việc làm” [40].

58

Nội dung chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao

động khuyết tật bao gồm một số quy định cơ bản sau:

Thứ nhất, quy định về quyền được có việc làm việc của người lao động

khuyết t t.

Việc làm cho người khuyết tật được cả Liên hợp quốc và Tổ chức Lao

động quốc tế đặc biệt quan tâm. Liên hợp quốc quy định: các quốc gia phải

công nhận quyền được làm việc của người khuyết tật, bằng cách thực thi

những bước phù hợp, bao gồm cả các biện pháp luật pháp [5, tr.16]. Tổ chức

Lao động quốc tế hướng dẫn thúc đẩy cơ hội việc làm bình đẳng cho người

khuyết tật không bao gồm việc ngăn cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết

tật. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp Quốc về quyền

của người khuyết tật.

Bộ luật Lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

sửa đổi, bổ sung năm 2012 khẳng định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao

động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật, có chính sách

khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao

động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật Người

khuyết tật” [41]. Quyền làm việc của lao động khuyết tật là tiền đề tạo ra

cơ hội và động lực cho người khuyết tật tìm kiếm việc làm, có cơ hội

khẳng định bản thân, tự lập trong cuộc sống, tạo ra thu nhập để không

phải dựa dẫm vào gia đình, người thân.

Thứ hai, quy định về chính sách học nghề và việc làm cho người

khuyết t t

Nghị định số 28/2012/NĐ - CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Người khuyết tật đã có những quy định chi tiết về dạy nghề và

việc làm đối với người khuyết tật. Theo đó, Nhà nước đảm bảo, tạo điều kiện

tối đa cho người khuyết tật được lựa chọn, tư vấn và học nghề, làm việc theo

59

khả năng, sức khỏe của mình; cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề phải đảm bảo

điều kiện dạy nghề; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, không được từ

chối tuyển dụng những người lao động khuyết tật có đủ tiêu chuẩn [14].

Thứ ba, quy định về cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh

Học nghề và việc làm cho người khuyết tật luôn là vấn đề được

Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Bộ luật Lao động tại khoản 2 Điều 176

quy định: “Chính phủ quy định chính sách cho vay vốn ưu đãi từ Quỹ

quốc gia về việc làm đối với người sử dụng lao động sử dụng lao động là

người khuyết tật” [41]. Đối với cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề cho

người khuyết tật thì phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật

và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật; cơ sở sản

xuất, kinh doanh sử dụng từ 30 tổng số lao động trở lên là người khuyết

tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người

khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi

suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho

thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt

nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật,

mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh [45, tr.3]. Đây là

những quy định ưu đãi góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh

doanh có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất, cải thiện môi trường làm

việc để người khuyết tật tiếp cận với công việc.

Thứ tư, quy định về quỹ việc làm cho người khuyết t t

Với mục đích giúp đỡ người khuyết tật học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ

cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật;

hỗ trợ các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhân người

khuyết tật vào học nghề và làm việc đạt tỷ lệ cao thì quy định về thành lập và

60

sử dụng quỹ việc làm cho NKT là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Luật

Người khuyết tật năm 2010, tại Điều 10 quy định về quỹ trợ giúp người

khuyết tật. Theo đó, quỹ này là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực

trợ giúp NKT và quỹ này được hình thành từ các nguồn như: đóng góp tự

nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; hỗ trợ từ ngân

sách nhà nước; các khoản thu hợp pháp khác [40]. Tuy nhiên, thực tiễn thực

hiện nguồn quỹ này vẫn đang còn nhiều bất cập.

Tại Thừa Thiên Huế, qua đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn,

đề án trợ giúp người khuyết tật 2012- 2020, đã tư vấn và đào tạo nghề cho

327 NKT, trong đó có 283 người được đào tạo trình độ Sơ cấp nghề, còn lại

được học nghề dưới 3 tháng. Đồng thời, qua nguồn vốn của Quỹ Quốc gia về

việc làm, đã giải ngân cho vay 44 dự án, qua đó đã tạo việc làm thường xuyên

cho 497 lao động khuyết tật [47, tr.4].

Ngoài ra, thông qua các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa

phương; các cơ sở dạy nghề và tạo việc làm cho NKT (Trung tâm Dạy

nghề và tạo việc làm cho người tàn tật tỉnh, Trung tâm dạy nghề và giải

quyết việc làm cho người khuyết tật Hy vọng) hàng năm đào tạo và dạy

nghề cho hàng trăm người khuyết tật với các nghề chủ yếu như may mặc,

dệt vải, thủ công mỹ nghệ, sữa chữa xe máy, điện tử. Không chỉ đào tạo

nghề cho các em, các Trung tâm, Cơ sở dạy nghề luôn cố gắng tìm việc

làm cho các em, giúp các em ổn định cuộc sống. Không những giới thiệu

việc làm cho NKT, các cơ sở này còn đứng ra nhận hợp đồng gia công sản

phẩm với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tạo việc làm cho những

lao động không xin được việc làm. Kết quả, từ năm 2013 đến nay, các

Trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho NKT đã tổ chức đào tạo nghề cho

1.792 NKT; giới thiệu việc làm cho 927 người [47, tr.4].

61

Bên cạnh đó, Trung tâm Dạy nghề tạo việc làm cho người mù

(thuộc Hội người mù tỉnh) đã đào tạo nghề cho người mù với những

ngành nghề như: Xoa bóp phục hồi sức khỏe, ngành nghề tiểu thủ công

như đan lát, làm chổi đót, sản xuất tăm tre, hương trầm, ngành nghề chăn

nuôi gia súc, gia cầm. Kết quả từ năm 2013 đến 2017: mở 24 lớp cho 414

học viên là người mù với tổng kinh phí 1,1 tỷ từ nguồn kinh phí đào tạo

nghề lao động nông thôn, kinh phí chương trình dạy nghề của Trung ương

hội và kinh phí tài trợ khác [47, tr.5].

Hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm: Trong giai đoạn 2013-2017, người

mù vay vốn với tổng số tiền 7,958 tỷ đồng gồm 117 dự án với 874 lượt người vay.

Hiện nay, tỉnh hội đang quản lý 3,191 tỷ gồm 42 dự án cho 317 người vay. Ngoài

ra, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh đã hỗ trợ cho 183 trường hợp NKT

vay vốn với số tiền 402 triệu đồng [47, tr.5].

Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng

quan tâm tới công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT song số lượng

người được học nghề còn quá ít, tỷ lệ tìm được việc làm sau đào tạo nghề

còn rất thấp và chủ yếu là tự tạo việc làm, trong các tổ chức cơ sở mang

tính nhân đạo, từ thiện, số có thể tìm được việc làm trong các doanh nghiệp

lớn hầu như không đáng kể. Vì vậy, thu nhập của NKT cũng tương đối

thấp, không ổn định.

Mặt bằng trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật của NKT thấp và hạn

chế, công thêm những rào cản xã hội như thái độ phân biệt, e ngại về chất

lượng lao động, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị không phù hợp

cũng là yếu tố hạn chế cơ hội việc làm của NKT. Một số NKT có trình độ

song lại thiếu tự tin nên ảnh hưởng tới vấn đề việc làm.

62

Dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT tập trung chủ yếu ở khâu dạy nghề và

giới thiệu việc làm, trong khi khâu tư vấn nghề, hỗ trợ tại nơi làm việc, tạo ra

các điều chỉnh hợp lý tại nơi làm việc còn hạn chế.

Vẫn còn nhiều cơ quan, doanh nghiệp chưa thật sự muốn sử dụng NKT.

Thiếu số liệu thống kê chính thức về tỷ lệ người khuyết tật có việc làm,

tỷ lệ có việc làm sau học nghề, tỷ lệ duy trì được việc làm sau 3 tháng.

2.2.4. Văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch

Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch

phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật

được hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.

Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, giảm giá vé và giá dịch vụ

khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch theo

quy định của Chính phủ.

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho người khuyết tật phát triển tài

năng, năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao; tham gia sáng tác, biểu

diễn nghệ thuật, tập luyện, thi đấu thể thao.

Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ,

trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan,

tổ chức, cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ

hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người

khuyết tật.

Thực hiện chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật, ngành

văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh đã thực hiện lồng ghép các hoạt động để

nâng cao đời sống tinh thần, hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và

du lịch cho người khuyết tật ở cộng đồng.

63

 Kết quả đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện:

Du lịch: Theo các tiêu chí tại Bộ Tiêu chuẩn quốc gia "TCVN

4391:2009" về phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch yêu cầu: Các cơ sở

lưu trú du lịch từ 1 đến 5 sao phải có đường xe lăn, xe đẩy của người khuyết

tật. Các cơ sở lưu trú du lịch từ 4 đến 5 sao có buồng ngủ dành cho người

khuyết tật đi xe lăn, xe đẩy. Phần lớn các khách sạn 3 sao trở lên trên địa bàn

tỉnh đều có đường xe lăn, xe đẩy cho người khuyết tật (26 cơ sở); Khách sạn 4

sao trở lên có buồng ngủ dành cho người khuyết tật đi xe lăn, xe đẩy (17 cơ sở).

Thể dục, thể thao: Tỉnh Thừa Thiên Huế đã đăng cai tổ chức thành

công Hội thi văn nghệ thể thao người khuyết tật toàn quốc ; Đầu tư cơ sở

vật chất như: sân vận động, bể bơi, nhà thi đấu dành riêng cho người

khuyết tật. Có chính sách ưu tiên người khuyết tật tham gia tập luyện các

cơ sở thể dục thể thao ; Thành lập các câu lạc bộ thể dục thể thao như: Cờ,

bóng đá, cầu lông, bóng bàn, bơi dành cho người khuyết tật; Phối hợp liên

đoàn Bóng đá Na Uy thành lập câu lạc bộ bóng đá cho các em khuyết tật

tại các cơ sở Bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh; Hàng năm, Sở văn hóa, thể

thao và du lịch phối hợp với Sở Lao động - TB&XH, Hội Người khuyết tật

tỉnh tổ chức tập luyện cho các vận động viên điền kinh, cử tạ, bơi, cầu

lông, bóng bàn để tham gia Hội thi thể thao Người khuyết tật toàn quốc;

Phối hợp tổ chức ParaOlympic tổ chức các giải thể thao cho các em khuyết

tật thiểu năng trí tuệ.

Kết quả miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí và du

lịch theo quy định của Luật người khuyết tật và văn bản hướng dẫn thi hành

Luật được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Tất cả các đơn vị trực thuộc ngành

đều được quán triệt thực hiện việc quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho

người khuyết tật khi tham quan, sử dụng dịch vụ tại bảo tàng, nhà trưng bày

nghệ thuật, thư viện, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao và du lịch [47, tr.6].

64

Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ chuyên

môn hiện nay chưa đảm bảo nên việc phục vụ nhu cầu của người khuyết tật

khi tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch gặp nhiều khó

khăn; Hạ tầng cơ sở thể dục thể thao (kể cả sân bãi cho đến các trang thiết

bị chuyên dùng cho người khuyết tật còn thiếu, không đồng bộ và chưa phù

hợp cho người khuyết tật tập luyện) hầu hết đều chưa có để phục vụ cho

người khuyết tật đến tham gia tập luyện; Phần lớn các công trình văn hóa

như: rạp chiếu phim, nhà hát, thư viện rất khó cho người khuyết tật tiếp cận

vì không được thiết kế phù hợp với người khuyết tật (ví dụ: không có lối

vào cho người khuyết tật); Các cấp chính quyền có nơi, có lúc còn chưa

quan tâm thích đáng đến vấn đề văn hoá, thể dục thể thao của người khuyết

tật; Các sản phẩm, dịch vụ văn hóa thiếu khả năng tiếp cận cho người

khuyết tật. Ví dụ, người điếc, người mù không thể hoặc rất khó khăn trong

việc xem tivi, phim ảnh, báo chí.

2.2.5. Tiếp cận các công trình công cộng, giao thông

* Ưu tiên khi mua vé, sắp xếp chỗ ngồi:

- Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao

thông công cộng được ưu tiên mua vé tại cửa bán vé; được sử dụng chỗ ngồi

dành cho các đối tượng ưu tiên.

- Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách công cộng có trách

nhiệm trợ giúp, hướng dẫn, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện cho người khuyết tật;

hỗ trợ người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng khi lên, xuống

phương tiện và sắp xếp hành lý khi cần thiết.

* Thực hiện miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ cho người khuyết tật khi

tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng:

- Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng khi tham gia

giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng được miễn, giảm giá vé

theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.

65

- Mức giảm giá vé, giá dịch vụ cho người khuyết tật do tổ chức, cá

nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông

công cộng tự xây dựng và công bố thực hiện nhưng không thấp hơn mức giảm

giá vé quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.

- Người khuyết tật sử dụng xe lăn thông dụng không gắn động cơ hoặc

sử dụng các dụng cụ cầm tay để phục vụ việc đi lại của bản thân thì được

miễn cước hành lý đối với xe lăn, dụng cụ đó khi tham gia giao thông bằng

phương tiện giao thông công cộng.

- Người khuyết tật đồng thời thuộc đối tượng được giảm giá vé, giá

dịch vụ theo các chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một mức giảm giá vé

cao nhất.

- Tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng

phương tiện giao thông công cộng có trách nhiệm bố trí thiết bị, công cụ và

nhân viên để trợ giúp người khuyết tật lên, xuống phương tiện được thuận

tiện. Phương án trợ giúp này phải được thông báo ở những nơi dễ nhận biết

tại các bến, nhà ga để người khuyết tật tiếp cận, sử dụng.

- Khuyến khích tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh điểm dừng, đỗ,

bến, nhà ga; kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công

cộng tổ chức bộ phận, cổng thông tin để tiếp nhận phản ảnh, hướng dẫn, trả

lời và trợ giúp người khuyết tật tham gia giao thông bằng phương tiện giao

thông công cộng.

Kết quả thực hiện việc miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ giao thông công

cộng: Đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng khi tham

gia giao thông bằng các phương tiện công cộng như xe buýt đều được xem xét

giảm, miễn giá vé, giá dịch vụ. Ngoài ra, NKT đặc biệt nặng, NKT nặng khi

tham gia giao thông trên các tuyến vận tải nội địa bằng các phương tiện máy

66

bay, tàu hỏa, tàu điện, tàu thủy, xe ô tô vận tải khách theo tuyến cố định đều

được xem xét giảm giá vé theo quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.

Kết quả thực hiện lộ trình cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng:

Một số công trình xây dựng công cộng đã được cải tạo để tăng khả năng tiếp

cận cho người khuyết tật như Ga Huế, các khách sạn, trụ sở các cơ quan. Điều

này, bước đầu đã tạo ra cơ hội cho người khuyết tật tham gia vào các hoạt

động xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập

cộng đồng [47, tr.7].

Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở giao thông của tỉnh nhà còn nhiều bất cập,

hệ thống đường xá còn thiếu, chưa đồng bộ; phương tiện giao thông còn

thiếu, chưa bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn. Sự chỉ đạo chưa triệt để, nhất

quán của các cấp quản lý, chưa chỉ đạo sát sao các cơ quan chuyên môn khi

thẩm định, cấp phép các công trình xây dựng. Thiếu chế tài xử phạt khi

không tuân thủ các quy định trong quy chuẩn cũng như các văn bản pháp

quy có liên quan trong quá trình đầu tư xây dựng mới, cải tạo hoặc nâng

cấp các công trình xây dựng.

2.2.6. Công nghệ thông tin và truyền thông

Những năm gần đây Đài truyền hình Việt Nam tại Huế thường có một số

chương trình đặc biệt, chẳng hạn như chương trình “Cuộc sống vẫn tươi đẹp” với

nhiều nội dung phong phú liên quan đến NKT. Gương người tốt, việc tốt điển

hình về sự vượt khó vươn lên của NKT ở mọi miền đất nước và những thông tin

liên quan đến họ (ví dụ như khoá học về công nghệ thông tin đối với NKT đang

diễn ra) đã được chuyển tải đến người xem nhằm giúp cộng đồng hiểu rõ hơn về

NKT đồng thời cũng cổ vũ, động viên và tiếp thêm sức mạnh cho những NKT.

Đặc biệt, Đài truyền hình Việt Nam tại Huế đã thường xuyên phát chương trình

thời sự dành cho người khiếm thính trên sóng HVTV. Ngoài hình ảnh và lời của

67

phát thanh viên, hình ảnh của người sử dụng ngôn ngữ ký hiệu bằng tay, trên màn

hình tivi còn có thêm dòng phụ đề để những người khiếm thính có thể theo dõi

được. Đây chính là bản tin thời sự phát trên sóng HVTV lúc 19 giờ hàng ngày

nhưng nội dung đã được biên tập ngắn gọn hơn cho phù hợp với sự truyền tải số

lượng chữ trong giới hạn nhất định cũng như phù hợp với mức độ tiếp nhận của

người khiếm thính.

Tỉnh Thừa Thiên Huế khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá

nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển

công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật.

Đài truyền hình Việt Nam tại Huế và Đài phát thanh truyền hình tỉnh

Thừa Thiên Huế có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ

đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định

của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.

Tỉnh Thừa Thiên Huế có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với

lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và

cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ

thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu

in chữ nổi Braille dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người

khuyết tật nghe, nói và người khuyết tật trí tuệ.

Với việc quy định biện pháp khuyến khích và trách nhiệm, nghĩa vụ

của các chủ thể khác nhau, trong đó có việc khuyến khích chính bản thân

NKT cũng như đề ra hoạt động và biện pháp để đạt được những chỉ tiêu cụ

thể mang tính ngắn hạn cho các giai đoạn phát triển khác nhau, pháp luật về

cơ bản đã tạo dựng được hành lang pháp lý tương đối đầy đủ nhằm đảm bảo

quyền luật định trong việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông của

NKT. Dù vậy, để đạt được hiệu quả điều chỉnh cao hơn, nhằm thúc đẩy việc

tiếp cận lĩnh vực hiện đại này của NKT mạnh mẽ hơn, một số quy định pháp

68

luật cần sớm được hướng dẫn chi tiết, cụ thể, từ đó góp phần mở rộng thêm

cánh cửa hội nhập cộng đồng đối với bộ phận cư dân này.

2.2.7. Bảo trợ xã hội

* Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:

- Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định

- Người khuyết tật nặng

* Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:

- Gia đình có NKT đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc

trẻ em đó.

- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng.

- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng

tháng đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ

quy định.

* Nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội

- Người khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo

được cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội.

- Nhà nước cấp kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật t h e o quy

định cho các cơ sở bảo trợ xã hội.

* Chính phủ quy định điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở

chăm sóc người khuyết tật.

* Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động cho cơ

sở chăm sóc người khuyết tật công lập.

* Xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật

- Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về

tài chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng,

chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp

người khuyết tật.

69

- Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức

năng, chăm sóc, giáo dục, hướng nghiệp hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ

giúp NKT được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định.

- Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ,

trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan,

tổ chức, cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ

hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người

khuyết tật.

- Việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội hàng tháng cho người khuyết

tật được địa phương thực hiện đúng quy định, đảm bảo kịp thời cho đối tượng,

góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho người

khuyết tật. Thực hiện Nghị định số 28/2012/NĐ-CP; Nghị định số 136/2013/NĐ-

CP; Thông tư Liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC, tính đến tháng

12/2017, tổng số người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội là 29.012 đối tượng,

3.444 hộ gia đình, cá nhân trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng người khuyết tật được

hỗ trợ kinh phí chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng [53, tr.2].

- Hơn 900 người khuyết tật đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ

sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh [53, tr.3].

Tuy nhiên, mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn thấp so với mặt bằng

mức sống dân cư, chưa đảm bảo được những nhu cầu sống tối thiểu của người

khuyết tật. Số lượng cơ sở chăm sóc người khuyết tật ít, đa số là các cơ sở

nuôi dưỡng tập trung nhiều loại đối tượng, chưa có cơ sở chăm sóc, nuôi

dưỡng người khuyết tật riêng biệt.

2.2.8. Xác định mức độ khuyết tật

Tổng số NKT 29.012 người, theo số liệu báo cáo của các huyện, thị xã

và thành phố Huế, số người khuyết tật đã được xác định dạng tật và mức độ

70

khuyết tật: 20.890 người; số người khuyết tật chưa được xác định mức độ

khuyết tật: 8.122 người [52, tr.2].

Quy trình, hồ sơ, thủ tục xác định dạng tật, mức độ khuyết tật và cấp

Giấy xác nhận khuyết tật được thực hiện theo đúng quy định.

Tuy nhiên, các thành viên trong Hội đồng xác định mức độ khuyết tật

đa số là cán bộ chủ chốt đang làm việc tại xã, phường, thị trấn công việc rất

bận rộn nên việc Hội đồng tổ chức đánh giá và xác định mức độ khuyết tật

gặp phải trở ngại về thời gian và số lần thực hiện, ảnh hưởng đến quyền lợi

của đối tượng; Một số tiêu chí, dấu hiệu trong các biểu mẫu, phiếu đánh giá

dạng tật và mức độ khuyết tật chưa rõ ràng, cụ thể nên việc đánh giá, cho

điểm gặp phải nhiều khó khăn; Sự thiếu thống nhất giữa các địa phương

trong việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng cấp xã thực hiện, dẫn

đến thắc mắc của người khuyết tật, thân nhân người khuyết tật. Chẳng hạn,

cùng một dạng khuyết tật (như người mù hoàn toàn 2 mắt) nhưng mỗi địa

phương xác định mức độ khác nhau; Những trường hợp chuyển Hội đồng

Giám định y khoa thực hiện, biên bản kết luận có tỷ lệ mất sức lao động (tỷ

lệ tổn thương) khá cao nhưng kết luận chưa tương xứng với mức độ khuyết

tật dẫn đến người khuyết tật thắc mắc; Công tác tuyên truyền còn hạn chế,

nên chỉ những người khuyết tật đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hàng

tháng mới đề nghị Hội đồng cấp xã xác định dạng và mức độ khuyết tật, còn

lại người khuyết tật nhẹ, các đối tượng khác (những người hưởng trợ cấp

theo Pháp lệnh người có công, Luật Bảo hiểm xã hội) chưa làm hồ sơ đề

nghị xác định dạng và mức độ khuyết tật.

2.2.9. Trợ giúp pháp lý

Công tác chỉ đạo, hướng dẫn ban hành kế hoạch triển khai thực hiện

chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật: Trên cơ sở kế hoạch triển

71

khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật các năm 2013,

2014, 2015, 2016, 2017 của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh đã ban hành các Kế

hoạch số: 34/KH-UBND ngày 12/3/2013, 67/KH-UBND ngày 07/6/2014 và

59/KH-UBND ngày 18/5/2015, 87/KH-UBND ngày 06/6/2016, 89/KH-UBND

ngày 21/4/2017, 30/KH-UBND ngày 22/02/2018 về việc triển khai thực hiện

chính sách TGPL cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Kết quả thực hiện TGPL cho người khuyết tật:

Số vụ việc TGPL: Sau 05 năm triển khai thực hiện chính sách TGPL

cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh, Trung tâm TGPL tỉnh đã thực hiện

TGPL 149 vụ việc, trong đó: Dân sự: 24; Hôn nhân gia đình: 21; Đất đai,

nhà ở: 33; Lao động việc làm: 20; Chế độ chính sách: 47; Hành chính: 02;

Các lĩnh vực khác: 02.

Công tác TGPL lưu động: Trung tâm TGPL tỉnh phối hợp với Hội

Người khuyết tật tỉnh và Hội người khuyết tật các huyện xây dựng kế hoạch

và thực hiện khảo sát nhu cầu TGPL tại các huyện: Phong Điền, Quảng Điền,

Phú Lộc và Thị xã Hương Thủy. Trong 05 năm (2013 - 2017), Trung tâm đã

xây dựng và thực hiện 06 Kế hoạch TGPL lưu động, kết quả đã tổ chức TGPL

lưu động cho 16 xã thuộc các huyện Phong Điền và Phú Lộc. Thông qua các

đợt TGPL, Trung tâm TGPL đã lồng ghép phổ biến cho Hội người khuyết tật

các văn bản liên quan đến người khuyết tật như Luật người khuyết tật, Nghị

định số 28/2012/NĐ-CP và tư vấn về các vấn đề hội viên Hội người khuyết

tật quan tâm như: quyền được chăm sóc sức khỏe (khám chữa bệnh, phục hồi

chức năng), trợ cấp xã hội, học nghề và việc làm.

Tuy nhiên, nhiều người khuyết tật chưa biết đến quyền được TGPL hoặc

biết nhưng không có điều kiện tiếp xúc với dịch vụ này do điều kiện khách

quan, họ chỉ sinh hoạt ở môi trường hạn hẹp, giao tiếp ở mức tối thiểu với

72

người xung quanh nên khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về dịch vụ TGPL.

Đa phần người khuyết tật đều có thái độ mặc cảm, thiếu tự tin trước đám đông,

không thể tự mình chủ động tiếp cận với tổ chức thực hiện TGPL khi có nhu

cầu hoặc khi đã tiếp cận thì không thể tự trình bày mà cần phải có người khác

giúp đỡ. Do vậy, phần nào ảnh hưởng đến việc nắm bắt thông tin, tâm tư

nguyện vọng của người yêu cầu TGPL. Người thực hiện TGPL chưa được tập

huấn các kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu trong việc thực hiện TGPL cho người

khuyết tật. Do ngân sách địa phương hạn hẹp, chưa bố trí kinh phí riêng nên

hoạt động TGPL cho người khuyết tật chưa mang tính chuyên sâu. Một số cấp

ủy Đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác TGPL cho người

khuyết tật [47].

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời

khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

2.3.1. Kết quả đạt được trong thực hiện chính sách

Thứ nhất, các sở, ban, ngành, các địa phương, các cơ quan hữu quan

nghiêm túc triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông

qua năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011; thực hiện Đề án trợ

giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020 như lên kế hoạch, đôn đốc, theo dõi, giám

sát, kiểm tra việc thực hiện, đồng thời lồng ghép các chương trình liên quan

tới NKT theo quy định tại Luật Người khuyết tật.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các chính sách đối với

người khuyết tật một cách có hệ thống, đồng bộ.

Thứ ba, đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và

chính sách đối với người khuyết tật.

Công tác tuyên truyền đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương

đặc biệt quan tâm chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt, với vai trò là

73

cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xã hội nói chung và lĩnh vực trẻ em

khuyết tật nói riêng, hàng năm Sở Lao động -Thương binh và xã hội đã hệ

thống các văn bản quy định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp

vụ, tờ rơi, in và phát cho các địa phương.

Các sở, ban, ngành, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể đã tích cực phổ

biến, tuyên truyền Luật người khuyết tật và có những hoạt động cụ thể để

thực hiện các quy định của luật. Sở Y tế đã có công văn gửi Ủy ban Nhân dân

các huyện, thị xã và thành phố Huế đề nghị phối hợp chỉ đạo Phòng Y tế,

Trung tâm Y tế cấp huyện, ngành có liên quan triển khai Luật người khuyết

tật, bố chí ngân sách địa phương để chi cho các hoạt động thực hiện các

nhiệm vụ chính được quy định trong luật như: Chăm sóc sức khỏe cho NKT,

chỉnh hình, phục hồi chức năng, cung cấp dụng cụ y tế trợ giúp NKT (cấp xe

lăn, xe lắc, chân giả, tay giả). Sở Giao thông vận tải, Sở Thông tin và Truyền

thông, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại

Huế và các cơ quan báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương đã tích cực,

chủ động đăng tải, phát các nội dung của luật trên các phương tiện thông tin

đại chúng, các địa chỉ truy cập thông tin mạng nhằm phổ biến đến đông đảo

người dân. Sở Xây dựng, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch, Sở Giáo dục

và Đào tạo đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến luật đến cán bộ,

nhân viên trong ngành và đã có nhiều hoạt động cụ thể để thực hiện các

nhiệm vụ của Bộ mình được quy định trong luật.

Năm 2013, được sự hỗ trợ của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc, Bộ Lao

động- Thương binh và xã hội đã xây dựng khung truyền thông thực hiện Luật

người khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật và trẻ em khuyết tật giai

đoạn 2012 - 2020 định hướng các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, cơ

quan, tổ chức theo nhiệm vụ được quy định trong Luật người khuyết tật triển

khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền Luật Người khuyết tật và những

74

chủ trương, chính sách, chương trình trợ giúp trẻ em khuyết tật, đặc biệt là

tuyên truyền về thực hiện Đề án hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012 -

2020. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền

thông thực hiện công tác tuyên truyền về pháp luật và các chính sách đối với

trẻ em khuyết tật. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương triển khai

rất tốt và có hiệu quả Đề án này.

Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng kiến thức chuyên môn qua các khóa tập

huấn cho cán bộ, công chức thực hiện chính sách đối với người khuyết tật.

Nhiều khóa tập huấn về chính sách đối với người khuyết tật, về công

tác chăm sóc, giáo dục người khuyết tật đã được quan tâm thực hiện từ cấp

tỉnh đến cơ sở, góp phần triển khai thực hiện các chế độ chính sách đối với

NKT được quy định trong Luật người khuyết tật. Sở Lao động - Thương binh

và Xã hội đã tổ chức tập huấn cho Giám đốc, phó giám đốc các cơ sở bảo trợ

xã hội, các Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các huyện, thị

xã và thành phố. Các phòng chuyên môn của Sở tùy theo chức năng nhiệm vụ

đã tổ chức các lớp tập huấn các khóa học về chính sách, quy trình thực hiện

chính sách đối với trẻ khuyết tật, các kỹ năng xây dựng kế hoạch, kỹ năng

thực hiện các đề án, chương trình, kỹ năng đánh giá, tổng kết.

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND các huyện, thị xã và thành phố

Huế thực hiện công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện luật. Ngoài các văn bản

luật, hàng năm các Sở, ban, ngành còn ban hành hàng trăm công văn, quyết

định cá biệt để xử lý và hướng dẫn các địa phương, các tổ chức để xử lý

những vấn đề bức xúc hoặc tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa

các sở, ban, ngành cơ quan cũng đã thực hiện tương đối tốt, đây là điều kiện

quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về NKT.

Tổng hợp thống kê, khảo sát đánh giá thực trạng NKT và tình hình thực

hiện chính sách, giải pháp đã được quan tâm. Hàng năm Sở Lao động -

Thương binh và xã hội đều có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn cấp huyện tổng

75

hợp thống kê về tình hình thực hiện các chế độ chính sách đối với NKT để từ

đó tạo cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với NKT.

Giai đoạn 2013 - 2017, thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày

21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã

hội, chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật vừa tăng cả về số lượng

người được trợ cấp và mức kinh phí được trợ cấp. Năm 2013, Thừa Thiên

Huế có 13.187 NKT hưởng trợ giúp xã hội với kinh phí 4.078,08 triệu đồng

[47, tr.2]. Năm 2017 có 29.012 NKT hưởng trợ giúp xã hội với kinh phí

8.793,38 triệu đồng do có sự điều chỉnh về mức chuẩn trợ cấp theo quy định

tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP [47, tr.2].

Việc Quốc hội phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của

người khuyết tật ngày 28/11/2014, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ và thay đổi

cách nhìn đối với tình trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải

là vấn đề y tế và xác lập sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng

nhân đạo sang hướng nhân quyền. Ngoài ra, không những thể hiện quyết tâm

và mong muốn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam thực hiện những điều

tốt đẹp nhất, tạo điều kiện tốt nhất cùng với người khuyết tật giải quyết khó

khăn của bản thân họ và các rào cản xã hội, cùng hướng tới một xã hội phát

triển bền vững mà còn thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng

quốc tế về vấn đề NKT.

Trong những năm qua Nhà nước đã ban hành các chế độ chính sách hỗ

trợ người khuyết tật, tạo khung pháp lý về chăm sóc người khuyết tật, xác

định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở cũng

như tạo môi trường thuận lợi cho người khuyết tật được tiếp cận học nghề, tạo

việc làm và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ vậy, đời sống vật chất, tinh thần

của người khuyết tật trong xã hội được cải thiện.

76

Công tác chăm sóc NKT luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của các

cấp uỷ Đảng, chính quyền. Người khuyết tật nói riêng, đối tượng bảo trợ xã

hội nói chung luôn nhận được sự hưởng ứng ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện để

NKT vươn lên, hòa nhập cộng đồng. Đặc biệt các cơ sở của Hội có NKT

tham gia trên địa bàn tỉnh đã phát động các phong trào thi đua lập thành tích

chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều phong trào hoạt động thiết thực sôi nổi,

kết quả thể hiện các cấp hội cơ sở đã tổ chức tọa đàm, giao lưu văn nghệ, thể

dục thể thao thu hút được mọi hội viên tham gia tạo không khí phấn khởi, hồ

hởi, tinh thần sống vui, sống khỏe, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Các trường học đã phối hợp với chính quyền địa phương và cha mẹ học

sinh để vận động học sinh trong độ tuổi đến trường. Việc huy động trẻ khuyết

tật hoà nhập cộng đồng đã giúp các em xoá dần mặc cảm, giúp các em hoà

nhập vào môi trường sống, biết cách sinh hoạt tập thể, rèn luyện một số kỹ

năng sống nhất định.

Việc thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội được UBND cấp xã tổ

chức thực hiện, trên cơ sở có sự trợ giúp, kiểm tra, giám sát của cấp huyện,

cấp tỉnh.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, việc chi trả cho các đối

tượng hưởng trợ cấp/trợ giúp xã hội do cơ quan dịch vụ Bưu điện thực hiện,

bước đầu có thành quả nhất định và đã chia sẻ một số gánh nặng cho cán bộ

Lao động-TB&XH ở địa phương.

Nhìn chung, chính sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam cũng như ở tỉnh

Thừa Thiên Huế thực hiện có hiệu quả, góp phần bảo đảm an sinh xã hội

cho người dân. Hệ thống trợ giúp xã hội tuy đã hình thành nhưng sẽ dần

hoàn thiện theo cách tiếp cận hệ thống, toàn diện, bao phủ hết đối tượng,

gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội và cuộc sống của

mọi người dân.

77

2.3.2. Hạn chế trong thực hiện chính sách

Một là, nội dung chính sách thay đổi nhiều, đối tượng được mở rộng,

mức trợ cấp tăng lên nhưng nhiều văn bản của trung ương chưa quy định rõ

nên địa phương còn lúng túng.

Hai là, tiến độ thực hiện chính sách đối với NKT của các sở, ngành, địa

phương còn chậm.

Ba là, điều kiện và cơ sở vật chất để thực hiện chính sách còn hạn chế,

chưa đảm bảo trợ giúp tốt cho người khuyết tật.

Hiện nay chưa có cơ sở sản xuất lồng ghép hoặc dành riêng cho người

khuyết tật, ít có nhà tài trợ, doanh nghiệp, công ty nhận đỡ đầu, nhận người

vào làm việc, nguồn sinh sống của người khuyết tật chủ yếu phụ thuộc vào

người thân trong gia đình và họ tộc. Đa số các công trình có kết cấu hạ tầng

giao thông chưa đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về kết cấu hạ tầng

giao thông để người khuyết tật tiếp cận sử dụng, các phương tiện vận tải hành

khách công cộng chưa đáp ứng các quy chuẩn về giao thông tiếp cận. Do đó,

tỷ lệ người khuyết tật tham gia giao thông bằng các phương tiện giao thông

công cộng rất thấp.

Sự quan tâm của một số địa phương trong việc chăm sóc sức khỏe cho

người khuyết tật chưa cao; Các trường không có điều kiện tổ chức cho học

sinh khuyết tật trong việc sinh hoạt như: ăn, ở, phương tiện đi lại; học sinh

gặp nhiều khó khăn khi đến lớp;

Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục hòa nhập: Hầu hết các nhà trường chưa

được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dành riêng cho học sinh khuyết tật,

chưa có không gian tiếp cận và phòng hỗ trợ giáo dục hướng nghiệp cho học

sinh khuyết tật. Nhìn chung thực hiện giáo dục hòa nhập NKT tại địa phương

còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học hỗ trợ giáo

dục hướng nghiệp cho NKT đã ảnh hưởng đến việc giáo dục cho NKT.

78

Bốn là, chế độ báo cáo, hệ thống thông tin liên quan về người khuyết

tật chưa được các Sở, ban ngành, hội đoàn thể cập nhật chính xác và báo

cáo kịp thời.

Năm là, kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động hỗ trợ NKT từ cấp tỉnh

đến cơ sở chưa thường xuyên.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách

Một là, hệ thống thể chế và chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết

tật chậm được cụ thể hóa, thủ tục rườm rà, phức tạp và mất nhiều thời gian.

Những quy định không còn phù hợp với tình hình đất nước hiện nay, cụ

thể như các thủ tục về chế độ chính sách đối với NKT, thủ tục xin, cấp phép

xây dựng các dự án chăm sóc NKT, các thủ tục về công tác xã hội hóa đối với

cho NKT còn rườm rà, phức tạp và tốn thời gian; hệ thống chỉ tiêu của một số

đề án, chương trình không mang tính thực tiễn, thiếu hệ thống giám sát, đánh

giá hoàn thiện để cung cấp thông tin cho tính toán chi tiêu.

Hai là, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện

chính sách đối với NKT chưa đáp ứng yêu cầu.

Công tác xây dựng các chương trình giám sát, đánh giá, theo dõi thực

hiện chính sách đối với NKT chưa tốt; công tác thực hiện chính sách còn lúng

túng; việc khảo sát, điều tra, phân loại NKT nhẹ, nặng và đặc biệt nặng chưa

chính xác đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong tổ chức triển khai thực

hiện chính sách.

Ba là, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, giữa cấp tỉnh với cơ sở

trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật thiếu chặt chẽ, hài hòa,

không đồng bộ nên hạn chế kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra.

Bốn là, công tác tuyên truyền về chế độ, chính sách đối với NKT chưa

toàn diện và chưa sâu rộng

79

Năm là, nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho việc thực hiện chính

sách đối với NKT còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của

người khuyết tật.

Sáu là, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, các tổ chức

chính trị - xã hội tại một số địa phương về chính sách trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật còn chưa đầy đủ.

80

Tiểu kết chƣơng 2

Chương 2 đã tổng hợp đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Chương

này tập trung phân tích những vấn đề sau:

Chương này tập trung đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách trợ

giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong đó

nêu rõ số lượng người khuyết tật, mức độ khuyết tật, nguyên nhân khuyết tật,

thực trạng thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế như chính sách giáo dục, chính sách bảo trợ xã

hội, chính sách y tế, chính sách về văn hóa, thể dục thể thao, chính sách trợ

giúp pháp lý đồng thời phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã

hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, những tồn tại, bất

cập trong quá trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, những nguyên nhân hạn chế.

Kết quả đánh giá của chương II là cơ sở cho việc đề xuất quan điểm,

chủ trương và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

trong giai đoạn tới.

81

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

3.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết vấn đề của ngƣời khuyết tật

3.1.1. Quan điểm về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

Người khuyết tật cũng là những công dân đặc biệt, vì vậy, sự nghiệp

chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn

diện của người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ,

của Nhà nước mà còn của toàn xã hội.

Trong những năm qua, dù tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn song

nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn hướng đến việc

tăng cường bảo đảm các quyền cho người khuyết tật. Cương lĩnh xây dựng

đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “không

những nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội; chăm lo

đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ

côi” [21]. Hiến pháp 2013 quy định: Nhà nước “có chính sách trợ giúp người

cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn

khác” và “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa

và học nghề” [42]. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục

nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ

nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật” [22], Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nêu quan

điểm xây dựng luật người khuyết tật là phải thể hiện rõ truyền thống thương

người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; thể chế tư tưởng Hồ Chí

Minh và chủ trương của Đảng về người khuyết tật; quy định cụ thể các quyền

82

mà người khuyết tật được hưởng như quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền

được học tập, được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục,

thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền được tiếp cận

thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động xã hội, tạo điều kiện cho

người khuyết tật phát huy năng lực bản thân và thông qua hoạt động xã hội

hóa việc chăm sóc trợ giúp người khuyết tật có cơ hội vươn lên, nhanh chóng

hòa nhập cộng đồng [23]. Năm 2010, Luật người khuyết tật đã chính thức

được ban hành thay thế Pháp lệnh về người khuyết tật năm 2008, Luật người

khuyết tật đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách dành cho người khuyết

tật, ngoài ra, các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách đối với người

khuyết tật còn được nhắc đến trong các bộ luật khác, như Bộ luật Lao động,

Luật Trẻ em.

Về chính sách liên quan đến người khuyết tật, Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành Quyết định 1215/QĐ – TTg, ngày 22/7/2011, Phê duyệt Đề án trợ

giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí

dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020 ; Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày

05/8/2012, phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020;

Như vậy, cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện

nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật. Người

khuyết tật đang hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, được

hưởng chính sách quy định tại Luật về người khuyết tật năm 2010. Người

khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách trợ giúp xã hội cùng

loại thì chỉ được hưởng một chính sách trợ giúp cao nhất.

Nội dung chính sách, pháp luật về người khuyết tật gồm:

1/ Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về

người khuyết tật.

83

2/ Phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn

thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật.

3/ Bảo trợ xã hội; trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe,

giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công trình

công cộng và công nghệ thông tin, tham gia giao thông; ưu tiên thực hiện

chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi.

4/ Lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển

kinh tế - xã hội.

5/ Tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức

năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng.

6/ Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc người

khuyết tật.

7/ Khuyến khích hoạt động trợ giúp người khuyết tật.

8/ Tạo điều kiện để tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người

khuyết tật hoạt động.

9/ Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích, đóng góp trong

việc trợ giúp người khuyết tật.

10/ Xử lý nghiêm minh cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm

quy định của Luật về người khuyết tật và quy định khác của pháp luật có

liên quan.

Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm trước tiên và chủ yếu

trong quá trình tổ chức triển khai, thực hiện các nội dung chính sách, pháp

luật về người khuyết tật. Cụ thể: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về

công tác người khuyết tật. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách

nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác

người khuyết tật. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã

84

hội thực hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật. Ủy ban nhân dân

các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực

hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật.

Thông qua đó, bảo đảm cho người khuyết tật tham gia bình đẳng vào

các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc

giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức

khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp

lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông

tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật

và mức độ khuyết tật; và được thụ hưởng các quyền khác theo quy định của

pháp luật. Và người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy

định của pháp luật.

Đẩy mạnh các hoạt động trợ giúp người khuyết tật hiện nay:

Một là, xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết t t: Nhà nước

khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài chính, kỹ thuật

để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc, giáo

dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết

tật. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức

năng, chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm hoặc cơ sở cung cấp dịch

vụ khác trợ giúp người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa

theo quy định của pháp luật.

Hai là, tiếp tục phát triển các hình thức “Quỹ trợ giúp người khuyết

t t” tại cộng đồng nhằm huy động các nguồn lực từ thiện khác nhau trong

cộng đồng để trợ giúp người khuyết tật.

Ba là, thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật nhằm

phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và

hành vi về vấn đề khuyết tật; chống kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật.

85

Thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật phải bảo đảm chính

xác, rõ ràng, thiết thực; phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội.

Bốn là, giáo dục đối với người khuyết t t: Người khuyết tật được nhập

học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông;

được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội

dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng;

được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét

cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. Người khuyết tật được

cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần

thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người

khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.

Năm là, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú: Trạm y tế cấp xã có

trách nhiệm triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến

thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật;

hướng dẫn người khuyết tật phương pháp phòng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe

và phục hồi chức năng; lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật;

khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người khuyết tật.

Sáu là, nuôi dưỡng người khuyết t t trong cơ sở bảo trợ xã hội: Người

khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống

được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội. Nhà nước cấp kinh

phí nuôi dưỡng người khuyết tật cho các cơ sở bảo trợ xã hội, bao gồm: trợ

cấp nuôi dưỡng hằng tháng; mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt

thường ngày; mua thẻ bảo hiểm y tế; mua thuốc chữa bệnh thông thường;

mua dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng; mai táng khi chết; vệ

sinh cá nhân hằng tháng đối với người khuyết tật là nữ.

Bảy là, dạy nghề đối với người khuyết t t: Nhà nước bảo đảm để người

khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả

năng, năng lực bình đẳng như những người khác. Cơ sở dạy nghề có trách

86

nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật

học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ

quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho

người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và

được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Người khuyết tật

học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính

sách theo quy định của pháp luật.

Tám là, việc làm đối với người khuyết t t: Cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu

chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy

định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy

theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi

trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ

quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật. Tổ

chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu

việc làm cho người khuyết tật. Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia

đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản

xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ

tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ. Nhà nước khuyến khích cơ

quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doanh

nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được hưởng chính sách ưu

đãi theo quy định tại Điều 34 của Luật về người khuyết tật.

Chín là, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch đối với

người khuyết t t: Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, người khuyết tật

nặng được giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể

87

dục, thể thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ. Tổ chức hoạt

động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch của người khuyết tật được

lồng ghép vào đời sống văn hóa cộng đồng, được tổ chức đa dạng về loại

hình, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du

lịch của người khuyết tật. Đại hội thể thao người khuyết tật toàn quốc, giải thi

đấu thể thao, hội thi văn nghệ của người khuyết tật được tổ chức phù hợp với

đặc điểm, nhu cầu của người khuyết tật và điều kiện kinh tế - xã hội.

Mười là, bảo đảm điều kiện tiếp c n đối với người khuyết t t: Nhà

chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công trình

hạ tầng xã hội được xây dựng, phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người

khuyết tật. Chính phủ đặt ra mục tiêu phấn đấu đến ngày 01.01.2025, tất cả

nhà chung cư, trụ sở làm việc, công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công

trình hạ tầng xã hội khác phải bảo đảm điều kiện tiếp cận thuận tiện đối với

người khuyết tật.

Mười một là, tham gia giao thông của người khuyết t t: Phương tiện

giao thông cá nhân của người khuyết tật khi tham gia giao thông phải bảo

đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với điều kiện sức khỏe của

người khuyết tật. Phương tiện giao thông cá nhân đòi hỏi phải có giấy phép

điều khiển thì người khuyết tật được học và cấp giấy phép điều khiển đối với

phương tiện đó. Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng các phương

tiện giao thông công cộng được sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoặc sự trợ

giúp tương ứng; được phép mang theo và miễn phí khi mang phương tiện,

thiết bị hỗ trợ phù hợp. Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật

nặng được miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một

số phương tiện giao thông công cộng theo quy định của Chính phủ. Người

khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện khi

sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.

88

3.1.2. Định hướng về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật

Như những người bình thường khác, để tồn tại, phát triển và có được

những quyền cơ bản, người khuyết tật cần được bảo đảm các nhu cầu cơ bản

như nhu cầu được chăm sóc về thể chất, tinh thần, được học tập; nhu cầu

được bảo vệ; nhu cầu được yêu thương; nhu cầu nhận thức và ý thức về bản

thân; nhu cầu được thể hiện bản thân.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên dành sự

quan tâm, chăm lo đến việc bảo đảm an sinh xã hội đối với người khuyết tật.

Hệ thống chính sách xã hội đối với NKT đã hình thành, Luật về NKT đang

đi vào cuộc sống, công tác giáo dục, bảo vệ chăm sóc NKT đã có những

chuyển biến tích cực. NKT có môi trường xã hội thuận lợi để tiếp cận các

dịch vụ xã hội cơ bản, họ đã và đang nỗ lực phấn đấu, bền bỉ rèn luyện, tự

tin, vượt qua số phận, vươn lên hòa nhập với cuộc sống, cộng đồng. Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội đã làm tốt công tác bảo trợ NKT và kêu gọi xã

hội hóa công tác này với sự đồng lòng, chia sẻ quý báu, thiết thực của các tổ

chức, cá nhân trong nước cũng như sự cảm thông, trợ giúp có hiệu quả của

nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam luôn đảm bảo thực hiện

quyền của NKT và tạo môi trường bình đẳng và không rào cản tiếp cận cho

NKT; Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc đời sống, giáo dục, y tế, giao

thông, công nghệ thông tin cho NKT. Cùng với đó là cải cách thủ tục hành

chính, tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát, thực hiện chính sách đối với

trẻ em khuyết tật.

Theo kết quả thông kê cho thấy, nhiều NKT được trợ cấp xã hội hàng

tháng, nhiều trường học trong cả nước đã tiếp nhận NKT để hỗ trợ theo hướng

giáo dục hòa nhập, chăm sóc y tế và phục hồi chức năng NKT đã cải thiện đáng

kể, đã mở rộng mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, địa phương

89

nơi NKT sinh sống, NKT đã được giảm giá vé, phí tham gia giao thông công

cộng, các hoạt động văn hóa ở các cơ sở văn hóa, du lịch có thu phí.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

XI đã định hướng “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở

rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ

cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây

dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác

định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính

sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát

triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến

khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc

người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão.

Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã

hội thường xuyên, trong đó trên 30 là người cao tuổi.

Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân bị thiệt hại

khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và

phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột

xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng” [24].

Trong thời gian tới, nhiều chủ trương, chính sách đối với NKT được

đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là xây dựng nhiều chương trình, đề án an

sinh xã hội đối với NKT, tiếp tục hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với

NKT, cụ thể là các chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, tiếp cận với các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các công trình công cộng để NKT

có thể phát huy mọi khả năng của mình, được đầy đủ những quyền như những

trẻ em bình thường, sớm hòa nhập vào cộng đồng, đặc biệt là NKT ở vùng

sâu và vùng xa, vùng nông thôn.

90

Từng bước phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội

cho đối tượng yếu thế theo hướng hội nhập quốc tế; tạo môi trường sống an

toàn, thân thiện và lành mạnh cho người khuyết tật đảm bảo an sinh xã hội,

hướng tới mục tiêu công bằng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Duy trì tỷ lệ cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập ở mức 80 ; tăng tỷ lệ

người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn, hỗ trợ và quản lý ca từ các cơ sở

trợ giúp xã hội trên 50 ; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ

năng cho 80 số cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên

công tác xã hội.

Thực hiện quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội

công lập và ngoài công lập. Trong đó, chú trọng nâng cấp, mở rộng và phát

triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội, gồm: Cơ sở trợ giúp xã hội chăm

sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí, cơ sở

bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.

Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị cho Trung tâm

Bảo trợ xã hội tỉnh (nơi đang chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm

thần và người cai nghiện ma túy) đạt tiêu chuẩn chăm sóc theo chuẩn do Nhà

nước quy định, bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình

đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng, trị liệu và cung cấp dịch vụ

công tác xã hội. Ưu tiên hỗ trợ mua sắm trang thiết bị vận chuyển đối tượng,

sơ cấp cứu, sinh hoạt và phục hồi chức năng cho đối tượng.

Hỗ trợ xây dựng, vận hành các mô hình cơ sở trợ giúp xã hội, gồm mô

hình trung tâm công tác xã hội, cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp, cơ sở phòng và

trị liệu rối nhiễu tâm trí, mô hình gia đình, cá nhân nhận nuôi có thời hạn và

mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho đối tượng có hoàn cảnh đặc

biệt khó khăn.

91

Nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức và cộng tác viên: Đào

tạo, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ trợ giúp xã hội; Bồi dưỡng kỹ năng cho

2.000 cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, cộng tác viên và tình nguyện

viên trợ giúp xã hội, công tác xã hội (bình quân 500 người/năm).

Đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện phát triển nghề công tác xã hội,

chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thân và người rối nhiễu tâm

trí, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng, củng

cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất giải

pháp, cơ chế, chính sách phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trong thời gian tới.

Truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và cộng đồng

xã hội về vai trò, vị trí hệ thống trợ giúp xã hội; công tác xã hội, cơ sở trợ

giúp xã hội, kỹ năng chăm sóc sức khỏe tâm thần và đối tượng khác; tổ chức

các cuộc thi tìm hiểu và phổ biến pháp luật về lĩnh vực trợ giúp xã hội cho

cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và cộng tác viên.

Trên cơ sở hướng dẫn của trung ương, tổ chức khảo sát học hỏi kinh

nghiệm các địa phương xây dựng sổ tay hướng dẫn kỹ năng trợ giúp xã hội

cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và cộng tác viên trợ giúp xã

hội phù hợp với các yếu tố đặc thù của tỉnh.

3.1.3. Mục tiêu trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế

 Mục tiêu tổng quát:

Bảo đảm quyền của NKT, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trợ

giúp NKT, giúp đỡ, tạo điều kiện cho NKT hòa nhập cộng đồng, khuyến

khích các em phát triển mọi khả năng nỗ lực của mình vươn lên trong học tập

và cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng một

xã hội bình đẳng đối với NKT, không có sự phân biệt đối xử với đối tượng

yếu thế này.

92

 Mục tiêu cụ thể:

- Trong lĩnh vực giáo dục: Tăng cường truyền thông nâng cao nhận

thức của NKT và gia đình có NKT về lợi ích của giáo dục đối với bản thân

người khuyết tật, gia đình và lợi ích xã hội; trên cơ sở phân dạng, phân hạng

khuyết tật, thực hiện thống kê về quy mô, độ tuổi, giới tính, cơ cấu dạng tật

của người khuyết tật làm cơ sở thiết kế các chương trình giáo dục phù hợp;

tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục hòa nhập, nâng mức phân bổ ngân sách

cho giáo dục học sinh khuyết tật; đẩy mạnh công tác phát triển nguồn nhân

lực cho giáo dục NKT; Sử dụng giáo trình đào tạo và giáo trình giáo dục nghề

nghiệp về công tác xã hội được cấp có thẩm quyền ban hành để giảng dạy, tập

huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên công tác xã hội.

Mục tiêu là 70 NKT có khả năng học tập được tiếp cận giáo dục

- Trong lĩnh vực y tế: Thúc đẩy việc xây dựng các chương trình phát

hiện sớm và phục hồi chức năng cho NKT dựa vào cộng đồng, phát triển

chương trình sàng lọc, phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em; tiến hành phân

dạng, phân hạng khuyết tật theo mức độ suy giảm khả năng tự phục vụ, trên

cơ sở đó để định hướng xây dựng các chương trình chăm sóc sức khỏe phù

hợp cho NKT; phát triển mạng lưới phục hồi chức năng thống nhất trong toàn

quốc theo tuyến.

Mục tiêu giai đoạn tới là hàng năm 90 số người khuyết tật được

tiếp cận các dịnh vụ y tế dưới các hình thức khác nhau, 90 trẻ sơ sinh đến

6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển

và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật, khoảng 70.000 trẻ em và người

khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp

dụng cụ trợ giúp phù hợp.

- Trong lĩnh vực tiếp cận các dịch vụ văn hóa: tạo điều kiện cho

người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ văn hóa. Đối với NKT, tạo điều kiện

93

có lớp học, khu năng khiếu, ấn phẩm văn hóa và chương trình thể thao

riêng; xuất bản một ấn phẩm văn hóa phục vụ độc giả là trẻ em khiếm thị,

sản xuất một bộ phim hoạt hình và xây dựng mô hình điểm trường năng

khiếu có NKT theo học.

- Trong lĩnh vực tiếp cận công trình xây dựng và giao thông công cộng:

Mục tiêu là đạt 100 công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước, nhà

ga, bến xe, bến tầu, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, dạy nghề

bảo đảm điều kiện cho người khuyết tật. Ít nhất 80 người khuyết tật và trẻ

em khuyết tật có nhu cầu tham gia giao thông được sử dụng phương tiện giao

thông bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận hoặc là dịch vụ trợ

giúp tương đương.

- Trong lĩnh vực trợ giúp xã hội cho NKT: Thúc đẩy thành lập mới và

cải tạo các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng NKT cho phù hợp với tiêu chuẩn

quy định, đặc biệt là sự tham gia của khu vực tư nhân; xây dựng lộ trình nâng

mức trợ cấp xã hội, bảo đảm trợ cấp xã hội đáp ứng được mức sống tối thiểu

của NKT; Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội công lập

và ngoài công lập, trong đó các cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập giữ ở

mức 80 vào năm 2020; tăng tỷ lệ người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn,

hỗ trợ và quản lý ca từ các cơ sở trợ giúp xã hội tăng trên 50 vào năm 2020;

Nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên hỗ trợ và chăm sóc NKT tại cộng

đồng và các cơ sở bảo trợ xã hội; nghiên cứu đánh giá các mô hình trợ giúp

NKT để phổ biến nhân rộng các kinh nghiệm đối với những mô hình có hiệu

quả; Đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập

huấn kỹ năng cho 80 số cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng

tác viên công tác xã hội đang làm việc tại các cơ sở trợ giúp xã hội; công chức

thuộc phòng Lao động-TB&XH các huyện, thị xã và thành phố Huế; công

chức Lao động-TB&XH ở các xã, phường, thị trấn.

94

- Trong lĩnh vực hướng nghiệp, dạy nghề, việc làm: hoàn thiện cơ

chế, chính sách trợ giúp người khuyết tật học nghề, việc làm tại gia đình và

nơi cư trú; xây dựng mô hình hỗ trợ người khuyết tật học nghề gắn với tạo

việc làm; liên kết với doanh nghiệp, vận động các nhà tài trợ hỗ trợ thử

nghiệm mô hình này ở một số địa phương; sau khi đạo tạo nghề, nhà nước

có chính sách hỗ trợ người khuyết tật một nguồn vốn nhỏ để người khuyết

tật xây dựng cuộc sống ban đầu.

Xây dựng và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội phù hợp với điều

kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của các huyện, thị xã và thành phố

Huế; không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội đáp ứng

nhu cầu trợ giúp người khuyết tật, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội

công bằng và hiệu quả.

Tiếp tục thí điểm các mô hình cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp dịch vụ

công tác xã hội, phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí, mô hình gia đình cá nhân

nhận nuôi người khuyết tật có thời hạn và mô hình dạy nghề gắn với giải

quyết việc làm cho người khuyết tật.

3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho

ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

3.2.1. Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp

xã hội đối với người khuyết tật

Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp xã

hội đối với người khuyết tật là giải pháp đầu tiên và là giải pháp có ý nghĩa

tiên quyết để đạt hiệu quả thực hiện chính sách đối với NKT.

Thứ nhất, bổ sung các quy định về đối tượng trợ giúp xã hội cho người

khuyết tật.

 Mở rộng phạm vi đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã

hội trong luật người khuyết tật. Bổ sung một số đối tượng người khuyết tật

95

như: bổ sung người khuyết tật hưởng trợ giúp xã hội hàng tháng có tính đến

các điều kiện nhân thân như hộ gia đình nghèo, không nơi nương tựa…

hoặc những đối tượng khuyết tật nhẹ gặp khó khăn trong lao động mà đang

mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì có thể được xem xét hưởng

trợ cấp thường xuyên. Bổ sung đối tượng người khuyết tật nặng không nơi

nương tựa, không tự lo liệu được cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi

dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội (quy định hiện nay chỉ tiếp

nhận người khuyết tật đặc biệt nặng). Trường hợp đối tượng người khuyết

tật đặc biệt nặng đang sống cùng gia đình nhưng gia đình không đủ điều

kiện vật chất và con người để chăm sóc mà có nhu cầu vào sống tại cơ sở

bảo trợ xã hội thì có thể được xem xét vào sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội.

Việc bổ sung thêm đối tượng hưởng trợ giúp xã hội cũng cần chú ý tránh

trường hợp mở rộng đối tượng mà không đảm bảo quyền lợi được hưởng,

vì như vậy sẽ làm cho đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thiếu niềm tin do

chế độ chưa thực sự có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ.

Đối với đối tượng trợ giúp đột xuất thì pháp luật cần mở rộng phạm vi

và xã hội như những tác động của sản xuất kinh doanh, mất mùa, khủng hoảng

đối tượng được trợ giúp đột xuất bao gồm cả những đối tượng bị rủi ro kinh tế

kinh tế toàn cầu để giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, đảm bảo cuộc sống.

 Tăng cường việc xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận

mức độ khuyết tật.

 Về việc rà soát đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp

xã hội:

Thứ hai, về trình tự thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết

tật. Pháp luật cần quy định thủ tục trợ giúp đối với người khuyết tật đơn giản

hơn, rút ngắn thời gian chờ quyết định được hưởng trợ cấp.

96

Thứ ba, hoàn thiện những quy định về quyền lợi hưởng trợ giúp xã hội

đối với người khuyết tật.

 Quy định việc tăng mức chuẩn để tính mức trợ cấp xã hội khi có sự

điều chỉnh mức lương tối thiểu chung.

 Về chế độ trợ cấp xã hội và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối

với người khuyết tật. Ngay trong nhóm đối tượng người khuyết tật với dạng

tật khác nhau cũng cần có các quy định cụ thể về hình thức hỗ trợ người

khuyết tật, không chỉ dừng lại ở hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt mà cần đa

dạng các hình thức trợ giúp khác như đào tạo nghề cho người khuyết tật, đào

tạo kĩ năng hoà nhập cộng đồng.

 Về chế độ trợ giúp xã hội đột xuất: tăng mức trợ cấp đột xuất lên để

bù đắp được những thiệt hại của các hộ gia đình. Tăng cường công tác quản lý

hoạt động trợ giúp từ cộng đồng xã hội, kiểm soát và điều phối được các

nguồn hỗ trợ từ các nguồn. Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thiên tai đầy đủ và

tin cậy, xác định chính xác được đối tượng và tiêu chí được hưởng trợ cấp.

Vấn đề này tạo nên tính khách quan và công bằng cho việc xây dựng các

phương án trợ giúp qua các cấp.

 Về các điều kiện đối với các cơ sở bảo trợ xã hội: Pháp luật hiện hành

cần hoàn thiện quy định cụ thể về điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật, trình độ

và các tiêu chí về đạo đức, nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên. Pháp luật nên

quy định thêm hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật gắn với cộng

đồng. Theo đó, cho phép các cá nhân, hộ gia đình nhận nuôi dưỡng, chăm sóc

người khuyết tật, đặc biệt là trẻ em khuyết tật.

Thứ tư, pháp luật cần ban hành các quy định thành lập quỹ trợ giúp xã

hội dành cho người khuyết tật thống nhất từ Trung ương đến địa phương để

thống nhất, điều hòa việc sử dụng quỹ trợ giúp xã hội khắc phục hạn chế lớn

nhất của pháp luật về trợ giúp xã hội hiện nay.

97

Pháp luật cần bổ sung thêm các quy định về việc thanh tra, kiểm tra

trong công tác bảo trợ xã hội, để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hoạt

động thanh tra, kiểm tra tránh tình trạng tuỳ tiện, chồng chéo trong thực hiện.

Do đó cần quy định rõ chế tài xử phạt, đặc biệt là đối với các hành vi

ngược đãi, phân biệt đối xử, kì thị đối với người khuyết tật hoặc không

thực hiện quy định của pháp luật liên quan đến nhu cầu và quyền của người

khuyết tật, trong đó cần quy định trách nhiệm của các cơ quan hành chính

nhà nước đồng thời ghi nhận cơ chế khen thưởng phù hợp với các tổ chức,

cá nhân, cơ quan có nhiều đóng góp cho hoạt động trợ giúp xã hội đối với

người khuyết tật.

3.2.2. Tiến hành thường xuyên và toàn diện hoạt động tuyên truyền, phổ

biến các chính sách đối với người khuyết tật

Công tác tuyên truyền phổ biến nhận thức xã hội đối với NKT là giải

pháp và là bước đi có ý nghĩa trong việc thực hiện chính sách đối với NKT.

Thực hiện chính sách đối với NKT bao gồm nhiều bước nối tiếp nhau.

Để hoạt động này thực sự có hiệu quả, cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động giáo

dục nâng cao nhận thức của xã hội đối với NKT bởi đó chính là nền tảng và là

cơ sở cho hoạt động thực hiện chính sách. Trong thời gian tới đây, đòi hỏi

công tác tuyên truyền cần được cấp ủy, chính quyền các cơ quan, tổ chức và

các địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện. Với

vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực người khuyết tật, hàng năm

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần hệ thống hóa các văn bản quy

định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ, tờ rơi in và phát

cho các địa phương để hoạt động này càng ngày càng đạt hiệu quả.

Giáo dục, nâng cao nhận thức xã hội và sự tham gia của người dân

đặc biệt là gia đình có người khuyết tật và người khuyết tật trong thực hiện

chính sách.

98

Khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân tham gia vào mọi hoạt

động trợ giúp NKT, tham gia các Đề án về trợ giúp người khuyết tật. Đặc biệt

là chính sự phối hợp của gia đình có người khuyết tật từ việc xác định đối

tượng, đến việc lập kế hoạch triển khai thực hiện ở xã, phường, thị trấn, để

quản lý nguồn lực, giám sát đánh giá. Thông tin đầy đủ tới người dân về

chính sách của Nhà nước đối với NKT và đặc biệt chính gia đình có NKT.

Hiện nay cần thiết nhất là phải tăng cường sự tham gia của gia đình

NKT, vì hiện tại nhiều NKT đang sinh sống với gia đình và nguồn động lực

của họ cũng dựa vào sự trợ giúp của gia đình và người thân. Chính vì vậy, gia

đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng vai trò quan trọng nhất trong

việc hỗ trợ giúp đỡ NKT khắc phục khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc sống, hòa

nhập cộng đồng. Vì thế, bên cạnh chính sách hỗ trợ trực tiếp cho NKT, cần

phải hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình có NKT, nhằm giúp cho đối tượng

này được chăm sóc tốt hơn, đồng thời qua đó lợi ích của NKT được đảm bảo

một cách bền vững và lâu dài. Trên cơ sở phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu,

khó khăn và nguyện vọng của các hộ gia đình, cần nghiên cứu và ưu tiên thực

hiện một số chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích hộ gia đình chăm sóc y tế,

phục hồi chức năng cho NKT tại gia đình, khuyến khích hộ gia đình tạo điều

kiện tốt nhất cho NKT của họ tiếp cận được giáo dục, học nghề.

Các bộ, ngành, cơ quan Trung ương với chức năng của Bộ, cơ quan

cũng cần tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật, chính sách

và đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức hoạt động trong lĩnh vực tổ chức thực thi chính sách đối với NKT. Một

số ngành có vai trò quan trọng và liên quan như: Bộ Xây dựng cần biên soạn

và phổ biến các tài liệu “Giáo trình thiết kế xây dựng công trình kiến trúc bảo

đảm cho người khuyết tật tiếp cận sử dụng”, tập “Danh mục các câu hỏi và trả

lời” giúp cho quá trình thẩm định thiết kế, nghiệm thu, giám sát công trình

99

xây dựng được thuận lợi; tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong ngành, các

đơn vị có liên quan, các tổ chức của BKT và địa phương về những quy định

và các vấn đề kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng công trình để người tàn tật tiếp

cận và sử dụng. Bộ Giao thông vận tải đẩy mạnh hoạt động biên soạn và tổ

chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách về kiến thức và

kỹ năng phục vụ NKT. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn

hóa Thể thao và Du lịch, Liên hiệp Hội người khuyết tật Việt Nam, Hội bảo

trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ

trong cả nước hàng năm cần thiết tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai

các hoạt động về NKT theo lĩnh vực và chức năng đơn vị mình phụ trách,

biên soạn và phát hành các văn bản liên quan đến ngày người khuyết tật Việt

Nam (18/4), ngày Quốc tế của người khuyết tật (03/12).

Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình Trung ương, địa

phương như: Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, báo Nhân

dân, Quân đội nhân dân, báo Lao động cần đóng vai trò quan trọng trong

việc tuyên truyền chính sách về NKT bằng các hình thức như: Xây dựng

chuyên đề, chuyên mục, các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình

của NKT trong việc vượt khó vươn lên, học văn hóa, học nghề, tạo việc

làm ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, hoặc mở các chuyên mục để

gây quỹ hỗ trợ NKT.

Hội đồng tuyên truyền pháp luật của các địa phương cần trang bị tài liệu

hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm tình trạng khuyết tật, tài liệu

pháp luật về NKT cho “Tủ sách pháp luật”ở các xã, phường, thị trấn; có kế

hoạch tuyên truyền sâu rộng hệ thống chế độ chính sách đối với NKT đến các

ngành có liên quan, đại diện tổ dân phố, thôn, xóm và các gia đình có NKT.

Đây là nội dung quan trọng mà nhờ nó, NKT sẽ nhận được cái nhìn

cảm thông chia sẻ hơn từ phía xã hội, giúp các em có thể vượt qua mặc cảm,

tự ti, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

100

Trong hỗ trợ giáo dục, chăm sóc y tế, trợ giúp NKT cần phải phối hợp

với các ngành liên quan nghiên cứu xây dựng mô hình giáo dục hòa nhập,

giáo dục chuyên biệt và giáo dục đặc biệt, hướng nghiệp. Khuyến khích các tổ

chức, cá nhân mở trường, lớp giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập, tiếp

tục vận động tổ chức, cá nhân cấp học bổng hỗ trợ cho học sinh là người

khuyết tật để tạo điều kiện cho học sinh khuyết tật đến trường.

Tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực cho giáo dục NKT, bồi dưỡng cán bộ,

giáo viên dạy hòa nhập học sinh khuyết tật. Xây dựng chế độ, chính sách ưu

tiên, ưu đãi đối với người học, giáo viên dạy học hòa nhập và chuyên biệt cho

đối tượng là NKT. Ngoài ra, trong giáo dục NKT cần phải ban hành các

chương trình giáo dục NKT, như biên soạn sách giáo khoa, tài liệu đặc thù

(như ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật), xây dựng tiêu chí và bộ công cụ

đánh giá kết quả học tập của học sinh khuyết tật, đẩy mạnh nghiên cứu khoa

học và công nghệ ứng dụng trong giáo dục NKT. Tăng cường kiểm tra đôn

đốc địa phương thực hiện giáo dục NKT, động viên, khen thưởng dạy tốt, học

tốt trong lĩnh vực giáo dục NKT.

Trong lĩnh vực y tế, cần thực hiện các dịnh vụ phát hiện sớm những

khiếm khuyết ở trẻ sơ sinh, để tạo điều kiện cho trẻ được tiếp cận và hưởng

các dịch vụ can thiệp sớm dựa vào cộng đồng, tăng cường các dịch vụ tư vấn

và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tăng cường năng lực đối với cán bộ quản lý,

chuyên môn trong phục hồi chức năng, đặc biệt là tuyến cơ sở về kỹ năng

phát hiện sớm và can thệp sớm. Mặt khác, cần phải tăng cường đầu tư cơ sở

vật chất, trang thiết bị phục hồi chức năng cho các cơ sở phục hồi chức năng.

Để trợ giúp NKT tiếp cận và sử dụng công trình công cộng, cần phải

hoàn thiện các văn bản hiện có trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành, nhằm tăng cường các biện pháp bắt buộc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật

quốc gia về xây dựng công trình để NKT có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng.

101

Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng

công trình bảo đảm NKT tiếp cận sử dụng trong việc thiết kế, xây dựng mới

hoặc cải tạo các công trình công cộng theo quy định của Luật người khuyết

tật. Điều tra khảo sát, tổng hợp dữ liệu, báo cáo từ địa phương về việc thực

hiện và thực trạng xây dựng công trình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về

xây dựng công trình theo từng quý, sáu tháng, hàng năm để từ đó ra văn bản

nhắc nhở các địa phương tăng cường thực hiện hiệu quả quy định.

3.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức

làm công tác thực hiện chính sách đối với người khuyết tật

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thường xuyên tổ chức tập huấn

cho lãnh đạo, người đứng đầu cơ sở bảo trợ xã hội, các Trưởng phòng Bảo trợ

xã hội thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố,

Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, lãnh đạo các đơn vị thuộc

Bộ về nội dung hướng dẫn triển khai Luật người khuyết tật, đặc biệt là Đề án

trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 bao gồm xây dựng kế hoạch

triển khai thực hiện chính sách, phổ biến tuyên truyền chính sách, phân công

phối hợp, thực hiện chính sách, đôn đốc thực hiện chính sách và đánh giá,

tổng kết, rút kinh nghiệm. Các vụ chức năng chuyên môn của Bộ tùy theo

chức năng nhiệm vụ cũng đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng tổ chức thực

hiện chính sách đối với NKT, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc NKT tại trung tâm và

cộng đồng; tập huấn cho cán bộ, nhân viên về phương pháp sơ cứu ban đầu

khi NKT không may bị tai nạn, động kinh hay đột quỵ.

Một số Bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các tổ chức đoàn thể

như Bộ Xây dựng cần tăng cường các khóa tập huấn cho các đơn vị trong

ngành và các đơn vị có liên quan tại Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Đà Nẵng,

TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ (đối tượng tham gia tập huấn bao gồm các cán bộ

quản lý thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Sở Xây dựng, Sở Giao thông

102

công chính, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các công ty Tư vấn Xây

dựng, các Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại học kiến trúc Thành phố Hồ

Chí Minh, Đại học Xây dựng, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án đầu tư xây

dựng công trình, Văn phòng kiến trúc sư, Hội kiến trúc sư, các hội hỗ trợ

người tàn tật ở các tỉnh như Hội Cựu chiến binh, Hội bảo trợ người tàn tật và

trẻ mồ côi, Hội cứu trợ trẻ em tàn tật, Hội chữ thập đỏ, Hội nạn nhân chất độc

da cam, Hội phụ nữ, thanh niên, các hội người tàn tật…); Bộ Giao thông vận

tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe

khách trong đó có dành 01 chương trình hướng dẫn phục vụ NKT, Bộ Y tế,

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch, Hội bảo

trợ người tàn tật về trẻ mồ côi, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn

tật, Hội cựu chiến binh.

Bên cạnh đó bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ cho

cán bộ, công chức trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng chính sách đối

với NKT, cán bộ, công chức tăng cường tổ chức định kỳ các cuộc giao lưu

gặp gỡ giữa cán bộ làm chính sách đối với NKT bằng cách: Cho NKT ở mỗi

khu vực, mỗi độ tuổi, mỗi địa bàn được cử đại diện của mình đến gặp gỡ cán

bộ làm chính sách để bày tỏ nhu cầu, nguyện vọng về chính sách, chế độ áp

dụng cho nhóm đối tượng này. Điều đó giúp cán bộ, công chức trực tiếp làm

công tác xây dựng và thực hiện chính sách đối với NKT hiểu một cách chính

xác mong muốn, nguyện vọng của trẻ để có cơ sở xây dựng chính sách cho

phù hợp và đạt hiệu quả thực thi cao trên thực tế. Ngoài ra, đẩy mạnh việc

giao lưu, hợp tác với các quốc gia trên thế giới để tiếp thu thành tựu và kinh

nghiệm xây dựng chính sách của họ trong quá trình xây dựng và tổ chức triển

khai thực hiện chính sách cho NKT, có tính đến điều kiện kinh tế xã hội và

phong tục tập quán của Việt Nam.

103

3.2.4. Huy động nguồn lực từ hoạt động xã hội hóa trong thực hiện chính

sách đối với người khuyết tật

Xã hội hóa là chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta không chỉ

trong công tác chăm sóc NKT. Với số lượng NKT ở nước ta đông như hiện

này và xu hướng ngày càng gia tăng NKT do tác động của môi trường, hơn

nữa nguồn kinh phí của nước ta cho lĩnh vực này còn khó khăn và hạn hẹp,

việc huy động nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài nước là cần thiết.

Thực hiện chủ trương này nhà nước cần phải có chiến lược cụ thể và khả thi

với mục tiêu là khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân

trong và ngoài nước tài trợ, giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia hoạt

động trợ giúp NKT với các hình thức phù hợp.

Trong hoạt động chăm sóc sức khỏe cần đẩy mạnh hoạt động phục hồi

chức năng cả về vận động cũng như các khuyết tật khác nhằm bảo đảm NKT

có thể tham gia lao động và tích cực hòa nhập đời sống cộng đồng.

Lĩnh vực phát hiện sớm và can thiệp sớm tình trạng khuyết tật hiện nay

ở nước ta chưa quan tâm đúng mức trong khi tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh hiện

rất cao. Thực tế cho thấy gia đình nào có người khuyết tật thì vô cùng vất vả

và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện hoạt động xã hội hóa trong

lĩnh vực này đòi hỏi nhà nước cần huy động các nguồn lực từ các thành phần

kinh tế trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật, trong đó đặc biệt quan

trọng là phát hiện sớm và can thiệp sớm đối với người khuyết tật.

Trong lĩnh vực giáo dục cần thiết nghiên cứu mô hình giáo dục hòa

nhập phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng dạng khuyết tật, chủ trương

này đòi hỏi chủ trương xã hội hóa cao trong công tác nghiên cứu mô hình

trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục, nhiệm vụ của trung tâm là phát hiện sớm

và can thiệp sớm nhằm lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, tư vấn tâm lý

tình cảm, giáo dục hướng nghiệp và cung cấp chương trình, nội dung, thiết bị

tài liệu phù hợp đặc thù của từng dạng và hạng trẻ khuyết tật.

104

Các chính sách xã hội hóa cần áp dụng và mở rộng mô hình trung tâm

bảo trợ xã hội không chỉ do nhà nước thiết lập. Ngoài việc hỗ trợ những chính

sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cần tạo sự bình đẳng trong việc thụ

hưởng các chính sách của đối tượng bảo trợ xã hội ở trung tâm bảo trợ xã hội

trong hay ngoài công lập.

3.2.5. Kiểm tra, giám sát và theo dõi tiến độ thực hiện đồng thời tổng kết

đánh giá hoạt động thực hiện chính sách đối với người khuyết tật

Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan Trung ương và các địa phương cần thực

hiện tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật người khuyết

tật và các quy định khác về NKT. Các Bộ ngành và các địa phương thường

xuyên ban hành các công văn, quyết định cá biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý

những vấn đề bức xúc, vướng mắc hoặc tháo gỡ những khó khăn. Duy trì tốt

công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc tổ chức thực hiện cính sách

đối với trẻ em khuyết tật. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt

công tác quản lý nhà nước về NKT.

Hàng năm nhiều cơ quan, Bộ, ngành tổ chức các đoàn kiểm tra thực

hiện chính sách đối với NKT ở các địa phương, các cơ sở chăm sóc NKT:

Các đoàn giám sát của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, các đoàn của

các Bộ, ngành, các đoàn thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

3.2.6. Phối hợp thường xuyên và đồng bộ các cơ quan ban ngành trên địa

bàn trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật

Thực hiện chính sách đối với NKT là hoạt động có mục đích và làm

cho các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan tới NKT đi

vào thực tiễn cuộc sống. Kết quả của hoạt động này liên quan chặt chẽ tới sự

phối hợp, kết hợp của các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách

mà đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.

105

Để đảm bảo thực hiện chính sách đối với NKT, thì chính phủ cần phải

là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nước về công tác người khuyết tật trong

phạm vi toàn quốc.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước

Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với công tác NKT

trong cả nước.

Ủy ban nhân dân các cấp và vai trò của Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện chức năng

quản lý Nhà nước đối với công tác NKT; lồng ghép công tác NKT vào kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; bảo đảm các điều kiện để

NKT thực hiện quyền và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ chức, cá

nhân tham gia hỗ trợ NKT, gia đình, người thân có NKT.

3.3. Một số khuyến nghị

Đổi mới và hoàn thiện tiêu chí xác định mức độ khuyết tật, xác định

mức độ khó khăn của người khuyết tật, nhu cầu của người khuyết tật, độ tuổi

và giới tính của người khuyết tật; xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật

như tổng số, tình trạng sức khỏe, dạng tật; số người trong độ tuổi lao động,

còn khả năng lao động; số người có nhu cầu về học nghề; số người có nhu cầu

làm việc và những công việc phù hợp với nhu cầu và sức khỏe người khuyết

tật ở từng địa phương và trong cả nước.

- Xây dựng các chính sách trợ giúp cho người khuyết tật hướng đến

mục tiêu tăng cường hỗ trợ sinh kế phù hợp với đặc điểm sức khỏe và nhu cầu

của đối tượng trong thiết kế chính sách, cần phải đổi mới quan điểm tiếp cận

đối với người khuyết tật phải dựa trên quyền, phải coi người khuyết tật là

công dân bình thường, bình đẳng như mọi công dân khác chứ không chỉ là đối

tượng chăm sóc của xã hội, từ đó mới có các chính sách phù hợp hơn, nhất là

khi Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của

106

người khuyết tật. Trong vấn đề bảo hiểm y tế, cần thực hiện miễn phí cho toàn

bộ người khuyết tật nói chung không phân biệt khuyết tật nặng hay nhẹ, vì

hiện nay chỉ có người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng mới được cấp thẻ bảo

hiểm y tế miễn phí.

- Hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển hệ thống cơ sở cung cấp

dịch vụ trợ giúp xã hội, tiêu chuẩn nghiệp vụ nhân viên công tác xã hội và cấp

giấy hành nghề công tác xã hội, tiêu chuẩn dịch vụ trợ giúp xã hội, khung giá

dịch vụ trợ giúp xã hội. Cần quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã

hội đáp ứng nhu cầu của các nhóm đối tượng, ưu tiên trợ giúp cho người

khuyết tật sống ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Có cơ chế khuyến khích

khu vực ngoài công lập phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội, ưu

tiên các cơ sở cung cấp dịch vụ đối với những nhóm người yếu thế mà trong

đó có đối tượng là người khuyết tật.

- Hoàn thiện các quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chi trả

trợ cấp, nuôi dưỡng và chăm sóc người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã

hội. Bên cạnh đó, sớm ban hành các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc

xử lý vi phạm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hoạt động của các

cơ sở bảo trợ xã hội có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quyền của

người khuyết tật.

3.3.1. Đối với Trung ương

 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:

Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo

thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án, kế hoạch về

công tác người khuyết tật.

Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện văn bản quy phạm

107

pháp luật về người khuyết tật; chương trình, đề án, kế hoạch về công tác

người khuyết tật.

Xây dựng và trình Chính phủ ban hành thủ tục, hồ sơ, thời gian và quy

trình giải quyết chế độ trợ cấp xã hội, chế độ mai táng phí; quy trình, thủ tục,

hồ sơ tiếp nhận và điều kiện dừng nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật

trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.

Xây dựng và trình Chính phủ ban hành quy định về chế độ, chính sách

đối với người làm công tác người khuyết tật; cán bộ, công chức, nhân viên

chăm sóc, nhân viên phục hồi chức năng, cán bộ chuyên trách của tổ chức

người khuyết tật.

Quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, nhân viên

chăm sóc người khuyết tật trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.

Đào tạo nghiệp vụ cán bộ, công chức, nhân viên làm công tác người

khuyết tật và nhân viên chăm sóc người khuyết tật tại gia đình, cộng đồng và

trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.

Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao nhận thức về người

khuyết tật và công tác người khuyết tật.

Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật.

Thực hiện hợp tác quốc tế về người khuyết tật.

Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án trợ giúp người

khuyết tật.

Thực hiện khảo sát, thống kê, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu và

thông tin, định kỳ công bố báo cáo về người khuyết tật.

Quy hoạch và quản lý hệ thống cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng

và cơ sở chăm sóc người khuyết tật thuộc thẩm quyền.

 Bộ Y tế:

Thực hiện quản lý nhà nước về chăm sóc sức khỏe người khuyết tật.

108

Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định

chi tiết hoạt động phục hồi chức năng người khuyết tật; đào tạo về phục hồi

chức năng; thực hiện chương trình phòng ngừa khuyết tật; hướng dẫn thực

hiện phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đối với người khuyết tật.

 Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đối với người khuyết tật.

Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille cho

người khuyết tật.

Thực hiện quy hoạch hệ thống các cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với

người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.

Đào tạo giáo viên, nhân viên hỗ trợ giáo dục, biên soạn chương trình,

tài liệu, giáo trình và sách giáo khoa áp dụng cho người học là người khuyết

tật; chỉ đạo nghiên cứu, sản xuất và cung ứng thiết bị dạy học phù hợp với

từng dạng tật và mức độ khuyết tật.

Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế

thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt đối với trẻ em khuyết tật.

 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

Thực hiện quản lý nhà nước về công tác văn hóa, thể thao, giải trí và du

lịch đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các

hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người khuyết tật.

 Bộ Xây dựng:

Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban

hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây

dựng nhà ở chung cư, trụ sở làm việc, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình

hạ tầng xã hội bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.

109

 Bộ Giao thông vận tải:

Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban

hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kết cấu

hạ tầng giao thông, các công cụ hỗ trợ và chính sách ưu tiên người khuyết tật

tham gia giao thông công cộng.

 Bộ Thông tin và Truyền thông:

Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

về tiếp cận thông tin đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan

thông tin đại chúng thực hiện tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đối

với người khuyết tật.

 Bộ Khoa học và Công nghệ:

Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban

hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định khuyến khích nghiên cứu, sản

xuất và ứng dụng sản phẩm hỗ trợ người khuyết tật sử dụng.

 Bộ Tài chính:

Bố trí ngân sách thực hiện các chính sách, chương trình, đề án, dự án

trợ giúp người khuyết tật; bố trí ngân sách điều tra, khảo sát và thống kê

người khuyết tật theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

 Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

Thẩm định, phê duyệt các dự án nhà nước đầu tư chăm sóc, nuôi

dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng người khuyết tật; chủ trì và phối hợp

với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội điều tra, khảo sát và thống kê

người khuyết tật.

3.3.2. Đối với địa phương

 Ủy ban nhân dân tỉnh:

Lồng ghép công tác người khuyết tật vào kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của địa phương; bảo đảm điều kiện để người khuyết tật thực hiện

110

quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân

tham gia hỗ trợ người khuyết tật.

 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh

Tổ chức cuộc tổng điều tra người khuyết tật trên địa bàn nhằm có số

liệu cụ thể qua đó tạo cơ sở cho việc định hướng các nhiệm vụ, chỉ tiêu phát

triển kinh tế- văn hóa- xã hội những năm tiếp theo.

Cần tăng cường tham mưu đề xuất UBND tỉnh Thừa Thiên Huế trong

việc xây dựng kế hoạch thực hiện các chính sách đối với người khuyết tật kịp

thời hơn, toàn diện hơn đồng thời kiến nghị HĐND-UBND cấp tỉnh, huyện

hàng năm bố trí một phần kinh phí cho công tác điều tra, rà soát đối tượng;

công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã

hội cho người khuyết tật.

Tham mưu đề xuất UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức mô hình chăm

sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và hướng nghiệp cho người khuyết tật trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế: Việc hoàn thiện chính sách đối với người khuyết tật để

người khuyết tật hưởng đầy đủ các quyền như người bình thường khác và hòa

nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội theo đúng khả năng của mình, cần

phải xây dựng những trung tâm chăm sóc người khuyết tật, đây không phải

những Trung tâm được hiểu chỉ hỗ trợ ăn uống và coi trông mà đây là những

Trung tâm theo một mô hình tổng hợp đan xen các hoạt động bao gồm hoạt

động giáo dục đặc biệt, giáo dục chuyên biệt, giáo dục hòa nhập; hướng

nghiệp và đào tạo nghề; chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, hoạt động văn

hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; chăm sóc nuôi dưỡng để người khuyết tật có

kỹ năng sống, có một nghề để tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng, giảm

gánh nặng cho xã hội và trở thành những thành viên có ích cho xã hội. Hơn

nữa người khuyết tật chỉ ở tại Trung tâm với một thời gian nhất định, thời

gian từ 3 đến 5 năm. Người khuyết tật được trả về cộng đồng khi người

111

khuyết tật có được kỹ năng nhất định theo khả năng của mình như kỹ năng

sống, kỹ năng giao tiếp cũng như kỹ năng tự lập cho cuộc sống của mình. Ví

dụ, mô hình Trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho người tàn tật trực thuộc

Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi tỉnh Thừa Thiên Huế (địa chỉ:

16 Thánh Gióng, Tp Huế), Trung tâm này có chức năng giáo dục - hướng

nghiệp dạy giáo dục đặc biệt, các kỹ năng sống cơ bản cho trẻ em khuyết tật,

có các lớp dạy nghề như nghề may công nghiệp, tin học văn phòng, dạy làm

hoa lụa, thêu tranh và dạy cắt tóc gội đầu; Trung tâm chăm sóc y tế khám,

chữa bệnh và phục hồi chức năng cho người khuyết tật; bể bơi vật lý trị liệu,

nhà ăn, thư viện. Trung tâm có các bác sĩ, y sĩ, kỹ thuật viên phục hồi chức

năng, các giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành dạy trẻ khuyết tật. Người khuyết

tật nói chung và trẻ em khuyết tật được đưa đến Trung tâm được các y, bác

sỹ, giáo viên phân loại theo khả năng nhận thức được xếp vào các lớp giáo

dục văn hóa, giáo dục hướng nghiệp. Sau khi các em có được những kiến thức

nhất định cho chính bản thân mình, hàng năm Trung tâm có kế hoạch trả các

em về địa phương, tiếp tục được sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa

phương, nhưng sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa phương sẽ ít hơn

rất nhiều so với lúc các em mới đến Làng bởi ngoài những kiến thức các em

được giá dục ở Trung tâm, các em còn được các giáo viên, các y bác sĩ, kỹ

thuật viên vật lý trị liệu hướng dẫn gia đình trẻ khuyết tật các phương pháp

chăm sóc, phương pháp tập luyện vật lý trị liệu, phục hồi chức năng và các kỹ

năng cơ bản khác. Trên thực tế, sau khi được giáo dục hướng nghiệp nhiều

người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng ở Trung tâm Dạy

nghề và tạo việc làm cho người tàn tật đã có việc làm ổn định và tự nuôi sống

được bản thân. Để xây dựng được những mô hình như thế này, nhà nước và

tỉnh Thừa Thiên Huế phải có những chính sách đầu tư những trang thiết bị cơ

bản cho những trung tâm bảo trợ xã hội, các trung tâm chăm sóc người khuyết

112

tật; có những chính sách hỗ trợ ưu đãi nghề nghiệp cho cán bộ, công chức,

viên chức làm việc tại các trung tâm, chính sách nâng cao nghiệp vụ chuyên

môn cho các giáo viên, y bác sĩ tại các Trung tâm, tuyển dụng thêm các cán

bộ, nhân viên công tác xã hội nhằm tăng cường công tác tuyên truyền và là

cầu nối giữa các trung tâm bảo trợ với gia đình và cộng đồng vì nuôi dạy,

chăm sóc, giáo dục trẻ em khuyết tật là một việc làm khó, cần sự kiên trì,

nhẫn lại và con các em như chính con cái mình. Khi các em tái hòa nhập với

gia đình và cộng đồng, nhà nước tiếp tục có chính sách hỗ trợ các em như các

chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, trợ cấp xã hội, các hoạt động văn hóa, văn

nghệ, thể dục, thể thao, chính sách được hưởng các thành quả chung của xã

hội như tiếp cận các công trình giao thông công cộng. Bên cạnh những chính

sách của Nhà nước đối với người khuyết tật, Nhà nước cũng cần có chính

sách xã hội hóa kêu gọi sự chung tay giúp đỡ, sẻ chia của các tổ chức, cá nhân

trong và ngoài nước đối với đối tượng người khuyết tật. Có như vậy người

khuyết tật sẽ có được sự tự tin, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập với gia

đình và xã hội.

Cần xây dựng cơ sở dữ liệu liên quan đến biến động người khuyết tật

thống nhất từ tỉnh đến huyện, phường, xã.

Cần chỉ đạo tổ chức quyết liệt hơn việc hình thành phát triển mô hình

cộng tác viên công tác xã hội ở địa bàn dân cư nhằm quản lý, tư vấn tốt cho

người khuyết tật.

Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để học tập trao đổi kinh

nghiệm và tìm kiếm các nguồn tài trợ, hỗ trợ, trợ giúp cho người khuyết tật,

xây dựng các mô hình chăm sóc người khuyết tật tại cộng đồng phù hợp với

hoàn cảnh, địa bàn quản lý.

113

Tiểu kết chƣơng 3

Từ những cơ sở khách quan về lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách

trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ở

chương I và phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, kết quả đạt được và

những hạn chế, bất cập ở chương II, Chương III của luận văn đưa ra những

quan điểm định hướng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết

tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ đó đề ra một số giải pháp nhằm thực

thi có hiệu quả hơn chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn tới. Các giải pháp cơ bản phù hợp với sự

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa

phương và những giải pháp đó góp phần hạn chế những vướng mắc, tồn tại

trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua, nhằm thực hiện giúp đỡ người khuyết

tật để góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh nhà, phát

triển đô thị Huế theo định hướng mà Chính phủ phê duyệt.

114

KẾT LUẬN

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động TGXH nói chung, TGXH

thường xuyên nói riêng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, có thể rút ra một số kết luận

chủ yếu sau:

1. Trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là vấn đề hết sức quan

trọng, nó không chỉ đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người

khuyết tật mà còn góp phần ổn định kinh tế, chính trị, tạo điều kiện phát triển

kinh tế đất nước một cách bền vững.

2. TGXH nói chung và chính sách TGXH thường xuyên có vai trò hết

sức quan trọng, là một trong những công cụ điều tiết phân phối thu nhập giữa

các nhóm dân cư để đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo,

đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã hội khi học gặp phải rủi ro trong

cuộc sống. Thừa Thiên Huế là tỉnh nghèo, đang phát triển lại chịu hậu quả của

chiến tranh, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và tác động của quá trình

chuyển đổi nền kinh tế đã dẫn đến các đối tượng cần được trợ giúp đông. Các

đối tượng này đang gặp khó khăn trong cuộc sống, sức khỏe yếu, trình độ văn

hóa thấp, không có việc làm ổn định nên phần lớn đang sống trong cảnh

nghèo đói, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn. Bộ phận dân cư này rất cần đến sự

trợ giúp của Nhà nước, xã hội và cả cộng đồng.

3. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan

tâm chỉ đạo và thực hiện hoạt động TGXH cho người khuyết tật có hiệu quả,

góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng

và phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên công tác TGXH cho người khuyết tật

vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như đối tượng được hưởng các hoạt

động tài trợ chưa được mở rộng, mức trợ cấp trong từng thời kỳ còn thấp

(chưa có sự hỗ trợ thêm mà chỉ bằng mức chuẩn của Trung ương); việc triển

115

khai các chính sách chưa đồng bộ, chưa đánh giá chính xác, nhận thức của các

xã hội, của gia đình và chính bản thân người hưởng lợi chưa cao.

4. Để hệ thống chính sách TGXH cho người khuyết tật ở Thừa Thiên

Huế ngày càng phát huy được vai trò quan trọng của mình trong điều kiện

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì cần phải hoàn

thiện chính sách TGXH cho người khuyết tật theo hướng nâng mức trợ cấp,

mở rộng độ bao phủ, nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách, đảm bảo

người khuyết tật được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội để người khuyết tật

vượt qua được mọi khó khăn, vươn lên hòa nhập cộng đồng.

116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Anh (2018), Quyền làm việc và một số quy định của pháp

lu t về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết t t, Tạp chí lao

động xã hội số 573.

2. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ Người khuyết tật tại Việt Nam (2013),

Báo cáo năm 2013 về hoạt động trợ giúp Người khuyết t t tại Việt Nam.

3. Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp lu t về quyền của người khuyết

t t ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học.

4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Thông tư 26/2012/TT-

BLĐTBXH ngày 12 tháng 11 năm 2012 về hướng dẫn một số điều Nghị

định 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t Người khuyết t t.

5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Báo cáo mô đun về xác

định đối tượng trong Đánh giá Giữa kỳ Chương trình Mục tiêu Quốc gia

Giảm nghèo năm 2008.

6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Thu t ngữ Lao động,

Thương binh và xã hội, NXB LĐXH, Hà Nội.

7. Bộ lao động thương binh xã hội - Bộ y tế - Bộ tài chính - Bộ giáo dục

(2012), Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT BLĐTBXH - BYT - BTC -

BGDĐT ngày 28/12/2012 quy định về việc xác định mức độ khuyết t t do

Hội đồng xác định mức độ khuyết t t thực hiện.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Báo cáo kết quả thực hiện

công tác bảo trợ xã hội năm 2012.

9. Chính phủ (2007), Nghị định số 67/2007/NĐ - CP ngày 13/4/2007 về

chính sách trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội.

10. Chính phủ (2010), Nghị định số 13/2010/NĐ - CP ngày 27/02/2010 về sửa

đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ - CP ngày 13/4/2007

của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.

11. Chính phủ (2010), Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 phê

duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020.

12. Chính phủ (2011), Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t Người cao tuổi.

13. Chính phủ (2011), Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 phê duyệt

Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người

rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020.

14. Chính phủ (2012), Nghị định số 28/2012/NĐ - CP ngày 10/4/2012 quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t người khuyết t t.

15. Chính phủ (2012), Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 quyết

định phê duyệt đề án trợ giúp Người khuyết t t giai đoạn 2012 - 2020.

16. Chính phủ (2012), Nghị quyết 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 về ban hành

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW.

17. Chính phủ (2013), Quyết định 647/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 Phê

duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ

rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ

em khuyết t t nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa

vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020.

18. Chính phủ (2013), Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định

chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

19. Chính phủ (2017), Nghị định số 103/2017/NĐ-CP ngày 12/9/2017 quy

định về thành l p, tổ chức, hoạt động; giải thể và quản lý các cơ sở trợ

giúp xã hội.

20. Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học chính sách, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

21. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa X.

24. Đảng cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI.

25. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình an sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại

học KTQD, Hà Nội.

26. Phạm Đại Đồng (2011), Chính sách BTXH đối với một số đối tượng yếu

thế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và

quản lý.

27. Nguyễn Thị Hà (2014), Giáo trình Công tác xã hội với Người khuyết t t.

28. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2013), Đại cương về chính sách công,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Lê Văn Hòa (2016), T p bài giảng Thực thi chính sách công.

30. Nguyễn Đức Hoàng (2013), Chế độ bảo trợ đối với người khuyết t t,

Luận văn thạc sĩ Luật học.

31. Nguyễn Hải Hữu (2005), Đề tài cấp bộ về đổi mới chính sách trợ giúp

xã hội.

32. Nguyễn Hải Hữu (2007), Báo cáo chuyên đề thực trạng trợ giúp xã hội và

ưu đãi xã hội ở nước ta năm 2001 - 2007 và khuyến nghị tới năm 2015,

Hà Nội.

33. Nguyễn Hải Hữu (2007), Giáo trình nh p môn An sinh xã hội, NXB Lao

động - Xã hội, Hà Nội.

34. Hà Thị Thanh Lê (2010), Chính sách BTXH trên địa bàn Tỉnh Quảng

Ninh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý.

35. Liên Hiệp Quốc (2007), Công ước Quốc tế về Quyền của Người khuyết t t.

36. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Quốc Hội (2004), Lu t Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.

38. Quốc Hội (2006), Lu t Công nghệ thông tin, Hà Nội.

39. Quốc Hội (2009), Lu t Người cao tuổi, Hà Nội.

40. Quốc Hội (2010), Lu t Người khuyết t t, Hà Nội.

41. Quốc Hội (2012), Bộ Lu t lao động, Hà Nội.

42. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Quỳnh (2014), Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp

xã hội đối với người khuyết t t ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành

phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ công tác xã hội.

44. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2015), Báo

cáo kết quả điều tra người khuyết t t năm 2015.

45. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2015), Báo

cáo tổng kết công tác Lao động - Có công và Xã hội giai đoạn 2011 - 2015.

46. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2016), Báo

cáo chi trả chế độ trợ cấp xã hội cho các đối tượng BTXH trên địa bàn

Thừa Thiên Huế qua dịch vụ Bưu điện năm 2016.

47. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo

cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.

48. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo

kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.

49. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2017), Báo cáo kết

quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.

50. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng (2017), Báo

cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.

51. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo

cáo kết quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội

cho người khuyết t t năm 2017.

52. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo

cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết t t năm 2017 và kế hoạch

năm 2018.

53. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo cáo

số 62/BC-SLĐTBXH ngày 06/7/2017 về Kết quả kiểm tra, giám sát việc thực

hiện chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

54. Nguyễn Tiệp (2002), Các giải pháp nhằm thực hiện xã hội hóa công tác

cứu trợ xã hội Nguyễn Tiệp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

55. Nguyễn Hữu Toàn (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở

cộng đồng Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ công tác xã hội.

56. Nguyễn Ngọc Toản (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên

cộng đồng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân.

57. Hồ Thị Trâm (2013), Pháp lu t về việc làm cho người khuyết t t, Luận

văn thạc sĩ Luật học.

58. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

59. UNICEF Việt Nam (2006), Tổng quan về công tác xã hội ở Việt Nam,

Hà Nội.