BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TÔN NỮ MINH HUYỀN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TÔN NỮ MINH HUYỀN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất
xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Tôn Nữ Minh Huyền
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính quốc gia,
học viên đã hoàn thành luận văn thạc sĩ quản lý công. Học viên xin bày tỏ
lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến người đã tận tình hướng dẫn học
viên trong suốt thời gian nghiên cứu luận văn, cô giáo hướng dẫn PGS.TS.
Đinh Thị Minh Tuyết, Học viện Hành chính Quốc gia.
Đồng thời, học viên xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới lãnh đạo Học viện
Hành chính quốc gia, Khoa Sau đại học, các thầy cô giáo tại Học viện Hành
chính quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành Phòng Bảo trợ xã hội - Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế đã cung cấp tư liệu, số
liệu chính xác, khách quan, đầy đủ giúp học viên đưa ra những đánh giá và
phân tích.
Và đặc biệt, xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã động viên tạo mọi điều kiện thuận lợi và đóng góp những
ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn./.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Tôn Nữ Minh Huyền
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT ............................... 9
1.1. Khái niệm cơ bản ..................................................................................... 9
1.1.1. Người khuyết tật ...................................................................................... 9
1.1.2. Trợ giúp xã hội ...................................................................................... 12
1.1.3. Chính sách trợ giúp xã hội .................................................................... 14
1.1.4. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật .................. 16
1.2. Nội dung chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật ................ 18
1.2.1. Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ............................................. 18
1.2.2. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất ...................................................... 26
1.3. Quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ... 26
1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
người khuyết tật ............................................................................................... 26
1.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ..... 27
1.3.3. Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật .... 28
1.3.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách trợ giúp
xã hội cho người khuyết tật ............................................................................. 28
1.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật ....................................................................................................... 29
1.4.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
người khuyết tật ............................................................................................... 29
1.4.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật ............. 30
1.4.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách trợ giúp
xã hội cho người khuyết tật ............................................................................. 31
1.4.4. Thực hiện an sinh xã hội và giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng .... 32
1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết
tật ở một số địa phƣơng ................................................................................ 33
1.5.1. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình .............................................................................................. 33
1.5.2. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng .......................................................................................... 36
1.5.3. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh .................................................................................................... 38
1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thừa Thiên Huế .................................... 41
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI
CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .. 45
2.1. Thực trạng ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ..... 45
2.1.1. Số lượng, cơ cấu, độ tuổi, dạng khuyết tật và nguyên nhân khuyết tật 45
2.1.2. Chất lượng cuộc sống và nhu cầu của người khuyết tật ....................... 51
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................ 53
2.2.1. Chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng .............................................. 54
2.2.2. Hỗ trợ Giáo dục - Đào tạo ..................................................................... 56
2.2.3. Dạy nghề và việc làm ............................................................................ 58
2.2.4. Văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch ....................................... 63
2.2.5. Tiếp cận các công trình công cộng, giao thông .................................... 65
2.2.6. Công nghệ thông tin và truyền thông .................................................... 67
2.2.7. Bảo trợ xã hội ........................................................................................ 69
2.2.8. Xác định mức độ khuyết tật .................................................................. 70
2.2.9. Trợ giúp pháp lý .................................................................................... 71
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................ 73
2.3.1. Kết quả đạt được trong thực hiện chính sách ........................................ 73
2.3.2. Hạn chế trong thực hiện chính sách ...................................................... 78
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách .......................... 79
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT
TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ............................................ 82
3.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết vấn đề của ngƣời khuyết tật .. 82
3.1.1. Quan điểm về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ............................. 82
3.1.2. Định hướng về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật ............................ 89
3.1.3. Mục tiêu trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế ........................................................................................................ 92
3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ................................. 95
3.2.1. Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật ............................................................................ 95
3.2.2. Tiến hành thường xuyên và toàn diện hoạt động tuyên truyền, phổ biến
các chính sách đối với người khuyết tật .......................................................... 98
3.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác thực hiện chính sách đối với người khuyết tật................................ 102
3.2.4. Huy động nguồn lực từ hoạt động xã hội hóa trong thực hiện chính sách
đối với người khuyết tật ................................................................................ 104
3.2.5. Kiểm tra, giám sát và theo dõi tiến độ thực hiện đồng thời tổng kết đánh
giá hoạt động thực hiện chính sách đối với người khuyết tật ....................... 105
3.2.6. Phối hợp thường xuyên và đồng bộ các cơ quan ban ngành trên địa bàn
trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật..................................... 105
3.3. Một số khuyến nghị .............................................................................. 106
3.3.1. Đối với Trung ương ............................................................................ 107
3.3.2. Đối với địa phương ............................................................................. 110
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
An sinh xã hội ASXH
Bảo trợ xã hội BTXH
LĐ-TB và XH Lao động - Thương binh và Xã hội
Người khuyết tật NKT
Trợ giúp pháp lý TGPL
Trợ giúp xã hội TGXH
Ủy ban nhân dân UBND
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng
Bảng 2.1. Số liệu người khuyết tật và kinh phí trợ giúp trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2013 - 2017 .............................................................................. 45
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1. Số người khuyết tật ở các dạng khuyết tật năm 2015 ..................... 46
Biểu đồ 2.2. Độ tuổi người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm
2017 ................................................................................................... 48
Biểu đồ 2.3. Nguyên nhân khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm
2017 ................................................................................................... 50
Biểu đồ 2.4. Mức độ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017 ... 50
Biểu đồ 2.5. Chính sách người khuyết tật đang hưởng trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế năm 2017 ........................................................................ 51
Biểu đồ 2.6. Nhu cầu, nguyện vọng của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế năm 2017 ........................................................................ 52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các quốc gia trên thế giới đều công nhận quyền của người khuyết tật và
gia đình của họ có được mức sống thỏa đáng, trong đó có điều kiện ăn, mặc, ở
được đảm bảo. Các nước công nhận quyền của người khuyết tật được hưởng
phúc lợi xã hội mà không có sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở sự khuyết tật.
Các nước có trách nhiệm tiến hành các bước thích hợp để bảo vệ và thúc đẩy
quyền này thành hiện thực. Quyền của người khuyết tật được khẳng định
trong các Hiến chương, Công ước, Nghị quyết, pháp luật và chính sách của
nhà nước.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, đi cùng với quá trình đổi mới đất
nước, xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất
nước đã đạt được những thành quả lớn về kinh tế văn hóa xã hội. Tuy nhiên,
nước ta vẫn là nước chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai thường
xuyên xảy ra gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống nhân dân và điều kiện phát triển kinh tế văn hoá xã hội. Bên
cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường: sự phân hóa giàu nghèo, chạy
theo lối sống thực dụng, suy giảm về đạo đức, lối sống, thất nghiệp đang
là những nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội như: người già cô đơn,
người lang thang, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, ngay từ xa xưa đã có những hoạt động cưu
mang giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội. Cùng với sự phát triển của xã
hội, hoạt động đó dần trở thành hoạt động có tổ chức hơn. Chính sách trợ giúp
xã hội ở nước ta hình thành ngay sau cách mạng tháng 8 năm 1945 với mục
đích trợ giúp về đời sống cho bộ phận nhân dân có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Sau nhiều năm phát triển chính sách trợ giúp xã hội, đặc biệt là chính
1
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật đã trở thành nội dung quan
trọng trong hệ thống chính sách của Nhà nước. Hệ thống chính sách này được
hoàn thiện và phát triển theo hướng: thể chế hóa chính sách (Luật Người
khuyết tật và các văn bản hướng dẫn dưới luật); mở rộng đối tượng thuộc diện
được trợ giúp; đổi mới cơ chế tổ chức thực hiện. Bởi thế, trợ giúp xã hội
không thể thiếu được trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, nhận thức về an sinh xã hội nói chung, trợ giúp xã hội nói
riêng chưa đầy đủ. Nhận thức về trợ giúp xã hội vẫn đang nặng nề các hoạt
động từ thiện, chưa phải là sự chia sẻ trách nhiệm để góp phần nâng cao đời
sống xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền của đối tượng và đảm bảo an toàn
cho mọi thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro.
Kết quả thực hiện chính sách trợ giúp xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
trong những qua đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững ổn định
chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh. Nhưng so với đòi hỏi thực tế thì chính sách
trợ giúp xã hội của tỉnh còn những hạn chế nhất định. Chế độ trợ cấp thấp, cơ
chế tài chính chưa rõ ràng, thiếu bộ máy tổ chức thực hiện đồng bộ ở các cấp.
Những hạn chế này đã dẫn đến tỷ lệ đối tượng thụ hưởng chính sách thấp, đời
sống vật chất và tinh thần của đối tượng được trợ cấp xã hội trong đó có
người khuyết tật vẫn khó khăn.
Mặt khác, cơ sở vật chất và trang thiết bị của các cơ sở bảo trợ xã hội bị
xuống cấp và còn thiếu. Đồng thời tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ,
nhân viên thực hiện công tác trợ giúp xã hội cho người khuyết tật còn nhiều
hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu để hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo nâng
cao chất lượng trợ cấp và số lượng đối tượng thụ hưởng là rất cần thiết. Đặc
biệt hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
phải đặt trong bối cảnh xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiện đại, đáp ứng
2
đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Đây là một
vấn đề phức tạp, khó khăn được Đảng, Nhà nước ta nói chung và tỉnh Thừa
Thiên Huế nói riêng rất quan tâm. Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc
thực tế, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.
Nhân trường hợp tỉnh Thừa Thiên Huế để làm đề tài cho luận văn của
mình, với mong muốn góp phần vào công tác thực hiện trợ giúp các đối tượng
yếu thế, thiệt thòi trong xã hội mà cụ thể là người khuyết tật để góp phần ổn
định chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh nhà.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
này dưới nhiều góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức như: Đề
tài khoa học, giáo trình, bài báo, bài đăng tạp chí. Có thể khái quát một số
công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề dưới góc độ tiếp cận như sau:
- Đề tài “Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cộng đồng ở Việt
Nam” của Nguyễn Ngọc Toản, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân,
2010. Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không chỉ là cứu đói, hỗ trợ lương
thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến tranh, tai nạn, mà
còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp đột xuất và trợ giúp
thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm các chính sách bộ phận
đặc biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng gồm các
chính sách bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế, trợ giúp về
giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời trong bài viết
cũng chỉ ra được số lượng người khuyết tật năm 2009 trên cả nước và phạm
vi phân bổ người khuyết tật, dạng khuyết tật và số lượng người khuyết tật
cũng như nhu cầu của người khuyết tật và việc đáp ứng nhu cầu của người
khuyết tật cũng như các chính sách cho người khuyết tật Việt Nam.
3
- “Chính sách BTXH đối với một số đối tượng yếu thế ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Đại Đồng, Luận văn thạc sĩ kinh doanh
và quản lý, 2011. Công trình này đã trình bày một cách rõ nét những vấn đề
cơ bản của chính sách BTXH trong nền kinh tế thị trường; thực trạng thực
hiên chính sách BTXH ở nước ta hiện nay; phương hướng, giải pháp xây
dựng và hoàn thiện chính sách BTXH ở Việt Nam trong thời gian tới.
Tình hình nghiên cứu hoạt động trợ giúp xã hội đối với đối tượng
BTXH nói chung và người khuyết tật nói riêng có ý nghĩa thực tiễn vô cùng
to lớn đối với công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Vì
vậy, vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong số các công
trình đã được công bố, có thể kể tên một số công trình liên quan trực tiếp đến
đề tài luận văn là:
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Báo năm 2008.
Tác giả đã chỉ ra thực trạng thực hiện pháp luật về quyền người khuyết tật
và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở
Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về việc làm cho người khuyết
tật” của Hồ Thị Trâm năm 2013. Công trình này đã nghiên cứu và đưa ra giải
pháp về tạo việc làm cho người khuyết tật.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật”
của Nguyễn Đức Hoàng năm 2013. Công trình này đã nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn về chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật trên từng
khía cạnh và mức độ khác nhau.
4
- Luận văn thạc sĩ công tác xã hội “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành
phố Hà Nội” của Nguyễn Thị Quỳnh năm 2014. Tác giả chỉ ra những thành tựu
mà chính quyền xã Hợp Đồng đã làm được trong việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật sinh sống tại địa bàn trong thời gian qua, tuy
nhiên tác giả cũng nêu ra những mặt hạn chế, những bất cập như nhiều người
còn chưa tiếp cận được với chính sách trợ giúp của Nhà nước vì thiếu thông tin
liên quan đến chính sách trợ giúp, một số cán bộ của cơ quan hành chính Nhà
nước gây khó khăn, phiền nhiễu trong công tác tiếp cận các chính sách trên,
đồng thời đưa ra những giải pháp cũng như kiến nghị cho việc thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về người khuyết tật nhưng chưa
có một nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể, toàn diện việc thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Vì vậy, nghiên cứu việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật ở Thừa Thiên Huế trong quá trình xây dựng và phát triển là rất cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài luận văn góp phần hoàn thiện việc thực
hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
- Hệ thống cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thực hiện chính sách
trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
5
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
người khuyết tật được thực hiện trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Thời gian: Nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật được thực hiện trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2013 đến
năm 2017 và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
- Nội dung: Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật bao gồm
chính sách trợ giúp thường xuyên và chính sách trợ giúp đột xuất. Trong
phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên cho người khuyết tật.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu đề tài luận văn được dựa trên cơ sở phương pháp luận
về phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
người khuyết tật và thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
6
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật, tài liệu, giáo
trình và các công trình, bài viết có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận.
Luận văn cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, bổ sung và phát triển
các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu
của đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: trên cơ sở các tài liệu thống
kê, các chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Thừa Thiên Huế
trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
- Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến chuyên gia, nhà quản lý.
- Phương pháp xử lý thông tin và xử lý số liệu: Dựa trên các thông tin,
số liệu mới nhất mà Luận văn có thể thu thập được từ các nguồn thông tin
đáng tin cậy (từ các cơ quan thống kê, các cuộc điều tra) để đưa ra những
nhận định khách quan về lý luận và thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp
xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện chính sách
trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn phân tích, đánh giá và xác định nguyên nhân hạn chế trong
thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn Thừa
Thiên Huế.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp khả thi góp phần tham mưu cho
các nhà quản lý trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các nhà
hoạch định thực thi chính sách.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp
xã hội cho người khuyết tật
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm cơ bản
1.1.1. Người khuyết tật
Khuyết tật
Theo từ điển tiếng Việt (Nhà Xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội
1988) từ Khuyết có nghĩa là không đầy đủ vì thiếu mất một bộ phận, thiếu
mất một hay nhiều phần. Từ T t có nghĩa là: “Có điều gì đó không được
bình thường, ít nhiều khó chữa ở vật liệu, dụng cụ, máy móc. Còn ở người là
sự bất thường, nói chung không thể chữa được, của một cơ quan trong cơ thể
do bẩm sinh mà có, hoặc do tai nạn lao động, thương tích trong chiến tranh
hay bệnh gây ra” [36].
Như vậy, khuyết tật có thể được hiểu là khiếm khuyết thực thể ở một bộ
phận nào đó hoặc khiếm khuyết chức năng ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức
của cơ thể và khiếm khuyết đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
Định nghĩa khuyết tật theo cách tiếp cận khái niệm mới được hiểu "Là
tình trạng thiếu hụt chức năng hay rối loạn chức năng so với chuẩn sinh lý
bình thường làm cho cá nhân bị trở ngại trong học tập, làm việc, giao tiếp, vui
chơi giải trí và sinh hoạt".
Người khuyết tật
Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất
hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực
hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày.
Khái niệm Người khuyết tật theo Liên Hợp Quốc đó là những người
không có khả năng tự đảm bảo cho bản thân từng phần hoặc toàn bộ các hoạt
9
động cá nhân, xã hội do sự thiếu hụt (bẩm sinh hoặc không bẩm sinh) về thể
chất hay tâm thần của họ.
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật của Liên Hợp Quốc
khẳng định: “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài
về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương tác với những
rào cản khác nhau có thể gây cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ
trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội” [35].
Ở mỗi nước khái niệm về người khuyết tật có khác nhau về mức độ,
thời gian tác động của khuyết tật đối với đời sống con người.
Ở Anh quốc: Theo DDA (Disability Discrimination Act - Đạo luật chống
phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành); Người khuyết
tật là những người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần
mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt
động, sinh hoạt hàng ngày. Khi xét về mặt thời gian tác động người khuyết tật là
những người có: Khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài hơn 12 tháng
được coi là khuyết tật; Khiếm khuyết kéo dài dưới 12 tháng không được coi là
khuyết tật, trừ khi là bị tái đi tái lại; Một số khiếm khuyết kéo dài hơn 12 tháng
cả khi được phục hồi hoàn toàn thì vẫn được coi là người khuyết tật.
Ở Hoa Kỳ: Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990
(ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật
là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến
một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về
khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động; Khiếm khuyết về thị giác,
Khiếm khuyết về nói và nghe, Chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và
những khiếm khuyết cụ thể về học tập, Các bệnh lây và không lây như Bại
não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, bệnh lao và bệnh do
HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng).
10
Ở Việt Nam, khái niệm về người khuyết tật được hiểu thống nhất kể từ
khi có Luật Người khuyết tật, theo đó tại Khoản 1, Điều 2 có quy định:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [40].
Phân loại khuyết tật
Người khuyết tật được chia làm các loại khuyết tật sau:
- Khuyết tật vận động: Là dạng khuyết tật ảnh hưởng đến khả năng vận
động, di chuyển.
- Khuyết tật nghe nói: Những người khuyết tật thuộc nhóm này là
những người yếu kém khả năng nghe nên cần phải có những dụng cụ trợ thính
để giúp họ nghe được tiếng nói của người khác; vì không nghe được nên khả
năng nói của họ cũng rất yếu kém.
- Khuyết tật nhìn: Là những người rất yếu kém khả năng nhìn, dù đã
đeo kính, khiến hạn chế hoạt động cần nhìn bằng mắt.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần: Là người suy yếu về cảm xúc, suy
nhược tinh thần hoặc mắc bệnh tâm lý khiến cho những nhu cầu của cá nhân
và những nhu cầu mang tính xã hội của họ bị hạn chế.
- Khuyết tật trí tuệ: Những người khuyết tật dạng này có sự suy yếu hay
chậm phát triển trí não như những người bại não, động kinh, tự kỷ, và những
rối loạn tương tự khác.
- Khuyết tật khác: Là những người bị giảm khả năng thực hiện các hoạt
động trong học tập và lao động do tê bì hoặc mất cảm giác ở tay chân, mặc dù
đã được điều trị liên tục 3 tháng; do các nguyên nhân hô hấp hoặc do tim
mạch hoặc do rối loạn đại, tiểu tiện dù đã liên tục điều trị 3 tháng; hoặc do các
nguyên nhân khác.
11
1.1.2. Trợ giúp xã hội
Trợ giúp xã hội là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật an
sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng
có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như người bình
thường khác và không đủ khả năng tự lo liệu. Ý nghĩa pháp luật của trợ giúp
xã hội xuất phát từ quyền cơ bản của con người. Mỗi người sống trong xã hội
đều có quyền được sống, được bình đẳng, được thương yêu, đùm bọc, bảo vệ
khỏi những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự sống bị đe dọa.
Theo từ điển Tiếng Việt cụm từ “Trợ giúp” có nghĩa giúp đỡ về vật
chất cho đỡ khó khăn, thiếu thốn. Cụm từ “Bảo trợ” có nghĩa là giúp đỡ cho
tổ chức hoặc cá nhân có khó khăn về vật chất trong cuộc sống. Hai thuật
ngữ “bảo trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội” có nghĩa gần tương đồng nhau tuy
nhiên trong các văn bản, sách báo và giáo trình hiện nay phần lớn sử dụng
thuật ngữ “trợ giúp xã hội”.
TGXH được hiểu theo các quan điểm tiếp cận, tính chất, chức năng,
hình thức và mô hình khác nhau. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu chưa lý giải
một cách toàn diện về khái niệm TGXH, nhưng cũng đã giải thích thuật ngữ,
từ ngữ gần với TGXH (bảo trợ xã hội, công tác xã hội, phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội, cứu tế xã hội, cứu trợ xã hội, dịch vụ xã hội). Cụ thể:
Bộ LĐ-TB&XH (1999) “Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách,
chế độ, hoạt động của chính quyền các cấp và hoạt động của cộng đồng xã
hội dưới các hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm giúp các đối tượng
thiệt thòi, yếu thế hoặc gặp bất hạnh trong cuộc sống có điều kiện tồn tại và
có cơ hội hoà nhập với cuộc sống chung góp phần bảo đảm ổn định và công
bằng xã hội” [6].
Chuyên gia Unicef (2006) định nghĩa “Công tác xã hội là sự thúc đẩy
thay đổi trong xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa
12
con người, trao quyền và giải phóng con người đem lại sự bình yên cho xã
hội. Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống xã hội,
công tác xã hội can thiệp vào các mặt mà ở đó con người tác động trực tiếp tới
môi trường sống của họ. Nguyên tắc về quyền con người và công bằng xã hội
là cốt lõi của công tác xã hội’’ [59].
Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003) giải thích “Phúc lợi xã hội là một
bộ phận thu nhập quốc dân của xã hội được sử dụng nhằm thoả mãn những
nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội, chủ yếu được
phân phối ngoài thu nhập theo lao động. Phúc lợi xã hội bao gồm: những chi
phí xã hội như trả tiền hưu trí, các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội, học bổng cho
học sinh, những chi phí cho học tập không mất tiền, những dịch vụ y tế, nghỉ
ngơi an dưỡng, nhà trẻ, mẫu giáo” [58].
Nguyễn Hải Hữu (2007) định nghĩa “An sinh xã hội là một hệ thống
các cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ
giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế -
xã hội làm cho họ suy giảm, hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn khả năng lao động, hoặc vì các
nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá và cung
cấp dịch vụ chăm sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách
về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, TGXH và trợ giúp đặc biệt” [33, tr.16-17].
Nguyễn Văn Định (2008) cho rằng “Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của
xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và của cộng đồng đối với các
thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như thiên
tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh
neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu,
vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường”, đồng thời
giải thích “Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội bằng tiền
13
hoặc hiện vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ tối cần thiết cho
người được trợ cấp khi họ bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng, không còn khả
năng tự lo liệu cuộc sống thường ngày cho bản thân họ và gia đình”. Cũng
với cách tiếp cận này tác giả cũng cho rằng “TGXH là sự giúp đỡ thêm của
cộng đồng xã hội bằng tiền hoặc bằng các phương tiện thích hợp để người
được trợ giúp có thể phát huy khả năng tự lo liệu cho cuộc sống bản thân
và gia đình, sớm hòa nhập lại với cộng đồng’’[25].
Tổng hợp các giải thích trên cho thấy, hầu hết các khái niệm chưa mô tả
đầy đủ về TGXH, mà cần giải thích toàn diện hơn nữa về TGXH. TGXH không
chỉ là hoạt động của cộng đồng và xã hội mà phải là trách nhiệm của Nhà nước,
không những thế còn là hoạt động có tính chất về công tác xã hội, không dành
riêng cho một, hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH không phải là giải
pháp toàn diện về an sinh xã hội, mà chỉ là một hợp phần của an sinh xã hội.
Như vậy, có thể hiểu TGXH là hệ thống các chính sách, chế độ, hoạt
động của cộng đồng xã hội dưới các hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm
mục tiêu giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc sống có
điều kiện tồn tại và có cơ hội hòa nhập cuộc sống chung của cộng đồng, góp
phần bảo đảm ổn định và công bằng xã hội.
1.1.3. Chính sách trợ giúp xã hội
Chính sách
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson 2003).
Theo Vũ Cao Đàm, chính sách là một thiết chế xã hội, bao gồm tập hợp
nhiều thiết chế: thiết chế bất thành văn, thiết chế công bố và thiết chế ngầm
định [20]. Trong khuôn khổ luận văn, chỉ đề cập đến thiết chế thành văn tức là
những chính sách được pháp luật quy định gần với nội dung quản lý nhà nước.
14
Chính sách công
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004).
Chính sách công là một trong những công cụ được Nhà nước sử dụng
để quản lý, điều hành nền kinh tế - xã hội theo định hướng, được Nhà nước
ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra
trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Được Nhà nước
sử dụng để khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho
nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn
lực công một cách hiệu quả, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội,
môi trường. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà
hoạch định chính sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả
thực tế. Vì vậy, chính sách công được hiểu là: Những hành động ứng xử của
Nhà nước đối với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Chính sách trợ giúp xã hội
Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) cho đối tượng BTXH ở Việt Nam
được hình thành từ Cách mạng Tháng 8 năm 1945, với mục đích là cứu đói
cho những người chịu hậu quả chiến tranh, hậu quả thiên tai, trẻ em mồ côi,
người tàn tật. TGXH không chỉ là cứu đói, hỗ trợ lương thực cho cá nhân, hộ
gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến tranh, mà đã mở rộng thành các hợp
phần chính sách là trợ giúp đột xuất, trợ giúp thường xuyên (trợ giúp thường
xuyên cộng đồng, nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội). Vì vậy, chính
sách trợ giúp xã hội được hiểu là: Các quan điểm, cách thức, biện pháp của
15
nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền để thực hiện mục
tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải hoàn
cảnh khó khăn.
Khái niệm:
1.1.4. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là các quan điểm, cách
thức, biện pháp của nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm
quyền tác động đến lĩnh vực người khuyết tật. Đó là các chính sách bảo trợ xã
hội, trợ giúp về y tế, giáo dục, hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao,
tiếp cận với các dịch vụ công cộng giúp người khuyết tật phát triển với khả
năng của chính mình, xoá đi những mặc cảm, phát triển và hòa nhập với cộng
đồng như những người bình thường khác.
Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là quá trình
biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động
có tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hóa các chính sách đối với
người khuyết tật đã đề ra.
Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật mang đầy
đủ đặc điểm của quá trình thực hiện chính sách nói chung. Với bản chất là
hoạt động xã hội của con người, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
người khuyết tật hàm chứa những đặc điểm chung của các hoạt động xã hội
khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc
thù sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật bao
giờ cũng thông qua những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của
con người bao giờ cũng được bộc lộ thông qua các hành vi, hoạt động cụ thể
trong các mối quan hệ xã hội. Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại
của con người, chính vì lẽ đó, việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
16
người khuyết tật thường tồn tại là những dạng hành động tích cực là chủ yếu
và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ máy nhà nước. Kết quả
thực hiện các chính sách đó trên thực tế không phải lúc nào cũng hợp pháp,
cũng bảo vệ và đem lại những lợi ích cho người khuyết tật có thể do nhiều
nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và bảo đảm
quyền lợi cho người khuyết tật không thể đạt được.
Thứ hai, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là hành
vi phù hợp với pháp luật về người khuyết tật. Đó là những hành vi cụ thể của con
người song thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật có đặc
điểm là phải phù hợp với các quy định hiện hành liên quan tới người khuyết tật.
Việc phù hợp ở đây được hiểu là khi thực hiện chính sách không được làm trái
với mục tiêu của chính sách, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của người khuyết tật, tất cả là tạo điều kiện và bảo vệ lợi ích của người khuyết
tật, quyền tiếp cận đời sống xã hội của người khuyết tật.
Nói đến việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
bao giờ các chủ thể cũng quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là
thực hiện nội dung liên quan tới người khuyết tật và cách thức, hình thức thực
hiện bằng hình thức nào?
Thứ ba, thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là
một quá trình có mục đích, nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến
những quyền và nghĩa vụ pháp lý bảo vệ người khuyết tật thành những hành
vi xử sự trong thực tế thì cần thiết phải thông qua hàng loạt là các hoạt động
Chủ thể của chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật:
cụ thể của con người mà các hoạt động đó phải có mục tích, mục tiêu cụ thể.
Trung ương: Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Đối tượng: Người khuyết tật
Địa phương: Ủy ban nhân dân tỉnh
17
1.2. Nội dung chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật
1.2.1. Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên
Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cho người khuyết tật bao gồm
các chính sách sau:
Một là, chính sách về y tế
Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và
sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp.
Người khuyết tật được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm y tế.
Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để
người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh.
Người khuyết tật là người mắc bệnh tâm thần ở trạng thái kích động,
trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác
được hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi lại và chi phí điều trị trong thời gian điều
trị bắt buộc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện khám bệnh, chữa bệnh
cho người khuyết tật.
Hai là, chính sách về giáo dục
Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với
nhu cầu và khả năng của người khuyết tật.
Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy
định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn,
giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng
của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo,
các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ
dùng học tập.
18
Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập
dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học
bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi
Braille theo chuẩn quốc gia.
Phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập,
giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.
Người khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ người khuyết tật lựa
chọn phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân người
khuyết tật.
Nhà nước khuyến khích người khuyết tật tham gia học tập theo phương
thức giáo dục hòa nhập.
Ba là, chính sách dạy nghề và việc làm
Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí,
lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác.
Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận
nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều
kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.
Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao
động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với
sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng
người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu
chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của
người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là
người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm
điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.
19
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người
khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với
lao động là người khuyết tật.
Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và
giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.
Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho
người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất kinh doanh,
được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản
phẩm theo quy định của Chính phủ.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30 tổng số lao động trở lên là
người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp
cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn
với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho
thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước
phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ
khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp.
Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người
khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người
khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định.
Bốn là, chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật
được hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, người khuyết tật nặng được
giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục, thể
thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ.
20
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho người khuyết tật phát triển tài
năng, năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao; tham gia sáng tác, biểu
diễn nghệ thuật, tập luyện, thi đấu thể thao.
Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ, trang
thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan, tổ chức,
cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ hoạt động
văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người khuyết tật.
Năm là, chính sách về nhà chung cư, công trình công cộng; tham gia
giao thông
Việc phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu công trình xây dựng
mới, cải tạo và nâng cấp nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng
kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội phải tuân thủ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về xây dựng để bảo đảm người khuyết tật tiếp cận.
Nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công
cộng, công trình hạ tầng xã hội được xây dựng trước ngày Luật này có hiệu
lực mà chưa bảo đảm các điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật phải
được cải tạo, nâng cấp để bảo đảm điều kiện tiếp cận .
Phương tiện giao thông cá nhân của người khuyết tật khi tham gia giao
thông phải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với điều kiện sức
khỏe của người khuyết tật. Phương tiện giao thông cá nhân đòi hỏi phải có
giấy phép điều khiển thì người khuyết tật được học và cấp giấy phép điều
khiển đối với phương tiện đó.
Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng các phương tiện giao
thông công cộng được sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoặc sự trợ giúp
tương ứng; được phép mang theo và miễn phí khi mang phương tiện, thiết
bị hỗ trợ phù hợp.
21
Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng được miễn,
giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một số phương tiện giao
thông công cộng theo quy định của Chính phủ.
Người khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi
thuận tiện khi sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.
Phương tiện giao thông công cộng phải có chỗ ưu tiên cho người
khuyết tật; có công cụ hỗ trợ lên, xuống thuận tiện hoặc sự trợ giúp phù hợp
với đặc điểm của người khuyết tật.
Phương tiện giao thông công cộng để người khuyết tật tiếp cận sử dụng
phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Đơn vị tham gia vận tải công cộng phải đầu tư và bố trí phương tiện
bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận trên các tuyến vận tải theo
tỷ lệ do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ.
Phương tiện giao thông công cộng đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về giao thông tiếp cận được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật về
thuế khi sản xuất, nhập khẩu.
Sáu là, chính sách về Công nghệ thông tin và truyền thông
Theo khoản 1, khoản 4 Điều 43 Luật NKT năm 2010, Nhà nước khuyến
khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực công nghệ thông
tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho NKT. Nhà nước có
chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và nhiều hỗ trợ
khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ
NKT tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên
soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc
dành cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ [40]. Luật công nghệ thông tin năm
2006 cũng nhấn mạnh việc Nhà nước có chính sách ưu đãi để tổ chức, cá nhân
22
có hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đối với NKT; có
chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác cho hoạt động nghiên
cứu, phát triển công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của NKT trong
việc truy cập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua sử dụng máy
tính và cơ sở hạ tầng thông tin, cũng như hoạt động sản xuất, cung cấp công
nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và nội dung thông tin số
đáp ứng nhu cầu đặc biệt của NKT [38]. Như vậy, Luật NKT năm 2010 và
Luật công nghệ thông tin năm 2006 đều nhấn mạnh việc khuyến khích mọi tổ
chức, cá nhân có các hoạt động nhằm hỗ trợ NKT tiếp cận công nghệ thông tin.
Ngoài ra, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức và cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin dành cho trẻ em khuyết tật.
Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật
chất và tinh thần của người khuyết tật, trẻ em khuyết tật.
Có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ
khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ, phương
tiện hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.
Bảy là, chính sách bảo trợ xã hội
Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm: Người khuyết tật
đặc biệt nặng (trừ trường hợp quy định) và người khuyết tật nặng.
Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm: Gia
đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
người đó; Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
Người khuyết tật quy định ở trên đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng
tuổi; Người khuyết tật quy định ở trên là trẻ em, người cao tuổi được hưởng
mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
23
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
đối với từng loại đối tượng ở trên do Chính phủ quy định.
Người khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được
cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội.
Nhà nước cấp kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật quy định ở trên cho
các cơ sở bảo trợ xã hội. Người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hàng
tháng được hỗ trợ chi phí mai táng khi chết. Chính phủ quy định mức hỗ trợ
chi phí mai táng.
Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài
chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc,
giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết tật.
Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng,
chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ
giúp người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định.
Tám là, xác định mức độ khuyết t t
Theo Luật người khuyết tật Việt Nam việc xác nhận mức độ khuyết tật
được qui định như sau:
Trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật: Việc xác định mức độ khuyết
tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện. Hội đồng xác định mức
độ khuyết tật do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã) thành lập.
Hội đồng xác định mức độ khuyết tật bao gồm các thành viên sau đây:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Hội đồng; Trạm trưởng trạm y tế
cấp xã; Công chức cấp xã phụ trách công tác lao động, thương binh và xã hội;
Người đứng đầu hoặc cấp phó của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội
phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh cấp xã; Người đứng đầu tổ chức
của người khuyết tật cấp xã nơi có tổ chức của người khuyết tật.
24
Chủ tịch Hội đồng có trách nhiệm tổ chức và chủ trì hoạt động của
Hội đồng.
Việc xác định mức độ khuyết tật được thực hiện bằng phương pháp
quan sát trực tiếp người khuyết tật, thông qua thực hiện hoạt động đơn giản
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo các
tiêu chí về y tế, xã hội và các phương pháp đơn giản khác để kết luận mức độ
khuyết tật đối với từng người khuyết tật.
Thủ tục xác định mức độ khuyết tật: Khi có nhu cầu xác định mức độ
khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết
tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú. Trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho
người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định
mức độ khuyết tật và ra kết luận. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.
Việc xác định lại mức độ khuyết tật được thực hiện theo đề nghị của
người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật khi có sự
kiện làm thay đổi mức độ khuyết tật.
Chín là, trợ giúp pháp lý
Truyền thông về trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật thông qua các
hoạt động thích hợp.
25
Xây dựng các chương trình, giáo trình, tài liệu và tập huấn bồi dưỡng
cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý và các thành viên Ban chủ
nhiệm câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật; Thực hiện trợ giúp
pháp lý cho người khuyết tật.
1.2.2. Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất
Trợ giúp đột xuất là hình thức trợ giúp xã hội do nhà nước và cộng đồng
giúp đỡ người khuyết tật không may bị thiên tai, mất mùa hoặc gặp những biến
cố khác mà đời sống của họ bị đe dọa về tính mạng, lương thực, nhà ở, chữa
bệnh, chôn cất hay phục hồi sản xuất nếu không có sự trợ giúp khẩn cấp.
Chính sách trợ giúp xã hội đột xuất bao gồm: Hỗ trợ lương thực; Hỗ trợ
làm nhà ở, sửa chữa nhà ở; Hỗ trợ tạo việc làm, phát triển sản xuất; Hỗ trợ
mai táng.
1.3. Quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết tật
1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật
Tổ chức thực thi chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là
quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được
lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện
chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật được xây dựng trước khi
chính sách đi vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ
Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình
thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách đối với người khuyết tật
bao gồm những nội dung cơ bản:
Thứ nhất, kế hoạch tổ chức điều hành: Nội dung kế hoạch gồm những
dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính
sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; cơ chế tác
động giữa các cấp thực thi chính sách.
26
Thứ hai, kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở
kiến trúc, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách đối
với người khuyết tật; các nguồn lực tài chính.
Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là dự kiến về thời
gian duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai từ tuyên truyền
chính sách đến tổ chức rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt
được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
Thứ tư, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách là những dự
kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi
chính sách.
Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế: Nội quy, quy chế trong thực
thi chính sách đối với người khuyết tật bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức,
điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và
các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện
pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách
đối với người khuyết tật.
1.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện đối với người khuyết tật được
thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai thực hiện theo kế hoạch.
Một là, trong quá trình thực hiện chính sách, trước tiên phải tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách cho người khuyết
tật. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách
và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính
sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định; và
về tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý
của nhà nước.
27
Tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách
công đang được thi hành, để mọi đối tượng cần được tuyên truyền thực thi
chính sách.
Hai là, phân công, phối hợp thực hiện chính sách cho người khuyết
tật Khi thực hiện chính sách cho người khuyết tật cần phải phân công, phối
hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các
yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực
hiện mục tiêu chính sách. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một
bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá
trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt
yêu cầu quản lý. Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực
hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật một cách chủ động,
sáng tạo để luôn duy trì chính sách một cách ổn định, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.3.3. Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
Đôn đốc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là
hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua
các công cụ hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi chính sách nêu cao ý
thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.
Trên thực tế, khi triển khai tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần có hoạt động
đôn đốc để vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm
vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
1.3.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật
Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách được hiểu là
quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành chính sách
28
của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng
kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực hiện chính sách
trợ giúp xã hội cho người khuyết tật. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ
đạo, điều hành thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trong
các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được
xây dựng ở bước 1 của phần này. Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản
liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy
phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính
sách của các tổ chức chính trị và xã hội đối với nhà nước.
1.4. Vai trò của việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật
1.4.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
người khuyết tật
Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là đưa đường
lối, chủ trương của Đảng về chính sách đối với người khuyết tật vào cuộc sống,
khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc
triển khai và tổ chức thực hiện chính sách, tổ chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo
của mình và đánh giá đúng mức về năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,
đảng viên. Đảng và Nhà nước định hướng mọi người khuyết tật đều hòa nhập
cộng đồng, tạo điều kiện phát huy mọi khả năng của mình để vươn lên trong
cuộc sống và học tập, giảm bớt gánh nặng của gia đình và xã hội, trở thành
những thành viên có ích cho xã hội. Từ các chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước đề ra, các chủ thể thực hiện chính sách bằng cách xây dựng và ban
hành văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách để cụ thể hóa mục tiêu và
giải pháp chính sách cho từng giai đoạn thời gian và địa bàn cụ thể. Kết quả của
29
chính sách phải bảo đảm tất cả người khuyết tật ở các vùng sâu, vùng xa cũng
như khu vực thành phố, nông thôn đều được hưởng bình đẳng các quyền của
người khuyết tật, đó là quyền được đi học, được chăm sóc sức khỏe, được tham
gia vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, được tiếp cận với các
phương tiện giao thông công cộng dành cho người khuyết tật, được giảm vé khi
tham gia giao thông, được tiếp cận với các hoạt động công nghệ, thông tin. Vì
vậy trong quá trình thực hiện chính sách các chủ thể cần thể chế hóa định hướng,
mục tiêu của Đảng và nhà nước, và thực thiện theo đúng mục tiêu, bên cạnh đó
các chủ thể cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
người khuyết tật trên phạm vi quốc gia và từng bước tiếp cận Công ước quốc tế
về quyền của người khuyết tật.
Không thể phủ nhận sự song hành của người khuyết tật trong đời
sống xã hội và điều đó có nghĩa rằng nhà nước cần phải có trách nhiệm đối
với việc bảo đảm cho người khuyết tật được tiếp cận đầy đủ các quyền như
những người bình thường. Vì vậy trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, các chủ thể thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật cần áp dụng thực hiện một cách
đồng bộ, thống nhất và hiệu quả nhằm đưa chính sách vào đời sống xã hội,
thực hiện tốt các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra để người khuyết tật
nhận được sự chăm sóc tốt nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
ta hiện nay.
1.4.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật
Chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật là tiền đề, là cơ sở pháp
lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể thực hiện chính sách. Chính sách đối
với người khuyết tật là cơ sở pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức
có thẩm quyền tiến hành hoạt động để bảo đảm quyền tiếp cận đời sống xã
hội của người khuyết tật. Thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước cho thấy nếu
30
như hệ thống chính sách về lĩnh vực nào đó không hoàn chỉnh, không có khả
thi, quá xa vời với thực tế, không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất
nước thì không thể có hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước cũng như
hoạt động thực hiện chính sách, dẫn đến lãng phí về thời gian và tiền bạc.
Trong những năm vừa qua, mặc dù Luật người khuyết tật có hiệu lực từ tháng
01 năm 2011 đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức của cả xã hội cũng như tác
động đến đời sống của người khuyết tật song vì thiếu những quy định cụ thể
hoặc một quy định trong luật còn quá xa so với khả năng nguồn ngân sách của
nước ta dẫn đến việc tiếp cận với các quyền của người khuyết tật chưa được
đáp ứng đầy đủ. Luật người khuyết tật 2010 quy định chính sách về giáo dục
hòa nhập đối với người khuyết tật trong phạm vi toàn quốc. Khi các chủ thể
xây dựng kế hoạch thực hiện, kế hoạch về kinh phí, kế hoạch nhân sự, cơ sở
vật chất, giáo trình đã gặp rất nhiều khó khăn như khó khăn về kinh phí, thiếu
giáo viên về lĩnh vực giáo dục hòa nhập hoặc giáo viên thiếu chuyên môn về
lĩnh vực này, đặc biệt là lúng túng trong quá trình biên soạn giáo trình. Do đó
tỷ lệ người khuyết tật đưa vào các trường công lập để giáo dục hòa nhập tại
nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước không cao, thậm chí do điều kiện vật chất
nhiều trường còn từ chối tiếp nhận người khuyết tật vào giáo dục hòa nhập.
Trong quá trình thực hiện chính sách mà gặp phải những chính sách không
phù hợp, không khả thi, cần có những kiến nghị với Nhà nước, với các nhà
hoạch định chính sách để điều chỉnh, bãi bỏ hoặc bổ sung cho phù hợp để
chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật thực sự có hiệu quả và đi vào
cuộc sống, giúp người khuyết tật có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.4.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật
Khi hệ thống chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật đã được
hoàn thiện và đi vào cuộc sống; việc phân loại dạng tật và xác định mức độ
31
khuyết tật rõ ràng; các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại chính sách và phù hợp
với từng dạng khuyết tật như khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, khuyết
tật nhìn, khuyết tật thần kinh, khuyết tật trí tuệ; xác định các mức trợ cấp xã
hội, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho người khuyết tật, thì việc
phân bổ nguồn lực và huy động các nguồn lực trong thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật là thực sự cần thiết, đó là nguồn lực tài
chính, con người, cơ sở vật chất và các nguồn lực khác. Bên cạnh sự hỗ trợ
của nhà nước, cần vận động kêu gọi các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện,
các mạnh thường quân, các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước tham gia
hỗ trợ giúp đỡ người khuyết tật bằng nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ
về công nghệ khoa học nhằm giảm thiểu gia tăng người khuyết tật, về vật
chất, về tinh thần nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Trước thực tế số
lượng người khuyết tật hiện nay rất đông. Để thực hiện chính sách đầy đủ
cho tất cả người khuyết tật ở nông thôn, thành phố, vùng sâu và vùng xa là
thực sự khó khăn với kinh phí hạn hẹp. Các trung tâm bảo trợ xã hội giúp đỡ
người khuyết tật, các Làng, trung tâm cần xây dựng các dự án, các chương
trình, đề án, tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại nhân dân, các hình
thức xã hội hóa để kêu gọi các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức cán nhân hỗ trợ về kinh phí trong quá trình thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật.
1.4.4. Thực hiện an sinh xã hội và giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng
Người khuyết tật là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội, hiện nay có
nhiều văn bản Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách liên
quan đến người khuyết tật. Nằm trong tổng thể chính sách an sinh xã hội của
Nhà nước thì bộ phận người khuyết tật là bộ phận không thể tách rời. Vì vậy
thực hiện tốt chính sách đối với người khuyết tật chính là thực hiện tốt các
quy định của chính sách về an sinh xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, bảo
32
đảm quyền của người khuyết tật, bảo vệ và ngăn chặn những rào cản tiếp cận
cho người khuyết tật, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục, trợ
cấp xã hội, giao thông, công nghệ thông tin, taọ cơ hội tốt nhất cho người
khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
Hiện nay, Nhà nước đã xây dựng nhiều chương trình, dự án, đề án giúp
an sinh xã hội cho người khuyết tật. Các dự án về đào tạo nghề bao gồm các
nghề cắt may, nghề thêu ren, làm hoa, vi tính văn phòng, cắt uốn tóc, nấu ăn,
bảo vệ, lễ tân, phục vụ khách sạn, nhà hàng đã giúp nhiều người khuyết tật
hòa nhập vào cộng đồng và tự nuôi sống được bản thân; các chương trình
phục hồi chức năng, khám chữa bệnh tại cộng đồng giúp các gia đình có
người khuyết tật có được những kiến thức cơ bản về sơ cứu ban đầu với người
khuyết tật bị ngã, người khuyết tật bị bại liệt, các kiến thức về phục hồi chức
năng để có thể chăm sóc con em mình tại gia đình; các chương trình giáo dục
hòa nhập cũng đang được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương trong cả
nước. Kết quả thực tế nhiều người khuyết tật đã tự phục vụ được mình, nhiều
người tự nuôi sống được bản thân và giúp đỡ gia đình, giảm gánh nặng cho xã
hội về kinh phí trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật và thực sự nhiều
người khuyết tật đã trở thành những người có ích trong xã hội.
1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời khuyết
tật ở một số địa phƣơng
1.5.1. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình là một trong những tỉnh nghèo của cả nước, đời sống nhân
dân toàn tỉnh nói chung và người nghèo, đối tượng yếu thế nói riêng còn gặp
nhiều khó khăn. Quảng Bình hiện có trên 45.000 người khuyết tật, chiếm
khoảng trên 5 dân số toàn tỉnh (khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói;
khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật
33
khác). Trình độ học vấn của NKT của tỉnh nhìn chung còn thấp, phần lớn học
xong bậc tiểu học; đa số NKT Quảng Bình không thể sống tự lập mà chủ yếu
dựa vào gia đình, người thân, chỉ có khoảng trên 15 tự tạo được thu nhập.
NKT chủ yếu thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Hàng năm UBND tỉnh giao trong dự toán của các huyện, thị xã, thành phố
để chi cho công tác trợ cấp xã hội hàng tháng đối với đối tượng BTXH tại cộng
đồng nói chung, NKT nói riêng, các địa phương đã chi trả đầy đủ và kịp thời cho
đối tượng hưởng trợ cấp theo đúng quy định. Công tác xã hội hóa hoạt động trợ
giúp NKT được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả: Thông qua Hoạt động của Hội
bảo trợ Người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh, Hội Vì sự phát triển của Người
khuyết tật, Hội Chữ thập đỏ, Quỹ Bảo trợ trẻ em… Từ năm 2013-2017 đã hỗ
trợ 1.092 xe lăn, xe lắc cho NKT, phẫu thuật tim, mắt cho 1.200 trẻ, phục hồi
chức năng cho 596 NKT góp phần giúp NKT giải quyết những khó khăn
trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. NKT đã được xác định dạng tật và mức
độ khuyết tật để hưởng các chính sách BTXH trên địa bàn tỉnh là: 16.094
người. 100% NKT thuộc hộ gia đình nghèo, NKT đang hưởng chế độ bảo trợ
xã hội tại cộng đồng được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Trạm y tế cấp xã, phường,
thị trấn, bệnh viện cấp huyện đã tổ chức khám sàng lọc cho trẻ khuyết tật, tư
vấn và chăm sóc sức khỏe cho NKT trên địa bàn. Các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa bệnh và tư vấn phù hợp đối với
NKT. Đặc biệt, ưu tiên cho người NKT biệt nặng và NKT nặng, trẻ em khuyết
tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của
pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ
biến kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu
khuyết tật và PHCN: 100 các cơ sở PHCN có hoạt động tuyên truyền về
phòng ngừa khuyết tật, về PHCN; đội ngũ cộng tác viên y tế thôn/bản đều
34
được tham gia tập huấn về "kỹ năng cơ bản phục hồi chức năng" góp phần
nâng cao nhận thức về việc chăm sóc sức khỏe cho NKT.
Hằng năm 70 NKT tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác
nhau; 65 trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết
tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật;
khoảng 650 trẻ em và NKT được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng
và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp; 350 NKT trong độ tuổi lao động còn
khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm, hiện nay, trên địa bàn tỉnh
có 02 cơ sở dạy nghề chuyện dạy nghề cho NKT là: Doanh nghiệp tư nhân và
hỗ trợ việc làm cho NKT và Hội Người mù tỉnh Quảng Bình.
Thông qua các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa phương; các cơ
sở dạy nghề và tạo việc làm cho NKT, hàng năm đào tạo và dạy nghề cho
hàng trăm NKT với các nghề chủ yếu như may mặc, thủ công mỹ nghệ, sữa
chữa xe máy, điện tử…. Không chỉ đào tạo nghề cho NKT, các Trung tâm,
Cơ sở dạy nghề luôn cố gắng tìm việc làm cho NKT, giúp NKT ổn định cuộc
sống. Các cơ sở này còn đứng ra nhận hợp đồng gia công sản phẩm với các
doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tạo việc làm cho những lao động không
xin được việc làm;
Có 20% NKT được trợ giúp tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông; 20% NKT được hỗ trợ tham gia các hoạt động văn hóa, văn
nghệ và luyện tập thể dục, thể thao, hàng năm tham gia thi đấu giải thể thao
NKT toàn quốc và luôn đạt kết quả cao;
Có 90% NKT được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu, đã thực hiện 8.645
vụ việc trợ giúp pháp lý cho 8.645 người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.
Trong đó, có 208 vụ việc cho 208 NKT. Phần lớn các vụ việc trợ giúp pháp lý
cho người khuyết tật đều được thực hiện thông qua hình thức tư vấn pháp luật,
số vụ còn lại được thực hiện thông qua hình thức tố tụng. Tổ chức trợ giúp
35
pháp lý lưu động tại 569 điểm thôn, bản trên địa bàn tỉnh để tuyên truyền
pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân trong đó có đối tượng là
NKT. 60 cán bộ làm công tác trợ giúp NKT được tập huấn, nâng cao năng
lực quản lý, chăm sóc, hỗ trợ NKT; 40 gia đình có NKT được tập huấn về
kỹ năng, phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho NKT; 30% NKT
được tập huấn các kỹ năng sống [48].
Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho NKT trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình đã góp phần nâng cao nhận thức, quan điểm đối với công tác NKT và
trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách đối với
NKT; Đời sống vật chất, tinh thần của NKT được cải thiện đáng kể; nhiều rào
cản môi trường cũng như xã hội đã và đang từng bước được dỡ bỏ, tạo cơ hội
bình đẳng cho NKT tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, phát huy khả năng của
mình, tự lực trong cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng.
1.5.2. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của
hậu quả chiến tranh và chất độc hóa học để lại, do vậy tỷ lệ NKT chiếm khá
cao. Những năm qua các ngành các cấp của thành phố Đà Nẵng đã có sự quan
tâm sâu sắc, đúng mức đến việc chăm lo cho NKT. Với mục tiêu đảm bảo và
phấn đấu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho NKT của thành phố. Qua
đó, góp phần khẳng định một hình ảnh Đà Nẵng không chỉ đi đầu trong phát
triển kinh tế, mà còn là thành phố an sinh xã hội, là điểm sáng trong thực hiện
các chính sách, các hoạt động bảo trợ xã hội.
Ngoài những chế độ trợ giúp xã hội đã được Chính Phủ quy định cho
NKT, Thành phố còn ban hành nhiều đề án hỗ trợ cho người khuyết tật, hỗ trợ
dụng cụ chỉnh hình, cho vay vốn, sửa nhà được triển khai trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng giúp hàng trăm người vượt qua mặc cảm, vươn lên hòa nhập
36
cộng đồng. Theo kết quả xác định được của Sở LĐ-TB&XH Đà Nẵng, số
NKT được trợ giúp tại cộng đồng và cơ sở xã hội tăng qua các năm. Trong
đó, số NKT được trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng tăng rất nhanh từ
1.020 người năm 2013 lên 9.677 người năm 2017 bình quân mỗi năm tăng
2.419 người; còn đối với số NKT được trợ giúp thường xuyên tại cơ sở xã hội
tăng không đáng kể từ 975 năm 2013 người lên 1.970 người năm 2017 bình
quân mỗi năm tăng 199 người.
Sở dĩ NKT được trợ giúp xã hội ngày càng tăng là do đối tượng được
hưởng có sự mở rộng, NKT nặng trong các cơ sở của nhà nước cũng được
phụ cấp thêm.
Cùng với việc tăng về số lượng, Đà Nẵng lại tiếp tục quan tâm hơn về
mức trợ giúp xã hội, từ việc mở rộng diện trợ cấp, kinh phí trợ giúp thường
xuyên cho người khuyết tật đã tăng nhanh qua các năm và tăng lên rất nhanh
trong giai đoạn 2013 - 2017, với kinh phí 1 năm hơn 50 tỷ đồng.
Song song với các trợ cấp bằng tiền và hiện vật, thành phố còn sử dụng
hình thức tài trợ qua giá như sử dụng tiền ngân sách để mua bảo hiểm y tế cho
NKT và dành kinh phí để cho vay giải quyết việc làm cho NKT: Tổng mức
cho vay trong giai đoạn 2013 - 2017 qua các chương trình tạo việc làm của
thành phố là trên 81 tỷ đồng, bình quân mỗi năm gần 18 tỷ đồng. Nhờ có
nguồn vốn cho vay trên, mỗi năm thành phố đã giải quyết được việc làm cho
hơn 1.000 người. Nhằm giúp cho NKT tìm việc làm, thành phố còn khai
trương và vận hành trang web “Người tìm việc – việc tìm người”, tổ chức liên
tục các phiên chợ việc làm. Song song với “chợ việc làm”, trung tâm giới
thiệu việc làm thành phố cũng đã được đầu tư để nâng cao năng lực hoạt động
với vốn đầu tư khoảng trên 5.500 triệu đồng. Nhờ đó, trong 5 năm qua từ
2013 - 2017, trung tâm đã tư vấn việc làm cho khoảng 600 NKT, trong đó số
người tìm được việc làm qua trung tâm là gần 500 người.
37
Ở thành phố Đà Nẵng trong những năm qua các hoạt động cứu trợ xã
hội đã thu hút được đông đảo người dân và các tổ chức từ thiện trong và ngoài
nước tham gia. Với trên 16.720 hội viên sinh hoạt trong các hội từ thiện trên
địa bàn Đà Nẵng, trong giai đoạn 2013 - 2017, các chương trình từ thiện đã
vận động và đóng góp cho cộng đồng gần 82, 8 tỷ đồng. Trong đó có nhiều tổ
chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho từ thiện như: Tổ chức Siloan (Anh), tổ
chức trẻ em Việt Nam (Hoa Kỳ), Chi hội từ thiện Quán Thế Âm, Ngân hàng
NN & PTNT, hội đồng hương Đà Nẵng tại Thành phố Hồ Chí Minh [50].
1.5.3. Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh
Trong những năm qua, tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành nhiều hoạt động hỗ trợ
cho người khuyết tật và các nhóm lao động dễ bị tổn thương khác do bị tác
động của các chính sách kinh tế - xã hội và toàn cầu hóa. Toàn tỉnh tính đến
tháng 12 năm 2017 có 63.620 NKT theo các dạng tật, trong đó số NKT được
hưởng trợ cấp hàng tháng là 25.022 người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng và
được cấp thể bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí.
Các chính sách về tín dụng ưu đãi gắn với tạo việc làm, đào tạo nghề,
phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động tới các vùng, đã hỗ trợ nâng
cao trình độ tay nghề đảm bảo sinh kế, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động các hoạt động tài trợ ngoài việc tài trợ trực tiếp bằng
tiền hoặc hiện vật với hình thức tài trợ đột xuất hay tài trợ thường xuyên thì
hoạt động tài trợ thường được sử dụng và sử dụng có hiệu quả và là hiệu quả
lâu dài là tài trợ thông qua việc hỗ trợ một phần về giá, cụ thể: tài trợ bằng
chính sách tín dụng ưu đãi, sử dụng cơ chế vay tín dụng thông qua các
chương trình tổ chức, hội đoàn thể. Mục tiêu của các chính sách tín dụng rất
đa dạng, tín dụng để phát triển sản xuất, tín dụng cho học sinh, sinh viên, đối
tượng hưởng lợi là người nghèo, người dân tộc thiểu số, NKT, thanh niên,
38
người đi xuất khẩu lao động, người lao động bị mất việc làm do tác động của
khủng hoảng kinh tế, người lao động có đất phải chuyển đổi mục đích sử
dụng, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, thương nhân hoạt động
thương mại tại các vùng khó khăn, người có thu nhập thấp, một số chính sách
tín dụng đã tập trung cho các doanh nghiệp, hộ gia đình thuộc các huyện
nghèo, vùng khó khăn.
Tỉnh Hà Tĩnh cũng đã sử dụng các ưu đãi về tín dụng kết hợp với đào tạo
và giới thiệu việc làm để hỗ trợ, trở thành “bà đỡ” kích cầu tạo việc làm, đã
thành lập quỹ việc làm địa phương góp phần đưa doanh số cho vay hàng năm
của địa phương tăng lên. Với nhiều mô hình tạo việc làm có hiệu quả trong đó
nhiều đối tượng vay thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, người nghèo.
Trước đây việc thực thi các chính sách ưu đãi tín dụng còn nhiều khó khăn do
có nhiều chính sách chồng chéo trên cùng một đối tượng, chính sách tín dụng
chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay. Trong thời gian gần đây tỉnh đã
khắc phục những vấn đề này, tạo điều kiện gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ
đầu vào tiếp cận thị trường để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Công tác đào tạo
nghề, đặc biệt là đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các doanh
nghiệp và tăng cường cơ hội cho các nhóm lao động dễ bị tổn thương có việc
làm ngày càng được chú trọng. Thực hiện các chính sách hỗ trợ về học bổng
cho các nhóm đối tượng thuộc diện chính sách, chính sách về dạy nghề đối với
học sinh dân tộc thiểu số. Trên cơ sở các đề án về dạy nghề và tạo việc làm của
chính phủ, tỉnh đã xây dựng đề án tạo việc làm cho thanh niên giai đoạn 2013 -
2017 và đề án trợ giúp người khuyết tật đến năm 2020. Tỉnh cũng đã tổ chức
sàn giao dịch việc làm và hoạt động có hiệu quả, trong đó có nội dung tuyển
dụng việc làm cho NKT và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.
Một hình thức hoạt động tài trợ xã hội khác mà tỉnh Hà Tĩnh cũng rất
chú trọng là hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế. Tỉnh đã thực hiện hỗ trợ
39
toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối với NKT, nhờ áp dụng
chính sách này đã góp phần vào thực hiện mục tiêu công bằng xã hội dựa trên
việc xây dựng một cơ chế bảo đảm tài chính y tế mang tính xã hội cao.
Tỉnh cũng đã xây dựng nhiều mô hình trợ giúp xã hội phù hợp với nhu
cầu của từng nhóm đối tượng. Phát động phong trào xã hội hóa chăm sóc đối
tượng để khắc phục một phần nguồn lực còn hạn chế từ ngân sách. Hiện
toàn tỉnh có 3 trung tâm bảo trợ xã hội công lập trực thuộc Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội. Trong đó có 01 trung tâm nuôi dưỡng NKT. Các
chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng được đảm bảo, với mức hưởng: 1.210.000
đồng - 1.350.000/ người/tháng, cao hơn so với mức quy định tại Nghị định
số 136/2013/NĐ-CP (từ 810.000đ - 1.350.000đ). Hàng năm các đơn vị đã
vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước và ngoài nước tài
trợ cải thiện đời sống cho đối tượng, tăng cường cơ sở vật chất cho trung
tâm. Các đối tượng được chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, trị liệu; được
tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh
có 03 cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập trong đó có 01 trung tâm nuôi
dưỡng trẻ em khuyết tật.
Thường xuyên công tác điều tra, khảo sát, nắm tình hình đối tượng trên
địa bàn dân cư, kịp thời phát hiện đối tượng để đề xuất giải quyết kịp thời,
đúng đối tượng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác LĐTBXH ở cơ sở, công
chức chuyên trách phải được đào tạo đúng trình độ chuyên môn, có tinh thần
trách nhiệm, đồng cảm với đối tượng.
Tạo nguồn lực thực hiện chính sách TGXH ngày càng lớn, sử dụng
có hiệu quả. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa nguồn lực thực hiện các chính
sách TGXH [49].
40
1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thừa Thiên Huế
Việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh cho thấy việc thực hiện
đúng các Nghị định, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thì còn tùy
thuộc vào điều kiện, đặc điểm, nhu cầu, phân bổ của các đối tượng của mỗi
tỉnh để vận dụng, thực hiện các chính sách trợ giúp cho các đối tượng khác
nhau. Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên của
tỉnh Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh từ đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm để tỉnh Thừa Thiên Huế có thể tham khảo và vận dụng như sau:
Thứ nhất, tăng cường vai trò của Nhà nước trong hoạt động trợ giúp xã
hội thường xuyên.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và ngày càng có ảnh hưởng lớn
trong việc hoạch định chính sách, đường lối. Chính sách TGXH thường xuyên
phải mang tính toàn diện, phải có sự thay đổi phù hợp với từng giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội cụ thể. chính sách về TGXH thường xuyên nhằm đảm bảo
công bằng, bảo vệ người dân trước những rủi ro của cuộc sống. Nhà nước
không chỉ đề ra chính sách và trợ giúp mà cần tuyên truyền nâng cao nhận
thức, chỉ ra vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong hoạt động
TGXH thường xuyên.
Thứ hai, phải gắn chính sách TGXH với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn cụ thể:
TGXH được xác định là bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền
kinh tế thị trường hướng vào phát triển con người. Kinh nghiệm của tỉnh
Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh cho thấy, phát triển kinh tế
luôn đi đôi với phát triển chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách
TGXH thường xuyên nói riêng. Việc xây dựng các chính sách TGXH thường
41
xuyên cho các đối tượng yếu thế nhằm ngăn chặn nguy cơ bất ổn về kinh tế -
xã hội. Các bước đẩy mạnh hoạt động TGXH của tỉnh Thừa Thiên Huế cần
phải kịp thời hơn, linh hoạt hơn và hiệu quả hơn nữa, nhằm tường bước tiến
tới toàn dân, không để ai rơi vào nghèo đói.
Thứ ba, đa dạng hóa nguồn lực cho hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên.
Ở Đà Nẵng, nguồn lực thực hiện hoạt động TGXH thường xuyên lớn,
nhiều nguồn lực hỗ trợ cho công tác TGXH thường xuyên. Ngoài nguồn lực
từ ngân sách, thì các nguồn lực khác được huy động tối đa như: nguồn lực từ
các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức từ thiện, nhân
dân, nguồn trợ giúp của các doanh nghiệp, quốc tế và nguồn lực từ chính gia
đình, cá nhân đối tượng. Để đạt được kết quả đó, Đà Nẵng đã làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ đảng viên, của cán
bộ làm công tác trợ giúp xã hội, của mỗi cá nhân trong cộng đồng về công tác
trợ giúp xã hội. Thống nhất ý chí, chiến lược chính sách trong toàn đảng, toàn
dân trong công tác TGXH, luôn nhấn mạnh và nêu cao quan điểm về trợ giúp
xã hội đó là: Trong hoạt động TGXH thường xuyên, trước hết là đề cao trách
nhiệm của cá nhân, trợ giúp của gia đình, cộng đồng sau đó mới đến nhà
nước. Chỉ những người sau khi đã sử dụng hết mọi phương tiện, khả năng tối
đa của bản thân, gia đình, họ hàng nhưng vẫn không vượt qua được hoàn cảnh
khó khăn mới được trợ giúp của cộng đồng, nhà nước.
Thứ tư, cần thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ hỗ trợ cho các
đối tượng yếu thế vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Tại tỉnh Quảng Bình, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh, việc lồng
ghép việc thực hiện chính sách TGXH thường xuyên với các chương trình
phát triển kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia được quan tâm.
42
Ngoài việc trợ giúp xã hội thường xuyên bằng tiền trợ cấp hàng tháng, nâng
mức trợ cấp cao hơn so với mức tối thiểu mà Trung ương quy định, thì Công
tác đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động
của các doanh nghiệp và tăng cường cơ hội cho các nhóm lao động dễ bị tổn
thương, kiếm việc làm, tạo điều kiện gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu
vào tiếp cận thị trường để tăng hiệu quả sử dụng vốn cho các đối tướng chính
sách ngày càng được quan tâm và đem lại hiệu quả to lớn. Ngoài ra, việc xây
dựng nhiều mô hình TGXH phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng.
Phát động phong trào xã hội hóa chăm sóc đối tượng để khắc phục một phần
nguồn lực còn hạn chế từ ngân sách.
43
Tiểu kết chƣơng 1
Chương I đã tập trung nghiên cứu về các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận
của việc hình thành chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trong đó
tập trung làm rõ các khái niệm về người khuyết tật, trợ giúp xã hội, chính sách
trợ giúp xã hội cho người khuyết tật, nội dung của chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật, quy trình thực hiện và vai trò của chính sách trợ giúp xã
hội cho người khuyết tật.
Phần nghiên cứu lý luận đã đưa ra một số khái niệm cơ bản của các tổ
chức, các nhà khoa học trong và ngoài nước, phân tích nội dung của chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật như chính sách giáo dục, y tế, bảo
trợ xã hội, văn hóa, thể dục thể thao, trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, đã khái
quát quy trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật, nhấn
mạnh vai trò thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật.
Như vậy, chương I đã giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của
đề tài đặt ra, đây là cơ sở cho việc đưa ra đánh giá thực trạng ở chương II và
đề ra một số giải pháp thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết
tật giai đoạn tới ở chương III.
44
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO
NGƢỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Thực trạng ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
2.1.1. Số lượng, cơ cấu, độ tuổi, dạng khuyết tật và nguyên nhân khuyết tật
Tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có trên 29.012 người khuyết tật. Số NKT ở
cộng đồng là 28.075 người và ở các cơ sở Bảo trợ xã hội là 937 người. Trong
những năm qua, số lượng người khuyết tật trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng
do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ô nhiễm môi trường và các rủi ro như:
thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh.
Người khuyết tật cũng là nhóm đối tượng được quan tâm và mở
rộng dần trong chính sách TGXH thường xuyên. Năm 2013, số lượng
người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội là 13.187 người. Năm
2014, số lượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội là 19.312
người, đến năm 2015 là 21.364 người, năm 2016 là 23.651 người,
năm 2017 là 29.012 người [47, tr.3].
Bảng 2.1. Số liệu ngƣời khuyết tật và kinh phí trợ giúp trên địa bàn tỉnh
giai đoạn 2013 - 2017
Năm 2013 2014 2015 2016 2017
Số người khuyết 13.187 19.312 21.364 23.651 29.012 tật (người)
Kinh phí 4.078,08 5.853,33 6.475,31 7.141,21 8.793,38 (triệu đồng)
(Nguồn: Báo cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013
- 2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
45
Khuyết tật về vận động là dạng khuyết tật phổ biến nhất với 9.032
người chiếm tỷ lệ 31,1 , sau đó đến dạng khuyết tật thần kinh, tâm thần với
5.902 người chiếm tỷ lệ 20,3 . Sự khác biệt về số lượng dạng khuyết tật cho
thấy bức tranh tổng thể về các dạng khuyết tật trên địa bàn tỉnh, từ đó có các
chương trình, chính sách hỗ trợ phù hợp với từng dạng khuyết tật [44, tr.2].
Biểu đồ 2.1. Số ngƣời khuyết tật ở các dạng khuyết tật năm 2015
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra người khuyết t t năm 2015
của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
Số lượng người khuyết tật chiếm khoảng 2,5 dân số toàn tỉnh, 12.308
người khuyết tật sống ở khu vực thành thị chiếm tỷ lệ 42,42 , 16.704 người
khuyết tật sống ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ 57,58 do vậy họ gặp không
ít khó khăn trong việc đi lại, giao tiếp, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Trong tổng số 29.012 NKT, có 4.674 NKT thuộc hộ nghèo và 2.743 NKT
thuộc hộ cận nghèo.
46
Trình độ học vấn của người khuyết tật nhìn chung còn thấp, phần lớn
học xong bậc tiểu học. Đa số người khuyết tật không thể sống tự lập mà chủ
yếu dựa vào gia đình, người thân, chỉ có khoảng 10 tự tạo được thu nhập.
Người khuyết tật chủ yếu thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chuẩn
nghèo quy định của Chính phủ và do vậy tài sản của họ rất ít, nhất là những
tài sản có giá trị như xe máy, phương tiện nghe, nhìn vì vậy việc tiếp cận
thông tin, thông tin đại chúng rất hạn chế.
Người khuyết tật nói chung đều có nguyện vọng, mong muốn được bảo
vệ, chăm sóc, được khám chữa bệnh, được phẫu thuật chỉnh hình, được trang
cấp hoặc được hỗ trợ các dụng cụ chỉnh hình, xe lăn, xe lắc phục vụ đi lại,
sinh hoạt hằng ngày; mong muốn được đối xử bình đẳng, được hòa nhập thực
sự vào cộng đồng, được góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Thực tế
hiện nay đã có rất nhiều hoạt động thiết thực để giúp đỡ, hỗ trợ người khuyết
tật, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập do nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn huy
động còn hạn chế nên người khuyết tật, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa chưa
được quan tâm đúng mức.
Hiện tại hầu hết người khuyết tật đang sinh sống cùng với gia đình và
nguồn sống của họ cũng dựa vào sự trợ giúp của gia đình và người thân, vì
vậy gia đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng vai trò quan trọng
nhất trong việc trợ giúp NKT khắc phục khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc
sống, hòa nhập với cộng đồng. Vì lý do này mà bên cạnh các chính sách hỗ
trợ trực tiếp cho NKT, cần hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình.
Tỷ lệ NKT trong độ tuổi lao động (từ 16 đến 59 tuổi) khá cao, có
16.371 người chiếm tỷ lệ 56,43 tổng số NKT. Trong khi đó, tỷ lệ này
trong nhóm trẻ em (từ 1 đến dưới 16 tuổi) là 2.789 người chiếm tỷ lệ
9,61 và trong nhóm người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) là 9.852 người
chiếm tỷ lệ 33,96 [51, tr.2].
47
Trong nhóm trẻ em khuyết tật (từ 1 đến dưới 16 tuổi) là 2.789 người
thì trẻ từ 0 đến 6 tuổi có 702 trẻ (288 nữ), chiếm tỷ lệ 2,42 trong tổng số
29.012 NKT.
Biểu đồ 2.2. Độ tuổi ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
năm 2017
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết t t của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017)
Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây: Người
khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện
việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; Người khuyết tật nặng là
người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu
cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật có
thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.
48
Nguyên nhân dẫn tới khuyết tật: Kết quả khảo sát năm 2008 của Ủy ban
về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy: Do bẩm sinh; bệnh tật, suy dinh
dưỡng, các yếu tố di truyền, các bệnh truyền nhiễm, ô nhiễm môi trường, tai
nạn giao thông, lao động và sinh hoạt, hậu quả của chiến tranh (trẻ em khuyết
tật do di chứng chất độc da cam từ ông bà những người trực tiếp bị nhiễm chất
độc da cam trong chiến tranh chống Mỹ, trẻ em khuyết tật do bom mìn còn sót
lại của chiến tranh), biến đổi khí hậu và các nguyên nhân khác. Các nguyên
nhân này phản ánh tố chất con người, cũng như sự chăm sóc ban đầu cho trẻ và
chất lượng dịnh vụ y tế còn khá hạn chế trong việc kiểm soát bệnh tật dẫn đến
tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh cao. Nguyên nhân từ hậu quả chiến tranh cũng khá
cao, không chỉ thế hệ hiện nay mà cả thế hệ mai sau, đặc biệt là nạn nhân của
chất độc da cam/ đi ô xin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.
Trong những năm tới do tai nạn giao thông, tai nạn lao động tăng; ô
nhiễm môi trường càng nghiêm trọng sẽ là các nguyên nhân làm tăng số
lượng và tỷ lệ người khuyết tật. Nguyên nhân do bẩm sinh, bệnh tật và chiến
tranh trước đây chiếm ưu thế sẽ giảm, nguyên nhân do tai nạn giao thông, tai
nạn lao động, ảnh hưởng ô nhiễm môi trường có xu hướng tăng do sự phát
triển mạnh mẽ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Riêng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, qua kết quả điều tra cho thấy gần một
nửa số NKT bị khuyết tật là do bệnh tật. Bẩm sinh là nguyên nhân phổ biến
thứ hai của khuyết tật. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc từ lâu, nhưng hậu quả
của nó để lại vẫn hiện diện rất rõ trong số liệu về khuyết tật; Chiến tranh và
tai nạn lao động, tai nạn giao thông là nguyên nhân thứ ba, thứ tư dẫn đến tình
trạng khuyết tật của NKT [52, tr.2].
49
Biểu đồ 2.3. Nguyên nhân khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
năm 2017
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế
hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
Tổng số người khuyết tật đã được xác định mức độ khuyết tật là 20.890
người, chiếm tỷ lệ 72,00 , trong đó: Đặc biệt nặng: 3.745, tỷ lệ 17,93 ;
Nặng: 15.179, tỷ lệ 72,66 ; Nhẹ: 1.966, tỷ lệ 9,41 ; Có 8.122 người chưa
được xác định dạng tật và mức độ khuyết tật, chiếm tỷ lệ 28,00 [52, tr.2].
Biểu đồ 2.4. Mức độ khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2017
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế
hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
50
2.1.2. Chất lượng cuộc sống và nhu cầu của người khuyết tật
Tại thời điểm điều tra có 10.765 NKT hiện đang làm việc với các loại
hình khác nhau như làm thuê, tự làm ở nhà, làm trong các doanh nghiệp tổ
chức, cơ quan nhà nước. Số NKT còn lại không đi làm với các lý do chính là
do khuyết tật, sức khỏe, còn nhỏ và đang đi học [52, tr.3].
Trong tổng số 29.012 NKT có: 18.695 NKT đang hưởng chính sách trợ
giúp xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, Nghị định số 28/2012/NĐ-
CP; 2.577 NKT hưởng chính sách đối với người có công cách mạng; 1.078
NKT hưởng chế độ lương hưu, bảo hiểm xã hội; Tỷ lệ NKT hưởng chính sách
trợ giúp xã hội cao hơn so với các chính sách khác thể hiện mức độ bao phủ,
phù hợp của chính sách này trong việc trợ giúp các đối tượng yếu thế nói
chung, người khuyết tật nói riêng [52, tr.3].
Biểu đồ 2.5. Chính sách ngƣời khuyết tật đang hƣởng trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế năm 2017
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế
hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
51
Có 12.738 NKT có nhu cầu, nguyện vọng được trợ giúp xã hội; 1.532
NKT cần trợ giúp về học nghề, việc làm, 2.562 NKT có nhu cầu trợ giúp về y
tế, 393 NKT có nhu cầu trợ giúp về học văn hóa và 11.787 NKT có nhu cầu
trợ giúp khác. Đây là những nhu cầu, nguyện vọng thực tế đối với người
khuyết tật. Bản thân người khuyết tật rất cần trợ giúp về lĩnh vực y tế để chăm
sóc sức khỏe, phục hồi chức năng. Bên cạnh đó, vấn đề học nghề, việc làm
cũng là yếu tố cần quan tâm để giúp người khuyết tật có điều kiện được làm
việc, tăng thu thập, ổn định cuộc sống hòa nhập cộng đồng [52, tr.4].
Biểu đồ 2.6. Nhu cầu, nguyện vọng của ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế năm 2017
Đơn vị tính: Người
(Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết tật năm 2017 và kế
hoạch năm 2018 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế)
Có 937 người khuyết tật (trong đó nữ: 306 người, chiếm 32,7 )
đang được chăm sóc, nuôi dưỡng và học nghề tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
52
Độ tuổi từ 16 đến dưới 60 tuổi chiếm đa số so với độ tuổi dưới 16 và từ 60
tuổi trở lên [52, tr.5].
Phần lớn người khuyết tật cần được hỗ trợ các chính sách về trợ giúp xã
hội, học nghề và việc làm, y tế. Đây chính là những nhu cầu chính đáng vì
người khuyết tật tại các cơ sở Bảo trợ xã hội chủ yếu xuất thân từ những gia
đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo. Do đó, cần tăng cường
trợ giúp, hỗ trợ các chính sách trên cho nhóm đối tượng này.
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
Thực hiện Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12, Quyết định
số 1100/QĐ-TTg ngày 21/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết
tật; Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ
về việc Phê duyệt Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm
thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020; Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Sở, ban, ngành, đoàn
thể, các địa phương tham mưu UBND tỉnh đã ban hành các văn bản sau: Kế
hoạch số 93/KH-UBND ngày 16/11/ 2012 của UBND tỉnh về việc triển khai
Đề án trợ giúp người khuyết tật tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2012-2020;
Kế hoạch số 144/KH-UBND ngày 20/9/2016 của UBND tỉnh về thực hiện
Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế; Kế hoạch số 37/KH-UBND ngày 14/3/2016 của UBND tỉnh
Thực hiện Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần,
người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng, giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định
số 2792/QĐ-UBND của UBND tỉnh về việc thành lập Ban Công tác Người
khuyết tật tỉnh.
53
Trên cơ sở các Kế hoạch của UBND tỉnh, các Sở, ban ngành tùy theo
chức năng, nhiệm vụ hàng năm đều ban hành Kế hoạch hoạt động theo lĩnh vực
phụ trách như: Sở Tư pháp ban hành Kế hoạch trợ giúp pháp lý cho người
khuyết tật, Sở Lao động - TB&XH ban hành Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật.
Công tác tuyên truyền về các chính sách, đề án, chương trình trợ giúp
người khuyết tật đã được các Sở, ngành, đơn vị, tổ chức có liên quan triển
khai bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng: đặc biệt là hình thức phổ biến,
tuyên truyền thông qua các hình thức như tập huấn, hội nghị, hội thảo nhằm
góp phần đảm bảo thực hiện quyền của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh nhà.
Ngoài ra, trong khuôn khổ dự án Hỗ trợ người khuyết tật tỉnh Thừa
Thiên Huế giai đoạn 2015-2018, Trung tâm ACDC phối hợp với Ban Quản lý
dự án hỗ trợ người khuyết tật tỉnh, Hội Người khuyết tật tỉnh tổ chức 09 lớp
tập huấn về chính sách pháp luật, giới và bình đẳng giới liên quan đến người
khuyết tật cho hơn 630 NKT, gia đình NKT trên địa bàn tỉnh. Qua đó, góp
phần tuyên truyền, phổ biến các chính sách đến với NKT, gia đình NKT.
Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế như sau:
2.2.1. Chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng
Tình hình cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người khuyết tật: 100 người
khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo, người khuyết tật đang hưởng chế độ bảo
trợ xã hội tại cộng đồng được cấp thẻ bảo hiểm y tế; thực hiện chỉnh hình
phục hồi chức năng và được cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí, các phương
tiện trợ giúp như: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên hàng ngàn người.
Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa
bệnh và tư vấn phù hợp đối với người khuyết tật. Đặc biệt, ưu tiên cho người
khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật, người
54
cao tuổi khuyết tật, phụ nữ khuyết tật có thai theo quy định của pháp luật về
khám bệnh, chữa bệnh.
Kết quả thực hiện việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình
phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng: Chương trình phục hồi chức năng
dựa vào cộng đồng đã được triển khai ở 152/152 xã, phường, thị trấn, đảm
bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh tối thiểu cho người dân và NKT. 100
số trạm y tế xã có phân công cán bộ y tế phụ trách công tác phục hồi chức
năng; 100 bệnh viện huyện có tổ chức phục hồi chức năng (khoa, phòng, tổ
phục hồi chức năng); 100 bệnh viện đa khoa tỉnh thành lập khoa phục hồi
chức năng và có 01 bệnh viện phục hồi chức năng [47].
Kết quả hỗ trợ công cụ, dụng cụ cho NKT (xe lăn, xe lắc, máy trợ thính):
Thông qua các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật, từ năm 2013 đến năm
2017, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh đã hỗ trợ, cung cấp 1.621
xe lăn, xe lắc, xe đạp, dụng cụ hỗ trợ khác cho NKT với số tiền gần 2,7 tỷ
đồng. Bệnh viện phục hồi chức năng tỉnh hỗ trợ hơn 400 dụng cụ (xe lăn, xe
đẩy, ghế góc, ghế dùng cho trẻ bại não, ghế tắm, ghế vệ sinh; dụng cụ khác
như nạng, khung tập đi) cho người khuyết tật có nhu cầu [47].
Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về chăm
sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật và phục hồi chức năng:
100 các cơ sở phục hồi chức năng có hoạt động tuyên truyền về phòng ngừa
khuyết tật, về phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng;
đội ngũ cộng tác viên y tế thôn/bản đều được tham gia tập huấn về "kỹ năng
cơ bản phục hồi chức năng" góp phần nâng cao nhận thức về việc chăm sóc
sức khỏe cho NKT. Công tác phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã và
đang được triển khai, duy trì tại cấp xã.
55
Tuy nhiên, người khuyết tật vẫn còn nhiều khó khăn trong tiếp cận
các dịch vụ y tế, nhất là người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều
kiện đi lại không thuận tiện; Phần lớn hộ gia đình có người khuyết tật có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế bị hạn chế,
đặc biệt là tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao do những chi phí ngoài điều
trị (chi phí đi lại, chăm sóc, ăn ở, thuốc men) vượt quá khả năng tài chính
của người khuyết tật và hộ gia đình có người khuyết tật; bên cạnh đó những
thủ tục, quy định đối với việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi chuyển tuyến
còn phức tạp với đa số người khuyết tật; Các mô hình phục hồi chức năng
dựa vào cộng đồng mặc dù được triển khai nhưng cho đến nay chủ yếu
thực hiện các hoạt động trong phạm vi của lĩnh vực y tế, sự tham gia của
các ngành khác còn hạn chế.
2.2.2. Hỗ trợ Giáo dục - Đào tạo
Khoản 3, Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nhà nước ưu
tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng,
phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được
học văn hóa và học nghề” [42]. Nhà nước và xã hội luôn tạo điều kiện cho
trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp bằng việc quy
định chính sách học phí, học bổng phù hợp cho NKT. Trên cơ sở đó tại
Điều 27, Luật Người khuyết tật đưa ra những quyền cơ bản về giáo dục đối
với NKT, cụ thể là:
“1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết t t được học t p phù hợp
với nhu cầu và khả năng của người khuyết t t.
2. Người khuyết t t được nh p học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi
quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được
miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả
56
năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí
đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương
tiện, đồ dùng học t p.
3. Người khuyết t t được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học t p
dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết t t nghe, nói được học
bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết t t nhìn được học bằng chữ nổi Braille
theo chuẩn quốc gia” [40].
* Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật
- Phương thức giáo dục trẻ em khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập,
giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.
- Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với trẻ em
khuyết tật.
Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện
trong trường hợp chưa đủ điều kiện để trẻ em khuyết tật học tập theo phương
thức giáo dục hòa nhập.
- NKT, cha, mẹ hoặc người giám hộ NKT lựa chọn phương thức giáo
dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân trẻ em khuyết tật. Gia đình có trách
nhiệm tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để NKT được học tập và phát triển
theo khả năng của cá nhân. Nhà nước khuyến khích NKT tham gia học tập
theo phương thức giáo dục hòa nhập.
Theo đó, việc triển khai các phương thức giáo dục đối với người khuyết
tật: Sở Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện nghiêm chỉnh việc tiếp nhận học
sinh khuyết tật vào học trong các trường công lập ở tất cả các bậc học, cấp
học theo phương thức giáo dục hòa nhập. Số lượng học sinh là người khuyết
tật tham gia các cấp học (Mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông) trong năm học 2013-2017 là 876 người.
57
Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với NKT tham gia giáo dục hòa nhập.
Địa phương đã thực hiện: Người khuyết tật được nhập học ở độ cao
hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong
tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt dộng
giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; thực hiện đúng các quy
định về miễn giảm học phí, cấp học bổng và hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học
tập cho người khuyết tật theo quy định.
Hiện trên địa bàn tỉnh có 02 trường tiểu học có tổ chức lớp học chuyên
biệt dành cho học sinh khuyết tật như học sinh khuyết tật nghe, nói và nhìn
học tại trường tiểu học Vĩnh Ninh; học sinh khuyết tật trí tuệ học tại trường
tiểu học Thuận Thành [47].
Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên dạy học ở các lớp có học sinh khuyết tật
chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ cũng như phương pháp giảng dạy đối với
học sinh khuyết tật, đa số chỉ dừng lại ở mức độ quan tâm của giáo viên;
Phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị dạy học phù hợp đối với các dạng khuyết
tật của học sinh chưa có hoặc chưa đảm bảo đầy đủ; Nhận thức của người
khuyết tật và gia đình người khuyết tật về giáo dục cho người khuyết tật còn
chưa đầy đủ, không nhìn nhận đúng lợi ích của giáo dục đối với người khuyết
tật; Thiếu cơ sở giáo dục chuyên biệt cho trẻ khuyết tật, đồng thời các cơ sở
phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, do vậy không thể
đáp ứng được nhu cầu học tập của trẻ khuyết tật theo vùng, miền.
2.2.3. Dạy nghề và việc làm
Luật Người khuyết tật năm 2010 đã quy định quyền được làm việc của
tất cả người khuyết tật. Tại Khoản 3, Điều 5 luật người khuyết tật 2010 nêu rõ
chính sách của nhà nước về người khuyết tật trong đó khẳng định “nhà nước
bảo trợ xã hội, trợ giúp người khuyết t t trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
dạy nghề, việc làm” [40].
58
Nội dung chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao
động khuyết tật bao gồm một số quy định cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định về quyền được có việc làm việc của người lao động
khuyết t t.
Việc làm cho người khuyết tật được cả Liên hợp quốc và Tổ chức Lao
động quốc tế đặc biệt quan tâm. Liên hợp quốc quy định: các quốc gia phải
công nhận quyền được làm việc của người khuyết tật, bằng cách thực thi
những bước phù hợp, bao gồm cả các biện pháp luật pháp [5, tr.16]. Tổ chức
Lao động quốc tế hướng dẫn thúc đẩy cơ hội việc làm bình đẳng cho người
khuyết tật không bao gồm việc ngăn cấm phân biệt đối xử vì lý do khuyết
tật. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp Quốc về quyền
của người khuyết tật.
Bộ luật Lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
sửa đổi, bổ sung năm 2012 khẳng định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao
động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật, có chính sách
khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao
động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật Người
khuyết tật” [41]. Quyền làm việc của lao động khuyết tật là tiền đề tạo ra
cơ hội và động lực cho người khuyết tật tìm kiếm việc làm, có cơ hội
khẳng định bản thân, tự lập trong cuộc sống, tạo ra thu nhập để không
phải dựa dẫm vào gia đình, người thân.
Thứ hai, quy định về chính sách học nghề và việc làm cho người
khuyết t t
Nghị định số 28/2012/NĐ - CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Người khuyết tật đã có những quy định chi tiết về dạy nghề và
việc làm đối với người khuyết tật. Theo đó, Nhà nước đảm bảo, tạo điều kiện
tối đa cho người khuyết tật được lựa chọn, tư vấn và học nghề, làm việc theo
59
khả năng, sức khỏe của mình; cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề phải đảm bảo
điều kiện dạy nghề; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, không được từ
chối tuyển dụng những người lao động khuyết tật có đủ tiêu chuẩn [14].
Thứ ba, quy định về cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh
Học nghề và việc làm cho người khuyết tật luôn là vấn đề được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Bộ luật Lao động tại khoản 2 Điều 176
quy định: “Chính phủ quy định chính sách cho vay vốn ưu đãi từ Quỹ
quốc gia về việc làm đối với người sử dụng lao động sử dụng lao động là
người khuyết tật” [41]. Đối với cơ sở dạy nghề, tổ chức dạy nghề cho
người khuyết tật thì phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật
và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật; cơ sở sản
xuất, kinh doanh sử dụng từ 30 tổng số lao động trở lên là người khuyết
tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người
khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi
suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho
thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt
nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật,
mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh [45, tr.3]. Đây là
những quy định ưu đãi góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất, cải thiện môi trường làm
việc để người khuyết tật tiếp cận với công việc.
Thứ tư, quy định về quỹ việc làm cho người khuyết t t
Với mục đích giúp đỡ người khuyết tật học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ
cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật;
hỗ trợ các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhân người
khuyết tật vào học nghề và làm việc đạt tỷ lệ cao thì quy định về thành lập và
60
sử dụng quỹ việc làm cho NKT là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Luật
Người khuyết tật năm 2010, tại Điều 10 quy định về quỹ trợ giúp người
khuyết tật. Theo đó, quỹ này là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực
trợ giúp NKT và quỹ này được hình thành từ các nguồn như: đóng góp tự
nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; hỗ trợ từ ngân
sách nhà nước; các khoản thu hợp pháp khác [40]. Tuy nhiên, thực tiễn thực
hiện nguồn quỹ này vẫn đang còn nhiều bất cập.
Tại Thừa Thiên Huế, qua đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
đề án trợ giúp người khuyết tật 2012- 2020, đã tư vấn và đào tạo nghề cho
327 NKT, trong đó có 283 người được đào tạo trình độ Sơ cấp nghề, còn lại
được học nghề dưới 3 tháng. Đồng thời, qua nguồn vốn của Quỹ Quốc gia về
việc làm, đã giải ngân cho vay 44 dự án, qua đó đã tạo việc làm thường xuyên
cho 497 lao động khuyết tật [47, tr.4].
Ngoài ra, thông qua các chính sách hỗ trợ của Trung ương và địa
phương; các cơ sở dạy nghề và tạo việc làm cho NKT (Trung tâm Dạy
nghề và tạo việc làm cho người tàn tật tỉnh, Trung tâm dạy nghề và giải
quyết việc làm cho người khuyết tật Hy vọng) hàng năm đào tạo và dạy
nghề cho hàng trăm người khuyết tật với các nghề chủ yếu như may mặc,
dệt vải, thủ công mỹ nghệ, sữa chữa xe máy, điện tử. Không chỉ đào tạo
nghề cho các em, các Trung tâm, Cơ sở dạy nghề luôn cố gắng tìm việc
làm cho các em, giúp các em ổn định cuộc sống. Không những giới thiệu
việc làm cho NKT, các cơ sở này còn đứng ra nhận hợp đồng gia công sản
phẩm với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tạo việc làm cho những
lao động không xin được việc làm. Kết quả, từ năm 2013 đến nay, các
Trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho NKT đã tổ chức đào tạo nghề cho
1.792 NKT; giới thiệu việc làm cho 927 người [47, tr.4].
61
Bên cạnh đó, Trung tâm Dạy nghề tạo việc làm cho người mù
(thuộc Hội người mù tỉnh) đã đào tạo nghề cho người mù với những
ngành nghề như: Xoa bóp phục hồi sức khỏe, ngành nghề tiểu thủ công
như đan lát, làm chổi đót, sản xuất tăm tre, hương trầm, ngành nghề chăn
nuôi gia súc, gia cầm. Kết quả từ năm 2013 đến 2017: mở 24 lớp cho 414
học viên là người mù với tổng kinh phí 1,1 tỷ từ nguồn kinh phí đào tạo
nghề lao động nông thôn, kinh phí chương trình dạy nghề của Trung ương
hội và kinh phí tài trợ khác [47, tr.5].
Hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm: Trong giai đoạn 2013-2017, người
mù vay vốn với tổng số tiền 7,958 tỷ đồng gồm 117 dự án với 874 lượt người vay.
Hiện nay, tỉnh hội đang quản lý 3,191 tỷ gồm 42 dự án cho 317 người vay. Ngoài
ra, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh đã hỗ trợ cho 183 trường hợp NKT
vay vốn với số tiền 402 triệu đồng [47, tr.5].
Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng
quan tâm tới công tác dạy nghề và tạo việc làm cho NKT song số lượng
người được học nghề còn quá ít, tỷ lệ tìm được việc làm sau đào tạo nghề
còn rất thấp và chủ yếu là tự tạo việc làm, trong các tổ chức cơ sở mang
tính nhân đạo, từ thiện, số có thể tìm được việc làm trong các doanh nghiệp
lớn hầu như không đáng kể. Vì vậy, thu nhập của NKT cũng tương đối
thấp, không ổn định.
Mặt bằng trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật của NKT thấp và hạn
chế, công thêm những rào cản xã hội như thái độ phân biệt, e ngại về chất
lượng lao động, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị không phù hợp
cũng là yếu tố hạn chế cơ hội việc làm của NKT. Một số NKT có trình độ
song lại thiếu tự tin nên ảnh hưởng tới vấn đề việc làm.
62
Dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NKT tập trung chủ yếu ở khâu dạy nghề và
giới thiệu việc làm, trong khi khâu tư vấn nghề, hỗ trợ tại nơi làm việc, tạo ra
các điều chỉnh hợp lý tại nơi làm việc còn hạn chế.
Vẫn còn nhiều cơ quan, doanh nghiệp chưa thật sự muốn sử dụng NKT.
Thiếu số liệu thống kê chính thức về tỷ lệ người khuyết tật có việc làm,
tỷ lệ có việc làm sau học nghề, tỷ lệ duy trì được việc làm sau 3 tháng.
2.2.4. Văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật
được hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, giảm giá vé và giá dịch vụ
khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch theo
quy định của Chính phủ.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho người khuyết tật phát triển tài
năng, năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao; tham gia sáng tác, biểu
diễn nghệ thuật, tập luyện, thi đấu thể thao.
Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ,
trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan,
tổ chức, cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ
hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người
khuyết tật.
Thực hiện chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật, ngành
văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh đã thực hiện lồng ghép các hoạt động để
nâng cao đời sống tinh thần, hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và
du lịch cho người khuyết tật ở cộng đồng.
63
Kết quả đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện:
Du lịch: Theo các tiêu chí tại Bộ Tiêu chuẩn quốc gia "TCVN
4391:2009" về phân loại, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch yêu cầu: Các cơ sở
lưu trú du lịch từ 1 đến 5 sao phải có đường xe lăn, xe đẩy của người khuyết
tật. Các cơ sở lưu trú du lịch từ 4 đến 5 sao có buồng ngủ dành cho người
khuyết tật đi xe lăn, xe đẩy. Phần lớn các khách sạn 3 sao trở lên trên địa bàn
tỉnh đều có đường xe lăn, xe đẩy cho người khuyết tật (26 cơ sở); Khách sạn 4
sao trở lên có buồng ngủ dành cho người khuyết tật đi xe lăn, xe đẩy (17 cơ sở).
Thể dục, thể thao: Tỉnh Thừa Thiên Huế đã đăng cai tổ chức thành
công Hội thi văn nghệ thể thao người khuyết tật toàn quốc ; Đầu tư cơ sở
vật chất như: sân vận động, bể bơi, nhà thi đấu dành riêng cho người
khuyết tật. Có chính sách ưu tiên người khuyết tật tham gia tập luyện các
cơ sở thể dục thể thao ; Thành lập các câu lạc bộ thể dục thể thao như: Cờ,
bóng đá, cầu lông, bóng bàn, bơi dành cho người khuyết tật; Phối hợp liên
đoàn Bóng đá Na Uy thành lập câu lạc bộ bóng đá cho các em khuyết tật
tại các cơ sở Bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh; Hàng năm, Sở văn hóa, thể
thao và du lịch phối hợp với Sở Lao động - TB&XH, Hội Người khuyết tật
tỉnh tổ chức tập luyện cho các vận động viên điền kinh, cử tạ, bơi, cầu
lông, bóng bàn để tham gia Hội thi thể thao Người khuyết tật toàn quốc;
Phối hợp tổ chức ParaOlympic tổ chức các giải thể thao cho các em khuyết
tật thiểu năng trí tuệ.
Kết quả miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí và du
lịch theo quy định của Luật người khuyết tật và văn bản hướng dẫn thi hành
Luật được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Tất cả các đơn vị trực thuộc ngành
đều được quán triệt thực hiện việc quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho
người khuyết tật khi tham quan, sử dụng dịch vụ tại bảo tàng, nhà trưng bày
nghệ thuật, thư viện, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao và du lịch [47, tr.6].
64
Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ chuyên
môn hiện nay chưa đảm bảo nên việc phục vụ nhu cầu của người khuyết tật
khi tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch gặp nhiều khó
khăn; Hạ tầng cơ sở thể dục thể thao (kể cả sân bãi cho đến các trang thiết
bị chuyên dùng cho người khuyết tật còn thiếu, không đồng bộ và chưa phù
hợp cho người khuyết tật tập luyện) hầu hết đều chưa có để phục vụ cho
người khuyết tật đến tham gia tập luyện; Phần lớn các công trình văn hóa
như: rạp chiếu phim, nhà hát, thư viện rất khó cho người khuyết tật tiếp cận
vì không được thiết kế phù hợp với người khuyết tật (ví dụ: không có lối
vào cho người khuyết tật); Các cấp chính quyền có nơi, có lúc còn chưa
quan tâm thích đáng đến vấn đề văn hoá, thể dục thể thao của người khuyết
tật; Các sản phẩm, dịch vụ văn hóa thiếu khả năng tiếp cận cho người
khuyết tật. Ví dụ, người điếc, người mù không thể hoặc rất khó khăn trong
việc xem tivi, phim ảnh, báo chí.
2.2.5. Tiếp cận các công trình công cộng, giao thông
* Ưu tiên khi mua vé, sắp xếp chỗ ngồi:
- Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng phương tiện giao
thông công cộng được ưu tiên mua vé tại cửa bán vé; được sử dụng chỗ ngồi
dành cho các đối tượng ưu tiên.
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh vận tải hành khách công cộng có trách
nhiệm trợ giúp, hướng dẫn, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện cho người khuyết tật;
hỗ trợ người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng khi lên, xuống
phương tiện và sắp xếp hành lý khi cần thiết.
* Thực hiện miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ cho người khuyết tật khi
tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng:
- Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng khi tham gia
giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng được miễn, giảm giá vé
theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
65
- Mức giảm giá vé, giá dịch vụ cho người khuyết tật do tổ chức, cá
nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông
công cộng tự xây dựng và công bố thực hiện nhưng không thấp hơn mức giảm
giá vé quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
- Người khuyết tật sử dụng xe lăn thông dụng không gắn động cơ hoặc
sử dụng các dụng cụ cầm tay để phục vụ việc đi lại của bản thân thì được
miễn cước hành lý đối với xe lăn, dụng cụ đó khi tham gia giao thông bằng
phương tiện giao thông công cộng.
- Người khuyết tật đồng thời thuộc đối tượng được giảm giá vé, giá
dịch vụ theo các chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một mức giảm giá vé
cao nhất.
- Tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh vận tải hành khách bằng
phương tiện giao thông công cộng có trách nhiệm bố trí thiết bị, công cụ và
nhân viên để trợ giúp người khuyết tật lên, xuống phương tiện được thuận
tiện. Phương án trợ giúp này phải được thông báo ở những nơi dễ nhận biết
tại các bến, nhà ga để người khuyết tật tiếp cận, sử dụng.
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân quản lý, kinh doanh điểm dừng, đỗ,
bến, nhà ga; kinh doanh vận tải hành khách bằng phương tiện giao thông công
cộng tổ chức bộ phận, cổng thông tin để tiếp nhận phản ảnh, hướng dẫn, trả
lời và trợ giúp người khuyết tật tham gia giao thông bằng phương tiện giao
thông công cộng.
Kết quả thực hiện việc miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ giao thông công
cộng: Đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng khi tham
gia giao thông bằng các phương tiện công cộng như xe buýt đều được xem xét
giảm, miễn giá vé, giá dịch vụ. Ngoài ra, NKT đặc biệt nặng, NKT nặng khi
tham gia giao thông trên các tuyến vận tải nội địa bằng các phương tiện máy
66
bay, tàu hỏa, tàu điện, tàu thủy, xe ô tô vận tải khách theo tuyến cố định đều
được xem xét giảm giá vé theo quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
Kết quả thực hiện lộ trình cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng:
Một số công trình xây dựng công cộng đã được cải tạo để tăng khả năng tiếp
cận cho người khuyết tật như Ga Huế, các khách sạn, trụ sở các cơ quan. Điều
này, bước đầu đã tạo ra cơ hội cho người khuyết tật tham gia vào các hoạt
động xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập
cộng đồng [47, tr.7].
Tuy nhiên, hạ tầng cơ sở giao thông của tỉnh nhà còn nhiều bất cập,
hệ thống đường xá còn thiếu, chưa đồng bộ; phương tiện giao thông còn
thiếu, chưa bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn. Sự chỉ đạo chưa triệt để, nhất
quán của các cấp quản lý, chưa chỉ đạo sát sao các cơ quan chuyên môn khi
thẩm định, cấp phép các công trình xây dựng. Thiếu chế tài xử phạt khi
không tuân thủ các quy định trong quy chuẩn cũng như các văn bản pháp
quy có liên quan trong quá trình đầu tư xây dựng mới, cải tạo hoặc nâng
cấp các công trình xây dựng.
2.2.6. Công nghệ thông tin và truyền thông
Những năm gần đây Đài truyền hình Việt Nam tại Huế thường có một số
chương trình đặc biệt, chẳng hạn như chương trình “Cuộc sống vẫn tươi đẹp” với
nhiều nội dung phong phú liên quan đến NKT. Gương người tốt, việc tốt điển
hình về sự vượt khó vươn lên của NKT ở mọi miền đất nước và những thông tin
liên quan đến họ (ví dụ như khoá học về công nghệ thông tin đối với NKT đang
diễn ra) đã được chuyển tải đến người xem nhằm giúp cộng đồng hiểu rõ hơn về
NKT đồng thời cũng cổ vũ, động viên và tiếp thêm sức mạnh cho những NKT.
Đặc biệt, Đài truyền hình Việt Nam tại Huế đã thường xuyên phát chương trình
thời sự dành cho người khiếm thính trên sóng HVTV. Ngoài hình ảnh và lời của
67
phát thanh viên, hình ảnh của người sử dụng ngôn ngữ ký hiệu bằng tay, trên màn
hình tivi còn có thêm dòng phụ đề để những người khiếm thính có thể theo dõi
được. Đây chính là bản tin thời sự phát trên sóng HVTV lúc 19 giờ hàng ngày
nhưng nội dung đã được biên tập ngắn gọn hơn cho phù hợp với sự truyền tải số
lượng chữ trong giới hạn nhất định cũng như phù hợp với mức độ tiếp nhận của
người khiếm thính.
Tỉnh Thừa Thiên Huế khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật.
Đài truyền hình Việt Nam tại Huế và Đài phát thanh truyền hình tỉnh
Thừa Thiên Huế có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ
đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định
của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với
lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và
cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ
thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu
in chữ nổi Braille dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người
khuyết tật nghe, nói và người khuyết tật trí tuệ.
Với việc quy định biện pháp khuyến khích và trách nhiệm, nghĩa vụ
của các chủ thể khác nhau, trong đó có việc khuyến khích chính bản thân
NKT cũng như đề ra hoạt động và biện pháp để đạt được những chỉ tiêu cụ
thể mang tính ngắn hạn cho các giai đoạn phát triển khác nhau, pháp luật về
cơ bản đã tạo dựng được hành lang pháp lý tương đối đầy đủ nhằm đảm bảo
quyền luật định trong việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông của
NKT. Dù vậy, để đạt được hiệu quả điều chỉnh cao hơn, nhằm thúc đẩy việc
tiếp cận lĩnh vực hiện đại này của NKT mạnh mẽ hơn, một số quy định pháp
68
luật cần sớm được hướng dẫn chi tiết, cụ thể, từ đó góp phần mở rộng thêm
cánh cửa hội nhập cộng đồng đối với bộ phận cư dân này.
2.2.7. Bảo trợ xã hội
* Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
- Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định
- Người khuyết tật nặng
* Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
- Gia đình có NKT đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
trẻ em đó.
- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng.
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng
tháng đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ
quy định.
* Nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội
- Người khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo
được cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội.
- Nhà nước cấp kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật t h e o quy
định cho các cơ sở bảo trợ xã hội.
* Chính phủ quy định điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở
chăm sóc người khuyết tật.
* Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động cho cơ
sở chăm sóc người khuyết tật công lập.
* Xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật
- Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về
tài chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng,
chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp
người khuyết tật.
69
- Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức
năng, chăm sóc, giáo dục, hướng nghiệp hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ
giúp NKT được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định.
- Nhà nước hỗ trợ hoạt động thiết kế, chế tạo và sản xuất dụng cụ,
trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao; khuyến khích cơ quan,
tổ chức, cá nhân thiết kế, chế tạo, sản xuất dụng cụ, trang thiết bị phục vụ
hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với người
khuyết tật.
- Việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội hàng tháng cho người khuyết
tật được địa phương thực hiện đúng quy định, đảm bảo kịp thời cho đối tượng,
góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho người
khuyết tật. Thực hiện Nghị định số 28/2012/NĐ-CP; Nghị định số 136/2013/NĐ-
CP; Thông tư Liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC, tính đến tháng
12/2017, tổng số người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội là 29.012 đối tượng,
3.444 hộ gia đình, cá nhân trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng người khuyết tật được
hỗ trợ kinh phí chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng [53, tr.2].
- Hơn 900 người khuyết tật đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ
sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh [53, tr.3].
Tuy nhiên, mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn thấp so với mặt bằng
mức sống dân cư, chưa đảm bảo được những nhu cầu sống tối thiểu của người
khuyết tật. Số lượng cơ sở chăm sóc người khuyết tật ít, đa số là các cơ sở
nuôi dưỡng tập trung nhiều loại đối tượng, chưa có cơ sở chăm sóc, nuôi
dưỡng người khuyết tật riêng biệt.
2.2.8. Xác định mức độ khuyết tật
Tổng số NKT 29.012 người, theo số liệu báo cáo của các huyện, thị xã
và thành phố Huế, số người khuyết tật đã được xác định dạng tật và mức độ
70
khuyết tật: 20.890 người; số người khuyết tật chưa được xác định mức độ
khuyết tật: 8.122 người [52, tr.2].
Quy trình, hồ sơ, thủ tục xác định dạng tật, mức độ khuyết tật và cấp
Giấy xác nhận khuyết tật được thực hiện theo đúng quy định.
Tuy nhiên, các thành viên trong Hội đồng xác định mức độ khuyết tật
đa số là cán bộ chủ chốt đang làm việc tại xã, phường, thị trấn công việc rất
bận rộn nên việc Hội đồng tổ chức đánh giá và xác định mức độ khuyết tật
gặp phải trở ngại về thời gian và số lần thực hiện, ảnh hưởng đến quyền lợi
của đối tượng; Một số tiêu chí, dấu hiệu trong các biểu mẫu, phiếu đánh giá
dạng tật và mức độ khuyết tật chưa rõ ràng, cụ thể nên việc đánh giá, cho
điểm gặp phải nhiều khó khăn; Sự thiếu thống nhất giữa các địa phương
trong việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng cấp xã thực hiện, dẫn
đến thắc mắc của người khuyết tật, thân nhân người khuyết tật. Chẳng hạn,
cùng một dạng khuyết tật (như người mù hoàn toàn 2 mắt) nhưng mỗi địa
phương xác định mức độ khác nhau; Những trường hợp chuyển Hội đồng
Giám định y khoa thực hiện, biên bản kết luận có tỷ lệ mất sức lao động (tỷ
lệ tổn thương) khá cao nhưng kết luận chưa tương xứng với mức độ khuyết
tật dẫn đến người khuyết tật thắc mắc; Công tác tuyên truyền còn hạn chế,
nên chỉ những người khuyết tật đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hàng
tháng mới đề nghị Hội đồng cấp xã xác định dạng và mức độ khuyết tật, còn
lại người khuyết tật nhẹ, các đối tượng khác (những người hưởng trợ cấp
theo Pháp lệnh người có công, Luật Bảo hiểm xã hội) chưa làm hồ sơ đề
nghị xác định dạng và mức độ khuyết tật.
2.2.9. Trợ giúp pháp lý
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn ban hành kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật: Trên cơ sở kế hoạch triển
71
khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật các năm 2013,
2014, 2015, 2016, 2017 của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh đã ban hành các Kế
hoạch số: 34/KH-UBND ngày 12/3/2013, 67/KH-UBND ngày 07/6/2014 và
59/KH-UBND ngày 18/5/2015, 87/KH-UBND ngày 06/6/2016, 89/KH-UBND
ngày 21/4/2017, 30/KH-UBND ngày 22/02/2018 về việc triển khai thực hiện
chính sách TGPL cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Kết quả thực hiện TGPL cho người khuyết tật:
Số vụ việc TGPL: Sau 05 năm triển khai thực hiện chính sách TGPL
cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh, Trung tâm TGPL tỉnh đã thực hiện
TGPL 149 vụ việc, trong đó: Dân sự: 24; Hôn nhân gia đình: 21; Đất đai,
nhà ở: 33; Lao động việc làm: 20; Chế độ chính sách: 47; Hành chính: 02;
Các lĩnh vực khác: 02.
Công tác TGPL lưu động: Trung tâm TGPL tỉnh phối hợp với Hội
Người khuyết tật tỉnh và Hội người khuyết tật các huyện xây dựng kế hoạch
và thực hiện khảo sát nhu cầu TGPL tại các huyện: Phong Điền, Quảng Điền,
Phú Lộc và Thị xã Hương Thủy. Trong 05 năm (2013 - 2017), Trung tâm đã
xây dựng và thực hiện 06 Kế hoạch TGPL lưu động, kết quả đã tổ chức TGPL
lưu động cho 16 xã thuộc các huyện Phong Điền và Phú Lộc. Thông qua các
đợt TGPL, Trung tâm TGPL đã lồng ghép phổ biến cho Hội người khuyết tật
các văn bản liên quan đến người khuyết tật như Luật người khuyết tật, Nghị
định số 28/2012/NĐ-CP và tư vấn về các vấn đề hội viên Hội người khuyết
tật quan tâm như: quyền được chăm sóc sức khỏe (khám chữa bệnh, phục hồi
chức năng), trợ cấp xã hội, học nghề và việc làm.
Tuy nhiên, nhiều người khuyết tật chưa biết đến quyền được TGPL hoặc
biết nhưng không có điều kiện tiếp xúc với dịch vụ này do điều kiện khách
quan, họ chỉ sinh hoạt ở môi trường hạn hẹp, giao tiếp ở mức tối thiểu với
72
người xung quanh nên khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về dịch vụ TGPL.
Đa phần người khuyết tật đều có thái độ mặc cảm, thiếu tự tin trước đám đông,
không thể tự mình chủ động tiếp cận với tổ chức thực hiện TGPL khi có nhu
cầu hoặc khi đã tiếp cận thì không thể tự trình bày mà cần phải có người khác
giúp đỡ. Do vậy, phần nào ảnh hưởng đến việc nắm bắt thông tin, tâm tư
nguyện vọng của người yêu cầu TGPL. Người thực hiện TGPL chưa được tập
huấn các kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu trong việc thực hiện TGPL cho người
khuyết tật. Do ngân sách địa phương hạn hẹp, chưa bố trí kinh phí riêng nên
hoạt động TGPL cho người khuyết tật chưa mang tính chuyên sâu. Một số cấp
ủy Đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác TGPL cho người
khuyết tật [47].
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho ngƣời
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
2.3.1. Kết quả đạt được trong thực hiện chính sách
Thứ nhất, các sở, ban, ngành, các địa phương, các cơ quan hữu quan
nghiêm túc triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông
qua năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011; thực hiện Đề án trợ
giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020 như lên kế hoạch, đôn đốc, theo dõi, giám
sát, kiểm tra việc thực hiện, đồng thời lồng ghép các chương trình liên quan
tới NKT theo quy định tại Luật Người khuyết tật.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các chính sách đối với
người khuyết tật một cách có hệ thống, đồng bộ.
Thứ ba, đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
chính sách đối với người khuyết tật.
Công tác tuyên truyền đã được các cơ quan, tổ chức và các địa phương
đặc biệt quan tâm chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt, với vai trò là
73
cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xã hội nói chung và lĩnh vực trẻ em
khuyết tật nói riêng, hàng năm Sở Lao động -Thương binh và xã hội đã hệ
thống các văn bản quy định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp
vụ, tờ rơi, in và phát cho các địa phương.
Các sở, ban, ngành, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể đã tích cực phổ
biến, tuyên truyền Luật người khuyết tật và có những hoạt động cụ thể để
thực hiện các quy định của luật. Sở Y tế đã có công văn gửi Ủy ban Nhân dân
các huyện, thị xã và thành phố Huế đề nghị phối hợp chỉ đạo Phòng Y tế,
Trung tâm Y tế cấp huyện, ngành có liên quan triển khai Luật người khuyết
tật, bố chí ngân sách địa phương để chi cho các hoạt động thực hiện các
nhiệm vụ chính được quy định trong luật như: Chăm sóc sức khỏe cho NKT,
chỉnh hình, phục hồi chức năng, cung cấp dụng cụ y tế trợ giúp NKT (cấp xe
lăn, xe lắc, chân giả, tay giả). Sở Giao thông vận tải, Sở Thông tin và Truyền
thông, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại
Huế và các cơ quan báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương đã tích cực,
chủ động đăng tải, phát các nội dung của luật trên các phương tiện thông tin
đại chúng, các địa chỉ truy cập thông tin mạng nhằm phổ biến đến đông đảo
người dân. Sở Xây dựng, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch, Sở Giáo dục
và Đào tạo đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến luật đến cán bộ,
nhân viên trong ngành và đã có nhiều hoạt động cụ thể để thực hiện các
nhiệm vụ của Bộ mình được quy định trong luật.
Năm 2013, được sự hỗ trợ của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc, Bộ Lao
động- Thương binh và xã hội đã xây dựng khung truyền thông thực hiện Luật
người khuyết tật và Đề án trợ giúp người khuyết tật và trẻ em khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 định hướng các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, cơ
quan, tổ chức theo nhiệm vụ được quy định trong Luật người khuyết tật triển
khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền Luật Người khuyết tật và những
74
chủ trương, chính sách, chương trình trợ giúp trẻ em khuyết tật, đặc biệt là
tuyên truyền về thực hiện Đề án hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012 -
2020. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền
thông thực hiện công tác tuyên truyền về pháp luật và các chính sách đối với
trẻ em khuyết tật. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương triển khai
rất tốt và có hiệu quả Đề án này.
Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng kiến thức chuyên môn qua các khóa tập
huấn cho cán bộ, công chức thực hiện chính sách đối với người khuyết tật.
Nhiều khóa tập huấn về chính sách đối với người khuyết tật, về công
tác chăm sóc, giáo dục người khuyết tật đã được quan tâm thực hiện từ cấp
tỉnh đến cơ sở, góp phần triển khai thực hiện các chế độ chính sách đối với
NKT được quy định trong Luật người khuyết tật. Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội đã tổ chức tập huấn cho Giám đốc, phó giám đốc các cơ sở bảo trợ
xã hội, các Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các huyện, thị
xã và thành phố. Các phòng chuyên môn của Sở tùy theo chức năng nhiệm vụ
đã tổ chức các lớp tập huấn các khóa học về chính sách, quy trình thực hiện
chính sách đối với trẻ khuyết tật, các kỹ năng xây dựng kế hoạch, kỹ năng
thực hiện các đề án, chương trình, kỹ năng đánh giá, tổng kết.
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND các huyện, thị xã và thành phố
Huế thực hiện công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện luật. Ngoài các văn bản
luật, hàng năm các Sở, ban, ngành còn ban hành hàng trăm công văn, quyết
định cá biệt để xử lý và hướng dẫn các địa phương, các tổ chức để xử lý
những vấn đề bức xúc hoặc tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa
các sở, ban, ngành cơ quan cũng đã thực hiện tương đối tốt, đây là điều kiện
quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về NKT.
Tổng hợp thống kê, khảo sát đánh giá thực trạng NKT và tình hình thực
hiện chính sách, giải pháp đã được quan tâm. Hàng năm Sở Lao động -
Thương binh và xã hội đều có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn cấp huyện tổng
75
hợp thống kê về tình hình thực hiện các chế độ chính sách đối với NKT để từ
đó tạo cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với NKT.
Giai đoạn 2013 - 2017, thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày
21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã
hội, chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật vừa tăng cả về số lượng
người được trợ cấp và mức kinh phí được trợ cấp. Năm 2013, Thừa Thiên
Huế có 13.187 NKT hưởng trợ giúp xã hội với kinh phí 4.078,08 triệu đồng
[47, tr.2]. Năm 2017 có 29.012 NKT hưởng trợ giúp xã hội với kinh phí
8.793,38 triệu đồng do có sự điều chỉnh về mức chuẩn trợ cấp theo quy định
tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP [47, tr.2].
Việc Quốc hội phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của
người khuyết tật ngày 28/11/2014, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ và thay đổi
cách nhìn đối với tình trạng khuyết tật là một vấn đề xã hội chứ không phải
là vấn đề y tế và xác lập sự dịch chuyển từ phương thức tiếp cận theo hướng
nhân đạo sang hướng nhân quyền. Ngoài ra, không những thể hiện quyết tâm
và mong muốn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam thực hiện những điều
tốt đẹp nhất, tạo điều kiện tốt nhất cùng với người khuyết tật giải quyết khó
khăn của bản thân họ và các rào cản xã hội, cùng hướng tới một xã hội phát
triển bền vững mà còn thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng
quốc tế về vấn đề NKT.
Trong những năm qua Nhà nước đã ban hành các chế độ chính sách hỗ
trợ người khuyết tật, tạo khung pháp lý về chăm sóc người khuyết tật, xác
định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở cũng
như tạo môi trường thuận lợi cho người khuyết tật được tiếp cận học nghề, tạo
việc làm và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ vậy, đời sống vật chất, tinh thần
của người khuyết tật trong xã hội được cải thiện.
76
Công tác chăm sóc NKT luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền. Người khuyết tật nói riêng, đối tượng bảo trợ xã
hội nói chung luôn nhận được sự hưởng ứng ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện để
NKT vươn lên, hòa nhập cộng đồng. Đặc biệt các cơ sở của Hội có NKT
tham gia trên địa bàn tỉnh đã phát động các phong trào thi đua lập thành tích
chào mừng các ngày lễ lớn với nhiều phong trào hoạt động thiết thực sôi nổi,
kết quả thể hiện các cấp hội cơ sở đã tổ chức tọa đàm, giao lưu văn nghệ, thể
dục thể thao thu hút được mọi hội viên tham gia tạo không khí phấn khởi, hồ
hởi, tinh thần sống vui, sống khỏe, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Các trường học đã phối hợp với chính quyền địa phương và cha mẹ học
sinh để vận động học sinh trong độ tuổi đến trường. Việc huy động trẻ khuyết
tật hoà nhập cộng đồng đã giúp các em xoá dần mặc cảm, giúp các em hoà
nhập vào môi trường sống, biết cách sinh hoạt tập thể, rèn luyện một số kỹ
năng sống nhất định.
Việc thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội được UBND cấp xã tổ
chức thực hiện, trên cơ sở có sự trợ giúp, kiểm tra, giám sát của cấp huyện,
cấp tỉnh.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, việc chi trả cho các đối
tượng hưởng trợ cấp/trợ giúp xã hội do cơ quan dịch vụ Bưu điện thực hiện,
bước đầu có thành quả nhất định và đã chia sẻ một số gánh nặng cho cán bộ
Lao động-TB&XH ở địa phương.
Nhìn chung, chính sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam cũng như ở tỉnh
Thừa Thiên Huế thực hiện có hiệu quả, góp phần bảo đảm an sinh xã hội
cho người dân. Hệ thống trợ giúp xã hội tuy đã hình thành nhưng sẽ dần
hoàn thiện theo cách tiếp cận hệ thống, toàn diện, bao phủ hết đối tượng,
gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội và cuộc sống của
mọi người dân.
77
2.3.2. Hạn chế trong thực hiện chính sách
Một là, nội dung chính sách thay đổi nhiều, đối tượng được mở rộng,
mức trợ cấp tăng lên nhưng nhiều văn bản của trung ương chưa quy định rõ
nên địa phương còn lúng túng.
Hai là, tiến độ thực hiện chính sách đối với NKT của các sở, ngành, địa
phương còn chậm.
Ba là, điều kiện và cơ sở vật chất để thực hiện chính sách còn hạn chế,
chưa đảm bảo trợ giúp tốt cho người khuyết tật.
Hiện nay chưa có cơ sở sản xuất lồng ghép hoặc dành riêng cho người
khuyết tật, ít có nhà tài trợ, doanh nghiệp, công ty nhận đỡ đầu, nhận người
vào làm việc, nguồn sinh sống của người khuyết tật chủ yếu phụ thuộc vào
người thân trong gia đình và họ tộc. Đa số các công trình có kết cấu hạ tầng
giao thông chưa đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về kết cấu hạ tầng
giao thông để người khuyết tật tiếp cận sử dụng, các phương tiện vận tải hành
khách công cộng chưa đáp ứng các quy chuẩn về giao thông tiếp cận. Do đó,
tỷ lệ người khuyết tật tham gia giao thông bằng các phương tiện giao thông
công cộng rất thấp.
Sự quan tâm của một số địa phương trong việc chăm sóc sức khỏe cho
người khuyết tật chưa cao; Các trường không có điều kiện tổ chức cho học
sinh khuyết tật trong việc sinh hoạt như: ăn, ở, phương tiện đi lại; học sinh
gặp nhiều khó khăn khi đến lớp;
Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục hòa nhập: Hầu hết các nhà trường chưa
được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dành riêng cho học sinh khuyết tật,
chưa có không gian tiếp cận và phòng hỗ trợ giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh khuyết tật. Nhìn chung thực hiện giáo dục hòa nhập NKT tại địa phương
còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học hỗ trợ giáo
dục hướng nghiệp cho NKT đã ảnh hưởng đến việc giáo dục cho NKT.
78
Bốn là, chế độ báo cáo, hệ thống thông tin liên quan về người khuyết
tật chưa được các Sở, ban ngành, hội đoàn thể cập nhật chính xác và báo
cáo kịp thời.
Năm là, kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động hỗ trợ NKT từ cấp tỉnh
đến cơ sở chưa thường xuyên.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách
Một là, hệ thống thể chế và chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết
tật chậm được cụ thể hóa, thủ tục rườm rà, phức tạp và mất nhiều thời gian.
Những quy định không còn phù hợp với tình hình đất nước hiện nay, cụ
thể như các thủ tục về chế độ chính sách đối với NKT, thủ tục xin, cấp phép
xây dựng các dự án chăm sóc NKT, các thủ tục về công tác xã hội hóa đối với
cho NKT còn rườm rà, phức tạp và tốn thời gian; hệ thống chỉ tiêu của một số
đề án, chương trình không mang tính thực tiễn, thiếu hệ thống giám sát, đánh
giá hoàn thiện để cung cấp thông tin cho tính toán chi tiêu.
Hai là, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện
chính sách đối với NKT chưa đáp ứng yêu cầu.
Công tác xây dựng các chương trình giám sát, đánh giá, theo dõi thực
hiện chính sách đối với NKT chưa tốt; công tác thực hiện chính sách còn lúng
túng; việc khảo sát, điều tra, phân loại NKT nhẹ, nặng và đặc biệt nặng chưa
chính xác đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong tổ chức triển khai thực
hiện chính sách.
Ba là, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, giữa cấp tỉnh với cơ sở
trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật thiếu chặt chẽ, hài hòa,
không đồng bộ nên hạn chế kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra.
Bốn là, công tác tuyên truyền về chế độ, chính sách đối với NKT chưa
toàn diện và chưa sâu rộng
79
Năm là, nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho việc thực hiện chính
sách đối với NKT còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người khuyết tật.
Sáu là, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội tại một số địa phương về chính sách trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật còn chưa đầy đủ.
80
Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 đã tổng hợp đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Chương
này tập trung phân tích những vấn đề sau:
Chương này tập trung đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong đó
nêu rõ số lượng người khuyết tật, mức độ khuyết tật, nguyên nhân khuyết tật,
thực trạng thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế như chính sách giáo dục, chính sách bảo trợ xã
hội, chính sách y tế, chính sách về văn hóa, thể dục thể thao, chính sách trợ
giúp pháp lý đồng thời phân tích thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã
hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, những tồn tại, bất
cập trong quá trình thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, những nguyên nhân hạn chế.
Kết quả đánh giá của chương II là cơ sở cho việc đề xuất quan điểm,
chủ trương và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
trong giai đoạn tới.
81
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
3.1. Quan điểm và định hƣớng giải quyết vấn đề của ngƣời khuyết tật
3.1.1. Quan điểm về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
Người khuyết tật cũng là những công dân đặc biệt, vì vậy, sự nghiệp
chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn
diện của người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ,
của Nhà nước mà còn của toàn xã hội.
Trong những năm qua, dù tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn song
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn hướng đến việc
tăng cường bảo đảm các quyền cho người khuyết tật. Cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “không
những nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội; chăm lo
đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ
côi” [21]. Hiến pháp 2013 quy định: Nhà nước “có chính sách trợ giúp người
cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn
khác” và “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa
và học nghề” [42]. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục
nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ
nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật” [22], Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nêu quan
điểm xây dựng luật người khuyết tật là phải thể hiện rõ truyền thống thương
người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; thể chế tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ trương của Đảng về người khuyết tật; quy định cụ thể các quyền
82
mà người khuyết tật được hưởng như quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền
được học tập, được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục,
thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền được tiếp cận
thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia các hoạt động xã hội, tạo điều kiện cho
người khuyết tật phát huy năng lực bản thân và thông qua hoạt động xã hội
hóa việc chăm sóc trợ giúp người khuyết tật có cơ hội vươn lên, nhanh chóng
hòa nhập cộng đồng [23]. Năm 2010, Luật người khuyết tật đã chính thức
được ban hành thay thế Pháp lệnh về người khuyết tật năm 2008, Luật người
khuyết tật đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách dành cho người khuyết
tật, ngoài ra, các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách đối với người
khuyết tật còn được nhắc đến trong các bộ luật khác, như Bộ luật Lao động,
Luật Trẻ em.
Về chính sách liên quan đến người khuyết tật, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định 1215/QĐ – TTg, ngày 22/7/2011, Phê duyệt Đề án trợ
giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí
dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020 ; Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày
05/8/2012, phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020;
Như vậy, cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật. Người
khuyết tật đang hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, được
hưởng chính sách quy định tại Luật về người khuyết tật năm 2010. Người
khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách trợ giúp xã hội cùng
loại thì chỉ được hưởng một chính sách trợ giúp cao nhất.
Nội dung chính sách, pháp luật về người khuyết tật gồm:
1/ Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về
người khuyết tật.
83
2/ Phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn
thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật.
3/ Bảo trợ xã hội; trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe,
giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công trình
công cộng và công nghệ thông tin, tham gia giao thông; ưu tiên thực hiện
chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi.
4/ Lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội.
5/ Tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức
năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng.
6/ Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc người
khuyết tật.
7/ Khuyến khích hoạt động trợ giúp người khuyết tật.
8/ Tạo điều kiện để tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người
khuyết tật hoạt động.
9/ Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích, đóng góp trong
việc trợ giúp người khuyết tật.
10/ Xử lý nghiêm minh cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
quy định của Luật về người khuyết tật và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm trước tiên và chủ yếu
trong quá trình tổ chức triển khai, thực hiện các nội dung chính sách, pháp
luật về người khuyết tật. Cụ thể: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
công tác người khuyết tật. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác
người khuyết tật. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã
84
hội thực hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật. Ủy ban nhân dân
các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực
hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật.
Thông qua đó, bảo đảm cho người khuyết tật tham gia bình đẳng vào
các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc
giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp
lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông
tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật
và mức độ khuyết tật; và được thụ hưởng các quyền khác theo quy định của
pháp luật. Và người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy
định của pháp luật.
Đẩy mạnh các hoạt động trợ giúp người khuyết tật hiện nay:
Một là, xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết t t: Nhà nước
khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài chính, kỹ thuật
để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc, giáo
dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết
tật. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức
năng, chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm hoặc cơ sở cung cấp dịch
vụ khác trợ giúp người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa
theo quy định của pháp luật.
Hai là, tiếp tục phát triển các hình thức “Quỹ trợ giúp người khuyết
t t” tại cộng đồng nhằm huy động các nguồn lực từ thiện khác nhau trong
cộng đồng để trợ giúp người khuyết tật.
Ba là, thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật nhằm
phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và
hành vi về vấn đề khuyết tật; chống kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật.
85
Thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật phải bảo đảm chính
xác, rõ ràng, thiết thực; phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội.
Bốn là, giáo dục đối với người khuyết t t: Người khuyết tật được nhập
học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông;
được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội
dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng;
được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét
cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. Người khuyết tật được
cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần
thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người
khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.
Năm là, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú: Trạm y tế cấp xã có
trách nhiệm triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến
thức phổ thông về chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật;
hướng dẫn người khuyết tật phương pháp phòng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe
và phục hồi chức năng; lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật;
khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người khuyết tật.
Sáu là, nuôi dưỡng người khuyết t t trong cơ sở bảo trợ xã hội: Người
khuyết tật đặc biệt nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống
được tiếp nhận vào nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội. Nhà nước cấp kinh
phí nuôi dưỡng người khuyết tật cho các cơ sở bảo trợ xã hội, bao gồm: trợ
cấp nuôi dưỡng hằng tháng; mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt
thường ngày; mua thẻ bảo hiểm y tế; mua thuốc chữa bệnh thông thường;
mua dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng; mai táng khi chết; vệ
sinh cá nhân hằng tháng đối với người khuyết tật là nữ.
Bảy là, dạy nghề đối với người khuyết t t: Nhà nước bảo đảm để người
khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả
năng, năng lực bình đẳng như những người khác. Cơ sở dạy nghề có trách
86
nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật
học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho
người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và
được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Người khuyết tật
học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính
sách theo quy định của pháp luật.
Tám là, việc làm đối với người khuyết t t: Cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu
chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy
định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy
theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi
trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật. Cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ
quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật. Tổ
chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu
việc làm cho người khuyết tật. Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia
đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản
xuất kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ
tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ. Nhà nước khuyến khích cơ
quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được hưởng chính sách ưu
đãi theo quy định tại Điều 34 của Luật về người khuyết tật.
Chín là, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch đối với
người khuyết t t: Người khuyết tật đặc biệt nặng được miễn, người khuyết tật
nặng được giảm giá vé và giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch vụ văn hóa, thể
87
dục, thể thao, giải trí và du lịch theo quy định của Chính phủ. Tổ chức hoạt
động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch của người khuyết tật được
lồng ghép vào đời sống văn hóa cộng đồng, được tổ chức đa dạng về loại
hình, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du
lịch của người khuyết tật. Đại hội thể thao người khuyết tật toàn quốc, giải thi
đấu thể thao, hội thi văn nghệ của người khuyết tật được tổ chức phù hợp với
đặc điểm, nhu cầu của người khuyết tật và điều kiện kinh tế - xã hội.
Mười là, bảo đảm điều kiện tiếp c n đối với người khuyết t t: Nhà
chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công trình
hạ tầng xã hội được xây dựng, phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người
khuyết tật. Chính phủ đặt ra mục tiêu phấn đấu đến ngày 01.01.2025, tất cả
nhà chung cư, trụ sở làm việc, công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công
trình hạ tầng xã hội khác phải bảo đảm điều kiện tiếp cận thuận tiện đối với
người khuyết tật.
Mười một là, tham gia giao thông của người khuyết t t: Phương tiện
giao thông cá nhân của người khuyết tật khi tham gia giao thông phải bảo
đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và phù hợp với điều kiện sức khỏe của
người khuyết tật. Phương tiện giao thông cá nhân đòi hỏi phải có giấy phép
điều khiển thì người khuyết tật được học và cấp giấy phép điều khiển đối với
phương tiện đó. Người khuyết tật khi tham gia giao thông bằng các phương
tiện giao thông công cộng được sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoặc sự trợ
giúp tương ứng; được phép mang theo và miễn phí khi mang phương tiện,
thiết bị hỗ trợ phù hợp. Người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật
nặng được miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng một
số phương tiện giao thông công cộng theo quy định của Chính phủ. Người
khuyết tật được ưu tiên mua vé, được giúp đỡ, sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện khi
sử dụng các phương tiện giao thông công cộng.
88
3.1.2. Định hướng về trợ giúp xã hội cho người khuyết tật
Như những người bình thường khác, để tồn tại, phát triển và có được
những quyền cơ bản, người khuyết tật cần được bảo đảm các nhu cầu cơ bản
như nhu cầu được chăm sóc về thể chất, tinh thần, được học tập; nhu cầu
được bảo vệ; nhu cầu được yêu thương; nhu cầu nhận thức và ý thức về bản
thân; nhu cầu được thể hiện bản thân.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên dành sự
quan tâm, chăm lo đến việc bảo đảm an sinh xã hội đối với người khuyết tật.
Hệ thống chính sách xã hội đối với NKT đã hình thành, Luật về NKT đang
đi vào cuộc sống, công tác giáo dục, bảo vệ chăm sóc NKT đã có những
chuyển biến tích cực. NKT có môi trường xã hội thuận lợi để tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản, họ đã và đang nỗ lực phấn đấu, bền bỉ rèn luyện, tự
tin, vượt qua số phận, vươn lên hòa nhập với cuộc sống, cộng đồng. Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội đã làm tốt công tác bảo trợ NKT và kêu gọi xã
hội hóa công tác này với sự đồng lòng, chia sẻ quý báu, thiết thực của các tổ
chức, cá nhân trong nước cũng như sự cảm thông, trợ giúp có hiệu quả của
nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam luôn đảm bảo thực hiện
quyền của NKT và tạo môi trường bình đẳng và không rào cản tiếp cận cho
NKT; Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc đời sống, giáo dục, y tế, giao
thông, công nghệ thông tin cho NKT. Cùng với đó là cải cách thủ tục hành
chính, tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát, thực hiện chính sách đối với
trẻ em khuyết tật.
Theo kết quả thông kê cho thấy, nhiều NKT được trợ cấp xã hội hàng
tháng, nhiều trường học trong cả nước đã tiếp nhận NKT để hỗ trợ theo hướng
giáo dục hòa nhập, chăm sóc y tế và phục hồi chức năng NKT đã cải thiện đáng
kể, đã mở rộng mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, địa phương
89
nơi NKT sinh sống, NKT đã được giảm giá vé, phí tham gia giao thông công
cộng, các hoạt động văn hóa ở các cơ sở văn hóa, du lịch có thu phí.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI đã định hướng “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở
rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ
cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây
dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác
định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính
sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát
triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến
khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc
người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão.
Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã
hội thường xuyên, trong đó trên 30 là người cao tuổi.
Thực hiện tốt công tác hỗ trợ đột xuất, bảo đảm người dân bị thiệt hại
khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và
phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột
xuất; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng” [24].
Trong thời gian tới, nhiều chủ trương, chính sách đối với NKT được
đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là xây dựng nhiều chương trình, đề án an
sinh xã hội đối với NKT, tiếp tục hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với
NKT, cụ thể là các chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, tiếp cận với các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, các công trình công cộng để NKT
có thể phát huy mọi khả năng của mình, được đầy đủ những quyền như những
trẻ em bình thường, sớm hòa nhập vào cộng đồng, đặc biệt là NKT ở vùng
sâu và vùng xa, vùng nông thôn.
90
Từng bước phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội
cho đối tượng yếu thế theo hướng hội nhập quốc tế; tạo môi trường sống an
toàn, thân thiện và lành mạnh cho người khuyết tật đảm bảo an sinh xã hội,
hướng tới mục tiêu công bằng và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Duy trì tỷ lệ cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập ở mức 80 ; tăng tỷ lệ
người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn, hỗ trợ và quản lý ca từ các cơ sở
trợ giúp xã hội trên 50 ; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ
năng cho 80 số cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên
công tác xã hội.
Thực hiện quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội
công lập và ngoài công lập. Trong đó, chú trọng nâng cấp, mở rộng và phát
triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội, gồm: Cơ sở trợ giúp xã hội chăm
sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí, cơ sở
bảo trợ xã hội tổng hợp và trung tâm công tác xã hội.
Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị cho Trung tâm
Bảo trợ xã hội tỉnh (nơi đang chăm sóc, phục hồi chức năng cho người tâm
thần và người cai nghiện ma túy) đạt tiêu chuẩn chăm sóc theo chuẩn do Nhà
nước quy định, bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình
đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng, trị liệu và cung cấp dịch vụ
công tác xã hội. Ưu tiên hỗ trợ mua sắm trang thiết bị vận chuyển đối tượng,
sơ cấp cứu, sinh hoạt và phục hồi chức năng cho đối tượng.
Hỗ trợ xây dựng, vận hành các mô hình cơ sở trợ giúp xã hội, gồm mô
hình trung tâm công tác xã hội, cơ sở bảo trợ xã hội tổng hợp, cơ sở phòng và
trị liệu rối nhiễu tâm trí, mô hình gia đình, cá nhân nhận nuôi có thời hạn và
mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn.
91
Nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức và cộng tác viên: Đào
tạo, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ trợ giúp xã hội; Bồi dưỡng kỹ năng cho
2.000 cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, cộng tác viên và tình nguyện
viên trợ giúp xã hội, công tác xã hội (bình quân 500 người/năm).
Đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện phát triển nghề công tác xã hội,
chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thân và người rối nhiễu tâm
trí, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng, củng
cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất giải
pháp, cơ chế, chính sách phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trong thời gian tới.
Truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và cộng đồng
xã hội về vai trò, vị trí hệ thống trợ giúp xã hội; công tác xã hội, cơ sở trợ
giúp xã hội, kỹ năng chăm sóc sức khỏe tâm thần và đối tượng khác; tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu và phổ biến pháp luật về lĩnh vực trợ giúp xã hội cho
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và cộng tác viên.
Trên cơ sở hướng dẫn của trung ương, tổ chức khảo sát học hỏi kinh
nghiệm các địa phương xây dựng sổ tay hướng dẫn kỹ năng trợ giúp xã hội
cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và cộng tác viên trợ giúp xã
hội phù hợp với các yếu tố đặc thù của tỉnh.
3.1.3. Mục tiêu trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế
Mục tiêu tổng quát:
Bảo đảm quyền của NKT, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trợ
giúp NKT, giúp đỡ, tạo điều kiện cho NKT hòa nhập cộng đồng, khuyến
khích các em phát triển mọi khả năng nỗ lực của mình vươn lên trong học tập
và cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng một
xã hội bình đẳng đối với NKT, không có sự phân biệt đối xử với đối tượng
yếu thế này.
92
Mục tiêu cụ thể:
- Trong lĩnh vực giáo dục: Tăng cường truyền thông nâng cao nhận
thức của NKT và gia đình có NKT về lợi ích của giáo dục đối với bản thân
người khuyết tật, gia đình và lợi ích xã hội; trên cơ sở phân dạng, phân hạng
khuyết tật, thực hiện thống kê về quy mô, độ tuổi, giới tính, cơ cấu dạng tật
của người khuyết tật làm cơ sở thiết kế các chương trình giáo dục phù hợp;
tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục hòa nhập, nâng mức phân bổ ngân sách
cho giáo dục học sinh khuyết tật; đẩy mạnh công tác phát triển nguồn nhân
lực cho giáo dục NKT; Sử dụng giáo trình đào tạo và giáo trình giáo dục nghề
nghiệp về công tác xã hội được cấp có thẩm quyền ban hành để giảng dạy, tập
huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên công tác xã hội.
Mục tiêu là 70 NKT có khả năng học tập được tiếp cận giáo dục
- Trong lĩnh vực y tế: Thúc đẩy việc xây dựng các chương trình phát
hiện sớm và phục hồi chức năng cho NKT dựa vào cộng đồng, phát triển
chương trình sàng lọc, phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em; tiến hành phân
dạng, phân hạng khuyết tật theo mức độ suy giảm khả năng tự phục vụ, trên
cơ sở đó để định hướng xây dựng các chương trình chăm sóc sức khỏe phù
hợp cho NKT; phát triển mạng lưới phục hồi chức năng thống nhất trong toàn
quốc theo tuyến.
Mục tiêu giai đoạn tới là hàng năm 90 số người khuyết tật được
tiếp cận các dịnh vụ y tế dưới các hình thức khác nhau, 90 trẻ sơ sinh đến
6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển
và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật, khoảng 70.000 trẻ em và người
khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp
dụng cụ trợ giúp phù hợp.
- Trong lĩnh vực tiếp cận các dịch vụ văn hóa: tạo điều kiện cho
người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ văn hóa. Đối với NKT, tạo điều kiện
93
có lớp học, khu năng khiếu, ấn phẩm văn hóa và chương trình thể thao
riêng; xuất bản một ấn phẩm văn hóa phục vụ độc giả là trẻ em khiếm thị,
sản xuất một bộ phim hoạt hình và xây dựng mô hình điểm trường năng
khiếu có NKT theo học.
- Trong lĩnh vực tiếp cận công trình xây dựng và giao thông công cộng:
Mục tiêu là đạt 100 công trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước, nhà
ga, bến xe, bến tầu, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, dạy nghề
bảo đảm điều kiện cho người khuyết tật. Ít nhất 80 người khuyết tật và trẻ
em khuyết tật có nhu cầu tham gia giao thông được sử dụng phương tiện giao
thông bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận hoặc là dịch vụ trợ
giúp tương đương.
- Trong lĩnh vực trợ giúp xã hội cho NKT: Thúc đẩy thành lập mới và
cải tạo các cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng NKT cho phù hợp với tiêu chuẩn
quy định, đặc biệt là sự tham gia của khu vực tư nhân; xây dựng lộ trình nâng
mức trợ cấp xã hội, bảo đảm trợ cấp xã hội đáp ứng được mức sống tối thiểu
của NKT; Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội công lập
và ngoài công lập, trong đó các cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập giữ ở
mức 80 vào năm 2020; tăng tỷ lệ người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn,
hỗ trợ và quản lý ca từ các cơ sở trợ giúp xã hội tăng trên 50 vào năm 2020;
Nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên hỗ trợ và chăm sóc NKT tại cộng
đồng và các cơ sở bảo trợ xã hội; nghiên cứu đánh giá các mô hình trợ giúp
NKT để phổ biến nhân rộng các kinh nghiệm đối với những mô hình có hiệu
quả; Đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập
huấn kỹ năng cho 80 số cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng
tác viên công tác xã hội đang làm việc tại các cơ sở trợ giúp xã hội; công chức
thuộc phòng Lao động-TB&XH các huyện, thị xã và thành phố Huế; công
chức Lao động-TB&XH ở các xã, phường, thị trấn.
94
- Trong lĩnh vực hướng nghiệp, dạy nghề, việc làm: hoàn thiện cơ
chế, chính sách trợ giúp người khuyết tật học nghề, việc làm tại gia đình và
nơi cư trú; xây dựng mô hình hỗ trợ người khuyết tật học nghề gắn với tạo
việc làm; liên kết với doanh nghiệp, vận động các nhà tài trợ hỗ trợ thử
nghiệm mô hình này ở một số địa phương; sau khi đạo tạo nghề, nhà nước
có chính sách hỗ trợ người khuyết tật một nguồn vốn nhỏ để người khuyết
tật xây dựng cuộc sống ban đầu.
Xây dựng và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của các huyện, thị xã và thành phố
Huế; không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội đáp ứng
nhu cầu trợ giúp người khuyết tật, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội
công bằng và hiệu quả.
Tiếp tục thí điểm các mô hình cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp dịch vụ
công tác xã hội, phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí, mô hình gia đình cá nhân
nhận nuôi người khuyết tật có thời hạn và mô hình dạy nghề gắn với giải
quyết việc làm cho người khuyết tật.
3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho
ngƣời khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
3.2.1. Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp
xã hội đối với người khuyết tật
Cụ thể hóa các quy định pháp luật và nội dung chính sách trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật là giải pháp đầu tiên và là giải pháp có ý nghĩa
tiên quyết để đạt hiệu quả thực hiện chính sách đối với NKT.
Thứ nhất, bổ sung các quy định về đối tượng trợ giúp xã hội cho người
khuyết tật.
Mở rộng phạm vi đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã
hội trong luật người khuyết tật. Bổ sung một số đối tượng người khuyết tật
95
như: bổ sung người khuyết tật hưởng trợ giúp xã hội hàng tháng có tính đến
các điều kiện nhân thân như hộ gia đình nghèo, không nơi nương tựa…
hoặc những đối tượng khuyết tật nhẹ gặp khó khăn trong lao động mà đang
mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì có thể được xem xét hưởng
trợ cấp thường xuyên. Bổ sung đối tượng người khuyết tật nặng không nơi
nương tựa, không tự lo liệu được cuộc sống được tiếp nhận vào nuôi
dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội (quy định hiện nay chỉ tiếp
nhận người khuyết tật đặc biệt nặng). Trường hợp đối tượng người khuyết
tật đặc biệt nặng đang sống cùng gia đình nhưng gia đình không đủ điều
kiện vật chất và con người để chăm sóc mà có nhu cầu vào sống tại cơ sở
bảo trợ xã hội thì có thể được xem xét vào sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
Việc bổ sung thêm đối tượng hưởng trợ giúp xã hội cũng cần chú ý tránh
trường hợp mở rộng đối tượng mà không đảm bảo quyền lợi được hưởng,
vì như vậy sẽ làm cho đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thiếu niềm tin do
chế độ chưa thực sự có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ.
Đối với đối tượng trợ giúp đột xuất thì pháp luật cần mở rộng phạm vi
và xã hội như những tác động của sản xuất kinh doanh, mất mùa, khủng hoảng
đối tượng được trợ giúp đột xuất bao gồm cả những đối tượng bị rủi ro kinh tế
kinh tế toàn cầu để giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, đảm bảo cuộc sống.
Tăng cường việc xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận
mức độ khuyết tật.
Về việc rà soát đối tượng người khuyết tật được hưởng trợ giúp
xã hội:
Thứ hai, về trình tự thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết
tật. Pháp luật cần quy định thủ tục trợ giúp đối với người khuyết tật đơn giản
hơn, rút ngắn thời gian chờ quyết định được hưởng trợ cấp.
96
Thứ ba, hoàn thiện những quy định về quyền lợi hưởng trợ giúp xã hội
đối với người khuyết tật.
Quy định việc tăng mức chuẩn để tính mức trợ cấp xã hội khi có sự
điều chỉnh mức lương tối thiểu chung.
Về chế độ trợ cấp xã hội và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối
với người khuyết tật. Ngay trong nhóm đối tượng người khuyết tật với dạng
tật khác nhau cũng cần có các quy định cụ thể về hình thức hỗ trợ người
khuyết tật, không chỉ dừng lại ở hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt mà cần đa
dạng các hình thức trợ giúp khác như đào tạo nghề cho người khuyết tật, đào
tạo kĩ năng hoà nhập cộng đồng.
Về chế độ trợ giúp xã hội đột xuất: tăng mức trợ cấp đột xuất lên để
bù đắp được những thiệt hại của các hộ gia đình. Tăng cường công tác quản lý
hoạt động trợ giúp từ cộng đồng xã hội, kiểm soát và điều phối được các
nguồn hỗ trợ từ các nguồn. Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thiên tai đầy đủ và
tin cậy, xác định chính xác được đối tượng và tiêu chí được hưởng trợ cấp.
Vấn đề này tạo nên tính khách quan và công bằng cho việc xây dựng các
phương án trợ giúp qua các cấp.
Về các điều kiện đối với các cơ sở bảo trợ xã hội: Pháp luật hiện hành
cần hoàn thiện quy định cụ thể về điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật, trình độ
và các tiêu chí về đạo đức, nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên. Pháp luật nên
quy định thêm hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật gắn với cộng
đồng. Theo đó, cho phép các cá nhân, hộ gia đình nhận nuôi dưỡng, chăm sóc
người khuyết tật, đặc biệt là trẻ em khuyết tật.
Thứ tư, pháp luật cần ban hành các quy định thành lập quỹ trợ giúp xã
hội dành cho người khuyết tật thống nhất từ Trung ương đến địa phương để
thống nhất, điều hòa việc sử dụng quỹ trợ giúp xã hội khắc phục hạn chế lớn
nhất của pháp luật về trợ giúp xã hội hiện nay.
97
Pháp luật cần bổ sung thêm các quy định về việc thanh tra, kiểm tra
trong công tác bảo trợ xã hội, để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hoạt
động thanh tra, kiểm tra tránh tình trạng tuỳ tiện, chồng chéo trong thực hiện.
Do đó cần quy định rõ chế tài xử phạt, đặc biệt là đối với các hành vi
ngược đãi, phân biệt đối xử, kì thị đối với người khuyết tật hoặc không
thực hiện quy định của pháp luật liên quan đến nhu cầu và quyền của người
khuyết tật, trong đó cần quy định trách nhiệm của các cơ quan hành chính
nhà nước đồng thời ghi nhận cơ chế khen thưởng phù hợp với các tổ chức,
cá nhân, cơ quan có nhiều đóng góp cho hoạt động trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật.
3.2.2. Tiến hành thường xuyên và toàn diện hoạt động tuyên truyền, phổ
biến các chính sách đối với người khuyết tật
Công tác tuyên truyền phổ biến nhận thức xã hội đối với NKT là giải
pháp và là bước đi có ý nghĩa trong việc thực hiện chính sách đối với NKT.
Thực hiện chính sách đối với NKT bao gồm nhiều bước nối tiếp nhau.
Để hoạt động này thực sự có hiệu quả, cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động giáo
dục nâng cao nhận thức của xã hội đối với NKT bởi đó chính là nền tảng và là
cơ sở cho hoạt động thực hiện chính sách. Trong thời gian tới đây, đòi hỏi
công tác tuyên truyền cần được cấp ủy, chính quyền các cơ quan, tổ chức và
các địa phương đặc biệt quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện. Với
vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực người khuyết tật, hàng năm
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần hệ thống hóa các văn bản quy
định, biên soạn tài liệu tuyên truyền hướng dẫn nghiệp vụ, tờ rơi in và phát
cho các địa phương để hoạt động này càng ngày càng đạt hiệu quả.
Giáo dục, nâng cao nhận thức xã hội và sự tham gia của người dân
đặc biệt là gia đình có người khuyết tật và người khuyết tật trong thực hiện
chính sách.
98
Khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân tham gia vào mọi hoạt
động trợ giúp NKT, tham gia các Đề án về trợ giúp người khuyết tật. Đặc biệt
là chính sự phối hợp của gia đình có người khuyết tật từ việc xác định đối
tượng, đến việc lập kế hoạch triển khai thực hiện ở xã, phường, thị trấn, để
quản lý nguồn lực, giám sát đánh giá. Thông tin đầy đủ tới người dân về
chính sách của Nhà nước đối với NKT và đặc biệt chính gia đình có NKT.
Hiện nay cần thiết nhất là phải tăng cường sự tham gia của gia đình
NKT, vì hiện tại nhiều NKT đang sinh sống với gia đình và nguồn động lực
của họ cũng dựa vào sự trợ giúp của gia đình và người thân. Chính vì vậy, gia
đình được xem là nơi đầu tiên và cũng là nơi đóng vai trò quan trọng nhất trong
việc hỗ trợ giúp đỡ NKT khắc phục khó khăn, vươn lên tạo lập cuộc sống, hòa
nhập cộng đồng. Vì thế, bên cạnh chính sách hỗ trợ trực tiếp cho NKT, cần
phải hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình có NKT, nhằm giúp cho đối tượng
này được chăm sóc tốt hơn, đồng thời qua đó lợi ích của NKT được đảm bảo
một cách bền vững và lâu dài. Trên cơ sở phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu,
khó khăn và nguyện vọng của các hộ gia đình, cần nghiên cứu và ưu tiên thực
hiện một số chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích hộ gia đình chăm sóc y tế,
phục hồi chức năng cho NKT tại gia đình, khuyến khích hộ gia đình tạo điều
kiện tốt nhất cho NKT của họ tiếp cận được giáo dục, học nghề.
Các bộ, ngành, cơ quan Trung ương với chức năng của Bộ, cơ quan
cũng cần tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật, chính sách
và đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức hoạt động trong lĩnh vực tổ chức thực thi chính sách đối với NKT. Một
số ngành có vai trò quan trọng và liên quan như: Bộ Xây dựng cần biên soạn
và phổ biến các tài liệu “Giáo trình thiết kế xây dựng công trình kiến trúc bảo
đảm cho người khuyết tật tiếp cận sử dụng”, tập “Danh mục các câu hỏi và trả
lời” giúp cho quá trình thẩm định thiết kế, nghiệm thu, giám sát công trình
99
xây dựng được thuận lợi; tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong ngành, các
đơn vị có liên quan, các tổ chức của BKT và địa phương về những quy định
và các vấn đề kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng công trình để người tàn tật tiếp
cận và sử dụng. Bộ Giao thông vận tải đẩy mạnh hoạt động biên soạn và tổ
chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách về kiến thức và
kỹ năng phục vụ NKT. Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn
hóa Thể thao và Du lịch, Liên hiệp Hội người khuyết tật Việt Nam, Hội bảo
trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ
trong cả nước hàng năm cần thiết tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai
các hoạt động về NKT theo lĩnh vực và chức năng đơn vị mình phụ trách,
biên soạn và phát hành các văn bản liên quan đến ngày người khuyết tật Việt
Nam (18/4), ngày Quốc tế của người khuyết tật (03/12).
Các cơ quan báo chí, đài phát thanh và truyền hình Trung ương, địa
phương như: Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, báo Nhân
dân, Quân đội nhân dân, báo Lao động cần đóng vai trò quan trọng trong
việc tuyên truyền chính sách về NKT bằng các hình thức như: Xây dựng
chuyên đề, chuyên mục, các buổi tọa đàm, đưa tin về các gương điển hình
của NKT trong việc vượt khó vươn lên, học văn hóa, học nghề, tạo việc
làm ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, hoặc mở các chuyên mục để
gây quỹ hỗ trợ NKT.
Hội đồng tuyên truyền pháp luật của các địa phương cần trang bị tài liệu
hướng dẫn về chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm tình trạng khuyết tật, tài liệu
pháp luật về NKT cho “Tủ sách pháp luật”ở các xã, phường, thị trấn; có kế
hoạch tuyên truyền sâu rộng hệ thống chế độ chính sách đối với NKT đến các
ngành có liên quan, đại diện tổ dân phố, thôn, xóm và các gia đình có NKT.
Đây là nội dung quan trọng mà nhờ nó, NKT sẽ nhận được cái nhìn
cảm thông chia sẻ hơn từ phía xã hội, giúp các em có thể vượt qua mặc cảm,
tự ti, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.
100
Trong hỗ trợ giáo dục, chăm sóc y tế, trợ giúp NKT cần phải phối hợp
với các ngành liên quan nghiên cứu xây dựng mô hình giáo dục hòa nhập,
giáo dục chuyên biệt và giáo dục đặc biệt, hướng nghiệp. Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân mở trường, lớp giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập, tiếp
tục vận động tổ chức, cá nhân cấp học bổng hỗ trợ cho học sinh là người
khuyết tật để tạo điều kiện cho học sinh khuyết tật đến trường.
Tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực cho giáo dục NKT, bồi dưỡng cán bộ,
giáo viên dạy hòa nhập học sinh khuyết tật. Xây dựng chế độ, chính sách ưu
tiên, ưu đãi đối với người học, giáo viên dạy học hòa nhập và chuyên biệt cho
đối tượng là NKT. Ngoài ra, trong giáo dục NKT cần phải ban hành các
chương trình giáo dục NKT, như biên soạn sách giáo khoa, tài liệu đặc thù
(như ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật), xây dựng tiêu chí và bộ công cụ
đánh giá kết quả học tập của học sinh khuyết tật, đẩy mạnh nghiên cứu khoa
học và công nghệ ứng dụng trong giáo dục NKT. Tăng cường kiểm tra đôn
đốc địa phương thực hiện giáo dục NKT, động viên, khen thưởng dạy tốt, học
tốt trong lĩnh vực giáo dục NKT.
Trong lĩnh vực y tế, cần thực hiện các dịnh vụ phát hiện sớm những
khiếm khuyết ở trẻ sơ sinh, để tạo điều kiện cho trẻ được tiếp cận và hưởng
các dịch vụ can thiệp sớm dựa vào cộng đồng, tăng cường các dịch vụ tư vấn
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tăng cường năng lực đối với cán bộ quản lý,
chuyên môn trong phục hồi chức năng, đặc biệt là tuyến cơ sở về kỹ năng
phát hiện sớm và can thệp sớm. Mặt khác, cần phải tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục hồi chức năng cho các cơ sở phục hồi chức năng.
Để trợ giúp NKT tiếp cận và sử dụng công trình công cộng, cần phải
hoàn thiện các văn bản hiện có trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành, nhằm tăng cường các biện pháp bắt buộc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về xây dựng công trình để NKT có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng.
101
Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng
công trình bảo đảm NKT tiếp cận sử dụng trong việc thiết kế, xây dựng mới
hoặc cải tạo các công trình công cộng theo quy định của Luật người khuyết
tật. Điều tra khảo sát, tổng hợp dữ liệu, báo cáo từ địa phương về việc thực
hiện và thực trạng xây dựng công trình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
xây dựng công trình theo từng quý, sáu tháng, hàng năm để từ đó ra văn bản
nhắc nhở các địa phương tăng cường thực hiện hiệu quả quy định.
3.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác thực hiện chính sách đối với người khuyết tật
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thường xuyên tổ chức tập huấn
cho lãnh đạo, người đứng đầu cơ sở bảo trợ xã hội, các Trưởng phòng Bảo trợ
xã hội thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố,
Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, lãnh đạo các đơn vị thuộc
Bộ về nội dung hướng dẫn triển khai Luật người khuyết tật, đặc biệt là Đề án
trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 bao gồm xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện chính sách, phổ biến tuyên truyền chính sách, phân công
phối hợp, thực hiện chính sách, đôn đốc thực hiện chính sách và đánh giá,
tổng kết, rút kinh nghiệm. Các vụ chức năng chuyên môn của Bộ tùy theo
chức năng nhiệm vụ cũng đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng tổ chức thực
hiện chính sách đối với NKT, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc NKT tại trung tâm và
cộng đồng; tập huấn cho cán bộ, nhân viên về phương pháp sơ cứu ban đầu
khi NKT không may bị tai nạn, động kinh hay đột quỵ.
Một số Bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các tổ chức đoàn thể
như Bộ Xây dựng cần tăng cường các khóa tập huấn cho các đơn vị trong
ngành và các đơn vị có liên quan tại Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Đà Nẵng,
TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ (đối tượng tham gia tập huấn bao gồm các cán bộ
quản lý thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Sở Xây dựng, Sở Giao thông
102
công chính, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các công ty Tư vấn Xây
dựng, các Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại học kiến trúc Thành phố Hồ
Chí Minh, Đại học Xây dựng, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình, Văn phòng kiến trúc sư, Hội kiến trúc sư, các hội hỗ trợ
người tàn tật ở các tỉnh như Hội Cựu chiến binh, Hội bảo trợ người tàn tật và
trẻ mồ côi, Hội cứu trợ trẻ em tàn tật, Hội chữ thập đỏ, Hội nạn nhân chất độc
da cam, Hội phụ nữ, thanh niên, các hội người tàn tật…); Bộ Giao thông vận
tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe
khách trong đó có dành 01 chương trình hướng dẫn phục vụ NKT, Bộ Y tế,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch, Hội bảo
trợ người tàn tật về trẻ mồ côi, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn
tật, Hội cựu chiến binh.
Bên cạnh đó bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ, công chức trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng chính sách đối
với NKT, cán bộ, công chức tăng cường tổ chức định kỳ các cuộc giao lưu
gặp gỡ giữa cán bộ làm chính sách đối với NKT bằng cách: Cho NKT ở mỗi
khu vực, mỗi độ tuổi, mỗi địa bàn được cử đại diện của mình đến gặp gỡ cán
bộ làm chính sách để bày tỏ nhu cầu, nguyện vọng về chính sách, chế độ áp
dụng cho nhóm đối tượng này. Điều đó giúp cán bộ, công chức trực tiếp làm
công tác xây dựng và thực hiện chính sách đối với NKT hiểu một cách chính
xác mong muốn, nguyện vọng của trẻ để có cơ sở xây dựng chính sách cho
phù hợp và đạt hiệu quả thực thi cao trên thực tế. Ngoài ra, đẩy mạnh việc
giao lưu, hợp tác với các quốc gia trên thế giới để tiếp thu thành tựu và kinh
nghiệm xây dựng chính sách của họ trong quá trình xây dựng và tổ chức triển
khai thực hiện chính sách cho NKT, có tính đến điều kiện kinh tế xã hội và
phong tục tập quán của Việt Nam.
103
3.2.4. Huy động nguồn lực từ hoạt động xã hội hóa trong thực hiện chính
sách đối với người khuyết tật
Xã hội hóa là chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta không chỉ
trong công tác chăm sóc NKT. Với số lượng NKT ở nước ta đông như hiện
này và xu hướng ngày càng gia tăng NKT do tác động của môi trường, hơn
nữa nguồn kinh phí của nước ta cho lĩnh vực này còn khó khăn và hạn hẹp,
việc huy động nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài nước là cần thiết.
Thực hiện chủ trương này nhà nước cần phải có chiến lược cụ thể và khả thi
với mục tiêu là khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước tài trợ, giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia hoạt
động trợ giúp NKT với các hình thức phù hợp.
Trong hoạt động chăm sóc sức khỏe cần đẩy mạnh hoạt động phục hồi
chức năng cả về vận động cũng như các khuyết tật khác nhằm bảo đảm NKT
có thể tham gia lao động và tích cực hòa nhập đời sống cộng đồng.
Lĩnh vực phát hiện sớm và can thiệp sớm tình trạng khuyết tật hiện nay
ở nước ta chưa quan tâm đúng mức trong khi tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh hiện
rất cao. Thực tế cho thấy gia đình nào có người khuyết tật thì vô cùng vất vả
và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện hoạt động xã hội hóa trong
lĩnh vực này đòi hỏi nhà nước cần huy động các nguồn lực từ các thành phần
kinh tế trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật, trong đó đặc biệt quan
trọng là phát hiện sớm và can thiệp sớm đối với người khuyết tật.
Trong lĩnh vực giáo dục cần thiết nghiên cứu mô hình giáo dục hòa
nhập phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng dạng khuyết tật, chủ trương
này đòi hỏi chủ trương xã hội hóa cao trong công tác nghiên cứu mô hình
trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục, nhiệm vụ của trung tâm là phát hiện sớm
và can thiệp sớm nhằm lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, tư vấn tâm lý
tình cảm, giáo dục hướng nghiệp và cung cấp chương trình, nội dung, thiết bị
tài liệu phù hợp đặc thù của từng dạng và hạng trẻ khuyết tật.
104
Các chính sách xã hội hóa cần áp dụng và mở rộng mô hình trung tâm
bảo trợ xã hội không chỉ do nhà nước thiết lập. Ngoài việc hỗ trợ những chính
sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cần tạo sự bình đẳng trong việc thụ
hưởng các chính sách của đối tượng bảo trợ xã hội ở trung tâm bảo trợ xã hội
trong hay ngoài công lập.
3.2.5. Kiểm tra, giám sát và theo dõi tiến độ thực hiện đồng thời tổng kết
đánh giá hoạt động thực hiện chính sách đối với người khuyết tật
Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan Trung ương và các địa phương cần thực
hiện tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật người khuyết
tật và các quy định khác về NKT. Các Bộ ngành và các địa phương thường
xuyên ban hành các công văn, quyết định cá biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý
những vấn đề bức xúc, vướng mắc hoặc tháo gỡ những khó khăn. Duy trì tốt
công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc tổ chức thực hiện cính sách
đối với trẻ em khuyết tật. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt
công tác quản lý nhà nước về NKT.
Hàng năm nhiều cơ quan, Bộ, ngành tổ chức các đoàn kiểm tra thực
hiện chính sách đối với NKT ở các địa phương, các cơ sở chăm sóc NKT:
Các đoàn giám sát của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, các đoàn của
các Bộ, ngành, các đoàn thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3.2.6. Phối hợp thường xuyên và đồng bộ các cơ quan ban ngành trên địa
bàn trong thực hiện chính sách đối với người khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với NKT là hoạt động có mục đích và làm
cho các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan tới NKT đi
vào thực tiễn cuộc sống. Kết quả của hoạt động này liên quan chặt chẽ tới sự
phối hợp, kết hợp của các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách
mà đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
105
Để đảm bảo thực hiện chính sách đối với NKT, thì chính phủ cần phải
là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nước về công tác người khuyết tật trong
phạm vi toàn quốc.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với công tác NKT
trong cả nước.
Ủy ban nhân dân các cấp và vai trò của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước đối với công tác NKT; lồng ghép công tác NKT vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; bảo đảm các điều kiện để
NKT thực hiện quyền và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ chức, cá
nhân tham gia hỗ trợ NKT, gia đình, người thân có NKT.
3.3. Một số khuyến nghị
Đổi mới và hoàn thiện tiêu chí xác định mức độ khuyết tật, xác định
mức độ khó khăn của người khuyết tật, nhu cầu của người khuyết tật, độ tuổi
và giới tính của người khuyết tật; xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật
như tổng số, tình trạng sức khỏe, dạng tật; số người trong độ tuổi lao động,
còn khả năng lao động; số người có nhu cầu về học nghề; số người có nhu cầu
làm việc và những công việc phù hợp với nhu cầu và sức khỏe người khuyết
tật ở từng địa phương và trong cả nước.
- Xây dựng các chính sách trợ giúp cho người khuyết tật hướng đến
mục tiêu tăng cường hỗ trợ sinh kế phù hợp với đặc điểm sức khỏe và nhu cầu
của đối tượng trong thiết kế chính sách, cần phải đổi mới quan điểm tiếp cận
đối với người khuyết tật phải dựa trên quyền, phải coi người khuyết tật là
công dân bình thường, bình đẳng như mọi công dân khác chứ không chỉ là đối
tượng chăm sóc của xã hội, từ đó mới có các chính sách phù hợp hơn, nhất là
khi Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của
106
người khuyết tật. Trong vấn đề bảo hiểm y tế, cần thực hiện miễn phí cho toàn
bộ người khuyết tật nói chung không phân biệt khuyết tật nặng hay nhẹ, vì
hiện nay chỉ có người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng mới được cấp thẻ bảo
hiểm y tế miễn phí.
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật phát triển hệ thống cơ sở cung cấp
dịch vụ trợ giúp xã hội, tiêu chuẩn nghiệp vụ nhân viên công tác xã hội và cấp
giấy hành nghề công tác xã hội, tiêu chuẩn dịch vụ trợ giúp xã hội, khung giá
dịch vụ trợ giúp xã hội. Cần quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã
hội đáp ứng nhu cầu của các nhóm đối tượng, ưu tiên trợ giúp cho người
khuyết tật sống ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Có cơ chế khuyến khích
khu vực ngoài công lập phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội, ưu
tiên các cơ sở cung cấp dịch vụ đối với những nhóm người yếu thế mà trong
đó có đối tượng là người khuyết tật.
- Hoàn thiện các quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chi trả
trợ cấp, nuôi dưỡng và chăm sóc người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã
hội. Bên cạnh đó, sớm ban hành các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc
xử lý vi phạm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hoạt động của các
cơ sở bảo trợ xã hội có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quyền của
người khuyết tật.
3.3.1. Đối với Trung ương
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án, kế hoạch về
công tác người khuyết tật.
Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
107
pháp luật về người khuyết tật; chương trình, đề án, kế hoạch về công tác
người khuyết tật.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành thủ tục, hồ sơ, thời gian và quy
trình giải quyết chế độ trợ cấp xã hội, chế độ mai táng phí; quy trình, thủ tục,
hồ sơ tiếp nhận và điều kiện dừng nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật
trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành quy định về chế độ, chính sách
đối với người làm công tác người khuyết tật; cán bộ, công chức, nhân viên
chăm sóc, nhân viên phục hồi chức năng, cán bộ chuyên trách của tổ chức
người khuyết tật.
Quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, nhân viên
chăm sóc người khuyết tật trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.
Đào tạo nghiệp vụ cán bộ, công chức, nhân viên làm công tác người
khuyết tật và nhân viên chăm sóc người khuyết tật tại gia đình, cộng đồng và
trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật.
Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao nhận thức về người
khuyết tật và công tác người khuyết tật.
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật.
Thực hiện hợp tác quốc tế về người khuyết tật.
Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án trợ giúp người
khuyết tật.
Thực hiện khảo sát, thống kê, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu và
thông tin, định kỳ công bố báo cáo về người khuyết tật.
Quy hoạch và quản lý hệ thống cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng
và cơ sở chăm sóc người khuyết tật thuộc thẩm quyền.
Bộ Y tế:
Thực hiện quản lý nhà nước về chăm sóc sức khỏe người khuyết tật.
108
Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định
chi tiết hoạt động phục hồi chức năng người khuyết tật; đào tạo về phục hồi
chức năng; thực hiện chương trình phòng ngừa khuyết tật; hướng dẫn thực
hiện phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đối với người khuyết tật.
Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đối với người khuyết tật.
Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille cho
người khuyết tật.
Thực hiện quy hoạch hệ thống các cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với
người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.
Đào tạo giáo viên, nhân viên hỗ trợ giáo dục, biên soạn chương trình,
tài liệu, giáo trình và sách giáo khoa áp dụng cho người học là người khuyết
tật; chỉ đạo nghiên cứu, sản xuất và cung ứng thiết bị dạy học phù hợp với
từng dạng tật và mức độ khuyết tật.
Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế
thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt đối với trẻ em khuyết tật.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
Thực hiện quản lý nhà nước về công tác văn hóa, thể thao, giải trí và du
lịch đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các
hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người khuyết tật.
Bộ Xây dựng:
Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban
hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây
dựng nhà ở chung cư, trụ sở làm việc, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình
hạ tầng xã hội bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
109
Bộ Giao thông vận tải:
Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban
hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kết cấu
hạ tầng giao thông, các công cụ hỗ trợ và chính sách ưu tiên người khuyết tật
tham gia giao thông công cộng.
Bộ Thông tin và Truyền thông:
Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về tiếp cận thông tin đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan
thông tin đại chúng thực hiện tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đối
với người khuyết tật.
Bộ Khoa học và Công nghệ:
Chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan ban
hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định khuyến khích nghiên cứu, sản
xuất và ứng dụng sản phẩm hỗ trợ người khuyết tật sử dụng.
Bộ Tài chính:
Bố trí ngân sách thực hiện các chính sách, chương trình, đề án, dự án
trợ giúp người khuyết tật; bố trí ngân sách điều tra, khảo sát và thống kê
người khuyết tật theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Thẩm định, phê duyệt các dự án nhà nước đầu tư chăm sóc, nuôi
dưỡng, chỉnh hình, phục hồi chức năng người khuyết tật; chủ trì và phối hợp
với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội điều tra, khảo sát và thống kê
người khuyết tật.
3.3.2. Đối với địa phương
Ủy ban nhân dân tỉnh:
Lồng ghép công tác người khuyết tật vào kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương; bảo đảm điều kiện để người khuyết tật thực hiện
110
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
tham gia hỗ trợ người khuyết tật.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
Tổ chức cuộc tổng điều tra người khuyết tật trên địa bàn nhằm có số
liệu cụ thể qua đó tạo cơ sở cho việc định hướng các nhiệm vụ, chỉ tiêu phát
triển kinh tế- văn hóa- xã hội những năm tiếp theo.
Cần tăng cường tham mưu đề xuất UBND tỉnh Thừa Thiên Huế trong
việc xây dựng kế hoạch thực hiện các chính sách đối với người khuyết tật kịp
thời hơn, toàn diện hơn đồng thời kiến nghị HĐND-UBND cấp tỉnh, huyện
hàng năm bố trí một phần kinh phí cho công tác điều tra, rà soát đối tượng;
công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã
hội cho người khuyết tật.
Tham mưu đề xuất UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức mô hình chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và hướng nghiệp cho người khuyết tật trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế: Việc hoàn thiện chính sách đối với người khuyết tật để
người khuyết tật hưởng đầy đủ các quyền như người bình thường khác và hòa
nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội theo đúng khả năng của mình, cần
phải xây dựng những trung tâm chăm sóc người khuyết tật, đây không phải
những Trung tâm được hiểu chỉ hỗ trợ ăn uống và coi trông mà đây là những
Trung tâm theo một mô hình tổng hợp đan xen các hoạt động bao gồm hoạt
động giáo dục đặc biệt, giáo dục chuyên biệt, giáo dục hòa nhập; hướng
nghiệp và đào tạo nghề; chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; chăm sóc nuôi dưỡng để người khuyết tật có
kỹ năng sống, có một nghề để tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng, giảm
gánh nặng cho xã hội và trở thành những thành viên có ích cho xã hội. Hơn
nữa người khuyết tật chỉ ở tại Trung tâm với một thời gian nhất định, thời
gian từ 3 đến 5 năm. Người khuyết tật được trả về cộng đồng khi người
111
khuyết tật có được kỹ năng nhất định theo khả năng của mình như kỹ năng
sống, kỹ năng giao tiếp cũng như kỹ năng tự lập cho cuộc sống của mình. Ví
dụ, mô hình Trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho người tàn tật trực thuộc
Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi tỉnh Thừa Thiên Huế (địa chỉ:
16 Thánh Gióng, Tp Huế), Trung tâm này có chức năng giáo dục - hướng
nghiệp dạy giáo dục đặc biệt, các kỹ năng sống cơ bản cho trẻ em khuyết tật,
có các lớp dạy nghề như nghề may công nghiệp, tin học văn phòng, dạy làm
hoa lụa, thêu tranh và dạy cắt tóc gội đầu; Trung tâm chăm sóc y tế khám,
chữa bệnh và phục hồi chức năng cho người khuyết tật; bể bơi vật lý trị liệu,
nhà ăn, thư viện. Trung tâm có các bác sĩ, y sĩ, kỹ thuật viên phục hồi chức
năng, các giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành dạy trẻ khuyết tật. Người khuyết
tật nói chung và trẻ em khuyết tật được đưa đến Trung tâm được các y, bác
sỹ, giáo viên phân loại theo khả năng nhận thức được xếp vào các lớp giáo
dục văn hóa, giáo dục hướng nghiệp. Sau khi các em có được những kiến thức
nhất định cho chính bản thân mình, hàng năm Trung tâm có kế hoạch trả các
em về địa phương, tiếp tục được sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa
phương, nhưng sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa phương sẽ ít hơn
rất nhiều so với lúc các em mới đến Làng bởi ngoài những kiến thức các em
được giá dục ở Trung tâm, các em còn được các giáo viên, các y bác sĩ, kỹ
thuật viên vật lý trị liệu hướng dẫn gia đình trẻ khuyết tật các phương pháp
chăm sóc, phương pháp tập luyện vật lý trị liệu, phục hồi chức năng và các kỹ
năng cơ bản khác. Trên thực tế, sau khi được giáo dục hướng nghiệp nhiều
người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng ở Trung tâm Dạy
nghề và tạo việc làm cho người tàn tật đã có việc làm ổn định và tự nuôi sống
được bản thân. Để xây dựng được những mô hình như thế này, nhà nước và
tỉnh Thừa Thiên Huế phải có những chính sách đầu tư những trang thiết bị cơ
bản cho những trung tâm bảo trợ xã hội, các trung tâm chăm sóc người khuyết
112
tật; có những chính sách hỗ trợ ưu đãi nghề nghiệp cho cán bộ, công chức,
viên chức làm việc tại các trung tâm, chính sách nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn cho các giáo viên, y bác sĩ tại các Trung tâm, tuyển dụng thêm các cán
bộ, nhân viên công tác xã hội nhằm tăng cường công tác tuyên truyền và là
cầu nối giữa các trung tâm bảo trợ với gia đình và cộng đồng vì nuôi dạy,
chăm sóc, giáo dục trẻ em khuyết tật là một việc làm khó, cần sự kiên trì,
nhẫn lại và con các em như chính con cái mình. Khi các em tái hòa nhập với
gia đình và cộng đồng, nhà nước tiếp tục có chính sách hỗ trợ các em như các
chính sách giáo dục, chăm sóc y tế, trợ cấp xã hội, các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao, chính sách được hưởng các thành quả chung của xã
hội như tiếp cận các công trình giao thông công cộng. Bên cạnh những chính
sách của Nhà nước đối với người khuyết tật, Nhà nước cũng cần có chính
sách xã hội hóa kêu gọi sự chung tay giúp đỡ, sẻ chia của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước đối với đối tượng người khuyết tật. Có như vậy người
khuyết tật sẽ có được sự tự tin, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập với gia
đình và xã hội.
Cần xây dựng cơ sở dữ liệu liên quan đến biến động người khuyết tật
thống nhất từ tỉnh đến huyện, phường, xã.
Cần chỉ đạo tổ chức quyết liệt hơn việc hình thành phát triển mô hình
cộng tác viên công tác xã hội ở địa bàn dân cư nhằm quản lý, tư vấn tốt cho
người khuyết tật.
Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế để học tập trao đổi kinh
nghiệm và tìm kiếm các nguồn tài trợ, hỗ trợ, trợ giúp cho người khuyết tật,
xây dựng các mô hình chăm sóc người khuyết tật tại cộng đồng phù hợp với
hoàn cảnh, địa bàn quản lý.
113
Tiểu kết chƣơng 3
Từ những cơ sở khách quan về lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách
trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ở
chương I và phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, kết quả đạt được và
những hạn chế, bất cập ở chương II, Chương III của luận văn đưa ra những
quan điểm định hướng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết
tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ đó đề ra một số giải pháp nhằm thực
thi có hiệu quả hơn chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn tới. Các giải pháp cơ bản phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa
phương và những giải pháp đó góp phần hạn chế những vướng mắc, tồn tại
trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho người khuyết tật trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua, nhằm thực hiện giúp đỡ người khuyết
tật để góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh nhà, phát
triển đô thị Huế theo định hướng mà Chính phủ phê duyệt.
114
KẾT LUẬN
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động TGXH nói chung, TGXH
thường xuyên nói riêng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, có thể rút ra một số kết luận
chủ yếu sau:
1. Trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là vấn đề hết sức quan
trọng, nó không chỉ đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người
khuyết tật mà còn góp phần ổn định kinh tế, chính trị, tạo điều kiện phát triển
kinh tế đất nước một cách bền vững.
2. TGXH nói chung và chính sách TGXH thường xuyên có vai trò hết
sức quan trọng, là một trong những công cụ điều tiết phân phối thu nhập giữa
các nhóm dân cư để đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo,
đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã hội khi học gặp phải rủi ro trong
cuộc sống. Thừa Thiên Huế là tỉnh nghèo, đang phát triển lại chịu hậu quả của
chiến tranh, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và tác động của quá trình
chuyển đổi nền kinh tế đã dẫn đến các đối tượng cần được trợ giúp đông. Các
đối tượng này đang gặp khó khăn trong cuộc sống, sức khỏe yếu, trình độ văn
hóa thấp, không có việc làm ổn định nên phần lớn đang sống trong cảnh
nghèo đói, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn. Bộ phận dân cư này rất cần đến sự
trợ giúp của Nhà nước, xã hội và cả cộng đồng.
3. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan
tâm chỉ đạo và thực hiện hoạt động TGXH cho người khuyết tật có hiệu quả,
góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên công tác TGXH cho người khuyết tật
vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như đối tượng được hưởng các hoạt
động tài trợ chưa được mở rộng, mức trợ cấp trong từng thời kỳ còn thấp
(chưa có sự hỗ trợ thêm mà chỉ bằng mức chuẩn của Trung ương); việc triển
115
khai các chính sách chưa đồng bộ, chưa đánh giá chính xác, nhận thức của các
xã hội, của gia đình và chính bản thân người hưởng lợi chưa cao.
4. Để hệ thống chính sách TGXH cho người khuyết tật ở Thừa Thiên
Huế ngày càng phát huy được vai trò quan trọng của mình trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì cần phải hoàn
thiện chính sách TGXH cho người khuyết tật theo hướng nâng mức trợ cấp,
mở rộng độ bao phủ, nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách, đảm bảo
người khuyết tật được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội để người khuyết tật
vượt qua được mọi khó khăn, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Anh (2018), Quyền làm việc và một số quy định của pháp
lu t về giải quyết việc làm cho người lao động khuyết t t, Tạp chí lao
động xã hội số 573.
2. Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ Người khuyết tật tại Việt Nam (2013),
Báo cáo năm 2013 về hoạt động trợ giúp Người khuyết t t tại Việt Nam.
3. Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp lu t về quyền của người khuyết
t t ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Thông tư 26/2012/TT-
BLĐTBXH ngày 12 tháng 11 năm 2012 về hướng dẫn một số điều Nghị
định 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t Người khuyết t t.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Báo cáo mô đun về xác
định đối tượng trong Đánh giá Giữa kỳ Chương trình Mục tiêu Quốc gia
Giảm nghèo năm 2008.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Thu t ngữ Lao động,
Thương binh và xã hội, NXB LĐXH, Hà Nội.
7. Bộ lao động thương binh xã hội - Bộ y tế - Bộ tài chính - Bộ giáo dục
(2012), Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT BLĐTBXH - BYT - BTC -
BGDĐT ngày 28/12/2012 quy định về việc xác định mức độ khuyết t t do
Hội đồng xác định mức độ khuyết t t thực hiện.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Báo cáo kết quả thực hiện
công tác bảo trợ xã hội năm 2012.
9. Chính phủ (2007), Nghị định số 67/2007/NĐ - CP ngày 13/4/2007 về
chính sách trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội.
10. Chính phủ (2010), Nghị định số 13/2010/NĐ - CP ngày 27/02/2010 về sửa
đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ - CP ngày 13/4/2007
của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.
11. Chính phủ (2010), Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 phê
duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020.
12. Chính phủ (2011), Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t Người cao tuổi.
13. Chính phủ (2011), Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 phê duyệt
Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người
rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020.
14. Chính phủ (2012), Nghị định số 28/2012/NĐ - CP ngày 10/4/2012 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Lu t người khuyết t t.
15. Chính phủ (2012), Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 quyết
định phê duyệt đề án trợ giúp Người khuyết t t giai đoạn 2012 - 2020.
16. Chính phủ (2012), Nghị quyết 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 về ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW.
17. Chính phủ (2013), Quyết định 647/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 Phê
duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ
em khuyết t t nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa
vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020.
18. Chính phủ (2013), Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy định
chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
19. Chính phủ (2017), Nghị định số 103/2017/NĐ-CP ngày 12/9/2017 quy
định về thành l p, tổ chức, hoạt động; giải thể và quản lý các cơ sở trợ
giúp xã hội.
20. Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học chính sách, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa X.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI.
25. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình an sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại
học KTQD, Hà Nội.
26. Phạm Đại Đồng (2011), Chính sách BTXH đối với một số đối tượng yếu
thế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và
quản lý.
27. Nguyễn Thị Hà (2014), Giáo trình Công tác xã hội với Người khuyết t t.
28. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2013), Đại cương về chính sách công,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Lê Văn Hòa (2016), T p bài giảng Thực thi chính sách công.
30. Nguyễn Đức Hoàng (2013), Chế độ bảo trợ đối với người khuyết t t,
Luận văn thạc sĩ Luật học.
31. Nguyễn Hải Hữu (2005), Đề tài cấp bộ về đổi mới chính sách trợ giúp
xã hội.
32. Nguyễn Hải Hữu (2007), Báo cáo chuyên đề thực trạng trợ giúp xã hội và
ưu đãi xã hội ở nước ta năm 2001 - 2007 và khuyến nghị tới năm 2015,
Hà Nội.
33. Nguyễn Hải Hữu (2007), Giáo trình nh p môn An sinh xã hội, NXB Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
34. Hà Thị Thanh Lê (2010), Chính sách BTXH trên địa bàn Tỉnh Quảng
Ninh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý.
35. Liên Hiệp Quốc (2007), Công ước Quốc tế về Quyền của Người khuyết t t.
36. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Quốc Hội (2004), Lu t Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
38. Quốc Hội (2006), Lu t Công nghệ thông tin, Hà Nội.
39. Quốc Hội (2009), Lu t Người cao tuổi, Hà Nội.
40. Quốc Hội (2010), Lu t Người khuyết t t, Hà Nội.
41. Quốc Hội (2012), Bộ Lu t lao động, Hà Nội.
42. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
43. Nguyễn Thị Quỳnh (2014), Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp
xã hội đối với người khuyết t t ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Thành
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ công tác xã hội.
44. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2015), Báo
cáo kết quả điều tra người khuyết t t năm 2015.
45. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2015), Báo
cáo tổng kết công tác Lao động - Có công và Xã hội giai đoạn 2011 - 2015.
46. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2016), Báo
cáo chi trả chế độ trợ cấp xã hội cho các đối tượng BTXH trên địa bàn
Thừa Thiên Huế qua dịch vụ Bưu điện năm 2016.
47. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo
cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.
48. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo
kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.
49. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Tĩnh (2017), Báo cáo kết
quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.
50. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng (2017), Báo
cáo kết quả trợ giúp xã hội cho người khuyết t t giai đoạn 2013 - 2017.
51. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo
cáo kết quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
cho người khuyết t t năm 2017.
52. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo
cáo kết quả thực hiện trợ giúp người khuyết t t năm 2017 và kế hoạch
năm 2018.
53. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế (2017), Báo cáo
số 62/BC-SLĐTBXH ngày 06/7/2017 về Kết quả kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
54. Nguyễn Tiệp (2002), Các giải pháp nhằm thực hiện xã hội hóa công tác
cứu trợ xã hội Nguyễn Tiệp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
55. Nguyễn Hữu Toàn (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở
cộng đồng Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ công tác xã hội.
56. Nguyễn Ngọc Toản (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên
cộng đồng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân.
57. Hồ Thị Trâm (2013), Pháp lu t về việc làm cho người khuyết t t, Luận
văn thạc sĩ Luật học.
58. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
59. UNICEF Việt Nam (2006), Tổng quan về công tác xã hội ở Việt Nam,
Hà Nội.