BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……………../………………….
BỘ NỘI VỤ ……/……..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH AN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ……………../………………….
BỘ NỘI VỤ ……/……..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH AN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số:
8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÝ THỊ HUỆ
HÀ NỘI – NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Lý Thị Huệ. Các kết quả được trình bày trong luận văn là
trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác. Những
tài liệu sử dụng tham khảo trong luận văn đều được trích dẫn nguồn một cách đầy
đủ và chính xác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh An
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, trách
nhiệm của TS. Lý Thị Huệ trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành
luận văn thạc sĩ: “Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội”.
Tác giả luận văn cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo, cán
bộ, nhân viên Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giúp đỡ cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn cũng trân trọng cảm ơn lãnh đạo và chuyên viên phòng Nội
vụ huyện Thường Tín đã quan tâm, giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh An
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU: ................................................................................................ 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG .................................................. 11 1.1. Thi đua, khen thưởng ....................................................................... 11 1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ....................... 19 1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng .............................................................................................................. 33 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ............................................................... 39 2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ....................................... 39 2.2. Thực trạng triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ................. 46 2.3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ........................................................... 73 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .......................... 79 3.1. Giải pháp nhằm bảo đảm việc xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ..... 79 3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay ................................................................................................................... 83 3.3. Giải pháp nhằm bảo đảm việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay. ................ 95 KẾT LUẬN ......................................................................................... 100 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN ............................................. 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 103
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được khen thưởng cấp
nhà nước giai đoạn 2015 - 2019 .................................................................................... 60
Bảng 2.2. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội khen thưởng giai đoạn 2015 - 2019 .......................................... 61
Bảng 2.3. Số lượng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thường Tín được Ủy ban nhân
dân huyện Thường Tín khen thưởng giai đoạn 2015 - 2019 ........................................ 62
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thi đua khen thưởng
là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới” [5,
tr.1]. Mục đích của các phong trào thi đua được Người chỉ rõ: “Thi đua ái quốc
nhằm ba mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho
nhân dân no, ấm, biết chữ, làm cho Tổ quốc được độc lập, tự do” [34, tr.236].
Muốn đạt được mục đích ấy, trước hết cần xây dựng kế hoạch tổ chức thực
hiện cho chu đáo, cho sát với hiện thực khách quan. Tức là: “Phải có kế hoạch tỉ mỉ.
Kế hoạch đó phải do từng đơn vị nhỏ, từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu
biết thấu, vui vẻ làm” và “Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng
mực” [34, tr.270]. Hơn nữa, kế hoạch thi đua cần được bàn bạc dân chủ trong dân
chúng. Người nói: “Kế hoạch từng gia đình, từng nhóm phải đem ra bàn bạc kỹ,
phải dân chủ, nghĩa là làm cho mọi người đều hiểu, mọi người đều vui lòng nhận và
quyết tâm làm cho kỳ được. Có như thế kết quả mới đầy đủ, tốt đẹp. Kế hoạch thi
đua phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực, giản đơn” [34, tr.303]. Nhờ có kế hoạch thi
đua thiết thực và có kiểm điểm đánh giá, rút kinh nghiệm nên phong trào thi đua
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm mà chúng ta tiến hành đã đạt được
những thắng lợi hết sức quan trọng.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, Đảng và
Nhà nước tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của phong trào thi đua yêu nước và
công tác thi đua, khen thưởng nhằm “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển” [15, tr.54]. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng về thi đua, khen thưởng, Nhà
nước đã thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thực tiễn cho thấy quá trình thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng có
ảnh hưởng quan trọng, mang tính then chốt, là cơ sở góp phần thể chế hóa, đưa
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thi đua, khen thưởng vào cuộc
sống, phấn đấu mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
1
[17, tr.220] theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do dân và vì nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó quá trình thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
vẫn còn không ít bất cập, được chỉ rõ trong Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014
của Bộ Chính trị và đến nay vẫn cần tiếp tục được xem xét giải quyết: phong trào
thi đua phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi còn mang nặng tính hình thức,
chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Nhiều nơi việc khen thưởng còn thiếu
tính chính xác, chưa kịp thời..v.v…làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể và cá
nhân. Các hạn chế này khiến cho ý nghĩa của công tác thi đua, khen thưởng bị lệch
lạc, hình thức và bị lợi dụng với mục đích “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”,
“chạy danh hiệu” [18, tr.48] như Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ ra.
Việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài tình trạng trên. Nhiều văn
bản hướng dẫn về thi đua, khen thưởng chưa sát với thực tế tại địa phương. Các
danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng công nhận nhiều nhưng chưa tương xứng
với các phong trào thi đua, chưa đúng so với thành tích đạt được. Việc khen thưởng
đối với các tập thể nhỏ và người lao động trực tiếp còn hạn chế, chưa kịp thời. Bộ
máy làm công tác thi đua, khen thưởng còn bất cập. Năng lực một số bộ phận công
chức phụ trách công tác thi đua, khen thưởng tại các đơn vị còn yếu..v..v. Nguyên
nhân của các tồn tại, bất cập có nhiều nhưng chủ yếu do quy định và tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng còn có những hạn chế bất cập, ảnh hưởng
trực tiếp đến các phong trào thi đua và thực hiện công tác khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Tổ chức thực hiện pháp
luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
2
Vai trò, mối quan hệ giữa thi đua với khen thưởng và việc triển khai các
văn bản quy định về thi đua, khen thưởng là chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học, các học giả ở Việt Nam thời gian qua. Cho đến nay đã
có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết do nhiều tác giả với nhiều góc độ khác
nhau nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã được công bố; nhiều công trình, bài
viết đã có những đóng góp, những lý giải, những kiến nghị sâu sắc và có giá trị
thực tiễn cao. Tuy nhiên, trong phạm vi và giới hạn của đề tài, luận văn chỉ đề cập
đến một số nhóm công trình liên quan trực tiếp đến đề tài:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng
Năm 2006, cuốn Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của nhà nghiên cứu Nguyễn Viết
Vượng được xuất bản, tác giả đã trình bày, phân tích chi tiết về nguồn gốc, quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; phân tích nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; nêu định hướng và các giải pháp vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua [61]. Công trình là nguồn tư liệu tham khảo quý giá cho tác
giả luận văn.
Sách Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua khen thưởng,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008 đã phân tích khá kỹ những vấn đề lý luận,
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chỉ thị, nghị
quyết của trung ương Đảng, nghị định của Chính phủ về thi đua yêu nước, công tác
thi đua, khen thưởng. Đồng thời cuốn sách giới thiệu các bài phát biểu, bài viết của
các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước như: Thủ tướng Phạm Văn Đồng
với bài “Bất cứ trong lĩnh vực nào của đời sống, chúng ta đều cần có thêm “người
tốt, việc tốt” [2, tr.252], 02 bài viết của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu: “Làm cho phong
trào thi đua phát triển sâu rộng, đẩy tới đỉnh cao, làm xuất hiện nhiều con người và
tập thể anh hùng trong sự nghiệp đổi mới” [2, tr.259], “Thi đua là sáng tạo, là trí
tuệ, là tiến công, là đạo đức, là rèn luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách con người xã
hội chủ nghĩa” [2, tr.306] và nhiều bài viết khác của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Thủ
3
tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Phó Chủ tịch nước Trương
Mỹ Hoa..v.v...về công tác thi đua. Đây có thể coi là một cuốn sách tốt, giúp tác giả
có cách tiếp cận tổng quát lý luận về thi đua, khen thưởng.
Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước của Lê Quang
Thiệu, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008 bao gồm các bài viết trình bày tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thi đua, khen thưởng như: công việc hàng ngày
là nền tảng của thi đua; mọi việc đều thi đua; thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải
thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất; người người thi đua,
ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua, thi đua phải có mục đích; Thi đua phải có
kế hoạch tỉ mỉ..v.v.[53]. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn
trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng.
Năm 2012, đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Những vấn đề lý luận
chung về thi đua, khen thưởng do Nguyễn Thế Thắng làm chủ nhiệm đã luận giải
một số quan điểm, khái niệm về thi đua, khen thưởng; vai trò của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận tổ quốc đối với công tác thi đua, khen thưởng; phân tích vị trí, vai trò, ý
nghĩa của việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, công tác khen thưởng [52].
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn.
Một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí khoa học đề cập đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về thi đua, khen thưởng, như: Bài viết “Vận dụng tư tưởng thi đua yêu
nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đổi mới công tác thi đua, khen thưởng hiện
nay” của tác giả Trần Thị Hà, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số 216 (5-
2018). Bài viết phân tích, làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước
và các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Tác giả đã
khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc sẽ mãi mãi là ánh sáng chỉ
đường cho chúng ta về cách thức tổ chức và động viên lực lượng quần chúng tham
gia cách mạng” [24, tr.7]; bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vận
dụng trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay” của tác giả Hoàng Phúc Lâm,
đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 7/2020 đã tập trung phân tích, làm rõ những nội
dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, đồng thời, đặt ra yêu cầu
4
tiếp tục kế thừa, phát huy tư tưởng của Người về thi đua yêu nước và vận dụng một
cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của cách mạng nước ta hiện nay [29].
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng
Cuốn sách Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, yêu nước trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng của Trương Quốc Bảo, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2010 đã góp phần làm phong phú cơ sở lý luận vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
thi đua, khen thưởng. Trong đó, tác giả nhấn mạnh: hệ thống pháp luật thi đua,
khen thưởng hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn là cơ sở pháp lý vững chắc và
thuận lợi cho việc quản lý nhà nước về lĩnh vực thi đua, khen thưởng cũng như tổ
chức các phong trào thi đua, thực hiện công tác khen thưởng đạt hiệu quả tốt, làm
cho công tác thi đua, khen thưởng thực sự trở thành động lực phát triển đất nước
và công cụ quản lý của Nhà nước [4]. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
tác giả luận văn khi tác giả cuốn sách có cách tiếp cận khá mở trong việc phản ánh
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Năm 2010, Luận văn thạc sĩ Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở
Việt Nam của Đỗ Thúy Phượng đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về công tác thi
đua, khen thưởng; hệ thống hóa và đánh giá khái quát pháp luật về thi đua, khen
thưởng từ năm 1945 đến nay. Trong đó, tác giả đi sâu phân tích, đánh giá những
quy định pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng; đánh giá tình hình thực hiện
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện
nay [45]. Những gợi mở của công trình đã đóng góp tốt cho tác giả luận văn trong
quá trình triển khai thực hiện.
Trong đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi
mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay do Trần Thị Hà làm chủ nhiệm
(2013), đã chỉ rõ: đối tượng nghiên cứu đề tài là lý luận và thực tiễn đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng; phạm vi nghiên cứu của đề tài là lịch sử công tác khen
5
thưởng từ thời kỳ phong kiến và công tác thi đua, khen thưởng từ khi thành lập
nước cho đến nay, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, quy định của Đảng, Nhà nước ta về thi đua, khen thưởng. Bên cạnh đó,
công trình còn nghiên cứu chế độ chính sách khen thưởng của một số nước trên thế
giới như: Pháp, Bỉ, Nga, Nhật, Australia, Trung Quốc để rút ra những bài học vận
dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam [23].
Một trong những nội dung quan trọng của luận án tiến sĩ Pháp luật về thi
đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay của Phùng Ngọc Tấn (2016) cho rằng “pháp
luật về thi đua khen thưởng vẫn chưa hoàn thiện, còn có những mâu thuẫn, chồng
chéo, “nhận thức về pháp luật thi đua, khen thưởng có những biểu hiện lệch lạc,
nặng hình thức và chạy theo thành tích” [51, tr.1]. Luận án đã phân tích hệ thống
pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về thi đua, khen thưởng trong các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị và các đơn vị khác từ đó chỉ ra các nhu cầu hoàn thiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng nhằm đưa pháp luật thi đua, khen
thưởng vào trong đời sống xã hội hiện nay. Công trình là tài liệu tham khảo hữu ích
cho tác giả luận văn trong hướng nghiên cứu này.
Đề tài khoa học cấp Bộ Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay do Nguyễn
Thị Phương Lan làm chủ nhiệm (2016) đã phân tích, làm rõ thực trạng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
với những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân. Trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi
đua, khen thưởng từng bước đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ mới [28]. Kết quả nghiên
cứu của công trình có giá trị tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn.
Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về các giải pháp nhằm bảo đảm
việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
6
Trong cuốn Đẩy mạnh, nhân rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi đua yêu
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb. Thanh niên,
2010 đã khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, giới thiệu các bài viết
của nhiều tác giả trong việc vận dụng tư tưởng thi đua yêu nước của Hồ Chí Minh,
từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nhân rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi
đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng mới [20]. Những giải pháp được công
trình đề xuất đã gợi mở cho tác giả luận văn trong hướng nghiên cứu này.
Năm 2014, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
cộng sản Việt Nam Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công
tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay của Nguyễn Khắc Hà đã đưa
ra 6 nhóm giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách
công tác thi đua, khen thưởng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác thi đua,
khen thưởng trong những năm tiếp theo, trong đó tác giả nhấn mạnh: “Xây dựng
cán bộ lãnh đạo quản lý chuyên trách công tác TĐKT trong giai đoạn hiện nay là
vấn đề rất lớn, mới và khó cần được quan tâm chỉ đạo” [25, tr.175]. Công trình đã
gợi mở tốt cho tác giả luận văn khi đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm công tác tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ Phương pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu
quả cao trong giai đoạn hiện nay do Phạm Huy Giang làm chủ nhiệm (2015) đã
làm rõ cơ sở lý luận về thi đua và tổ chức phong trào thi đua, thực trạng tổ chức các
phong trào thi đua ở các địa phương, từ đó đề xuất một số phương pháp tổ chức
phong trào thi đua đạt hiệu quả cao trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, tác giả cho
rằng việc phát động và tổ chức các phong trào thi đua yêu nước cần phải có “những
đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp để tổ chức được các phong trào thi
đua yêu nước thiết thực, hiệu quả” [21, tr.90]. Các giải pháp mà công trình đưa ra là
tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả luận văn.
Tài liệu Báo cáo Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX, năm 2015 của
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Báo cáo đã tổng kết những thành tựu
7
cũng như hạn chế trong phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai
đoạn 2011 - 2015; đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2016 - 2020 [39]. Nội dung tài liệu rất có giá
trị tham khảo, nghiên cứu hoàn thiện các giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật về
thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu khác đăng trên các báo, tạp chí khoa học đề cập
đến sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng, đó là: bài
viết “Nâng cao chất lượng tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Đặng Văn Tùng, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số
214 (3-2018); bài viết “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn mới”
của tác giả Lê Ân Mai, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số 235 (12-2019);
bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen
thưởng” của tác giả Nguyễn Văn Hữu, đăng trên Tạp chí Thi đua Khen thưởng số
224 (9-2020)..v.v..Các bài viết đã mang tính gợi mở cho tác giả luận văn trong việc
nghiên cứu nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những góc độ khác
nhau về công tác thi đua, khen thưởng và việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Có thể khẳng định, kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước là
tài liệu tham khảo rất có giá trị đối với tác giả luận văn trong quá trình triển khai
thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay thì chưa có công trình nào chuyên sâu
nghiên cứu, trình bày thật hệ thống trên góc độ quản lý công. Vì vậy, luận văn dựa
trên sự kế thừa, bổ sung, phát triển những nội dung liên quan đến công tác thi đua,
khen thưởng và thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng của các đơn vị, địa
phương khác trong cả nước, kết hợp với nghiên cứu thực tế tại huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội, mong muốn hệ thống lại những kiến thức đã được học, các công
trình nghiên cứu đã được công bố để nghiên cứu thực trạng việc tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội trước yêu
cầu và nhiệm vụ mới. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
8
hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện Thường Tín nói riêng,
thành phố Hà Nội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Nghiên cứu lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng,
và phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay. Từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ
Một là, nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
Ba là, đề xuất được giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cũng như
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: trên địa bàn huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
9
Luận văn dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Đồng
thời, luận văn có kế thừa những thành tựu đạt được của một số công trình nghiên
cứu khoa học đã được công bố có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản và hiện đại
của khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử và lôgic, quy nạp và diễn dịch, đối
chứng và so sánh, liên ngành khoa học xã hội, đồng thời có sử dụng phương pháp
tổng kết thực tiễn để làm rõ nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết, sẽ góp
phần thiết thực vào việc luận giải và đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
hiện nay cũng như trong thời gian tới.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo và giảng dạy, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo cùng với công
trình nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài, nội dung của luận văn được cấu
trúc thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
10
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của thi đua
C.Mác và Ph.Ăngghen là một trong những người đầu tiên nghiên cứu một
cách khoa học về nguồn gốc, bản chất và nội dung của thi đua. Theo C.Mác -
Ph.Ăngghen, thi đua là một hiện tượng khách quan nảy sinh trong quá trình hợp tác
lao động và quan hệ xã hội. Khi phân tích quá trình hợp tác giữa con người với con
người, giữa con người với lao động sản xuất, C.Mác đã phát hiện ra đặc điểm tâm lý
thi đua của con người và ông đánh giá cao vai trò của hiệp tác trong lao động, là
nguồn gốc tạo nên thi đua: “Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người với sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua
và sự nâng cao theo lối đặc biệt, nghị lực sinh động làm tăng thêm nghị lực cho
riêng từng người” [10, tr.474]. Ông cũng cho rằng sự tiếp xúc xã hội trong quá trình
lao động sản xuất sẽ tạo ra thi đua và chính thi đua sẽ tạo ra sức mạnh tập thể lớn
hơn sức mạnh của từng lao động cá biệt, riêng lẻ từ đó làm tăng năng suất lao động
của người công nhân: “ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đẻ ra thi đua, cũng kích thích
nguyên khí (ani-mal spirit) làm tăng năng suất cá nhân của từng người riêng rẽ…
Đó là vì con người ta, do bản tính, nếu không phải là động vật chính trị như A-ri-
xtôt nói, thì dẫu sao cũng là một động vật xã hội” [11, tr.478].
Trên cơ sở những quan điểm nền tảng của C.Mác và Ph.Ăngghen về thi đua,
sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhà nước công nông đầu tiên trên
thế giới ra đời, để lãnh đạo xây dựng xã hội mới, V.I.Lênin coi thi đua là một nhiệm
vụ quan trọng trong phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Nhiệm vụ của
chúng ta hiện nay, khi Chính phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm quyền là tổ chức thi
đua” [43, tr.235], “tổ chức thi đua phải chiếm một địa vị quan trọng trong số những
nhiệm vụ kinh tế của chính quyền xô-viết” [44, tr.185]. Trong quá trình lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lênin nhận thấy chủ nghĩa xã hội là một
11
công trường lớn của thi đua tập thể, Người đã chỉ ra tính tất yếu cũng như mục đích
tốt đẹp của thi đua trong điều kiện xã hội mới, qua đó tinh thần thi đua, óc sáng kiến
của đông đảo quần chúng nhân dân mới được phát huy rộng rãi: “Chủ nghĩa xã hội
không những không dập tắt thi đua, mà trái lại lần đầu tiên đã tạo ra khả năng áp
dụng thi đua một cách rộng rãi, với một quy mô thật sự to lớn, tạo ra khả năng thu
hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt động khiến họ có thể tỏ rõ bản
lĩnh, dốc hết năng lực của mình, phát hiện những tài năng mà nhân dân sẵn có cả
một nguồn vô tận” [43, tr.234]. Bên cạnh đó, V.I.Lênin cho rằng xã hội chủ nghĩa
muốn tránh được những người ăn bám cần phải tổ chức cho toàn dân tham gia việc
kiểm kê, kiểm soát và để làm được điều đó, Người chỉ rõ “cần phải khơi những tài
năng tổ chức của họ, của những người có tài tổ chức của chính bản thân họ, xuất
phát từ hàng ngũ của họ; cần phải khêu gợi ở họ, - và tổ chức trong phạm vi toàn
quốc, - sự thi đua nhằm đạt những thành tích phải thực hiện về mặt tổ chức” [44,
tr.241] và “Tất cả các “công xã” - công xưởng, làng, hợp tác xã tiêu dùng, ban cung
cấp - đều phải cam kết thi đua với nhau trong việc tổ chức một cách thực tiễn việc
kiểm kê và kiểm soát sự lao động và sự phân phối sản phẩm” [43, tr.244].
Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc tư tưởng thi đua của các nhà kinh điển Mác xít
vào hoàn cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng,
đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Người đã gắn thi đua với lòng yêu
nước của dân tộc Việt Nam khi khẳng định:“Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức
là yêu nước” [34, tr.270]. Đồng thời, khi bàn luận về thi đua, Người đã chỉ ra cơ sở,
gốc rễ, nền tảng của thi đua chính từ các hoạt động thực tiễn hàng ngày: “Tưởng
lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc
hàng ngày chính là nền tảng thi đua” [33, tr.658]. Những luận điểm trên đã thể hiện
một cách độc đáo, sáng tạo quan niệm về thi đua của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
lấy thi đua làm động lực để phát huy lòng yêu nước, làm cho thi đua yêu nước trở
thành một phương pháp cách mạng mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Ngoài
quy luật tất yếu khách quan của thi đua trong hợp tác lao động trên lĩnh vực kinh tế,
Người đã mở rộng phạm vi của thi đua trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
12
với lực lượng tham gia thi đua là toàn thể nhân dân: “Bổn phận của người dân Việt
Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua
nhau: Làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều” [33, tr.444].
Với việc huy động sức mạnh của toàn thể nhân dân tham gia thi đua, trong
thi đua cần thực hiện tốt khâu đoàn kết, Người nói: “Thi đua không phải ganh đua,
giấu nghề. Thi đua có nghĩa là mọi người phát triển tài năng, sáng kiến của mình,
học hỏi điều hay lẫn nhau, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ”
[35, tr.417] và “Thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến
bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm. Và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi”
[34, tr.270]. Bản chất của thi đua không phải là sự cạnh tranh, ganh đua, thi đua sẽ
tạo lên động cơ trong sáng, lành mạnh, vì lợi ích của mọi người, lợi ích của tập thể,
“Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ
giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối
cùng” [33, tr.445].
Ý nghĩa của thi đua theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu nước, đoàn kết, hoàn
thành nhiệm vụ, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, rèn luyện và xây dựng
con người mới, “thi đua cải tạo con người” [36, tr.297]. Ý nghĩa đó có giá trị lớn về
thực tiễn không chỉ trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc trước đây, mà còn có giá trị
lý luận và thực tiễn trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Thi đua là cùng nhau đưa hết khả năng ra
nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất” [62, tr.1559].
Tại Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng (Văn bản hợp nhất số
16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng Quốc hội hợp nhất Luật Thi
đua, khen thưởng) ghi rõ: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự
nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng khái niệm
thi đua được quy định tại Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng làm cơ sở lý
luận về thi đua.
13
Qua các cách tiếp cận về thi đua có thể thấy, thi đua là hoạt động có tổ chức
với các nhiệm vụ chủ yếu như lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối
tượng, tổ chức phát động, ký giao ước thi đua, v.v... Người phát động phong trào thi
đua là người có thẩm quyền được quy định trong Luật Thi đua, Khen thưởng. Thi
đua diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tất cả các
thành phần, các tầng lớp xã hội từ đó nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân
về tư tưởng, chính trị, văn hóa, nhận thức xã hội, hướng mọi người đến những giá
trị tốt đẹp trong đời sống xã hội và giúp các cấp ủy Đảng, chính quyền triển khai
thực hiện các nhiệm vụ chính trị đạt hiệu quả. Thi đua hoạt động trên nguyên tắc tự
nguyện của mỗi tập thể, cá nhân khi tham gia. Thông qua hoạt động cùng nhau trên
tinh thần tự nguyện sẽ khơi dậy sự sáng tạo của mọi cá nhân, phát huy tính tích cực,
chủ động, cổ vũ, động viên, lôi cuốn các tầng lớp, lực lượng trong xã hội nêu cao
tinh thần trách nhiệm thực hiện có hiệu quả các nội dung, chỉ tiêu thi đua của cơ
quan, đơn vị, địa phương đã đặt ra. Thi đua hướng tới những mục tiêu rõ rệt và
nhằm thu được kết quả thành tích tốt nhất. Thi đua trong quản lý nhà nước là thi đua
ái quốc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt đảm bảo
sự phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ XXI nhằm hướng tới một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của khen thưởng
Trong các hình thái kinh tế xã hội, tùy thuộc vào bản chất của từng nhà nước
mà khen thưởng được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, trở thành một trong
những công cụ quản lý của nhà nước nhằm động viên, khuyến khích mọi người thực
hiện tốt những mục đích mà nhà nước đó hướng tới.
Khen thưởng có vai trò quan trọng đối với các triều đại phong kiến ở Việt
Nam, là một công cụ quản lý của nhà nước hướng tới các đối tượng khác nhau trong
xã hội với mục đích trọng dụng người đức, tài, ghi nhận công lao của những người
có nhiều đóng góp của cải, người có công trong: chiến đấu chống giặc ngoại xâm,
xây dựng triều chính, phát triển nông nghiệp, làm thủy lợi, người giữ gìn đạo lý
nhằm xây dựng, giữ gìn và bảo vệ nhà nước trước các thế lực thù địch. Các hình
14
thức khen thưởng cũng rất đa dạng. Tùy vào công trạng, đối với người còn sống sẽ
nhận được một hoặc nhiều hình thức khen thưởng như: được Vua ban Quốc tính (họ
vua), gia phong chức quan, thưởng lụa là, gấm vóc, thưởng quan tiền, được dựng
bia ghi công đức, được phong chức; đối với người đã mất: Vua đích thân làm văn
tế, giảm ăn, nghỉ coi trầu một ngày, truy phong, truy tặng hoặc gửi vàng bạc, lụa để
viếng, phong quan chức cho con, cấp ruộng cho con cháu thờ cúng. Bên cạnh đó,
khen thưởng là cơ sở để duy trì quyền lực thống trị, đánh giá sự mạnh yếu của một
triều đại. Khi bàn luận về khen thưởng trong xây dựng nhà nước phong kiến,
Nguyễn Trãi viết: Nhà nước thưởng nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh; nhà
nước thưởng, phạt nghiêm minh là nhà nước vững mạnh; nhà nước phạt nhiều hơn
thưởng là nhà nước đang suy tàn.
Kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, để
động viên mọi người hăng hái thi đua, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ngày 26/01/1946 với lời mở đầu: “Trong một
nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới
thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vậy Chính phủ ra Quốc lệnh rõ ràng gồm
có 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt, cho quân dân biết rõ những tội nên tránh,
những việc nên làm” [32, tr.163].
Trong đó, “Mười điều thưởng” trong Quốc lệnh được ban hành với nội
dung rất rõ ràng, cụ thể về những hành động, việc làm được khen thưởng:
“1. Nhà nào có ba con tòng quân sẽ được thưởng;
2. Ai lập được quân công sẽ được thưởng;
3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng;
4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng;
5. Ai làm việc công một cách ngay thẳng sẽ được thưởng;
6. Ai làm việc có ích cho nước nhà, dân tộc được dân chúng mến phục sẽ
được thưởng;
7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng;
8. Ai bắt được nhiều kẻ phản quốc sẽ được thưởng;
15
9. Ai liều mình vì việc công sẽ được thưởng;
10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng” [32, tr.163].
Việc quy định mười điểm thưởng trong Quốc lệnh chính là cơ sở pháp lý
đầu tiên về điều kiện khen thưởng, là minh chứng đầu tiên về chính sách trong
khen thưởng của Đảng và Nhà nước và đặt nền móng xây dựng ngành khen
thưởng ở nước ta.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Khen thưởng là khen và thưởng bằng hiện
vật xứng với thành tích, công lao: khen thưởng về thành tích lao động sáng tạo;
khen thưởng các học sinh giỏi” [62, tr.896].
Tại Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng (Văn bản hợp nhất số
16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 của Văn phòng Quốc hội hợp nhất Luật Thi
đua, Khen thưởng) ghi rõ: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh
công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có
thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở các lý luận trên về khen thưởng, trong giới hạn phạm vi nghiên
cứu của đề tài, tác giả luận văn sử dụng khái niệm về khen thưởng được quy định
trong Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng làm cơ sở lý luận về khen
thưởng, bởi khái niệm đã đảm bảo được tính thống nhất giữa tính chất, hình thức
và đối tượng khen thưởng.
Có thể thấy, khen thưởng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý
nhà nước nói riêng và tổ chức nói chung. Thể hiện trách nhiệm của tổ chức cũng
như người đứng đầu trong việc ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân.
Trong hoạt động quản lý nhà nước, khen thưởng là một trong những công cụ quan
trọng của Nhà nước; một hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm
vụ chính trị của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương; là biện pháp
cơ bản để đánh giá những cố gắng, thành tích đạt được cũng như các hoạt động
đóng góp của tập thể, cá nhân trong công việc và xã hội. Qua việc khen thưởng sẽ
phát huy mặt ưu điểm của từng cá nhân, từ đó tiếp tục khơi dậy sự sáng tạo, phát
16
huy trí tuệ, năng lực, tính tích cực của từng cá nhân cho sự phát triển của tổ chức
nói riêng và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung; đồng thời khen thưởng giúp
thúc đẩy tinh thần làm việc và tạo động lực để mọi cá nhân cố gắng đạt được
những kết quả tốt nhất nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức cũng như thực hiện
nhu cầu của bản thân.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít và tác động
biện chứng với nhau. Nói về mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch. “Gieo trồng”
có thể hiểu là hành động tự nguyện, tự giác, là quá trình phấn đấu của mỗi cá nhân
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc; còn “thu hoạch” là những thành quả đạt được qua
quá trình nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân, tập thể.
Mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen thưởng được thể hiện ở các
mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, thi đua là tiền đề của khen thưởng, tạo nên thành tích để khen
thưởng. Thông thường, khi phát động, tổ chức một phong trào thi đua sẽ gắn liền
với điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng. Bởi, qua hoạt động thi đua, mỗi cá nhân, tổ
chức sẽ phát huy trí tuệ, sức sáng tạo, sự đoàn kết để đạt được những mục đích mà
tổ chức hướng tới. Những công sức, hành động của mỗi cá nhân, tập thể sẽ tạo nên
các thành tích đạt được, từ những thành tích đó sẽ là cơ sở để tổ chức, nhà quản lý
xét chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu xuất sắc nhất để khen thưởng. Ở đâu có
phong trào thi đua mạnh mẽ, rộng khắp thì số lượt khen thưởng nhiều và ngược lại
nếu không có phong trào thi đua hoặc phong trào thi đua yếu, chưa có sức lan tỏa
thì nơi đó khen thưởng không chuẩn xác, không có khen thưởng. Tùy vào hình thức
thi đua sẽ có hình thức khen thưởng phù hợp (tặng cờ, giấy khen, bằng khen, chứng
nhận, ..v.v.).
Thứ hai, khen thưởng là động lực của thi đua, là bước tiếp sau của thi đua,
kết quả của thi đua, phản ánh chất lượng và hiệu quả của thi đua, là nhân tố thúc
đẩy thi đua phát triển. Tập thể, cá nhân được khen thưởng cảm thấy vinh dự, tự hào,
17
được trân trọng sẽ cố gắng, tích cực trong các công việc được giao và sẽ khích lệ
mọi người cùng tham gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò quan trọng của
khen thưởng trong thi đua: “Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ
biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém
cỏi” [34, tr.270]. Khen thưởng còn nhằm dẫn dắt phong trào thi đua, là định hướng
phát triển xã hội. Thực tiễn cho thấy, nơi nào thực hiện việc xét khen thưởng chính
xác, công bằng, đúng người, đúng việc sẽ động viên, khuyến khích, giáo dục, nêu
gương và nhân rộng các điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa trong từng tổ chức, từ đó
cổ vũ động viên mọi cá nhân học tập và noi theo, tạo tiền đề cho các phong trào thi
đua khác phát triển như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Vì khen thưởng
khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến kinh nghiệm ra cho
mọi ngành hoạt động” [35, tr.347]. Ngược lại, khi khen thưởng mang tính chất cào
bằng, khen thưởng tràn lan, thiếu sự chính xác, công khai, khen thưởng không kịp
thời hoặc chỉ có thi đua mà không có khen thưởng sẽ kìm hãm thi đua, khiến tổ
chức, cá nhân không có động lực để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu thi đua đã đề
ra, làm mất niềm tin của cá nhân, tổ chức. Không nghiêm minh trong khen thưởng
thì phong trào thi đua không thể trở thành động lực phát triển, mà dẫn đến bệnh
thành tích trong thi đua.
Bên cạnh mối quan hệ biện chứng, giữa thi đua và khen thưởng có sự độc
lập, không phụ thuộc vào nhau. Khi tham gia phong trào thi đua, mục tiêu cuối cùng
mà tổ chức, cá nhân hướng tới không phải để được khen thưởng mà chính là kết quả
trong thực hiện công việc, khẳng định năng lực, sự cống hiến cho tổ chức. Ngược
lại, có những hình thức khen thưởng không phản ánh kết quả trực tiếp từ phong trào
thi đua nhưng cũng có quan hệ nhất định với thi đua, ảnh hưởng từ phong trào thi
đua, phản ánh một góc của các phong trào thi đua như: khen đột xuất, khen thưởng
tổng kết thành tích kháng chiến, khen thưởng cống hiến, khen thưởng trong công
tác đối ngoại.
Tuy nhiên, không thể coi trọng thi đua hay khen thưởng, giữa thi đua và khen
thưởng luôn có sự tác động, bổ sung hỗ trợ cho nhau, là động lực trong phát triển
18
kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội, là cơ sở để
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: thi
đua và khen thưởng là công tác động viên chính trị, giáo dục tư tưởng, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa, đều là động lực phát triển xã hội theo hướng tốt
đẹp hơn.
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Khái niệm pháp luật về thi đua, khen thưởng
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cũng như nhà nước, pháp luật
là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật và nhà nước luôn có mối quan hệ
khăng khít, cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát
huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Bởi, pháp luật là “hệ thống quy tắc xử sự
chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước” [19, tr.212]. Vì vậy, nhà
nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực khi thiếu pháp luật; ngược lại pháp
luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực
nhà nước.
Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, tác động tới xã hội bằng
phương tiện đặc thù, đó là pháp luật. Pháp luật là ý chí của nhân dân được thể hiện
dưới dạng các văn bản quy phạm. Đối với các quá trình quản lý, pháp luật không
chỉ điều chỉnh, tác động mang tính pháp lý lên các quan hệ xã hội, mà còn là một
phương tiện quan trọng để hoàn thiện tổ chức quá trình đó. “Xưa nay, pháp luật bao
giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và
biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu thì vai trò của pháp luật
càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này
chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức” [22, tr.177].
19
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về thi đua, khen thưởng và từ những điều trình
bày trên, có thể hiểu pháp luật về thi đua, khen thưởng là những văn bản quy phạm
pháp luật quy định về công tác thi đua, khen thưởng do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
thi đua, khen thưởng.
Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Để làm rõ thuật ngữ “tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng”,
ngoài việc làm rõ thuật ngữ “pháp luật về thi đua, khen thưởng”, cần luận giải xuất
phát từ thuật ngữ “tổ chức” và “thực hiện pháp luật”.
Tổ chức với nghĩa danh từ được định nghĩa là tập hợp của hai hay nhiều người
làm việc, phối hợp với nhau để đạt kết quả chung. Trong khi đó, tổ chức với nghĩa
động từ là làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào đó có được hiệu
quả tốt nhất. Thuật ngữ tổ chức trong luận văn được tiếp cận với nghĩa động từ.
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu
lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có
hiệu lực trong thực tế. Do vậy, vấn đề quan trọng không chỉ ban hành đầy đủ các
quy định pháp luật mà tất cả những quy định pháp luật đã được ban hành đều phải
được thực hiện một cách chính xác, triệt để trong thực tế đời sống xã hội, thể hiện
quyền lực nhà nước có được tôn trọng, được thực thi trên thực tế hay không; đồng
thời tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo những
định hướng mong muốn có lợi cho xã hội, cho Nhà nước cũng như cho các cá nhân.
Bản chất thực hiện pháp luật “là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của
pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [26, tr.310].
Đối chiếu vào lĩnh vực pháp luật và quản lý nhà nước, có thể thấy ý nghĩa
hàm chứa trong thuật ngữ “tổ chức thực hiện pháp luật” là hoạt động có mục đích
nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội, trở
thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Nếu như thực hiện pháp luật do rất nhiều chủ thể khác nhau thực hiện bao
gồm cơ quan nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã hội nhưng đối với tổ chức
20
thực hiện pháp luật, xét dưới góc độ thuật ngữ “tổ chức” và trên phương diện lý
luận về nhà nước và pháp luật thì chủ thể trong tổ chức thực hiện pháp luật là cơ
quan nhà nước phù hợp và đầy đủ thẩm quyền hơn. Thực tế cho thấy có những
trường hợp không có sự can thiệp của Nhà nước thì nhiều quy định của pháp luật sẽ
không được thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng, chưa kịp thời. Do vậy, các chủ thể
pháp luật khi thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước
hay của cán bộ, công chức có thẩm quyền sẽ đảm bảo cho các quy định pháp luật
được thực hiện triệt để, hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào các quan hệ xã hội.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng là hoạt động sắp xếp, định hướng một cách có tổ chức, có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch và thường xuyên, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, làm
cho các quy định pháp luật vận hành trong đời sống xã hội.
Đặc điểm của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Thứ nhất, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện để triển
khai các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng vào thực tế cuộc sống. Ở đâu
có quản lý nhà nước ở đó có việc tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và thi đua,
khen thưởng nói riêng. Chính vì thế, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng là nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là
thẩm quyền của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp với các hoạt có mục đích,
có kế hoạch và triển khai thực hiện thường xuyên.
Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng hướng tới nhiều
thành phần trong xã hội gắn với lao động, sản xuất, học tập, công tác và chiến đấu,
bao gồm cá nhân, tập thể người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và cá
nhân, tập thể người nước ngoài. Không phân biệt độ tuổi, giới tính, thành phần dân
tộc, tôn giáo. Bởi đối tượng, phạm vi của thi đua, khen thưởng hết sức rộng rãi,
không giới hạn ở một lĩnh vực, ngành nào, người nào, bất kỳ công việc gì ích nước,
lợi nhà, vô luận ở địa vị nào đều có thể tham gia thi đua và được khen thưởng như
21
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “người người phải thi đua, ngành ngành phải thi đua. Ai
làm việc gì, nghề gì cũng thi đua làm cho nhanh, cho tốt, cho nhiều” [34, tr.236].
Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng phải tuân theo
những hình thức và thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật về các nguyên tắc,
hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn, thủ tục và hồ sơ trong quá trình thực hiện hoạt
động thi đua, khen thưởng. Pháp luật thi đua, khen thưởng là khung pháp lý để các
cơ quan hành chính nhà nước triển khai các quy định pháp luật thi đua, khen thưởng
vào cuộc sống được hiệu quả, tạo cơ sở cho việc đảm bảo thực hiện các chủ trương,
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, trong quá trình tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng cần phải thực hiện theo những nguyên tắc,
trình tự, thủ tục cụ thể theo quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thi
đua, khen thưởng nói riêng.
Thứ tư, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng đòi hỏi tính sáng
tạo, chủ động và vận dụng linh hoạt trong quá trình triển khai thực hiện. Bởi đây là
bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng được ban hành để
đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự chung, làm cho các yêu
cầu, quy định của văn bản pháp luật trở thành hiện thực. Tuy nhiên, xã hội luôn vận
động, phát triển và không phải lúc nào pháp luật cũng dự liệu hết được mọi tình
huống trong thực tế nảy sinh. Trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định
còn chồng chéo, chưa đồng bộ, chưa rõ ràng thì chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật
phải biết vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, không dập khuôn máy móc, tạo
động lực cho tổ chức, cá nhân phát huy năng lực, cống hiến vì mục tiêu của tổ chức.
Bên cạnh đó, hiệu quả thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng phụ thuộc vào
đặc điểm, tính chất, đối tượng, phạm vi khác nhau ở từng cơ quan, đơn vị, từng địa
phương mà pháp luật thi đua, khen thưởng không bao trùm hết được. Vì vậy, các cơ
quan, đơn vị, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để chủ động
thực hiện thi đua, khen thưởng phù hợp với đặc điểm, tình hình của đơn vị mình và
đảm bảo tuân thủ các quy định chung của Luật Thi đua, Khen thưởng.
1.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
22
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng là một nội dung quản lý
nhà nước, là hoạt động có mục đích do các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành
nhằm thiết lập và duy trì trật tự pháp luật. Theo Luật Thi đua, Khen thưởng, chủ thể
tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng bao gồm:
* Các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng từ trung ương đến địa phương:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm
vi cả nước.
Cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương có trách
nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trong phạm vi địa phương mình theo quy định của pháp luật.
Trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, ở mỗi cấp sẽ
thành lập Hội đồng Thi đua - Khen thưởng để tham mưu, tư vấn cho thủ trưởng đơn
vị về công tác thi đua, khen thưởng, cụ thể:
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng trung ương là cơ quan tham mưu, tư vấn
cho Đảng và Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Cơ quan chuyên trách thi
đua, khen thưởng ở trung ương là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng trung ương.
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp và Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng tại cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tham mưu, tư vấn cho cấp ủy đảng,
chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về công tác thi đua,
khen thưởng.
* Ngoài các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp trong tổ chức thực hiện pháp
luật về thi đua, khen thưởng, còn có các chủ thể là các cơ quan, tổ chức được quy
định trong Luật Thi đua, Khen thưởng, đó là: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý thi đua,
23
khen thưởng trong phạm vi ngành. Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội căn cứ vào quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản
khác có liên quan thực hiện quản lý thi đua, khen thưởng trong phạm vi tổ chức
mình. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền,
phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, cổ động phong trào
thi đua, khen thưởng.
1.2.3. Vai trò của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Xuất phát từ khái niệm và đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng, có thể thấy tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng có vai
trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý và đời sống xã hội nhằm giúp các
nhà quản lý nhận thức rõ sự cần thiết, ý nghĩa của công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về thi đua, khen thưởng, từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
thi đua, công tác khen thưởng, góp phần đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Một là, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng nhằm nâng cao
vai trò quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong các cơ quan nhà nước; thể
chế hóa và hoàn chỉnh các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng. Làm rõ thẩm
quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành và các cá nhân từ
trung ương đến địa phương trong công tác thi đua, khen thưởng. Từ đó, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành.
Thông qua tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng, các cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền theo quy định sẽ cụ thể hóa các hình thức tổ chức thi đua,
phạm vi thi đua, nội dung thi đua trong phát động phong trào thi đua của địa
phương, đơn vị và thực hiện khen thưởng theo đúng thẩm quyền, quy định của pháp
luật. Công tác thi đua, khen thưởng được ví như “bề nổi” trong chức năng, nhiệm
vụ của tổ chức. Nếu thực hiện không tốt, sẽ tạo dư luận không hay trong xã hội, mất
phong trào thi đua, khen thưởng không được coi trọng. Vì vậy, việc tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng cần được quan tâm, coi trọng, là công cụ
24
quản lý giúp các cơ quan nhà nước đạt được mục tiêu đề ra, tạo động lực góp phần
thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh,
tạo niềm tin của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức đối với cơ quan nhà nước.
Hai là, thông qua tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng sẽ
ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm trong tổ chức, phát động thi đua, khắc phục bệnh
thành tích trong công tác khen thưởng, giải quyết kịp thời các vi phạm pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng. Pháp
luật về thi đua, khen thưởng là một bộ phận của pháp luật nói chung, đòi hỏi các
chủ thể cần có nhận thức đúng đắn về tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của thi đua,
khen thưởng, từ đó chủ động đề ra biện pháp và tự giác trong thực hiện. Thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng một cách nghiêm chỉnh sẽ giúp các chủ thể có thể
ngăn ngừa và hạn chế những vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Đồng thời
sẽ phát hiện được những sai sót để điều chỉnh hoặc xử lý kịp thời.
Ba là, tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng góp phần đưa
pháp luật về thi đua, khen thưởng vào đời sống xã hội, phổ biến, tuyên truyền cho
mọi công dân, tổ chức hiểu và hưởng ứng tham gia thi đua. Qua đó, phát hiện, nêu
gương và nhân rộng các điển hình tiên tiến, lấy việc làm tốt từ đó hạn chế, đẩy lùi
mặt tiêu cực trong xã hội để “mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc là một
vườn hoa đẹp”. Đồng thời, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham
gia đóng góp ý kiến vào các văn bản pháp luật của Nhà nước, xem xét thành tích
của những tập thể, cá nhân đề nghị khen thưởng và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân khi tham gia vào các hoạt động thi đua.
1.2.4. Nội dung của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Thứ nhất, xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng
Nhà nước quản lý công tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Văn bản
pháp luật luôn là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản
lý công tác thi đua, khen thưởng nói riêng. Để không ngừng nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động thi đua, khen thưởng và tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ
25
chức tốt công tác thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước, Nhà nước đã chú
trọng và ban hành nhiều văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng thể hiện, cụ thể hóa quan điểm,
đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng và tạo ra hành lang pháp lý để
các cơ quan nhà nước căn cứ vào đó thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng; đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng, phát huy lòng nhiệt
tình hăng hái tham gia thi đua và đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng
của các tổ chức, cá nhân trong lao động, sản xuất, công tác, học tập, đóng góp vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nội dung trọng tâm và hình thức thể hiện
của các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng được ban hành tùy vào từng giai
đoạn lịch sử, cụ thể:
Văn bản pháp luật đầu tiên về thi đua, khen thưởng là Quốc lệnh được Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký, ban hành trong cả nước vào ngày 26/01/1946. Quốc lệnh ban
hành 10 điều thưởng phạt và nêu rõ 10 loại công việc, thành tích cần được kịp thời
khen thưởng.
Để cụ thể hóa Quốc lệnh và đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng,
từ năm 1946 đến năm 1998, Nhà nước đã ban hành các sắc lệnh, quyết nghị, pháp
lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ thị để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen
thưởng. Các văn bản pháp luật giai đoạn này chủ yếu hướng dẫn khen thưởng thành
tích kháng chiến với việc ban hành nhiều loại huân chương, huy chương, danh hiệu
vinh dự Nhà nước, giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước... đã khơi dậy
và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đầu khi đất nước chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác thi đua, khen thưởng đã có lúc bị
buông lỏng, chưa thực sự trở thành động lực cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân hăng hái
tham gia thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
Trước tình hình trên, Bộ Chính trị đã ban hành các Chỉ thị số 35-CT/TW ngày
26
03/6/1998; Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 và Chỉ thị số 34-CT/TW ngày
07/4/2014 về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. Nhằm pháp luật hóa, thể chế
hóa đường lối, chính sách của Đảng về thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới,
Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Ngày 26/11/2003, Quốc hội chính thức thông qua Luật Thi đua, Khen thưởng; tiếp
tục sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013. Đây là văn bản pháp lý có hiệu lực cao
nhất để tổ chức triển khai công tác thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước, là
cơ sở quan trọng để hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thi đua,
khen thưởng và tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng. Để việc tổ chức triển khai Luật Thi đua, Khen thưởng được đồng bộ, toàn
diện, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc, Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn
thi hành Luật: Nghị định 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Nghị định số 122/2005/NĐ-CP
ngày 04/10/2005 quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng; Nghị định số
50/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 quy định mẫu Huân chương, Huy chương, Huy
hiệu, Bằng Huân chương, Bằng Huy chương, Cờ thi đua, Bằng khen, Giấy khen.
Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
đua, Khen thưởng; Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Nghị định số
65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013; Nghị định số 91/2017/NĐ-
CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Thi đua, Khen thưởng.
27
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, đơn vị đã đề ra những
quy định cụ thể về thi đua, khen thưởng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều
kiện thực tế tại cơ quan, đơn vị, địa phương, từ đó từng bước đưa Luật Thi đua,
Khen thưởng vào cuộc sống. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Muốn đưa Luật vào thực tiễn,
từng đơn vị, địa phương cụ thể hóa bằng các văn bản quy phạm hoặc cá biệt để
hướng dẫn thi hành, là cơ sở để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.
Thứ hai, tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Một là, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thi đua, khen thưởng
và thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng là hoạt động có mục
đích, là quá trình làm cho những quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng đi
vào thực tiễn, giúp cho tổ chức, cá nhân nắm được mục đích, ý nghĩa cũng như tiêu
chuẩn, nội dung của thi đua, khen thưởng để rèn luyện, phấn đấu. Vì vậy, công tác
tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cấp, các ngành, các địa
phương, đơn vị khi thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.
Tùy thuộc vào yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau, mỗi ngành,
mỗi cấp sẽ có các cách thức tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về thi đua,
khen thưởng khác nhau nhưng mục tiêu chung nhằm tạo nên sự thống nhất và hành
động trong tổ chức, đơn vị, sự đồng thuận trong xã hội, từ đó cổ vũ quần chúng
nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội nhà nước đã đề ra.
Đối với cấp trung ương, Nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn các văn bản như nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, hướng
dẫn, tập huấn thi đua, tổ chức hội thảo, xuất bản tạp chí của Ban Thi đua - Khen
thưởng trung ương về thi đua, khen thưởng.v.v.. nhằm quán triệt mục đích, yêu cầu,
nội dung của các quy định pháp luật đồng thời hướng dẫn các ngành, các địa
phương tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng, tạo sự
28
thống nhất trong nhận thức và hành động. Các nội dung trọng tâm trong công tác
tuyên tuyền: tuyên truyền về tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng;
tổ chức tuyên truyền nhân rộng những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt,
lựa chọn tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong phong trào thi đua để biểu
dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời.
Đối với cấp địa phương, đặc biệt là cấp huyện, sau khi được hướng dẫn tổ
chức thực hiện trên cơ sở các văn bản của trung ương và cấp tỉnh, chính quyền cấp
huyện vận dụng vào đặc điểm cụ thể của địa phương từ đó có kế hoạch tuyên tuyền,
phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen
thưởng phù hợp, theo đúng quy trình, quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng;
đồng thời nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, kịp thời khen
thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong các phong trào thi đua, tạo
niềm tin và động lực thúc đẩy các tầng lớp nhân dân tham gia thi đua trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Hai là, tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
làm công tác thi đua, khen thưởng
Trong bất cứ tổ chức nào, nguồn nhân lực luôn đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Vai trò quan trọng đó xuất phát từ vị trí quan trọng của con người trong tổ
chức. Không có con người trong tổ chức không thể đạt được các mục tiêu tổ chức
đề ra. Hiệu quả hoạt động của tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động
của mỗi thành viên trong tổ chức. Trong bộ máy nhà nước, đó chính là đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Cán bộ là gốc của mọi
công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu” [33,
tr.269]. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách đều bắt nguồn từ đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức với những tham mưu, đề xuất để tổ chức thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen
thưởng sẽ càng đặt ra những yêu cầu cao về phẩm chất, năng lực chuyên môn, có
29
đầy đủ uy tín, tinh thần trách nhiệm cao, công minh, công tâm, tâm huyết trong
công tác góp phần làm cho phong trào thi đua yêu nước có sức lan tỏa sâu rộng
trong xã hội, thực hiện thắng lợi các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tại Điều 59, Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng đã nêu rõ
trách nhiệm của các cơ quan trong việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng như sau: Ban Thi đua -
Khen thưởng Trung ương có trách nhiệm xây dựng nội dung, chương trình, giáo
trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước; phối hợp với Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng nội dung chương trình, giáo trình, tài liệu đào
tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ thi đua, khen thưởng để đưa vào giảng dạy trong hệ
thống các trường chính trị trên toàn quốc. Cơ quan chuyên trách làm công tác thi
đua, khen thưởng các cấp xây dựng kế hoạch hàng năm để tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm thi đua, khen thưởng.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác thi đua, khen thưởng gồm có bồi dưỡng về phẩm chất chính trị và bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, giúp cán bộ, công chức, viên chức nâng cao sự
hiểu biết về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về
thi đua, khen thưởng; nâng cao nghiệp vụ trong tổ chức các hoạt động thi đua, nắm
vững các tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng, qua đó thúc đẩy các
phong trào thi đua phát triển, công tác tham mưu khen thưởng được kịp thời, khen
đúng và trúng; lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân, của cán bộ cơ sở để có
những tham mưu, đề xuất với cơ quan nhà nước trong thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng như Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Nắm vững chính sách, đi đúng
đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ” [34, tr.346].
Ba là, sơ kết, tổng kết, đánh giá hoạt động thi đua, khen thưởng
30
Sơ kết, tổng kết, đánh giá hoạt động thi đua, khen thưởng là việc làm không
thể thiếu qua mỗi đợt thi đua và không thể xem nhẹ trong công tác quản lý nhà nước
về thi đua, khen thưởng. Bởi sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá những việc đã làm
được, đồng thời xem khâu nào còn gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ
chức thực hiện để rút ra bài học kinh nghiệm, nhìn nhận bất cập và đề ra giải pháp
kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp yêu cầu của thực tiễn
xã hội. Trong tổng kết, đánh giá hoạt động thi đua, khen thưởng cần thẳng thắn chỉ
rõ những ưu điểm, hạn chế, tránh chung chung, hình thức, che dấu hạn chế.
Nội dung sơ kết, tổng kết cần đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức các phong trào thi đua
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội; kết quả đạt được trong việc
tổ chức các phong trào thi đua, từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm, các
hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức phong trào thi đua có hiệu quả cũng
như chỉ ra các hạn chế và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thi
đua, khen thưởng; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng trong lãnh đạo, chỉ đạo và
các nhiệm vụ cần thực hiện để nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua, công tác
khen thưởng trong các giai đoạn tiếp theo.
Thông qua sơ kết, tổng kết góp phần tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp
thời và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, những mô hình
hay, cách làm mới và làm chuẩn hóa công tác tổ chức trao thưởng, đón nhận các
danh hiệu thi đua, tránh hình thức, phô trương, tốn kém mà không hiệu quả.
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
Trong công tác quản lý nhà nước, ngoài hoạt động quản lý còn có chức năng
thanh tra, kiểm tra các cơ quan, đơn vị nhằm đánh giá việc thực hiện chính sách
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân
dân; đồng thời ghi nhận những quy định còn bất cập khi áp dụng vào thực tiễn để có
cơ sở kiến nghị bổ sung.
31
Trong quá trình tổ chức thực hiện phong trào thi đua, nếu thiếu sự kiểm tra,
giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sẽ dẫn tới tình trạng phát động là
do cơ quan cấp trên còn thực hiện như thế nào là do cấp dưới, thi đua “có phát”
nhưng “không động”, dẫn đến bệnh quan liêu trong bình xét khen thưởng. Thực tế,
không phải cơ quan, đơn vị, địa phương nào cũng quan tâm thực hiện đầy đủ các
quy định của nhà nước về thi đua, khen thưởng; nhiều văn bản cấp trên ban hành
nhưng cấp dưới không thực hiện, không thực hiện đúng theo hướng dẫn, yêu cầu
của cấp trên và cách hiểu của mỗi địa phương, đơn vị có sự khác nhau, chưa thống
nhất. Trong quá trình bình xét thi đua còn có sự nể nang, thiên vị, mang ý chí chủ
quan của đội ngũ làm thi đua, khen thưởng, của nhà lãnh đạo, khai man thành tích
của tập thể, cá nhân đề nghị khen thưởng, dẫn đến các vi phạm, đơn thư, trong khi
đó nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, công khai, đoàn kết cùng phát
triển và nguyên tắc của khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng, kịp thời.
Vì vậy, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là một trong những nội dung của tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nội dung kiểm tra tập trung vào việc tổ chức quán triệt, chấp hành và triển
khai thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng, các văn bản hướng dẫn thi hành; kiểm
tra việc thực hiện chính sách khen thưởng, v.v...Hình thức kiểm tra có thể thông qua
báo cáo, kiểm tra theo lịch hoặc kiểm tra đột xuất khi thấy có khiếu nại, tố cáo; thời
gian kiểm tra có thể thực hiện theo tháng, quý, năm hoặc theo từng đợt phát động
phong trào thi đua. Kết thúc thanh tra, kiểm tra, các cơ quan nhà nước phải có đánh
giá, kết luận từ đó chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm trong việc tổ chức thực hiện
các quy định thi đua, khen thưởng ở các cơ quan, đơn vị được kiểm tra, góp phần
đảm bảo các quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thật
sự đi vào đời sống xã hội; tạo niềm tin trong nhân dân, là động lực thúc đẩy mọi tổ
chức, cá nhân thi đua phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương nói riêng và đất
nước nói chung.
Bên cạnh công tác thanh tra, kiểm tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm trong thi đua, khen thưởng cần được các cấp, các ngành, các cơ quan,
32
đơn vị quan tâm giải quyết. Bởi, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng có thể xuất hiện những đơn thư khiếu nại của quần chúng nhân dân
về khen sai, khen chưa đúng tiêu chuẩn, phát hiện những tập thể, cá nhân khai man
thành tích, thực hiện không đúng chính sách về khen thưởng theo Luật định.
Để quá trình thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng thực sự đi vào cuộc
sống, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự giác, chính xác, công khai, công bằng và
kịp thời trong hoạt động thi đua, khen thưởng, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải
quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý những vi phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng phải trở thành một hoạt động thường xuyên trong công tác quản lý nhà nước
về thi đua, khen thưởng.
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thƣởng
1.3.1. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế là một trong những yếu tố cần thiết, tác động trực tiếp tới tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng, thể hiện trên các phương diện
khác nhau từ vĩ mô đến vi mô. Phạm vi toàn xã hội, đó là điều kiện kinh tế - xã hội,
cơ chế kinh tế; phạm vi cơ quan, tổ chức đó là kinh phí hoạt động, trọng tâm là kinh
phí thực hiện thông qua quỹ thi đua, khen thưởng theo Luật định.
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng sẽ đạt hiệu quả cao khi
mà điều kiện kinh tế phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa giúp các chủ thể thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng có đủ nguồn lực
vật chất bảo đảm thực hiện, cũng là điều kiện để nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng sẽ có điều kiện để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc hiện
đại; quỹ thi đua, khen thưởng được tăng lên thông qua nguồn thu từ ngân sách, sự
đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, của cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước cùng với các nguồn thu hợp pháp khác giúp các cơ quan, tổ chức thực hiện các
hoạt động về thi đua, khen thưởng được kịp thời, thường xuyên và hướng đến nhiều
thành phần trong xã hội, đồng thời chế độ đãi ngộ đối với công chức thực hiện công
33
tác thi đua, khen thưởng được nâng cao, tạo động lực thúc đẩy họ trách nhiệm hơn
trong công việc. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân
được nâng lên, việc tiếp cận thông tin về các hoạt động thi đua sẽ nhanh chóng, dễ
dàng hơn, giúp các cá nhân hiểu và tích cực tham gia thi đua trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ đó tiếp tục thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bên cạnh đó, yếu tố kinh tế với mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động
tiêu cực đến phong trào thi đua và công tác khen thưởng. Một bộ phận các tổ chức,
cá nhân chạy theo lối sống thực dụng, danh lợi, tham nhũng, vì đồng tiền để gây
khó khăn trong quá trình xét thi đua, khen thưởng và dùng tiền để chạy thi đua,
chạy khen thưởng bằng mọi giá nhằm tạo cơ sở, bước đệm “thăng quan tiến chức”,
đánh bóng tên tuổi, thương hiệu. Các mặt tiêu cực đó sẽ làm giảm sút vai trò của thi
đua, khen thưởng cũng như niềm tin, tinh thần tự nguyện tham gia thi đua của các tổ
chức, cá nhân đồng thời tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội góp
phần làm sâu sắc hơn những bất bình đẳng trong xã hội, tạo ra sự chênh lệch giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội.
1.3.2. Yếu tố chính trị
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước
là trung tâm, là tổ chức cốt yếu để thực thi quyền lực của nhân dân. Bên cạnh đó, hệ
thống chính trị còn bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, sự vận hành của
hệ thống pháp luật trên các phương diện xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật
luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà
nước, trong đó có pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác thi đua, khen
thưởng là cơ sở, tiền đề để cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện thành các
văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng theo nguyên tắc đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của nhà nước; là những quan
điểm chỉ đạo, định hướng quan trọng để các cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Chỉ thị số 35-CT/TW
ngày 03/6/1998 của Bộ Chính trị (1998) về đổi mới công tác thi đua - khen thưởng
34
trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi
đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới,
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với công tác thi đua,
khen thưởng, kiện toàn và đổi mới tổ chức, cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua
khen thưởng, đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng”. Sự tác động của
yếu tố chính trị thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam còn được
quy định trong các tiêu chuẩn về danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng như:
gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước;
tổ chức Đảng trong sạch.
Yếu tố chính trị còn thể hiện ở tác động, ảnh hưởng của Nhà nước trong tổ
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Nhà nước là trụ cột của hệ thống
chính trị, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời
sống xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật,
vì vậy bản chất và các biểu hiện chính trị của Nhà nước thể hiện thông qua các quy
định về chế độ chính trị trong Hiến pháp, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong việc thực hiện pháp luật nói
chung và tổ chức thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng nói riêng, được cụ thể
hóa qua quy định chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước khi bình xét thi đua, đề nghị khen thưởng.
1.3.3. Yếu tố văn hóa, thông tin
Văn hóa là một trong các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng. Nghị quyết của Đảng đã khẳng định “Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước. Văn hóa
phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội” [16, tr.48].
Pháp luật về thi đua, khen thưởng hướng tới mọi thành phần trong xã hội và
được thực hiện trong phạm vi cả nước. Nền văn hóa của các dân tộc, của từng địa
phương có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Nếu cách thức tổ chức thực hiện không phù hợp với văn hóa của địa
35
phương thì sẽ không được người dân địa phương đón nhận, thực hiện và việc tổ
chức các hoạt động thi đua, khen thưởng sẽ không đạt hiệu quả đề ra.
Văn hóa thể hiện sự bình đẳng, công bằng giữa các đối tượng, thành phần
trong xã hội. Việc ban hành chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng phải thể
hiện được yếu tố công bằng, bình đẳng trong tham gia thi đua và bình xét khen
thưởng. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền tham gia phong trào thi đua và khi xét
khen thưởng cũng phải công bằng, bình đẳng, không phân biệt và hạn chế. Công
bằng không đồng nghĩa với cào bằng, mà phải lựa chọn những tập thể, cá nhân tiêu
biểu nhất. Yếu tố văn hóa còn thể hiện ở thái độ, phong cách làm việc, ý thức trách
nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng, tác động đến quá
trình thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng tại địa phương, đơn vị. Mọi
công dân bình đẳng trước pháp luật, người thực hiện tốt trách nhiệm của mình, giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, có tấm lòng nhân ái, giúp
đỡ những người xung quanh, trở thành các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc
tốt sẽ được Nhà nước khen thưởng và thông qua đó là nhân tố để công tác thi đua,
khen thưởng tuyên truyền, nhân rộng, thúc đẩy mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội
tích cực tham gia thi đua.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, các thông
tin luôn được mọi tổ chức, cá nhân cập nhật nhanh chóng. Trên các phương tiện
thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự kiện pháp luật
xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp xã hội và của
các cơ quan chức năng, nêu lên những tấm gương điển hình người tốt việc tốt trong
việc thực hiện pháp luật..v.v.. Những thông tin đó ở chừng mực khác nhau tác động
đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân, khiến cho họ thực hiện pháp
luật nói chung và pháp luật về thi đua, khen thưởng tốt hơn.
Đối với cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng, công
nghệ thông tin giúp cơ quan nhà nước ban hành văn bản pháp luật kịp thời; giao
lưu, tiếp thu, học hỏi các cách thức tổ chức thực hiện để đưa pháp luật thi đua, khen
thưởng vào cuộc sống một cách chính xác; việc tuyên truyền các điển hình tiên tiến,
36
gương người tốt việc tốt được nhanh chóng, tạo sức lan tỏa rộng rãi; thực hiện khen
thưởng minh bạch, kịp thời và dễ dàng tra cứu cũng như lưu trữ hồ sơ khen thưởng.
Qua thông tin mạng internet, báo chí điện tử giúp nhà quản lý nắm bắt được các
quan hệ xã hội đang nảy sinh trong xã hội, các dư luận xã hội đang và sẽ xảy ra để
có những điều chỉnh trong tổ chức triển khai các phong trào thi đua cũng như kịp
thời biểu dương, khen thưởng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội, công nghệ thông tin giúp tổ chức,
cá nhân tiếp cận nhanh, dễ dàng tra cứu các văn bản về thi đua, khen thưởng, các
phong trào thi đua để tham gia thực hiện và thực hiện đề nghị khen thưởng kịp thời,
giảm các tiêu cực trong quá trình đề nghị khen thưởng qua hệ thống dịch vụ công
trực tuyến. Đồng thời giúp nhân dân giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến vào công
tác thi đua, khen thưởng, phát hiện những tiêu cực trong khen thưởng, đặc biệt là
khen thưởng cấp Nhà nước.
1.3.4. Yếu tố năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức
Đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nước, đặc biệt trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng. Hiệu lực, hiệu quả của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung, xét đến cùng được quyết
định bởi phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Bởi,
“cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [33, tr.269].
Mặc dù vậy, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn trong hoạch
định, tổ chức thực hiện, cũng như trong thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi
phạm đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng hiện nay của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức vẫn còn nhiều hạn chế. Chất lượng xây
dựng pháp luật về thi đua, khen thưởng còn thấp so với thực tiễn, dẫn đến việc “dễ
37
thông qua nhưng khó thi hành” ở cấp vĩ mô. Quy trình làm luật hiện nay chỉ coi
trọng mặt chính sách, giải trình nội dung chính sách hay luật mà không đòi hỏi giải
trình về mặt kỹ thuật tổ chức thực hiện, nhất là về mặt thanh tra, kiểm soát. Thậm
chí, không ít pháp luật về thi đua, khen thưởng của Nhà nước ban hành đúng, song
do sự chuyên nghiệp và ý thức chuyên nghiệp trong thực thi công vụ của một bộ
phận cán bộ, công chức yếu kém, nên khiến cho tổ chức pháp luật về thi đua, khen
thưởng chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
Tiểu kết chƣơng 1
Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng có vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động đời sống xã hội, góp phần đưa Luật Thi đua, Khen thưởng
vào thực tiễn, theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tạo
động lực lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu
nước, năng động, sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghiên cứu một số lý luận cơ bản về thi đua, khen thưởng, pháp luật thi đua,
khen thưởng từ đó đưa ra khái niệm, đặc điểm, chủ thể, vai trò, nội dung tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng là nền tảng, cơ sở để nghiên cứu sâu
hơn việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội. Để từ đó có những nhìn nhận, đánh giá sát thực
nhất và đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THƢỜNG TÍN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen
thƣởng trên địa bàn huyện Thƣờng Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
2.1.1. Kết quả và nguyên nhân của những kết quả đạt được trong xây
dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Kết quả đạt được trong xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Huyện Thường Tín là huyện đồng bằng nằm ở phía nam thành phố Hà Nội,
có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và an ninh quốc phòng. Diện tích tự nhiên là 127,59 km2, dân số trên 249.000 người; có 28 xã, 01 thị trấn.
Với hệ thống hạ tầng giao thông thuận lợi: đường thủy sông Hồng, đường sắt bắc
nam, đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ, Quốc lộ 1A, Tỉnh lộ 427 và 429. Phía
đông giáp với huyện Khoái Châu, Hưng Yên (với sông Hồng là ranh giới tự nhiên),
phía tây giáp huyện Thanh Oai, phía nam giáp huyện Phú Xuyên, phía bắc giáp
huyện Thanh Trì.
Nằm giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, diện tích rộng, dân số đông dồi dào,
giao thông thủy bộ thuận lợi, Thường Tín có tiềm năng và điều kiện phát triển kinh
tế nông nghiệp, giao lưu thương mại, có sắc thái của một huyện ven đô. Với đầu óc
sáng tạo và đôi bàn tay tài hoa, người dân Thường Tín sớm làm được nhiều sản
phẩm phục vụ dân sinh và trở thành miền quê “đất trăm nghề”. Thường Tín có 126
làng có nghề với khoảng 12.500 cơ sở sản xuất và hàng trăm doanh nghiệp sản xuất
trong lĩnh vực nghề truyền thống. Nhiều nghề có tính chất cổ truyền và nổi tiếng như
mây tre đan (Ninh Sở), điêu khắc (Hiền Giang), tiện gỗ (Nhị Khê), thêu ren (Thắng
Lợi, Quất Động), sơn mài (Duyên Thái), lược sừng (Thụy Ứng)… Hiện nay, nhều
sản phẩm của các làng nghề truyền thống trong huyện đã được bạn bè trong và
39
ngoài nước biết đến. Toàn huyện có 10 cụm công nghiệp đang hoạt động với tổng
diện tích 200.3 ha. Các cụm công nghiệp đã thu hút trên 171 doanh nghiệp vào hoạt
động. Ngoài ra còn có 1.450 doanh nghiệp hoạt động ngoài cụm công nghiệp. Các
doanh nghiệp đã đã tạo việc làm cho trên 13.000 lao động góp phần ổn định, nâng
cao đời sống nhân dân trên địa bàn huyện
Trong hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt từ ngày 01/8/2008,
Nhân dân và cán bộ huyện Thường Tín đã và đang cùng nhân dân thủ đô Hà Nội,
nhân dân cả nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt xây
dựng “Người Hà Nội thanh lịch, văn minh”.
Nhân dân và cán bộ huyện Thường Tín đã chủ động nắm bắt thời cơ, vận
dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
vào điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận
trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, hiệu quả, giữ vững và phát triển mạnh ngành nghề truyền
thống, đồng thời thu hút đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế trên địa bàn
huyện, đẩy mạnh phát triển các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp, làng nghề;
quan tâm đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong đó: Tổng thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện tăng thu bình quân 5,8%/năm; chi đầu tư
xây dựng cơ bản bình quân hằng năm đạt 22% - 26%. Công tác xây dựng nông thôn
mới đạt nhiều kết quả, diện mạo nông thôn khởi sắc, đời sống nông dân tiếp tục
được cải thiện với 28/28 xã đạt chuẩn nông thôn mới, thu nhập bình quân đầu người
năm 2019 đạt 49,5 triệu đồng/người/năm. Công tác quản lý đô thị, đất đai, môi
trường được coi trọng. Hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao được
phát triển theo hướng đổi mới. Chính sách xã hội được thực hiện tốt, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, số hộ nghèo trong toàn
huyện hiện còn 1,15%. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Trong công tác thi đua, khen thưởng, trên cơ sở phân tích chủ thể tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng tại Chương I, chủ thể trực tiếp trong tổ
40
chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín
gồm có:
Đối với cấp huyện: Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín; trực tiếp giúp cho Ủy
ban nhân dân huyện là Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện và phòng Nội vụ.
Đối với cấp xã: Ủy ban nhân dân 29 xã, thị trấn; trực tiếp giúp cho Ủy ban
nhân dân xã, thị trấn là Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã, thị trấn và 01 công
chức Văn phòng - Thống kê kiêm nhiệm công tác thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh đó, có sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận từ huyện đến cơ sở trong việc triển khai các văn bản pháp
luật về thi đua, khen thưởng, tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua.
Từ năm 2015 đến nay, căn cứ vào Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Thi đua, Khen thưởng của Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội, trên cơ sở thẩm quyền của mình, Ủy ban nhân dân
huyện và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện Thường Tín đã kịp thời ban hành
nhiều văn bản phù hợp với quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và tình hình
thực tiễn tại huyện. Hình thức và nội dung các văn bản được ban hành về cơ bản
đúng thẩm quyền và theo luật định.
Ủy ban nhân dân huyện, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện Thường Tín
đã ban hành 10 quyết định liên quan đến quy định chung về: công tác thi đua, khen
thưởng; Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện; Hội đồng Khoa học Sáng kiến
huyện; thành lập các cụm thi đua thuộc huyện, v.v. Bên cạnh việc ban hành các
quyết định, để thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng,
Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín đã cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch
và hướng dẫn về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện theo giai đoạn. Trong đó,
Ủy ban nhân dân huyện ban hành chương trình về đổi mới công tác thi đua khen
thưởng giai đoạn 2015 - 2020; kế hoạch về việc khắc phục những tồn tại, hạn chế,
đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín giai đoạn 2016 - 2020; kế hoạch bồi dưỡng và nhân rộng gương điển
41
hình tiên tiến giai đoạn 2017 - 2020; hướng dẫn về việc xét, tặng danh hiệu Anh
hùng Lao động. Tiêu biểu là các văn bản:
Quyết định số 02/QĐ-HĐTĐKT ngày 26/6/2017 của Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng huyện Thường Tín về việc ban hành Quy chế hoạt động và quy định
công tác thi đua, khen thưởng của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện Thường
Tín. Quyết định quy định rõ về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc
thi đua, đăng ký thi đua, tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng
cấp thành phố, cấp huyện; quy trình xét khen thưởng, thủ tục hồ sơ đề nghị khen
thưởng; tổ chức trao thưởng và trang trí buổi lễ; quy định về Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng huyện trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng và mối
quan hệ với Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp.
Quyết định số 01/QĐ-HĐKHSK ngày 18/11/2016 của Hội đồng Khoa học,
Sáng kiến huyện Thường Tín về việc ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng
Khoa học, Sáng kiến huyện Thường Tín. Quyết định quy định rõ phạm vi, đối
tượng áp dụng; vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ làm việc của Hội
đồng; điều kiện, nội dung, quy trình xét, công nhận sáng kiến, giải pháp, đề tài
nghiên cứu khoa học được thực hiện thống nhất trên địa bàn huyện Thường Tín.
Chương trình hành động số 02/CTr-UBND ngày 24/02/2015 của Ủy ban
nhân dân huyện Thường Tín về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn
2015-2020 nhằm triển khai Kế hoạch số 124-KH/TU ngày 26/6/2014 của Thành ủy
Hà Nội về thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng; Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 19/3/2014
của Thủ tướng Chính phủ về phòng chống tiêu cực trong quản lý cán bộ, công chức
và thi đua, khen thưởng. Trong đó, Ủy ban nhân dân huyện đã phân công chi tiết
đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, thời gian thực hiện các nhiệm vụ giải pháp nhằm
đổi mới công tác thi đua, khen thưởng giai đoạn 2015 - 2020.
Kế hoạch số 05/KH-HĐTĐKT ngày 25/5/2017 của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện Thường Tín về việc bồi dưỡng và nhân rộng gương điển hình tiên
tiến giai đoạn 2017 - 2020, trong đó quy định rõ mục đích, yêu cầu; đối tượng; các
42
tiêu chí chung và tiêu chí cụ thể đối với tập thể trên một số lĩnh vực: sản xuất - kinh
doanh, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới, lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh, trong hoạt động của các tổ chức hội, đoàn thể, trong các cơ
quan, đơn vị hành chính nhà nước, trong lĩnh vực phát triển kinh tế hộ gia đình; đối
với gương cá nhân điển hình là cán bộ, công chức, viên chức, gương cá nhân giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, các xã, thị trấn
thuộc huyện, gương công nhân, người lao động, gương người dân trong cộng đồng
dân cư. Đồng thời đề ra lộ trình thực hiện từ năm 2017 đến năm 2020; công tác biểu
dương, khen thưởng và phân công tổ chức thực hiện.
Ngoài ra, hàng năm, Ủy ban nhân dân huyện, Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện Thường Tín ban hành các văn bản như: kế hoạch công tác thi đua,
khen thưởng; kế hoạch triển khai các phong trào thi đua; văn bản hướng dẫn đăng
ký thi đua đầu năm và hướng dẫn khen thưởng cấp Nhà nước; hướng dẫn khen
thưởng tổng kết ngành giáo dục và đào tạo; hướng dẫn khen thưởng người tốt, việc
tốt; đôn đốc thi đua; hiệp y khen thưởng; hướng dẫn khen thưởng chuyên đề, khen
tổng kết công tác năm; quyết định khen thưởng.
Huyện đã xây dựng và ban hành Quyết định số 3178/QĐ-UBND ngày
16/8/2019 về việc ban hành và áp dụng hệ thống tài liệu quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn quốc gia tại Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín, trong đó ban hành quy
trình thủ tục hành chính đối với 08 thủ tục về lĩnh vực thi đua, khen thưởng thuộc
thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện (tặng giấy khen của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện về thành tích thực hiện nhiệm vụ chính trị; tặng danh hiệu Tập
thể lao động tiên tiến; tặng danh hiệu thôn, ấp, bản, làng, khu phố văn hóa; tặng
danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở; tặng danh hiệu Lao động tiên tiến; tặng giấy khen
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về thành tích theo đợt, chuyên đề; tặng Giấy
khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về thành tích đột xuất; tặng giấy khen
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về khen thưởng đối ngoại) với việc cụ thể hóa
43
việc tiếp nhận hồ sơ, thời gian giải quyết, quy trình giải quyết, trả kết quả hồ sơ đề
nghị khen thưởng của các tổ chức, cá nhân.
Trên cơ sở các văn bản của huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn đã ban
hành các văn bản để triển khai thực hiện trên địa bàn xã, thị trấn.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong xây dựng và ban hành
pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội hiện nay
Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân
huyện và Ủy ban nhân dân xã, thị trấn thuộc huyện Thường Tín - chủ thể trực tiếp
trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín.
Hai là, tác động của yếu tố chính trị, đó chính là sự quan tâm của lãnh đạo
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo về thi đua, khen
thưởng; sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc cập nhật, ban hành các văn bản về
thi đua, khen thưởng.
Ba là, hệ thống văn bản về thi đua, khen thưởng đã được ban hành tương đối
đầy đủ từ trung ương cho đến thành phố Hà Nội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
triển khai, tổ chức thực hiện các văn bản về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín theo từng năm và cả giai đoạn.
2.1.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong
xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Hạn chế, tồn tại trong xây dựng và ban hành pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Trong thời gian qua, việc ban hành các văn bản về công tác thi đua, khen
thưởng của huyện Thường Tín vẫn còn một số hạn chế, tồn tại:
Thứ nhất, việc ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng chưa
kịp thời, chưa ổn định, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như hướng dẫn của
44
thành phố. Vì vậy, việc thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa
đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng đến công tác thi đua, khen thưởng của huyện.
Văn bản ban hành về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện chủ
yếu là trích dẫn lại một cách chung nhất các quy định của Luật Thi đua, Khen
thưởng và quy định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về công tác thi đua,
khen thưởng, dẫn đến tình trạng khi xét khen thưởng theo kế hoạch hàng năm của
thành phố Hà Nội, đặc biệt là công tác năm và tổng kết ngành giáo dục - đào tạo,
Ủy ban nhân dân huyện, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện thường phải chờ
văn bản hướng dẫn của Ủy ban nhân dân thành phố, Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng thành phố để ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể trên địa bàn
huyện, dẫn đến việc thiếu sự chủ động trong công tác bình xét thi đua, khen thưởng
từ huyện đến cơ sở.
Thứ hai, chưa có văn bản quy định cụ thể về quy chế thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện, dẫn đến hiệu quả hoạt động về thi đua, khen thưởng chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong xây dựng và ban hành
pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội hiện nay
Một là, Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
có sự thay đổi liên tục. Đối với cấp huyện phải chờ hướng dẫn của thành phố mới
có thể điều chỉnh thay đổi dẫn đến việc chưa cập nhật kịp thời khi mà “Luật Thi
đua, Khen thưởng có nhiều quy định về thi đua, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua quá
chung chung, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc ban hành văn bản hướng dẫn
của Chính phủ, các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện mâu thuẫn với Luật
của Quốc hội. Luật chưa xác định được đối tượng cụ thể để xét tặng danh hiệu thi
đua và đối tượng để quyết định hình thức khen thưởng, dẫn đến sự trùng lắp trong
căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua và quyết định hình thức khen thưởng” [51, tr.77].
Việc thường xuyên thay đổi nghị định và thông tư hướng dẫn Luật Thi đua,
Khen thưởng đã gây không ít khó khăn cho các cấp thực hiện, đặc biệt là cấp huyện.
Mới đây nhất là Thông tư số 12/2019/TT-BNV ngày 04/11/2019 (thay thế Thông tư
45
số 08/2017/TT-BNV) có hướng dẫn chi tiết về một trong các tiêu chuẩn khen
thưởng đối với tập thể khi tập thể có tổ chức Đảng, đoàn thể thì tổ chức Đảng, đoàn
thể phải được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tuy nhiên, việc đánh giá đối
với các tổ chức cơ sở Đảng có khống chế tỷ lệ về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dẫn
đến việc đề nghị khen cấp Nhà nước theo giai đoạn 2015 - 2020 cũng như đề nghị
thành phố khen thưởng đối với nhiều tập thể trong công tác năm 2020 bị gián đoạn,
chưa đủ tiêu chuẩn trong khi các văn bản hướng dẫn trước chỉ hướng dẫn chung đối
với tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không quy định nhất thiết chi bộ Đảng
cũng phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bên cạnh đó, Thông tư quy định về việc
khen thưởng phòng Giáo dục và Đào tạo theo năm học, trong khi đó phòng Giáo
dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn cấp huyện, thực hiện đánh giá theo năm
công tác, gây khó khăn cho cấp huyện khi triển khai thực hiện.
Hai là, xuất phát từ yếu tố năng lực của công chức làm thi đua, khen thưởng
khi chưa thấy được tầm quan trọng trong việc soạn thảo và ban hành văn bản thực
hiện các quy định về công tác thi đua, khen thưởng; chưa có sự đầu tư nghiên cứu
đúng mức nên chậm tham mưu ban hành các văn bản, nhiều văn bản quy định thi
đua, khen thưởng ban hành mang tính chung chung sao chép lại các quy định của
văn bản cấp trên, sao chép văn bản của các đơn vị khác làm giảm hiệu lực, hiệu quả
của một số văn bản do huyện ban hành và đôi khi ban hành văn bản để báo cáo với
cấp trên, không triển khai thực hiện trong thực tiễn.
2.2. Thực trạng triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thƣởng trên địa bàn huyện Thƣờng Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
2.2.1. Kết quả và nguyên nhân của những kết quả đạt được trong triển
khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Kết quả đạt được trong triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Thứ nhất, triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và
thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
46
Một là, triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp
luật về thi đua, khen thưởng
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật nói chung và tuyên truyền pháp luật về thi đua, khen thưởng nói riêng;
trong thời gian vừa qua, huyện Thường Tín đã triển khai nhiều hình thức tuyên
truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nhằm quán triệt và triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, trong đó có Luật Thi đua, Khen
thưởng và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành, để từ đó “làm chuyển biến
nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng
của công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” [8, tr.1], Ủy ban nhân dân huyện, Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện Thường Tín đã đề nghị Ban Tuyên giáo Huyện ủy Thường Tín đưa
vào chuyên mục tuyên truyền trong Bản tin nội bộ của Huyện ủy, chỉ đạo các chi bộ
Đảng trực thuộc tuyên truyền thông qua các buổi sinh hoạt tại các chi bộ Đảng.
Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín giao phòng Nội vụ phối hợp cùng với
Trung tâm Văn hóa thông tin và thể thao huyện viết các bài tuyên truyền thông qua
hệ thống truyền thanh từ huyện đến cơ sở; phối hợp với phòng Tư pháp tuyên
truyền thông qua các lớp tuyên tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến tận cơ sở và
nhân dân tùy; phối hợp với Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
huyện, phòng Văn hóa và Thông tin đăng tải các văn bản về thi đua, khen thưởng
hiện hành trên cổng thông tin điện tử huyện; phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam huyện và các đoàn thể huyện tuyên truyền tới các hội viên, đoàn viên của
Hội; phối hợp với Liên đoàn Lao động huyện tuyên tuyền tới công đoàn viên thuộc
các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp trên địa bàn huyện.
Nội dung tuyên truyền thường tập trung tuyên truyền các quy định mới của
Luật Thi đua, Khen thưởng và hướng dẫn của thành phố gồm có: quy định về tổ
chức thi đua, danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, hình thức, đối tượng, tiêu
chuẩn khen thưởng; các phong trào thi đua do trung ương, thành phố phát động, các
47
văn bản triển khai của huyện về thi đua, khen thưởng, tuyên truyền những thành quả
của các phong trào thi đua trên các lĩnh vực của đời sống, xã hội.
Chú trọng tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, các
mô hình thi đua mang lại hiệu quả cao để nêu gương, tạo sự lan tỏa trong các cơ
quan, đơn vị, các xã, thị trấn. Những năm qua, Huyện ủy đã mở chuyên mục người
tốt, việc tốt trong Bản thông tin nội bộ của huyện, phát hành sách gương sáng học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đến các đảng viên
thuộc các tổ chức chi bộ Đảng trực thuộc; Ủy ban nhân dân huyện mở trang thông
tin Người tốt, việc tốt trên Website điện tử huyện, đồng thời hàng năm tổ chức phát
động phong trào và biểu dương gương Người tốt, việc tốt tiêu biểu. Đặc biệt, từ
năm 2015 đến nay, Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức cuộc thi viết về gương điển
hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trong phong trào thi đua yêu nước của huyện;
Huyện ủy tổ chức Cuộc thi viết về tấm gương Dân vận khéo đã thu hút đông đảo
các tầng lớp nhân dân trong huyện tham gia dự thi; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam huyện và các đoàn thể huyện đã tuyên truyền, vận động các đoàn viên, hội
viên hưởng ứng, tham gia tích cực các phong trào thi đua. Qua cuộc thi từ năm 2015
đến nay: huyện đã có 50 cá nhân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
khen thưởng điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt; Ban tổ chức cuộc thi của huyện
đã quyết định trao giải cuộc thi và khen thưởng cho 52 tác phẩm, tác giả; Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín tặng giấy khen cho 67 lượt tập thể và 28 lượt
cá nhân có thành tích trong tổ chức triển khai thực hiện tốt cuộc thi; riêng năm
2016, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội tặng bằng khen trong cuộc thi viết về gương điển hình tiên tiến, người
tốt việc tốt thành phố.
Bên cạnh đó, huyện Thường Tín đặc biệt chú trọng việc khuyến khích xây
dựng, phát hiện các mô hình hay, cách làm mới của các tập thể, cá nhân, từ đó đưa
ra đánh giá, rút kinh nghiệm, tổ chức phổ biến, nhân rộng, đồng thời mời các huyện
bạn về thăm quan, học tập mô hình và được thành phố, các huyện bạn đánh giá cao
các mô hình thi đua của huyện.
48
Có thể thấy, công tác tuyên truyền về Luật Thi đua, Khen thưởng, các phong
trào thi đua, các cuộc thi viết về các gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt đã
bám sát thực tiễn tại cơ sở, đáp ứng yêu cầu quy định của Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Công tác tuyên truyền đã tạo được dư
luận tốt trong đời sống xã hội. Đặc biệt, qua công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng
dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng đã giúp thủ trưởng
các cơ quan, đơn vị, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn và đội ngũ công chức làm
công tác thi đua, khen thưởng triển khai, thực hiện có hiệu quả các hoạt động thi
đua như: đăng ký thi đua, xây dựng kế hoạch thi đua, xây dựng các tiêu chí thi đua,
quy trình bình xét thi đua và thực hiện tốt, kịp thời công tác phát hiện, biểu dương
khen thưởng.
Hai là, thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
Trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng gồm nhiều hoạt động khác nhau như:
xây dựng kế hoạch, tổ chức phát động thi đua; đăng ký giao ước thi đua; tổ chức
thực hiện các phong trào thi đua; tổ chức các hoạt động thi đua; xây dựng các tiêu
chí thi đua; xây dựng các tiêu chuẩn khen thưởng; bình xét thi đua, khen thưởng;
phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện công tác thi đua, khen
thưởng. Liên quan đến tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa
bàn huyện Thường Tín, tác giả luận văn chỉ đề cập đến các nội dung chủ yếu sau:
- Thực hiện các phong trào thi đua do trung ương và thành phố phát động gắn
với thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Từ năm 2015 đến nay, huyện Thường Tín triển khai kịp thời các văn bản chỉ
đạo về các phong trào thi đua do trung ương và thành phố Hà Nội phát động, đồng
thời lồng ghép các phong trào thi đua theo giai đoạn gắn với các phong trào thi đua
chuyên đề của từng năm và gắn với việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Qua các phong trào thi đua, đã có nhiều tập thể
và cá nhân được các cấp, các ngành biểu dương khen thưởng.
+ Triển khai thực hiện các phong trào thi đua yêu nước do trung ương, thành
phố Hà Nội phát động.
49
Bám sát sự chỉ đạo của thành phố Hà Nội, huyện Thường Tín đã tổ chức phát
động các phong trào thi đua gắn với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn huyện. Nổi bật là các phong trào sau:
Phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”: Thực
hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ
tướng Chính phủ phát động và phong trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng
nông thôn mới” thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 - 2020; Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện Thường Tín đã ban hành kế hoạch về việc triển khai thực hiện phong
trào thi đua “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới” huyện Thường Tín giai
đoạn 2016 - 2020. Qua 5 năm tiếp tục triển khai, phong trào thi đua phát triển sâu
rộng trong cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, huyện đã huy động nhân dân đóng góp 18,6 tỷ đồng và tự nguyện hiến tặng hàng nghìn m2 đất để xây dựng các
công trình giao thông, công trình phúc lợi; đã có thêm 22 xã đạt chuẩn nông thôn
mới và hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở 28/28 xã, trong đó có 01 xã đạt nông
thôn mới nâng cao. Nhân dân và cán bộ huyện Thường Tín phấn đấu đạt chuẩn
nông thôn mới trong năm 2020. Qua phong trào thi đua, đã có nhiều tập thể, cá nhân
được các cấp khen thưởng, trong đó: 01 tập thể được tặng bằng khen của Thủ tướng
Chính phủ; 03 tập thể, 14 hộ gia đình và 05 cá nhân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội tặng bằng khen; 10 cá nhân được tặng danh hiệu “Người tốt, việc
tốt” thành phố Hà Nội trong xây dựng nông thôn mới.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được
huyện Thường Tín triển khai gắn với các hoạt động văn hóa - xã hội, phát triển cả
về chất và lượng, đồng thời nhận được sự đồng tình hưởng ứng của các tầng lớp
nhân dân. Đến tháng 6/2020, toàn huyện có 88% tổng số hộ đạt danh hiệu gia đình
văn hóa; 150/166 làng, tổ dân phố được công nhận mới và tái công nhận danh hiệu
làng, tổ dân phố văn hóa, đạt 90,36%; 174/198 cơ quan, đơn vị được công nhận và
tái công nhận danh hiệu cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, đạt
87,87%; 15/28 xã được công nhận xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, đạt tỷ lệ
53,57%.
50
Phong trào “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”: Thực hiện
phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động và hướng dẫn của thành phố
Hà Nội, trong những năm qua, huyện luôn quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trên địa bàn huyện phát triển như: tạo điều kiện về mặt bằng hoạt động, thủ
tục, cơ chế chính sách, v.v.. đảm bảo đúng pháp luật, công khai minh bạch, giảm chi
phí cho doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; tổ chức
hội nghị gặp mặt, đối thoại doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ
trợ doanh nghiệp phát triển; tổ chức gặp mặt và biểu dương các doanh nghiệp tiêu
biểu trên địa bàn huyện nhằm kịp thời động viên các doanh nghiệp tiếp tục phát
triển. Năm 2017, huyện có 03 doanh nghiệp và 02 doanh nhân được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội tặng bằng khen. Năm 2019, có 01 doanh nghiệp
được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tặng bằng khen.
Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo không ai bị bỏ lại phía sau” do
Thủ tướng Chính phủ phát động đã được Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín tổ
chức triển khai, chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân
thực hiện cuộc vận động quỹ vì người nghèo và thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền
vững; thành lập các đoàn thăm, tặng quà cho các đối tượng chính sách, người có
công, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn và chỉ đạo triển khai đồng bộ thực hiện
các chính sách, dự án hỗ trợ người nghèo (tạo điều kiện việc làm, tư vấn các biện
pháp tổ chức sản xuất, vay vốn đầu tư phát triển kinh tế, v.v…). Trong 5 năm, toàn
huyện vận động ủng hộ được 7,792 tỉ đồng vào quỹ “Ngày vì người nghèo”. Hàng
năm, giới thiệu và giải quyết việc làm mới cho trên 3.500 người lao động, tỷ lệ lao
động có việc làm qua đào tạo đạt trên 58%. Chương trình giảm nghèo thực hiện có
hiệu quả, giai đoạn 2016 - 2019, số hộ nghèo giảm 2.965 hộ, xuống còn 852 hộ,
chiếm 1,15%.
Phong trào thi đua “An toàn thực phẩm”: Thực hiện phong trào thi đua do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phát động, Ủy ban nhân dân huyện
Thường Tín đã ban hành kế hoạch tổ chức phát động phong trào thi đua “An toàn
thực phẩm” trên địa bàn huyện Thường Tín giai đoạn 2016 - 2020. Tổ chức tuyên
51
truyền, giáo dục kiến thức, các quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn thực
phẩm cho các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và nhân dân trên các
phương tiện như: Đài truyền thanh các xã, thị trấn, băng zôn, khẩu hiệu, v.v..nhằm
nâng cao nhận thức và ý thức của người dân trong công tác bảo đảm an toàn thực
phẩm. Tổ chức ký cam kết an toàn thực phẩm với lãnh đạo 29 xã, thị trấn, đại diện
các hộ sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, hiệu trưởng các trường có bếp ăn
bán trú. Công tác cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trên
địa bàn được chú trọng, thực hiện đảm bảo theo quy định. Vì vậy, toàn huyện không
có vụ ngộ độc nào xảy ra. Năm 2018, Huyện có 01 tập thể được tặng bằng khen
thành phố trong phong trào thi đua “An toàn thực phẩm”.
Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thi đua
thực hiện văn hóa công sở và nơi công cộng”: Thực hiện phong trào thi đua do
thành phố Hà Nội phát động, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện Thường Tín
đã ban hành kế hoạch về việc tổ chức thực hiện phong trào “Cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động thi đua thực hiện văn hóa công sở và nơi công cộng” trên
địa bàn huyện Thường Tín. Để phong trào có sức lan tỏa rộng khắp, huyện Thường
Tín đã tổ chức hội thi Tuyên truyền quy tắc ứng xử nơi công cộng; hội thi Tìm hiểu
quy tắc ứng xử nơi công cộng, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị từ huyện đến cơ sở
về văn hóa ứng xử; chuẩn mực trong giải quyết công việc với tổ chức và công dân
góp phần xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân
dân, xã hội; từng bước xây dựng những chuẩn mực văn hóa nhằm điều chỉnh lời
nói, hành vi của cá nhân nơi công cộng trên địa bàn huyện, xây dựng người Thường
Tín thanh lịch, văn minh.
Cùng với các phong trào thi đua chuyên đề do trung ương và thành phố Hà
Nội phát động, Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức phát động các phong trào thi đua
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao gắn với từng chủ đề năm công tác
của thành phố Hà Nội như: năm 2015, năm 2016: “Năm trật tự văn minh đô thị”,
năm 2017: “Năm kỷ cương hành chính”, năm 2018, năm 2019: “Năm nâng cao hiệu
52
lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị”, năm 2020: “Phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ
2015-2020 và tổ chức thành công đại hội Đảng bộ các cấp”; đồng thời huyện đã
phát động nhiều đợt thi đua cao điểm chuyên đề chào mừng các ngày kỷ niệm của
đất nước, thành phố, huyện với hình thức, nội dung đa dạng, phong phú, sát với tình
hình thực tế cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện như: thi
đua “Chào mừng kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng bộ huyện Thường Tín (11/1947 -
11/2017)”; thi đua thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” hướng tới Kỷ niệm 70
năm Ngày thương binh liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2017); thi đua “Kỷ niệm 70 năm
ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc” (11/6/1948 -
11/6/2018); thi đua chào mừng kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2020) và 90 năm Ngày thành lập Đảng bộ thành phố
Hà Nội (17/3/1930 - 17/3/2020); thi đua chào mừng kỷ niệm 130 năm Ngày sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020); thi đua lập thành tích chào
mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XXIV Đảng bộ huyện
Thường Tín, Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội và Đại hội
lần thứ XIII của Đảng, Hội nghị điển hình tiên tiến các cấp tiến tới Đại hội thi đua
yêu nước thành phố Hà Nội giai đoạn 2020 - 2025, Đại hội thi đua yêu nước Toàn
quốc lần thứ X, chào mừng kỷ niệm 1010 năm Thăng Long - Hà Nội (1010 - 2020).
Trong quá trình triển khai phong trào thi đua, hệ thống các tiêu chí, tiêu
chuẩn đã được phổ biến, quán triệt trong các văn bản phát động, văn bản tổ chức
triển khai các phong trào để mọi chủ thể tham gia thi đua biết và phấn đấu đạt được.
Đồng thời, ngay từ đầu năm, trong kế hoạch về công tác thi đua, khen thưởng năm,
Huyện đã xây dựng các nội dung thi đua gắn với các phong trào thi đua được phát
động, triển khai trong năm và các phong trào thi đua theo giai đoạn, nêu rõ tiến độ
thực hiện, cơ quan thực hiện và phối hợp thực hiện; đưa nội dung tổ chức thực hiện
phong trào thi đua vào tiêu chí chấm điểm thi đua của các cụm thi đua, các cơ quan,
đơn vị tạo cơ chế để các cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn tổ chức và triển khai thi
đua, khen thưởng được hiệu quả hơn.
53
+ Triển khai xây dựng các chương trình, phong trào thi đua phù hợp với từng
giới, từng ngành, lĩnh vực.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp với các phong trào thi đua “Chuyển đổi
cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn gắn với chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi”, phong trào thi đua thực hiện “Dồn điền, đổi thửa chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi”, “Thi đua vì một nền nông nghiệp chất lượng cao, đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm”, xây dựng mô hình “Hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi,
chỉnh trang đường làng ngõ xóm, từng bước hiện đại nông thôn” được đông đảo
nhân dân hưởng ứng. Góp phần đưa cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng tích
cực. Tổng giá trị nông nghiệp thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2020 là 7.544 tỷ
đồng, tốc độ tăng bình quân là 2,5%/năm.
Trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản, huyện
Thường Tín đã tổ chức các phong trào thi đua như: “Năng suất chất lượng hiệu
quả”, “Sản xuất kinh doanh giỏi, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng
cạnh tranh, đẩy mạnh tiến độ thi công công trình, dự án “Mỗi xã một mô hình, một
sản phẩm”, “Thi đua sản xuất kinh doanh giỏi” góp phần nâng tổng giá trị sản xuất
giai đoạn 2016 - 2020 đạt 74.011 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 15%/năm.
Trong lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ, huyện Thường Tín đã phát
động và hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”,
“Hành động vì quyền lợi người tiêu dùng”, đồng thời ngăn chặn có hiệu quả các
hành vi gian lận thương mại, góp phần ổn định thị trường. Tổng giá trị sản xuất
thương mại, dịch vụ đạt 47.058 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 16%/năm.
Thi đua trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các phong trào thi đua: “Dạy
tốt - Học tốt”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “Xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia” gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo” và phong trào “Xây dựng gia đình, dòng họ, khu dân cư hiếu
học” góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trên địa bàn huyện Thường Tín.
54
Toàn huyện có 73 trường đạt chuẩn quốc gia (01 trường nâng chuẩn mức 2), tăng
34 trường so với năm 2015, đạt tỷ lệ 82,95%.
Thi đua trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh với các phong trào “Thi đua
quyết thắng” trong lực lượng vũ trang được duy trì thường xuyên bằng nhiều hình
thức phong phú, hiệu quả và với phương châm “Người sẵn sàng, vũ khí sẵn sàng”,
“Sáng mãi phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ”, “Tiếp lửa truyền thống - mãi mãi tuổi 20”.
Lực lượng An ninh tiếp tục được chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Vì nước quên thân, vì dân phục vụ” gắn với
phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và củng cố, xây dựng “thế trận an
ninh nhân dân” vững chắc, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể huyện đã tích cực thể hiện
vai trò chính trị của mình trong công tác vận động, tập hợp hội viên và các tầng lớp
nhân dân tham gia thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của huyện, cụ thể: Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đẩy mạnh và nhân rộng điển hình trong cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động
“Ngày vì người nghèo”, cuộc vận động “Tang văn minh tiến bộ”; các cấp Hội phụ
nữ tổ chức triển khai các phong trào “Phụ nữ Thủ đô tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc”, “Vì môi trường trong sạch, phụ nữ và
nhân dân Thủ đô không đổ rác ra đường và nơi công cộng”, “Phụ nữ giúp nhau làm
kinh tế gia đình”, “Giỏi việc nước - đảm việc nhà”, “Phụ nữ Thủ đô tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc”, “Xây dựng gia
đình 5 không, 3 sạch”; Hội Nông dân các cấp duy trì phát triển phong trào “Nông
dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau tăng giầu, giảm nghèo”;
Đoàn thanh niên các cấp có nhiều hình thức cải tiến, nâng cao chất lượng phong
trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội ”, “4 đồng hành cùng thanh niên lập
thân, lập nghiệp” có sức lan tỏa và tác động trực tiếp đến tư tưởng và hành động của
đoàn viên, thanh niên, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh thiếu nhi hưởng ứng tham
gia tạo phong trào thi đua sôi nổi trong tuổi trẻ toàn huyện. Hội Cựu chiến binh với
phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu” giữ vững “Bản chất bộ đội cụ Hồ”.
55
Các phong trào thi đua đã được các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể, địa phương trong huyện Thường Tín hưởng ứng mạnh mẽ. Qua các phong
trào thi đua đã khơi dậy mặt tích cực, ý chí vươn lên, phát huy những phẩm chất,
đạo đức tốt đẹp để cống hiến, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học và công tác;
tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, chống lại các biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí, phòng chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Thông qua các phong
trào thi đua theo ngành, lĩnh vực, nhiều vấn đề quan trọng, nổi cộm, bức xúc đã
được giải quyết, nhiều công trình, mô hình được xây dựng, đời sống nhân dân được
nâng lên, an sinh xã hội từng bước được đảm bảo, dân chủ cơ sở được phát huy.
- Thực hiện hoạt động thi đua theo cụm, khối trên địa bàn huyện
Để thuận lợi cho việc theo dõi, bình xét khen thưởng, từ năm 2017, Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng huyện đã ban hành quyết định thành lập 03 cụm thi đua khối
xã và 06 khối thi đua bao gồm các cơ quan, đơn vị thuộc huyện. Sau 2 năm hoạt
động, giữa các đơn vị trong từng cụm bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, bất cập và
chưa thống nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội. Năm 2019, trên cơ sở hướng dẫn cụ
thể của thành phố Hà Nội về việc thành lập các cụm thi đua thuộc các quận, huyện
trong toàn thành phố, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện đã ban hành quyết
định thành lập các cụm thi đua thuộc huyện và tổ chức thành 13 cụm, gồm có: 04
cụm xã, 03 cụm trường học, 01 cụm các tổ chức Hội đặc thù; 05 cụm ngành (gồm
các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp huyện và các ban Đảng, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội huyện). Mỗi cụm đều có phân công cụm trưởng,
cụm phó và đảm nhận theo hình thức luân phiên hàng năm, đồng thời phân công các
thành viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện phụ trách, theo dõi từng cụm.
Hoạt động của cụm thi đua thực hiện theo quy chế do cụm ban hành trên cơ
sở hướng dẫn của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện. Trong đó: Cụm trưởng
chịu trách nhiệm trước Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện về hoạt động của
cụm thi đua; xây dựng nội quy, quy chế hoạt động, chương trình hoạt động, bảng
tiêu chí chấm điểm thi đua; chủ trì đôn đốc, theo dõi, đánh giá phong trào thi đua
các đơn vị trong cụm thi đua theo quy chế của cụm xây dựng; phối hợp với các cụm
56
thi đua khác của huyện và các thành viên trong cụm để học tập các mô hình mới,
trao đổi nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng; phối hợp với phòng Nội vụ - cơ
quan thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện thẩm định thành tích các
thành viên trong cụm thi đua, bình chọn, suy tôn và đề nghị Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng huyện xem xét, đề xuất các cấp khen thưởng thành tích công tác năm
cho các đơn vị trong cụm. Các thành viên trong cụm có trách nhiệm tham gia đăng
ký thi đua, các mô hình và chuyên đề thi đua với cụm trưởng, Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng huyện; tham gia xây dựng nội dung quy chế hoạt động, chương trình
hoạt động cụm thi đua; phát hiện, giới thiệu các mô hình, điển hình tiên tiến, cách
làm mới có hiệu quả trong phong trào thi đua; tham gia đầy đủ và đúng thành phần
các cuộc họp và hoạt động do cụm tổ chức. Ở mỗi cụm thi đua sẽ có hệ thống tiêu
chí thi đua riêng, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cụm trên cơ sở hướng
dẫn chung của huyện.
Việc đề nghị công nhận các danh hiệu thi đua và tặng các hình thức khen
thưởng cho các tập thể trong từng cụm được thực hiện thông qua kết quả chấm điểm
và bình xét suy tôn. Đối với cụm thi đua khối xã và khối trường học: mỗi cụm lựa
chọn 01 tập thể tiêu biểu xuất sắc nhất đề nghị tặng danh hiệu Cờ thi đua của Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội; các cụm thi đua theo ngành bình xét đề nghị tặng
danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc; cụm các tổ chức Hội bình xét đề nghị Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện tặng giấy khen.
Qua việc tổ chức thi đua theo hoạt động cụm thi đua đã tạo sự bình đẳng và
phù hợp hơn trong tổ chức thi đua giữa các xã, thị trấn và giữa các ngành, lĩnh vực,
tạo được sự liên kết phối hợp, trao đổi kinh nghiệm trong tổ chức phong trào thi đua
ở các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, từ đó
thúc đẩy các phong trào thi đua ở huyện Thường Tín phát triển.
- Thực hiện các quy định về xét các danh hiệu thi đua và khen thưởng
Trong những năm qua, Ủy ban nhân dân huyện đã nghiêm túc triển khai thực
hiện theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng về xét thi đua và khen thưởng.
Kịp thời, cụ thể hóa các quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, các văn bản
57
hướng dẫn thi hành từ trung ương đến thành phố Hà Nội và phù hợp với tình hình
thực tiễn tại huyện Thường Tín về đăng ký thi đua, cơ cấu, tỷ lệ, quy trình bình xét
các danh hiệu thi đua, các tiêu chuẩn khen thưởng.
Thực hiện đăng ký các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng đảm bảo
nguyên tắc tự nguyện, tự giác, công khai, công bằng, kịp thời trong thi đua, khen
thưởng: Huyện không khống chế số lượng các tập thể, cá nhân tham gia đăng ký thi
và nêu rõ các tiêu chuẩn của từng loại hình đăng ký thi đua để các cơ quan, đơn vị
được biết và triển khai tới các cá nhân trong cơ quan, đơn vị.
Thời gian đăng ký các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng phù hợp với
hoạt động chuyên môn của các cơ quan, đơn vị: Đối với các cơ quan chuyên môn,
các xã, thị trấn, thời gian ban hành sau khi huyện ban hành kế hoạch công tác thi
đua, khen thưởng năm (tháng 2 của năm công tác); đối với các trường học, thời gian
ban hành sau khi khai giảng năm học mới (tháng 9 của năm học mới).
Thời gian tiếp nhận hồ sơ đề nghị tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen
thưởng: Các cơ quan, đơn vị trình khen chuyên đề trước 15 ngày đến 20 ngày (trừ
khen đột xuất) kể từ khi ban hành hướng dẫn xét khen thưởng; trình khen thưởng
tổng kết ngành giáo dục trước 15/6 hàng năm và khen thưởng tổng kết năm công tác
trình trước ngày 20/11 hàng năm nhằm đảm bảo phù hợp với tiến độ thời gian tổng
kết tại huyện và yêu cầu của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng thành phố Hà Nội khi
xét duyệt khen thưởng.
Việc thẩm định hồ sơ xét duyệt và thẩm quyền ban hành quyết định tặng
thưởng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng được thực hiện chặt chẽ, công
khai, công bằng, dân chủ đảm bảo theo đúng quy định của Luật Thi đua, Khen
thưởng, các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với các trường hợp đề nghị khen cấp
Nhà nước và khen tổng kết công tác năm, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện
xin ý kiến Ban thường vụ Huyện ủy sau đó mới trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện khen thưởng và đề nghị cấp trên xét khen thưởng.
Đơn giản hóa thủ tục hồ sơ đối với khen thưởng đột xuất, khen thưởng người
tốt, việc tốt và một số chuyên đề để kịp thời động viên những tập thể, cá nhân có
58
nhiều thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua như: trong đợt dịch Covid-19,
nhằm kịp thời khen thưởng những tập thể, cá nhân đã có thành tích trong công tác
phòng, chống dịch trên địa bàn huyện, Ủy ban nhân dân huyện hướng dẫn các cơ
quan, đơn vị gửi hồ sơ khen thưởng gồm có tờ trình và danh sách trích ngang thành
tích của các tập thể, cá nhân, không cần phải có báo cáo thành tích riêng của từng
tập thể, cá nhân; khen thưởng đột xuất được thực hiện kịp thời, linh hoạt phù hợp
với thành tích của cá nhân, tập thể đạt được, như trong năm 2019: có 01 công dân
của huyện được đăng trên các báo mạng về việc nhặt được gần 07 triệu đồng và báo
chính quyền xã để tìm người đánh rơi, ngay sau khi biết thông tin, huyện đã chỉ đạo
xã kiểm tra, xác minh thông tin và trình Ủy ban nhân dân huyện khen thưởng. Trên
cơ sở đề xuất của phòng Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã tặng danh hiệu
“Người tốt, việc tốt” cho công dân có hành động đẹp, việc làm tốt.
Đối với khen thưởng doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp trên địa bàn huyện,
ngoài việc đề xuất của các đơn vị, cơ quan thường trực Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện sẽ có văn bản đề nghị Công an huyện, Chi cục thuế khu vực Thường
Tín - Phú Xuyên, Bảo hiểm xã hội huyện xác nhận việc thực hiện các nghĩa vụ của
cá nhân chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp trước khi trình Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng.
Trên cơ sở đã bám sát vào các phong trào thi đua, gắn với kết quả từng
phong trào thi đua ở từng lĩnh vực công tác và lấy kết quả thực hiện phong trào thi
đua, kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các lĩnh vực quan trọng như cải cách
hành chính, sản xuất kinh doanh, giáo dục, dân số - kế hoạch hóa gia đình, phòng
chống dịch, v.v..làm căn cứ để huyện xét khen thưởng. Đối tượng khen thưởng cũng
được mở rộng hơn đến các tầng lớp nhân dân ở nhiều lĩnh vực hoạt động, công tác;
quan tâm khen thưởng các tập thể nhỏ và cá nhân là người lao động trực tiếp, khen
thưởng những điển hình mới, nhân tố mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đặc biệt, trong các văn bản hướng dẫn bình xét các danh hiệu thi đua, hình thức
khen thưởng, Ủy ban nhân dân huyện, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện đã
nêu rõ cơ cấu bình xét trong đó ưu tiên người lao động trực tiếp.
59
Từ năm 2015 đến nay, huyện Thường Tín đã xét tặng và đề nghị cấp trên
tặng các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng cho các tập thể, cá nhân điển
hình tiên tiến trong mỗi phong trào thi đua nhằm tạo động lực để các tập thể, cá
nhân tiếp tục phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ góp phần phát triển kinh tế
- xã hội tại địa phương, cụ thể:
Khen thưởng cấp nhà nước: Từ năm 2015 đến năm 2019, toàn huyện Thường
Tín đã có 01 tập thể được tặng Cờ thi đua Chính phủ; 02 tập thể được tặng thưởng
Huân chương lao động hạng Nhì; 02 tập thể và 03 cá nhân được tặng thưởng Huân
chương lao động hạng Ba, trong đó có 01 cá nhân là người trực tiếp lao động, sản
xuất (33,33%); 82 Mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước Bà
mẹ Việt Nam anh hùng; 09 tập thể được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
(Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Số lƣợng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thƣờng Tín đƣợc khen
thƣởng cấp nhà nƣớc giai đoạn 2015 - 2019
Tổng T T Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Các danh hiệu thi đua và hình thức khen thƣởng Tập thể/ cá nhân
A. DANH HIỆU THI ĐUA Cờ thi đua Chính Phủ 1. 01 1 Tập thể
02 02 4
1.
Huân chương Lao động (hạng Nhì, hạng Ba) 01 01 01 3 B. HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG Tập thể Cá nhân
2. Danh hiệu vinh dự nhà 66 10 4 2 82 Cá nhân nước “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng”
3. Bằng khen Thủ tướng 04 01 03 01 9 Chính phủ Tập thể
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Thường Tín)
60
Khen thưởng của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội: 20 lượt tập thể được
tặng “Cờ thi đua”; 84 lượt tập thể đạt danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc, 06 cá
nhân đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp thành phố; 82 lượt cá nhân được tặng danh
hiệu “Người tốt, việc tốt”, trong đó 65 lượt cá nhân là người trực tiếp lao động, sản
xuất, công tác (79,27%); 87 lượt tập thể và 117 lượt cá nhân được tặng bằng khen,
trong đó 38 lượt cá nhân là người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác (32,48%)
(Bảng 2.2)
Bảng 2.2. Số lƣợng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thƣờng Tín đƣợc
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội khen thƣởng giai đoạn 2015 - 2019
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tổng số T T Tập thể/ cá nhân Các danh hiệu thi đua và hình thức khen thƣởng
A. DANH HIỆU THI ĐUA
Cờ thi đua 1. 03 03 04 06 04 20 Tập thể Thành phố
2. 12 17 14 17 24 84 Tập thể lao động xuất sắc Tập thể
3. 4 1 1 6 Chiến sĩ thi đua cấp thành phố Cá nhân
4. 10 13 17 20 22 82 Người tốt, việc tốt thành phố Cá nhân
B. HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG
13 20 11 14 29 87 Tập thể 1. Bằng khen UBND thành phố 20 20 23 25 29 117 Cá nhân
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Thường Tín)
61
Khen thưởng của Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín: 1.128 lượt tập thể
được tặng danh hiệu Tập thể Lao động tiên tiến; 1326 lượt cá nhân được tặng danh
hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, trong đó 690 lượt cá nhân là người lao động trực tiếp
công tác (52,04%); 12.071 lượt cá nhân được công nhận danh hiệu Lao động tiên
tiến, trong đó 9752 lượt cá nhân là người lao động trực tiếp công tác (80,79%); 641
lượt cá nhân được tặng danh hiệu “Người tốt, việc tốt”, trong đó 551 lượt cá nhân là
người lao động trực tiếp lao động, sản xuất, công tác (85,96%); 1.327 lượt tập thể
và 1.210 lượt cá nhân được tặng giấy khen, trong đó 735 lượt cá nhân là người lao
động trực tiếp lao động, sản xuất, công tác (60,74%) (Bảng 2.3)
Bảng 2.3. Số lƣợng tập thể, cá nhân thuộc huyện Thƣờng Tín đƣợc
Ủy ban nhân dân huyện Thƣờng Tín khen thƣởng giai đoạn 2015 - 2019
TT
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Tổng số
Các danh hiệu thi đua và hình thức khen thƣởng
Tập thể/ cá nhân
A. DANH HIỆU THI ĐUA
1.
Tập thể
216
218
224
230
240
1128
Tập thể Lao động tiên tiến
Chiến sĩ thi đua
2.
Cá nhân
161
192
270
318
385
1326
cơ sở
Lao động tiên tiến
Cá nhân
1975
2160
2577
2650
2709
3.
12071
Người tốt, việc tốt
Cá nhân
77
114
138
146
166
4.
641
B. HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG
Tập thể
224
250
252
290
311
1.
1327
Giấy khen
Cá nhân
225
254
240
244
247
1210
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Thường Tín)
Đặc biệt với những thành tích xuất sắc, trong 5 năm qua, tập thể Nhân dân và
cán bộ huyện Thường Tín liên tục được các cấp khen thưởng: năm 2015 và 2017
được tặng bằng khen thành phố Hà Nội; năm 2016, 2018, 2019 được tặng Cờ thi
62
đua xuất sắc thành phố Hà Nội; năm 2019 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân
chương lao động hạng Nhất.
Thứ hai, triển khai thực hiện tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Về tổ chức bộ máy thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín được triển khai thực hiện theo quy định của Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản hướng dẫn.
Đối với Ủy ban nhân dân huyện: hiện có 01 Phó trưởng phòng phụ trách và
01 chuyên viên trực tiếp phụ trách theo dõi công tác thi đua, khen thưởng. Ngoài ra,
ở các phòng, ban chuyên môn, các trường học thuộc huyện Thường Tín đều bố trí
công chức, viên chức kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng.
Thực hiện theo Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn của
Trung ương, Thành phố về việc thành lập Hội đồng Thi đua - Khen thưởng; huyện
Thường Tín đã thành lập và kiện toàn Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện với
21 thành viên, gồm có 01 Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng là Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện; 03 Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và Trưởng phòng Nội
vụ; 01 ủy viên thường trực là Phó trưởng phòng phụ trách công tác thi đua, khen
thưởng; 01 ủy viên thư ký là chuyên viên phụ trách theo dõi công tác thi đua, khen
thưởng; 15 ủy viên còn lại là trưởng các cơ quan chuyên môn, ban Đảng, đoàn thể,
công an và quân sự.
Đối với cấp xã: Ủy ban nhân dân 29 xã, thị trấn đã bố trí 01 công chức Văn
phòng - Thống kê kiêm nhiệm công tác thi đua, khen thưởng; thành lập Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng xã, thị trấn để thực hiện các hoạt động thi đua, khen thưởng
trên địa bàn. Hiện nay, số lượng thành viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã, thị
trấn tùy theo tình hình thực tế của từng xã, thị trấn và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã quyết định thành lập gồm có: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn là Chủ tịch
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng; 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn là
Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng và 01 công chức Văn phòng - Thống
63
kê xã, thị trấn là thư ký Hội đồng; các ủy viên còn lại là trưởng các ngành, đoàn thể
xã và các cán bộ, công chức khác.
Như vậy có thể thấy, hoạt động của tổ chức bộ máy và công chức làm công
tác thi đua, khen thưởng, thực hiện các hoạt động liên quan đến các quy định thi
đua, khen thưởng đã được tổ chức từ huyện đến cơ sở đảm bảo thực hiện theo Luật
định. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng từ huyện đến các xã, thị trấn thường xuyên
được kiện toàn, đảm bảo cả về số lượng lẫn cơ cấu thành phần.
Xác định đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi
đua, khen thưởng là một nhiệm vụ quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói
chung và đối với lĩnh vực thi đua, khen thưởng nói riêng. Bởi, chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng có ý nghĩa quyết
định đối với hoạt động thi đua, khen thưởng. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của một
tổ chức, đơn vị có thể thực hiện thông qua nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng và
tùy theo điều kiện cụ thể của từng đơn vị để có thể áp dụng thích ứng các hình thức
khác nhau.
Hàng năm, Ủy ban nhân dân huyện đã xây dựng và triển khai kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng thông qua hình thức tập huấn về công tác thi đua, khen thưởng cho
thủ trưởng, chuyên viên các cơ quan, ban ngành, đoàn thể huyện; Bí thư Đảng ủy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân và công chức Văn phòng - Thống kê làm công tác thi đua
khen thưởng các xã, thị trấn; Hiệu trưởng và viên chức (Chủ tịch công đoàn) làm
công tác thi đua khen thưởng tại các trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non trực
thuộc huyện.
Từ năm 2015 đến năm 2019, huyện Thường Tín đã phối hợp với Ban Thi
đua - Khen thưởng thành phố tổ chức mỗi năm 01 lớp (mỗi lớp khoảng hơn 250 cán
bộ, công chức, viên chức) tập huấn nghiệp vụ về công tác thi đua, khen thưởng với
nội dung trọng tâm là triển khai một số quy định mới về công tác thi đua, khen
thưởng của trung ương, thành phố, bồi dưỡng một số nghiệp vụ về công tác thi đua
khen thưởng và trao đổi, thảo luận một số kinh nghiệm trong quá trình thực hiện
64
công tác thi đua khen thưởng ở cơ sở; đồng thời giao phòng Nội vụ phối hợp với
đơn vị cơ sở để trực tiếp hướng dẫn nghiệp vụ khi có yêu cầu.
Ngoài ra, nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo
và công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng về tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với thi đua, khen thưởng, huyện Thường Tín đã tổ chức 01 buổi hội nghị
nói chuyện chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước.
Các báo cáo viên tham gia lớp tập huấn, nói chuyện chuyên đề là những
người có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng (Lãnh
đạo Ban Thi đua - Khen thưởng thành phố Hà Nội; nguyên ủy viên Hội đồng Lý
luận trung ương).
Bên cạnh đó, thực hiện hướng dẫn của thành phố hàng năm, Ủy ban nhân
dân huyện đã cử 01 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện là Phó Chủ tịch thường
trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện, 01 Phó trưởng phòng và 01 chuyên
viên phòng Nội vụ tham gia các lớp tập huấn về thi đua, khen thưởng do Ban Thi
đua - Khen thưởng thành phố Hà Nội triệu tập.
Qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác
thi đua, khen thưởng sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên
chức về công tác thi đua khen thưởng và trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo
tổ chức thực hiện phong trào thi đua cũng như triển khai thực hiện chính sách pháp
luật về thi đua khen thưởng.
Thứ ba, triển khai thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả công tác thi
đua, khen thưởng
Là một nội dung quan trọng trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng và có ý nghĩa thiết thực trong việc đánh giá hiệu quả các phong
trào thi đua. Vì vậy, việc sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng,
đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng luôn được huyện Thường Tín quan
tâm thực hiện.
Từ năm 2015 đến năm 2019, huyện Thường Tín đã tổ chức 01 hội nghị biểu
dương điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2010 - 2015.
65
Hàng năm, huyện Thường Tín tổ chức các hội nghị phát động triển khai các phong
trào thi đua theo đợt, chuyên đề cùng với đó đã tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng
kết, biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân đã tham gia thực hiện tốt các
phong trào thi đua, nổi bật là: hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm;
hội nghị tổng kết phong trào Người tốt, việc tốt; hội nghị sơ kết, tổng kết Cuộc thi
viết về gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên địa bàn; hội nghị tổng kết
khen thưởng công tác y tế, phong trào an toàn thực phẩm; hội nghị tổng kết phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; hội nghị tổng kết phong trào thi đua quyết
thắng..v.v.. và các hội nghị tổng kết theo giai đoạn của các ngành, các lĩnh vực khác
trên địa bàn huyện.
Ngoài việc đánh giá kết quả đã đạt được, rút ra những bài học kinh nghiệm
và đề ra phương hướng công tác thi đua, khen thưởng tiếp theo, hội nghị sơ kết,
tổng kết phong trào thi đua là dịp huyện biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá
nhân tiêu biểu có những đóng góp trong thực hiện các phong trào thi đua trên địa
bàn huyện.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong triển khai tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội hiện nay
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm vị trí, địa lý của huyện Thường Tín thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế, mở rộng các khu công nghiệp, thu hút các doanh nghiệp
vào đầu tư và yếu tố văn hóa khi huyện Thường Tín mang đậm nét đặc trưng của văn
hóa dân tộc Việt Nam, có những nét chung truyền thống ngàn năm văn hiến với
Thăng Long - Hà Nội, vùng đất truyền thống cách mạng anh dũng kiên cường trong
chiến đấu và xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động tuyên truyền, phát động, triển khai các phong trào thi đua và
khen thưởng trên toàn huyện khi nhận được sự hưởng ứng thi đua của đông đảo các
thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân trong huyện.
Thứ hai, trên cơ sở hệ thống chính trị của huyện gồm có: 04 ban Đảng, 01
Văn phòng cấp ủy, 01 Đảng ủy Khối doanh nghiệp, 06 đơn vị đoàn thể, 13 cơ quan
66
thuộc khối quản lý Nhà nước, 06 đơn vị sự nghiệp, 88 trường học trực thuộc, 28 xã
và 01 thị trấn; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của huyện đều có trình độ đại
học, cao đẳng trở lên đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đảng bộ Huyện có trên 8.985
đảng viên. Đã tạo điều kiện thuận lợi để huyện tổ chức thành các Cụm thi đua, thu
hút đông đảo đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân
tham gia thi đua. Các cơ quan chuyên môn đã phối hợp với các tổ chức đảng, đoàn
thể từ huyện đến cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như
triển khai, thực hiện các phong trào thi đua theo chỉ đạo của Huyện ủy và các văn
bản hướng dẫn của Ủy ban nhân dân huyện. Bên cạnh đó, sự hướng dẫn sát sao của
Ban Thi đua - Khen thưởng thành phố Hà Nội trong quá trình triển khai tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thứ ba, với sự phát triển kinh tế của huyện khi tổng thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn huyện tăng thu bình quân 5,8%/năm đã góp phần tạo điều kiện để
huyện đảm bảo kinh phí cho hoạt động thi đua, khen thưởng cũng như nâng cao hệ
thống trang thiết bị làm việc cho đội ngũ công chức làm thi đua, khen thưởng nói
riêng (máy tính, máy in, máy scan, máy in giấy khen) và cán bộ, công chức, viên
chức nói chung từ huyện đến cơ sở.
Sự đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin qua hệ thống cổng thông tin điện tử
huyện và hòm thư email, chữ ký điện tử giúp việc truyền tải các văn bản thi đua,
khen thưởng, công tác tuyên truyền được kịp thời, nhanh chóng; đặc biệt, đã giúp
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở các cơ
quan, đơn vị tăng cường học hỏi kinh nghiệm tổ chức thực hiện tốt các hoạt động
thi đua, khen thưởng từ các quận, huyện (quận Long Biên, huyện Chương Mỹ..v.v..)
trong thành phố Hà Nội nói riêng và các tỉnh thành trên cả nước nói chung.
2.2.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong
triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Hạn chế, tồn tại trong triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
67
Thứ nhất, triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và
thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền, các nội dung tuyên truyền vẫn còn
chưa cập nhật kịp thời các văn bản quy định mới về thi đua, khen thưởng. Việc phổ
biến pháp luật còn mang tính hình thức, phong trào, đơn điệu, thiếu trọng tâm, trọng
điểm và chưa đi vào những nội dung, vấn đề thiết yếu, sát thực tiễn cơ sở mà người
dân cần và quan tâm. Việc đánh giá, xác định hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật còn mang tính chung chung.
Công tác phát hiện, tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, mô hình thi
đua còn nhiều hạn chế, hình thức; “Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân
rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền thiếu đồng bộ,
sinh động, thuyết phục, làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể, cá nhân” [50,
tr.6]. Số lượng tin, bài viết về thi đua, khen thưởng, về nhân tố mới, người tốt việc
tốt trên cổng thông tin điện tử huyện cũng như qua hệ thống truyền thanh từ huyện
đến cơ sở còn ít, chất lượng chưa cao; sách về gương người tốt, việc tốt chưa được
phát hành rộng rãi khi chỉ tập trung phát theo đầu mối cơ quan, xã, thị trấn; nội
dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền về điển hình tiên tiến thiếu sinh động,
chủ yếu là nêu gương tại hội nghị sơ kết, tổng kết.
Hai là, thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
Việc tổ chức các phong trào thi đua còn qua loa, hình thức, chưa kịp thời,
kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò của các nhân tố mới, nhân tố điển hình.
Nhiều phong trào thi đua được huyện ban hành và gửi về các cơ quan, đơn vị theo
hình thức email, dẫn đến nhiều cơ quan, đơn vị không nắm rõ các thông tin. Tại Lễ
kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc
(11/6/1948 – 11/6/2018), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu và chỉ
rõ hạn chế, khuyết điểm trong phong trào thi đua yêu nước: “Phong trào thi đua tuy
68
phát triển sâu rộng nhưng chưa toàn diện; nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa
gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị” [50, tr.6].
Các cụm thi đua hoạt động chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức, hạn chế
trong phương thức hoạt động và trong phối hợp, tổ chức thực hiện. Ngoại trừ cụm
thi đua khối xã có nội dung, chương trình thiết thực theo đúng hướng dẫn hoạt động
cụm, các cụm khác chủ yếu tập trung họp cuối năm để bình xét, suy tôn. Vẫn còn
nhiều cụm xã chưa chú trọng các mô hình thi đua để đăng ký Cờ thi đua thành phố,
Cờ thi đua Chính phủ.
Hoạt động bình xét khen thưởng ở một số đơn vị, địa phương chưa mang tính
khách quan, công bằng, còn biểu hiện thiếu dân chủ mang tính nể nang, cào bằng,
luân phiên như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Việc suy tôn, phong tặng
danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng còn có biểu hiện nể nang, dễ dãi, còn để
xảy ra tình trạng “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy huân chương”; khen
thưởng đối với người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân tuy đã được
quan tâm nhưng còn ít” [50, tr.6], tỷ lệ khen thưởng lãnh đạo vẫn còn lớn, chủ yếu
là khen cấp thành phố. Qua theo dõi các cơ quan, đơn vị tại huyện Thường Tín, tác
giả luận văn nhận thấy, có người lao động cả giai đoạn 2015 - 2019 không được đề
xuất khen thưởng, dẫn đến tâm lý không phấn đấu trong công việc, không tham gia
các phong trào thi đua và nhiều trường hơp đề nghị khen thưởng nhưng thành tích chưa xuất sắc, tiêu biểu và tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương chưa cao, chưa
có sức lan tỏa trong quần chúng.
Công tác khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân lập được thành tích trong
thực hiện nhiệm vụ đột xuất chưa kịp thời và ít được chú trọng, chủ yếu tập trung
khen cho lực lượng công an trong việc khám phá, bắt giữ các đối tượng buôn bán
ma túy, truy nã.
Việc xét, đề nghị khen thưởng theo chuyên đề còn thiếu tính chủ động,
không theo dõi văn bản triển khai, dẫn đến việc đề nghị khen thưởng không kịp thời
và còn có biểu hiện tràn lan, cào bằng, khen cơ quan nhiều hơn đơn vị cơ sở và
chưa chú trọng khen thưởng cho các tập thể nhỏ như các Hội ở xã, thị trấn, các tổ
69
dân phố, thôn..vv.; khen cho cán bộ lãnh đạo nhiều hơn cho người trực tiếp làm
nhiệm vụ.
Vẫn còn hiện tượng khen thưởng trùng lặp, một thành tích vừa đề nghị danh
hiệu thi đua, vừa đề nghị hình thức khen thưởng ở cùng một cấp như trường hợp
vừa tặng giấy khen, vừa tặng danh hiệu “Người tốt, việc tốt”.
Việc làm và xét các sáng kiến, giải pháp công tác còn hình thức, chiếu lệ và
tập trung vào đội ngũ lãnh đạo, nhiều sáng kiến mang tính sao chép, không sát thực
tế tại địa phương, đơn vị.
Công tác thẩm định thành tích khen thưởng từ cơ sở còn hạn chế, qua loa và
có hiện tượng báo cáo thành tích không trung thực để đề nghị khen thưởng, đặc biệt
là khen cấp thành phố và trung ương.
Thứ hai, triển khai thực hiện tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội còn có những hạn chế, tồn tại, tập trung vào
một số nội dung sau:
Hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng ở các xã, thị trấn
chưa thống nhất, mỗi nơi tổ chức một khác. Hoạt động của Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng chủ yếu tập trung họp bình xét thi đua đối với lĩnh vực giáo dục - đào
tạo và khen thưởng tổng kết năm. “Hoạt động của Hội đồng Thi đua, Khen thưởng
các cấp chưa phát huy hết vai trò tham mưu, tư vấn cho cấp ủy Đảng và chính
quyền trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện chính sách, pháp
luật về khen thưởng; chưa quan tâm kiểm tra, đôn đốc thường xuyên. Hoạt động của
Hội đồng các cấp nhất là cấp cơ sở chủ yếu là xem xét, thông qua các hình thức
khen thưởng mà chưa coi trọng công tác chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua”
[39, tr.26].
Việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác thi
đua, khen thưởng chưa được quan tâm, chú trọng. Thời gian tập huấn nghiệp vụ
70
thường diễn ra vào 01 buổi sáng, không đủ truyền tải các nội dung của thi đua, khen
thưởng và kinh nghiệm thực tiễn. Việc tổ chức các hội thảo chuyên đề, các cuộc thi
tìm hiểu về lĩnh vực thi đua, khen thưởng còn hạn chế.
Thứ ba, triển khai thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả công tác thi
đua, khen thưởng
Hoạt động sơ kết, tổng kết tại từ huyện đến cơ sở còn mang nặng tính hình
thức, các báo cáo còn chung chung dẫn đến việc đánh giá, rút kinh nghiệm thực tiễn
cũng như quán triệt đầy đủ sâu sắc chủ trương chính sách và các quy định về thi
đua, khen thưởng của Đảng và Nhà nước còn kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc chưa được biểu
dương, khen thưởng kịp thời trong các hoạt động sơ kết, tổng kết. Từ đó ảnh hưởng
không tốt việc đảm bảo nguyên tắc dân chủ, chính xác, công khai, công bằng, đúng
người đúng việc trong công tác thi đua, khen thưởng.
Tại một số xã, công tác tổ chức trao tặng và đón nhận vẫn chưa được quan
tâm đúng mức, còn lúng túng trong điều hành hội nghị, trao thưởng. Nhiều hoạt
động sơ kết, tổng kết chủ yếu thông qua hình thức báo cáo bằng văn bản, không
thực hiện theo hướng dẫn của huyện.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong triển khai tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội hiện nay
Một là, xuất phát từ những hạn chế về nhận thức, năng lực và phẩm chất đạo
đức của một bộ phận lãnh đạo, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị từ huyện
đến cơ sở.
Trong đó, nhận thức, ý thức trách nhiệm của lãnh đạo một số phòng, ban,
ngành, đoàn thể, trường học và xã, thị trấn về công tác thi đua, khen thưởng còn
chưa đầy đủ, chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thi
đua, khen thưởng; coi thi đua là một hoạt động phụ trong chỉ đạo, điều hành dẫn
đến mang nặng hình thức, xem nhẹ, thậm chí buông lỏng, giao quyền cho nhân viên
tự làm, không xem xét khi ký văn bản đề nghị khen thưởng. Nhiều đề xuất, khen
71
thưởng phải qua Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, tuy nhiên không được thực hiện,
mà dựa theo ý chí của người lãnh đạo, dẫn đến việc bình xét thiếu tính khách quan,
thiếu dân chủ, công bằng. Vẫn còn nhiều cán bộ, công chức quan niệm việc sơ kết,
tổng kết, đề nghị khen thưởng là công việc đến hẹn lại lên. Vì vậy, chưa xác định
được biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đổi mới công tác thi đua, khen thưởng.
Vẫn còn một bộ phận công chức làm thi đua, khen thưởng thiếu sự nhiệt tình,
còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, không kịp thời cập nhật, tham mưu tuyên truyền
các văn bản về thi đua, khen thưởng cũng như triển khai công tác phát hiện, tuyên
truyền các gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt; việc nghiên cứu các văn
bản pháp luật về thi đua, khen thưởng còn qua loa, chiếu lệ. Thái độ tham gia các
lớp tập huấn về thi đua, khen thưởng còn chưa nghiêm túc, thiếu sự cầu thị, nghiên
cứu, trao đổi, dẫn đến việc tiếp thu, tuyên truyền không được đầy đủ.
Công tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các phong trào thi đua, thẩm
định thành tích khen thưởng còn hạn chế, chung chung.
Thực hiện hoạt động kiêm nhiệm nên các thành viên Hội đồng Thi đua –
Khen thưởng huyện chưa sâu sát theo dõi, đôn đốc các cơ quan, đơn vị. Chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng ở các
xã, thị trấn.
Hai là, các xã, thị trấn, các trường học trên địa bàn huyện Thường Tín chưa
có hệ thống trang tin điện tử, dẫn đến những hạn chế trong tuyên truyền các quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng cũng như việc triển khai các phong
trào thi đua, xây dựng các điển hình tiên tiến.
Chưa có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ làm công tác thi đua,
khen thưởng cũng như chưa có chính sách khuyến khích công chức làm công tác thi
đua, khen thưởng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, dẫn đến một bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng bị “tha hóa”, lười học tập,
nâng cao trình độ, nghiệp vụ và không tâm huyết với công việc thi đua.
Ba là, việc tổ chức các phong trào thi đua, thực hiện khen thưởng chưa đồng
đều giữa các xã, thị trấn; chưa động viên khuyến khích các tầng lớp nhân dân tham
72
gia phong trào, nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh đơn thuần, chưa tạo được
động lực thúc đẩy toàn xã hội hăng hái thi đua. Các cụm thi đua thuộc huyện thiếu
sự chủ động trong việc xây dựng các tiêu chí, nội dung thi đua của cụm. Kinh phí
chi cho tổ chức các hoạt động sơ kết, tổng kết còn hạn chế. Theo quy định, quỹ thi
đua, khen thưởng cấp huyện, cấp xã được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước
hàng năm với mức tối đa bằng 1,0% chi ngân sách thường xuyên và từ nguồn đóng
góp của cá nhân, tổ chức khác, nhưng trên thực tế, chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà
nước ở dưới mức 1,0% chi ngân sách thường xuyên và không có các nguồn đóng
góp của cá nhân, tổ chức khác.
2.3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thƣởng trên địa bàn
huyện Thƣờng Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
2.3.1. Kết quả và nguyên nhân của những kết quả đạt được trong thanh
tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội hiện nay
Kết quả đạt được trong thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Ở bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra. Trong
công tác thi đua, khen thưởng, hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm đảm bảo tính khả
thi của các quy định về thi đua, khen thưởng, đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch
trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng bởi “muốn
chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành
không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ
có một cách là khéo kiểm soát” [33, tr.297]. Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan
trọng không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng, trong những năm qua, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín đã quan tâm,
chú trọng đến công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý vi
73
phạm nhằm bảo đảm sự chặt chẽ trong quá trình triển khai thực hiện thi đua, khen
thưởng và quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Hàng năm, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng ban hành kế hoạch kiểm tra
công tác thi đua, khen thưởng, nội dung kiểm tra tập trung vào việc triển khai, thực
hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng theo kế hoạch của huyện; việc xây
dựng, phát động và tổ chức thực hiện các phong trào thi đua theo chỉ đạo của Trung
ương, thành phố, huyện trong năm; thực hiện công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng
kết nhân điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt; công tác khen thưởng và tuyên
truyền trong phong trào thi đua yêu nước; triển khai các văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện về công tác thi đua, khen thưởng của
trung ương, thành phố và huyện về các tiêu chí và quy trình xét các danh hiệu thi
đua, hình thức khen thưởng; công tác giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo theo Luật
Thi đua, Khen thưởng tại đơn vị.
Hiện nay, việc thanh tra, kiểm tra công tác thi đua, khen thưởng được tổ chức
lồng ghép với thanh tra, kiểm tra cải cách hành chính. Từ năm 2015 đến năm 2019,
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện kết hợp với đoàn kiểm tra cải cách hành
chính, thực thi công vụ và kỷ cương hành chính của huyện đã tiến hành 103 lượt
kiểm tra, tái kiểm tra đối với các cơ quan chuyên môn và Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn trên địa bàn huyện.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra giúp Hội đồng Thi đua - Khen thưởng
huyện đánh giá đúng thực trạng về công tác thi đua, khen thưởng, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, đảm bảo nguyên tắc 5 rõ:
“rõ người, rõ việc, rõ quy trình, rõ trách nhiệm và rõ hiệu quả” và “một việc, một
đầu mối xuyên suốt”; kịp thời phát hiện những vướng mắc và chấn chỉnh những vi
phạm trong việc thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng như: khen thưởng
không đúng thẩm quyền; bình xét thi đua, khen thưởng chưa chính xác không theo
các tiêu chuẩn quy định; khen không có thưởng hoặc khen nhưng thưởng không
đúng với định mức quy định; một số nơi thực hiện chưa tốt các chính sách về ưu đãi
sau khen thưởng như nâng lương trước hạn, bổ nhiệm, luân chuyển, v.v..
74
Sau khi thanh tra, kiểm tra có đánh giá, kết luận tại từng đơn vị, từng ngành,
từng cấp trong việc thực hiện chính sách khen thưởng và đề xuất, kiến nghị các biện
pháp, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới phong trào thi đua và thực hiện tốt công tác
khen thưởng trên địa bàn huyện. Phát hiện những mô hình, điển hình, nhân tố mới để
kịp thời tuyên truyền, bồi dưỡng, khen thưởng và nhân rộng. Mặt khác, qua thanh tra,
kiểm tra cho thấy việc lưu trữ hồ sơ đề nghị khen thưởng còn hạn chế, một số đơn vị
không triển khai thực hiện các phong trào thi đua, công tác khen thưởng chú trọng
đến cán bộ, công chức xã, tỷ lệ khen thưởng cho nhân dân lao động còn ít, v.v..
Nhìn chung, việc thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín được
thực hiện nghiêm túc, cơ bản không có đơn vị, cá nhân nào vi phạm nghiêm trọng
các quy định về thi đua, khen thưởng và bị thu hồi quyết định khen thưởng, hiện vật
khen thưởng. Không có đơn thư khiếu nại, tố cáo về tổ chức thực hiện pháp luật về
thi đua, khen thưởng, đã tạo được niềm tin cho cán bộ, công chức, viên chức và
nhân dân tin vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo được khí thế
trong việc tổ chức phong trào thi đua và đảm bảo sự công bằng, khách quan trong
thi đua, khen thưởng. Công tác thi đua, khen thưởng đã thực sự là động lực cho mỗi
cá nhân, tập thể trong các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh
của huyện.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Một là, sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức tại huyện
Thường Tín; sự phối hợp giữa phòng Nội vụ huyện với Ban Thi đua - Khen thưởng
thành phố Hà Nội trong công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
Hai là, có trao đổi kinh nghiệm thực tiễn giữa các cán bộ, công chức làm thi
đua, khen thưởng trên địa bàn thành phố Hà Nội và sự học hỏi của các tỉnh, thành
75
khác trong cả nước đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng đã góp
phần tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
2.3.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành
phố Hà Nội hiện nay
Hạn chế, tồn tại trong thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Thứ nhất, công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về thi đua, khen thưởng còn mang tính hình thức, chưa thực hiện thường xuyên,
liên tục. Nội dung kiểm tra chủ yếu tập trung vào các văn bản chỉ đạo thực hiện các
quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn của chính phủ,
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Hình thức kiểm tra chủ yếu thông qua báo cáo
hành chính, kiểm tra kết hợp với các lĩnh vực khác mà ít kiểm tra trực tiếp, kiểm tra
toàn diện về các nội dung thi đua và công tác khen thưởng.
Việc giải quyết đơn thư khen thưởng kháng chiến còn chậm, chưa nhận được
sự đồng tình, chấp thuận của người dân, vẫn để xảy ra tình trạng vượt cấp.
Thứ hai, trong công tác thanh tra, kiểm tra còn nể nang, cào bằng, “còn có
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở” [17, tr.197],
thiếu sức răn đe với các đơn vị, địa phương trong quá trình thực hiện các phong trào
thi đua và đề nghị khen thưởng.
Việc kiểm tra đối với cơ sở, đặc biệt ở các trường học còn hạn chế. Sau kiểm
tra thường nhắc nhở, chưa có chế tài đối với người đứng đầu đơn vị, dẫn đến việc
xem nhẹ hoạt động kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động
thi đua, khen thưởng.
76
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Một là, chuyên viên trực tiếp làm công tác thi đua, khen thưởng của phòng
Nội vụ huyện ít được tham gia cùng đoàn kiểm tra do phải kiêm nhiệm nhiều công
việc; việc thành lập đoàn kiểm tra riêng về thi đua, khen thưởng sẽ gây tốn kém và
ảnh hưởng đến việc giải quyết các công việc tại cơ quan, đơn vị.
Việc tiếp cận, lĩnh hội các văn bản về khen thưởng kháng chiến của công
chức phụ trách thi đua, khen thưởng còn hạn chế và hồ sơ khen thưởng tồn đọng
quá lâu, thiếu căn cứ cũng như không có sự điều chỉnh mới dẫn đến việc không giải
quyết dứt điểm khen thưởng kháng chiến.
Hai là, thiếu sự quan tâm, chỉ đạo trong việc thanh tra, kiểm tra cũng như
việc chấp hành thanh tra, kiểm tra của thủ trưởng đơn vị khi mà “Một số nơi, cấp ủy
đảng, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng vì vậy
còn hiện tượng buông lỏng, chưa thực sự quan tâm và đề cao trách nhiệm trong lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Do đó làm giảm tính hiệu quả quản lý nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng” [23, tr.136].
Tiểu kết chƣơng 2
Trong những năm qua, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng tại huyện Thường Tín đã được quan tâm, chỉ đạo và nhận được sự hưởng
ứng tích cực của các cơ quan, đơn vị và các tầng lớp nhân dân trong huyện.
Ủy ban nhân dân huyện đã chủ động ban hành các văn bản về thi đua, khen
thưởng phù hợp với các quy định hiện hành của Luật Thi đua, Khen thưởng và đáp
ứng với yêu cầu thực tế của đời sống xã hội.
Công tác tổ chức bộ máy về thi đua, khen thưởng được kịp thời kiện toàn,
đảm bảo cho hoạt động chỉ đạo, bình xét khen thưởng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và công chức, viên chức theo dõi công tác thi đua, khen
77
thưởng. Các phong trào thi đua yêu nước đã được huyện triển khai có nhiều đổi mới
về nội dung và hình thức, thiết thực và hiệu quả hơn.
Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến được
quan tâm chỉ đạo và có nhiều chuyển biến rõ nét. Công tác khen thưởng đã có tác
dụng động viên, cổ vũ kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu, xuất sắc.
Bên cạnh đó, việc xây dựng và ban hành; triển khai tổ chức thực hiện và
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực
hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố
Hà Nội hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra trên,
đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay.
78
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THƢỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Giải pháp nhằm bảo đảm việc xây dựng và ban hành pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Văn bản pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc quản lý và điều
hành của các cơ quan nhà nước, vừa là nguồn cung cấp thông tin pháp luật cơ bản,
là cơ sở để đánh giá kết quả hoạt động cũng như hoạch định phương hướng phát
triển của cơ quan, đơn vị. Trong công tác thi đua, khen thưởng, hệ thống các văn
bản pháp luật về thi đua, khen thưởng là hành lang pháp lý, cơ sở quan trọng để Nhà
nước quản lý thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Từ khi Luật Thi đua, Khen
thưởng ban hành, đã có nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn về công tác thi đua,
khen thưởng, tạo bước chuyển biến tích cực trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và
triển khai thực hiện, góp phần nâng cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng, đáp ứng được
yêu cầu đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay. Đối với thành phố Hà Nội, từ năm 2015 đến nay đã
xây dựng và ban hành nhiều văn bản thay thế, bổ sung, sửa đổi về công tác thi đua,
khen thưởng trên địa bàn thành phố phù hợp với Luật Thi đua, Khen thưởng, các
văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ và phù hợp với vị trí vai trò Thủ đô của đất nước
như: quy định về công tác thi đua, khen thưởng; quy chế khen thưởng doanh
nghiệp; quy chế xét, công nhận công trình chào mừng các ngày lễ lớn của Thủ đô và
đất nước; quy chế xét tặng danh hiệu Công dân Thủ đô ưu tú; quy chế xét tặng danh
hiệu “Người tốt, việc tốt”, v.v…cùng với các văn bản hướng dẫn, chương trình hành
động liên quan đến thi đua, khen thưởng. Với hệ thống các văn bản pháp luật về thi
đua, khen thưởng từ trung ương đến thành phố Hà Nội, là cơ sở để các cơ quan, đơn
vị trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và huyện Thường Tín nói riêng tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
79
Trong giai đoạn vừa qua, công tác xây dựng và ban hành văn bản về thi đua,
khen thưởng của huyện Thường Tín đã được quan tâm thực hiện, huyện đã ban
hành các quyết định về thành lập Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, các cụm thi đua
thuộc huyện, chương trình hành động về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng giai
đoạn 2015 - 2020, các kế hoạch, công văn hướng dẫn thực hiện thi đua, khen
thưởng hàng năm. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn nhiều vấn
đề bất cập, đặc biệt là huyện Thường Tín chưa ban hành quy chế về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn. Vì vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín phù hợp với các quy định mới
trong các văn bản của trung ương, thành phố Hà Nội và thực tiễn tại địa phương là
yêu cầu cấp bách trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa
bàn huyện Thường Tín hiện nay.
Xác định công tác thi đua, khen thưởng là một trong những động lực, giải
pháp giúp cho công tác quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín
được đúng hướng và hiệu quả; trong thời gian tới, nhằm nâng cao hiệu quả xây
dựng và ban hành văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện, Ủy
ban nhân dân huyện Thường Tín cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, thực hiện rà soát và hệ thống hóa các văn bản chỉ đạo, tổ chức thực
hiện về thi đua, khen thưởng huyện Thường Tín đã ban hành trong thời gian qua.
Cập nhật các văn bản mới do Bộ Nội vụ, thành phố Hà Nội ban hành để xây dựng
cũng như sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn trước đây và ban hành kịp thời
các văn bản về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện phù hợp với tình
hình thực tiễn, nhất là cần sớm ban hành quy chế công tác thi đua, khen thưởng trên
địa bàn huyện Thường Tín, là cơ sở để các tổ chức, cá nhân trên địa bàn huyện hiểu,
nắm rõ các quy định về tiêu chuẩn, thẩm quyền, quy trình và tổ chức thực hiện các
hoạt động thi đua, công tác khen thưởng theo đúng quy định hiện hành của pháp
luật về thi đua, khen thưởng, đồng thời là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong hoạt động thi đua, khen thưởng tại huyện, giảm thiểu các quy định theo tiền lệ
trước đây, chẳng hạn như việc quy định các trường hợp khen thưởng và đề nghị
80
khen thưởng xin ý kiến Ban Thường vụ Huyện ủy. Trong quá trình xây dựng, ban
hành văn bản phải đảm bảo đúng quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Vì hiện nay, Luật Thi đua, Khen thưởng đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2013; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày
31/7/2017 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Bộ
Nội vụ ban hành Thông tư số 12/2019/TT-BNV ngày 04/11/2019 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 thay thế
Thông tư số 08/2017/TT-BNV ngày 27/10/2017 và Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội ban hành Quyết định số 09/2020/QĐ-UBND ngày 28/4/2020 về việc ban hành
quy định về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật về thi đua, khen
thưởng cần tiếp tục rà soát, hệ thống hóa, phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo,
vướng mắc trong quá trình thực tiễn tại cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn để có ý kiến
đề nghị với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ban Thi đua - Khen thưởng thành
phố Hà Nội. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 170, Luật Ban hành Văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Các cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm
pháp luật; nếu phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu
lực hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội thì tự mình
hoặc kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời đình chỉ việc thi
hành, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới hoặc thay thế văn bản quy
phạm pháp luật” [49, tr.78-79].
Thứ hai, tăng cường vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện -
Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện, cũng như công tác tham mưu của
phòng Nội vụ và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tham
mưu ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản liên quan đến công tác thi đua, khen
thưởng để văn bản được ban hành có hiệu lực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
Thường Tín phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản được
ban hành liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng. Đồng thời, Chủ tịch Ủy ban
81
nhân dân huyện Thường Tín nên giao nhiệm vụ cụ thể bằng văn bản cho phòng Nội
vụ về tiến độ, thời gian, sự chủ động trong việc ban hành các văn bản của phòng để
phòng Nội vụ có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng và ban
hành văn bản về thi đua, khen thưởng cụ thể: phối hợp phòng Tư pháp trong việc
tham mưu đề xuất việc ban hành quyết định quy định về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn huyện; phối hợp với các ban Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, các
đoàn thể huyện, các xã, thị trấn trong việc triển khai ban hành văn bản hướng dẫn
liên quan đến thi đua, khen thưởng. Đặc biệt, cần tiếp thu ý kiến của các xã, thị trấn,
các trường học trong việc triển khai thực hiện các văn bản về thi đua, khen thưởng
để kịp thời điều chỉnh, bổ sung phù hợp với thực tiễn cơ sở, tránh tình trạng quy
định đặt ra nhưng phải thường xuyên điều chỉnh hoặc ban hành thêm văn bản để
hướng dẫn, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện. Đồng thời, nâng cao chất lượng soạn thảo văn bản, tránh
việc sao chép nội dung các văn bản không có giá trị pháp lý hoặc của đơn vị khác.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin với việc xây dựng, ban hành văn
bản pháp luật. Trong tiến trình cải cách hành chính ở Việt Nam, việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là một khâu
quan trọng nhằm thiết lập một nền hành chính năng động, trách nhiệm, hiện đại, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, huyện Thường Tín cần tích cực cập
nhật, đăng tải các văn bản pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng trên trang
thông tin điện tử của huyện và trang Fanpage “Thường Tín đất danh hương”; xây
dựng các chuyên mục về văn bản pháp luật, thủ tục hành chính để đáp ứng nhu cầu
tra cứu, thực hiện công tác tuyên truyền cũng như tiếp nhận ý kiến phản hồi, đóng
góp của các tổ chức, cá nhân đối với văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Tăng cường ứng dụng chữ ký số trong các hoạt động chỉ đạo, điều hành của huyện
đối với công tác thi đua, khen thưởng, góp phần nâng cao hiệu lực pháp lý của các
văn bản ban hành.
82
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội
hiện nay
Thứ nhất, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và
thực hiện các quy định về thi đua, khen thưởng
Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về thi đua,
khen thưởng
Công tác tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn các quy định của pháp luật về thi
đua, khen thưởng đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là khâu đầu tiên trong việc đưa các chính sách pháp luật về thi đua, khen
thưởng của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của
từng chủ thể trong xã hội, “làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên và
nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập
quốc tế” [8, tr.2].
Để triển khai thực hiện đúng, đủ, kịp thời và chính xác các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, các quy định của thành phố Hà Nội và
huyện Thường Tín về công tác thi đua, khen thưởng, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động cũng như lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện
tham gia thi đua phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng trên địa
bàn huyện, huyện Thường Tín cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tổ chức, cá nhân trên địa bàn
huyện về công tác thi đua, khen thưởng và việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Trong thời gian tới, huyện Thường Tín cần quan tâm một số nội dung sau:
Chú trọng đổi mới nội dung tuyên truyền về thi đua, khen thưởng. Bên cạnh
việc tiếp tục tuyên truyền tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước,
Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị, Luật Thi đua, Khen thưởng
và các văn bản hướng dẫn thi hành, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín cần tuyên
truyền kịp thời các quy định mới về sửa đổi, bổ sung trong công tác thi đua, khen
83
thưởng, giúp các tổ chức, cá nhân kịp thời cập nhật thông tin để có sự định hướng
trong thi đua, khen thưởng; tuyên truyền thường xuyên hơn nữa các văn bản chỉ đạo
về thi đua, khen thưởng cũng như báo cáo kết quả thi đua, khen thưởng, các quyết
định khen thưởng của huyện.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến,
gương người tốt, việc tốt trong phong trào thi đua yêu nước, bởi “một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [31, tr.263] và “lấy
gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người
mới, cuộc sống mới” [35, tr.558]. Hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến
việc nêu gương trong cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, vì vậy, việc đẩy mạnh nội dung tuyên
truyền về các gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt trong xã hội là một nội
dung quan trọng trong công tác tuyên truyền về thi đua, khen thưởng, góp phần
nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin cho cán bộ đảng viên và nhân
dân; cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước. Nội dung tuyên truyền cần dễ
hiểu, dễ nhớ và phù hợp với văn hóa, tập quán, trình độ dân trí của từng địa phương,
từng ngành nghề.
Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền truyền, phổ biến, hướng dẫn thực
hiện các văn bản về thi đua, khen thưởng. Để có thể đưa các nội dung tuyên truyền
đến các tầng lớp nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín cần tiếp tục đẩy
mạnh các hình thức tuyên truyền trực quan: tuyên truyền qua hệ thống đài truyền
thanh từ huyện đến cơ sở với việc tăng thời lượng phát sóng các chuyên mục về thi
đua, khen thưởng, thời gian tuyên truyền vào buổi sáng và buổi chiều; tổ chức tọa
đàm về thi đua, khen thưởng vào các dịp kỷ niệm lớn của đất nước, thủ đô Hà Nội
và huyện Thường Tín; lồng ghép trong các hội thi tuyên truyền về văn hóa, pháp
luật; cập nhật, bổ sung các văn bản Luật, sách, báo về thi đua, khen thưởng như
Luật Thi đua, Khen thưởng, tạp chí Thi đua Khen thưởng, sách “Những bông hoa
đẹp” của thành phố Hà Nội và sách “Gương sáng học tập và làm theo tư tưởng, đạo
84
đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Huyện ủy Thường Tín vào tủ sách thư viện của
huyện. Chú trọng hình thức tuyên truyền miệng để phổ biến, trao đổi trực tiếp tới
các tập thể, cá nhân được tuyên truyền. Đưa nội dung tuyên truyền, học tập mô hình
thi đua vào tiêu chí chấm điểm thi đua của các cụm thi đua thuộc huyện. Biểu
dương các tập thể, cá nhân được các cấp, các ngành khen thưởng. Tăng cường phối
hợp với các cơ quan, báo đài của thành phố và tạp chí Thi đua Khen thưởng trung
ương và các tổ chức chính trị - xã hội của huyện trong việc tuyên truyền các điển
hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt và các phong trào thi đua của huyện; đề
nghị Ban Tuyên giáo Huyện ủy tuyên truyền về thi đua, khen thưởng lồng ghép vào
các hội nghị học tập chuyên đề, các lớp bồi dưỡng đảng viên.
Trong xu thế phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh việc tuyên truyền
theo hình thức truyền thống, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín cần đẩy mạnh
công tác tuyền thông online về thi đua, khen thưởng, cụ thể: tuyên truyền qua trang
Fanpage “Thường Tín đất danh hương”; nâng cao chất lượng hoạt động của trang
thông tin điện tử huyện với việc xây dựng chuyên mục hấp dẫn, nổi bật về hình thức
và nội dung phong phú đề cập đến các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt,
các mô hình mới trong phong trào thi đua, yêu nước của huyện và kịp thời đăng tải
các hoạt động thi đua, khen thưởng của huyện.
Trong thời gian tới, ngoài việc nâng cấp trang thông tin điển tử của huyện,
huyện Thường Tín cần triển khai trang thông tin điện tử cấp xã nhằm nâng cao năng
lực, quản lý, điều hành, cung cấp thông tin, cung cấp các dịch vụ công, hướng đến
thực hiện công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ, nhanh chóng, chính xác và
hiệu quả trong việc tiếp cận thông tin nói chung và thông tin về thi đua, khen
thưởng nói riêng, giúp người dân có thể tìm hiểu cũng như đóng góp ý kiến vào các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa
phương theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, từ đó góp
phần thiết thực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của từng xã nói riêng và huyện
Thường Tín nói chung.
85
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị,
cụm thi đua và tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc
tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thi đua, khen thưởng. Chủ tịch UBND
huyện và Chủ tịch UBND các xã, thị trấn cần đưa nội dung triển khai thực hiện các
phong trào thi đua vào buổi chào cờ sáng thứ 2 hàng tuần tại đơn vị mình. Thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị triển khai tuyên truyền về thi đua, khen thưởng vào công
tác sinh hoạt nội bộ của cơ quan, đơn vị, để công chức, viên chức hiểu và nắm rõ
các quy định về khen thưởng, các phong trào thi đua, từ đó tích cực tham gia. Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn tăng cường tuyên truyền qua các hội nghị tại
cơ sở, tuyên truyền, phổ biến qua các cuộc vận động xã hội, tăng thời lượng tuyên
truyền trên hệ thống loa truyền thanh, giúp cho mọi công dân nắm bắt được thông
tin rõ ràng, kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm và tinh thần chủ động
trong công việc của mỗi cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen
thưởng để mỗi người sẽ là một tuyên truyền viên về thi đua, khen thưởng tại cơ
quan, đơn vị mình đang công tác cũng như sinh hoạt tại nơi cư trú. Cần bám sát cơ
sở để có hình thức tuyên truyền cho phù hợp, hiệu quả đem lại niềm tin, hy vọng
cho mọi người khi tham gia vào những phong trào thi đua yêu nước.
Huyện Thường Tín sớm có cơ chế khen thưởng cho những tập thể, cá nhân
thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các hoạt động thi đua, khen thưởng; ngoài ra,
cần có cơ chế đặc thù đối với những cá nhân có nhiều bài viết về các gương điển
hình tiên tiến trên trang thông tin điện tử của huyện.
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức, phương thức tổ chức các phong trào thi
đua, nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm thi đua và tiếp tục thực hiện tốt công
tác khen thưởng
Đổi mới nội dung, hình thức, phương thức tổ chức các phong trào thi đua
Việc tổ chức các phong trào thi đua là một trong những nội dung quan trọng
được quy định trong Luật Thi đua, Khen thưởng. Để đổi mới nội dung, hình thức,
86
phương thức tổ chức các phong trào thi đua trên địa bàn huyện Thường Tín, cần
thực hiện một số các giải pháp sau:
Tăng cường vai trò, nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ
sở trong công tác thi đua, khen thưởng đảm bảo cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng
điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng” [34,
tr.270]. Chống bệnh quan liêu, hình thức, ngại khó khăn trong tổ chức phong trào
thi đua, “lãnh đạo phải đi sâu, đi sát, toàn diện” [34, tr.202]. Thường xuyên lãnh
đạo, chỉ đạo các hoạt động thi đua trong thời gian diễn ra phong trào để có những
phát hiện, đánh giá kịp thời, chính xác, công bằng đối với từng nội dung, từng hoạt
động của các phong trào thi đua yêu nước.
Trong quá trình tổ chức phong trào thi đua cần phải tuân thủ theo đúng quy
trình, các bước tiến hành từ xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung, xây dựng các
tiêu chí, tổ chức phát động, tuyên truyền, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng
kết, khen thưởng. Công tác xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cần sát với tình
hình thực tế tại địa phương và “Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng
mực” [34, tr.270]. Phong trào thi đua phải hướng về cơ sở, triển khai từ cơ sở và phải
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội gắn với tiếp tục đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Nội dung phát động thi đua cần
ngắn gọn, xúc tích, cô đọng, đi vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, tránh lan
man, dài dòng, làm rõ những vấn đề mà cơ quan, đơn vị, địa phương đang cần và
nhìn thẳng vào những tồn tại, hạn chế của địa phương để phát động thi đua có hiệu
quả. Các hình thức tổ chức phong trào thi đua cần phải phù hợp với đặc điểm,
nhiệm vụ từng địa phương, đơn vị và khả năng tham gia của từng đối tượng cụ
thể. Tuy nhiên, cần hạn chế phát động các phong trào thi đua vào thời điểm có
nhiều sự kiện quan trọng cùng diễn ra một lúc, sẽ làm giảm sự quan tâm của các
tập thể, cá nhân tham gia, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng thi đua của toàn huyện.
Trong quá trình tổ chức phong trào, cần quan tâm đến đặc điểm của các đối tượng
thực hiện phong trào để có các hình thức tổ chức phong trào phù hợp, có hiệu quả,
87
“không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng làm không
xong” [34, tr.292].
Ngoài ra cần có nội dung kiểm tra, giám sát và phân công trách nhiệm, tiến
độ trong quá trình thực hiện phong trào thi đua. Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có
thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời. Tăng cường sự
giám sát, phản ánh của nhân dân qua hoạt động giao ban dư luận, tiếp công dân và
trang tin điện tử của huyện đối với những cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện
quan liêu trong tổ chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, đảm bảo “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến phải được
coi là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới phương pháp tổ chức chỉ đạo các phong
trào thi đua. Công tác xây dựng điển hình tiên tiến phải được thực hiện từ cơ sở và
thực hiện đồng bộ cả 04 khâu: phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết, nhân điển hình tiên
tiến. Giải pháp phát hiện, bồi dưỡng điển hình tiên tiến thông qua việc tuyên truyền
sâu rộng đến từng thôn, xóm, từng chi bộ cơ sở; tăng cường vai trò của Tổ công tác
phát hiện gương điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt trong việc phát hiện và đề
xuất khen thưởng các gương tiêu biểu thông qua báo chí, mạng xã hội, dư luận xã
hội, đề xuất của cơ sở, v.v…; xây dựng lộ trình để các tập thể, cá nhân có thành tích
tiêu biểu được phát hiện trong các phong trào thi đua yêu nước phấn đấu đạt các
danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng của Nhà nước và thành phố Hà Nội.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của cụm thi đua
Duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động cụm thi đua thuộc huyện có vai trò
quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất, đồng bộ trong hoạt động cụm thi đua, đồng
thời phát huy khả năng sáng tạo của các đơn vị tham gia cụm, thúc đẩy phong trào
thi đua yêu nước ở từng cơ quan, đơn vị, qua đó xét chọn những tập thể tiêu biểu đề
nghị các cấp khen thưởng theo quy định đảm bảo công bằng, dân chủ, khách quan.
Để duy trì, nâng cao chất lượng hoạt động các cụm thi đua thuộc huyện, Ủy ban
nhân dân huyện Thường Tín cần thực hiện một số giải pháp sau:
88
Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện, Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng huyện đối với hoạt động cụm. Cần sớm ban hành ngay
từ đầu năm các tiêu chí chấm điểm ở từng cụm sát với tình hình hoạt động của cụm
và các nhiệm vụ chính trị của huyện, là căn cứ để các cụm xây dựng cụ thể tiêu chí
chấm điểm thi đua phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cụm.
Sau mỗi kỳ luân phiên cụm trưởng, cụm phó, cần kịp thời ban hành thông
báo kiện toàn và họp các cụm trưởng, cụm phó để chỉ đạo, quán triệt các nội dung
thi đua. Định kỳ tổ chức hoạt động cụm 03 lần trở lên trong năm: hội nghị giao ban
đầu năm, sơ kết 6 tháng; bình xét thi đua cuối năm; bên cạnh đó, tổ chức các hoạt
động giao lưu giữa các cụm để các đơn vị chia sẻ những cách làm hay, những khó
khăn, vướng mắc trong thi đua thực hiện các nhiệm vụ để các cơ quan, đơn vị từ
huyện đến cơ sở có những tham mưu kịp thời trong việc giải quyết những khâu yếu,
việc khó của từng cơ quan, đơn vị nói riêng và huyện Thường Tín nói chung.
Khuyến khích các thành viên của cụm đăng ký các mô hình thi đua và danh
hiệu thi đua cấp thành phố. Đặc biệt với cụm xã: “Cần tổ chức thăm quan những xã
điển hình tốt, để học hỏi lẫn nhau” [34, tr.196].
Tiếp tục thực hiện tốt công tác khen thưởng
Công tác khen thưởng phải đảm bảo chính xác, kịp thời, công khai, minh
bạch. Mỗi lời động viên, khích lệ đúng lúc sẽ có tác dụng tích cực, làm cho người
được khen có tâm trạng phấn khởi hơn, tạo hiệu ứng lan tỏa trong công việc và đến
mọi người xung quanh để phấn đấu thi đua, hoàn thành nhiệm vụ.
Trong bình xét khen thưởng cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các tiêu chuẩn,
tránh dập khuôn, máy móc, cào bằng và đảm bảo công khai, minh bạch, có sự bàn
bạc tập trung, thống nhất, dân chủ trong quá trình xét khen thưởng. Việc vận dụng
các tiêu chí trong bình xét khen thưởng chỉ là những căn cứ, cơ sở bước đầu để cấp
trình khen tiến hành rà soát, đối chiếu với từng tiêu chí theo quy định. Trong quá
trình xét khen thưởng, ngoài các tiêu chí theo quy định, các cấp trình khen cần nhìn
nhận, đánh giá sự nỗ lực, cố gắng của mỗi tập thể, cá nhân là quá trình phấn đấu lâu
dài, thường xuyên, không phải ở một giai đoạn, thời điểm nhất định, bởi “Có hoạt
89
động thì khó tránh khỏi có khuyết điểm” [34, tr.556], cần phải nhìn nhận đánh giá
theo khuynh hướng phát triển đi lên, đặt trong mối quan hệ biện chứng với nhiệm
vụ, chức trách được giao và sự đánh giá ghi nhận của mọi người.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc không tặng thưởng nhiều hình thức cho
một thành tích đạt được và trong một năm không đề xuất khen thưởng cấp thành
phố quá 02 lần đối với tập thể, cá nhân tham gia nhiều chuyên đề thi đua do đơn vị
thuộc thành phố phát động (trừ các trường hợp có thành tích đặc biệt xuất sắc).
Tăng cường khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích đột xuất
trong thực hiện các nhiệm vụ của ngành, có ảnh hưởng sâu rộng trong toàn huyện.
Thực hiện tốt công tác khen thưởng các phong trào thi đua chuyên đề đã
được phát động, triển khai, trong đó chú trọng khen người lao động trực tiếp: công
nhân, nông dân, công chức, viên chức, nhân viên, người lao động không giữ chức
vụ lãnh đạo quản lý (hưởng phụ cấp chức vụ) và các tập thể nhỏ, từ đó khuyến
khích được đông đảo mọi cá nhân tham gia thi đua, góp phần nâng cao chất lượng
và giá trị của khen thưởng.
Khen thưởng cần đảm bảo đúng quy trình, thời gian đề nghị và khen thưởng;
hồ sơ đề nghị khen thưởng cần chính xác về các nội dung kê khai thành tích theo
quy định, tránh bịa đặt, xuyên tạc thành tích, đồng thời phải có xác nhận đầy đủ của
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trình khen thưởng.
Nâng cao công tác thẩm định thành tích khen thưởng. Bên cạnh việc thẩm
định theo báo cáo thành tích, cán bộ làm công tác tiếp nhận hồ sơ khen thưởng cần
thẩm định thông qua việc lấy ý kiến của các ngành, các cấp, ở nơi cư trú cũng như
nơi làm việc và thông qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội là nguồn thông tin phản
hồi có vai trò quan trọng đối với các cơ quan nhà nước trong việc tiếp cận thông tin
đa chiều về các chủ thể cần quan tâm. Qua dư luận xã hội biết được tổ chức, cá
nhân đề nghị khen thưởng hoặc được khen thưởng có tiêu biểu thực sự hay không,
như câu chuyện của ông Trịnh Xuân Thanh với danh hiệu và bằng khen từng được
nhận đã ồn ào trên truyền thông trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, thông qua dư
luận xã hội, việc khen thưởng sẽ đảm bảo công khai, kịp thời, đặc biệt là việc phát
90
hiện các tổ chức, cá nhân có thành tích đột xuất để biểu dương, khen thưởng kịp
thời, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy thi
đua, khen thưởng và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức làm công tác thi đua, khen thưởng từ huyện đến cơ sở
Một là, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy thi đua,
khen thưởng từ huyện đến cơ sở
Muốn thực hiện tốt quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, một trong
những yêu cầu đặt ra là phải chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy
làm công tác thi đua, khen thưởng. Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ
Chính trị đã chỉ rõ : “Nhiều nơi, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng chưa ổn
định, thống nhất; năng lực tham mưu của cán bộ, công chức làm công tác này còn
hạn chế”. Vì vậy, cần đổi mới, kịp thời kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt
động bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng từ huyện đến cơ sở đảm bảo tinh
gọn, hiệu quả, đủ sức, đủ tầm trong tham mưu thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng, đặc biệt là sau mỗi đợt Đại hội Đảng bộ các cấp và sự
kiện toàn lãnh đạo các phòng, ban, ngành có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động thi đua, khen thưởng.
Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín cần triển khai thực hiện và chỉ đạo các
xã, thị trấn kiện toàn, thành lập mới Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện theo
hướng dẫn của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tại Quyết định số 09/2020/QĐ-
UBND ngày 28/4/2020 và phù hợp với thực tiễn tại huyện, theo đó:
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện với cơ cấu gồm có: Chủ tịch Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện); Phó Chủ tịch Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng (Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và Trưởng phòng Nội vụ); thành viên Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng: Ủy viên thường trực Hội đồng (Phó trưởng phòng Nội
vụ), thư ký Hội đồng (Chuyên viên phòng Nội vụ phụ trách công tác thi đua, khen
91
thưởng), từ 15 đến 17 thành viên Hội đồng gồm trưởng các đoàn thể và phòng ban
có liên quan.
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã, thị trấn với cơ cấu gồm có: Chủ tịch
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn); 02 Phó
Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng (Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị
trấn và Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, thị trấn); thành viên Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng xã, thị trấn: Ủy viên thường trực Hội đồng (Công chức
Văn phòng - Thống kê phụ trách công tác thi đua, khen thưởng) và từ 07 đến 09
thành viên Hội đồng gồm trưởng các đoàn thể và ngành có liên quan.
Song song với việc kiện toàn Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, từng thành
viên trong Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp cần làm tốt công tác tham mưu
đề xuất với cấp ủy và chính quyền đề ra các chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong
trào thi đua trong từng năm và trong từng giai đoạn; thực hiện tốt chế độ họp định kỳ
(và đột xuất) để thông qua chương trình, kế hoạch công tác; thường xuyên có kế
hoạch kiểm tra công tác thi đua, khen thưởng; phát huy hơn nữa trách nhiệm của từng
thành viên trong việc đề xuất, lựa chọn các tập thể, cá nhân xứng đáng để khen
thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng. Trước mỗi kỳ họp Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng, cơ quan thường trực của Hội đồng cần gửi trước dự thảo các văn bản về thi
đua, danh sách trích ngang thành tích của các tập thể, cá nhân dự kiến đề nghị khen
thưởng để các thành viên Hội đồng có thể nghiên cứu trước, góp phần nâng cao chất
lượng bình xét thi đua của từng thành viên Hội đồng.
Ngoài ra, đối với Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện cần phân công cụ
thể, rõ trách nhiệm của từng thành viên Hội đồng trong việc theo dõi các cụm thi đua
thuộc huyện; đối với Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã, thị trấn cần phân công cụ
thể, rõ trách nhiệm của từng thành viên Hội đồng trong việc theo dõi các thôn, tổ dân
phố để nắm bắt được những điểm mạnh, những tồn tại, hạn chế tại từng cơ sở, đơn vị
từ đó có những chỉ đạo sát sao trong các hoạt động thi đua, khen thưởng.
Hai là, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác thi đua, khen thưởng từ huyện đến cơ sở
92
Muốn nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng, một vấn đề có tính
quyết định là phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác thi đua, khen thưởng, bởi “Cán bộ là sợi dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”
[33, tr.309] và “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[33, tr.273]. Vì thế, nếu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức yếu về năng lực, kém
về chuyên môn, đạo đức bị suy thoái thì việc triển khai và thực hiện các quy định
của pháp luật về thi đua, khen thưởng sẽ không được thực thi có hiệu quả trong đời
sống xã hội.
Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua,
khen thưởng là phẩm chất đạo đức, lối sống, sự hiểu biết về công tác thi đua, khen
thưởng, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua yêu nước; là
năng lực phát hiện, bồi dưỡng những cá nhân điển hình tiên tiến, gương người tốt
việc tốt trong các phong trào thi đua, từ đó khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của từng
tập thể, cá nhân trong việc thực hiện các phong trào thi đua, hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Muốn phát huy được năng lực của đội
ngũ làm công tác thi đua, khen thưởng, Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín cần thực
hiện một số các giải pháp sau:
Nâng cao nhận thức, quan điểm về vị trí, vai trò của đội ngũ làm công tác
thi đua, khen thưởng. Cần xác định tầm quan trọng của đội ngũ làm công tác thi
đua, khen thưởng trong từng cơ quan, đơn vị. Nếu không có họ, các phong trào thi
đua, công tác khen thưởng sẽ không được tham mưu kịp thời, bài bản.
Tiếp tục rà soát theo năng lực vị trí, việc làm đối với công chức làm thi đua,
khen thưởng tại các xã, thị trấn cũng như công chức, viên chức kiêm nhiệm công
tác thi đua, khen thưởng tại các cơ quan, đơn vị. Bố trí công chức, viên chức có
trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp với vị trí công việc.
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói chung
và cán bộ, công chức, viên chức làm thi đua khen thưởng nói riêng theo hướng
chuyên nghiệp hóa. Ủy ban nhân dân huyện cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
93
dưỡng cụ thể cho đội ngũ làm thi đua, khen thưởng theo từng năm. Chương trình,
nội dung bồi dưỡng về nghiệp vụ thi đua, khen thưởng cần đổi mới sát với tình hình
thực tế tại địa phương kết hợp trang bị các kiến thức mới, có kiến thức xã hội, am
hiểu lịch sử và các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng. Trong quá trình
đào tạo, bồi dưỡng, ngoài việc mời giảng viên của Ban Thi đua - Khen thưởng
thành phố Hà Nội, cần mời thêm các nhà quản lý giữ các chức vụ cao hơn (như ở
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương) và các giảng viên ở Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia giảng về các kỹ năng,
nghiệp vụ, công tác chuyên môn. Tổ chức các chuyến đi thực tế đến các quận,
huyện trong thành phố Hà Nội để thăm quan, học tập mô hình, cách làm hay của
đơn vị bạn trong tổ chức triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.
Ngoài ra, mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần tự giác phấn đấu học tập, rèn
luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực thực thi công vụ để
từ đó hạn chế những tiêu cực trong công tác khen thưởng.
Có chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ làm công tác thi đua, khen thưởng.
Cán bộ, công chức, viên chức làm thi đua, khen thưởng thường đảm nhận tất cả các
hoạt động thi đua, khen thưởng, từ việc tham mưu xây dựng kế hoạch phát động thi
đua, đôn đốc thi đua, hướng dẫn khen thưởng, tổng hợp khen thưởng, tham mưu tổ
chức hội nghị sơ, tổng kết và in ấn giấy khen, trong khi đó vẫn phải kiêm nhiệm
thêm nhiều mảng công việc khác. Tuy nhiên hiện nay, huyện Thường Tín chưa có
cơ chế đãi ngộ, khen thưởng động viên cho đội ngũ làm thi đua, khen thưởng.
Thứ ba, đổi mới các hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả công tác
thi đua, khen thưởng
Đối với lĩnh vực thi đua, khen thưởng, mức độ hoàn thành công việc của cán
bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng nói riêng và tổ chức, đơn vị nói
chung chính là thành tích đạt được, là kết quả các phong trào thi đua mà đơn vị tổ
chức triển khai thực hiện. Do đó, hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả công
tác thi đua, khen thưởng là một trong những cách thức nhằm đánh giá kết quả của
phong trào thi đua và thành tích của các đơn vị, tổ chức, từ đó tuyên truyền, động
94
viên, triển khai các định hướng, giải pháp để tiếp tục phát triển các phong trào thi
đua trong những giai đoạn tiếp theo.
Đổi mới các hình thức tổ chức sơ kết, tổng kết, trước hết là đổi mới các
hình thức báo cáo của các điển hình tiên tiến. Thay vì mời lên đọc báo cáo tham
luận truyền thống, có thể làm các chương trình phóng sự, mời lên giao lưu hoặc
đặt câu hỏi, có như vậy nội dung chương trình sẽ hấp dẫn, lôi cuốn, tạo sự thu hút
đối với người tham dự, tạo sức lan tỏa rộng hơn trong cộng đồng.
Đổi mới nội dung tổng kết, đánh giá cũng như suy tôn, khen thưởng các tập
thể, cá nhân. Cần chỉ rõ các mặt đã làm được, chưa làm được, trong đó chú trọng
công tác lãnh đạo, chỉ đạo từ huyện đến cơ sở; nội dung báo cáo phong phú về số
liệu đạt được và nêu bật các gương điển hình, các tập thể làm tốt. Mỗi tập thể, cá
nhân được mời lên trao thưởng, cần tóm tắt thành tích đã đạt được để mọi người
được biết, học tập, góp phần nâng cao chất lượng chương trình sơ, tổng kết.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong các
hoạt động sơ kết, tổng kết. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân huyện cần bổ sung, hỗ trợ
nguồn kinh phí cho quỹ thi đua, khen thưởng của các xã, thị trấn trong việc thực
hiện các hoạt động sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, khen thưởng để bảo đảm
hiệu quả trong hoạt động thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện.
3.3. Giải pháp nhằm bảo đảm việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua,
khen thưởng là khâu đảm bảo sự thành công cũng như hiệu quả của việc triển khai
thực hiện Luật Thi đua - Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ
nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có
chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra” [33, tr.520].
95
Hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng có phạm vi
rộng, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với sự tham gia của nhiều
thành phần trong xã hội. Những kế hoạch, chính sách, pháp luật về công tác thi đua,
khen thưởng dù có đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đến mấy cũng không thể được
tổ chức thực hiện một cách nghiêm chỉnh nếu không có hoạt động thanh tra, kiểm
tra, qua đó phát hiện những vi phạm trong thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, những bất cập, khó khăn,
vướng mắc, những tiêu cực trong thực hiện thi đua, khen thưởng để các chủ thể
quản lý xem xét đề ra các biện pháp, cơ chế, chính sách quản lý cho phù hợp và
đúng quy định. Có thể thấy, hoạt động thanh tra, kiểm tra trong tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng giúp cho công tác thi đua, khen thưởng luôn được
đổi mới và chất lượng công tác thi đua, khen thưởng được nâng lên.
Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao hiệu quả việc thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua,
khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội cần quan tâm thực
hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của công chức, viên chức trực tiếp làm công
tác thi đua, khen thưởng trong việc thực hiện các quy định về thanh tra, kiểm tra thi
đua, khen thưởng. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của phòng Nội vụ - cơ quan thường
trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra.
Phối hợp với các ngành có liên quan, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm
tra, giám sát việc thực hiện thi đua, khen thưởng tại các cơ quan, đơn vị, xã, thị trấn,
các trường học. Bố trí công chức trực tiếp làm thi đua, khen thưởng ở phòng Nội vụ
tham gia các đoàn kiểm tra cải cách hành chính hoặc tổ chức bố trí đoàn chuyên về
kiểm tra thi đua, khen thưởng để chủ động nắm tình hình, trực tiếp trao đổi, giải đáp
các vướng mắc ngay tại cơ sở khi đến kiểm tra.
Xây dựng các chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra kịp thời và theo
từng năm, giúp các cơ quan, tổ chức biết và thực hiện đúng quy định các nội dung
thi đua, khen thưởng. Kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, ngay khi bắt đầu
96
triển khai các phong trào thi đua, các hoạt động bình xét khen thưởng. Quán triệt
quan điểm kiểm tra toàn diện. Phương pháp kiểm tra phải được tổ chức và tiến hành
một cách khoa học, phải xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của việc kiểm tra.
Phải tổ chức tiến hành kiểm tra trực tiếp ở cơ sở, không chỉ căn cứ vào báo cáo hay
chỉ dựa vào cấp trung gian. Thực hiện các hình thức kiểm tra khác nhau để các đơn
vị tránh việc bao bọc thông tin khi đến kiểm tra. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện công tác thi đua, khen thưởng ở các xã, thị trấn và các
trường học để có những uốn nắn, khắc phục những hạn chế, yếu kém.
Hiện nay, công tác khen thưởng thành tích kháng chiến vẫn còn thực hiện,
tuy nhiên việc thẩm tra, giải quyết còn nhiều vướng mắc, để thực hiện tốt việc giải
quyết đơn thư liên quan đến khen thưởng thành tích trong kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, huyện Thường Tín cần chủ động phối hợp với Ban Thi đua - Khen
thưởng, Sở Nội vụ thành phố Hà Nội trong việc hướng dẫn giải quyết đơn thư về
khen thưởng thành tích kháng chiến cho công chức Văn phòng - Thống kê phụ trách
thi đua, khen thưởng các xã, thị trấn và công dân được biết cũng như hiểu rõ về các
chính sách khen thưởng kháng chiến đang được áp dụng, triển khai.
Thứ hai, gắn trách nhiệm của người đứng đầu đoàn kiểm tra và người đứng
đầu cơ quan, đơn vị được thanh tra, kiểm tra; quy định rõ cơ chế xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu để xảy ra vi phạm.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong nắm bắt dư luận xã hội và
huy động sự tham gia của nhân dân trong việc giám sát thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng.
Phát huy vai trò của Ban thanh tra nhân dân tại các cơ quan, đơn vị, các xã, thị
trấn trong việc giám sát các hoạt động thi đua, khen thưởng. Cần công khai các thành
tích của các tập thể, cá nhân dự kiến đề nghị khen cấp Nhà nước; công khai các
quyết định khen thưởng, các văn bản, các quy trình, thủ tục và tổ chức triển khai
công tác thi đua, khen thưởng trên hệ thống cổng thông tin điện tử của huyện.
Thực hiện giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về công tác thi đua, khen
thưởng kịp thời, nhanh chóng, tránh để kéo dài gây ảnh hưởng đến các phong trào
97
thi đua, tạo niềm tin của quần chúng nhân dân đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Bởi trong quá trình xét thi đua, khen thưởng không phải không còn những hiện
tượng không khách quan, chưa dân chủ, cảm tình, nể nang, chủ quan với những
động cơ không trong sáng. Một số tập thể, cá nhân lợi dụng những sai sót trong
phương pháp, tinh thần trách nhiệm của người thực hiện nhiệm vụ để báo cáo thành
tích chưa đúng sự thật, khai man thành tích, làm giả các văn bản đánh giá, dẫn đến
những đơn thư, khiếu nại, tố giác của quần chúng nhân dân về các tập thể, cá nhân
đề nghị được khen thưởng.
Sau công tác thanh tra, kiểm tra phải có đánh giá, kết luận một cách trung thực,
cụ thể, khách quan về kết quả thanh tra, kiểm tra. Nêu thẳng, thật, đúng những việc đã
thực hiện theo đúng quy định và chưa thực hiện, nguyên nhân. Có như vậy sẽ đảm
bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, nguyên tắc của khen thưởng là
chính xác, công bằng, công khai và kịp thời, tạo niềm tin, động lực phấn đấu cho mỗi
tập thể, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của huyện Thường Tín, xứng danh “đất danh hương, huyện anh hùng”.
Tiểu kết chƣơng 3
Nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, góp
phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước của huyện Thường Tín phát triển sâu
rộng, tạo động lực hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thường Tín nhiệm kỳ 2020 -
2025. Để đạt được mục tiêu đó, trong thời gian tới, huyện Thường Tín cần tập trung
thực hiện các giải pháp :
Thứ nhất, giải pháp nhằm bảo đảm việc xây dựng và ban hành pháp luật về
thi đua, khen thưởng.
Thứ hai, giải pháp nhằm bảo đảm việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng.
98
Thứ ba, giải pháp nhằm bảo đảm việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm về tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Mỗi giải pháp đều trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được của huyện
Thường Tín trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng từ năm 2015
đến nay, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong thời gian qua. Trong
quá trình thực hiện ba nhóm giải pháp trên, huyện Thường Tín cần nhất quán thực
hiện các nhóm giải pháp cụ thể và áp dụng linh động phù hợp với tình hình thực
tiễn tại địa phương.
99
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2015 đến nay, công tác thi đua, khen
thưởng tại huyện Thường Tín đã thật sự trở thành động lực lôi cuốn, động viên
khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào các phong trào thi đua và có những
đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Huyện
Thường Tín đã tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng với các hình
thức phong phú, đa dạng, sát với yêu cầu thực tiễn của cuộc sống và trên cơ sở thực
hiện nghiêm túc các chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng của Đảng và Nhà
nước, đã góp phần tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong toàn Đảng bộ, chính quyền,
quân và dân huyện, hun đúc thêm ý chí tự cường dân tộc, tinh thần yêu nước, tính
năng động sáng tạo, vươn lên lập thành tích xuất sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, trước nhiệm vụ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới
đất nước, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa,
thì công tác thi đua, khen thưởng đòi hỏi phải có sự đổi mới để khắc phục những
tồn tại, hạn chế đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, trong đó việc đổi mới tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Việc
bảo đảm các hoạt động trong tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
góp phần thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân
trong thực hiện các phong trào thi đua, công tác khen thưởng, là một trong những
công cụ quản lý nhà nước nhằm tạo động lực thi đua mạnh mẽ hoàn thành thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh,
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để thực hiện tốt các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay cần xác định rõ
100
các vấn đề lý luận, làm rõ thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện
công tác này. Do đó, luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội” đã tập trung làm rõ một số nội
dung sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng; hệ thống hóa và làm rõ
những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng, làm
cơ sở nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội hiện nay,
những kết quả đã đạt được, hạn chế và những vấn đề đặt ra tạo cơ sở cho việc
nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp cần thiết.
Thứ ba, đề xuất giải pháp nhằm góp phần bảo đảm việc tổ chức thực hiện
pháp luật về thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội hiện nay.
Với tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, xây dựng huyện Thường Tín giàu
đẹp, văn minh, hiện đại đòi hỏi sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức và các tầng lớp nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng góp phần thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện Thường Tín nhiệm kỳ 2020 - 2025./.
101
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
1. Nguyễn Thị Thanh An (2020), “Thường Tín đẩy mạnh công tác thi đua,
khen thưởng góp phần phát triển kinh tế - xã hội”, Tạp chí Thiết bị giáo dục (số đặc
biệt tháng 9/2020), tr.172-174.
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Kết luận số 83-KL/TW ngày 30/8/2010 về
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị
việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện,
bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, Hà Nội.
2. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu
nước và công tác thi đua, khen thưởng, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Ban Bí thư (2008), Chỉ thị 19-CT/TW ngày 22/12/2007 của Ban Bí thư về kỷ niệm
60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-
1948 – 11-6-2008), Hà Nội.
4. Trương Quốc Bảo (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, yêu nước
trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị 35/CT-TW ngày 03/6/1998 của Bộ Chính trị về đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị 39 ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng,
tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 về tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng, Hà Nội.
9. Bộ Nội vụ (2019), Thông tư số 12/2019/TT-BNV ngày 04/11/2019 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Nghị định 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng, Hà Nội.
10. C.Mác (1998), Bộ Tư bản luận, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
103
12. Chính phủ (2005), Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 quy định tổ
chức làm công tác thi đua, khen thưởng, Hà Nội.
13.Chính phủ (2017), Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
14. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng (lưu hành
nội bộ), Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, (Sách không bán), Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung
ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
19. Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.
20. Đẩy mạnh, nhân rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi đua yêu nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới (2010), Nxb.Thanh
niên, Hà Nội.
21. Phạm Huy Giang (2015), Phương pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả
cao trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
22. G.Bandzeladze, (Hoàng Ngọc Hiến dịch) (1983), Đạo đức học, T.1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
23. Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiến đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước,
Hà Nội.
24. Trần Thị Hà (2018), Vận dụng tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào đổi mới công tác thi đua, khen thưởng hiện nay, Tạp chí Thi đua
Khen thưởng, số 216 (5-2018), tr. 4-7.
104
25. Nguyễn Khắc Hà (2014), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ
khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
26. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp
luật, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Hữu (2020), Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thi đua, khen thưởng, Tạp chí Thi đua Khen thưởng, số 224 (9-2020), tr. 16-17.
28. Nguyễn Thị Phương Lan (2016), Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
29. Hoàng Phúc Lâm (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước - Vận
dụng trong phong trào thi đua yêu nước hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 7/2020, tr. 7-11, Hà Nội.
30. Lê Ân Mai (2019), Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn mới,
Tạp chí Thi đua Khen thưởng, số 235 (12-2019), tr. 10-11.
31. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 8, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2015), Báo cáo Đại hội thi đua
yêu nước toàn quốc lần thứ IX, Hà Nội.
40. Hội đồng Khoa học, Sáng kiến huyện Thường Tín (2016), Quyết định số
01/QĐ-HĐKHSK ngày 18/11/2016 về việc ban hành Quy chế hoạt động
của Hội đồng Khoa học, Sáng kiến huyện Thường Tín.
105
41. Hội đồng Thi đua – Khen thưởng huyện Thường Tín (2017), Quyết định số
02/QĐ-HĐTĐKT ngày 26/6/2017 về việc ban hành Quy chế hoạt động và
quy định công tác thi đua, khen thưởng của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng huyện Thường Tín.
42. Hội đồng Thi đua – Khen thưởng huyện Thường Tín (2017), Kế hoạch số
05/KH-HĐTĐKT ngày 25/5/2017 về việc bồi dưỡng và nhân rộng gương
điển hình tiên tiến giai đoạn 2017-2020.
43. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 35, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
46. Quốc hội (2003), Luật số 15/2003/QH11 ngày 26/11/2003 Luật Thi đua, Khen
thưởng, Hà Nội.
47. Quốc hội (2005), Luật số 47/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
48. Quốc hội (2013), Luật số 39/2013/QH13 ngày 16/11/2013 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
49. Quốc hội (2015), Luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2013 Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Hà Nội.
50. Phong trào thi đua phải đem lại lợi ích thiết thân, cụ thể, Tạp chí Thi đua Khen
thưởng, số 217 (6-2018), tr. 4-7.
51. Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Thế Thắng (2012), Những vấn đề lý luận chung về thi đua, khen
thưởng, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, Hà Nội.
53. Lê Quang Thiệu (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu
nước của, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
106
54. Đặng Văn Tùng (2018), Nâng cao chất lượng tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Thi đua Khen thưởng, số 214 (3-
2018), tr. 8-9.
55. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2020), Quyết định số 09/2020/QĐ-UBND
ngày 28/4/2020 về việc ban hành Quy định về công tác thi đua, khen
thưởng trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
56. Uỷ ban nhân dân huyện Thường Tín (2017), Báo cáo số 336 /BC-UBND ngày
06/7/2017 tổng kết đánh giá 13 năm thi hành Luật Thi đua, Khen thưởng;
Kết quả thực hiện Chương trình hành động đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng giai đoạn 2015-2020, Thường Tín.
57. Uỷ ban nhân dân huyện Thường Tín (2017), Báo cáo số 388/BC-UBND ngày
07/9/2020 Tổng kết phong trào thi đua và công tác khen thưởng 5 năm
(2015 – 2020), phương hướng, nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng 5
năm (2020 – 2025), Thường Tín.
58. Uỷ ban nhân dân huyện Thường Tín (2015), Chương trình hành động số
02/CTr-UBND ngày 24/02/2015 về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng
giai đoạn 2015-2020, Thường Tín.
59. Uỷ ban nhân dân huyện Thường Tín (2019), Quyết định số 3178/QĐ-UBND
ngày 16/8/2019 về việc ban hành và áp dụng Hệ thống tài liệu quản lý
chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015 vào hoạt động
quản lý hành chính nhà nước tại UBND huyện Thường Tín, Thường Tín.
60. Văn phòng Quốc hội, số 16/VBHN-VPQH ngày 13/12/2013 hợp nhất Luật Thi
đua, Khen thưởng, Hà Nội.
61. Nguyễn Viết Vượng (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Lao động, Hà Nội.
62. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Hà Nội.
107