BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------
BỘ NỘI VỤ ----/----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BẾ THỊ TÚ HẰNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
------------/------------
----/----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BẾ THỊ TÚ HẰNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý Công
Mã số: 8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG
HÀ NỘI - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bế Thị Tú Hằng
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả xin chân thành cảm ơn tới các Giảng
viên của Học viện Hành chính Quốc gia - những người đã dành thời gian quý báu
để truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm giúp tác giả nâng cao nhận thức và khả năng
ứng dụng vào thực tiễn công việc. Xin trân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo Học viện,
Lãnh đạo Ban quản lý đào tạo sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác
giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lê Thị Hương đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình học tập,
công tác, nghiên cứu khóa học và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã nỗ lực, cố gắng, song kinh nghiệm và khả năng còn hạn chế nên
luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của quý thầy, cô, bạn bè, đồng nghiệp để tác giả có thể hoàn thiện luận văn tốt hơn.
Cao Bằng, ngày tháng năm 2018
TÁC GIẢ
Bế Thị Tú Hằng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Giải nghĩa
Bộ phận một cửa 1 BPMC
Cải cách hành chính 2 CCHC
Đăng ký kinh doanh 3 ĐKKD
Đăng ký doanh nghiệp 4 ĐKDN
Giấy chứng nhận 5 GCN
Môi trường kinh doanh 6 MTKD
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư 7
Quản lý nhà nước 8 QLNN
Thành Phố 9 TP
Thủ tục hành chính 10 TTHC
Uỷ ban nhân dân 11 UBND
Luật Doanh nghiệp 12 LDN
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Hệ thống cơ quan QLNN về đăng ký doanh nghiệp ................................. 25
Hình 1.2. Sơ đồ cơ quan QLNN theo vòng đời doanh nghiệp .................................. 26
Hình 2.1. Bộ máy trực tiếp thực hiện ĐKDN ở cấp tỉnh là Phòng ĐKKD- Sở Kế
hoạch và Đầu tư ....................................................................................... 45
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2015 - Tháng 6 năm 2018
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ...................................................................... 50
Bảng 2.2. Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ
2015 - tháng 6/2018 theo loại hình doanh nghiệp ................................... 50
Bảng 2.3. Số liệu đăng ký hộ kinh doanh từ năm 2015 - đến tháng 6. 2018 ........... 54
Biểu 2.4. Thống kê số liệu giải thể doanh nghiệp, văn phòng đại diện từ năm 2014
đến tháng 8.2018 ...................................................................................... 55
Biểu 2.5. Thống kê số liệu giải thể, thu hồi hộ kinh doanh từ năm 2014 đến tháng
6.2018 ...................................................................................................... 55
Bảng 2.6. Số liệu doanh nghiệp bỏ trốn khỏi nơi ĐKKD không thông báo với cơ
quan ĐKKD và cơ quan Thuế ................................................................. 59
Bảng 2.7. Tổng hợp các cuộc thanh tra, kiểm tra một số sở chuyên ngành từ 2014-
2018 ......................................................................................................... 61
Biểu đồ 2.1. Thống kê tỷ lệ doanh nghiệp ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ
2015 - Tháng 6/2018 theo loại hình doanh nghiệp ................................ 51
Biểu đồ 2.2. Số ngày giải quyết trung bình thủ tục thành lập mới DN và số ngày giải
quyết thay đổi của Cao Bằng so với toàn quốc ..................................... 52
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH .................................................................... 8
1.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ............................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh .............................................. 8
1.1.2. Nội dung của pháp luật về đăng ký kinh doanh ....................................... 12
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ..................................... 17
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ............... 17
1.2.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ................. 18
1.2.3. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh .......... 23
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh ......................................................................................................................................... 29
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của pháp luật về đăng ký kinh doanh ........................ 29
1.3.2. Văn hóa pháp luật về đăng ký kinh doanh ............................................... 31
1.3.3. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các chủ
thể có thẩm quyền ............................................................................................... 32
1.3.4. Sự phát triển của khoa học, công nghệ và ứng dụng trong lĩnh vực đăng
ký kinh doanh ..................................................................................................... 33
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ......................................................................................... 35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG
KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG ................................. 36
2.1 Các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................. 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Cao Bằng ................................... 36
2.1.2.Nguồn nhân lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của
các chủ thể có thẩm quyền ở tỉnh Cao Bằng ...................................................... 37
2.1.3. Nhận thức pháp luật về đăng ký kinh doanh ............................................ 38
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................................................ 40
2.2.1.Về hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về đăng ký kinh
doanh của chính quyền các cấp ở tỉnh Cao Bằng ............................................... 40
2.2.2 Về phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn
tỉnh .................................................................................................................... 41
2.2.3 Về tổ chức bộ máy, nhân lực, vật lực phục vụ thực hiện pháp luật về đăng
ký kinh doanh trên địa bàn ................................................................................. 44
2.2.4 Thực hiện trong thực tế pháp luật về đăng ký kinh doanh tại địa bàn tỉnh
Cao Bằng ............................................................................................................ 48
2.2.5 Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh trên
địa bàn ................................................................................................................ 57
2.2.6 Về công tác tổng kết, đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký
kinh doanh trên địa bàn tỉnh .............................................................................. 62
2.3 Nhận xét về tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................................................ 63
2.3.1 Kết quả đạt được và nguyên nhân .............................................................. 63
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................... 68
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ......................................................................................... 74
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
CAO BẰNG ............................................................................................................. 75
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ............................................................................................... 75
3.1.1 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh ...... 75
3.1.2 Đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng ....................... 76
3.1.3 Phân định rõ trách nhiệm các bên liên quan trong tổ chức thực hiện pháp
luật về đăng ký kinh doanh ................................................................................. 78
3.1.4 Huy động sự tham gia của xã hội vào tổ chức thực hiện pháp luật về đăng
ký kinh doanh ..................................................................................................... 79
3.2 Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật đăng ký kinh doanh trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng ........................................................................................................ 80
3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh .............................. 80
3.2.2 Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của
các chủ thể có thẩm quyền ở tỉnh Cao Bằng ...................................................... 89
3.2.3 Đa dạng hóa và hiệu quả trong phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký
kinh doanh ở tỉnh Cao Bằng ............................................................................... 91
3.2.4 Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, ứng dụng phục vụ tổ chức
thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh tại Cao Bằng .................................. 93
3.2.5 Kiểm soát có hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................. 94
3.2.6 Các giải pháp khác .................................................................................... 96
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ......................................................................................... 99
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 101
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là hoạt động pháp lý khai sinh ra doanh
nghiệp, hoạt động này có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với chính doanh
nghiệp được khai sinh mà còn với chủ thể cấp giấy khai sinh cho doanh nghiệp đó.
Bởi vậy, trong những hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, vấn đề
quản lý hoạt động ĐKKD luôn luôn được chú trọng.
Ngày 26/11/2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc Hội thông qua
và có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 giúp cho cộng đồng doanh nghiệp đã có sự phát
triển mạnh mẽ. Số lượng doanh nghiệp thành lập tăng kéo theo sự gia tăng nhanh
chóng về khối lượng công việc của đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN) cũng như yêu
cầu quản lý nhà nước về ĐKDN. Trước yêu cầu ngày càng tăng của khối lượng
công việc ĐKKD cũng như những hạn chế của quy định cũ, các quy định pháp luật
đối với hoạt động ĐKKD có nhiều thay đổi cần được đưa ra xem xét và kiến giải.
Hiện nay, việc tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD nói chung có nhiều cải
thiện nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hội
nhập. Cụ thể là: Hệ thống văn bản pháp luật về ĐKDN chưa đồng bộ; có nhiều chủ
thể có thẩm quyền thành lập và đăng ký các loại hình doanh nghiệp khác nhau; có
sự chồng chéo trong quản lý đối với ĐKDN giữa các loại hình doanh nghiệp (doanh
nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); việc phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước đối với ĐKDN còn nhiều tồn tại. Chính vì vậy việc tổ chức thực
hiện pháp luật đối với ĐKDN đã và đang gặp rất nhiều khó khăn với nhiều lý do cả
khách quan và chủ quan.
Thực tế hiện nay tình trạng doanh nghiệp vi phạm các quy định của Luật
Doanh nghiệp (không chấp hành các nội dung trong hồ sơ ĐKDN, không chấp hành
các nghĩa vụ theo quy định, đặc biệt là nghĩa vụ báo cáo...) có chiều hướng gia tăng
cả về số lượng và tính chất, mức độ vi phạm. Quan ngại hơn cả chính tình trạng này
là điều kiện, cơ hội cho các cá nhân, doanh nghiệp tổ chức lợi dụng vi phạm pháp
2
luật, gây thiệt hại đến lợi ích của các cá nhân, tổ chức và toàn thể xã hội và làm đau
đầu các cơ quan QLNN.
Cao Bằng là tỉnh biên giới phía Bắc, có đường biên giới dài nhất (333 km),
từ lâu được gọi là phên dậu của Tổ quốc. Tỉnh Cao Bằng có vị trí địa lý quan trọng,
giữ vai trò chiến lược quốc phòng; là địa phương giàu tài nguyên khoáng sản, danh
lam thắng cảnh, cửa khẩu biên giới… là những tiềm năng quý giá để phát triển kinh
tế - xã hội, nhưng do xa trung tâm, hạ tầng giao thông hạn chế nên từ lâu tỉnh Cao
Bằng được ví như nàng công chúa “ngủ quên” nơi biên viễn. Trong xu thế phát triển
chung của cả nước, Cao Bằng cũng đang từng ngày đổi mới, cùng với cả nước đã và
đang hội nhập vào nền kinh tế khu vực ASEAN và toàn cầu. Với xu thế phát triển
đó, nhu cầu phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, với mong muốn nhanh chóng
gia nhập thị trường là điều tất yếu khách quan.
Hiện nay, ở tỉnh Cao Bằng có khoảng hơn 1.300 doanh nghiệp. Tuy nhiên,
đã tồn tại tình trạng các doanh nghiệp "ma", "mất tích", bỏ trốn khỏi địa chỉ ĐKKD;
nhiều đối tượng đã lợi dụng việc thủ tục thông thoáng để đăng ký thành lập doanh
nghiệp, lấy tư cách pháp nhân của doanh nghiệp để hoạt động vi phạm pháp luật.
Bên cạnh những thuận lợi trong công tác thực thi pháp luật doanh nghiệp của các cơ
quan QLNN tỉnh Cao Bằng thì hiện nay việc thực thi pháp luật về ĐKKD trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng đối với ĐKDN theo Luật Doanh nghiệp cũng đang gặp nhiều
vướng mắc cần tiếp tục được tháo gỡ.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng thành lập, gia nhập thị
trường, hạn chế doanh nghiệp vi phạm pháp luật, hướng tới mục đích đảm bảo sự
phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Cao Bằng, việc nghiên
cứu tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng để tìm ra những
ưu điểm, hạn chế của pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện pháp luật đối với
ĐKDN với mục đích hoàn thiện pháp luật tăng cường hiệu quả việc thực thi có vai
trò vô cùng quan trọng, mang tính cấp thiết. Xuất phát từ các lý do nêu trên, là cán
bộ đang công tác tại Phòng ĐKKD - Sở KH&ĐT Tỉnh Cao Bằng, đề tài: "Tổ chức
3
thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng" đã được tác
giả lựa chọn nghiên cứu để làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến đề tài đã được một số tác giả nghiên cứu, có thể kể ra một số
công trình nghiên cứu như:
Luận văn (2013) ”Hoàn thiện công tác đăng ký kinh doanh ở Việt Nam đến
năm 2020" của tác giả Nguyễn Thị Việt Anh, Đại học kinh tế - Đại học quốc gia Hà
Nội. Tác giả đã phân tích, mổ xẻ các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh
cũng như thực trạng đăng ký kinh doanh ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất hướng
hoàn thiện.
Luận văn (2012) “Giải pháp hoàn thiện công tác đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ” của tác giả Nguyễn Thị Khánh Chi, Trường Đại học kinh tế và
quản trị kinh doanh. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ĐKKD và pháp
luật tại Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động ĐKKDtrên địa bàn tỉnh Phú Thọ;
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác ĐKKD trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Luận văn (2006) “ Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam-
thực trạng và một vài kiến nghị” của tác giả Lê Thế Phúc, Đại học quốc gia Hà Nội.
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận của hoạt động ĐKKD, phân tích thực trạng pháp
luật và thực trạng áp dụng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay; đề xuất một
vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD trong điều kiện hiện nay.
Luận văn (2017) “Đăng ký kinh doanh theo luật Doanh nghiệp 2014 từ thực
tiễn thành phố Bắc Ninh” của tác giả Phạm Phương Nam, Học Viện khoa học xã
hội. Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh; đưa ra giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ĐKKD từ thực tiễn thành
phố Bắc Ninh.
Luận án (2016) “Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đi sâu nghiên
cứu phân tích những vấn đề lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD; thực trạng
4
pháp luật và thực hiện pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam, tác giả đưa ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam.
Tác giả Hoàng Thanh Tuấn có bài viết “Luật doanh nghiệp 2014-Tạo thuận
lợi tối đa cho doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình thành lập, hoạt động” đăng trên
cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Bài viết đề cập đến những điểm
mới của Luật Doanh nghiệp 2014 được sắp xếp theo thứ tự vòng đời của doanh
nghiệp, từ lúc ra nhập thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức lại cho
đến lúc giải thể, rút lui khỏi thị trường. Đặc biệt tác giả nhấn mạnh những quy định
của Luật Doanh nghiệp 2014 về việc bãi bỏ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh tại
thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp, chuyển hoàn toàn từ “tiền kiểm” sang
“hậu kiểm”, giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp, rút ngắn
thời gian gia nhập thị trường cho doanh nghiệp xuống còn 3 ngày làm việc.
Bài viết của Tác giả Trần Thị Hồng Minh “Cải cách đăng ký kinh doanh và
sự phát triển của doanh nghiệp” trên trang điện tử của Tạp chí Tài chính ngày
26/11/2017. Bài viết về những đóng góp nổi bật của công tác đăng ký kinh doanh
với sự phát triển của doanh nghiệp.
Bài viết của Tác giả Võ Huy Hùng “Làm rõ bản chất của Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp và trách nhiệm trong việc quản lý doanh nghiệp sau đăng ký
thành lập” trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp ngày 20/7/2018. Bài viết làm
rõ bản chất, việc đăng ký doanh nghiệp hoàn toàn khác với việc cấp phép, tức là cơ
quan đăng ký kinh doanh không có quyền cho phép, Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp cũng không phải là giấy phép kinh doanh (Khoản 2 Điều 6 Nghị định
số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp). Tác
giả chỉ rõ trách nhiệm quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp trong theo dõi, giám sát, xử lý vi phạm. Trách nhiệm của UBND các tỉnh,
thành phố có trách nhiệm trong việc xây dựng Hệ thống quản lý rủi ro và giám sát
hoạt động doanh nghiệp tại địa phương.
Bài viết của Tác giả Hoàng Thanh Tuấn “Những thành tựu nổi bật trong quá
trình phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế” trên cổng thông
5
tin Doanh nghiệp ngày 02/08/2017. Bài viết tổng kết những thành tựu nổi bật trong
quá trình phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trong việc cải
thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi tối đa cho người dân,
doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
Tuy nhiên, lĩnh vực tổ chức thực hiện pháp luật đối với ĐKDN chưa có
nhiều tác giả quan tâm; không dễ dàng để tìm thấy đề tài khoa học nghiên cứu về
vấn đề này chỉ có thể tìm được một vài bài báo trao đổi, đề cập đến thực thi ĐKKD
dưới góc độ nghiệp vụ. Ngay trong lĩnh vực kế hoạch đầu tư, theo khảo sát của tác
giả, hiện chưa có nghiên cứu, tổng kết về vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức thực
hiện pháp luật về ĐKDN ở tỉnh Cao Bằng.
Nhiệm vụ nghiên cứu: từ mục đích nêu trên, luận văn đã xác định những
nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
+ Phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD.
+ Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD (ĐKDN) trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực
hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
+ Về thời gian: từ năm 2014 - 2018.
6
+ Về nội dung: các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh
và tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
dưới góc độ chuyên ngành Quản lý công.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thực chứng, phương pháp phân tích
hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. Cụ thể:
+ Chương 1: Khi nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận và pháp luật
của luận văn, tác giả luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích, so
sánh để đưa ra quan điểm của mình về vấn đề đó. Phương pháp thực chứng được sử
dụng khi nghiên cứu quy định của pháp luật về ĐKKD.
+ Chương 2: Khi nghiên cứu việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
ĐKKD ở tỉnh Cao Bằng, tác giả luận văn sử dụng phương pháp thực chứng, thống
kê, phân tích số liệu, tổng hợp nhằm đánh giá những kết quả đã đạt được, những
hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của thực trạng đó.
+ Chương 3: Khi đề xuất giải pháp, tác giả luận văn sử dụng phương pháp
phân tích, đi từ cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể. Qua đó, đưa ra các
giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa về mặt lý luận: đây là đề tài mới nhất được nghiên cứu trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng từ cơ sở tổng hợp nghiên cứu pháp luật về ĐKKD và việc tổ chức
thực hiện pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Do đó luận văn sẽ góp
phần về mặt lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ĐKKD.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn: đề tài đã đưa ra được quan điểm, giải pháp đảm
bảo thực hiện pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, từ đó làm cơ sở cho
các cấp chính quyền ở Cao Bằng có thể vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác ĐKKD trong thời gian tới. Đề tài cũng là có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho những người quan tâm đến lĩnh vực pháp luật về ĐKKD.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký
kinh doanh
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về
đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
8
1 Chƣơng 1
2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN
3 PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.1.1. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh
• Khái niệm đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý mà theo đó nhà đầu tư phải khai
báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình theo đúng
quy định của pháp luật với các nội dung cụ thể, được Nhà nước thừa nhận ghi tên
vào sổ ĐKKD đồng thời cấp cho chủ thể ĐKKD giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Giấy chứng nhận ĐKKD là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể kinh
doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước công
nhận và bảo hộ.
ĐKKD được hiểu là một hoạt động pháp lý áp dụng cho các chủ thể kinh
doanh khi gia nhập thị trường. Như vậy, để gia nhập thị trường và được hoạt động
thì doanh nghiệp cần cả điều kiện cần và đủ cụ thể là: những loại hình kinh doanh,
DN chỉ cần điều kiện cần tức là chỉ cần đăng ký doanh nghiệp và được cấp
GCNĐKDN, đối với các lĩnh vực, ngành nghề không cần điều kiện, và phải có thêm
điều kiện đủ, đối với những lĩnh vực, ngành nghề theo pháp luật đầu tư và chuyên
ngành quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Thông qua hoạt động ĐKKD các chủ thể sẽ được đảm bảo về quyền và nghĩa
vụ, được xác lập một địa vị pháp lý hợp pháp để các chủ thể kinh doanh tiến hành
mọi hoạt động kinh doanh chính thức trên thị trường trong nước cũng như thị trường
nước ngoài. Do đó, hoạt động ĐKKD không chỉ áp dụng cho các chủ thể tiến hành
hoạt động kinh doanh là những doanh nghiệp mà ở đó còn áp dụng cho cả chủ thể
hoạt động kinh doanh khác như hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh.
ĐKKD là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, đồng thời là một
công cụ để thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân. Thông qua cơ chế
“đăng ký” để công nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, thực hiện một cơ
9
chế quản lý mới của nhà nước, xoá bỏ cơ chế “xin cho”, công dân được kinh doanh
tất cả những gì mà pháp luật không cấm, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
những hoạt động kinh doanh của mình, được tự do lựa chọn hình thức đầu tư kinh
doanh phù hợp và được Nhà nước bảo hộ. Do đó, để đạt được mục tiêu gia nhập thị
trường cho các chủ thể kinh doanh được thuận lợi, công tác ĐKKD phải đơn giản,
minh bạch và bình đẳng, thủ tục nhanh gọn, chi phí thấp.. .Chính những điều này để
nhà nước tôn trọng quyền tự do kinh doanh hợp pháp của các chủ thể kinh doanh.
Mặt khác, nền kinh tế của các quốc gia đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế,
việc mở rộng quyền tự do kinh doanh tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh dễ
tiếp cận với những thị trường và đối tác lớn về kinh tế sẽ làm gia tăng lợi ích của
chính mình và giúp kinh tế quốc gia phát triển. Hoạt động ĐKKD không có sự phân
biệt giữa chủ thể kinh doanh trong nước và ngoài nước, mọi hoạt động ĐKKD phải
phù hợp với nền kinh tế thị trường được vận hành ổn định, an toàn, bình đẳng,
nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững, phù hợp với các lợi ích công cộng.
Xuất phát từ nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, quản lý nhà
nước đối với việc thành lập doanh nghiệp thông qua hoạt động đăng ký kinh doanh
là để hướng tới việc khơi dậy ý tưởng kinh doanh, ý thức làm giàu cho bản thân và
đất nước.
“Đăng ký kinh doanh là một hoạt động pháp lý trong đó chủ thể kinh doanh
thực hiện việc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan đăng ký kinh
doanh) nhằm ghi nhận sự ra đời của một mô hình kinh doanh và xác định địa vị
pháp lý của chủ thể kinh doanh đó trên thị trường ” [28].
Từ những phân tích trên, tác giả có thể khái quát: “Đăng ký kinh doanh là
một hoạt động pháp lý theo đó thủ tục đăng ký kinh doanh có tính bắt buộc chủ thể
kinh doanh thực hiện việc đăng ký thông tin đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (cơ quan đăng ký kinh doanh) nhằm ghi nhận sự ra đời của
một mô hình kinh doanh và xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh đó trên
thị trường ”
10
Thuật ngữ ĐKKD được sử dụng phổ biến trước đây nhưng đã có điều chỉnh
qua những chặng đường phát triển của quản lý nhà nước về ĐKKD.
Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, thuật ngữ ĐKKD được sử dụng. Sau đó,
từ Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định 102/2010/NĐ- CP
hướng dẫn Luật doanh nghiệp thuật ngữ này chuyển thành đăng ký doanh nghiệp và
sau này là Luật Doanh nghiệp năm 2014 cùng văn bản hướng dẫn thi hành.
Thuật ngữ “Đăng ký doanh nghiệp” được giải thích tại Nghị định số
78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về Đăng ký doanh nghiệp “Đăng ký
doanh nghiệp là việc người thành lập doanh nghiệp đăng ký thông tin về doanh nghiệp
dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký những thay đổi hoặc dự kiến thay đổi trong
thông tin về đăng ký doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh và được lưu giữ tại
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng
ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi những nội dung đăng ký doanh nghiệp và
các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định của nghị định này”.
Về bản chất, hai thuật ngữ này được sử dụng giống nhau là thủ tục đăng ký
khai sinh ra doanh nghiệp, điều chỉnh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
nhưng xét trên phương diện câu chữ, nó lại có sự khác nhau trên một số phương
diện như: ĐKKD đề cập đến mục đích hoạt động quản lý nhà nước, ĐKDN hướng
đến hậu quả pháp lý một cách trực tiếp là doanh nghiệp. Việc ĐKKD là do CQNN
trao cho chủ thể quyền cũng như giao phó nghĩa vụ theo quy định. [28]
Đặc điểm, đối tƣợng, hình thức của Đăng ký kinh doanh
- Đặc điểm đăng ký kinh doanh
Thứ nhất, ĐKKD là một trong những dịch vụ hành chính công do cơ quan
QLNN trực tiếp thực hiện.
Thứ hai, theo quy định trong Luật doanh nghiệp ĐKKD cũng là thủ tục đầu
tiên để tiến hành hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp.
Thứ ba, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đăng ký gia nhập thị trường đều
phải thực hiện theo một khung pháp lý chung gồm các TTHC sau: 1) ĐKKD (bao
gồm đăng ký mã số thuế), 2) Công bố mẫu con dấu
11
Thứ tư, để thành lập 1 trong 4 loại hình doanh nghiệp (Công ty TNHH, Công
ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh) thì nhà đầu tư sẽ thực
hiện thủ tục ĐKDN với cơ quan ĐKKD cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
-Đối tượng đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp bao gồm: (1) Doanh
nghiệp tư nhân; (2) Công ty cổ phần; (3) Công ty hợp danh; (4) Công ty TNHH
(Gồm Công ty TNHH 1 thành viên và Công ty TNHH 2 thành viên).
- Hình thức đăng ký kinh doanh: Theo tính chất ĐKDN, có các hình thức
ĐKDN sau: (1) Đăng ký thành lập mới các loại hình doanh nghiệp; (2) Đăng ký thay
đổi các loại hình doanh nghiệp; (3) Đăng ký chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp.
• Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh
Pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam lần đầu được “khai sinh” bằng chế định
riêng trong văn bản quy phạm pháp luật vào năm 1990, khi Quốc hội thông qua
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty cùng các văn bản hướng dẫn ra đời đã
mang lại sự cải thiện lớn về tính công khai trong các quy định về hồ sơ, trình tự, thủ
tục và điều kiện ĐKKD, tính minh bạch trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
ĐKKD. Những quy định này đã góp phần tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh
được thực hiện quyền tự do kinh doanh. [28]
Trong quá trình thực thi thủ tục ĐKKD, cả doanh nghiệp và cơ quan ĐKKD
cũng như các cơ quan nhà về kinh tế có liên quan đều phải chịu sự tác động và điều
chỉnh của pháp luật, vì vậy, có thể đưa ra khái niệm: “Pháp luật về đăng ký kinh
doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
để nhằm điều chỉnh những vấn đề về điều kiện, nội dung và trình tự, thủ tục đăng ký
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cũng như
trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh ”.
Theo khái niệm trên, pháp luật về ĐKKD được hiểu là những quy phạm pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ xã hội giữa chủ thể đăng ký kinh doanh và cơ quan
ĐKKD trong việc ĐKKD, thủ tục ĐKKD, các biện pháp chế tài để đảm bảo việc
ĐKKD được thực hiện đúng pháp luật và những vấn đề khác liên quan đến hoạt
động ĐKKD.
12
Sự quy định pháp luật về ĐKKD là một tất yếu khách quan, tạo ra những
đảm bảo pháp lý về điều kiện, trình tự, thủ tục, để chủ thể kinh doanh vận dụng
khởi sự doanh nghiệp, yên tâm khi lựa chọn một mô hình kinh doanh. Thông qua
việc ban hành những QPPPL về ĐKKD để nhà nước ghi nhận sự ra đời của một
thực thể kinh doanh, đồng thời kiểm soát quá trình hình thành, phát triển của một
loại hình kinh doanh theo hướng tích cực, loại bỏ những doanh nghiệp không đảm
bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật ngay từ đầu, nhằm tạo nên một môi
trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, đảm bảo những lợi ích của nền kinh tế
thị trường.
Mặt khác, pháp luật về ĐKKD không chỉ phản ánh quy trình thành lập doanh
nghiệp mà còn điều chỉnh những yêu cầu về hành vi kinh doanh của chủ thể kinh
doanh sau khi thành lập đi vào hoạt động, tăng cường khâu hậu kiểm, trách nhiệm
pháp lý của các chủ thể kinh doanh thực hiện đúng cam kết của mình khi thành lập
doanh nghiệp.
Như vậy, khái niệm pháp luật về ĐKKD không chỉ giới hạn trong Luật
Doanh nghiệp, mà sẽ còn bao hàm cả những quy phạm pháp luật của Hiến pháp, Bộ
luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Hợp tác xã, văn bản dưới luật... là khái niệm có nội
hàm rộng.
Ngoài ra, pháp luật về ĐKKD còn được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là các QPPL do
nhà nước ban hành được quy định tại Luật doanh nghiệp và các văn bản dưới luật điều
chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thành lập doanh nghiệp.
Hiện nay, pháp luật về ĐKKD được hiểu là tổng hợp những quy định về giá
trị pháp lý của giấy chứng nhận ĐKKD, điều kiện kinh doanh, thủ tục ĐKKD, các
biện pháp chế tài để đảm bảo việc ĐKKD được thực hiện đúng pháp luật. [28].
Cùng với các văn bản theo hệ thống pháp luật về ĐKKD, nhiều luật, pháp lệnh mới
hoặc sửa đổi bổ sung có liên quan tới công tác quản lý ĐKKD cũng được ban hành.
1.1.2. Nội dung của pháp luật về đăng ký kinh doanh
Hệ thống pháp luật đã bảo đảm ĐKKD bằng việc thể chế hóa các chính sách,
kế hoạch của Đảng, nhà nước trong công tác bảo đảm ĐKKD và quy định các
13
phương tiện, biện pháp, nhân lực, để đảm bảo thực hiện các chính sách, kế hoạch
đó. Chính vì thế, pháp luật trong ĐKKD đã trở thành một công cụ hữu hiệu để quản
lý lĩnh vực này. Đặc biệt, thời gian qua pháp luật về ĐKKD ở nước ta đã từng bước
được xây dựng và hoàn thiện, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến
lĩnh vực ĐKKD. Pháp luật về ĐKKD bao gồm các nội dung sau đây:
Thứ nhất, quy định các quy tắc xử sự chung cho mọi chủ thể trong lĩnh
vực ĐKKD.
Luật Doanh nghiệp quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại,
giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; quy định về
nhóm công ty.
Pháp luật về ĐKKD là những quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã
hội giữa chủ thể ĐKKD và cơ quan ĐKKD trong việc ĐKKD, thủ tục ĐKKD, các
biện pháp chế tài để đảm bảo việc ĐKKD được thực hiện đúng pháp luật và những
vấn đề khác liên quan đến hoạt động ĐKKD.
Thứ hai, quy định các chế tài ràng buộc các cá nhân, tổ chức thực hiện những
yêu cầu của pháp luật để đảm bảo ĐKKD.
Sự quy định pháp luật về ĐKKD là một tất yếu khách quan, tạo ra những
đảm bảo pháp lý về điều kiện, trình tự thủ tục, để chủ thể kinh doanh vận dụng khởi
sự doanh nghiệp, yên tâm khi chọn một mô hình kinh doanh. Thông qua việc ban
hành những QPPL về ĐKKD để nhà nước ghi nhận sự ra đời của một thực thể kinh
doanh, đồng thời kiểm soát quá trình hình thành, phát triển của một loại hình kinh
doanh theo hướng tích cực, loại bỏ những doanh nghiệp không đảm bảo các điều
kiện kinh doanh. Toàn bộ quy trình ĐKKD các chủ thể đều phải tuân theo quy định
của pháp luật để buộc các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật ĐKKD phải
thực hiện nghiêm chỉnh.
Thông qua pháp luật về ĐKKD, Nhà nước sẽ tạo nên một trật tự xã hội mà
trong đó, các chủ thể kinh doanh hoạt động với quy mô, lĩnh vực địa bàn đều có lợi
14
ích khác nhau nhưng đều bình đẳng trong “một sân chơi chung” để cùng tồn tại , tạo
tiền đề cần thiết cho sự phát triển xã hội.
Thứ ba, quy định các tiêu chuẩn bảo đảm ĐKKD, đồng thời công nhận
quyền tự do kinh doanh.
Pháp luật về ĐKKD đảm bảo và thừa nhận quyền tự do kinh doanh, quyền
thành lập doanh nghiệp và ĐKKD với điều kiện chủ thể đáp ứng đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật như: có đủ năng lực hành vi dân sự (đối với cá nhân);
phải được thành lập hợp pháp, phải có tài sản riêng phải có thẩm quyền kinh doanh
(đối với tổ chức). Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về ĐKKD luôn khuyến
khích các chủ thể tham gia vào hoạt động ĐKKD, thành lập doanh nghiệp trên cơ sở
quy định của pháp luật. Pháp luật ĐKKD ghi nhận các chủ thể được quyền tham gia
thành lập doanh nghiệp và ĐKKD. Đồng thời với những quy định điều kiện về chủ
thể thành lập doanh nghiệp là một quy định bắt buộc không thể thiếu được nhằm
đảm bảo chủ thể khi tham gia vào thương trường hoàn toàn có khả năng thực hiện
được ý tưởng của mình, đạt được hiệu quả cao, góp phần tăng trưởng, phát triển
kinh tế của đất nước, đồng thời gánh chịu được hậu quả pháp lý mà mình gây ra.
Các chủ thể kinh doanh khi có nhu cầu khởi sự doanh nghiệp đều được hoạt động
và chịu sự điều chỉnh trong cùng một chế định pháp luật về ĐKKD, đều được bình
đẳng trước pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ, không phân biệt quy mô, loại
hình, lĩnh vực đầu tư, ngành, nghề….
Thứ tư, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan
quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh.
Như ta đã biết, tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội đều cần phải có sự quản lý
của nhà nước và ĐKKD cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, bảo đảm ĐKKD còn là
một hoạt động, nhiệm vụ quan trọng bởi ĐKKD là vấn đề tương đối phức tạp nên
rất cần có hệ thống tổ chức quản lý phù hợp, hiệu quả. Pháp luật Việt Nam hiện nay
đã ngày càng thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo ra cơ chế hoạt động cho các tổ
chức, cơ quan bảo đảm ĐKKD. Việc ban hành các văn bản pháp luật tạo ra cơ sở
pháp lý để các cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
15
mình, đảm bảo hoàn thành tốt công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp và
hộ kinh doanh. Nhờ sự phân chia như vậy của pháp luật đã tạo ra sự phối hợp ngày
càng nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà
nước về doanh nghiệp.
Pháp luật là công cụ và phương tiện đảm đương vai trò dẫn dắt và chi phối
xã hội bằng việc kiến tạo môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối với các thành
viên trong xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phát huy khả năng của
mình để khởi nghiệp và phát triển. Pháp luật đảm đương vai trò kiến tạo môi
trường, cơ hội pháp lý bình đẳng cho mọi thành viên của xã hội phát huy tài năng,
trí tuệ, sức lực để hoàn thiện và phát triển bản thân mình, đồng thời phát triển xã
hội. Với vai trò này, xã hội nói chung và các thành viên của xã hội nói riêng sẽ có
điều kiện để phát triển.
*Vai trò của pháp luật Đăng ký kinh doanh
Thứ nhất, Pháp luật về ĐKKD góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh.
Có thể nói, việc mở rộng đối tượng có quyền thành lập là phù hợp với đòi
hỏi của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể tự nhận
thức pháp luật để tiến hành thành lập doanh nghiệp một cách đúng pháp luật. Việc
hạn chế một số đối tượng thành lập doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi
ích của nhà nước, lợi ích của xã hội cũng như lợi ích của bản thân các nhà đầu tư.
Sự quy định các đối tượng có quyền thành lập, góp vốn hoạt động kinh
doanh trong cùng một đạo luật để tạo cơ hội thuận lợi, dễ dàng và bình đẳng cho hai
đối tượng trên khi thành lập doanh nghiệp, tạo nên sự thống nhất, tránh những quy
phạm pháp luật chồng chéo trong hệ thống pháp luật nói chung.
Thứ hai, Pháp luật về ĐKKD rút gọn thủ tục gia nhập thị trường
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thành lập
doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư song lại có ảnh hưởng không
nhỏ đến lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trình tự thành lập doanh nghiệp phải được tiến
hành trong khuôn khổ của pháp luật. Các quy định về thành lập doanh nghiệp không
những phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư mà còn phải đáp ứng
16
nhu cầu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Quy trình ĐKKD cho doanh
nghiệp càng rút ngắn thì càng có lợi cho doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, chi
phí, hoạt động gia nhập thị trường càng sớm càng tốt.
Thứ ba, Pháp luật về ĐKKD góp phần minh bạch môi trường kinh doanh
MTKD là toàn bộ các yếu tố và điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp tạo nên thị trường, bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành trong đó yếu tố đầu tiên là môi trường pháp lý quy định về việc gia nhập
thị trường của doanh nghiệp, quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
sự rút lui của doanh nghiệp khỏi thị trường.
Do đó, MTKD có vai trò quan trọng quyết định sự thành công và kéo dài sự
tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Trong đó, Chính phủ có trách nhiệm tạo
nên một MTKD bình đẳng, thông thoáng, khuyến khích cho doanh nghiệp. Chính
phủ có vai trò to lớn trong việc giám sát, thực hiện, duy trì pháp luật nhằm điều tiết
nền kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư muốn gia
nhập thị trường ở những nước có cơ chế chính sách thông thoáng, tiết kiệm chi phí,
thời gian. Do đó, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, nhiều quốc gia đã mạnh dạn tháo
gỡ, cắt bỏ những thủ tục không cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.
Pháp luật về ĐKKD trải qua 20 năm hình thành và phát triển trong giai đoạn
phát triển kinh tế - chính trị khác nhau. Từ những quy phạm về ĐKKD được quy
định dưới hình thức Nghị định, Thông tư cho đến những cải cách mang tính đột phá
của Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014, trên
cơ sở kế thừa và phát huy những ưu điểm của các đạo luật trước đó ban hành và áp
dụng trong thực tiễn cho đến thời điểm hiện nay được đánh giá là một đạo luật quan
trọng có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp và là
một thành tựu lớn trong hệ thống pháp luật về ĐKKD của Việt Nam.
Những cải cách trên đã góp phần phục vụ sự tăng trưởng mạnh mẽ của khối
kinh tế tư nhân, cải thiện môi trường kinh doanh đầu tư của Việt Nam.
17
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
Tổ chức là các hoạt động cần thiết để xác định cơ cấu, hệ thống của bộ máy,
xác định những công việc phù hợp với từng bộ phận và giao trách nhiệm cho từng
nhà quản lý để vận hành các bộ phận hoạt động đạt hiệu quả cao nhất có thể. Công
tác tổ chức bao gồm việc thành lập nên các bộ phận trong tổ chức để đảm nhận các
hoạt động cần thiết và xác định các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hành và trách
nhiệm giữa các bộ phận đó. Mục tiêu của công tác tổ chức là tạo nên một môi
truờng nội bộ thuận lợi cho mỗi cá nhân, mỗi bộ phận phát huy được năng lực và
nhiệt tình của mình, đóng góp tốt nhất vào sự hoàn thành mục tiêu chung của tổ
chức [55].
Tổ chức thực hiện pháp luật là một chuỗi hoạt động nằm trong một chính thể
thống nhất, bắt đầu từ hướng dẫn thi hành luật, tuyên truyền, phố biến, giáo dục
luật, triển khai, thực hiện, cho đến kiểm tra, giám sát và đánh giá, tổng kết việc tổ
chức thực hiện pháp luật. Để triển khai thực hiện pháp luật, Chính phủ ban hành các
Nghị định; Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ ban hành các Thông tư
hướng dẫn thi hành pháp luật; Chính quyền địa phương triển khai thực hiện pháp
luật dựa trên các Nghị định và Thông tư huớng dẫn thi hành pháp luật.
Việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật phải được thực hiện đồng bộ, gắn
kết chặt chẽ với nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp
luật, khắc phục các hạn chế, thu hút sự tham gia tích cực của các thành phần có liên
quan, việc triển khai thực thi pháp luật phải có sự kiểm tra, kiểm soát của các cấp các
ngành có liên quan, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Như vậy, tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD là hoạt động sắp xếp, định
hướng một cách có tổ chức, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và thường xuyên,
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện làm cho pháp luật về ĐKKD được
triển khai trong thực tiễn.
18
1.2.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
Tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD là hoạt động có sự tham gia của cơ
quan nhà nuớc có thẩm quyền tác động tới lĩnh vực ĐKKD nhằm đạt đuợc mục đích
của cơ quan nhà nước. Do vậy, có thể nói, tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD là
hoạt động có định hướng, có chủ đích của các cơ quan nhà nước như Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an … và các Bộ ngành, các cấp chính quyền địa
phương, cơ quan ĐKKD các cấp.
* Bộ Kế hoạch và Đầu tư [Khoản 1, Điều 16, [17]:
+ Trình cấp có thẩm quyền ban hành, ban hành theo thẩm quyền văn bản
quy phạm pháp luật về ĐKDN, đăng ký hộ kinh doanh, văn bản hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ, biểu mẫu, chế độ báo cáo phục vụ công tác đăng ký
doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh và việc ĐKDN qua mạng điện tử;
+ Hướng dẫn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ĐKDN cho cán bộ làm công tác
ĐKDN và tổ chức, cá nhân có yêu cầu; đôn đốc, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra việc
thực hiện ĐKDN;
+ Công bố nội dung ĐKDN; cung cấp thông tin về nội dung ĐKDN, tình
trạng pháp lý và báo cáo tài chính của doanh nghiệp lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc
gia về ĐKDN cho các cơ quan có liên quan của Chính phủ, cho tổ chức, cá nhân có
yêu cầu;
+ Hướng dẫn Phòng ĐKKD thực hiện việc chuẩn hóa dữ liệu, cập nhật dữ
liệu ĐKDN tại địa phương sang Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN;
+ Tổ chức xây dựng, quản lý, phát triển Hệ thống thông tin quốc gia về
ĐKDN; hướng dẫn việc xây dựng kinh phí phục vụ vận hành Hệ thống thông tin
quốc gia về ĐKDN tại địa phương;
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính trong việc kết nối giữa Hệ thống thông
tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và Hệ thống thông tin đăng ký thuế;
+ Phát hành ấn phẩm thông tin doanh nghiệp để thực hiện đăng thông tin về
ĐKDN, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp trên toàn quốc;
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp.
19
* Cục quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh là đơn vị thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ĐKDN, hộ kinh doanh,
hợp tác xã và các loại hình khác theo quy định của pháp luật. [8]
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh có tư cách pháp nhân; con dấu riêng và tài
khoản cấp 2; kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp và được tổng hợp trong
dự toán hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh như sau:
1. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng, soạn thảo cơ chế, chính sách và các văn
bản quy phạm pháp luật về ĐKDN, hộ kinh doanh, hợp tác xã và các loại hình khác
theo quy định của pháp luật trình cấp có thẩm quyền ban hành.
2. Ban hành hoặc tham gia xây dựng hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành
các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về quy trình chuyên môn, nghiệp vụ, biểu mẫu, chế
độ báo cáo phục vụ công tác ĐKDN, hộ kinh doanh, hợp tác xã và các loại hình
khác theo quy định của pháp luật cho cơ quan ĐKKD cấp tỉnh, cấp huyện và các tổ
chức, cá nhân trên phạm vi cả nước.
3. Theo dõi, giám sát, tổng hợp tình hình thực hiện ĐKDN, hộ kinh doanh,
hợp tác xã và các loại hình doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật trên
phạm vi cả nước; theo dõi, tổng hợp tình hình sau đăng ký doanh nghiệp.
4. Về thông tin đăng ký doanh nghiệp và các loại hình khác:
a) Tổ chức xây dựng, quản lý, vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã;
b) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc kết nối và trao
đổi thông tin về đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã và các loại hình
khác theo quy định của pháp luật;
c) Cung cấp thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp,
hộ kinh doanh, hợp tác xã cho các tổ chức, cá nhân;
d) Phát hành ấn phẩm, tài liệu hướng dẫn, phổ biến pháp luật về ĐKDN, hộ
kinh doanh, hợp tác xã và các loại hình khác theo quy định của pháp luật.
20
5. Hướng dẫn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực phụ
trách của Cục Quản lý ĐKKD cho cơ quan ĐKKD và tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh.
7. Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản được giao theo quy định của pháp luật
và phân cấp của Bộ.
8. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo phân công của Bộ trưởng.
* Bộ Tài chính [Khoản 2, Điều 16, [17]
+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc kết nối giữa Hệ thống
thông tin quốc gia về ĐKDN và Hệ thống thông tin đăng ký thuế nhằm cung cấp mã
số doanh nghiệp, mã số đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, mã số địa điểm kinh
doanh phục vụ đăng ký doanh nghiệp và trao đổi thông tin về doanh nghiệp;
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về chế độ thu,
nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí ĐKDN, đăng ký hộ kinh doanh, đăng ký hoạt
động chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh, phí cung cấp thông tin và
công bố nội dung về đăng ký doanh nghiệp.
- Bộ Công an: chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn việc
xác định nội dung kê khai trong hồ sơ ĐKDN là giả mạo. [Khoản 3, Điều 16, [17]
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện pháp luật về điều
kiện kinh doanh; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm việc chấp hành các điều kiện
kinh doanh thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước; rà soát và công bố trên trang thông
tin điện tử của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ danh mục các
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi
quản lý nhà nước và gửi cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đăng tải trên Cổng thông tin
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. [Khoản 4, Điều 16,[17]
- Các bộ, cơ quan ngang bộ chỉ đạo các cơ quan chuyên môn định kỳ gửi cho
Cơ quan ĐKKD nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin sau đây. [Khoản 3,
Điều 208; [39]
21
+ Thông tin về giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận hoặc văn bản chấp thuận về điều kiện
kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp và quyết định xử phạt đối với hành vi vi phạm
hành chính của doanh nghiệp;
+ Thông tin về tình hình hoạt động và nộp thuế của doanh nghiệp từ báo cáo
thuế của doanh nghiệp;
+ Phối hợp, chia sẻ thông tin về tình hình hoạt động doanh nghiệp để nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước.
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí đủ nhân lực,
kinh phí và nguồn lực khác cho cơ quan đăng ký kinh doanh để đảm bảo thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định này.[ Khoản 5,Điều 6,17]
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công chịu trách
nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc và UBND cấp huyện định kỳ gửi
cho Cơ quan ĐKKD nơi doanh nghiệp có trụ sở chính các thông tin theo quy định tại
khoản 2 Điều này. [Khoản 4 và 5, Điều 208; [39]
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp được phân cấp quản lý từ trung ương
tới địa phương theo các cấp (từ cấp tỉnh đến cấp quận, huyện). Công tác này được thực
hiện thông qua sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân (UBND) đối với các cơ quan chuyên
môn trực thuộc và UBND cấp huyện. Nhiệm vụ chính theo Luật quy định là xây dựng,
ban hành các quy định hướng dẫn và tổ chức thực hiện tại địa phương.
* Tổ chức hệ thống Đăng ký kinh doanh và thẩm quyền cấp ĐKDN và điều
chỉnh ĐKKD.
Cơ quan ĐKKD được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và ở
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. [ Điều 13; [17]
Ở cấp tỉnh có Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ở
cấp huyện do Phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc UBND cấp huyện.
22
Riêng thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có thể thành lập thêm một
hoặc hai Phòng ĐKKD. Việc thành lập thêm Phòng ĐKKD do UBND thành phố
quyết định sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Ở cấp tỉnh: Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Đăng ký kinh doanh [Điều 14 [17]
+ Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
+ Phối hợp xây dựng, quản lý, vận hành Hệ thống thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp; thực hiện việc chuẩn hóa dữ liệu, cập nhật dữ liệu đăng ký doanh
nghiệp tại địa phương sang Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
+ Cung cấp thông tin về ĐKDN lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐKDN
trong phạm vi địa phương quản lý cho UBND cấp tỉnh, Cục thuế địa phương, các cơ
quan có liên quan và các tổ chức, cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
+ Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ các quy định của Luật
Doanh nghiệp theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 209 Luật Doanh nghiệp.
+ Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra
doanh nghiệp theo nội dung trong hồ sơ ĐKDN ; hướng dẫn cơ quan ĐKKD cấp
huyện về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký hộ kinh doanh; hướng dẫn doanh nghiệp
và người thành lập doanh nghiệp về hồ sơ, trình tự, thủ tục ĐKDN.
+ Yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện theo quy định tại Khoản 9 Điều 7 Nghị định này.
+ Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 62 Nghị định này.
+ Đăng ký cho các loại hình khác theo quy định của pháp luật.
- Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện [17,Điều 15]
Ủy ban nhân dân cấp huyện giao cho Phòng Tài chính - Kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ đăng ký hộ kinh doanh, hợp tác xã theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện:
+ Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ
và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
23
+ Phối hợp xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống thông tin về hộ kinh doanh hoạt
động trên phạm vi địa bàn; định kỳ báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện, Phòng Đăng ký
kinh doanh cấp tỉnh, cơ quan thuế cấp huyện về hộ kinh doanh trên địa bàn.
+ Trực tiếp kiểm tra hộ kinh doanh theo nội dung trong hồ sơ đăng ký trên
phạm vi địa bàn; phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp;
xác minh nội dung ĐKDN, chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của
doanh nghiệp trên phạm vi địa bàn theo yêu cầu của Phòng ĐKKD cấp tỉnh.
+ Yêu cầu hộ kinh doanh báo cáo tình hình kinh doanh khi cần thiết.
+ Yêu cầu hộ kinh doanh tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện khi phát hiện hộ kinh doanh không có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật, đồng thời thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo
quy định của pháp luật.
+ Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh trong các trường hợp
theo quy định.
Đăng ký cho các loại hình khác theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.2.3.1. Giai đoạn ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo
Muốn tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD đạt hiệu quả cần có sự chỉ đạo
quyết liệt của Chính phủ đối với công tác ĐKKD. Nhiều văn bản mang tính chiến
lược sẽ được ban hành để chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ
các giải pháp về ĐKKD, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thu hút
đầu tư. Như vậy, mới tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong hoạt động của các cơ
quan quản lý nhà nước và nhận thức của xã hội về ĐKKD. Ngoài ra, Thủ tướng
Chính phủ thường xuyên chỉ đạo trực tiếp qua các buổi họp giao ban trực tuyến với
các địa phương hoặc trực tiếp thị sát, kiểm tra tình hình tại một số điểm nóng, qua
đó để giải quyết dứt điểm các vướng mắc của doanh nghiệp.
Đối với công tác ĐKKD tại địa phương, cần phải ban hành các văn bản chỉ
đạo về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ĐKKD và chỉ đạo quyết
24
liệt đặc biệt nhấn mạnh vai trò và quy định trách nhiệm của người đứng đầu địa
phương trong triển khai các nhiệm vụ liên quan đến doanh nghiệp, người dân.
Các Bộ trong phạm vi quyền hạn của mình trình Chính phủ hoặc ban hành
các văn bản chỉ đạo tầm chiến lược. Trên cơ sở chiến lược, các Bộ xây dựng và ban
hành các đề án như: Đề án Số 8925/ĐA-BKHĐT ngày 26/12/2011 của Bộ Kế hoạch
và Đầu về đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.
Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 07/8/2015 của Chính phủ về thi hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư [13]; Quyết định số 419/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của
Chính phủ Phê duyệt Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau
đăng ký thành lập [4]
1.2.3.2. Giai đoạn phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký kinh doanh
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm,
đi trước một bước trong các hoạt động ĐKKD. Việc nâng cao kiến thức về ĐKKD
cho các đối tượng được các Bộ, ngành và địa phương cần phải được đẩy mạnh với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Các hoạt động tuyên truyền giáo dục trên các
phương tiện thông tin đại chúng phải được triển khai đồng bộ, theo hướng dẫn của
Trung ương về ĐKKD nhằm nâng cao vai trò của UBND các cấp, vai trò quản lý
của các cơ quan chức năng, trách nhiệm của các cơ quan chức năng và doanh
nghiệp trong công tác ĐKKD.
Để nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác ĐKKD từ Trung ương đến
cơ sở, các bộ ngành sẽ thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo chứng chỉ, các lớp tập
huấn về ĐKKD. Cùng với đó, việc nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và toàn xã
hội nói chung qua các hình thức như nói chuyện, hội thảo, tọa đàm, phát thanh,
truyề ộc thi, các sản phẩm truyền thông như tờ gấp, poster,
các băng đĩa hình... cũng cần được chú ý phát triển.
1.2.3.3. Giai đoạn tổ chức bộ máy, chuẩn bị nhân lực, vật lực phục vụ thực
hiện pháp luật về ĐKKD
- Về tổ chức bộ máy phục vụ thực hiện pháp luật về ĐKDN (Hình 1.1)
25
+ Quốc hội ban hành và sửa đổi các luật liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp.
+ Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp xét xử và kiểm soát
việc tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp cũng như cơ quan QLNN.
+ Chính phủ thống nhất thực hiện các chức năng quản lý hành chính nhà
nước trên cơ sở phân công, phân cấp quản lý. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
trực tiếp ban hành nghị định, quyết định và các chính sách cụ thể liên quan đến
doanh nghiệp; các biện pháp chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp, pháp luật,
các quyết định của Chính phủ trong doanh nghiệp.
Ban hành văn bản
Quốc hội
Luật, Pháp lệnh,
Nghị định, Nghị
Chính phủ
quyết, Chỉ thị,
Quyết định
Thủ tướng chính phủ
UBND cấp tỉnh
Các Bộ
Các Sở
UBND Cấp
Ban hành Quyết
huyện
định, thông tư
Kiểm tra, giám sát
Cơ bản thực hiện
trực tiếp theo địa
quản lý gián tiếp
bàn, lĩnh vực
kinh doanh
Doanh nghiệp
Hình 1.1: Hệ thống cơ quan QLNN về đăng ký doanh nghiệp
+ Bộ, các cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp trong phạm vi ngành, lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình,
ban hành các văn bản hướng dẫn quy phạm pháp luật theo thẩm quyền.
26
+ UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng QLNN đối với doanh nghiệp ở địa
phương, tổ chức thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực trên
địa bàn theo thẩm quyền. UBND cấp huyện, cấp xã tổ chức thực hiện QLNN đối
với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập trên địa bàn theo thẩm quyền phân cấp
hành chính và từng lĩnh vực cụ thể có liên quan.
Ngoài cách tiếp cận hệ thống bộ máy QLNN theo phân cấp về hành chính,
đứng trên góc độ hệ thống các cơ quan nhà nước liên quan trực tiếp đến “vòng đời”
của doanh nghiệp (từ khi doanh nghiệp thành lập đến khi giải thể, phá sản doanh
nghiệp), hệ thống này khái quát như hình 1.2
Cơ quan đăng ký kinh
Cơ quan Thuế
Giải thể
doanh
Hình 1.2. Sơ đồ cơ quan QLNN theo vòng đời doanh nghiệp
Doanh nghiệp đã hoạt động
Doanh nghiệp chấm
thành lập
sản xuất-kinh doanh
dứt HĐ
Phá sản
Các cơ quan quản lý chuyên ngành; lĩnh
Tòa án
vực kinh doanh có điều kiện, môi
trường, lao động, xuất nhập khẩu, an
ninh trật tự
Doanh nghiệp đăng ký
Như vậy, liên quan trực tiếp đến “vòng đời” của doanh nghiệp, có một số cơ
quan đầu mối quan trọng trong công tác QLNN đối với doanh nghiệp như: cơ quan
ĐKKD, cơ quan thuế, cơ quan quản lý chuyên ngành…Trong đó, cơ quan ĐKKD,
cơ quan thuế đóng vai trò trung tâm, đầu mối theo dõi thông tin chung về hoạt động
của doanh nghiệp. [4].
- Về nhân lực:
+ Tại Trung ương, ngoài các cán bộ, công chức tham gia trực tiếp công tác
quản lý tại Cục ĐKKD (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) sẽ có các cán bộ kiêm nhiệm thuộc
các đơn vị của các Bộ, ngành như: Bộ Y tế, Bộ NNPTNT, Bộ Công thương….
27
+ Cơ quan ĐKKD cấp tỉnh: nhân lực là cán bộ công chức tại Bộ phận một
cửa và Phòng Đăng ký kinh doanh- Sở KH&ĐT sẽ là các cán bộ trực tiếp giải quyết
TTHC về đăng ký doanh nghiệp cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Ngoài ra,
cán bộ công chức tại các sở ngành khác trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính về
ĐKKD cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân hoặc cán bộ công chức ở các sở
ngành đều có thể tư vấn pháp luật cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
+ Cơ quan ĐKKD cấp huyện: nhân lực là cán bộ công chức tại Bộ phận một
cửa và Phòng Tài chính - Kế hoạch các huyện sẽ là các cán bộ trực tiếp giải quyết
TTHC về đăng ký kinh doanh của HTX, hộ gia đình.
- Điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật ĐKKD: các trụ sở làm việc sẽ được
trang bị đầy đủ, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, các phương tiện
kỹ thuật điều kiện làm việc tốt để triển khai nhiệm vụ. Hàng năm NSNN bố trí đầu
tư đảm bảo các điều kiện cần thiết về xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng về ĐKKD.
- Công tác phân công, phân cấp, phối hợp liên ngành về thực hiện pháp luật
về ĐKKD là hoạt động phối hợp liên ngành về quản lý ĐKKD được thực hiện
thống nhất dưới sự chỉ đạo của Bộ, ngành, UBND các cấp về ĐKKD theo quan
điểm của Đảng và Nhà nước đổi mới căn bản mối quan hệ giữa nhà nước với doanh
nghiệp: thể hiện cụ thể qua việc: (i) thay đổi cơ bản phương thức quản lý từ “tiền
kiểm” sang “hậu kiểm”; (ii) chuyển từ quan hệ giám sát, quản lý sang quan hệ đối
tác, hỗ trợ phát triển là chủ yếu; (iii) chuyển từ can thiệp hành chính, trực tiếp vào
doanh nghiệp sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ
chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô. [4]
1.2.3.4 Giai đoạn thực hiện trong thực tế pháp luật về ĐKKD
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật
ĐKKD. Bởi lẽ, muốn thực hiện được pháp luật ĐKKD thì phải để pháp luật được
sử dụng, được áp dụng trong thực tế. Ở giai đoạn này, nhà nước sẽ thông qua các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp
luật về ĐKKD thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào
28
những quy định của pháp luật ĐKKD để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật về ĐKKD cụ thể.
Tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD trong thực tế là giai đoạn luôn luôn đòi
hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm
quyền. Ngoài ra, thực hiện pháp luật ĐKKD còn là hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích, các quy định
của luật nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực
hiện pháp luật ĐKKD. Trên thực tế, khi triển khai thực hiện pháp luật trong thực
tiễn, không phải bộ phận nào cũng làm tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần phải đôn
đốc để vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa
phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong pháp luật ĐKKD.
1.2.3.5. Giai đoạn kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký
kinh doanh
Công tác thanh, kiểm tra về ĐKKD sẽ thực hiện theo kế hoạch của Thanh tra
tỉnh và kế hoạch của các cơ quan chuyên môn tham mưu cho UBND các cấp, có thể
tập trung vào những vụ việc nổi cộm, cần tháo gỡ hoặc xử lý kịp thời. Cùng với
việc xử phạt hành chính, các đoàn của Trung ương và các địa phương sẽ áp dụng
biện pháp xử lý thu hồi các loại giấy phép kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp. Ngoài việc thanh, kiểm tra theo kế hoạch, các Bộ, ngành, địa
phương đã tiến hành nhiều đợt thanh, kiểm tra đột xuất theo chuyên ngành đã phát
hiện và xử lý các vụ vi phạm pháp luật về ĐKKD.
Việc thanh, kiểm tra tại các doanh nghiệp được phân cấp rõ ràng cho từng
ngành, từng cấp, có kế hoạch được xây dựng từ năm trước, có sự phối kết hợp giữa
các cấp, các ngành trong quá trình xây dựng kế hoạch,
Khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm không để xảy ra tình
trạng thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh nghiệp; trường hợp kế hoạch
thanh tra trùng lặp, chồng chéo với hoạt động kiểm toán nhà nước thì chủ động phối
hợp, trao đổi với Kiểm toán nhà nước, Thanh tra Chính phủ để thống nhất phương
án xử lý theo quy định hiện hành, đảm bảo sự kế thừa kết quả thanh tra, kiểm toán,
29
không làm cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp, cần tiến hành rà soát,
điều chỉnh kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt theo tinh thần trên. [52]
Do vậy sẽ hạn chế sự chồng chéo thanh, kiểm tra tại các doanh nghiệp trong
thực hiện. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, các trường hợp vi phạm sẽ được xử
lý bằng nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo đúng pháp luật, được công khai kịp
thời trên phương tiện thông tin đại chúng.
1.2.3.6. Giai đoạn tổng kết, đánh giá
Hàng năm, các tỉnh, thành phố sẽ thực hiện công tác tổng kết, đánh giá tình
hình thực thi chính sách, pháp luật về ĐKDN và triển khai nhiệm vụ của những năm
tiếp theo. Trong quá trình đánh giá, tổng kết, đối tượng được xem xét, đánh giá tổng
kết về chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật là các cơ quan nhà nước từ Trung ương
đến địa phương, mà cụ thể ở đây là cơ quan thuộc Bộ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Tổng cục thuế và một số bộ, ban ngành có liên quan.
Xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
trong việc tham gia tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD. Cơ sở để đánh giá, tổng kết
công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện pháp luật ĐKKD trong cơ quan nhà nước là
các kế hoạch được giao và những quy định, quy tắc được đề ra. Đồng thời còn kết
hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước đối với các tổ chức xã hội
và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành tổ
chức thực hiện pháp luật ĐKKD.
Bên cạnh đó, việc đánh giá tổng kết còn bao gồm cả việc thực hiện pháp luật
của các đối tượng tham gia: tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp. Thước đo đánh giá
kết quả việc tổ chức thực hiện pháp luật của các đối tượng này chính là tinh thần
hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định mà pháp
luật ĐKKD đã đề ra.
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của pháp luật về đăng ký kinh doanh
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD, bởi các quy định của pháp luật về ĐKKD là cơ sở pháp lý cho quá trình tổ
30
chức thực hiện pháp luật về ĐKKD, để các cơ quan nhà nước và các tổ chức,
doanh nghiệp, cá nhân có liên quan tới lĩnh vực này tuân thủ trong quá trình thực
thi pháp luật.
Có nhiều tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp
luật trong đó có bốn tiêu chuẩn cơ bản là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp
và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật.
Thứ nhất, tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện
của pháp luật về ĐKKD. Có thể nói đây là tiêu chuẩn để định lượng pháp luật về
ĐKKD. Nếu pháp luật mà toàn diện thì tính hiệu quả sẽ rất cao, và việc tổ chức thực
hiện nó cũng đơn giản hơn, gặp ít vướng mắc, khó khăn hơn.
Thứ hai, tính đồng bộ của pháp luật về thể hiện sự thống nhất của nó. Khi xem
xét mức độ hoàn thiện của pháp luật ĐKKD cần phải chú ý xem giữa các bộ phận của
hệ thống pháp luật ĐKKD đó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn không.
Thứ ba, tính phù hợp của pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của
pháp luật ĐKKD với trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Pháp luật ĐKKD phải
phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc
thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện nhiều
mặt. Khi xem xét tiêu chuẩn này cần chú ý đến các mặt và giải quyết tốt mối quan
hệ giữa pháp luật ĐKKD với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và
các quy phạm xã hội khác.
Thứ tư, trình độ kỹ thuật pháp lý: kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn,
phức tạp trong đó có ba điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và
hoàn thiện pháp luật, gồm (1) kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu
được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật; (2)
trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật;
và (3) cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lô gíc,
chính xác và một nghĩa.
Hệ thống pháp luật về ĐKKD càng toàn diện, mức độ hoàn thiện của pháp
luật càng cao thì giúp cho hoạt động tổ chức thực hiện về ĐKKD càng hiệu quả,
31
góp phần mang lại lợi ích cho Nhà nước, lợi ích của các tổ chức và cá nhân. Ngược
lại, với một hệ thống pháp luật ĐKKD ở mức hoàn thiện thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình tổ chức thực hiện luật ĐKKD, làm cho hoạt động của các tổ chức, cá
nhân bị trì trệ, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tổ chức, cá nhân đó. Tuy
nhiên, để pháp luật đi vào đời sống của người dân không chỉ đòi hỏi phải có một hệ
thống pháp luật hoàn thiện mà phải có sự kết hợp nhiều yếu tố với nhau.
1.3.2. Văn hóa pháp luật về đăng ký kinh doanh
Văn hóa pháp luật về ĐKKD được hình thành từ tổng thể các hoạt động xã
hội - pháp luật trên cả phương diện lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực ĐKKD.
Đó chính là hệ thống các giá trị, chuẩn mực pháp luật được kết tinh từ trí
thức pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật về ĐKKD và hành vi pháp luật
trong lĩnh vực ĐKKD; có ảnh hưởng sâu rộng tới các hình thức pháp luật từ tuân
thủ, chấp hành, sử dụng, cho tới áp dụng pháp luật về ĐKKD. Văn hóa pháp luật
được thể hiện ra trong đời sống pháp luật thông qua quá trình thực hiện pháp luật
(hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật của các chủ thể). Giữa văn hóa pháp
luật và hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Văn hóa pháp luật là cơ sở nền tảng khuôn mẫu tư duy và chuẩn mực hành vi của
hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, có định hướng đúng đắn. Ngược lại hoạt
động thực hiện pháp luật có tác dụng bổ sung làm phong phú sâu sắc thêm cho các
giá trị chuẩn mực của văn hóa pháp luật.
Văn hóa pháp luật là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa dân tộc và hàm
chứa trong nó ba yếu tố: ý thức pháp luật; hệ thống pháp luật và trình độ, kỹ năng,
nghệ thuật áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội.
Như vậy, văn hóa pháp luật ĐKKD là một thể thống nhất bao gồm các thành
tố cơ bản, giữa chúng vừa có mối liên hệ hữu cơ, chịu sự tác động thường xuyên
của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia, dân tộc và thời đại. Hệ thống
pháp luật ĐKKD được thể hiện với ý nghĩa là các sản phẩm vật chất của ý thức
pháp luật ĐKKD, của trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật ĐKKD của cán bộ,
32
công chức công tác trong lĩnh vực ĐKKD và của cả các tổ chức, doanh nghiệp và cá
nhân chịu sự kiểm soát của pháp luật ĐKKD.
Đồng thời cả ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức; của cộng đồng
và chất lượng của hệ thống văn bản pháp luật chính là những tiền đề quan trọng bảo
đảm cho hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật ĐKKD đạt được kết quả cao
trong thực tiễn. Sự hiểu biết pháp luật ĐKKD của cán bộ, công chức; người dân
trong lĩnh vực này càng đầy đủ, sâu sắc, toàn diện, hệ thống văn bản pháp luật càng
đúng đắn, nhân văn, tiến bộ thì hoạt động thực thi pháp luật ĐKKD, bảo vệ pháp
luật ĐKKD càng trở nên chủ động, tự giác, tích cực. Và việc tổ chức thực hiện pháp
luật ĐKKD, áp dụng pháp luật ĐKKD của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và
mỗi cá nhân cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực ĐKKD, cũng như lối sống
theo pháp luật, trình độ vận dụng pháp luật trong quá trình quản lý xã hội là một kết
quả tất yếu của quá trình nhận thức, nắm bắt kiến thức pháp luật và là yếu tố không
thể thiếu được của văn hóa pháp luật ĐKKD.
Tóm lại, nếu như văn hóa pháp luật ĐKKD cao thì việc tổ chức thực hiện
pháp luật ĐKKD cũng sẽ đạt hiệu quả cao hơn và được diễn ra chủ động và tích cực
hơn. Ngược lại, nếu như văn hóa pháp luật ĐKKD thấp thì hoạt động thực thi pháp
luật ĐKKD được diễn ra sẽ không toàn diện, sẽ mang tính tiêu cực nhiều hơn.
1.3.3. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của
các chủ thể có thẩm quyền
Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD của các chủ thể có thẩm
quyền trước hết là việc đảm bảo điều kiện thi hành văn bản quy phạm pháp luật
ĐKKD. Đó là năng lực tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với chủ thể
pháp luật, nhất là chủ thể thực hiện người dân, doanh nghiệp. Và quan trọng nhất
trong thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật ĐKKD nói riêng, chính là khả
năng theo dõi, đánh giá thi hành pháp luật, trong đó quan trọng là khả năng xây
dựng khung theo dõi thi hành pháp luật và hệ thống thu thập dữ liệu về thi hành
pháp luật.
33
Như vậy, nếu như chủ thể có thẩm quyền trong pháp luật ĐKKD có năng lực
tổ chức thực hiện pháp luật thì pháp luật ĐKKD sẽ được tuyên truyền và phổ biến
rộng rãi tới mọi người dân, mọi doanh nghiệp, tổ chức. Và khi các chủ thể có thẩm
quyền theo dõi và đánh giá thi hành pháp luật ĐKKD thì sẽ cho ra được những
thông số có ý nghĩa quan trọng giúp các nhà làm luật xây dựng và điều chỉnh kịp
thời các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Ngược lại, nếu như năng lực tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD kém thì
pháp luật ĐKKD chỉ là ở trên trang giấy, là lời nói suông; nguy cơ các hành vi vi
phạm pháp luật ĐKKD sẽ diễn ra thường xuyên hơn hoặc sẽ không được xử lý,
không được phòng ngừa. Và thực trạng các văn bản pháp luật của lĩnh vực ĐKKD
lỗi thời, không hợp lý hoặc chồng chéo, mâu thuẫn không được phản ánh với các cơ
quan có thẩm quyền để được sửa đổi kịp thời.
1.3.4. Sự phát triển của khoa học, công nghệ và ứng dụng trong lĩnh vực
đăng ký kinh doanh
Đây là một yếu tố mới nhưng hết sức cần thiết trong tổ chức thực hiện pháp
luật về ĐKKD. Với đóng góp tích cực của các chuyên gia, nhà khoa học; sự phát
triển của khoa học, công nghệ sẽ góp phần thiết thực vào việc tạo lập cơ sở lý luận
và thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp mang tính khoa học hỗ trợ cơ quan tổ
chức hữu quan trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thiết lập cơ chế
hữu hiệu bảo đảm ĐKKD.
Hệ thống đăng ký doanh nghiệp và Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp với thông tin được tích hợp đầy đủ và thống nhất từ cơ sở dữ liệu doanh
nghiệp tại 63 tỉnh, thành phố. Chuẩn hóa và thống nhất nghiệp vụ đăng ký doanh
nghiệp trên phạm vi toàn quốc qua Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc
gia mang tính khả thi và có hiệu quả cao phần lớn là phụ thuộc vào các ứng dụng
khoa học công nghệ tiên tiến.
Ứng dụng triệt để khoa học công nghệ, công nghệ thông tin trong xử lý
nghiệp vụ đăng ký kinh doanh nhằm nâng cao hiệu suất công tác và giảm chi phí,
thời gian hoàn tất thủ tục đăng ký doanh nghiệp, tự động hóa một số quy trình nhằm
34
giảm tối đa sự can thiệp của cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh vào các quy
trình nghiệp vụ góp phần tăng cường tính minh bạch của quy trình đăng ký doanh
nghiệp.Tăng tính bảo mật của thông tin đăng ký doanh nghiệp do thông tin doanh
nghiệp trên Hệ thống là thông tin gốc có giá trị pháp lý cao nhất và chỉ được truy
cập bởi những cán bộ đăng ký kinh doanh được xác định.
Ngoài ra, ứng dụng khoa học công nghệ sẽ khuyến khích phát triển doanh
nghiệp, do tác động của cải thiện về cải cách trong đăng ký kinh doanh về sự thuận
tiện của thủ tục thành lập doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cộng đồng tiếp cận thông
tin doanh nghiệp và thực hiện đăng ký doanh nghiệp trực tuyến. Những cải thiện về
cải cách trong đăng ký kinh doanh đã đưa Việt Nam tăng lên nhiều bậc trong bảng
xếp hạng về sự thuận tiện của thủ tục thành lập doanh nghiệp.
Như vậy, khi ứng dụng khoa học công nghệ phát triển, việc tổ chức thực hiện
pháp luật ĐKKD sẽ hiệu quả hơn, giúp tăng cường tính minh bạch của môi trường
kinh doanh thông qua việc công khai hóa và xã hội hóa thông tin có giá trị pháp lý
về đăng ký doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp sau đăng ký thành lập qua việc tăng cường phối hợp và trao đổi thông
tin giữa các cơ quan nhà nước liên quan.
35
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong chương 1 luận văn đã tập trung làm rõ một số khái niệm cơ bản như:
khái niệm ĐKKD, pháp luật về ĐKKD, tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD.
Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích nội dung tổ chức thực hiện của pháp
luật về ĐKKD, tập trung phân tích quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD,
gồm: ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo pháp luật ĐKKD; thực hiện công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ĐKKD; công tác chuẩn bị nhân lực,
vật lực phục vụ thực hiện về ĐKKD, công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
pháp luật về ĐKKD, công tác tổng kết đánh giá và làm rõ 04 yếu tố tác động với
việc tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD. Đây chính là cơ sở việc phân tích, đánh
giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD trên địan bàn tỉnh Cao Bằng
trong chương 2.
36
4 Chƣơng 2
5 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
2.1 Các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là tỉnh biên giới có diện tích đất tự nhiên là 6.703,42 km2, có
đường biên giới dài trên 333 km giáp tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc với nhiều
cửa khẩu, lối mở như cửa khẩu quốc tế Tà Lùng, cửa khẩu Trà Lĩnh, Sóc Giang và
một số cặp chợ biên giới để giao lưu hàng hóa giữa hai bên. Đây là một lợi thế lớn
cho Cao Bằng trong thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại biên giới với
phía Trung Quốc. Cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Cao Bằng
cũng là một địa phương có lợi thế trong thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
đầu tư Trung Quốc đến tìm hiểu, đầu tư nhất là khi Trung Quốc đang đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “Một vành đai, một con đường” cũng như xu thế “vươn ra thế
giới” của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Xác định thu hút đầu tư để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, Cao
Bằng đã ban hành các chính sách đặc thù của tỉnh về ưu đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu
tư khi thực hiện đầu tư tại tỉnh như Nghị quyết số 10/2017/NQ-HĐND ngày
14/7/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng Bãi bỏ Nghị quyết số
08/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng về cơ
chế, chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Cao Bằng; Nghị quyết số
58/2016/NQ-HĐND, ngày 05/8/2016 về chính sách đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp,
HTX đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra, các
nhà đầu tư khi đầu tư tại tỉnh Cao Bằng còn được hưởng ưu đãi đầu tư cho địa bàn
có điều kiện đặc biệt khó khăn.
37
Tuy nhiên, về kinh tế, Cao Bằng hiện nay chưa tự cân đối được ngân sách,
nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa
hình thành rõ nét vùng sản xuất hàng hóa tập trung, thị trường kém phát triển.
Là tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (tỉnh có 199 xã,
phường, thị trấn mà trong đó có 137 xã đặc biệt khó khăn, 46 xã biên giới và 30 xã
an toàn khu); có 5 huyện nghèo được thụ hưởng Nghị quyết 30a của Chính phủ và
01 huyện nghèo theo Quyết định 293/QĐ-TTg, trình độ năng lực sản xuất, khả năng
tiếp thu công nghệ khoa học của tỉnh vẫn còn hạn chế.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn nhiều thấp kém nhất là cơ sở hạ
tầng tại các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Mặc dù có một số lợi thế trong
phát triển thương mại, du lịch, tuy nhiên hiện nay, Cao Bằng vẫn chưa phát huy
được tiềm năng sẵn có và lợi thế của địa phương. Kinh tế cửa khẩu chưa được khai
thác có hiệu quả, môi trường đầu tư, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, quan
hệ kinh tế đối ngoại với các địa phương thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc chưa
tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Ngoài ra, mặc dù có lợi thề về vị trí địa lý để thúc đẩy phát triển thương mại
biên giới, tuy nhiên Cao Bằng cũng chịu tác động trực tiếp từ các chính sách biên
mậu của Trung Quốc. Do đó, hoạt động phát triển kinh tế, thương mại biên giới còn
chưa thực sự sôi động, ảnh hưởng đáng kể tới thu hút đầu tư, phát triển doanh
nghiệp của tỉnh Cao Bằng. Các doanh nghiệp của Cao Bằng đa phần là các doanh
nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế, hoạt động nhiều khi còn
mang tính chụp giật, thiếu tính định hướng, phát triển lâu dài. Các hoạt động xúc
tiến thương mại, đầu tư, quảng bá hình ảnh của tỉnh còn nhiều hạn chế cả về số
lượng cũng như chất lượng.
2.1.2. Nguồn nhân lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
của các chủ thể có thẩm quyền ở tỉnh Cao Bằng
Lực lượng cán bộ chuyên trách về ĐKKD hiện nay còn mỏng, ở nhiều đơn vị
đang là nhiệm vụ kiêm nhiệm, đặc biệt phổ biến là cán bộ làm công tác trực tiếp
ĐKKD ở Phòng ĐKKD- Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng và Phòng Tài chính- Kế
38
hoạch tại các huyện. Chưa có hệ thống tiêu chuẩn chức danh làm căn cứ tuyển
dụng, đào tạo chuẩn hóa đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ĐKKD. Công tác luân
chuyển công chức làm công tác ĐKKD chưa hợp lý, có những năm để quá lâu,
không luân chuyển, có thời điểm luân chuyển đồng loạt các công chức ĐKKD cùng
một lúc, không có sự kế thừa, chưa kịp đào tạo, cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả
công việc. Công tác đào tạo bồi dưỡng trong lĩnh vực ĐKKD hiện nay ở cấp huyện
còn hạn chế, chưa được thường xuyên.
Ngoài ra, đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hiện nay lực lượng
thanh tra của huyện, thành phố và cấp tỉnh lại mỏng, vì vậy mà hiệu quả quản lý nhà
nước về ĐKKD chưa cao.
Đồng thời, do việc phân công dàn trải và thiếu tập trung gây khó khăn cho
việc chuyên môn hóa về quản lý và tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD của các
chủ thể có thẩm quyền ở tỉnh Cao Bằng.
2.1.3. Nhận thức pháp luật về đăng ký kinh doanh
Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD cao hay không còn phụ thuộc
vào ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của người dân, doanh nghiệp cho đến
cơ quan nhà nước hoạt động trong lĩnh vực ĐKKD; trình độ, sự hiểu biết về pháp
luật. Tuy nhiên, hiện nay văn hóa pháp luật về ĐKKD ở tỉnh Cao Bằng nói riêng và
của Việt Nam nói chung còn tồn tại nhiều hạn chế:
Thứ nhất, là do mặt bằng dân trí pháp lý còn không đồng đều. Người dân tại
các huyện vùng sâu, vùng xa cách xa trung tâm chưa được phổ biến, giáo dục pháp
luật ĐKKD thường xuyên và kịp thời. Nên sự hiểu biết của họ về pháp luật ĐKKD
còn hạn chế. Vì vậy có thể bản thân những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh
doanh không biết mình đang vi phạm pháp luật hoặc biết nhưng vẫn vi phạm.
Thứ hai, ý thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật còn
hạn chế. Và đây chính là điểm yếu lớn nhất được nhận thấy trong thực tiễn pháp
luật nói chung và pháp luật ĐKKD nói riêng. Ý thức tôn trọng pháp luật của một số
cơ quan nhà nước và công chức nhà nước trong lĩnh vực ĐKKD trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng chưa cao. Nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật không phải do kém hiểu
39
biết mà nguyên nhân chính là coi thường pháp luật. Mặt khác, do quan niệm của
một bộ phận nhân dân, doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ và đúng đắn tính
tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế nên ít sử dụng quyền
pháp luật hoặc chưa tự giác thi hành nghĩa vụ pháp luật. Vì vậy, các hành vi vi
phạm ĐKKD trên địa bàn vẫn diễn ra hàng ngày, bất chấp hậu quả của việc vi phạm
trực tiếp ảnh hưởng đến kinh tế.
Thứ ba, do ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ về tư duy và hành vi còn lớn
nên chúng ta chưa có được một nhận thức tổng thể và cụ thể cho quá trình đổi mới
và phát triển. ĐKKD đúng luật không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
của mỗi doanh nghiệp mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế.
Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, biểu hiện của tình trạng này là các
hành vi: đầu cơ để lũng đoạn thị trường, bán phá giá, nâng- ép giá, xâm phạm về
quyền nhãn hiệu hàng hoá cũng như các quyền về sở hữu công nghiệp của các chủ
thể kinh doanh khác, quảng cáo so sánh dối trá, bán và lưu thông hàng nhái, hàng
kém phẩm chất, hàng giả… Những biểu hiện có xu hướng tăng lên một cách đáng lo
ngại. Pháp luật của chúng ta về vấn đề này cũng đã có điều chỉnh nhưng cũng còn
thiếu, rải rác và chưa hệ thống.
Nhiều chủ thể kinh doanh lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán đối
với các khoản nợ đến hạn, kéo theo những khiếu kiện dông dài hoặc những cách đòi
nợ theo kiểu "luật rừng", "cá lớn nuốt cá bé"… làm mất trật tự và an toàn xã hội,
gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng.
Các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt
động gia tăng đáng kể, nhất là các tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Mặt khác, tình
trạng nhiều chủ thể kinh doanh cố tình vi phạm hợp đồng, lừa đảo, chiếm dụng vốn
của các đối tác diễn ra phổ biến.
Tóm lại, nhận thức của các chủ thể có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật
về ĐKKD còn hạn chế; việc xử lý vi phạm nhiều khi còn nương nhẹ, chưa kiên
quyết; lực lượng lực kiểm tra kiểm soát còn mỏng, nhiều khi chưa đáp ứng được với
yêu cầu thực tế; sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong công tác kiểm
40
tra ĐKKD còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; trình độ cán bộ chuyên môn và năng lực
còn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đối với doanh nghiệp.
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng
2.2.1. Về hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về đăng ký kinh
doanh của chính quyền các cấp ở tỉnh Cao Bằng
Sau khi luật Doanh nghiệp được thông qua, Thủ tướng chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 07/8/2015 của Chính phủ về thi hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Ngày 28/9/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1672/QĐ-TTg thành lập Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và
Luật đầu tư do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh làm Tổ trưởng.
Nhiều giải pháp về ĐKKD được triển khai trên toàn quốc. Tổ công tác thi hành
Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư có trách nhiệm tham mưu giúp Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo thực hiện đầy đủ và nhất quán Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư, trong
đó tập trung vào các nhiệm vụ: Giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, điều phối, chỉ
đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan liên quan
trong việc phối hợp, triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư; Phối hợp
với các Bộ, cơ quan liên quan, Cơ quan ĐKKD , Cơ quan đăng ký đầu tư và các
doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư; tham
mưu giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác phối hợp giải quyết vướng mắc
trong quá trình thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư.
Các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể từ Trung ương đến
các tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường đã vào cuộc quyết liệt để triển khai có
hiệu quả các quy định của pháp luật về ĐKKD.
Trên cơ sở tham mưu của Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng các Sở: Tư pháp,
Công Thương, Tài nguyên và Môi trường; Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời ban
hành các văn bản chỉ đạo, điều hành công tác ĐKKD trên địa bàn tỉnh. Điển hình là
một số văn bản sau: ( Có Phụ lục kèm theo)
41
Các Sở, ngành và UBND cấp huyện căn cứ chức năng nhiệm vụ và văn bản
lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai của HĐND, UBND tỉnh hàng năm đã xây dựng, ban
hành các văn bản cụ thể để tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác ĐKKD
thuộc lĩnh vực, địa bàn được phân công.
Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng thực hiện vai trò là cơ quan tham mưu trực
tiếp về ĐKDN, tham mưu kịp thời cho UBND tỉnh kịp thời ban hành các văn bản
chỉ đạo, điều hành về công tác ĐKKD trên địa bàn tỉnh. Ngày 21/12/2015 được sự
đồng ý của UBND tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế Trung ương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Hội nghị triển khai Luật
doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 nhằm giới thiệu một số nội dung quan
trọng của 02 dự án Luật này cho đại diện của các Sở, Ban, Ngành; UBND huyện,
Thành phố cùng với hơn 200 doanh nghiệp đại diện cho hơn 1000 doanh nghiệp
đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Đồng thời UBND tỉnh đã chỉ đạo các các cơ quan chuyên môn, đơn vị trực
thuộc, UBND các huyện phối hợp triển khai công tác ĐKKD thuộc ngành, lĩnh vực
quản lý. Bộ TTHC thuộc lĩnh vực kế hoạch đầu tư ban hành theo Quyết định số
1566/QĐ-UBND ngày 25/9/2017, Quyết định số 1969/QĐ-UBND ngày 02/11/2017
đã kê rõ thủ tục và thành phần hồ sơ; công bố toàn bộ các TTHC tại các trung tâm
tiếp nhận và trả kết quả theo mô hình một cửa, một cửa liên thông giúp người dân
và doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại.
Có thể khẳng định, đến thời điểm hiện tại, công tác chỉ đạo, điều hành thực
thi pháp luật về ĐKKD giai đoạn 2014-2018 trên địa bàn tỉnh đã được HĐND,
UBND tỉnh Cao Bằng và các cấp chính quyền triển khai quyết liệt, trách nhiệm và
thường xuyên thông qua việc ban hành đầy đủ các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện chính sách, pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh.
2.2.2 Về phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh
Đây là nội dung quan trọng giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung và pháp luật về ĐKKD nói riêng đạt được hiệu quả. Hàng năm Sở Tư pháp
42
đều lập kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đó là cơ sở để có triển khai
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này. Các Sở, ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Cục
thuế tỉnh, Tư pháp, NNPTNT, Công thương, Công an tỉnh…. và UBND cấp
huyện, xã đã đẩy mạnh hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông phổ biến kiến
thức pháp luật về ĐKKD cho các nhóm đối tượng; hoạt động truyền thông được
tiến hành thường xuyên trên địa bàn thành phố bằng nhiều hình thức phong phú,
đa dạng. Nội dung truyền thông tập trung tuyên truyền, phổ biến Luật doanh
nghiệp, Luật Đầu tư, các Luật và văn bản quy phạm pháp luật về ĐKKD tới chính
quyền các cấp, các nhà quản lý, cán bộ làm công tác chuyên môn, người dân và
doanh nghiệp.
Công tác thông tin, truyền thông, giáo dục về ĐKKD trên địa bàn tỉnh được
quan tâm chú trọng và duy trì thường xuyên với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng; từng bước làm thay đổi nhận thức của cán bộ, công chức, người dân và doanh
nghiệp. Giai đoạn 2014-2018, công tác truyền thông, giáo dục về ĐKKD và lồng
ghép các nội dung liên quan đến tổ chức, doanh nghiệp được tăng cường và đẩy
mạnh. Toàn tỉnh đã tổ chức được 311 lớp tập huấn cho 16511 lượt cán bộ và các
nhóm đối tượng như tổ chức, doanh nghiệp, người dân; tổ chức 112 hội nghị, hội
thảo với 6184 người tham gia; phát tin bài trên hệ thống loa truyền thanh 58329
lượt; 231 chuyên mục, phóng sự, tin bài trên Truyền hình tỉnh; 160 bài trên Báo Cao
Bằng; in sao 2600 đĩa hình, đĩa tiếng tuyên truyền; cấp phát 160200 tờ gấp, tranh,
áp phích.... Hoạt động truyền thông trong thời gian qua được đẩy mạnh, đã góp
phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về ĐKKD.
Tuy nhiên, công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục về ĐKKD trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng chưa thường xuyên, chưa phù hợp dẫn đến kết quả còn hạn chế
về số lượng và chất lượng. Việc tuyên truyền về ĐKKD còn chưa sâu, chưa sát với
thực tế, cách thức tuyên truyền ở mỗi vùng địa phương, mỗi dân tộc ít người chưa
đủ để làm chuyển biến từ nhận thức sang hành vi của doanh nghiệp, người dân.
Điều đó thể hiện ở việc người dân mới chỉ quan tâm thành lập doanh nghiệp,
nhưng trong quá trình hoạt động không nắm được kiến thức, pháp luật quy định
43
của nhà nước, dẫn đến vô tình vi phạm pháp luật mà không biết. Với từng vụ việc
vi phạm, kiến thức về quy định của pháp luật về xử lý vi phạm ĐKKD chưa tốt rất
mơ hồ, dẫn đến dễ gây bức xúc. Việc nêu gương, khuyến khích các cán bộ, tổ
chức, doanh nghiệp thực hiện, triển khai, thực hiện tốt pháp luật về ĐKKD còn
hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nhân rộng điển hình để tuyên truyền rộng rãi.
Trong khi đó thông tin tiêu cực như một số doanh nghiệp chưa tuân thủ các quy
định của pháp luật và nhà nước, khi vi phạm bị xử lý vi phạm có phản ứng tiêu
cực, chống đối lại được lan truyền miệng nội dung thông tin không chính xác hoặc
chưa được kiểm chứng, thiếu căn cứ khoa học, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh
doanh và niềm tin của nhân dân đối với công tác quản lý ĐKKD và cán bộ trực
tiếp giải quyết TTHC.
Vì vậy, báo chí truyền thông bên cạnh những hoạt động tuyên truyền truyền
thống như: băng rôn, khẩu hiệu, tờ rơi, pano... cần tăng cường công tác thông tin
giáo dục truyền thông về ĐKKD; tránh đưa thông tin không chính xác, sai sự thật,
chưa được kiểm chứng; biểu dương những tấm gương các mô hình sản xuất quản lý
ĐKKD tốt, phê phán, vạch trần những cái chưa tốt, tuy nhiên phải đưa tin tích cực
và tiêu cực một cách cân bằng.
Ngoài ra, hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, số lượng ít; nội dung tuyên
truyền đa số là phụ thuộc vào tài liệu của trung ương chưa sát thực tế, nhu cầu của
từng nhóm đối tượng, điều kiện tại địa phương.
Tóm lại, như đã phân tích ở trên, đối với các hình thức hoạt động tuyên
truyền sử dụng tài liệu có sẵn của trung ương thì các địa phương sẽ triển khai đầy
đủ, tích cực hơn là đối với các hình thức như báo viết, báo điện tử, bởi như vậy các
cấp chính quyền tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD của mỗi địa phương, cũng như
các cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực ĐKKD cần phải có những kiến
thức, trình độ am hiểu pháp luật, theo dõi, đánh giá được tình hình triển khai pháp
luật ĐKKD gắn với thực tiễn của địa phương.
44
2.2.3 Về tổ chức bộ máy, nhân lực, vật lực phục vụ thực hiện pháp luật về
đăng ký kinh doanh trên địa bàn
2.2.3.1 Tổ chức bộ máy
* Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và đầu tư Cao Bằng [44]
Ngoài những nhiệm vụ chung theo quy định của Phòng ĐKKD Cấp tỉnh,
Phòng ĐKKD tỉnh Cao Bằng còn thực hiện thêm nhiệm vụ tham mưu cho Lãnh đạo
Sở về:
- Tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chương trình, kế hoạch sắp xếp, đổi
mới phát triển DNNN do địa phương quản lý; cơ chế quản lý và chính sách hỗ trợ
đối với việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước; chương trình, kế hoạch hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm và 05 năm trên địa bàn tỉnh.
- Đầu mối tổng hợp, đề xuất các mô hình và cơ chế, chính sách, kế hoạch
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế tư nhân; hướng dẫn, theo dõi, tổng
hợp và đánh giá tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính
sách phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế tư nhân và hoạt động của các
tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã và kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh; tổ chức
thực hiện việc đăng ký liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân theo thẩm
quyền; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan giải quyết các vướng mắc
về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã và kinh tế tư nhân có
tính chất liên ngành.
- Tham mưu, giúp Giám đốc Sở thực hiện các thủ tục đăng ký đầu tư, thẩm
định đầu tư các dự án đầu tư trong nước, trình cấp giấy chứng nhận đầu tư;
Hiện trạng nhân sự Bộ máy trực tiếp thực hiện ĐKDN ở cấp tỉnh là Phòng
ĐKKD- Sở Kế hoạch và Đầu tư với nhân lực là 5 người (Hình 2.1) (trong đó chỉ có
02 công chức trực tiếp làm công việc ĐKKD).
Bộ máy trực tiếp thực hiện ĐKKD ở cấp huyện là Phòng Tài chính- kế hoạch
với nhân lực là từ 2 đến 3 người.
45
Hình 2.1 Bộ máy trực tiếp thực hiện ĐKDN ở cấp tỉnh là Phòng ĐKKD-
Sở Kế hoạch và Đầu tƣ
Trưởng phòng ĐKKD
Chuyên viên Chuyên viên Chuyên viên Chuyên viên
Đăng ký đầu Kinh tế tập
tư thể, HTX
Đăng ký kinh doanh (đối với loại hình công ty CP, Cty TNHH 2 thành viên) Đăng ký kinh doanh (đối với loại hình công ty TNHH 1 thành viên,Doanh nghiệp tư nhân)
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng)
Các Sở, ngành như: Tư pháp, Y tế, Công thương, Xây dựng, Khoa học và
công nghệ, Tài nguyên và môi trường, Văn hóa thể thao và du lịch, Công an, Cục
thuế tỉnh, Cục Hải quan, Ban quản lý Khu kinh tế tỉnh…, UBND cấp huyện đều bố
trí các công chức, viên chức tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cửa và các
chuyên viên tại các phòng ban chuyên môn để giải quyết các TTHC liên quan đến
việc cấp phép cho tổ chức, doanh nghiệp, người dân.
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về ĐKKD đã chỉ đạo Các Sở ngành
chức năng, UBND cấp huyện phối hợp tốt trong thực hiện QLNN đối với doanh
nghiệp sau đăng ký thành lập theo chức năng nhiệm vụ.
2.2.3.2 Về trang thiết bị
Tại bộ phận một cửa về tiếp nhận và trả kết quả TTHC của các Sở, ngành,
UBND cấp huyện, xã đều trang bị các trang thiết bị, máy móc để phục vụ giải quyết
TTHC nói chung và TTHC liên quan đến ĐKKD.
46
2.2.3.3 Về tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về ĐKKD theo chức năng,
nhiệm vụ
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP
ngày 14/9/2015 của Chính phủ Quy định về ĐKDN, Thông tư liên tịch số
04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV ngày 28/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư-
Bộ Nội vụ Ban hành Quy chế phối hợp mẫu giữa các cơ quan chức năng trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong QLNN đối với doanh nghiệp sau
đăng ký thành lập.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối cung cấp thông tin ĐKDN trên địa bàn
tỉnh, thành phố; định kỳ đối chiếu thông tin trên Hệ thống thông tin ĐKDN quốc gia
với thông tin cơ quan thuế cung cấp về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, đối
với doanh nghiệp ngừng hoạt động quá một năm không thông báo với cơ quan thuế
hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư tiến hành thanh tra, kiểm
tra, xử phạt theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và quy định của pháp luật. Sở Kế
hoạch và Đầu tư là đầu mối công khai thông tin doanh nghiệp có hành vi vi phạm
pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư. Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế
hoạch và Đầu tư có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận ĐKDN theo quy định của
Luật Doanh nghiệp.
- Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là
Thanh tra tỉnh) là cơ quan đầu mối xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp của tỉnh, thành phố trên cơ sở tổng hợp yêu cầu về thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp của các cơ quan quy định.
- Các cơ quan chức năng có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thanh tra,
kiểm tra doanh nghiệp theo kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
- UBND cấp huyện theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đã bị Phòng ĐKKD thông báo yêu cầu tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện. Theo dõi ĐKKD và hoạt động của hơn 270 HTX và hơn
12000 hộ kinh doanh trên địa bàn. Trường hợp doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh
47
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khi không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh,
UBND cấp huyện thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
Việc quản lý ĐKKD trên địa bàn tỉnh được phân công, phân cấp rõ ràng,
không có sự chồng chéo.
2.2.3.4 Việc triển khai phối hợp liên ngành trong quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp sau đăng ký thành lập
UBND tỉnh Cao Bằng đang xây dựng quy chế phối hợp giữa các Sở ban
ngành ban hành quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về ĐKDN trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng. Trước đây Cao Bằng đang thực hiện theo Thông tư liên tịch
số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV ngày 28/5/2015.
Đây là cơ sở để các ngành, các cấp trong tỉnh phối hợp tổ chức triển khai
thực hiện công tác quản lý doanh nghiệp sau đăng ký thành lập và các hoạt động về
chuyên môn luôn có sự phối hợp và không bị chồng chéo.
Công tác phối hợp liên ngành trong thực hiện các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước về ĐKKD được tổ chức chặt chẽ và thường xuyên
giữa các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh. Để lãnh
đạo, chỉ đạo công tác phối hợp này, cấp tỉnh có Ban Chỉ đạo Định hướng Hỗ trợ
Doanh nghiệp, Hợp tác xã, Ban chỉ đạo Phát triển Kinh tế tập thể do đồng chí Phó
Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban chỉ đạo, phó Trưởng Ban Chỉ đạo thường trực
là Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư; cơ quan Thường trực là Sở Kế hoạch và
Đầu tư; các thành viên là Giám đốc các Sở, ban, ngành và Chủ tịch UBND các
quận, huyện; cấp quận, huyện và xã đều có Ban Chỉ đạo được thành lập theo chỉ
đạo của Chủ tịch UBND huyện, thành phố.
Hàng năm, Ban Chỉ đạo các cấp được củng cố, kiện toàn, ban hành quy chế
hoạt động; phân công thành viên theo dõi giám sát các hoạt động về ĐKKD, hỗ trợ
doanh nghiệp, HTX. Hoạt động của Ban Chỉ đạo đã giúp UBND các cấp chỉ đạo,
điều phối công tác quản lý Doanh nghiệp, HTX trong toàn tỉnh; các hoạt động
chuyên môn: truyền thông giáo dục, thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vấn
đề nảy sinh trong hoạt động QLNN về doanh nghiệp tại các đơn vị và địa phương.
48
Ban Chỉ đạo liên ngành các cấp, các sở, ngành được giao nhiệm vụ đã phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông, thường xuyên xây dựng các chuyên
mục, phóng sự, cập nhật đăng tải kịp thời thông tin tuyên truyền về công tác quản lý
nhà nước về doanh nghiệp; phổ biến sâu rộng kiến thức pháp luật về ĐKKD đến
từng địa phương, người dân. Phối hợp tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra liên
ngành các đợt hoặc theo chuyên đề. Các sở Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Cục thuế
tỉnh, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh, Công thương, Công an tỉnh, xây dựng ….hàng
năm phối hợp với nhau tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ, công chức, doanh
nghiệp, HTX. Sự phối hợp trong tổ chức các hoạt động của các cấp, các ngành, các
tổ chức đoàn thể đã giúp cho công tác quản lý doanh nghiệp, HTX sau đăng ký
thành lập của tỉnh ngày càng chặt chẽ và hiệu quả.
2.2.4 Thực hiện trong thực tế pháp luật về đăng ký kinh doanh tại địa bàn
tỉnh Cao Bằng
Xác định công tác tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD và quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập là nhiệm vụ quan trọng, là vấn đề ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; mục tiêu của tỉnh là nhằm
tạo chuyển biến mới về chính sách quản lý và cơ chế đối với việc thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả hoạt động về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp, hợp tác xã
(HTX) góp phần nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial
Competitiveness Index - PCI) (trong đó đặc biệt có các chỉ số chi phí gia nhập thị
trường; chỉ số dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông
tin; chỉ số chi phí không chính thức).
Nhận thức được các quan điểm cải cách ĐKDN quốc gia, dự báo được tình
hình ĐKDN của quốc gia nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng có nhiều biến động,
tỉnh Cao Bằng đã sớm quan tâm xây dựng chính sách, quy định và thực hiện các
biện pháp để chỉ đạo công tác tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD tại địa phương
trong toàn tỉnh.
Với quan điểm chỉ đạo của chính quyền các cấp tỉnh Cao Bằng: Giải phóng
quyền tự do kinh doanh; giảm tối đa chi phí gia nhập thị trường, thay đổi tư duy
49
quản lý nhà nước từ quản lý sang “phục vụ”, nhận thức, khái niệm “Chính quyền
đồng hành cùng doanh nghiệp”. UBND tỉnh Cao Bằng yêu cầu các cấp, các ngành,
UBND các, huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn bám sát các nội dung chỉ đạo của
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương chủ động tích cực xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện pháp luật ĐKKD trên địa bàn. Tăng cường công tác tuyên truyền,
vận động, giám sát, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo đảm thực hiện hiệu quả
Luật doanh nghiệp và các văn bản liên quan; kiểm tra trách nhiệm của người đứng
đầu các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện; kịp
thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2015 đã
tạo dựng một khung khổ pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế ra đời và hoạt động. Với những nỗ lực trong cải cách ĐKKD theo Luật
doanh nghiệp 2014, thực hiện Nghị Quyết số 35/NQ-CP và Nghị Quyết số 19-
2017/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh, tỉnh Cao Bằng đã triển khai mạnh mẽ các biện pháp để tiếp
tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng minh bạch, thông
thoáng, hiện đại, chuyên nghiệp và thân thiện, đã đạt được những kết quả nhất định:
Trong những năm gần đây, mặc dù phải chịu nhiều tác động của suy thoái
kinh tế toàn cầu, song nhờ có sự nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh của tỉnh
Cao Bằng như: triển khai áp dụng việc thực hiện cơ chế một cửa liên thông đối với
các TTHC về ĐKDN giữa cơ quan ĐKKD và cơ quan thuế nhằm đơn giản hóa và
rút ngắn thời gian thực hiện TTHC, cắt giảm 10 đến 30% thời gian giải quyết
TTHC; giảm tối đa thời gian xử lý hồ sơ, giảm thời gian đăng ký thành lập doanh
nghiệp xuống dưới 2 ngày làm việc, đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ, dữ liệu
được tích hợp và số hóa, cập nhật đầy đủ trên Hệ thống thông tin Quốc gia về Đăng
ký doanh nghiệp; Phối hợp hiệu quả trong công tác thanh, kiểm tra, tránh trùng lắp,
gây phiền hà cho doanh nghiệp….đã tác động tích cực đến niềm tin của các nhà đầu
tư, từ đó số doanh nghiệp thành lập mới vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm sau cao hơn
năm trước. (Bảng 2.1)
50
Bảng 2.1. Số lƣợng doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2015 - Tháng
6 năm 2018 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Đơn vị: Doanh nghiệp
DN tƣ nhân
Công ty TNHH
Công ty Cổ phần
Tổng số
Năm
Số
Số vốn (tỷ
Số
Số vốn
Số
Số vốn
Số
Số vốn (tỷ
lƣợng
đồng)
lƣợng
(tỷ đồng)
lƣợng
(tỷ đồng)
lƣợng
đồng)
10=2+
1
2
3
4
5
6
7
11=3+5+7
4+6
11,9
67
166,18
271,010
100
460,99
15
2015
18
58,1
84
2.548,2
307,1
116
2.913,4
10
2016
22
20,9
114
791,436
929,900
144
1.742,236
17
2017
13
6 tháng
1,8
61
374,867
6
109,300
70
485,967
2
2018
Tổng
55
92,7
336 3.880,683
48
1.617,31
430
6.088,560
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2015- 2018)
Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh chia theo loại hình doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới hàng năm tăng không đáng kể (Biểu đồ 2.1). Trong số doanh
nghiệp ngoài nhà nước thì loại hình công ty TNHH chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp đó
là doanh nghiệp tư nhân, cuối cùng là công ty cổ phần.
Bảng 2.2. Số lƣợng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng từ 2015 - tháng 6/2018 theo loại hình doanh nghiệp
STT Loại hình Số lƣợng Tỷ lệ (%)
1 Chi nhánh 250 14,98
2 VPĐD 30 1,79
3 DN tư nhân 295 17,67
4 Công ty TNHH 905 54,23
11,33 5 Công ty CP 189
100% Tổng cộng 1.669
(Nguồn: Phòng ĐKKD, Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Cao Bằng từ 2014-2018)
51
Biểu đồ 2.1. Thống kê tỷ lệ doanh nghiệp ĐKDN trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ
2015 - Tháng 6/2018 theo loại hình doanh nghiệp
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng)
Kết quả giải quyết đăng ký doanh nghiệp tại cấp tỉnh
Trong năm 2016 đã tiếp nhận và giải quyết 974 hồ sơ, trong đó giải quyết
về ĐKDN là 116 doanh nghiệp với thời gian trung bình xử lý hồ sơ thành lập mới
là 1,81 ngày (Trung bình của Toàn quốc là 2,9 ngày); Hồ sơ thay đổi là 858 với
thời gian trung bình xử lý hồ sơ thay đổi là 1,07 ngày. (Trung bình của Toàn quốc
là 2,9 ngày). Năm 2017 tiếp nhận và giải quyết 807 hồ sơ, trong đó giải quyết về
ĐKDN là 144 doanh nghiệp với thời gian trung bình xử lý hồ sơ thành lập mới là
1,4 ngày (Trung bình của Toàn quốc là 1,91 ngày; hồ sơ thay đổi là 653 với thời
gian trung bình xử lý hồ sơ thay đổi là 0,77 ngày.( Trung bình của Toàn quốc là
1,89 ngày)
52
Biểu đồ 2.2. Số ngày giải quyết trung bình thủ tục thành lập mới DN và số
ngày giải quyết thay đổi của Cao Bằng so với toàn quốc
(Nguồn: Cục Đăng ký kinh doanh- Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Nhằm hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao
Bằng đã thường xuyên rà soát các TTHC trong lĩnh vực ĐKKD để tham mưu sửa
đổi, bổ sung; trình UBND tỉnh công bố bộ thủ tục hành chính mới trong lĩnh vực Kế
hoạch và Đầu tư thuộc thẩm quyền giải quyết của sở, UBND cấp huyện và xã trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng); các TTHC được công khai tại bộ phận một cửa và trên
trang thông tin điện tử của Sở...tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.
Việc giải quyết ĐKKD đối với các hộ gia đình tại cấp huyện (Bảng 2.3) cũng
được Phòng Tài chính- kế hoạch quan tâm giải quyết nhanh chóng, thuận lợi đảm
bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên việc giải quyết đăng ký hộ kinh doanh
vẫn giải quyết thủ công, chưa giải quyết liên thông trên phần mềm đăng ký quốc gia
liên thông giữa Phòng Tài chính- kế hoạch với cơ quan Thuế cấp Huyện, do vậy
phần nào hạn chế trong giải quyết TTHC, dẫn đến hạn chế việc tổng hợp số hộ kinh
doanh trên địa bàn huyện, tỉnh và toàn quốc rất khó khăn, không đáp ứng được nhu
cầu công tác quản lý.
Năm 2018, tỉnh xác định tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quyết liệt hơn nữa để
hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra, trong đó tiếp tục quan tâm
triển khai thực hiện cải cách TTHC trong ĐKDN và xác định tạo môi trường thuận
lợi cho tổ chức, công dân khởi nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
53
chỉ đạo điều hành. Môi trường gia nhập thị trường thông thoáng, thu hút đầu tư để
tạo điều kiện cho số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ngày một tăng.
Công tác ĐKDN tại cấp tỉnh, ĐKKD hộ gia đình tại cấp huyện được cộng
đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều cải thiện đáng kể và đạt được những kết quả
tích cực so với trước đây. Sự khởi sắc này là một trong những dẫn chứng thực tế
nhất cho thấy hiệu quả và tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời và
kết quả của công cuộc cải cách môi trường kinh doanh, cải cách ĐKKD tại tỉnh Cao
Bằng nói riêng đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.
Việc thu hồi hoặc giải thể doanh nghiệp, hộ kinh doanh
Cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện cũng chưa xử lý trường hợp nào về
thu hồi Giấy chứng nhận Doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Hộ
kinh doanh cá thể. Qua thực tế biểu số liệu Giải thể doanh nghiệp tại cấp tỉnh (Bảng
2.4 ) và giải thể hộ kinh doanh tại cấp huyện (Bảng 2.5) chứng tỏ rằng tại cấp huyện
đều thể hiện số doanh nghiệp, hộ gia đình đều là trường hợp giải thể tự nguyện,
không có trường hợp nào là thu hồi bắt buộc. Điều đó càng khẳng định rằng các cơ
quan ĐKKD cấp tỉnh và huyện không xử lý bất cứ trường hợp nào không ở nơi
ĐKKD, không xử lý vi phạm khi không nộp báo cáo đầy đủ…
54
Bảng 2.3. SỐ LIỆU ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH TỪ NĂM 2015 - ĐẾN THÁNG 6. 2018
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Huyện, Thành phố ST T Số lƣợng Số lƣợng Số lƣợng Số lƣợng Đến tháng 6.2018 Số vốn (triệu đồng)
1 TP Cao Bằng 610 Số vốn (triệu đồng) 219.711 409 Số vốn (triệu đồng) 133.448 501 Số vốn (triệu đồng) 141.931 259 77.676
2 Huyện Hòa An 122 154 142 35.388 25.649 25.290 128 23.038
3 Huyện Thông Nông 4.480 33 8.810 30 4.650 25 15 3.450
4 Huyện Hà Quảng 29.300 73 41.155 86 27.395 78 56 18.911
5 Huyện Thạch An 8.580 41 4.496 84 3.850 35 10 3.500
6 Huyện Nguyên Bình 4.835 50 5.535 49 4.832 25 15 4.230
7 9.552 66 5.600 33 17 5.470 Huyện Bảo Lạc 128 17.150
8 Huyện Bảo Lâm 3.990 25 5.139 44 4.150 34 16 3.450
9 Huyện Phục Hòa 9.745 57 2.000 58 3.500 70 54 2.800
10 Huyện Trà Lĩnh 59.149 81 41.050 65 14.420 27 45 9.500
11 Huyện Hạ Lang 7.310 30 10.000 46 8.000 19 11 3.450
12 Huyện Quảng Uyên 2.360 80 13.690 71 9.842 33 25 7.500
13 Huyện Trùng Khánh 11.844 76 21.500 80 18.530 45 27 11.230
Tổng cộng 1.406 413.842 1.242 322.024 1.067 271.990 678 174.205
(Nguồn số liệu: Phòng Tài chính-Kế hoạch huyện, thành phố các năm 2014-2018)
55
Biểu 2.4. Thống kê số liệu giải thể doanh nghiệp, văn phòng đại diện từ năm 2014 đến tháng 6.2018
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Chi
Chi
Chi
Chi
Chi
STT
Nội dung
Doanh
Doanh
Doanh
Doanh
Doanh
nhánh,
nhánh,
nhánh,
nhánh,
nhánh,
nghiệp
nghiệp
nghiệp
nghiệp
nghiệp
VPĐD
VPĐD
VPĐD
VPĐD
VPĐD
1
Tỉnh Cao Bằng
18
12
20
5
29
10
15
10
20
15
Tổng cộng
18
12
20
5
29
10
15
10
20
15
(Nguồn số liệu: Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng năm 2014 -2018)
Biểu 2.5. Thống kê số liệu giải thể hộ kinh doanh từ năm 2014 đến tháng 6.2018
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Huyện, thành
Số vốn
Số vốn
Số vốn
Số vốn
Số vốn
Số
STT
phố
Số lượng
(triệu
Số lượng
(triệu
Số lượng
(triệu
Số lượng
(triệu
(triệu
lượng
đồng)
đồng)
đồng)
đồng)
đồng)
TP Cao Bằng
0
0
101
13.620
17
17.988
14.280
34
26
7.785
1
Huyện Hòa An
0
0
0
0
5
2.510
840
7
4
141
2
Tổng Cộng
0
0
101
13.620
22
20.498
15.120
41
30
7.926
(Nguồn số liệu: Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, thành phố năm 2014-2018)
56
Trong những năm qua, quy trình, thủ tục cấp Giấy chứng nhận ĐKDN được
các cơ quan chức năng thực hiện theo đúng quy định hiện hành; danh mục các
TTHC cấp tỉnh, huyện, xã đối với từng loại hồ sơ được UBND tỉnh công bố và
niêm yết công khai tại các Sở, ngành, UBND cấp huyện. Việc áp dụng cơ chế một
cửa liên thông trong ĐKKD để khai sinh cho doanh nghiệp đem lại hiệu quả thiết
thực giúp cho việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ, cấp mới Giấy chứng nhận ĐKDN, cấp
thay đổi nội dung ĐKDN, giải quyết đăng ký giải thể doanh nghiệp được triển khai
thực hiện qua mạng hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia đảm bảo
công khai, minh bạch, nhanh chóng, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Kết quả Phiếu Khảo sát Ý kiến Doanh nghiệp của 200 doanh nghiệp thì có
65 doanh nghiệp tham gia ý kiến tại Buổi tọa đàm “Cải thiện Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI) tỉnh Cao Bằng - thực trạng và giải pháp” diễn ra vào Tháng
4/2017 do Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng tổ chức cho thấy Kết quả các chỉ số đánh
giá như sau:
Một số chỉ số được đánh giá ở mức trên trung bình như: Mời tham gia các
buổi đối thoại - được doanh nghiệp đánh giá cao 42/65 ý kiến (chiếm 64,6%); Mời
tập huấn, phổ biến chính sách, quy định pháp luật là 34/65 ý kiến (chiếm 52,3%).
Bên cạnh đó, một số chỉ số đánh giá không cao như: chất lượng thông tin
trên cổng thông tin điện tử mất nhiều thời gian để tìm, thông tin không phong phú,
chậm (chiếm 47%); Chất lượng dịch vụ một cửa của Sở, Ban, ngành trong tiếp nhận
và giải quyết TTTHC được đánh giá chưa tốt như có hiện tượng cán bộ gây khó
khăn/trì hoãn thủ tục để trục lợi (chiếm 56,9%); Cán bộ ứng xử chuyên nghiệp,
đúng mực, hỗ trợ doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thành các thủ tục, vướng mắc
theo quy định của pháp luật chỉ có 5/65 ý kiến (chiếm tỉ lệ là 7,6%); Câu hỏi Doanh
nghiệp đã nhận được hỗ trợ gì do các Sở, Ban, ngành cung cấp? Trả lời: Hỗ trợ
doanh nghiệp tham gia các Hội chợ thương mại 11/65 ý kiến (chiếm 16,9%); Tư
vấn tiếp cận thông tin thị trường 8/65 ý kiến (chiếm 12,3%); Hỗ trợ về mặt pháp lý
6/65 ý kiến (chiếm 9,2%); Doanh nghiệp đánh giá ít tổ chức các buổi tập huấn, phổ
biến chính sách cho doanh nghiệp (chủ yếu thực hiện ở ngành Thuế), nội dung tập
57
huấn chưa phong phú, chưa phù hợp với các loại hình doanh nghiệp; Thủ tục hành
chính còn nhiều khâu, nhiều bước, rườm rà, khó thực hiện 50/65 ý kiến (chiếm
76,92%); Chính quyền chưa năng động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề cho
doanh nghiệp 41/65 ý kiến (chiếm 63,07%); Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chưa đáp
ứng được nhu cầu: 29/65 ý kiến (chiếm 44,62%) [Nguồn: Báo cáo kết quả tổng hợp
Phiếu khảo sát ý kiến Doanh nghiệp của UBND tỉnh Cao Bằng].
Qua kết quả nêu trên thấy rằng, các cấp Chính quyền cần phải thay đổi tư
duy, cách nghĩ, cách làm không chỉ thực hiện ĐKKD đúng luật mà Doanh nghiệp
còn kỳ vọng vào các cấp Chính quyền địa phương ở chỗ cần tư vấn, hỗ trợ Doanh
nghiệp nhiều hơn nữa để phục vụ tốt nhất đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Vì vậy, cần cập nhật thường xuyên các thông tin, các biểu mẫu, các chính
sách ưu đãi, trình tự thành lập doanh nghiệp, các dự án đầu tư... trên trang web hiệp
hội doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên ngành để thuận
tiện cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh có điều kiện tiếp cận thông tin nhanh nhất
và thuận tiện nhất.
2.2.5 Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh
trên địa bàn
Công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn được thực hiện theo Luật thanh tra
và các văn bản quy định hiện hành. Hàng năm các sở, ngành gửi kế hoạch thanh tra,
kiểm tra về Thanh tra tỉnh để tổng hợp, đối chiếu, tránh thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp không quá một lần/năm theo đúng chỉ đạo của Chính phủ [50] [51].
Hàng năm các sở, ngành thường thành lập đoàn thanh tra liên ngành hoặc lập
các đoàn thanh, kiểm tra chuyên ngành; tổ chức thanh, kiểm tra thường xuyên theo
lĩnh vực được phân công 12/12 tháng trong năm. Giai đoạn 2014-2018, cấp tỉnh,
huyện đã thành lập được 865 lượt đoàn thanh tra liên ngành, 510 lượt đoàn kiểm tra
chuyên ngành. Việc xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo Quy chế phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện QLNN về xử lý vi phạm hành chính trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng.
58
* Cơ quan ĐKKD thanh tra, kiểm tra đối với Doanh nghiệp, hộ gia đình
- Cơ quan ĐKKD cấp tỉnh không lập kế hoạch đi kiểm tra doanh nghiệp
(Năm 2014 đến năm 2017), chỉ phối hợp với các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành
của tỉnh để kiểm tra doanh nghiệp theo chuyên đề. Năm 2018, cơ quan ĐKKD cấp
tỉnh phối hợp với Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư lập kế hoạch và kiểm tra đối với
13 doanh nghiệp theo kế hoạch, kiểm tra và thanh tra đối với 01 doanh nghiệp theo
đề nghị của doanh nghiệp do tranh chấp nội bộ. Kết quả kiểm tra: Chỉ có 11/13
doanh nghiệp tiến hành kiểm tra được, có 02 doanh nghiệp đến địa chỉ ĐKKD
nhưng không tìm thấy doanh nghiệp. Có 05 doanh nghiệp không thông báo tiến độ
góp vốn đến cơ quan ĐKKD; có 03 doanh nghiệp không cấp giấy chứng nhận góp
vốn cho các thành viên; có 04 doanh nghiệp không lập sổ đăng ký thành viên; Các
Doanh nghiệp đều không gửi báo cáo tài chính hàng năm đến cơ quan ĐKKD. Toàn
bộ các lỗi của doanh nghiệp không bị xử phạt theo Nghị định số 50/2016/NĐ-CP
ngày 01/6/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư. Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư có kết luận nhắc nhở để
các doanh nghiệp sớm khắc phục.
Trong năm 2018, cơ quan ĐKKD cấp tỉnh đã đề nghị Thanh tra sở Kế hoạch
và Đầu tư xử lý vi phạm hành chính đối với 02 doanh nghiệp do vi phạm về không
đóng đủ vốn điều lệ, không điều chỉnh với cơ quan ĐKKD khi không đóng đủ vốn
điều lệ, không đăng ký tạm ngừng kinh doanh với số tiền thu xử phạt vi phạm là 30
triệu đồng.
- Cơ quan ĐKKD cấp huyện: Theo Báo cáo của 02 huyện Huyện Hòa An và
Thành phố- nơi có số hộ kinh doanh chiếm 1/2 tổng số hộ kinh doanh trên địa bàn
tỉnh thì từ năm 2014-2018 cơ quan ĐKKD cấp huyện cũng không lập kế hoạch và
tiến hành kiểm tra đối với hộ kinh doanh trên địa bàn huyện, mà chỉ phối hợp với
các đoàn kiểm liên ngành của huyện để kiểm tra hộ kinh doanh theo chuyên đề.
- Qua khảo sát hàng ngày đối với các doanh nghiệp lên đăng ký mới và đăng
ký thay đổi tại cơ quan ĐKKD thì trên 90 % doanh nghiệp không hiểu luật doanh
nghiệp và luật chuyên ngành, Doanh nghiệp có vi phạm các quy định pháp luật và
59
mức độ vi phạm bình quân từ 1 đến 4 hành vi, chủ yếu như: Chưa thực hiện đúng
các quy định về việc góp vốn cụ thể: Góp vốn chưa đầy đủ, chưa lập sổ đăng ký
thành viên, sổ đăng ký cổ đông và chưa cấp giấy chứng nhận góp vốn/cổ phần cho
thành viên/cổ đông góp vốn..; chứng chỉ hành nghề (chưa có hoặc đã hết hạn); tự
chuyển địa điểm kinh doanh mà không đăng ký với cơ quan ĐKKD, cơ quan thuế
(Bảng 2.6), chuyển nhượng vốn, Thông báo gửi tới cơ quan ĐKKD về chào bán cổ
phần riêng lẻ của Công ty cổ phần, vấn đề ủy quyền của Người đại diện pháp luật
giải quyết thủ tục tại cơ quan ĐKKD, tuân thủ chế độ báo cáo hàng năm đến cơ
quan ĐKKD. …nhưng không bị xử lý vi phạm hoặc chưa bị xử lý vi phạm. Một số
doanh nghiệp đã ngừng hoạt động do gặp khó khăn trong kinh doanh, nhưng không
tiến hành các thủ tục tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể, phá sản doanh nghiệp theo
đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, trong số 1.389 doanh nghiệp tại Cao Bằng,
có khoảng 1.000 DN đang hoạt động bình thường, trên 400 DN ngưng hoạt động
(tạm ngừng, không phát sinh doanh thu, bỏ trốn hoặc đang đăng ký thủ tục giải thể).
Hộ kinh doanh cá thể tại các huyện thực tế hoạt động cũng chỉ chiếm 2/3 số liệu
hiện đang quản lý, đó là thực trạng để các cơ quan quản lý đáng quan tâm.
Bảng 2.6. Số liệu doanh nghiệp bỏ trốn khỏi nơi ĐKKD không thông báo với
cơ quan ĐKKD và cơ quan Thuế
Đơn vị: Doanh nghiệp
STT Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 6 tháng 2018
1 48 52 69 99 45
(Nguồn: Số liệu Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng, Cục thuế tỉnh Cao Bằng)
* Thanh tra, kiểm tra của các Các Sở, chuyên, ngành hoặc đoàn thanh
tra liên ngành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp
- Thanh tra, kiểm tra của các Các Sở, chuyên, ngành : Theo báo cáo của các Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở xây dựng và Sở Công thương (Bảng 2.7) số
lượng thanh tra, kiểm tra của các Sở chuyên ngành không nhiều, vi phạm cũng có xảy
ra, nhưng các đoàn chủ yếu là nhắc nhở đơn vị, có xử phạt vi phạm hành chính, nhưng
60
không đáng kể, vì để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, phần đa doanh nghiệp không
hiểu pháp luật, hơn nữa bản thân doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn.
- Thanh tra, kiểm tra của các cơ quan liên ngành cấp huyện:
Theo báo cáo của các Huyện, các đoàn kiểm tra thanh tra liên ngành thanh
kiểm tra đối với Hộ gia đình cấp huyện cũng chủ yếu là nhắc nhở, hộ gia đình khắc
phục, không xử lý vi phạm hành chính với lý do Hộ gia đình ĐKKD với số vốn
nhỏ, kinh doanh cũng gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên đối với Thành phố Cao Bằng, là nơi tập trung đông dân cư, tình
hình có phức tạp hơn, UBND Thành phố chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng
cường thanh kiểm tra toàn bộ các lĩnh vực. Công tác kiểm tra, kiểm soát, phát
hiện, bắt giữ, xử lý của các lực lượng chức năng tại địa bàn thành phố Cao Bằng.
Trong năm 2017 các ngành thành viên Ban chỉ đạo 389/ĐP thành phố Cao Bằng
đã kiểm tra 1411 lượt, xử lý 198 vụ vi phạm hành chính. Tổng số tiền thu nộp
ngân sách là: 2.198 triệu đồng, trị giá hàng tiêu hủy là 176,1 triệu đồng.
Việc kiểm tra doanh nghiệp còn gặp khá nhiều trở ngại như: Doanh nghiệp
không hợp tác với đoàn kiểm tra; Doanh nghiệp không có tại địa điểm kiểm tra, cố
tình không gặp hoặc cho nhân viên tiếp đoàn; địa phương không có đủ thông tin về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp như: ngừng hoạt động kinh doanh, thay đổi
địa chỉ trụ sở, không hoạt động tại trụ sở chính.
- Công tác thông tin tổng hợp kết quả thanh tra, kiểm tra hàng năm rất khó khăn:
Qua nghiên cứu, tác giả khó có thể tổng hợp kết quả kiểm tra, thanh tra cả giai đoạn
nghiên cứu do hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động đa ngành, đa nghề nên công tác
hậu kiểm, kiểm tra được triển khai trên nhiều lĩnh vực, do nhiều sở, ngành chủ trì. Kết
quả kiểm tra hàng năm đối với doanh nghiệp do các đoàn kiểm tra của các ngành kết
luận không gửi cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện, do vậy cơ quan ĐKKD không
có số liệu tổng hợp đầy đủ về quản lý doanh nghiệp để cập nhật thông tin doanh nghiệp
vào hệ thống ĐKKD Quốc gia: ví dụ doanh nghiệp vi phạm lỗi gì? Mức vi phạm ra
sao? Phải cảnh báo thế nào? Có vi phạm ngành nghề kinh doanh có điều kiện với cơ
quan ĐKKD không? Do vậy không có cơ sở để đánh giá vi phạm về điều kiện ĐKKD.
61
Bảng 2.7. TỔNG HỢP CÁC CUỘC THANH TRA, KIỂM TRA MỘT SỐ SỞ CHUYÊN NGÀNH TỪ 2014-2018
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Xử lý vi
Xử lý vi
Xử lý vi phạm
Xử lý vi phạm
Xử lý vi phạm
phạm
phạm
Số
Số cuộc
Số cuộc
Số cuộc
Số cuộc
cuộc
Số
STT
Tên sở , ngành
TTra/đơn
TTra/đơn
TTra/đơn
TTra/đơn
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
T.tra/
Số
Số
Số
Số
Số
tiền
vị
vị
vị
vị
(Triệu
(Triệu
(Triệu
(Triệu
đơn vị
vụ
vụ
vụ
vụ
vụ
(Triệu
đồng)
đồng)
đồng)
đồng)
đồng)
01 Sở Công thương 05/12
01
13,017
08/15
0
0
05/06
01
10
06/10
02
37,55
05/09
0
0
02
Sở Xây dựng
05/16
04
115
03/9
02
25
13/18
237,399 24/42
10
809,9
04/15
04
115
8
03 Sở Nông nghiệp
243
8
0
01/15
01
0,750
0
0
0
0
43/67
4
0,7
0
(Nguồn số liệu: Sở, ngành từ 2014-2018)
62
2.2.6 Về công tác tổng kết, đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về đăng
ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh
Thực hiện chương trình công tác hàng năm của tỉnh, trong đó có việc triển
khai “Thực hiện chính sách, pháp luật về ĐKKD” và triển khai kế hoạch kiểm tra,
giám sát, UBND tỉnh Cao Bằng đã hoàn thành công tác tổng kết, đánh giá việc tổ
chức thực hiện pháp luật ĐKKD hàng năm thông qua hội nghị tổng kết hàng năm và
đề ra phương hướng triển khai nhiệm vụ của năm tiếp theo. Bên cạnh đó, tỉnh cũng
thường xuyên tổ chức các Hội nghị gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp để tháo gỡ
khó khăn kịp thời cho doanh nghiệp.
Các báo cáo tổng kết tập trung vào các nội dung chính như sau: việc ban
hành văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật về ĐKKD; công tác chỉ đạo, điều
hành, tổ chức thực hiện của UBND các cấp trên địa bàn thành phố; việc thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại và xử lý vi phạm pháp luật về ĐKKD; đánh giá việc
thực hiện chính sách, quy định của pháp luật về ĐKKD; xem xét, đánh giá các nhân
tố liên quan ảnh hưởng đến ĐKKD (như việc triển khai tuyên truyền pháp luật và
những quy định mới có kịp thời không? Việc công bố công khai, niêm yết TTHC đã
kịp thời chưa? Cán bộ, công chức có tuân thủ kỷ luật kỷ cương trong phục vụ người
dân và doanh nghiệp chưa, có nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh
nghiệp...); làm rõ nguyên nhân của kết quả đạt được, hạn chế, bất cập; đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về ĐKKD.
Nội dung của các báo cáo tổng kết, đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật
ĐKKD, Báo cáo việc Phối hợp giữa các cơ quan QLNN đối với doanh nghiệp sau
đăng ký thành lập của tỉnh Cao Bằng phản ánh tương đối đầy đủ tình hình chỉ đạo,
ban hành các văn bản QPPL; công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; các
hoạt động của các cơ sở ban ngành phối hợp tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD; có
sự phân tích, đánh giá, có số liệu chứng minh, nêu được mặt làm tốt, chỉ ra được
những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Qua
những thông tin, báo cáo giúp UBND tỉnh và Ban chỉ đạo về Hỗ trợ doanh nghiệp,
63
HTX nắm được kết quả tố chức thực hiện pháp luật về ĐKKD cũng như việc chấp
hành và thực hiện pháp luật của người dân, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương chưa chú trọng đến công
tác thông tin báo cáo, đánh giá, tổng kết nên chất lượng báo cáo chưa đảm bảo về
thể thức và nội dung, UBND tỉnh đã phê bình, nhắc nhở. Còn một số huyện, một số
sở ngành gửi chậm hoặc không gửi báo cáo hay có gửi nhưng báo cáo sơ sài chỉ
điểm lại đầu công việc, chưa phản ánh đầy đủ, thực chất tình hình tổ chức thực hiện
pháp luật ĐKKD báo cáo dàn trải, thiếu số liệu cụ thể. Biểu thống kê số liệu nhiều
đơn vị điền số liệu chưa chính xác, còn bỏ trống. Do đó rất khó khăn cho công tác
tổng hợp và không đánh giá đầy đủ được tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
2.3 Nhận xét về tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng
2.3.1 Kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1 Những kết quả đạt được
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh
Cao Bằng, sự phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội và cấp uỷ, chính quyền địa phương, giai đoạn 2014-2018, tỉnh
Cao Bằng đã hoàn thành tốt việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về
ĐKKD trên địa bàn tỉnh.
Một là, công tác chỉ đạo điều hành
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Cao Bằng đã chủ động, kịp thời ban hành các
văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai pháp luật về ĐKKD trên địa bàn. Đặc biệt đã
ban hành nhiều văn bản triển khai việc tạo điều kiện thuận lợi, môi trường ĐKKD
lành mạnh, thông thoáng cho doanh nghiệp. Giai đoạn 2014-2018 đã ban hành 135
văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo công tác ĐKKD; trong đó có 10 Nghị quyết của
HĐND tỉnh; 28 văn bản quy phạm pháp luật; 45 quyết định, 22 đề án, và kế hoạch -
văn bản khác để chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức, triển khai thực hiện. Công tác
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập trên địa bàn tỉnh trong
64
thời gian qua đã được UBND tỉnh và các ngành chức năng, UBND các huyện,
thành phố triển khai thực hiện.
Các ngành, các cấp được giao nhiệm vụ đã bám sát các văn bản của cấp trên
để phối hợp xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch tổ chức, triển khai thực hiện
nhiệm vụ được giao đạt hiệu quả.
Hai là, công tác truyền thông, giáo dục về pháp luật ĐKKD được chú trọng
và triển khai hiệu quả
Công tác truyền thông, giáo dục về pháp luật ĐKKD được triển khai đồng bộ
trên các kênh truyền thông và các trang tin điện tử của các cơ quan; các cơ quan
truyền thông và các đơn vị được giao nhiệm vụ đã tích cực vào cuộc. Nhận thức của
người lãnh đạo quản lý và cán bộ công chức, viên chức được nâng cao; nhận thức
của người sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực.
Ba là, công tác xây dựng cơ chế chính sách được quan tâm thực hiện
Ban hành các văn bản, cơ chế chính sách để tổ chức triển khai thực hiện kịp
thời, đặc biệt là cơ chế ưu đãi đầu tư để thu hút đầu tư vào địa bàn khó khăn như
Cao Bằng.
Bốn là, Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng
cao năng lực quản lý, phục vụ công dân và doanh nghiệp
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh cải cách
hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện TTHC, giảm chi phí, bảo đảm công khai
minh bạch và nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức Nhà nước. Rút ngắn từ
10-30% thời gian giải quyết các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về
đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh... tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp,
giảm chi phí của công dân và tổ chức. Đã ban hành quyết định công bố TTHC trong
các lĩnh vực quản lý nhà nước đạt 100% kế hoạch đề ra; niêm yết công khai đầy đủ,
đúng quy định trên Cổng thông tin điện tử tỉnh đạt 100%.Xây dựng Kế hoạch và tổ
chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP, Nghị quyết 35/NQ-CP
của Chính phủ, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của tỉnh Cao Bằng; triển khai quyết
liệt việc thực hiện Đề án nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) tỉnh Cao Bằng
65
giai đoạn 2017-2020. Tập trung đưa ra các giải pháp cụ thể, thiết thực để cải thiện
các chỉ số thành phần điểm số thuộc chức năng nhiệm vụ của ngành. Thực hiện hiệu
quả Quy chế thực hiện cơ chế một cửa liên thông, triển khai phần mềm Hệ thống
một cửa điện tử liên thông hiện đại (VNPT-iGate) tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả và thực hiện giải quyết TTHC trên Hệ thống phần mềm từ năm 2017. Tích cực
hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn miễn phí hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp; thực hiện
miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp lần đầu cho các hộ kinh doanh chuyển đổi thành
lập doanh nghiệp, giới thiệu các cơ chế chính sách pháp luật của Nhà nước và của
Tỉnh về đầu tư, ưu đãi đầu tư, hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ các dự án đầu tư và dự
án hưởng hỗ trợ đầu tư theo Luật đầu tư và các chính sách hiện hành.
Năm là, triển khai đồng bộ, có hiệu quả công tác ĐKDN.
Công tác xử lý hồ sơ ĐKKD triển khai có hiệu quả đảm bảo về quy trình và
thời gian xử lý hồ sơ. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng là đầu mối cung cấp, công
khai thông tin ĐKDN, tình trạng hoạt động của doanh nghiệp; Phòng Kế hoạch và
Tài chính huyện là đầu mối cung cấp thông tin hộ gia đình thông tin về tình trạng
hoạt động của hộ gia đình trên địa bàn cho các cơ quan. Áp dụng hệ thống “một
cửa liên thông” trong việc tiếp nhận và trả kết quả các thủ tục ĐKKD, giảm thời
gian ĐKDN từ 3 ngày xuống còn dưới 2 ngày. Mô hình “một cửa liên thông” đã tác
động tăng số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng ký so với những năm trước. Trên
thực tế, mô hình này khi thực hiện đầy đủ tạo ra tác động kép đến 3 chỉ số thành
phần PCI: chi phí thời gian, chi phí không chính thức, nâng cao tính minh bạch.
Sáu là, công tác thanh tra kiểm tra được đảm bảo
Công tác thanh tra, kiểm tra thời gian qua bước đầu được tăng cường và đẩy
mạnh, có sự tham gia của các ngành, các cấp. Hoạt động Thanh tra, kiểm tra được
chỉ đạo triển khai theo đúng quy định của pháp luật. Đã phát hiện, xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm; và nhắc nhở doanh nghiệp, hộ kinh doanh bước đầu đã
ngăn chặn được những vi phạm có thể xảy ra trong ĐKKD, ý thức trách nhiệm của
chủ doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong thực hiện kinh doanh từng bước được
thay đổi; tình hình ĐKKD trên địa bàn tỉnh đang có những chuyển biến tích cực.
66
Bảy là, nguồn nhân lực. Cân đối bố trí kinh phí tương đối đảm bảo cho công
tác ĐKDN, đăng ký hộ kinh doanh được thực hiện. Quan tâm đào tạo nguồn nhân
lực làm công tác ĐKKD.
Tám là, công tác phối kết hợp giữa các ngành trong công tác QLNN đối với
doanh nghiệp, hộ kinh doanh sau đăng ký thành lập cũng được quan tâm triển khai
thực hiện.
Những kết quả kể trên đã góp phần vào nâng cao chỉ số PCI của tỉnh Cao
Bằng trong năm 2017.
Trong nhiều năm trở lại đây, xếp hạng (PCI) của Cao Bằng đều ở nhóm cuối.
Có 3 chỉ số thành phần luôn bị đánh giá thấp điểm, đó là tính năng động, chi phí
không chính thức và cạnh tranh bình đẳng. Tính tổng điểm năm 2016, tỉnh Cao
Bằng được đánh giá đạt 52,99 điểm, thấp hơn so với năm 2015 là 1,45 điểm, tụt
xuống cuối bảng xếp hạng 63 tỉnh, thành phố. Bước sang năm 2017, các cấp chính
quyền từ tỉnh đến cơ sở đã thẳng thắn nhìn nhận lại những hạn chế, yếu kém, đồng
thời nêu cao quyết tâm chính trị, tập trung nâng cao hiệu quả công tác CCHC nhằm
cải thiện. Kết quả PCI tỉnh Cao Bằng 2017 tăng 05 bậc so với năm 2016, xếp thứ
hạng 58/63, chuyển vị trí xếp hạng từ nhóm thấp lên nhóm tương đối thấp. Cao
Bằng có 06 chỉ số thành phần tăng điểm, 03 chỉ số thành phần giảm điểm và 01 chỉ
số thành phần giữ điểm bằng năm 2016, trong đó chỉ số tăng điểm, tăng vị trí cao
nhất là dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng và đào tạo lao động. Tuy
nhiên mặc dù PCI Cao Bằng có gia tăng về thứ hạng nhưng thực sự chưa bền vững
bởi còn nhiều chỉ số thành phần giảm điểm và nằm ở vị trí cuối so với các tỉnh, phố
trong cả nước.
2.3.1.2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Một là, tỉnh Cao Bằng đã sớm nhận thức về đổi mới cải cách ĐKKD đối với
doanh nghiệp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất. Thông qua việc cải thiện môi
trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến sản xuất kinh
doanh, đầu tư của doanh nghiệp. Thực hiện có hiệu quả kế hoạch phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2015-2020. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu về doanh
67
nghiệp, hình thành mạng lưới hệ thống thông tin hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp
nhỏ và vừa tham gia phát triển công nghiệp hỗ trợ, các chương trình liên kết ngành,
vùng, tham gia vào chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các đối tượng tham
gia; triển khai xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp và cải thiện môi trường
kinh doanh; kế hoạch xúc tiến đầu tư giai đoạn 2015- 2020,...
Hai là, Sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo tỉnh (Tỉnh ủy, HĐND, UBND)
trong công tác tập huấn, quán triệt thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2014; các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật, đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các
cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng doanh
nghiệp trong việc thực thi Luật Doanh nghiệp. Chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy triển khai đến cả hệ thống chính trị trên địa bàn toàn tỉnh về
ĐKKD, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Ba là, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi, áp
dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp, bình đẳng và phù hợp trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; phân định rõ chức năng quản lý nhà
nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tăng cường
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà
nước, các cấp chính quyền đối với doanh nghiệp, tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh
của doanh nghiệp; vai trò, vị thế doanh nghiệp, doanh nhân được đề cao.
Bốn là, Công tác CCHC, nhất là cải cách TTHC của các cơ quan Nhà nước
trong thời gian qua đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đặc
biệt quan tâm, nhất là việc thực hiện “cơ chế một cửa liên thông” trong giải quyết
các TTHC liên quan đến doanh nghiệp đã tác động tích cực đến thực hiện Luật
Doanh nghiệp tại Cao Bằng.
Duy trì hiệu quả đường dây nóng tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người
dân, doanh nghiệp và tổ chức đến UBND tỉnh. Tập trung chỉ đạo và triển khai quyết
liệt thực hiện Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn của TW.
Năm là, công tác về quản lý doanh nghiệp đã tăng cường thực hiện việc đẩy
mạnh các chương trình liên kết, hợp tác, hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân
68
lực cho DNNVV, giao thương kết nối giữa Cao Bằng và các tỉnh lân cận, giữa các
đơn vị sản xuất kinh doanh trong việc tìm kiếm tiêu thụ sản phẩm.
Sáu là, tăng cường kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp, nhưng đảm bảo
theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Bộ, ngành. Tăng cường công tác hậu
kiểm sau cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ĐKKD.
Bảy là, bổ sung nhân lực chuyên trách cho ĐKKD, và đào tạo cán bộ có
chuyên môn sâu về ĐKKD để có thể hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp, hộ gia đình và
đảm bảo việc thực thi pháp luật được nghiêm minh.
Ngoài ra, vấn đề ĐKKD là vấn đề thời sự, được sự quan tâm của nhà nước,
bộ ngành, các cấp chính quyền địa phương do đó thu hút được sự quan tâm của các
cơ quan truyền thông từ trung ương đến địa phương tham gia cũng như sự hưởng
ứng, ủng hộ của cán bộ, công chức, người dân và doanh nghiệp đối với các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về ĐKDN.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của UBND các cấp.
Công tác chỉ đạo điều hành chưa được kịp thời, thường xuyên, đồng bộ đối
với các huyện, xã vùng sâu, vùng xa.
Thứ hai, về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ĐKKD.
Việc xây dựng, ban hành văn bản tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về
ĐKKD còn chậm, chưa đầy đủ, kịp thời: Công bố TTHC nói chung và TTHC về
ĐKKD và Đăng ký đầu tư chậm được ban hành, năm 2017 mới ban hành, Quy chế
phối hợp giữa các cơ quan QLNN đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình sau
đăng ký thành lập được xây dựng vào năm 2017, xin ý kiến các ngành vẫn chưa
được ban hành, sẽ ban hành trong tháng 8 hoặc 9 năm 2018.
- Một số chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả
nhất là các chính sách hỗ trợ DNNVV theo Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa
phương do nguồn kinh phí tại địa phương rất hạn hẹp, NSĐP chỉ tự cân đối được
20%. Thực hiện chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào Nông nghiệp nông
69
nghiệp và nông thôn trên địa bàn cũng vướng mắc do thủ tục để được hưởng chính
sách hỗ trợ còn khó khăn, phức tạp.
Thứ ba, Công tác thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu
Việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại và xử lý vi phạm pháp luật về
ĐKKD chưa được thường xuyên. Việc xử lý dứt điểm một số tồn tại chưa đáp ứng
yêu cầu của doanh nghiệp, người dân như: khiếu nại, tranh chấp nội bộ, kiện tụng
ra tòa, lực lượng công an phải điều tra còn kéo dài, điều đó rất mất thời gian của
các cơ quan QLNN, cơ quan ĐKKD.
Sự hiểu biết, năng lực của chính đội ngũ cán bộ thanh tra còn hạn chế, còn
lúng túng trong phối hợp giữa thanh tra các ngành: như Thanh tra Sở Kế hoạch và
Đầu tư chỉ thanh kiểm tra các Dự án Đầu tư công mà không thanh kiểm tra Doanh
nghiệp sau đăng ký thành lập; Thanh tra các Sở, ngành khi Kiểm tra doanh nghiệp
phát hiện Doanh nghiệp không có ở địa điểm kinh doanh, cũng lúng túng, không
biết làm thủ tục gửi cơ quan đăng ký kinh doanh.
Qua thanh tra, kiểm tra tỷ lệ xử lý thấp, vẫn cả nể e ngại trong xử phạt vi
phạm hành chính, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, vẫn còn có sự đùn đẩy trách
nhiệm giữa các ngành có liên quan. Số lượng doanh nghiệp được kiểm tra chiếm tỉ
lệ nhỏ trong các doanh nghiệp đang hoạt động. Bên cạnh đó, đây là hoạt động mang
nhiều tính hình thức nên chưa tạo nên ý thức tôn trọng và chấp hành từ phía các
doanh nghiệp được kiểm tra. Nó phần nào tạo ra tâm lí làm để chống chế chưa trở
thành hoạt động tự thân của các doanh nghiệp để hình thành nên thức ý thức nghiêm
chỉnh thực thi các quy định pháp luật trong quá trình hoạt động, chưa công khai và
xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm cũng như chưa tạo được động lực khuyến khích
các doanh nghiệp thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật.
Cấp Bộ chỉ đạo giải pháp nhưng địa phương không có nguồn lực tương thích
để thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các giải pháp.
- Nguồn nhân lực chưa đảm bảo:
+ Lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về ĐKKD tại địa phương còn thiếu về
số lượng và hạn chế về chuyên môn, chuyên môn sâu về ĐKKD dẫn đến việc hiểu
70
và áp dụng văn bản chưa đúng, xử lý nghiệp vụ không đúng, là kẽ hở để doanh
nghiệp vi phạm, dẫn đến tranh chấp trong nội bộ, kiện tụng ra tòa kéo dài, trong đó
có trách nhiệm của cơ quan ĐKKD.
Đội ngũ nhân lực làm công tác ĐKKD chưa đáp ứng được yêu cầu công
việc. Nguồn nhân lực nghèo nàn, thiếu thốn cán bộ chuyên trách cũng đang đặt ra
cho Cao Bằng những thách thức. Không lường trước được những biến động nhân sự
ảnh hưởng đến khối lượng công việc phải xử lý. Trong suốt một thời gian dài, Sở
KH&ĐT Cao Bằng chưa luân chuyển cán bộ làm công tác ĐKKD, như vậy cũng
tạo sức ỳ lớn cho cán bộ làm công tác ĐKKD, không có sự thay đổi như học hỏi,
cập nhật thông tin, bổ sung kỹ năng để tư vấn tốt hơn, giải quyết tốt TTHC cho
người dân, doanh nghiệp. Nhưng trong khoảng thời gian ngắn 01 năm trở lại đây,
luân chuyển-chuyển đổi vị trí công tác đối với cả 3 cán bộ trực tiếp thực thi pháp
luật về ĐKKD cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả công việc, vì công tác
ĐKKD cần phải có thời gian đào tạo, tập huấn các chương trình phần mềm ứng
dụng ĐKKD, đến thời điểm hiện tại cả 3 cán bộ làm công tác ĐKKD chưa qua đào
tạo các chương trình đó.
Tình trạng cán bộ xử lý hồ sơ ĐKDN tắc trách, cẩu thả, gây khó dễ, non kém
về nghiệp vụ đã làm cho nhà đầu tư khi ĐKKD hoặc thay đổi nội dung ĐKDN mất
nhiều thời gian và chi phí phát sinh, điều này làm giảm lòng tin của nhà đầu tư đối
với tính minh bạch, nghiêm minh của pháp luật và làm khó khăn cho tiến trình khởi
nghiệp của nhà đầu tư. Đây là một bất cập rất lớn đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ
hội đầu tư cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Năng lực của đội ngũ ĐKKD cấp huyện còn thiếu và hạn chế về năng lực.
Sự hiểu biết, năng lực của chính đội ngũ cán bộ thanh tra còn hạn chế, còn
lúng túng trong phối hợp giữa thanh tra các ngành: như Thanh tra Sở Kế hoạch và
Đầu tư chỉ thanh kiểm tra các Dự án Đầu tư công mà không thanh kiểm tra Doanh
nghiệp sau đăng ký thành lập; Thanh tra các Sở, ngành khi Kiểm tra doanh nghiệp
phát hiện Doanh nghiệp không có ở địa điểm kinh doanh, cũng lúng túng, không
biết làm thủ tục gửi cơ quan đăng ký kinh doanh.
71
+ Trang thiết bị phục vụ cho CCHC và bộ phận một cửa ở một số huyện xã
còn thiếu và chưa đảm bảo.
Thứ tư, công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ĐKKD trên
địa bàn tỉnh còn hạn chế dẫn đến nhiều vụ việc các cơ quan xử lý khác nhau và
không có sự phối hợp trao đổi thông tin, ảnh hưởng đến doanh nghiệp trên địa bàn.
Công tác cung cấp thông tin số liệu báo cáo còn thiếu nên rất khó tổng hợp số liệu
phục vụ cho công tác đánh giá chung toàn tỉnh.
Thứ năm, công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về ĐKKD trên
địa bàn Cao Bằng chưa thường xuyên đồng đều, kết quả còn hạn chế; nhất là đối với
huyện vùng sâu, vùng xa còn tình trạng nội dung thông tin không chính xác hoặc
chưa được kiểm chứng, thiếu căn cứ khoa học, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh
doanh và niềm tin của người dân.
Thứ sáu, Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai ĐKDN, đăng
ký hộ kinh doanh còn hạn chế.
Việc triển khai Đăng ký doanh nghiệp qua mạng tỉ lệ còn rất thấp. Năm
2016, tỉ lệ đăng ký kinh doanh qua mạng tại Cao Bằng chỉ chiếm 0,36%, Năm 2017
tỉ lệ này cũng chỉ nhích lên ở mức rất khiêm tốn 1,86%.
2.3.2.2 Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan:
- Luật Doanh nghiệp 2014 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2015) đã làm thay đổi
căn bản quyền kinh doanh và đăng ký doanh nghiệp. Chính những cải cách thông
thoáng về thủ tục hành chính khi đăng ký thành lập doanh nghiệp đã dẫn đến tình
trạng một số doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật.
- Một số doanh nghiệp thua lỗ hoặc tranh chấp giữa các thành viên góp vốn,
dẫn đến không hoạt động, tự ý chuyển địa điểm mà không báo cáo các cơ quan nhà
nước theo quy định của pháp luật, nhiều doanh nghiệp hoạt động trá hình, thành lập
để buôn bán hóa đơn thuế giá trị gia tăng, không thực hiện nghĩa vụ thuế và các
nghĩa vụ khác. Thực chất những doanh nghiệp này không còn tồn tại trong nền kinh
tế, cần loại ra khỏi danh sách doanh nghiệp.
72
- Cao Bằng có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng giao thông hạn còn yếu
kém, nên thu hút các doanh nghiệp đầu tư, khởi nghiệp còn hạn chế.
- Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ
và vừa nói riêng chưa triển khai được kịp thời và đồng bộ do nguồn thu ngân sách
địa phương chỉ cân đối được 20%. Sự hỗ trợ phát triển doanh nghiệp còn mang
nặng tính hành chính, chưa được xã hội hoá một cách mạnh mẽ.
- Hiện nay cơ chế quản lý và kiểm tra đối với hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
đã chuyển hoàn toàn từ “tiền kiểm”sang “hậu kiểm” song vẫn còn nhiều vấn đề
bất cập, chế độ báo cáo của các cấp, ngành chưa đảm bảo yêu cầu dẫn đến tình
trạng thiếu những thông tin đánh giá về tình hình hoạt động và những vi phạm của
doanh nghiệp.
- Công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập
trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, mới tập trung vào việc xử lý các doanh
nghiệp có hành vi vi pháp pháp luật chuyên ngành .v.v. Nhiệm vụ hết sức quan
trọng là hỗ trợ doanh nghiệp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc doanh nghiệp chấp hành
các điều kiện kinh doanh... chưa được thực hiện một cách thường xuyên
* Nguyên nhân chủ quan
- Hàng năm, Sự phối hợp với các ngành chức năng cấp tỉnh, cấp huyện triển
khai công tác hậu kiểm sau đăng ký kinh doanh chưa kịp thời, các cơ quan chức
năng quản lý nhà nước về doanh nghiệp còn riêng biệt theo chức năng, nhiệm vụ
từng ngành nên chưa có sự phối hợp chặt chẽ và thiếu đồng bộ vì chưa ban hành
được Quy chế về phối hợp quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký
thành lập trên địa bàn tỉnh Cao Bằng còn chậm. Vì vậy, rất thiếu dữ liệu trong tổng
hợp đánh giá tình hình quản lý doanh nghiệp, hộ kinh doanh có hướng chỉ đạo và
giải pháp thực hiện trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh sau
đăng ký thành lập.
- Công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp có lúc chưa đồng bộ, thiếu
thông tin đầy đủ, chính xác, toàn diện về doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
73
- Cán bộ làm công tác QLNN đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập
thiếu, thường xuyên phải luân chuyển công tác, làm cho việc theo dõi hoạt động,
kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiệp vụ còn hạn chế. Luật Doanh nghiệp thông thoáng,
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nhưng nhận thức của những cán bộ thuộc các
ngành, cơ quan về trách nhiệm quản lý Nhà nước của ngành mình còn khác nhau,
chưa đồng thuận cao với yêu cầu của Luật Doanh nghiệp, gây ảnh hưởng không nhỏ
về mặt tâm lý, xã hội trong thực hiện Luật Doanh nghiệp.
- Nhiều doanh nghiệp có công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp còn yếu,
không chuyên nghiệp và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của chủ doanh
nghiệp, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong doanh nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo
nên công tác quản trị doanh nghiệp còn lúng túng, do đó có nhiều hạn chế, bỏ lỡ
các cơ hội phát triển kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
doanh nghiệp.
Do hệ thống pháp luật luôn trong quá trình điều chỉnh và hoàn thiện. Việc
triển khai khi pháp luật về ĐKKD với những quy định pháp luật đi vào thực tiễn sẽ
khó tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn triển khai.
74
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trong chương 2, luận văn đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức
thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng; đồng thời
phân tích tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD ở thành phố tập trung 05
nội dung chính: (1) hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về ĐKKD của
chính quyền các cấp ở tỉnh Cao Bằng; (2) phổ biến, giáo dục pháp luật về ĐKKD;
(3) tổ chức bộ máy, nhân lực, vật lực phục vụ thực hiện pháp luật về ĐKKD; (4)
kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh; (5) tổng kết,
đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD của tỉnh.
Từ việc phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng, luận văn đã đánh giá những kết quả đã đạt được, hạn chế, tồn tại
và nguyên nhân của những kết quả cũng như tồn tại đó, trong đó tập trung phân
tích, làm rõ 03 nhóm hạn chế chính, tìm ra nguyên nhân chủ quan, khách quan của
những hạn chế. Đây là cơ sở đề tác giả đề xuất các giải pháp bảo đảm tổ chức thực
hiện pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ở chương 3.
75
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
3.1.1 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh
Nhằm thực hiện tối đa hóa quyền tự do doanh theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013. Pháp luật về ĐKKD phải hoàn thiện các quy định về quyền tự do kinh
doanh theo hướng đảm bảo đúng theo Luật. Công dân chỉ không được phép kinh
doanh những gì mà theo quy định của luật trong những trường hợp cần thiết, vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
cộng đồng. Trên cơ sở quy định những ngành nghề cấm kinh doanh, nhà nước đã có
sự chỉ đạo chỉ có Quốc hội mới có quyền quy định về ngành nghề cấm kinh doanh.
Chính phủ quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Sự quy định rõ ràng danh
mục, lĩnh vực, ngành nghề cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện sẽ giúp các
chủ thể kinh doanh khi tiến hành hoạt động kinh doanh không bị bỡ ngỡ, và chỉ
kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Do đó, hoàn thiện pháp luật về
quyền tự do kinh doanh cần phải được quy định theo hướng trong Luật, Nghị định,
Thông tư về lĩnh vực, ngành, nghề, hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh
có điều kiện và điều kiện kinh doanh một cách rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu. Mặt khác,
lấy yếu tố “hiến định ” là trụ cột, trung tâm để cụ thể hóa, tránh tình trạng nhiều bộ
ngành, địa phương đã ban hành những VBQPPL dưới luật làm hạn chế, thậm chí
ngăn cản hoạt động đầu tư, kinh doanh của chủ thể kinh doanh.
Đây là một nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung chỉ đạo của các cấp ủy
đảng, chính quyền, là trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh và của mỗi người dân, doanh nghiệp.
76
3.1.2 Đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng
Một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng là môi trường mà ở đó
mọi chủ trương, chính sách phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp với
thực tế phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, pháp luật về đăng ký kinh doanh
trong môi trường này phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Yêu cầu các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh phải thực hiện nghiêm
chỉnh Nghị quyết 19/NQ-CP năm 2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia hai năm 2017, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết 19-2018/NQ-CP ngày
15/5/2018 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm
tiếp theo.
- Nâng cao vai trò nhận thức của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Đổi mới tư duy và nhận thức đòi hỏi phải xây dựng cơ
sở lý luận, xác định đúng quan điểm, định hướng phát triển thể hiện trong các Nghị
quyết của Đảng và Nhà nước. Từ đó giáo dục, đào tạo cho cán bộ, đảng viên về
nhận thức mới, đối tượng chủ yếu là cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp và cán
bộ nghiên cứu chính sách để đưa những tư duy mới làm cơ sở soạn thảo luật pháp
và thể chế. Cuối cùng là giáo dục, truyền đạt rộng rãi cho nhân dân, tạo sự đồng
thuận và nghiêm chỉnh thực thi của xã hội về thể chế mới.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật
Để thu hút các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh đòi hỏi pháp luật về
đăng ký kinh doanh phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng
như phải phù hợp với luật lệ quốc tế, các hiệp định song phương và đa phương khắc
phục các yếu tố phi thị trường cản trở việc thực thi luật pháp trong thực tế đòi hỏi
Nhà nước phải luôn đảm bảo có văn bản hướng dẫn (Nghị định, Thông tư) một cách
kịp thời và phù hợp, thống nhất.
Ngoài ra, nhà nước cần phải xây dựng cơ chế cụ thể thực thi luật pháp và thể
chế trong thực tế cuộc sống như phổ biến, truyền đạt các nội dung và quy tắc của
77
thể chế trong xã hội, triển khai sự vận động của luật lệ, thể chế trong hoạt động kinh
tế; tổ chức theo dõi, giám sát việc thực thi thể chế trong thực tiễn; tổ chức hỗ trợ tư
pháp cho người dân, cho doanh nghiệp tổ chức xử lý các vi phạm và tranh chấp
trong thực tế.
- Cải cách thể chế hành chính
Hoàn thiện môi trường kinh doanh đồng thời với cải cách thể chế hành chính
mà trong đó cần phải có một chương trình CCHC tổng thể cho đất nước, xác định rõ
mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, mô hình hành chính cần đạt được; thời gian cần thiết
để hoàn thành cải cách, lộ trình và giải pháp thực hiện và xác định nội dung, nhiệm
vụ cải cách phải thực hiện cho từng giai đoạn, từng năm. Từ đó hoàn thiện thể chế
hành chính bảo đảm xây dựng thể chế thống nhất và nhất quán với mục tiêu và quan
điểm cải cách, bảo đảm tiến độ theo lộ trình cải cách. Trong lộ trình cải cách hành
chính thủ tục hành chính là bộ phận hết sức quan trọng của luật pháp và thể chế
hành chính. Bản thân thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực
thi nghiêm minh.
- Xây dựng cơ chế, chính sách bảo vệ các chủ thể tham gia khởi sự doanh nghiệp
Môi trường kinh doanh của nhà nước ta hiện nay vẫn chưa đảm bảo sự phát
triển ổn định, do đó đòi hỏi nhà nước cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
sở hữu nhằm thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế thị trường với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, phù hợp với các cam kết quốc tế và lộ trình đã công bố, thể hiện các nguyên
tắc của WTO về đối xử quốc gia và tối hậu quốc; Xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng nhằm bảo đảm quyền tự do về hợp đồng và bảo đảm các thoả thuận
trong hợp đồng phải được thực hiện nếu không trái pháp luật.; Cần tăng cường tính
độc lập và năng lực của hệ thống tư pháp để đảm bảo nâng cao tính chuyên nghiệp,
loại bỏ những rườm rà, phức tạp và tốn kém trong việc giải quyết các thủ tục tố
tụng, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp cho tất cả các bên liên quan.
- Đơn giản hoá và minh bạch hoá các thủ tục cấp phép
78
Minh bạch hóa thủ tục cấp phép đăng ký kinh doanh góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho chủ thể tham gia thị trường nên nhà nước cần phải thay đổi một cách
căn bản nhận thức về vấn đề cấp phép theo nghĩa cấp phép là đăng ký để được hoạt
động chứ không phải là cơ chế “xin cho”; Rà soát lại các quy định của hệ thống
pháp luật liên quan đến vấn đề cấp phép, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện các quy
định này theo hướng công khai, minh bạch, rõ ràng, cụ thể phù hợp với các cam kết
quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam; Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách
TTHC, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian
thành lập doanh nghiệp; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và TMĐT trong hoạt động
kinh doanh.
3.1.3 Phân định rõ trách nhiệm các bên liên quan trong tổ chức thực hiện
pháp luật về đăng ký kinh doanh
Để triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả pháp luật về ĐKKD thì cần
phân định rõ trách nhiệm của các bên liên quan.
Theo đó Chính phủ tăng cường chỉ đạo và coi công tác bảo đảm ĐKKD là
một trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; chỉ đạo các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp tích cực triển
khai các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD và chỉ đạo kịp thời; Ủy ban
nhân dân các cấp thường xuyên chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thực thi pháp
luật ĐKKD, coi công tác bảo đảm ĐKKD và thực thi pháp luật ĐKKD là một trong
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo bảo đảm ĐKKD trên địa bàn; đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát xã
hội đối với doanh nghiệp, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập tại địa phương theo hướng: Tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp;
Phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp; Tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.
79
Trách nhiệm của người đứng đầu cũng được xác định rõ. Đến nay Thủ tướng
Chính phủ vừa có chỉ thị về tiếp tục đẩy mạnh triển khai, thực hiện hiệu quả Nghị
quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm
2020 và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 06/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục
triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 theo tinh thần Chính
phủ đồng hành cùng doanh nghiệp trong năm 2018.
Các Bộ, ngành, địa phương đều phải có trách nhiệm, nỗ lực trong triển khai,
tạo chuyển biến tích cực trong tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức
các cấp, đặc biệt về lề lối, tác phong, tinh thần, thái độ phục vụ người dân, doanh
nghiệp. Công tác hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp, thu hút đầu tư, cải cách thủ tục
hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh đã được các cấp, các ngành quan tâm
hơn, nhận được sự hưởng ứng, tham gia tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp và đạt
được kết quả tốt.
3.1.4 Huy động sự tham gia của xã hội vào tổ chức thực hiện pháp luật về
đăng ký kinh doanh
Tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật ĐKKD không chỉ là trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước mà đó còn trách nhiệm của chính các Doanh nghiệp, Hộ
gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Mỗi người dân, mỗi tổ chức và toàn xã hội phải thể hiện được vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi của mình trong việc thực hiện đảm bảo pháp luật ĐKKD. Cụ
thể các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường hơn
nữa trách nhiệm trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra các quy định ĐKKD. Đồng
thời hướng dẫn chuyên môn, tạo điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật ứng dụng
trong kinh doanh; bảo đảm đầy đủ điều kiện ĐKKD đối với doanh nghiệp, hộ gia
đình người dân được kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật..
Đối với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong quá trình sản xuất, kinh
doanh cần tuân thủ Luật Doanh nghiệp và các Luật chuyên ngành và các quy định
của pháp luật. Phải nâng cao vai trò tinh thần trách nhiệm, tầm quan trọng của việc
thực hiện tốt các quy định của Luật.
80
Trách nhiệm của xã hội trong việc giám sát, phát giác các hành vi gian dối
trong sản xuất, kinh doanh. Người dân và doanh nghiệp cần hiểu rõ về quyền lợi và
nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện Luật Doanh nghiệp và các quy định liên
quan để cạnh tranh lành mạnh.
3.2 Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật đăng ký kinh doanh trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng
3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh
3.2.1.1 Hoàn thiện nội dung pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đăng
ký kinh doanh
Để khắc phục những tồn tại, yếu kém, đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp
luật về ĐKKD, Chính phủ cần khẩn trương rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến ĐKKD, cụ thể như sau:
Thứ nhất, lĩnh vực ĐKKD là một lĩnh vực quan trọng và phức tạp trong đời
sống xã hội, gắn bó mật thiết với sức khỏe của nền kinh tế. Hoạt động đăng ký kinh
doanh là hoạt động vô cùng quan trọng không chỉ cho doanh nghiệp thực hiện khởi
sự doanh nghiệp mà còn là cơ sở để nhà nước quản lý hoạt động đăng ký kinh
doanh cho doanh nghiệp. Bởi vậy, Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính
về ĐKKD cần quy định các chế tài xử phạt rõ ràng hơn, cụ thể hơn, phù hợp với các
chế định hiện hành.
Hướng dẫn cụ thể các nội dung liên quan đến thẩm quyền xử lý vi phạm của
cơ quan đăng ký kinh doanh.
- Hướng dẫn cụ thể hồ sơ xử lý vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh
để cơ quan đăng ký kinh doanh thực thi nhiệm vụ.
- Hướng dẫn chi tiết nội dung thông báo của doanh nghiệp với cơ quan đăng
ký kinh doanh để cơ quan đăng ký kinh doanh có cơ sở pháp lý thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh khi doanh nghiệp không thông báo về thời gian hoạt động
liên tục của mình trong 12 tháng.
- Hướng dẫn trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh phát hiện doanh nghiệp
có dấu hiệu tạm ngừng hoạt động kinh doanh ngành, nghề có điều kiện khi phát
81
hiện doanh nghiệp không có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật? Trong
trường hợp này cần phải xử lý như thế nào? Hồ sơ? Các quy định cụ thể...?
- Làm rõ thẩm quyền xử lý vi phạm của cơ quan đăng ký kinh doanh cho
từng chức danh cụ thể.
Thứ hai, về giải quyết tranh chấp, vi phạm trong hoạt động đăng ký kinh doanh.
Hiện nay, bên cạnh việc phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về
ĐKKD liên quan đến vấn đề khiếu nại, tố cáo của doanh nghiệp thì theo quy định
của pháp luật hình phạt tiền là chế tài đối với doanh nghiệp vi phạm trong lĩnh vực
ĐKKD, tuy nhiên cùng là hành vi vi phạm nhưng hình thức này chưa được áp dụng
đối với cán bộ, công chức thực hiện chức năng kinh doanh, mà chỉ áp dụng các hình
thức kỷ luật theo Luật cán bộ công chức năm 2008. Vì vậy phải hoàn thiện các quy
định về giải quyết tranh chấp, vi phạm trong hoạt động ĐKKD để thực hiện chế độ
dân hcur, công khai trong lĩnh vực ĐKKD.
Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực Kế hoạch và Đầu tư
nói chung và ĐKKD nói riêng muốn được hoàn thiện không phải chỉ tập trung vào
việc hoàn thiện một vài quy định cụ thể trong nội dung lĩnh vực, cũng không phải là
một câu chuyện diễn ra trong một thời gian ngắn với sự nỗ lực của một bộ phận các
nhà làm luật mà hệ thống này nếu muốn được hoàn thiện thì đòi hỏi cần phải có một
sự điều chỉnh mang tính thống nhất các quy định của pháp luật, đòi hỏi phải có một
sự phối hợp nỗ lực không ngừng của tất cả các chủ thể trong xã hội.
3.2.1.2 Hoàn thiện nội dung pháp luật về đăng ký kinh doanh
Sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật để đáp ứng ngày càng tốt hơn
những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, bảo vệ ngày một tốt hơn quyền lợi của doanh
nghiệp cũng như đảm bảo tốt hơn cho công tác quản lý của cơ quan nhà nước.
(1) Về thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Đề nghị thống nhất quy định thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp đối với tất cả các công ty và pháp nhân có hoạt động kinh doanh, không
phân biệt loại hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư. Vì hiện nay, trong thực tế, một số
hoạt động kinh doanh như chứng khoán, bảo hiểm, giám định tư pháp, luật sư, công
82
chứng… hoạt động dưới các hình thức doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp nhưng
lại thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định của luật chuyên ngành
riêng nên rất khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
(2) Về người đại diện theo pháp luật
Luật doanh nghiệp quy định đối với công ty TNHH và công ty cổ phần có
thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế công
ty có thể tìm cách đùn đẩy nhau và trốn tránh trách nhiệm nếu gặp trường hợp bất
lợi cho công ty mình.
Đề nghị bổ sung theo hướng công ty hợp danh cũng có thể có hơn một người
đại diện theo pháp luật. Người đại diện theo pháp luật có quyền, nghĩa vụ như nhau.
Công ty chịu trách nhiệm trước bên thứ ba trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều
hơn một người đại diện theo pháp luật.
(3) Về việc thu hồi Giấy chứng nhận ĐKDN
Theo quy định tại điều 62 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn, lúng túng
và mất nhiều thời gian cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi thực hiện. Đề nghị:
- Đối với trường hợp cần xác minh hành vi giả mạo hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp thì quy định rõ Phòng Đăng ký kinh doanh có quyền đề nghị bằng văn bản
đến cơ quan cấp tỉnh xác định hành vi giả mạo để làm cơ sở thu hồi Giấy chứng
nhận ĐKDN.
- Đối với trường cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, hải quan;
Cơ quan ban hành văn bản đề nghị thu hồi GCN ĐKDN cần nêu rõ trường hợp phải
thu hồi là “Doanh nghiệp đã bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế theo
quy định tại Khoản 26 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý
thuế”, và gửi kèm theo các quyết định cưỡng chế của cơ quan thuế, cơ quan hải
quan. Trên cơ sở đó, Phòng ĐKKD tiến hành thu hồi GCN ĐKDN theo quy định tại
điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP.
- Một số trường hợp quy định yêu cầu người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp phải đến trụ sở của Phòng Đăng ký kinh doanh để giải trình trong thời
83
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận thông báo về hành vi vi phạm (quy định tại các khoản
3,4 và 5 Điều 62 Nghị định 78/2015/NĐ-CP)
Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp đến giải trình nhưng việc giải trình
nhưng nội dung giải trình không phù hợp, không đúng sự thật, thậm chí qua loa đại
khái sẽ gây khó khăn, lúng túng cho Phòng Đăng ký kinh doanh trong việc thực
hiện thì Phòng ĐKKD không thể có cơ sở để thu hồi GCN ĐKDN. Do đó, các quy
định thực hiện thu hồi GCN ĐKDN tại các khoản 3,4 và 5 điều 62 NĐ 78/2015/NĐ-
CP rất khó thực hiện và nếu thực hiện thì mất rất nhiều thời gian.
Đề nghị bổ sung quy định về việc Phòng Đăng ký kinh doanh ra quyết định
thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp không đến giải trình hoặc nội dung giải trình không phù hợp.
(4) Về giải thể doanh nghiệp
- Theo quy định doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục giải thể sau khi có
quyết định thu hồi GCN ĐKDN của cơ quan ĐKKD. Tuy nhiên, nhiều doanh
nghiệp bị thu hồi GCN ĐKDN nhưng không tiến hành thủ tục giải thể theo quy
định, không ít doanh nghiệp bị thu hồi GCN ĐKDN nhưng vẫn còn đang có nhiều
khoản nợ, như: nợ thuế, nợ ngân hàng, nợ người lao động, các tổ chức cá nhân
khác, v.v...thậm chí lâm vào phá sản.
Từ đó dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không tiến hành làm thủ tục giải thể
và bị "treo" dẫn đến số lượng thống kê doanh nghiệp của các cơ quan ĐKKD các cơ
quan chức năng luôn không phù hợp nhau và nhất là việc thu hồi GCN ĐKDN
không thận trọng có thể dân đến nhiều hệ lụy khó lường
Đề nghị nên sửa đổi theo hướng: Nếu DN còn nợ đọng thuế với số lượng có
thể ít nhưng DN muốn giải thể thì nên tạo thuận lợi cho DN giải thể. Mặt khác, để
tránh trường hợp doanh nghiệp đang còn nợ nần chưa thanh toán khá lớn hoặc bị theo
dõi, điều tra, xử lý hoặc đang bị kiện ra tòa án v.v...do đó rất dễ xảy ra khiếu kiện; đề
nghị bổ sung theo hướng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chủ động áp
dụng các biện pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình trước khi
phòng ĐKKD ra quyết định thu hồi GCN ĐKDN của các doanh nghiệp vi phạm.
84
(5) Thời hạn tạm ngừng kinh doanh
- Chưa có sự thống nhất, đồng bộ giữa cơ quan Thuế và cơ quan đăng ký
kinh doanh về việc xử lý đối với trường hợp tạm ngừng kinh doanh. Theo đó, Tại
điều 19 Thông tư 80/2012/TT-BTC ngày 22/5/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn
Luật quản lý thuế về đăng ký thuế, quy định: “Trước khi tạm ngừng kinh doanh, tổ
chức, cá nhân phải hoàn thành các nghĩa vụ thuế còn nợ với ngân sách nhà nước”.
Tuy nhiên, tại Khoản 3 Điều 200 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“Trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ;
tiếp tục thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với
khách hàng và người lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp, chủ nợ, khách hàng và
người lao động có thỏa thuận khác”.
Đến nay, cơ quan Thuế vẫn căn cứ tại Điều 19 Thông tư 80/2012/TT-BTC
để không chấp nhận hồ sơ tạm ngừng kinh doanh của doanh nghiệp trên hệ thống
nếu tại thời điểm tạm ngừng kinh doanh doanh nghiệp còn nợ thuế. Cơ quan đăng
ký kinh doanh vẫn thực hiện thụ lý hồ sơ đăng ký tạm ngừng kinh doanh theo quy
định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định 78/2015/NĐ-CP.
- Khoản 2 Điều 57 quy định thời hạn gửi thông báo cho cơ quan đăng ký
kinh doanh trước khi tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông
báo là khá dài. Trong thực tế nhiêu doanh nghiệp gặp vướng mắc về điểm này; đề
nghị sửa đổi theo hướng giảm thời hạn xuống dưới 15 ngày.
(6) Quy định liên quan đến con dấu của doanh nghiệp
Việc quy định về con dấu doanh nghiệp hiện nay đã tạo thuận lợi cơ bản cho
các doanh nghiệp. Tuy vậy, điều này chỉ phù hợp đối với các doanh nghiệp được
thành lập mới từ sau ngày 01/7/2015. Hiện nay, doanh nghiệp thành lập trước ngày
01/7/2017 là nhiều hơn.
Đối với các doanh nghiệp đã thành lập và hoạt động trước thời điểm
01/7/2015, đã có con dấu và được cơ quan công an cấp GCN đăng ký mẫu dấu, nay
muốn đổi mẫu dấu, sử dụng con dấu mới thì thủ tục sẽ phức tạp hơn. Đối với doanh
nghiệp đã đăng ký và hoạt động theo Luật Đầu tư năm 2005, đã được cấp Giấy
85
CNĐT đồng thời là Giấy CN ĐKKD, nay nếu muốn đổi con dấu hoặc vì mất con
dấu mà phải làm dấu mới thì lại càng phức tạp hơn.
Đề nghị sửa đổi theo hướng: Khi doanh nghiệp thành lập trước hay sau ngày
01/7/2015, khi đổi con dấu mới hoặc làm lại con dấu mới, doanh nghiệp chỉ cần
thông báo mẫu con dấu mới đến Cơ quan ĐKKD theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014. Thông báo sau cùng của doanh nghiệp về mẫu con dấu với Cơ
quan ĐKKD là thông báo có hiệu lực đối với mẫu dấu của doanh nghiệp và thay thế
tất cả các mẫu con dấu của doanh nghiệp trước đó (kể cả mẫu con dấu đã được Cơ
quan công an cấp GCN đăng ký mẫu dấu).
Ngoài ra, đề nghị bổ sung quy định về trường hợp thông báo sử dụng mẫu
con dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện đã được đăng tải trên
Cổng thì những thông báo của các lần trước đó không còn có giá trị pháp lý.
(7) Về đăng ký địa điểm kinh doanh trực thuộc doanh nghiệp hoặc chi nhánh
Thực tế có nhiều doanh nghiệp tiến hành đăng ký một lúc cho hơn một điểm
kinh doanh để giảm bớt thời gian và thủ tục là hợp lý. Do đó, đề nghị sửa đổi theo
hướng chấp thuận cho doanh nghiệp đăng ký và kê khai thông tin cho hơn 1 địa
điểm kinh doanh trong một thông báo chung (hiện tại đăng ký địa điểm kinh doanh
phải làm một thông báo riêng).
(8) Về thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh
Hiện nay phần lớn doanh nghiệp có xu hướng đăng ký rất nhiều ngành nghề
kinh doanh nhưng thực tế không kinh doanh tất cả ngành nghề đã đăng ký nên gây
khó khăn không chỉ cho doanh nghiệp trong việc tìm hiểu mã ngành kinh doanh để
kê khai trong hồ sơ mà còn gây khó khăn cho cán bộ làm công tác ĐKKD (phải
nhập ngành nghề lên hệ thống thông tin ĐKDN quốc gia, cấp giấy xác nhận ngành
nghề cho doanh nghiệp v.v…). Điều này làm tăng chi phí thực hiện thủ tục, giảm
hiệu quả của việc cải cách thủ tục hành chính.
Nên chăng đề nghị sửa đổi theo hướng DN chỉ phải đăng ký ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp trong giấy đề
nghị ĐKDN. Việc thống kê ngành nghề kinh doanh có thể dựa trên ngành nghề kinh
86
doanh chính của doanh nghiệp. Chính phủ cần ban hành danh mục ngành nghề cấm
kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
(9) Khoản 2 Điều 13 Luật có quy định về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có
một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số
lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.”
Tuy nhiên, trong thực tế các DN khi thực hiện hồ sơ thủ tục ĐKDN trong điều
lệ quy định 2 người đại diện pháp luật nhưng không quy định rõ và quyền, nghĩa vụ
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 điều 13
Doanh nghiệp năm 2014. Cơ quan ĐKKD không có đủ căn cứ để cho rằng vì lý do
đó mà điều lệ công ty không hợp lệ. Mặt khác, công ty có thể tìm cách trốn tránh
trách nhiệm khi gặp các trường hợp bất lợi trong hoạt động kinh doanh.
Đề nghị sửa đổi theo hướng: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Người đại diện theo
pháp luật có quyền, nghĩa vụ như nhau và Điều lệ công ty phải quy định cụ thể số
lượng và chức danh quản lý của các đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
(10) Về thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài:
Đề nghị quy định rõ hơn một số tình huống hồ sơ thủ tục trong Nghị định
78/2015/NĐ-CP đối với thủ tục có thêm quy định “Văn bản của Sở Kế hoạch và
Đầu tư chấp thuận về việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư”
Thực tế nhà đầu tư thực hiện ĐKDN như sau sẽ dẫn đến khó khăn cho cả cơ
quan đăng ký đầu tư và ĐKDN:
- Cá nhân trong nước đăng ký lập công ty TNHH một thành viên 100% vốn
đầu tư trong nước.
- Chủ sở hữu nói trên chuyển nhượng một phần vốn góp cho nhà đầu tư nước
ngoài để chuyển thành công ty TNHH 2 thành viên trở lên, với tỷ lệ vốn nhà đầu tư
87
nước ngoài chiếm 49% hoặc nhỏ hơn và đăng ký thay đổi ngành nghề không có
điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- Công ty TNHH 2 TV nói trên lại đăng ký thay đổi, bổ sung ngành nghề (kể
cả ngành nghề có điều kiện với nhà đầu tư nước ngoài).
Đối với thủ tục đăng ký thay đổi, bổ sung ngành nghề trong trường hợp này,
nếu căn cứ vào quy định tại điều 49 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về “Thông báo bổ
sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh” thì không có quy định phải có “văn bản của Sở
Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận về việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà
đầu tư nước ngoài đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư”.
Thế nhưng, việc đăng ký thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh (trong đó
có ngành nghề có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài) về bản chất có phải vẫn
thuộc trường hợp góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong “tổ chức kinh tế hoạt
động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư
nước ngoài” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư” hay không ?
Nếu có thì có phải bắt buộc phải có thêm thủ tục“văn bản của Sở Kế hoạch
và Đầu tư chấp thuận về việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư” không ?.
(11) Về chuyển đổi doanh nghiệp
Đề nghị bổ sung quy định hồ sơ thủ tục đăng ký chuyển đổi doanh nghiệp tư
nhân thành Công ty Cổ phần nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tế của doanh
nghiệp, giảm bớt phiền ra khi Doanh nghiệp có nhu cầu chuyển đổi.
(12) Về quy định tính chất của Thành viên hội đồng quản trị
Điểm c điều 153 Luật Doanh nghiệp quy định chủ tịch Hội đồng quản trị
phải triệu tập họp Hội đồng quản trị khi “Có đề nghị của ít nhất 02 thành viên điều
hành của Hội đồng quản trị”.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểu 134 Luật Doanh nghiệp thì chỉ có hai khái
niệm “Thành viên Hội đồng quản trị” và “Thành viên Hội đồng quản trị là thành
viên độc lập” mà không có khái niệm “Thành viên điều hành của Hội đồng quản trị”
nên dễ gây mâu thuẫn trong nội bộ công ty. Đề nghị sửa đổi thành “Có đề nghị của
88
ít nhất 02 thành viên của Hội đồng quản trị”, được hiểu là thành viên hoặc thành
viên độc lập đều có quyền triệu tập.
(13) Về việc ủy quyền thực hiện thủ tục đăng ký doanh
Hiện nay, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP có quy định việc ủy quyền cho tổ
chức, cá nhân thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp nhưng không quy định rõ văn
bản ủy quyền cho cá nhân thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp có phải công
chứng hay chứng thực hay không nên dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp
dụng của các phòng ĐKKD. Nhiều phòng ĐKKD đề nghị doanh nghiệp phải có
công chứng hoặc chứng thực văn bản ủy quyền khi thành lập doanh nghiệp mới và
không yêu cầu phải có công chứng hoặc chứng thực văn bản ủy quyền khi đăng ký
thay đổi (vì đã có đóng dấu của DN làm căn cứ).
Đề nghị văn bản ủy quyền cho cá nhân thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp
không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực trong cả 2 trường hợp nêu trên.
Nếu người đại diện theo pháp luật vì lý do bất khả kháng nào đó mà không
thể hoặc từ chối ký tên vào văn bản ủy quyền thì đề nghị bổ sung quy định người ký
là một trong các cá nhân là người quản lý doanh nghiệp tương ứng với từng loại
hình doanh nghiệp được ký ủy quyền.
(14) Đăng ký qua mạng điện tử
Đối với trường hợp ủy quyền thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp:
Đề nghị bổ sung trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
có thể ủy quyền cho hai cá nhân khác nhau thực hiện đăng ký doanh nghiệp, một
người ký xác thực hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và một người liên hệ. Trong trường
hợp này đề nghị trong hồ sơ doanh nghiệp đính kèm văn bản ủy quyền và bản sao
hợp lệ Giấy tờ chứng thực cá nhân của cả hai cá nhân nói nêu trên.
Ngoài ra, theo Công văn số 277/BKHĐT-ĐKKD ngày 11/01/2017 về việc
một số vấn đề liên quan đến đăng ký doanh nghiệp đã quy định: Thời hạn để doanh
nghiệp sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử là 180 ngày
kể từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh ra Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ
lá quá dài.
89
Đề nghị, bổ sung quy định chi tiết về thời hạn (giảm so với 180 ngày) để
doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và cơ
chế hủy hồ sơ đối với những hồ sơ đã quá thời hạn sửa đổi, bổ sung.
(15) Đề nghị bổ sung quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục chuyển đổi hộ kinh
doanh thành các loại hình doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu của các cá nhân có
đăng ký hộ kinh doanh hiện nay. Đồng thời, quy định Phòng Đăng ký kinh doanh
nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính là cơ quan tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký này.
(16) Quy định tạm ngừng đăng ký kinh doanh
Thứ hai, khoản 1 Điều 200 Luật Doanh nghiệp quy định “Doanh nghiệp có
quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và
thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh
chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh. Quy định này
áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã
thông báo”; Khoản 2 Điều 57 Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính
phủ quy định “Thời hạn tạm ngừng kinh doanh không được quá một năm. Sau khi
hết thời hạn đã thông báo, nếu doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa
điểm kinh doanh vẫn tiếp tục tạm ngừng kinh doanh thì phải thông báo tiếp cho
Phòng Đăng ký kinh doanh. Tổng thời gian tạm ngừng kinh doanh liên tiếp không
được quá hai năm”. Trong thực tế có nhiều Doanh nghiệp đã tạm ngừng 02 năm
liên tiếp, nhưng chưa tìm được việc làm, không muốn giải thể, mà tiếp tục chờ tìm
việc làm, thì Luật cũng chưa có quy định trường hợp này.
Đề nghị sửa đổi bổ sung quy định đối với trường hợp này.
3.2.2 Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh của các chủ thể có thẩm quyền ở tỉnh Cao Bằng
Thứ nhất, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh
Hiện nay công tác quản lý ĐKKD thuộc về trách nhiệm của các cơ quan.
Trên cơ sở chính sách, pháp luật đã ban hành, cần xem xét cách thức phối hợp thực
hiện QLNN sau đăng ký thành lập để đảm bảo hiệu quả quản lý, tránh chống chéo.
90
Ở Cao Bằng nói riêng, cần kiện toàn cơ quan ĐKKD, tăng cường năng lực
của cán bộ trực tiếp làm công tác ĐKKD tại cấp tỉnh và huyện và lực lượng thanh
tra chuyên ngành. Đồng thời không ngừng nâng cao nhận thức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho đội ngũ những người làm công tác này.
Tỉnh Cao Bằng cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý nhà nước về ĐKKD
ở cấp tỉnh và huyện. Các cơ quan chức năng theo thẩm quyền cần phải tích cực hơn và
kiên quyết hơn trong hoạt động xử phạt các vi phạm về ĐKKD trên địa bàn.
Thứ hai, nâng cao năng lực cán bộ trong lĩnh vực ĐKKD
Hiện nay, lực lượng cán bộ, thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực ĐKKD tại các
địa phương nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng còn mỏng, năng lực nghiệp vụ,
chuyên môn còn hạn chế. Vì vậy, một trong những giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức
thực hiện pháp luật ĐKKD trên địa bàn tỉnh là cần phải nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ công tác trong lĩnh vực ĐKKD
này. Cụ thể:
Tích cực tập huấn nghiệp vụ và hướng dẫn triển khai các văn bản hướng dẫn
triển khai về ĐKKD mới ban hành cho cán bộ làm công tác quản lý ĐKKD tại các cấp;
Chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ĐKKD này khá đa dạng.
Khả năng đáp ứng công việc còn nhiều bất cập do lực lượng quá mỏng, phải kiêm
nhiệm nhiều việc trong bối cảnh đồng thời giải quyết nhiều công việc khác liên
quan đến hỗ trợ doanh nghiệp.
Tổ chức các khóa tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, nâng
cao năng lực cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về ĐKKD với mục tiêu nâng
cao dần chất lượng của hoạt động này.
- Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần đề cao tinh
thần và ý thức trách nhiệm, tác phong, thái độ ứng xử, phương pháp làm việc, đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ được giao nhiệm vụ ĐKKD, kiểm tra, giám sát
về ĐKKD. Phát huy vai trò của lực lượng thanh tra, kiểm tra trong QLNN sau đăng
ký thành lập. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về ĐKKD trong quá
trình thanh tra, kiểm tra.
91
- Thông qua việc trao đổi, nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực ĐKKD giúp cho cán bộ, người làm công tác quản lý về ĐKKD hiểu rõ và
nắm chắc kiến thức, quy định của nhà nước trong trong ĐKKD và quản lý doanh
nghiệp, từ đó, làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật
đến doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
3.2.3 Đa dạng hóa và hiệu quả trong phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng
ký kinh doanh ở tỉnh Cao Bằng
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa và vị trí hết sức quan
trọng, là cầu nối để các chính sách pháp luật đi vào cuộc sống, đến được với mọi
tầng lớp nhân dân, là khâu đầu tiên của quá trình thực thi pháp luật và là một bộ
phận quan trọng không thể tách rời của công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Nhận
thức được vai trò quan trọng của công tác này, cũng như ở các lĩnh vực khác, pháp
luật về ĐKKD không chỉ nhằm răn đe, xử lý đối với hành vi vi phạm mà còn nhằm
giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật về ĐKKD. Biện pháp này
chỉ được áp dụng thực hiện khi đã tuyên truyền, phố biến pháp luật mà vẫn có sự vi
phạm. Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
ĐKKD đã được sự quan tâm, chú trọng và triển khai thực hiện trên tinh thần chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước ta, tuy nhiên hiệu quả của công tác này cho đến nay vẫn
chưa đạt hiệu quả cao. Trong lĩnh vực ĐKKD - một lĩnh vực mà khi có sự vi phạm
sẽ ảnh hưởng đến kinh tế -xã hội. Như vậy lĩnh vực này cần được chú trọng và đầu
tư xứng đáng hơn nữa ở công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các
chủ thể của xã hội.
Thứ nhất, nội dung tuyên truyền, giáo dục, phố biến phải toàn diện, đa dạng,
phong phú, bao hàm một cơ cấu thông tin hợp lý, hướng đến những trọng tâm cần
tuyên truyền trong lĩnh vực ĐKKD. Cần lựa chọn những văn bản điều chỉnh trực
tiếp lĩnh vực này để công tác này được diễn ra chính xác và đạt hiệu quả; xử lý
nghiêm đối với những trường hợp vi phạm pháp luật ĐKKD.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về
ĐKKD, trước hết phải hiểu rõ tinh thần của các quy định pháp luật, bên cạnh đó còn
92
phải có các kỹ năng tuyên truyền để sao cho nội dung tuyên truyền qua những ngôn
ngữ truyền tải phù hợp với loại đối tượng tuyên truyền để cho họ có ý thức cao về
pháp luật từ đó tự giác thi hành.
Thứ ba, về cách thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật:
Cán bộ làm công tác tuyên truyền cần sử dụng biện pháp nêu gương. Trước
hết chính những người làm công tác tuyên truyền này cần phải có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh về ĐKKD để những nội dung truyền đạt trở nên có giá trị đối với các
đối tượng hướng đến.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật và hỗ trợ tư vấn đối với
doanh nghiệp, hộ kinh doanh khi đăng ký kinh doanh.
Các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội cần thường xuyên tiến
hành tuyên truyền, phổ biến pháp luật dưới mọi hình thức, kết hợp với các phương
tiện thông tin đại chúng như hệ thống truyền thanh cơ sở; báo viết; báo điện tử…để
tuyên truyền nội dung pháp luật về ĐKKD đến các đối tượng liên quan.
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Cao Bằng tham mưu mở các lớp tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về doanh nghiệp cho các tổ chức, cá nhân quan tâm. Ngoài ra
cần quan tâm, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tư vấn pháp luật và hỗ trợ miễn phí cho
doanh nghiệp bằng nhiều hình thức: trực tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh; tư
vấn hỗ trợ qua điện thoại; email; xây dựng cẩm nang, sổ tay hướng dẫn thủ tục hành
chính đăng ký kinh doanh….qua đó cơ quan ĐKKD có thể tiến hành hướng dẫn,
phổ biến các quy định của pháp luật đến các chủ thể kinh doanh, phát động phong
trào khởi nghiệp, tạo được sự hứng khởi cho các tổ chức, cá nhân nhanh chóng gia
nhập vào thị trường.
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng hiện nay, số lượng hộ kinh doanh đăng ký hoạt
động hàng năm tương đối lớn, với sự phát triển nhanh về số lượng. Tuy nhiên, trước
bối cảnh hội nhập, việc sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, thiếu tính liên kết như các hộ
kinh doanh hiện nay sẽ rất khó cạnh tranh. Do vậy, cần khuyến khích các hộ kinh
doanh nếu đủ điều kiện thì nên chuyển đổi mô hình hoạt động thành doanh nghiệp
và coi đây là nhiệm vụ then chốt tạo đà thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trên
93
địa bàn tỉnh Cao Bằng. Muốn vậy, phải đơn giản hóa TTHC đối với việc thành lập
và vận hành doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu
nhỏ, cần có các tổ chức tư vấn miễn phí và hỗ trợ chuyên nghiệp cho các hộ kinh
doanh, luôn đồng hành, hỗ trợ cùng họ, để doanh nghiệp từng bước phát triển khẳng
định được vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế chung của tỉnh.
3.2.4 Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, ứng dụng phục vụ tổ
chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh tại Cao Bằng
Đây là điều kiện vật chất không thể thiếu cho hoạt động thực hiện pháp luật
ĐKKD. Do đó trong quá trình thực hiện phải luôn luôn đáp ứng đủ cơ sở vật chất
kỹ thuật, công nghệ, nguồn tài chính. Có đáp ứng được điều kiện về cơ sở vật chất
kỹ thuật, công nghệ và nguồn tài chính thì công tác thực hiện pháp luật ĐKKD mới
có thể triển khai hiệu quả trên thực tế, bắt kịp với xu hướng phát triển trên thế giới.
Đề nghị Cục Đăng ký kinh doanh-Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm triển khai Hệ
thống Đăng ký kinh doanh Quốc gia đối với Hộ gia đình trên toàn quốc, đảm bảo
liên thông giữa cơ quan ĐKKD và cơ quan Thuế để cấp mã số Thuế tự động, giải
quyết TTHC đăng ký hộ kinh doanh nhanh hơn, hiệu quả hơn giúp giảm chi phí gia
nhập thị trường cho Hộ gia đình. Việc số hóa dữ liệu Hộ ĐKKD lên Hệ thông
ĐKKD Quốc gia sẽ giúp cho nhà Quản lý các cấp có dữ liệu, phân tích, tổng hợp
phục vụ công tác quản lý kịp thời, đảm bảo minh bạch về thông tin Hộ kinh doanh,
Người dân và tổ chức có thể tra cứu thông tin (nếu cần).
Hoàn thiện trang ĐKDN, công bố thông tin doanh nghiệp theo hướng trực
quan hơn (hướng dẫn) ngay trên màn hình để sử dụng hơn, các chức năng hoạt động
tốt hơn. Hoàn thiện Chương trình Đăng ký doanh nghiệp Quốc gia để có thể khai
thác dữ liệu chung với Thuế các thông tin, đặc biệt là các báo cáo tài chính của
Doanh nghiệp, thuận lợi hơn trong quản lý, các loại báo cáo khác cung cấp phục vụ
các cơ quan QLNN.
Đối với tỉnh Miền núi biên giới như Cao Bằng, còn nhiều hạn chế về nguồn
lực tài chính, việc thực hiện đúng quy định về điều kiện cơ sở vật chất, nhất là diện
tích của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả là rất khó khăn nếu chỉ dựa vào nguồn lực
94
địa phương. Do vậy, đề nghị Chính phủ xem xét hỗ trợ kinh phí để Cao Bằng có
điều kiện đầu tư xây dựng phòng làm việc, trang thiết bị cho Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả, đặc biệt là trang bị cơ sở, vật chất, trang thiết bị thiết yếu để hỗ trợ triển
khai nhận rộng Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại cấp huyện trên địa bàn.
3.2.5 Kiểm soát có hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Hậu kiểm là quá trình giám sát của cơ quan nhà nước đối với hoạt động của
Doanh nghiệp sau khi được cấp GCN ĐKKD tạo ra một môi trường kinh doanh
lành mạnh, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước và thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật. Tăng cường hậu kiểm trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết .
Hoàn thiện quy định quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh từ “tiền kiểm ”
sang “hậu kiểm”
Một doanh nghiệp khi hoạt động trên thương trường, không thể không có sự
kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên sự kiểm soát như thế nào cho có hiệu quả, một
mặt vẫn đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp mặt khác, vẫn đảm bảo
sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động ĐKKD. Pháp luật về ĐKKD cần hướng
tới sự quản lý từ khâu “tiền kiểm” sang khâu “hậu kiểm”. Bởi lẽ, đây là hoạt động
nâng cao sự quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau khi đã đăng ký thành lập,
đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp
theo từng lĩnh vực hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp; mỗi cơ quan sẽ chịu
trách nhiệm quản lý hoạt động của doanh nghiệp trong từng lĩnh vực chuyên ngành
tương ứng. Chú trọng ban hành quy phạm pháp luật cho người dân trong xã hội có
quyền tham gia giám sát doanh nghiệp từ khi thành lập cho tới khi kết thúc hoạt
động kinh doanh. Hiện nay, một mô hình “hậu kiểm” là mô hình mà ở đó bao gồm
bảy thành tố: kiểm tra giám sát nội bộ doanh nghiệp; kiểm tra giám sát của chủ nợ;
kiểm tra của Hiệp hội người tiêu dùng; kiểm tra của đối thủ cạnh tranh; kiểm tra của
các hội nghề nghiệp; kiểm tra giám sát của xã hội và công luận và cuối cùng mới là
kiểm tra giám sát của Nhà nước.
95
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật
ĐKKD cần được tiếp tục đẩy mạnh thực hiện. Để từ đó phát hiện, chấn chỉnh kịp
thời những yếu kém, sai phạm.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn được đặt ra ở các cơ chế quản lý
nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này trong
lĩnh vực ĐKKD cần được nâng cao hơn nữa.
Cần tạo điều kiện để đông đảo các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp có
thể tham gia tích cực vào quá trình kiểm tra, giám sát vấn đề ĐKKD mọi lúc, mọi
nơi và kịp thời phát hiện sai phạm, có hướng xử lý đúng đắn, kịp thời. Hơn nữa, khi
có sự tham gia của xã hội vào công tác này thì không những giám sát được những
sai phạm của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm mà còn có tác
động lớn đến hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, làm cho hoạt động này sẽ
trở nên minh bạch, công bằng và đạt hiệu quả cao hơn trong công tác đấu tranh
phòng chống những sai phạm, những tiêu cực trong hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát.
Nếu chỉ đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát mà không kết hợp
chặt chẽ với việc xử lý nghiêm minh, kịp thời các sai phạm thì sẽ không mang lại
hiệu quả cao trong công tác chung là khắc phục tình hình vi phạm về ĐKKD. Thực
tế cho thấy nếu chỉ thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chỉ để phát
hiện vi phạm rồi vì nguyên nhân nào đó mà bỏ qua hoặc chỉ xử lý nhẹ nhàng, không
phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm thì không những không hạn chế được những
vi phạm mà còn làm cho các chủ thể vi phạm có những ý thức không tôn trọng pháp
luật, chủ thể vi phạm không “sợ” bị xử lý, làm cho tình hình vi phạm trong lĩnh vực
ĐKKD ngày càng trở nên xấu đi.
Do đó, sau khi tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ
chức thực hiện pháp luật ĐKKD nếu phát hiện có vi phạm thì vụ việc cần phải được
xử lý một cách nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
ĐKKD sao cho phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. Có thể áp dụng
nhiều hình thức xử phạt, mức phạt áp dụng đủ sức răn đe, phòng ngừa chung. Hơn
96
nữa, hoạt động và quá trình xử lý phải được tiến hành công khai, thông tin về vi
phạm phải được minh bạch để tác động vào ý thức tuân thủ pháp luật của họ.
3.2.6 Các giải pháp khác
- Nghiên cứu xây dựng, rà soát cơ chế chính sách để triển khai Luật doanh
nghiệp và các văn bản hướng dẫn và điều chỉnh liên quan kịp thời, rà soát và xây
dựng các cơ chế chính sách về hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, chính sách ưu đãi đầu tư,
thu hút đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư. Xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt
Nghị quyết 19/NQ-CP, Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ phù hợp với đặc điểm,
điều kiện của tỉnh Cao Bằng; triển khai quyết liệt việc thực hiện Đề án nâng cao năng
lực cạnh tranh (PCI) tỉnh Cao Bằng; tổ chức gặp mặt, đối thoại với Doanh nghiệp để
lắng nghe và giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp; tạo điều kiện
cho doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, hợp tác liên
doanh, liên kết phát triển sản xuất, thực hiện mô hình liên kết chuỗi gái trị hàng hóa,
dịch vụ.
- Công cuộc cải cách công tác ĐKKD cần tiếp tục được đẩy mạnh nhằm từng
bước đưa quy trình quản lý ĐKKD của Việt Nam tiến gần hơn với chuẩn mực quốc
tế, qua đó tạo môi trường kinh doanh tiên tiến, hiệu quả cho cộng đồng DN, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, nhất là cải cách mạnh mẽ về khung khổ pháp lý, về cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin cùng với việc thay đổi tư duy quản lý của cán bộ ĐKKD.
Tăng cường tuyên truyền, mở rộng hình thức ĐKKD qua mạng: Nhằm mục
đích phổ cập hóa công nghệ thông tin trong công tác ĐKKD đến mỗi doanh nghiệp,
người dân. Tuyên truyền cho doanh nghiệp người dân thấy lợi ích của việc ĐKKD
qua mạng, triển khai tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả TTHC qua dịch vụ công ích đảm
bảo triển khai đồng bộ TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.
Tại mỗi địa phương cần phải xây dựng chi tiết các thủ tục từ việc tiếp nhận
và trả kết quả hồ sơ, tra cứu bằng số điện thoại, tin nhắn, email, xây dựng trang web
tổng hợp thông tin hồ sơ thành lập doanh nghiệp, xây dựng mạng kết nối nội bộ,
mạng kết nối với cơ quan thuế…chuẩn bị máy móc đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu
công việc.
97
Thường xuyên tiến hành kiểm tra, theo dõi, quy trình thực hiện công việc kinh
doanh qua mạng tại các cơ quan đăng ký kinh doanh, phối kết hợp với các cơ quan
khác để trả kết quả đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp một cách nhanh nhất.
Tăng cường CCHC, rút ngắn thời gian giải quyết TTHC cho người dân và
doanh nghiệp.
- Tăng cường tính minh bạch của MTKD thông qua việc công khai hóa và xã
hội hóa thông tin có giá trị pháp lý về ĐKDN.
- Nghiên cứu, xây dựng và thực hiện triển khai bộ Chỉ số đánh giá năng lực
cạnh tranh các sở, ngành và UBND cấp huyện (DDCI) của tỉnh Cao Bằng nâng cao
hiệu quả công tác theo dõi, giám sát, đánh giá đúng, khách quan, minh bạch quá
trình thực hiện và chất lượng công tác cải thiện chỉ số PCI tại các sở, ban, ngành,
địa phương trong tỉnh.
-Tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, tổ chức các cuộc nghiên cứu, học tập
phương thức hỗ trợ doanh nghiệp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tổ
công tác hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh; tạo môi trường và sự kết nối thường xuyên giữa lãnh
đạo tỉnh và doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời khó khăn cho doanh nghiệp.
- UBND tỉnh Cao Bằng sắp ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan
chức năng trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã
(HTX), liên hiệp HTX sau đăng ký thành lập. Qua đó, hy vọng công tác này sẽ có
những thay đổi tích cực hơn khi trách nhiệm của từng cơ quan được phân định rõ
ràng, cụ thể, gắn với chức năng, nhiệm vụ. Các đơn vị như Sở Kế hoạch và Ðầu tư,
Cục Thuế tỉnh cùng các đơn vị liên quan và chính quyền các huyện, thành phố
thường xuyên trao đổi, cung cấp, công khai thông tin doanh nghiệp, nhất là trên hệ
thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Chính quyền các huyện, thành
phố đã tích cực kiểm tra doanh nghiệp, quản lý về việc đáp ứng các điều kiện đối
với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tuân thủ an toàn lao động, bảo vệ môi
trường, vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, các cấp chính quyền tiếp tục
quan tâm chỉ đạo công tác tổ chức thực hiện ĐKKD như: muốn doanh nghiệp hoạt
98
động đúng luật, cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, đa dạng hóa các phương thức hỗ
trợ, cắt giảm thời gian giải quyết TTHC, đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin
về thành lập hoạt động doanh nghiệp, nâng cao cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin
giữa các cơ quan quản lý nhà nước, thay đổi tư duy quản lý nhà nước từ “tiền kiểm”
sang “hậu kiểm”, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho doanh nghiệp gia
nhập thị trường và sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
99
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trong chương 3, mục tiêu, phương hướng và giải pháp bảo đảm tổ chức thực
hiện pháp luật về ĐKKD trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, luận văn đã tập trung làm rõ
02 nội dung chính:
Phân tích mục tiêu, phương hướng, tổ chức thực hiện pháp luật ĐKKD ở tỉnh
Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay.
Từ thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD, luận văn đã đi sâu
nghiên cứu, đề xuất 05 nhóm giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD, trong đó trọng tâm là hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp, kiện
toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực của cán bộ trong lĩnh vực ĐKKD; tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức và thực hành
pháp luật về ĐKKD; đảm bảo và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ trong
công tác thực hiện pháp luật ĐKKD, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm minh các trường hợp vi phạm về ĐKKD và một số giải pháp khác.
Chắc chắn với những giải pháp trên cùng sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ
thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật ĐKKD trên địa bàn Cao Bằng sẽ tiếp tục có chuyển biến mạnh mẽ,
bền vững, hiệu quả trong thời gian tới góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
100
KẾT LUẬN
ĐKKD là bước khởi đầu cho mỗi doanh nghiệp vừa mang ý nghĩa đối với
doanh nghiệp, vừa mang ý nghĩa đối với công tác QLNN. Tại Việt Nam, công tác
thực hiện pháp luật về ĐKKD đang có sự chuyển mình mạnh mẽ cùng với những
chính sách mới được đưa ra theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Qua
khảo sát tình hình ĐKKD tại Cao Bằng, tác giả đã có được một góc nhìn phản chiếu
tình trạng thực thi pháp luật về ĐKKD tại một tỉnh miền núi Biên giới phía Bắc.
Trên cơ sở đó, tác giả đã rút ra được những đúc rút giúp hoàn thiện cơ chế tổ chức
thực hiện pháp luật về ĐKKD tại Việt Nam và tổ chức thực hiện pháp luật về
ĐKKD tại Cao Bằng có hiệu quả hơn trong thời gian tới thông qua việc đề xuất 05
nhóm giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về ĐKKD, trong đó trọng tâm
là hoàn thiện các quy định của Luật Doanhn nghiệp, kiện toàn tổ chức bộ máy và
nâng cao năng lực của cán bộ trong lĩnh vực ĐKKD; tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức và thực hành pháp luật về ĐKKD;
đảm bảo và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ trong công tác thực hiện
pháp luật ĐKKD, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các
trường hợp vi phạm về ĐKKD và một số giải pháp khác.
Thiết nghĩ, để bảo đảm thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng cần áp dụng đồng bộ tất cả các giải pháp với quyết tâm chính trị
cao của cả hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh.
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản cam kết của Chủ tịch UBND tỉnh với Chủ tịch phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) cam kết tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho
các doanh nghiệp.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), “Báo cáo tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp
năm 2005”.
3. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2010), “Quyết định 337/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và
đầu tư về việc ban hành Quy định nội dung Hệ thống ngành kinh tế của Việt
Nam, Hà Nội”.
4. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2011), “Đề án 8925/ĐA-BKHĐT về Đổi mới QLNN đối
với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập”.
5. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2011), “Quyết định 337/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và đầu
tư về việc ban hành Quy định nội dung Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam”.
6. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2015), “Thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày
01/12/2015 hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp”.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), “Công văn 4211/BKHĐT-ĐKKD năm 2015
hướng dẫn áp dụng quy định về đăng ký doanh nghiệp”, Hà Nội.
8. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2017), “Quyết định 1888/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch
và đầu tư về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản
lý Đăng ký kinh doanh”.
9. Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 (277)”.
10. Chính Phủ (2015), “Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư 2014”.
11. Chính phủ (2015), “Nghị quyết 59/NQ-CP năm 2015 triển khai thi hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư”.
12. Chính Phủ (2015), “Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 04/02/2015 của Chính phủ
về việc cải cách thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp”.
102
13. Chính Phủ (2015), “Nghị quyết số 59/NQ-CP ngày 07/8/2015 về thi hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư”.
14. Chính Phủ (2016), “Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020”.
15. Chính Phủ (2016), “Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về
hôc trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020”.
16. Chính phủ (2015), ”Nghị định số 96/2015/NĐ-CP, ngày 19/10/2015 về Quy
định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp 2014”.
17. Chính phủ (2018), “Nghị định số 78/2014/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính
phủ về đăng ký doanh nghiệp (thay thế Nghị định số 43/2010/NĐ-CP)”.
18. Chính phủ (2018), “Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP, ngày 15/5/2018 về tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo”.
19. Chính phủ (2016), “Nghị định số 50/2016/NĐ-CP ngày 01/6/2016 quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kế hoạch và Đầu tư”.
20. Hoàng Thanh Tuấn (2017), Bài viết “Những thành tựu nổi bật trong quá trình
phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế” trên cổng thông
tin Doanh nghiệp ngày 02/08/2017”.
21. Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng (2014), “Nghị quyết số 58/2016/NQ-HĐND
về chính sách đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp, HTX đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
22. Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), “Nghị quyết số 10/2017/NQ-HĐND
về Bãi bỏ Nghị quyết số 10/2017/NQ-HĐND về cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
23. http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTin
TongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=10038368.
24. https://dangkykinhdoanh.gov.vn/AboutUs.aspx.
103
25. Https://dangkykinhdoanh.gov.vn/Default.aspx?tabid=105&ArticleID=3023&langu
age=en-GB, Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhìn lại 10 năm
hình thành và phát triểnTrần Thị Hồng Minh,Cục Quản lý đăng ký kinh doanh).
26. https://dangkykinhdoanh.gov.vn/NewsandUpdates/tabid/91/ArticleID/1822/Di
%E1%BB%85n-%C4%91%C3%A0n-%C4%91%C4%83ng-k%C3%BD-kinh-
doanh-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-2015-
t%E1%BB%ABth%E1%BB%B1c-ti%E1%BB%85n-qu%E1%BB%91c-
t%E1%BA%BF-%C4%91%E1%BA%BFn-b%C3%A0i-h%E1%BB%8Dc-
t%E1%BA%A1i-Vi%E1%BB%87t-Nam.
27. Đỗ Đình Chuyển (2015), Luận văn Thạc sỹ “Quản lý nhà nước đối với Doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Lê Thế Phúc (2006), Luận văn thạc sỹ “Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh
nghiệp Việt Nam-thực trạng và một vài kiến nghị”, Đại học quốc gia Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Nga (2016), Luận văn thạc sỹ “Thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), Luận án tiến sỹ “Pháp luật về đăng ký kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay” Học viện Khoa học xã hội.
31. Nguyễn Thị Khánh Chi (2012), Luận văn thạc sỹ “Giải pháp hoàn thiện công
tác đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” Trường Đại học kinh tế và
quản trị kinh doanh.
32. Nguyễn Thị Việt Anh (2013), Luận văn Thạc sỹ ”Hoàn thiện công tác đăng ký
kinh doanh ở Việt Nam đến năm 2020" Đại học kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội.
33. Phạm Thị Ngọc Anh (2012), Luận văn Thạc sỹ “Quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng”, Đại học Đà Nẵng.
34. Phạm Phương Nam (2017), Luận văn thạc sỹ “Đăng ký kinh doanh theo luật
Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh”, Học Viện khoa học xã hội.
35. Vũ Mạnh Anh (2008), Luận văn thạc sỹ “ Thực trạng Quản lý nhà nước đối với
Doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
104
36. Quốc hội (2012), “Luật giáo dục Đại học số 08/2012/QH13”.
37. Quốc hội (2014), “Luật công chứng sô 53/2014/QH13”.
38. Quốc hội (2000), “Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10”.
39. Quốc hội (2006), “Luật Luật sư số 65/2006/QH11 và Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Luật sư số 20/2012/QH13”.
40. Quốc hội (1990), “Luật doanh nghiệp Số: 13/1990/QH10” thông qua ngày 12
tháng 6 năm 1990.
41. Quốc hội (1999), “Luật doanh nghiệp Số: 13/1999/QH10” thông qua ngày 12
tháng 6 năm 1999.
42. Quốc hội (2005), “Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11” thông qua ngày 21
tháng 11 năm 2005
43. Quốc hội (2014), “Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13” thông qua ngày 26
tháng 11 năm 2014.
44. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2011), “Quy chế làm việc của Sở” ban hành
theo Quyết định số 19/QĐ SKHĐT ngày 10/5/2011.
45. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2014-2017), “Báo cáo tổng kết năm 2014
đến 2017”.
46. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2018), “Báo cáo sơ kết 6 tháng năm 2018”.
47. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2016), “Quyết định số 43/QĐ-KHĐT ngày
06/10/2016 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phòng
Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư”.
48. Sổ tay quản lý chất lượng của Sở, ban hành năm 2011.
49. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1672/QĐ- TTg thành lập Tổ công
tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
50. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 20/CT-TTg về việc chấn chỉnh hoạt
động thanh tra, kiểm tra với doanh nghiệp.
51. Thủ tướng Chính phủ (2018), Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 13/7/2018 về tăng
cường cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành và cắt giảm, đơn giản hóa
điều kiện kinh doanh.
105
52. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 877/QĐ- TTg về việc ban hành
Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4.
53. Trần Anh Tuấn, Lê Thị Thanh Xuân và Mai Thị Hoàng Yến (2007), “Tài liệu
hướng dẫn môn Quản trị học” , Trường Đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh.
54. Trần Thị Hồng Minh (2017), Bài viết “Cải cách đăng ký kinh doanh và sự phát triển
của doanh nghiệp” trên trang điện tử của Tạp chí Tài chính ngày 26/11/2017.
55. Võ Huy Hùng (2018) “Làm rõ bản chất của Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp và trách nhiệm trong việc quản lý doanh nghiệp sau đăng ký thành lập”
trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp ngày 20/7/2018.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC
(Văn bản chỉ đạo điều hành)
1. Chương trình 07/CTr-TU ngày 29/4/2016 của Tỉnh ủy Cao Bằng về Định
hướng và hỗ trợ Doanh nghiệp và hợp tác xã giai đoạn 2016-2020 (Một trong 6
Chương trình trọng tâm mà Tỉnh ủy Cao Bằng ban hành để thực hiện Nghị quyết
của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XVIII).
2. Nghị quyết 79/2016/NQ-HĐND ngày 08/12/2016 của HĐND tỉnh Ban
hành mức thu, chế độ thu nộp lệ phí trên địa bàn tỉnh.
3. Quyết định số 1308/QĐ-UBND ngày 01/8/2016 của UBND Tỉnh Cao
Bằng Về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Chương trình hành động
cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư và nâng cao Chỉ số cạnh tranh (PCI) tỉnh
Cao Bằng giai đoạn 2016-2020.
4. Quyết định số 510/QĐ-UBND ngày 12/4/2017 của UBND Tỉnh Cao Bằng
về Phê duyệt Đề án Nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tỉnh Cao
Bằng, giai đoạn 2017-2020.
5. Kế hoạch số 1456/KH-UBND ngày 13/6/2016 của UBND Tỉnh Cao Bằng
về Kế hoạch hành động cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia hai năm 2016-2017 và định hướng đến năm 2020
6. Quyết định số 34/2015/QĐ- UBND ngày 22/10/2015 của UBND Tỉnh
Cao Bằng quyết định ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa
liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
7. Chỉ thị số 11/2015/CT-UBND ngày 04/9/2015 của UBND Tỉnh Cao Bằng
về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn Quốc gia TCVN ISO 9001:2008.
8. Quyết định 22/2015/QĐ- UBND ngày 27/7/2015 của UBND Tỉnh Cao
Bằng về việc Ban hành quy chế tiếp công dân trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
9. Quyết định 21/2015/QĐ- UBND ngày 21/7/2015 của UBND Tỉnh Cao
Bằng ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN về xử lý vi phạm hành
chính trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
10. Quyết định 02/2015/QĐ- UBND ngày 20/1/2015 của UBND Tỉnh Cao
Bằng ban hành Quy định về quy trình tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết
TTHC tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông của các cơ quan HCNN trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng.
11. Quyết định số 1566/QĐ-UBND ngày 25/9/2017 của Ủy ban Nhân dân
tỉnh Cao Bằng về việc công bố TTHC được chuẩn hóa thuộc thẩm quyền giải quyết
của Sở KH&ĐT
12. Quyết định số 994/QĐ-UBND ngày 22/7/2018 của Chủ tịch UBND Tỉnh
Cao Bằng cắt giảm thời gian giải quyết so với quy định tại các văn bản QPPL.
13. Quyết định số 1271/QĐ-UBND ngày 17/8/2017 của Chủ tịch UBND
Tỉnh Cao Bằng về việc thành lập Tổ công tác Hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Cao Bằng.
14. Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp hàng năm (từ năm 2014-
2018)
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao bằng ( ), “Quyết định số 2283/QĐ-UBND
quyết định V/v công bố TTHC mới, TTHC được sửa đổi, bổ sung, TTHC bị bãi bỏ
thuộc thẩm quyền giải quyết của sở KH&ĐT”.
16. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao bằng (2016), “Quy định chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức ban hành theo Quyết định số 16/2016/QĐ-UBND
ngày 7/9/2016 ”;
17. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), “Quyết định số 510/QĐ-UBND,
ngày 12/4/2017 phê duyệt Đề án Nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh tỉnh Cao
Bằng giai đoạn 2017-2020”.
18. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2016), “Công văn số 3437/UBND-TH,
ngày 25/11/2016 về việc tăng cường triển khai thực hiện các nội dung theo cam kết
của UBND tỉnh với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)”.
19. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), “Kế hoạch số 469/KH-UBND,
ngày 27/02/2017 về thực hiện Nghị quyết 19-2017/NQ-CP của Chính phủ”.
20. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), “Quyết định số 1566/QĐ-UBND
ngày 25/9/2017 về việc công bố TTHC được chuẩn hóa thuộc thẩm quyền giải
quyết của Sở KH&ĐT”.
21. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2017), “Quyết định số 1969/QĐ-UBND
ngày 02/11/2017 về việc công bố TTHC cấp huyện, cấp xã được chuẩn hóa trong
các lĩnh vực QLNN của ngành KH&ĐT trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
22. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2018), “Báo cáo đánh giá giữa nhiệm
kỳ 2016-2021”.
23. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2018), “Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày
26/01/2018 tăng cường kỷ luật kỷ cương nâng cao năng lực quản lý, phục vụ công
dân và doanh nghiệp trong các cơ quan HCNN trên địa bàn tỉnh Cao Bằng”.
24. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng (2015), Quyết định số 21/2015/QĐ-
UBND ngày 21/5/2015 Ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện QLNN về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
25. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2018), “Quyết định số 27/QĐ-
KH&ĐT ngày 16/4/2018 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng về Quy chế tổ
chức, hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết TTHC của Sở, theo
Quyết định số 27/QĐ-KH&ĐT ngày 16/4/2018”.
26. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2018), “Quyết định số 31/QĐ-
KH&ĐT ngày 18/4/2018 về Công bố cắt giảm thời gian giải quyết TTHC thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng”.
27. Sở Kế hoạch và Đầu tư Cao Bằng (2017), “Quyết định số 1570/QĐ-
KH&ĐT ngày 02/10/2017 về công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp Tiêu
chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 đối với các lĩnh vực hoạt động của Sở Kế
hoạch và Đầu tư”.
BÁO CÁO
KẾT QUẢ TỔNG HỢP PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN DOANH NGHIỆP
Nhằm mục tiêu đánh giá được năng lực phục vụ của các cơ quan liên quan cấp
tỉnh/ địa phương đối với doanh nghiệp và cộng đồng, UBND tỉnh Cao Bằng tiến
hành lấy ý kiến khảo sát của doanh nghiệp đổi với một số lĩnh vực cơ bản. Trong
phiếu khảo sát, thuật ngữ “doanh nghiệp” bao gồm cả hợp tác xà và hộ kinh doanh
cá thể.
Trả lời bằng hình thức đánh dấu vào 01 phương án lựa chọn ở mỗi dòng; một
câu hỏi có thể lựa chọnnhiều phương án. Kểt quả như sau:
+ Có 65 doanh nghiệp gửi lại phiếu đã trả lời vào hòm phiếu đặt tại khu vực
Tọa đàm. Trong đó có 22/65 (33,85%) phiếu đóng góp ý kiến, đề xuất nhằm cải
thiện năng lực điều hành của Sờ, Ban, Ngành và cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh trên địa bàn (câu hỏi số 9).
+ Cụ thể về kết quả các câu hỏi khảo sát như sau:
1- Doanh nghiệp nhận xét gì về chất lƣợng các cổng thông tin điện tử
(website có tên miền kết thúc bằng đuôi gov.vrO của các Sở, Ban, Ngành tỉnh
Cao Bằng?
1- Thông tin trên webside không phong phú, thông tin chậm được cập nhật:
31/65 ý kiến- chiếm 47,69%.
2- Website đáp ứng nhu cầu thông tin của Doanh nghiệp: 23/65 ý kiến-
chiếm 35,38%
3- Mất nhiều thời gian để tìm được thông tin: 21/65 ý kiến- chiếm 32 31%
4- Dễ dàng tìm được thông tin cần thiết trên website: 21/65 ý kiến-chiếm
32 3%
5- Yêu cầu thủ tục đăng ký và truy cập phức tạp: 9/65 ý kiến- chiếm 13 8%
6- Website thường xuyên đổi mới, có các bài viết, bài nghiên cứu chất lượng:
: 9/65 ý kiến- chiếm 13,8%.
7- Ý kiến khác:
- Hướng dẫn của cán bộ để đăng nhập Website còn thiếu nhiệt tình.
- Không có thông tin, cần xây dựng lại.
- Cần tạo điều kiện tiếp cận thông tin nhanh nhất đển doanh nghiệp.
2- Doanh nghiệp nhận xét gì về chất lượng dịch vụ một cửa của sở, Ban
Ngành tỉnh Cao Bằng trong tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính (TTHC)?
1- Có hiện tượng cán bộ gây khó khăn/trì hoãn thủ tục để trục lợi: 37/65 ý
kiến- chiếm 56,9%.
2- Thủ tục được niêm yết công khai tại bảng thông tin/bảng hướng dẫn-
25/65 ý kiến- chiếm 38,5%
3- Quy trình và thủ tục dễ hiểu, dễ thực hiện: 18/65 ý kiến- chiếm 27 7%
4- Phí và lệ phí công khai minh bạch; thời gian giải quyết TTHC theo đúng
quy định của pháp luật hiện hành: 18/65 ý kiến- chiếm 27 7%
5- Cán bộ ứng xử chuyên nghiệp đúng mực; hỗ trợ doanh nghiệp nhanh
chóng hoàn thành các thủ tục, vướng mắc đúng quy định của pháp luật: 5/65 ý
kiến- chiếm 7,6%
6- Ý kiến khác:
- Các bộ phận một cửa của sở, ban, ngành tỉnh trong tiếp nhận và giải quyết
thủ tục hành chính chậm và không triệt để.
- Cần cải thiện hơn nữa chất lượng một cửa của sở, ban, ngành.
- Nhiều thủ tục còn rườm rà, không hiệu quả; phải có phong bì cán bộ mới
giải quyết nhanh công việc.
- Chưa có cải thiện, còn nhiều nhiêu khê.
- Cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp hơn nữa, rất khó khăn khi muốn tiếp
cận với các lãnh đạo.
3- Doanh nghiệp đã nhận đuợc những hỗ trợ gì do các sở, Ban, Ngành
tỉnh Cao Bằng cung cấp?
1- Mời tham gia các buổi đối thoại doanh nghiệp: 42/65 ý kiến- chiếm
64,6%.
2- Mời tham gia các buổi tập huấn, phổ biến chính sách, quy định pháp luật:
34/65 ý kiến- chiếm 52,3%.
3- Hỗ trợ tham gia các hội chợ thương mại: 11/65 ý kiến- chiếm 16,9%.
4- Tư vấn tiếp cận thông tin thị trường: 8/65 ý kiến- chiếm 12,3%.
5- Hỗ trợ về mặt pháp lý: 6/65 ỷ kiến- chiếm 9,2%.
- Nhận được hỗ trợ về tài chính trong việc xây dựng và triên khai các dự án
ư: 3/65 ý kiến- chiếm 4,6%.Các sở, ban, ngành không có hỗ trợ gì cho cộng
đồng doanh nghiệp.
- Thủ tục triển khai đầu tư còn rất nhiều rườm rà, mất nhiều thời gian từ khi
Trung ương giao vốn đến khi thi công.
- ít nhận được các hỗ trợ, đặc biệt là khâu tài chính.
- về phần pháp lý, hướng dẫn thủ tục không rõ ràng.
- Không có buổi tập huấn, phổ biến chính sách cho doanh nghiệp (chủ yếu
thực hiện ờ ngành Thuế).
- ít tổ chức các buổi tập huấn, nội dung tập huấn chưa phong phú, chưa phù
hợp với các loại hình doanh nghiệp.
4- Doanh nghiệp có những nhận định nhƣ thế nào về lãnh đạo (ngƣời
đứng đầu) các Sở , Ban, Ngành trong tỉnh?
1- Chưa giải quyết triệt để và nhanh chóng các vấn đề cụ thể của doanh
nghiệp: 43/65 ý kiến- chiếm 66,15%.
2- Cần điều chỉnh thái độ công tác và văn hóa giao tiếp ứng xử với doanh
nghiệp: 32/65 ý kiến- chiếm 49,23%.
3- Quan tâm, chỉ đạo cấp dưới giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan
đến hoạt động của doanh nghiệp: 21/65 ý kiến- chiếm 32,3%.
4- Lắng nghe, tiếp thu và trà lời thỏa đáng các vấn đề của doanh nghiệp:
15/65 ý kiến- chiếm 23,07%.
5- Có hành động cụ thể và thiết thực để giải quyết các vấn đề của doanh
nghiệp: 13/65 ý kiến- chiếm 20,0%.
6- Ý kiến khác:
- Cần quan tâm chỉ đạo nhiều hơn đổi với các sở, ngành,
- Cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp đã hoàn thành những công trình những
chưa được thanh toán.
5- Theo Doanh nghiệp, nhân tố nào đang cản trở quá trình hoạt động và
phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp?
1- Thủ tục hành chính còn nhiều khâu, nhiều bước, rườm rà, khó thực hiện:
50/65 ý kiến- chiếm 76,92%.
2- Chính quyền chưa năng động, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề
cho doanh nghiệp: 41/65 ý kiến- chiếm 63,07%.
3- Cac can bọ, cong chưc lam công tác quản lý hành chính nhũng nhiều gây
khó khăn cho doanh nghiệp: 37/65 ý kiến- chiếm 56,92%.
4- Chi phí không chính thức cao: 31/65 ý kiến- chiếm 47 69%.
5- Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu: 29/65 Vkiến-
chiếm 44,62%.
6- Ý kiến khác:
- 03 lần«đến phòng tiếp dân của Lành đạo UBND Thành phố, 02 lần đến
phòng Chánh VP UBND TP yêu cầu gặp Chủ tịch nhưng không được gặp*
- Luôn nhũng nhiễu nếu không có phong bì.
- Một số công trình đã 3-4 năm mà chưa được thanh toán
6- Doanh nghiệp cho biết ý kiến về lãnh đạo UBND tỉnh
1 - Khó tiếp cận biểu đạt ý kiến: 23/65 ý kiến- chiếm 35 38%.
2- Dê tiêp cận, biêu đạt ý kiên: 13/65 ý lciển- chiếm 20 0%
3- Còn lại: không có ý kiến
7- Nếu có một phƣơng án tiếp xúc vói lãnh đạo tỉnh để biểu đạt ý kiến,
xin hãy chọn một hình thức phù hợp để tiếp cận lãnh đạo
1- Gặp gỡ trực tiếp thông qua phòng tiếp dân: 50/65 ý kiến- chiếm 76 9%
2- Cà phê doanh nghiệp (như Đồng Tháp đang thực hiện): 17/65 ý kiến-
chiếm 26,2%.
3- Gọi điện thoại trực tiếp qua đường dây nóng: 0 phiếu.
8- Vui lòng đánh giá mức độ thực hiện cải cách thủ tục hành chính của các
đơn vị Sỏ’, Ban, Ngành của tỉnh Cao Bằng
1 Sở Kể hoạch và Đầu tư 15 Tốt 28 Khá 13 Trung bình 6 Yếu,
2 Sở Xây dựng 6 Tốt 24 Khá 18 Trung bình 5 Yếu, kém
3 Sở Văn hóa thể thao du lịch 8 Tốt 24 Khá 13 Trung bỉnh
4 Sở Nông nghiệp và PTNT 10 Tốt 22 Khá 15 Trung bình
5 Cục Hải quan tỉnh 10 Tốt 20 Khả 1 ỉ Trung bình
6 Văn phòng UBND tỉnh 12 Tốt 22 Khá 13 Trung bình
7 Sở Tài nguyên và Môi trường 6 Tốt 22 Khá 19 Trung bình 5 Yếu, kém 7 Yếu, kém 6 Yểu, kém 3 Yếu, kém 9 Yếu, kém
8 SỞLĐTBXH 3 Tốt 31 Khá 11 Trung bình
9 Sở Công thương 5 Tốt 24 Khá 15 Trung bình
10 BHXH tỉnh 6 Tốt 23 Khá 16 Trung bình
11 Cục thuế tỉnh 5 Tốt 26 Khá 17 Trung bình
12 Sở Ngoại vụ 5 Tốt 26 Khá 9 Trung bình
13 Sở Khoa học và Công nghệ 6 Tốt 25 Khá 9 Trung bình 3 Yểu, kém 7 Yếu, kém 4 Yếu, kém 7 Yếu, kém 5 Yếu, kém 4 Yểu, kém
kém 6 Tốt 22Khá 17 Trung bình 6 Yếu, kém
14 Sở Giao thông vận tải 15 Sở Tư Pháp 6Tốt 20Khá 13 Trung bình 4 Yếu, kém
16 Ban Quản lý Khu kinh tế 5 Tốt 20 Khá 12 Trung bình 5 Yếu, kém
17 CN Ngân hàng Nhà nước 10 Tốt 25Khá lO Trung bình 01Yếu,kém
18 Sở Nội vụ 6 Tốt 23 Khá 10 Trung bình 5 Yếu, kém
19 Sở Tài chính
(Không có trong bảng hỏi buổi
sáng, tuy nhiên doanh nghiệp đề
nghị đánh giá)
9- Doanh nghiệp có góp ý/đề xuất gì nhằm cải thiện năng lực điều hành
của Sở, Ban, Ngành và cải thiện môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh cho doanh
nghiệp trên địa bàn?
1- Các sở, ngành cần có biện pháp để phổ biến, cập nhật thường xuyên,
nhanh chỏng các quy định, văn bản về chính sách,... đen doanh nghiệp.
2- Cần phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, áp dụng CNTT vào sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp quảng bá hình ảnh và chú trọng công
tác quảng bá hình ảnh của địa phương.
3- Sở Tài chính Cao Bằng yếu kém về chuyên môn, đặc biệt là phẩm chất
đạo đức của chuyên viên tại các phòng của sở (cần thay đổi lãnh đao sở Tài chính
thì mới đưa Cao Bằne phát triển đươc).
4- Thủ tục cẩp phép xây dựng cần minh bạch, đơn giản hơn.
5- Đưa ra nhiều cơ chế để thu hút đầu tư đối với các doanh nghiệp trên địa
bàn và doanh nghiệp ngoài tỉnh, có chính sách hỗ trợ thiết thực, kịp thời, cụ thể đối
với các vấn đề của doanh nghiệp; phát triển tốt hệ thống cửa khẩu tại tỉnh.
6- Hạn chế thanh tra thuế, kiểm toán Nhà nước với doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng.
7- Đề nghị hỗ trợ doanh nghiệp theo định kỳ tháng hoặc quý để nắm bắt khó
khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, nhất là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tạo đà phát triển cho tỉnh.
8- Nên rút ngắn thời gian, mạnh dạn đổi mới trong các khâu của thủ tục hành
chính, thanh tra, kiểm tra, tránh mất thời gian và các chi phí không chính thức cho
doanh nghiệp.
9- Lãnh đạo tỉnh cần quan tâm sắp xếp lịch làm việc hợp lý và giải quyết kịp
thời những vấn đề phát sinh trong tuần, tránh để tồn đọng.
10- Cần tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp; tránh hiện tượng lợi ích
nhóm.
11- Trong phần đánh giá mức độ thực hiện thủ tục hành chính của các sở, ban,
ngành cần có thêm các đơn vị liên quan đến quá trinh cấp phép cho doanh
nghiệpnhư: phòng Phòng cháy chữa cháy, phòng quản lý hành chính trật tự xã hội
của Công an tỉnh.
Trên đây là Bảo cáo kết quả bảng khảo sát doanh nghiệp tại Buổi tọa đàm “cải
thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tỉnh Cao Bằng- thực trạng và giải
pháp của nhóm hỗ trợ.
Tỷ lệ HS
Tỷ lệ HS
Bảng tông hợp các chỉ số năm 2016 Tỷ lệ HS số hoá (E)
TB TG
Tỷ lệ HS chấp
STT
Phòng ĐKKD
SL HS xử lý (H)
qua mạng (M)
đúng han (Đ)
xử lý (TTĐ)
phố Hải Thành phố Cần Thơ Thành phố Đà Nẵng Thành phố Hà Nội Thành
Phòng Minh
SL HS xử lý/cán bô 1092 (HN) 1874 2259 1632 4671 1131 972 301 996 93 1528 598 3734 261 783 690 1047 325 766 471 145 1395 512 716 188 805 569 1067 739 397 1227 982 739 284 175 246 357
TB TG xử lý (TM) 3.49 3.53 2.39 2.22 3.37 3.45 2.69 1.93 3.05 2.90 1.34 1.11 2.70 2.50 2.98 2.77 2.44 1.39 1.83 1.75 2.97 2.74 2.38 2.04 2.89 3.05 3.04 2.39 2.54 1.80 2.63 2.49 2.42 2.04 1.81 1.07 3.14 2.30 2.37 2.11 2.32 1.77 2.99 2.83 2.07 1.68 2.76 1.92 2.50 2.17 2.63 1.60 1.59 1.53 2.91 2.23 2.32 1.55 3.49 2.73 2.66 2.39 3.44 3.27 1.68 1.02 2.10 1.48 2.00 1.24 2.95 2.45 2.19 1.12
thuận (C) 90.00% 86.83% 82.64% 85.94% 84.14% 92.43% 90.61% 87.60% 91.66% 90.02% 87.71% 92.68% 87.58% 90.63% 90.08% 92.71% 91.49% 92.63% 91.96% 93.64% 92.78% 89.90% 91.13% 87.66% 89.76% 88.18% 92.69% 84.32% 87.17% 81.70% 90.08% 87.45% 92.27% 90.17% 94.70% 89.15% 91.06%
87.81% 78.49% 77.60% 77.40% 90.05% 95.84% 87.88% 90.40% 96.28% 96.42% 91.62% 95.74% 83.22% 95.04% 92.92% 91.26% 94.34% 98.44% 96.85% 91.47% 91.70% 82.79% 87.09% 90.03% 88.03% 96.81% 92.60% 95.05% 92.60% 93.82% 85.35% 80.75% 93.82% 95.41% 93.98% 96.11% 93.87%
87.87% 1.35% 70.95% 10.41% 58.48% 20.80% 80.22% 0.44% 58.74% 15.04% 76.50% 0.09% 89.51% 4.19% 91.57% 5.76% 86.90% 0.12% 81.65% 1.11% 55.81% 5.21% 67.77% 0.21% 44.87% 0.08% 78.50% 2.63% 86.21% 0.49% 86.35% 0.43% 72.50% 0.27% 63.55% 0.36% 69.72% 0.66% 86.12% 0.25% 87.61% 0.00% 62.85% 1.06% 81.78% 0.56% 82.35% 0.59% 82.58% 0.32% 86.54% 0.42% 67.17% 0.28% 62.13% 1.98% 59.28% 0.14% 71.90% 1.85% 68.97% 4.90% 77.47% 2.91% 38.16% 0.42% 66.97% 7.23% 78.22% 0.00% 89.30% 0.90% 75.93% 0.26%
8,734 26,230 128,740 14,692 247,548 4,524 7,776 1,507 3,984 556 7,638 2,392 22,404 5,229 3,915 3,451 4,189 974 5,360 1,412 581 22,324 3,074 3,580 752 2,414 4,551 6,404 2,954 1,986 6,133 11,780 5,910 1,420 698 1,476 2,140
Tàu
1 2 3 4 5 Thành phố Hồ Chí 6 Tỉnh An Giang 7 Tỉnh Bà Rịa - Vũng 8 Tỉnh Bạc Liêu 9 Tỉnh Bắc Giang 10 Tỉnh Bắc Kạn 11 Tỉnh Bắc Ninh 12 Tỉnh Bến Tre 13 Tỉnh Bình Dương 14 Tỉnh Bình Định 15 Tỉnh Bình Phước 16 Tỉnh Bình Thuận 17 Tỉnh Cà Mau 18 Tỉnh Cao Bằng 19 Tỉnh Đắk Lắk 20 Tỉnh Đắk Nông 21 Tỉnh Điện Biên 22 Tỉnh Đồng Nai 23 Tỉnh Đồng Tháp 24 Tỉnh Gia Lai 25 Tỉnh Hà Giang 26 Tỉnh Hà Nam 27 Tỉnh Hà Tĩnh 28 Tỉnh Hải Dương 29 Tỉnh Hậu Giang 30 Tỉnh Hòa Bình 31 Tỉnh Hưng Yên 32 Tỉnh Khánh Hoà 33 Tỉnh Kiên Giang 34 Tỉnh KonTum 35 Tỉnh Lai Châu 36 Tỉnh Lạng Sơn 37 Tỉnh Lào Cai
1466 1183 998 942 319 314 499 292 558 922 602 910 450 480 297 684 520 552 1027 664 869 727 233 347 746 188
2.33 2.95 3.04 3.03 2.86 2.32 2.23 2.14 2.46 1.52 2.23 2.46 2.66 2.40 1.61 2.96 2.59 3.24 2.90 2.77 1.22 1.35 2.62 1.51 1.97 3.17
2.23 1.92 2.75 2.70 2.15 1.95 1.50 1.59 1.70 1.21 1.95 2.26 2.50 2.13 1.46 1.64 2.44 2.65 2.56 2.86 0.99 1.05 2.11 1.29 1.41 3.08
87.00% 86.24% 75.24% 86.33% 38.14% 80.82% 88.85% 64.33% 72.53% 78.90% 70.65% 49.57% 86.95% 77.58% 90.66% 84.68% 89.23% 89.03% 86.58% 75.99% 87.19% 72.68% 78.17% 85.75% 89.46% 79.62%
0.13% 1.37% 0.62% 0.36% 5.26% 15.22% 0.97% 0.39% 20.63% 7.00% 0.91% 0.86% 0.54% 1.02% 0.19% 0.74% 0.82% 0.99% 0.61% 23.03% 0.20% 0.29% 2.42% 0.30% 0.96% 0.61%
89.81% 92.69% 94.24% 88.05% 95.08% 92.46% 93.47% 96.53% 96.56% 83.12% 93.91% 93.63% 93.99% 92.14% 97.73% 94.08% 80.94% 85.32% 94.69% 92.46% 93.84% 93.10% 92.73% 95.15% 95.28% 92.93%
90.92% 87.95% 89.61% 88.70% 90.40% 92.36% 92.50% 90.03% 90.48% 89.51% 91.63% 88.48% 91.46% 89.73% 95.54% 90.88% 90.18% 85.85% 90.38% 89.76% 92.39% 91.01% 87.95% 94.18% 92.35% 85.24%
5,863 38 Tỉnh Lâm Đồng 8,282 39 Tỉnh Long An 3,990 40 Tỉnh Nam Định 7,532 41 Tỉnh Nghệ An 2,554 42 Tỉnh Ninh Bình 2,195 43 Tỉnh Ninh Thuận 2,995 44 Tỉnh Phú Thọ 2,044 45 Tỉnh Phú Yên 3,349 46 Tỉnh Quảng Bình 5,530 47 Tỉnh Quảng Nam 4,211 48 Tỉnh Quảng Ngãi 9,096 49 Tỉnh Quảng Ninh 1,350 50 Tỉnh Quảng Trị 2,880 51 Tỉnh Sóc Trăng 1,188 52 Tỉnh Sơn La 3,420 53 Tỉnh Tây Ninh 3,120 54 Tỉnh Thái Bình 3,309 55 Tỉnh Thái Nguyên 7,191 56 Tỉnh Thanh Hoá 57 Tỉnh Thừa Thiên-Huế 3,981 3,474 58 Tỉnh Tiền Giang 2,906 59 Tỉnh Trà Vinh 930 60 Tỉnh Tuyên Quang 2,084 61 Tỉnh Vĩnh Long 3,729 62 Tỉnh Vĩnh Phúc 1,315 63 Tỉnh Yên Bái
Tổng số/Trung bình
677,950 1,311
2.92
2.90 64.85% 11.07% 86.93% 86.02%
Ghi chú:
H Chỉ số khối lượng hồ sơ đăng ký doanh nghiệp xử lý trong kỳ HN Chỉ số
khối lượng hồ sơ một cán bộ xử lý trong kỳ TM Chỉ số thời gian xử lý hồ sơ đăng ký
mới trung bình TTĐ Chỉ số thời gian xử lý hồ sơ đăng ký thay đổi trung bình E Chỉ số
tỷ lệ hồ sơ được số hóa trong kỳ M Chỉ số tỷ lệ hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử
C Chỉ số tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay trong lần đầu tiên (không yêu cầu
bổ sung hồ sơ)
Đ Chỉ số tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hạn đối với hồ sơ đăng ký thành lập mới
và hồ sơ đăng ký thay đổi doanh nghiệp