BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ MIÊN

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ

TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ MIÊN

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ

TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8 34 04 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI - NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công, đề tài “Tổ

chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội” là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới

sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh – Học Viện Hành chính Quốc

gia. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn trung

thực, chính xác và có nguồn gốc rõ ràng. Tên và nội dung luận văn không trùng

lặp với bất kỳ một công trình nào đã được công bố trước đây./.

Xin chân thành cảm ơn.

Tác giả Luận văn

Lê Thị Miên

LỜI CẢM ƠN

Luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối

với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội”, là kết quả của sự cố gắng,

nỗ lực nghiên cứu của bản thân tôi, sự tận tình chỉ bảo của người hướng dẫn,

sự giúp đỡ, tạo điều kiện từ phía cơ quan công tác.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị Diệu Qanh – Học

viện Hành chính Quốc gia người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi từ những

bước đầu xây dựng đề cương nghiên cứu cho đến khi hoàn thành luận văn.

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ,

động viên, chia sẻ, tạo những điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về thời gian,

thông tin, tư liệu.

Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn

của tôi không tránh được những thiếu xót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự

góp ý, bổ sung quý báu của các thầy, cô và độc giả.

Trân trọng cảm ơn./.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP

CÔNG LẬP ....................................................................................................... 9

1.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập 9

1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập 18

1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 28

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 33

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ

CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

TRỰC THUỘC SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 34

2.1. Khái quát chung về Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị

sự nghiệp công lập trực thuộc 34

2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội giai đoạn từ

năm 2015 đến tháng 6/2020 38

2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự

nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 65

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 74

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC

ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 76

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 76

3.2. Giải pháp chung bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 80

3.3. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 80

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................. 97

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 106

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020 .............................. 44

Bảng 2.2 Tổng hợp thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ............ 46

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 .. 46

Bảng 2.3. Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn

hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 ............... 53

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, đòi

hỏi cần phải tiếp tục tái cấu trúc chi ngân sách nhà nước hướng đến phát triển

kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế,

hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập để thực hiện mục tiêu tăng nguồn

thu và giảm chi từ nguồn ngân sách nhà nước. Việc thực hiện tự chủ về tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ không chỉ khơi dậy tính năng

động trong nền kinh tế mà còn phát huy tính năng động, sáng tạo trong nhiều

lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội.

Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội Trung ương 6 Khóa XII về

tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày

24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ

chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự

nghiệp công lập. Trong đó nêu rõ mục tiêu đến năm 2025-2030: Hoàn thiện đầy

đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hoá các chủ trương của Đảng về

đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp

công lập; Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng

cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã nỗ lực thực hiện cơ chế tự

chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và đạt được những kết quả tích cực

như: Các đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ tài chính, đã chủ

động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ;

đồng thời, chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao

1

chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công, từ đó phát triển nguồn thu; từng

bước giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý cấp trên; tạo điều kiện

cho đơn vị sự nghiệp thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân

chủ, chủ động, sáng tạo của viên chức, người lao động,…

Việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đã đạt được

kết quả bước đầu song vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và còn không ít khó khăn

như: triển khai lộ trình tự chủ tài chính còn chậm; chi tiêu ngân sách nhà nước

cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn lớn, có đơn vị hoạt động kém hiệu quả,

tư tưởng chậm đổi mới của cán bộ, viên chức chưa theo kịp các quy luật của cơ

chế thị trường; hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính chưa được hoàn

thiện, tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa cao, chất lượng dịch

vụ công chưa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với khu vực tư; nhiều đơn giá

định mức kỹ thuật chưa được ban hành …

Từ thực tiễn đó, sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu em đã chọn đề

tài: “Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị

sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội” làm luận văn

tốt nghiệp cao học của mình. Thông qua việc nghiên cứu này, em mong muốn

nhận được sự quan tâm, ủng hộ từ phía Học viện Hành chính Quốc gia nhằm

hoàn thiện lý thuyết và tìm giải pháp giải quyết, góp phần thực hiện nhiệm vụ

chiến lược, mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp công nói chung và của

ngành Văn hóa và Thể thao nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

- Nguyễn Xuân Viện, Cơ chế tự chủ tài chính tại trường Cao đẳng nghề

kỹ thuật công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, luận văn Thạc sỹ

Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2015.

2

- Nguyễn Thị Mỹ Linh, Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với tổ

chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục tiêu chuẩn và đo lường chất lượng,

luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2015.

- Nguyễn Thị Thu Dung, Cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức

khoa học và công nghệ tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,

luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2016.

- Vi Thị Thu Phương, Quản lý tài chính tại Tạp chí thuế - Tổng cục thuế,

luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2016.

- Vũ Thị Lê Quy, Quản lý nhà nước về tài chính đối với các dự án viện

trợ không hoàn laị trực thuộc Bộ Y tế, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện

Hành chính Quốc gia, năm 2017.

- Lê Thúy Quỳnh, Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt

Nam, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2017.

- Đặng Thu Hà, Quản lý tài chính tại Viện Khoa học Lao động và Xã hội,

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học

viện Hành chính Quốc gia, năm 2018.

- Vương Thu Hoài, Cơ chế quản lý tài chính tại các bệnh viện công trên

địa bàn tỉnh Hòa Bình, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính

Quốc gia, năm 2018.

- Trần Thị Thanh Hằng, Cơ chế tự chủ tài chính tại Trung tâm đào tạo

nghiệp vụ tiêu chuẩn đo lường chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ, luận

văn Thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2019.

- Hoàng Thanh Phương, Quản lý tài chính tại Cục Thống kê thành phố

Hà Nội, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm

2019.

- ThS. Nguyễn Thị Nguyệt (Khoa Kế toán – Trường Đại học Kinh tế Kỹ

thuật Công nghiệp), bài viết Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp

3

công lập, tạp chí Công thương, năm 2019. Trong bài viết này, tác giả nêu rõ vai

trò, mục tiêu và đánh giá khá chi tiết về tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài

chính của các đơn vị sự nghiệp sau 04 năm thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-

CP ngày 14/02/2015 của Chính Phủ và từ đó đề xuất một số giải pháp thực hiện

trong thời gian hiện nay.

- PGS.TS. Nguyễn Trường Giang, bài viết Đổi mới cơ chế tài chính đơn

vị sự nghiệp công theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII, Tạp chí

tài chính tháng 02/2018. Trong bài viết này, tác giả phân tích những tồn tại, hạn

chế trong việc thực hiện nâng cao quyền tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập và giải pháp đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước.

- ThS. Nguyễn Nguyễn Xuân Trường, “Các giải pháp đổi mới cơ chế

hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài

chính tháng 04/2018. Tác giả phân tích thực trạng đổi mới hệ thống đơn vị sự

nghiệp công lập và giải pháp đẩy mạnh đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài

chính.

- ThS. Phạm Xuân Thủy, Vũ Anh, Nguyễn Thị Mai Liên, Nguyễn Thị

Quỳnh Phương (2018), bài viết“Đổi mới tổ chức hoạt động các đơn vị sự

nghiệp công lập của Bộ Tài chính trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Tài chính

kỳ 2, tháng 9/2018.

Qua nghiên cứu cho thấy nhiều luận văn đã nghiên cứu về cơ chế tự chủ

tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng chủ yếu đề cập đến hoạt động

thu chi tài chính, chưa đề cập đến tổng thể các nội dung của cơ chế tự chủ tài

trong đơn vị sự nghiệp công lập. Một số bài viết trên báo, tạp chí đã nghiên cứu

thực trạng và đưa ra một số giải pháp để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở

một số đơn vị sự nghiệp công lập nhưng các giải pháp chưa đầy đủ, đồng bộ để

bảo đảm việc tổ chức pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập.

4

Như vậy, chưa có tác giả nào nghiên cứu đề tài luận văn “Tổ chức thực

hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.”. Đây là công trình nghiên cứu đầu

tiên tập trung vào nghiên cứu việc tổ chức pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa và thể thao. Luận

văn này phù hợp với chuyên ngành Quản lý công và không có sự trùng lặp về

phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu với các luận

văn khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Đề xuất các giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Nghiên cứu cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ

tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm khái niệm, đặc điểm,

các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu.

- Nêu thực trạng về tổ chức thực hiện pháp luật cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội, đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và

các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

5

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Nghiên cứu lý luận về tổ chức thực

hiện pháp luật cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và

tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị

sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu tình hình tổ chức thực

hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại 16 đơn vị sự nghiệp công lập trực

thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.

- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: giai đoạn từ 2015 đến tháng 6/2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Nghiên cứu những tài liệu lý luận, văn bản, sách báo và các công trình

đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm mục đích tổng quan nghiên cứu vấn

đề và xây dựng cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu và

thu thập tài liệu, phương pháp thống kê, quản lý số liệu; phương pháp tổng hợp,

phân tích và đánh giá; phương pháp so sánh; phương pháp chuyên gia. Cụ thể

như sau:

Đối với chương 1, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu tài

liệu lý luận, sách báo, sau đó thu thập thông tin, phân tích thông tin, tổng hợp

để trình bày cơ sở lý luận về thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Đối với chương 2, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thu thập, thống

kê, quan sát để nắm bắt thực trạng, phân tích dữ liệu và thông tin thu thập được,

tổng hợp và so sánh, trình bày dữ liệu, thông tin và đánh giá về thực trạng tổ

chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

6

Đối với chương 3, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, logic

và tìm hiểu ý kiến của các chuyên gia để đưa ra kết luận, kiến nghị về tổ chức

thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Dựa trên lý luận và nghiên cứu thực tế tại các đơn vị sự nghiệp công của

Sở Văn hóa và Thể thao, luận văn có ý nghĩa:

Một là, luận văn đã hệ thống hóa, bổ sung những vấn đề về cơ chế quản

lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao,

góp phần thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung các quy định của pháp luật về cơ

chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hai là, luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp

luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập về lĩnh vực văn

hóa, thể thao và thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội. Đồng thời, luận văn đã nêu rõ những hạn chế, tồn tại và đề

xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố

Hà Nội.

Các kết quả nghiên cứu là tài liệu tin cậy đối với các cán bộ, công chức,

viên chức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình thực hiện cơ chế tự

chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được cấu trúc trong 3 chương:

- Chương 1. Cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ

tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

7

- Chương 2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố

Hà Nội

- Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp

luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn

hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội.

8

CHƯƠNG 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI

CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

1.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập

1.1.1. Khái niệm

Theo quy định tại khoản 1, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12

ngày 15/11/2010: Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm

quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thành lập theo

quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản

lý nhà nước [32].

Theo quy định tại điều 3, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015

của Chính Phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập: Cơ chế

tự chủ của đơn vị sự nghiệp công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của

đơn vị sự nghiệp công [10]. Theo đó, cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự

nghiệp công được hiểu là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trong công tác tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

Như vậy, cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công được hiểu là các quy

định về quyền tự chủ, các đơn vị này tự chịu trách nhiệm đối với những nhiệm

vụ mang tính chất thuộc phạm vi cũng như quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp

công về tổ chức bộ máy và nguồn tài chính của đơn vị. Quyền tự chủ tài chính

của các cơ quan nhà nước là việc các cơ quan nhà nước tự đứng ra trực tiếp sử

dụng đối với nguồn kinh phí được cơ quan nhà nước cấp, có đầy đủ các thành

phần về mặt tài khoản cũng như con dấu riêng đã được cơ quan nhà nước có

9

thẩm quyền quyết định giao về kinh phí hoạt động cũng như số lượng biên chế

của đơn vị, cơ quan đó.

Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các

cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp

dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng tới việc giao quyền

tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập để

hoàn thành nhiêm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động.

1.1.2. Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập

Một là, đặc điểm, phân loại và kế hoạch lộ trình tự chủ của các đơn vị

sự nghiệp công lập

- Theo khoản 2, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày

15/11/2010, đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:

Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực

hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.

Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về

thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.

Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí phân loại đơn vị sự nghiệp công lập

đối với từng lĩnh vực sự nghiệp căn cứ vào khả năng tự chủ về thực hiện nhiệm

vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự và phạm vi hoạt động của đơn vị sự

nghiệp công lập [32].

- Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ

quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp

công lập thành 4 loại:

+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

10

+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên

+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

+ Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.

Ngoài ra còn căn cứ theo vị trí pháp lý của đơn vị sự nghiệp công lập để

phân loại đơn vị sự nghiệp công lập [10].

Phấn đấu đạt các mục tiêu của Trung Ương đề ra: đến năm 2021, phấn

đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân

sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 – 2015;

đến năm 2025 và 2030, phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính, tiếp

tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự

nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 – 2020; đến năm 2030, giảm bình quân

15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với

giai đoạn 2021 – 2025 [2].

Hai là, quy định về nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn

vị sự nghiệp công lập

Nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: nguồn thu

từ ngân sách nhà nước, nguồn thu phí, lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự

nghiệp công và các nguồn thu khác [10]. Cụ thể như sau:

- Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu

tư và đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Nguồn thu từ hoạt

động dịch vụ sự nghiệp công, bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng

cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính đủ chi phí; Nguồn thu phí theo

pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được để lại chi

thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công

tác thu phí); Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có); Nguồn ngân

sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh

phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ

11

chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia;

chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo

quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm

trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền

phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền

giao; Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.

- Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên:

Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu phí theo pháp luật

về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được để lại chi hoạt động

thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công

tác thu phí); Nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong

giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật

(nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên

(nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với

đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình

mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện

các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh

phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp

có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan

có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.

- Đối với đơn vị sự nghiệp công do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên:

Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên trên cơ sở số lượng người làm việc

và định mức phân bổ dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Nguồn thu

khác (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường

xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối

với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương

trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực

12

hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển;

kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được

cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ

quan có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.

Các nội dung chi trong đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành 02

loại: Chi thường xuyên và chi nhiệm vụ không thường xuyên. Chi thường

xuyên gồm: chi tiền lương, chi hoạt động chuyên môn, quản lý, chi cho việc

thực hiện thu phí, lệ phí, kể cả trích khấu hao tài sản cố định theo quy định. Chi

nhiệm vụ không thường xuyên gồm: chi từ nguồn thu phí, lệ phí được để lại chi

(chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí), chi

thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ

chức khoa học công nghệ); chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;

chương trình, dự án, đề án khác; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án theo quyết

định của cấp có thẩm quyền; chi đầu tư phát triển; chi mua sắm trang thiết bị

phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; chi từ nguồn

vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định; các khoản chi khác theo quy định.

Ba là, quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính

Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thương

mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ

sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi là nguồn thu

của đơn vị và được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ

sung vào quỹ khác theo quy định của pháp luật, không được bổ sung vào Quỹ

bổ sung thu nhập; Các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu

dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, các khoản thu phí theo

pháp luật về phí, lệ phí, đơn vị mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh

[10].

13

Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ

chức tín dụng, huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở

rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Riêng các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm

chi thường xuyên và chi đầu tư được vay vốn, huy động vốn để đầu tư, xây

dựng cơ sở vật chất theo quy định. Khi thực hiện vay vốn, huy động vốn, đơn

vị sự nghiệp công phải có phương án tài chính khả thi, tự chịu trách nhiệm trả

nợ vay, lãi vay theo quy định; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu quả của

việc vay vốn, huy động vốn [10].

Bốn là, quy định về thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi

tiêu nội bộ

Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ thực hiện đăng ký, kê khai,

nộp đủ thuế và các khoản thu ngân sách khác (nếu có) theo quy định của pháp

luật. Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước

theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế

chi tiêu nội bộ, gửi cơ quan quản lý cấp trên, trường hợp Quy chế có quy định

không phù hợp với quy định của Nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên có ý kiến

bằng văn bản yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại cho phù hợp [10].

Năm là, quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán

Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu

tư; đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Hàng năm căn cứ vào

kết quả thực hiện về số lượng, khối lượng dịch vụ; tình hình thu, chi hoạt động

cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và các dịch vụ khác của năm hiện hành; yêu

cầu nhiệm vụ của năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng

dịch vụ và dự toán thu, chi báo cáo cơ quan quản lý cấp trên. Đối với dịch vụ

sự nghiệp công do Nhà nước đặt hàng: Hàng năm căn cứ đơn giá, số lượng,

14

khối lượng dịch vụ sự nghiệp công được đặt hàng theo hướng dẫn của Bộ, cơ

quan Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đơn vị lập dự toán gửi cơ quan

quản lý cấp trên theo quy định.

Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

(do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt

hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính

đủ chi phí): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ của năm kế

hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng dịch vụ sự nghiệp công và

dự toán thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ do giá,

phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí) báo cáo cơ quan quản lý

cấp trên theo quy định.

Đối với đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên

(theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu

hoặc nguồn thu thấp): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ

được cấp có thẩm quyền giao trong năm kế hoạch, số lượng người làm việc

được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chế độ chi tiêu hiện hành, đơn vị lập dự

toán thu, chi gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định.

Lập dự toán thu, chi phí theo pháp luật về phí, lệ phí, các nhiệm vụ không

thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Hàng năm, căn cứ

vào dự toán thu, chi do đơn vị sự nghiệp công xây dựng, cơ quan quản lý cấp

trên có trách nhiệm xem xét, tổng hợp dự toán thu, chi của đơn vị gửi cơ quan

tài chính và cơ quan có liên quan theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Việc phân bổ và giao dự toán của cơ quan quản lý cấp trên cho đơn vị sự

nghiệp công thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Căn cứ lộ

trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, cơ quan quản lý cấp trên thực hiện đặt

hàng đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

và đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên; đặt hàng, giao kinh phí

15

hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một

phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi

phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công

theo giá, phí chưa tính đủ chi phí). Đối với đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước

bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền

giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Cơ quan quản lý cấp trên thực

hiện giao dự toán ổn định trong thời gian 3 năm và được điều chỉnh khi Nhà

nước thay đổi nhiệm vụ, cơ chế chính sách theo quy định [10].

Sáu là, quy định về cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp

công, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp

công

Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện

theo các phương thức: giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu. Giao nhiệm vụ

cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN chỉ thực hiện đối với

đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản lý cấp trên được giao kinh

phí cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của đơn

vị sự nghiệp công lập, dự toán thu chi được cấp có thẩm quyền giao, danh mục

dịch vụ sự nghiệp công có định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá, giá dịch vụ sự

nghiệp công do cơ quan có thẩm quyền ban hành, thực hiện đặt hàng cung cấp

dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự

nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản lý cấp trên theo danh mục quy định

tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ.

Việc đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công lập thực

hiện, căn cứ theo lộ trình tính giá đủ chi phí hoặc chưa tính đủ chi phí theo cơ chế

tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Về đấu thầu cung cấp

dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Căn cứ chức

năng và ngành nghề đăng ký kinh doanh phù hợp với dịch vụ sự nghiệp công

16

tham gia đấu thầu; căn cứ quy định của pháp luật chuyên ngành đối với nhà

thầu cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thuộc diện Nhà nước cấp phép hoạt động

và các điều kiện tham gia đấu thầu khác theo quy định của pháp luật liên quan

(nếu có) [13].

Định mức kinh tế - kỹ thuật được hiểu là mức hao phí cần thiết về lao động

về nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, dụng cụ và phương tiện để hoàn

thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc nhất định), trong

một điều kiện cụ thể của các hoạt động trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản

lý nhà nước. Các hoạt động sự nghiệp công của các đơn vị sự nghiệp công lập

rất đa dạng và phong phú về loại hình. Định mức kinh tế kỹ thuật là căn cứ để

tính giá dịch vụ sự nghiệp công, là cơ sở để triển khai phân bổ ngân sách nhà

nước theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất

lượng sản phẩm dịch vụ công. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng

và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật nêu trên, khi xây dựng định mức kinh tế

kỹ thuật phải đảm bảo các nguyên tắc như tuân thủ quy trình, đảm bảo tính ổn

định, các bước thực hiện cần bảo đảm sự phù hợp, không khác biệt, đảm bảo

sự tập trung thống nhất trong quản lý nhà nước của Bộ chuyên ngành về công

tác xây dựng định mức; khuyến khích, phát huy quyền chủ động, của các tổ

chức, cá nhân tham gia xây dựng định mức của các ngành và việc lập, phân bổ,

quản lý kinh phí xây dựng định mức thực hiện theo quy định của pháp luật.

Giá dịch vụ sự nghiệp công, gồm 02 loại giá dịch vụ sự nghiệp công

không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và giá dịch vụ sự nghiệp công sử

dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử

dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Đơn vị sự nghiệp công được xác định giá

dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các khoản thu,

mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật

đối với từng lĩnh vực. Đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân

17

sách nhà nước: Giá dịch vụ sự nghiệp công được xác định trên cơ sở định mức

kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ

trình tính đủ chi phí theo quy định, trong đó chi phí tiền lương trong giá dịch

vụ sự nghiệp công tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương ngạch, bậc, chức

vụ đối với đơn vị sự nghiệp công và định mức lao động do các Bộ, cơ quan

Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền; Phương

pháp định giá và cơ quan có thẩm quyền định giá dịch vụ sự nghiệp công thực

hiện theo quy định pháp luật về giá; Trong phạm vi khung giá dịch vụ sự nghiệp

công do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, đơn vị sự nghiệp công

quyết định mức giá cụ thể cho từng loại dịch vụ; trường hợp cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quy định cụ thể giá dịch vụ sự nghiệp công, đơn vị thu theo mức

giá quy định.

Phí dịch vụ sự nghiệp công: Dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục thu

phí thực hiện theo quy định pháp luật về phí, lệ phí. Đơn vị sự nghiệp công

được thu phí theo mức thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.1 Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về

cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Hiện nay có một số khái niệm về thực hiện pháp luật. Theo giáo trình Lý

luận nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia: “Thực hiện

pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của

pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của

các chủ thể pháp luật” [23, tr.463].

Theo Tài liệu học tập, nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp

luật của khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:

“Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những

18

quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý

cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [24, tr.270].

Theo cuốn Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt

Nam của Nhà xuất bản chính trị Quốc gia sự thật: “thực hiện pháp luật là hoạt

động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật thành những hoạt động

thực tế của các chủ thể pháp luật” [16, tr 27].

Các khái niệm có thể có một số điểm khác nhau nhất định song đều có

đặc điểm chung. Bao gồm: Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể được

tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái,

không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định; Thực hiện pháp luật có

thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất định

nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến hành

vượt xử sự bị pháp luật cấm; Các chủ thể có trách nhiệm tiến hành sắp xếp các

bộ phận, phân công nhiệm vụ, quyền hạn cho mỗi bộ phận, phối hợp hoạt động

của các bộ phận để các quy định pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi

thực tế, hợp pháp của các tổ chức, cá nhân nhằm mục đích bảo đảm cho pháp

luật được thực hiện trên thực tế, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước

và xã hội.

Như vậy có thể hiểu tổ chức thực hiện pháp luật là quá trình hướng dẫn,

chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện về con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất

nhằm bảo đảm đưa pháp luật vào cuộc sống.

Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập là việc lên kế hoạch, sắp xếp các hoạt động và phân công

trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các chủ thể là các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện các hoạt động đó; đồng thời các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền trong việc hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện nhằm bảo đảm

các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức

19

chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp dụng tổng hợp và đồng bộ các

biện pháp khác nhau hướng tới việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho

các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính để

hoàn thành nhiệm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập có những đặc điểm sau:

- Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập mang tính đồng bộ, tập trung, thống nhất cao: Tổ chức

bộ máy quản lý tập trung nhằm đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực

hiện thống nhất từ Chính Phủ, Bộ chuyên ngành và UBND các cấp tương ứng

với phạm vi, chức năng, nhiệm vụ được phân công. Có sự phối hợp chặt chẽ

trong các hoạt động giữa các cơ quan cùng cấp. Có quy hoạch, kế hoạt thống

nhất mang tính khoa học cao.

- Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật:

Hoạt động đưa kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là các văn bản

quy định pháp luật có hiệu lực thi hành vào cuộc sống thực tiễn và nhằm hướng

hành vi của các chủ thể trên thực tế đến những mục tiêu nhất định khi văn bản

được ban hành. Đây là tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá việc thực hiện pháp

luật, vì nếu không đạt được những mục tiêu chính sách đặt ra thì các quy phạm

pháp luật cũng không có giá trị thực tế. Chính vì vậy, hiệu quả tổ chức thực

hiện pháp luật trên thực tế là thước đo chính xác nhất đối với các văn bản quy

phạm pháp luật.

Các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật có thể được trao

những khoảng không gian nhất định để thực hiện công việc nhằm đảm bảo việc

thực hiện pháp luật có tính linh hoạt, phù hợp với các tình huống trên thực tế,

20

nhưng tất cả mọi quyền hạn đó đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và phải

được pháp luật trao quyền.

- Tổ chức thực hiện pháp luật phải tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp

luật quy định: Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật như xây dựng và hoàn

thiện pháp luật, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, … phải tuân thủ theo quy trình,

trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

- Tổ chức thực hiện pháp luật mang tính chủ động, linh hoạt cao: Chính

Phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính nói chung đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập. Trên cơ sở văn bản quy định chung của Chính Phủ và tùy vào chức

năng, nhiệm vụ, điều kiện của từng ngành, lĩnh vực, Các Bộ chuyên ngành rà

soát, ban hành xây dựng Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp

trong từng lĩnh vực. Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, điều hành của các cơ quan

cấp trên, cơ quan cấp dưới đề xuất và chủ động đưa ra các giải pháp để tổ chức

thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính theo chức năng, nhiệm vụ được

giao. Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, Chính Phủ, Bộ chuyên ngành

và UBND các cấp phát hiện những bất cập, hạn chế của văn bản quy phạm pháp

luật và đề xuất xây dựng văn bản mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện

hành hoặc bãi bỏ các quy định không còn phù hợp.

Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm:

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung trên cả nước.

- Các bộ chuyên ngành, các cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các

cơ quan hữu quan trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập. Trong đó bao gồm Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Thông

tin truyền thông, các Bộ chuyên ngành.

21

- Hội đồng nhân dân các cấp bảo đảm việc thi hành pháp luật, các văn bản

của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương; giám sát

hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thực hiện cơ chế

tự chủ tài chính. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức và chỉ đạo việc thi hành pháp

luật, các văn bản quy định, hướng dẫn của Chính Phủ, nghị quyết của Hội đồng

nhân dân cùng cấp; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa

phương.

- Các cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm phối hợp với cơ

quan, tổ chức có liên quan tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện chủ

trương, chính sách, pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập.

- Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức và phối

hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên và giám sát việc thực hiện cơ chế tự chủ

tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

- Các cơ quan nhà nước quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập có trách

nhiệm xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện

cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập do mình quản lý.

- Các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở các quy định hiện hành và

hướng dẫn của cơ quan cấp trên và các cơ quan có liên quan, các đơn vị sự

nghiệp công lập sử dụng các nguồn lực đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ tài

chính.

1.2.2. Vai trò tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Để quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật có vị trí thượng tôn, việc

tổ chức thực hiện pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Đặc biệt, trong bối

cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc ban hành các văn bản quy phạm

22

pháp luật nhưng không đạt được những mục tiêu đã định sẽ làm giảm tính

nghiêm minh của hệ thống pháp luật, và có thể dẫn tới việc làm giảm ý thức

tuân thủ pháp luật của người dân, vốn là một trong những yếu tố cản trở lớn

nhất đối với hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật. Vì vậy, yêu cầu đặt ra việc

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập phải bảo đảm hiệu quả, đồng bộ và minh bạch.

Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn

vị sự nghiệp công lập có vai trò như sau:

Một là, tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập nhằm mục đích đưa pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính vào thực tiễn. Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập là hướng tới trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị

sự nghiệp trong việc tổ chức hoạt động, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động

và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả

năng của đơn vị để nâng cao chất lượng dịch vụ công; phát huy mọi nguồn lực

của đơn vị để tăng nguồn thu, cải thiện đời sống người lao động; Nâng cao tính

chủ động, sáng tạo của đơn vị sự nghiệp công, hướng tới sự bình đẳng và tăng

khả năng cạnh tranh của đơn vị nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Khuyến

khích thực hiện chính sách xã hội hóa đối với các lĩnh vực do Nhà nước đang

thực hiện; Giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, nâng cao mức tự

chủ của đơn vị, hướng tới giảm dần đơn vị sự nghiệp công và chuyển dần các

đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị ngoài công lập.

Hai là, nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Nếu các công chức, viên chức có

năng lực, trách nhiệm không đáp ứng theo đúng yêu cầu thì việc tổ chức thực

hiện pháp luật rõ ràng bị ảnh hưởng.

23

Ba là, thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ góp phần phát hiện ra những tồn

tại, hạn chế để từ đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành để bảo đảm thực

hiện các mục tiêu đã đề ra.

1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.3.1. Ban hành các văn bản pháp luật, hướng dẫn, xây dựng kế

hoạch triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Các văn bản pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp

công lập ở nước ta thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật như Luật,

Nghị định, Thông tư, Quyết định. Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng,

Nhà nước tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức và phương pháp khác nhau

nhau nhằm đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập. Trong đó, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc ban hành và hoàn thiện các

văn bản pháp luật và pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập là kim chỉ nam cho mọi hành động của các đơn vị, tổ chức, cá

nhân.

Đối với Trung Ương: Bộ ban hành các Nghị quyết để đưa ra quan điểm

chủ trương, định hướng phát triển, Chính Phủ ban hành Nghị quyết và Nghị

định, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định để triển khai các quan điểm

chỉ đạo, mục tiêu đề ra và kiểm tra hoạt động của các Bộ, chính quyền địa

phương trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đối với các Bộ ngành: trên cơ sở quy định của Chính phủ trong phạm vi,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành văn bản chi tiết đối với từng ngành,

lĩnh vực và hướng dẫn Nghị định của Chính Phủ để các địa phương tổ chức

triển khai thực hiện.

24

Đối với UBND các cấp: trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra và căn cứ vào

hướng dẫn của Trung Ương và các Bộ ngành, UBND thành phố ban hành kế

hoạch triển khai thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính. Cơ quan chuyên môn về tài chính thuộc UBND các cấp thực hiện hướng

dẫn các đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về cơ

chế tự chủ tài chính và tham mưu UBND các cấp về việc thực hiện cơ chế tự

chủ tài chính như xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, giá dịch vụ sự nghiệp

công, danh mục dịch vụ sự nghiệp công,….

1.2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thực hiện cơ

chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa

phương, đơn vị khi thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, ở mỗi cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ

này có những yêu cầu, đối tượng và nội dung khác nhau.

Một là, ban hành kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để các

ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung của các quy định

pháp luật. Đồng thời có văn bản hướng dẫn các ngành, địa phương tổ chức thực

hiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo các ngành, lĩnh vực thống nhất về

nhận thức và trong hành động.

Hai là, thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn

thành phố tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nên đã từng

bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm về mục tiêu, quan điểm, ý nghĩa và yêu

cầu của công tác tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa

bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, nâng cao trách nhiệm, thống nhất nhận thức và

hành động của từng cấp, từng đơn vị và mỗi cán bộ, công chức, viên chức,

25

người lao động. Đồng thời, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với chủ trương

quan trọng này.

Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội khác trong phạm

vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các

cán bộ công chức, viên chức, người lao động cùng các đơn vị có liên quan thực

hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động các

đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tự chủ tài chính.

Bốn là, triển khai đồng bộ và phong phú các loại hình thông tin, tuyên

truyền của hệ thống cơ quan thông tin, tuyên truyền, chú trọng đổi mới nội

dung, duy trì, phát huy loại hình tuyên truyền có hiệu quả. Các cơ quan thông

tin đại chúng có trách niệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các quy định

của pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính và nêu gương các điển hình tiên tiến

thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính.

Như vậy, việc hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

thực hiện có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đi vào đời sống và trở thành hiện thực. Qua đó, mọi

cá nhân và tổ chức hiểu và nhận thức đúng về tầm quan trọng về cơ chế tự chủ

tài chính. Có như vậy, mới đảm bảo các tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

1.2.3.3. Thực hiện nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập

Để đảm bảo việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập, cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

Một là, xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình tự chủ tài chính đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hai là, xác định nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

26

Ba là, quản lý và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập

Bốn là, thực hiện quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính của các

đơn vị sự nghiệp công lập.

Năm là, thực hiện việc quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội

bộ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Sáu là, thực hiện quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập.

Bảy là, thực hiện quy định về đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự

nghiệp công, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự

nghiệp công lập.

1.2.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về cơ

chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

chức xã hội khác, nhân dân nhằm kịp thời phát hiện, góp ý kiến với các cơ quan

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các cán bộ, công

chức, viên chức, người lao động, các đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan

chủ quản.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

về việc chấp hành cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành việc lập giao và phân bổ

dự toán, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế quản lý tài sản, cơ chế

tính giá, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và lộ trình tự chủ. Đây là một hoạt

động nhằm xem xét việc chấp hành và tuân thủ các quy định của pháp luật về

cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện đánh

giá hoạt động của các cấp, các ngành, các cơ quan nhằm tìm ra những giải pháp

thực hiện để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải tiến phương pháp tổ

chức thực hiện pháp luật nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thanh tra, kiểm tra còn

là phương tiện phát hiện phát hiện những hành vi trái quy định của pháp luật,

27

qua đó đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Do vậy, cần quan tâm

đến việc xây dựng cơ chế kiểm tra, nhất là hoạt động kiểm tra tính hợp pháp,

hợp hiến các văn bản quy định của pháp luật và tính hợp pháp của các hoạt

động thực thi pháp luật. Công tác thanh tra kiểm tra có thể tiến hành theo định

kỳ hàng quý, hàng năm hoặc đột xuất khi thấy có vấn đề về tổ chức thực hiện

cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoặc khi có khiếu

nại, tố cáo.

Sau khi giám sát, thanh tra, kiểm tra phải có đánh giá, kết luận ở từng

đơn vị, từng cấp, từng ngành khi tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở

các đơn vị sự nghiệp. Qua đó xử lý những trường hợp chưa nghiêm túc thực

hiện các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính và khen thưởng kịp

thời các đơn vị tổ chức thực hiện tốt nhằm tạo động lực cho mỗi cá nhân, tập

thể trong việc tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập.

1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

1.3.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập

Việc tổ chức thực hiện pháp luật yêu cầu phải đảm bảo phù hợp với các

quy định của hệ thống pháp luật. Do đó, đòi hỏi các văn bản quy định của pháp

luật phải rõ ràng, đảm bảo tính hệ thống, nhằm tạo môi trường và hành lang

pháp lý cho các hoạt động, trong đó có hoạt động tài chính.

Hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính bao gồm: các văn bản pháp

luật liên quan đến cơ chế tài chính và các văn bản dưới luật của Chính Phủ, Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.

Cụ thể như sau:

28

Các chủ trương, chính sách của Đảng như Nghị quyết của Bộ Chính trị,

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương, Nghị quyết của Chính Phủ

Quán triệt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước thể

chế hóa thành các quy định của pháp luật. Ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa

phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị xây dựng và ban hành

các văn bản bao gồm:

- Văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như Nghị định của Chính

Phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về việc thực

hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

- Văn bản của Bộ chuyên ngành bao gồm Nghị định hướng dẫn Nghị

định khung của Chính phủ, Quyết định và Thông tư quy định chi tiết về nội

dung thực hiện, tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và định mức kinh tế kỹ

thuật chuyên ngành làm cơ sở để các địa phương triển khai thực hiện.

- Văn bản của địa phương nhằm cụ thể hóa các quy định theo hướng dẫn

của Chính phủ, từng Bộ ngành để tổ chức triển khai thực hiện cho phù hợp với

thực tiễn của từng địa phương.

Các quy định của pháp luật phải được xây dựng và ban hành theo đúng

quy trình thủ tục nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả. Các hoạt động triển

khai thực hiện pháp luật giúp cho chính sách pháp luật của Đảng, nhà nước đi

vào thực tiễn cuộc sống. Để đảm bảo việc tổ chức thực thi chính sách pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính có hiệu quả và đồng bộ đòi hỏi pháp luật về cơ chế

tự chủ tài chính phải đúng đường lối, chính sách của Đảng, quy định đầy đủ,

đồng bộ với các văn bản pháp luật hiện hành và có tính khả thi cao.

Như vậy, pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập là hệ thống các văn bản từ Trung Ương đến địa phương nhằm đảm

bảo thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính

tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

29

1.3.2. Năng lực của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật

Cơ quan thực hiện pháp luật có vai trò tuân thủ, chấp hành và áp dụng

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính vào thực tiễn một cách đúng đắn. Trước

hết đó là trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan

đơn vị sự nghiệp, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò của các cán bộ, công

chức, viên chức, người lao động. Các cán bộ công chức được giao trách nhiệm

quản lý nhà nước đối với việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và các viên

chức, người lao động trực tiếp chịu trách nhiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài

chính tại đơn vị sự nghiệp công lập. Trách nhiệm đó thể hiện cụ thể ở những

nội dung sau:

- Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật nhà nước tạo cơ sở hàng lang

pháp lý để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập. Đồng thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc khi triển khai

thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thực hiện cơ chế tự chủ tài chính cho

từng giai đoạn và từng năm.

- Khi cơ chế, chính sách đã tốt, vấn đề còn lại là vận dụng, triển khai vào

thực tiễn như thế nào. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ về tài chính

nhằm đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống, đảm bảo hiệu quả hoạt động về

cơ chế tự chủ tài chính và sự đồng bộ từ chủ trương cho đến hiện thực

Các cán bộ, công chức, viên chức là nguồn lực quan trọng nhất nhằm

đưa chính sách pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Các cán bộ, công chức, viên

chức phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo

đúng quy định của pháp luật. Các cán bộ, công chức, viên chức ở mỗi vị trí

khác nhau phải có đủ trình độ, năng lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được

giao. Nếu các cán bộ, công chức, viên chức không có đủ năng lực thì khó có

thể đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.

30

Việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập không chỉ đòi hỏi sự đổi mới của các đơn vị sự nghiệp công lập mà còn đòi

hỏi sự đổi mới trong cách chỉ đạo, điều hành của các Bộ chủ quản, UBND các

cấp. Theo đó, mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải có nhận thức đổi mới về

cơ chế tự chủ tài chính.

1.3.3. Các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất ảnh hưởng đến việc

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị

sự nghiệp công lập

Điều kiện về tài chính là một trong yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu

quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập. Các điều kiện về tài chính như kinh phí cho công

tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi pháp luật, chi phí cho

công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập. Chế độ đãi ngộ tốt sẽ khuyến khích viên chức người lao động

hăng hái làm việc, chống lại sự tha hoá, biến chất, mua chuộc; ngược lại, chế

độ đãi ngộ không hợp lý sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lơ là công việc,

không hăng say phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ viên chức,

người lao động. Chế độ chính sách đãi ngộ giữ vai trò hết sức quan trọng, từ

chế độ đề bạt, bổ nhiệm bố trí đến chế độ khen thưởng, chế độ tiền lương và kỷ

luật… đây là động lực thúc đẩy đội ngũ viên chức, người lao động không ngừng

vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp công lập, điều kiện làm việc và

chế độ đãi ngộ đối với viên chức, người lao động của đơn vị sự nghiệp công

lập có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tổ chức thực hiện pháp luật nói

chung, về cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập nói

riêng. Cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập bao gồm: Trụ sở làm việc, các trang thiết bị,…có những ảnh

31

hưởng nhất định đến việc nâng cao mức tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập. Điều kiện vật chất, cụ thể là ô tô chuyên dùng, máy móc, phương tiện

làm việc, đi lại; trụ sở làm việc, sân khấu biểu diễn, dụng cụ phục vụ việc tập

luyện và thi đấu… được trang bị đầy đủ, hiện đại sẽ góp phần đẩy nhanh lộ

trình tự chủ về tài chính. Đội ngũ viên chức, người lao động đơn vị tự chủ có

đủ phương tiện làm việc thì sản phẩm, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập

cung cấp sẽ đảm bảo chất lượng hơn, họ sẽ tập trung vào chuyên môn mà không

bị chi phối bởi sự khó khăn về điều kiện, phương tiện làm việc.

1.3.4. Công khai, minh bạch về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính

Theo Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018, công khai và minh bạch

về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là việc công bố, cung cấp

thông tin, giải trình về tổ chức bộ máy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và

trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn

vị. Công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước là việc làm cho mọi người

dân có thể biết và hiểu cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ của đơn vị

và đảm bảo các hoạt động trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và các quy

định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu công khai, minh bạch đối với việc tổ

chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là việc

công bố, cung cấp thông tin về các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và việc thực hiện pháp luật của các

đơn vị về cơ chế tự chủ tài chính, ... Công khai, minh bạch vừa là yêu cầu vừa

là điều kiện để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Đây cũng chính là yếu

tố rất được coi trọng trong nhà nước pháp quyền và là điều bắt buộc với tất cả

các đơn vị sự nghiệp công lập.

Bảo đảm công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật

trước hết được thể hiện ở việc công khai các quy định về mặt nội dung, quy

trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để tăng cường sự hiểu biết của cán bộ, công

32

chức, viên chức đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật

của những chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật là điều kiện cơ

bản nhất để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Thực tế cho thấy, đã có

nhiều trường hợp việc thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các nội dung của quy

phạm pháp luật và cách thức tổ chức thực hiện pháp luật đã tạo ra những cản

trở đối với quá trình thực hiện pháp luật.

Hiện nay, việc tự chủ chuyên môn đang được cố gắng tạo điều kiện tối

đa. Việc tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập là một xu thế

trong tương lai, khi điều kiện kinh tế tốt hơn. Sự tự chủ này sẽ phát triển cùng

với sự phát triển của nền kinh tế và nhận thức của các cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động. Nhưng cũng phải làm sao để tự chủ không bị đánh đồng

là thương mại hóa lĩnh vực văn hóa thể thao. Muốn như vậy, phải công khai

minh bạch rõ các nguồn thu, rõ mục đích chi và quyết toán cuối năm với các

khoản chi. Mức thu cao đối với các sản phẩm, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công

lập cung cấp không phải chỉ vì lợi nhuận mà còn vì chất lượng sản phẩm, dịch

vụ.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong chương này, luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, chủ thể, vai trò, nội

dung và các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Chương này làm cơ sở lý luận để

phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp luật cơ chế

tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội.

33

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ

TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

TRỰC THUỘC SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát chung về Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội

và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc

2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quá trình hình thành, phát triển

của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

Theo Quyết định số 59/2008/QĐ-UBND ngày 23/12/2008 của UBND

thành phố Hà Nội về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội. Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân

thành phố Hà Nội; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành

phố Hà Nội quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, quảng cáo

(trừ quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng

cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông

tin) trên địa bàn thành phố theo quy định của pháp luật; các dịch vụ công thuộc

lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân

công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân

thành phố và theo quy định của pháp luật. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố

Hà Nội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo,

quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Ủy ban nhân dân thành phố Hà

Nội, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn,

nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Năm 2008, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội được

thành lập trên cơ sở sáp nhập của các sở: Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội, Sở

Văn hóa và Thông tin Hà Tây với tổng số 12 phòng và 21 đơn vị sự nghiệp.

34

Năm 2017, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng được sáp nhập với các ban khác

của các sở ngành thành các ban trực thuộc thành phố quản lý. Thực hiện Kế

hoạch số 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 để triển khai thực hiện Nghị định số

16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về thực hiện cơ chế tự chủ. Sở

đã tổ chức sắp xếp tinh gọn đầu mối các đơn vị có trùng chức năng, nhiệm vụ,

sau sắp xếp còn 09 phòng và giảm 4 đơn vị, còn lại 16 đơn vị sự nghiệp trực

thuộc Sở.

09 phòng quản lý nhà nước bao gồm: Văn phòng Sở, phòng Tổ chức

Pháp chế, phòng Kế hoạch Tài chính, phòng Quản lý Văn hóa, phòng Quản lý

Di sản, phòng Quản lý Nghệ thuật, phòng Quản lý Nếp sống Văn hóa và Gia

đình, phòng Quản lý Thể dục Thể thao, Thanh tra Sở.

16 đơn vị sự nghiệp, bao gồm: Nhà hát múa rối Thăng Long, Nhà hát

Chèo Hà Nội, Nhà hát Kịch Hà Nội, Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long, Nhà

hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ Hà Nội, Nhà hát Cải lương Hà Nội, Trung tâm

HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Bảo tàng Hà Nội, Ban quản lý di tích

danh thắng Hà Nội, Ban quản lý nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Huấn luyện và Thi

đấu TDTT Hà Nội, Trường phổ thông năng khiếu TDTT Hà Nội, Trung tâm

văn hóa thành phố, Trung tâm thông tin triển lãm, Báo Màn ảnh sân khấu, Thư

viện Hà Nội.

2.1.2. Điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội

Yếu tố pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập

Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập là hệ thống các văn bản từ Trung Ương đến địa phương nhằm đảm bảo thực

35

hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính tại các

đơn vị sự nghiệp công lập.

Đảng, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố

Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản để định hướng và tổ chức triển khai thực

hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công.

Yếu tố về năng lực của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật

Qua thực tiễn cho thấy: nhận thức của lãnh đạo các các cấp, ngành và

chính quyền địa phương còn hạn chế, ở một số cơ quan còn cho rằng đây là

trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập; thiếu các chuyên gia giỏi có

trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào quá trình xây dựng và ban

hành văn bản pháp luật; các cán bộ, viên chức có trình độ, chuyên môn còn hạn

chế chưa đưa ra được các giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm

tăng nguồn thu và giảm chi từ nguồn ngân sách; hoạt động kiểm tra, thanh tra

được triển khai nhưng chưa phát hiện ra các hành vi vi phạm.

Yếu tố về tài chính

Chi phí thực hiện công tác tổ chức tình hình thực hiện pháp luật được

trích từ nguồn kinh phí tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Bao gồm như

kinh phí cho công tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi

pháp luật, chi phí cho công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Đội ngũ viên chức, người lao động đơn vị sự nghiệp công lập ở một số

đơn vị có nguồn thu thấp nên mức lương và thưởng thấp, nhiều khi còn bị chi

phối về điều kiện, phương tiện làm việc nên chưa thực sự tập trung vào việc

thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Đối với một số đơn vị tự chủ tài

chính và có nguồn thu lớn như Nhà hát múa rối Thăng Long, Ban quản lý di

tích Hỏa Lò viên chức và người lao động có lương, thu nhập tăng thêm, thưởng,

chế độ đãi ngộ tốt nên tập thể nhà hát rất tin tưởng vào cơ chế tự chủ tài chính

36

và yên tâm thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Đối với một số đơn

vị tự chủ tài chính có nguồn thu lớn như Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn

Miếu – Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích danh thắng nhưng do quy định của

thành phố về tỷ lệ trích được để lại để thực hiện chi thường xuyên thấp nên mức

thu nhập tăng thêm thấp nên tập thể viên chức, người lao động chưa thực sự tin

tưởng và có động lực để thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính.

Yếu tố về cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập bao gồm: Trụ sở làm việc, các trang thiết bị, … có những ảnh

hưởng nhất định đến việc nâng cao mức tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập. Các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở đều có cơ sở nhà đất

nằm trên trục đường giao thông trung tâm nên rất thuận tiện cho việc tổ chức

các sự kiện văn hóa, thể thao. Tuy nhiên, các cơ sở nhà đất đều đã được đầu tư

từ nhiều năm trước nên xuống cấp và các trang thiết bị chuyên dung còn thiếu

và chưa đồng bộ chưa theo kịp khu vực tư nhân nên việc chấp hành pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính còn bộc lộ nhiều hạn chế.

Yếu cầu về công khai và minh bạch về thực hiện cơ chế tự chủ tài

chính

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội thực hiện tốt việc công khai,

minh bạch cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và có

một số tồn tại, hạn chế.

- Chấp hành việc công khai dự toán thu, chi và quyết toán các khoản thu

chi theo quy định tại Thông tư 61/2017/TT-BTC ngày 15/6/2017 của Bộ Tài

chính. Tuy nhiên, ở một số đơn vị sự nghiệp công lập còn công khai chưa đầy

đủ nội dung, không đúng hình thức quy định hoặc không đảm bảo thời gian

theo quy định. Ngoài ra, ở một số đơn vị đã thực hiện công khai nhưng còn

thiếu tính minh bạch bởi lẽ chưa cung cấp đầy đủ thông tin nên một số viên

37

chức, người lao động chưa nắm bắt được đầy đủ các quy định pháp luật về cơ

chế tự chủ và tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tại cơ quan, đơn vị.

- Xây dựng quy chế công khai tài chính, trong đó quy định thực hiện

công khai quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý tài sản, quy trình thủ tục đối

với việc lập, chấp hành dự toán, xây dựng và ban hành mức thu đối với các sản

phẩm, dịch vụ sự nghiệp công, quy trình thủ tục thanh toán. Hình thức công

khai thường được áp dụng tại hội nghị cán bộ, viên chức, người lao động, ít áp

dụng hình thức niêm yết công khai nên nhiều cán, viên chức, người lao động

khó nắm bắt được đầy đủ thông tin về hoạt động tài chính của cơ quan, đơn vị.

Tính minh bạch trong việc công khai còn hạn chế do pháp luật quy định về việc

minh bạch thông tin còn chưa cụ thể, quy trình thủ tục giải quyết công việc rất

phức tạp nên người dân chưa thể hiểu và nắm bắt được để giám sát.

2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020

2.2.1. Tình hình ban hành văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện

các quy định về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản quy định của Chính

Phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND thành phố Hà Nội và Sở Văn

hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai

thực hiện và văn bản hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế

tự chủ tài chính.

Văn bản của UBND thành phố Hà Nội:

- Về cơ chế tự chủ:

38

Kế hoạch 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 của UBND thành phố về việc

thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy

định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố quản lý.

- Về kế hoạch nâng mức tự chủ tài chính

+ Kế hoạch 137/KH-UBND ngày 18/6/2018 của UBND thành phố Hà

Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021

+ Kế hoạch 227/KH-UBND ngày 29/6/2018 của Sở Văn hóa và Thể thao

Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị

sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021

+ Kế hoạch 44/KH-UBND ngày 09/8/2019 của UBND thành phố Hà Nội

về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021

+ Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 05/3/2019 của Sở Văn hóa và Thể thao

Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng cấp mức tự chủ tài chính các đơn vị

sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021

Văn bản của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

- Kế hoạch số 1750/KH-SVHTT ngày 30/5/2016 của Sở Văn hóa và Thể

thao Hà Nội về việc triển khai kế hoạch 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 của

UBND thành phố Hà Nội về việc thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày

14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công

lập thuộc thành phố quản lý.

2.2.2 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ chế tự chủ

tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập là một nội dung quan trọng của tổ chức thực

39

hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp

luật giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 tới chính quyền các cấp, tập trung chủ

yếu vào việc tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng sau:

- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản

biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nghị quyết yêu

cầu: “Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công theo ngành,

lĩnh vực. Phân loại đơn vị sự nghiệp công để thực hiện các hình thức chuyển

đổi phù hợp (hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, từng bước cổ phần hóa,

hợp tác công tư ...). Đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có khả

năng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động theo hướng tiếp tục đẩy mạnh giao

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, nhân sự và

khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành

phần ngoài nhà nước.”

- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành Trung

ương về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết yêu cầu: “Hoàn thiện thể chế, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt

động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

đầy đủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập về phạm vi hoạt động, tổ chức bộ

máy, biên chế, nhân sự và tài chính gắn với cơ chế đánh giá độc lập. Thực hiện

xã hội hoá tối đa các dịch vụ công, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị

sự nghiệp công lập và các đơn vị ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ

công theo cơ chế thị trường”

- Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội Trung ương 6

Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng

và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập

40

- Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-

NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng

và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.

Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội đã bám sát chủ trương, chính sách

của Đảng để triển khai các nhiệm vụ được giao một cách toàn diện và có trọng

tâm, trọng điểm. Theo đó, các kế hoạch đã được ban hành kịp thời để tổ chức

thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố

được thực hiện kịp thời, đầy đủ tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và

nhân dân nên đã từng bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm về mục tiêu, quan

điểm, ý nghĩa và yêu cầu của công tác tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, nâng cao trách nhiệm,

thống nhất nhận thức và hành động của từng cấp, từng ngành và mỗi cán bộ,

công chức, viên chức của hệ thống chính trị. Đồng thời, tạo sự đồng thuận của

nhân dân đối với chủ trương quan trọng này.

Sở Văn hóa và Thể thao đã tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc

Nghị quyết của Trung Ương và Chính Phủ nhằm tạo sự chuyển biến về nhận

thức, hành động của Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công lập, tập thể viên chức,

người lao động trong đơn vị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến

các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và các

quy định của thành phố Hà Nội, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu nội

dung đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm thay đổi

và nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận của cán bộ, công chức, viên chức và

người lao động trong đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của đơn vị, đẩy mạnh nâng cao mức tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công

lập.

41

2.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao Thành

phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020

2.2.3.1 Xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình nâng mức tự chủ đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập

Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ tài chính

đơn vị sự nghiệp công lập

Cuối năm 2015, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có 20 đơn vị

sự nghiệp công lập đã thực hiện giao tự chủ tài chính, cụ thể như sau:

- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị

- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 01 đơn vị.(0,05% đơn vị)

- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 18 đơn vị.( 90% đơn vị)

- Đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 01 đơn vị.

(0,05% đơn vị)

Riêng Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng là đơn vị sự nghiệp đặc thù tự

đảm bảo chi thường xuyên và từ năm 2017 được sáp nhập với các ban khác của

thành phố Hà Nội.

Đến năm 2017 - 2018, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có

16/16 đơn vị sự nghiệp công lập đã thực hiện giao tự chủ tài chính, cụ thể như sau:

- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị

- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 02 đơn vị. (12,5% đơn vị)

- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 14 đơn vị. (87,5% đơn vị)

- Đơn vị do Ngân sách Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 0 đơn vị.

Từ năm 2015 đến nay, Sở Văn hóa và Thể thao đã giảm được 04 đầu mối

từ đơn vị sự nghiệp công lập và 03 đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo một

phần chi thường xuyên chuyển sang đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi

thường xuyên. Cụ thể như sau:

42

- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị

- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 04 đơn vị. (25% đơn vị). Bao

gồm: Nhà hát múa rối Thăng Long, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu –

Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Ban quản lý di tích danh

thắng.

- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 12 đơn vị. (75% đơn

vị). Bao gồm: Nhà hát Kịch Hà Nội, Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Cải lương

Hà Nội, Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ Hà Nội, Nhà hát ca múa nhạc Thăng

Long, Trung tâm Văn hóa Thành phố Hà Nội, Trung tâm Thông tin triển lãm

Hà Nội, Thư viện Hà Nội, Trường Phổ thông Năng khiếu, Trung tâm Huấn

luyện và Thi đấu TDTT Hà Nội, Báo Màn ảnh sân khấu và Bảo tàng Hà Nội

- Đơn vị do Ngân sách Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 0 đơn vị.

Ttừ năm 2015 đến năm 2020, số lượng các đơn vị tự chủ tài chính đạt tỷ

lệ cao so với kế hoạch đề ra, năm 2015 là 95% đến năm 2016-2020 đạt

100%/chỉ tiêu đã UBND thành phố và Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội đã đề ra là 10%, vượt chỉ tiêu đã đề ra là 85-90%.

Xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình nâng mức tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Thực hiện Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày 19/02/2019 của UBND

thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của đơn vị

sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021. Sở Văn hóa

và Thể thao Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 227/KH-SVHTT ngày 29/6/2018

và Kế hoạch số 68/KH-SVHTT ngày 05/3/2019 để triển khai mức tự chủ của

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021.

Theo đó các đơn vị sau sẽ thực hiện lộ trình tự bảo đảm chi thường xuyên như

sau: năm 2019 có 01 đơn vị là Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, năm 2020 có

02 đơn vị là Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long và Ban quản lý di tích danh

43

thắng, năm 2021 có 03 đơn vị là Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ, Trung tâm

thông tin triển lãm và Báo Màn ảnh sân khấu.

Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã tổ chức triển khai việc nâng mức tự

chủ chi thường xuyên. Chi tiết lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020

được thể hiện tại Bảng 2.1

Bảng 2.1 Lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020

Lộ trình tự chủ theo

Thực hiện lộ

Kế hoạch của Sở

TT

Đơn vị

trình tự chủ giai

Văn hóa và Thể

đoạn 2015-2020

thao

1 Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long

Năm 2020

Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ

2

Năm 2021

Hà Nội

3

Ban quản lý di tích danh thắng

Năm 2020

Năm 2020

4

Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò

Năm 2019

Năm 2019

5

Trung tâm thông tin triển lãm

Năm 2021

6

Báo Màn ảnh sân khấu

Năm 2021

Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn

7

Năm 2018

Miếu – Quốc Tử Giám

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy, trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2020)

cho thấy số lượng các đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên trong giai đoạn

2015-2020 tăng 3 đơn vị, đạt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Trong đó có 02 đơn vị

thực hiện đúng lộ trình tự chủ là Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò và Ban quản

lý di tích danh thắng. Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám

không có trong kế hoạch đề ra, nhưng năm 2018, đơn vị có nguồn thu phí tham

quan lớn, do hàng năm thu hút được đông đảo lượng khách tham quan trong

44

nước và quốc tế. Do vậy, đơn vị có khả năng trang trải 100% chi thường xuyên

từ năm 2018.

Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long chưa thực hiện theo lộ trình tự chủ, do

đơn vị có nguồn thu còn ít, chưa đủ bù đắp chi thường xuyên vào năm 2020.

Hơn nữa, cơ sở vật chất của Nhà hát còn chưa đảm bảo: Nhà hát tại địa chỉ 31-

33 Lương Văn Can chưa cải tạo, sửa chữa xong nên Nhà hát chưa có địa điểm

để biểu diễn để tăng thu trong khi phải đi thuê địa điểm để tập luyện, trang thiết

bị phục vụ biểu diễn còn thiếu và chưa đồng bộ. Đặc biệt, trong năm 2020, do

ảnh hưởng của dịch covid 19 nên toàn bộ hoạt động văn hóa nghệ thuật bị ảnh

hưởng nặng nề. Do đó nguồn thu bị giảm mạnh và dự báo sẽ tiếp tục ảnh hưởng

trong năm 2021.

2.2.3.2. Xác định nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập

Cơ cấu nguồn thu của các đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội bao gồm: nguồn thu từ ngân sách nhà nước, nguồn thu phí,

lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp và các nguồn thu khác. Cụ thể

như sau:

Một là, nguồn thu từ ngân sách nhà nước:

- Kinh phí nhiệm vụ thường xuyên: là nguồn kinh phí tự chủ cấp cho các

đơn vị sự nghiệp công lập để chi trả các khoản lương, các khoản phụ cấp, chi

quản lý hành chính và chi khác nhằm đảm bảo duy trì hoạt động thường xuyên

của đơn vị.

- Kinh phí nhiệm vụ không thường xuyên, bao gồm: Kinh phí nghiệp vụ

được ngân sách nhà nước cấp để thực hiện các nhiệm vụ văn hóa, thể thao và

hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị theo chỉ đạo của UBND thành phố Hà

Nội; Kinh phí mua sắm, sửa chữa tài sản cố định; Kinh phí chống xuống cấp;

Kinh phí khác như đào tao, tinh giản biên chế, …

Hai là, nguồn thu:

45

- Nguồn thu phí, lệ phí: là nguồn thu từ các hoạt động bán vé tham quan

(di tích nhà tù Hỏa Lò, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, di tích đền Ngọc

Sơn), phí thẩm định (chương trình nghệ thuật, văn hóa phẩm, phim, bang đĩa

hình có chương trình, nội dung chương trình trên băng đĩa, phần mềm, cấp giấy

chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoạt động cơ sở thể thao, câu lạc bộ thể

thao chuyên nghiệp), phí thư viện.

- Nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp: Bao gồm các khoản thu chủ

yếu sau: Thu biểu diễn nghệ thuật, thu tổ chức sự kiện, thu hoạt động thể thao,

thu hoạt động tuyên truyền, triển lãm và hội chợ đêm, thu bán vé xem phim,

thu công đức, thu hoạt động các câu lạc bộ văn hóa thể thao, thu từ hoạt động

cho thuê cơ sở vật chất và liên doanh liên kết, …

- Nguồn thu khác: thu công đức, thu tài trợ, thu thanh lý tài sản, bán hồ

sơ thầu, lãi tiền gửi

Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 được thể hiện tại

Bảng 2.2.

Bảng 2.2 Tổng hợp thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020

Đơn vị tính: triệu đồng

Tháng

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

1->6/

TT

Năm

2015

2016

2017

2018

2019

2020

1 Ngân sách nhà nước

649.529 628.294 670.496 841.684 941.855 883.098

Kinh phí hoạt động

112.701 118.073 155.524 171.627 155.404 136.275

thường xuyên

Kinh phí hoạt động

536.828 510.221 514.972 670.057 786.451 737.823

không thường xuyên

KP nghiệp vụ

463.823 433.412 434.580 587.768 702.854 653.815

46

Tháng

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

Năm

1->6/

2015

2016

2017

2018

2019

2020

KP mua sắm TSCĐ

55.205 57.809 65.392 70.289 73.797 75.708

KP sửa chữa, chống

xuống cấp

17.800

19.000

15.000

12.000

9.800

8.300

2 Nguồn thu

142.264 152.380 159.466 175.306 185.698 30.232

2.1 Thu phí được để lại

67.744

71.327

75.349

83.107

88.155

17.357

Phí danh lam thắng cảnh

66.754

70.470

74.433

82.246

86.828

16.794

Phí thẩm định

825

687

744

664

1.136

303

Phí thư viện

165

170

172

197

191

80

Thu hoạt động dịch vụ

2.2

65.164

72.585

74.357

83.810

87.530

10.917

sự nghiệp

Hoạt động biểu diễn

43.129

50.643

52.673

59.049

67.088

5.378

Tuyên truyền, triển lãm

3.512

3.586 3.654

3.799 3.894 1.015

Chiếu phim

7.013 6.072 5.389 4.441 3.309 855

Thể thao

2.500 2.783 2.894 3.044 2.213 1.058

Bán báo

729

635

456

250

534

-

Hoạt động cho thuê, liên

7.589 8.537 8.925 12.858 10.105 2.560

doanh liên kết

Hoạt động khác

692

329

366

369

387

51

Thu khác (Thu công

2.3

9.356

8.468

9.760

8.389

10.013

1.958

đức, tài trợ, thanh lý tài

sản, lãi tiền gửi,…)

Thu công đức

5.123

5.876

6.018

6.119

6.353

935

Tỷ lệ nguồn thu so với

3

22%

24%

24%

21%

20%

3%

ngân sách cấp

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

Qua bảng phân tích số liệu cho thấy như sau:

47

- Nguồn kinh phí ngân sách cấp năm 2016 giảm hơn năm 2015, nhưng

có xu hướng tăng dần từ năm 2016 đến năm 2019 và giảm vào năm 2020.

Nguyên nhân là do năm 2015 là năm có nhiều sự kiện văn hóa phục vụ các

ngày lễ lớn của đất nước và Thành phố. Từ năm 2016 đến năm 2019, thành phố

Hà Nội rất quan tâm đầu tư cho hoạt động văn hóa và thể thao, đặc biệt là hoạt

động phục vụ chính trị có quy mô cấp quốc gia và tập trung đào tạo vận động

viên, trang thiết bị phục vụ cho các kỳ Đại hội thể thao trong nước, khu vực và

thế giới. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của dịch covid 19 nên thành phố Hà Nội

thực hiện cắt giảm nguồn kinh phí để thực hiện.

- Nguồn thu tăng dần qua các năm (từ năm 2015 đến năm 2019), ghi

nhận những nỗ lực không nhỏ của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, thể thao trong

việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Tuy nhiên, năm 2020, do ảnh hưởng của

dịch covid 19 nên lượng khách tham quan di tích giảm sút nghiêm trọng do

không có khách nước ngoài, khách trong nước rất ít, chỉ khoảng 30 khách tham

quan/01 ngày, các hoạt động văn hóa và thể thao bị tạm dừng nên nguồn thu bị

giảm sút nghiêm trọng.

+ Đối với nguồn thu phí, lệ phí: Có 04 đơn vị thực hiện thu phí và lệ phí,

bao gồm: Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn

Miếu – Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích danh thắng thực hiện thu phí thăm

quan di tích và Thư viện Hà Nội thực hiện thu lệ phí thư viện. Các đơn vị đã có

những đổi mới hình thức hoạt động để thu hút khách thăm quan như Ban quản

lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử

Giám, Ban quản lý di tích danh thắng nên nguồn thu từ phí tham quan tăng lên

đáng kể. Thu phí, lệ phí chiếm 47-49% tổng các khoản thu của Sở Văn hóa và

Thể thao. Trong đó: Thu từ hoạt động bán vé tham quan danh lam thắng cảnh

là khoản thu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 98-99% tổng thu phí, lệ phí; trong khi

48

nguồn thu phí thẩm định chiếm tỷ trọng 1-2%, nguồn thu khác chiếm tỷ trọng

0,2% trên tổng thu phí, lệ phí.

Đối với nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp: 13 đơn vị còn lại /16

đơn vị thực hiện thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp. Kết quả hoạt động từ năm

2015 đến năm 2019 cho thấy, số thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp tăng dần,

nhưng không đồng đều qua các năm và không đồng đều đối với các hoạt động

dịch vụ sự nghiệp. Trong đó số thu chiếm tỷ trọng lớn là thu hoạt động biểu

diễn và thu từ việc khai thác cơ sở vật chất. Đặc biệt là Nhà hát múa rối Thăng

Long có nguồn thu biểu diễn lớn nhất và chiếm tỷ trọng cao, do Nhà hát có vị

trí đắc địa, ngay trung tâm quận Hoàn Kiếm, gần di tích đền Ngọc Sơn và đây

là một hoạt động nghệ thuật rối đặc sắc của dân tộc, thu hút được đông đảo

khách quốc tế tới xem và thưởng thức nghệ thuật.

Trên cơ sở nguồn nhân lực hiện có, cùng với việc khai thác hoạt động

chuyên môn và sử dụng thế mạnh về cơ sở nhà đất tại khu vực trung tâm của

thành phố nên một số đơn vị sự nghiệp công lập đã tăng cường cung cấp các

dịch vụ công cho xã hội và qua đó nguồn thu hoạt động sự nghiệp được đẩy

mạnh trong giai đoạn vừa qua. Từ đó, góp phần chi trả tiền công cho lao động

hợp đồng, cải thiện điều kiện làm việc và tăng thu nhập cho viên chức, người

lao động. Tuy nhiên, nguồn thu hoạt động sự nghiệp còn hạn chế nên chưa đảm

bảo việc tích lũy để tái đầu tư cho cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp công

lập.

Bên cạnh đó, một số đơn vị sự nghiệp có nguồn thu hoạt động thấp và

không ổn định hoặc có xu hướng giảm như Trung tâm Văn hóa thành phố Hà

Nội, Báo Màn ảnh sân khấu, Nhà hát Nghệ thuật xiếc và Tạp kỹ. Nguyên nhân

là do hoạt động chiếu phim khó cạnh tranh được với khu vực tư nhân, hoạt động

nghệ thuật xiếc chưa thực sự chuyên nghiệp để thu hút người xem và đơn vị

49

chưa có rạp để tập luyện, biểu diễn; hoạt động báo giấy không còn phù hợp với

nhu cầu hiện nay.

Mặc dù nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập có tăng qua các

năm, nhưng tỷ trọng nguồn thu so với nguồn ngân sách lại có xu hướng giảm

dần qua các năm. Nguyên nhân là do nguồn thu có tăng, nhưng mức tăng thấp

hơn mức ngân sách cấp bổ sung qua các năm. Thực tiễn này đặt ra những thách

thức đối với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo hiệu quả

chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại nguồn thu

tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Tỷ lệ đảm bảo chi thường xuyên từ nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp

không đồng đều. Các đơn vị khối bảo tồn, bảo tàng có bán vé thăm quan di tích

như Ban quản lý di tích danh thắng, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung

tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đặc biệt Nhà hát múa rối

Thăng Long đạt tỷ lệ đảm bảo chi thường xuyên từ nguồn thu cao, đến năm

2019 đạt 100%. Các đơn vị sự nghiệp còn lại đạt tỷ lệ đảm bảo chi thường

xuyên từ nguồn thu thấp, đặc biệt Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT chỉ

đạt 8-10%, do nguồn thu đơn vị đạt thấp trong khi đơn vị có quy mô tổ chức

lớn và kinh phí dành chi thường xuyên của đơn vị lớn.

2.2.3.3. Quản lý, sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập

Thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính

Phủ, căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối các nguồn tài chính, việc sử

dụng nguồn tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao được thực hiện cụ thể như sau:

Đối với nhiệm vụ chi thường xuyên

- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

50

+ Chi tiền lương: 100% các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên đã chủ

động sử dụng nguồn thu được để lại để chi trả tiền lương theo lương ngạch,

bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với các đơn vị sự

nghiệp công. Thực hiện việc điều chỉnh mức lương cơ sở của Nhà nước tại các

Nghị định của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội: Nghị định số

66/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013, Nghị định số 47/2016/NĐ-CP và Nghị quyết

số: 99/2015/ QH13 và 27/2016/QH14, Nghị định số 72/2018/NĐ-CP ngày

15/5/2018, Nghị quyết số 70/2018/QH14 ngày 09/11/2018, Nghị quyết số

86/2019/QH14 ngày 12/11/2019, mức lương cơ sở từ 1.150.000 đồng/01 tháng

(năm 2015), 1.210.000 đồng/01 tháng (từ 01/5/2016 đến 30/6/2017), 1.300.000

đồng/01 tháng (từ 01/7/2017 đến 30/6/2018), 1.390.000 đồng/01 tháng (từ

01/7/2018 đến 30/6/2019) đến nay là 1.490.000 đồng/01 tháng (từ 01/7/2019

đến 30/6/2020), các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên đã

tự cân đối từ nguồn thu phí được để lại và nguồn thu biểu diễn từ hoạt động

múa rối để thực hiện cải cách tiền lương và chi trả thu nhập tăng thêm cho viên

chức, người lao động của đơn vị.

+ Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Về cơ bản, các đơn vị căn cứ

vào định mức, đơn giá nhà nước quy định để thực hiện. Đối với đơn vị đơn vị

có nguồn thu lớn như Nhà hát múa rối Thăng Long: Căn cứ vào khả năng tài

chính, Nhà hát sẽ quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý cao

hơn hoặc thấp hơn mức chi, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và

quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.

+ Trích khấu hao tài sản cố định: 100% các đơn vị đã trích khấu hao tài

sản hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vào Quỹ phát triển hoạt động

sự nghiệp.

- Đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên

51

+ Chi tiền lương: 100% các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên đã chủ

động sử dụng nguồn thu được để lại để chi trả tiền lương theo lương ngạch,

bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với các đơn vị sự

nghiệp công. Thực hiện việc điều chỉnh mức lương cơ sở của Nhà nước từ

1.150.000 đồng/01 tháng (năm 2015) đến nay là 1.490.000 đồng/01 tháng (từ

01/7/2019 đến 30/6/2020), các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần

chi thường xuyên đã tự cân đối một phần từ nguồn thu được để lại, phần còn

thiếu ngân sách nhà nước cấp bổ sung.

+ Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao

và khả năng nguồn tài chính, các đơn vị thực hiện chi hoạt động chuyên môn,

chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quy định đối với từng nguồn kinh phí và phải thực hiện đúng các quy

định của Nhà nước về mức chi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; tiêu

chuẩn, định mức về nhà làm việc; tiêu chuẩn, định mức trang bị điện thoại công

vụ tại nhà riêng và điện thoại di động; chế độ công tác phí nước ngoài; chế độ

tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam.

Đối với nhiệm vụ chi không thường xuyên

Các đơn vị chi theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật

hiện hành với từng nguồn kinh phí, bao gồm: nguồn thu phí, lệ phí được để lại

chi (chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí),

kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án, đề án, kinh phí

mua trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm

quyền phê duyệt, kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm

quyền giao, nguồn tài trợ theo quy định của pháp luật.

Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội thể hiện tại Bảng 2.3

52

Bảng 2.3. Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020

Tháng

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

Năm

1->6/

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Chi ngân sách nhà

1

584.559 554.135 626.636 793.568 941.855 469.781

nước cấp

Chi hoạt động thường

108.535 114.048 150.510 166.096 150.763 56.314

xuyên

Chi hoạt động không

476.024 440.087 474.126 627.472 706.382 413.467

thường xuyên

2 Chi từ nguồn thu

98.725

95.681 90.456 90.133 88.214 24.589

Nguồn phí, lệ phí

37.744

38.628 33.315

39.660

42.103

12.357

Nguồn thu dịch vụ sự

55.614

52.585 52.196

45.789

40.757

10.917

nghiệp

Nguồn thu khác

5.367

4.468

4.945

4.684

5.354

1.315

Chi lương từ nguồn

3

ngân sách và nguồn

67.116

81.371 94.768

93.795

90.584

43.125

thu

Sử dụng kết quả

34.954

47.475 51.340

66.893

70.774

5.168

4

hoạt động tài chính

Chi thu nhập tăng

13.721

20.996

22.890

32.671

34.845

0

thêm

Trích lập các quỹ

21.233

26.479 28.450

34.222

35.929

5.168

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

Qua Bảng 2.3 Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 cho

thấy:

53

- Hoạt động chi ngân sách nhà nước tăng dần qua các năm từ năm 2016

đến năm 2019. Nguyên nhân là do: Trong giai đoạn này, Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội được giao nhiều hoạt động phục vụ chính trị có quy mô

cấp quốc gia và có hiều sự kiện thể thao diễn ra trong giai đoạn này. Do vậy,

nguồn kinh phí được tập trung cho việc đào tạo, huấn luyện vận động viên và

đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ tập luyện và thi đấu cho các kỳ Đại hội

thể thao trong nước, khu vực và thế giới.

- Hoạt động chi từ nguồn thu giảm dần từ năm 2015 đến năm 2019.

Nguyên nhân là do: một là việc trích từ nguồn phí và lệ phí theo 53/2016/QĐ-

UBND ngày 26/12/2016 của UBND thành phố Hà Nội, trong đó: tỷ lệ được để

lại để thực hiện hoạt động không thường xuyên cao hơn trước đây, các hoạt

động chi từ nguồn không thường xuyên phải xin ý kiến của UBND thành phố

Hà Nội do vậy đơn vị không chủ động để thực hiện chi mua sắm lớn, tôn tạo,

duy tu, sửa chữa lớn, chống xuống cấp,… ; hai là nguồn thu công đức chưa có

văn bản hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên đơn vị còn e dè

khi chi từ nguồn công đức; ba là các đơn vị đã thực hiện việc chi tiêu có hiệu

quả nhằm đảm bảo có nguồn tích lũy. Đặc biệt trong năm 2019 mặc dù các đơn

vị sự nghiệp công lập có nguồn thu tăng, nhưng chi giảm do khoản thu từ việc

cho thuê cơ sở vật chất và thu từ việc liên doanh liên kết chưa có đề án được

phê duyệt nên toàn bộ số thu từ việc cho thuê, liên doanh liên kết không được

chi mà nộp trả toàn bộ số thu vào ngân sách nhà nước.

- Chi lương từ năm 2015 đến năm 2017 tăng và giảm dần từ năm 2017

đến năm 2020, nguyên nhân do: một là thực hiện chính sách cải cách tiền lương

của Nhà nước (tăng mức lương tối thiểu chung), hai là số lượng viên chức và

người lao động giảm do thực hiện việc sáp nhập và sắp xếp lại lao động nhằm

tiết kiệm nguồn kinh phí, ba là do ảnh hưởng của dịch covid 19 một số viên

chức, người lao động xin nghỉ việc.

54

- Sử dụng kết quả hoạt động tài chính

+ Tăng thu nhập tăng thêm cho viên chức, người lao động

Thu nhập tăng thêm cho viên chức, người lao động tăng dần qua các

năm. Qua đó bước đầu cải thiện được đời sống của viên chức, người lao động.

Nguyên nhân là do: một là nguồn thu tăng trong khi số lượng viên chức, người

lao động giảm do vậy nguồn thu nhập tăng thêm tăng dần qua các năm, đặc biệt

trong năm 2018 và 2019 thu nhập tăng thêm tăng rất lớn; hai là các đơn vị đã

có phương án chi hiệu quả nên tiết kiệm được nguồn kinh phí đáng kể.

Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí

tiết kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên ngân sách nhà nước giao đã góp

phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định

của Chính phủ. Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện

cơ chế tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị sự

nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của

cán bộ, viên chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của

các đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên. Một số đơn vị sự nghiệp

công lập trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động

đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động khoảng 2 – 2,5 lần

lương. Riêng Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ có nguồn thu thấp, chỉ đảm bảo

chi trả chi phí trực tiếp và quản lý nên có thặng dư để chi trả thu nhập tăng

thêm.

+ Trích lập các quỹ

Trên cơ sở cân đối khả năng thu chi, các đơn vị đã thực hiện trích lập các

quỹ: quỹ khen thưởng, phúc lợi, phát triển hoạt động sự nghiệp. Việc trích lập

các quỹ thực hiện theo quy định và năm sau tăng hơn năm trước. Các đơn vị có

nguồn kinh phí hoạt động sự nghiệp cao, chủ động hơn khi thực hiện đầu tư,

mua sắm trang thiết bị và phát triển hoạt động chuyên môn. Hoạt động phúc lợi

55

theo đó cũng tốt hơn trước, viên chức và người lao động được quan tâm hơn,

nội dung chi và mức chi phúc lợi cao hơn. Việc khen thưởng, động viên viên

chức và người lao động kịp thời hơn.

2.2.3.4. Tự chủ trong giao dịch tài chính

Từ khi Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính Phủ

được ban hành, các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động hơn trong việc giao

dịch tài chính. Cụ thể như sau:

- Đối với các khoản thu phí, lệ phí, 100% các đơn vị vẫn thực hiện mở

tài khoản giao dịch tại kho bạc Nhà nước. Đối với các khoản thu khác, đặc biệt

là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, 100% các đơn vị sự nghiệp công lập

đã chủ động mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại. Việc này đã tạo

điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp trong giao dịch với bên ngoài.

- Tất cả các đơn vị đã thực hiện bổ sung lãi tiền gửi vào Quỹ Phát triển

hoạt động sự nghiệp và không được bổ sung vào Quỹ Bổ sung thu nhập.

- Nghị định cũng quy định rõ các đơn vị sự nghiệp công lập được huy

động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất theo quy định của pháp

luật và phải có phương án tài chính khả thi để hoàn trả vốn vay, chịu trách

nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay vốn. Tuy nhiên, thực tiễn các

đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội chưa triển khai

được nội dung này do việc xây dựng đề án khai thác cơ sở vật chất của đơn vị

sự nghiệp công còn nhiều lúng túng và chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

2.2.3.5. Thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội bộ

Công tác quản lý tài sản nhà nước

Công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đã dần

đi vào nề nếp. Phần lớn các đơn vị sự nghiệp công lập đã ban hành Quy chế

quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, trong đó phân định cụ thể quyền hạn, trách

nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong từng khâu, từng việc từ đầu tư xây dựng,

56

mua sắm, bảo quản, bảo vệ, sửa chữa, bảo dưỡng đến xử lý tài sản. Việc quản

lý và sử dụng tài sản nhà nước chưa đúng chức năng nhiệm vụ đã từng bước

được khắc phục.

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có 16 đơn vị sự nghiệp công

lập với 27 cơ sở nhà đất.

Đối với các đơn vị khối bảo tồn, bảo tàng như Bảo tàng Hà Nội, Ban

quản lý Di tích Danh thắng, Ban quản lý Di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm

VHKH Văn Miếu -Quốc Tử Giám chấp hành việc bảo tồn và tôn tạo di tích

theo quy định của Luật Di sản Văn hóa.

Đối với các cơ sở nhà đất thể thao thuộc Trường Phổ thông Năng khiếu

TDTT và Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT được đầu tư xây mới từ năm

2003 đến năm 2010. Qua nhiều năm sử dụng, nhiều công trình xuống cấp và

xuống cấp nghiêm trọng. Được sự quan tâm của UBND thành phố, năm 2018

được đầu tư cải tạo, sửa chữa 08 công trình để phục vụ Đại hội Thể thao toàn

quốc lần thứ XIII. Hiện nay, UBND thành phố Hà Nội tiếp tục quan tâm tạo

điều kiện để cải tạo, sửa chữa, nâng cấp 08 công trình tập luyện, thi đấu phục

vụ Sea Games năm 2021 và 10 công trình phụ trợ phục vụ việc ăn ở, tập luyện

thường xuyên của vận động viên.

Đối với các đơn vị nghệ thuật: 06 nhà hát trực thuộc sở Văn hóa và Thể

thao Hà Nội được Thành phố giao quản lý và sử dụng 09 cơ sở vật chất trong

đó có 08 rạp biểu diễn và 01 cơ sở nhà đất chỉ dùng làm trụ sở làm việc và nơi

luyện tập (Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ đang quản lý). Tuy nhiên trong

tổng số 08 rạp biểu diễn chỉ có 04 rạp đang hoạt động (Rạp Đại Nam, Rạp

Nguyễn Đình Chiểu, Rạp Công Nhân, Rạp Kim Đồng). 02/08 đang trong giai

đoạn thực hiện dự án cải tạo sửa chữa (Rạp Chuông Vàng, Rạp 31-33 Lương

Văn Can). 02/08 rạp xuống cấp trầm trọng không sử dụng (Rạp Tạ Hiện, Rạp

Đông Đô). Số lượng rạp đang hoạt động đạt 50% tổng số lượng rạp hát hiện có,

57

hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất thấp hạn chế nguồn thu sự nghiệp của các nhà

hát. Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ chưa có rạp biểu diễn.

Đối với các đơn vị văn hóa khác như Thư viện Hà Nội, Trung tâm Văn

hóa thành phố Hà Nội, Báo Màn ảnh sân khấu: Căn cứ vào nhu cầu và khả năng

cân đối ngân sách hàng năm, UBND thành phố Hà Nội có bố trí kinh phí để cải

tạo, sửa chữa nhỏ để phục vụ công tác chuyên môn và hoạt động chung của các

đơn vị.

Trang bị xe ô tô phục vụ chung và xe chuyên dùng

Thực hiện trang bị xe ô tô cho các đơn vị theo Nghị định số 04/2019/NĐ-

CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ về quy định theo tiêu chuẩn, định mức sử

dụng xe ô tô và Quyết định số 7071/QĐ-UBND ngày 23/12/2016 của UBND

thành phố Hà Nội về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị xe ô tô chuyên

dùng cho các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của thành phố Hà Nội. Sở

Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã rà soát toàn bộ xe ô tô phục vụ chung

và ô tô chuyên dụng của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc.

Qua rà soát cho thấy 09/16 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa

và Thể thao thành phố Hà Nội đã được trang bị 25 xe, trong đó có 03 xe ô tô

phục vụ công tác chung và 22 xe ô tô chuyên dùng. Các đơn vị có nhu cầu sử

dụng phục vụ chuyên chở đạo cụ, diễn viên nhưng chưa được trang bị xe ô tô

chuyên dụng: Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long, Nhà hát múa rối Thăng Long.

10 đơn vị có hệ số phụ cấp từ 0,7 trở lên nhưng chỉ có 03 đơn vị được trang bị xe

ô tô phục vụ chung, bao gồm: Nhà hát Kịch Hà Nội, Trung tâm Văn hóa thành

phố Hà Nội, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT. Các xe ô tô chủ yếu được

đầu tư từ năm 2004 trở về trước, đến nay phần lớn đã hỏng hóc không sử dụng

được. Các Nhà hát chủ yếu phải thuê xe để chở đạo cụ và diễn viên khi đi diễn

biểu diễn phục vụ chính trị và biểu diễn doanh thu tại các tỉnh hoặc các quận,

58

huyện. Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao phải thuê xe để huấn

luyện viên, vận động viên đi tập huấn và thi đấu trong nước.

Trang thiết bị tài sản chuyên dùng:

Hàng năm, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT Hà Nội được quan

tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ tập luyện và thi đấu với kinh phí khoảng 30

tỷ/ 01 năm, đáp ứng nhu cầu cơ bản về tập luyện và thi đấu cho các vận động

viên, góp phần giúp các vận động viên đạt được thành tích cao trong các hoạt

động thể thao. Hàng năm, thể thao thành phố góp 30% lực lượng vận động viên

vào đội tuyển quốc gia và đứng top đầu về thành tích thể thao so với các tỉnh

thành trong cả nước.

Từ những năm gần đây, 05/6 nhà hát được thành phố đầu tư 02 hệ thống

âm thanh, ánh sáng gồm biểu diễn trong rạp và biểu diễn lưu động, hệ thống màn

hình Led trong nhà (trừ Nhà hát Cải lương và Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ),

tạo điều kiện cho các nhà hát hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Xây dựng và thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ

Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, khả năng tài chính của

đơn vị và mức độ tự chủ tài chính, các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động

xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, lấy ý kiến của các bộ phận chuyên môn hoặc

thảo luận rộng rãi trong toàn đơn vị, có ý kiến thống nhất của tổ chức công

đoàn. Đơn vị hoàn thiện Quy chế chi tiêu nội bộ và xin ý kiến của Sở Văn hóa

và Thể thao thành phố Hà Nội để ban hành và tổ chức thực hiện.

Căn cứ vào định mức chi thường xuyên được giao, các đơn vị cân đối để

đảm bảo các khoản tiền lương và các khoản trích theo lương. Số kinh phí còn

lại, các đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng kế hoạch để chi. Căn cứ vào

khả năng thu, các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên xây dựng nội

dung chi, mức chi theo khả năng cấn đối thu chi.

59

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên sẽ xây dựng nội dung chi, mức chi theo quy định pháp luật hiện hành.

Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

thực hiện đúng quy định của nhà nước về một số tiêu chuẩn, định mức và mức

chi, cụ thể: Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô, nhà làm việc, điện thoại công

vụ tại nhà riêng, công tác phí nước ngoài, tiếp khách trong nước và hội thảo

quốc tế ở Việt Nam, tinh giản biên chế, mua sắm, sửa chữa tài sản cố định.

Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

như Nhà hát múa rối Thăng Long, Ban quản lý di tích danh thắng, Ban quản lý

di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử

Giám có điều chỉnh bổ sung nội dung chi và điều chỉnh mức chi cao hơn quy

định hiện hành và phù hợp với thực tế hơn.

Đến nay, 100% đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội đã ban hành quy chế chi tiêu nội bộ. Hàng năm, nếu có sự thay đổi quy

định của pháp luật, khả năng tài chính, các đơn vị thực hiện điều chỉnh quy chế

chi tiêu nội bộ. Căn cứ vào Quy chế chi tiêu nội bộ được thông qua, các đơn vị

sự nghiệp công lập chủ động chi cho các hoạt động của đơn vị mình. Thông

qua quy chế chi tiêu nội bộ chi tiêu trong các đơn vị sự nghiệp công lập cũng

đã được tự chủ hơn về tài chính trong việc thu chi hoạt động thường xuyên, tạo

sự chủ động cho Thủ trưởng đơn vị trong điều hành hoạt động và các cán bộ,

viên chức, người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao; khuyến khích tăng

thu, tiết kiệm chi, thu hút và giữ được người có năng lực. Đồng thời là căn cứ

để cơ quản lý tài chính (Sở Tài chính Hà Nội), cơ quan cấp trên (Sở Văn hóa

và Thể thao thành phố Hà Nội) và Kho bạc Nhà nước kiểm tra, kiểm soát tài

chính theo quy định. Tuy nhiên, một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội vẫn còn chậm trễ và gặp khó khăn

trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, một số trường hợp xây dựng quy

60

chế chi tiêu nội bộ rất chi tiết nhưng một số nội dung chi và mức chi không còn

phù hợp. Ngoài ra, quy chế chi tiêu nội bộ của một số đơn vị còn sơ sài, chưa

quy định cụ thể nội dung chi, mức chi từ nguồn thu, do vậy làm hạn chế tính

chủ động sáng tạo của các viên chức, người lao động trong việc tăng thu của

đơn vị.

2.2.3.6. Lập, phân bổ và giao dự toán

Căn cứ Kế hoạch ngân sách được UBND thành phố Hà Nội giao và hồ

sơ dự toán do đơn vị sự nghiệp đề xuất, sau khi xem xét Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sự nghiệp trực

thuộc. Hiện nay cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước

cho cung cấp dịch vụ công về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào, theo

chức năng, nhiệm vụ, theo mức độ phân loại tự chủ của đơn vị sự nghiệp công

lập ổn định trong 3 năm; chưa gắn việc giao dự toán với số lượng, chất lượng

sản phẩm, dịch vụ công. Trong dự toán giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập

chưa phân định rõ dự toán giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch

vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Nguyên nhân là do:

Chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất lượng

dịch vụ sự nghiệp công lập để kiểm định chất lượng cung ứng dịch vụ làm cơ

sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập; Chưa ban hành được

giá dịch vụ sự nghiệp theo quy định tại khoản 1 điều 10 Nghị định số

16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 do vậy chưa có cơ sở để thực hiện đặt hàng

đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và đặt hàng,

giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự

bảo đảm một phần chi thường xuyên.

2.2.3.7. Cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công,

xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp công lập

61

Theo quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính Phủ: Căn cứ

danh mục dịch vụ sự nghiệp công được quy định, các Bộ, cơ quan Trung ương,

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp cho cơ quan cấp dưới lựa

chọn đơn vị sự nghiệp công để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo hình thức

giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu theo quy định. Hiện nay, Nghị định số

32/2019/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khung danh mục dịch sự nghiệp công

sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực và giao Thủ tướng

Chính phủ quyết định chi tiết các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân

sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết

định chi tiết danh mục thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Một số danh mục

sự nghiệp công đã được ban hành theo Quyết định 1992/QĐ-TTg ngày

11/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao

của thành phố Hà Nội và Quyết định 1270/QĐ-UBND ngày 19/3/2019 của

UBND thành phố Hà Nội ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng

ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao của thành phố Hà Nội.

Nhưng số lượng danh mục sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân

sách nhà nước áp dụng các phương thức giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu

còn hạn chế và chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố đã ban hành nhiều

định mức, nội dung chi đối với hoạt động văn hóa, thể thao. Tuy nhiên, còn nhiều

định mức – kỹ thuật chưa được ban hành. Do chưa có hướng dẫn của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch nên Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị

sự nghiệp công lập của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội chưa xây dựng

được định mức kinh tế - kỹ thuật còn thiếu. Các định mức kinh tế - kỹ thuật còn

thiếu, gây khó khăn trong việc xác định đơn giá cũng như triển khai trong phân bổ

62

ngân sách nhà nước theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số

lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ công.

Tính giá dịch vụ sự nghiệp công, lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công

sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định

lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước:

(a) Đến năm 2016: Tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp (chưa tính chi

phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định); (b) Đến năm 2018: Tính đủ

chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp và chi phí quản lý (chưa tính chi phí khấu

hao tài sản cố định); (c) Đến năm 2020: Tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực

tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Theo lộ trình trên, đến

năm 2020 giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước

phải được tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi

phí khấu hao tài sản cố định. Tuy vậy, trên thực tế đến nay nhiều Bộ, cơ quan

trung ương, địa phương vẫn chưa thực hiện điều chỉnh hoặc đề xuất cấp có

thẩm quyền điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công theo lộ trình quy định tại

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, trong đó có lĩnh vực văn hóa và thể thao. Sở

Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã triển khai hướng dẫn các đơn vị sự

nghiệp công lập tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Đến nay, chưa hoàn thành

công tác tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách theo lộ

trình từng năm đã đề ra.

Nguyên nhân do: Giá dịch vụ sự nghiệp công phải tính đủ chi phí tiền

lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Các

hoạt động văn hóa và thể thao khó xác định chi phí trực tiếp do mỗi hoạt động

có tính đặc thù riêng, nhiều hoạt động nghệ thuật chỉ mang tính định tính khó

định lượng, nhiều khi theo chủ quan của đạo diễn chương trình nên khó xác

định đơn giá, định mức. Quy mô hoạt động thường xuyên thay đổi và nhiều nội

dung chưa có đơn giá, định mức nhà nước quy định. Điều này đã dẫn đến việc

63

thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch và ngân

sách nhà nước vẫn phải tiếp tục bao cấp các đơn vị sự nghiệp công lập.

2.2.4. Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về cơ

chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội

Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về cơ chế

tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự ghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

Thành phố Hà Nội được thực hiện như sau:

Định kỳ hàng năm, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện hoạt

động giám sát đối với UBND thành phố Hà Nội về lĩnh vực văn hóa, thể thao,

trong đó có nội dung thực hiện pháp luât nói chung và pháp luật trong việc thực

hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội. Việc giám sát nhằm nắm tình hình thực tế về thực hiện

cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành

phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đoàn giám sát đã kiến nghị với Trung Ương và

UBND thành phố Hà Nội nhằm giải quyết các vấn đề bất cập, thực hiện có hiệu

quả cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hiện nay, hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện các quy định pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội được thực hiện thường xuyên và đột xuất cụ thể như sau:

Hàng năm, Sở Tài chính thành phố Hà Nội và Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội thực hiện quyết toán tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công

lập Sở Văn hóa và Thể thao. Thông qua các đợt kiểm tra quyết toán tài chính,

các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc hiểu rõ hơn về quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm được quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của

Chính Phủ và cơ chế tự chủ được quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày

14/02/2015 của Chính Phủ.

64

Kho bạc nhà nước là đơn vị thường xuyên thực hiện việc kiểm soát các

hoạt động thu, chi tài chính có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước của các đơn

vị sự nghiệp công lập thông qua định mức, đơn giá theo quy định của Nhà nước

và Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.

Ngoài các hoạt động kiểm tra thường xuyên được thực hiện như trên,

công tác kiểm tra, thanh tra đối với quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập còn có các đoàn kiểm tra khác như: Kiểm toán nhà nước năm 2018 về

công tác tài chính của đơn vị trong đó có kiểm tra về tình hình thực hiện quy

định pháp luật về cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập.

2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại

các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

2.3.1 Kết quả đạt được

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội đã tập trung cao chỉ

đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập và đạt được nhiều kết quả như sau:

Một là, việc ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn, triển khai thực hiện

các quy định của pháp luật đối với cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp

công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính

đơn vị sự nghiệp công, chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã nghiên

cứu và ban hành nhiều văn bản để đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống. Cụ

thể: Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP để triển khai thực hiện cơ

chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành quy hoạt mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa,

thể thao. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành nhiều văn bản: danh

mục dịch vụ sự nghiệp công, một số đơn giá định mức kinh tế kỹ thuật, nội

65

dung chi một số hoạt động văn hóa, thể thao. UBND thành phố Hà Nội đã quan

tâm và kịp thời ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện cơ chế tự chủ

và danh mục sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. Trên cơ sở văn bản

chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội đã xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện và hướng dẫn các đơn vị sự

nghiệp trực thuộc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Tất cả các văn

bản trên là cơ sở để các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể

thao tổ chức triển khai thực hiện nội dung về cơ chế tự chủ nói chung và tự chủ

tài chính nói riêng.

Hai là, nội dung thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự

nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

Thực hiện tự chủ các đơn vị đã có chuyển biến tích cực, từng bước tạo

điều kiện cải cách thể chế, cải cách bộ máy tổ chức, đổi mới và nâng cao chất

lượng cán bộ. Về tổ chức bộ máy và biên chế, đơn vị tiến hành rà soát lại chức

năng nhiệm vụ của các phòng, ban, đơn vị trong toàn đơn vị. Về cơ chế quản

lý tài chính, các đơn vị đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, đã thực hiện nhiều

biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi để bù đắp khoản kinh phí giảm cấp hàng năm

từ ngân sách nhà nước cho chi thường xuyên của đơn vị.

Đẩy mạnh công tác đổi mới hoạt động thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ

đã có kết quả nổi bật về tổ chức bộ máy và nhân lực: Hệ thống các đơn vị sự

nghiệp công cũng đã từng bước được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn hơn, giảm

đầu mối 4 đơn vị từ 20 đơn vị sự nghiệp xuống còn 16 đơn vị sự nghiệp.

Về cơ chế tài chính, một số đơn vị đã nâng mức tự chủ lên đảm bảo toàn

bộ chi thường xuyên, đơn vị chủ động trong xây dựng kế hoạch, chiến lược

phát triển dài hạn của đơn vị, cụ thể hóa thành các chương trình, Kế hoạch đổi

mới hoạt động tại đơn vị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ

66

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài

chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực,

như các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân

sách nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; đồng thời chủ động sử

dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao số lượng, chất lượng

hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát triển nguồn thu.

Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác

giám sát, thanh tra, kiểm tra thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự

nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội, một số các cơ quan

quản lý nhà nước đã quan tâm, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện

pháp luật cơ chế tự chủ tài chính.

2.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội còn một số hạn chế như sau:

Một là, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật

Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của

Chính phủ quy định chi tiết cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị

trên là nghị định khung quy định các vấn đề chung về cơ chế tự chủ của các

đơn vị sự nghiệp công lập. Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 695/QĐ-

TTg ngày 21/5/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số

16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của

đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở đó, các Bộ quản lý ngành quy định về cơ

chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực và xây dựng, ban

hành văn bản hoàn thiện cơ chế tài chính theo Nghị quyết 08/NQ-CP của Trung

Ương.

67

Việc xây dựng văn bản hướng dẫn Nghị định 16/2015/NĐ-CP chậm. Đến

nay, trong 08 Nghị định cần phải ban hành để cụ thể hóa các quy định của Nghị

định 16/2015/NĐ-CP đối với từng vực sự nghiệp thì Chính phủ mới ban hành

được 02 Nghị định (Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy định cơ

chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số

141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL

trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác), còn 06 Nghị định chưa

được ban hành. Đối với lĩnh vực văn hóa và thể thao, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch chưa ban hành Nghị định hướng dẫn Nghị định số 16/2015/NĐ-CP

ngày 14/02/2015 của Chính phủ nên ngành văn hóa, thể thao chưa có có cơ sở

để triển khai theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ.

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực từ năm 2015.

Từ đó đến nay, nhiều văn bản pháp luật mới về đầu tư, tài chính đã được ban hành

và có hiệu lực, như Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật

Ngân sách nhà nước; Luật Phí và lệ phí; Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày

10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung

cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách,... Nghị định số 16/2015/NĐ-CP

cần điều chỉnh đảm bảo thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật

khác có liên quan đến việc thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Đến nay, sau một thời gian triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP vẫn

chưa được thực hiện một cách đồng bộ và quyết liệt. Nhiều văn bản hướng dẫn

thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập

thuộc phạm vi quản lý chưa được xây dựng và ban hành. Do đó, chưa bảo đảm

tính đồng bộ giữa tự chủ về tổ chức bộ máy và biên chế với tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về tài chính. Một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được

sửa đổi, bổ sung và ban hành đầy đủ kịp thời.

68

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Thiếu đồng bộ, nhiều cơ quan, đơn vị như Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức chính trị xã hội chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc tuyên

truyền, phổ biến chính sách của Đảng, nhà nước.

Hình thức tuyên truyền, thông tin chưa phong phú, chủ yếu phổ biến

trong hệ thống cơ quan nhà nước, chưa phát huy vai trò của phương tiện thông

tin báo đài trong công tác tuyên truyền.

Chưa thực hiện việc tuyên tuyền, phổ biến thông qua các gương điển

hình của một đơn vị thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính để từ đó nhân rộng và

phát triển ra quy mô rộng hơn.

Ba là, công tác tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn

hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

Đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tự chủ tài chính có nguồn thu dịch

vụ sự nghiệp còn thấp, tỷ lệ các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí

hoạt động còn thấp. Tỷ lệ các đơn vị tự chủ chi thường xuyên chỉ đạt 25%; 75%

đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và không có đơn vị tự chủ chi

thường xuyên và chi đầu tư.

Việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công

lập còn chậm, chưa có bước chuyển biến có tính đột phá; chưa tách bạch rõ

ràng giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công.

Trong quá trình triển khai cũng gặp phải một số tồn tại, vướng mắc phát sinh

như sau:

Mạng lưới đơn vị sự còn bất cập, phân bố chưa hợp lý. Bên cạnh đó, một

số đơn vị chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cũng

như về tài chính.

Về cơ bản các đơn vị tự chủ được về chuyên môn. Do vậy tự chủ về

chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp công lập đã được nâng lên cao. Tự chủ

69

về tài chính phải theo Luật Kế toán, Luật Ngân sách và các đơn giá, định mức

theo quy định nên các đơn vị sự nghiệp công lập khó có thể tự chủ được.

Trong một số lĩnh vực, số lượng đơn vị tự chủ toàn diện còn ít, mức độ

tự chủ thấp. Một số đơn vị có kết quả hoạt động chưa tương xứng với chức

năng, nhiệm vụ, dẫn đến kém hiệu quả.

Một số lĩnh vực còn thiếu các chuyên gia đầu ngành, chất lượng viên

chức ở một số vị trí chưa đáp ứng được yêu cầu vị trí việc làm. Cách thức quản

lý còn mang nặng hành chính, chưa chuyển sang hình thức dịch vụ phục vụ

công tác quản lý hành chính. Cơ sở vật chất xuống cấp nhiều, việc đầu tư mang

tính nhỏ lẻ, chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn. Trang thiết bị đã

được đầu tư qua các năm nhưng thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu. Các

đơn vị chưa chủ động mở rộng hoạt động dịch vụ để khai thác nguồn thu. Vì

vậy, chưa theo kịp yêu cầu và sự cạnh tranh của thị trường.

Một số lĩnh vực hoạt động có tính chất dịch vụ, các đơn vị chưa thực

hiện đáp ứng yêu cầu, phải thuê ngoài dẫn đến bộ máy đơn vị sự nghiệp công

lập cồng kềnh, tốn kém ngân sách đầu tư nhưng không mang lại hiệu quả phục

vụ nhiệm vụ quản lý của Bộ Tài chính.

Chưa chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, còn tình trạng rập khuôn sự

chỉ đạo từ cấp trên giao xuống, thiếu đổi mới, sáng tạo theo yêu cầu của thị

trường và của nhân dân; thiếu chủ động trong xây dựng kế hoạch hoạt động của

đơn vị mình. Trong công tác quản lý còn tồn tại cơ chế quản lý quan liêu. Việc

phân cấp, giao quyền và trách nhiệm cho các thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công

lập chưa được đẩy mạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có động lực

và chủ động đề xuất cơ chế quản lý hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế

của từng đơn vị sự nghiệp công lập.

70

Các đơn vị sự nghiệp công lập chưa xây dựng được mô hình quản lý đơn

vị sự nghiệp công theo cơ chế có Hội đồng quản lý, Ban Kiểm soát phù hợp để

chuyển giao một số nhiệm vụ cho đơn vị sự nghiệp công lập quyết định.

Các danh mục dịch vụ sự nghiệp công đang cung cấp còn hạn chế, chất

lượng còn kém; Chưa chủ động xây dựng và cung cấp danh mục sự nghiệp

công chất lượng cao theo chức năng nhiệm vụ của đơn vị và theo yêu cầu của

thị trường; chưa xác định rõ những dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước và

những dịch vụ không sử dụng ngân sách nhà nước.

Giá các dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng

thấp hơn nhiều so với giá của các cơ sở ngoài công lập cùng ngành, lĩnh vực

(do các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn được ngân sách nhà nước hỗ trợ) dẫn

đến sự quá tải đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, chưa đáp ứng được yêu

cầu chất lượng dịch vụ cho các đối tượng thụ hưởng.

Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được tự quyết định số lượng viên chức

làm việc, cơ quan chủ quản cấp trên vẫn giao chỉ tiêu biên chế sự nghiệp cho

đơn vị. Điều này đã hạn chế tính tự chủ của đơn vị, trong khi nguồn thu của

đơn vị không tăng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và việc tăng thêm

thu nhập của viên chức...

Một số đơn vị sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn

chạy theo số lượng, mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng

kỹ thuật để tăng thu.

Việc khai thác các nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển hoạt động cung

cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế. Sau hơn 7 năm triển khai thực hiện

Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, công tác quản lý, sử dụng tài sản nhà

nước tuy đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng cũng bộc lộ một số bất

cập, hạn chế như: Cơ chế quản lý, quy trình đầu tư và mua sắm tài sản nhà nước

còn phân tán; Việc quản lý, sử dụng một số loại tài sản nhà nước chưa được

71

quan tâm đúng mức, chậm đổi mới, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý tài chính,

chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới... Thực trạng trên đặt ra yêu

cầu cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác quản lý, sử dụng tài sản

công tại đơn vị sự nghiệp công lập trong thời gian tới.

Cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho cung

cấp dịch vụ công về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào, theo chức năng,

nhiệm vụ, theo mức độ phân loại tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập ổn định

trong 3 năm; chưa gắn việc giao dự toán với số lượng, chất lượng sản phẩm,

dịch vụ công.

Thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng sản phẩm dịch vụ

SNC còn một số hạn chế: Số lượng danh mục sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công

sử dụng ngân sách nhà nước áp dụng các phương thức giao nhiệm vụ, đặt hàng

hoặc đấu thầu còn hạn chế và chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.

Các định mức kinh tế - kỹ thuật còn thiếu, gây khó khăn trong việc xác

định đơn giá cũng như triển khai trong phân bổ ngân sách nhà nước theo cơ chế

đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch

vụ công.

Việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự

nghiệp công chưa kịp thời.

Việc giao tài sản cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn như doanh

nghiệp còn chưa được triển khai. Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài

sản chưa tạo chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc sử dụng tài sản

công còn phân tán, có nơi lãng phí, hiệu suất thấp và chưa được khai thác hiệu

quả, đặc biệt là nhà đất.

Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp đã bộc lộ nhiều nội dung không

phù hợp với cơ chế tài chính, ngân sách và chế độ báo cáo theo quy định mới.

Một số nội dung về cơ chế tài chính hoặc các nghiệp vụ kinh tế thực tế phát

72

sinh chưa được hướng dẫn cụ thể trong chế độ kế toán, dẫn đến các đơn vị thực

hiện còn khác nhau.

Chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất

lượng dịch vụ sự nghiệp công để kiểm định chất lượng cung ứng dịch vụ làm

cơ sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập và sắp xếp lại các

đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả.

Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động

của đơn vị sự nghiệp công lập

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của đơn vị sự

nghiệp công lập còn nhiều hạn chế: chưa thường xuyên, chưa có cuộc thanh tra,

kiểm tra chuyên sâu mà chỉ mang tính phối hợp với hoạt động chuyên môn,

chưa xử lý nghiêm đối với cá nhân, người đứng đầu không hoàn thành nhiệm

vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

2.3.3. Nguyên nhân

Chưa phát huy hết vai trò của lãnh đạo, điều hành và quản lý tổ chức thực

hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập chưa đầy đủ và đồng bộ.

Nhận thức công tác tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật

về cơ chế tự chủ nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Trình độ, năng lực

của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện còn hạn chế. Việc

tổ chức công tác tự chủ tài chính còn nhiều tồn tại, hạn chế: Việc phân bổ kinh

phí hoạt động thường xuyên còn mang tính bình quân, chưa thực sự gắn kết giữa

giao nhiệm vụ và giao kinh phí; nên còn tình trạng trông chờ, ỉ lại vào sự bao

cấp của nhà nước. Đơn vị sự nghiệp công lập chưa xây dựng mức giá dịch vụ

sự nghiệp công, giá dịch vụ chưa kết cấu đủ chí phí nên ngân sách nhà nước

vẫn phải đảm bảo một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động của đơn vị sự

73

nghiệp, chưa được chủ động trong tự cân đối thu chi của đơn vị. Đơn vị sự

nghiệp công lập chưa chủ động trong quản lý các nguồn tài chính của đơn vị

mình, chưa chủ động và tự quyết định khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính

hợp pháp theo quy định để tăng nguồn thu sự nghiệp (mở rộng hoạt động dịch

vụ liên doanh, liên kết). Chưa chủ động xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và

các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công để kiểm định chất lượng cung

ứng dịch vụ làm cơ sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công. Quy

chế chi tiêu nội bộ, phân phối thu nhập còn mang tính bình quân, chưa gắn với

hiệu quả và chất lượng công việc để khuyến khích người lao động đạt hiệu quả,

chất lương cao nhất. Năng lực quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công

lập còn hạn chế, sử dụng kinh phí chưa hiệu quả. Hầu hết các đơn vị sự nghiệp

công lập chưa xây dựng được mô hình quản lý đơn vị sự nghiệp công theo cơ

chế có Hội đồng quản lý, Ban Kiểm soát để giám sát về chất lượng hoạt động

dịch vụ sự nghiệp công của các Đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp nhằm kiểm

định chất lượng dịch vụ, thực hiện xếp hạng, phân loại các đơn vị sự nghiệp một

cách công khai, minh bạch và chính xác.

Công tác kiểm tra, giám sát thiếu thường xuyên, chưa xử lý nghiêm đối

với cá nhân, người đứng đầu không hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ, do còn thiếu nhiều các tiêu chí đánh giá chất lượng từng loại hình

dịch vụ sự nghiệp công.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã thực hiện nhưng

chưa đa dạng, phong phú về phương thức thực hiện và nội dung tuyên truyền.

Chưa đồng bộ các giải pháp để tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Qua phân tích trên cho thấy trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung

74

và đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã đạt

được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Bên cạnh những chuyển biến tốt, vẫn còn

nhiều tồn tại, hạn chế do pháp luật chưa đồng bộ, nhận thức và năng lực thực

thi của các cán bộ thực hiện, các đơn vị sự nghiệp công lập còn thụ động trong

việc thực hiện cơ chế tự chủ, … Tất cả những hạn chế trên đã làm cho việc thực

hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công theo hướng tự chủ

không mang lại hiệu quả cao, chưa thực sự tạo ra cơ chế khuyến khích, động

viên cũng như động lực để công chức làm việc.

Trong Chương 2, phần đầu của chương đã giới thiệu khái quát về Sở Văn

hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc.

Phần tiếp theo luận văn đã nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội. Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế,

nguyên nhân trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở những phân tích những mặt

đạt được, tồn tại, hạn chế, luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ

chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội.

75

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN

VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể

thao thành phố Hà Nội

3.1.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của các tổ chức chính

trị và các cơ quan nhà nước nhằm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế

tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập

Khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng là nhân tố đảm bảo thành

công trong công tác tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực

tế cho thấy, ở nơi nào cấp ủy Đảng có quyết tâm cao, quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo huy động cả hệ thống chính trị và nhân dân cùng tham gia vào công tác

này thì ở nơi đó công tác tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập

có chuyển biến rõ rệt và đạt được kết quả tốt. Ngược lại, ở những địa phương

cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm, buông lỏng thì công tác tự chủ tài chính

của các đơn vị sự nghiệp công lập đạt kết quả thấp.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác

tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nhiệm

vụ trọng tâm, quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành

phố và các địa phương, đơn vị. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị để

thực hiện tốt định hướng về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập

Thực hiện tốt các Nghị quyết của Trung Ương: Nghị quyết số 39-NQ/TW

ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ

76

cán bộ, công chức, viên chức, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội Trung ương

6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết

số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục

đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt

động của đơn vị sự nghiệp công lập. Sự gương mẫu của các tổ chức đảng và

đảng viên trong việc tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành

nghiêm túc các quy định về việc thực hiện cơ chế tự chủ là tấm gương để tổ

chức đảng khác và các cán bộ, viên chức, người lao động trong cơ quan noi

theo. Điều đó củng cố sự tin tưởng của cán bộ, viên chức, người lao động

trong đơn vị sự nghiệp công lập tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình điển hình,

nhân điển hình tiên tiến, tiêu biểu thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính ở các

đơn vị sự nghiệp công lập. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm, nhân rộng các mô hình có hiệu quả hoạt động cao, nghiên cứu xây

dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình thực tế đối với từng loại hình

đơn vị sự nghiệp công lập. Các đơn vị sự nghiệp công lập phải có lộ trình tự

chủ rõ ràng và chuẩn bị các điều kiện để thực hiện nhằm đảm bảo cam kết đạt

lộ trình tự chủ đã đề ra. Xử lý nghiêm các trường hợp không chấp hành quy

định về cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập. Kịp thời khen

thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện lộ trình tự chủ

tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trên cơ sở đó, UBND các cấp tiếp tục chỉ đạo lồng ghép thực hiện Kế

hoạch số 72-KH/TU ngày 27/01/2018 của Thành Ủy Hà Nội và Thông báo số

1367-TB/TU ngày 16/4/2018 của Thành Ủy thông báo kết luận phiên họp thứ

mười của Ban chỉ đạo Thành phố Quản lý tổ chức bộ máy và biên chế (Ban

Chỉ đạo Thành phố thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW) nhằm đổi mới hệ

77

thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đơn vị sự

nghiêp công lập.

3.1.2. Hoàn thiện hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập

Một là, sắp xếp lại, nâng cao năng lực các đơn vị nghệ thuật biểu diễn

công lập theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Tiếp tục duy trì các

đơn vị nghệ thuật truyền thống tiêu biểu. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

Ương chỉ giữ lại một đoàn nghệ thuật công lập truyền thống tiêu biểu của địa

phương. Đối với các đơn vị nghệ thuật khác chuyển sang hình thức ngoài công

lập. Hợp nhất trung tâm văn hoá và đoàn nghệ thuật cấp tỉnh thành một đầu

mối.

Hai là, kiện toàn, củng cố thư viện công cộng cấp thành phố với các mô

hình, thiết chế đã có. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có một thư

viện cấp thành phố. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thư viện cấp

thành phố và thư viện công cộng.

Ba là, hoàn thiện, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi hoạt động

đối với bảo tàng chuyên ngành có các bộ sưu tập quý hiếm, có giá trị nghiên

cứu khoa học để thu hút khách tham quan và phát triển du lịch.

Bốn là, thực hiện chủ trương sáp nhập các trung tâm có chức năng, nhiệm

vụ tương đồng thuộc sở văn hoá, thể thao thành một đầu mối. Thực hiện việc

sáp nhập hoặc hợp nhất trung tâm văn hóa và trung tâm triển lãm thành 01 đầu

mối. Những đơn vị hoạt động kém hiệu quả sẽ thực hiện giải thể hoặc sáp nhập

với các đơn vị khác.

Năm là, các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao

tăng dần mức độ tự đảm bảo hoạt động thường xuyên theo từng năm, giảm chi

trực tiếp từ ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 19-NQ/TW và Quyết định

số 429/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 của Thủ tướng chính phủ.

78

3.1.3. Tăng cường giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn

vị sự nghiệp công lập và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp công lập và giảm áp lực tài chính cho ngân sách nhà nước

Một là, tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động về hoạt động, nhân

sự, tổ chức bộ máy và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hai là, phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do nhà nước

giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây

dựng và hoàn thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách

nhà nước theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì nhà nước bảo đảm

kinh phí; đối với các dịch vụ cơ bản thì nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện;

đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện

theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công

lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế

xã hội hoá, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.

Ba là, đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự

nghiệp công theo hướng nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính

đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước. Đối với giá

dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ

cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp

chi phí và có tích luỹ.

Bốn là, đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách

nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo phương thức giao nhiệm

vụ, đặt hàng, đấu thầu.

Năm là, phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác

nhau về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo

kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, thực

hiện trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo quy định

79

hiện hành; đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung

thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ tài

chính ổn định từ 3 đến 5 năm theo phương án thu chi tài chính được cấp có

thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn bộ

kinh phí hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.

Sáu là, thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với viên chức, người

lao động theo hướng: Đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

và chi đầu tư, hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên được thực hiện cơ chế tự chủ

tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp; Đơn vị sự nghiệp công

lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do

ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thì áp dụng chế độ tiền

lương theo vị trí việc làm. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh

nghề nghiệp viên chức do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định

trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nước cấp và từ nguồn thu của đơn vị),

năng suất lao động, chất lượng công việc và hiệu quả công tác theo quy chế trả

lương của đơn vị, không thấp hơn chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.

3.2. Giải pháp chung bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế

tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập

Hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức

thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập về mặt

lý luận cũng như thực tiễn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật từ Trung Ương đến

địa phương nhằm đảm bảo hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với

tình hình thực hiện về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công

lập đối với từng ngành, lĩnh vực. Việc ban hành các văn bản pháp luật cần kịp

thời để đảm bảo tiến độ triển khai lộ trình tự chủ theo quy định của Chính phủ.

80

Một là, nghiên cứu, ban hành sửa đổi Nghị định khung về cơ chế tự chủ

nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu thực tế về việc giao quyền

tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (về phân loại đơn vị tự chủ tài chính, cơ

chế tiền lương, sử dụng chênh lệch thu chi, chi trả thu nhập tăng thêm, trích lập

các Quỹ, ...).

Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới cơ quản lý, cơ chế hoạt động

của đơn vị sự nghiệp công lập, trọng tâm là cơ chế tự chủ tài chính được quy

định tại các văn bản như sau:

- Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ

trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm

nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững khẳng định: Tăng cường đổi mới khu

vực sự nghiệp công lập, tạo bước đột phá về chất lượng, hiệu quả; từng bước

tính đúng, tính đủ chi phí vào giá dịch vụ công và có chính sách hỗ trợ phù hợp

cho đối tượng chính sách, người nghèo, người yếu thế trong xã hội.

- Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị về tiếp tục

đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động

của đơn vị sự nghiệp công lập đã đề ra mục tiêu tổng quát: Đổi mới căn bản,

toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập... giảm mạnh tỉ

trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập

để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho

cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch

vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát

triển dịch vụ sự nghiệp công.

Trong khi đó, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực

từ năm 2015. Từ đó đến nay, nhiều văn bản pháp luật mới về đầu tư, tài chính

đã được ban hành và có hiệu lực như Luật Ngân sách nhà nước; Luật Đầu tư

công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Phí và lệ phí; Nghị định số

81

32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt

hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng NSNN từ nguồn

kinh phí chi thường xuyên.

Đây là trách nhiệm của Chính Phủ nhằm điều chỉnh, sửa đổi bổ sung Nghị

định 16/2015/NĐ-CP của Chính Phủ để ban hành các quy định bao quát, thống

nhất thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp trong từng lĩnh vực nhằm

thực hiện mục tiêu của Đảng đề ra và đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với các

quy định hiện hành. Trên cơ sở đó, các Bộ chuyên ngành ban hành văn bản

hướng dẫn chi tiết để sớm đưa quy định về cơ chế tự chủ tài ở các đơn vị sự

nghiệp công lập vào thực tế để triển khai thực hiện.

Hai là, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách về tự chủ tài chính, rà

soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt quy

định chuyên ngành về nội dung chi, đơn giá, định mức cùng các văn bản quy

phạm pháp luật khác có liên quan, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện

thuận lợi và thực hiện hiệu quả công tác cung cấp các dịch vụ công của mình.

Ba là, ban hành các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh

vực văn hóa và thể thao. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kiểm định chất lượng

đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công, khuyến khích các đơn vị tham gia

kiểm định chất lượng dịch vụ công theo chuẩn khu vực và quốc tế.

Bốn là, rà soát và ban hành điều chỉnh, bổ sung danh mục các dịch vụ công

sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định

nhà nước ban hành danh mục dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân sách nhà

nước đối với những loại hình dịch vụ công thiết yếu, chưa tính đủ chi phí cung

cấp dịch vụ theo cơ chế thị trường, được Nhà nước xác định cần có chính sách

hỗ trợ thông qua chính sách giá trong một thời gian nhất định.

Năm là, ban hành giá dịch vụ sự nghiệp công theo quy định tại khoản 1

điều 10 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 để có cơ sở thực hiện

82

đặt hàng đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và

đặt hàng, giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp

công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.

Sáu là, điều chỉnh lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh

phí ngân sách nhà nước. Theo quy định hiện nay, đến năm 2020 giá dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước phải được Tính đủ chi phí

tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định.

Tuy vậy, trên thực tế đến nay nhiều Bộ, cơ quan trung ương, địa phương vẫn

chưa thực hiện điều chỉnh hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền điều chỉnh giá dịch

vụ sự nghiệp công.

Bảy là, ban hành các quy định hướng dẫn chi tiết về định mức kinh tế kỹ

thuật, mức chi áp dụng để xây dựng giá dịch vụ.

Tám là, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quy hoạch mạng lưới các đơn

vị sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa, thể thao. Nhiều nhóm giải pháp về

cơ chế chính sách, nguồn nhân lực, tài chính và tổ chức được đưa ra nhưng

chưa thực hiện được triệt để. Việc tổ chức rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các

đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao đã thực hiện theo hướng tinh gọn

nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra. Thực hiện kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, kiên quyết giải thể, sáp nhập đối với những

đơn vị có quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả, không phục vụ quản lý nhà

nước. Trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc, đòi hỏi phải ban hành

văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự

nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao nói

riêng.

Chín là, hoàn thiện đồng bộ các quy định khác của pháp luật về việc tự

chủ trong việc quyết định số người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập;

thực hiện liên doanh, liên kết trong việc tổ chức thực hiện hoạt động; sửa đổi,

83

bổ sung các các quy định tài chính đã lạc hậu trong các văn bản hiện hành, quy

định phân cấp rõ ràng minh bạch cho các đơn vị cấp dưới… để tăng cường

quyền chủ động về hoạt động, tổ chức bộ máy và tài chính của các đơn vị sự

nghiệp công lập văn hóa, thể thao.

Trên cơ sở các nguồn lực hiện có, các đơn vị tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chủ động tổ

chức thực hiện cơ chế tự chủ. Hàng năm, thực hiện tổng kết và đánh giá kết quả

thực hiện, từ đó đề xuất điều chỉnh, bổ sung các quy định của pháp luật để đảm

bảo việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính có hiệu quả.

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật này sẽ tạo ra một hành lang

pháp lý đầy đủ và minh bạch cho các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển mạnh

sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Đồng thời, việc hoàn thiện

các quy định của pháp luật trong thời gian tới cho đổi mới hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao cũng chính là việc cụ thể hóa tinh

thần của Hiến pháp năm 2013 theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.

3.2.2. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của đội ngũ viên chức,

người lao động có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có

yếu tố về pháp luật và ý thức, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Hai

yếu tố này có sự tương hỗ lẫn nhau nhằm đảm bảo việc thực hiện cơ chế tự chủ

tài chính có hiệu quả. Bởi nếu chỉ quan tâm đến yếu tố chính sách pháp luật mà

không quan tâm tới việc tuyên truyền, giáo dục và nâng cao trách nhiệm của

các chủ thể trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, thì khó đạt mục tiêu đã

84

đề ra, không ít đơn vị sự nghiệp công lập bất chấp pháp luật, không chủ động

tổ chức hoạt động hướng tới cơ chế tự chủ mà ỉ lại vào ngân sách nhà nước.

Để thực hiện tốt pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập, phải kể đến vai trò của từng cá nhân, tập thể các cơ quan nhà

nước có liên quan từ Trung Ương đến địa phương, đặc biệt là cán bộ, viên chức,

người lao động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Từ phân tích thực trạng cho

thấy hệ thống cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tổ chức thực hiện

cơ chế tự chủ tài chính còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Do

đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chất

lượng, có trình độ, năng lực thực hiện và nhận thức tốt được xem như một khâu

then chốt trong việc thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính ở đơn vị sự

nghiệp công lập. Cụ thể như sau:

Một là, nâng cao việc nhận thức đúng về cơ chế tự chủ tài chính đối với

các đơn vị sự nghiệp công lập. Từ nhận thức đúng đắn mới có những hành động

đúng định hướng và từ đó mới đạt kết quả tốt. Do đó, để thực hiện tốt mục tiêu

đã đề ra tại Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết

19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó thực hiện

đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp

công lập, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức thực hiện tới

các cấp đảm bảo thực hiện mục tiêu đã đề ra. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người

đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm lãnh đạo điều hành đảm bảo thực hiện theo

đường lối của Đảng. Các cấp ủy Đảng, người đứng đầu đơn vị có nhận thức

đúng đắn về định hướng của Đảng sẽ giữ vai trò là tuyên truyền viên tích cực

đến các cán bộ, công chức, viên chức cấp dưới. Từ đó, đội ngũ lao động có nhìn

nhận đúng đắn về định hướng của Đảng, cùng với lãnh đạo các cấp tổ chức

thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

85

Hai là, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo đơn vị sự nghiệp uy tín trình

độ chuyên môn, năng lực quản lý. Bồi dưỡng cán bộ để có lực lượng kế tiếp

trên cương vị lãnh đạo phòng chuyên môn, lãnh đạo đoàn biểu diễn, bảo đảm

tính kế thừa về chất và lượng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ quy hoạch

của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, thể thao. Xây dựng kế hoạch đào tạo, tuyển

dụng để các đơn vị có đội ngũ nghệ sĩ, huấn luyện viên, vận động viên tài năng,

định hình và khẳng định phong cách riêng của từng loại hình văn hóa, nghệ

thuật và thể thao.

Ba là, sắp xếp kiện toàn bộ máy kế toán tài chính của đơn vị sự nghiệp

công lập, cải tiến phương pháp quản lý để công tác tự chủ tài chính được tổ

chức khoa học, bài bản, tham mưu cơ quan cấp trên trong việc xây dựng đơn

giá, định mức kỹ thuật, xây dựng danh mục sự nghiệp sử dụng ngân sách, cải

tiến phương pháp phân bổ dự toán ngân sách theo phương thức giao nhiệm vụ,

đặt hàng, đấu thầu và tiến tới thực hiện lộ trình tự chủ tài chính.

Bốn là, thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo, học tập mô hình các đơn vị sự

nghiệp công lập ở các nước trên thế giới và các ngành, lĩnh vực đã thực hiện

tốt cơ chế tự chủ tài chính để có thể áp dụng vào ngành lĩnh vực đang quản lý.

Năm là, các cơ quan chuyên ngành như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

cơ quan chuyên môn của thành phố như Sở Tài chính Hà Nội và cơ quan quản

lý cấp trên như Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội tăng cường công tác

tập huấn, trao đổi kinh nghiệm cũng như cập nhật các văn bản chế độ mới về

công tác tự chủ tài chính và công tác tài chính kế toán cho các đơn vị sự nghiệp

công lập.

Sáu là, đội ngũ viên chức người lao động của đơn vị sự nghiệp công lập

và đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan thường xuyên tự trau dồi kiến thức

chuyên môn, tiếp tục học hỏi các mô hình tự chủ điển hình để thực hiện tốt

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính.

86

3.2.3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập

Một là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

chính trị tham gia tích cực vào việc tuyên truyền sâu rộng tới các cán bộ, công

chức, viên chức, người lao động thấu hiểu vai trò, tầm quan trọng của việc thực

hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.

Hai là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, thông tin thông qua các

nội dung và hình thức chủ yếu như: các cuộc họp chuyên đề của Đảng ủy, chi

bộ, vận động các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính,

nói chuyện chuyên đề, tổ chức cuộc thi giao lưu học tập.

Ba là, tăng cường tổ chức thực hiện tuyên truyền thông qua việc ứng dụng

công nghệ thông tin đến loại báo hình, báo viết như: phương tiện thông tin

truyền thông, báo, đài, truyền hình. Phát huy tối đa hiệu quả của các phương

tiện thông tin truyền thông, mạng xã hội để nâng cao nhận thức về cơ chế tự

chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức xây dựng chương trình

tuyên truyền về trách nhiệm của các cá nhân, tập thể trong việc thực hiện cơ

chế tự chủ tài chính; nâng cao hiểu biết về cơ chế tự chủ nói chung và cơ chế

tự chủ tài chính nói riêng.

Bốn là, Thông qua gương đơn vị tiêu biểu thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài

chính để các đơn vị có liên quan thấu hiểu và áp dụng tới ngành, lĩnh vực khác.

Từ đó nhân rộng các đơn vị tự chủ tài chính và các mô hình khác nhau để đảm

bảo lộ trình tự chủ đã đề ra.

Bốn là, hoạt động tuyên truyền, thông tin cần thường xuyên, nội dung

tuyên truyền cần được đổi mới và phù hợp với từng đơn vị sự nghiệp công lập.

Chủ động xây dựng kế hoạch chương trình tuyên truyền, bám sát vào nội dung

nhằm đạt hiệu quả công tác tuyền truyền.

87

3.2.4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức thực hiện

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập

Một là, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan

của thành phố nhằm kịp thời nhắc nhở, chỉnh đốn kịp thời các hoạt động của

đơn vị trong quá trình hoạt động, qua đó góp phần hoàn thiện cơ chế tự chủ tài

chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. Nâng cao chất lượng giám sát của Hội

đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội khác và thực

hiện chế độ công khai, minh bạch thông tin của các đơn vị sự nghiệp công lập

để người dân có thể giám sát được hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập

nhằm kịp thời phát hiện, góp ý kiến với các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính của các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động,

các đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan chủ quản. Tăng cường hoạt động

thanh tra của Sở Tài chính về việc chấp hành cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành

việc lập giao và phân bổ dự toán, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế

quản lý tài sản, cơ chế tính giá, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và lộ trình

tự chủ nhằm xem xét việc chấp hành và tuân thủ các quy định của pháp luật về

cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục phát huy

vai trò kiểm tra, kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, cơ quan thuế, cơ quan kiểm

toán nhà nước đối với việc chấp chính sách thuế phí, chế độ chính sách của nhà

nước, …

Có chế tài xử lý các vi phạm trong việc chấp hành việc phương thức phân

bổ ngân sách, chấp hành chế độ thu chi tài chính, thực hiện quy chế chi tiêu nội

bộ, thực hiện quy chế quản lý tài sản và thực hiện lộ trình tự chủ tài chính. Đồng

thời có cơ chế khen thưởng, động viên các đơn vị thực hiện tốt công tác tài

chính và đảm bảo thực hiện lộ trình tự chủ tài chính đã đề ra.

Hai là, chú trọng việc tự kiểm tra nội bộ việc chấp hành cơ chế tự chủ tài

chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, có thể lồng ghép với hoạt động quyết

88

toán tài chính năm của đơn vị. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra công tác

tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập và công tác tài chính nội bộ.

Trong kế hoạch phải xác định rõ nội dung, hình thức, nội dung, đối tượng, thời

gian thanh tra, kiểm tra. Qua công tác thanh tra và kiểm tra nội bộ, làm rõ trách

nhiệm của từng đơn vị trong việc tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, từ

đó đề xuất giải pháp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đảm bảo thực hiện lộ

trình tự chủ. Tăng cường trách nhiệm và vai trò của Thanh tra Sở, Ban Thanh

tra nhân dân đối với việc chấp hành pháp luật cơ chế tự chủ tài chính của các

đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh đó, có thuê kiểm toán độc lập để kiểm

toán báo cáo tài chính hàng năm, làm cơ sở chính xác và khách quan để đánh

giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Ba là, ở cấp độ từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu có thể tiến

hành kiểm tra định kỳ về các lĩnh vực hoạt động theo thẩm quyền hoặc kiểm

tra đột xuất. Ở cấp độ ngành, lĩnh vực hoặc địa phương, người đứng đầu ngành,

lĩnh vực hoặc ủy ban nhân dân thành phố có thể tiến hành thanh tra về trách

nhiệm quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực về việc thực hiện cơ chế tự chủ

tài chính. Nội dung đánh giá sẽ tập trung vào các nhóm vấn đề có thể là công

tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; việc ban hành và thực hiện các chế

độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi ngân sách; kết quả thực hiện thực hiện cơ chế

tự chủ nói chung và tự chủ tài chính nói riêng. Đồng thời tạo hành lang pháp lý

để thực hiện hoạt động thanh tra đột xuất không phải báo trước, không bị ràng

buộc bởi các quy định về trình tự, thủ tục hoạt động theo các quy chế hoạt động

cảu đoàn thanh tra, kiểm tra.

Bốn là, xây dựng và ban hành hướng dẫn về kiểm tra, thanh tra và xử lý

vi phạm pháp luật về việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị

sự nghiệp công lập, áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm đối với các hành vi vi

phạm.

89

3.3. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ

tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội

Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính được ban hành phù hợp với từng lĩnh vực và thực tiễn thì các đơn vị sự

nghiệp công lập sẽ đón nhận và tự giác để triển khai thực hiện.

- Trên cơ sở văn bản của Chính Phủ, hướng dẫn của Bộ Tài chính và tiêu

chí chuyên môn do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, UBND thành

phố Hà Nội xây dựng tiêu chí đánh giá riêng cho phù hợp với loại hình dịch vụ

công của địa phương.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố Hà Nội rà soát và

ban hành điều chỉnh, bổ sung danh mục các dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân

sách nhà nước. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định nhà nước ban hành danh

mục dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với những loại hình

dịch vụ công thiết yếu, chưa tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ theo cơ chế thị

trường, được Nhà nước xác định cần có chính sách hỗ trợ thông qua chính sách

giá trong một thời gian nhất định.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành giá dịch vụ sự nghiệp công.

Thực hiện hướng dẫn các tỉnh thành triển khai thực hiện đảm bảo sự đồng bộ,

thống nhất trong cả nước. Trên cơ sở đó, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội căn cứ vào khả năng cân đối ngân sách nhà nước, khả năng chi trả cho

người hưởng thụ và lộ trình tự chủ, xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công trình

Sở Tài chính thành phố Hà Nội thẩm định và UBND thành phố Hà Nội phê

duyệt để làm cơ sở triển khai thực hiện.

- Trong khi chờ hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Tài

chính Hà Nội về xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công, Sở Văn hóa và Thể thao

90

đang thực hiện theo hình thức duyệt dự toán các dịch vụ sự nghiệp công trên

cơ sở đề xuất của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở. Hoạt động văn

hóa có loại hình rất đa dạng, bao gồm: hoạt động biểu diễn, quay phim, tổ chức

văn nghệ, hội thi hội diễn, liên hoan quần chúng, tuyên truyền lưu động, cổ

động trực quan, … và quy mô phong phú, nhiều khi không manh tính định

lượng nên khó xác định định mức kinh tế kỹ thuật và mức chi chính xác. Do

vậy, cần có sự hướng dẫn chi tiết của cơ quan chuyên môn cấp trên là Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch.

- Đối với các đơn vị có nguồn thu phí thăm quan di tích: Chính Phủ nên

xem xét điều chỉnh Nghị định số 120/2016/NĐ-CP ngày 23/8/2016 nhằm cho

phép các đơn vị thu phí thăm quan được chủ động mức chi từ nguồn thu phí

thăm quan chứ không phải theo tiêu chuẩn, định mức của nhà nước như hiện

nay. Đồng thời, UBND thành phố cần xem xét, nghiên cứu tỷ lệ phân bổ nguồn

thu được để lại nhằm bảo đảm khuyến khích các đơn vị như Ban quản lý di tích

danh thắng, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học

Văn Miếu – Quốc Tử Giám tăng thu và đồng thời có nguồn chi tương xứng để

phục vụ công tác thu.

- Điều chỉnh kế hoạch thực hiện lộ trình tự chủ của các đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội. Tổ chức hướng dẫn kịp

thời để các đơn vị sự nghiệp công lập có sơ sở triển khai thực hiện.

Hai là, xây dựng hoàn thiện quy chế khen thưởng, kỷ luật, đánh giá kết

quả lao động của cá nhân trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc tăng thu để

đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập là yếu tố then

chốt quyết định đến khả năng tự chủ tài chính của đơn vị. Do vậy, để tạo động

lực, khuyến khích viên chức, người lao động nâng cao hiệu quả làm việc, mang

lại nguồn thu cho đơn vị thì cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện quy chế khen

thưởng, đánh giá kết quả lao động của các nhân trong đơn vị. Bên cạnh đó, tăng

91

cường kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động trong việc thực hiện quy chế làm

việc của cơ quan. Có biện pháp xử lý đối với các trường hợp vi phạm quy chế

làm việc của cơ quan. Quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân khi vi phạm

quy chế làm việc và trách nhiệm của tập thể phòng, đơn vị có cá nhân khi vi

phạm quy chế làm việc. Xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả lao động và ý thức

trách nhiệm của mỗi cá nhân, làm thước đo đánh giá hiệu quả làm việc và ý

thức trách nhiệm trong công việc của từng cá nhân trong đơn vị sự nghiệp. Trên

cơ sở đó, có thể khen thưởng, động viên khuyến khích hoặc kỷ luật đúng người

đúng việc.

Ba là, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội tăng cường phân cấp

quản lý cho các đơn vị sự nghiệp công lập để các đơn vị chủ động trong việc

thực hiện hoạt động, tổ chức bộ máy và tự chủ, tự chịu trách nhiệm về công tác

tài chính.

Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Văn hóa và Thể thao thành

phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc nhằm bảo đảm văn bản

pháp luật ban hành sớm được triển khai thực hiện. Đồng thời, Sở Văn hóa và

Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở thực

hiện các giải pháp để tổ chức thực hiện văn bản pháp luật đã được ban hành

cũng như thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật đến các cá nhân trong

trong đơn sự nghiệp công lập.

Năm là, đánh giá thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ tại đơn vị trực thuộc

Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội, từ đó nghiên cứu xây dựng mô

hình tự chủ phù hợp. Kiến nghị, đề xuất với UBND thành phố, Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch giải quyết các khó khăn, vướng mắc, hoàn thiện cơ chế

quản lý nhà nước trong điều kiện tự chủ phù hợp với thực tiễn.

Sáu là, chú trọng nâng cao nhận thức của lãnh đạo và viên chức, người

lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở hiểu đúng về cơ

92

chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là đối

với các nghệ sỹ, diễn viên của các Nhà hát nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động

và lộ trình tự chủ đã đề ra.

Nhóm giải pháp về tài chính

Một là, quan tâm đến các điều kiện về tài chính như kinh phí cho công

tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi pháp luật, chi phí cho

công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập. Có chế độ đãi ngộ tốt, từ chế độ đề bạt, bổ nhiệm bố trí đến

chế độ khen thưởng, chế độ tiền lương và kỷ luật… để khuyến khích viên chức

người lao động hăng hái làm việc, phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn của

đội ngũ viên chức, người lao động để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Hai là, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để tăng

nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở. Đồng thời chú trọng

nguồn kinh phí xã hội hóa đầu tư cho hoạt động văn hóa và thể thao. Do vậy,

Sở Văn hóa và Thể thao cần đề xuất UBND thành phố Hà Nội có cơ chế thu

hút nguồn kinh phí xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, thể thao.

Ba là, tập trung đầu tư cho đồng bộ cho các đơn vị định hướng sẽ thực

hiện tự chủ tài chính trong tương lai như Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long,

Trung tâm thông tin triển lãm thành phố Hà Nội. Đồng thời, quyết tâm đổi mới

phương thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, chuyển từ giao dự toán sang thực

hiện đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

Bốn là, đầu tư về đầy đủ và đồng bộ trang thiết bị chuyên môn, trang

thiết bị làm việc đảm bảo điều kiện hoạt động chuyên môn và điều kiện làm

việc cho cán bộ, viên chức người lao động. Quan tâm tới việc cải tạo, sửa chữa

cơ sở nhà đất đủ tiêu chuẩn để tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và

đảm bảo việc tập luyện và thi đấu thể dục thể thao các cấp từ nguồn ngân sách

nhà nước. Thực hiện trang bị xe ô tô cho các đơn vị theo Nghị định số

93

04/2019/NĐ-CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ về quy định theo tiêu chuẩn,

định mức sử dụng xe ô tô và Quyết định số 7071/QĐ-UBND ngày 23/12/2016

của UBND thành phố Hà Nội về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị

xe ô tô chuyên dùng cho các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của thành

phố Hà Nội. Trang bị thay thế, bổ sung xe ô tô chuyên dùng cho các nhà hát,

đơn vị thể thao để phục vụ hoạt động biểu diễn, vận chuyển vận động viên.

Trong quá trình thực hiện giải pháp này, cần lưu ý tới một số vấn đề như sau:

- Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, phù hợp

với định mức, tiêu chuẩn mua sắm tài sản phục vụ hoạt động chung và công tác

chuyên môn. Xây dựng đề án quản lý và sử dụng tài sản chuyên dung, tránh

thất thoát và lãng phí nguồn kinh phí.

- Các thiết bị làm việc được trang bị cho từng cá nhân như phương tiện

đi lại, máy vi tính, … phải phù hợp với từng vị trí công việc đảm bảo tiết kiệm,

hiệu quả.

Năm là, hoàn thiện công tác quản lý các nguồn lực tài chính của các đơn

vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

Qua phân tích thực trạng cho thấy, nguồn tài chính của các đơn vị sự

nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội chủ yếu

là nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước và thu phí thăm quan di tích, thu biểu

diễn nghệ thuật múa rối. Các nguồn thu khác như thu biểu diễn nghệ thuật

truyền thống, hoạt động chiếu phim, hoạt động câu lạc bộ văn hóa, hoạt động

thể thao có nguồn thu chưa cao. Nguồn thu từ hoạt động liên doanh, liên kết

không ổn định do chưa có đề án liên doanh, liên kết được cấp có thẩm quyền

phê duyệt. Điều này cho thấy sự mất cân đối giữa các nguồn thu, các nguồn thu

không ổn định và kém bền vững đối với các hoạt động văn hóa, thể thao của

thành phố Hà Nội. Để đảm bảo việc phát triển nguồn thu theo hướng bền vững

và đa dạng hóa các nguồn tài chính, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

94

cần có định hướng phát triển hoạt động theo hướng đa dạng, nâng cao chất

lượng hoạt động, xây dựng các sản phẩm dịch vụ văn hóa nhằm thu hút đông

đảo người dân đến thưởng thức hoạt động nghệ thuật và sử dụng các dịch vụ

văn hóa, thể thao. Đồng thời tranh thủ nguồn viện trợ, tài trợ của các tổ chức

trong và ngoài nước để đầu tư phát triển cho các hoạt động văn hóa, thể thao.

Để có cơ chế quản lý tài chính hiệu quả cao, Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội không chỉ chú trọng đến công tác khai thác nguồn thu mà

còn phải thực hiện cơ chế chi phù hợp với từng loại hình hoạt động của các đơn

vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.

Các khoản chi ngân sách nhà nước phải xây dựng và thực hiện trên cơ sở định

mức chi của nhà nước quy định. Đối với các đơn vị có nguồn thu lớn, căn cứ

vào khả năng tài chính, đơn vị tự xây dựng mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức

chi do nhà nước quy định. Do vậy, để quản lý các khoản chi có hiệu quả, yêu

cầu các đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng và thường xuyên điều chỉnh,

bổ sung Quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với các văn bản quy định hiện

hành và tình hình thực tiễn tại đơn vị.

Nhóm giải pháp về tổ chức

Một là, nghiên cứu, rà soát và sắp xếp các đơn vị sự nghiệp theo hướng

tinh gọn và hiệu quả. Đối với những đơn vị có khả năng tài chính cao đảm bảo

hoạt động thường xuyên của đơn vị sẽ sớm có kế hoạch cho thực hiện tự chủ

tài chính ở mức cao hơn: tự chủ chi thường xuyên hoặc tự chủ chi thường xuyên

và chi đầu tư. Đối với những đơn vị quy mô nhỏ, tổ chức thực hiện sáp nhập

lại thành một đầu mối. Đối với những đơn vị hoạt động không hiệu quả, sẽ thực

hiện giải thể hoặc sáp nhập với các đơn vị khác.

Hai là, tạo điều kiện cho thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập

hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao.

95

Ba là, rà soát lại toàn bộ bộ máy các cấp, đặc biệt là bộ máy các đơn vị

sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội theo

hướng tin gọn, có chất lượng, có trình độ, năng lực đảm đương từng vị trí bảo

đảm nguồn nhân lực để tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công có hiệu quả.

Trong đó chú trọng nâng cao năng lực, trình độ của các cán bộ, công chức, viên

chức và người lao động trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ

tài chính.

Bốn là, để cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp thực sự đi vào

thực tiễn, các cơ quan quản lý trực tiếp là Sở Văn hóa và Thể thao thành phố

Hà Nội cần khẩn trương đánh giá, phân loại, xây dựng phương án chuyển

đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang thực hiện cơ chế tự chủ đảm bảo theo

đúng định hướng của Đảng, nhà nước đã đề ra.

Nhóm giải pháp khác

Một là, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Thực hiện triển khai xếp

hạng, tăng cường minh bạch thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng dịch vụ

công nhằm nâng cao năng lực tự chủ. Việc tăng cường công khai, minh bạch

hoạt động của bộ máy nhà nước phải được coi là ưu tiên hàng đầu trong công

tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam

nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để

thực hiện điều đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền được thông

tin: Việc công bố thông tin, có thể bao gồm cả báo cáo định kỳ, vừa thể hiện và

vừa giúp tăng cường tính minh bạch trong quản lý nhà nước. Hiện nay, pháp

luật về quyền tiếp cận thông tin đã được ban hành, tuy nhiên do cơ chế đảm

bảo thực hiện quyền này của người dân chưa đủ rõ ràng và hiệu lực nên hiệu

quả thực thi trên thực tế chưa cao. Việc đảm bảo hiệu quả thực thi luật về quyền

được thông tin là vấn đề rất quan trọng nhằm tăng cường công khai, minh bạch

96

hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và đấu tranh phòng, chống tham

nhũng nói riêng.

Hai là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học phục vụ cho công tác

chuyên môn và công tác quản lý tài chính. Đẩy mạnh chất lượng hoạt động của

hệ thống mạng nội bộ. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc Sở đã được trang bị các thiết bị máy móc hiện đại nhưng

còn thiếu sự đồng bộ nên ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động quản lý, hoạt

động chuyên môn. Do đó, để đảm bảo việc đáp ứng công việc càng cao trong

thời gian tới, đòi hỏi phải hoàn thiện những công việc sau:

- Hoàn thiện phần mềm quản lý công đảm bảo việc thông suốt giữa Sở

và các đơn vị trực thuộc. Nâng cấp, cải tiến phần mềm kế toán đang sử dụng,

hoàn thiện phần mềm quản lý tài sản công và xây dựng phần mềm quản lý tài

chính liên kết giữa các đơn vị nhằm giảm thiểu thời gian làm báo cáo, thông tin

được cập nhật chính xác và kịp thời.

- Chuẩn hóa thông tin thông qua các ứng dụng công nghệ tin học nhằm

công khai, minh bạch về tài chính và các hoạt động của đơn vị. Qua đó, có cơ

sở đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động và kết quả hoạt động của các đơn vị

trong quá trình thực hiện lộ trình tự chủ tài chính.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự

chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất 03 quan điểm và 05 giải pháp để đảm bảo

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập nói chung và đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn

hóa và Thể thao thành phố Hà Nội. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; nâng cao nhận

thức, chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ viên chức, người lao động có

97

trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các

đơn vị sự nghiệp công lập; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công

lập; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật

về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện

đồng bộ các giải pháp khác để tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

98

KẾT LUẬN

Luận văn đã giải quyết các vấn đề đặt ra đối với việc tổ chức thực hiện

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc

lĩnh vực văn hóa, thể thao của Thành phố Hà Nội.

Trong Chương 1, luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về

tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, chủ thể, vai trò, nội

dung và các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài

chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong Chương 2, luận văn đã nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện

pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa

và Thể thao thành phố Hà Nội và đã chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế,

nguyên nhân trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính

đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong Chương 3, luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ

chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội.

Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn góp phần hoàn

thiện hệ thống văn bản về cơ chế tự chủ tài chính, đưa ra các giải pháp nhằm

nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự

nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công thuộc lĩnh vực văn hóa,

thể thao nói riêng, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp

công lập về văn hóa, thể thao, thúc đẩy sự nghiệp phát triển văn hóa, thể thao

nhanh, mạnh và bền vững, nâng cao chất lượng dịch vụ công, giảm gánh nặng

cho ngân sách nhà nước và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế - xã

hội của Thủ đô. Qua đó, giúp Chính phủ thực hiện tốt việc chuyển đổi vai trò

từ “người chèo thuyền” sang “người lái thuyền”.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung Ương (2015), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày

17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức.

2. Ban Chấp hành Trung Ương (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội

Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,

nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công

lập.

3. Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 36/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ

Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí

dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định số 2992/QĐ-BVHTTDL

ngày 28/8/2019 về việc Ban hành quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung,

quy trình và định mức kinh tế kỹ thuật tổ chức các hoạt động văn hóa, văn

nghệ, hội thi hội diễn, liên hoan văn nghệ quần chúng; tuyên truyền lưu

động; cổ động trực quan phục vụ nhiệm vụ chính trị sử dụng ngân sách nhà

nước.

5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định số 4145/QĐ-BVHTTDL

ngày 22/12/2019 về việc Ban hành quy định tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung

quy trình cung cấp dịch vụ định mức kinh tế - kỹ thuật tổ chức thi liên hoan

triển lãm tác phẩm mỹ thuật nhiếp ảnh phục vụ nhiệm vụ chính trị.

6. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định 4831/QĐ-BVHTTDL

ngày 30/12/2019 Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và

định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động xử lý kỹ thuật, xây dựng cơ sở

dữ liệu, bộ máy tra cứu các loại tài liệu tại các thư viện công lập.

7. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Quyết định số 511/QĐ-BVHTTDL

ngày 24/2/2020 quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn; nội dung, quy trình và định

100

mức kinh tế - kỹ thuật trong đào tạo, huấn luyện vận động viên, huấn luyện

viên, trọng tài thể thao thành tích cao.

8. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Quyết định số 407/QĐ-BVHTTDL

ngày 14/2/2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định

về tiêu chí, tiêu chuẩn; nội dung, quy trình và định mức kinh tế - kỹ thuật

trong tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho hướng dẫn viên, cộng tác viên

thể dục, thể thao sử dụng ngân sách nhà nước.

9. Lương Quốc Chiến (2014), Cơ chế tự chủ tài chính tại kiểm toán Nhà nước

khu vực VI, Luận văn Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính

Quốc gia.

10. Chính Phủ (2016), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ

quy định chi tiết cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập

11. Chính Phủ (2017), Quyết định 1992/QĐ-TTg ngày 11/12/2017 của Thủ

tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử

dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao của thành phố

Hà Nội.

12. Chính Phủ (2018), Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực

hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,

nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.

13. Chính Phủ (2019), Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định

giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử

dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.

14. Chính Phủ (2019), Quyết định số 429/QĐ-TTg, ngày 18/04/2019 của Thủ

tướng chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự

nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch đến năm 2021,

định hướng đến năm 2030.

101

15. Nguyễn Trọng Cơ (2020), Cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công

lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân.

16. Phạm Thị Ngọc Dung (2018), Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi

trường đô thị ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.

17. Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2019), Thực hiện, áp dụng và giải

thích pháp luật ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.

18. Nguyễn Trường Giang (2018), “Đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp

công theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII”, Tạp chí tài chính

tháng 02/2018.

19. Nguyễn Thị Hồng Hà (2012), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại trường

trung cấp kinh tế kỹ thuật Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng,

Học viện Hành chính Quốc gia.

20. Đặng Thu Hà (2018), Quản lý tài chính tại Viện Khoa học Lao động và Xã

hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công,

Học viện Hành chính Quốc gia.

21. Trần Thị Thanh Hằng (2019), Cơ chế tự chủ tài chính tại Trung tâm đào tạo

nghiệp vụ tiêu chuẩn đo lường chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ,

Luận văn Thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia.

22. Vương Thu Hoài (2018), Cơ chế quản lý tài chính tại các bệnh viện công

trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành

chính Quốc gia.

23. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp

luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

24. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), khoa Nhà nước và Pháp

luật, Tài liệu học tập, nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật.

102

25. Nguyễn Thị Nguyệt (Khoa Kế toán – Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công

nghiệp (2019), “Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp công

lập, tạp chí Công thương”, Tạp chí Công thương tháng 3/2019.

26. Nhà in sách Tài chính (2018), Chính sách tài chính thúc đẩy hoạt động tự

chủ của các đơn vị sự nghiệp.

27. Nhà xuất bản Lao động (2015), Quy định mới về cơ chế tự chủ của đơn vị

sự nghiệp công lập.

28. Nhà xuất bản Lao động (2016), Nghiệp vụ quản lý tài chính dành cho kế

toán trưởng đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập – sự

nghiệp có thu.

29. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2015), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với tổ

chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục tiêu chuẩn và đo lường chất lượng,

Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

30. Hoàng Thanh Phương (2019), Quản lý tài chính tại Cục Thống kê thành phố

Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

31. Vi Thị Thu Phương (2016), Quản lý tài chính tại Tạp chí thuế - Tổng cục

thuế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

32. Quốc Hội (2010), Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15/11/2010.

33. Vũ Thị Lê Quy (2017), Quản lý nhà nước về tài chính đối với các dự án

viện trợ không hoàn laị trực thuộc Bộ Y tế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công,

Học viện Hành chính Quốc gia.

34. Lê Thúy Quỳnh (2017), Quản lý tài chính tại Học viên Thanh thiếu niên

Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

35. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội (2015, 2016, 2017, 2018, 2019),

Báo cáo quyết toán tài chính của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà

Nội.

103

36. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội (2017, 2018, 2019), Báo cáo tự

chủ của các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.

37. Phạm Xuân Thủy, Vũ Anh, Nguyễn Thị Mai Liên, Nguyễn Thị Quỳnh

Phương (2018), “Đổi mới tổ chức hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập

của Bộ Tài chính trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Tài chính kỳ 2, tháng

9/2018.

38. Nguyễn Xuân Trường, “Các giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài

chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài chính tháng 04/2018.

39. UBND thành phố Hà Nội (2015), Kế hoạch số 158/KH-UBND ngày

30/7/2015 triển khai thực hiện Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015

của Chính phủ

40. UBND thành phố Hà Nội (2018), Kế hoạch 137/KH-UBND ngày 18/6/2018

của UBND thành phố Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ

tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai

đoạn 2018-2021

41. UBND thành phố Hà Nội (2018), Kế hoạch 227/KH-UBND ngày 29/6/2018

của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức

tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể

thao giai đoạn 2018-2021

42. UBND thành phố Hà Nội (2019), Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 05/3/2019

của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng cấp

mức tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao

giai đoạn 2018-2021.

43. UBND thành phố Hà Nội (2019), Kế hoạch 44/KH-UBND ngày 09/8/2019

của UBND thành phố Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ

tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai

đoạn 2018-2021.

104

44. UBND thành phố Hà Nội (2017), Quyết định 8131/QĐ-UBND ngày

23/11/2017 của UBND thành phố Hà Nội ban hành danh mục dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao

của thành phố Hà Nội.

45. UBND thành phố Hà Nội (2019), Quyết định 1270/QĐ-UBND ngày

19/3/2019 của UBND thành phố Hà Nội ban hành Danh mục dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao

của thành phố Hà Nội

46. Nguyễn Xuân Viện (2015), Cơ chế tự chủ tài chính tại trường Cao đẳng

nghề kỹ thuật công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Luận văn

Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia.

105

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính

từ năm 2015 đến năm 2020

Năm 2015

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

Năm 2017

và 2016

Phân loại

TT

Tỷ

Tỷ

Tỷ

Tỷ

đơn vị

Số

Số

Tỷ lệ

Số

Số

Số

lệ

lệ

lệ

lệ

lượng

lượng

(%)

lượng

lượng

lượng

(%)

(%)

(%)

(%)

Đơn vị

sự

nghiệp tự đảm

1

bảo

chi

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

thường và chi

đầu tư

Đơn vị tự bảo

2

đảm

chi

1

5

1

2

6,25

12,5

18,8

4

25

3

thường xuyên

Đơn vị tự bảo

đảm một phần

3

18

90

15

93,75

14

87,5

13

81,2

12

75

chi

thường

xuyên

Đơn vị do

Ngân sách Nhà

4

nước bảo đảm

1

5

0

0

0

0

0

0

0

0

chi

thường

xuyên

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

106

Phụ lục 2. Thống kê cơ sở nhà đất do các đơn vị sự nghiệp công lập

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội quản lý

Số lượng

TT

Đơn vị

Ghi chú

cơ sở nhà

đất

1 Nhà hát múa rối Thăng Long

93 Đinh Tiên Hoàng

01

2 Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long

31-33 Lương Văn Can

01

Rạp Đại Nam, rạp Nguyễn

3 Nhà hát Chèo Hà Nội

02

Đình Chiểu

4 Nhà hát Kịch Hà Nội

Rạp Công nhân, Tạ Hiện

02

5 Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ

Cơ sở Thái Thịnh

01

6 Nhà hát Cải lương Hà Nội

Rạp Đông Đô, Chuông Vàng

02

Thư viện Hà Nội tại Trần Hưng

7 Thư viện Hà Nội

02

Đạo và Trần Phú, Hà Đông

Trung tâm Văn hóa thành phố Hà

Số 7 Phùng Hưng, rạp Kim

8

02

Nội

Đồng

9 Trung tâm Thông tin triển lãm

Đinh Tiên Hoàng

01

10 Bảo tàng Hà Nội

Đường Phạm Hùng

01

11 Ban quản lý Di tích Danh thắng

90 Thợ Nhuộm

01

12 Ban quản lý Di tích nhà tù Hỏa Lò

Số 01 Hỏa Lò

01

Trung tâm VHKH Văn Miếu -

13

Phố Quốc Tử Giám

01

Quốc Tử Giám

14 Báo Màn ảnh sân khấu

46 Hàng Bồ

01

Trường Phổ thông Năng khiếu

Trong khu VĐV cấp cao Mỹ

15

01

TDTT

Đình

Khu VĐV cấp cao Mỹ Đình, Lạc

Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu

Long Quân, Nhà thi đấu Trịnh

16

07

Hoài Đức, SVĐ Hà Đông, SVĐ

TDTT

Hàng Đẫy, CLB Khúc Hạo

Tổng số

27

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

107

Phụ lục 3. Thống kê xe ô tô các đơn vị sự nghiệp công lập

Sở Văn hóa và Thể thao quản lý

Đơn vị tính: triệu đồng

Số

Năm sử

Nguyên

Giá trị

TT

Tên đơn vị

Đặc điểm

lượng

dụng

giá

còn lại

xe

02 xe 45 chõ,

1999,

01 xe 34 chỗ,

4

3.729

672

2002,

1 Nhà hát Chèo Hà Nội

2004, 2007

xe tải

Xe 4 chỗ, 25

2002,

chỗ, xe tải 3,5

3

1.681

0

2 Nhà hát Kịch Hà Nội

2004

tấn

Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và

Xe 45 chỗ, xe

2003, 2012

1.617

464

2

3

bán tải

Tạp kỹ

Xe 36 chỗ, xe

2004,2005

1.900

0

3

4 Nhà hát Cải lương Hà Nội

tải 3,5 tấn

2000,

Trung tâm Văn hóa thành

Xe 45 chỗ, 3

2012,

2.261

828

5

5

xe bán tải

2010,

phố Hà Nội

2006, 2004

Trung tâm Thông tin triển

1997,

Ô tô thang

878

218

2

6

2008

lãm

Ban quản lý Di tích Danh

Xe 4 chỗ

400

0

1

7

thắng

Xe 26 chỗ, 35

1997,

Trung tâm Huấn luyện và

chỗ, 34 chỗ,

4

2.904

0

2000,

8

Thi đấu TDTT

2001, 2003

16 chỗ

1

561

0

2009

Xe 05 chỗ

9 Bảo tàng Hà Nội

25

Tổng số

(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)

108