BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ MIÊN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ MIÊN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ DIỆU OANH
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công, đề tài “Tổ
chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội” là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh – Học Viện Hành chính Quốc
gia. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn trung
thực, chính xác và có nguồn gốc rõ ràng. Tên và nội dung luận văn không trùng
lặp với bất kỳ một công trình nào đã được công bố trước đây./.
Xin chân thành cảm ơn.
Tác giả Luận văn
Lê Thị Miên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối
với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội”, là kết quả của sự cố gắng,
nỗ lực nghiên cứu của bản thân tôi, sự tận tình chỉ bảo của người hướng dẫn,
sự giúp đỡ, tạo điều kiện từ phía cơ quan công tác.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Thị Diệu Qanh – Học
viện Hành chính Quốc gia người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi từ những
bước đầu xây dựng đề cương nghiên cứu cho đến khi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ,
động viên, chia sẻ, tạo những điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về thời gian,
thông tin, tư liệu.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn
của tôi không tránh được những thiếu xót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự
góp ý, bổ sung quý báu của các thầy, cô và độc giả.
Trân trọng cảm ơn./.
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG LẬP ....................................................................................................... 9
1.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập 9
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập 18
1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ
CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
TRỰC THUỘC SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 34
2.1. Khái quát chung về Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị
sự nghiệp công lập trực thuộc 34
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội giai đoạn từ
năm 2015 đến tháng 6/2020 38
2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 65
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 74
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 76
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 76
3.2. Giải pháp chung bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 80
3.3. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội 80
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................. 97
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 106
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020 .............................. 44
Bảng 2.2 Tổng hợp thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ............ 46
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 .. 46
Bảng 2.3. Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn
hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 ............... 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, đòi
hỏi cần phải tiếp tục tái cấu trúc chi ngân sách nhà nước hướng đến phát triển
kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế,
hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập để thực hiện mục tiêu tăng nguồn
thu và giảm chi từ nguồn ngân sách nhà nước. Việc thực hiện tự chủ về tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ không chỉ khơi dậy tính năng
động trong nền kinh tế mà còn phát huy tính năng động, sáng tạo trong nhiều
lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội.
Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội Trung ương 6 Khóa XII về
tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày
24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự
nghiệp công lập. Trong đó nêu rõ mục tiêu đến năm 2025-2030: Hoàn thiện đầy
đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hoá các chủ trương của Đảng về
đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp
công lập; Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng
cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã nỗ lực thực hiện cơ chế tự
chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và đạt được những kết quả tích cực
như: Các đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ tài chính, đã chủ
động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ;
đồng thời, chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao
1
chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công, từ đó phát triển nguồn thu; từng
bước giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý cấp trên; tạo điều kiện
cho đơn vị sự nghiệp thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân
chủ, chủ động, sáng tạo của viên chức, người lao động,…
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đã đạt được
kết quả bước đầu song vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và còn không ít khó khăn
như: triển khai lộ trình tự chủ tài chính còn chậm; chi tiêu ngân sách nhà nước
cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn lớn, có đơn vị hoạt động kém hiệu quả,
tư tưởng chậm đổi mới của cán bộ, viên chức chưa theo kịp các quy luật của cơ
chế thị trường; hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính chưa được hoàn
thiện, tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa cao, chất lượng dịch
vụ công chưa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với khu vực tư; nhiều đơn giá
định mức kỹ thuật chưa được ban hành …
Từ thực tiễn đó, sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu em đã chọn đề
tài: “Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội” làm luận văn
tốt nghiệp cao học của mình. Thông qua việc nghiên cứu này, em mong muốn
nhận được sự quan tâm, ủng hộ từ phía Học viện Hành chính Quốc gia nhằm
hoàn thiện lý thuyết và tìm giải pháp giải quyết, góp phần thực hiện nhiệm vụ
chiến lược, mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp công nói chung và của
ngành Văn hóa và Thể thao nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
- Nguyễn Xuân Viện, Cơ chế tự chủ tài chính tại trường Cao đẳng nghề
kỹ thuật công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, luận văn Thạc sỹ
Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2015.
2
- Nguyễn Thị Mỹ Linh, Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với tổ
chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục tiêu chuẩn và đo lường chất lượng,
luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2015.
- Nguyễn Thị Thu Dung, Cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2016.
- Vi Thị Thu Phương, Quản lý tài chính tại Tạp chí thuế - Tổng cục thuế,
luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2016.
- Vũ Thị Lê Quy, Quản lý nhà nước về tài chính đối với các dự án viện
trợ không hoàn laị trực thuộc Bộ Y tế, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện
Hành chính Quốc gia, năm 2017.
- Lê Thúy Quỳnh, Quản lý tài chính tại Học viện Thanh thiếu niên Việt
Nam, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2017.
- Đặng Thu Hà, Quản lý tài chính tại Viện Khoa học Lao động và Xã hội,
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học
viện Hành chính Quốc gia, năm 2018.
- Vương Thu Hoài, Cơ chế quản lý tài chính tại các bệnh viện công trên
địa bàn tỉnh Hòa Bình, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia, năm 2018.
- Trần Thị Thanh Hằng, Cơ chế tự chủ tài chính tại Trung tâm đào tạo
nghiệp vụ tiêu chuẩn đo lường chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ, luận
văn Thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2019.
- Hoàng Thanh Phương, Quản lý tài chính tại Cục Thống kê thành phố
Hà Nội, luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm
2019.
- ThS. Nguyễn Thị Nguyệt (Khoa Kế toán – Trường Đại học Kinh tế Kỹ
thuật Công nghiệp), bài viết Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp
3
công lập, tạp chí Công thương, năm 2019. Trong bài viết này, tác giả nêu rõ vai
trò, mục tiêu và đánh giá khá chi tiết về tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính của các đơn vị sự nghiệp sau 04 năm thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-
CP ngày 14/02/2015 của Chính Phủ và từ đó đề xuất một số giải pháp thực hiện
trong thời gian hiện nay.
- PGS.TS. Nguyễn Trường Giang, bài viết Đổi mới cơ chế tài chính đơn
vị sự nghiệp công theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII, Tạp chí
tài chính tháng 02/2018. Trong bài viết này, tác giả phân tích những tồn tại, hạn
chế trong việc thực hiện nâng cao quyền tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập và giải pháp đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước.
- ThS. Nguyễn Nguyễn Xuân Trường, “Các giải pháp đổi mới cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài
chính tháng 04/2018. Tác giả phân tích thực trạng đổi mới hệ thống đơn vị sự
nghiệp công lập và giải pháp đẩy mạnh đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính.
- ThS. Phạm Xuân Thủy, Vũ Anh, Nguyễn Thị Mai Liên, Nguyễn Thị
Quỳnh Phương (2018), bài viết“Đổi mới tổ chức hoạt động các đơn vị sự
nghiệp công lập của Bộ Tài chính trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Tài chính
kỳ 2, tháng 9/2018.
Qua nghiên cứu cho thấy nhiều luận văn đã nghiên cứu về cơ chế tự chủ
tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng chủ yếu đề cập đến hoạt động
thu chi tài chính, chưa đề cập đến tổng thể các nội dung của cơ chế tự chủ tài
trong đơn vị sự nghiệp công lập. Một số bài viết trên báo, tạp chí đã nghiên cứu
thực trạng và đưa ra một số giải pháp để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở
một số đơn vị sự nghiệp công lập nhưng các giải pháp chưa đầy đủ, đồng bộ để
bảo đảm việc tổ chức pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập.
4
Như vậy, chưa có tác giả nào nghiên cứu đề tài luận văn “Tổ chức thực
hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.”. Đây là công trình nghiên cứu đầu
tiên tập trung vào nghiên cứu việc tổ chức pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa và thể thao. Luận
văn này phù hợp với chuyên ngành Quản lý công và không có sự trùng lặp về
phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu với các luận
văn khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Đề xuất các giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm khái niệm, đặc điểm,
các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu.
- Nêu thực trạng về tổ chức thực hiện pháp luật cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội, đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và
các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Nghiên cứu lý luận về tổ chức thực
hiện pháp luật cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và
tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị
sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu tình hình tổ chức thực
hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại 16 đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: giai đoạn từ 2015 đến tháng 6/2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu những tài liệu lý luận, văn bản, sách báo và các công trình
đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm mục đích tổng quan nghiên cứu vấn
đề và xây dựng cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu và
thu thập tài liệu, phương pháp thống kê, quản lý số liệu; phương pháp tổng hợp,
phân tích và đánh giá; phương pháp so sánh; phương pháp chuyên gia. Cụ thể
như sau:
Đối với chương 1, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu tài
liệu lý luận, sách báo, sau đó thu thập thông tin, phân tích thông tin, tổng hợp
để trình bày cơ sở lý luận về thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đối với chương 2, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thu thập, thống
kê, quan sát để nắm bắt thực trạng, phân tích dữ liệu và thông tin thu thập được,
tổng hợp và so sánh, trình bày dữ liệu, thông tin và đánh giá về thực trạng tổ
chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
6
Đối với chương 3, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, logic
và tìm hiểu ý kiến của các chuyên gia để đưa ra kết luận, kiến nghị về tổ chức
thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Dựa trên lý luận và nghiên cứu thực tế tại các đơn vị sự nghiệp công của
Sở Văn hóa và Thể thao, luận văn có ý nghĩa:
Một là, luận văn đã hệ thống hóa, bổ sung những vấn đề về cơ chế quản
lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao,
góp phần thực hiện việc điều chỉnh, bổ sung các quy định của pháp luật về cơ
chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hai là, luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp
luật về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập về lĩnh vực văn
hóa, thể thao và thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội. Đồng thời, luận văn đã nêu rõ những hạn chế, tồn tại và đề
xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố
Hà Nội.
Các kết quả nghiên cứu là tài liệu tin cậy đối với các cán bộ, công chức,
viên chức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
7
- Chương 2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố
Hà Nội
- Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp
luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn
hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội.
8
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập
1.1.1. Khái niệm
Theo quy định tại khoản 1, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12
ngày 15/11/2010: Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thành lập theo
quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản
lý nhà nước [32].
Theo quy định tại điều 3, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015
của Chính Phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập: Cơ chế
tự chủ của đơn vị sự nghiệp công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của
đơn vị sự nghiệp công [10]. Theo đó, cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công được hiểu là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong công tác tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
Như vậy, cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công được hiểu là các quy
định về quyền tự chủ, các đơn vị này tự chịu trách nhiệm đối với những nhiệm
vụ mang tính chất thuộc phạm vi cũng như quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp
công về tổ chức bộ máy và nguồn tài chính của đơn vị. Quyền tự chủ tài chính
của các cơ quan nhà nước là việc các cơ quan nhà nước tự đứng ra trực tiếp sử
dụng đối với nguồn kinh phí được cơ quan nhà nước cấp, có đầy đủ các thành
phần về mặt tài khoản cũng như con dấu riêng đã được cơ quan nhà nước có
9
thẩm quyền quyết định giao về kinh phí hoạt động cũng như số lượng biên chế
của đơn vị, cơ quan đó.
Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp
dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng tới việc giao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập để
hoàn thành nhiêm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động.
1.1.2. Nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập
Một là, đặc điểm, phân loại và kế hoạch lộ trình tự chủ của các đơn vị
sự nghiệp công lập
- Theo khoản 2, điều 9, Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày
15/11/2010, đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:
Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực
hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về
thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
đối với từng lĩnh vực sự nghiệp căn cứ vào khả năng tự chủ về thực hiện nhiệm
vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự và phạm vi hoạt động của đơn vị sự
nghiệp công lập [32].
- Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ
quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã chia đơn vị sự nghiệp
công lập thành 4 loại:
+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
10
+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên
+ Đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
+ Đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Ngoài ra còn căn cứ theo vị trí pháp lý của đơn vị sự nghiệp công lập để
phân loại đơn vị sự nghiệp công lập [10].
Phấn đấu đạt các mục tiêu của Trung Ương đề ra: đến năm 2021, phấn
đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân
sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 – 2015;
đến năm 2025 và 2030, phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính, tiếp
tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự
nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 – 2020; đến năm 2030, giảm bình quân
15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với
giai đoạn 2021 – 2025 [2].
Hai là, quy định về nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn
vị sự nghiệp công lập
Nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: nguồn thu
từ ngân sách nhà nước, nguồn thu phí, lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự
nghiệp công và các nguồn thu khác [10]. Cụ thể như sau:
- Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu
tư và đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Nguồn thu từ hoạt
động dịch vụ sự nghiệp công, bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá tính đủ chi phí; Nguồn thu phí theo
pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được để lại chi
thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công
tác thu phí); Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có); Nguồn ngân
sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh
phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ
11
chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia;
chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo
quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm
trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền
phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền
giao; Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên:
Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu phí theo pháp luật
về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được để lại chi hoạt động
thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công
tác thu phí); Nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong
giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật
(nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường xuyên
(nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với
đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình
mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện
các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh
phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan
có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên:
Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên trên cơ sở số lượng người làm việc
và định mức phân bổ dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Nguồn thu
khác (nếu có); Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các nhiệm vụ không thường
xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối
với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương
trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực
12
hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển;
kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được
cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ
quan có thẩm quyền giao; Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.
Các nội dung chi trong đơn vị sự nghiệp công lập được chia thành 02
loại: Chi thường xuyên và chi nhiệm vụ không thường xuyên. Chi thường
xuyên gồm: chi tiền lương, chi hoạt động chuyên môn, quản lý, chi cho việc
thực hiện thu phí, lệ phí, kể cả trích khấu hao tài sản cố định theo quy định. Chi
nhiệm vụ không thường xuyên gồm: chi từ nguồn thu phí, lệ phí được để lại chi
(chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí), chi
thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ
chức khoa học công nghệ); chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
chương trình, dự án, đề án khác; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án theo quyết
định của cấp có thẩm quyền; chi đầu tư phát triển; chi mua sắm trang thiết bị
phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; chi từ nguồn
vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định; các khoản chi khác theo quy định.
Ba là, quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính
Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thương
mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ
sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi là nguồn thu
của đơn vị và được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ
sung vào quỹ khác theo quy định của pháp luật, không được bổ sung vào Quỹ
bổ sung thu nhập; Các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước, các khoản thu
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, các khoản thu phí theo
pháp luật về phí, lệ phí, đơn vị mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh
[10].
13
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ
chức tín dụng, huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở
rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Riêng các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm
chi thường xuyên và chi đầu tư được vay vốn, huy động vốn để đầu tư, xây
dựng cơ sở vật chất theo quy định. Khi thực hiện vay vốn, huy động vốn, đơn
vị sự nghiệp công phải có phương án tài chính khả thi, tự chịu trách nhiệm trả
nợ vay, lãi vay theo quy định; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu quả của
việc vay vốn, huy động vốn [10].
Bốn là, quy định về thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi
tiêu nội bộ
Đơn vị sự nghiệp công có hoạt động dịch vụ thực hiện đăng ký, kê khai,
nộp đủ thuế và các khoản thu ngân sách khác (nếu có) theo quy định của pháp
luật. Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế
chi tiêu nội bộ, gửi cơ quan quản lý cấp trên, trường hợp Quy chế có quy định
không phù hợp với quy định của Nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên có ý kiến
bằng văn bản yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại cho phù hợp [10].
Năm là, quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu
tư; đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên: Hàng năm căn cứ vào
kết quả thực hiện về số lượng, khối lượng dịch vụ; tình hình thu, chi hoạt động
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và các dịch vụ khác của năm hiện hành; yêu
cầu nhiệm vụ của năm kế hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng
dịch vụ và dự toán thu, chi báo cáo cơ quan quản lý cấp trên. Đối với dịch vụ
sự nghiệp công do Nhà nước đặt hàng: Hàng năm căn cứ đơn giá, số lượng,
14
khối lượng dịch vụ sự nghiệp công được đặt hàng theo hướng dẫn của Bộ, cơ
quan Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đơn vị lập dự toán gửi cơ quan
quản lý cấp trên theo quy định.
Đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên
(do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt
hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính
đủ chi phí): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ của năm kế
hoạch, đơn vị lập kế hoạch về số lượng, khối lượng dịch vụ sự nghiệp công và
dự toán thu, chi (bao gồm cả phần kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ do giá,
phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí) báo cáo cơ quan quản lý
cấp trên theo quy định.
Đối với đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên
(theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu
hoặc nguồn thu thấp): Căn cứ tình hình thực hiện năm hiện hành, nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao trong năm kế hoạch, số lượng người làm việc
được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chế độ chi tiêu hiện hành, đơn vị lập dự
toán thu, chi gửi cơ quan quản lý cấp trên theo quy định.
Lập dự toán thu, chi phí theo pháp luật về phí, lệ phí, các nhiệm vụ không
thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Hàng năm, căn cứ
vào dự toán thu, chi do đơn vị sự nghiệp công xây dựng, cơ quan quản lý cấp
trên có trách nhiệm xem xét, tổng hợp dự toán thu, chi của đơn vị gửi cơ quan
tài chính và cơ quan có liên quan theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Việc phân bổ và giao dự toán của cơ quan quản lý cấp trên cho đơn vị sự
nghiệp công thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Căn cứ lộ
trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, cơ quan quản lý cấp trên thực hiện đặt
hàng đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư
và đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên; đặt hàng, giao kinh phí
15
hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một
phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi
phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công
theo giá, phí chưa tính đủ chi phí). Đối với đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước
bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền
giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp): Cơ quan quản lý cấp trên thực
hiện giao dự toán ổn định trong thời gian 3 năm và được điều chỉnh khi Nhà
nước thay đổi nhiệm vụ, cơ chế chính sách theo quy định [10].
Sáu là, quy định về cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp
công
Dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện
theo các phương thức: giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu. Giao nhiệm vụ
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN chỉ thực hiện đối với
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản lý cấp trên được giao kinh
phí cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của đơn
vị sự nghiệp công lập, dự toán thu chi được cấp có thẩm quyền giao, danh mục
dịch vụ sự nghiệp công có định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá, giá dịch vụ sự
nghiệp công do cơ quan có thẩm quyền ban hành, thực hiện đặt hàng cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc cơ quan quản lý cấp trên theo danh mục quy định
tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ.
Việc đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công lập thực
hiện, căn cứ theo lộ trình tính giá đủ chi phí hoặc chưa tính đủ chi phí theo cơ chế
tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực. Về đấu thầu cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Căn cứ chức
năng và ngành nghề đăng ký kinh doanh phù hợp với dịch vụ sự nghiệp công
16
tham gia đấu thầu; căn cứ quy định của pháp luật chuyên ngành đối với nhà
thầu cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thuộc diện Nhà nước cấp phép hoạt động
và các điều kiện tham gia đấu thầu khác theo quy định của pháp luật liên quan
(nếu có) [13].
Định mức kinh tế - kỹ thuật được hiểu là mức hao phí cần thiết về lao động
về nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, dụng cụ và phương tiện để hoàn
thành một đơn vị sản phẩm (hoặc một khối lượng công việc nhất định), trong
một điều kiện cụ thể của các hoạt động trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản
lý nhà nước. Các hoạt động sự nghiệp công của các đơn vị sự nghiệp công lập
rất đa dạng và phong phú về loại hình. Định mức kinh tế kỹ thuật là căn cứ để
tính giá dịch vụ sự nghiệp công, là cơ sở để triển khai phân bổ ngân sách nhà
nước theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất
lượng sản phẩm dịch vụ công. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng
và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật nêu trên, khi xây dựng định mức kinh tế
kỹ thuật phải đảm bảo các nguyên tắc như tuân thủ quy trình, đảm bảo tính ổn
định, các bước thực hiện cần bảo đảm sự phù hợp, không khác biệt, đảm bảo
sự tập trung thống nhất trong quản lý nhà nước của Bộ chuyên ngành về công
tác xây dựng định mức; khuyến khích, phát huy quyền chủ động, của các tổ
chức, cá nhân tham gia xây dựng định mức của các ngành và việc lập, phân bổ,
quản lý kinh phí xây dựng định mức thực hiện theo quy định của pháp luật.
Giá dịch vụ sự nghiệp công, gồm 02 loại giá dịch vụ sự nghiệp công
không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và giá dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Đối với dịch vụ sự nghiệp công không sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Đơn vị sự nghiệp công được xác định giá
dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các khoản thu,
mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật
đối với từng lĩnh vực. Đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân
17
sách nhà nước: Giá dịch vụ sự nghiệp công được xác định trên cơ sở định mức
kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ
trình tính đủ chi phí theo quy định, trong đó chi phí tiền lương trong giá dịch
vụ sự nghiệp công tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương ngạch, bậc, chức
vụ đối với đơn vị sự nghiệp công và định mức lao động do các Bộ, cơ quan
Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền; Phương
pháp định giá và cơ quan có thẩm quyền định giá dịch vụ sự nghiệp công thực
hiện theo quy định pháp luật về giá; Trong phạm vi khung giá dịch vụ sự nghiệp
công do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, đơn vị sự nghiệp công
quyết định mức giá cụ thể cho từng loại dịch vụ; trường hợp cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định cụ thể giá dịch vụ sự nghiệp công, đơn vị thu theo mức
giá quy định.
Phí dịch vụ sự nghiệp công: Dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục thu
phí thực hiện theo quy định pháp luật về phí, lệ phí. Đơn vị sự nghiệp công
được thu phí theo mức thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về
cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Hiện nay có một số khái niệm về thực hiện pháp luật. Theo giáo trình Lý
luận nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia: “Thực hiện
pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của
các chủ thể pháp luật” [23, tr.463].
Theo Tài liệu học tập, nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp
luật của khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
“Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những
18
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [24, tr.270].
Theo cuốn Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt
Nam của Nhà xuất bản chính trị Quốc gia sự thật: “thực hiện pháp luật là hoạt
động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật thành những hoạt động
thực tế của các chủ thể pháp luật” [16, tr 27].
Các khái niệm có thể có một số điểm khác nhau nhất định song đều có
đặc điểm chung. Bao gồm: Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể được
tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái,
không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định; Thực hiện pháp luật có
thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất định
nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến hành
vượt xử sự bị pháp luật cấm; Các chủ thể có trách nhiệm tiến hành sắp xếp các
bộ phận, phân công nhiệm vụ, quyền hạn cho mỗi bộ phận, phối hợp hoạt động
của các bộ phận để các quy định pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi
thực tế, hợp pháp của các tổ chức, cá nhân nhằm mục đích bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện trên thực tế, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước
và xã hội.
Như vậy có thể hiểu tổ chức thực hiện pháp luật là quá trình hướng dẫn,
chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện về con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất
nhằm bảo đảm đưa pháp luật vào cuộc sống.
Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập là việc lên kế hoạch, sắp xếp các hoạt động và phân công
trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các chủ thể là các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các hoạt động đó; đồng thời các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện nhằm bảo đảm
các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức
19
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc áp dụng tổng hợp và đồng bộ các
biện pháp khác nhau hướng tới việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao và phát huy mọi khả năng để nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập có những đặc điểm sau:
- Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập mang tính đồng bộ, tập trung, thống nhất cao: Tổ chức
bộ máy quản lý tập trung nhằm đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực
hiện thống nhất từ Chính Phủ, Bộ chuyên ngành và UBND các cấp tương ứng
với phạm vi, chức năng, nhiệm vụ được phân công. Có sự phối hợp chặt chẽ
trong các hoạt động giữa các cơ quan cùng cấp. Có quy hoạch, kế hoạt thống
nhất mang tính khoa học cao.
- Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật:
Hoạt động đưa kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là các văn bản
quy định pháp luật có hiệu lực thi hành vào cuộc sống thực tiễn và nhằm hướng
hành vi của các chủ thể trên thực tế đến những mục tiêu nhất định khi văn bản
được ban hành. Đây là tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá việc thực hiện pháp
luật, vì nếu không đạt được những mục tiêu chính sách đặt ra thì các quy phạm
pháp luật cũng không có giá trị thực tế. Chính vì vậy, hiệu quả tổ chức thực
hiện pháp luật trên thực tế là thước đo chính xác nhất đối với các văn bản quy
phạm pháp luật.
Các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật có thể được trao
những khoảng không gian nhất định để thực hiện công việc nhằm đảm bảo việc
thực hiện pháp luật có tính linh hoạt, phù hợp với các tình huống trên thực tế,
20
nhưng tất cả mọi quyền hạn đó đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và phải
được pháp luật trao quyền.
- Tổ chức thực hiện pháp luật phải tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định: Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật như xây dựng và hoàn
thiện pháp luật, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, … phải tuân thủ theo quy trình,
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
- Tổ chức thực hiện pháp luật mang tính chủ động, linh hoạt cao: Chính
Phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính nói chung đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập. Trên cơ sở văn bản quy định chung của Chính Phủ và tùy vào chức
năng, nhiệm vụ, điều kiện của từng ngành, lĩnh vực, Các Bộ chuyên ngành rà
soát, ban hành xây dựng Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
trong từng lĩnh vực. Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, điều hành của các cơ quan
cấp trên, cơ quan cấp dưới đề xuất và chủ động đưa ra các giải pháp để tổ chức
thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính theo chức năng, nhiệm vụ được
giao. Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, Chính Phủ, Bộ chuyên ngành
và UBND các cấp phát hiện những bất cập, hạn chế của văn bản quy phạm pháp
luật và đề xuất xây dựng văn bản mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện
hành hoặc bãi bỏ các quy định không còn phù hợp.
Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung trên cả nước.
- Các bộ chuyên ngành, các cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các
cơ quan hữu quan trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập. Trong đó bao gồm Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Thông
tin truyền thông, các Bộ chuyên ngành.
21
- Hội đồng nhân dân các cấp bảo đảm việc thi hành pháp luật, các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương; giám sát
hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức và chỉ đạo việc thi hành pháp
luật, các văn bản quy định, hướng dẫn của Chính Phủ, nghị quyết của Hội đồng
nhân dân cùng cấp; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa
phương.
- Các cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm phối hợp với cơ
quan, tổ chức có liên quan tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện chủ
trương, chính sách, pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức và phối
hợp với cơ quan có thẩm quyền tuyên và giám sát việc thực hiện cơ chế tự chủ
tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Các cơ quan nhà nước quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập do mình quản lý.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở các quy định hiện hành và
hướng dẫn của cơ quan cấp trên và các cơ quan có liên quan, các đơn vị sự
nghiệp công lập sử dụng các nguồn lực đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính.
1.2.2. Vai trò tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật có vị trí thượng tôn, việc
tổ chức thực hiện pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Đặc biệt, trong bối
cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc ban hành các văn bản quy phạm
22
pháp luật nhưng không đạt được những mục tiêu đã định sẽ làm giảm tính
nghiêm minh của hệ thống pháp luật, và có thể dẫn tới việc làm giảm ý thức
tuân thủ pháp luật của người dân, vốn là một trong những yếu tố cản trở lớn
nhất đối với hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật. Vì vậy, yêu cầu đặt ra việc
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập phải bảo đảm hiệu quả, đồng bộ và minh bạch.
Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp công lập có vai trò như sau:
Một là, tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập nhằm mục đích đưa pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính vào thực tiễn. Mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập là hướng tới trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị
sự nghiệp trong việc tổ chức hoạt động, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động
và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả
năng của đơn vị để nâng cao chất lượng dịch vụ công; phát huy mọi nguồn lực
của đơn vị để tăng nguồn thu, cải thiện đời sống người lao động; Nâng cao tính
chủ động, sáng tạo của đơn vị sự nghiệp công, hướng tới sự bình đẳng và tăng
khả năng cạnh tranh của đơn vị nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Khuyến
khích thực hiện chính sách xã hội hóa đối với các lĩnh vực do Nhà nước đang
thực hiện; Giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, nâng cao mức tự
chủ của đơn vị, hướng tới giảm dần đơn vị sự nghiệp công và chuyển dần các
đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị ngoài công lập.
Hai là, nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Nếu các công chức, viên chức có
năng lực, trách nhiệm không đáp ứng theo đúng yêu cầu thì việc tổ chức thực
hiện pháp luật rõ ràng bị ảnh hưởng.
23
Ba là, thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ góp phần phát hiện ra những tồn
tại, hạn chế để từ đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành để bảo đảm thực
hiện các mục tiêu đã đề ra.
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.3.1. Ban hành các văn bản pháp luật, hướng dẫn, xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Các văn bản pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công lập ở nước ta thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật như Luật,
Nghị định, Thông tư, Quyết định. Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng,
Nhà nước tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức và phương pháp khác nhau
nhau nhằm đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập. Trong đó, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc ban hành và hoàn thiện các
văn bản pháp luật và pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập là kim chỉ nam cho mọi hành động của các đơn vị, tổ chức, cá
nhân.
Đối với Trung Ương: Bộ ban hành các Nghị quyết để đưa ra quan điểm
chủ trương, định hướng phát triển, Chính Phủ ban hành Nghị quyết và Nghị
định, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định để triển khai các quan điểm
chỉ đạo, mục tiêu đề ra và kiểm tra hoạt động của các Bộ, chính quyền địa
phương trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với các Bộ ngành: trên cơ sở quy định của Chính phủ trong phạm vi,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành văn bản chi tiết đối với từng ngành,
lĩnh vực và hướng dẫn Nghị định của Chính Phủ để các địa phương tổ chức
triển khai thực hiện.
24
Đối với UBND các cấp: trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra và căn cứ vào
hướng dẫn của Trung Ương và các Bộ ngành, UBND thành phố ban hành kế
hoạch triển khai thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính. Cơ quan chuyên môn về tài chính thuộc UBND các cấp thực hiện hướng
dẫn các đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về cơ
chế tự chủ tài chính và tham mưu UBND các cấp về việc thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính như xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật, giá dịch vụ sự nghiệp
công, danh mục dịch vụ sự nghiệp công,….
1.2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thực hiện cơ
chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa
phương, đơn vị khi thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, ở mỗi cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ
này có những yêu cầu, đối tượng và nội dung khác nhau.
Một là, ban hành kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để các
ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung của các quy định
pháp luật. Đồng thời có văn bản hướng dẫn các ngành, địa phương tổ chức thực
hiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo các ngành, lĩnh vực thống nhất về
nhận thức và trong hành động.
Hai là, thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nên đã từng
bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm về mục tiêu, quan điểm, ý nghĩa và yêu
cầu của công tác tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, nâng cao trách nhiệm, thống nhất nhận thức và
hành động của từng cấp, từng đơn vị và mỗi cán bộ, công chức, viên chức,
25
người lao động. Đồng thời, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với chủ trương
quan trọng này.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội khác trong phạm
vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các
cán bộ công chức, viên chức, người lao động cùng các đơn vị có liên quan thực
hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động các
đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tự chủ tài chính.
Bốn là, triển khai đồng bộ và phong phú các loại hình thông tin, tuyên
truyền của hệ thống cơ quan thông tin, tuyên truyền, chú trọng đổi mới nội
dung, duy trì, phát huy loại hình tuyên truyền có hiệu quả. Các cơ quan thông
tin đại chúng có trách niệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các quy định
của pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính và nêu gương các điển hình tiên tiến
thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính.
Như vậy, việc hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
thực hiện có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đi vào đời sống và trở thành hiện thực. Qua đó, mọi
cá nhân và tổ chức hiểu và nhận thức đúng về tầm quan trọng về cơ chế tự chủ
tài chính. Có như vậy, mới đảm bảo các tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2.3.3. Thực hiện nội dung pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập
Để đảm bảo việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập, cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Một là, xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hai là, xác định nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
26
Ba là, quản lý và sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Bốn là, thực hiện quy định về tự chủ trong giao dịch tài chính của các
đơn vị sự nghiệp công lập.
Năm là, thực hiện việc quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội
bộ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Sáu là, thực hiện quy định về việc lập, phân bổ và giao dự toán đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập.
Bảy là, thực hiện quy định về đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự
nghiệp công lập.
1.2.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về cơ
chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức xã hội khác, nhân dân nhằm kịp thời phát hiện, góp ý kiến với các cơ quan
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động, các đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan
chủ quản.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về việc chấp hành cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành việc lập giao và phân bổ
dự toán, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế quản lý tài sản, cơ chế
tính giá, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và lộ trình tự chủ. Đây là một hoạt
động nhằm xem xét việc chấp hành và tuân thủ các quy định của pháp luật về
cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện đánh
giá hoạt động của các cấp, các ngành, các cơ quan nhằm tìm ra những giải pháp
thực hiện để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải tiến phương pháp tổ
chức thực hiện pháp luật nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thanh tra, kiểm tra còn
là phương tiện phát hiện phát hiện những hành vi trái quy định của pháp luật,
27
qua đó đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Do vậy, cần quan tâm
đến việc xây dựng cơ chế kiểm tra, nhất là hoạt động kiểm tra tính hợp pháp,
hợp hiến các văn bản quy định của pháp luật và tính hợp pháp của các hoạt
động thực thi pháp luật. Công tác thanh tra kiểm tra có thể tiến hành theo định
kỳ hàng quý, hàng năm hoặc đột xuất khi thấy có vấn đề về tổ chức thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoặc khi có khiếu
nại, tố cáo.
Sau khi giám sát, thanh tra, kiểm tra phải có đánh giá, kết luận ở từng
đơn vị, từng cấp, từng ngành khi tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính ở
các đơn vị sự nghiệp. Qua đó xử lý những trường hợp chưa nghiêm túc thực
hiện các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính và khen thưởng kịp
thời các đơn vị tổ chức thực hiện tốt nhằm tạo động lực cho mỗi cá nhân, tập
thể trong việc tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập.
1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
1.3.1. Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập
Việc tổ chức thực hiện pháp luật yêu cầu phải đảm bảo phù hợp với các
quy định của hệ thống pháp luật. Do đó, đòi hỏi các văn bản quy định của pháp
luật phải rõ ràng, đảm bảo tính hệ thống, nhằm tạo môi trường và hành lang
pháp lý cho các hoạt động, trong đó có hoạt động tài chính.
Hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính bao gồm: các văn bản pháp
luật liên quan đến cơ chế tài chính và các văn bản dưới luật của Chính Phủ, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Cụ thể như sau:
28
Các chủ trương, chính sách của Đảng như Nghị quyết của Bộ Chính trị,
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương, Nghị quyết của Chính Phủ
Quán triệt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước thể
chế hóa thành các quy định của pháp luật. Ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa
phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các đơn vị xây dựng và ban hành
các văn bản bao gồm:
- Văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như Nghị định của Chính
Phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về việc thực
hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Văn bản của Bộ chuyên ngành bao gồm Nghị định hướng dẫn Nghị
định khung của Chính phủ, Quyết định và Thông tư quy định chi tiết về nội
dung thực hiện, tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và định mức kinh tế kỹ
thuật chuyên ngành làm cơ sở để các địa phương triển khai thực hiện.
- Văn bản của địa phương nhằm cụ thể hóa các quy định theo hướng dẫn
của Chính phủ, từng Bộ ngành để tổ chức triển khai thực hiện cho phù hợp với
thực tiễn của từng địa phương.
Các quy định của pháp luật phải được xây dựng và ban hành theo đúng
quy trình thủ tục nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả. Các hoạt động triển
khai thực hiện pháp luật giúp cho chính sách pháp luật của Đảng, nhà nước đi
vào thực tiễn cuộc sống. Để đảm bảo việc tổ chức thực thi chính sách pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính có hiệu quả và đồng bộ đòi hỏi pháp luật về cơ chế
tự chủ tài chính phải đúng đường lối, chính sách của Đảng, quy định đầy đủ,
đồng bộ với các văn bản pháp luật hiện hành và có tính khả thi cao.
Như vậy, pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập là hệ thống các văn bản từ Trung Ương đến địa phương nhằm đảm
bảo thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính
tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
29
1.3.2. Năng lực của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
Cơ quan thực hiện pháp luật có vai trò tuân thủ, chấp hành và áp dụng
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính vào thực tiễn một cách đúng đắn. Trước
hết đó là trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan
đơn vị sự nghiệp, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò của các cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động. Các cán bộ công chức được giao trách nhiệm
quản lý nhà nước đối với việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và các viên
chức, người lao động trực tiếp chịu trách nhiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính tại đơn vị sự nghiệp công lập. Trách nhiệm đó thể hiện cụ thể ở những
nội dung sau:
- Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật nhà nước tạo cơ sở hàng lang
pháp lý để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập. Đồng thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc khi triển khai
thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thực hiện cơ chế tự chủ tài chính cho
từng giai đoạn và từng năm.
- Khi cơ chế, chính sách đã tốt, vấn đề còn lại là vận dụng, triển khai vào
thực tiễn như thế nào. Tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ về tài chính
nhằm đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống, đảm bảo hiệu quả hoạt động về
cơ chế tự chủ tài chính và sự đồng bộ từ chủ trương cho đến hiện thực
Các cán bộ, công chức, viên chức là nguồn lực quan trọng nhất nhằm
đưa chính sách pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Các cán bộ, công chức, viên
chức phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo
đúng quy định của pháp luật. Các cán bộ, công chức, viên chức ở mỗi vị trí
khác nhau phải có đủ trình độ, năng lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao. Nếu các cán bộ, công chức, viên chức không có đủ năng lực thì khó có
thể đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.
30
Việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập không chỉ đòi hỏi sự đổi mới của các đơn vị sự nghiệp công lập mà còn đòi
hỏi sự đổi mới trong cách chỉ đạo, điều hành của các Bộ chủ quản, UBND các
cấp. Theo đó, mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải có nhận thức đổi mới về
cơ chế tự chủ tài chính.
1.3.3. Các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất ảnh hưởng đến việc
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập
Điều kiện về tài chính là một trong yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu
quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập. Các điều kiện về tài chính như kinh phí cho công
tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi pháp luật, chi phí cho
công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập. Chế độ đãi ngộ tốt sẽ khuyến khích viên chức người lao động
hăng hái làm việc, chống lại sự tha hoá, biến chất, mua chuộc; ngược lại, chế
độ đãi ngộ không hợp lý sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lơ là công việc,
không hăng say phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ viên chức,
người lao động. Chế độ chính sách đãi ngộ giữ vai trò hết sức quan trọng, từ
chế độ đề bạt, bổ nhiệm bố trí đến chế độ khen thưởng, chế độ tiền lương và kỷ
luật… đây là động lực thúc đẩy đội ngũ viên chức, người lao động không ngừng
vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp công lập, điều kiện làm việc và
chế độ đãi ngộ đối với viên chức, người lao động của đơn vị sự nghiệp công
lập có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung, về cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập nói
riêng. Cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm: Trụ sở làm việc, các trang thiết bị,…có những ảnh
31
hưởng nhất định đến việc nâng cao mức tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập. Điều kiện vật chất, cụ thể là ô tô chuyên dùng, máy móc, phương tiện
làm việc, đi lại; trụ sở làm việc, sân khấu biểu diễn, dụng cụ phục vụ việc tập
luyện và thi đấu… được trang bị đầy đủ, hiện đại sẽ góp phần đẩy nhanh lộ
trình tự chủ về tài chính. Đội ngũ viên chức, người lao động đơn vị tự chủ có
đủ phương tiện làm việc thì sản phẩm, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập
cung cấp sẽ đảm bảo chất lượng hơn, họ sẽ tập trung vào chuyên môn mà không
bị chi phối bởi sự khó khăn về điều kiện, phương tiện làm việc.
1.3.4. Công khai, minh bạch về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Theo Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018, công khai và minh bạch
về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là việc công bố, cung cấp
thông tin, giải trình về tổ chức bộ máy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước là việc làm cho mọi người
dân có thể biết và hiểu cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ của đơn vị
và đảm bảo các hoạt động trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và các quy
định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu công khai, minh bạch đối với việc tổ
chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là việc
công bố, cung cấp thông tin về các quy định của pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và việc thực hiện pháp luật của các
đơn vị về cơ chế tự chủ tài chính, ... Công khai, minh bạch vừa là yêu cầu vừa
là điều kiện để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Đây cũng chính là yếu
tố rất được coi trọng trong nhà nước pháp quyền và là điều bắt buộc với tất cả
các đơn vị sự nghiệp công lập.
Bảo đảm công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
trước hết được thể hiện ở việc công khai các quy định về mặt nội dung, quy
trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để tăng cường sự hiểu biết của cán bộ, công
32
chức, viên chức đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật
của những chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật là điều kiện cơ
bản nhất để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Thực tế cho thấy, đã có
nhiều trường hợp việc thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các nội dung của quy
phạm pháp luật và cách thức tổ chức thực hiện pháp luật đã tạo ra những cản
trở đối với quá trình thực hiện pháp luật.
Hiện nay, việc tự chủ chuyên môn đang được cố gắng tạo điều kiện tối
đa. Việc tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập là một xu thế
trong tương lai, khi điều kiện kinh tế tốt hơn. Sự tự chủ này sẽ phát triển cùng
với sự phát triển của nền kinh tế và nhận thức của các cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động. Nhưng cũng phải làm sao để tự chủ không bị đánh đồng
là thương mại hóa lĩnh vực văn hóa thể thao. Muốn như vậy, phải công khai
minh bạch rõ các nguồn thu, rõ mục đích chi và quyết toán cuối năm với các
khoản chi. Mức thu cao đối với các sản phẩm, dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công
lập cung cấp không phải chỉ vì lợi nhuận mà còn vì chất lượng sản phẩm, dịch
vụ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, chủ thể, vai trò, nội
dung và các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Chương này làm cơ sở lý luận để
phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp luật cơ chế
tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội.
33
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
TRỰC THUỘC SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội
và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quá trình hình thành, phát triển
của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
Theo Quyết định số 59/2008/QĐ-UBND ngày 23/12/2008 của UBND
thành phố Hà Nội về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội. Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, quảng cáo
(trừ quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng
cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông
tin) trên địa bàn thành phố theo quy định của pháp luật; các dịch vụ công thuộc
lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân
công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố và theo quy định của pháp luật. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố
Hà Nội có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo,
quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn,
nghiệp vụ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Năm 2008, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội được
thành lập trên cơ sở sáp nhập của các sở: Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội, Sở
Văn hóa và Thông tin Hà Tây với tổng số 12 phòng và 21 đơn vị sự nghiệp.
34
Năm 2017, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng được sáp nhập với các ban khác
của các sở ngành thành các ban trực thuộc thành phố quản lý. Thực hiện Kế
hoạch số 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 để triển khai thực hiện Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về thực hiện cơ chế tự chủ. Sở
đã tổ chức sắp xếp tinh gọn đầu mối các đơn vị có trùng chức năng, nhiệm vụ,
sau sắp xếp còn 09 phòng và giảm 4 đơn vị, còn lại 16 đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Sở.
09 phòng quản lý nhà nước bao gồm: Văn phòng Sở, phòng Tổ chức
Pháp chế, phòng Kế hoạch Tài chính, phòng Quản lý Văn hóa, phòng Quản lý
Di sản, phòng Quản lý Nghệ thuật, phòng Quản lý Nếp sống Văn hóa và Gia
đình, phòng Quản lý Thể dục Thể thao, Thanh tra Sở.
16 đơn vị sự nghiệp, bao gồm: Nhà hát múa rối Thăng Long, Nhà hát
Chèo Hà Nội, Nhà hát Kịch Hà Nội, Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long, Nhà
hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ Hà Nội, Nhà hát Cải lương Hà Nội, Trung tâm
HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Bảo tàng Hà Nội, Ban quản lý di tích
danh thắng Hà Nội, Ban quản lý nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Huấn luyện và Thi
đấu TDTT Hà Nội, Trường phổ thông năng khiếu TDTT Hà Nội, Trung tâm
văn hóa thành phố, Trung tâm thông tin triển lãm, Báo Màn ảnh sân khấu, Thư
viện Hà Nội.
2.1.2. Điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội
Yếu tố pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập
Pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập là hệ thống các văn bản từ Trung Ương đến địa phương nhằm đảm bảo thực
35
hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính tại các
đơn vị sự nghiệp công lập.
Đảng, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố
Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản để định hướng và tổ chức triển khai thực
hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công.
Yếu tố về năng lực của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
Qua thực tiễn cho thấy: nhận thức của lãnh đạo các các cấp, ngành và
chính quyền địa phương còn hạn chế, ở một số cơ quan còn cho rằng đây là
trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập; thiếu các chuyên gia giỏi có
trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào quá trình xây dựng và ban
hành văn bản pháp luật; các cán bộ, viên chức có trình độ, chuyên môn còn hạn
chế chưa đưa ra được các giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm
tăng nguồn thu và giảm chi từ nguồn ngân sách; hoạt động kiểm tra, thanh tra
được triển khai nhưng chưa phát hiện ra các hành vi vi phạm.
Yếu tố về tài chính
Chi phí thực hiện công tác tổ chức tình hình thực hiện pháp luật được
trích từ nguồn kinh phí tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Bao gồm như
kinh phí cho công tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi
pháp luật, chi phí cho công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đội ngũ viên chức, người lao động đơn vị sự nghiệp công lập ở một số
đơn vị có nguồn thu thấp nên mức lương và thưởng thấp, nhiều khi còn bị chi
phối về điều kiện, phương tiện làm việc nên chưa thực sự tập trung vào việc
thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Đối với một số đơn vị tự chủ tài
chính và có nguồn thu lớn như Nhà hát múa rối Thăng Long, Ban quản lý di
tích Hỏa Lò viên chức và người lao động có lương, thu nhập tăng thêm, thưởng,
chế độ đãi ngộ tốt nên tập thể nhà hát rất tin tưởng vào cơ chế tự chủ tài chính
36
và yên tâm thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Đối với một số đơn
vị tự chủ tài chính có nguồn thu lớn như Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn
Miếu – Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích danh thắng nhưng do quy định của
thành phố về tỷ lệ trích được để lại để thực hiện chi thường xuyên thấp nên mức
thu nhập tăng thêm thấp nên tập thể viên chức, người lao động chưa thực sự tin
tưởng và có động lực để thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính.
Yếu tố về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất để đảm bảo thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm: Trụ sở làm việc, các trang thiết bị, … có những ảnh
hưởng nhất định đến việc nâng cao mức tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập. Các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở đều có cơ sở nhà đất
nằm trên trục đường giao thông trung tâm nên rất thuận tiện cho việc tổ chức
các sự kiện văn hóa, thể thao. Tuy nhiên, các cơ sở nhà đất đều đã được đầu tư
từ nhiều năm trước nên xuống cấp và các trang thiết bị chuyên dung còn thiếu
và chưa đồng bộ chưa theo kịp khu vực tư nhân nên việc chấp hành pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Yếu cầu về công khai và minh bạch về thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội thực hiện tốt việc công khai,
minh bạch cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và có
một số tồn tại, hạn chế.
- Chấp hành việc công khai dự toán thu, chi và quyết toán các khoản thu
chi theo quy định tại Thông tư 61/2017/TT-BTC ngày 15/6/2017 của Bộ Tài
chính. Tuy nhiên, ở một số đơn vị sự nghiệp công lập còn công khai chưa đầy
đủ nội dung, không đúng hình thức quy định hoặc không đảm bảo thời gian
theo quy định. Ngoài ra, ở một số đơn vị đã thực hiện công khai nhưng còn
thiếu tính minh bạch bởi lẽ chưa cung cấp đầy đủ thông tin nên một số viên
37
chức, người lao động chưa nắm bắt được đầy đủ các quy định pháp luật về cơ
chế tự chủ và tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tại cơ quan, đơn vị.
- Xây dựng quy chế công khai tài chính, trong đó quy định thực hiện
công khai quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý tài sản, quy trình thủ tục đối
với việc lập, chấp hành dự toán, xây dựng và ban hành mức thu đối với các sản
phẩm, dịch vụ sự nghiệp công, quy trình thủ tục thanh toán. Hình thức công
khai thường được áp dụng tại hội nghị cán bộ, viên chức, người lao động, ít áp
dụng hình thức niêm yết công khai nên nhiều cán, viên chức, người lao động
khó nắm bắt được đầy đủ thông tin về hoạt động tài chính của cơ quan, đơn vị.
Tính minh bạch trong việc công khai còn hạn chế do pháp luật quy định về việc
minh bạch thông tin còn chưa cụ thể, quy trình thủ tục giải quyết công việc rất
phức tạp nên người dân chưa thể hiểu và nắm bắt được để giám sát.
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020
2.2.1. Tình hình ban hành văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện
các quy định về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập
Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản quy định của Chính
Phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND thành phố Hà Nội và Sở Văn
hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai
thực hiện và văn bản hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế
tự chủ tài chính.
Văn bản của UBND thành phố Hà Nội:
- Về cơ chế tự chủ:
38
Kế hoạch 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 của UBND thành phố về việc
thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy
định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố quản lý.
- Về kế hoạch nâng mức tự chủ tài chính
+ Kế hoạch 137/KH-UBND ngày 18/6/2018 của UBND thành phố Hà
Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021
+ Kế hoạch 227/KH-UBND ngày 29/6/2018 của Sở Văn hóa và Thể thao
Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị
sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021
+ Kế hoạch 44/KH-UBND ngày 09/8/2019 của UBND thành phố Hà Nội
về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021
+ Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 05/3/2019 của Sở Văn hóa và Thể thao
Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng cấp mức tự chủ tài chính các đơn vị
sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021
Văn bản của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
- Kế hoạch số 1750/KH-SVHTT ngày 30/5/2016 của Sở Văn hóa và Thể
thao Hà Nội về việc triển khai kế hoạch 97/KH-UBND ngày 20/5/2016 của
UBND thành phố Hà Nội về việc thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc thành phố quản lý.
2.2.2 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ chế tự chủ
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập là một nội dung quan trọng của tổ chức thực
39
hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật giai đoạn 2015 đến tháng 6/2020 tới chính quyền các cấp, tập trung chủ
yếu vào việc tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng sau:
- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nghị quyết yêu
cầu: “Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công theo ngành,
lĩnh vực. Phân loại đơn vị sự nghiệp công để thực hiện các hình thức chuyển
đổi phù hợp (hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, từng bước cổ phần hóa,
hợp tác công tư ...). Đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có khả
năng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động theo hướng tiếp tục đẩy mạnh giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, nhân sự và
khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành
phần ngoài nhà nước.”
- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành Trung
ương về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết yêu cầu: “Hoàn thiện thể chế, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đầy đủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập về phạm vi hoạt động, tổ chức bộ
máy, biên chế, nhân sự và tài chính gắn với cơ chế đánh giá độc lập. Thực hiện
xã hội hoá tối đa các dịch vụ công, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị
sự nghiệp công lập và các đơn vị ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ
công theo cơ chế thị trường”
- Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội Trung ương 6
Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
40
- Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-
NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.
Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội đã bám sát chủ trương, chính sách
của Đảng để triển khai các nhiệm vụ được giao một cách toàn diện và có trọng
tâm, trọng điểm. Theo đó, các kế hoạch đã được ban hành kịp thời để tổ chức
thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố
được thực hiện kịp thời, đầy đủ tới đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và
nhân dân nên đã từng bước nâng cao nhận thức, trách nhiệm về mục tiêu, quan
điểm, ý nghĩa và yêu cầu của công tác tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, nâng cao trách nhiệm,
thống nhất nhận thức và hành động của từng cấp, từng ngành và mỗi cán bộ,
công chức, viên chức của hệ thống chính trị. Đồng thời, tạo sự đồng thuận của
nhân dân đối với chủ trương quan trọng này.
Sở Văn hóa và Thể thao đã tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc
Nghị quyết của Trung Ương và Chính Phủ nhằm tạo sự chuyển biến về nhận
thức, hành động của Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công lập, tập thể viên chức,
người lao động trong đơn vị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và các
quy định của thành phố Hà Nội, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu nội
dung đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm thay đổi
và nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận của cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của đơn vị, đẩy mạnh nâng cao mức tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công
lập.
41
2.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao Thành
phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020
2.2.3.1 Xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình nâng mức tự chủ đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập
Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ tài chính
đơn vị sự nghiệp công lập
Cuối năm 2015, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có 20 đơn vị
sự nghiệp công lập đã thực hiện giao tự chủ tài chính, cụ thể như sau:
- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị
- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 01 đơn vị.(0,05% đơn vị)
- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 18 đơn vị.( 90% đơn vị)
- Đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 01 đơn vị.
(0,05% đơn vị)
Riêng Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng là đơn vị sự nghiệp đặc thù tự
đảm bảo chi thường xuyên và từ năm 2017 được sáp nhập với các ban khác của
thành phố Hà Nội.
Đến năm 2017 - 2018, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có
16/16 đơn vị sự nghiệp công lập đã thực hiện giao tự chủ tài chính, cụ thể như sau:
- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị
- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 02 đơn vị. (12,5% đơn vị)
- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 14 đơn vị. (87,5% đơn vị)
- Đơn vị do Ngân sách Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 0 đơn vị.
Từ năm 2015 đến nay, Sở Văn hóa và Thể thao đã giảm được 04 đầu mối
từ đơn vị sự nghiệp công lập và 03 đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo một
phần chi thường xuyên chuyển sang đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi
thường xuyên. Cụ thể như sau:
42
- Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường và chi đầu tư: 0 đơn vị
- Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên: 04 đơn vị. (25% đơn vị). Bao
gồm: Nhà hát múa rối Thăng Long, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu –
Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Ban quản lý di tích danh
thắng.
- Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: 12 đơn vị. (75% đơn
vị). Bao gồm: Nhà hát Kịch Hà Nội, Nhà hát Chèo Hà Nội, Nhà hát Cải lương
Hà Nội, Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ Hà Nội, Nhà hát ca múa nhạc Thăng
Long, Trung tâm Văn hóa Thành phố Hà Nội, Trung tâm Thông tin triển lãm
Hà Nội, Thư viện Hà Nội, Trường Phổ thông Năng khiếu, Trung tâm Huấn
luyện và Thi đấu TDTT Hà Nội, Báo Màn ảnh sân khấu và Bảo tàng Hà Nội
- Đơn vị do Ngân sách Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên: 0 đơn vị.
Ttừ năm 2015 đến năm 2020, số lượng các đơn vị tự chủ tài chính đạt tỷ
lệ cao so với kế hoạch đề ra, năm 2015 là 95% đến năm 2016-2020 đạt
100%/chỉ tiêu đã UBND thành phố và Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội đã đề ra là 10%, vượt chỉ tiêu đã đề ra là 85-90%.
Xây dựng kế hoạch và thực hiện lộ trình nâng mức tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Thực hiện Kế hoạch số 44/KH-UBND ngày 19/02/2019 của UBND
thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện nâng mức tự chủ tài chính của đơn vị
sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2021. Sở Văn hóa
và Thể thao Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 227/KH-SVHTT ngày 29/6/2018
và Kế hoạch số 68/KH-SVHTT ngày 05/3/2019 để triển khai mức tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể thao giai đoạn 2018-2021.
Theo đó các đơn vị sau sẽ thực hiện lộ trình tự bảo đảm chi thường xuyên như
sau: năm 2019 có 01 đơn vị là Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, năm 2020 có
02 đơn vị là Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long và Ban quản lý di tích danh
43
thắng, năm 2021 có 03 đơn vị là Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ, Trung tâm
thông tin triển lãm và Báo Màn ảnh sân khấu.
Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội đã tổ chức triển khai việc nâng mức tự
chủ chi thường xuyên. Chi tiết lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020
được thể hiện tại Bảng 2.1
Bảng 2.1 Lộ trình nâng mức tự chủ giai đoạn 2015-2020
Lộ trình tự chủ theo
Thực hiện lộ
Kế hoạch của Sở
TT
Đơn vị
trình tự chủ giai
Văn hóa và Thể
đoạn 2015-2020
thao
1 Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long
Năm 2020
Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ
2
Năm 2021
Hà Nội
3
Ban quản lý di tích danh thắng
Năm 2020
Năm 2020
4
Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò
Năm 2019
Năm 2019
5
Trung tâm thông tin triển lãm
Năm 2021
6
Báo Màn ảnh sân khấu
Năm 2021
Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn
7
Năm 2018
Miếu – Quốc Tử Giám
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy, trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2020)
cho thấy số lượng các đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên trong giai đoạn
2015-2020 tăng 3 đơn vị, đạt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Trong đó có 02 đơn vị
thực hiện đúng lộ trình tự chủ là Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò và Ban quản
lý di tích danh thắng. Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám
không có trong kế hoạch đề ra, nhưng năm 2018, đơn vị có nguồn thu phí tham
quan lớn, do hàng năm thu hút được đông đảo lượng khách tham quan trong
44
nước và quốc tế. Do vậy, đơn vị có khả năng trang trải 100% chi thường xuyên
từ năm 2018.
Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long chưa thực hiện theo lộ trình tự chủ, do
đơn vị có nguồn thu còn ít, chưa đủ bù đắp chi thường xuyên vào năm 2020.
Hơn nữa, cơ sở vật chất của Nhà hát còn chưa đảm bảo: Nhà hát tại địa chỉ 31-
33 Lương Văn Can chưa cải tạo, sửa chữa xong nên Nhà hát chưa có địa điểm
để biểu diễn để tăng thu trong khi phải đi thuê địa điểm để tập luyện, trang thiết
bị phục vụ biểu diễn còn thiếu và chưa đồng bộ. Đặc biệt, trong năm 2020, do
ảnh hưởng của dịch covid 19 nên toàn bộ hoạt động văn hóa nghệ thuật bị ảnh
hưởng nặng nề. Do đó nguồn thu bị giảm mạnh và dự báo sẽ tiếp tục ảnh hưởng
trong năm 2021.
2.2.3.2. Xác định nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Cơ cấu nguồn thu của các đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội bao gồm: nguồn thu từ ngân sách nhà nước, nguồn thu phí,
lệ phí, nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp và các nguồn thu khác. Cụ thể
như sau:
Một là, nguồn thu từ ngân sách nhà nước:
- Kinh phí nhiệm vụ thường xuyên: là nguồn kinh phí tự chủ cấp cho các
đơn vị sự nghiệp công lập để chi trả các khoản lương, các khoản phụ cấp, chi
quản lý hành chính và chi khác nhằm đảm bảo duy trì hoạt động thường xuyên
của đơn vị.
- Kinh phí nhiệm vụ không thường xuyên, bao gồm: Kinh phí nghiệp vụ
được ngân sách nhà nước cấp để thực hiện các nhiệm vụ văn hóa, thể thao và
hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị theo chỉ đạo của UBND thành phố Hà
Nội; Kinh phí mua sắm, sửa chữa tài sản cố định; Kinh phí chống xuống cấp;
Kinh phí khác như đào tao, tinh giản biên chế, …
Hai là, nguồn thu:
45
- Nguồn thu phí, lệ phí: là nguồn thu từ các hoạt động bán vé tham quan
(di tích nhà tù Hỏa Lò, di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, di tích đền Ngọc
Sơn), phí thẩm định (chương trình nghệ thuật, văn hóa phẩm, phim, bang đĩa
hình có chương trình, nội dung chương trình trên băng đĩa, phần mềm, cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoạt động cơ sở thể thao, câu lạc bộ thể
thao chuyên nghiệp), phí thư viện.
- Nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp: Bao gồm các khoản thu chủ
yếu sau: Thu biểu diễn nghệ thuật, thu tổ chức sự kiện, thu hoạt động thể thao,
thu hoạt động tuyên truyền, triển lãm và hội chợ đêm, thu bán vé xem phim,
thu công đức, thu hoạt động các câu lạc bộ văn hóa thể thao, thu từ hoạt động
cho thuê cơ sở vật chất và liên doanh liên kết, …
- Nguồn thu khác: thu công đức, thu tài trợ, thu thanh lý tài sản, bán hồ
sơ thầu, lãi tiền gửi
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 được thể hiện tại
Bảng 2.2.
Bảng 2.2 Tổng hợp thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020
Đơn vị tính: triệu đồng
Tháng
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
1->6/
TT
Năm
2015
2016
2017
2018
2019
2020
1 Ngân sách nhà nước
649.529 628.294 670.496 841.684 941.855 883.098
Kinh phí hoạt động
112.701 118.073 155.524 171.627 155.404 136.275
thường xuyên
Kinh phí hoạt động
536.828 510.221 514.972 670.057 786.451 737.823
không thường xuyên
KP nghiệp vụ
463.823 433.412 434.580 587.768 702.854 653.815
46
Tháng
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
TT
Năm
1->6/
2015
2016
2017
2018
2019
2020
KP mua sắm TSCĐ
55.205 57.809 65.392 70.289 73.797 75.708
KP sửa chữa, chống
xuống cấp
17.800
19.000
15.000
12.000
9.800
8.300
2 Nguồn thu
142.264 152.380 159.466 175.306 185.698 30.232
2.1 Thu phí được để lại
67.744
71.327
75.349
83.107
88.155
17.357
Phí danh lam thắng cảnh
66.754
70.470
74.433
82.246
86.828
16.794
Phí thẩm định
825
687
744
664
1.136
303
Phí thư viện
165
170
172
197
191
80
Thu hoạt động dịch vụ
2.2
65.164
72.585
74.357
83.810
87.530
10.917
sự nghiệp
Hoạt động biểu diễn
43.129
50.643
52.673
59.049
67.088
5.378
Tuyên truyền, triển lãm
3.512
3.586 3.654
3.799 3.894 1.015
Chiếu phim
7.013 6.072 5.389 4.441 3.309 855
Thể thao
2.500 2.783 2.894 3.044 2.213 1.058
Bán báo
729
635
456
250
534
-
Hoạt động cho thuê, liên
7.589 8.537 8.925 12.858 10.105 2.560
doanh liên kết
Hoạt động khác
692
329
366
369
387
51
Thu khác (Thu công
2.3
9.356
8.468
9.760
8.389
10.013
1.958
đức, tài trợ, thanh lý tài
sản, lãi tiền gửi,…)
Thu công đức
5.123
5.876
6.018
6.119
6.353
935
Tỷ lệ nguồn thu so với
3
22%
24%
24%
21%
20%
3%
ngân sách cấp
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
Qua bảng phân tích số liệu cho thấy như sau:
47
- Nguồn kinh phí ngân sách cấp năm 2016 giảm hơn năm 2015, nhưng
có xu hướng tăng dần từ năm 2016 đến năm 2019 và giảm vào năm 2020.
Nguyên nhân là do năm 2015 là năm có nhiều sự kiện văn hóa phục vụ các
ngày lễ lớn của đất nước và Thành phố. Từ năm 2016 đến năm 2019, thành phố
Hà Nội rất quan tâm đầu tư cho hoạt động văn hóa và thể thao, đặc biệt là hoạt
động phục vụ chính trị có quy mô cấp quốc gia và tập trung đào tạo vận động
viên, trang thiết bị phục vụ cho các kỳ Đại hội thể thao trong nước, khu vực và
thế giới. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của dịch covid 19 nên thành phố Hà Nội
thực hiện cắt giảm nguồn kinh phí để thực hiện.
- Nguồn thu tăng dần qua các năm (từ năm 2015 đến năm 2019), ghi
nhận những nỗ lực không nhỏ của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, thể thao trong
việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Tuy nhiên, năm 2020, do ảnh hưởng của
dịch covid 19 nên lượng khách tham quan di tích giảm sút nghiêm trọng do
không có khách nước ngoài, khách trong nước rất ít, chỉ khoảng 30 khách tham
quan/01 ngày, các hoạt động văn hóa và thể thao bị tạm dừng nên nguồn thu bị
giảm sút nghiêm trọng.
+ Đối với nguồn thu phí, lệ phí: Có 04 đơn vị thực hiện thu phí và lệ phí,
bao gồm: Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn
Miếu – Quốc Tử Giám, Ban quản lý di tích danh thắng thực hiện thu phí thăm
quan di tích và Thư viện Hà Nội thực hiện thu lệ phí thư viện. Các đơn vị đã có
những đổi mới hình thức hoạt động để thu hút khách thăm quan như Ban quản
lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, Ban quản lý di tích danh thắng nên nguồn thu từ phí tham quan tăng lên
đáng kể. Thu phí, lệ phí chiếm 47-49% tổng các khoản thu của Sở Văn hóa và
Thể thao. Trong đó: Thu từ hoạt động bán vé tham quan danh lam thắng cảnh
là khoản thu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 98-99% tổng thu phí, lệ phí; trong khi
48
nguồn thu phí thẩm định chiếm tỷ trọng 1-2%, nguồn thu khác chiếm tỷ trọng
0,2% trên tổng thu phí, lệ phí.
Đối với nguồn thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp: 13 đơn vị còn lại /16
đơn vị thực hiện thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp. Kết quả hoạt động từ năm
2015 đến năm 2019 cho thấy, số thu hoạt động dịch vụ sự nghiệp tăng dần,
nhưng không đồng đều qua các năm và không đồng đều đối với các hoạt động
dịch vụ sự nghiệp. Trong đó số thu chiếm tỷ trọng lớn là thu hoạt động biểu
diễn và thu từ việc khai thác cơ sở vật chất. Đặc biệt là Nhà hát múa rối Thăng
Long có nguồn thu biểu diễn lớn nhất và chiếm tỷ trọng cao, do Nhà hát có vị
trí đắc địa, ngay trung tâm quận Hoàn Kiếm, gần di tích đền Ngọc Sơn và đây
là một hoạt động nghệ thuật rối đặc sắc của dân tộc, thu hút được đông đảo
khách quốc tế tới xem và thưởng thức nghệ thuật.
Trên cơ sở nguồn nhân lực hiện có, cùng với việc khai thác hoạt động
chuyên môn và sử dụng thế mạnh về cơ sở nhà đất tại khu vực trung tâm của
thành phố nên một số đơn vị sự nghiệp công lập đã tăng cường cung cấp các
dịch vụ công cho xã hội và qua đó nguồn thu hoạt động sự nghiệp được đẩy
mạnh trong giai đoạn vừa qua. Từ đó, góp phần chi trả tiền công cho lao động
hợp đồng, cải thiện điều kiện làm việc và tăng thu nhập cho viên chức, người
lao động. Tuy nhiên, nguồn thu hoạt động sự nghiệp còn hạn chế nên chưa đảm
bảo việc tích lũy để tái đầu tư cho cơ sở vật chất của các đơn vị sự nghiệp công
lập.
Bên cạnh đó, một số đơn vị sự nghiệp có nguồn thu hoạt động thấp và
không ổn định hoặc có xu hướng giảm như Trung tâm Văn hóa thành phố Hà
Nội, Báo Màn ảnh sân khấu, Nhà hát Nghệ thuật xiếc và Tạp kỹ. Nguyên nhân
là do hoạt động chiếu phim khó cạnh tranh được với khu vực tư nhân, hoạt động
nghệ thuật xiếc chưa thực sự chuyên nghiệp để thu hút người xem và đơn vị
49
chưa có rạp để tập luyện, biểu diễn; hoạt động báo giấy không còn phù hợp với
nhu cầu hiện nay.
Mặc dù nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập có tăng qua các
năm, nhưng tỷ trọng nguồn thu so với nguồn ngân sách lại có xu hướng giảm
dần qua các năm. Nguyên nhân là do nguồn thu có tăng, nhưng mức tăng thấp
hơn mức ngân sách cấp bổ sung qua các năm. Thực tiễn này đặt ra những thách
thức đối với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo hiệu quả
chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại nguồn thu
tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tỷ lệ đảm bảo chi thường xuyên từ nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp
không đồng đều. Các đơn vị khối bảo tồn, bảo tàng có bán vé thăm quan di tích
như Ban quản lý di tích danh thắng, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung
tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đặc biệt Nhà hát múa rối
Thăng Long đạt tỷ lệ đảm bảo chi thường xuyên từ nguồn thu cao, đến năm
2019 đạt 100%. Các đơn vị sự nghiệp còn lại đạt tỷ lệ đảm bảo chi thường
xuyên từ nguồn thu thấp, đặc biệt Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT chỉ
đạt 8-10%, do nguồn thu đơn vị đạt thấp trong khi đơn vị có quy mô tổ chức
lớn và kinh phí dành chi thường xuyên của đơn vị lớn.
2.2.3.3. Quản lý, sử dụng nguồn tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập
Thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính
Phủ, căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối các nguồn tài chính, việc sử
dụng nguồn tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao được thực hiện cụ thể như sau:
Đối với nhiệm vụ chi thường xuyên
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
50
+ Chi tiền lương: 100% các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên đã chủ
động sử dụng nguồn thu được để lại để chi trả tiền lương theo lương ngạch,
bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với các đơn vị sự
nghiệp công. Thực hiện việc điều chỉnh mức lương cơ sở của Nhà nước tại các
Nghị định của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội: Nghị định số
66/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013, Nghị định số 47/2016/NĐ-CP và Nghị quyết
số: 99/2015/ QH13 và 27/2016/QH14, Nghị định số 72/2018/NĐ-CP ngày
15/5/2018, Nghị quyết số 70/2018/QH14 ngày 09/11/2018, Nghị quyết số
86/2019/QH14 ngày 12/11/2019, mức lương cơ sở từ 1.150.000 đồng/01 tháng
(năm 2015), 1.210.000 đồng/01 tháng (từ 01/5/2016 đến 30/6/2017), 1.300.000
đồng/01 tháng (từ 01/7/2017 đến 30/6/2018), 1.390.000 đồng/01 tháng (từ
01/7/2018 đến 30/6/2019) đến nay là 1.490.000 đồng/01 tháng (từ 01/7/2019
đến 30/6/2020), các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên đã
tự cân đối từ nguồn thu phí được để lại và nguồn thu biểu diễn từ hoạt động
múa rối để thực hiện cải cách tiền lương và chi trả thu nhập tăng thêm cho viên
chức, người lao động của đơn vị.
+ Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Về cơ bản, các đơn vị căn cứ
vào định mức, đơn giá nhà nước quy định để thực hiện. Đối với đơn vị đơn vị
có nguồn thu lớn như Nhà hát múa rối Thăng Long: Căn cứ vào khả năng tài
chính, Nhà hát sẽ quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý cao
hơn hoặc thấp hơn mức chi, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
+ Trích khấu hao tài sản cố định: 100% các đơn vị đã trích khấu hao tài
sản hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vào Quỹ phát triển hoạt động
sự nghiệp.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên
51
+ Chi tiền lương: 100% các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên đã chủ
động sử dụng nguồn thu được để lại để chi trả tiền lương theo lương ngạch,
bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với các đơn vị sự
nghiệp công. Thực hiện việc điều chỉnh mức lương cơ sở của Nhà nước từ
1.150.000 đồng/01 tháng (năm 2015) đến nay là 1.490.000 đồng/01 tháng (từ
01/7/2019 đến 30/6/2020), các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần
chi thường xuyên đã tự cân đối một phần từ nguồn thu được để lại, phần còn
thiếu ngân sách nhà nước cấp bổ sung.
+ Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao
và khả năng nguồn tài chính, các đơn vị thực hiện chi hoạt động chuyên môn,
chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định đối với từng nguồn kinh phí và phải thực hiện đúng các quy
định của Nhà nước về mức chi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; tiêu
chuẩn, định mức về nhà làm việc; tiêu chuẩn, định mức trang bị điện thoại công
vụ tại nhà riêng và điện thoại di động; chế độ công tác phí nước ngoài; chế độ
tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam.
Đối với nhiệm vụ chi không thường xuyên
Các đơn vị chi theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật
hiện hành với từng nguồn kinh phí, bao gồm: nguồn thu phí, lệ phí được để lại
chi (chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí),
kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án, đề án, kinh phí
mua trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm
quyền phê duyệt, kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm
quyền giao, nguồn tài trợ theo quy định của pháp luật.
Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội thể hiện tại Bảng 2.3
52
Bảng 2.3. Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020
Tháng
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
TT
Năm
1->6/
2015
2016
2017
2018
2019
2020
Chi ngân sách nhà
1
584.559 554.135 626.636 793.568 941.855 469.781
nước cấp
Chi hoạt động thường
108.535 114.048 150.510 166.096 150.763 56.314
xuyên
Chi hoạt động không
476.024 440.087 474.126 627.472 706.382 413.467
thường xuyên
2 Chi từ nguồn thu
98.725
95.681 90.456 90.133 88.214 24.589
Nguồn phí, lệ phí
37.744
38.628 33.315
39.660
42.103
12.357
Nguồn thu dịch vụ sự
55.614
52.585 52.196
45.789
40.757
10.917
nghiệp
Nguồn thu khác
5.367
4.468
4.945
4.684
5.354
1.315
Chi lương từ nguồn
3
ngân sách và nguồn
67.116
81.371 94.768
93.795
90.584
43.125
thu
Sử dụng kết quả
34.954
47.475 51.340
66.893
70.774
5.168
4
hoạt động tài chính
Chi thu nhập tăng
13.721
20.996
22.890
32.671
34.845
0
thêm
Trích lập các quỹ
21.233
26.479 28.450
34.222
35.929
5.168
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
Qua Bảng 2.3 Tổng hợp chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến tháng 6/2020 cho
thấy:
53
- Hoạt động chi ngân sách nhà nước tăng dần qua các năm từ năm 2016
đến năm 2019. Nguyên nhân là do: Trong giai đoạn này, Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội được giao nhiều hoạt động phục vụ chính trị có quy mô
cấp quốc gia và có hiều sự kiện thể thao diễn ra trong giai đoạn này. Do vậy,
nguồn kinh phí được tập trung cho việc đào tạo, huấn luyện vận động viên và
đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ tập luyện và thi đấu cho các kỳ Đại hội
thể thao trong nước, khu vực và thế giới.
- Hoạt động chi từ nguồn thu giảm dần từ năm 2015 đến năm 2019.
Nguyên nhân là do: một là việc trích từ nguồn phí và lệ phí theo 53/2016/QĐ-
UBND ngày 26/12/2016 của UBND thành phố Hà Nội, trong đó: tỷ lệ được để
lại để thực hiện hoạt động không thường xuyên cao hơn trước đây, các hoạt
động chi từ nguồn không thường xuyên phải xin ý kiến của UBND thành phố
Hà Nội do vậy đơn vị không chủ động để thực hiện chi mua sắm lớn, tôn tạo,
duy tu, sửa chữa lớn, chống xuống cấp,… ; hai là nguồn thu công đức chưa có
văn bản hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên đơn vị còn e dè
khi chi từ nguồn công đức; ba là các đơn vị đã thực hiện việc chi tiêu có hiệu
quả nhằm đảm bảo có nguồn tích lũy. Đặc biệt trong năm 2019 mặc dù các đơn
vị sự nghiệp công lập có nguồn thu tăng, nhưng chi giảm do khoản thu từ việc
cho thuê cơ sở vật chất và thu từ việc liên doanh liên kết chưa có đề án được
phê duyệt nên toàn bộ số thu từ việc cho thuê, liên doanh liên kết không được
chi mà nộp trả toàn bộ số thu vào ngân sách nhà nước.
- Chi lương từ năm 2015 đến năm 2017 tăng và giảm dần từ năm 2017
đến năm 2020, nguyên nhân do: một là thực hiện chính sách cải cách tiền lương
của Nhà nước (tăng mức lương tối thiểu chung), hai là số lượng viên chức và
người lao động giảm do thực hiện việc sáp nhập và sắp xếp lại lao động nhằm
tiết kiệm nguồn kinh phí, ba là do ảnh hưởng của dịch covid 19 một số viên
chức, người lao động xin nghỉ việc.
54
- Sử dụng kết quả hoạt động tài chính
+ Tăng thu nhập tăng thêm cho viên chức, người lao động
Thu nhập tăng thêm cho viên chức, người lao động tăng dần qua các
năm. Qua đó bước đầu cải thiện được đời sống của viên chức, người lao động.
Nguyên nhân là do: một là nguồn thu tăng trong khi số lượng viên chức, người
lao động giảm do vậy nguồn thu nhập tăng thêm tăng dần qua các năm, đặc biệt
trong năm 2018 và 2019 thu nhập tăng thêm tăng rất lớn; hai là các đơn vị đã
có phương án chi hiệu quả nên tiết kiệm được nguồn kinh phí đáng kể.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập cùng với nguồn kinh phí
tiết kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên ngân sách nhà nước giao đã góp
phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền lương tăng thêm, theo quy định
của Chính phủ. Nhờ tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi và thực hiện
cơ chế tự chủ, thu nhập và đời sống của người lao động trong các đơn vị sự
nghiệp công lập đã từng bước được nâng lên. Trong đó, thu nhập tăng thêm của
cán bộ, viên chức bình quân khoảng từ 0,5 đến 1,5 lần tiền lương cấp bậc của
các đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên. Một số đơn vị sự nghiệp
công lập trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
đã thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động khoảng 2 – 2,5 lần
lương. Riêng Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ có nguồn thu thấp, chỉ đảm bảo
chi trả chi phí trực tiếp và quản lý nên có thặng dư để chi trả thu nhập tăng
thêm.
+ Trích lập các quỹ
Trên cơ sở cân đối khả năng thu chi, các đơn vị đã thực hiện trích lập các
quỹ: quỹ khen thưởng, phúc lợi, phát triển hoạt động sự nghiệp. Việc trích lập
các quỹ thực hiện theo quy định và năm sau tăng hơn năm trước. Các đơn vị có
nguồn kinh phí hoạt động sự nghiệp cao, chủ động hơn khi thực hiện đầu tư,
mua sắm trang thiết bị và phát triển hoạt động chuyên môn. Hoạt động phúc lợi
55
theo đó cũng tốt hơn trước, viên chức và người lao động được quan tâm hơn,
nội dung chi và mức chi phúc lợi cao hơn. Việc khen thưởng, động viên viên
chức và người lao động kịp thời hơn.
2.2.3.4. Tự chủ trong giao dịch tài chính
Từ khi Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính Phủ
được ban hành, các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động hơn trong việc giao
dịch tài chính. Cụ thể như sau:
- Đối với các khoản thu phí, lệ phí, 100% các đơn vị vẫn thực hiện mở
tài khoản giao dịch tại kho bạc Nhà nước. Đối với các khoản thu khác, đặc biệt
là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, 100% các đơn vị sự nghiệp công lập
đã chủ động mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại. Việc này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp trong giao dịch với bên ngoài.
- Tất cả các đơn vị đã thực hiện bổ sung lãi tiền gửi vào Quỹ Phát triển
hoạt động sự nghiệp và không được bổ sung vào Quỹ Bổ sung thu nhập.
- Nghị định cũng quy định rõ các đơn vị sự nghiệp công lập được huy
động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất theo quy định của pháp
luật và phải có phương án tài chính khả thi để hoàn trả vốn vay, chịu trách
nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay vốn. Tuy nhiên, thực tiễn các
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội chưa triển khai
được nội dung này do việc xây dựng đề án khai thác cơ sở vật chất của đơn vị
sự nghiệp công còn nhiều lúng túng và chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2.2.3.5. Thực hiện quản lý tài sản nhà nước và quy chế chi tiêu nội bộ
Công tác quản lý tài sản nhà nước
Công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đã dần
đi vào nề nếp. Phần lớn các đơn vị sự nghiệp công lập đã ban hành Quy chế
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, trong đó phân định cụ thể quyền hạn, trách
nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong từng khâu, từng việc từ đầu tư xây dựng,
56
mua sắm, bảo quản, bảo vệ, sửa chữa, bảo dưỡng đến xử lý tài sản. Việc quản
lý và sử dụng tài sản nhà nước chưa đúng chức năng nhiệm vụ đã từng bước
được khắc phục.
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có 16 đơn vị sự nghiệp công
lập với 27 cơ sở nhà đất.
Đối với các đơn vị khối bảo tồn, bảo tàng như Bảo tàng Hà Nội, Ban
quản lý Di tích Danh thắng, Ban quản lý Di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm
VHKH Văn Miếu -Quốc Tử Giám chấp hành việc bảo tồn và tôn tạo di tích
theo quy định của Luật Di sản Văn hóa.
Đối với các cơ sở nhà đất thể thao thuộc Trường Phổ thông Năng khiếu
TDTT và Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT được đầu tư xây mới từ năm
2003 đến năm 2010. Qua nhiều năm sử dụng, nhiều công trình xuống cấp và
xuống cấp nghiêm trọng. Được sự quan tâm của UBND thành phố, năm 2018
được đầu tư cải tạo, sửa chữa 08 công trình để phục vụ Đại hội Thể thao toàn
quốc lần thứ XIII. Hiện nay, UBND thành phố Hà Nội tiếp tục quan tâm tạo
điều kiện để cải tạo, sửa chữa, nâng cấp 08 công trình tập luyện, thi đấu phục
vụ Sea Games năm 2021 và 10 công trình phụ trợ phục vụ việc ăn ở, tập luyện
thường xuyên của vận động viên.
Đối với các đơn vị nghệ thuật: 06 nhà hát trực thuộc sở Văn hóa và Thể
thao Hà Nội được Thành phố giao quản lý và sử dụng 09 cơ sở vật chất trong
đó có 08 rạp biểu diễn và 01 cơ sở nhà đất chỉ dùng làm trụ sở làm việc và nơi
luyện tập (Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ đang quản lý). Tuy nhiên trong
tổng số 08 rạp biểu diễn chỉ có 04 rạp đang hoạt động (Rạp Đại Nam, Rạp
Nguyễn Đình Chiểu, Rạp Công Nhân, Rạp Kim Đồng). 02/08 đang trong giai
đoạn thực hiện dự án cải tạo sửa chữa (Rạp Chuông Vàng, Rạp 31-33 Lương
Văn Can). 02/08 rạp xuống cấp trầm trọng không sử dụng (Rạp Tạ Hiện, Rạp
Đông Đô). Số lượng rạp đang hoạt động đạt 50% tổng số lượng rạp hát hiện có,
57
hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất thấp hạn chế nguồn thu sự nghiệp của các nhà
hát. Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ chưa có rạp biểu diễn.
Đối với các đơn vị văn hóa khác như Thư viện Hà Nội, Trung tâm Văn
hóa thành phố Hà Nội, Báo Màn ảnh sân khấu: Căn cứ vào nhu cầu và khả năng
cân đối ngân sách hàng năm, UBND thành phố Hà Nội có bố trí kinh phí để cải
tạo, sửa chữa nhỏ để phục vụ công tác chuyên môn và hoạt động chung của các
đơn vị.
Trang bị xe ô tô phục vụ chung và xe chuyên dùng
Thực hiện trang bị xe ô tô cho các đơn vị theo Nghị định số 04/2019/NĐ-
CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ về quy định theo tiêu chuẩn, định mức sử
dụng xe ô tô và Quyết định số 7071/QĐ-UBND ngày 23/12/2016 của UBND
thành phố Hà Nội về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị xe ô tô chuyên
dùng cho các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của thành phố Hà Nội. Sở
Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã rà soát toàn bộ xe ô tô phục vụ chung
và ô tô chuyên dụng của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc.
Qua rà soát cho thấy 09/16 đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa
và Thể thao thành phố Hà Nội đã được trang bị 25 xe, trong đó có 03 xe ô tô
phục vụ công tác chung và 22 xe ô tô chuyên dùng. Các đơn vị có nhu cầu sử
dụng phục vụ chuyên chở đạo cụ, diễn viên nhưng chưa được trang bị xe ô tô
chuyên dụng: Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long, Nhà hát múa rối Thăng Long.
10 đơn vị có hệ số phụ cấp từ 0,7 trở lên nhưng chỉ có 03 đơn vị được trang bị xe
ô tô phục vụ chung, bao gồm: Nhà hát Kịch Hà Nội, Trung tâm Văn hóa thành
phố Hà Nội, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT. Các xe ô tô chủ yếu được
đầu tư từ năm 2004 trở về trước, đến nay phần lớn đã hỏng hóc không sử dụng
được. Các Nhà hát chủ yếu phải thuê xe để chở đạo cụ và diễn viên khi đi diễn
biểu diễn phục vụ chính trị và biểu diễn doanh thu tại các tỉnh hoặc các quận,
58
huyện. Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao phải thuê xe để huấn
luyện viên, vận động viên đi tập huấn và thi đấu trong nước.
Trang thiết bị tài sản chuyên dùng:
Hàng năm, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu TDTT Hà Nội được quan
tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ tập luyện và thi đấu với kinh phí khoảng 30
tỷ/ 01 năm, đáp ứng nhu cầu cơ bản về tập luyện và thi đấu cho các vận động
viên, góp phần giúp các vận động viên đạt được thành tích cao trong các hoạt
động thể thao. Hàng năm, thể thao thành phố góp 30% lực lượng vận động viên
vào đội tuyển quốc gia và đứng top đầu về thành tích thể thao so với các tỉnh
thành trong cả nước.
Từ những năm gần đây, 05/6 nhà hát được thành phố đầu tư 02 hệ thống
âm thanh, ánh sáng gồm biểu diễn trong rạp và biểu diễn lưu động, hệ thống màn
hình Led trong nhà (trừ Nhà hát Cải lương và Nhà hát nghệ thuật xiếc và tạp kỹ),
tạo điều kiện cho các nhà hát hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Xây dựng và thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, khả năng tài chính của
đơn vị và mức độ tự chủ tài chính, các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động
xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, lấy ý kiến của các bộ phận chuyên môn hoặc
thảo luận rộng rãi trong toàn đơn vị, có ý kiến thống nhất của tổ chức công
đoàn. Đơn vị hoàn thiện Quy chế chi tiêu nội bộ và xin ý kiến của Sở Văn hóa
và Thể thao thành phố Hà Nội để ban hành và tổ chức thực hiện.
Căn cứ vào định mức chi thường xuyên được giao, các đơn vị cân đối để
đảm bảo các khoản tiền lương và các khoản trích theo lương. Số kinh phí còn
lại, các đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng kế hoạch để chi. Căn cứ vào
khả năng thu, các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên xây dựng nội
dung chi, mức chi theo khả năng cấn đối thu chi.
59
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên sẽ xây dựng nội dung chi, mức chi theo quy định pháp luật hiện hành.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
thực hiện đúng quy định của nhà nước về một số tiêu chuẩn, định mức và mức
chi, cụ thể: Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô, nhà làm việc, điện thoại công
vụ tại nhà riêng, công tác phí nước ngoài, tiếp khách trong nước và hội thảo
quốc tế ở Việt Nam, tinh giản biên chế, mua sắm, sửa chữa tài sản cố định.
Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
như Nhà hát múa rối Thăng Long, Ban quản lý di tích danh thắng, Ban quản lý
di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử
Giám có điều chỉnh bổ sung nội dung chi và điều chỉnh mức chi cao hơn quy
định hiện hành và phù hợp với thực tế hơn.
Đến nay, 100% đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội đã ban hành quy chế chi tiêu nội bộ. Hàng năm, nếu có sự thay đổi quy
định của pháp luật, khả năng tài chính, các đơn vị thực hiện điều chỉnh quy chế
chi tiêu nội bộ. Căn cứ vào Quy chế chi tiêu nội bộ được thông qua, các đơn vị
sự nghiệp công lập chủ động chi cho các hoạt động của đơn vị mình. Thông
qua quy chế chi tiêu nội bộ chi tiêu trong các đơn vị sự nghiệp công lập cũng
đã được tự chủ hơn về tài chính trong việc thu chi hoạt động thường xuyên, tạo
sự chủ động cho Thủ trưởng đơn vị trong điều hành hoạt động và các cán bộ,
viên chức, người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao; khuyến khích tăng
thu, tiết kiệm chi, thu hút và giữ được người có năng lực. Đồng thời là căn cứ
để cơ quản lý tài chính (Sở Tài chính Hà Nội), cơ quan cấp trên (Sở Văn hóa
và Thể thao thành phố Hà Nội) và Kho bạc Nhà nước kiểm tra, kiểm soát tài
chính theo quy định. Tuy nhiên, một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội vẫn còn chậm trễ và gặp khó khăn
trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, một số trường hợp xây dựng quy
60
chế chi tiêu nội bộ rất chi tiết nhưng một số nội dung chi và mức chi không còn
phù hợp. Ngoài ra, quy chế chi tiêu nội bộ của một số đơn vị còn sơ sài, chưa
quy định cụ thể nội dung chi, mức chi từ nguồn thu, do vậy làm hạn chế tính
chủ động sáng tạo của các viên chức, người lao động trong việc tăng thu của
đơn vị.
2.2.3.6. Lập, phân bổ và giao dự toán
Căn cứ Kế hoạch ngân sách được UBND thành phố Hà Nội giao và hồ
sơ dự toán do đơn vị sự nghiệp đề xuất, sau khi xem xét Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc. Hiện nay cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước
cho cung cấp dịch vụ công về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào, theo
chức năng, nhiệm vụ, theo mức độ phân loại tự chủ của đơn vị sự nghiệp công
lập ổn định trong 3 năm; chưa gắn việc giao dự toán với số lượng, chất lượng
sản phẩm, dịch vụ công. Trong dự toán giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập
chưa phân định rõ dự toán giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp dịch
vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Nguyên nhân là do:
Chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất lượng
dịch vụ sự nghiệp công lập để kiểm định chất lượng cung ứng dịch vụ làm cơ
sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập; Chưa ban hành được
giá dịch vụ sự nghiệp theo quy định tại khoản 1 điều 10 Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 do vậy chưa có cơ sở để thực hiện đặt hàng
đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và đặt hàng,
giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công tự
bảo đảm một phần chi thường xuyên.
2.2.3.7. Cơ chế đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công,
xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và tính giá, phí dịch vụ sự nghiệp công lập
61
Theo quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính Phủ: Căn cứ
danh mục dịch vụ sự nghiệp công được quy định, các Bộ, cơ quan Trung ương,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp cho cơ quan cấp dưới lựa
chọn đơn vị sự nghiệp công để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo hình thức
giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu theo quy định. Hiện nay, Nghị định số
32/2019/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khung danh mục dịch sự nghiệp công
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực và giao Thủ tướng
Chính phủ quyết định chi tiết các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân
sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định chi tiết danh mục thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Một số danh mục
sự nghiệp công đã được ban hành theo Quyết định 1992/QĐ-TTg ngày
11/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao
của thành phố Hà Nội và Quyết định 1270/QĐ-UBND ngày 19/3/2019 của
UBND thành phố Hà Nội ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng
ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao của thành phố Hà Nội.
Nhưng số lượng danh mục sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân
sách nhà nước áp dụng các phương thức giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu
còn hạn chế và chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố đã ban hành nhiều
định mức, nội dung chi đối với hoạt động văn hóa, thể thao. Tuy nhiên, còn nhiều
định mức – kỹ thuật chưa được ban hành. Do chưa có hướng dẫn của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch nên Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị
sự nghiệp công lập của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội chưa xây dựng
được định mức kinh tế - kỹ thuật còn thiếu. Các định mức kinh tế - kỹ thuật còn
thiếu, gây khó khăn trong việc xác định đơn giá cũng như triển khai trong phân bổ
62
ngân sách nhà nước theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số
lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ công.
Tính giá dịch vụ sự nghiệp công, lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước: Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định
lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước:
(a) Đến năm 2016: Tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp (chưa tính chi
phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định); (b) Đến năm 2018: Tính đủ
chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp và chi phí quản lý (chưa tính chi phí khấu
hao tài sản cố định); (c) Đến năm 2020: Tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực
tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Theo lộ trình trên, đến
năm 2020 giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước
phải được tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi
phí khấu hao tài sản cố định. Tuy vậy, trên thực tế đến nay nhiều Bộ, cơ quan
trung ương, địa phương vẫn chưa thực hiện điều chỉnh hoặc đề xuất cấp có
thẩm quyền điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công theo lộ trình quy định tại
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, trong đó có lĩnh vực văn hóa và thể thao. Sở
Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã triển khai hướng dẫn các đơn vị sự
nghiệp công lập tính giá dịch vụ sự nghiệp công. Đến nay, chưa hoàn thành
công tác tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách theo lộ
trình từng năm đã đề ra.
Nguyên nhân do: Giá dịch vụ sự nghiệp công phải tính đủ chi phí tiền
lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Các
hoạt động văn hóa và thể thao khó xác định chi phí trực tiếp do mỗi hoạt động
có tính đặc thù riêng, nhiều hoạt động nghệ thuật chỉ mang tính định tính khó
định lượng, nhiều khi theo chủ quan của đạo diễn chương trình nên khó xác
định đơn giá, định mức. Quy mô hoạt động thường xuyên thay đổi và nhiều nội
dung chưa có đơn giá, định mức nhà nước quy định. Điều này đã dẫn đến việc
63
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn chưa đầy đủ, thiếu minh bạch và ngân
sách nhà nước vẫn phải tiếp tục bao cấp các đơn vị sự nghiệp công lập.
2.2.4. Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về cơ
chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về cơ chế
tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự ghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
Thành phố Hà Nội được thực hiện như sau:
Định kỳ hàng năm, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện hoạt
động giám sát đối với UBND thành phố Hà Nội về lĩnh vực văn hóa, thể thao,
trong đó có nội dung thực hiện pháp luât nói chung và pháp luật trong việc thực
hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội. Việc giám sát nhằm nắm tình hình thực tế về thực hiện
cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành
phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đoàn giám sát đã kiến nghị với Trung Ương và
UBND thành phố Hà Nội nhằm giải quyết các vấn đề bất cập, thực hiện có hiệu
quả cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hiện nay, hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện các quy định pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội được thực hiện thường xuyên và đột xuất cụ thể như sau:
Hàng năm, Sở Tài chính thành phố Hà Nội và Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội thực hiện quyết toán tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công
lập Sở Văn hóa và Thể thao. Thông qua các đợt kiểm tra quyết toán tài chính,
các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc hiểu rõ hơn về quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm được quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính Phủ và cơ chế tự chủ được quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 của Chính Phủ.
64
Kho bạc nhà nước là đơn vị thường xuyên thực hiện việc kiểm soát các
hoạt động thu, chi tài chính có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước của các đơn
vị sự nghiệp công lập thông qua định mức, đơn giá theo quy định của Nhà nước
và Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Ngoài các hoạt động kiểm tra thường xuyên được thực hiện như trên,
công tác kiểm tra, thanh tra đối với quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập còn có các đoàn kiểm tra khác như: Kiểm toán nhà nước năm 2018 về
công tác tài chính của đơn vị trong đó có kiểm tra về tình hình thực hiện quy
định pháp luật về cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
2.3. Đánh giá chung về tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại
các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
2.3.1 Kết quả đạt được
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội đã tập trung cao chỉ
đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập và đạt được nhiều kết quả như sau:
Một là, việc ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn, triển khai thực hiện
các quy định của pháp luật đối với cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp
công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính
đơn vị sự nghiệp công, chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở đã nghiên
cứu và ban hành nhiều văn bản để đưa chính sách của Đảng vào cuộc sống. Cụ
thể: Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP để triển khai thực hiện cơ
chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành quy hoạt mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa,
thể thao. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành nhiều văn bản: danh
mục dịch vụ sự nghiệp công, một số đơn giá định mức kinh tế kỹ thuật, nội
65
dung chi một số hoạt động văn hóa, thể thao. UBND thành phố Hà Nội đã quan
tâm và kịp thời ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện cơ chế tự chủ
và danh mục sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước. Trên cơ sở văn bản
chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội đã xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện và hướng dẫn các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Tất cả các văn
bản trên là cơ sở để các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể
thao tổ chức triển khai thực hiện nội dung về cơ chế tự chủ nói chung và tự chủ
tài chính nói riêng.
Hai là, nội dung thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự
nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
Thực hiện tự chủ các đơn vị đã có chuyển biến tích cực, từng bước tạo
điều kiện cải cách thể chế, cải cách bộ máy tổ chức, đổi mới và nâng cao chất
lượng cán bộ. Về tổ chức bộ máy và biên chế, đơn vị tiến hành rà soát lại chức
năng nhiệm vụ của các phòng, ban, đơn vị trong toàn đơn vị. Về cơ chế quản
lý tài chính, các đơn vị đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, đã thực hiện nhiều
biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi để bù đắp khoản kinh phí giảm cấp hàng năm
từ ngân sách nhà nước cho chi thường xuyên của đơn vị.
Đẩy mạnh công tác đổi mới hoạt động thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ
đã có kết quả nổi bật về tổ chức bộ máy và nhân lực: Hệ thống các đơn vị sự
nghiệp công cũng đã từng bước được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn hơn, giảm
đầu mối 4 đơn vị từ 20 đơn vị sự nghiệp xuống còn 16 đơn vị sự nghiệp.
Về cơ chế tài chính, một số đơn vị đã nâng mức tự chủ lên đảm bảo toàn
bộ chi thường xuyên, đơn vị chủ động trong xây dựng kế hoạch, chiến lược
phát triển dài hạn của đơn vị, cụ thể hóa thành các chương trình, Kế hoạch đổi
mới hoạt động tại đơn vị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ
66
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài
chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực,
như các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả; đồng thời chủ động sử
dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao số lượng, chất lượng
hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từ đó phát triển nguồn thu.
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác
giám sát, thanh tra, kiểm tra thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội, một số các cơ quan
quản lý nhà nước đã quan tâm, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
pháp luật cơ chế tự chủ tài chính.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, việc tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội còn một số hạn chế như sau:
Một là, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị
trên là nghị định khung quy định các vấn đề chung về cơ chế tự chủ của các
đơn vị sự nghiệp công lập. Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 695/QĐ-
TTg ngày 21/5/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở đó, các Bộ quản lý ngành quy định về cơ
chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực và xây dựng, ban
hành văn bản hoàn thiện cơ chế tài chính theo Nghị quyết 08/NQ-CP của Trung
Ương.
67
Việc xây dựng văn bản hướng dẫn Nghị định 16/2015/NĐ-CP chậm. Đến
nay, trong 08 Nghị định cần phải ban hành để cụ thể hóa các quy định của Nghị
định 16/2015/NĐ-CP đối với từng vực sự nghiệp thì Chính phủ mới ban hành
được 02 Nghị định (Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy định cơ
chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Nghị định số
141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL
trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác), còn 06 Nghị định chưa
được ban hành. Đối với lĩnh vực văn hóa và thể thao, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chưa ban hành Nghị định hướng dẫn Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 của Chính phủ nên ngành văn hóa, thể thao chưa có có cơ sở
để triển khai theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực từ năm 2015.
Từ đó đến nay, nhiều văn bản pháp luật mới về đầu tư, tài chính đã được ban hành
và có hiệu lực, như Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật
Ngân sách nhà nước; Luật Phí và lệ phí; Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày
10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung
cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách,... Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
cần điều chỉnh đảm bảo thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan đến việc thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Đến nay, sau một thời gian triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP vẫn
chưa được thực hiện một cách đồng bộ và quyết liệt. Nhiều văn bản hướng dẫn
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc phạm vi quản lý chưa được xây dựng và ban hành. Do đó, chưa bảo đảm
tính đồng bộ giữa tự chủ về tổ chức bộ máy và biên chế với tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tài chính. Một số chính sách là điều kiện quan trọng để thực hiện
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được
sửa đổi, bổ sung và ban hành đầy đủ kịp thời.
68
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Thiếu đồng bộ, nhiều cơ quan, đơn vị như Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị xã hội chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc tuyên
truyền, phổ biến chính sách của Đảng, nhà nước.
Hình thức tuyên truyền, thông tin chưa phong phú, chủ yếu phổ biến
trong hệ thống cơ quan nhà nước, chưa phát huy vai trò của phương tiện thông
tin báo đài trong công tác tuyên truyền.
Chưa thực hiện việc tuyên tuyền, phổ biến thông qua các gương điển
hình của một đơn vị thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính để từ đó nhân rộng và
phát triển ra quy mô rộng hơn.
Ba là, công tác tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn
hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
Đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện tự chủ tài chính có nguồn thu dịch
vụ sự nghiệp còn thấp, tỷ lệ các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm kinh phí
hoạt động còn thấp. Tỷ lệ các đơn vị tự chủ chi thường xuyên chỉ đạt 25%; 75%
đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và không có đơn vị tự chủ chi
thường xuyên và chi đầu tư.
Việc thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công
lập còn chậm, chưa có bước chuyển biến có tính đột phá; chưa tách bạch rõ
ràng giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ công.
Trong quá trình triển khai cũng gặp phải một số tồn tại, vướng mắc phát sinh
như sau:
Mạng lưới đơn vị sự còn bất cập, phân bố chưa hợp lý. Bên cạnh đó, một
số đơn vị chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cũng
như về tài chính.
Về cơ bản các đơn vị tự chủ được về chuyên môn. Do vậy tự chủ về
chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp công lập đã được nâng lên cao. Tự chủ
69
về tài chính phải theo Luật Kế toán, Luật Ngân sách và các đơn giá, định mức
theo quy định nên các đơn vị sự nghiệp công lập khó có thể tự chủ được.
Trong một số lĩnh vực, số lượng đơn vị tự chủ toàn diện còn ít, mức độ
tự chủ thấp. Một số đơn vị có kết quả hoạt động chưa tương xứng với chức
năng, nhiệm vụ, dẫn đến kém hiệu quả.
Một số lĩnh vực còn thiếu các chuyên gia đầu ngành, chất lượng viên
chức ở một số vị trí chưa đáp ứng được yêu cầu vị trí việc làm. Cách thức quản
lý còn mang nặng hành chính, chưa chuyển sang hình thức dịch vụ phục vụ
công tác quản lý hành chính. Cơ sở vật chất xuống cấp nhiều, việc đầu tư mang
tính nhỏ lẻ, chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn. Trang thiết bị đã
được đầu tư qua các năm nhưng thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu. Các
đơn vị chưa chủ động mở rộng hoạt động dịch vụ để khai thác nguồn thu. Vì
vậy, chưa theo kịp yêu cầu và sự cạnh tranh của thị trường.
Một số lĩnh vực hoạt động có tính chất dịch vụ, các đơn vị chưa thực
hiện đáp ứng yêu cầu, phải thuê ngoài dẫn đến bộ máy đơn vị sự nghiệp công
lập cồng kềnh, tốn kém ngân sách đầu tư nhưng không mang lại hiệu quả phục
vụ nhiệm vụ quản lý của Bộ Tài chính.
Chưa chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, còn tình trạng rập khuôn sự
chỉ đạo từ cấp trên giao xuống, thiếu đổi mới, sáng tạo theo yêu cầu của thị
trường và của nhân dân; thiếu chủ động trong xây dựng kế hoạch hoạt động của
đơn vị mình. Trong công tác quản lý còn tồn tại cơ chế quản lý quan liêu. Việc
phân cấp, giao quyền và trách nhiệm cho các thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công
lập chưa được đẩy mạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có động lực
và chủ động đề xuất cơ chế quản lý hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế
của từng đơn vị sự nghiệp công lập.
70
Các đơn vị sự nghiệp công lập chưa xây dựng được mô hình quản lý đơn
vị sự nghiệp công theo cơ chế có Hội đồng quản lý, Ban Kiểm soát phù hợp để
chuyển giao một số nhiệm vụ cho đơn vị sự nghiệp công lập quyết định.
Các danh mục dịch vụ sự nghiệp công đang cung cấp còn hạn chế, chất
lượng còn kém; Chưa chủ động xây dựng và cung cấp danh mục sự nghiệp
công chất lượng cao theo chức năng nhiệm vụ của đơn vị và theo yêu cầu của
thị trường; chưa xác định rõ những dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước và
những dịch vụ không sử dụng ngân sách nhà nước.
Giá các dịch vụ sự nghiệp công do đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng
thấp hơn nhiều so với giá của các cơ sở ngoài công lập cùng ngành, lĩnh vực
(do các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn được ngân sách nhà nước hỗ trợ) dẫn
đến sự quá tải đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, chưa đáp ứng được yêu
cầu chất lượng dịch vụ cho các đối tượng thụ hưởng.
Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được tự quyết định số lượng viên chức
làm việc, cơ quan chủ quản cấp trên vẫn giao chỉ tiêu biên chế sự nghiệp cho
đơn vị. Điều này đã hạn chế tính tự chủ của đơn vị, trong khi nguồn thu của
đơn vị không tăng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và việc tăng thêm
thu nhập của viên chức...
Một số đơn vị sự nghiệp công lập khi mở rộng hoạt động dịch vụ còn
chạy theo số lượng, mà không quan tâm đến chất lượng hoạt động, lạm dụng
kỹ thuật để tăng thu.
Việc khai thác các nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển hoạt động cung
cấp dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế. Sau hơn 7 năm triển khai thực hiện
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, công tác quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước tuy đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng cũng bộc lộ một số bất
cập, hạn chế như: Cơ chế quản lý, quy trình đầu tư và mua sắm tài sản nhà nước
còn phân tán; Việc quản lý, sử dụng một số loại tài sản nhà nước chưa được
71
quan tâm đúng mức, chậm đổi mới, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý tài chính,
chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới... Thực trạng trên đặt ra yêu
cầu cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác quản lý, sử dụng tài sản
công tại đơn vị sự nghiệp công lập trong thời gian tới.
Cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho cung
cấp dịch vụ công về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào, theo chức năng,
nhiệm vụ, theo mức độ phân loại tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập ổn định
trong 3 năm; chưa gắn việc giao dự toán với số lượng, chất lượng sản phẩm,
dịch vụ công.
Thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng sản phẩm dịch vụ
SNC còn một số hạn chế: Số lượng danh mục sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công
sử dụng ngân sách nhà nước áp dụng các phương thức giao nhiệm vụ, đặt hàng
hoặc đấu thầu còn hạn chế và chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.
Các định mức kinh tế - kỹ thuật còn thiếu, gây khó khăn trong việc xác
định đơn giá cũng như triển khai trong phân bổ ngân sách nhà nước theo cơ chế
đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch
vụ công.
Việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự
nghiệp công chưa kịp thời.
Việc giao tài sản cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn như doanh
nghiệp còn chưa được triển khai. Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản chưa tạo chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc sử dụng tài sản
công còn phân tán, có nơi lãng phí, hiệu suất thấp và chưa được khai thác hiệu
quả, đặc biệt là nhà đất.
Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp đã bộc lộ nhiều nội dung không
phù hợp với cơ chế tài chính, ngân sách và chế độ báo cáo theo quy định mới.
Một số nội dung về cơ chế tài chính hoặc các nghiệp vụ kinh tế thực tế phát
72
sinh chưa được hướng dẫn cụ thể trong chế độ kế toán, dẫn đến các đơn vị thực
hiện còn khác nhau.
Chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất
lượng dịch vụ sự nghiệp công để kiểm định chất lượng cung ứng dịch vụ làm
cơ sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập và sắp xếp lại các
đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả.
Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động
của đơn vị sự nghiệp công lập
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của đơn vị sự
nghiệp công lập còn nhiều hạn chế: chưa thường xuyên, chưa có cuộc thanh tra,
kiểm tra chuyên sâu mà chỉ mang tính phối hợp với hoạt động chuyên môn,
chưa xử lý nghiêm đối với cá nhân, người đứng đầu không hoàn thành nhiệm
vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2.3.3. Nguyên nhân
Chưa phát huy hết vai trò của lãnh đạo, điều hành và quản lý tổ chức thực
hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập chưa đầy đủ và đồng bộ.
Nhận thức công tác tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật
về cơ chế tự chủ nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Trình độ, năng lực
của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thực hiện còn hạn chế. Việc
tổ chức công tác tự chủ tài chính còn nhiều tồn tại, hạn chế: Việc phân bổ kinh
phí hoạt động thường xuyên còn mang tính bình quân, chưa thực sự gắn kết giữa
giao nhiệm vụ và giao kinh phí; nên còn tình trạng trông chờ, ỉ lại vào sự bao
cấp của nhà nước. Đơn vị sự nghiệp công lập chưa xây dựng mức giá dịch vụ
sự nghiệp công, giá dịch vụ chưa kết cấu đủ chí phí nên ngân sách nhà nước
vẫn phải đảm bảo một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động của đơn vị sự
73
nghiệp, chưa được chủ động trong tự cân đối thu chi của đơn vị. Đơn vị sự
nghiệp công lập chưa chủ động trong quản lý các nguồn tài chính của đơn vị
mình, chưa chủ động và tự quyết định khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính
hợp pháp theo quy định để tăng nguồn thu sự nghiệp (mở rộng hoạt động dịch
vụ liên doanh, liên kết). Chưa chủ động xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và
các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công để kiểm định chất lượng cung
ứng dịch vụ làm cơ sở cấp kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công. Quy
chế chi tiêu nội bộ, phân phối thu nhập còn mang tính bình quân, chưa gắn với
hiệu quả và chất lượng công việc để khuyến khích người lao động đạt hiệu quả,
chất lương cao nhất. Năng lực quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp công
lập còn hạn chế, sử dụng kinh phí chưa hiệu quả. Hầu hết các đơn vị sự nghiệp
công lập chưa xây dựng được mô hình quản lý đơn vị sự nghiệp công theo cơ
chế có Hội đồng quản lý, Ban Kiểm soát để giám sát về chất lượng hoạt động
dịch vụ sự nghiệp công của các Đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp nhằm kiểm
định chất lượng dịch vụ, thực hiện xếp hạng, phân loại các đơn vị sự nghiệp một
cách công khai, minh bạch và chính xác.
Công tác kiểm tra, giám sát thiếu thường xuyên, chưa xử lý nghiêm đối
với cá nhân, người đứng đầu không hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, do còn thiếu nhiều các tiêu chí đánh giá chất lượng từng loại hình
dịch vụ sự nghiệp công.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã thực hiện nhưng
chưa đa dạng, phong phú về phương thức thực hiện và nội dung tuyên truyền.
Chưa đồng bộ các giải pháp để tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua phân tích trên cho thấy trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung
74
và đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội đã đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Bên cạnh những chuyển biến tốt, vẫn còn
nhiều tồn tại, hạn chế do pháp luật chưa đồng bộ, nhận thức và năng lực thực
thi của các cán bộ thực hiện, các đơn vị sự nghiệp công lập còn thụ động trong
việc thực hiện cơ chế tự chủ, … Tất cả những hạn chế trên đã làm cho việc thực
hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công theo hướng tự chủ
không mang lại hiệu quả cao, chưa thực sự tạo ra cơ chế khuyến khích, động
viên cũng như động lực để công chức làm việc.
Trong Chương 2, phần đầu của chương đã giới thiệu khái quát về Sở Văn
hóa và Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc.
Phần tiếp theo luận văn đã nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội. Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế,
nguyên nhân trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở những phân tích những mặt
đạt được, tồn tại, hạn chế, luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội.
75
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN
VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP SỞ VĂN HÓA VÀ THỂ THAO
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể
thao thành phố Hà Nội
3.1.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của các tổ chức chính
trị và các cơ quan nhà nước nhằm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế
tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập
Khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng là nhân tố đảm bảo thành
công trong công tác tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực
tế cho thấy, ở nơi nào cấp ủy Đảng có quyết tâm cao, quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo huy động cả hệ thống chính trị và nhân dân cùng tham gia vào công tác
này thì ở nơi đó công tác tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
có chuyển biến rõ rệt và đạt được kết quả tốt. Ngược lại, ở những địa phương
cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm, buông lỏng thì công tác tự chủ tài chính
của các đơn vị sự nghiệp công lập đạt kết quả thấp.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền về công tác
tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm, quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố và các địa phương, đơn vị. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị để
thực hiện tốt định hướng về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập
Thực hiện tốt các Nghị quyết của Trung Ương: Nghị quyết số 39-NQ/TW
ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ
76
cán bộ, công chức, viên chức, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội Trung ương
6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết
số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục
đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của đơn vị sự nghiệp công lập. Sự gương mẫu của các tổ chức đảng và
đảng viên trong việc tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành
nghiêm túc các quy định về việc thực hiện cơ chế tự chủ là tấm gương để tổ
chức đảng khác và các cán bộ, viên chức, người lao động trong cơ quan noi
theo. Điều đó củng cố sự tin tưởng của cán bộ, viên chức, người lao động
trong đơn vị sự nghiệp công lập tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình điển hình,
nhân điển hình tiên tiến, tiêu biểu thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính ở các
đơn vị sự nghiệp công lập. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm, nhân rộng các mô hình có hiệu quả hoạt động cao, nghiên cứu xây
dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình thực tế đối với từng loại hình
đơn vị sự nghiệp công lập. Các đơn vị sự nghiệp công lập phải có lộ trình tự
chủ rõ ràng và chuẩn bị các điều kiện để thực hiện nhằm đảm bảo cam kết đạt
lộ trình tự chủ đã đề ra. Xử lý nghiêm các trường hợp không chấp hành quy
định về cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập. Kịp thời khen
thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện lộ trình tự chủ
tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trên cơ sở đó, UBND các cấp tiếp tục chỉ đạo lồng ghép thực hiện Kế
hoạch số 72-KH/TU ngày 27/01/2018 của Thành Ủy Hà Nội và Thông báo số
1367-TB/TU ngày 16/4/2018 của Thành Ủy thông báo kết luận phiên họp thứ
mười của Ban chỉ đạo Thành phố Quản lý tổ chức bộ máy và biên chế (Ban
Chỉ đạo Thành phố thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW) nhằm đổi mới hệ
77
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đơn vị sự
nghiêp công lập.
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, sắp xếp lại, nâng cao năng lực các đơn vị nghệ thuật biểu diễn
công lập theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Tiếp tục duy trì các
đơn vị nghệ thuật truyền thống tiêu biểu. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
Ương chỉ giữ lại một đoàn nghệ thuật công lập truyền thống tiêu biểu của địa
phương. Đối với các đơn vị nghệ thuật khác chuyển sang hình thức ngoài công
lập. Hợp nhất trung tâm văn hoá và đoàn nghệ thuật cấp tỉnh thành một đầu
mối.
Hai là, kiện toàn, củng cố thư viện công cộng cấp thành phố với các mô
hình, thiết chế đã có. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có một thư
viện cấp thành phố. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thư viện cấp
thành phố và thư viện công cộng.
Ba là, hoàn thiện, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi hoạt động
đối với bảo tàng chuyên ngành có các bộ sưu tập quý hiếm, có giá trị nghiên
cứu khoa học để thu hút khách tham quan và phát triển du lịch.
Bốn là, thực hiện chủ trương sáp nhập các trung tâm có chức năng, nhiệm
vụ tương đồng thuộc sở văn hoá, thể thao thành một đầu mối. Thực hiện việc
sáp nhập hoặc hợp nhất trung tâm văn hóa và trung tâm triển lãm thành 01 đầu
mối. Những đơn vị hoạt động kém hiệu quả sẽ thực hiện giải thể hoặc sáp nhập
với các đơn vị khác.
Năm là, các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao
tăng dần mức độ tự đảm bảo hoạt động thường xuyên theo từng năm, giảm chi
trực tiếp từ ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 19-NQ/TW và Quyết định
số 429/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 của Thủ tướng chính phủ.
78
3.1.3. Tăng cường giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn
vị sự nghiệp công lập và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập và giảm áp lực tài chính cho ngân sách nhà nước
Một là, tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động về hoạt động, nhân
sự, tổ chức bộ máy và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hai là, phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do nhà nước
giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây
dựng và hoàn thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách
nhà nước theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì nhà nước bảo đảm
kinh phí; đối với các dịch vụ cơ bản thì nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện;
đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện
theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công
lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế
xã hội hoá, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự
nghiệp công theo hướng nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính
đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước. Đối với giá
dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ
cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp
chi phí và có tích luỹ.
Bốn là, đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách
nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo phương thức giao nhiệm
vụ, đặt hàng, đấu thầu.
Năm là, phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác
nhau về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo
kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, thực
hiện trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo quy định
79
hiện hành; đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung
thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ tài
chính ổn định từ 3 đến 5 năm theo phương án thu chi tài chính được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn bộ
kinh phí hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
Sáu là, thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với viên chức, người
lao động theo hướng: Đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư, hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên được thực hiện cơ chế tự chủ
tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp; Đơn vị sự nghiệp công
lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do
ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thì áp dụng chế độ tiền
lương theo vị trí việc làm. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh
nghề nghiệp viên chức do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định
trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nước cấp và từ nguồn thu của đơn vị),
năng suất lao động, chất lượng công việc và hiệu quả công tác theo quy chế trả
lương của đơn vị, không thấp hơn chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
3.2. Giải pháp chung bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế
tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập
Hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập về mặt
lý luận cũng như thực tiễn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật từ Trung Ương đến
địa phương nhằm đảm bảo hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với
tình hình thực hiện về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công
lập đối với từng ngành, lĩnh vực. Việc ban hành các văn bản pháp luật cần kịp
thời để đảm bảo tiến độ triển khai lộ trình tự chủ theo quy định của Chính phủ.
80
Một là, nghiên cứu, ban hành sửa đổi Nghị định khung về cơ chế tự chủ
nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu thực tế về việc giao quyền
tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (về phân loại đơn vị tự chủ tài chính, cơ
chế tiền lương, sử dụng chênh lệch thu chi, chi trả thu nhập tăng thêm, trích lập
các Quỹ, ...).
Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới cơ quản lý, cơ chế hoạt động
của đơn vị sự nghiệp công lập, trọng tâm là cơ chế tự chủ tài chính được quy
định tại các văn bản như sau:
- Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ
trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm
nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững khẳng định: Tăng cường đổi mới khu
vực sự nghiệp công lập, tạo bước đột phá về chất lượng, hiệu quả; từng bước
tính đúng, tính đủ chi phí vào giá dịch vụ công và có chính sách hỗ trợ phù hợp
cho đối tượng chính sách, người nghèo, người yếu thế trong xã hội.
- Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị về tiếp tục
đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của đơn vị sự nghiệp công lập đã đề ra mục tiêu tổng quát: Đổi mới căn bản,
toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập... giảm mạnh tỉ
trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập
để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho
cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch
vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát
triển dịch vụ sự nghiệp công.
Trong khi đó, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực
từ năm 2015. Từ đó đến nay, nhiều văn bản pháp luật mới về đầu tư, tài chính
đã được ban hành và có hiệu lực như Luật Ngân sách nhà nước; Luật Đầu tư
công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Phí và lệ phí; Nghị định số
81
32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt
hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng NSNN từ nguồn
kinh phí chi thường xuyên.
Đây là trách nhiệm của Chính Phủ nhằm điều chỉnh, sửa đổi bổ sung Nghị
định 16/2015/NĐ-CP của Chính Phủ để ban hành các quy định bao quát, thống
nhất thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp trong từng lĩnh vực nhằm
thực hiện mục tiêu của Đảng đề ra và đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với các
quy định hiện hành. Trên cơ sở đó, các Bộ chuyên ngành ban hành văn bản
hướng dẫn chi tiết để sớm đưa quy định về cơ chế tự chủ tài ở các đơn vị sự
nghiệp công lập vào thực tế để triển khai thực hiện.
Hai là, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách về tự chủ tài chính, rà
soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt quy
định chuyên ngành về nội dung chi, đơn giá, định mức cùng các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện
thuận lợi và thực hiện hiệu quả công tác cung cấp các dịch vụ công của mình.
Ba là, ban hành các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh
vực văn hóa và thể thao. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kiểm định chất lượng
đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công, khuyến khích các đơn vị tham gia
kiểm định chất lượng dịch vụ công theo chuẩn khu vực và quốc tế.
Bốn là, rà soát và ban hành điều chỉnh, bổ sung danh mục các dịch vụ công
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định
nhà nước ban hành danh mục dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nước đối với những loại hình dịch vụ công thiết yếu, chưa tính đủ chi phí cung
cấp dịch vụ theo cơ chế thị trường, được Nhà nước xác định cần có chính sách
hỗ trợ thông qua chính sách giá trong một thời gian nhất định.
Năm là, ban hành giá dịch vụ sự nghiệp công theo quy định tại khoản 1
điều 10 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 để có cơ sở thực hiện
82
đặt hàng đối với các đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và
đặt hàng, giao kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp
công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.
Sáu là, điều chỉnh lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh
phí ngân sách nhà nước. Theo quy định hiện nay, đến năm 2020 giá dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước phải được Tính đủ chi phí
tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định.
Tuy vậy, trên thực tế đến nay nhiều Bộ, cơ quan trung ương, địa phương vẫn
chưa thực hiện điều chỉnh hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền điều chỉnh giá dịch
vụ sự nghiệp công.
Bảy là, ban hành các quy định hướng dẫn chi tiết về định mức kinh tế kỹ
thuật, mức chi áp dụng để xây dựng giá dịch vụ.
Tám là, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quy hoạch mạng lưới các đơn
vị sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa, thể thao. Nhiều nhóm giải pháp về
cơ chế chính sách, nguồn nhân lực, tài chính và tổ chức được đưa ra nhưng
chưa thực hiện được triệt để. Việc tổ chức rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các
đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao đã thực hiện theo hướng tinh gọn
nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra. Thực hiện kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, kiên quyết giải thể, sáp nhập đối với những
đơn vị có quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả, không phục vụ quản lý nhà
nước. Trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc, đòi hỏi phải ban hành
văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự
nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao nói
riêng.
Chín là, hoàn thiện đồng bộ các quy định khác của pháp luật về việc tự
chủ trong việc quyết định số người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập;
thực hiện liên doanh, liên kết trong việc tổ chức thực hiện hoạt động; sửa đổi,
83
bổ sung các các quy định tài chính đã lạc hậu trong các văn bản hiện hành, quy
định phân cấp rõ ràng minh bạch cho các đơn vị cấp dưới… để tăng cường
quyền chủ động về hoạt động, tổ chức bộ máy và tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập văn hóa, thể thao.
Trên cơ sở các nguồn lực hiện có, các đơn vị tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chủ động tổ
chức thực hiện cơ chế tự chủ. Hàng năm, thực hiện tổng kết và đánh giá kết quả
thực hiện, từ đó đề xuất điều chỉnh, bổ sung các quy định của pháp luật để đảm
bảo việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính có hiệu quả.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật này sẽ tạo ra một hành lang
pháp lý đầy đủ và minh bạch cho các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển mạnh
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Đồng thời, việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật trong thời gian tới cho đổi mới hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa, thể thao cũng chính là việc cụ thể hóa tinh
thần của Hiến pháp năm 2013 theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
3.2.2. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của đội ngũ viên chức,
người lao động có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố về pháp luật và ý thức, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Hai
yếu tố này có sự tương hỗ lẫn nhau nhằm đảm bảo việc thực hiện cơ chế tự chủ
tài chính có hiệu quả. Bởi nếu chỉ quan tâm đến yếu tố chính sách pháp luật mà
không quan tâm tới việc tuyên truyền, giáo dục và nâng cao trách nhiệm của
các chủ thể trong việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, thì khó đạt mục tiêu đã
84
đề ra, không ít đơn vị sự nghiệp công lập bất chấp pháp luật, không chủ động
tổ chức hoạt động hướng tới cơ chế tự chủ mà ỉ lại vào ngân sách nhà nước.
Để thực hiện tốt pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập, phải kể đến vai trò của từng cá nhân, tập thể các cơ quan nhà
nước có liên quan từ Trung Ương đến địa phương, đặc biệt là cán bộ, viên chức,
người lao động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Từ phân tích thực trạng cho
thấy hệ thống cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tổ chức thực hiện
cơ chế tự chủ tài chính còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Do
đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chất
lượng, có trình độ, năng lực thực hiện và nhận thức tốt được xem như một khâu
then chốt trong việc thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính ở đơn vị sự
nghiệp công lập. Cụ thể như sau:
Một là, nâng cao việc nhận thức đúng về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập. Từ nhận thức đúng đắn mới có những hành động
đúng định hướng và từ đó mới đạt kết quả tốt. Do đó, để thực hiện tốt mục tiêu
đã đề ra tại Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực hiện Nghị quyết
19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó thực hiện
đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp
công lập, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức thực hiện tới
các cấp đảm bảo thực hiện mục tiêu đã đề ra. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người
đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm lãnh đạo điều hành đảm bảo thực hiện theo
đường lối của Đảng. Các cấp ủy Đảng, người đứng đầu đơn vị có nhận thức
đúng đắn về định hướng của Đảng sẽ giữ vai trò là tuyên truyền viên tích cực
đến các cán bộ, công chức, viên chức cấp dưới. Từ đó, đội ngũ lao động có nhìn
nhận đúng đắn về định hướng của Đảng, cùng với lãnh đạo các cấp tổ chức
thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
85
Hai là, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo đơn vị sự nghiệp uy tín trình
độ chuyên môn, năng lực quản lý. Bồi dưỡng cán bộ để có lực lượng kế tiếp
trên cương vị lãnh đạo phòng chuyên môn, lãnh đạo đoàn biểu diễn, bảo đảm
tính kế thừa về chất và lượng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ quy hoạch
của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, thể thao. Xây dựng kế hoạch đào tạo, tuyển
dụng để các đơn vị có đội ngũ nghệ sĩ, huấn luyện viên, vận động viên tài năng,
định hình và khẳng định phong cách riêng của từng loại hình văn hóa, nghệ
thuật và thể thao.
Ba là, sắp xếp kiện toàn bộ máy kế toán tài chính của đơn vị sự nghiệp
công lập, cải tiến phương pháp quản lý để công tác tự chủ tài chính được tổ
chức khoa học, bài bản, tham mưu cơ quan cấp trên trong việc xây dựng đơn
giá, định mức kỹ thuật, xây dựng danh mục sự nghiệp sử dụng ngân sách, cải
tiến phương pháp phân bổ dự toán ngân sách theo phương thức giao nhiệm vụ,
đặt hàng, đấu thầu và tiến tới thực hiện lộ trình tự chủ tài chính.
Bốn là, thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo, học tập mô hình các đơn vị sự
nghiệp công lập ở các nước trên thế giới và các ngành, lĩnh vực đã thực hiện
tốt cơ chế tự chủ tài chính để có thể áp dụng vào ngành lĩnh vực đang quản lý.
Năm là, các cơ quan chuyên ngành như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
cơ quan chuyên môn của thành phố như Sở Tài chính Hà Nội và cơ quan quản
lý cấp trên như Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội tăng cường công tác
tập huấn, trao đổi kinh nghiệm cũng như cập nhật các văn bản chế độ mới về
công tác tự chủ tài chính và công tác tài chính kế toán cho các đơn vị sự nghiệp
công lập.
Sáu là, đội ngũ viên chức người lao động của đơn vị sự nghiệp công lập
và đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan thường xuyên tự trau dồi kiến thức
chuyên môn, tiếp tục học hỏi các mô hình tự chủ điển hình để thực hiện tốt
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính.
86
3.2.3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập
Một là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
chính trị tham gia tích cực vào việc tuyên truyền sâu rộng tới các cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động thấu hiểu vai trò, tầm quan trọng của việc thực
hiện cơ chế tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, thông tin thông qua các
nội dung và hình thức chủ yếu như: các cuộc họp chuyên đề của Đảng ủy, chi
bộ, vận động các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính,
nói chuyện chuyên đề, tổ chức cuộc thi giao lưu học tập.
Ba là, tăng cường tổ chức thực hiện tuyên truyền thông qua việc ứng dụng
công nghệ thông tin đến loại báo hình, báo viết như: phương tiện thông tin
truyền thông, báo, đài, truyền hình. Phát huy tối đa hiệu quả của các phương
tiện thông tin truyền thông, mạng xã hội để nâng cao nhận thức về cơ chế tự
chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức xây dựng chương trình
tuyên truyền về trách nhiệm của các cá nhân, tập thể trong việc thực hiện cơ
chế tự chủ tài chính; nâng cao hiểu biết về cơ chế tự chủ nói chung và cơ chế
tự chủ tài chính nói riêng.
Bốn là, Thông qua gương đơn vị tiêu biểu thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài
chính để các đơn vị có liên quan thấu hiểu và áp dụng tới ngành, lĩnh vực khác.
Từ đó nhân rộng các đơn vị tự chủ tài chính và các mô hình khác nhau để đảm
bảo lộ trình tự chủ đã đề ra.
Bốn là, hoạt động tuyên truyền, thông tin cần thường xuyên, nội dung
tuyên truyền cần được đổi mới và phù hợp với từng đơn vị sự nghiệp công lập.
Chủ động xây dựng kế hoạch chương trình tuyên truyền, bám sát vào nội dung
nhằm đạt hiệu quả công tác tuyền truyền.
87
3.2.4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức thực hiện
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan
của thành phố nhằm kịp thời nhắc nhở, chỉnh đốn kịp thời các hoạt động của
đơn vị trong quá trình hoạt động, qua đó góp phần hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. Nâng cao chất lượng giám sát của Hội
đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội khác và thực
hiện chế độ công khai, minh bạch thông tin của các đơn vị sự nghiệp công lập
để người dân có thể giám sát được hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
nhằm kịp thời phát hiện, góp ý kiến với các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính của các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động,
các đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan chủ quản. Tăng cường hoạt động
thanh tra của Sở Tài chính về việc chấp hành cơ chế tự chủ tài chính, chấp hành
việc lập giao và phân bổ dự toán, thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế
quản lý tài sản, cơ chế tính giá, xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và lộ trình
tự chủ nhằm xem xét việc chấp hành và tuân thủ các quy định của pháp luật về
cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục phát huy
vai trò kiểm tra, kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, cơ quan thuế, cơ quan kiểm
toán nhà nước đối với việc chấp chính sách thuế phí, chế độ chính sách của nhà
nước, …
Có chế tài xử lý các vi phạm trong việc chấp hành việc phương thức phân
bổ ngân sách, chấp hành chế độ thu chi tài chính, thực hiện quy chế chi tiêu nội
bộ, thực hiện quy chế quản lý tài sản và thực hiện lộ trình tự chủ tài chính. Đồng
thời có cơ chế khen thưởng, động viên các đơn vị thực hiện tốt công tác tài
chính và đảm bảo thực hiện lộ trình tự chủ tài chính đã đề ra.
Hai là, chú trọng việc tự kiểm tra nội bộ việc chấp hành cơ chế tự chủ tài
chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, có thể lồng ghép với hoạt động quyết
88
toán tài chính năm của đơn vị. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra công tác
tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập và công tác tài chính nội bộ.
Trong kế hoạch phải xác định rõ nội dung, hình thức, nội dung, đối tượng, thời
gian thanh tra, kiểm tra. Qua công tác thanh tra và kiểm tra nội bộ, làm rõ trách
nhiệm của từng đơn vị trong việc tổ chức thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, từ
đó đề xuất giải pháp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đảm bảo thực hiện lộ
trình tự chủ. Tăng cường trách nhiệm và vai trò của Thanh tra Sở, Ban Thanh
tra nhân dân đối với việc chấp hành pháp luật cơ chế tự chủ tài chính của các
đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh đó, có thuê kiểm toán độc lập để kiểm
toán báo cáo tài chính hàng năm, làm cơ sở chính xác và khách quan để đánh
giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ba là, ở cấp độ từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu có thể tiến
hành kiểm tra định kỳ về các lĩnh vực hoạt động theo thẩm quyền hoặc kiểm
tra đột xuất. Ở cấp độ ngành, lĩnh vực hoặc địa phương, người đứng đầu ngành,
lĩnh vực hoặc ủy ban nhân dân thành phố có thể tiến hành thanh tra về trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực về việc thực hiện cơ chế tự chủ
tài chính. Nội dung đánh giá sẽ tập trung vào các nhóm vấn đề có thể là công
tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; việc ban hành và thực hiện các chế
độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi ngân sách; kết quả thực hiện thực hiện cơ chế
tự chủ nói chung và tự chủ tài chính nói riêng. Đồng thời tạo hành lang pháp lý
để thực hiện hoạt động thanh tra đột xuất không phải báo trước, không bị ràng
buộc bởi các quy định về trình tự, thủ tục hoạt động theo các quy chế hoạt động
cảu đoàn thanh tra, kiểm tra.
Bốn là, xây dựng và ban hành hướng dẫn về kiểm tra, thanh tra và xử lý
vi phạm pháp luật về việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập, áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm đối với các hành vi vi
phạm.
89
3.3. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội
Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước
Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính được ban hành phù hợp với từng lĩnh vực và thực tiễn thì các đơn vị sự
nghiệp công lập sẽ đón nhận và tự giác để triển khai thực hiện.
- Trên cơ sở văn bản của Chính Phủ, hướng dẫn của Bộ Tài chính và tiêu
chí chuyên môn do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, UBND thành
phố Hà Nội xây dựng tiêu chí đánh giá riêng cho phù hợp với loại hình dịch vụ
công của địa phương.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND thành phố Hà Nội rà soát và
ban hành điều chỉnh, bổ sung danh mục các dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân
sách nhà nước. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định nhà nước ban hành danh
mục dịch vụ công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước đối với những loại hình
dịch vụ công thiết yếu, chưa tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ theo cơ chế thị
trường, được Nhà nước xác định cần có chính sách hỗ trợ thông qua chính sách
giá trong một thời gian nhất định.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành giá dịch vụ sự nghiệp công.
Thực hiện hướng dẫn các tỉnh thành triển khai thực hiện đảm bảo sự đồng bộ,
thống nhất trong cả nước. Trên cơ sở đó, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội căn cứ vào khả năng cân đối ngân sách nhà nước, khả năng chi trả cho
người hưởng thụ và lộ trình tự chủ, xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công trình
Sở Tài chính thành phố Hà Nội thẩm định và UBND thành phố Hà Nội phê
duyệt để làm cơ sở triển khai thực hiện.
- Trong khi chờ hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Tài
chính Hà Nội về xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công, Sở Văn hóa và Thể thao
90
đang thực hiện theo hình thức duyệt dự toán các dịch vụ sự nghiệp công trên
cơ sở đề xuất của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở. Hoạt động văn
hóa có loại hình rất đa dạng, bao gồm: hoạt động biểu diễn, quay phim, tổ chức
văn nghệ, hội thi hội diễn, liên hoan quần chúng, tuyên truyền lưu động, cổ
động trực quan, … và quy mô phong phú, nhiều khi không manh tính định
lượng nên khó xác định định mức kinh tế kỹ thuật và mức chi chính xác. Do
vậy, cần có sự hướng dẫn chi tiết của cơ quan chuyên môn cấp trên là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
- Đối với các đơn vị có nguồn thu phí thăm quan di tích: Chính Phủ nên
xem xét điều chỉnh Nghị định số 120/2016/NĐ-CP ngày 23/8/2016 nhằm cho
phép các đơn vị thu phí thăm quan được chủ động mức chi từ nguồn thu phí
thăm quan chứ không phải theo tiêu chuẩn, định mức của nhà nước như hiện
nay. Đồng thời, UBND thành phố cần xem xét, nghiên cứu tỷ lệ phân bổ nguồn
thu được để lại nhằm bảo đảm khuyến khích các đơn vị như Ban quản lý di tích
danh thắng, Ban quản lý di tích nhà tù Hỏa Lò, Trung tâm Văn hóa Khoa học
Văn Miếu – Quốc Tử Giám tăng thu và đồng thời có nguồn chi tương xứng để
phục vụ công tác thu.
- Điều chỉnh kế hoạch thực hiện lộ trình tự chủ của các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội. Tổ chức hướng dẫn kịp
thời để các đơn vị sự nghiệp công lập có sơ sở triển khai thực hiện.
Hai là, xây dựng hoàn thiện quy chế khen thưởng, kỷ luật, đánh giá kết
quả lao động của cá nhân trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc tăng thu để
đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động cho đơn vị sự nghiệp công lập là yếu tố then
chốt quyết định đến khả năng tự chủ tài chính của đơn vị. Do vậy, để tạo động
lực, khuyến khích viên chức, người lao động nâng cao hiệu quả làm việc, mang
lại nguồn thu cho đơn vị thì cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện quy chế khen
thưởng, đánh giá kết quả lao động của các nhân trong đơn vị. Bên cạnh đó, tăng
91
cường kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động trong việc thực hiện quy chế làm
việc của cơ quan. Có biện pháp xử lý đối với các trường hợp vi phạm quy chế
làm việc của cơ quan. Quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân khi vi phạm
quy chế làm việc và trách nhiệm của tập thể phòng, đơn vị có cá nhân khi vi
phạm quy chế làm việc. Xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả lao động và ý thức
trách nhiệm của mỗi cá nhân, làm thước đo đánh giá hiệu quả làm việc và ý
thức trách nhiệm trong công việc của từng cá nhân trong đơn vị sự nghiệp. Trên
cơ sở đó, có thể khen thưởng, động viên khuyến khích hoặc kỷ luật đúng người
đúng việc.
Ba là, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội tăng cường phân cấp
quản lý cho các đơn vị sự nghiệp công lập để các đơn vị chủ động trong việc
thực hiện hoạt động, tổ chức bộ máy và tự chủ, tự chịu trách nhiệm về công tác
tài chính.
Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Sở Văn hóa và Thể thao thành
phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc nhằm bảo đảm văn bản
pháp luật ban hành sớm được triển khai thực hiện. Đồng thời, Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở thực
hiện các giải pháp để tổ chức thực hiện văn bản pháp luật đã được ban hành
cũng như thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật đến các cá nhân trong
trong đơn sự nghiệp công lập.
Năm là, đánh giá thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ tại đơn vị trực thuộc
Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội, từ đó nghiên cứu xây dựng mô
hình tự chủ phù hợp. Kiến nghị, đề xuất với UBND thành phố, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch giải quyết các khó khăn, vướng mắc, hoàn thiện cơ chế
quản lý nhà nước trong điều kiện tự chủ phù hợp với thực tiễn.
Sáu là, chú trọng nâng cao nhận thức của lãnh đạo và viên chức, người
lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở hiểu đúng về cơ
92
chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, đặc biệt là đối
với các nghệ sỹ, diễn viên của các Nhà hát nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động
và lộ trình tự chủ đã đề ra.
Nhóm giải pháp về tài chính
Một là, quan tâm đến các điều kiện về tài chính như kinh phí cho công
tác tổ chức, thù lao, lương cho hệ thống cơ quan thực thi pháp luật, chi phí cho
công tác tuyên truyền pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập. Có chế độ đãi ngộ tốt, từ chế độ đề bạt, bổ nhiệm bố trí đến
chế độ khen thưởng, chế độ tiền lương và kỷ luật… để khuyến khích viên chức
người lao động hăng hái làm việc, phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn của
đội ngũ viên chức, người lao động để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai là, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để tăng
nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở. Đồng thời chú trọng
nguồn kinh phí xã hội hóa đầu tư cho hoạt động văn hóa và thể thao. Do vậy,
Sở Văn hóa và Thể thao cần đề xuất UBND thành phố Hà Nội có cơ chế thu
hút nguồn kinh phí xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa, thể thao.
Ba là, tập trung đầu tư cho đồng bộ cho các đơn vị định hướng sẽ thực
hiện tự chủ tài chính trong tương lai như Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long,
Trung tâm thông tin triển lãm thành phố Hà Nội. Đồng thời, quyết tâm đổi mới
phương thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, chuyển từ giao dự toán sang thực
hiện đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
Bốn là, đầu tư về đầy đủ và đồng bộ trang thiết bị chuyên môn, trang
thiết bị làm việc đảm bảo điều kiện hoạt động chuyên môn và điều kiện làm
việc cho cán bộ, viên chức người lao động. Quan tâm tới việc cải tạo, sửa chữa
cơ sở nhà đất đủ tiêu chuẩn để tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và
đảm bảo việc tập luyện và thi đấu thể dục thể thao các cấp từ nguồn ngân sách
nhà nước. Thực hiện trang bị xe ô tô cho các đơn vị theo Nghị định số
93
04/2019/NĐ-CP ngày 11/01/2019 của Chính phủ về quy định theo tiêu chuẩn,
định mức sử dụng xe ô tô và Quyết định số 7071/QĐ-UBND ngày 23/12/2016
của UBND thành phố Hà Nội về việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị
xe ô tô chuyên dùng cho các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của thành
phố Hà Nội. Trang bị thay thế, bổ sung xe ô tô chuyên dùng cho các nhà hát,
đơn vị thể thao để phục vụ hoạt động biểu diễn, vận chuyển vận động viên.
Trong quá trình thực hiện giải pháp này, cần lưu ý tới một số vấn đề như sau:
- Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, phù hợp
với định mức, tiêu chuẩn mua sắm tài sản phục vụ hoạt động chung và công tác
chuyên môn. Xây dựng đề án quản lý và sử dụng tài sản chuyên dung, tránh
thất thoát và lãng phí nguồn kinh phí.
- Các thiết bị làm việc được trang bị cho từng cá nhân như phương tiện
đi lại, máy vi tính, … phải phù hợp với từng vị trí công việc đảm bảo tiết kiệm,
hiệu quả.
Năm là, hoàn thiện công tác quản lý các nguồn lực tài chính của các đơn
vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
Qua phân tích thực trạng cho thấy, nguồn tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội chủ yếu
là nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước và thu phí thăm quan di tích, thu biểu
diễn nghệ thuật múa rối. Các nguồn thu khác như thu biểu diễn nghệ thuật
truyền thống, hoạt động chiếu phim, hoạt động câu lạc bộ văn hóa, hoạt động
thể thao có nguồn thu chưa cao. Nguồn thu từ hoạt động liên doanh, liên kết
không ổn định do chưa có đề án liên doanh, liên kết được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Điều này cho thấy sự mất cân đối giữa các nguồn thu, các nguồn thu
không ổn định và kém bền vững đối với các hoạt động văn hóa, thể thao của
thành phố Hà Nội. Để đảm bảo việc phát triển nguồn thu theo hướng bền vững
và đa dạng hóa các nguồn tài chính, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội
94
cần có định hướng phát triển hoạt động theo hướng đa dạng, nâng cao chất
lượng hoạt động, xây dựng các sản phẩm dịch vụ văn hóa nhằm thu hút đông
đảo người dân đến thưởng thức hoạt động nghệ thuật và sử dụng các dịch vụ
văn hóa, thể thao. Đồng thời tranh thủ nguồn viện trợ, tài trợ của các tổ chức
trong và ngoài nước để đầu tư phát triển cho các hoạt động văn hóa, thể thao.
Để có cơ chế quản lý tài chính hiệu quả cao, Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội không chỉ chú trọng đến công tác khai thác nguồn thu mà
còn phải thực hiện cơ chế chi phù hợp với từng loại hình hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội.
Các khoản chi ngân sách nhà nước phải xây dựng và thực hiện trên cơ sở định
mức chi của nhà nước quy định. Đối với các đơn vị có nguồn thu lớn, căn cứ
vào khả năng tài chính, đơn vị tự xây dựng mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức
chi do nhà nước quy định. Do vậy, để quản lý các khoản chi có hiệu quả, yêu
cầu các đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng và thường xuyên điều chỉnh,
bổ sung Quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với các văn bản quy định hiện
hành và tình hình thực tiễn tại đơn vị.
Nhóm giải pháp về tổ chức
Một là, nghiên cứu, rà soát và sắp xếp các đơn vị sự nghiệp theo hướng
tinh gọn và hiệu quả. Đối với những đơn vị có khả năng tài chính cao đảm bảo
hoạt động thường xuyên của đơn vị sẽ sớm có kế hoạch cho thực hiện tự chủ
tài chính ở mức cao hơn: tự chủ chi thường xuyên hoặc tự chủ chi thường xuyên
và chi đầu tư. Đối với những đơn vị quy mô nhỏ, tổ chức thực hiện sáp nhập
lại thành một đầu mối. Đối với những đơn vị hoạt động không hiệu quả, sẽ thực
hiện giải thể hoặc sáp nhập với các đơn vị khác.
Hai là, tạo điều kiện cho thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao.
95
Ba là, rà soát lại toàn bộ bộ máy các cấp, đặc biệt là bộ máy các đơn vị
sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội theo
hướng tin gọn, có chất lượng, có trình độ, năng lực đảm đương từng vị trí bảo
đảm nguồn nhân lực để tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công có hiệu quả.
Trong đó chú trọng nâng cao năng lực, trình độ của các cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ
tài chính.
Bốn là, để cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp thực sự đi vào
thực tiễn, các cơ quan quản lý trực tiếp là Sở Văn hóa và Thể thao thành phố
Hà Nội cần khẩn trương đánh giá, phân loại, xây dựng phương án chuyển
đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang thực hiện cơ chế tự chủ đảm bảo theo
đúng định hướng của Đảng, nhà nước đã đề ra.
Nhóm giải pháp khác
Một là, bảo đảm tính công khai, minh bạch. Thực hiện triển khai xếp
hạng, tăng cường minh bạch thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng dịch vụ
công nhằm nâng cao năng lực tự chủ. Việc tăng cường công khai, minh bạch
hoạt động của bộ máy nhà nước phải được coi là ưu tiên hàng đầu trong công
tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để
thực hiện điều đó, cần hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền được thông
tin: Việc công bố thông tin, có thể bao gồm cả báo cáo định kỳ, vừa thể hiện và
vừa giúp tăng cường tính minh bạch trong quản lý nhà nước. Hiện nay, pháp
luật về quyền tiếp cận thông tin đã được ban hành, tuy nhiên do cơ chế đảm
bảo thực hiện quyền này của người dân chưa đủ rõ ràng và hiệu lực nên hiệu
quả thực thi trên thực tế chưa cao. Việc đảm bảo hiệu quả thực thi luật về quyền
được thông tin là vấn đề rất quan trọng nhằm tăng cường công khai, minh bạch
96
hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và đấu tranh phòng, chống tham
nhũng nói riêng.
Hai là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học phục vụ cho công tác
chuyên môn và công tác quản lý tài chính. Đẩy mạnh chất lượng hoạt động của
hệ thống mạng nội bộ. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội và các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc Sở đã được trang bị các thiết bị máy móc hiện đại nhưng
còn thiếu sự đồng bộ nên ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động quản lý, hoạt
động chuyên môn. Do đó, để đảm bảo việc đáp ứng công việc càng cao trong
thời gian tới, đòi hỏi phải hoàn thiện những công việc sau:
- Hoàn thiện phần mềm quản lý công đảm bảo việc thông suốt giữa Sở
và các đơn vị trực thuộc. Nâng cấp, cải tiến phần mềm kế toán đang sử dụng,
hoàn thiện phần mềm quản lý tài sản công và xây dựng phần mềm quản lý tài
chính liên kết giữa các đơn vị nhằm giảm thiểu thời gian làm báo cáo, thông tin
được cập nhật chính xác và kịp thời.
- Chuẩn hóa thông tin thông qua các ứng dụng công nghệ tin học nhằm
công khai, minh bạch về tài chính và các hoạt động của đơn vị. Qua đó, có cơ
sở đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động và kết quả hoạt động của các đơn vị
trong quá trình thực hiện lộ trình tự chủ tài chính.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự
chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất 03 quan điểm và 05 giải pháp để đảm bảo
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập nói chung và đối với các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn
hóa và Thể thao thành phố Hà Nội. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; nâng cao nhận
thức, chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ viên chức, người lao động có
97
trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật
về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện
đồng bộ các giải pháp khác để tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
98
KẾT LUẬN
Luận văn đã giải quyết các vấn đề đặt ra đối với việc tổ chức thực hiện
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
lĩnh vực văn hóa, thể thao của Thành phố Hà Nội.
Trong Chương 1, luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, phân loại, chủ thể, vai trò, nội
dung và các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong Chương 2, luận văn đã nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện
pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính tại đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa
và Thể thao thành phố Hà Nội và đã chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế,
nguyên nhân trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong Chương 3, luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn góp phần hoàn
thiện hệ thống văn bản về cơ chế tự chủ tài chính, đưa ra các giải pháp nhằm
nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công thuộc lĩnh vực văn hóa,
thể thao nói riêng, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp
công lập về văn hóa, thể thao, thúc đẩy sự nghiệp phát triển văn hóa, thể thao
nhanh, mạnh và bền vững, nâng cao chất lượng dịch vụ công, giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế - xã
hội của Thủ đô. Qua đó, giúp Chính phủ thực hiện tốt việc chuyển đổi vai trò
từ “người chèo thuyền” sang “người lái thuyền”.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung Ương (2015), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày
17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức.
2. Ban Chấp hành Trung Ương (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội
Trung ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập.
3. Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 36/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ
Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định số 2992/QĐ-BVHTTDL
ngày 28/8/2019 về việc Ban hành quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung,
quy trình và định mức kinh tế kỹ thuật tổ chức các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, hội thi hội diễn, liên hoan văn nghệ quần chúng; tuyên truyền lưu
động; cổ động trực quan phục vụ nhiệm vụ chính trị sử dụng ngân sách nhà
nước.
5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định số 4145/QĐ-BVHTTDL
ngày 22/12/2019 về việc Ban hành quy định tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung
quy trình cung cấp dịch vụ định mức kinh tế - kỹ thuật tổ chức thi liên hoan
triển lãm tác phẩm mỹ thuật nhiếp ảnh phục vụ nhiệm vụ chính trị.
6. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Quyết định 4831/QĐ-BVHTTDL
ngày 30/12/2019 Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình và
định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động xử lý kỹ thuật, xây dựng cơ sở
dữ liệu, bộ máy tra cứu các loại tài liệu tại các thư viện công lập.
7. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Quyết định số 511/QĐ-BVHTTDL
ngày 24/2/2020 quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn; nội dung, quy trình và định
100
mức kinh tế - kỹ thuật trong đào tạo, huấn luyện vận động viên, huấn luyện
viên, trọng tài thể thao thành tích cao.
8. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Quyết định số 407/QĐ-BVHTTDL
ngày 14/2/2020 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quy định
về tiêu chí, tiêu chuẩn; nội dung, quy trình và định mức kinh tế - kỹ thuật
trong tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho hướng dẫn viên, cộng tác viên
thể dục, thể thao sử dụng ngân sách nhà nước.
9. Lương Quốc Chiến (2014), Cơ chế tự chủ tài chính tại kiểm toán Nhà nước
khu vực VI, Luận văn Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính
Quốc gia.
10. Chính Phủ (2016), Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập
11. Chính Phủ (2017), Quyết định 1992/QĐ-TTg ngày 11/12/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao của thành phố
Hà Nội.
12. Chính Phủ (2018), Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 thực
hiện Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.
13. Chính Phủ (2019), Nghị định số 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định
giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử
dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
14. Chính Phủ (2019), Quyết định số 429/QĐ-TTg, ngày 18/04/2019 của Thủ
tướng chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự
nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch đến năm 2021,
định hướng đến năm 2030.
101
15. Nguyễn Trọng Cơ (2020), Cơ chế tự chủ tài chính đơn vị sự nghiệp công
lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân.
16. Phạm Thị Ngọc Dung (2018), Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi
trường đô thị ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.
17. Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2019), Thực hiện, áp dụng và giải
thích pháp luật ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.
18. Nguyễn Trường Giang (2018), “Đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp
công theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương 6 khóa XII”, Tạp chí tài chính
tháng 02/2018.
19. Nguyễn Thị Hồng Hà (2012), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại trường
trung cấp kinh tế kỹ thuật Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng,
Học viện Hành chính Quốc gia.
20. Đặng Thu Hà (2018), Quản lý tài chính tại Viện Khoa học Lao động và Xã
hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công,
Học viện Hành chính Quốc gia.
21. Trần Thị Thanh Hằng (2019), Cơ chế tự chủ tài chính tại Trung tâm đào tạo
nghiệp vụ tiêu chuẩn đo lường chất lượng – Bộ Khoa học và Công nghệ,
Luận văn Thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia.
22. Vương Thu Hoài (2018), Cơ chế quản lý tài chính tại các bệnh viện công
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
23. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), khoa Nhà nước và Pháp
luật, Tài liệu học tập, nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
102
25. Nguyễn Thị Nguyệt (Khoa Kế toán – Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công
nghiệp (2019), “Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp công
lập, tạp chí Công thương”, Tạp chí Công thương tháng 3/2019.
26. Nhà in sách Tài chính (2018), Chính sách tài chính thúc đẩy hoạt động tự
chủ của các đơn vị sự nghiệp.
27. Nhà xuất bản Lao động (2015), Quy định mới về cơ chế tự chủ của đơn vị
sự nghiệp công lập.
28. Nhà xuất bản Lao động (2016), Nghiệp vụ quản lý tài chính dành cho kế
toán trưởng đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập – sự
nghiệp có thu.
29. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2015), Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với tổ
chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục tiêu chuẩn và đo lường chất lượng,
Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
30. Hoàng Thanh Phương (2019), Quản lý tài chính tại Cục Thống kê thành phố
Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
31. Vi Thị Thu Phương (2016), Quản lý tài chính tại Tạp chí thuế - Tổng cục
thuế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
32. Quốc Hội (2010), Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15/11/2010.
33. Vũ Thị Lê Quy (2017), Quản lý nhà nước về tài chính đối với các dự án
viện trợ không hoàn laị trực thuộc Bộ Y tế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công,
Học viện Hành chính Quốc gia.
34. Lê Thúy Quỳnh (2017), Quản lý tài chính tại Học viên Thanh thiếu niên
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
35. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội (2015, 2016, 2017, 2018, 2019),
Báo cáo quyết toán tài chính của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội.
103
36. Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội (2017, 2018, 2019), Báo cáo tự
chủ của các đơn vị sự nghiệp công Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội.
37. Phạm Xuân Thủy, Vũ Anh, Nguyễn Thị Mai Liên, Nguyễn Thị Quỳnh
Phương (2018), “Đổi mới tổ chức hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập
của Bộ Tài chính trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Tài chính kỳ 2, tháng
9/2018.
38. Nguyễn Xuân Trường, “Các giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài chính tháng 04/2018.
39. UBND thành phố Hà Nội (2015), Kế hoạch số 158/KH-UBND ngày
30/7/2015 triển khai thực hiện Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 14/02/2015
của Chính phủ
40. UBND thành phố Hà Nội (2018), Kế hoạch 137/KH-UBND ngày 18/6/2018
của UBND thành phố Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ
tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai
đoạn 2018-2021
41. UBND thành phố Hà Nội (2018), Kế hoạch 227/KH-UBND ngày 29/6/2018
của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức
tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Văn hóa và Thể
thao giai đoạn 2018-2021
42. UBND thành phố Hà Nội (2019), Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 05/3/2019
của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng cấp
mức tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập Sở Văn hóa và Thể thao
giai đoạn 2018-2021.
43. UBND thành phố Hà Nội (2019), Kế hoạch 44/KH-UBND ngày 09/8/2019
của UBND thành phố Hà Nội về việc triển khai thực hiện nâng mức tự chủ
tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội giai
đoạn 2018-2021.
104
44. UBND thành phố Hà Nội (2017), Quyết định 8131/QĐ-UBND ngày
23/11/2017 của UBND thành phố Hà Nội ban hành danh mục dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao
của thành phố Hà Nội.
45. UBND thành phố Hà Nội (2019), Quyết định 1270/QĐ-UBND ngày
19/3/2019 của UBND thành phố Hà Nội ban hành Danh mục dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực văn hóa và thể thao
của thành phố Hà Nội
46. Nguyễn Xuân Viện (2015), Cơ chế tự chủ tài chính tại trường Cao đẳng
nghề kỹ thuật công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Luận văn
Thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, Học viện Hành chính Quốc gia.
105
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính
từ năm 2015 đến năm 2020
Năm 2015
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
Năm 2017
và 2016
Phân loại
TT
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
đơn vị
Số
Số
Tỷ lệ
Số
Số
Số
lệ
lệ
lệ
lệ
lượng
lượng
(%)
lượng
lượng
lượng
(%)
(%)
(%)
(%)
Đơn vị
sự
nghiệp tự đảm
1
bảo
chi
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
thường và chi
đầu tư
Đơn vị tự bảo
2
đảm
chi
1
5
1
2
6,25
12,5
18,8
4
25
3
thường xuyên
Đơn vị tự bảo
đảm một phần
3
18
90
15
93,75
14
87,5
13
81,2
12
75
chi
thường
xuyên
Đơn vị do
Ngân sách Nhà
4
nước bảo đảm
1
5
0
0
0
0
0
0
0
0
chi
thường
xuyên
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
106
Phụ lục 2. Thống kê cơ sở nhà đất do các đơn vị sự nghiệp công lập
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội quản lý
Số lượng
TT
Đơn vị
Ghi chú
cơ sở nhà
đất
1 Nhà hát múa rối Thăng Long
93 Đinh Tiên Hoàng
01
2 Nhà hát ca múa nhạc Thăng Long
31-33 Lương Văn Can
01
Rạp Đại Nam, rạp Nguyễn
3 Nhà hát Chèo Hà Nội
02
Đình Chiểu
4 Nhà hát Kịch Hà Nội
Rạp Công nhân, Tạ Hiện
02
5 Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ
Cơ sở Thái Thịnh
01
6 Nhà hát Cải lương Hà Nội
Rạp Đông Đô, Chuông Vàng
02
Thư viện Hà Nội tại Trần Hưng
7 Thư viện Hà Nội
02
Đạo và Trần Phú, Hà Đông
Trung tâm Văn hóa thành phố Hà
Số 7 Phùng Hưng, rạp Kim
8
02
Nội
Đồng
9 Trung tâm Thông tin triển lãm
Đinh Tiên Hoàng
01
10 Bảo tàng Hà Nội
Đường Phạm Hùng
01
11 Ban quản lý Di tích Danh thắng
90 Thợ Nhuộm
01
12 Ban quản lý Di tích nhà tù Hỏa Lò
Số 01 Hỏa Lò
01
Trung tâm VHKH Văn Miếu -
13
Phố Quốc Tử Giám
01
Quốc Tử Giám
14 Báo Màn ảnh sân khấu
46 Hàng Bồ
01
Trường Phổ thông Năng khiếu
Trong khu VĐV cấp cao Mỹ
15
01
TDTT
Đình
Khu VĐV cấp cao Mỹ Đình, Lạc
Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu
Long Quân, Nhà thi đấu Trịnh
16
07
Hoài Đức, SVĐ Hà Đông, SVĐ
TDTT
Hàng Đẫy, CLB Khúc Hạo
Tổng số
27
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
107
Phụ lục 3. Thống kê xe ô tô các đơn vị sự nghiệp công lập
Sở Văn hóa và Thể thao quản lý
Đơn vị tính: triệu đồng
Số
Năm sử
Nguyên
Giá trị
TT
Tên đơn vị
Đặc điểm
lượng
dụng
giá
còn lại
xe
02 xe 45 chõ,
1999,
01 xe 34 chỗ,
4
3.729
672
2002,
1 Nhà hát Chèo Hà Nội
2004, 2007
xe tải
Xe 4 chỗ, 25
2002,
chỗ, xe tải 3,5
3
1.681
0
2 Nhà hát Kịch Hà Nội
2004
tấn
Nhà hát Nghệ thuật Xiếc và
Xe 45 chỗ, xe
2003, 2012
1.617
464
2
3
bán tải
Tạp kỹ
Xe 36 chỗ, xe
2004,2005
1.900
0
3
4 Nhà hát Cải lương Hà Nội
tải 3,5 tấn
2000,
Trung tâm Văn hóa thành
Xe 45 chỗ, 3
2012,
2.261
828
5
5
xe bán tải
2010,
phố Hà Nội
2006, 2004
Trung tâm Thông tin triển
1997,
Ô tô thang
878
218
2
6
2008
lãm
Ban quản lý Di tích Danh
Xe 4 chỗ
400
0
1
7
thắng
Xe 26 chỗ, 35
1997,
Trung tâm Huấn luyện và
chỗ, 34 chỗ,
4
2.904
0
2000,
8
Thi đấu TDTT
2001, 2003
16 chỗ
1
561
0
2009
Xe 05 chỗ
9 Bảo tàng Hà Nội
25
Tổng số
(Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội)
108