
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020, một trong những nhiệm vụ và giải pháp được quy định trong Nghị
quyết 14/2005/NQ-CP là “xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, nâng cao
năng lực hợp tác và sức cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam thực hiện
các hiệp định và cam kết quốc tế” [4, trang 7]. Hiện nay, việc phát triển các
chương trình, dự án đào tạo theo hướng hội nhập được các trường đại học nói
chung và Trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) nói riêng hết sức chú
trọng. Các chương trình, dự án đào tạo đó không những giúp các trường nâng
cao năng lực đào tạo mà còn phát triển thương hiệu của trường ở trong nước
và ngoài nước.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lãnh
đạo Trường Đại học Giao thông Vận tải sớm nhận thức rõ nhiệm vụ chính trị
đặt ra là muốn phát triển giáo dục hội nhập cần phải cải tiến chương trình đào
tạo theo hướng quốc tế hoá, thay đổi phương thức đào tạo, hiện đại hoá
phương tiện dạy học, phòng thí nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, trình
độ quản lý và ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên, đặc biệt là Anh ngữ. Để đạt
được các mục tiêu này cần phải chú trọng ưu tiên phát triển các dự án hợp tác
quốc tế về đào tạo nhằm nhanh chóng tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến, tiếp
thu những thành quả tinh hoa của nó.
Trong hai thập kỷ qua, nhiều dự án hợp tác quốc tế về đào tạo, chương
trình hợp tác song phương đã được Nhà trường triển khai. Thông qua các
chương trình, dự án này, năng lực của nhà trường không ngừng được cải
thiện, uy tín của trường không ngừng được nâng cao trong nước cũng như
trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, hiệu quả do các dự án đào tạo quốc tế đem lại cũng chưa
thực sự như mong muốn của nhà trường. Theo thống kê của Phòng Đối ngoại