Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM ______________ ĐINH ÁI LINH CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

Mã số : 06 14 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh - 2006

LỜI CẢM ƠN

Xin cảm ơn các phòng, ban chức năng thuộc các Trường, khoa, Đơn vị

thành viên Đại học Quốc gia Tp HCM đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình

khảo sát, điều tra;

Xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Khoa tâm lý giáo dục Trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh giúp đỡ về các thủ tục hành chính thực

hiện luận văn tốt nghiệp.

Cám ơn quí thầy cô đã tận tình giảng dạy, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình

đã quan tâm giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đoàn Văn Điều đã giúp đỡ thực hiện

luận văn, đặc biệt là sự ủng hộ, động viên, khích lệ của Thầy trong những lúc

gặp khó khăn.

ĐINH ÁI LINH

BẢNG DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHQG-HCM : Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

HSSV : Học sinh, sinh viên

KTX : Ký túc xá

TTQLKTX : Trung tâm Quản lý Ký túc xá

GD& ĐT : Giáo dục và Đào tạo

CĐSP : Cao đẳng Sư phạm

ĐH : Đại học

NCKH : Nghiên cứu khoa học

SV : Sinh viên

QLSV : Quản lý Sinh viên

TNCS : Thanh niên cộng sản

Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

-Học sinh, sinh viên (HSSV) trước hết là công dân có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy

định trong Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và trong các luật định

hiện hành. “Công tác HSSV phải hướng vào thực hiện mục tiêu đào tạo chung là hình thành

nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân; đào tạo những người lao động tự chủ, sáng tạo

và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, có kiến

thức văn hóa, khoa học, công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, có sức khỏe, có khả năng góp phần

hiệu quả làm cho dân giàu nước mạnh, đưa đất nước tiến kịp thời đại, đáp ứng yêu cầu xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [39] .Vì vậy công tác quản lý HSSV đóng vai trò hết sức quan

trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần xây dựng nên con người xã hội chủ nghĩa.

-Đại học Quốc gia Tp HCM (ĐHQG-HCM) là một trong hai đại học hàng đầu của cả nước

về giáo dục đào tạo. Đại học Quốc gia Tp HCM là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại

học và nghiên cứu khoa học chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt trong hệ

thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội (Điều 6 Chương 2- Quy

chế ĐHQG-HCM theo QĐ 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001). Số lượng sinh viên Đại học

Quốc gia Tp HCM có trên 40.000 sinh viên thuộc các hệ đào tạo. Công tác quản lý hoạt động

học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM chưa đáp ứng được nhu cầu số

lượng sinh viên ngày càng tăng.

- Hiện nay, Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên

ĐHQG-HCM còn thiếu các văn bản pháp lý mà mới chỉ ở bước đầu ban hành một số hướng

dẫn, thông báo, qui chế, qui trình về tổ chức … song cũng chưa đầy đủ và kịp thời nên ít

nhiều gây khó khăn, trở ngại cho việc thực thi. Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên

cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển

trên lĩnh vực này. Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học chưa thực sự

có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của ĐHQG-HCM. Vì thế, công tác quản

lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM còn ở mức độ hạn

chế nhất định. Muốn phát triển giáo dục thì phải gắn chặt việc học tập với nghiên cứu khoa

học và chuyển giao công nghệ. Đó là quốc sách, là giải pháp có tính chiến lược để đưa đất

nước phát triển nhanh.

Từ những lý do trên đề tài “Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

của sinh viên ĐHQG-HCM” được thực hiện.

2. Mục đích nghiên cưú đề tài

Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM và đưa ra các biện pháp nhằm cải tiến, góp phần nâng cao chất lượng đào

tạo.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM.

- Khách thể nghiên cứu: Cán bộ, giảng viên và sinh viên trong ĐHQG-HCM.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

của sinh viên ĐHQG-HCM.

4.2 Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM.

4.3 Đề xuất các giải pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

của sinh viên ĐHQG-HCM.

5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và các biện pháp công tác quản lý hoạt động học tập

và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.

6.Giả thuyết nghiên cứu

Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM

chưa đạt được các yêu cầu đề ra. Vì thế, muốn đạt được hiệu quả thì cần phát triển các biện

pháp quản lý, giáo dục, hỗ trợ sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học.

7. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

+ Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM.

+ Phân tích các báo cáo Hội nghị, báo cáo tổng kết năm học của các Trường/ Khoa/ Đơn vị

thành viên ĐHQG-HCM để tổng kết thực tiễn.

- Phương pháp điều tra, khảo sát xã hội bằng phiếu trưng cầu ý kiến của sinh viên và cán bộ,

giảng viên trong ĐHQG-HCM.

Giai đoạn 1: Dùng bảng câu hỏi, chủ yếu là câu hỏi mở, xoay quanh các nội dung nghiên cứu

của đề tài. Trưng cầu ý kiến cán bộ, giảng viên và sinh viên ĐHQG-HCM về nhận thức và vai

trò của hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học trong sinh viên.

Giai đoạn 2: Xây dựng bảng câu hỏi tên cơ sở các ý kiến thu được ở giai đoạn 1 (xem phụ lục)

- Phương pháp toán thống kê ứng dụng dùng xử lý số liệu

+ Toán thống kê ứng dụng để xử lý các số liệu kết quả thu thập được.

- Điều tra thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên từ 102 cán bộ, giảng viên các trường đại học thành viên ĐHQG-HCM và 584 sinh viên

ĐHQG-HCM.

8. Đóng góp của đề tài

1. Xác định những đặc trưng của công tác quản lý sinh viên, làm cơ sở cho những nghiên

cứu lý luận về việc tổ chức quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên

ĐHQG-HCM.

2. Góp phần làm sáng tỏ thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa

học của sinh viên ĐHQG-HCM, đồng thời chỉ ra những tồn tại về mặt tổ chức quản lý hoạt

động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.

3. Một số biện pháp khả thi trong công tác tổ chức, quản lý và làm tăng hiệu quả hoạt động

học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM.

NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐHQG-HCM

1.1. Lịch sử nghiên cứu

Đề tài công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên tuy đã

có đầu tư nghiên cứu của các cơ quan khoa học, các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến,

song các công trình cụ thể về công tác này còn rất ít ỏi và chưa hệ thống.

Gần đây có một số Luận văn thạc sỹ khoa học và Tạp chí Giáo dục đã có những

nghiên cứu xung quanh vấn đề này như sau:

* Nghiên cứu về công tác quản lý học sinh, sinh viên

1. Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục học sinh, sinh viên [19,tr.14] Tác giả đề cập đến việc

nâng cao hiệu quả quản lý, giáo dục HSSV, bồi dưỡng năng lực phẩm chất cho đội ngũ

HSSV-những người chủ tương lai của đất nước.

2. Những biện pháp tăng cường quản lý học sinh ở Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I

[25]. Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I là một trường có mô hình quản lý sinh viên

chặt chẽ, mang tính nghiêm ngặt do tính chất đặc thù của ngành nên đòi hỏi tính kỹ luật cao.

Tác giả đã nêu lên những thực trạng và tồn tại cần khắc phục, đồng thời đưa ra biện pháp khả

thi nhằm thực hiện tốt việc lưu trữ, lập hồ sơ HSSV để quản lý và đề xuất công tác hỗ trợ

HSSV trong học tập.

3. Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng giao

thông vận tải 3 [46] Tác giả đưa ra nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng quản lý nếp sống ăn

ở, học tập, sinh hoạt sinh viên nội trú trong nhà trường.

* Nghiên cứu về công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh, sinh viên ngoài giờ lên

lớp.

1. Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp của học sinh

Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I [8] Tác giả đề cập đến hoạt động học tập ngoài giờ

lên lớp là một hoạt động rất cần thiết và hữu ích đối với học sinh sinh viên, hoạt động này

mang tính tự học cao mà tự học được thì mới tự đào tạo được, mới học tập suốt đời được.

Ngoài ra, hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp thông qua những hoạt động ngoại khoá làm

cho HSSV gắn kết với nhau trong học tập. Việc tổ chức quản lý học sinh, sinh viên bằng các

hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp là một việc làm có tính khả thi, mang lại hiệu quả cao.

2. Rèn luyện kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho sinh viên sư phạm-

Một số vấn đề cấp thiết [34] Tác giả đề xuất một số kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục

ngoài giờ lên lớp cho sinh viên.

* Nghiên cứu việc đánh giá học tập và nâng cao tính tích cực tự học cho sinh viên.

1. Đổi mới công tác kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của sinh viên [16] Tác giả đề xuất sự

cần thiết phải đổi mới công tác kiểm tra đánh giá và một số giải pháp đổi mới công tác kiểm

tra đánh giá học tập của sinh viên.

2. Nâng cao tính tích cực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên qua việc tổ chức Seminar và

hướng dẫn ôn tập, tổng kết chương [22] Tác giả đề xuất biện pháp nhằm hỗ trợ sinh viên tự

học, tự nghiên cứu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động trong học tập mà biểu hiện cao

nhất là thực hiện “sáu mọi” : học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học mọi hoàn cảnh,

học bằng mọi cách, học qua mọi nội dung.

* Nghiên cứu việc tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên.

1. Rèn luyện kĩ năng tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên, đáp ứng nhu cầu đào tạo

mới [6,tr.23] Tác giả đưa ra 5 tiêu chí cụ thể của việc rèn luyện và đánh giá kỹ năng tổ chức

nghiên cứu khoa học của sinh viên theo một đề tài đã chọn, đồng thời đưa ra các kiến nghị để

nâng cao chất lượng của việc rèn luyện kỹ năng tổ chức NCKH cho sinh viên.

2. Về các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học-công [12,tr.5] Tác giả

đưa ra các tiêu chí để đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học và tác giả cho

rằng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học-công nghệ, chất lượng được thể hiện qua giá trị,

hiệu quả khoa học-công nghệ, tính đặc thù, độc đáo và sáng tạo của kết quả nghiên cứu đã dự

kiến và mong muốn.

3. Sinh viên nghiên cứu khoa học- một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo

ở Trường Đại học Bách khoa Hà nội [10,tr.41] Tác giả nêu lên quan điểm trong việc nghiên

cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà nội và Ông cho rằng việc sinh

viên nghiên cứu khoa học là một mắc xích quan trọng trong dây chuyền đào tạo kĩ sư công

nghệ của Trường.

1.2 Sơ lược về Đại học Quốc gia Tp HCM

1.2.1. Sự hình thành, xây dựng, phát triển ĐHQG-HCM

Sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ những năm cuối thế kỷ 20 đầu thể

kỷ 21, cùng với xu thế hợp tác phát triển trên thế giới, đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh

tế trí thức, càng chứng tỏ vai trò có ý nghĩa của nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng

cao. Ở Việt nam, điều này lại càng có ý nghĩa lớn lao khi sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện

đại hóa đất nước là mục tiêu hàng đầu để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Chính vì vậy,

hơn lúc nào hết những đòi hỏi về đột phá, cải tổ hệ thống giáo dục – đào tạo nhằm đáp ứng

nhu cầu hội nhập và phát triển đất nước càng trở nên bức thiết.

Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, hệ thống đại học Việt Nam bộc lộ sự

lạc hậu và yếu kém; do đó việc tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học trở thành

đòi hỏi cấp thiết. Mục tiêu của việc sắp xếp này là nhằm xóa bỏ những bất hợp lý đang tồn

tại trong mạng lưới trường đại học (chuyên ngành đào tạo quá hẹp, tình trạng khép kín, cục

bộ trong hoạt động đào tạo giữa các trường, phân tán, trùng lắp nhiệm vụ đào tạo trên cùng

một địa bàn) là nhằm tạo sự liên thông trong hệ thống, để sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng

viên và cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu, xây dựng các

trường đại học lớn, đa ngành có trình độ và chất lượng cao trong đào tạo nghiên cứu khoa

học và chuyển giao công nghệ.

Việc thành lập Đại học Quốc gia, một trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học và

chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lãnh vực, chất lượng cao là một chủ trương đúng đắn.

Đây cũng là việc mới mẻ, khó khăn. Để thực hiện chủ trương này ngoài quyết tâm cao còn

phải có sự đầu tư về con người, phương tiện và cơ chế, phải có cách thức và bước đi thích

hợp.

Ngày 27-1-1995, Chính phủ ra Nghị định 16/CP thành lập Đại học Quốc gia Tp HCM

(ĐHQG-HCM) trên cơ sở sắp xếp 9 trường đại học thành 8 trường thành viên (thực tế là 10

trường, vì Trường Đại học Kỹ thuật gồm ba trường hợp thành: Đại học Bách khoa, Đại học

Sư phạm Kỹ thuật và Đại học Kiến trúc, nhưng ba trường này không hợp nhất được).

Tổng số cán bộ công chức khi đó của ĐHQG-HCM là 3.573 người. Cán bộ giảng dạy

có 2.320 người, trong đó có 18 giáo sư, 80 phó giáo sư, 426 tiến sĩ, 620 thạc sĩ.

Về qui mô đào tạo, tổng số sinh viên: 142.228, trong đó hệ chính qui: 67.059, hệ đại

học không chính qui: 50.253, cao đẳng: 14.470. Số học viên sau đại học: 2.016, bao gồm 313

nghiên cứu sinh và 1.703 học viên cao học.

ĐHQG-HCM chính thức ra mắt ngày 6-2-1996. ĐHQG-HCM hoạt động chưa được bao lâu

thì lâm vào khủng khoảng cơ cấu kéo dài và ngày càng trầm trọng.

Bắt đầu là sự bộc lộ tính không hợp lý trong việc chia hai giai đoạn trong đào tạo đại

học và việc có Trường Đại học Đại cương riêng biệt, làm cho quá trình đào tạo đại học bị cắt

khúc, gián đoạn, còn mục tiêu liên thông và sử dụng chung đội ngũ, cơ sở vật chất lại không

đạt được.Việc thi chuyển giai đoạn, sàng lọc, cấp chứng chỉ đại học đại cương tạo ra sự nặng

nề, căng thẳng, dư luận xã hội không đồng tình. Trong ĐHQG-HCM, việc tổ chức đào tạo

giai đoạn đại cương cũng không thống nhất. Trường Đại học Đại cương ĐHQG-HCM chỉ tổ

chức đào tạo chung cho 5 trường thành viên, các trường còn lại tự tổ chức đào tạo.

Ngày 1-9-1998, Chính phủ ra Nghị định 67/CP/1998 giải thể Trường Đại học Đại

cương.

Đại học Quốc gia bao gồm cả các Trường Đại học Sư phạm làm cho chủ trương tập

trung đầu tư xây dựng trường Đại học Sư phạm trọng điểm gặp trở ngại, vì các trường này là

những trường ngành, có chức năng, nhiệm vụ đặc thù trong hệ thống đại học. Ngày 26-8-

1999 Bộ Chính trị có công văn số 244/CV-TW “đồng ý tách trường Đại học Sư phạm ra

khỏi Đại học Quốc gia Tp HCM”, tiếp đó ngày 12-10-1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết

định số 201/1999/QĐ-TTg để thực hiện việc này.

Trước đó, ngày 23-8-1999, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố Đề án quy hoạch mạng

lưới các trường đại học và cao đẳng Việt nam đến năm 2020, mà một trong các nội dung là

dự kiến biến Đại học Quốc gia thành trường đại học và các trường thành viên trong Đại học

Quốc gia thành các khoa. Đề án này gây xôn xao dư luận trong các trường thành viên

ĐHQG-HCM, nhiều trường tổ chức thảo luận, kiến nghị. Sáu trên tám trường thành viên gửi

công văn xin tách ra khỏi ĐHQG-HCM. Tình hình mất ổn định nghiêm trọng. ĐHQG-HCM

đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Để tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng Đại học Quốc gia, các

Đại học Quốc gia nhất thiết phải được tổ chức lại.

Ngày 29-8-2000, Bộ Chính trị ra thông báo số 315- TB/TW về định hướng tổ chức lại

Đại học Quốc gia, trong đó nêu kết luận quan trọng “Chủ trương xây dựng hai Đại học Quốc

gia thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa

lĩnh vực, chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần dần đạt trình độ quốc tế là hoàn toàn đúng

đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và xu hướng phát tiển giáo dục đại học

của khu vực và thế giới”. Đó là sự đánh giá đúng đắn và nghiêm khắc. Cũng trong thông báo

này, Bộ Chính trị có ý kiến cụ thể về tổ chức lại ĐHQG-HCM, theo đó trước mắt gồm:

Trường Đại học Bách khoa, Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, các Viện, Khoa, Trung tâm trực thuộc. Các trường đại học thành viên khác

(Kinh tế, Nông lâm, Kiến trúc, Luật, Sư phạm Kỹ thuật) tách ra khỏi ĐHQG-HCM thành các

trường độc lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Ngày 1-2-1001, Chính phủ ra Nghị định 07/2001/NĐ-CP về ĐHQG-HCM, tiếp đó

ngày 12-2-2001 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 16/2001/QĐ-TTg ban hành Quy chế

về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia. Những quyết định này góp phần chặn lại quá

trình khủng hoảng mô hình, khủng hoảng cơ cấu kéo dài, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ ổn định,

tạo thế và lực cho sự phát triển vững chắc của ĐHQG-HCM.

Ngày nay, ĐHQG-HCM có quy chế tổ chức và hoạt động riêng, là nơi đóng vai trò

nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã

hội của khu vực và cả nước. ĐHQG-HCM còn 4 trường đại học, 01 viện, 01 khoa, các trung

tâm chức năng và 01 trường phổ thông năng khiếu chịu trách nhiệm đào tạo học sinh năng

khiếu. ĐHQG-HCM đã xác định ba mũi nhọn quan trọng để đột phá nhằm tạo nên bước

chuyển biến nhanh: Tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo qui hoạch tổng thể đã được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt trên tổng diện tích 643,7 ha, trong đó 522 ha thuộc tỉnh Bình

Dương và 121,7 ha thuộc thành phố Hồ Chí Minh theo mô hình trung tâm đào tạo đại học và

sau đại học; Không ngừng nghiên cứu đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp

giảng dạy theo hướng tiêu chuẩn hoá quốc tế và đưa chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài

tiến tới xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy có trình độ chuyên môn cao, đạo

đức tốt; Tăng cường đầu tư trang thiết bị, công cụ giảng dạy tiên tiến và nghiên cứu ứng

dụng, triển khai khoa học công nghệ hiện đại.

1.2.2. Sinh viên ĐHQG-HCM

* Khái niệm sinh viên

Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ “Sinh viên” được diễn nghĩa ra là người bước vào cuộc

sống, cuộc đời. Theo từ điển tiếng Việt khái niệm sinh viên dùng để chỉ người học ở bậc đại

học (Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng,

1977). Theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì “….. người đang học trong hệ đại học và cao

đẳng gọi là sinh viên” (Qui chế công tác học sinh, sinh viên trong các Trường đào tạo, Bộ

GD&ĐT-Hà Nội 1996, Ban hành kèm theo quyết định số 1584/GD-ĐT ngày 27/7/1993).

Như thế, nếu không xét về hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật ngữ sinh viên đã gắn liền

với sự ra đời của trường đại học. Hơn 700 năm đối với sinh viên thế giới và gần 300 năm đối

với sinh viên Việt nam quả là một lịch sử lâu dài đủ cho chúng ta có quyền tự hào, suy ngẫm

và nhìn nhận những gì mình đã có, để chuẩn bị hành trang cho sinh viên thêm một tuổi

đời…. Nhưng theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm sinh viên được dùng

trùng hợp, và cũng được Nhà nước thể chế hóa, pháp lý hoá thuật ngữ này bằng Luật định

trong Luật Giáo dục do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp

thứ 4 thông qua đã thống nhất cách gọi đối với học sinh-sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh:

-Sinh viên (SV): là danh từ được gọi chung cho người học ở bậc cao đẳng, đại học.

* Đặc điểm tâm lý sinh viên

 Về mặt tâm lý, trước hết ta đề cập đến sự phát triển trí tuệ ở lứa tuổi chuyển tiếp.

Trong thời kỳ này sự phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu

hiện rõ nhất trong việc tư duy sâu sắc và rộng mở, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí

tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận logic, trong việc lĩnh

hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và ghi nhớ. Ở lứa tuổi này đã phát triển khả năng hình

thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập. Một trong

những đặc trưng cơ bản của sự phát triển trí tuệ thời kỳ chuyển tiếp là “tính nhạy bén cao

độ”. Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho

lứa tuổi này biết cách lĩnh hội một cách tối ưu, mà đó chính là cơ sở của toàn bộ quá trình

học tập.

Lứa tuổi này cũng thường dễ bị lúng túng với những ứng xử tình cảm và nhạy cảm trước sự

phê bình hoặc khen ngợi… Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi thanh

niên- sinh viên là sự phát triển tự ý thức.Tự ý thức là một dạng đặc biệt của ý thức trong đời

sống cá nhân, có chức năng điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với bản thân. Đó là quá trình

tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá… về hành động và kết quả tác động của

bản thân về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức, hứng thú… là sự đánh giá toàn diện về

chính bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều kiện để hoàn thiện

và phát triển nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu của xã hội.

 Sinh viên có những đặc điểm sau:

- Là những người tốt nghiệp phổ thông trung học…. đã qua kỳ thi tuyển sinh cấp quốc gia

hoặc xét tuyển vào đại học, cao đẳng. Họ là thanh niên ưu tú có học lực từ khá, khá giỏi trở

lên, ở các trường phổ thông trước đó là những người có ý thức học tập, thông minh, tiếp thu

nhanh cái mới, cần cù, chịu khó, ham tìm tòi học hỏi, giàu ước mơ, có ý thức vươn lên đạt

đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.

- Đa số sinh viên thuộc độ tuổi từ 18 đến 25 từ trước đến nay chủ yếu đi học, chưa có nghề

nghiệp, chưa có việc làm ổn định còn phụ thuộc vào gia đình.

- Xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.

- Đang học tập ở nhiều trường đại học khác nhau, học nhiều ngành khác nhau, nhiều hệ đào

tạo khác nhau.

- Là một lực lượng đông đảo có tổ chức chặt chẽ.

- Là đội ngũ có trình độ, tri thức khá cao trong xã hội.

Là một bộ phận thanh niên nhưng sinh viên lại là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri thức.

Trong thực tế, dù có nhiều người trở thành tri thức qua con đường tự học, nhưng đại thể tri

thức được sản sinh và phát triển từ các trường đại học. Học vấn đại học là điều kiện cần để

con người được xếp vào đội ngũ tri thức nên sinh viên cũng có một số đặc tính gần với đặc

tính của trí thức thể hiện ở khả năng tiếp thu tri thức, tiếp thu cái mới, nhạy cảm với vấn đề

chính trị, xã hội…

Do có sự thay đổi lớn về môi trường học tập, từ sự quản lý chặt chẽ của gia đình và

thầy cô giáo ở phổ thông trung học đến khi vào đại học môi trường mới với nhiều quyền chủ

động, cùng với sự trưởng thành về mặt xã hội và sinh học, nhu cầu của sinh viên được khơi

dậy, phát triển phong phú, đa dạng. Đó là nhu cầu mở rộng kiến thức, nhu cầu đời sống, nhu

cầu tự khẳng định và tự hoàn thiện, nhu cầu học tập định hướng cho nghề nghiệp tương lai,

nhu cầu tình bạn, tình yêu…

Đại bộ phận sinh viên còn thiếu kinh nghiệm cuộc sống xã hội, dễ đánh giá nông cạn

các hiện tượng đời sống xã hội nên dễ có thái độ cực đoan với các hiện tượng của xã hội.

Mặt khác, họ có thể có một nhược điểm khác là nhận thức chưa đầy đủ, coi thường tất cả

những gì vượt ra ngoài phạm vi của khái niệm khoa học hạn hẹp đã học, dễ bị kích động và

lôi kéo.

Đây là lực lượng ưu tú, tinh túy nhất trong thanh niên Việt nam, nguồn nhân lực quan

trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, khoa học kỹ

thuật, công nghệ… là lực lượng nồng cốt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất

nước ta trong giai đoạn hiện nay và mai sau.

 Sinh viên ĐHQG-HCM

Đại học Quốc gia Tp HCM là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên

cứu khoa học chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, làm nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại

học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội (Điều 6 Chương 2- Quy chế ĐHQG-HCM

theo QĐ 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/2/2001). Để đạt mục được nhiệm vụ đó, ĐHQG-HCM

tuyển chọn sinh viên chất lượng cao ngay từ đầu vào và đào tạo sinh viên trở thành những

lao động trí óc có trình độ “Trí thức bậc cao”, có lý tưởng cách mạng, đạo đức trong sáng,

nhận thức chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có hiểu biết kiến thức khoa

học-kỹ thuật công nghệ rộng và chuyên môn sâu, có tay nghề cao cả về lý thuyết lẫn thực

hành đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và xã hội, trở thành các kỹ sư, cử nhân tài

năng của đất nước, có kỷ luật, trung thực, say mê nghiên cứu khoa học và có khát vọng vươn

lên trong học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức khoa học, trung thành với Đảng, cách mạng

tận tụy suốt đời công hiến sức trẻ, trí tuệ cho dân, cho nước.

1.3. Những khái niệm công cụ

1.3.1. Quản lý

Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp những

nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh

thần … ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn với tính chất và độ phức tạp ngày càng

cao, càng đòi hỏi sự phân công, chuyên môn hoá lao động đã xuất hiện một dạng lao động

đặc biệt- lao động quản lý. Hoạt động quản lý cần thiết với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã

hội, trong mỗi quốc gia và trên toàn cầu.

Có nhiều định nghĩa khác nhau của quản lý, nhưng trong luận văn chỉ nêu một số định nghĩa

tiêu biểu, đó là:

- Quản lý là việc đạt tới mục tiêu bằng và thông qua người khác. Con người là nguồn lực chủ

yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Điều này đã được khẳng định trong thời

gian qua và ngày nay nó càng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý.

- Quản lý là một quá trình tác động có mục đích của con người vào một hệ thống nào đó

nhằm thay đổi hiện trạng của hệ thống đó hoặc đưa vào hệ thống đó những thuộc tính mới.

- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ đích) có tổ chức, có lựa chọn

trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi

trường, nhằm giữ cho sự vận động của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển

tới mục tiêu đã định.

- Quản lý vốn là một khoa học và cũng là một nghệ thuật để điều khiển một hệ thống xã

hội từ vi mô đến vĩ mô hết sức năng động, phức tạp, vừa khép kín, vừa có độ mở tương

đối để đối nhân xử thế trong tổng hoà các mối quan hệ liên nhân cách giữa người quản lý

với người dưới quyền, với cấp trên và với cộng đồng xã hội.

- “Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và với con người”

[20,tr.14]

- Theo thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol thì “Quản lý hành chính là dự báo và

lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.

- Theo Frederick W.Taylor đưa ra Học thuyết quản lý theo khoa học thì: “Quản lý là

biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã

hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.

- “Quản lý là hành động-một loại hoạt động xã hội nhằm đạt mục đích đề ra bằng việc

thực hiện các nhiệm vụ, chức năng theo một phương pháp quản lý phù hợp. Quản lý là

tác động định hướng” [27,tr.15]

- Trong Bộ Tư bản, C.Marx đã nói: “Bất kỳ lao động nào có tính xã hội chung và trực

tiếp, được thực hiện với quy mô tương đối lớn đều ít nhất cần đến sự quản lý ”.

Với tính chất là lao động dạng đặc thù xã hội của con người, quản lý và công tác quản

lý là một vấn đề có tính lý luận và luôn gặp trong thực tiễn đời sống của mọi lĩnh vực riêng

biệt trong hoạt động xã hội. Quản lý là một khoa học, là nghệ thuật mang đặc điểm tâm lý

với tính nhạy cảm tế nhị có kỹ thuật (lao động đặc thù: trí óc và tay chân kết hợp hỗ trợ của

các phương tiện kỹ thuật và công nghệ…), mà thực chất là quản lý “Một tiểu hệ thống xã

hội” nảy sinh từ chức năng của chính bản thân nó trong quá trình điều khiển mọi quá trình xã

hội khác: thông qua mối quan hệ hữu cơ tương tác, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa chủ thể

và khách thể quản lý, vận hành theo một hệ thống để hướng đến đạt được mục tiêu nhất định

của tổ chức xã hội. Đó chính là công tác quản lý và tập hợp các tác động tương hỗ quản lý,

làm xuất hiện các mối quan hệ quản lý để điều khiển một hệ thống tổ chức chuyển động từ

trạng thái này sang trạng thái khác theo ý đồ của nhà quản lý.

1.3.2. Quản lý giáo dục

Cho đến nay cũng đã có rất nhiều định nghĩa về “quản lý giáo dục”, nhưng trên bình diện

chung, những định nghĩa này đều thống nhất về mặt bản chất.

Theo F.G. Panatrin thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ thống, có kế

hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các

khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hoà ở thế hệ trẻ.”

Theo P.V Khudominxki thì “Quản lý giáo dục là việc xác định những đường lối cơ bản,

những nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan trong hệ thống giáo dục”.

Theo M.Zade thì “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp nhằm đảm bảo sự vận

hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển

và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.

Theo Phạm Minh Hạc :“Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là hoạt động dạy học….

có tổ chức được hoạt động dạy học thì mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường

lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân,

của đất nước”.

Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục

đích, có kế hoạch, hợp quy luật với chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường

lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo

dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.

Nguyễn Gia Quý khái quát “ Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể

quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở

nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân”

(Bản chất của hoạt động quản lý- Hà Nội, 1996).

Vì thế quản lý giáo dục có một khái niệm sau đây tương đối chuẩn mà mọi người có

thể chấp nhận: “Quản lý giáo dục (nói chung) và quản lý trường học (nói riêng) là hệ thống

tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm

cho hệ vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện mục tiêu: nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có

tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh

thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và

có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm cho nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần” (Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII, Sự thật, Hà Nội,

1999, trang 81). [21,tr.13]

Như vậy, khái niệm quản lý và quản lý giáo dục là một thuật ngữ vừa có nghĩa hẹp lẫn

nghĩa rộng. Do đó, hiểu đúng nghĩa của các cụm từ này để vận dụng có hiệu quả vào thực

tiễn công tác quản lý giáo dục ở trường học nói chung và đại học nói riêng là vấn đề khá nan

giải. Cho nên, đòi hỏi nhà quản lý giáo dục ở tất cả các cấp, bậc học phải nghiên cứu và hiểu

thấu đáo, mang tính khoa học, có chiều sâu để ứng dụng phù hợp một cách tương thích, hài

hoà với trách nhiệm quản lý đương nhiệm ở từng trường hợp cụ thể.

Chúng ta có thể khái quát việc quản lý giáo dục qua sơ đồ sau:

CHỦ THỂ QUẢN LÝ HỆ

QUẢN MỤC TIÊU

NỘI DUNG LÝ PHƯƠNG PHÁP THÔNG TIN NGƯỢC

GIÁO DỤC

KHÁCH THỂ QUẢN LÝ

1.4. Lý luận về hoạt động

1.4.1 Khái niệm hoạt động

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng để

tạo ra sản phẩm tương ứng nhằm thỏa mãn (trực tiếp hay gián tiếp) nhu cầu của bản thân, của

một nhóm người hay toàn thể xã hội. Theo Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị “ Hoạt động

của con người nhằm đáp ứng những nhu cầu của nó”. [26,tr.23]

Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà nẵng,1995 đưa ra

định nghĩa sau: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm

một mục đích nhất định trong đời sống xã hội”.

Như vậy:

- Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối tượng

theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.

- Hoạt động sinh ra là từ nhu cầu, nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể

nhận thức được. Nhu cầu với tư cách là động cơ, là nhân tố khởi phát của hoạt động.

Nhưng bản thân sự hoạt động (nội dung, hình thái) lại chịu sự chi phối của mục tiêu

mà chủ thể nhận thức được.

Theo tâm lý học Macxít “Cuộc sống con người là một dòng hoạt động. Con người là

chủ thể của các hoạt động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình con người thực hiện các

quan hệ của con người với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân. Đó là quá trình

chuyển hoá năng lực, lao động và các phẩm chất tâm lý khác của bản thân thành sự vật,

thành thực tế và quá trình ngược lại là quá trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực

tế quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể ”.

A.N.Lêônchiep đã nhấn mạnh rằng: “Hoạt động là phương thức tồn tại của con người

trong thế giới. Ông cho rằng muốn sống được trong thế giới xung quanh, con người phải

tiến hành các hoạt động đối với thế giới đó, sản xuất ra các đối tượng, lĩnh hội các phương

thức sử dụng các đối tượng đó (các phương thức này chứa sẵn trong các đối tượng đó) nhằm

thỏa mãn nhu cầu này hay nhu cầu khác”.

Như vậy có thể định nghĩa “Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con

người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người

(chủ thể)”.

1.4.2 Đặc điểm của hoạt động

- Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng

Đối tượng của hoạt động là cái con người làm ra, cần chiếm lĩnh. Trong hoạt động học

tập và nghiên cứu khoa học của mình, sinh viên cần chiếm lĩnh các tri thức khoa học, biến

thành vốn sống, vốn hiểu biết và phát triển nhân cách của bản thân. Vì vậy, tri thức là đối

tượng của hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học.

- Hoạt động bao giờ cũng mang tính mục đích

Hoạt động của con người khác xa với hành vi của động vật ở chỗ nó có mục đích.

Hoạt động của động vật mang tính bản năng và không ý thức. Hoạt động của con người là

hoạt động luôn có ý thức và có mục đích. Mục đích của hoạt động thường tạo ra sản phẩm có

liên quan trực tiếp hay gián tiếp với việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.

- Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ thể

Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Chủ thể của hoạt động chính là người thực hiện

hoạt động. Tính chất có chủ thể hoạt động trước hết biểu hiện trong tính tích cực của chủ thể.

Trong quá trình vươn tới đối tượng hoạt động, con người buộc phải huy động toàn bộ sức

mạnh cơ bắp hoặc sức mạnh tinh thần, trí tuệ của mình, buộc phải nỗ lực cao độ để chiếm

lĩnh nó. Tính chủ thể trước hết bao hàm tính tích cực, tính tích cực phát triển tới đỉnh cao

thành tính chủ động, say mê.

Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp trong hoạt động lao động, con người

dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động….

Nói một cách tổng thể định nghĩa khái niệm hoạt động được bao hàm cụ thể: Hoạt động

là một phương thức, một hình thức vận động tích cực không ngừng tích tụ động cơ và mục

đích hành động thực tiễn trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng giữa chủ thể (con người) và

khách thể (thế giới xung quanh….), thông qua các điều kiện, thao tác hai chiều tác động

tương hỗ và lây lan để hình thành những hoạt động phong phú của con người; mà khách thể

đó chính là các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, thế giới công cụ, đồ vật… do con người

sáng tạo và làm ra. Do đó, hoạt động có thể nói là một quy luật chung nhất của tâm lý người

và của con người.

Xuất phát từ các khái niệm hoạt động đưa đến khái niệm và mối liên quan giữa hoạt

động học tập và nghiên cứu khoa học.

Trước đây, người ta phân biệt rõ học và nghiên cứu khoa học theo mục đích cần đạt đến: học

tập là kế thừa những gì mà thế hệ trước đã biết, còn nghiên cứu khoa học là tìm ra cái mới

mà thế hệ đi trước chưa biết. Nhưng ngày nay, học không chỉ là mục đích kế thừa những

kiến thức mà loài người đã biết mà còn có mục đích rèn luyện óc thông minh sáng tạo và

nhiều đức tính cần thiết khác để không chỉ có kế thừa mà còn phát triển vốn tri thức mà nhân

loại đã có. Sinh viên đại học được coi là người sản sinh ra tri thức hơn là người tiêu thụ tri

thức. Vì vậy, tính chất nghiên cứu của quá trình nhận thức là nét đặc thù của quá trình học

tập ở trường đại học.

Trong hoạt động học tập ở đại học, sinh viên không thể chỉ có năng lực nhận thức thông

thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng

tư duy độc lập, sáng tạo phát triển mức độ cao. Dưới vai trò chủ đạo của giảng viên, sinh

viên không nắm máy móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận những chân lý

đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào

sâu, mở rộng … hơn nữa quá trình học tập ở đại học, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia

tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các

mức độ thấp đến cao tùy theo chương trình các bộ môn.

Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp sinh viên từng bước tập vận dụng tri thức khoa

học, phương pháp luận khoa học, những phương pháp nghiên cứu, tự rèn luyện những phẩm

chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách khoa học những vấn

đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra. Hình thức “hoạt

động học tập” tuy có tầm vóc thua kém hình thức “hoạt động NCKH” nhưng về bản chất thì

giống nhau. “Cùng với học tập, nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng của sinh

viên đại học, hai hành động này không tách rời nhau mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau, góp phần

nâng cao chất lượng đào tạo”. [6,tr.23].

1.5 Hoạt động quản lý sinh viên

1.5.1. Quản lý sinh viên

Hoạt động quản lý sinh viên là công tác quản lý của các nhà quản lý giáo dục, các lực

lượng giáo dục và tổ chức sư phạm trong trường học tham gia, lập và thực hiện kế hoạch, tổ

chức lãnh đạo, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch

giáo dục và đào tạo của nhà trường nhằm đạt được mục tiêu giáo dục và đào tạo đã quy định

với chất lượng cao.

Quản lý sinh viên là một trong những công tác của giáo dục và đào tạo vậy quản lý sinh

viên là gì ?

Quản lý sinh viên là quá trình tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh các hoạt động của những

người đang học tập tại các trường hay cơ sở đào tạo cao đẳng, đại học theo qui định của Nhà

nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của cơ quan chủ quản và của trường đang đào tạo sinh

viên, nhằm hướng cho sinh viên đạt đến mục tiêu của giáo dục và đào tạo.

1.5.2. Nhiệm vụ quản lý sinh viên

Công tác quản lý sinh viên là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp trong trường đại học.

Nó đòi hỏi những người làm công tác này phải có tinh thần trách nhiệm cao, dám hy sinh và

tận tụy với công việc. Mục đích của công tác quản lý sinh viên là cung cấp cho xã hội những

con người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ để xây dựng đất nước. Đối tượng của công tác

này là con người với những tiêu chí khó có thể xác định bằng định lượng. Vì vậy, công tác

quản lý sinh viên là công tác của tất cả mọi người trong trường đại học, từ người quản lý,

thầy cô giáo đến tổ chức đoàn thể trong nhà trường….

1.5.3. Nguyên tắc quản lý sinh viên

Nội dung phương pháp và việc tổ chức quản lý sinh viên (QLSV) phải đảm bảo nguyên

lý giáo dục và đường lối chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước.

* Nguyên tắc tập trung dân chủ

Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ giữa sự lãnh đạo tập trung của Nhà nước về giáo

dục và việc phát huy tối đa sáng kiến đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân vào công

tác tổ chức và quản lý giáo dục.

Ở phạm vi trường học, nguyên tắc thể hiện sự thống nhất hai mặt: Một mặt phải tăng

cường quản lý tập trung quyết định những vấn đề trọng yếu thống nhất (phục tùng ý chí) của

người lãnh đạo, quản lý mặt khác phải phát huy mở rộng tối đa quyền chủ động của các đơn

vị, cá nhân (SV). Đồng thời, chế độ tập trung trong quản lý giáo dục đảm bảo sự thống nhất

ý chí, ngăn chặn khuynh hướng vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa. Đó là đòi hỏi của một

nền giáo dục phát triển vì dân chủ là hình thức quản lý hiệu quả, giúp giải phóng được năng

lực to lớn của quần chúng (SV) làm tăng hiệu quả của các nguồn lực giáo dục.

* Nguyên tắc kết hợp Nhà nước và xã hội

Có vai trò quan trọng trong quản lý giáo dục, nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp

QLSV mang tính nhà nước với việc quản lý giáo dục mang tính xã hội. Các đơn vị, tổ chức

đoàn thể trong nhà trường cần phải lôi cuốn để tham gia tích cực vào QLSV trên cơ sở có cơ

chế phối kết hợp liên hoàn phù hợp.

* Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính kế hoạch

QLSV phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đặc biệt là lý luận khoa học quản lý

và áp dụng các thành tựu khoa học khác như: tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, tổ chức

lao động khoa học, điều khiển học…

Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo tính hệ thống và tính tổng hợp-kế hoạch. Vì mọi

hoạt động QLSV đều cần đến kế hoạch và nó là cơ sở để QLSV có hiệu quả (chính xác, kịp

thời, phù hợp với trình độ quản lý và thực tế đòi hỏi của trường đào tạo) để kiểm tra, giám

sát tốt các kế hoạch đã vạch ra.

* Nguyên tắc về tính cụ thể, thiết thực và hiệu quả

Dựa trên nguyên tắc này trong QLSV, nhà quản lý phải nắm được thông tin chính xác,

cụ thể, nhanh chóng để đề ra các biện pháp xử lý giải quyết đúng đắn, phù hợp, cụ thể, thiết

thực, kịp thời các vấn đề xảy ra trong thực tiễn.

* Nguyên tắc trách nhiệm và phân công trách nhiệm

Trách nhiệm thể hiện sự thống nhất giữa hai mặt: mặt tích cực, ý thức trách nhiệm của

chủ thể quản lý và về mặt tiêu cực là khi buộc phải áp dụng các biện pháp chế tài đối với

những người vi phạm pháp luật nhà nước. Trách nhiệm hình thành trên cơ sở của sự tác động

qua lại giữa các thành tố sau:

Ý thức về nghĩa vụ được quy định trong các quy phạm đạo đức và pháp luật; Sự đánh giá

hành vi bao gồm: sự đánh giá của chủ thể và sự đánh giá của các cấp có thẩm quyền theo tiêu

chuẩn pháp lý, đạo đức; Sự áp dụng các biện pháp chế tài đối với hành vi lệch lạc và nguyên

tắc này đòi hỏi mọi người phải trả lời được các câu hỏi:

- Công việc mình phải làm là gì?

- Giới hạn hành động và quyền hành của mình là gì ?

- Phải thuộc quyền ai ?

Phân công trách nhiệm là tổ chức ủy quyền, cho phép tự chủ trong hành động và quyết

định.

Tuy nhiên phân công trách nhiệm không làm bớt trách nhiệm thủ trưởng. Việc duy trì

quyền lực và tính thống nhất của lãnh đạo, QLSV đòi hỏi phải tổ chức phối hợp và kết hợp

chặt chẽ trong phân cấp quản lý đối với các đơn vị chức năng cấp dưới.

1.5.4. Phương pháp và nội dung công tác quản lý sinh viên

* Phương pháp quản lý sinh viên

Bao gồm:

- Hệ phương pháp tổ chức-hành chính: là dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành

chính nên phương pháp có tính pháp lệnh, bắt buộc và có kế hoạch rõ ràng, là sự tác động

trực tiếp của hệ quản lý đến hệ bị quản lý bằng mệnh lệnh, chỉ thị, quyết định… để phục vụ

cho công tác quản lý có hiệu quả cao.

- Hệ phương pháp tâm lý- xã hội: là phương pháp, cách thức tạo ra những tác động vào đối

tượng quản lý (thông qua tư tưởng, tâm lý, tình cảm của con người) bằng các biện pháp logic

và tâm lý xã hội để biến những yêu cầu do người lãnh đạo, quản lý đề ra thành nghĩa vụ tự

giác bên trong, thành nhu cầu của người thực hiện.

- Hệ phương pháp giáo dục thuyết phục, cảm hóa: là phương pháp tác động vào nhận thức

của con người vì nhận thức đúng thì sẽ hành động đúng và ngược lại, bằng lý lẽ và sự cảm

hoá tình cảm nhân ái. Đây là phương pháp được nhà quản lý sử dụng đầu tiên rồi đến các

phương pháp khác, nếu phương pháp không hiệu quả đối với đối tượng bị quản lý.

-Hệ phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt, phương pháp thi đua-khen thưởng, kỷ luật

và nhân điển hình tiên tiến…

* Nội dung quản lý sinh viên

- Cơ sở pháp lý

Trong công tác quản lý Giáo dục và Đào tạo nói chung và quản lý sinh viên nói riêng,

để vận hành được phải dựa trên một hành lang pháp lý hoàn thiện. Đó là hàng loạt các văn

bản pháp quy do Nhà nước và ngành Giáo dục và Đào tạo ban hành như : Luật, thông tư, chỉ

thị, quyết định, nghị định, quy chế, quy định… về quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của các

trường đào tạo (trong đó có trường đại học), các cơ sở Giáo dục và Đào tạo có liên quan để

hướng dẫn tổ chức, điều hành, điều chỉnh, chỉ đạo mọi hoạt động quản lý của nhà trường đi

đúng vào quỹ đạo quản lý giáo dục theo các cấp bậc học đào tạo. Nó bao gồm hệ thống tổ

chức bộ máy, phân cấp, phân quyền, quy trình thực hiện công tác quản lý giáo dục và đào

tạo… được quán triệt qua các Nghị quyết của Đảng, các cơ sở quản lý nhà nước để ban hành

các văn bản pháp lý phục vụ công tác quản lý đào tạo và quản lý HSSV một cách đắc lực và

có hiệu quả tùy từng trường hợp trong công tác quản lý vĩ mô, trung mô và quản lý vi mô tại

chỗ.

Vì thế, công tác sinh viên cần hướng vào mục tiêu đào tạo của trường đại học nói chung

và đặc thù của từng trường để hình thành và phát triển nhân cách sinh viên theo mô hình

Giáo dục và Đào tạo, các mô hình này có mối quan hệ như sau:

Mô hình nhân cách (khái quát mục tiêu GD-ĐT)

Mô hình đào tạo (khái quát hoá nội dung GD-ĐT)

Mô hình họat động (khái quát hóa các hoạt động)

Và, quản lý sinh viên bao gồm:

* Đầu vào: Tổ chức tiếp nhận sinh viên trúng tuyển vào trường, gồm các bước sau:

- Làm thủ tục hồ sơ SV nhập học, thu học phí và lệ phí ở ký túc xá

(nếu có)…

- Bố trí sắp xếp vào tổ chức lớp học theo ngành nghề tuyển chọn.

- Chỉ định Ban đại diện SV của lớp (còn gọi là Ban cán sự ) gồm 1 lớp trưởng, 1-2 lớp

phó, để đưa lớp vào hoạt động.

- Giải quyết các Trường hợp sinh viên không đủ điều kiện và thủ tục, hồ sơ vào học tại

trường.

- Làm thẻ SV, thẻ thư viện, thẻ nội trú ký túc xá…

- Tổ chức khám sức khỏe cho sinh viên mới nhập học và khám định kỳ cho sinh viên

trong thời gian học tập tại chỗ quy định của thông tư liên Bộ Y Tế - Đại học, Trung học

chuyên nghiệp và Dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) và xử lý các trường hợp SV

không hội đủ sức khoẻ theo học.

- Triển khai bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và thân thể; xe gắn máy của sinh viên.

- Các phòng ban, tổ chức đoàn thể chức năng của trường tổ chức tốt “Tuần lễ sinh

hoạt công dân-sinh viên”.

- Tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với sinh viên…

* Tổ chức quản lý quá trình Giáo dục và Đào tạo (hộp đen). Gồm:

- Tổ chức và quản lý hoạt động học tập của sinh viên gồm:

Quản lý sinh viên về công tác giáo vụ và học vụ: do Trường chỉ đạo, Phòng đào tạo phụ

trách cùng với phòng Công tác chính trị-Sinh viên, Phòng Tổ chức Cán bộ (hoặc Phòng Tổ

chức Hành chính) kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch, chương trình đào tạo, học tập,

thực tập, thi và kiểm tra hết học phần, môn học, học kỳ và xét lên lớp, thi và làm luận văn,

đồ án tốt nghiệp cho các lớp, khóa, hệ đào tạo. Cũng như phối hợp với phòng ban, đoàn thể,

các khoa có liên quan để tổ chức cho sinh viên tham dự thi sinh viên giỏi, sinh viên nghiên

cứu khoa học.

Quản lý việc thực hiện cải cách phương pháp dạy-học theo hướng tập trung vào người

học, tăng cường hình thức giúp đỡ sinh viên yếu kém, cụ thể hoá phương pháp tự học của

sinh viên bằng một quy trình hợp lý tạo ra tính tích cực học tập cho người học theo quan

điểm học tập suốt đời, coi trọng sự phát triển năng lực sáng tạo của sinh viên.

Quản lý thời khoá biểu học tập trên lớp kết hợp với phát huy vai trò tự quản lý, tự chủ

của sinh viên; rèn luyện kỹ năng và thói quen tự học, tự giáo dục cho sinh viên để chuyển

quá trình đào tạo thành tự đào tạo.

- Quản lý hành chính sinh viên: Chuyển ngành, chuyển trường, cấp bằng tốt nghiệp….

- Tiếp nhận và quản lý lưu sinh viên nước ngoài đến học tập tại trường theo qui định

quản lý của Nhà nước.

- Kết hợp với các tổ chức sư phạm, đoàn thể, quản lý hoạt động sinh viên lên lớp, ngoài

giờ lên lớp, ngoài trường (kể cả tổ chức và quản lý tốt đời sống vật chất và văn hoá

tinh thần cho sinh viên nội trú ở KTX). Cụ thể là tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,

Hội Sinh viên và các phòng ban chức năng liên quan trong trường đối với các hoạt

động phong trào sinh viên về chính trị-xã hội, văn thể mỹ, các loại hình đội nhóm câu

lạc bộ sở thích và giải trí lành mạnh.

- Tổ chức các hoạt động phòng chống tệ nạn xã hội thâm nhập học đường (nhất là ma

túy, HIV/ AIDS…).

- Tổ chức quản lý sinh viên thực hiện dân chủ hóa trường học (đối thoại giữa nhà

trường với SV).

- Chủ động và tích cực phối hợp với địa phương nhà trường, KTX đóng trên địa bàn

trong công tác QLSV.

- QLSV qua công tác thi đua: khen thưởng và kỷ luật.

- Luôn không ngừng cải tiến và tham mưu cho lãnh đạo nhà trường trong công tác

QLSV.

* Đầu ra: QLSV tốt nghiệp ra trường.

- Tiến hành giới thiệu và tìm việc làm cho sinh viên.

- Nắm số lượng sinh viên tốt nghiệp có việc làm, thất nghiệp…

- Thu thập thông tin phản hồi của đơn vị, người sử dụng lao động SV do nhà trường đào

tạo (hiệu quả, tay nghề…) và thị trường lao động- xã hội…

1.6. Công tác quản lý hoạt động học tập

Hoạt động chủ đạo chủ yếu của sinh viên là hoạt động học tập. Nhưng so với hoạt

động học tập của học sinh phổ thông, việc học tập của sinh viên có nhiều điểm khác.Trước

hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng là quá trình nhận thức nhằm chiếm lĩnh

những tri thức trong kho tàng trí tuệ của nhân loại. Nét độc đáo trong hoạt động của sinh

viên là vừa lĩnh hội những tri thức, khái niệm-những cái mới chủ quan, vừa tìm tòi, phát hiện

những cái mới khách quan. Khi tiến hành hoạt động học tập ở đại học, người sinh viên không

thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu

trên cơ sở khả năng, tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao để chuẩn bị cho một

ngành nghề chuyên môn nhất định. Việc học tập và rèn luyện của họ để trở thành những kỹ

sư, cử nhân, những người thợ lành nghề, có chuyên môn năng lực cao. Vì vậy, hoạt động học

tập của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong

thời kỳ này hết sức quan trọng vì nó là công cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề

nghiệp sau này và có nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Một điều khác với hoạt

động học tập của học sinh phổ thông là hoạt động học tập của sinh viên mang tính tự giác,

tích cực chủ động hơn. Sinh viên ngoài giờ lên lớp theo chương trình để tiếp thu bài giảng,

họ còn phải tự giác tích cực đọc thêm các tài liệu tham khảo để tự tìm kiếm kiến thức cho

mình. Tranh thủ sự giúp đỡ của giáo viên để đào sâu thêm những kiến thức chuyên môn. Có

như vậy sau khi ra trường họ mới vững vàng trong công việc của mình.

Công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trên thực tế cho thấy những sinh

viên có kết quả học tập cao thường chủ động tích cực trong việc tự giáo dục. Họ tích cực sử

dụng thời gian rỗi của mình để tìm tòi nghiên cứu, học thêm những tri thức cần thiết chuẩn bị

cho tương lai hoặc họ tham gia vào những hoạt động tích cực với việc rèn luyện nhân cách

của bản thân. Còn những sinh viên có kết quả học tập thấp, họ thường bị động trong việc tự

giáo dục. Nhu cầu giao tiếp của những sinh viên này lớn hơn nhu cầu nhận thức. Họ dùng

phần lớn thời gian rỗi của mình để tiếp xúc giao du với bạn bè, tụ tập quán xá hoặc tham gia

các trò vui chơi, giải trí… Họ vui chơi là chính, học hành là phụ.

Nhiệm vụ học tập đòi hỏi mỗi sinh viên phải có ý chí quyết tâm cao, thái độ chủ động,

tinh thần tự nguyện, tự giác say sưa trong học tập và rèn luyện. Hứng thú học tập, say mê

học tập vừa là điều kiện để tự học đồng thời cũng chính là kết quả của tự học. Tự học cần tự

vạch ra kế hoạch học cho bản thân bên cạnh kế hoạch học tập của chương trình đào tạo quy

định, thực hiện và tự kiểm tra việc thực hiện kế hoạch là điều mà mỗi sinh viên phải thực

hiện nếu mong muốn việc học ở trường đạt hiệu quả.

Sinh viên tiến hành hoạt động học bằng cách luôn phải tác động đến đối tượng học

bằng nhiều cách, như: học cá nhân hay là tự nghiên cứu, học với người khác (học với thầy,

học ở giáo viên dạy kiến tập thường xuyên, học với bạn,…) hay là học tập hợp tác, học từ

các thông tin phản hồi hay cách tự kiểm tra, tự điều chỉnh. Các cách học này luôn có quan hệ

qua lại và bổ sung cho nhau. Tự học chính là cái lõi của cách học trên, giúp cho khả năng

tiếp cận và xử lý thông tin của sinh viên được tăng lên. Học- hỏi- hiểu -hành chỉ đạt chất

lượng cao khi sinh viên tự học. Tự phát huy nội lực của người học. Nội lực đó sẽ giúp sinh

viên nâng dần chất lượng học tập. Sinh viên chiếm lĩnh được các giá trị từ giáo dục mang lại,

biến thành kinh nghiệm- vốn sống riêng của bản thân để trên cơ sở đó mà các năng lực mới

cũng như các phẩm chất mới được hình thành. Tự học tạo cho sinh viên tính độc lập cao và

mang đậm nét sắc thái cá nhân. Hiệu quả của hoạt động học tập được nâng cao khi sinh viên

biết tự học. Kỹ năng học và thói quen tự học chính là công cụ không thể thiếu đối với sinh

viên.

Hoạt động học tập, giáo dục quản lý sinh viên không chỉ giới hạn trong phạm vi đào

tạo- giáo dục sinh viên ở trên lớp, trong trường, mà phải hiểu rộng hơn với việc sinh viên

tham gia các hoạt động phong phú khác nhau như: hoạt động ngoài giời lên lớp, quan sát,

học tập nhóm, tham gia câu lạc bộ, sinh viên tự học một cách khoa học, trao đổi nhóm, thực

hành thực tập, tham quan, giao lưu, thảo luận tổ, làm bài tập, sưu tầm, học thêm, đi thư

viện….

Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là một trong những nội dung của công tác

quản lý giáo dục trong nhà trường, tiến hành theo quy chế Bộ giáo dục và đào tạo. Quản lý

hoạt động học tập bao hàm quản lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh thần thái độ

và phương pháp học tập. Quản lý hoạt động học tập là quản lý để thực hiện đồng bộ và toàn

vẹn các nhân tố: mục tiêu học tập, nội dung học tập, phương pháp học tập, chủ thể học tập,

điều kiện- phương tiện học tập, quy chế học tập….Trong quản lý học tập thì “ việc tiêu

chuẩn hoá các hoạt động riêng lẻ hay trong sự phối hợp của các thành viên trong nhà

trường phải tối ưu hoá tiêu chuẩn hoạt động độc lập của học sinh, tạo điều kiện để học sinh

tự học, tự giáo dục là chính, biết tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình” [2,tr.9-10].

Lưu tâm thích đáng đến hoạt động học tập của người học chính là trung tâm của toàn bộ

công tác tổ chức quản lý giáo dục trong nhà trường. Quản lý tốt hoạt động học tập sẽ nâng

cao hiệu quả học tập ở sinh viên. Chất lượng học tập của sinh viên phản ánh chất lượng quản

lý hoạt động học tập bởi “Chất lượng giảng dạy và học tập phản ánh tập trung tình trạng và

chất lượng chung của toàn bộ giáo dục; và xét về nguyên tắc, nó thống nhất với chất lượng

quản lý, chất lượng nghiên cứu và thông tin, chất lượng đào tạo”[18,tr.7]

1.7. Công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học

Hoạt động nghiên cứu khoa học đi vào quá trình học tập ở đại học và tồn tại như là

một bộ phận hữu cơ. Trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia

hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến

hành ở các mức độ từ thấp đến cao. Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp sinh viên từng

bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học, những phương

pháp nghiên cứu, tự tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu

nhằm góp phần giải quyết một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn

cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp đề ra, sinh viên bước đầu vận dụng một cách tổng hợp

những tri thức đã học về nghề nghiệp tương lai của mình, qua đó có thể mở rộng, đào sâu và

hoàn thiện vốn hiểu biết.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ở đại học tuy nhỏ bé, chỉ là bước đầu

tập dượt nhưng cũng phải mang lại hiệu quả kinh tế, phải có tác dụng giáo dục và nhất là bồi

dưỡng cho sinh viên phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo.

Qua hoạt động nghiên cứu khoa học, sinh viên có điều kiện rèn luyện, thể hiện tài

năng của mình. Thực hiện được phương hướng này sẽ có hai tác dụng quan trọng là giúp

sinh viên có tiềm lực hoạt động khoa học, có năng lực không ngừng nâng cao trình độ nhận

thức khoa học của bản thân để góp phần giải quyết những vấn đề khoa học mới mẻ do thực

tiễn cuộc sống và yêu cầu cách mạng khoa học công nghệ nảy sinh; đồng thời nó còn làm

cho nhà trường đại học và sinh viên có điều kiện thâm nhập thực tiễn xã hội, hòa được vào

nhịp sống xã hội và tích cực đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của xã hội.

Trên cơ sở đó, sinh viên sẽ tiếp tục hoàn thiện và đổi mới vốn tri thức của mình dưới

ảnh hưởng của cách mạng khoa học-công nghệ; rèn luyện tác phong phẩm chất tốt đẹp của

nhà nghiên cứu (làm việc có kế hoạch, tỉ mỉ, nghiêm túc…), có tác dụng rèn luyện sinh viên

phương pháp tư duy, tạo điều kiện cho hoạt động tự học, tự chiếm lĩnh tri thức. Khi ra

trường, sinh viên có được kinh nghiệm nghiên cứu khoa học và họ có thể giải quyết được

những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn công tác của mình, biết vận dụng những kinh nghiệm

thành công của đồng nghiệp. Ngược lại, thiếu những kinh nghiệm này, sinh viên sẽ gặp lúng

túng khi đứng trước một vấn đề, một hiện tượng thực tế, Vì thế công tác quản lý hoạt động

nghiên cứu khoa học cần hướng cho sinh viên thấy được ý nghĩa và sự cần thiết phải NCKH,

có nhu cầu và hứng thú đối với hoạt động NCKH.

Hoạt động nghiên cứu khoa học có một giá trị giáo dục con người rất lớn vì nó yêu

cầu người nghiên cứu khoa học phải khách quan, phải chính xác, phải sáng tạo, kết quả

nghiên cứu khoa học phải được so sánh và đối chứng một cách khách quan. Theo Văn Đình

Đệ thì “Mục đích của công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên là góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Qua NCKH, sinh viên

được tiếp cận với những kiến thức về khoa học - công nghệ, làm quen với công tác tổ chức

thực hiện NCKH và cơ hội vận dụng kiến thức đã được trang bị để góp phần giải quyết các

vấn đề đặt ra trong khoa học và thực tiễn” [10,tr.41].

Vì vậy, trong quá trình học tập ở trường đại học, mọi sinh viên nhất thiết phải tham gia

nghiên cứu khoa học. Có thể nói rằng, chúng ta không thể chấp nhận được người sinh viên

với tư cách là cán bộ khoa học- kỹ thuật có trình độ cao trong tương lai mà lại đứng ngoài

hoặc dửng dưng với hoạt động nghiên cứu khoa học.

Công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà trường tập

trung vào các điều kiện, biện pháp, cơ chế, xây dựng các quy chế để thúc đẩy, nâng cao chất

lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên, đồng thời khơi dậy lòng say mê khoa học ở sinh

viên, phát hiện những tài năng trẻ để bồi dưỡng đào tạo. Nếu khéo tổ chức và hỗ trợ thì chắc

chắn sinh viên sẽ tạo ra những sản phẩm khoa học có giá trị cao.

Nội dung công tác quản lý NCKH của sinh viên bao gồm việc quản lý sinh viên tham

gia thực hiện các đề tài NCKH, các dự án… dưới sự hướng dẫn của giáo viên; Sinh viên

tham gia áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào thực tiễn; Việc nâng cao chất

lượng môn học và khoá luận tốt nghiệp; Sinh viên tham gia thi Olympic, các giải thưởng cấp

trường, cấp bộ, Eureka,Vifotec và các giải khác.

Tóm lại, thực hiện một cơ chế quản lý tối ưu nhằm sử dụng nguồn lực trong nhà trường

một cách có hiệu quả. Tiếp cận lịch sử, tiếp cận đặc điểm sinh viên, tiếp cận đặc điểm hoạt

động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên, tiếp cận đặc điểm quản lý, quản lý giáo

dục, quản lý sinh viên, tiếp cận tổng hợp (văn hoá- đạo đức, kinh tế- xã hội, tâm lý…) sẽ

giúp xây dựng cơ chế thích hợp cho việc quản lý sinh viên nói chung và việc quản lý hoạt

động học tập và nghiên cứu khoa học nói riêng của sinh viên ĐHQG-HCM.

Qua phần cơ sở lý luận nêu trên, tác giả chấp nhận khái niệm:

- Công tác quản lý hoạt động học tập của Nguyễn Thành Hưng “Chất lượng giảng dạy và

học tập phản ánh tập trung tình trạng và chất lượng chung của toàn bộ giáo dục; và xét về

nguyên tắc, nó thống nhất với chất lượng quản lý, chất lượng nghiên cứu và thông tin, chất

lượng đào tạo”.

-Công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà trường tập trung

vào các điều kiện, biện pháp, cơ chế, xây dựng các quy chế để thúc đẩy, nâng cao chất lượng

nghiên cứu khoa học của sinh viên, đồng thời khơi dậy lòng say mê khoa học ở sinh viên,

phát hiện những tài năng trẻ để bồi dưỡng đào tạo. Nếu khéo tổ chức và hỗ trợ thì chắc chắn

sinh viên sẽ tạo ra những sản phẩm khoa học có giá trị cao.

Chương 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐHQG-HCM

2.1 Cơ sở thực tiễn

- Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh là một đơn vị hành chánh sự nghiệp có thu thuộc hệ

thống Giáo dục Đại học của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đại học Quốc gia

Tp Hồ Chí Minh chịu sự quản lý Nhà nước trong phạm vi chức năng của các Bộ, các cơ quan

thuộc Chính phủ. Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh được trực tiếp quan hệ với các Bộ, các

cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các Tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương. Giám đốc Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh được báo cáo trực tiếp lên

Chính phủ, đồng thời báo cáo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về những vấn đề liên quan

đến hoạt động và phát triển của mình.

- Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh có các nhiệm vụ chính sau:

 Đào tạo chuyên gia các ngành khoa học và công nghệ theo các trình độ đại học, cao

học, tiến sĩ.

 Nghiên cứu khoa học, công nghệ gắn với giảng dạy đào tạo, thông tin khoa học và

triển khai các kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống.

 Hỗ trợ về học thuật cho một số trường Đại học khác và một số trường Cao đẳng ở các

địa phương.

- Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh là đơn vị đi đầu trong cả nước về triển khai, áp dụng

đào tạo học chế tín chỉ . Hiện nay, các trường đại học thành viên Đại học Quốc gia Tp Hồ

Chí Minh đang đào tạo 112 ngành ở các bậc đại học, 88 ngành đào tạo thạc sĩ và 80 ngành

đào tạo tiến sĩ. Trong đó có nhiều ngành mũi nhọn của kinh tế xã hội như: Công nghệ thông

tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, cơ khí- tự động hoá….Nghiên cứu khoa học

và chuyển giao công nghệ là hai nhiệm vụ gắn liền với sự hình thành và phát triển ĐHQG-

HCM.

Thực trạng công tác quản lý học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-

HCM thể hiện ở các kết quả nghiên cứu được trình bày:

Kết quả nghiên cứu từ sinh viên 

Kết quả nghiên cứu từ cán bộ 

So sánh một số mặt đánh giá giữa sinh viên và giảng viên 

2.2. Một số kết quả chung

2.2.1. Sinh viên

Tổng số: 584 Giới tính: - Nam: 261 - Nữ: 323

2.2.2. Cán bộ, giảng viên:

Tổng số: 102

2.3. Kết quả nghiên cứu từ sinh viên

2.3.1. Lý do và các hoạt động

Biểu đồ 2.1:Lý do sinh viên thi vào ĐHQG-HCM

16%

11%

Năng lực, sở thích

56%

Thích nghiên cứu khoa học

17%

Người khác khuyên bảo

Dễ tìm việc làm sau khi tốt nghiệp

Qua kết quả của biểu đồ 2.1 cho thấy lý do sinh viên thi vào ĐHQG-HCM là do chính khả

năng và việc tự định hướng cho tương lai của mình (năng lực, sở thích, nghiên cứu khoa học

và để dễ tìm việc làm sau khi tốt nghiệp) chứ không lệ thuộc vào sự khuyên bảo của người

khác. Kết quả này nói lên sự trưởng thành của đại đa số thanh niên, sinh viên ngày nay trong

việc lựa chọn nghề nghiệp của mình. Đa số sinh viên thi vào ĐHQG-HCM với động cơ đúng

đắn, nghiêm túc, có mục đích trong sáng để được đào tạo thành cán bộ khoa học trẻ, phát

huy khả năng nghiên cứu khoa học của mình, góp phần xây dựng đất nước.

Ý kiến cho rằng thi vào ĐHQG-HCM là để dễ kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp có tỷ lệ thấp

với tần số 109 (chiếm tỷ lệ 16%). Nhưng vấn đề này tất yếu khách quan bởi sự chi phối của

thị trường lao động sàng lọc thông qua năng lực tay nghề thực tế của từng sinh viên. Ngoài

ra, có những lý do khác như:

Vào đại học là ước mơ -

Để có hành trang vào đời -

-

Yêu thích ngành học

Thích vào ĐHQG-HCM -

Nhu cầu xã hội -

Học phí thấp -

Đội ngũ giảng viên tốt -

Điều kiện học tập tốt -

Lựa chọn ngoài ý muốn nhưng càng học càng thích -

Thích làm việc về xã hội -

Bằng cấp có giá trị… -

Bảng 2.1 Các hoạt động tham gia trong nhà trường

Tỷ lệ % Thứ bậc Nội dung N

Sinh hoạt tập thể 304 51 2

Văn nghệ 137 23 6

Thể dục thể thao 199 33 4

Học tập 342 58 1

Nghiên cứu khoa học 207 35 3

Hoạt động xã hội 162 27 5

Qua kết quả của bảng 2.1 cho thấy sinh viên tham gia các hoạt động chủ đạo trong nhà

trường là các hoạt động học tập (58%) thứ bậc 1, sinh hoạt tập thể (51%) thứ bậc 2, nghiên

cứu khoa học (35%) thứ bậc 3, kết quả phù hợp với mục tiêu đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực,

chất lượng cao của ĐHQG-HCM; Các hoạt động (thể dục thể thao, hoạt động xã hội, văn

nghệ) không được sinh viên cho là các hoạt động chủ đạo cần tham gia trong nhà trường.

Thể dục thể thao với tần số 199 (chiếm tỷ lệ 33%) và văn nghệ với tần số 137 (chiếm tỷ lệ

23%) là món ăn tinh thần thiết yếu đối với thanh niên và đem lại tác dụng giáo dục thẩm mỹ

to lớn, giúp bồi dưỡng tâm hồn, xua tan bao mệt nhọc trong việc học tập, rèn luyện thân thể

để sinh viên có sức khỏe, nhưng sinh viên ĐHQG-HCM tham gia các hoạt động này với tần

số thấp chứng tỏ việc tổ chức chưa thực sự có sức hấp dẫn thu hút nên sinh viên không cảm

thấy nhu cầu thiết yếu của mình về vấn đề này.

Thực trạng quản lý hoạt động văn nghệ và thể dục thể thao ở ĐHQG-HCM cũng chưa đáp

ứng được nhu cầu cả về quản lý và hiệu quả: Hội thao sinh viên được tổ chức hai năm một

lần, Hội diễn văn nghệ cũng được tổ chức hai năm một lần xen kẽ nhau. Kinh phí tổ chức

của ĐHQG-HCM vào khoảng từ 70-100 triệu (chưa kể các đơn vị tài trợ) cho mỗi lần tổ

chức nhưng nhìn chung việc tổ chức vẫn đem lại hiệu quả chưa cao và còn mang tính hình

thức.

Đặc biệt, hoạt động xã hội có tỷ lệ tham gia thấp với tần số 162 (chiếm tỷ lệ 27 %) thứ bậc 5,

bởi vì các trường nằm ở khu vực nội thành, mỗi khi tổ chức hoạt động xã hội thường phải đi

xa thành phố nên ít có điều kiện tổ chức cho các em và vì công tác xã hội đôi khi đòi hỏi

phải đóng góp thêm tiền, phải đi xa dài ngày, tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng cán bộ

quản lý không vì thế mà thiếu đi sự quan tâm đến loại hình này vì nó góp phần rất hữu hiệu

trong việc rèn nhân cách cho sinh viên.

Ngoài ra còn các hoạt động khác trong nhà trường như : 

Đi chơi -

Các cuộc thi do Đoàn tổ chức -

Câu lạc bộ đội, nhóm -

- Mùa hè xanh

Hiến máu nhân đạo -

Chủ nhật xanh -

Hoạt động Đoàn, Hội -

Các hoạt động do trường tổ chức -

Từ thiện -

Bảng 2.2. Việc tổ chức các hoạt động xã hội trong nhà trường

Ý kiến về việc tổ chức các hoạt động xã hội Tần số Tỷ lệ

cho sinh viên trong Nhà trường

Thiết thực 172 29,3

Không thiết thực 70 11,9

Ý kiến về việc tổ chức các hoạt động xã hội Tần số Tỷ lệ

cho sinh viên trong Nhà trường

Phù hợp 103 17,5

Chưa phù hợp 111 18,9

Qua kết quả của bảng 2.2 cho thấy ý kiến sinh viên về việc tổ chức các hoạt động xã hội

trong nhà trường là thiết thực nhưng chưa phù hợp. Thực sự qua quan sát thực tế các đợt

chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh của sinh viên ĐHQG-HCM cho thấy đây là một trong

những hoạt động xã hội thiết thực giúp sinh viên bước đầu thâm nhập thực tế cuộc sống

nhưng việc tổ chức chưa phù hợp và chưa tận dụng được hết khả năng của sinh viên. Ví dụ

đa số sinh viên ngành công nghệ thông tin ĐHQG-HCM được phân công làm những việc lao

động chân tay như nhổ cỏ, phụ hồ… trong khi đó có thể tận dụng được trí tuệ của các em

bằng cách tổ chức, huy động các em dạy tin học cho các cán bộ tại các làng xã ….

Câu lạc bộ đội, nhóm hầu như đều có mặt tại tất cả các trường nhưng vẫn mang tính tự phát

là chính, nội dung sinh hoạt nghèo nàn và việc huy động kinh phí tổ chức rất khó khăn.

Hoạt động xã hội đều được các sinh viên nhìn nhận là thiết thực vì sinh viên ngày nay đã thể

hiện tính chủ động tích cực trong lao động phục vụ xã hội phù hợp với trình độ, hòan cảnh

của mình. Họ đã chú ý đến hiệu quả thiết thực, sáng tạo nhiều hình thức phong phú phục vụ

xã hội như các hoạt động từ thiện, các phong trào “Ánh sáng văn hóa”, “Xung kích”, “Tình

nguyện”. Phong trào sinh viên về miền núi xóa mù chữ trong dịp hè phát triển mạnh ở khắp

các tỉnh, thành, các lớp học tình thương, các phong trào “xanh, sạch, đẹp thành phố”, “Hiến

máu nhân đạo” có ý nghĩa thiết thực…. Các hoạt động ấy đã góp phần tạo ra sức sống mới

cho phong trào sinh viên trong thời kỳ mới, không những mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội

thiết thực mà còn làm cho hình ảnh sinh viên ngày càng đẹp. Nhưng do cách quản lý và tổ

chức các hoạt động xã hội của nhà trường chưa phù hợp vì thế khi so sánh với các hoạt động

khác (như hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, nghiên cứu khoa học) thì hoạt động xã hội ít

được sinh viên quan tâm và tham gia.

Bảng 2.3 Hoạt động xã hội trong nhà trường được ưa thích

Hoạt động xã hội trong Nhà trường được Tần số Tỷ lệ Thứ

bậc ưa thích

1 Mùa hè xanh 390 66,4 1

2 Xuân tình nguyện 114 19,4 2

3 Hiến máu nhân đạo 95 16,2 3

Qua bảng 2.3 cho thấy hoạt động Mùa hè xanh là hoạt động xã hội được sinh viên ưa thích

nhất chiếm thứ bậc 1 (tỷ lệ 66,4%) đây là hoạt động được sinh viên hưởng ứng đông đảo,

hàng năm nhà trường tổ chức Lễ ra quân cho các “chiến sĩ” tình nguyện, Mùa hè xanh mang

đậm dấu ấn trong cuộc đời sinh viên. Xuân tình nguyện thứ bậc 2 (tỷ lệ 19,4%) đây là loại

hình hoạt động mới mẻ trong các năm gần đây nhưng cũng thu hút được sinh viên, chiến

dịch Xuân tình nguyện 2006 đã phát động chương trình “Biến Block lịch thành quyển sách

cho người khiếm thị, tặng băng cát sét trắng cho thư viện nói” đã được sinh viên hưởng ứng,

kết quả đã góp được 8.500 cuốn lịch để đóng thành những cuốn vở ghi chữ nổi Braille. Hiến

máu nhân đạo thứ bậc 3 (tỷ lệ 16,2%). Ngoài ra còn các hoạt động khác như:

Chủ nhật xanh -

Hoạt động Đoàn, Hội -

Các hoạt động do trường tổ chức -

Biểu đồ 2.2 Hoạt động xã hội được sinh viên ưa thích.

16,2%

19,4%

64,4%

Mùa hè xanh

Xuân tình nguyện

Hiến máu nhân đạo

Bảng 2.4. Hoạt động cần thiết đối với sinh viên trong nhà trường

Stt Hoạt động Trung bình ĐLTC Thứ bậc

1 Học tập ở lớp thường xuyên 1,373 0,568 2

2 Tự học, tự nghiên cứu 1,649 0,502 1

3 Học nhóm 1,110 0,585 4

4 Nghiên cứu khoa học 1,200 0,604 3

5 Công tác xã hội 1,020 0,503 5

Qua việc khảo sát mức độ cần thiết của các hoạt động trong nhà trường đối với sinh viên, kết

quả của bảng 2.4 cho thấy: hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học vẫn chiếm tỷ lệ cao

nhất so với tất cả các hoạt động khác. Hoạt động tự học, tự nghiên cứu thứ bậc 1 với trung

bình 1,649 (Độ lệch tiêu chuẩn 0,502). Qua thực tế quan sát cho thấy tự học, tự nghiên cứu là

một bộ phận không thể tách rời của quá trình học tập của sinh viên, tự học là tự quản lý việc

học tập, tự động vạch kế hoạch học tập rồi tự triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự

giác, tự làm chủ thời gian để học và tự kiểm tra, đánh giá việc học, tự học đòi hỏi sinh viên

phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác, kiên trì cao. Việc tự học của bản thân sinh viên chính là

yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng của họat động học tập và nó là một trong những phẩm

chất cần thiết quan trọng cho sự phát triển và thành đạt lâu dài của mỗi con người mà nhà

trường cần quan tâm. Nhưng nhìn chung quản lý hoạt động tự học trong nhà trường còn

mang tính tự phát. Nhà trường chưa chú ý bồi dưỡng phương pháp, hướng dẫn tự học, giáo

dục động cơ tự học chưa sâu, trừ giáo viên là có hướng dẫn tự học (cho bài tập về nhà…).

Chưa huấn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên, xây dựng nề nếp tự học, không tổ chức cách

học nhóm, tổ tự học có bài bản, Đoàn Thanh niên- Hội sinh viên có phát động phong trào tự

học nhưng nặng về hình thức. Sinh viên hoàn toàn không có (sân chơi tự học) để nâng cao

hiệu quả tự học. Do đó chất lượng tự học, tự nghiên cứu sẽ không cao vì thực chất không ít

sinh viên tự học chỉ là hình thức và đối phó…

Tuy biết được rằng hoạt động tự học, tự nghiên cứu là ưu việt nhất nhưng không phải sinh

viên nào cũng có thói quen tự học, đa phần sinh viên có thói quen lên lớp nghe giảng vì thế

hoạt động học tập ở lớp thường xuyên với trung bình 1,373 (Độ lệch tiêu chuẩn 0,568) thứ

bậc 2, hoạt động nghiên cứu khoa học với trung bình 1,200 (Độ lệch tiêu chuẩn 0,604) thứ

bậc 3.

Các hoạt động chiếm tỷ lệ thấp là hoạt động học nhóm với trung bình 1,110 thứ bậc 4 vì thực

sự còn không ít sinh viên không có tính tự giác, lạm dụng việc học nhóm để tán ngẫu, đùa

nghịch, đánh cờ carô… làm ảnh hưởng đến người khác. Việc học tập tuy mang tính cá nhân,

phụ thuộc vào trí tuệ, ý chí, nghị lực của từng người nhưng lại có nhiều công việc, công đoạn

trong học tập nếu biết làm việc tập thể thì kết quả sẽ hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. Vì vậy để

việc học nhóm có hiệu quả điều cốt lõi là phải xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn

và ý thức tự giác, tinh thần tự rèn luyện tốt, được cộng hưởng với vai trò giám sát, kiểm tra

nhắc nhở, đôn đốc và quản lý thường xuyên của nhà trường.

Công tác xã hội với trung bình 1,020 thứ bậc 5 cho thấy các hoạt động chủ đề chủ điểm chưa

hấp dẫn sinh viên nên cần phải đầu tư thêm và tìm biện pháp thực hiện tạo hứng thú cho sinh

viên nhiều hơn. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên chưa phát huy hết vai trò của mình trong

công tác tổ chức, tuyên truyền…nên công tác xã hội ít được các sinh viên quan tâm

đến.Trong khi đó công tác xã hội là một trong những yếu tố để tính điểm rèn luyện cho các

em và đánh giá ý thức của các em đối với cộng đồng.

2.3.2. Hoạt động học tập

Biểu đồ 2.3. Việc phổ biến về quy chế học tập của sinh viên

1,6%

12,9%

85,5%

Không

Không trả lời

Qua kết quả của biểu đồ 2.3 cho thấy 502 sinh viên đồng ý với đánh giá có được phổ biến

các qui chế học tập chiếm tỷ lệ 85,5%. Thực tế vào đầu mỗi năm học, nhà trường đều tổ

chức cho sinh viên học tập “Tuần sinh hoạt công dân đầu năm học” nhằm phổ biến các quy

chế, quy định về học tập và sinh hoạt, giới thiệu về nhà trường nhưng còn 76 sinh viên chiếm

tỷ lệ 12,9% trả lời không được hướng dẫn nhưng tỷ lệ này tương đối thấp.

Bảng 2.5. Đánh giá kết quả học tập qui chế của sinh viên

Mức độ nắm vững nội quy, N Tỷ lệ

quy chế học tập

Hiểu, nắm cụ thể 383 65,2

Không hiểu 109 18,6

Không quan tâm 78 13,3

Qua kết quả của bảng 2.5 cho thấy mức độ nắm vững nội quy, quy chế học tập của sinh viên

ĐHQG-HCM: 383 sinh viên xác nhận hiểu, nắm cụ thể (chiếm tỷ lệ 65,2%) thứ bậc 1; 109

sinh viên không hiểu (chiếm tỷ lệ 18,6%) thứ bậc 2; 78 sinh viên cho là không quan tâm

(chiếm tỷ lệ 13,3%) thứ bậc 3. Từ việc nắm và hiểu rõ các nội quy, quy chế học tập (chiếm

thứ bậc cao nhất) sinh viên tự biết phân bổ thời gian học tập và sinh hoạt để đạt kết quả cao.

Chúng tôi khảo sát cách phân bố thời gian học tập và sinh hoạt của sinh viên qua những nội

dung sau:

2.3.3. Cách phân bố thời gian

Bảng 2.6. Cách bố trí thời gian cho công việc hàng ngày:

Stt Thời gian Công việc N Tỷ lệ

1 Từ 5 giờ – 7 giờ

Thể dục, Ăn sáng 379 64,6

148 Ngủ 25,2

13 Học 2,2

47 Không ghi 8,0

Từ 7 giờ – 9 giờ 2

511 87,1 Học

19 Nghỉ ngơi 3,2

10 Ăn sáng 1,7

47 Không ghi 8,0

Từ 9 giờ – 12 giờ 3

509 86,7 Ăn cơm

8 Học 1,4

21 Nghỉ ngơi 3,6

1 Vệ sinh nhà cửa 0,2

1 Làm thêm 0,2

47 Không ghi 8,0

4 Từ 12 giờ - 13 giờ

487 Nghỉ ngơi 83,0

47 Học 8,0

3 Đi thư viện 0,5

1 Đi làm 0,2

49 Không ghi 8,3

5 Từ 13 giờ - 15 giờ

410 Học 69,8

3 Dọn dẹp nhà 0,5

10 Đọc sách 1,7

110 Nghỉ ngơi 18,7

3 Làm việc khác 0,5

3 Đi thư viện 0,5

48 Không ghi 8,2

6 Từ 15 giờ -18 giờ

Học 386 65,8

Nghỉ ngơi 72 12,3

Đọc sách 13 2,2

Đi làm thêm 2 0,3

Ăn tối 10 1,7

Chơi thể thao 50 8,5

Đi thư viện 2 0,3

Sinh hoạt đoàn đội 1 0,2

Không ghi 51 8,7

7 Từ 18 giờ - 21 giờ

Xem phim 12 2,0

Học 211 35,9

Giải trí 178 30,3

Sinh hoạt 98 16,7

Thể thao 26 4,4

Làm thêm 12 2,0

Không ghi 50 8,5

8 Từ 21 giờ - 24 giờ

Học 401 68,3

Ăn tối, ngủ 49 8,3

Xem phim, ngủ 78 13,3

Đọc sách 10 1,7

Không ghi 49 8,3

Qua kết quả của bảng 2.6 cho thấy hoạt động chiếm nhiều thời gian theo

thứ tự là:

Công việc N Thứ bậc Stt

1 Sinh hoạt cá nhân (Thể dục, ăn uống, 1.891 2

ngủ, nghỉ ngơi)

2 Học 1.987 1

3

Vệ sinh nhà cửa 4 8

4 Làm thêm 19 6

5 Đi thư viện 8 7

6 Đọc sách 33 5

7 Làm việc khác 3 9

8 Chơi thể thao 76 4

9 Sinh hoạt Đoàn, Hội 1 10

10 Giải trí 256 3

+ Sinh viên phân bổ thời gian học tập với tần số 1.987 thứ bậc 1 chứng tỏ sinh viên rất quan

tâm đến hoạt động học tập và hoạt động này chiếm nhiều thời gian nhất hay có thể nói đây là

hoạt động chủ đạo của sinh viên ĐHQG-HCM. Qua khảo sát thời gian học tập của sinh viên

chúng tôi nhận thấy các tỷ lệ sau:

-Buổi sáng (từ 5g đến 7g): 2,2%; (từ 7g đến 9g): 87,1%; ( từ 9g đến 12g): 1,4%.

- Buổi chiều ( từ 12g đến 13g): 8,0%; (từ 13g đến 15g): 69,8%; (từ 15g đến 18g): 65%.

- Buổi tối ( từ 18g đến 21g): 35,9%; (từ 21g đến 24g): 68,3%.

Sinh viên dành thời gian rất nhiều trong ngày cho việc học tập trừ giờ nghỉ. Đối chiếu với

bảng 2.4 đã được phân tích ở trên về mức độ cần thiết của các hoạt động thì việc kiểm

nghiệm này hoàn toàn phù hợp. Chứng tỏ sinh viên rất quan tâm đến việc học và dành nhiều

thời gian cho việc học. Không như một số quan niệm cho rằng sinh viên ngày nay thờ ơ, lơ là

việc học, không lo học….

Kết quả chung là:

12

Biểu đồ 2.4 :Thời gian trung bình mỗi ngày dành cho việc học tập của SV

9,6803

10

8

6,6751

6

Học tập Ôn tập

3,6702

4

3,3487

2

0

Số giờ (TB)

ĐLTC

Thời gian trung bình mỗi ngày dành cho việc học tập của sinh viên 6,6751 với 489 ý kiến

(Độ lệch tiêu chuẩn 3,3487) và thời gian trung bình mỗi ngày sinh viên dành cho việc ôn tập

là 9,6803 (Độ lệch tiêu chuẩn 3,6702) với 474 ý kiến khẳng định nhận định trên.

Thời gian dành cho sinh hoạt cá nhân (Thể dục, ăn uống, ngủ, nghỉ ngơi) với tần số 1.891

thứ bậc 2, giải trí tầng số 256 thứ bậc 3.

+ Các họat động được xếp ở các thứ bậc thấp: chơi thể thao tầng số 76 thứ bậc 4, đọc sách

tầng số 33 thứ bậc 5. Sinh viên ít chịu dành thời gian chơi thể thao, trong khi đó thể thao rất

có lợi cho sức khỏe. Ngoài ra, sinh viên ít dành thời gian cho việc đọc sách, chúng ta biết

sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, sách vở, báo chí có liên quan và cả các tài liệu không liên

quan, sách văn nghệ, sách giải trí khác đều quan trọng. Kiến thức là do tích lũy mỗi ngày cập

nhật một ít thì đầu óc mới mở mang phong phú. Sách vở là tài sản vô giá là tri thức cô đọng

của toàn nhân loại bao đời nay. Sách vở dạy đạo lý, dạy cách sống, cách làm việc, dạy ta

sáng tạo. Vì vậy, sinh viên nên coi đọc sách là việc thích thú.

+ Các hoạt động có tần số và thứ bậc thấp nhất:

Đi làm thêm có tần số 19 thứ bậc 6 cho thấy sinh viên không dành thời gian nhiều cho

việc đi làm thêm chứng tỏ nhu cầu làm thêm của sinh viên không cao.

Đi thư viện tần số 8 thứ bậc 7 đây là con số đáng ngạc nhiên vì trong một đại học đa

ngành, đa lĩnh vực, thư viện là phương tiện phục vụ đắc lực cho việc học tập, giảng dạy và

nghiên cứu. ĐHQG-HCM có cả một hệ thống thư viện hiện đại gồm khoảng 10 thư viện,

trong đó thư viện lớn nhất là Thư viện Trung tâm sử dụng hệ thống kiểm soát tự động và

mượn/ trả tài liệu ứng dụng công nghệ sóng vô tuyến được trang bị đầu tiên ở Việt nam. Hệ

thống máy photocopy tự phục vụ, trả bằng tiền xu tự động cũng lần đầu tiên được sử dụng tại

thư viện Việt Nam. Hệ thống máy tính thư viện cấu hình mạnh kết nối vào hệ thống mạng

với đường truyền băng thông rộng giúp truy cập dễ dàng vào hệ thống mạng toàn cầu. Phần

tra cứu tài liệu đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng; có nhiều ngôn ngữ tùy chọn. Đó

là kho tài liệu học tập và nghiên cứu chất lượng cao, đặc biệt là lượng tài liệu điện tử phong

phú của các nhà xuất bản uy tín trên thế giới với khối lượng sách điện tử rất lớn. Vậy mà

sinh viên ĐHQG-HCM đi thư viện rất ít và không dành nhiều thời gian cho việc đi thư viện.

Đây là con số đáng để nhà trường quan tâm về công suất sử dụng.

Vệ sinh nhà cửa tần số 4 thứ bậc 8 có lẽ vì sinh viên thường ở tập thể nên ít quan tâm đến

những việc thuộc sở hữu chung.

Làm việc khác tần số 3 thứ bậc 9 đây là những công việc tự do cá nhân như: tham quan,

du lịch, đi thăm bạn bè, đi sinh nhật, giao lưu, cắm quán…

Sinh hoạt Đoàn-Hội tần số 1 thứ bậc 10. Một điều đáng lo ngại là ngày nay sinh viên

không dành thời gian thường xuyên cho sinh hoạt Đoàn-Hội và cảm thấy thật gò bó trong

các buổi sinh hoạt, điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ. Thứ nhất, sinh họat Đoàn-Hội

mang tính hình thức, nội dung không phong phú. Thứ hai, sinh hoạt Đoàn-Hội chưa có

những hoạt động phù hợp với sự mong mỏi của sinh viên, sinh viên cảm thấy không hấp dẫn

và cần thiết, cũng như không mang lại cho sinh viên những điều bổ ích. Thứ ba, sinh hoạt

Đoàn-Hội làm cho sinh viên mất rất nhiều thời gian, không còn thời gian dành cho việc học

tập. Chúng ta chưa kết luận vấn đề lý tưởng của sinh viên nhưng thông qua việc sinh hoạt

Đoàn-Hội của sinh viên chúng ta có thể đánh giá được phần nào lý tưởng của sinh viên ngày

nay đối với các tổ chức chính trị xã hội. Do đó, các tổ chức Đoàn-Hội cần xem lại các hoạt

động của mình làm sao để sinh viên tham gia với tinh thần tự nguyện, tự giác và kêu gọi

được nhiệt huyết thanh niên, xứng đáng là cánh tay phải của Đảng.

7,000

6,300

6,000

5,096

Biểu đồ 2.5. Cách phân bổ thời gian dành cho hoạt động học tập hàng tuần

)

4,488

5,000

B T

3,666

4,000

3,014

3,000

2,247

( n ầ u t / i ổ u B

2,000

1,000

-

Học ở lớp

Đi thư viện

Đọc sách Đi học thêm

Tự học Chuẩn bị bài, làm bài

Qua kết quả của biểu đồ 2.5 về cách phân bổ thời gian dành cho hoạt động học tập hàng tuần,

so sánh tỷ lệ trên theo độ lệch tiêu chuẩn cho thấy: Học ở lớp là cao nhất với độ lệch chuẩn

3,329 và trung bình 6,300 (thứ bậc1), tiếp đó là tự học (thứ bậc 2) với độ lệch chuẩn 3,023 và

trung bình 5,096; Chuẩn bị bài, làm bài với độ lệch chuẩn 2,390 và trung bình 4,488 (thứ bậc

3). Sinh viên chủ yếu dành thời gian cho việc học ở lớp và tự học và chuẩn bị bài tuy nhiên

với độ lệch tiêu chuẩn như trên nhà trường cần lưu ý đến việc sắp xếp thời khóa biểu lên lớp

để sinh viên có thì giờ tự học. Qua tìm hiểu phản ánh của sinh viên trong phiếu rõ ràng hiện

nay là còn nhiều bất hợp lý. Ví dụ: có lớp học 3 tiết buổi sáng, chiều chỉ 2 tiết chẳng hạn. Các

hoạt động khác có tỷ lệ thấp: đọc sách (thứ bậc 4) với độ lệch chuẩn 2,262 và trung bình

3,666; Đi học thêm (thứ bậc 5) với độ lệch chuẩn 1,284 và trung bình 3,014; Đi thư viện (thứ

bậc 6) với độ lệch chuẩn 1,687 và trung bình 2,247 điều này phù hợp với kết quả bảng 2.6 đã

phân tích ở trên.

Bảng 2.7 Cách phân bổ thời gian dành cho các hoạt động cá nhân

Stt Hoạt động Buổi/ tuần Thứ

bậc Trung bình ĐLTC

3,7904 2,8729 2 1 Giải trí

2,5450 2,0064 4 2 Giao lưu bạn bè

3,1613 2,1177 3 3 Đi làm thêm

4 Đọc sách báo, xem tivi, nghe 4,6546 2,3960 1

đài

5 Tiếp khách 2,0407 1,8076 5

Ngoài hoạt động học tập, hoạt động chiếm nhiều thời gian kế tiếp của sinh viên là thời gian

dành cho các hoạt động cá nhân, qua kết quả của bảng 2.7 cho thấy: Sinh viên dành thời gian

giải trí, đọc sách báo, xem tivi, nghe đài thứ bậc 1 và 2 vì nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh

thần của cá nhân sinh viên đòi hỏi được thỏa mãn. Thời gian dành cho việc đi làm thêm, giao

lưu bạn bè, tiếp khách ở thứ bậc thấp hơn có lẽ vì sinh viên không có nhu cầu nhiều về vấn

đề này.

Biểu đồ 2.6 : Cách phân bổ thời gian dành cho hoạt động cá nhân

4,6546

3,7904

3,1613

2,5450

2,0407

B) T ( n ầ u t / i ổ u B

5,0000 4,5000 4,0000 3,5000 3,0000 2,5000 2,0000 1,5000 1,0000 0,5000 -

Giải trí

Tiếp khách

Giao lưu bạn bè

Đi làm thêm

Đọc sách, báo, xem tivi, nghe đài

2.3.4. Đánh giá các mặt của hoạt động học tập

Bảng 2.8. Hoạt động nào cần thiết cho việc học tập

Mức độ Thứ Stt

Các hoạt động bậc Trung ĐLTC

bình

1 Chuẩn bị bài 0,596 5 1,359

2 Đọc sách 0,546 3 1,433

Phương pháp tự học 3 0,565 1 1,568

Phương pháp ghi chép bài giảng 1,282 4 0,598 6

Thủ thuật ghi nhớ bài 5 0,603 2 1,457

Sắp xếp thời gian 6 0,593 4 1,419

7 Kiểm tra 0,647 8 1,041

8 Thi cử 0,630 7 1,273

Qua kết quả của bảng 2.8 cho thấy hoạt động cần thiết cho việc học tập của sinh viên được

sắp xếp theo thứ bậc sau: Phương pháp tự học với độ lệch chuẩn 0,565 thứ bậc 1, thủ thuật

ghi nhớ bài với độ lệch chuẩn 0,603 thứ bậc 2 và đọc sách với độ lệch chuẩn 0,546 thứ bậc 3.

Qua phân tích chúng ta nhận thấy sinh viên dành rất nhiều thời gian trong tuần, trong ngày

cho việc học tập nhưng không mấy sinh viên đạt được kết quả học tập như mong muốn, bảng

10 cho thấy khâu yếu nhất của sinh viên chính là điều sinh viên cần thiết nhất cho việc học

tập của mình đó chính là phương pháp tự học, phương pháp ghi nhớ bài và phương pháp đọc

sách. Nói chung là sinh viên cần đến phương pháp học tập. Chỗ yếu nhất của sinh viên là

phương pháp học tập, ỷ lại vào thầy cô, dựa dẫm vào bài ghi, ít tìm tòi tư liệu thông tin,

không đưa ra được những suy nghĩ độc lập về kỹ năng, về kiến thức giáo viên trình bày trong

bài học, sức ỳ trong tâm lý còn đến từ sự ỷ lại. Chung quy lại là sinh viên thiếu sự tự tin cần

thiết để đưa ra quan điểm của mình và bảo vệ quan điểm đó. Sinh viên vẫn học theo kiểu thụ

động, đến lớp nghe và ghi chép những gì thầy giảng, sau đó cố gắng nhớ những kiến thức ấy

để trình bày lại trong bài thi cuối học kỳ. Những kỳ thi này thường được tổ chức theo kiểu tự

luận và thường chỉ chú trọng đến một phần nào đó của nội dung học tập nên khó phản ánh

khách quan và chính xác kết quả học tập của sinh viên. Muốn nâng cao được chất lượng học

tập và rèn luyện bản thân, sinh viên cần nỗ lực tích cực tự đào tạo, tự nghiên cứu và tất nhiên

sinh viên cần được giáo viên hướng dẫn nhiều hơn về phương pháp học tập. Bởi vì “Không

có phương pháp thì người tài cũng lạc lối, có phương pháp thì người bình thường cũng làm

được những việc phi thường” (Socrates)

-Hoạt động cần thiết cho việc học tập được xếp ở thứ hạng thấp nhất là thi cử (thứ bậc 7),

kiểm tra (thứ bậc 8). Thi cử và kiểm tra là phương tiện để nhà quản lý đánh giá hoạt động

học tập của sinh viên nhưng sinh viên lại cho rằng không cần thiết. Có lẽ việc thi cử và kiểm

tra trong nhà trường đã làm cho sinh viên cảm thấy nặng nề và sinh viên luôn có tâm lý học

để đối phó với thi cử.

Vậy, nguyên nhân dẫn đến việc hạn chế trong học tập của sinh viên được khảo sát ở bảng

sau:

Bảng 2.9. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong học tập của sinh viên.

Stt Lựa chọn Thứ

Các nguyên nhân bậc Đúng %

1 Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác 496 84 1

2 Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa 314 53,5 5

việc học tập

3 Công tác quản lý sinh viên học tập trong 297 50,6 6

Nhà trường chưa tốt

4 Thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện, cơ 438 74,6 3

sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác

học tập

5 Do việc tổ chức cho sinh viên học tập 490 83,5 2

chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế

họach, nội dung, phương pháp.

6 Do ảnh hưởng của các hoạt động khác 336 57,2 4

Qua kết quả của bảng 2.9 cho thấy nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong học tập của

sinh viên được xếp ở thứ bậc cao đó là:

Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác có 496 sinh viên công nhận là đúng chiếm tỷ lệ

84% thứ bậc 1. Phần lớn, sinh viên coi việc học tập là phương tiện chứ không phải mục đích.

Học lấy điểm cao, học để đạt học bổng, học để không phải thi lại, thậm chí học để bố mẹ vui

lòng, học để đối phó… Hàng trăm lý do tủn mủn làm cho sinh viên không có được thái độ

học tập tích cực. Học tập tích cực là quá trình tự biến đổi và làm phong phú bản thân mình

bằng cách chọn và xử lý thông tin từ môi trường xung quanh. Tính tích cực, tự giác là điều

cần phải có để sinh viên đạt được kết quả tốt trong học tập nhưng đây lại là nguyên nhân dẫn

đến những hạn chế trong học tập của sinh viên ĐHQG-HCM, sinh viên chưa phát huy được

tính tích cực, tự giác trong các hoạt động học tập. Đa số sinh viên chúng ta đều rất thụ động.

So sánh với sinh viên các nước ta thua họ ở mức độ tính tích cực, chủ động, năng động. Nhất

là trong học tập, sinh viên ghi chép làm theo lời thầy, theo sách vở hướng dẫn, theo bài mẫu

mà không tìm tòi, đặt vấn đề, hoài nghi cái đã có. Không tích cực học hỏi thầy, học hỏi bạn,

đặt câu hỏi với thầy, với bạn. Không tích cực học nhóm, không tổ chức tranh luận, thảo luận.

Sinh viên các nước rất chủ động trong các hoạt động học tập, sinh hoạt nội, ngoại khóa, họat

động xã hội, nghiên cứu khoa học;

Do việc tổ chức cho sinh viên học tập chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế hoạch, nội

dung, phương pháp có 490 sinh viên công nhận là đúng (chiếm tỷ lệ 83,5%) thứ bậc 2. Công

tác tổ chức việc học tập cũng là vấn đề quan trọng và cần phải có tính kế hoạch, nội dung,

phương pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập và thu hút sinh viên say mê học tập nhưng

tiếc rằng nhà trường chưa đáp ứng được điều đó.

Ngoài ra cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm…. là điều kiện giúp sinh viên học

tập tốt, việc thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng là nguyên nhân chính hạn chế việc học

tập của các em. Thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho

công tác học tập có 438 sinh viên công nhận là đúng (chiếm tỷ lệ 74,6%) thứ bậc 3.

Các nguyên nhân liên quan đến việc nhận thức của sinh viên và việc quản lý của nhà trường

nằm ở các thứ bậc thấp hơn như : Do ảnh hưởng của các hoạt động khác (thứ bậc 4); Do sinh

viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa việc học tập (thứ bậc 5), Công tác quản lý sinh viên học

tập trong Nhà trường chưa tốt (thứ bậc 6).

Tóm lại, Hạn chế lớn nhất đối với sinh viên là ở thái độ học tập, cách học hay còn gọi là

phương pháp, kế hoạch, nội dung học tập và trang thiết bị cần thiết phục vụ cho việc học của

sinh viên.

2.3.5. Hoạt động nghiên cứu khoa học

Các trường đại học trên thế giới xem nghiên cứu khoa học là sức sống của một trường đại

học. Bởi lẽ, mục đích của công tác nghiên cứu khoa học sinh viên là góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Qua nghiên cứu khoa học, sinh

viên sẽ được tiếp cận với những kiến thức mới về khoa học công nghệ, làm quen với việc tổ

chức thực hiện các đề tài khoa học và có cơ hội vận dụng kiến thức được trang bị để giải

quyết những vấn đề cụ thể đặt ra từ khoa học và thực tiễn. Nguyên tắc đào tạo ở các trường

đại học chất lượng cao là đào tạo qua nghiên cứu và cho nghiên cứu. Nghiên cứu vừa là mục

đích vừa là phương tiện để đào tạo. Nguyên tắc này thể hiện trong suốt quá trình dạy và học,

qua mọi hoạt động của nhà trường.“ Đào tạo cho nghiên cứu” nhằm trang bị cho người học

một lượng kiến thức cơ bản cần thiết nhất của ngành, phương pháp luận và những phương

pháp cần thiết để sau khi tốt nghiệp người học có thể tiếp tục học tập, học suốt đời để có khả

năng giải quyết những vấn đề do thực tế đề ra - học để giải quyết những vấn đề chưa được

học. Rõ ràng nghiên cứu khoa học vừa là mục tiêu vừa là động lực nội tại của đào tạo đại học

ở một đại học đa ngành, đa lĩnh vực như ĐHQG-HCM.

Trong những năm qua, ĐHQG-HCM chú trọng đến việc tổ chức cho sinh viên tham dự các

giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, giải thưởng sinh

viên sáng tạo kỹ thuật VIFOTEC và đều dành được những thứ hạng cao. Phối hợp với Thành

đoàn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Eureka.

Một số thành tích tiêu biểu: hai lần vô địch kỳ thi Robocon Châu Á- Thái Bình Dương năm

2002 và năm 2004, giải nhất kỳ thi Olympic Tin học Toàn quốc 2004, 01 giải đặc biệt cho

khối tập thể chuyên và 01 cúp đồng cho khối siêu cúp trong kỳ thi Olympic Tin học Toàn

quốc 2005; Hai đội tuyển sinh viên Trường Đại học Bách khoa và Trường Đại học Khoa học

Tự nhiên đã tham dự kỳ thi lập trình quốc tế ACM đều đoạt giải cao trong khu vực (một đội

hạng 3, một đội hạng 10), trong đó đội BK-Eegle của Đại học Bách khoa đã tham gia vòng

chung kết thế giới ở Mỹ để tranh tài với 80 đội mạnh nhất thế giới. Số lượng sinh viên

ĐHQG-HCM đạt giải thưởng trong các cuộc thi sinh viên NCKH, 5 năm 2001-2005:

Đơn vị Năm 2001 2002 2003 2004 2005

0 0 6 8 Đại học Bách khoa Vifotec 11

23 21 20 22 Eureka 102

0 0 3 1 Đại học Khoa học Vifotec 1

33 38 35 36 Tự nhiên Eureka 17

0 0 0 0 Đại học Khoa học Xã Vifotec 0

15 11 23 20 hội- Nhân văn Eureka 12

0 0 0 0 Khoa Kinh tế Vifotec 0

20 11 9 Eureka

(Nguồn: Số liệu trích từ Kỷ yếu Hội nghị tổng kết họat động Khoa học và Công nghệ giai đọan 2001-2005

và phương hướng nhiệm vụ giai đọan 2006-2010)

90 98 96 143 71 Tổng

Bảng 2.10. Hoạt động nghiên cứu khoa học có đáp ứng được nhu cầu SV

% Đánh giá N

15,3 Đã đáp ứng 90

58,9 Chưa đáp ứng 346

21,5 Không biết 126

Qua kết quả của bảng 2.10 khi được hỏi “Hoạt động nghiên cứu khoa học đã đáp ứng được

nhu cầu của sinh viên hay chưa ?” thì chúng tôi nhận được các ý kiến phản hồi như sau: 346

sinh viên trả lời là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sinh viên chiếm tỷ lệ 58,9%, chỉ có 90

sinh viên trả lời là đã đáp ứng chiếm tỷ lệ 15,3%, còn lại 126 sinh viên trả lời là không biết

chiếm tỷ lệ 21,5% có lẽ do các sinh viên này bàng quan, không quan tâm đến hoạt động

nghiên cứu khoa học trong nhà trường. Bên cạnh đó, sinh viên ĐHQG-HCM cũng có nhiều

thành tích và đạt nhiều giải thưởng trong các cuộc thi nghiên cứu khoa học các cấp nhưng

nhìn chung hoạt động nghiên cứu khoa học của ĐHQG-HCM vẫn chỉ ở bề nổi, thực chất thì

chưa đáp ứng được nhu cầu phần lớn sinh viên, cụ thể chúng tôi tìm hiểu những trở ngại khi

sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học với những lý do sau:

Bảng 2.11. Những trở ngại khi tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học

Những trở ngại % Thứ bậc N

Không có qui định cụ thể 194 33 4

Không có người hướng dẫn 243 41,4 2

Thiếu kinh phí, phương tiện, cơ 403 68,7 1

sở vật chất kỹ thuật

Không có thời gian 240 40,9 3

Qua kết quả của bảng 2.11 cho thấy trở ngại lớn nhất khi tham gia hoạt động nghiên cứu

khoa học là thiếu kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật (68,7%). Qua tìm hiểu các

trường thành viên ĐHQG-HCM chúng tôi nhận thấy: Các sinh viên Trường Đại học Khoa

học Xã hội – Nhân văn khi tham gia nghiên cứu khoa học được hỗ trợ kinh phí từ 500.000

đến 1.000.000 đồng; còn ở Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Trường Đại học Bách

khoa thì toàn bộ kinh phí hỗ trợ được gộp vào giải thưởng. Sinh viên gần như tự bơi để

nghiên cứu, luẩn quẩn trong mớ kiến thức trên giảng đường thì nhà trường và xã hội vẫn là

hai con đường không giao nhau, giải chung một đề toán không cùng đáp số !

Không có người hường dẫn (41,4%), chúng ta đều biết rằng nghiên cứu khoa học là một

trong những phương thức đào tạo hiệu quả nhất, giúp sinh viên từng bước vận dụng kiến

thức đã học vào việc tiếp cận một vấn đề mới và giải quyết nó. Chính trong quá trình sinh

viên nghiên cứu khoa học, người thầy có điều kiện rất tốt để dạy cho sinh viên cách tự học,

rèn luyện cho họ tác phong nghiêm túc, chăm chỉ, tính trung thực, sáng tạo. Vậy mà nhà

trường chưa vận dụng được ưu điểm này nên đây cũng là trở ngại lớn cho sinh viên. Tiếp đó

là không có thời gian tham gia (40,9%), không có quy định cụ thể (33%).

Nếu những khó khăn trở ngại trên dẫn đến việc sinh viên thờ ơ với nghiên cứu khoa học thì

cũng là điều dễ hiểu. Điều này không chỉ do bản thân sinh viên mà còn có vai trò của nhà

trường. Một ý tưởng không được đầu tư, nuôi nấng sẽ mãi là nụ, không thành hoa. Nhà

trường không đầu tư cho chất xám thì luôn thiếu nguồn nhân lực chất lượng để phát triển.

-Số lượng các đề tài sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học vẫn còn ít ỏi so với tổng số sinh

viên ĐHQG-HCM cụ thể chúng tôi nghiên cứ số lượng đề tài sinh viên NCKH trong vòng 5

năm từ 2001-2005:

Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005

Đại học Bách khoa 101 50 254 121 184

Đại học Khoa học Tự nhiên 41 59 82 82 54

Đại học Khoa học Xã hội- Nhân văn

62 105 97 97 98

Khoa Kinh tế 0 0 12 08 14

204 214 445 308 350 Tổng

Bảng 2.12. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc nghiên cứu khoa học của sinh viên

Stt Các nguyên nhân Lựa chọn Thứ

bậc Đúng %

61,8 1 Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác 363 4

59,8 2 Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa 351 5

của việc NCKH

3 Công tác quản lý sinh viên NCKH trong 325 55,4 6

Nhà trường chưa tốt

497 84,7 1 4 Thiếu kinh phí, phương tiện,cơ sở vật

chất kỹ thuật phục vụ cho công tác

NCKH

467 79,6 2 5 Do việc tổ chức cho sinh viên NCKH

chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế

hoạch, nội dung, phương pháp

6 Sinh viên chưa quen với việc NCKH 461 78,5 3

trong Nhà trường

7 Do ảnh hưởng của các hoạt động khác 291 49,6 7

Qua kết quả của bảng 2.12 cho thấy nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong việc

nghiên cứu khoa học của sinh viên:

+ 497 sinh viên cho là do thiếu kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho

công tác NCKH (84,7%) thứ bậc 1.

+ 467 sinh viên cho là do việc tổ chức cho sinh viên NCKH chưa thực sự có sức thu hút và

thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp (79,6%) thứ bậc 2 ;

+ 461 sinh viên cho là sinh viên chưa quen với việc NCKH trong Nhà trường (78,5%) thứ

bậc 3.

Các nguyên nhân được xếp vào thứ bậc thấp hơn: Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác

(61,8%) thứ bậc 4; Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa của việc NCKH (59,8%) thứ

bậc 5; Công tác quản lý sinh viên NCKH trong Nhà trường chưa tốt (55,4%) thứ bậc 6; Do

ảnh hưởng của các hoạt động khác (49,6%) thứ bậc 7.

Chứng tỏ kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng nhu cầu phục

vụ cho công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên. Thêm vào đó việc tổ chức cho sinh viên

nghiên cứu khoa học chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp

dẫn đến việc sinh viên không quen với việc nghiên cứu khoa học trong nhà trường, sinh viên

cảm thấy gặp nhiều trở ngại khi tham gia nghiên cứu khoa học. Do đó, hoạt động nghiên cứu

khoa học trong nhà trường chưa thực sự gần gũi sinh viên.

Bảng 2.13. Nhận thức của sinh viên về công tác nghiên cứu khoa học

STT Nội dung Tần số Thứ

bậc

2 1 Nhà trường cần khuyến khích và tạo điều kiện cho 387

SV NCKH

2 Nhà trường nên tổ chức NCKH cho sinh viên 233 5

tham gia theo nhóm

3 Công tác NCKH trong nhà trường cần thu hút 154 10

đông đảo sinh viên tham gia

3 4 Công tác NCKH trong nhà trường nhằm phát huy 269

năng lực của sinh viên

1 5 Công tác NCKH trong nhà trường tạo điều kiện 391

cho sinh viên hiểu biết chuyên sâu/chuyên môn

7 6 Công tác NCKH trong nhà trường giúp sinh viên 208

phát huy được những ý tưởng NCKH ấp ủ từ lâu

4 7 Nghiên cứu khoa học là hoạt động giúp sinh viên 263

có cơ hội nghiên cứu, học hỏi, ứng dụng

8 8 Công tác NCKH nâng cao tính năng động nghiên 188

cứu khoa học cho sinh viên

9 Nghiên cứu khoa học là cơ hội tốt giúp sinh viên 183 9

vững vàng sau khi ra trường

10 Đa số các đề tài NCKH trong nhà trường chỉ 217 6

mang tính lý thuyết, tính ứng dụng chưa cao

11 Các đề tài NCKH trong nhà trường chưa đưa ra 83 12

được các giải pháp tối ưu

12 Nhà trường chưa có biện pháp tích cực để đẩy 138 11

mạnh công tác NCKH

Qua kết quả của bảng 2.13 cho thấy nhận thức của sinh viên về công tác nghiên cứu khoa

học: Tạo điều kiện cho sinh viên hiểu biết chuyên sâu/ chuyên môn (thứ bậc 1), Nhà trường

cần khuyến khích và tạo điều kiện cho sinh viên NCKH (thứ bậc 2), NCKH nhằm phát huy

năng lực của sinh viên (thứ bậc 3) và giúp sinh viên có cơ hội nghiên cứu, học hỏi, ứng dụng

(thứ bậc 4). Phần lớn những nhận thức chiếm tỷ lệ cao này qua khảo sát đều có ý nghĩa phục

vụ cho việc học tập của sinh viên.

Những đề nghị và nhận xét của sinh viên ở thứ bậc thấp hơn: Nhà trường nên tổ chức NCKH

cho sinh viên tham gia theo nhóm (thứ bậc 5), Đa số các đề tài NCKH trong nhà trường chỉ

mang tính lý thuyết, tính ứng dụng chưa cao (thứ bậc 6), Công tác NCKH trong nhà trường

giúp sinh viên phát huy được những ý tưởng NCKH ấp ủ từ lâu (thứ bậc 7), Công tác NCKH

nâng cao tính năng động nghiên cứu khoa học cho sinh viên (thứ bậc 8), Nghiên cứu khoa

học là cơ hội tốt giúp sinh viên vững vàng sau khi ra trường (thứ bậc 9), Công tác NCKH

trong nhà trường cần thu hút đông đảo sinh viên tham gia (thứ bậc 10).

Một số nhận xét được xếp ở thứ bậc thấp nhất: Nhà trường chưa có biện pháp tích cực để

đẩy mạnh công tác NCKH (thứ bậc 11); Các đề tài NCKH trong nhà trường chưa đưa ra

được các giải pháp tối ưu (thứ bậc 12).

Nhìn chung, sinh viên có nhận thức đúng về hoạt động nghiên cứu khoa học nhưng

còn nhiều trở ngại, hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách…làm cho công tác nghiên cứu

khoa học chưa trở thành nhu cầu thiết yếu của sinh viên và sinh viên chưa cảm thấy say mê

với công tác này. Do đó, hoạt động quản lý nghiên cứu khoa học trong nhà trường chưa đạt

được các yêu cầu đề ra.

2.4. Kết quả nghiên cứu từ cán bộ giảng viên

2.4.1. Đánh giá các hoạt động xã hội của sinh viên

Bảng 2.14: Ý kiến của giảng viên về việc tổ chức các hoạt động xã hội cho sinh viên trong

nhà trường.

Stt Đánh giá Tần số Tỷ lệ

1 Thiết thực 1 1,0

2 Không thiết thực 1 1,0

3 Phù hợp 41 40,2

4 Chưa phù hợp 2 2,0

Qua bảng 2.14 cho thấy 41 ý kiến cán bộ, giảng viên cho rằng việc tổ chức các hoạt động

xã hội trong nhà trường là phù hợp chiếm tỷ lệ 40,2%. Các hoạt động xã hội thiết thực hay

không thiết thực có tần số rất thấp chiếm tỷ lệ 1,0%. Chứng tỏ các hoạt động xã hội cho

sinh viên trong nhà trường là phù hợp.

Bảng 2.15 : Đánh giá hoạt động xã hội trong nhà trường đem lại hiệu

quả cao

Stt Nội dung Tần số Tỷ lệ Thứ bậc

1 Mùa hè xanh 41 40,2 1

2 Xuân tình nguyện 2 2,0 3

3 Hiến máu nhân đạo 30 29,4 2

Qua bảng 2.15 cho thấy 41 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 40,2% đánh giá họat động xã hội

trong nhà trường đem lại hiệu quả cao được xếp ở thứ bậc 1 là hoạt động Mùa hè xanh;

Hiến máu nhân đạo được 30 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 29,4% đánh giá ở thứ bậc 2;

Chỉ có 2 cán bộ, giảng viên đánh giá hoạt động Xuân tình nguyện chiếm tỷ lệ 2,0% là có

hiệu quả, có lẽ đây là hoạt động mới xuất hiện trong nhà trường nên ít được giảng viên biết

đến. Như vậy, hoạt động xã hội được đánh giá đem lại hiệu quả cao là họat động Mùa hè

xanh. Ngoài ra, còn có những hoạt động xã hội khác như:

- Chủ nhật xanh

- Xây dựng nhà tình thương

2.4.2. Đánh giá việc học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên

Biểu đồ 2.7: Đánh giá việc học tập của sinh viên trong nhà trường

60

50

40

59

30

Người

20

30

10

6

6

1

0

Chất lượng Chất lượng

Không ghi

Chưa chất lượng

Chất lượng thấp

cao

Qua kết quả của biểu đồ 2.7 cho thấy : 59 cán bộ, giảng viên ĐHQG-HCM chiếm 57,8% cho

rằng việc học tập của sinh viên là chất lượng nhưng 30 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 29,4%

cho rằng việc học tập của sinh viên trong nhà trường là chưa chất lượng. Chứng tỏ việc học

tập của sinh viên là chất lượng. Chúng tôi khảo sát tiếp việc nhà trường tổ chức các hoạt

động học tập cho sinh viên xem có đáp ứng được nhu cầu sinh viên hay chưa ?

50

45

Biểu đồ 2.8: Đánh giá việc tổ chức học tập cho sinh viên

47

40

46

35

30

Người

25

20

15

7

10

2

5

0

Đáp ứng

Chưa đáp ứng Không đáp

Không ghi

ứng

Qua kết quả của biểu đồ 2.8 cho thấy 47 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 46,1% cho là đã đáp

ứng được nhưng 46 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 45,1% cho là chưa đáp ứng được. Đây là

sự kiện mà ĐHQG-HCM nên xem xét lại về việc tổ chức hoạt động học tập cho sinh viên.

Qua kết quả biểu đồ 2.7 và 2.8 cho thấy đa số cán bộ, giảng viên nhận định hoạt động học

tập của sinh viên trong nhà trường là có chất lượng và phần nào đã đáp ứng được nhu cầu

của sinh viên.

Biểu đồ 2.9: Đánh giá mức độ sinh viên nghiên cứu khoa học trong nhà trường.

50

45

40

35

30

50

25

Người

20

30

15

10

16

5

4

2

0

Chất lượng Chất lượng

Không ghi

Chưa chất lượng

Chất lượng thấp

cao

Qua kết quả của biểu đồ 2.9 cho thấy 50 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 49,0% cho là mức độ

sinh viên đạt được trong công tác nghiên cứu khoa học là chưa chất lượng và 16 cán bộ,

giảng viên chiếm tỷ lệ 15,7% cho rằng chất lượng thấp. Chỉ có 30 cán bộ, giảng viên chiếm

tỷ lệ 29,4% cho rằng hoạt động này trong nhà trường là có chất lượng. Chứng tỏ hoạt động

nghiên cứu khoa học trong nhà trường chưa đạt chất lượng. Tiếp tục khảo sát để đánh giá

việc nhà trường tổ chức nghiên cứu khoa học có đáp ứng được nhu cầu sinh viên hay không:

60

50

Biểu đồ 2.10: Đánh giá việc tổ chức nghiên cứu khoa học

56

40

Người

30

20

27

11

8

10

0

Đáp ứng

Chưa đáp ứng Không đáp

Không ghi

ứng

Qua kết quả của biểu đồ 2.10 cho thấy: 56 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 54,9 % cho có ý

kiến là chưa đáp ứng và chỉ có 27 cán bộ, giảng viên chiếm tỷ lệ 26,5 % cho rằng đã đáp

ứng. Tóm lại, việc tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học cho sinh viên trong nhà trường

chưa đạt kết quả khả quan.

Chúng ta đã biết học tập và nghiên cứu khoa học là hai hoạt động không thể tách rời nhau

trong quá trình đào tạo đại học. Sinh viên không nên quan niệm rằng “Học là chính, nghiên

cứu là phụ”, giảng viên cũng không nên quan niệm “Dạy là chính, nghiên cứu là phụ”. Việc

tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học chưa chất lượng, chưa đáp ứng được nhu cầu của

sinh viên thì đương nhiên việc tổ chức hoạt động học tập của sinh viên cũng gặp không ít

khó khăn.Vì thế đứng ở góc độ nhà quản lý chúng ta cần đánh giá sự quan tâm của giảng

viên về hai hoạt động này.

2.4.3. Những mặt quản lý giảng viên quan tâm về học tập và nghiên cứu khoa học của

sinh viên

Bảng 2.16. Giảng viên quan tâm đến mặt nào của việc quản lý việc học tập của SV

STT Nội dung Thứ bậc % N

1 Quản lý kế hoạch học tập 43,1 3 44

2 Quản lý nội dung học tập 51,0 2 52

3 Quản lý phương pháp học tập 42,2 4 43

4 Quản lý việc tổ chức-thực hiện 39,2 5 40

5 Quản lý chất lượng học tập 52,0 1 53

6 Quản lý nề nếp học tập 31,4 6 32

Qua kết quả của bảng 2.16 cho thấy các mặt mà cán bộ, giảng viên quan tâm ở thứ bậc cao là

việc quản lý chất lượng học tập (52,0) thứ bậc 1, quản lý nội dung học tập (51,0) thứ bậc 2,

quản lý kế hoạch học tập (43,1) thứ bậc 3. Trong khi đó sinh viên cần thiết nhất là sự quan

tâm của giảng viên đến phương pháp học tập của sinh viên (Khảo sát ở bảng 2.8 và 2.9) thì

lại không được giảng viên chú ý nhiều: Quản lý phương pháp học tập (42,2%) thứ bậc 4. Các

mặt quản lý được xếp ở tầng bậc thấp nhất là: Quản lý việc tổ chức-thực hiện và quản lý nề

nếp học tập.

Bảng 2.17: Giảng viên quan tâm đến mặt nào của việc quản lý nghiên cứu khoa học của sinh

viên

STT Nội dung N % Thứ bậc

1 Quản lý kế hoạch NCKH 33 32,4 6

2 Quản lý nội dung NCKH 40 39,2 4

3 Quản lý phương pháp NCKH 43 42,2 2

4 Quản lý tổ chức-thực hiện việc NCKH 42 41,2 3

5 Quản lý chất lượng NCKH 46 45,5 1

6 Quản lý kinh phí hỗ trợ NCKH 36 35,3 5

Qua kết quả của bảng 2.17 cho thấy các mặt mà cán bộ, giảng viên quan tâm ở thứ bậc cao

là: Quản lý chất lượng NCKH (45,5%) thứ bậc 1, quản lý phương pháp NCKH (42,2%) thứ

bậc 2 và quản lý tổ chức-thực hiện việc NCKH (41,2%) thứ bậc 3. So sánh với ý kiến của

sinh viên (khảo sát bảng 2.12) thì nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trong việc

nghiên cứu khoa học của sinh viên và được sinh viên quan tâm lại là sự thiếu kinh phí,

phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác NCKH. Vấn đề này thể hiện trong

kết quả bảng 2.17 lại được giảng viên quan tâm ở thứ bậc thấp: Quản lý kinh phí hỗ trợ

NCKH (35,3%) thứ bậc 5. Chứng tỏ ý kiến của giảng viên và sinh viên về vấn đề này chưa

trùng khớp.

Tóm lại, qua việc khảo sát các mặt quản lý cán bộ, giảng viên quan tâm về học tập và

nghiên cứu khoa học của sinh viên nhóm nghiên cứu nhận thấy đa số cán bộ, giảng viên

quan tâm đến vấn đề quản lý chất lượng. Tuy chất lượng là quan trọng nhưng những điều

kiện để đạt được chất lượng ấy còn quan trọng hơn, tiếc rằng lại không được quan tâm

nhiều.

2.4.4. Các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong học tập và nghiên cứu khoa học của

sinh viên

Bảng 2.18. Các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong học tập của sinh viên.

Stt Các nguyên nhân Lựa chọn Thứ

bậc Đúng %

1 Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác 70 68,6 2

2 Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý 60 58,8 4

nghĩa việc học tập

3 Công tác quản lý sinh viên học tập trong 35 34,3 6

Nhà trường chưa tốt

4 Thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện, cơ 80 78,4 1

sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác

học tập

5 Do việc tổ chức cho sinh viên học tập 70 68,6 2

chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế

họach, nội dung, phương pháp.

6 Do ảnh hưởng của các hoạt động khác 57 55,9 5

Qua kết quả của bảng 2.18 cho thấy nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong học tập của sinh

viên theo thứ bậc như sau: Thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật

phục vụ cho công tác học tập (78,4%) thứ bậc 1; Do việc tổ chức cho sinh viên học tập chưa

thực sự có sức thu hút và thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp (68,6%) thứ bậc 2; Do sinh

viên thiếu tính tích cực, tự giác (68,6%) thứ bậc 2; Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý

nghĩa việc học tập (58,8%) thứ bậc 4; Do ảnh hưởng của các hoạt động khác (55,9%) thứ bậc

5. Nhận định của cán bộ giảng viên về nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong học tập của sinh

viên tương đối trùng khớp với ý kiến của sinh viên (khảo sát ở bảng 2.9).

Bảng 2.19. Các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc nghiên cứu khoa học của sinh viên

Stt Các nguyên nhân Thứ Lựa chọn

bậc Đúng %

53 52,0 1 Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác 4

46 45,1 2 Do sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa 6

của việc NCKH

3 Công tác quản lý sinh viên NCKH trong 59 57,8 3

Nhà trường chưa tốt

4 Thiếu kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất 47 46,1 5

kỹ thuật phục vụ cho công tác NCKH

5 Do việc tổ chức cho sinh viên NCKH chưa 46 45,1 6

thực sự có sức thu hút và thiếu kế họach,

nội dung, phương pháp.

6 Sinh viên chưa quen với việc NCKH trong 75 73,5 1

Nhà trường

2 7 Do ảnh hưởng của các hoạt động khác 62 60,8

Qua kết quả của bảng 2.19 cho thấy nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động nghiên

cứu khoa học của sinh viên theo thứ bậc cao như sau: Sinh viên chưa quen với việc NCKH

trong Nhà trường (73,5%) thứ bậc 1; Do ảnh hưởng của các họat động khác (60,8%) thứ bậc

2; Công tác quản lý sinh viên NCKH trong Nhà trường chưa tốt (57,8%) thứ bậc 3; Các

nguyên nhân dẫn đến hạn chế ở thứ bậc thấp hơn: Do sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác

(52,0%) thứ bậc 4; Thiếu kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác

NCKH (46,1%) thứ bậc 5; Do việc tổ chức cho sinh viên NCKH chưa thực sự có sức thu hút

và thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp và do sinh viên chưa nhận thức đúng ý nghĩa của

việc NCKH (45,1%) thứ bậc 6.

Tóm lại, ý kiến của giảng viên cho rằng cần giúp sinh viên hiểu: trường đại học không phải

“lớp 13” và chúng ta cần phải xây dựng cho sinh viên thói quen học tập gắn với nghiên cứu

khoa học. Hiện nay, hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà

trường vẫn tách rời nhau. Công tác quản lý sinh viên NCKH trong Nhà trường chưa tốt, điều

này phù hợp với việc khảo sát trong biểu đồ 2.9 và 2.10 ở trên.

* So sánh ý kiến đánh giá giữa sinh viên (bảng 2.12) và giảng viên (bảng 2.19) về các nguyên

nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên thu được kết quả

df= 30 P= 0,24 như sau: 2= 35,000

Kết quả chứng tỏ không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa đánh giá của giảng viên và sinh viên

về các nguyên nhân trên.

2.5. Nhận xét về công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM

2.5.1 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên

ĐHQG-HCM:

- Chính bản thân sinh viên thiếu tính tích cực, tự giác trong học tập. Với thái độ trung bình

chủ nghĩa, đa số sinh viên cho rằng chỉ cần qua (đạt) môn học là được. Ở đây phải nói đến

tâm lý thờ ơ, thiếu cảm xúc, vô tâm …từ đó dẫn đến vô ý thức, vô trách nhiệm, đại khái qua

loa, rất nguy hiểm cho quá trình tiếp thu, vận dụng kiến thức cũng như việc hành nghề sau

này.

Người ta hay nói đến lòng yêu ngành nghề, yêu môn học, yêu công việc như là những

nguyên nhân dẫn đến thành công. Nếu ta tha thiết một cái gì đó, thì ta sẽ cố gắng hết sức để

dành lấy nó, phấn đấu hết mình vì nó. Việc học tập vốn là công việc trí tuệ, phải được hướng

dẫn bằng những tư tưởng tình cảm cao đẹp với khát vọng vươn lên giành thành tích cao nhất.

- Các cấp quản lý trong nhà trường chưa chú ý một cách đúng mức đến việc hướng dẫn cho

sinh viên kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên chưa được nhà trường trang bị cho những

tri thức liên quan đến tự học. Ý thức và kỹ năng tự học chưa được xem là một nội dung của

quản lý hoạt động học tập.

- Việc tổ chức cho sinh viên học tập thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp nên chưa thực sự

thu hút tính tích cực, say mê của sinh viên trong học tập. Sinh viên mất nhiều thời gian cho

hoạt động học tập nhưng kết quả học tập vẫn không đạt như mong muốn. Việc đổi mới các

phương pháp giảng dạy và học tập ở bậc đại học theo hướng hiện đại là điều mà sinh viên rất

cần thì mới chỉ có trên lý thuyết.

- Thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác học tập. Đây

là tình hình chung của các trường đại học ở nước ta nhưng đối với đại học đa ngành, đa lĩnh

vực, chất lượng cao như ĐHQG-HCM thì điều này khó chấp nhận.

2.5.2 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của

sinh viên ĐHQG-HCM:

- Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện nhất là tài liệu và phòng thí nghiệm với đầy đủ trang

thiết bị đồng bộ đáp ứng được yêu cầu của người nghiên cứu là yếu tố đầu tiên của việc

nghiên cứu khoa học nhưng tiếc thay đối với ĐHQG-HCM hiện nay nguồn kinh phí, phương

tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên thì còn

thiếu.

-Việc tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học được xem như một trong những giải pháp cơ

bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, do đó trong chiến lược ĐHQG-HCM giai đoạn 2001-

2005 đã khẳng định “Nghiên cứu khoa học là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo”. Trên

thực tế, việc tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học chưa gắn với mục tiêu đào tạo, tổ

chức họat động nghiên cứu khoa học, việc tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học không

thể tự phát mà cần phải có kế hoạch, nội dung, phương pháp phong phú để thu hút sinh viên,

nhân rộng mô hình nghiên cứu khoa học trở thành nhu cầu thiết yếu của sinh viên.

- Nhiều sinh viên không chịu khó, không đi sâu vào bài vở, ngại khó, ngại khổ, đặc biệt là ít

tập nghiên cứu khoa học, không coi nghiên cứu khoa học là mục tiêu trong học tập;

- Công tác tuyên truyền về nghiên cứu khoa học trong nhà trường chưa đạt được mong muốn

của nhà quản lý, chưa tác động mạnh đến sinh viên.

- Các cấp quản lý trong nhà trường chưa chú ý một cách đúng mức đến việc hướng dẫn cho

sinh viên kỹ năng nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu khoa học kết hợp với kỹ

năng thực hành và tư duy phê phán. Vì thế dẫn đến tình trạng: Đa số sinh viên chưa quen với

việc nghiên cứu khoa học trong nhà trường.

- Chưa có chính sách khuyến khích, khen thưởng xứng đáng sinh viên đầu tư trí tuệ cho

nghiên cứu khoa học.

2.6. Đối chiếu cơ sở lý luận với thực trạng quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu

khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM

Đối chiếu cơ sở lý luận với thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu

khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM cho thấy công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên

cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM có những ưu điểm và hạn chế sau:

* Ưu điểm:

- Quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM luôn dựa

trên việc tiếp cận mục tiêu đào tạo của ĐHQG-HCM.

- Quản lý và tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

theo chuyên ngành đào tạo.

- Quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học ở tầm vĩ mô luôn được Đảng ủy, Ban

Giám đốc ĐHQG-HCM cũng như Ban Giám hiệu các trường thành viên đặc biệt quan tâm.

Ngoài ra, còn có sự hỗ trợ của Đoàn Thanh Niên, Hội sinh viên và sự hướng dẫn của cán bộ,

giảng viên tham gia giảng dạy.

- Từng bước đổi mới công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học nhằm đáp

ứng sự phát triển của ĐHQG-HCM tiến tới các hoạt động chuyển giao công nghệ và đào tạo.

* Hạn chế:

- Quản lý kế hoạch, nội dung và phương pháp học tập của sinh viên chưa được các lực lượng

quản lý trong trường quan tâm đã biểu hiện rõ qua việc sinh viên chưa có sự chuyển biến tích

cực về động cơ, mục đích học tập cũng như phương pháp học.

- Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ học tập và nghiên cứu chưa đáp ứng được yêu

cầu đào tạo của ĐHQG-HCM.

- Quản lý việc đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên chưa khả

thi.

- Công tác quản lý hoạt động học tập chưa chú ý nhiều đến việc hướng dẫn phương pháp học

tập hiệu quả cho sinh viên. Trong quá trình quản lý hoạt động học tập, sinh viên cần đến hoạt

động tự học nhưng hoạt động tự học của sinh viên chưa được các nhà quản lý trong nhà

trường quan tâm và chưa được thừa nhận là yếu tố quyết định chất lượng học tập.

-Công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học chưa gắn kết với hoạt động học tập, chưa

tạo tiền đề hỗ trợ và thúc đẩy sinh viên đạt đến thành công trong học tập.

-Công tác quản lý hoạt động học tập chưa gắn với hoạt động nghiên cứu khoa học và hai

hoạt động này chưa gắn với hoạt động xã hội trong nhà trường.

Qua đối chiếu cơ sở lý luận với kết quả điều tra thực trạng công tác quản lý hoạt động học

tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM chỉ rõ “Công tác quản lý hoạt động

học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM chưa đạt được các yêu cầu đề

ra”. Vì thế, “Muốn đạt được hiệu quả thì cần phát triển các biện pháp quản lý, giáo dục, hỗ

trợ sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học” chúng ta tiếp tục nghiên cứu ở chương 3.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Đề tài tập trung vào việc khảo sát, phân tích thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và

nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM cũng như các điều kiện đảm bảo cho hoạt

động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên đạt kết quả tốt, kết hợp phân tích sâu từ

thực tế của ĐHQG-HCM. Đối chiếu cơ sở lý luận với thực trạng quản lý hoạt động học tập

và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM. Từ đó, rút ra những hạn chế chi phối

làm ảnh hưởng đến việc quản lý công tác này.

Qua kết quả này cho thấy rằng giả thuyết nghiên cứu đã được chứng minh.

Chương 3

CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT

ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO

SINH VIÊN ĐHQG-HCM

Quản lý vốn là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác

động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ

cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển đến mục tiêu đã định.

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa

học của sinh viên, chúng tôi kiểm nghiệm và so sánh một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu

quả quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên:

3.1 Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc học tập và nghiên cứu khoa học trong

sinh viên

Bảng 3.1. Các biện pháp nâng cao hiệu quả việc học tập trong sinh viên

Stt Các biện pháp Sinh viên Giảng viên

F P ĐLTC

Trung bình 1,697 0,489 ĐLTC Trung bình 0,7037 0,4595 296,26 1 Tạo nội dung học tập thích

hợp cho sinh viên

2 Tổ chức tốt việc học tập 1,412 0,560

cho sinh viên.

3 Tạo điều kiện về thời gian 1,557 0,573

tự học và hỗ trợ học bổng.

1,662 0,529

0,000 1,6869 0,4661 20,98 0,000 1,3878 0,5493 7,338 0,007 1,3854 0,5688 21,66 0,000

4 Cung cấp cho sinh viên đủ tài liệu, sách phục vụ học tập.

5 Kế hoạch hoá các họat 1,153 0,622

động học tập

1,073 0,642 1,1739 0,5857

1,543 0,566

1,6970 0,5042 67,45 0,000 2,04 0,154 1,0833 0,4956 55,11 0,000

6 Thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác học tập 7 Tạo điều kiện tốt về chỗ ở cho sinh viên yên tâm học tập.

Qua kết quả của bảng 3.1 cho thấy các biện pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả việc học tập

cho sinh viên với sự khác biệt có ý nghĩa và độ phân cách tương đối lớn giữa ý kiến của

giảng viên và sinh viên: Tạo nội dung học tập thích hợp cho sinh viên (F: 296,26 và P:

0,000); Tổ chức tốt việc học tập cho sinh viên ( F:20,98 và P: 0,000); Tạo điều kiện về thời

gian tự học và hỗ trợ học bổng (F:7,338 và P:0,007);Cung cấp cho sinh viên đủ tài liệu, sách

phục vụ học tập (F: 21,66 và P: 0,000); kế hoạch hoá các hoạt động học tập (F:67,45 và

P:0,000); Tạo điều kiện tốt về chỗ ở cho sinh viên yên tâm học tập (F: 55,11 và P: 0,000);

Chỉ có một biện pháp không có sự khác biệt ý nghĩa và độ phân cách tương đối nhỏ là biện

pháp: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác học tập (F:2,04 và P:0,154).

-“Tạo nội dung học tập thích hợp” là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động học

tập của sinh viên. Nội dung học tập đóng vai trò thu hút sinh viên và tạo động lực cho sinh

viên tự giác, tích cực trong học tập. Ngoài ra, sinh viên cần tài liệu, sách phục vụ học tập.

Đây cũng là yếu tố cần thiết giúp cho sinh viên có phương tiện tự học. Sự thành đạt của con

người ngày nay dựa chủ yếu vào những kiến thức tự học chứ không phải những kiến thức

hạn chế do thầy truyền đạt ở trường.Vì vậy, nếu trước kia mục tiêu giáo dục đại học tập

trung vào việc trang bị kiến thức hàn lâm cho sinh viên thi ngày nay bên cạnh mục tiêu về

kiến thức và đạo đức nghề nghiệp, còn đề ra nhiều mục tiêu thiết thực không kém phần quan

trọng về các mặt: kỹ năng thực hành, khả năng tự học suốt đời, óc phê phán và sáng tạo,

năng lực giải quyết vấn đề ý thức lập nghiệp, kỹ năng giao tiếp, làm việc tập thể, phát triển

bền vững và ý thức về môi trường, kiến thức xã hội, đạo đức, thẩm mỹ và tất nhiên cả ngoại

ngữ.

- Kế hoạch hoá các hoạt động học tập: Hoạt động học tập cần phải có kế họach cụ thể, đây là

biện pháp thể hiện tính khoa học trong các hoạt động trong nhà trường.

-Tạo điều kiện về thời gian tự học và hỗ trợ học bổng: Ngoài thời gian học tập ở lớp, sinh

viên cần có thời gian tự học, tự tìm tòi nghiên cứu vấn đề để phát huy hết khả năng học tập

của mình. Ngoài ra sinh viên cần sự hỗ trợ học bổng của các tổ chức cá nhân trong và ngoài

nước, các nguồn tài trợ học bổng phần nào giúp sinh viên giảm bớt những khó khăn về tài

chính, yên tâm học tập.

-Tạo điều kiện tốt về chỗ ở cho sinh viên yên tâm học tập cũng là một biện pháp đáng quan

tâm. Hiện nay, ĐHQG-HCM đã hình thành một Trung tâm Quản lý Ký túc xá tại Khu vực

Linh Trung- Thủ Đức có sức chứa khoảng 6.000 sinh viên với 782 phòng. Tính đến tháng

8/2006 ĐHQG-HCM đã đưa vào sử dụng 12 đơn nguyên Ký túc xá do các Tỉnh đầu tư xây

dựng tại ĐHQG-HCM với tổng kinh phí trên 100 tỷ đồng bao gồm: An Giang, Bến Tre, Vĩnh

Long, Bà Rịa- Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tiền

Giang, Khánh Hòa và Thành phố Hồ Chí Minh nhưng mới chỉ đáp ứng 40 % số lượng sinh

viên ĐHQG-HCM có nhu cầu vào ở KTX. Ký túc xá ĐHQG-HCM phục vụ chỗ ở cho sinh

viên ĐHQG-HCM ở các Tỉnh trong cả nước đến học tại ĐHQG-HCM. Với phương châm

xây dựng ĐHQG-HCM thành “ Đô thị đại học” thì ký túc xá ĐHQG-HCM cũng phải dần

dần đáp ứng được nhu cầu chỗ ở cho sinh viên. Các Tỉnh vẫn tiếp tục xây dựng những đơn

nguyên KTX cho ĐHQG-HCM, đây cũng là chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước.

Tóm lại, khi so sánh ý kiến của giảng viên và sinh viên về các biện pháp nêu trên xuất hiện

sự khác biệt có ý nghĩa và sự phân cách tương đối lớn chứng tỏ ý kiến của giảng viên về các

biện pháp này chưa có sự đồng thuận.

- Qua kết quả điều tra để đánh giá được kết quả học tập của sinh viên, giảng viên thường

dùng biện pháp kiểm tra, đánh giá để xác định bằng định lượng mức độ học tập của sinh viên

nhằm rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy của mình góp phần nâng cao hiệu quả học

tập của sinh viên. Sinh viên cũng coi đây là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả học tập

của mình. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là công đoạn cuối cùng trong học tập. Kết quả

học tập trong từng môn học của sinh viên không chỉ phản ánh quá trình học tập, khả năng

nhận thức và kỹ năng tiếp nhận kiến thức của sinh viên mà còn kích thích sự tự học, tự kiểm

tra, đánh giá của sinh viên về quá trình học tập của mình. Kết quả này không có sự khác biệt

ý nghĩa giữa ý kiến của giảng viên và sinh viên ( F: 2,04; P:0,154).

3.2. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc nghiên cứu khoa học trong sinh viên

Bảng 3.2. Các mặt của công tác tổ chức nghiên cứu khoa học

Stt Công tác hỗ trợ sinh viên NCKH

Sinh viên Giảng viên

1

N % 221 37,6 53 52,0

2

3 Hỗ trợ các thủ tục hành chính cho sinh viên làm NCKH (ví dụ: cấp giấy chứng nhận, giấy giới thiệu…) Xây dựng qui chế, chính sách sinh viên NCKH trong ĐHQG-HCM Tăng kinh phí NCKH

4 Cấp đủ kinh phí cho sinh viên NCKH

5

6

Dành một khoản kinh phí NCKH riêng cho sinh viên (Quỹ NCKH sinh viên) Hỗ trợ tài liệu, sách tham khảo, phương tiện và thông tin cho sinh viên NCKH N % N % N % N % N % 99 16,9 175 29,8 145 24,7 156 26,6 348 59,3 46 45,1 59 57,8 47 46,1 46 45,1 75 73,5

2 = 24,000 df = 20 p = 0,24

Stt Công tác tổ chức NCKH

Sinh viên Giảng viên

1 Tổ chức hướng dẫn cho sinh viên phương

pháp, kiến thức NCKH

2 Mở thêm các lớp ngoại khoá hướng dẫn

NCKH cho sinh viên

3 Đưa phương pháp NCKH trở thành môn học

chính khoá ngay từ năm thứ nhất

4 Tổ chức thuyết trình các đề tài NCKH có chất

lượng, đoạt giải cao

5 Công bố các đề tài nghiên cứu thành công để

sinh viên tham khảo, rút kinh nghiệm

6 Tổ chức tuyên truyền, phát động công tác

NCKH trong sinh viên

N % N % N % N % N % N % N % 246 41,9 160 27,3 187 31,9 203 34,6 191 32,5 110 18,7 158 26,9 72 70,6 50 49,0 31 30,4 50 49,0 43 42,2 43 42,2 52 51,0 7 Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo khoa học, tọa đàm giúp sinh viên hiểu được ý nghĩa công tác NCKH

2 = 2,000 df = 24 p = 0,26

Stt Tạo điều kiện cho sinh viên NCKH

Giảng viên

1

Sinh viên 272 76 46,3 74,5 187 66 2

3

4

Định hướng cho sinh viên nghiên cứu đề tài mang tính thiết thực và có hiệu quả cao Mở rộng các đề tài nghiên cứu cho sinh viên chọn lựa Mở thư mục riêng các đề tài NCKH đoạt giải tại Thư viện Các đề tài NCKH của sinh viên cần được bảo vệ trước Hội đồng nhà trường Tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tế 5

143 54 24,4 52,9 170 32 29,0 31,4 319 69 54,3 67,6 158 53 6

Chọn sinh viên có khả năng NCKH tham gia vào các đề tài của cán bộ, giảng viên N % N % 31,9 64,7 N % N % N % N % 26,9 52,0

2= 30.000 df = 25 p = 0,22

Stt Quyền lợi NCKH trong sinh viên

Sinh viên Giảng viên

1

N % 259 44,1 74 72,5

2

N % 187 31,9 34 33,3

3

Cần có nhiều giải thưởng sinh viên NCKH và khen thưởng xứng đáng các công trình NCKH đoạt giải cao Công trình NCKH của sinh viên đoạt chất lượng cao thì được miễn thi một số môn học Tạo điều kiện ứng dụng các đề tài NCKH của sinh viên vào thực tế N % 323 55,0 68 66,7

2 = 6,000 df = 4 p = 0,19 So sánh các kết quả bảng 3.2 cho thấy: *Công tác hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học:

Những biện pháp hỗ trợ được nhiều sự đồng ý từ khách thể nghiên cứu và không có sự khác

biệt ý nghĩa giữa xác nhận của giảng viên và chấp nhận từ phía sinh viên:

+Hỗ trợ tài liệu, sách tham khảo, phương tiện và thông tin cho sinh viên nghiên cứu khoa

học được 348 sinh viên (chiếm tỷ lệ 59,3%) và 75 giảng viên (chiếm tỷ lệ 73,5%) chọn;

+ Hỗ trợ các thủ tục hành chính cho sinh viên làm NCKH (ví dụ: cấp giấy chứng nhận, giấy

giới thiệu…) được 211 sinh viên (chiếm tỷ lệ 37,6%) và 53 giảng viên (chiếm tỷ lệ 52%)

chọn;

+ Tăng kinh phí nghiên cứu khoa học được 175 sinh viên (chiếm tỷ lệ 29,8%) và 59 giảng

viên (chiếm tỷ lệ 57,8%) chọn;

+ Dành một khoản kinh phí nghiên cứu khoa học riêng cho sinh viên (Quỹ NCKH sinh viên)

được 156 sinh viên chọn (chiếm tỷ lệ 26,6%) và 46 giảng viên (chiếm tỷ lệ 45,1%) chọn;

+ Cấp đủ kinh phí nghiên cứu khoa học được 145 sinh viên (chiếm tỷ lệ 24,7%) và 47 giảng

viên (chiếm tỷ lệ 46,1%) chọn;

+ Xây dựng qui chế, chính sách sinh viên NCKH trong ĐHQG-HCM được

99 sinh viên (chiếm tỷ lệ 16,9%) và 46 giảng viên (chiếm tỷ lệ 45,1%) chọn;

Từ việc nhìn lại các mặt tổ chức công tác hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học cho ta

thấy những biện pháp được giảng viên và sinh viên đưa ra tương đối trùng khớp nhau vì thế

không có sự khác biệt ý nghĩa. Điều này đã được so sánh giữa ý kiến của sinh viên và giảng

viên (2 =24,000 df=20 p= 0,24) là không có sự khác biệt về ý nghĩa.

* Công tác tổ chức nghiên cứu khoa học:

Những biện pháp tổ chức được nhiều sự đồng ý từ khách thể nghiên cứu và không có sự

khác biệt ý nghĩa giữa xác nhận của giảng viên và sự chấp nhận từ phía sinh viên:

+ Tổ chức hướng dẫn cho sinh viên phương pháp, kiến thức NCKH được 246 sinh viên

(chiếm tỷ lệ 41,9%) và 72 giảng viên chọn chiếm tỷ lệ 70,6% chọn;

+ Tổ chức thuyết trình đề tài NCKH có chất lượng, đoạt giải cao được 203 sinh viên (chiếm

tỷ lệ 34,6%) và 50 giảng viên (chiếm tỷ lệ 49%) chọn;

+ Công bố các đề tài nghiên cứu thành công để sinh viên tham khảo, rút kinh nghiệm được

191 sinh viên (chiếm tỷ lệ 32,5%) và 43 giảng viên (chiếm 42,2%) chọn;

Qua các biện pháp đưa ra gần như có sự đồng thuận của giảng viên và sinh viên cho thấy

việc tổ chức cho sinh viên NCKH trong nhà trường thiếu đi sự hướng dẫn về phương pháp,

kiến thức nghiên cứu cho sinh viên cũng như sự hiểu biết của sinh viên về các đề tài nghiên

cứu khoa học trong nhà trường.

+ Biện pháp thể hiện sự khác biệt nhưng không đáng kể giữa ý kiến của sinh viên và giảng

viên: Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo khoa học, tọa đàm giúp sinh viên hiểu được ý

nghĩa công tác NCKH được 158 sinh viên (chiếm tỷ lệ 26,9%) và 52 giảng viên (chiếm tỷ lệ

51,0%) chọn;

Tóm lại, không có sự khác biệt ý nghĩa giữa ý kiến giảng viên và sinh viên về các biện pháp

này (2 =2,000 df=24 p= 0,26).

* Tạo điều kiện cho sinh viên nghiên cứu khoa học:

Những biện pháp “Tạo điều kiện” được nhiều sự đồng ý từ khách thể nghiên cứu và không

có sự khác biệt ý nghĩa giữa xác nhận của giảng viên và sự chấp nhận từ phía sinh viên:

+ Tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tế được 319 sinh viên (chiếm tỷ lệ 54,3%) và 69 giảng

viên (chiếm tỷ lệ 67,6%) chọn;

+ Định hướng cho sinh viên nghiên cứu đề tài mang tính thiết thực và có hiệu quả cao được

272 sinh viên (chiếm tỷ lệ 46,3%) và 76 giảng viên (chiếm tỷ lệ 74,5%) chọn;

+ Mở rộng các đề tài nghiên cứu cho sinh viên chọn lựa được 187 sinh viên (chiếm tỷ lệ

31,9%) và 66 giảng viên (chiếm tỷ lệ 64,7%) chọn;

- Các biện pháp được sinh viên và giảng viên chọn ở thứ bậc thấp hơn xếp theo thứ tự : Mở

thư mục riêng các đề tài NCKH đoạt giải tại Thư viện, Chọn sinh viên có khả năng NCKH

tham gia vào các đề tài của cán bộ, giảng viên, Các đề tài NCKH của sinh viên cần được bảo

vệ trước Hội đồng nhà trường.

Các biện pháp sinh viên và giảng viên đưa ra theo thứ bậc không có sự khác biệt nhau nhiều.

Chứng tỏ có tỷ lệ đồng thuận cao. Các biện pháp đã được so sánh giữa ý kiến của sinh viên

và giảng viên cho kết quả (2 =30,000 df=25 p= 0,22) là không có sự khác biệt về ý nghĩa.

* Quyền lợi nghiên cứu khoa học của sinh viên:

Quyền lợi nghiên cứu khoa học của sinh viên là vấn đề mà nhà trường cũng cần phải nghiên

cứu để nó trở thành động cơ thúc đẩy cho công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên trong

nhà trường đem lại hiệu quả và có tác dụng thu hút cao.

- 323 sinh viên cho là việc “Tạo điều kiện ứng dụng các đề tài NCKH của sinh viên vào thực

tế” chiếm tỷ lệ 55,0% là quan trọng bậc nhất (thứ bậc 1) trong khi đó 68 giảng viên (chiếm tỷ

lệ 66,7%) cho là quan trọng bậc nhì.

- 259 sinh viên cho là việc “Cần có nhiều giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học và khen

thưởng xứng đáng các công trình nghiên cứu khoa học đoạt giải cao” chiếm tỷ lệ 44,1% (thứ

bậc 2) trong khi đó 74 giảng viên chiếm tỷ lệ 72,5% lại cho là quan trọng bậc nhất.

- Biện pháp “Công trình NCKH của sinh viên đoạt chất lượng cao thì được miễn thi một số

môn học” thì được cả sinh viên lẫn giảng viên đồng thuận thứ bậc 3 với tần số và tỷ lệ thấp.

Các biện pháp đã được so sánh giữa ý kiến của sinh viên và giảng viên cho kết quả (2

=6,000 df=4 p= 0,19) là không có sự khác biệt về ý nghĩa.

Tóm lại, trên căn cứ các biện pháp của chúng tôi đưa ra chứng tỏ công tác quản lý hoạt động

học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM còn nhiều bất cập. Các biện

pháp được giảng viên và sinh viên xác nhận gần như không có sự khác biệt về ý nghĩa. Đây

đúng là một nhu cầu bức xúc và thiết thực đối với việc tổ chức quản lý và nâng cao chất

lượng học tập, nghiên cứu khoa học trong sinh viên ĐHQG-HCM. Trong thời gian tới cần

phát huy tích cực những kết quả thành tựu đã thực hiện đồng thời khắc phục mặt yếu, thiếu

xót, tồn tại, nhược điểm để đưa công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

của sinh viên có bước phát triển mới về số lượng lẫn chất lượng, đưa phong trào học tập và

nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM lên tầm cao mới.

ĐHQG-HCM góp phần xứng đáng là một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học,

nghiên cứu khoa học và công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực với chất lượng cao, đạt trình độ tiên

tiến đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Theo PGS.TS Nguyễn Tấn Phát -

Giám đốc ĐHQG-HCM “ĐHQG-HCM gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học theo yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Nghiên cứu

khoa học là một nhiệm vụ quan trọng trong đào tạo đào tạo đại học và sau đại học. Chính

đào tạo sau đại học sẽ là tiềm lực phát triển nghiên cứu khoa học, đây được coi là sứ mệnh

của các cơ sở đào tạo thuộc ĐHQG-HCM phấn đấu để đưa ĐHQG-HCM trở thành một

trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học hàng đầu quốc gia”.

3.3. Một số cách thức thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả việc quản lý hoạt động

học tập và nghiên cứu khoa học trong sinh viên

* Về việc quản lý hoạt động học tập:

- Cải tiến nội dung học tập của sinh viên theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển

của thời đại, không thể để nội dung học tập của sinh viên lỗi thời, lạc hậu.

- Tổ chức việc học tập của sinh viên theo hướng phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu với

kế hoạch, nội dung, phương pháp tiên tiến và thực hiện phương châm “lấy sinh viên là trung

tâm” trong mọi hoạt động học tập.

- Cung cấp cho sinh viên các tài liệu, sách phục vụ học tập nhất là sách giáo khoa các chuyên

ngành cần được viết lại cho phù hợp với sự phát triển khoa học kỹ thuật.

- Kế hoạch hoá các hoạt động học tập một cách khoa học để sinh viên không mất nhiều thời

gian mà vẫn đạt kết quả tốt.

- Trước mắt, đáp ứng cho sinh viên đủ chỗ ở nội trú để không một sinh viên nào phải lang

thang tìm chỗ trọ mỗi khi vào đầu năm học. Còn các điều kiện khác như chỗ ở tốt, rộng rãi,

thoáng mát, tiện nghi… thì dần dần sẽ là mục tiêu cải tiến của nhà trường.

- Nên thường xuyên kiểm tra đánh giá công tác học tập nhưng phải khắc phục cách đánh giá

kết quả học tập của sinh viên như hiện nay chủ yếu là thi hết môn chiếm 100% điểm số môn

học.Với cách đánh giá kết quả học tập đó đã ảnh hưởng đến thái độ, phương pháp và nội

dung học tập và dẫn đến sự thụ động trong học tập như: thiếu chuyên cần, quay cóp, học đối

phó, chờ thầy cô giới hạn môn thi, gây tâm lý nặng nề trong thi cử, coi thi cử là mục đích

cuối cùng của học tập…. Vì thế, nhà trường cần cải tiến cách thức thi cử theo hướng trắc

nghiệm và tổ chức kiểm tra thành nhiều lần mỗi môn rồi lấy điểm trung bình các lần kiểm

tra.

* Về việc quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học:

- Nhà trường hỗ trợ các thủ tục hành chính như cấp giấy chứng nhận, giấy giới thiệu….cho

sinh viên khi thực hiện nghiên cứu đề tài.

- Hiện nay, ĐHQG-HCM chưa có quy chế, chính sách cho sinh viên nghiên cứu khoa học vì

vậy cần xây dựng các quy chế, chính sách này.

- Kinh phí nghiên cứu khoa học của sinh viên hiện nay rất hạn hẹp, không đủ cho các em

thực hiện đề tài. Vì vậy, ĐHQG-HCM cần tăng thêm kinh phí hoặc thành lập quỹ kinh phí

NCKH riêng cho sinh viên.

- Hỗ trợ tài liệu, sách tham khảo, phương tiện và thông tin cho sinh viên nghiên cứu khoa

học tại các thư viện Trường, xây dựng thêm các phòng thí nghiệm phục vụ công tác NCKH.

- Tổ chức, hướng dẫn, tuyên truyền sâu rộng trong sinh viên cách thức nghiên cứu khoa học.

Phát động phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học qua hệ thống Đoàn thanh niên và các

Khoa, Bộ môn.

- Tổ chức Hội thảo, diễn đàn, toạ đàm về nội dung các hoạt động nghiên cứu khoa học trong

sinh viên; Tổ chức thuyết trình, công bố các đề tài đoạt giải cao.

- Tuyển chọn sinh viên có khả năng nghiên cứu khoa học tham gia vào các đề tài của cán bộ,

giảng viên.

- Cần nhiều giải thưởng xứng đáng để động viên, khích lệ sinh viên có các công trình đoạt

giải và có tính ứng dụng vào thực tế cao.

Thực hiện những biện pháp nêu trên thì việc quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu

khoa học trong nhà trường sẽ đạt được các giải pháp cơ bản về quản lý, giáo dục, hỗ trợ sinh

viên học tập và nghiên cứu khoa học. Điều này hoàn toàn phù hợp với giả thuyết “Công tác

quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM chưa đạt

được các yêu cầu đề ra. Vì thế, muốn đạt được hiệu quả thì cần phát triển các biện pháp

quản lý, giáo dục, hỗ trợ sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học”.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1.Kết luận

Qua kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn, tác giả xin rút ra một số kết luận sau:

- Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM là

một trong những nội dung quản lý quan trọng được các cấp quản lý đặc biệt quan tâm. Quản

lý hoạt động học tập gắn liến với quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học là hai mục tiêu

không thể tách rời nhau trong công tác quản lý sinh viên của các trường đại học chất lượng

cao. Công tác này là nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên trong nhà trường đồng thời cũng chính

là nhiệm vụ của sinh viên đối với quá trình học tập và nghiên cứu của bản thân.

- Sinh viên thực hiện và nắm vững các quy chế, quy định có liên quan đến hoạt động học tập

là nét nổi bật trong kết quả quản lý của ĐHQG-HCM đối với hoạt động học tập của sinh

viên. Thế nhưng đa số sinh viên chưa nhận ra vai trò chủ thể của mình trong hoạt động học

tập cũng như trong quản lý việc học của cá nhân vì thế thiếu tính tự giác, tích cực trong các

hoạt động học tập. Sinh viên mất nhiều thời gian cho việc tự học nhưng lại chưa có kỹ năng

tự học xuất phát từ việc tự học của sinh viên chưa được các lực lượng giáo dục trong trường

công nhận là yếu tố quyết định chất lượng học tập. Sinh viên học theo thời khóa biểu trên lớp

chiếm quá nhiều thời gian trong ngày nhưng việc tổ chức các hoạt động học tập cho sinh

viên lại chưa thực sự có sức thu hút và thiếu kế hoạch, nội dung, phương pháp. Hơn thế nừa,

Cơ sở vật chất, tài liệu học tập chưa đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên.

- Công tác quản lý chất lượng, nội dung, kế hoạch học tập quản lý hoạt động học tập của sinh

viên đã được cán bộ, giảng viên quan tâm đến nhưng ở mức độ chưa cao. Phương pháp học

tập là điều mà sinh viên rất cần để nâng cao chất lượng học tập thì ít được cán bộ, giảng viên

quan tâm đến mà nếu có thì cũng chỉ là trên lý thuyết.

- Sinh viên nhận thức được ý nghĩa cần thiết của hoạt động nghiên cứu khoa học nhưng việc

quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà trường còn thiếu kinh

phí, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thời hoạt động này chưa có sức thu hút, thiếu

kế hoạch, nội dung, phương pháp. Cán bộ, giảng viên cũng đã bước đầu quan tâm đến chất

lượng, phương pháp, tổ chức thực hiện việc nghiên cứu khoa học nhưng vẫn còn ở mức độ

thấp.

-Sinh viên cần sự hỗ trợ từ phía các cán bộ quản lý về : thủ tục hành chính cho sinh viên làm

nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tế, hỗ trợ tài liệu, sách tham khảo,

phương tiện, thông tin và thời gian dành cho công tác nghiên cứu.

- Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong nhà trường chưa trở thành phong trào

vì thế chưa có sức thu hút đông đảo sinh viên tham gia.

- Hoạt động nghiên cứu khoa học chưa gắn kết với hoạt động học tập và hai hoạt động này

chưa gắn kết với hoạt động xã hội. Trong khi đó, hoạt động nghiên cứu được xem như một

trong những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đào tạo.

-Một trong những trở ngại khiến cho sinh viên chưa quen với hoạt động nghiên cứu khoa học

là do không có người hướng dẫn cách thức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.

Thực trạng này đòi hỏi cán bộ quản lý, giảng viên ĐHQG-HCM cần phải nhìn lại toàn bộ

quá trình quản lý sinh viên nói chung và quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học

của sinh viên nói riêng, thực hiện các biện pháp hữu hiệu để công tác quản lý hoạt động học

tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên ĐHQG-HCM đạt được hiệu quả, góp phần nâng

cao chất lượng giáo dục.

2. Kiến nghị

Thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên

ĐHQG-HCM, đồng thời để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý hoạt động học

tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên trong điều kiện thực tế hiện nay chúng tôi xin có

một số kiến nghị như sau:

1. Cần đổi mới tư duy, nhận thức về quản lý sinh viên nói chung và quản lý hoạt động học

tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên nói riêng theo hướng chủ động, tích cực, sáng tạo.

Cần phải xác định đây là nhiệm vụ quan trọng trong toàn ĐHQG-HCM.

2. Từng bước khắc phục hạn chế yếu kém tiến tới loại bỏ dần phong cách quản lý sinh viên,

quản lý động cơ học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên thụ động quá nghiên về mặt

quản lý hành chính hoá mà cần kết hợp hài hòa giữa quản lý giáo dục xã hội đối với sinh

viên và quản lý nhà nước đối với sinh viên.

3. Nhà trường thiết kế nội dung đào tạo theo hướng thiết thực, gắn bó thực tiễn cơ chế thị

trường lao động đòi hỏi (giảm bớt lý thuyết, tăng giờ thực hành, thực tập, đi nghiên cứu thực

tế); kết hợp bố trí thời khóa biểu học tập sinh viên hợp lý để sinh viên có thời gian tự học, tự

nghiên cứu, tự biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao tay

nghề sau khi ra trường và có nhân cách hoàn thiện của người công dân – tri thức trẻ.

4. ĐHQG-HCM chỉ đạo các trường đại học thành viên đẩy mạnh và nâng chất phong trào

sinh viên nghiên cứu khoa học. Nâng cấp giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học, cải tiến

các khâu đăng ký và xét giải thưởng. Biểu dương các đề tài nghiên cứu có chất lượng cao

của sinh viên; kêu gọi các doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh

viên ĐHQG-HCM; tăng thêm nguồn kinh phí hỗ trợ các công trình nghiên cứu của sinh viên

để nâng chất lượng các đề tài nghiên cứu hoặc dành một khoản kinh phí nghiên cứu khoa học

riêng cho sinh viên (Quĩ nghiên cứu khoa học sinh viên).

5. Xây dựng qui chế, chính sách sinh viên nghiên cứu khoa học trong ĐHQG-HCM, đề xuất

các cơ chế quản lý sinh viên nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc tổ chức kế hoạch, nội dung,

phương pháp; hỗ trợ tài liệu, sách tham khảo, phương tiện và thông tin cho sinh viên nghiên

cứu khoa học; tổ chức hướng dẫn cho sinh viên phương pháp, kiến thức nghiên cứu khoa

học. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tế cũng như ứng dụng đề tài nghiên cứu

vào thực tế.

6. Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh việc kết hợp nghiên cứu khoa học với công tác xã hội đặc

biệt là chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh.

7. Tạo điều kiện cho những sinh viên có khả năng nghiên cứu khoa học tham gia vào các đề

tài nghiên cứu của cán bộ, giảng viên.

8. Công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường kết hợp với các Viện, Trung tâm nghiên

cứu, tạo điều kiện cho sinh viên thâm nhập vào các nhà máy, xí nghiệp để tìm đề tài nghiên

cứu và sau đó trở lại phục vụ thực tiễn sản xuất.

9. Tổ chức các hội thảo, diễn đàn, triển lãm để công tác nghiên cứu khoa học gần gũi với

sinh viên, xóa bỏ sự “tự ti” của sinh viên cho rằng nghiên cứu khoa học là một vấn đề cao xa

không thể thực hiện được.

10. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên trước tiên cần quan tâm đến phương pháp học

tập, thay đổi cách học của sinh viên bằng cách phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên

trong các hoạt động học tập. Nhà trường áp dụng nhiều phương pháp dạy và học phát huy

tính năng động, sáng tạo của sinh viên như nghiên cứu tình huống, học trên cơ sở giải quyết

vấn đề, học qua khám phá… Internet và các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã được tích cực

huy động để hỗ trợ cho việc học tập của sinh viên. Sinh viên cần tham gia nhiều hơn và có

hiệu quả hơn và các công trình nghiên cứu khoa học để rèn luyện năng lực sáng tạo.

11. Cải cách nội dung các môn học theo hướng hiện đại; cung cấp cho sinh viên đủ tài liệu,

sách phục vụ học tập; tìm các nguồn học bổng hỗ trợ, khuyến khích học tập cho sinh viên.

12. Xây dựng các giáo trình về phương pháp học tập ở bậc đại học.

13. Xây dựng mạng lưới cố vấn học tập có hiệu quả để nắm bắt được những khó khăn của

sinh viên trong học tập để kịp thời có biện pháp hỗ trợ.

14. ĐHQG-HCM tiếp tục phối hợp với các tỉnh xây dựng thêm ký túc xá cho sinh viên, đáp

ứng nhu cầu chỗ ở ngày càng cao của sinh viên ĐHQG-HCM. Đồng thời, đảm bảo về chỗ ở

cho các sinh viên yên tâm học tập, nghiên cứu. Trước mắt, ĐHQG-HCM chưa đáp ứng đủ

chỗ ở cho sinh viên thì nên tuyển sinh với mức độ vừa phải, tránh tình trạng chạy theo số

lượng trong khi cơ sở vật chất, chỗ ở cho sinh viên chưa đáp ứng kịp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tác giả Việt Nam

1. Cao Duy Bình, Đặng Bá Lâm, Phạm Thành Nghị (1999), “Chính sách và kế hoạch trong

quản lý giáo dục”, NXB Giáo dục.

2. Cao Duy Bình (2004), “Quản lý chất lượng giáo dục- đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế

ISO 9000”, Tạp chí Giáo dục, 79, Tr.9-10.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Hệ thống hoá văn bản qui phạm, pháp luật về giáo dục - đào

tạo, sau đại học - đại học - cao đẳng”, NXB Giáo dục, Hà nội, 2000.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1994), “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học đáp ứng yêu

cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, kỷ yếu, Hội thảo.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), “Quy chế quản lý việc học tập của sinh viên”.

6. Đỗ Thị Châu, “Rèn luyện kĩ năng tổ chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên, đáp ứng

nhu cầu đào tạo mới“,Tạp chí Giáo dục, số 26 tháng 3/2002,Tr.23

7. Chiến lược xây dựng và phát triển Đại học Quốc gia Tp HCM 2001-2005, Tp

HCM,11/2002.

8. Dương Danh Cường: “Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp của học sinh Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I”, mã số 5.07.03, Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục, Hà nội, 2000.

9. Đại học Quốc gia Tp HCM (2006), “Hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2001-

2005, phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2006-2010”, Kỷ yếu Hội thảo.

10. Văn Đình Đệ, Trường Đại học Bách khoa Hà nội, “Sinh viên nghiên cứu khoa học – một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội”, Tạp chí Giáo dục, số 92 tháng 7/2005, Tr.41

11. Nguyễn Thị Đoan, Đỗ Minh Cương, Phương Kỳ Sơn (1996), “Các học thuyết quản lý”,

NXB Chính trị Quốc gia.

12. Trần Khánh Đức, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, “Về các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học- công nghệ”, Tạp chí giáo dục số 81 tháng 3/2004.

13. Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Đặng Bá Lâm, Nghiêm Đình Vỳ (2002), Giáo dục Thế giới

đi vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia.

14. Phạm Minh Hạc (2001), “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá”, NXB Chính trị Quốc gia, Tr 8-20-95.

15. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.

16. Nguyễn Ngọc Hợi và Phạm Minh Hùng-Trường Đại học Vinh, “Đổi mới công tác kiểm

tra- đánh giá kết quả học tập của sinh viên”, Tạp chí giáo dục số 49 tháng 1/2003.

17. Đặng Thành Hưng (2004), “Những nguyên tắc quản lý chất lượng giáo dục”, Dạy và

học ngày nay, 7, Tr.27-30.

18. Nguyễn Thành Hưng (2004), “Một số cách tiếp cận trong đánh giá chất lượng giáo

dục”, Tạp chí Giáo dục, 92,Tr.7

19. Lưu Văn Kim, “Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục học sinh, sinh viên”,Tạp chí giáo

dục - 2004 số 84.

20. Mai Hữu Khuê (chủ biên) (2000), “Nghệ thuật lãnh đạo tâm lý học”, NXB. Tổng hợp

Đồng Nai.

21. Phạm Thanh Liêm (2000), “Lý luận quản lý giáo dục”, Trường cán bộ QLGD& ĐT II,

Tp. Hồ Chí Minh, Tr.13.

22. Lê Thị Xuân Liên, Trường CĐSP Quảng Trị, “Nâng cao tính tích cực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên qua việc tổ chức Seminar và hướng dẫn ôn tập, tổng kết chương”, Tạp chí giáo dục số 82 tháng 4/2004.

23. Nguyễn Thế Long (2006), “Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt Nam trong kinh tế

thị trường”, NXB Lao động.

24. Luật giáo dục nước CHXHCNVN Việt Nam (sửa đổi ), 2005.

25. Nguyễn Phấn Lý: “Những biện pháp tăng cường quản lý học sinh ở Trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I”, mã số 5.07.03, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục, Hà Nội 2001.

26. Mai Hữu Khuê, “Giáo trình phân tích quản lý và tổ chức, học viện HCQG Hà nội-

Chính phủ”, Hà Nội, 1998, Tr.23

27. Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái: “Nhập môn hành chính Nhà nước”, NXB Tp Hồ

Chí Minh,1996,Tr.15.

28. Tạ Ngọc Minh (2004), “Sinh viên tự học và đọc sách”, Dạy và học ngày nay, số 5, Tr

47-48.

29. Lưu Xuân Mới (2000), “Lý luận dạy học đại học”, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng CSVN.

31. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Đảng

CSVN, Hà nội,1996.

32. Những điều cần biết về tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2006, NXB Giáo dục, 2006.

33. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo của ĐHQG-HCM, Tp HCM tháng

10/2003.

34. Vũ Thị Nguyệt -Trường CĐSP Vĩnh Phúc, “Rèn luyện kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho sinh viên sư phạm-Một số vấn đề cấp thiết”, Tạp chí giáo dục số 71.

35. Lê Văn Nuôi (10.1996), “Đổi mới tư duy và phương pháp công tác vận động thanh

niên”, Báo Sài gòn Giải phóng, ĐD/55, Tr.1-41.

36. Bùi Ngọc Oánh (1995), “Tâm lý học trong xã hội và quản lý”, NXB Thống kê.

37. Nguyễn Ngọc Quang (1989), “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo

dục”,Trường Cán bộ Quản lý giáo dục Trung ương I.

38. Quy chế công tác học sinh, sinh viên nội trú (trong các trường Đại học, Cao đẳng, THCN và dạy nghề- lưu hành nội bộ), (Ban hành theo quyết định số 2137/1997/QĐ– BGD & ĐT ngày 28/6/1997 của Bộ trưởng Bộ GD& ĐT), Hà Nội, 6/1997.

39. Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo,

Hà Nội, 2002

40. Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong Đại học Quốc gia Tp HCM (Ban hành theo Quyết định số 251/2001/QĐ/ĐHQG/TCCB ngày 1/6/2001 của Giám đốc ĐHQG- HCM), Thành phố Hồ Chí Minh, 6/2001.

41. Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng

và trung học chuyên nghiệp hệ chính qui, Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 2002.

42. Hoàng Tâm Sơn (2001), “Một số vấn đề tổ chức khoa học lao động của người Hiệu

trưởng”, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo II, Tp Hồ Chí Minh.

43. Tập văn bản các chế độ chính sách có liên quan đến HSSV, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà

nội, 2002

44. Phạm Trung Thành (1999),“Phương pháp học tập và nghiên cứu của sinh viên Cao

đẳng- Đại học”, NXB Giáo dục, Hà Nội.

45. Nghiên Thị Thảo (1999), “Thực trạng và các biện pháp tổ chức họat động tự học cho sinh viên Trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm.

46. Nguyễn Văn Toàn, “Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường cao đẳng giao thông vận tải 3”, Mã số: 5.07.03, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh 2004.

47. Nguyễn Kiên Trường (2004), “Phương pháp lãnh đạo và quản lý nhà trường hiệu quả”,

NXB Chính trị Quốc gia.

48. Văn bản pháp quy về đào tạo tập 1 và tập 2, NXB Đại học Quốc gia Tp HCM.

49. Văn kiện Đại hội đại biểu Hội sinh viên Việt Nam, Tp HCM, 2000.

50. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng CSVN,NXB Chính trị Quốc gia,

Hà nội, 2001.

51. Phạm Viết Vượng (2000),“Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB ĐHQG Hà

Nội, Hà Nội.

Tác giả người nước ngoài

53. Côn I.X (1997), “Tâm lý học thanh niên”, NXB Trẻ Tp HCM, Tr.72-122-123-125.

54. Harorld Koontz, Cyril O’konnel, Heinz Weihrich (1994), “Những vấn đề cốt yếu

của quản lý”, NXB KH&KT.

55. Exipov, B.P (1977), “Những cơ sở lý luận dạy học”, Tập 1,2 NXB Giáo dục.

56. Exipov, B.P (1978), “Những cơ sở lý luận dạy học”, Tập 3, NXB Giáo dục.

57. Singh.R.R (1994), “Nền giáo dục cho Thế kỷ 21 những triển vọng Châu Á Thái Bình

Dương”, Viện Khoa học Giáo dục.

MOÄT SOÁ HÌNH AÛNH TIEÂU BIEÅU CAÙC HOAÏT ÑOÄNG HOÏC TAÄP VAØ NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC CUÛA SINH VIEÂN ÑHQG-HCM

Nhaø ñieàu haønh ÑHQG-HCM

Sinh vieân nghieân cöùu, öùng duïng

Sinh vieân tham gia thò tröôøng chöùng khoaùng aûo

Leã tuyeân döông sinh vieân 3 toát

Giaûi nhaát Hoäi thi caùc moân Olympic Mac- Lenin

Thi Robocon Chaâu AÙ – Thaùi Bình Döông taïi Nhaät

SV ñoaït chöùc voâ ñòch Robocon taïi Haøn Quoác Tuyeân döông sinh vieân voâ ñòch Robocon