BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
..………./……..…. ………./………..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
..………./……..…. ………./………..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số
: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN THỊ VÂN HÀ
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Học viên
Nguyễn Thị Thanh Tâm
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn đến các đơn vị và cá nhân đã giúp
đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản lý
công. Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn đến Cô giáo – Tiến sĩ. Nguyễn
Thị Vân Hà đã tận tình hướng dẫn và có những ý kiến quý giá giúp em
thoàn thành bản luận văn này. Xin chân thành cảm ơn toàn thể quý thầy,
quý cô và các cán bộ của Học viện Hành chính Quốc gia đã trực tiếp hoặc
gián tiếp giúp đỡ về mọi mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Em cũng xin cảm ơn Ban Thường vụ Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm đã hết
sức tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện luận văn của mình.
Em cũng chân thành cảm ơn gia đình, những người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã chia sẻ cùng em những khó khăn, độngviên và tạo mọi điều kiện
cho em học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Với những sự giúp đỡ tận tình nói trên, luận văn của em đã đạt được
một số kết quả nhất định. Mặc dù vậy do phạm vi nghiên cứu thuộc lĩnh
vực phức tạp, kinh nghiệm bản thân còn ít nên công trình không thể tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế, em xin hy vọng nhận được những góp ý
chân tình của các quý thầy, quý cô và các đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Thanh Tâm
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................... iii
DANH MỤC VIẾT TẮT .......................................................................... v
DANH MỤC BẢNG BIỂU ...................................................................... vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ ........................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung ............................................................. 7
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ....................................................................... 7
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ phụ nữ ........ 10
1.2. Các hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội14
1.2.1. Công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ ............................................. 14
1.2.2. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng ......................................... 19
1.2.3. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ ... 21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội
Liên hiệp phụ nữ từ quận tới cơ sở ....................................................... 23
1.3.1. Các yếu tố khách quan .................................................................... 23
1.3.2. Các yếu tố chủ quan ....................................................................... 28
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM HIỆN NAY .......................................... 32
2.1. Khái quát tình hình của Hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm .... 32
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm 32
2.1.2. Tình hình tổ chức của Hội .............................................................. 34
2.1.3. Tình hình hoạt động của Hội .......................................................... 40
iii
2.2. Các hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội
Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm .................................................... 48
2.2.1. Công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ ............................................. 48
2.2.2. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ
trên địa bàn quận ...................................................................................... 50
2.2.3. Công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ Hội
LHPN quận .............................................................................................. 52
2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ
cán bộ Hội cấp cơ sở trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm ............................... 54
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................... 57
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI
LIÊN HIỆP PHỤ NỮ QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY .............................................................................................. 58
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội
LHPN Quận Bắc Từ Liêm ..................................................................... 58
3.2. Các giải pháp cụ thể ........................................................................ 63
3.2.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy .......................................................... 63
3.2.2. Giải pháp về hoạt động ................................................................... 66
Tiểu kết Chương 3 .................................................................................... 79
KẾT LUẬN ............................................................................................. 80
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 82
iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ
1 BCH Ban Chấp hành
2 CNH Công nghiệp hóa
3 CNTT Công nghệ thông tin
4 HĐH Hiện đại hóa
5 HĐND Hội đồng nhân dân
6 LHPN Liên hiệp phụ nữ
7 MTTQ Mặt trận tổ quốc
8 TW Trung ương
9 UBND Ủy ban nhân dân
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ hội cơ sở thuộc quận Bắc Từ Liêm năm 2016-
2018 (bao gồm chi hội trưởng, tổ trưởng, tổ phó phụ nữ) ......................... 39
Bảng 2.2. Kết quả công tác xây dựng tổ chức hội vững mạnh .................. 41
Bảng 2.3. Kết quả công tác tuyên truyền, vận động Hội LHPN ................ 43
Bảng 2.4 : Kết quả công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, vệ sinh môi
trường, giúp hộ nghèo – khó khăn, xây dựng gia đình văn minh hạnh phúc .... 46
Bảng 2.5. Chất lượng đội ngũ cán bộ hội Quận Bắc Từ Liêm ................... 49
Bảng 2.6. Chất lượng cán bộ hội theo Chỉ thị 05-TW của Bộ chính trị khóa
XII ............................................................................................................ 53
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai
trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước.
Từ cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường của Bà Trưng, Bà Triệu đến hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lịch sử lại tiếp tục ghi nhận hàng vạn
tấm gương phụ nữ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng
cống hiến không những cuộc đời mình mà còn hy sinh cả con em họ cho nền
độc lập, tự do của Tổ quốc.
Sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý được coi là
thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại. Mặc dù có
nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng các quan điểm đều nhất quán ở
chỗ cho rằng, vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tỷ lệ thuận với tỉ lệ
phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. Điều này giải thích tại sao Chiến
lược và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đặt ra mục
tiêu tăng tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Giải phóng phụ
nữ, đưa yếu tố giới và phụ nữ vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị đã và đang trở
thành vấn đề toàn cầu chứ không chỉ của riêng quốc gia, dân tộc nào. Tuy
nhiên, trên thực tế, vẫn có sự khác biệt lớn giữa nam và nữ trong việc tham
gia hoạt động chính trị ở các quy mô, từ trong gia đình đến cộng đồng, từ địa
phương đến quốc gia, phụ nữ vẫn có rất ít đại diện trong bộ máy chính quyền
và các cấp ra quyết định.
Hội LHPN Việt Nam tuy không phải là bộ phận có chức năng quản lý
nhà nước nhưng do đặc thù của Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam là một trong
những đoàn thể, là cán h tay nối dài của Đảng, Nhà nước có những hoạt động
đặc thù góp phần phục vụ quản lý nhà nước. Từ thực trạng phong trào phụ nữ
và trình độ lãnh đạo Hội phụ nữ của quận Bắc Từ Liêm, để phát huy tốt vai
1
trò của Hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm nói chung và nâng cao hiệu
quả về chất lượng đội ngũ lãnh đạo Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở nói riêng
hiện nay, đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền, đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ
nữ các cấp phải ra sức phát huy vai trò, vị trí của mình lên ngang tầm đòi hỏi
của thời kỳ mới. Trong đó, quan tâm đến năng lực, trình độ của lãnh đạo Hội
Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở trên địa bàn quận. Bởi cán bộ Hội được nâng cao
trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ sẽ tổ chức, lãnh đạo tốt công tác
Hội, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ nâng cao năng lực của phụ nữ đáp ứng
yêu cầu tình hình mới, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề: “Nâng cao hiệu quả quản lý
của đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm, thành phố
Hà Nội hiện nay” là đề tài nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn:
Hiện nay đã có nhiều công trình đề tài nghiên cứu về công tác cán bộ
nữ trong hệ thống chính trị cũng như công tác của cán bộ của Hội Liên hiệp
phụ nữ. Có thể kể đến các đề tài có liên quan:
Dương Thị Xuân (2009), Hội LHPN Việt Nam, đã có bài viết về “Vai
trò, trách nhiệm của Hội LHPN Việt Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng
giới” tại Hội thảo về thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và lồng ghép giới
trong thực hiện một số dự án luận.
Hội LHPN Việt Nam (2011) đã có báo cáo quốc gia về “Đánh giá vai
trò của Hội LHPN Việt Nam trong hoạt động phòng chống thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu”. Báo cáo đã chỉ ra được sự tham gia của các cấp Hội
chưa mang tính chủ động, chưa phát huy được hết tiềm năng và những đóng
góp của tổ chức Hội và hội viên phụ nữ trong hoạt động này; xem xét và đề
xuất giải pháp phát huy vai trò của Hội LHPN Việt Nam khi là thành viên của
2
Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương/Ban Chỉ huy phòng chống lụt
bão ở địa phương.
TS. Văn Tất Thu (2012), “Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản
lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế” đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 31/10/2012. Trong bài viết, TS Văn Tất
Thu đã phân tích những ưu điểm và hạn chế của đội ngủ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước hiện nay. Từ đó đưa ra một số yêu cầu nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước trong quá trình Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Đề tài “Một số giải pháp nhằm đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay”
của Lê Thị Mỹ Hạnh (2013) nghiên cứu và phân tích ưu điểm, hạn chế hoạt
động của tổ chức Hội LHPN tỉnh Quảng Bình; đề xuất một số giải pháp nhằm
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm nâng cao được vao trò,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Đề tài “Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ quận
Long Biên, thành phố Hà Nội” của Đinh Thị Việt Hà năm 2014 nghiên cứu và
phân tích thực trạng năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ Hội LHPN trên
địa bàn quận Long Biên; đánh giá các yếu tố tác động và đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động cho đội ngũ cán bộ Hội góp phần
xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
Đề tài “Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hải Dương trong xóa đói,
giảm nghèo hiện nay” của Nguyễn Thị Phượng năm 2016 nghiên cứu và phân
tích thực trạng của việc phân hóa giàu nghèo, bình đẳng giới; vai trò của Hội
Liên hiệp phụ nữ trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn
tỉnh Hải Dương; xem xét các yếu tốt ảnh hưởng và đưa ra các giải pháp nhằm
thể hiện rõ vai trò của tổ chức Hội phụ nữ tỉnh để công tác xóa đói, giảm
nghèo có hiệu quả.
3
Đề tài “Chất lượng nguồn nhân lực đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ cơ sở
hiện nay” của Nguyễn Hoàng Anh năm 2017 nghiên cứu và phân tích thực
trạng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực cán bộ Hội phụ nữ tại các cơ sở xã,
phường, thị trấn; xem xét ảnh hưởng của các yếu tố có liên quan và đưa ra các
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Hội cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu
của xã hội trong giai đoạn phát triển mới.
Hội nghị Ban chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam khóa XII, lần thứ 3
(2018), thảo luận về việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết
số 19-NQ/TW, Ban Chấp hành TW Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp
tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả”; “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”
(Nghị quyết TW6).
PGS.TS Lưu Kiếm Thanh (2019) – Học viện Hành chính Quốc gia đã
có bài viết về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nữ góp phần nâng cao
vị thế của Việt Nam”. Bài viết đã chỉ ra được những điều kiện cần và đủ trong
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nữ và đưa ra các giải pháp trong
giai đoạn hiện nay.
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ (2019) tổ chức Hội thảo
khoa học “Đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử
dụng đội ngũ cán bộ, công chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà nước”.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài chất lượng cán bộ quản
lý nhưng gần như chưa có đề tài nào tập trung vào cán bộ quản lý của Liên
Hiệp hội Phụ nữ Việt Nam nhưng chưa có đề tài nào tập trung vao. Chính vì
vậy đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ
nữ quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay” là đề tài khá mới và có
nhiều ý nghĩa trong thực tiễn
4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả công tác
quản lý của đội ngũ cán bộ Hội LHPN nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả của
hoạt động này trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng hợp những vấn đề lý luận chung về hiệu quả quản lý của đội
ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ.
- Đánh giá thực trạng hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ
cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý của đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ trên địa bàn quận Bắc Từ
Liêm hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý
của đội ngũ cán bộ hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được triển khai trên địa bàn quận Bắc Từ
Liêm, từ 01/4/2014 đến nay. (Điều chỉnh địa giới huyện Từ Liêm thành 2
quận và 23 phường theo Nghị quyết số 132 của Thủ tướng Chính phủ ngày
27/12/2013)
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn:
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Luận văn hệ thống hóa các vấn đề lý luận về nâng cao hiệu quả quản
lý đội ngũ cán bộ Hội LHPN. Đánh giá thực trạng hoạt động nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ trên địa bàn
quận Bắc Từ Liêm. Nghiên cứu cũng đề xuất chỉ ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội LHPN trên địa bàn quận
Bắc Từ Liêm hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác Hội phụ nữ trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm trong thời gian tới; đồng thời,
làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm tới lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán
bộ hội Liên hiệp phụ nữ
Chương 2: Thực trạng nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ
hội phụ nữ quận Bắc Từ Liêm hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
của đội ngũ cán bộ hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà
Nội hiện nay
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
1.1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm quản lý cán bộ
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát
sinh khi cần có sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra
ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp.
Với ý nghĩa phổ biến thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách
có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý lên một đối tượng quản lý để
điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn
định và phát triển của đối tượng quản lý theo những mục tiêu đã định. Quản
lý là một hoạt động phức tạp và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Các yếu tố đó là: con người; hệ thống và tư tưởng chính trị; tổ chức; thông
tin; văn hóa...
Theo khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức Năm 2008 quy định:
cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Quản lý cán bộ giống như quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động
nhằm tăng cường những đóng góp có hiệu quả của cá nhân vào mục tiêu của
tổ chức trong khi đồng thời cố gắng đạt được các mục tiêu xã hội và mục tiêu
cá nhân. Công tác quản lý cán bộ bao gồm: Tuyển dụng, sử dụng, kiểm tra,
đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng. Vì vậy, quản lý cán bộ là một trong những nội
7
dung quan trọng của công tác cán bộ. Từ trước đến nay, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác quản lý cán bộ. Trải qua các cuộc
kháng chiến trường kỳ gian khổ và cả thời kỳ đổi mới, nhiều cán bộ được
Đảng, Nhà nước quản lý tốt nên trưởng thành và có nhiều đóng góp cho đất
nước. Do quản lý tốt cán bộ nên có nhiều tổ chức đảng trong sạch, vững
mạnh, nhiều cán bộ đảng viên nêu gương phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ,
đặc biệt đã cổ vũ được sự phấn khởi, đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân,
góp phần tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Sau Đại hội XII,
Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí và tăng cường công tác quản lý cán bộ nên tình hình có
chuyển biến tốt hơn. Thông qua công tác quản lý cán bộ, Đảng đề ra chủ
trương, kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chính xác, thiết
thực; bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, đồng thời, hạn chế tối đa hiện
tượng suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ.
* Khái niệm hiệu lực, hiệu quả quản lý
Theo khoa học quản lý: “Hiệu lực quản lý là mức độ thực hiện hoá của
các quyết định quản lý. Nó cho thấy quyết định quản lý đưa ra được thực hiện
như thế nào, nhanh hay chậm, đúng trình tự và đúng tiêu chuẩn của kế hoạch
hay không . Thể hiện sự tôn trọng và tuân thủ của đối tượng quản lý đối với
chủ thể quản lý đồng thời thể hiện trình độ năng lực quản lý và tính đúng đắn
của các quyết định quản lý” (10, tr37). Hiệu lực quản lý thể hiện giá trị hiện
thực của các quyết định quản lý. Từ một quyết định đưa ra đưa vào thực tế
được thực hiện đúng trình tự thời gian, đúng người đúng việc, giải quyết vấn
đề đạt mục tiêu kế hoạch và đem lại hiệu quả kinh tế khi đó quyết định được
coi là đạt hiệu lực quản lý. Cũng từ một quyết định đưa ra trên cơ sở hiệu lực
quản lý chúng ta đánh giá được mức độ đúng đắn của nó. Vì đối tượng quản
lý là con người do đó các quyết định đảm bảo tính khoa học và đúng đắn thì
sẽ được mọi người đồng tình ủng hộ thực hiện. Và cuối cùng hiệu lực quản lý
8
thể hiện năng lực trình độ của nhà quản lý và tính kỷ luật, chuyên nghiệp, kỹ
năng làm việc của đối tượng quản lý. Những yếu tố trên của chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý được đảm bảo nhất định quyết định quản lý có hiệu lực
cao, đạt kết quả.
“Hiệu quả quản lý là kết quả quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước
nói chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng đạt được trong sự tương
quan với chi phí bỏ ra, các nguồn lực đầu vào, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội” (10, tr42). Hiệu quả là
khi chúng ta so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí thực hiện. Khi con
người kết hợp với nhau trong một tập thể để cùng nhau làm việc, người ta có
thể tự phát làm những việc cần thiết theo cách suy nghĩ riêng của mỗi người.
Lối làm việc này có thể đem lại kết quả, cũng có thể không đem lại kết quả,
nhưng chắc chắn một điều là không đem lại hiệu quả. Nếu ta biết tổ chức hoạt
động thì triển vọng đạt kết quả sẽ chắc chắn hơn, đặc biệt quan trọng không
phải chỉ kết quả mà sẽ còn tốn ít thời gian, tiền bạc và những chi phí khác
hơn, nghĩa là đạt được hiệu quả. Vì vậy, muốn đạt được hiệu quả, đòi hỏi phải
biết cách quản lý. Không biết cách lãnh đạo, quản lý cũng đạt được kết quả
nhưng hiệu quả sẽ thấp. Như vậy, mục tiêu của hoạt động quản lý là nhằm
giúp chúng ta có những kiến thức, những kỹ năng cần thiết để gia tăng hiệu
quả trong hoạt động của một tổ chức.
* Hiệu lực, hiệu quả quản lý của cán bộ Hội phụ nữ
Dự trên khái niệm của hiệu lực quản lý và hiệu quả quản lý thì hiệu lực,
hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ Hội LHPN được hiểu là kết quả của việc
quản lý đội ngũ cán bộ Hội LHPN, đánh giá việc quản lý có phù hợp và đúng
quy trình với đội ngũ cán bộ Hội hay không, đánh giá hiệu lực hiệu quả qua
kết quả hoạt động của đội ngũ cán bộ Hội trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công tác Hội.
9
Hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ trước hết phải đề cao
hiệu lực, phải đảm bảo được hiệu lực thực hiện. Mặt khác, một tổ chức Hội
tốt hoạt động phải có hiệu quả. Như vậy cả hiệu lực, hiệu quả quản lý đều
được quyết định bởi năng lực, chất lượng của một tổ chức Hội. Để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với đội ngũ cán bộ Hội LHPN phải tập trung
xây dựng và hoàn thiện các yếu tố cấu thành những hoạt động quản lý của tổ
chức Hội đó. Ngược lại, để đánh giá tiến bộ về quản lý đội ngũ cán bộ Hội
của tổ chức Hội thì phải dựa trên những tiêu chí, thước đo cụ thể phản ánh
hiệu lực, hiệu quả của tổ chức đó.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ phụ nữ
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường lối chính trị
và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi
trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài;
giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy
đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm
quyền trách nhiệm cá nhân và tập thể” (15, tr. 205-206).
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội
ngũ cán bộ và Người coi đây là công việc gốc của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phải có một đội ngũ cán bộ như thế cách mạng mới thắng lợi.
Người khẳng định: “Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan phụ trách, có
gan làm việc. Có thế Đảng mới thành công” (17, tr.287). Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng, cán bộ và công tác
cán bộ cũng là vấn đề trọng yếu. Công tác cán bộ chẳng những có ý nghĩa to
lớn đối với công tác xây dựng Đảng, mà còn góp phần quyết định đến việc
thành bại trong tổ chức và lãnh đạo cách mạng của Đảng: “Cán bộ là cái gốc
10
của mọi công việc; công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” (16, tr.269-273).
Vận dụng quân điểm của Đảng về công tác cán bộ Hội LHPN, Điều lệ
Hội LHPN Việt Nam khóa XII đã nêu rất rõ:
“Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính
trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và
bình đẳng giới.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên
đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng
lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, ngày 10/01/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị
quyết số 152-NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ mới, việc phát
huy hơn nữa vị trí, vai trò của các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của nhân dân là yêu cầu, đòi hỏi lớn. Chỉ thị số 44- CT/TW ngày
7/6/1984 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ;
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về đổi mới và tăng cường công tác
vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994
của Ban Bí thư TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới;
Nghị quyết Đại hội Đảng các khóa đều chỉ rõ riêng về công tác cán bộ nữ.
Ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/T.Ư
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
11
Nghị quyết đã nêu lên những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa X, công tác phụ nữ đã được các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn
thể quan tâm triển khai và đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức về
vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới có chuyển biến
tích cực. Hệ thống luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và bình đẳng giới
từng bước được hoàn thiện, có nhiều tiến bộ. Phụ nữ ngày càng khẳng định
vai trò, vị trí quan trọng trong gia đình và xã hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam đã có sự đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện có hiệu
quả vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện
còn hạn chế, thiếu các chính sách hỗ trợ cho nhóm phụ nữ đặc thù; giáo dục
gia đình chưa được quan tâm đúng mức; nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết số 11-
NQ/TW về công tác cán bộ nữ chưa đạt; vẫn còn định kiến giới. Tổ chức bộ
máy, phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ chậm đổi mới; vẫn
còn tình trạng “hành chính hóa” hoạt động, “công chức hóa” cán bộ.
Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu là do nhận thức, trách
nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền, nhất là của người đứng đầu còn chưa
đầy đủ; còn thiếu văn bản chỉ đạo và biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; công
tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên; vai trò tham mưu của Hội Liên
hiệp Phụ nữ một số nơi còn hạn chế; Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở một số
bộ, ngành, địa phương hoạt động chưa hiệu quả…
Để tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới, Ban Bí thư
đã ra Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 về tiếp tục đẩy mạnh công tác
phụ nữ trong tình hình mới. Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tập trung thực hiện tốt các
nhiệm vụ:
12
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã
nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X. Tuyên truyền
sâu rộng trong xã hội nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vai trò, vị trí,
tiềm năng to lớn của phụ nữ, về công tác phụ nữ và bình đẳng giới.
Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho
phụ nữ phát triển toàn diện. Nghiên cứu sửa đổi Luật Bình đẳng giới, các văn
bản pháp luật có liên quan, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ, thống
nhất, đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý
vi phạm trong thực hiện luật pháp, chính sách liên quan tới phụ nữ, bình đẳng
giới, gia đình và trẻ em.
Xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao.
Quan tâm đài tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh nhằm khơi dậy tiềm năng,
trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, khát vọng của đội ngũ nữ lãnh đạo
quản lý, nữ trí thức, nữ cán bộ khoa học, nữ doanh nhân…
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm chỉ đạo,
tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt chỉ tiêu Nghị quyết số 11-
NQ/TW về công tác cán bộ nữ; quan tâm tạo nguồn cán bộ nữ trẻ, nữ dân tộc
thiểu số. Hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ, nghiên cứu tuổi nghỉ
hưu đối với một số nhóm lao động nữ phù hợp với pháp luật về lao động và
quá trình phát triển của đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, toàn diện của cấp ủy
đối với tổ chức và hoạt động của hội. Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm bảo
đảm cho các cấp hội tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; giám
sát và phản biện xã hội. Định kỳ hàng năm, cấp ủy chủ trì làm việc với Hội
Liên hiệp phụ nữ cùng cấp và tổ chức đối thoại trực tiếp với phụ nữ để giải
quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc và những vấn đề đặt ra trong công tác
phụ nữ và tổ chức Hội phụ nữ ở cơ quan, đơn vị, địa phương.
13
1.2. Các hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ Hội
1.2.1. Công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ
Công tác tuyển dụng cán bộ: Tuyển dụng công chức là một công việc
phức tạp của bất cứ tổ chức hay nhà nước nào vì để tuyển chọn được những
người xứng đáng vào bộ máy thì phải tìm kiếm, đánh giá, phân tích về nhiều
mặt trong đó có năng lực chuyên môn, tư tưởng chính trị cũng như đạo đức
của họ. Chính vì thế mà V.I. Lênin đã khẳng định: “Lịch sử chưa hề có một
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình những người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” (16, tr 473).
Tuyển dụng cán bộ là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý cán bộ, có
tính quyết định cho sự phát triển một cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước.
Trong quá trình vận hành của nền công vụ, việc tuyển dụng được những cán
bộ giỏi thì nhất định nền công việc sẽ hoạt động đạt kết quả cao hơn. Như Bác
Hồ đã từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”.
Việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí
việc làm và chỉ tiêu biên chế và thông qua thi tuyển theo nguyên tắc công
khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật, đảm bảo tính cạnh tranh.
Hình thức thi, nội dung thi tuyển công chức phải phù hợp với ngành, nghề,
đảm bảo lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp
ứng yêu cầu tuyển dụng. Luật cũng quy định hình thức tuyển dụng thông qua
xét tuyển với các trường hợp đặc biệt.
Như vậy, việc tuyển dụng cán bộ trong giai đoạn hiện nay cũng như
trong thời gian tới phải thực sự xuất phát từ nhu cầu công việc, vì việc tìm
người thay vì người tìm việc để sắp xếp, bố trí việc. Để làm được điều này
phải kết hợp đồng bộ cùng với các giải pháp khác như các cơ quan nhà nước
phải xây dựng được hệ thống danh mục vị trí việc làm và cơ cấu ngạch lao
14
động của cơ quan, tổ chức mình, từ đó mới có cơ sở để tuyển dụng đúng
người, đúng việc, đúng số lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý.
Để công tác tuyển dụng mang tính “động” và “mở” đòi hỏi công tác
quản lý, phát triển nguồn nhân lực phải trên cơ sở các hoạt động phân tích,
đánh giá về nguồn nhân lực hiện tại để dự báo về nguồn nhân lực tương lai,
các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến nền công vụ. Ngoài ra, việc tuyển dụng
mới cán bộ cần gắn với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế
cán bộ theo mục tiêu đổi mới về chất, thay thế mạnh những người không đáp
ứng được yêu cầu thực thi công vụ trong nền hành chính hiện đại. Có như vậy
mới xây dựng được nền công vụ “mở”, nghĩa là có tuyển dụng vào nếu đáp
ứng được yêu cầu của vị trí việc làm và vị trí việc làm còn trống, có cơ chế
chuyển ra (cho thôi việc, chuyển vị trí công tác khác…) nếu không còn đáp
ứng được yêu cầu công việc.
Công tác sử dụng cán bộ: Trong công tác cán bộ, việc bố trí, sử dụng
cán bộ phải đúng chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở trường là rất quan trọng.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác cán bộ của Đảng nói
riêng cho thấy, việc bố trí đúng việc, đề bạt đúng người, cất nhắc đúng đối
tượng phụ thuộc rất nhiều vào việc nhận xét, đánh giá cán bộ. Ở đâu làm tốt
khâu này thì ở đó thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, cán bộ yên tâm công tác,
hăng say phấn đấu tiến bộ, tập thể đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp chung.
Ngược lại, hiện nay ở một số nơi vẫn còn tình trạng đề bạt, bố trí, bổ nhiệm
cán bộ không chú ý đến tiềm năng và năng lực thực sự của họ, mà theo lối
truyền thống “tuần tự như tiến”, “sống lâu lên lão làng”, “ thân quen”, thậm
chí do “phe cánh”, “lợi ích nhóm”, “ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình,
mà chán ghét những người chính trực” (16, tr. 279). Đã đến lúc phải kiên
quyết và kịp thời đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo những người năng lực yếu
kém, uy tín giảm sút, đồng thời thực hiện việc lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ phải thực hiện qua cạnh tranh (thi cử, thử việc, bỏ phiếu tín nhiệm...). Nói
15
đúng hơn, việc đề bạt, bố trí và sử dụng cán bộ phải tuân theo một quy trình
khoa học, thống nhất giữa các khâu từ phát hiện, tạo nguồn, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng đến đề bạt, bố trí và sử dụng cán bộ; phải xây dựng thành một
tiêu chí cụ thể, rõ ràng, phải đáp ứng được yêu cầu công việc được giao.
Xây dựng, thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài là một
trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ. Thực hiện chính sách
phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan
trọng, không phân biệt những người trong Đảng hay ngoài Đảng. Tăng cường
nguồn đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội vào phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng nhân tài trên 3 lĩnh vực: lãnh đạo - quản lý, sản xuất - kinh doanh và
khoa học - công nghệ; có chính sách phát triển nhân tài trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật và các lĩnh vực khác; tiếp tục thực hiện chủ trương, chính
sách khuyến khích đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi
đào tạo ở nước ngoài... Trong xã hội hiện nay vẫn còn sự lãng phí trong đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và trọng dụng nhân tài. Ví dụ như, đào tạo 1
chuyên gia đã khó đáng lẽ ra việc sử dụng chuyên gia phải dễ dàng hơn. Hiện
nay, vẫn chưa khắc phục được tình trạng thiếu chuyên gia đầu ngành trong
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội có hàm lượng trí tuệ cao, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, song số ít chuyên gia này cũng không mấy ai
được trọng dụng. Một mặt là do tuổi nghỉ hưu quy định trong khi cán bộ trẻ
chưa vào cuộc được. Mặt khác, lại thiếu những cơ chế, chính sách thuê khoán
chuyên gia làm cố vấn trong những lĩnh vực này. Một trong những nguyên
nhân khiến những người thật sự có tiềm năng mà không phát huy được là do
thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, ưu đãi về vật chất như: nhà ở, tiền
lương, thu nhập là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là tạo điều kiện làm việc,
trang thiết bị hiện đại và trọng dụng họ nhằm kích thích sự sáng tạo, năng
động của mỗi cá nhân để họ cảm thấy thật sự được coi trọng, thật sự trưởng
thành trong chuyên môn và có được những cống hiến thiết thực cho đất nước.
16
Phải nhận thấy rằng, không phát hiện được nhân tài, hoặc phát hiện được
nhưng bố trí không đúng lúc, đúng chỗ, đúng sở trường, làm thui chột nhân
tài là một sai lầm. Tệ hơn, phát hiện được nhân tài nhưng không sử dụng do
ghen ghét, đố kỵ là một sai lầm nghiêm trọng. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng đã nhấn mạnh cần: “Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng
dụng nhân tài” (15, tr. 207).
Để đánh giá được tính hiệu lực, hiệu quả trong khu vực công thì cần
xem xét đến chất lượng của hoạt động đó. Chính vì vậy, để đánh giá được tính
hiệu lực, hiệu quả trong quản lý đội ngũ cán bộ Hội LHPN thì cần đánh giá
được chất lượng hoạt động và thực hiện của đội ngũ cán bộ. Đối với mỗi cá
nhân, chất lượng được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức
khỏe, trí tuệ, khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, năng
lực làm việc, khả năng gắn bó với tập thể và với cộng đồng. Do vậy chất
lượng của tổ chức Hội không phải là sự tập hợp đơn giản về số lượng mà là sự
tổng hợp sức mạnh của cả đội ngũ cán bộ Hội
Hội liên hiệp phụ nữ là tổ chức chính trị- xã hội bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng cho chị em hội viên, phản ánh và đề xuất với các cấp
lãnh đạo ở địa phương về tâm tư, nguyện vọng, chính sách, chế độ liên quan
đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em. Trong hệ thống tổ chức
của Hội, Ban chấp hành Hội phụ nữ các cấp có vai trò hết sức quan trọng
quyết định đến chất lượng tổ chức, chất lượng phong trào.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ nữ:
Có thể đánh giá chất lượng cán bộ nữ qua các tiêu chí cụ thể sau đây:
- Trình độ chuyên môn (trí lực): Thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực
hành về chuyên môn, nghề nghiệp nào đó. Đó cũng là trình độ được đào tạo ở
các trường chuyên nghiệp, hệ chính quy, tại chức. Đây là những kiến thức
trực tiếp phục vụ cho công việc chuyên môn của cán bộ Hội. Trình độ của
người cán bộ bao gồm 3 mặt chủ yếu: Trình độ học vấn; trình độ chính trị;
17
trình độ chuyên môn. Trình độ học vấn là mức độ kiến thức của người cán bộ,
thường được xác định bằng các bậc học cụ thể trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Đây là nền tảng để rèn luyện, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn và
cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Trình độ chính
trị là mức độ hiểu biết về chính trị của người cán bộ. Trên thực tế, trình độ
chính trị được đánh giá chủ yếu bằng mức độ hiểu biết về lý luận chính trị.
Hiện nay, trình độ chính trị của người cán bộ được đánh giá theo 3 mức độ:
Sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Trình độ chính trị là cơ sở để tạo nên phẩm chất
chính trị của người cán bộ. Không có trình độ chính trị nhất định thì người
cán bộ không thể có giác ngộ lý tưởng cộng sản, có bản lĩnh chính trị vững
vàng. Trình độ chuyên môn của người cán bộ là mức độ kiến thức và kỹ năng
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của chức danh công việc theo quy định.
Trình độ chuyên môn của người cán bộ không chỉ được đánh giá bởi bằng cấp
chuyên môn được đào tạo mà chủ yếu là ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ
chuyên môn, ở uy tín trong công tác chuyên môn.
- Sức khỏe (thể lực): Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để phát triển
con người cả về thể chất, trí tuệ và sự hòa hợp xã hội. Cán bộ có sức khỏe tốt
có thể làm việc với năng suất cao hơn nhờ sự bền bỉ,dẻo dai và khả năng tập
trung. Sức khỏe tốt giúp con người có thể tiếp thu nhanh những kiến thức và
kỹ năng trong quá trình làm việc và học tập. Có một cơ thể khoẻ mạnh, cường
tráng là điều kiện cần thiết cho một tinh thần sảng khoái, minh mẫn, là tiền đề
và cơ sở chắc chắn, thường xuyên cho việc thực hiện có chất lượng nhiệm vụ
được giao.
- Đạo đức nghề nghiệp (tâm lực): Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
18
- Kỹ năng nghề nghiệp: Kỹ năng được chia thành 2 loại: Kỹ năng cứng
và kỹ năng mềm. Bản chất công tác phụ nữ chính là công tác tuyên truyền vận
động xã hội, vì vậy cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ cần phải có kỹ năng mềm để
có thể hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của mình.
- Kinh nghiệm: Kinh nghiệm phản ánh lĩnh vực, kiến thức mà một
người đã trải qua, đã từng tiếp xúc. Đây có thể là yếu tố quyết định thành
công của một số nghề nghiệp.
1.2.2. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
Quy hoạch là nền tảng của công tác cán bộ, luân chuyển là khâu đột
phá của công tác cán bộ. Chính vì vậy, công tác quy hoạch cán bộ cần bảo
đảm các mục tiêu và các yêu cầu nhằm bảo đảm nguồn cán bộ có đủ phẩm
chất đạo đức, năng lực cho giai đoạn hiện tại và những năm tiếp theo.
Công tác quy hoạch cán bộ nhằm hướng đến các mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược trong công tác cán
bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo
đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế
hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị.
Thứ hai, chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào
tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo,
quản lý các cấp vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về
chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực chuyên môn
và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác quy hoạch cán bộ cần phải bảo đảm tính “mở” và “động”, mở
rộng dân chủ và công khai, không khép kín. Quy hoạch “mở” là một chức
danh có thể quy hoạch một số người và một người có thể được quy hoạch vào
một số chức danh; giới thiệu cán bộ vào quy hoạch không khép kín trong từng
địa phương, cơ quan, đơn vị và bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện, triển vọng
19
đảm nhiệm chức danh quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị khác. Quy
hoạch “động” là quy hoạch được rà soát thường xuyên, hằng năm có sự bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch, đưa vào quy hoạch những nhân tố mới và đưa ra
khỏi quy hoạch những người không đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Để quy hoạch cán bộ sát thực tiễn, có tính khả thi, tránh cục bộ dòng
họ, dân tộc, vùng, miền, phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng
thời kỳ, từng lĩnh vực công tác của người cán bộ để xác định tiêu chuẩn, cơ
cấu đội ngũ cán bộ trong quy hoạch; nắm chắc đội ngũ cán bộ hiện có, dự báo
được nhu cầu cán bộ trước mắt và lâu dài.
Quy hoạch cần bảo đảm cơ cấu độ tuổi, cán bộ nữ, cán bộ người dân
tộc thiểu số. Cơ cấu cán bộ trong quy hoạch cần cân đối giữa các nhóm tuổi
để tạo nguồn cán bộ kế cận cho nhiều giai đoạn. Việc quan tâm trong phát
hiện, đào tạo, quy hoạch,… cho tới bố trí, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ người
dân tộc thiểu số phải được các cấp ủy, tố chức đảng xác định là nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên quan tâm.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải gắn kết chặt chẽ với công tác quy
hoạch, trên cơ sở quy hoạch cán bộ đã được duyệt, đẩy mạnh việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trong đó chú trọng việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, nhất là ở cơ
sở; bảo đảm cho đào tạo, bồi dưỡng đạt hiệu quả thiết thực, đúng địa chỉ,
đúng nhu cầu sử dụng theo quy hoạch; chống tư tưởng chạy theo bằng cấp,
chống lãng phí trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh và
vị trí việc làm của từng loại hình cán bộ, công chức; tránh tình trạng đào tạo
không đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ. Cần đảm bảo thực hiện tốt
quy trình đào tạo bồi dưỡng gồm 4 bước cơ bản là: Xác định nhu cầu đào tạo
bồi dưỡng, lập kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, thực hiện kế hoạch đào tạo bồi
dưỡng và đánh giá đào tạo bồi dưỡng.
20
Đào tạo bồi dưỡng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước, Ban chấp hành Trung ương đã
chỉ rõ: “Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo cán bộ,
công chức, sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình
thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính đảm bảo tính thống nhất
trong hành động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu
cầu của nhân dân doanh nghiệp”, “coi trọng công tác giáo dục đạo đức và
phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức đề cao lòng yêu nước, yêu
chế độ, niềm tự hào dân tộc, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân
của đội ngũ cán bộ, công chức”.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, yêu cầu đội ngũ cán bộ công chức,
viên chức phải vừa vững vàng về chính trị, vừa giỏi vừa chuyên. Người cán
bộ phải có đức, có tài, trong đó Đức là cái gốc. Do vậy, đào tạo bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ công tác Hội phải gắn với bồi dưỡng chính trị, giúp
cho đội ngũ cán bộ Hội hiểu biết về đường lối chính trị, quan điểm của Đảng,
đường lối chính sách của nhà nước.
1.2.3. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ
cán bộ
Trong công tác cán bộ, việc đánh giá cán bộ là khâu hết sức quan trọng,
được xem là điều kiện để từng cán bộ tự phấn đấu, rèn luyện và tự hoàn thiện
bản thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cần phải xem xét, đánh giá cán
bộ cẩn thận, kỹ lưỡng để phân biệt và loại bỏ được những người có mục đích
và động cơ không đúng “xem xét cán bộ không chỉ xem ngoài mặt mà còn
phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem cả
công việc của họ...” (17, tr. 207). Thực tế cho thấy, đánh giá cán bộ hiện đang
21
là khâu yếu nhất trong công tác cán bộ. Nhiều nơi đánh giá cán bộ vẫn còn
hình thức, cảm tính, chưa công khai, minh bạch, chưa lấy hiệu quả hoàn thành
nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực cán bộ dẫn tới việc bố
trí, sắp xếp, sử dụng, luân chuyển cán bộ còn nhiều sai sót.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác đã chỉ ra “Mỗi lần xem xét
lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những
người hủ hóa cũng lòi ra” (16, tr. 274). Vậy mà, hiện nay vẫn để xảy ra tình
trạng: Có cán bộ khuyết điểm, sai lầm đầy người, thậm chí sai lầm nghiêm
trọng, không hiểu xem xét, đánh giá kiểu gì mà vẫn được khen thưởng huân,
huy chương, khi chuyển đi nơi khác vẫn được đề bạt, bổ nhiệm chức vụ cao
hơn! Vì vậy, phải “Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ
nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất,
ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng
nhân tài” (15, tr. 206 – 207).
Thực tế cho thấy, cho dù thể chế, cơ chế có hoàn thiện, đầy đủ, tường
minh đến đâu mà các chủ thể hành động, đặc biệt là người đứng đầu có “sự
bất ổn”, “không tương thích” về tâm và tầm, sự bất nhất giữa nói và làm… thì
tổ chức, bộ máy không thể không bị liên lụy, thậm chí có thể đẩy tổ chức bộ
máy đến sai phạm nghiêm trọng, làm cản trở sự phát triển. Do đó, chỉ khi nào
thiết lập được cách thức giám sát, kiểm tra, kiểm soát đội ngũ cán bộ, công
chức có hiệu lực mới có thể ngăn ngừa và xử lý kịp thời các sai phạm trong tổ
chức bộ máy quyền lực. Nói cách khác, giám sát, kiểm tra, kiểm soát là một
trong những phương thức quan trọng để bảo đảm tính đồng bộ về công tác
cán bộ gắn với đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy quyền lực theo tinh thần
“hợp lý, hiệu lực, hiệu quả”.
22
Ở nước ta hiện nay, trong các văn bản có liên quan, các khái niệm kiểm
tra, giám sát và kiểm soát đã được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên trên thực
tế, cách hiểu về các khái niệm này chưa thống nhất, do vậy kết quả thực hiện
chưa như mong đợi. Nếu căn cứ vào nội dung, yêu cầu, thẩm quyền của các
cấp độ chủ thể giám sát, kiểm tra và kiểm soát trong đời sống chính trị - xã
hội ở Việt Nam thì hoạt động kiểm tra, giám sát và kiểm soát được thực hiện
bởi nhiều cấp độ chủ thể, đối tượng và thẩm quyền khác nhau. Ví dụ, trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ
chức Chính phủ năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã quy định nội dung, quyền và
thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể (tổ chức, cá nhân) có liên
quan trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và kiểm soát các tổ chức và
đội ngũ cán bộ, công chức. Rộng hơn trong hệ thống chính trị, theo tinh thần
các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương từ Đại hội XI
đến nay, vấn đề kiểm tra, giám sát xã hội, phản biện xã hội đã từng bước được
cụ thể hoá từ thể chế đến cơ chế, phương thức thực hiện.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ Hội Liên
hiệp phụ nữ từ quận tới cơ sở
1.3.1. Các yếu tố khách quan
Mối quan hệ của đội ngũ cán bộ với môi trường, điều kiện công tác cụ
thể (với đường lối, nhiệm vụ chính trị, tổ chức và cơ chế, chính sách). Đây là
những dấu hiệu đặc biệt quan trọng để nhận biết chất lượng đội ngũ cán bộ
hiện nay. Con người luôn sống và hoạt động trong hàng loạt mối quan hệ; mỗi
người vừa là nhân, vừa là quả, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác động của
các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội. Do vậy, khi xem xét, đánh giá người
cán bộ phải đặt người cán bộ trong các mối quan hệ chủ yếu, xác định như
trên, nhất là mối quan hệ của người cán bộ với cấp ủy, tổ chức đảng, đồng
nghiệp và nhân dân. Có như vậy, mới đánh giá được thực chất người cán bộ.
23
Về môi trường sống: Kinh tế phát triển hay đi xuống đều ảnh hưởng
đến vấn đề xây dựng văn hóa chất lượng từ việc xác định các giá trị chuẩn
mực, xây dựng, hoạch định chính sách cho đến các nguồn lực dành cho tổ
chức văn minh, hiện đại, trang bị phương tiện, điều kiện làm việc …
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường đã tác động, đưa ra những yêu cầu
mới đối với việc xây dựng văn hóa nói chung và văn hóa công sở nói riêng.
Phát triển kinh tế thị trường luôn đặt vấn đề hiệu quả lên hàng đầu, đòi hỏi
các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Quận Bắc Từ Liêm nói chung và Hội LHPN
quận nói riêng phải không ngừng cải tiến lề lối làm việc, đội ngũ cán bộ Hội
phải có năng lực, trình độ, có trách nhiệm với công việc, tận tụy và phục vụ
tốt nhu cầu, quyền lợi chính đáng của hội viên phụ nữ và nhân dân. Tuy
nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái, nếu không có biện pháp
khắc phục hiệu quả sẽ là điều kiện, môi trường làm nảy sinh những biểu hiện
tiêu cực, phi văn hóa trong đội ngũ cán bộ như: sách nhiễu nhân dân, tham
nhũng, bè phái gây mất đoàn kết... gây ra nhiều thách thức và khó khăn trong
công tác quản lý đội ngũ cán bộ hội và ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
phong trào thi đua của Hội. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ,
bị ảnh hưởng bởi nhiều lý do khách quan đem lại như điều kiện làm việc và
môi trường làm việc. Ở đâu có sự quan tâm đầu tư vào cơ sở vật chất, các
trang thiết bị, phương tiện làm việc và có môi trường làm việc thuận lợi, quy
chế dân chủ được thực hiện tốt, đội ngũ cán bộ có tinh thần đoàn kết, dân chủ
tập thể thì ở đó cán bộ có động lực làm việc, có điều kiện để hoàn thành tốt
nhiệm vụ cấp trên giao..
Về tổ chức bộ máy: Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về
xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan
24
trọng. Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng
yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan
hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp... Việc
phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ
quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện, làm
thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
đạt kết quả thấp. Tuy đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ
thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức
bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa
tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn,
nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách
cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập.
Năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số
cơ quan nhà nước cả ở Trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa
phân định thật rõ tính đặc thù của chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo. Các
đơn vị hành chính địa phương nhìn chung quy mô nhỏ, nhiều đơn vị không
bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, nhất là cấp huyện, cấp xã. Số lượng, cơ
cấu đại biểu dân cử chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn
25
còn tình trạng "hành chính hoá", "công chức hoá". Cơ cấu cán bộ, công chức,
viên chức giữa các cấp và trong từng cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ
của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở còn hạn chế. Nội dung và phương
thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ
chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội còn bất cập; một số quy định về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản
lý tài chính, tài sản đối với tổ chức công đoàn chưa phù hợp. Tổ chức hội
quần chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.
Đối với công tác quản lý cán bộ hiện nay thì công tác tổ chức có ảnh
hưởng không nhỏ. Quản lý cán bộ là một trong những nội dung rất quan trọng
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Thông qua công tác quản
lý cán bộ, Đảng đề ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ được chính xác, thiết thực; bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, đồng
thời, hạn chế tối đa hiện tượng suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ.
Quản lý cán bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác
cán bộ. Từ trước đến nay Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
công tác quản lý cán bộ. Trải qua các cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ và
cả thời kỳ đổi mới, nhiều cán bộ được Đảng, Nhà nước quản lý tốt nên trưởng
thành và có nhiều đóng góp cho đất nước. Do quản lý tốt cán bộ nên có nhiều
tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, nhiều cán bộ đảng viên nêu gương phấn
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đặc biệt đã cổ vũ được sự phấn khởi, đoàn kết
trong các tầng lớp nhân dân, góp phần tăng cường lòng tin của nhân dân đối
với Đảng. Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực trạng việc quản lý cán bộ nêu trên có nhiều nguyên nhân, cả
khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, cụ thể là:
Trong cơ chế mới, người cán bộ bị chi phối, tác động của nhiều mối
quan hệ, như quan hệ giữa quản lý với sử dụng, quản lý với lợi ích, quản lý
với môi trường, điều kiện làm việc,... nhiều hơn, mạnh hơn trước đây.
26
Công tác quản lý cán bộ đang có sơ hở, yếu kém. Quản lý cán bộ còn
nặng về quản lý lý lịch gia đình, quản lý trên hồ sơ bằng cấp, chứng chỉ,... mà
chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chính trị hiện tại của mỗi cán bộ diễn
biến hằng ngày theo nhịp sống của thực tiễn, chưa gắn quản lý cán bộ với đổi
mới phương pháp đánh giá cán bộ. Đảng, Nhà nước chưa có các văn bản pháp
luật chặt chẽ để kiểm soát được quyền lực, còn có những kẽ hở để cán bộ lợi
dụng quyền hạn, trách nhiệm trong thực thi công vụ để tham ô, tham nhũng.
Kỷ cương, kỷ luật của Đảng, Nhà nước có những lúc xử lý chưa nghiêm, chưa
kịp thời. Chính sách tiền lương quá bất hợp lý lại để kéo dài. Phần đông cán
bộ, công chức, viên chức không đủ sống từ lương.
Về cơ chế, chính sách đối với đội ngũ cán bộ Hội
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách
phù hợp để đầu tư cho cán bộ, trong đó có chính sách tiền lương, các khoản
phụ cấp; chính sách hỗ trợ cho cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng…
Chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội: nhất là đội
ngũ cán bộ Hội cấp phường. Công tác quy hoạch, chuẩn bị lực lượng kế cận
chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đúng mức, dẫn đến một thực trạng
"hổng" cán bộ có khả năng thay thế khi cán bộ Hội luân chuyển.
Chế độ tiền lương, phụ cấp: một trong những khó khăn của người cán
bộ Hội cơ sở là chế độ đãi ngộ thấp, trong lúc họ phải đảm nhận rất nhiều
công việc, thường xuyên phải tiếp cận hội viên phụ nữ.
Về chính sách cho cán bộ Hội cơ sở: Các cấp ủy Đảng phải có sự quan
tâm cần thiết đúng như tinh thần của nghị quyết số 11 của Ban Chấp hành TW
Đảng. Có cơ chế chính sách phù hợp cho cán bộ Hội, cơ sở như tiền lương,
phụ cấp và các chính sách khác. Tăng lương và phụ cấp và những điều kiện
khác cho cán bộ Hội cơ sở. Đó là chính sách thu hút để phụ nữ có tâm huyết
vào công tác Hội (nâng lương theo thời gian quy định, phụ cấp cho cán bộ
Hội kiêm nhiệm, chế độ hỗ trợ cho Chi hội trưởng trực thuộc Hội cơ sở).
27
Bên cạnh đó, phụ nữ có vai trò to lớn và có những đóng góp quan trọng,
cùng với sự nỗ lực phấn đấu của mình, phụ nữ luôn được Đảng và Nhà nước
dành sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở những chính sách, chủ trương đúng đắn
có tính chiến lược. Tháng 4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 11-
NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”. Tháng 7/2007, Luật bình đẳng giới bắt đầu có hiệu lực. Đây là căn
cứ pháp lý và định hướng quan trọng hướng tới thúc đẩy việc thực hiện các
mục tiêu của chiến lược Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Nhiều cấp ủy Đảng đã làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục,
định hướng chính trị, khuyến khích động viên, tạo môi trường để tổ chức Hội
và hội viên, phụ nữ phát huy bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ của mình
vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của mình.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan
* Về trách nhiệm và năng lực cán bộ
Khái niệm “trách nhiệm” theo Từ điển Tiếng Việt là “Điều phải làm,
phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình” và “Trách nhiệm là phải bảo đảm
làm tròn công việc được giao; nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu
quả”. Trong mỗi chúng ta, ai cũng có trách nhiệm bởi mỗi người đều có một
vị trí nhất định trong các mối quan hệ xã hội xung quanh.
Như chúng ta đã biết, tinh thần trách nhiệm khác với ý thức trách nhiệm
- tinh thần trách nhiệm là kết quả của sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn về trách
nhiệm của mỗi người trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, từ đó tác động một
cách tự giác đến hành động, công việc và cách ứng xử của họ - và những cá
nhân nào có những nhận thức, hành động như vậy được gọi là người có tinh
thần trách nhiệm cao. Trong cuộc sống, nếu thiếu tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn
đến nhiều thiệt hại về vật chất và tổn thương về tinh thần. Tinh thần trách
nhiệm là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại, sự phát triển bền
vững của mỗi cá nhân, tổ chức - nó thể hiện qua lối sống và làm việc.
28
Việc nêu cao trách nhiệm là cán bộ công chức, viên chức phải đảm bảo
làm tròn nhiệm vụ, công việc, phần việc bản thân được giao; nếu kết quả thực
hiện không tốt hoặc thực hiện sai, thất hứa thì phải gánh chịu hậu quả. việc
nâng cao vai trò trách nhiệm của cán bộ viên chức là: tích cực thực hiện
nhiệm vụ được giao - khi được Đảng, chính quyền phân công nhiệm vụ, từ dễ
hay khó cũng phải đưa cả tinh thần ra để thực hiện đến nơi đến chốn, vượt
qua khó khăn để làm cho thành công. Rồi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
phải có gan phụ trách, dám nghĩ dám làm và biết chịu trách nhiệm, chủ động
sáng tạo trong công việc để có kết quả cao nhất và cần làm việc theo lương
tâm. Nếu làm việc cẩu thả, làm cho có chuyện, thấy dễ thì làm, thấy khó thì
bỏ hoặc đùn đẩy, tránh né … là không có tinh thần trách nhiệm. Mỗi một
người cần ý thức đúng đắn về vị trí trách nhiệm của mình trên mọi cương vị
công tác. Đối với tất cả mọi người, ở mọi vị trí công tác, trong bất kì hoàn
cảnh nào đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm.
Năng lực của cán bộ là tổng hợp những yếu tố tạo nên khả năng cá
nhân cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ người cán bộ. Năng lực của người cán
bộ bao gồm hai mặt chủ yếu: Năng lực trí tuệ và năng lực chuyên môn. Năng
lực trí tuệ là khả năng nhận thức, tiếp cận tri thức, khả năng nắm bắt, phân
tích, đề xuất giải pháp trong hoạt động thực tiễn. Năng lực chuyên môn là tri
thức, kỹ năng để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của người cán bộ. Năng
lực của người cán bộ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ kiến thức, kỹ
năng; kinh nghiệm thực tiễn; ý thức trách nhiệm đảng viên; hoàn cảnh, điều
kiện… Trong đó, trình độ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn có vai
trò quan trọng hơn cả. Năng lực của người cán bộ chủ yếu được hình thành và
phát triển qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng và hoạt động thực tiễn. Mỗi thời
kỳ cách mạng, khi nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhiệm vụ cụ thể của người
cán bộ có sự thay đổi thì năng lực của người cán bộ cũng phải có sự thay đổi
cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
29
Trình độ của người cán bộ là một yếu tố có vai trò đặc biệt, chi phối,
ảnh hưởng tới tất cả các yếu tố tạo nên chất lượng người cán bộ, là cơ sở để
hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người
cán bộ; là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo thành năng lực và là điều kiện để có
năng lực. Tuy nhiên, không phải người cán bộ cứ có kiến thức là có năng lực.
Có kiến thức nhưng phải trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn thì mới
có năng lực. Trên thực tế đã có không ít người cán bộ có kiến thức song năng
lực hạn chế. Cũng có nhiều người tuy không có bằng cấp, chứng chỉ nhưng họ
tự học tập, lăn lộn trong thực tiễn nên vẫn có năng lực tốt. Trình độ và năng
lực của người cán bộ quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên cái “tài” hay mặt
“chuyên” của người cán bộ.
* Về phong cách làm việc của người cán bộ là cách thức làm việc ổn
định, mang sắc thái của mỗi người. Phong cách làm việc của người cán bộ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,
trình độ, năng lực, khí chất cá nhân, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện làm
việc, sinh hoạt, sự giáo dục, rèn luyện… của người cán bộ. Phong cách làm
việc của người cán bộ có ảnh hưởng lớn tới việc đổi mới, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác. Phong cách làm việc của người cán bộ gồm nhiều nội dung
rất phong phú, có thể liệt kê những nội dung chủ yếu nhất: Tác phong dân chủ
- tập thể; tác phong khoa học; tác phong quần chúng.
* Về Kinh nghiệm công tác Hội: Kinh nghiệm phản ánh lĩnh vực, kiến
thức công tác mà cán bộ Hội đã trải qua. Với kinh nghiệm công tác Hội, đội
ngũ cán bộ Hội có nhiều thuận lợi trong tổ chức các hoạt động Hội, thu hút
đông đảo hội viên phụ nữ đến với tổ chức Hội.
30
Tiểu kết Chương 1
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những
năm qua, công tác cán bộ nữ, phong trào phụ nữ và bình đẳng giới của nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Phụ nữ Việt Nam đã có những bước
trưởng thành và phát triển mạnh mẽ, có những đóng góp to lớn trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hoá- xã hội, khoa học – công nghệ, xây dựng Đảng, Chính
quyền và hợp tác quốc tế, đã đoàn kết, thi đua phát huy sức mạnh nội lực,
tham gia thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Do vậy
việc quản lý đối với đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ là không thể thiếu.
Thông qua công tác quản lý cán bộ, Đảng đề ra chủ trương, kế hoạch,
biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chính xác, thiết thực; bố trí, sử
dụng đúng người, đúng việc, đồng thời hạn chế tối đa hiện tượng suy thoái,
biến chất của đội ngũ cán bộ.
Trong thời gian qua, công tác phụ nữ đã được các cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể quan tâm triển khai và đạt được những kết quả quan
trọng. Vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới có chuyển
biến tích cực. Hệ thống luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và bình đẳng
giới từng bước được hoàn thiện, có nhiều tiến bộ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam đã có sự đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện có hiệu
quả vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BẮC TỪ LIÊM HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình của Hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Bắc
Từ Liêm
Quận Bắc Từ Liêm được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày
27 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liên
Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh,
Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương;
75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn Quận
Bắc Từ Liêm có diện tích 4.335,34 ha (43,35 km²), dân số 320.414 người.
Các đơn vị hành chính: Quận Bắc Từ Liêm hiện có 13 phường: Cổ Nhuế
1, Cổ Nhuế 2, Đông Ngạc, Đức Thắng, Liên Mạc, Minh Khai, Phú Diễn, Phúc
Diễn, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Xuân Đỉnh, Xuân Tảo.
Quận Bắc Từ Liêm có quy mô diện tích và dân số lớn (4.335 ha và hơn
320 nghìn người); hệ thống hạ tầng khung, nhất là hệ thống giao thông chưa
phát triển; diện tích đất nông nghiệp và đất quy hoạch vùng xanh đô thị chiếm
khoảng một phần tư diện tích của quận. Đội ngũ cán bộ còn thiếu nhiều so nhu
cầu thực tế. Đây là những khó khăn, thách thức lớn đối với quận và các
phường. Tuy nhiên, bằng nỗ lực, đoàn kết, quyết tâm cao, chỉ trong thời gian
ngắn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã vượt qua khó
khăn, từng bước ổn định bộ máy, đạt được nhiều kết quả quan trọng từ công tác
xây dựng Đảng đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Quận ủy lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp được nâng cao, phát huy vai trò,
32
hiệu quả hoạt động. HĐND từ quận đến cơ sở đã thể hiện được vai trò là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân trên địa bàn.
Việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ và các đoàn thể
đạt nhiều kết quả.
Trên cơ sở Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ quận, UBND quận
đã thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh
tế; hạ tầng thương mại - dịch vụ được đầu tư; phát triển nông nghiệp sinh thái,
sản phẩm nông nghiệp sạch, có giá trị kinh tế cao. Tốc độ gia tăng giá trị sản
xuất trên địa bàn 5 năm qua là 20,4%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng: Đến năm 2018, cơ cấu ngành thương mại, dịch vụ chiếm 24,38%;
ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 73,71%. Giá trị sản xuất nông nghiệp có
xu hướng giảm dần, phù hợp với quá trình đô thị hóa của quận. Đáng chú ý,
dù các nguồn lực còn khó khăn, nhưng 5 năm qua, quận luôn hoàn thành và
hoàn thành vượt mức dự toán ngân sách thành phố giao. 5 năm qua thu ngân
sách đạt 16.154 tỷ đồng, đạt 139% dự toán thành phố giao.
Bên cạnh phát triển kinh tế, các lĩnh vực trọng tâm như quản lý đất đai,
trật tự xây dựng; cải cách hành chính... đều đạt những thành tích nổi bật. Từ
năm 2016 đến nay, quận Bắc Từ Liêm liên tục đứng trong tốp đầu của thành
phố về ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Sự
sáng tạo trong tuyên truyền về ứng dụng CNTT, dịch vụ công trực tuyến như:
xây dựng mô hình tổ dân phố điện tử, xây dựng các video hướng dẫn, tuyên
truyền tại các trường học... đã thiết thực hỗ trợ người dân tiếp cận những tiện
ích của dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4. Đến nay, tỷ lệ hồ sơ
công dân đăng ký dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tại nhà đạt
81,8%, cấp phường đạt 62,7%.
Các cấp ủy, chính quyền quận Bắc Từ Liêm đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo đẩy mạnh phong trào “Xây dựng môi trường xã hội văn hóa, văn minh,
hài hòa; môi trường giáo dục, đào tạo chất lượng, hiện đại; chăm sóc sức khỏe
33
nhân dân; bảo đảm an sinh xã hội”. Trong giai đoạn 2014-2018, quận đã quan
tâm đầu tư cải tạo, xây mới 71 nhà văn hóa, đưa tổng số nhà văn hóa tổ dân
phố trên địa bàn lên 126 nhà. Công tác quản lý văn hóa, quản lý di tích, lễ hội
được tăng cường; nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị
như: Lễ hội bơi Đăm truyền thống (phường Tây Tựu); Lễ hội Đình Chèm
(phường Thụy Phương). Hai lễ hội đặc sắc này của quận đã được Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Năm 2018, Đình Chèm đã được Nhà nước công nhận Di tích quốc gia đặc
biệt. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, tăng từ 49
trường năm 2014 lên 62 trường năm 2019, dẫn đầu thành phố về tỷ lệ trường
“Đạt chuẩn quốc gia”, với 38 trường đạt chuẩn quốc gia trong tổng số 42
trường công lập. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, công tác an sinh xã hội trên địa bàn trong những năm qua
có nhiều chuyển biến tích cực; phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” được quan
tâm. Quận đã vận động Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đạt hơn 6,6 tỷ đồng; hỗ trợ
xây, sửa mới 188 nhà tình nghĩa. Công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm
được thực hiện tốt; đã hỗ trợ, tạo việc làm cho 27.392 người; tổ chức 35 lớp
đào tạo nghề với 1.213 người tham gia…
2.1.2. Tình hình tổ chức của Hội
Hệ thống tổ chức Hội được thành lập tương ứng với hệ thống đơn vị
hành chính nhà nước gồm: Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Hội LHPN tỉnh;
Hội LHPN huyện (thành phố); Hội LHPN xã (phường, thị trấn). Hội LHPN
có mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời
cũng là một thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Theo quy định, hệ thống tổ chức Hội các cấp được phân cấp quản lý
tương đối rõ ràng. Chỉ đạo về chuyên môn thực hiện theo tổ chức ngành dọc;
quản lý, chỉ đạo trực tiếp theo tổ chức Đảng cùng cấp. Cụ thể:
34
- Hội LHPN Quận: Chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Quận ủy
Bắc Từ Liêm và chỉ đạo về hoạt động chuyên môn của Hội LHPN Thành
phố Hà Nội.
- Hội LHPN phường: Chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy
phường và chỉ đạo về hoạt động chuyên môn của Hội LHPN Quận.
Về cơ quan chuyên trách của Hội LHPN Quận: không có các ban
chuyên môn và đơn vị trực thuộc. Cơ quan chuyên trách Hội LHPN có nhiệm
vụ tham mưu, giúp việc Ban chấp hành, Ban Thường vụ Hội LHPN cấp
Quận; Cơ quan chuyên trách của Hội có 05 đồng chí, trong đó 01 Chủ tịch,
không quá 02 Phó Chủ tịch Hội và các cán bộ chuyên trách. Về cơ chế tuyển
dụng cán bộ Hội phụ nữ cấp Quận được thực hiện bằng hình thức thi tuyển
theo quy định.
Đối với các phường được thành lập theo đơn vị hành chính chỉ có một
cán bộ chuyên trách công tác Hội là Chủ tịch Hội nên không gọi là cơ quan
chuyên trách.
Mô hình tổ chức bộ máy Hội cơ sở: Mô hình Hội LHPN cơ sở, Chi
hội. Ở những chi hội có số lượng hội viên từ 50 người trở lên thành lập các
tổ phụ nữ.
Cán bộ chi hội gồm chi hội trưởng và một hoặc hai chi hội phó do hội
viên bầu trên cơ sở giới thiệu của Chi ủy và Ban Thường vụ Hội Liên hiệp
phụ nữ cơ sở. Cán bộ tổ phụ nữ gồm tổ trưởng và một hoặc hai tổ phó do hội
viên bầu. Những nơi có tổ phụ nữ, việc sinh hoạt hội có thể thực hiện tại tổ.
Chi hội phụ nữ, tổ phụ nữ được kiện toàn định kỳ vào dịp đại hội đại biểu phụ
nữ cấp cơ sở. Ngoài ra, tùy từng điều kiện hoạt động của các chi hội sẽ tổ
chức kiện toàn cán bộ chi hội đột xuất.
Ngoài mô hình trên, tại các cơ sở Hội, có thể hình thành các câu lạc bộ,
nhóm/tổ phụ nữ có tính chất đặc thù thuộc sự quản lý, điều hành của Ban
Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở hoặc của chi hội.
35
* Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ Hội các cấp trên địa bàn quận Bắc
Từ Liêm
Cán bộ HộI LHPN của Quận: bao gồm các cán bộ là ủy viên BCH, Ban
Thường vụ Hội LHPN Quận; cán bộ cơ quan chuyên trách của Quận. Cơ cấu
Ủy viên BCH Hội LHPN Quận bao gồm cán bộ cơ quan chuyên trách Hội,
một số đồng chí đại diện các phòng, ban, ngành của Quận và Chủ tịch Hội
LHPN các phường, đơn vị.
Cán bộ Hội cơ sở: bao gồm các cán bộ là ủy viên Ban chấp hành, Ban
Thường vụ Hội LHPN cơ sở; cán bộ là chi hội trưởng, chi hội phó, tổ trưởng,
tổ phó phụ nữ. Cơ cấu Ủy viên BCH Hội LHPN phường bao gồm các đồng
chí là cán bộ chuyên trách công tác Hội ở phường (Chủ tịch Hội), cán bộ
không chuyên trách là Phó Chủ tịch Hội, Phụ nữ đại diện một số ngành (cán
bộ dân số, tư pháp, văn phòng,, văn hóa, tài chính....) và các chị là chi hội
trưởng phụ nữ.
Ban Chấp hành Hội LHPN quận và cơ sở có những nhiệm vụ cơ bản
sau: nắm tình hình đời sống, tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của hội viên,
phụ nữ, phản ánh, đề xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương, Hội LHPN
cấp trên; lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ
Hội, Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết Ban Chấp hành Hội cùng cấp và Hội cấp
trên; Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng phản biện xã hội và giám sát việc
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
Nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ, gia
đình, trẻ em và bình đẳng giới; phát hiện, có biện pháp giải quyết kịp thời khi
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ bị vi phạm; công nhận hội
viên; Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chính tri, tư tưởng, lý tưởng cách
mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nươc,s phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; Vận động, hỗ trợ phụ nữ
36
nâng cao năng lực, trình độ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và xây dựng
gia đình hạnh phúc; bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành
cùng cấp; bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng
cấp; họp ba tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường; Xây dựng, phát
triển tổ chức Hội vững mạnh; Đoàn kết các Hội phụ nữ cơ sở và các chi hội
nhằm góp phần xây dựng Quận Bắc Từ Liêm hiện đại – văn minh – giàu đẹp.
Ban Thường vụ Hội LHPN cấp cơ sở có những nhiệm vụ, quyền hạn cơ
bản sau: chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của
Ban Chấp hành; triệu tập và chuẩn bị nội dung họp Ban Chấp hành; quản lý,
phát triển hội viên; xây dựng, quản lý quỹ hội; thu, chi, trích nộp hội phí và
sử dụng các nguồn thu đảm bảo đúng quy định của pháp luật và quy định
của tổ chức Hội; Ban Thường vụ họp một tháng một lần, khi cần có thể họp
bất thường; Xây dựng kế hoạch, quy chế hoạt động hàng tháng nhằm chỉ
đạo, điều hành mọi hoạt động của tổ chức Hội được diễn ra thường xuyên, có
hiệu quả.
Bên cạnh bộ máy, cán bộ Hội, lực lượng hội viên đóng vai trò không
thể thiếu trong các yếu tố làm nên sự lớn mạnh của tổ chức Hội ở cơ sở. Điều
lệ Hội LHPN Việt Nam quy định về điều kiện trở thành hội viên như sau:
“Phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp, nơi làm việc, nơi cư trú; tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện tham gia
tổ chức Hội thì được công nhận là hội viên”. Điều 6 quy định về quyền của
hội viên, bao gồm: được dân chủ thảo luận và biểu quyết chủ trương, nhiệm
vụ công tác Hội; được góp ý, đề đạt nguyện vọng với tổ chức Hội; được tham
gia hoạt động, sinh hoạt Hội tại nơi cư trú và nơi làm việc; được Hội hướng
dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng; được ứng cử, đề
cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Hội theo quy định. Điều 7 quy định về
nhiệm vụ của hội viên, bao gồm: thực hiện tốt nghĩa vụ công dân; chấp hành
Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng hội phí
37
theo quy định của Điều lệ; học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ
gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; đoàn kết, giúp nhau trong
công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu
thực hiện bình đẳng giới.
Căn cứ những quy định của Điều lệ có thể khái quát về hoạt động của
tổ chức Hội cơ sở là những phương diện hoạt động biểu hiện thông qua hoạt
động của cán bộ Hội cấp cơ sở và hoạt động của hội viên. Đối với hoạt động
của cán bộ Hội thể hiện bởi hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và
đội ngũ cán bộ Hội chủ chốt cấp cơ sở. Hoạt động của hội viên là quá trình
hội viên thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình theo quy định của Điều lệ
Hội. Không chỉ những yếu tố nội lực của cán bộ Hội cơ sở và hội viên tác
động đến chất lượng hoạt động của tổ chức Hội cơ sở, mà còn có những yếu
tố tác động từ bên ngoài như: chủ trương, chính sách có liên quan của Đảng
và Nhà nước; sự chỉ đạo, định hướng của Hội cấp trên; sự phối hợp của các
ban ngành, đoàn thể khác; các yếu tố văn hóa xã hội tại địa phương... Việc
nhìn nhận, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, chi phối này có ý nghĩa thiết thực
để xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức
Hội cơ sở và đội ngũ cán bộ Hội nhằm thực hiện tốt phong trào phụ nữ và
nhiệm vụ chính trị do cấp ủy địa phương giao cho.
38
Bảng 2.1. Số lượng cán bộ hội cơ sở thuộc quận Bắc Từ Liêm năm 2016-
2018 (bao gồm chi hội trưởng, tổ trưởng, tổ phó phụ nữ)
SỐ LƯỢNG SO SÁNH (%)
TT ĐƠN VỊ Bình 2016 2017 2018 17/16 18/17 quân
1 Phường Cổ Nhuế 1 94 118 119 125.53 100.85 113.19
2 Phường Cổ Nhuế 2 223 246 246 110.31 100.00 105.16
3 Phường Đông 114 135 136 118.42 100.74 109.58 Ngạc
4 Phường Đức 80 97 98 121.25 101.03 111.14 Thắng
5 Phường Liên Mạc 40 52 52 130.00 100.00 115.00
6 Phường Minh Khai 40 57 58 142.50 101.75 122.13
7 Phường Phú Diễn 49 60 60 122.45 100.00 111.22
8 Phường Phúc Diễn 31 59 61 190.32 103.39 146.86
9 Phường Tây Tựu 159 179 179 112.58 100.00 106.29
10 Phường Thượng 41 58 58 141.46 100.00 120.73 Cát
11 Phường Thụy 76 92 92 121.05 100.00 110.53 Phương
12 Phường Xuân Đỉnh 79 112.66 100.00 106.33 89 89
13 Phường Xuân Tảo 67 128.36 101.16 114.76 86 87
TỔNG 1093 1328 1335 121.50 100.53 111.01
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động Hội năm 2016, 2017, 2018)
Số lượng đội ngũ cán bộ Hội cơ sở: cán bộ chi hội trưởng, chi hội phó,
tổ trưởng, tổ phó phụ nữ thuộc 13 phường khá lớn. Đội ngũ cán bộ này rất
quan trọng đối với hoạt động tại các chi, tổ hội - nơi trực tiếp quản lý, gặp gỡ,
39
giúp đỡ, vận động, thuyết phục hội viên phụ nữ tham gia hoạt động Hội và
tham gia tình hình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Số lượng cán bộ
chi, tổ hội các phường biến động không nhiều, số tăng thêm do tăng dân số cơ
học, thành lập mới tổ dân phố, do yêu cầu nhiệm vụ công tác.
Hiện nay, Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm có 19.574 hội viên sinh hoạt
trong 203 chi hội (trong đó có 168 chi hội dân cư, 11 chi hội trường học, 7 chi
hội doanh nghiệp, 17 chi hội phụ nữ khác) và 468 tổ Hội (444 tổ dân cư, 15 tổ
trường học, 2 tổ doanh nghiệp và 7 tổ khác). Trong đó có 4.034 hội viên nòng
cốt, Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm cũng đã thu hút được phụ nữ từ 18 tuổi trở
lên tham gia tổ chức Hội đạt 55.338/78.011 (tỷ lệ 79,7%); tỷ lệ hộ gia đình có
phụ nữ từ 18 tuổi trở lên có hội viên 37.829/59.418 gia đình (64%) (gồm cả
hộ hội viên do Liên đoàn lao động quản lý)
Có thể nhận thấy rằng, tình hình tổ chức của Hội LHPN quận Bắc Từ
Liêm hiện nay đang hoạt động rất tốt. Tuy nhiên, về mặt tổ chức bộ máy trong
của hệ thống chính trị trong đó có tổ chức Hội LHPN, tổ chức bộ máy vẫn
còn cồng kềnh, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan
hệ của Hội LHPN cơ sở và chi hội chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng
lắp...Số lượng cán bố thực hiện theo đầu mối của từng tổ chức Hội cũng rất là
đông (cán bộ Hội từ Tổ phó đến Chi hội trưởng chi hội phụ nữ). Vì vậy cần
xem xét, nghiên cứu tiếp tục thực hiện theo Nghị Quyết 18 của Trung ương
nhằm tinh giản cán bộ về mặt tổ chức để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
2.1.3. Tình hình hoạt động của Hội
Trong những năm qua, tổ chức Hội đã triển khai thực hiện có kết quả
nhiệm vụ công tác Hội và phong trào phụ nữ. Công tác tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước được các cấp Hội tổ chức nghiêm túc, nội dung, hình thức
phong phú, đảm bảo tiến độ, dần đi vào chiều sâu và hiệu quả. Hoạt động sinh
40
hoạt hội viên thường xuyên được đổi mới về hình thức, phong phú về nội
dung, thu hút đông đảo hội viên tham gia. Các cấp Hội đã tập trung chăm lo,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ, về việc làm, thu
nhập, chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ và trẻ em. Tổ chức Hội các cấp của quận
Bắc Từ Liêm đã tổ chức được nhiều hoạt động đóng góp một phần quan trọng
trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và ổn định chính trị trên địa bàn
quận. Kết quả cụ thể trên các lĩnh vực công tác như sau:
Bảng 2.2. Kết quả công tác xây dựng tổ chức hội vững mạnh
SO SÁNH TT CHỈ TIÊU ĐVT 2016 2017 2018 17/16 18/17 BQ
Tổng số HV người 18037 19169 19574 106.28 102.11 104.19 1
Số hội viên tăng người 440 763 656 173.41 85.98 129.69 2
Số hội viên giảm người 43 124 251 288.37 202.42 245.40 3
Số HV phát triển người 397 639 405 160.96 63.38 112.17 4
5 Số HV được xét người 74 63 45 85.14 71.43 78.28 kết nạp Đảng
Số HV nòng cốt người 4154 4236 4304 101.97 101.61 101.79 6
7 Số Hội viên đạt người 1077 1337 1335 124.14 99.85 112.00 cán bộ Hội giỏi
8 Tập huấn bồi
dưỡng đội ngũ Lớp 3 3 4 100.00 133.33 116.67
cán bộ hội
9 Số HV được tập
huấn bồi dưỡng Lượt 600 1896 4300 316.00 226.79 271.40
cán bộ hội
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động Hội năm 2016, 2017, 2018)
41
Hội LHPN quận đã xác định xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững
mạnh là nhiệm vụ trọng tâm. Các cấp hội đã kịp thời chỉ đạo kiện toàn, củng
cố tổ chức bộ máy, thực hiện tốt quy chế và chương trình công tác, chú trọng
đổi mới nội dung, hướng mạnh hoạt động về cơ sở, nâng cao chất lượng các
kỳ họp, đẩy mạnh cải tiến lề lối làm việc. Công tác kiểm tra của việc chấp
hành Điều lệ Hội được duy trì nề nếp. Hội đã xây dựng các kế hoạch hoạt
động, chương trình công tác trong đó tập trung nâng cao kiến thức, kỹ năng
cho cán bộ Hội từ Tổ phó trở lên thông qua các đợt tập huấn, Hội thi, tọa đàm
nâng cao năng lực cho 100% cán bộ Hội từ cấp chi đến cấp tổ…Xây dựng và
phát triển các mô hình, loại hình tập hợp phụ nữ theo nhu cầu, lứa tuổi, ngành
nghề như: Chi hội phụ nữ cao tuổi, nhóm phụ nữ liên gia, tổ phụ nữ trẻ, bình
quân mỗi năm tập hợp và thu hút được trên 400 phụ nữ tham gia tổ chức Hội;
phát huy vai trò của hội viên nòng cốt trong hoạt động Hội với số hội viên
nòng cốt đạt trên 21.9% trên tổng số hội viên; cải tiến nội dung sinh hoạt theo
hướng sát với nhu cầu của đa số hội viên. Công tác đánh giá, bình xét thi đua
khen thưởng hàng năm được Hội LHPN quận thực hiện rất chặt chẽ đảm bảo
đánh giá đúng thực chất chất lượng hoạt động, thực hiện nhiệm vụ của các
cán bộ Hội phụ nữ trên địa bàn quận, qua đó hàng năm đều đánh giá và bình
xét danh hiệu “Cán bộ Hội giỏi” với kết quả hàng năm đều đạt trên 98%,
100% cơ sở hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ngay sau Đại hội đại biểu Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm và Hội LHPN
các phường lần thứ II, nhiệm kỳ 2016 – 2021, với 270 Ủy viên Ban Chấp
hành từ quận tới cơ sở được bầu tại Đại hội, 1054 cán bộ chi – tổ Hội được
bầu tại Hội nghị chi hội. Cán bộ Hội hành năm được tham gia lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ phụ vận, tập huấn nâng cao trình độ năng lực. Các hoạt động hợp
tác, giao lưu trao đổi kinh nghiệm với các quận, huyện, cơ sở bạn được duy trì
thường xuyên.
42
Bảng 2.3. Kết quả công tác tuyên truyền, vận động Hội LHPN
2016 2017 2018
TT CHỈ TIÊU ĐVT Số Số Số % % % lượng lượng lượng
Cán bộ hội viên đạt
chuẩn mực Trung Người 16968 91.5 17012 91.8 17635 92 1 hậu - Sáng tạo - Đảm
đang - Thanh lịch
Công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên thực hiện chủ trương, Chỉ 2 thị, Nghị quyết của Đảng
Số UVBCH quận và 2.1 Người 187 100 270 100 270 100 cơ sở
2.2 Số Cán bộ chi, tổ Hội Người 1054 100 1067 100 1067 100
Số HVPN được tuyên 2.3 Người 17640 100 16505 96 16995 95.3 truyền
3 Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
3.1 Tổng số buổi học tập Buổi 50 54 54
3.2 Số HVPN được học Lượt 19850 112 19710 119.4 19926 117.2 tập
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động Hội năm 2016, 2017, 2018)
Với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của tổ chức Hội, cán bộ Hội các
cấp đã tổ chức được nhiều hoạt động về công tác tuyên truyền, vận động hội
viên nên số buổi cũng như số người tham gia các hoạt động hàng năm tăng
dần. Số hội viên phụ nữ tham gia các buổi tuyên truyền về chủ trương, Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng bình quan hàng năm là 100%/năm, số hội viên phụ
nữ được tham gia các buổi phổ biến giáo dục pháp luật đạt tỷ lệ trên
112%/năm.
43
Tỷ lệ hội viên phụ nữ được thu hút tham gia vào tổ chức Hội có xu
hướng tăng với tỷ lệ bình quân đạt 104.19 %/năm. Hội viên phụ nữ rèn luyện
thực hiện chuẩn mực “Trung hậu – Sáng tạo – Đảm đảng – Thanh lịch”, tỉ lệ
đạt chuẩn mực qua 3 năm là 100.22%. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ Hội được thực hiện hàng năm với số lượng cán bộ được
tập huấn từ năm 2016-2018 bình quân tăng 271.4%. Đặc biệt các cấp Hội
quan tâm bồi dưỡng, giới thiệu quần chúng nữ ưu tú cho Đảng xem xét kết
nạp, hàng năm số phụ nữ được kết nạp đảng chiếm từ 55-60% tổng số đảng
viên mới được kết nạp trong toàn Quận, bình quân 3 năm tỉ lệ nữ được kết
nạp đạt 78.28%.
Hiện nay, Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm luôn bám sát sự chỉ đạo của
Hội LHPN Hà Nội và Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng
của quận Bắc Từ Liêm. Ngay từ đầu năm, Hội LHPN Quận đã chủ động xây
dựng và triển khai Chương trình công tác năm, Kế hoạch thực hiện các chỉ
tiêu thi đua và phát động phong trào thi đua với chủ đề: “Phụ nữ Bắc Từ Liêm
đoàn kết, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ "; Xây dựng Kế hoạch thi đua với 03 nhiệm vụ trọng tâm
và 15 chỉ tiêu đăng ký với Thành Hội; duy trì 4 cụm thi đua với đặc điểm tình
hình và điều kiện hoạt động tương đồng. Xây dựng và triển khai Kế hoạch
hướng dẫn thực hiện phong trào “Phụ nữ Thủ đô tích cực học tập, lao động
sáng tạo, xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc” nhiệm kỳ 2016 – 2021;
Hướng dẫn thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”
giai đoạn 2016 – 2020; Cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức phụ nữ
Tự tin – Tự trọng – Trung hậu – Đảm đang”, Cuộc vận động “Phụ nữ Thủ đô
ứng xử đẹp” gắn với thực hiện 01 Bộ quy tắc ứng xử của UBND thành phố
Hà Nội tới 100% cơ sở và chi, tổ Hội.
Các cấp Hội đã cụ thể hóa nội dung thi đua, đẩy mạnh tuyên truyền sâu
rộng mục đích, ý nghĩa, nội dung của phong trào, tập trung hướng dẫn phụ nữ
44
thi đua rèn luyện chuẩn mực “Trung hậu – Sáng tạo – Đảm đang – Thanh
lịch” gắn với việc “Đẩy mạnh Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh , phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư; tích cực thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam”. Nhiều hoạt động sáng tạo, qui mô được tổ chức như:
Hội thi, giao lưu, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, hái hoa dân chủ,…thu hút
đông đảo CBHVPN tham gia. Chú trọng tập trung thực hiện các công trình,
phần việc quan tâm, chăm lo các gia đình chính sách, phụ nữ và trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn. Định hướng, tạo điều kiện giúp đỡ phụ nữ khởi sự/khởi
nghiệp kinh doanh; Tuyên truyền giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia
giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ ...
45
Bảng 2.4 : Kết quả công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, vệ sinh môi trường, giúp hộ nghèo – khó khăn, xây
dựng gia đình văn minh hạnh phúc
SO SÁNH TT DIỄN GIẢI ĐVT 2016 2017 2018 17/16 18/17 BQ
1 Công tác vay vốn
1.1 Vay từ nguồn Ngân hàng chính sách XH Triệu đồng 26.200 131.355 131.501 501.35 100.11 300.73
1.2 Hoạt động tiết kiệm của HVPN Triệu đồng 1.776 2.317 2.050 130.46 88.48 109.47
2 Giúp đỡ hộ nghèo thoát nghèo Hộ 91 103 114 113.19 110.68 111.93
3 Công tác dạy nghề Lớp 25 34 40 136.00 117.65 126.82
4 Giới thiệu việc làm Người 957 861 981 89.97 113.94 101.95
5 Đoạn đường tự quản xanh, sạch, đẹp Đoạn 328 331 337 100.91 101.81 101.36
6 Hỗ trợ HVPN xây dựng gia đình VMHP
6.1 Xây/sửa nhà cho HVPN nghèo Nhà 6 7 6 116.67 85.71 101.19
6.2 Tặng quà cho HVPN có hoàn cảnh khó khăn Triệu đồng 1.370 1.831 3.375 133.65 184.33 158.99
6.3 Giúp đỡ người nghiện là chồng, con HVPN Người 32 37 34 115.63 91.89 103.76 sau cai 1 năm trở lên không tái
99 6.4 Giúp đỡ thanh thiếu niên chậm tiến Người 74 86 116.22 115.12 115.67
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác hội năm 2016, 2017, 2018)
46
Từ số liệu của bảng 2.4, có thể thấy rằng Bắc Từ Liêm là quận đang
trong quá trình đô thị hoá nhanh, kèm theo diện tích đất nông nghiệp ngày
một thu hẹp, công tác chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng là vấn đề được các
cấp uỷ, chính quyền chú trọng quan tâm. Cán bộ đã triển khai chương trình hỗ
trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập, nhằm giúp chị em những khó khăn về
vốn, kiến thức phát triển sản xuất, kinh doanh cải thiện, nâng cao mức sống.
- Hoạt động giúp phụ nữ thoát nghèo: tổ chức Hội phụ nữ đã đảm nhận
giúp đỡ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ có địa chỉ thoát nghèo hoặc không tái
nghèo bằng nhiều hình thức và biện pháp giúp đỡ như: Giới thiệu việc làm
cho các thành viên trong gia đình, hỗ trợ vay vốn kinh doanh không lấy lãi
bằng nguồn vốn tiết kiệm tín dụng tại chi hoặc nguồn vốn vay lãi suất thấp
của NHCSXH quận. Tổng số hộ nghèo được giúp đỡ và thoát nghèo qua 3
năm (2016-2018) là 308 hộ.
- Hoạt động dạy nghề và giới thiệu việc làm: Tổ chức Hội hàng năm
mở các lớp dạy nghề (Phối hợp qua trung tâm dạy nghề của quận), giới thiệu
việc làm cho hội viên phụ nữ, con em hội viên phụ nữ đi làm tại các cơ sở tư
nhân, doanh nghiệp trên địa bàn hoặc các địa bàn lân cận.
Bình quân 3 năm công tác dạy nghề đạt tỉ lệ 126.82%, giới thiệu việc
làm 101.92%.
- Hoạt động vay vốn phát triển kinh tế: được thực hiện từ nguồn vốn
vay từ Ngân hàng chính sách xã hội, Hội phụ nữ là tổ chức quản lý số dư nợ
từ nguồn vay này chiếm trên 50% trong tổng số vốn vay đối với các đoàn thể
chính trị xã hội trên địa bàn quận. Hội viên giúp nhau vay vốn không lấy lãi
thông qua thực tiết kiệm với các hình thức: nuôi lợn nhựa tiết kiệm, tiết kiệm
tại chi hội, bình quân 3 năm tỉ lệ vay vốn đạt 109.47%.
Công tác vệ sinh môi trường: Hội phụ nữ duy trì đảm nhận các đoạn
đường tự quản xanh - sạch - đẹp. Vận động cán bộ, hội viên tham gia tổng vệ
sinh sáng thứ bảy hàng tuần; tuyên truyền hội viên phụ nữ và nhân dân, đổ rác
47
đúng giờ, đúng nơi quy định. Thực hiện xây dựng văn minh đô thị trên địa
bàn quận, các Hội LHPN phường đã xây dựng được các đoạn đường nở hoa,
đoạn đường bích họa, xóa các điểm đen chân rác thành điểm nở hoa nhằm tạo
cảnh quan sạch – đẹp quanh khu dân cư.
Tổ chức Hội còn tập trung hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình văn minh,
hạnh phúc với những hoạt động cụ thể: giúp đỡ xây/ sửa nhà, tặng quà cho
hội viên phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, hội viên gia đình chính sách;
công tác phòng chống tệ nạn xã hội đặc biệt đảm nhận giúp đỡ chồng, con hội
viên phụ nữ sau cai 1 năm trở lên không tái, giúp đỡ thanh thiếu niên chậm
tiến tái hòa nhập cộng đồng….
2.2. Các hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội
Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm
2.2.1. Công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ
Việc tuyển dụng, sắp xếp cán bộ Hội cũng giống với việc tuyển dụng
công chức đó là việc tìm kiếm một con người vào một vị trí công việc phù
hợp với khả năng của họ. Việc tuyển chọn phải căn cứ vào yêu cầu công việc,
phải hiểu rõ bản chất và đặc điểm cá nhân của người đó cũng như phải phân
tích thấu đáo vị trí hay chức danh cần tuyển chọn. Ở một khía cạnh khác thì
tuyển chọn là việc chọn trong số nhiều người để từ đó tìm ra một số ít người
theo yêu cầu của việc tuyển lựa. Đối với Hội LHPN cấp Trung ương, tỉnh và
huyện thì thực hiện theo hình thức tuyển dụng – thi tuyển nhưng đối cán bộ
Hội LHPN xã phường và thôn – tổ dân phố thì sẽ thực hiện theo hình thức là
sắp xếp và kiện toàn cán bộ Hội.
Nhìn chung, việc kiện toàn, sắp xếp cán bộ Hội nhằm mục đích hoàn
thiện hoạt động xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ Hội ngay từ những
khâu đầu tiên. Việc sắp xếp nếu có phương pháp tốt, khách quan, khoa học sẽ
lựa chọn được nhiều người tài giỏi, là đội ngũ chủ chốt của một bộ máy chính
trị vững mạnh.
48
Bảng 2.5. Chất lượng đội ngũ cán bộ hội Quận Bắc Từ Liêm
(Bao gồm Ủy viên BCH Hội LHPN Quận, Ủy viên BCH Hội LHPN cơ sở)
Đơn vị tính: Người
TT Trình độ chuyên môn lý
Tiêu chuẩn Trình độ luận chính trị
Sl Độ tuổi BQ SC TC CC
Cấp 2 Cấp 3 SC TC CĐ/ ĐH Trên ĐH Cấp
1 Cấp Quận 28 48 0 0 0 05 19 04 05 18 02
2 Cấp 257 51 48 74 23 60 45 07 25 18 05
phường
3 Tổng số 285 48 74 23 65 71 11 30 36 07
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động Hội năm 2016, 2017, 2018)
Qua bảng 2.5 ta thấy, Cán bộ Hội của quận ngoài các tiêu chuẩn
chung về cán bộ công chức cần có năng lực tham mưu, hướng dẫn, tổ chức
thực hiện, kĩ năng phát hiện, giải quyết vấn đề, xử lí tình huống; kỹ năng lập
kế hoạch, thu thập thông tin, viết báo cáo; kĩ năng tuyên truyền, vận động,
thuyết phục; sâu sát cơ sở, hội viên, phụ nữ, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
của quận.
Do vậy chất lượng cán bộ Hội cấp Quận nhìn chung đã cơ bản đáp ứng
được yêu cầu về trình độ (chuyên môn, đào tạo) với 23/28 người có trình độ
đại học, trên đại học chiếm tỷ lệ 82.14%; trình độ lý luận chính trị của cán bộ
Hội cấp Quận cao 25/28 người chiếm tỷ lệ 89.3%. Đặc biệt, chất lượng cán bộ
chuyên trách của cơ quan Quận Hội đã đáp ứng được yêu cầu về trình độ với
5/5 đồng chí có trình độ đại học và 2/5 đồng chí có trình độ thạc sĩ; trình độ lý
luận chính trị: 02 đồng chí có trình độ cao cấp, 03 đồng chí trình độ trung cấp.
100% cán bộ chuyên trách cấp Quận đều có trình độ về tin học, ngoại ngữ B
trở lên. Tuy nhiên, một số cán bộ Hội cấp Quận còn chưa được đào tạo về
nghiệp vụ phụ vận nên cần quan tâm đến việc đào tạo cho cán bộ, nhất là
hàng năm có sự luân chuyển, điều động cán bộ và kiện toàn bổ sung cán bộ
mới chưa được đào tạo nghiệp vụ phụ vận.
49
Riêng đối với các đồng chí là Ủy viên BCH Hội LHPN Quận là chủ
tịch Hội 13 phường thì trình độ chuyên môn một số đồng chí là trung cấp;
trình độ lý luận chính trị một số đồng chí còn chưa đảm bảo yêu cầu (sơ cấp),
một số đồng chí trình độ tin học, ngoại ngữ yếu. Như vậy, trình độ cán bộ
cũng phần nào ảnh hưởng đến tổ chức hoạt động phong trào của Hội ở cơ sở.
Về đội ngũ cán bộ Hội cấp phường, độ tuổi bình quân cao (51 tuổi),
trình độ Trung cấp, Đại học là 112/257 chiếm tỉ lệ 43.6%, trình độ sơ cấp, cấp
2, cấp 3 chiếm tới 56.4%; trình độ lý luận chính trị trung cấp chỉ có 38/257
đồng chí chiếm tỉ lệ 18.6%. Đội ngũ cán bộ Hội cơ sở rất trách nhiệm, nhiệt
tình trong công tác song đội ngũ cán bộ chi, tổ hội phụ nữ có độ tuổi khá cao,
nhận thức của một số cán bộ Hội về công tác Hội phụ nữ còn chưa đầy đủ,
khả năng nắm tình hình dư luận xã hội còn hạn chế, kỹ năng, năng lực tổ chức
thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế…Những yếu tố này có ảnh hưởng tới việc tổ
chức các hoạt động Hội
Qua 2 năm triển khai, Quận hội đã sáng tạo, bài bản trong chỉ đạo thực
hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) và học tập Chuyên đề
năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu,
của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” với việc xây dựng các mẫu phiếu tự đăng kí, tự đánh giá
và bình xét cán bộ, hội viên trong thực hiện Chỉ thị và chuyên đề một cách
khoa học, rất tiện khi áp dụng đối với CBHV. Quận và 100% cơ sở tổ chức 14
buổi học tập chuyên đề năm 2018 gắn với chuyên đề toàn khóa cho 270/270
(100%) UV BCH Hội LHPN Quận và cơ sở, 1.128/1.128(100%) cán bộ Hội,
4.279/4.279 hội viên nòng cốt và 16.986/17.834 (95,2%) HVPN.
2.2.2. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Liên hiệp
phụ nữ trên địa bàn quận
Để có một đội ngũ cán bộ Hội chuyên môn cao, năng lực tốt, trí tuệ tốt
thì công tác quy hoạch là nền tảng của công tán cán bộ. Thực hiện nội dung
này, trong thời gian qua, Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm đã thường xuyên chỉ
50
đạo các Hội LHPN cơ sở nghiêm túc thực hiện quy hoạch cán bộ, báo cáo cấp
ủy Đảng để quy hoạch người cán bộ Hội vừa có tâm lại vừa có tầm. Qua đó
chất lượng đội ngũ cán bộ Hội từ quận tới cơ sở được kiện toàn đều là những
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, cán bộ Hội có năng lực cao, có phẩm chất tốt, kỷ luật tốt.
nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã đặt ra và giải quyết vấn
đề quyền bình đẳng của phụ nữ và công tác cán bộ - công chức nữ, như Nghị
quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị đã đặt vấn đề “Xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong toàn bộ công
tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở quy hoạch, có kế hoạch tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ cống hiến và
trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ trong các cấp uỷ đảng, cơ quan nhà
nước, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học,
nghệ thuật…Chống coi thường phụ nữ, phân biệt đối xử, khắt khe, hẹp hòi
trong đánh giá, sử dụng, đề bạt cán bộ nữ”; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
27/4/2007 của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” nhấn mạnh: Phát huy vai trò, tiềm năng to
lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là một trong những nhiệm vụ và
mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Xây dựng,
phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ công chức nữ tương xứng với vai trò to
lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến
lược công tác cán bộ công chức của Đảng. Thực hiện chủ trương, chính sách
đó, đội ngũ cán bộ công chức nữ ngày càng phát triển không ngừng cả về số
lượng và chất lượng. Tích cực thực hiện nội dung này nhằm nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ trên toàn quận góp phần đủ
điều kiện để các cán bộ Hội LHPN trên toàn quận tham gia phục vụ công tác
51
quản lý Nhà nước, Hội LHPN các cấp và Hội LHPN quận đã phối hợp với
các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ và kỹ năng mềm cho cán bộ Hội phụ nữ cấp quận, phường .
Đến nay, đã mở 16 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội phụ nữ cho các cán
bộ Hội từ quận tới cơ sở, từ Chủ tịch Hội tới tổ phó tổ phụ nữ, qua đó giúp
cho đội ngũ cán bộ Hội thực hiện tốt công tác tham mưu với cấp ủy Đảng và
chính quyền về công tác phụ nữ và công tác cán bộ nữ. Cán bộ công chức nữ
đặc biệt là cán bộ Hội LHPN các cấp đã thể hiện vai trò thủ lĩnh trong công
tác đoàn kết, tập hợp phụ nữ, hội viên phụ nữ; tích cực vận động hội viên, phụ
nữ tham gia các hoạt động tại địa phương, đi đầu, đảm nhận thực hiện những
mô hình mới, đã có nhiều công trình, mô hình được triển khai thực hiện có
hiệu quả, mang lại lợi ích dân sinh thiết thực.
2.2.3. Công tác kiểm tra, đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý đội ngũ
cán bộ Hội LHPN quận
Thực hiện Điều 21 Điều lệ Hội LHPN Việt Nam khóa XII, Hội LHPN
quận thường xuyên định kỳ 6 tháng, Hội tổ chức kiểm tra việc thực hiện Điều
lệ Hội của các Hội LHPN phường, các chi hội, các cán bộ Hội trên địa bàn
quận. Ngoài ra, Hội còn tiến hành kiểm tra đột xuất khi có ý kiến phản ánh
của cán bộ và hội viên phụ nữ.
Qua công tác kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Hội hàng năm, thấy được
rằng, Hội LHPN các phường và các chi hội, cán bộ Hội đều thực hiện nghiêm
túc Điều lệ Hội LHPN Việt nam; nghiêm túc triển khai các phong trào, nhiệm
vụ; thực hiện tốt các quy chế hoạt động của Hội và các chương trình công tác
hàng năm được xây dựng ngay từ đầu năm. Bám sát các văn bản chỉ đạo của
Hội phụ nữ các cấp, cấp ủy Đảng, chính quyền nhằm hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ công tác Hội và phong trào thi đua. Các cán bộ Hội phụ nữ từ quận
tới cơ sở đều gương mẫu, nêu cao tính tiên phong – gương mẫu trong thực
hiện nhiệm vụ, giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống theo tư tưởng
52
của Hồ Chí Minh. Hàng năm, thực hiện theo Quy định của Ban Chấp hành
Trung ương “Về việc kiểm điểm, đánh giá, phân loại chất lượng hàng năm đối
với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị”, Hội LHPN quận đã thực hiện
đánh giá 13 tổ chức cơ sở Hội và cá nhân 13 đồng chí Chủ tịch Hội LHPN
phường để Đảng ủy các phường có căn cứ đánh giá cán bộ Hội theo chức
trách, nhiệm vụ.
Bảng 2.6. Chất lượng cán bộ hội theo Chỉ thị 05-TW của Bộ chính trị khóa XII
So
sánh TT Chỉ tiêu 2017 2018
18/17
1 Đánh giá cán bộ Số lượng % Số lượng % %
1.1 Mức 1 81.12 1089 81.6 99.18 1098
1.2 Mức 2 17.88 246 18.4 102.93 239
1.3 Mức 3 0 0 0 0.00 0
2 Đánh giá hội viên
2.1 Mức 1 11526 67.03 11059 62 95.95
2.2 Mức 2 29.44 5350 30 105.69 5062
2.3 Mức 3 0.93 1182 6.6 738.75 160
2.4 Không đánh giá (do
già yếu không tham 455 2.6 243 1.4 53.41 dự vào dịp sinh hoạt
hội viên Quý IV)
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động Hội năm 2016, 2017, 2018)
Quận Hội cũng đã tổ chức đánh giá 2 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW
của Bộ Chính trị gắn với hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến trong
phong trào thi đua giai đoạn 2014 – 2018 đã có 16 tập thể và 28 cá nhân được
UBND Quận tặng giấy khen; 02 tập thể và 02 cá nhân đã được Quận ủy biểu
53
dương, khen thưởng; 13/13 Hội phụ nữ phường phối hợp tổ chức, đánh giá 02
năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với nói chuyện chuyên
đề, giao lưu văn nghệ, TDTT...thu hút 2.760 CBHVPN tham dự.
2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý đối với đội ngũ cán bộ Hội cấp cơ sở trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm
Là lực lượng chiếm tỷ lệ cao trong các lĩnh vực đời sống xã hội của
tỉnh, phụ nữ Quận Bắc Từ Liêm nói riêng đã thể hiện ngày càng rõ nét vai trò
của mình trong sự phát triển của gia đình và xã hội. Đặc biệt, nhận thức về
bình đẳng giới được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và toàn xã hội ngày càng
chú trọng, đã tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho phụ nữ phấn đấu vươn lên,
tích cực tham gia vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Hoạt động
của các cấp Hội phụ nữ và phong trào phụ nữ quận Bắc Từ Liêm đã tranh thủ
được nhiều thời cơ, đạt được những thành tích rất tự hào; phong trào phụ nữ
có những bước phát triển mới, cả bề rộng lẫn chiều sâu, góp phần tạo nên sự
đổi thay rõ nét trong đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ toàn tỉnh.
Tuy nhiên, những biến động trong lĩnh vực kinh tế- xã hội, nhất là quá
trình đô thị hoá đã tác động nhiều chiều đến đời sống, sự vận hành của nền
kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực còn kéo theo những tiêu cực đã làm
nảy sinh không ít tệ nạn, ảnh hưởng đến cuộc sống và trở thành mối quan ngại
của gia đình và xã hội. Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc đối với đội ngũ
cán bộ còn nhiều thiếu thốn, nhiều đơn vị chưa được đầu tư hỗ trợ về công
nghệ thông tin vào hoạt động quản lý. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán
bộ còn nhiều bất cập, không có tác dụng khuyến khích, thu hút lao động giỏi
về làm cán bộ. Bên cạnh đó, chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ thấp sẽ
làm ảnh hưởng đến thái độ và tinh thần làm việc của đội ngũ cán bộ. Lương
thấp sẽ làm cho họ không yên tâm làm việc, không đủ trang trải cho cuộc
sống của bản thân và gia đình.
54
Bên cạnh đó, phương thức hoạt động Hội chậm đổi mới, trình độ năng
lực của một số cán bộ Hội còn hạn chế …chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của
đất nước; số lượng án bộ Hội còn đông, cồng kềnh, hiệu quả hoạt động của một
số đội ngũ cán bộ chưa cao ảnh hưởng nhiều đến kết quả hoạt động phong trào
thi đua và công tác quản lý đội ngũ cán bộ Hội của quận Bắc Từ Liêm.
Dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng đội ngũ cán bộ Hội luôn bám
sát sự chỉ đạo của Hội LHPN thành phố Hà Nội, sự lãnh đạo chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Với tinh thần chủ động, đổi mới, Hội
LHPN quận và cơ sở đã chủ động, triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm
vụ trọng tâm công tác Hội gắn với thực hiện " Năm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị”. Hội LHPN Quận đã linh hoạt, sáng
tạo có nhiều biện pháp chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ hiệu quả. 100% cơ sở
Hội đã luôn bám sát vào sự chỉ đạo và hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ
được giao, đồng thời phát huy tối đa khả năng, tính chủ động, những điểm
mạnh/sáng tạo của mỗi cơ sở, mỗi cụm thi đua để tạo thành những hoạt động
Hội liên tục, có trọng tâm trọng điểm, có bề nổi, có diện rộng và chiều sâu,
hình thức phong phú, phù hợp với thực tiễn; Với khối lượng công việc ngày
càng nhiều song BCH Hội LHPN Quận và cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo, linh hoạt, sáng tạo trong công tác phối hợp và vận động nguồn lực, kịp
thời thực hiện và đảm bảo hoàn thành xuất sắc các nội dung, chỉ tiêu công tác
Hội, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ đột xuất do Thành Hội, Quận giao.
Hội đã tranh thủ được sự quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện của Đảng, chính
quyền, đoàn thể Quận và cơ sở, phối hợp hiệu quả với các phòng, ban,
ngành....nên nhiều hoạt động được đông đảo nhân dân biết đến và cùng tham
gia hưởng ứng, đồng thời làm tốt công tác huy động nguồn lực. Nhiều nội
dung của Hội đã tạo được dấu ấn, nhiều chỉ tiêu vượt cao so với kế hoạch
mang lại lợi ích thiết thực cho cán bộ HVPN và cộng đồng, góp phần cùng
55
các cấp, các ngành thực hiện toàn diện các nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã
hội, Quốc phòng an ninh của Quận;
Hoạt động của các cấp Hội được đổi mới theo hướng chất lượng, hiệu
quả. Tập trung chăm lo lợi ích thiết thực cho phụ nữ, đa dạng hoá các hình
thức hoạt động, tăng cường sự tập hợp, thu hút hội viên; đội ngũ cán bộ Hội
các cấp nhiệt tình trách nhiệm, trình độ, năng lực từng bước được chuẩn hóa.
Trên cơ sở đó Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm luôn hoàn thành tốt chức
năng đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, đại diện và chăm lo quyền và lợi ích hợp
pháp của phụ nữ, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trước những yêu cầu khách quan, đội ngũ cán bộ Hội cần tiếp tục được
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nhiều hơn để nâng cao trình độ, kiến thức
đáp ứng được nhu cầu hoạt động của tổ chức Hội cũng như sự phát triển kinh
tế - xã hội của quận và các phường.
56
Tiểu kết Chương 2
Từ nghiên cứu thực tế cho thấy, để thực hiện hiệu quả khâu đột phá
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở”, Hội
LHPN quận đã tiến hành khảo sát, đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của
từng cán bộ; tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội theo tiêu chuẩn chức
danh, trong đó đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ trẻ có triển vọng; yêu
cầu công việc được mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức và chú trọng về
chất lượng. Việc bố trí sử dụng cán bộ cơ bản được thực hiện theo yêu cầu
công việc và năng lực, sở trường công tác của cán bộ. Từ đó tạo điều kiện để
cán bộ phát huy khả năng trong công tác tham mưu chỉ đạo phong trào. Việc
cất nhắc đề bạt cán bộ vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt Hội LHPN Phụ
nữ các cấp đều được thực hiện theo quy trình trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của
cấp ủy địa phương, do vậy cơ bản cán bộ tham gia quản lý, lãnh đạo ở các cấp
Hội đảm bảo phẩm chất năng lực và uy tín, yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
Đến nay, 100% cán bộ chuyên trách cấp huyện và 100% Chủ tịch Hội cơ sở
đạt chuẩn chức danh.
Với hình thức đào tạo đa dạng, phù hợp với đối tượng như đào tạo tập
trung, tại chức, đào tạo thông qua các chương trình kế hoạch, đặc biệt là đào
tạo qua thực tiễn, qua đó góp phần tạo chuyển biến tích cực về nhận thức,
năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ Hội. Cùng với đó, đã thực
hiện tốt chức năng tham mưu với cấp ủy Đảng cùng cấp về công tác cán bộ
nữ, cán bộ trẻ có năng lực, triển vọng đưa vào quy hoạch, góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ Hội vững mạnh và hỗ trợ thúc đẩy thực hiện chính
sách bình đẳng giới. Qua thực tiễn công tác, các đồng chí đã thể hiện được
năng lực trong điều hành, quản lý, xây dựng và tập hợp quần chúng; phát huy
vai trò nòng cốt trong các phong trào ở địa phương, đơn vị.
57
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ cán bộ Hội
LHPN Quận Bắc Từ Liêm
Việt Nam đang ngày càng gắn kết sâu rộng hơn với thế giới, là nền
kinh tế có độ mở cao trong khu vực Đông Nam Á, là một mắt xích trong các
liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực quan trọng, đồng thời là thành viên
của nhiều diễn đàn khu vực và toàn cầu lớn. Hội nhập quốc tế là xu hướng
khách quan đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có được những năng lực nội
sinh nhất định mới có khả năng đáp ứng được những yêu cầu cả trước mắt và
lâu dài.
Những người cán bộ, quản lý là những người được đào tạo, bồi dưỡng
để có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến thức
chuyên môn, có trách nhiệm với công việc được giao phó, có khả năng xây
dựng khối đoàn kết để phát huy sức mạnh tập thể,… đó là mục tiêu cũng là
mong muốn của toàn Đảng, toàn dân đối với đội ngũ này.
Sau khi có Nghị quyết 39-NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư khóa XI về
tinh giản biên chế, nhất là Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành TW
khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, các địa phương, đơn vị quán triệt và
triển khai thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, căn cứ theo Nghị quyết 18 của
Trung ương, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Đề án số 21-ĐA/TU, ngày
16/9/2019 về sắp xếp, bố trí, kiêm nhiệm các chức danh người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn, tổ dân phố trên địa bàn
58
thành phố Hà Nội. Tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhiều địa phương chủ
động thực hiện với các mô hình khác nhau, tinh gọn đầu mối cơ quan, đơn vị,
vị trí công tác, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, biên chế cán bộ, công chức,
viên chức. Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhiều địa
phương đã có giải pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước đầu góp
phần mang lại kết quả, tạo chuyển biến tích cực.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của
MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội. Trong thực tế, quá trình triển khai thực
hiện Nghị quyết 18-NQ/TW tại các địa phương thời gian qua cho thấy, việc
thực hiện công tác này phải đi đôi với đổi mới phương thức lãnh đạo, phương
thức hoạt động của các cơ quan, đơn vị; đồng thời có lộ trình, bước đi vững
chắc, không cầu toàn, không nóng vội.
Chủ trương sáp nhập, hợp nhất các cơ quan, tổ chức, xuất phát từ thực
tế chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các đơn vị còn chồng
chéo, trùng lặp, gây lãng phí nguồn lực con người, tài chính, hiệu quả hoạt
động kém. Do vậy, sáp nhập, hợp nhất, không đơn giản chỉ là việc giảm đầu
mối hành chính hay giảm số cán bộ lãnh đạo, quan trọng hơn là kiện toàn tổ
chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, đổi mới
phương thức lãnh đạo để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn. Nhưng
đây là vấn đề lớn, vừa khó, vừa phức tạp, nhạy cảm vì liên quan đến quyền
lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ công chức, viên chức người lao động.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới, sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị
phải bảo đảm đồng bộ giữa sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương
59
với phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của địa phương, các cấp, các
ngành; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển. Do vậy,
cần thiết phải phân loại tổ chức, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên
chức và xác định vị trí việc làm một cách khoa học, sát thực tế. Nghị quyết số
26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành T.Ư khóa XII xác định
mục tiêu cụ thể đến năm 2020 sẽ hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và
rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đến năm 2025 sẽ xây dựng được đội
ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung
năng lực theo quy định. Theo các chuyên gia, xây dựng đề án vị trí việc làm là
giải pháp căn bản để thực hiện tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cơ
cấu cán bộ, công chức và cải cách tiền lương. Đề án vị trí việc làm sẽ bảo đảm
“một người có thể làm được nhiều việc” và “một việc chỉ có một cơ quan,
đơn vị phụ trách” chứ không để như trước đây là một việc có nhiều cơ quan,
nhiều đơn vị tham gia, không có sự phân công cụ thể xem ai, cơ quan nào là
người chủ trì để giải quyết, dẫn tới đùn đẩy trách nhiệm.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng; công tác cán
bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Do
vậy, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả phải gắn với việc xây dựng đội ngũ cán bộ và phải
được đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bên cạnh đó,
cán bộ còn là nhân tố “động” của tổ chức, cho nên, xây dựng đội ngũ cán bộ
phải gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Chỉ trên cơ sở xây dựng bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, không chồng chéo, trùng lặp, phân quyền và phân cấp rõ ràng,
rành mạch, mới bảo đảm cho cán bộ thật sự phát huy tinh thần, trách nhiệm,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Trong quá trình vận hành bộ máy, kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy, một bộ máy thiết kế bất hợp lý không những
60
không phát huy được đầy đủ năng lực của cán bộ, mà trong không ít trường
hợp còn làm hỏng cán bộ. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác
cán bộ và kiện toàn, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị phải được tiến hành đồng bộ, đặt trong mối quan hệ
hữu cơ, cái này là tiền đề cho cái kia và ngược lại.
Thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị Trung ương 6 về “Tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả”, thời gian qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hà Nội đã
triển khai nhiều chương trình, kế hoạch, sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo
hướng tinh gọn, hiệu quả. Bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định.
Qua đó, Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm cũng đã thực hiện mô hình kiêm
nhiệm theo tinh thần Nghị quyết số 18, tuy nhiên bộ máy vẫn còn cồng kềnh,
số lượng động vì vậy trong thời gian tới Hội LHPN quận cần tiếp tục thu gọn
tổ chức bộ máy của tổ chức Hội vừa đảm bảo về số lượng và đảm bảo về chất
lượng như: Nên giảm bớt các chức danh về tổ trưởng, tổ phó phụ nữ và những
chức danh đó đề nghị chi hội trưởng và chi hội phó của chi hội trực tiếp thực
hiện qua đó cán bộ chi hội sẽ nắm bắt được cụ thể tình hình hội viên và triển
khai nhiệm vụ, phong trào thi đua tới hội viên cũng sẽ đạt hiệu quả tốt hơn.
Đã có một số cơ sở Hội thực hiện mô hình này trong thời gian vừa qua. Qua
phân công kiêm nhiệm thí điểm, bước đầu, các đồng chí được phân công đều
thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện công
việc nhanh chóng, hiệu quả, không chồng chéo.
Theo hướng dẫn của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, tình hình của
Thành phố và Quận, việc xây dựng kế hoạch sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ
máy, nâng cao hiệu quả hoạt động cơ quan Hội LHPN thành phố, quận là cần
thiết, nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức của các phòng
(ban), tránh chồng chéo, giảm đầu mối bên trong; nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức theo hướng hiệu quả, chuyên nghiệp; góp phần thực
61
hiện thắng lợi các mục tiêu và chỉ tiêu nghị quyết của hội, cấp ủy đã đề ra.
Việc sắp xếp lại bộ máy và tinh giản biên chế thì đơn vị thực hiện theo lộ
trình và đảm bảo chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, người lao
động sau khi sắp xếp được thực hiện từ năm 2018 - 2020.
Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thì Hội
LHPN các cấp, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy gắn với đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với hội viên,
từng bước khắc phục “hành chính hóa” hoạt động và “công chức hóa” cán bộ;
tăng cường phối hợp công tác giữa MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội với
các cơ quan, tổ chức có liên quan; tích cực tổ chức triển khai và nâng cao chất
lượng giám sát, phản biện xã hội. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn
đầu mối bên trong gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm, mối quan hệ công tác với các đơn vị liên quan. Tinh giản biên chế, cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ chuyên trách các cấp, gắn với đổi mới cơ chế phân bổ
ngân sách nhà nước và quản lý tài chính; chủ động và tự chủ thực hiện tốt
kinh phí khoán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội LHPN
các cấp. Tăng cường sử dụng đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên. Thực
hiện thí điểm chức danh phó chủ tịch hội cơ sở kiêm chức danh phù hợp đối
với những nơi đủ điều kiện theo thống nhất của cấp ủy địa phương.
Bên cạnh đó, để Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) mà cụ thể là Nghị
quyết số 18 đi vào cuộc sống, trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, hội viên của
Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm phải nắm vững, hiểu rõ những nội dung cơ bản
của nghị quyết, thực hiện tốt việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện
vọng cán bộ, nhất là các trường hợp tinh giản, sáp nhập...Từng cấp trong quá
trình thực hiện có những bước đi, lộ trình cụ thể, phù hợp điều kiện thực tế
từng đơn vị theo hướng không để trùng lắp hoặc bỏ trống chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị.
62
3.2. Các giải pháp cụ thể
3.2.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy
Xây dựng bộ máy tổ chức cán bộ Hội các cấp trong quận đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới tập trung nâng cao chất lượng cán bộ Hội xong
phải gắn liền với đặc thù phát triển kinh tế xã hội của quận. Phát huy vai trò
tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao địa vị người phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Công tác phụ nữ phải hướng mạnh về cơ
sở, phù hợp với từng đối tượng, vùng miền, quan tâm tới các phường yếu về
tổ chức, cơ sở vật chất còn hạn hẹp, khó khăn về hoạt động. Xây dựng, phát
triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với tiềm năng, vai trò của phụ
nữ là yêu cầu khách quan.
Trong thời kỳ mới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều
tác động đến tư tưởng, nguyện vọng, tâm tư của phụ nữ. Sự phát triển mãnh
mẽ của khoa học công nghệ, của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng hội
nhập, quốc tế hóa nguồn lao động tạo nhiều thuận lợi để phụ nữ phát huy tiềm
năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp của mình. Từ sau Đại hội XII,
Đảng, Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, phòng chống
tham nhũng lãng phí đạt nhiều kết quả tốt, bước đầu tạo được niềm tin, phấn
khởi trong các tầng lớp nhân dân là thuận lợi lớn cho công tác phụ nữ. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy về công tác cán bộ là cơ hội để phụ
nữ phấn đấu, cống hiến và trưởng thành.
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đại hội Phụ nữ
lần thứ X (2007), xác định: “Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh,
phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ” (7, tr.82). Đại hội Phụ nữ lần
thứ XII (2016), nhấn mạnh: “Phát huy vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành
Trung ương Hội, đổi mới hoạt động của Ban Chấp hành Hội LHPN các cấp;
63
tiếp tục kiện toàn bộ máy Hội LHPN từ Trung ương đến cơ sở” (48, tr.68);
Đổi mới tổ chức bộ máy và công tác cán bộ được coi là khâu then chốt quan
trọng trong đổi mới nội dung phương thức hoạt động và là điều kiện tất yếu,
trực tiếp quyết định sự thành công đổi mới nội dung phương thức hoạt động
của Hội. Phương châm đổi mới theo hướng tinh gọn, phù hợp với tính chất,
yêu cầu hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn tôn chỉ mục đích, chức năng,
nhiệm vụ của Hội.
Đổi mới về tổ chức bộ máy: Thực hiện Quyết định số 282-QĐ/TW của
Ban Bí thư, bộ máy Hội tiếp tục được củng cố, kiện toàn với hệ thống tổ chức
4 cấp tạo sự thống nhất cao trong các cấp hội. “Việc sắp xếp bộ máy, tinh
giản biên chế được thực hiện từng bước, vững chắc, khoa học theo hướng rõ
đầu mối, chuyên sâu, khắc phục sự phân tán, tạo điều kiện cho cán bộ chuyên
sâu vào các nhiệm vụ trọng tâm của công tác Hội” (19, tr.60). Về Ban Chấp
hành: Hội LHPN Cấp quận,huyện: Không thành lập ban chuyên môn mà chỉ
phân công cán bộ phụ trách các chương trình, chuyên đề, cụm cơ sở. Tuy
nhiên, Hội LHPN cấp quận không có thẩm quyền tuyển dụng cán bộ nên
nhiều cán bộ không có chuyên môn phù hợp với yêu cầu chức danh cán bộ.
Cấp cơ sở: Được kiện toàn thống nhất thực hiện theo một mô hình: Ban Chấp
hành Hội cơ sở - chi hội- tổ phụ nữ. Mô hình này phù hợp với mô hình tổ
chức của Đảng và các đoàn thể ở cấp cơ sở, tạo thuận lợi cho việc quản lý và
tổ chức các hoạt động của.
Đổi mới về công tác cán bộ: Ngày 02/6/2008, Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định 664/QĐ-TTg “Phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp quận, huyện và xã, phường, thị trấn giai đoạn
2008- 2012”; ngày 14/12/2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định
1891/QĐ-TTg “Phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội Liên hiệp
Phụ nữ các cấp giai đoạn 2013-2017”. Ngày 31/12/2018, Thủ tướng Chính
phủ ký Quyết định số 1893/QĐ-TTg “Phê duyệt Đề án Bồi dưỡng cán bộ,
64
công chức Hội LHPN các cấp, chi hội trưởng phụ nữ giai đoạn 2019 – 2025”.
Việc triển khai hiệu quả các đề án trên đã góp phần quan trọng nâng cao năng
lực, trình độ và chuẩn hóa cán bộ Hội các cấp. Công tác cán bộ không ngừng
được đổi mới: “Triển khai đồng bộ ở tất cả các khâu như: Tuyển dụng, đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong đó, công tác
quy hoạch được đổi mới về nội dung và cách làm theo phương châm mở và
động”. Quy hoạch không khép kín trong phạm vi một ban, đơn vị hoặc trong
một cơ quan đối với cấp tỉnh, huyện; một chức danh quy hoạch cho nhiều
người và một người có nhiều chức danh theo nguyên tắc tập trung, dân chủ,
khách quan và công khai. Công tác tuyển chọn cán bộ đã từng bước thực hiện
thi tuyển, đặc biệt là ở cấp trung ương và tỉnh/thành, đầu vào của cán bộ Hội
được đảm bảo cơ bản về chức danh tiêu chuẩn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
cũng được chú trọng: “Tập trung đào tạo theo chuẩn chức danh, đào tạo
nghiệp vụ, bồi dưỡng các kỹ năng và bước đầu đào tạo tin học, ngoại ngữ;
đào tạo tập trung, tại chức, đào tạo tại chỗ” (32, tr.4). “Công tác quy hoạch và
bố trí đề bạt và đánh giá cán bộ cũng được quan tâm. Hạn chế bớt tình trạng
bổ nhiệm không theo quy hoạch; thường xuyên đánh giá cán bộ và thực hiện
đánh giá cán bộ trước khi quy hoạch, bổ nhiệm; xây dựng các tiêu chí cụ thể
để đánh giá” (32, tr.5). Tại cấp quận/huyện: Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ chủ chốt Hội LHPN cấp huyện và cơ sở” của Chính phủ “đã góp phần
quan trọng nâng cao năng lực, trình độ và chuẩn hóa cán bộ Hội cấp huyện và
cơ sở”. Thực hiện Đề án này, Hội LHPN quận đã lập danh sách đội ngũ cán
bộ Hội từ quận tới cơ sở để báo cáo Hội LHPN thành phố Hà Nội xây dựng
kế hoạch tổ chức bồi dưỡng trong thời gian tới với 285 cán bộ Hội. Thông
qua thực hiện Đề án này góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội LHPN các cấp; góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Hội LHPN các cấp và Chi hội trưởng
phụ nữ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tâm huyết với công tác phụ
65
nữ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sâu sát cơ sở; hội tụ đầy đủ
năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới về
tổ chức bộ máy và công tác cán bộ theo các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII của Đảng.
3.2.2. Giải pháp về hoạt động
3.2.2.1. Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ
Mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội của Quận, cơ sở đảm bảo trình
độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
Nội dung: Tuyển dụng, bổ sung những cán bộ Hội của Quận có năng
lực làm công tác Hội, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.
Biện pháp thực hiện:
Thực hiện chặt chẽ quy trình xét tuyển, thi tuyển, tiếp nhận, tuyển dụng
công chức, viên chức theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường
tự chủ cho cơ quan, đơn vị. Tiêu chuẩn bằng cấp, chuyên môn, phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cũng cần phải có đánh giá, nhận xét của cấp ủy, cơ
quan, đơn vị hay trường học mà cán bộ được tuyển chọn đã từng công tác hay
từng học, địa bàn nơi cư trú.
Một trong những giải pháp thực hiện thời gian vừa qua do Bộ Nội vụ đi
đầu, cũng đã và đang phối hợp cùng một số bộ, ngành và địa phương hiện nay
nhằm nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức và thi nâng ngạch công
chức, là ứng dụng công nghệ tin học vào thi tuyển công chức bước đầu đã thu
được một số kết quả khả quan, được dư luận đánh giá cao. Việc ứng dụng
công nghệ tin học vào tuyển dụng công chức không phải là mới đối với các
quốc gia có nền công vụ phát triển nhưng là mới đối với nước ta, hình thức thi
này đã đảm bảo tối đa nguyên tắc cạnh tranh khách quan, công bằng, minh
bạch, thực tài và có sự kiểm soát lẫn nhau, chống được tiêu cực trong thi cử,
mọi công dân có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đều có cơ hội như nhau để đăng ký
66
và tham gia quá trình lựa chọn vào nền công vụ Trung ương và địa phương và
đảm bảo chất lượng đầu vào của ngạch công chức.
3.2.2.2. Nâng cao quản lý trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ Hội
Mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội của Quận, cơ sở đảm bảo trình
độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đảm bảo công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt của tổ chức Hội và nhiệm vụ lâu dài là tạo nguồn cán bộ
cho hệ thống chính trị.Bổ sung, trang bị các kiến thức, phương pháp, kỹ năng,
nghiệp vụ Hội cần thiết cho đội ngũ cán bộ Hội của Quận và cơ sở.
Nội dung: Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ Hội của Quận và cơ sở
đảm bảo về trình độ, tiêu chuẩn, độ tuổi (theo hướng trẻ hóa) nhằm tạo nguồn
nhân lực kế cận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Xây dựng và phát triển mạng lưới
cán bộ Hội chi, tổ hội, các loại hình câu lạc bộ.Bổ sung, trang bị các kiến
thức, phương pháp, kỹ năng, nghiệp vụ Hội cần thiết cho đội ngũ cán bộ Hội
của Quận và cơ sở.
Biện pháp thực hiện:
Hội LHPN Quận tham mưu xây dựng quy hoạch dài hạn đội ngũ cán bộ
Ủy viên BCH cấp Quận đảm bảo các tiêu chuẩn, có năng lực trình độ để hực
hiện nhiệm vụ.
Hội LHPN các phường tham mưu xây dựng quy hoạch dài hạn hệ
thống cán bộ Hội cơ sở, tham mưu lựa chọn người làm cán bộ Hội báo cáo
cấp ủy địa phương xem xét Cán bộ Hội không chỉ là những người có năng
lực, trình độ mà còn phải có tâm huyết, có lòng yêu nghề, nhiệt tình với công
việc. Do vậv chỉ quy hoạch những người gắn bó với công tác Hội tại cơ sở,
gắn bó với phụ nữ. Các Câu lạc bộ: Cán bộ Hội cơ sở tập hợp, vận động hội
viên phụ nữ tham gia các câu lạc bộ theo các nhóm sở thích. Câu lạc bộ là tố
chức để giúp hội viên phụ nữ hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm
67
trong phát triển kinh tế, trong cuộc sống, xây dựng hạnh phúc gia đình. Mục
đích hoạt động của các CLB hoạt động thiết thực, hiệu quả, đem lại nhiều lợi
ích cho HVPN. Ban chấp hành Hội LHPN phường xây dựng kế hoạch phát
triển các loại hình chi hội, các câu lạc bộ của phụ nữ, tổ chức các hoạt động
cho hội viên phụ nữ với nhiều hình thức, đa dạng, linh hoạt theo điều kiện của
từng địa phương.
Rà soát lực lượng cán bộ Hội cơ sở, cho thôi không tham gia công tác
đối với những cán bộ không đủ năng lực, kết quả và hiệu quả làm việc thấp
hoặc những người không có tâm huyết với nghề, những người có độ tuổi quá
cao, sức khỏe kém.
Thực hiện chính, sách chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Hội cơ sở (Chủ tịch
Hội) theo các yêu cầu, nhiệm vụ. Định kỳ 1 năm một lần tiến hành đánh giá
năng lực cán bộ Hội cơ sở để xem năng lực có đáp ứng được yêu cầu công
việc hay không. Chỉ những người có đủ năng lực về trình độ, kiến thức, kỹ
năng, phẩm chất đạo đức mới được tiếp tục làm cán bộ Hội chủ chốt cơ sở.
Với việc thực hiện quy hoạch mạng lưới cán bộ Hội của Quận và cơ sở
sẽ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm được chất lượng
hoạt động của Hội với nội dung đa dạng, phong phú, chất lượng đáp ứng được
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của hội viên phụ nữ.
Rà soát đánh giá nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng: Hội LHPN Quận đánh
giá nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng của cán bộ cấp Quận và chỉ đạo các cơ sở
Hội đánh giá thực trạng trình độ chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ và nhu cầu
tập huấn của đội ngũ cán bộ Hội cơ sở. Đánh giá thực trạng trình độ và nhu
cầu tập huấn, bồi dưỡng của cán bộ Hội, cần phân loại rõ theo từng đối tượng
(cán bộ Hội của Quận, phường, cán bộ chi, tổ hội phụ nữ), theo từng chủ đề,
lĩnh vực (nghiệp vụ, kỹ năng…).
Xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng cán bộ Hội: Trên cơ sở thực
trạng trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và nhu cầu cần được đào tạo
68
của hệ thống cán bộ Hội, Hội LHPN Quận xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi
dưỡng hệ thống cán bộ Hội cơ sở một cách lâu dài, chủ động. Hội LHPN các
phường chủ động xây dựng kế hoạch về tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp
vụ côg tác Hội cho đội ngũ cán bộ chi, tổ hội.
Đối với cán bộ các chi hội phụ nữ tổ dân phố: Được trang bị những kiến
thức cơ bản về nghiệp vụ Hội và các phương pháp tổ chức hoạt động Hội:
Về phương pháp tố chức hoạt động: Những người làm cán bộ Hội chi
tổ, phụ nữ khi mới tham gia đều được đào tạo, tập huấn một số phương pháp,
nghiệp vụ Hội để có khả năng tổ chức các hoạt động của Hội tại địa phương.
Sau đó, hàng năm đội ngũ cán bộ Hội được đào tạo bổ sung, cập nhật những
phương pháp, nghiệp vụ mới.
Về kỹ năng, nghiệp vụ Hội: Cán bộ chi, tổ hội được tham gia tập huấn,
đào tạo những kiến thức, kỹ năng cơ bản về công tác Hội (kỹ năng nói trước
HVPN, tổ chức cuộc họp, điều hành sinh hoạt chi, tổ hội, kỹ năng tổ chức các
hoạt động.,.). Ngoài ra họ còn được tham gia các khoá tập huấn để tiếp cận
với việc chuyển giao khoa học kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới trong sản xuất
nông nghiệp (đối với các phường còn sản xuất nông nghiệp).
Căn cứ vào số lượng cán bộ Hội và hội viên phụ nữ từng phường, Hội
LHPN Quận và Phường xây dựng kế hoạch tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Hội và hội viên phụ nữ. Kinh phí đào tạo
bồi dưỡng cán hộ Hội đề nghị Quận và Phường quan tâm cấp kinh phí để tổ
chức thực hiện.
Về nội dung tập huấn bồi dưỡng: Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác phụ nữ
cho cán bộ Hội; Các kĩ năng nhằm nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, chú
trọng các kĩ năng đối với từng đối tượng cán bộ ở các cấp Hội; Các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các kiến thức mới, chuyên sâu; các
thông tin chuyên đề về tình hình trong nước, thế giới.
69
Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng: Tùy vào đối tượng học viên và
nội dung, tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo hướng linh hoạt tập
huấn ngắn ngày, dài ngày, cử đi học các lớp đào tạo của Hội LHPN cấp trên,
của Quận ủy tổ chức…Đổi mới phương pháp dạy và học: xác định học viên là
trung tâm trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của học viên và yêu cầu công việc; sử
dụng phương pháp phù hợp; tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các học viên.
Tập huấn, bồi dưỡng thông qua hoạt động thực tiễn: Xây dựng và thực
hiện quy định chế độ công tác cơ sở cho cán bộ Hội, trong đó qui định cán bộ
Hội chuyên trách của Quận và cơ sở một quý dự sinh hoạt ít nhất một lần với
chi hội. Mạnh dạn giao việc cho cán bộ, giao việc mới, khó cho cán bộ trong
diện quy hoạch; đối với từng cán bộ cần có phương pháp hướng dẫn, quản lí,
giám sát, kiểm tra phù hợp để tăng hiệu quả công việc, tăng tính chủ động,
sáng tạo cho cán bộ; tăng cường sự kèm cặp, hướng dẫn của cán bộ có kinh
nghiệm đối với cán bộ mới. Chủ động thực hiện công tác nghiên cứu, đặc biệt
là nghiên cứu thực tiễn để có cơ sở tham mưu, đề xuất trong lãnh đạo, chỉ đạo
và hướng dẫn, tổ chức thực hiện
3.2.2.3. Hoàn thiện công tác quản lý, đánh giá chất lượng cán bộ Hội
và công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ Hội
Hoàn thiện công tác quản lý, đánh giá chất lượng cán bộ Hội
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá cán bộ trong thời
gian tới Hội LHPN Quận cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng bộ tiêu chuẩn chức danh đối với từng ngạch lãnh
đạo, quản lý ở từng cấp. Cụ thể hóa bộ tiêu chí đánh giá cán bộ theo hướng
xác định cụ thể công việc; bảo đảm lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu để đánh giá phẩm chất, năng
lực của cán bộ. Phương thức đánh giá cần được bổ sung những yếu tố định
lượng về công việc, thời gian hoàn thành công việc, tỷ lệ xử lý thỏa đáng tình
70
huống và những giải pháp sáng tạo trong giải quyết công việc. Trước đây,
công tác đánh giá cán bộ hằng năm chủ yếu dựa vào kết quả tự đánh giá của
từng đơn vị.Việc đánh giá cán bộ, công chức được phân loại theo bốn mức
theo quy định của Luật cán bộ, công chức (năm 2008): a) Hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ; b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ; c) Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn
hạn chế về năng lực; d) Không hoàn thành nhiệm vụ. Tuy vậy, việc đánh giá
nhiều khi không sát thực tế. Bởi vì định lượng của các tiêu chí chưa thật cụ
thể, rõ ràng.
Xây dựng, cụ thể hóa tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc
của người đứng đầu dựa trên kết quả lãnh đạo đơn vị thực hiện chức năng,
nhiệm vụ. Quyết tâm đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII: kiên quyết sàng lọc, miễn nhiễm, thay thế hoặc cho từ chức đối với
cán bộ làm việc yếu kém, không hoàn thành nhiệm vụ nhất là cán bộ lãnh đạo
quản lý và người đứng đầu cơ quan. Nội dung, tiêu chí đánh giá cần phải
được thống nhất, cụ thể; được lượng hóa bằng thang điểm để thuận lợi trong
đánh giá, phân loại, bảo đảm đánh giá đúng thực chất và khuyến khích, động
viên cán bộ làm việc có chất lượng, hiệu quả.
Trong đánh giá cán bộ, cần xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh
làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội
ngũ cán bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, hoàn thiện quy chế, quy định, quy trình đánh giá cán bộ, nhất
là các trường hợp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu bầu cử. Chủ trương,
nguyên tắc, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ và đánh giá cán bộ phải
được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ,
chặt chẽ. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục ban hành và thực hiện các
quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất,
đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy
71
chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử
dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy
bằng cấp…” Phải xây dựng cho được tiêu chí để đánh giá cán bộ. Hằng năm,
trước khi kết thúc nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán
bộ, hiệu quả công việc thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân mà có đánh giá
khách quan trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao ý thức
tự phê bình của cán bộ; chống đánh giá cán bộ thiếu khách quan, thiếu căn cứ
khoa học.
Đánh giá cán bộ không chỉ xem xét trong thời điểm, một thời gian ngắn
mà phải xem xét trong cả quá trình để thấy được sự chuyển biến; phải kết
hợp, theo dõi thường xuyên với đánh giá định kỳ. Đề cao trách nhiệm người
đứng đầu trong đánh giá cán bộ. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nắm
vững căn cứ, nắm chắc tiêu chuẩn đánh giá. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ,
vị trí làm việc, từng cơ quan, đơn vị yêu cầu cán bộ, công chức xây dựng kế
hoạch các nhiệm vụ chính sẽ thực hiện; tiến hành phân công nhiệm vụ cụ thể
cho từng cá nhân, làm cơ sở quan trọng trong việc đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao. Để đánh giá cán bộ, nhất là người đứng đầu, lãnh đạo
chủ chốt, không chỉ căn cứ vào kết quả lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành các chỉ
tiêu kinh tế - xã hội mà còn căn cứ vào sự hài lòng của người dân thông qua
quá trình thực hiện chính sách trên địa bàn. Thực hiện công khai, minh bạch
kết quả đánh giá cán bộ để phát huy vai trò giám sát, tham gia ý kiến của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân.
Thứ ba, công khai hóa, dân chủ hóa trong đánh giá cán bộ. Đánh giá
đúng cán bộ còn là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng tình đoàn kết, thống
nhất trong cơ quan, địa phương, đơn vị. Do vậy, đánh giá cần thực hiện dân
chủ, công khai hóa với cơ chế, biện pháp rõ ràng, khoa học. Trước hết, phải
thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối
với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
72
và các đoàn thể chính trị - xã hội; gắn việc lấy phiếu tín nhiệm với đánh giá
cán bộ, kết hợp chặt chẽ giữa đánh giá nơi công tác và kết quả thực hiện nghĩa
vụ công dân nơi cư trú.
Đánh giá cán bộ phải toàn diện, dân chủ, bảo đảm khách quan, công
tâm, vì sự tiến bộ của cá nhân, tổ chức, trên cơ sở những tiêu chuẩn, lấy hiệu
quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Công khai,
dân chủ, kết luận là vấn đề có tính nguyên tắc, được thể hiện trong toàn bộ
quy trình đánh giá cán bộ. Nhưng trên thực tế ở một số nơi nguyên tắc này
được thực hiện còn lệch lạc, đối tượng, nội dung, phạm vị, mức độ công khai
cũng khác nhau. Có nơi, việc đánh giá cán bộ vẫn được coi là việc riêng của
cấp ủy, chưa thật sự phát huy dân chủ, chưa lấy ý kiến của đông đảo quần
chúng trong cơ quan, đơn vị và địa bàn cư trú của cán bộ làm căn cứ đánh giá.
Thậm chí, một số cấp ủy, nhất là cấp cơ sở chưa thực hiện tốt quy định đánh
giá cán bộ thường xuyên và định kỳ, chỉ khi đề bạt, bổ nhiệm mới đánh giá.
Chính việc làm thiếu dân chủ, thiếu công khai, công bằng, công tâm minh
bạch trong đánh giá cán bộ, là nguyên nhân dẫn tới nhiều hệ quả tiêu cực hiện
nay. Đó là, tình trạng cấp dưới phụ thuộc, thụ động vào cấp trên, thiếu tin
tưởng vào cấp trên, lo lắng xây dựng các mối quan hệ thân thiện hơn là lo
lắng, chú tâm vào công việc, lo lắng giữ mình hơn là đấu tranh cho lẽ phải.
Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác đánh giá cán bộ, quy định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ;
hoàn thiện cơ chế đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực
thi công vụ; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, cơ quan,
đơn vị. Phải dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng. Trong điều kiện hiện
nay, các cấp ủy đảng cần biết lắng nghe các đoàn thể quần chúng, dư luận xã
hội và báo chí để tiếp thu các ý kiến góp ý của nhân dân, phân tích, sàng lọc ý
kiến có tính chất xây dựng, bổ sung vào quá trình nhận xét, đánh giá cán bộ.
Cũng cần có hình thức thông báo công khai kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ
73
cho người được đánh giá và cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị biết, cho
quần chúng theo dõi, giám sát và tiếp tục tham gia vào quá trình đánh giá cán
bộ; đồng thời lưu giữ, bổ sung vào hồ sơ cán bộ, làm căn cứ triển khai những
khâu tiếp theo trong công tác cán bộ.
Nâng cao năng lực cơ quan tham mưu về công tác cán bộ, bảo đảm việc
đánh giá cán bộ phải thật sự công tâm, khách quan, toàn diện; phải am hiểu,
nắm chắc cán bộ; cần mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời trong việc xử lý, thay thế
những cán bộ liên tục không hoàn thành nhiệm vụ, không nhất thiết phải đợi
hết nhiệm kỳ, thời gian bổ nhiệm. Cần khắc phục đánh giá theo hình thức,
giản đơn, qua loa; người đánh giá chỉ nêu ưu điểm, thành tích, né tránh khuyết
điểm. Nâng cao tinh thần phê bình của mỗi cá nhân; cá nhân biết nhìn nhận
vào khuyết điểm, hạn chế của bản thân mà có phương pháp, kế hoạch khắc
phục những hạn chế ấy, chính điều đó làm cho cán bộ dần trưởng thành hơn.
Các cấp lãnh đạo, quản lý phải nêu gương, có những biện pháp cụ thể
để cán bộ, công chức làm tròn bổn phận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đội
ngũ cán bộ, công chức trong nhà nước kiểu mới, “Chính phủ phải là công bộc
của nhân dân” và để làm được điều đó, Chính phủ - lực lượng lãnh đạo, quản
lý, người đứng đầu phải biết làm gương, nêu gương, cán bộ, công chức phải
vừa chuyên “có công tâm, trung thành sốt sắng với quyền lợi của nhân dân”
vừa hồng “có năng lực làm việc, được nhân dân tín nhiệm” (17, tr 22). Hiện
nay, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hồng và chuyên của người lãnh đạo, quản
lý. Trong đó, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường khiến cho tính
chất phục vụ của nền công vụ bị lệch lạc; cán bộ, công chức, xã hội đang phải
đối mặt với hội chứng chạy chức, chạy quyền, dẫn đến hệ quả là các tệ nạn
tham ô, lãng phí, nhũng nhiễu lộng hành, nhất là đối với những người đứng
đầu các hệ thống không dễ có thể khắc phục ngay được.
Khi năng lực làm việc của cán bộ, công chức bị khúc xạ qua nhiều lăng
kính cộng với động cơ thiếu trong sáng, sẽ biến lực lượng này trong bộ máy
74
nhà nước trở thành những “kẻ lộng quyền”. Đây là nguyên nhân chủ yếu
khiến cho hoạt động công vụ và chất lượng thực hiện công vụ của đội ngũ cán
bộ chủ chốt nói riêng và đội ngũ công chức nói chung còn nhiều yếu kém.
Thêm vào đó, sự xuê xoa khi đánh giá, xem xét công trạng, bình bầu thi đua
có thể coi là biểu hiện của sự dung dưỡng hành vi tiêu cực trong bộ máy công
quyền, ảnh hưởng đến sự trong sạch, vững mạnh của bộ máy.
Các thể chế hành chính, quy tắc pháp luật muốn đi vào cuộc sống phải
thông qua con người áp dụng. Thái độ, trách nhiệm, sự công tâm của đội ngũ
cán bộ, công chức cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công
khai sẽ là những điều kiện đảm bảo cho các quy tắc pháp luật được thực hiện.
Bởi thế, không chỉ có giám sát từ dân, từ xã hội, trong bộ máy, tổ chức quyền
lực chính trị, Đảng và Nhà nước cần thường xuyên quan tâm, có cơ chế và
những biện pháp cụ thể để cán bộ, công chức phải thực hiện trách nhiệm và
đạo đức công chức, công vụ, đó là cách nêu gương có hiệu quả nhất trước
nhân dân và xã hội.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội
trong việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động công vụ của đội ngũ cán
bộ, công chức. Với tư cách là các tổ chức đại diện cho các tầng lớp xã hội,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp cần có chương
trình, kế hoạch, nội dung giám sát và phản biện xã hội cụ thể, thông báo với
cấp ủy và chính quyền cùng cấp trước khi triển khai để được hỗ trợ và tạo
điều kiện thực hiện. Đối với tổ chức và cá nhân được phân công phản biện,
kiểm tra, giám sát phải bảo đảm về trình độ chuyên môn và kỹ năng thực
hành, có bản lĩnh, dám bảo vệ cái đúng và dám chịu trách nhiệm. Trong cộng
đồng khu dân cư, cần phát huy vai trò của Ban giám sát cộng đồng, Ban thanh
tra nhân dân, những người có uy tín, có kinh nghiệm, có tri thức am hiểu vấn
đề tham gia phản biện và giám sát xã hội. Khi cần thiết phải tổ chức tập huấn
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về phản biện và giám sát xã hội cho đội ngũ
75
những người làm công tác này. Trình độ, dũng khí của chủ thể tham gia phản
biện và giám sát xã hội chỉ mới là điều kiện cần, nếu chưa tạo lập được thể
chế, cơ chế cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của những chủ thể này trước
những tổ chức và cá nhân đang thực hành các quyền công vụ thì hoạt động
này sẽ khó có hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, cần xác định rõ thẩm quyền và trách
nhiệm của các cấp độ chủ thể thực hành giám sát, kiểm tra, kiểm soát. Theo
đó, phải thiết lập được những định chế, cơ chế hoạt động cho Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức đoàn thể, các cá nhân đảm trách việc giám sát, kiểm tra,
kiểm soát và xử lý vụ việc không lệ thuộc nhiều vào chính quyền về tổ chức
và tài chính. Đồng thời, cần bảo đảm minh bạch, công khai mọi thông tin về
những việc cần phản biện và giám sát xã hội. Kịp thời biểu dương, khích lệ
những người làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội có hiệu quả, góp
phần làm lành mạnh các hoạt động xã hội, tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng và nhân dân, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp thật sự trong
sạch, vững mạnh.
Hoàn thiện công tác khen thưởng, kỷ luật cán bộ Hội
Mục tiêu, nôị dung thi đua phải sát thực, có tính toàn diện, đột phá vào
những trọng tâm ,trọng điểm, những viêc ̣ khó hoặc những mặt còn yếu kém
của cơ quan , điạ phương, đơn vị. Các chỉ tiêu thi đua phải cụ thể, sát thực
tiễn, được sự đồng tình, hưởng ứng của các cá nhân , tâp ̣ thể tham gia phong trào thi đua.
Mở rộng đối tượng thi đua trong tất cả các thành phần kinh tế và trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, coi trọng việc phát triển phong trào thi
đua trong các tổ chức kinh tế ngoài nhà nước. Phong trào thi đua phải được
phát động sâu rộng trong quần chúng nhân dân, quy tụ được mọi nguồn lực xã
hội thực hiện mục tiêu chung của đất nước.
Xây dựng kế hoạch tổ chức thi đua phải phù hợp với thực tế, gắn với
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị và nguyện
76
vọng của quần chúng. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát và chế độ trách
nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Đổi mới công tác tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến. Để
khuyến khích cán bộ, hội viên phụ nữ hoạt động có hiệu quả, cần có chế độ
khen thưởng cho những cán bộ, hội viên phụ nữ có thành tích xuất sắc Hội
LHPN Quận có kế hoạch 03 năm hoặc 05 năm một lần tổ chức Hội thi cán bộ
Hội cơ sở giỏi. Hội thi vừa góp phần tuyên truyền các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa bổ sung kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ cho cán bộ Hội, phổ biến những kinh nghiệm hoạt động của Hội,
vừa động viên khen thưởng những cán bộ Hội giỏi có năng lực để tạo nên
phong trào thi đua sôi nổi giữa các cán bộ Hội trong toàn quận.
3.2.2.4. Tăng cường các hoạt động tự quản của Hội
Thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW Ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, yêu cầu tăng cường công tác
quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước. Chỉ
thị nêu rõ: “Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân,
cán bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những
công việc mang tính xã hội hoá, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị
(như việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, xây dựng tổ hoà giải, tổ
an ninh, phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người
nghèo…)”; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Cần khắc phục cách nhìn nhận đơn giản tổ chức Hội cấp cơ sở hoàn toàn
là cấp dưới, trực thuộc và chịu sự chỉ đạo mọi mặt của tổ chức Hội cấp trên.
Xác định rõ vị trí độc lập tương đối của Hội LHPN cơ sở đối với việc
quyết định các công việc của địa phương trong phạm vi quyền tự chủ theo
luật định và nhu cầu của chế độ tự quản cộng đồng dân cư trên địa bàn.
77
Cần tạo cơ chế tự chủ về tài chính ngân sách và các nguồn lực qua đó
nhằm giảm gánh nặng về ngân sách hoạt động tại cơ sở, tạo điều kiện cơ sở
chủ động trong mọi hoạt động, nhiệm vụ, thực hiện tốt các công việc phục vụ
trực tiếp nhu cầu của hội viên, phụ nữ trên địa bàn.
Tạo cơ chế pháp lý để hội viên phụ nữ tại địa phương trực tiếp bầu, bãi
miễn tổ chức Hội của họ và tổ chức này chịu trách nhiệm trực tiếp trước hội
viên phụ nữ về tính hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành.
78
Tiểu kết Chương 3
Nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ trên
địa bàn quận Bắc Từ Liêm cũng như cán bộ nói chung tức là đều đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Những người cán bộ, quản lý là những người được đào
tạo, bồi dưỡng để có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có
kiến thức chuyên môn, có trách nhiệm với công việc được giao phó, khả năng
xây dựng khối đại đoàn kết để phát huy sức mạnh tập thể...đó là mục tiêu
cũng là mong muốn của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong Chương 3, tác giả dựa vào những hạn chế hiện tại của đội ngũ
cán bộ Hội LHPN trên toàn địa bàn quận cũng như nhận định chung của các
văn bản pháp luật của nhà nước và văn kiện Đảng, đề xuất phương hướng và
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý đối với đội ngũ
cán bộ hội phụ nữ nói riêng và cán bộ nói chung.
Thực hiện hai nhóm giải pháp chính là về tổ chức bộ máy và về hoạt
động cùng với bốn giải pháp hoạt động cụ thể nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý đối với đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ hiện nay.
79
KẾT LUẬN
Công tác cán bộ là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước
Việt Nam quan tâm. Ngay từ nhà nước Việt Nam mới ra đời, chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã căn dặn “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Công
việcthành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã
ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược cán bộ
đã xác định phương hướng cơ bản, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
những giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020. Và trong suốt
20 năm qua, xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng; có đức có tài đã
được khảng định qua nhiều nghị quyết của Đảng.
Công tác phụ nữ hiện nay là một khâu rất quan trọng trong công cuộc
vận động quần chúng của Đảng. Để thực hiện được điều này trước hết đội ngũ
cán bộ Hội cần năng động, nhiệt tình, sáng tạo, có năng lực, trình độ chuyên
môn để thu hút, tập hợp các tầng lớp phụ nữ tham gia thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và những yêu cầu của Đảng
đặt ra đối với phụ nữ chúng ta.
Hoàn thiện quản lý đối với đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ trên
địa bàn quận Bắc Từ Liêm cần phải làm tốt nhiều giải pháp, nhiều việc chủ
yếu đã trình bày ở trên. Những giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý về công tác cán bộ không thể tiến hành riêng rẽ, biệt lập mà phải có
sự phốihợp chặt chẽ trong hoạt động của các cấp ủy đảng, chính quyền và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Vấn đề quyết định để thực hiện tốt các giải pháp là nâng cao nhận
thứcvà sự quan tâm thực sự đến chất lượng quản lý đối với đội ngũ cán bộ hội
phụ nữ của các cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội,
80
cán bộ, côngchức, viên chức toàn quận. Có được yếu tố này mọi khó khăn sẽ
được khắcphục và các giải pháp khác sẽ được thực hiện tốt.
Vì vậy, trong thời gian tới, Hội Liên hiệp phụ nữ quận Bắc Từ Liêm cần
thực hiện đồng bộ những giải pháp nêu trên nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Hội
từ quận tới cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức và
năng lực tốt, đảm bảo đủ về số lượng và đồng bộ về cơ cấu, có tính kế thừa
giữa các thế hệ nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quả lý nhà nước ở cơ sở góp
phần làm cho quận Bắc Từ Liêm trở thành đô thị giàu đẹp – văn minh./.
81
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Anh (2017), Luận văn Tiến sĩ, Chất lượng nguồn nhân lực
đội ngũ cán bộ Hội phụ nữ cơ sở hiện nay.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết
số 11-NQ/TW ngày 12/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết
số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1967), Nghị quyết số 152-
NQ/TW ngày 10/01/1967 về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận
5. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1984), Chỉ thị số 44-
CT/TW ngày 7/6/1984 về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ.
6. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết số
04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ
nữ trong tình hình mới.
7. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Chỉ thị số 37-
CT/TW ngày 16/5/1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới.
8. Ban Bí thư (2015) thông báo kết luận, Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong
tình hình mới,
9. Ban Tổ chức Trung ương Hội LHPN Việt Nam (2014), Báo cáo một số giải
pháp nâng cao năng lực cán bộ hội và phát triển hội viên.
10. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Quản lý học KTQD- Tập 1- NXB
KHKT-2001
82
11. Nguyễn Thanh Bình (2018), Tạp chí cộng sản, Nâng cao hiệu quả công
tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ hiện nay,
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Đại hội X của Đảng
13. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Nghị quyết Đại hội IX của Đảng
14. Đảng Cộng sản Việt Nam(2016), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, H.2016
16. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995
17. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2002
18. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2011), Đánh giá thực trạng và đề xuất
phương hướng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam
19. Hội LHPN Việt Nam (2011), Báo cáo đánh giá thực trạng và đề xuất
phương hướng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN
Việt Nam.
20. Hội LHPN Việt Nam (2012), NXB Phụ nữ, Hà Nội, Văn kiện Đại hội đại
biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI.
21. Hội LHPN Việt Nam (2013), Chương trình hành động số 60/CTrHĐ-
BCH ngày 25/3/2013 về thực hiện khâu đột phá nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ Hội LHPN các cấp, nhiệm kỳ 2012 – 2017.
22. Hội LHPN Việt Nam (2015), Hướng dẫn số 21/HD-ĐCT ngày 19/11/2015
về Công tác nhân sự để bầu Ban Chấp hành tại Đại hội và bầu Ban Thường vụ,
các chức danh chủ chốt tại kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp hành.
23. Hội LHPN Việt Nam, Nhà xuất bản Phụ nữ, Điều lệ Hội LHPN Việt
Nam khóa XII
24. Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm (2016), Báo cáo công tác Hội phụ nữ Quận
Bắc Từ Liêm.
83
25. Hội LHPN thành phố Hà Nội (2016), Nghiên cứu, đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động của Hội LHPN TP Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
26. Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm (2017), Báo cáo công tác Hội phụ nữ Quận
Bắc Từ Liêm.
27. Hội LHPN quận Bắc Từ Liêm (2018), Báo cáo công tác Hội phụ nữ Quận
Bắc Từ Liêm.
28. Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất
lượng cao hiện nay.
29. Lê Thị Mỹ Hạnh (2013), Luận văn cao cấp lý luận chính trị - hành chính,
Một số giải pháp nhằm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
30. Tạ Ngọc Hải (2013), Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Đánh giá thực
trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ,
công chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà nước,
31. Lương Thu Hiền (2013), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tăng
cường sự tham gia lãnh đạo, quản lý của nữ giới trong khu vực hành chính
công ở Việt Nam,
32. Nguyễn Thị Vân Hạnh (2014), NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội,
Phụ nữ và quản lý.
33. Đinh Thị Việt Hà (2014), Luận văn thạc sĩ, “Nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ quận Long Biên, thành phố Hà Nội”
34. Phan Trọng Hào (2018), Tạp chí Lý luận Chính trị, Thực trạng và giải
pháp nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ
35. Lê Thị Hoài Nam (2015), Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Nghệ An, Thực trạng và
một số giải pháp nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị
tỉnh Nghệ An.
84
36. Nguyễn Thị Phượng (2016), Luận văn Tiến sĩ, Vai trò của Hội Liên hiệp
phụ nữ tỉnh Hải Dương trong xóa đói, giảm nghèo hiện nay.
37. Quốc Hội (2008), Luật Cán bộ - Công chức
38. Quận ủy Bắc Từ Liêm (2019), Đề án số 17-ĐA/QU, ngày 11/10/2019
vè sắp xếp, bố trí kiêm nhiệm các chức danh người hoạt động không
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và thôn, tổ dân phố trên địa bàn quận
Bắc Từ Liêm.
39. Trần Tiến Quân (2013), Tạp chí quản lý Nhà nước (206), Tr51-54, Một số
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ở nước ta hiện nay.
40. Lê Minh Sơn (2017), Viện Khoa học và Công nghệ quân sự - Bộ Quốc
phòng, Giải pháp đổi mới công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
41. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 189/QĐ – TTg ngày
14/11/2012 Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp
giai đoạn 2013 – 2017.
42. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 1893/QĐ-TTg “Phê duyệt
Đề án Bồi dưỡng cán bộ, công chức Hội LHPN các cấp, chi hội trưởng phụ
nữ giai đoạn 2019 – 2025”
43. Trung ương Hội LHPN Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu
phụ nữ toàn quốc lần thứ XII
44. Thành ủy Hà Nội (2019), Đề án số 21-ĐA/TU, ngày 16/9/2019 về sắp
xếp, bố trí kiêm nhiệm các chức danh người hoạt động không chuyên trách ở
xã, phường, thị trấn và thôn, tổ dân phố trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
45. Nguyễn Đình Tấn (2005), Tạp chí Nghiên cứu con người (6), tr 37-44, Đề
xuất một số quan điểm về tăng cường năng lực lãnh đạo của các cán bộ lãnh
đạo nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
46. Nguyễn Thế Thuấn (2007), Tạo chí giáo dục lý luận (9), tr. 22-24, Mấy
suy nghĩ về vấn đề chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
85
47. Nguyễn Thế Trung (2011), Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận
Trung ương, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ
nữ trong tình hình hiện nay.
48. Văn Tất Thu (2012), Tạp chí Cộng sản ngày 31/10/2012, “Nâng cao chất
lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”
49. Trần Quang Tiến (Chủ biên) (2016), NXB Thanh niên, Thực trạng, chính
sách và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam.
50. Lưu Kiếm Thanh (2019) – Học viện hành chính quốc gia, Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức nữ góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam.
51. Hà Thị Thanh Vân (2015), Học viện Phụ nữ Việt Nam, Những vấn đề lý
luận về công tác phụ nữ ở Việt Nam trong tình hình mới,.
52. Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ (2019), Đánh giá thực trạng,
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công
chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà nước.
53. Dương Thị Xuân (2009), Hội LHPN Việt Nam, Vai trò, trách nhiệm của
Hội LHPN Việt Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
86