BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............./............. BỘ NỘI VỤ ....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG MINH NHÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
ĐẮK LẮK, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............./............. BỘ NỘI VỤ ....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG MINH NHÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ ĐỨC NIÊM
ĐẮK LẮK, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm
bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Hoàng Minh Nhân
i
LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế, không có sự thành công nào mà không gắn liền với những
sự hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác.
Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại trường đến nay, tôi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn
quý thầy cô Học viện Hành chính Quốc gia đã cùng với tri thức và tâm huyết
của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học
tập. Chân thành cảm ơn cán bộ, thầy cô của Phân viện Tây Nguyên - Học viện
Hành chính Quốc gia đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học này. Và đặc biệt, xin
trân trọng cảm ơn PGS. TS. Lê Đức Niêm, thầy đã dành nhiều thời gian, công
sức tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu và
tận tình giúp đỡ trong thời gian thực hiện đề tài. Nếu không có những hướng
dẫn, dạy bảo của các thầy, các cô thì bản thân rất khó có thể hoàn thiện được
đề tài này.
Nhân đây, tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo Huyện ủy, HĐND, UBND huyện
Cư Kuin; lãnh đạo Văn phòng Huyện ủy, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện
Cư Kuin và các phòng, ban chuyên môn của huyện đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình khảo sát, thu thập thông tin thực hiện luận văn này.
Đắk Lắk, ngày 12 tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Minh Nhân
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU NGUYÊN NGHĨA
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á 1
BVMT Bảo vệ môi trường 2
GCNKTTT Giấy chứng nhận kinh tế trang trại 3
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 4
GTSLHH Giá trị sản lượng hàng hóa 5
6 HĐND Hội đồng nhân dân
7 HTX Hợp tác xã
8 KTTT Kinh tế trang trại
9 KHCN Khoa học công nghệ
10 MTTQ Mặt trận Tổ quốc
11 ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
12 PTNT Phát triển nông thôn
13 QLNN Quản lý nhà nước
14 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
15 UBND Ủy ban nhân dân
16 WB Ngân hàng Thế giới
17 XHCN Xã hội chủ nghĩa
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT BẢNG NỘI DUNG TRANG
1 Bảng 2.1 122 Số lượng và loại hình trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
2 Bảng 2.2 122 Diện tích đất của trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
3 Bảng 2.3 123 Tình hình vốn của trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin năm 2017
4 Bảng 2.4 123 Tình hình lao động của trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
5 Bảng 2.5 124 Tổng giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại năm 2017
6 Bảng 2.6 Tổng thu nhập của trang trại năm 2017 124
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
STT NỘI DUNG TRANG
HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
1 Hình 2.1 Bản đồ hành chính huyện Cư Kuin 40
2 Hình 3.1 99 Mô hình liên kết giữa nông dân và trang trại
3 Hình 3.2 100 Mô hình liên kết “5 nhà” dạng lưới trong phát triển KTTT
4 Biểu đồ 2.1 125 Cơ cấu các loại hình trang trại huyện Cư Kuin năm 2017
5 Biểu đồ 2.2 Nguồn gốc vốn của các trang trại 125
6 Biểu đồ 2.3 126 Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng vốn đầu tư của các trang trại
7 Biểu đồ 2.4 126 Tỷ lệ đáp ứng nhu cầu vay của các trang trại
8 Biểu đồ 2.5 127 Trình độ của chủ trang trại huyện Cư Kuin
9 Biểu đồ 2.6 127 Quy mô lao động của các trang trại huyện Cư Kuin
10 Biểu đồ 2.7 128
Giá trị sản lượng hàng hóa và thu nhập bình quân của các loại hình trang trại huyện Cư Kuin năm 2017
11 Sơ đồ 2.1 68 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại huyện Cư Kuin
v
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. iv
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ .............................................. v
MỤC LỤC ....................................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI .................................................................................................. 9
1.1. Cơ sở khoa học về kinh tế trang trại .......................................................... 9
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại ..................................................... 17
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý về kinh tế trang trại .............................. 32
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK 40
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk .................................................................................................... 40
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk .......................................................................................... 44
2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 78
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK ....................................................................... 86
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại của huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................................... 86
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ......................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................. 112
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 118
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn tên đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua
ngành nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, tạo động lực mới trong sự phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông
dân, các trang trại đã được hình thành thông qua đầu tư vốn, thuê mướn thêm
lao động với trình độ công nghệ và quản lý cao hơn nhằm mở rộng quy mô sản
xuất hàng hóa và nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế
thị trường.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại thực sự phát triển mạnh mẽ cùng
với quá trình đổi mới trong sản xuất nông nghiệp. Mốc khởi điểm là năm 2000,
khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về
kinh tế trang trại sự phát triển của kinh tế trang trại góp phần khai thác thêm
nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trồng từ đồi núi trọc, đất
hoang hóa. Sự hình thành của các trang trại đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao
động nông thôn góp phần xóa đói giảm nghèo thông qua việc gia tăng giá trị
nông sản hàng hóa. Một số trang trại tập trung vào sản xuất và cung ứng giống
tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng nên đã
tạo ra hiệu ứng rộng. Như vậy, kinh tế trang trại là một hướng đi đúng đắn và
đã có những bước phát triển mạnh mẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp
và nông thôn nước ta phát triển, khai thác đầy đủ hơn các tiềm năng và nguồn
lực về đất đai, vốn và lao động. Từ đó, loại hình kinh tế này đã góp phần không
nhỏ vào Chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững và Chương
trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng Nông thôn mới của Chính phủ.
Tuy nhiên, kinh tế trang trại hiện nay vẫn chưa phát triển bền vững, chưa
tương xứng với những tiềm năng, thế mạnh của các vùng, miền trong cả nước.
Hơn nữa, kinh tế trang trại chưa tạo ra bước đột phá trong việc đầu tư khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp,
1
chưa đóng góp thỏa đáng vào việc mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá, nâng cao
năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh các mặt hàng nông sản mang tính hàng hoá
trong điều kiện thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại, vai trò quản
lý của Nhà nước là hết sức quan trọng. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là chủ thể
quản lý của nền kinh tế, chủ thể quản lý xã hội, mới có thể chủ động tạo ra môi
trường kinh tế và pháp lý phù hợp cho kinh tế trang trại có điều kiện hình thành
và phát triển.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh
tế của Đảng, nhà nước nói chung, Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày
02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại, Nghị quyết số 06/NQ-HĐND
ngày 10/07/2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk về một số chính sách
phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2010 - 2015 nói riêng, kinh
tế trang trại huyện Cư Kuin đã có bước phát triển đáng khích lệ, tạo sự chuyển
biến tích cực về mặt kinh tế, xã hội và môi trường nông nghiệp, nông thôn của
địa phương. Tuy nhiên, trong thời gian qua kinh tế trang trại huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk phát triển còn mang tính tự phát, chưa bền vững, những kết quả
đạt được trong phát triển kinh tế trang trại chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế của huyện. Những tồn tại, hạn chế về công tác quản lý nhà nước đối với
kinh tế trang trại cần được xem xét, trong đó việc lựa chọn mô hình kinh tế
trang trại phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên của huyện
là đòi hỏi khách quan và cấp thiết được đặt ra.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, chúng tôi xin chọn đề tài: “Quản lý nhà nước
về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn
thạc sỹ quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, ở nước ta có rất nhiều cơ quan, nhà khoa học,
nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về kinh tế trang trại và quản lý nhà nước
2
đối với kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại đã góp phần tạo ra một bước tiến
quan trọng trong sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội ở
nông thôn Việt Nam. Nhiều đề tài, bài viết, hội nghị đã giới thiệu những mô
hình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả; đồng thời đưa ra các biện pháp, giải
pháp để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại trong thời gian tới. Về vai
trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trang trại cũng đã có một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
Đề tài cấp Nhà nước “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang
trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do Thủ tướng
Chính phủ giao cho Trường Đại học Kinh tế quốc dân chủ trì nghiên cứu năm
1999 - 2000, (Nguyễn Đình Hương làm chủ nhiệm), là công trình nghiên cứu
công phu và đồ sộ nhất về kinh tế trang trại ở Việt Nam cho đến thời điểm này.
Trên cơ sở điều tra 3.044 trang trại và phỏng vấn 3.044 chủ trang trại, 756 cán
bộ các cấp ở 15 tỉnh, thành phố đại diện cho 7 vùng kinh tế sinh thái trong cả
nước, công trình này đã phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế trang trại ở nước
ta đến năm 2000, đồng thời đề xuất các quan điểm và hệ thống giải pháp đồng
bộ nhằm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề tài đã đề xuất một số giải pháp cụ thể về đất đai, về vốn, về phát triển nguồn
nhân lực, về thị trường, về khoa học - công nghệ, về phát triển hạ tầng nông thôn,
về phát triển công nghiệp chế biến và tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế
trang trại. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng đã được xuất bản thành sách “Thực
trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam” do Nguyễn Đình Hương làm chủ biên [15].
Đề tài cấp Nhà nước: “Phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại gắn với
xóa đói giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên” thuộc chương trình Tây Nguyên
3 do Nguyễn Đức Đồng làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu phát triển bền vững
vùng, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) là cơ quan chủ
trì, thực hiện trong giai đoạn 2013 - 2014. Đề tài làm rõ đặc điểm, xu hướng
3
phát triển của kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở Tây Nguyên từ Đổi mới đến
nay. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại gắn
với xóa đói giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2015 - 2020, tầm nhìn 2030. Đề
tài đóng góp phần hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về phát triển kinh tế hộ, kinh tế
trang trại gắn với xóa đói giảm nghèo bền vững. Nhận diện, đánh giá đặc điểm,
xu hướng phát triển của kinh tế hộ, kinh tế trang trại ở Tây Nguyên từ Đổi mới
đến nay, phát hiện những hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra. Làm
rõ vai trò, vị trí của kinh tế hộ, kinh tế trang trại trong phát triển kinh tế - xã hội
và xóa đói giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên. Xây dựng hệ thống quan điểm
định hướng và giải pháp phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại gắn với xóa đói
giảm nghèo bền vững ở Tây Nguyên, giai đoạn 2015 - 2020.
Hà Hoàng Dũng (2015), Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện
Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Đề tài
góp phần đưa ra những căn cứ và cơ sở khoa học cũng như những giải pháp cụ
thể đáp ứng các yêu cầu bức thiết cho quy hoạch phát triển kinh tế trang trại,
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở
để xây dựng chương trình khuyến nông, khuyến lâm và các chính sách hỗ trợ
nhằm hướng dẫn các trang trại áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ trên
địa bàn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk [5].
Phan Ấn Quốc (2011), Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh
Kon Tum, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Đề tài đã hệ thống hoá
cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại; đánh giá thực trạng
phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu tố trở ngại và những tiềm
năng để phát triển kinh tế trang trại tại tỉnh Kon Tum; phân tích hoạt động kinh
tế trang trại tại tỉnh Kon Tum, từ đó tìm ra được những nguyên nhân trực tiếp
và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại trên địa
bàn tỉnh Kon Tum thời gian tới [21].
4
Trần Thị Nga (2016), Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh
tế (Đại học Quốc gia Hà Nội). Đề tài đã khái quát những vấn đề lý luận về kinh
tế trang trại, quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại và từ kinh nghiệm của
các nước trên thế giới, ở một số địa phương nước ta đối với phát triển kinh tế
trang trại để rút ra những bài học có thể vận dụng vào quá trình đổi mới quản
lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ở nước ta nói chung và trên địa bàn huyện
Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, tác
giả cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; từ đó đề xuất phương
hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối
với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc [19].
Có thể nhận thấy rằng cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu về kinh tế trang trại ở các khía cạnh khác nhau. Các công trình nghiên cứu
này đã tập trung vào phân tích vai trò và các vấn đề của kinh tế trang trại ở hai
khía cạnh lý luận và thực tiễn trên phạm vi quốc gia và địa phương, đồng thời
đưa ra những kiến nghị và giải pháp để phát triển kinh tế trang trại ở nước ta và
một số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một đề tài nghiên
cứu nào đề cập tới công tác quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Vì vậy, đề tài luận văn này tiếp tục hướng nghiên cứu về các giải pháp
quản lý nhà nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk là cần thiết, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ và vận dụng những vấn đề lý luận kết hợp nghiên cứu
thực tiễn về quản lý nhà nước về kinh tế trang trại ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk
Lắk, luận văn đề xuất một số giải pháp quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
5
nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai, lao động, vốn và áp dụng các
tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất trên cơ sở bảo vệ tốt môi trường;
từng bước thay đổi tập quán sản xuất nhỏ, manh mún, tiến tới nền sản xuất nông
nghiệp hàng hóa với quy mô lớn, chất lượng cao và đủ sức cạnh tranh trong cơ
chế thị trường của các trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế trang trại và
quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk để xác định những mặt đạt được,
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của chúng trong quản lý nhà nước về
trang trại ở địa phương.
- Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế trang
trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là mô hình kinh tế trang trại, công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang
trại và việc tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về kinh tế trang trại tại huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Giai đoạn 2014 - 2017.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; hệ thống hóa các văn bản của Nhà nước
6
có liên quan đến kinh tế trang trại. Luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, Luận văn sử dụng chủ yếu các phương
pháp sau:
+ Phương pháp phân tích hệ thống
+ Phương pháp thống kê - phân tích
+ Phương pháp điều tra xã hội học
+ Phương pháp so sánh - đánh giá
Nguồn số liệu:
+ Số liệu thứ cấp: Thu thập tại các bảng, biểu thống kê, báo cáo hàng
năm tại Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Thống
kê huyện Cư Kuin.
+ Số liệu sơ cấp: Tác giả tổng hợp kết quả tại các phiếu điều tra để hình
thành nguồn số liệu (xem Phụ lục I).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài nghiên cứu đóng góp những lý luận cơ bản về kinh tế trang trại và
quản lý nhà nước về kinh tế trang trại. Luận văn còn là ý kiến đề xuất, kiến nghị
đối với các nhà xây dựng chính sách của Nhà nước cũng như của huyện Cư
Kuin và tỉnh Đắk Lắk trong quá trình phát triển kinh tế trang trại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần xây dựng các mô hình phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Đồng thời, luận văn còn đóng góp
những đề xuất quan trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các
ngành của huyện Cư Kuin trong điều hành chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
8
Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1. Cơ sở khoa học về kinh tế trang trại
1.1.1. Khái niệm trang trại và kinh tế trang trại
1.1.1.1. Khái niệm về trang trại
Khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, các nhà kinh tế chủ yếu tập trung
vào đối tượng là hộ nông dân với quy mô sản xuất nhỏ, ít thuê mướn lao động.
Tuy nhiên, khi các hộ nông dân tích lũy đủ vốn họ bắt đầu mở rộng quy mô,
thuê mướn lao động các trang trại được hình thành một cách tự nhiên. Chính vì
vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về trang trại, kinh tế trang trại cũng như các
tiêu thức để phân biện giữa kinh tế trang trại và kinh tế hộ quy mô lớn.
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn, trang trại được hiểu
một cách khái quát là “Trại lớn sản xuất nông nghiệp” [20, tr.1023]. Trong các
tài liệu nghiên cứu về kinh tế, trang trại thường gắn với ngành sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp gọi là “nông trại”, “lâm trại”, “ngư trại” để phân biệt chuyên
ngành sản xuất của các trang trại.
Theo Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, tác giả đã
đưa ra khái niệm về trang trại “là một hình thức tổ chức sản xuất tập trung trong
nông, lâm, thủy sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, có quy mô
ruộng đất và các yếu tố sản xuất đủ lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và
quản lý hiện đại” [22].
Theo Trần Hai (2000), “Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông
nghiệp dựa trên cơ sở lao động và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách
pháp nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh bình đẳng với các thành phần khác, có
chức năng chủ yếu là sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra nguồn thu nhập chính
và đáp ứng nhu cầu cho xã hội” [11].
Theo Nguyễn Đình Hương (2000), “Trang trại là đơn vị kinh tế sản xuất
nông nghiệp (bao gồm cả nông - lâm - thủy sản) của một người chủ trang trại.
9
Họ vừa là người làm chủ về ruộng đất, làm chủ về tư liệu sản xuất, vừa là người
tổ chức sản xuất kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất
kinh doanh của mình, với mục đích chính là sản xuất hàng hóa và một phần sản
phẩm được sử dụng cho tiêu dùng của gia đình” [15].
Theo Trần Đức (1998), “Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ
sở trong nông lâm, thuỷ sản, có mục đích sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành
trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao,
hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường” [10].
Theo Nguyễn Điền và cộng sự (1993), “Trang trại gia đình, thực chất là
kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, sử dụng lao động, tiền vốn của
gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả” [8].
Kế thừa các quan điểm trên, tác giả luận văn cho rằng: “Trang trại là
đơn vị kinh tế cơ sở trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; với mục đích chủ
yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng của chủ thể độc lập. Sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và
các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn, với cách thức tổ chức quản
lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”.
1.1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại
Trong thời gian qua những vấn đề lý luận về kinh tế trang trại đã được
các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu trong các công
trình khoa học đã được công bố, trao đổi trên các diễn đàn và các phương tiện
thông tin đại chúng. Cho đến nay một số vấn đề cơ bản về kinh tế trang trại vẫn
tiếp tục được nghiên cứu, trao đổi và hoàn thiện. Thực tế hiện nay ở nước ta
còn có một số khái niệm khác nhau về kinh tế trang trại:
Theo Ngô Xuân Toàn, Đỗ Thanh Vinh (2014), “Kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất trong Nông-Lâm-Ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản
xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của
10
một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các
yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và
trình độ kỹ thuật cao hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường” [23].
Theo Phan Công Chung (2006), “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức
kinh tế cơ sở, là doanh nghiệp trực tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hóa
dựa trên cơ sở hiệp tác và phân công lao động xã hội, được chủ trang trại đầu
tư vốn, thuê mướn phần lớn hoặc hầu hết sức lao động kinh doanh theo yêu cầu
của nền kinh tế thị trường, được Nhà nước bảo hộ theo luật định [4].
Theo Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lí trang trại trong kinh tế thị
trường: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất
xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội, bao gồm một số
người lao động nhất định, được chủ trang trại tổ chức trang bị những tư liệu sản
xuất nhất định để tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế thị trường và được Nhà nước bảo hộ theo luật định” [24].
Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ nêu rõ
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp,
nông thôn, chủ yếu dựa vào gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu
quả sản xuất trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản” [2].
Từ thực tiễn và các quan điểm trên, theo tác giả luận văn, kinh tế trang
trại có thể hiểu như sau: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng
hóa trong nông nghiệp, nông thôn, được hình thành và phát triển chủ yếu trên
cơ sở kinh tế hộ gia đình nhưng có mức độ tích tụ và tập trung cao hơn về đất
đai, vốn, lao động, kỹ thuật… nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa nông sản lớn
hơn, có lợi nhuận cao hơn theo yêu cầu của kinh tế thị trường, có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
11
1.1.2. Các loại hình kinh tế trang trại
Hiện nay, ở nước ta đã hình thành nhiều mô hình trang trại như trang trại
trồng trọt, trang trại chăn nuôi, trang trại lâm nghiệp, trang trại nuôi trồng thủy
sản, trang trại tổng hợp… Việc hình thành nhiều mô hình trang trại đã góp phần
nâng cao hiệu quả đầu tư, khai thác và sử dụng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang
hóa, ao, đầm, bãi bồi ven sông… để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng
chuyên canh với tỷ suất hàng hóa cao. Đồng thời, việc hình thành nhiều mô
hình trang trại cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả mô hình trang trại sử dụng
ít đất, sử dụng nhiều lao động, có tính thâm canh cao gắn với chế biến, thương
mại, dịch vụ, làm ra hàng hóa nông sản có giá trị kinh tế lớn.
Từ đó, ta có thể phân loại các hình thức trang trại như sau:
- Trang trại trồng trọt: Là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiến bộ
trên cơ sở chuyên môn hóa, hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, có điều kiện
ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào hoạt động, trong việc gieo trồng,
chăm sóc, thu hoạch nông sản từ các cây trồng để phục vụ đời sống của mình
và xã hội.
- Trang trại chăn nuôi: Đây cũng là một hình thức tổ chức sản xuất kinh
tế trong nông nghiệp, với nông sản hàng hóa là sản phẩm của chăn nuôi đại gia
súc, gia cầm… Nó có trình độ sản xuất, quy mô và năng lực sản xuất đáp ứng
được nhu cầu sản phẩm hàng hóa như thịt, trứng, sữa… trên thị trường, phù
hợp với sự phát triển kinh tế thị trường hiện nay.
Trang trại chăn nuôi có thể coi là một trụ cột lớn của hệ thống kinh tế
trang trại nói chung. Khác với các ngành sản xuất khác (trồng trọt, lâm nghiệp,
thủy sản…), trang trại chăn nuôi ít phụ thuộc vào các điều kiện đất đai, khí
tượng, thời tiết; mà phụ thuộc chính vào điều kiện chăm sóc, chăn nuôi của các
trang trại. Sản phẩm của các trang trại chăn nuôi phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu
dùng của đại đa số người dân.
12
- Trang trại lâm nghiệp: Là loại hình trang trại thực hiện cung cấp một
trong các sản phẩm sau:
+ Cung cấp lâm sản, đặc sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, trước
hết là gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
+ Cung cấp động vật, thực vật là đặc sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
các tầng lớp dân cư.
+ Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và cho xây dựng cơ bản.
+ Cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức
khỏe cho người dân.
+ Cung cấp lương thực, nguyên vật liệu chế biến thực phẩm phục vụ nhu
cầu đời sống xã hội.
- Trang trại nuôi trồng thủy sản: Cũng là một hình thức của kinh tế trang
trại, khác với kinh tế hộ gia đình, nó quy mô và tính chất sản xuất lớn hơn
nhiều. Tính chất sản xuất chủ yếu của trang trại nuôi trồng thủy sản là sản xuất
thực phẩm và có thể thành hàng hóa (nếu đem bán), tức là sản xuất nhằm mục
đích để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, trang trại nuôi trồng thủy
sản cũng có chức năng sản xuất ra sản phẩm cho tiêu dùng trong nông hộ và
gia đình.
- Trang trại tổng hợp: Là loại hình trang trại kết hợp các loại hình trang
trại kể trên, có thể vừa trồng trọt kết hợp chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và lâm
nghiệp. Loại hình này ở nước ta đã hình thành từ lâu, trên cơ sở phát triển các
mô hình VAC (vườn, ao, chuồng) hay VACR (vườn, ao, chuồng, rừng).
1.1.3. Các đặc trưng chủ yếu và tiêu chí xác định kinh tế trang trại
1.1.3.1. Các đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại
- Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp,
được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính chất sản xuất hàng hoá
rõ rệt, đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá lớn hơn và thu được lợi nhuận
nhiều hơn.
13
- Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của
một người chủ. Trang trại hoàn toàn có quyền tự chủ trong tổ chức hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Kinh doanh sản xuất nông sản hàng hóa cho thị trường, tỷ suất hàng
hóa càng cao, càng thể hiện bản chất và trình độ phát triển kinh tế trang trại.
- Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô đất đai được tập
trung đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, chuyên canh và thâm
canh, nhưng không vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất trên đồng ruộng
hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.
- Cách thức tổ chức và quản lý đi dần vào phương thức kinh doanh song trực
tiếp, đơn giản và gọn nhẹ vừa mang tính gia đình, vừa mang tính doanh nghiệp.
- Trình độ áp dụng khoa học - kỹ thuật cao hơn nhiều so với hộ tiểu nông.
Mức độ đầu tư công nghệ và trình độ công nghệ được các trang trại đưa vào sử
dụng ngày càng cao thể hiện ở các biện pháp kỹ thuật mới, tiên tiến được áp
dụng ngày càng nhiều nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để có
sức cạnh tranh trên thị trường.
- Chủ yếu sử dụng lao động của gia đình, việc thuê mướn lao động chỉ
phát sinh khi thực sự cần thiết với quy mô hạn chế, với một số trang trại tương
đối lớn, việc thuê mướn lao động trở thành thường xuyên, với quy mô lớn hơn.
- Chủ trang trại là nhà kinh doanh, là người có ý chí và tham vọng làm
giàu, có năng lực tổ chức, quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh, về thị trường, có mối
quan hệ chặt chẽ với thị trường.
- Đối với kinh tế trang trại, việc hạch toán dưới hình thức giá trị là cần
thiết, hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn gắn chặt với thị trường, lấy thị trường
và lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Kinh tế trang trại còn có đặc trưng thể hiện sự phát triển cao hơn về
chất so với kinh tế nông hộ, điểm khác chủ yếu giữa kinh tế nông hộ với kinh
14
tế trang trại là mục tiêu và quy mô sản xuất hàng hoá; sản xuất hàng hoá là đặc
trưng có tính bản chất của kinh tế trang trại.
1.1.3.2. Các tiêu chí xác định kinh tế trang trại
Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày
13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về tiêu chí và
thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại thì:
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
* Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp:
- Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
+ 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
+ 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
- Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
* Đối với cơ sở chăn nuôi:
Giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên;
* Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp:
Diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500
triệu đồng/năm trở lên.
1.1.4. Vai trò của kinh tế trang trại
- Thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, góp phần đưa nông nghiệp từng
bước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với cách thức tổ chức sản xuất và
quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải, áp dụng
thành tựu, các tiến bộ khoa học công nghệ đến hộ nông dân thông qua chính
hoạt động sản xuất của mình.
- Vai trò huy động khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu
cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu. Vì vậy, nó cho phép huy động
khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực khác một cách hợp lý, đầy đủ và
15
có hiệu quả. Nhờ vậy nó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
- Trang trại với hiệu quả sản xuất cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, khắc phục dần
tình trạng manh mún, tạo vùng chuyên môn hóa cao, đẩy nhanh nông nghiệp
sang sản xuất hàng hóa.
- Kinh tế trang trại tạo ra nhiều nông sản, nhất là các nông sản làm nguyên
liệu cho công nghiệp. Vì vậy, trang trại góp phần thúc đẩy công nghiệp nhất là
công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn phát triển.
- Kinh tế trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ, nên
có khả năng áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản
xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
- Xét từ góc độ phát triển bền vững, vai trò và hiệu quả phát triển kinh tế
trang trại được đánh giá, nhìn nhận trên cả ba mặt đó là: hiệu quả về kinh tế, xã
hội và môi trường.
+ Về mặt kinh tế:
Kinh tế trang trại tạo ra bước chuyển biến về giá trị sản phẩm hàng hóa
và thu nhập của trang trại vượt trội hẳn so với kinh tế hộ, khắc phục dần tình
trạng sản xuất phân tán, manh mún tạo nên những vùng chuyên môn hóa, tập
trung hàng hóa và thâm canh cao. Mặt khác qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn, góp phần tích cực thúc đẩy
sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn.
+ Về mặt xã hội:
Kinh tế trang trại thu hút lao động, hạn chế bớt làn sóng di cư từ nông
thôn ra thành thị, làm giảm áp lực đối với xã hội. Phát triển kinh tế trang trại
làm tăng hộ giàu ở nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người
16
lao động và dân cư ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát
triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
Ngoài ra, việc phát triển kinh tế trang trại còn góp phần đảm bảo an ninh
lương thực, thực phẩm. Mặc dù đóng góp của ngành nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế có giảm về tỷ trọng một cách tương đối nhưng giá trị tuyệt đối đóng góp
lại không giảm mà ngày càng tăng lên.
+ Về mặt môi trường:
Kinh tế trang trại góp phần cải tạo môi trường sống và bảo vệ môi trường
sinh thái. Kinh tế trang trại góp phần sử dụng đất đai, nguồn nước hợp lý, tiết
kiệm. Sự áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong các trang trại giúp cho
việc bảo vệ đất đai khỏi bị ô nhiễm, thoái hóa, tiết kiệm nước và hạn chế ô
nhiễm nguồn nước.
Đối với trang trại chăn nuôi, người chăn nuôi vẫn phải đối mặt với tình
trạng chất thải của gia súc, gia cầm gây ô nhiễm môi trường nhưng hiện nay
với kỹ thuật hầm biogas, sử dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi… đã cùng
lúc giải quyết vấn đề nguồn năng lượng, nhiên liệu dùng trong gia đình và lượng
phân hữu cơ phục vụ cho nhu cầu phân bón của trang trại. Đây là một kỹ thuật
phù hợp với mọi loại hình trang trại chăn nuôi.
Ba mặt trên của trang trại (kinh tế, xã hội, môi trường) có mối quan hệ
chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Sự kết hợp hài hòa ba mặt này đảm bảo
cho kinh tế trang trại phát triển bền vững.
1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực
hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng
CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN [12].
17
Từ khái niệm quản lý nhà nước, căn cứ vai trò, đặc trưng của kinh tế trang
trại có thể khái quát khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế trang trại như sau:
Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của Nhà nước và thông qua một hệ thống các chính sách và các
công cụ lên các hoạt động của kinh tế trang trại nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển
kinh tế trang trại theo định hướng của Nhà nước.
1.2.2. Chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Trong điều kiện nền kinh tế vận hành bằng cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, chức năng quản lý kinh tế trang trại của Nhà nước được xác
định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải tạo ra được môi trường và điều kiện cho hoạt
động sản xuất kinh doanh trang trại trong nền kinh tế thị trường. Bảo đảm sự
ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho sự phát triển của kinh tế trang
trại. Duy trì pháp luật trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách
và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế
lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường.
Tạo môi trường tâm lý, trong quá trình nhận thức của cán bộ, đảng viên
và Nhân dân phải hiểu cơ chế thị trường, nhận thức được tính hai mặt của cơ
chế. Đồng thời tuyên truyền, vận động người dân hiểu và tham gia phát triển
kinh tế trang trại theo định hướng chung của Nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước phải dẫn dắt và hỗ trợ những nổ lực phát triển kinh tế
trang trại thông qua các chiến lược, kế hoạch, các chính sách kinh tế.
Thứ ba, Nhà nước phải hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội.
Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng trưởng kinh tế nhưng phải gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội, ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối tư liệu sản xuất
lẫn kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển
18
kinh tế trang trại, khuyến khích mọi người dân tự làm giàu trên mãnh đất của
mình và sử dụng tốt năng lực của mình.
Phát triển kinh tế trang trại là biện pháp khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đôi với công tác xóa đói, giảm nghèo; thu hẹp khoảng cách và trình độ phát
triển về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, giải quyết việc làm cho
người lao động. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như: “uống nước
nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu…
Thứ tư, Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động trong
phát triển kinh tế trang trại trong các lĩnh vực như: Bảo vệ môi trường, sử dụng
tài nguyên, tài sản Quốc gia, quản lý mặt nước, pháp luật về chăn nuôi, thú y,
bảo vệ thực vật…
Nhà nước ta vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy mọi hoạt động
diễn ra rất đa dạng, phức tạp, các thành phần kinh tế vừa hỗ trợ, hợp tác, vừa
đấu tranh, mâu thuẫn lẫn nhau trong quan hệ kinh tế thường xuyên diễn ra. Hoạt
động sản xuất kinh doanh với quy mô trang trại có thể làm ô nhiễm môi trường,
có thể gây tổn hại đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, nạn gian lận thương mại,
sản xuất thực phẩm “bẩn”, có hại cho sức khỏe con người… đều có thể xảy ra.
Vì vậy, Nhà nước không thể buông lỏng quản lý mà phải đưa hoạt động của
khu vực kinh tế trang trại phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước.
1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một trong những
nội dung quan trọng là chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế lạc hậu,
mất cân đối sang một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả cao, phù hợp
với xu thế toàn cầu hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
giảm tính thuần nông, không ngừng nâng cao sản xuất hàng hóa, giảm dần tỷ
trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP.
19
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ngày càng sâu và rộng, đòi
hỏi nội bộ ngành nông nghiệp cũng cần phải có sự chuyển dịch mạnh mẽ, theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực
hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu của khoa
học - công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường.
Phát triển kinh tế trang trại là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển nông nghiệp gắn với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang
trại, vai trò quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng, thể hiện qua các mặt:
- Có sự tác động tích cực và phù hợp của Nhà nước.
Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn đối với sự hình thành và phát
triển của kinh tế trang trại. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là chủ thể quản lý của
nền kinh tế, chủ thể quản lý xã hội mới có thể chủ động tạo ra môi trường kinh
tế và pháp lý phù hợp để kinh tế trang trại có điều kiện hình thành và phát triển.
Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại khác với kinh tế nông
hộ. Kinh tế nông hộ vốn là kinh tế sinh tồn, kinh tế tự cung - tự cấp của nông
dân, dù môi trường kinh tế và pháp lý như thế nào thì hộ nông dân vẫn duy trì
và tìm cách phát triển kinh tế để đảm bảo những điều kiện vật chất tối cần thiết
cho cuộc sống của hộ. Ngược lại, kinh tế trang trại ngay từ khi ra đời đã mang
tính hàng hóa, nông dân phát triển kinh tế trang trại là nhằm có thu nhập cao và
tiến tới làm giàu từ nghề nông vốn là nghề có tính sinh lợi không cao và tiềm
ẩn rủi ro lớn. Nếu các điều kiện kinh tế và pháp lý bất thuận thì người có vốn
trong nông nghiệp sẽ đầu tư sang ngành khác. Để họ yên tâm đầu tư vào sản
xuất nông nghiệp theo phương thức trang trại, Nhà nước cần phải tạo ra môi
trường kinh tế và pháp lý thuận lợi cho kinh tế trang trại, trước hết là:
20
+ Thừa nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại, thừa nhận trang trại là
một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, một bộ phận hợp thành của hệ thống nông
nghiệp. Tiếp theo, điều có ý nghĩa quan trọng là thông qua các văn bản pháp
quy, quy định rõ khung pháp lý phù hợp cho các trang trại hoạt động, tạo điều
kiện cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển.
+ Định hướng cho sự phát triển kinh tế trang trại thông qua quy hoạch
phát triển và ban hành các chính sách kinh tế - xã hội.
+ Khuyến khích kinh tế trang trại thông qua sử dụng các đòn bẩy kinh tế
và phát triển các hình thức liên kết kinh tế nhằm tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế
trang trại.
+ Hỗ trợ nguồn lực cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại
như hỗ trợ vốn, phát triển kết cầu hạ tầng, hỗ trợ kinh phí đào tạo chủ trang trại,
hỗ trợ chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật…
- Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến nông sản.
Mục đích sản xuất trực tiếp của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hóa.
Việc tiêu thụ nông sản là điều kiện cơ bản để trang trại ra đời và phát triển.
Nông sản sản xuất ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ khó khăn sẽ là rào cản
cho sự phát triển của kinh tế trang trại. Thực tế cho thấy công nghiệp chế biến
nông sản có vai trò hết sức to lớn trong việc tiêu thụ nông sản vì chỉ khi công
nghiệp chế biến phát triển thì mới tạo ra thị trường rộng lớn và ổn định cho các
trang trại.
Như vậy, để hình thành và phát triển kinh tế trang trại tất yếu cần có sự
hỗ trợ của công nghiệp chế biến. Tuy nhiên phải là công nghiệp chế biến xuất
phát từ yêu cầu phát triển nông nghiệp và phù hợp với nhu cầu của thị trường
về chủng loại, chất lượng và quy cách nông sản chế biến.
- Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng, trước hết là đường giao
thông và các công trình thủy lợi.
21
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp bao gồm: đường
giao thông, công trình thủy lợi, công trình điện… là những điều kiện vật chất -
kỹ thuật rất cần thiết cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chúng góp phần
quan trọng giúp người sản xuất khắc phục được những tác động tiêu cực của tự
nhiên, đáp ứng yêu cầu sinh học của sản xuất nông nghiệp và yêu cầu giao lưu,
trao đổi hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa là đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế trang trại. Sản
xuất hàng hóa đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại phải được
tiến hành trên cơ sở một hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển ở trình độ
phù hợp nhất định.
- Có sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa.
Sự hình thành các vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp có ảnh
hưởng trực tiếp và tích cực đến sự ra đời và phát triển của các trang trại vì các
vùng chuyên canh tập trung luôn gắn liền với công nghiệp chế biến, với các
điều kiện thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa và do vậy tạo thuận
lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Đồng thời, các vùng chuyên canh
tập trung còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, cho hợp tác sản xuất giữa các trang trại.
- Có sự phát triển nhất định của các hình thức liên kết kinh tế trong sản
xuất và tiêu thủ sản phẩm nông nghiệp.
Trình độ chuyên môn hóa càng cao thì yêu cầu liên kết kinh tế càng lớn vì
chuyên môn hóa là hình thức biểu hiện cụ thể của phân công lao động và liên kết
kinh tế là hình thức biểu hiện của hiệp tác lao động trong hoạt động sản xuất.
Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình phát triển theo
hướng chuyên môn hóa sản xuất. Trong quá trình đó, ở nhiều trang trại, một số
khâu có thể tách ra khỏi hoạt động của trang trại (cung ứng vật tư sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm…) và thuộc về chức năng của một số đơn vị, tổ chức kinh tế khác.
Để đảm bảo cho sự ăn khớp giữa các khâu của quá trình sản xuất cần phải có
22
sự hợp tác, liên kết giữa các trang trại và các đơn vị, tổ chức kinh tế đảm nhận
các khâu được tách ra khỏi hoạt động của trang trại.
Mặt khác, đối với nhiều trang trại, sự hợp tác giữa các trang trại để giúp
nhau giải quyết tốt hơn các vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh,
chẳn hạn như dịch vụ thủy lợi, phòng trừ dịch bệnh, tiêu thụ sản phẩm… cũng
được đặt ra như một tất yếu kỹ thuật.
Như vậy, sự liên kết kinh tế trong nông nghiệp trước hết là liên kết giữa
các trang trại với nhau, liên kết giữa các trang trại với các chủ thể kinh tế khác
gắn với các hoạt động của trang trại là một điều kiện không thể thiếu đối với sự
hình thành và phát triển của trang trại.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức kinh tế bao gồm các nội
dung cơ bản như sau:
- Xây dựng và ban hành pháp luật;
- Định hướng hoạt động cho các tổ chức kinh tế;
- Tổ chức thực hiện pháp luật và các định hướng hoạt động đã đề ra;
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ;
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật [25].
Như đã bàn luận ở trên, trang trại cũng là một loại hình tổ chức kinh tế,
do vậy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại cũng bao hàm các nội dung quản
lý nhà nước đối với các tổ chức kinh tế. Căn cứ vào vị trí, vai trò và đặc trưng
của kinh tế trang trại có thể đưa ra một số nội dung quản lý nhà nước về kinh
tế trang trại, cụ thể như sau:
1.2.4.1. Thiết lập hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
trang trại có hiệu lực, hiệu quả
Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp trong đó có quản lý về
kinh tế trang trại, là một hệ thống cơ quan quyền lực các cấp từ Trung ương
đến địa phương, chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý nền nông
23
nghiệp. Vai trò của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp nói
chung và kinh tế trang trại nói riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, với tính chất là
chủ thể quản lý, bộ máy quản lý nhà nước là không thể thiếu được. Bộ máy
quản lý tinh gọn và có hiệu lực quản lý cao là nhân tố thúc đẩy kinh tế trang
trại phát triển. Thứ hai, chỉ có thông qua bộ máy quản lý thì Nhà nước mới thực
hiện được vai trò điều hành, định hướng kinh tế trang trại phát triển hiệu quả,
ổn định và đảm bảo công bằng xã hội, cũng như thực hiện được định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển nông nghiệp. Thứ ba, các công cụ quản lý, kể
cả bộ máy quản lý đều do con người tạo ra. Bộ máy quản lý Nhà nước về kinh
tế trang trại với đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực quản lý sẽ phát huy
được sức mạnh của các công cụ quản lý khác.
Như vậy, việc thiết lập một hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế trang trại hợp lý, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo
tính hiệu lực, hiệu quả là một trong những nội dung quan trọng trong công tác
quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
1.2.4.2. Xây dựng, ban hành các văn bản quản lý nhà nước và chính sách
hỗ trợ đối với phát triển kinh tế trang trại
- Thực hiện rà soát, bổ sung, xây dựng, ban hành văn bản và hệ thống
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại về đất đai, khoa học công
nghệ, đầu tư, vay vốn, xúc tiến thương mại… tạo điều kiện cho các trang trại
được hưởng các chính sách về đất đai, được giao đất, cho thuê đất làm trang
trại; được vay vốn các tổ chức tín dụng có ưu đãi; được ứng dụng chuyển giao
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, được khuyến cáo giới thiệu sản phẩm, đăng ký
thương hiệu hàng hóa, có điều kiện quan hệ với các cơ quan quản lý, khoa học,
các doanh nghiệp, chuyển giao khoa học công nghệ mới vào sản xuất… khuyến
khích phát triển kinh tế trang trại.
24
- Ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại:
+ Khuyến khích tạo điều kiện cho các trang trại phát triển sản xuất, kinh
doanh gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Khuyến khích các trang trại thực hiện các biện pháp kỹ thuật thâm canh,
luân canh cây trồng để bảo vệ đất đai, khai thác hiệu quả nguồn nước giếng
khoan, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất, xây dựng
hệ thống cấp thoát nước, công nghệ xử lý triệt để nước thải, chất thải trong
trang trại.
Định hướng cho các trang trại thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường
theo quy định và hướng dẫn cho các trang trại chăn nuôi phát triển theo quy mô
tập trung, xa khu dân cư; đồng thời có cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích
các trang trại đầu tư công nghệ xử lý chất thải, nước thải trong trang trại.
+ Đẩy mạnh ứng dụng chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ mới
vào sản xuất, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại.
Có cơ chế khuyến khích các cơ quan quản lý, nghiên cứu khoa học. các
doanh nghiệp nông nghiệp đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống,
công nghệ mới cho các trang trại ứng dụng, phát triển sản xuất.
Tổ chức triển khai các chương trình khuyến nông, khuyến lâm tạo điều
kiện cho các trang trại được tham gia các mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các trang trại được hỗ trợ giống mới,
các lĩnh vực sản xuất công nghệ mới về chế biến, bảo quản nông sản… để phát
triển sản xuất nhằm nâng cao giá trị sản lượng hàng hóa nông sản gắn với bảo
vệ môi trường theo hướng bền vững.
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Tổ chức các lớp tập huấn, các khóa đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp
vụ quản lý cho các chủ trang trại.
25
Tổ chức cho các chủ trang trại được đi tham quan, học tập các mô hình
sản xuất, kinh doanh tiêu biểu ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ, kiến
thức cho các chủ trang trại.
1.2.4.3. Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại theo định hướng của
Nhà nước
Định hướng và tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế trang trại về trồng
trọt, chăn nuôi, thủy sản, tổng hợp phát triển hài hòa, hợp lý theo hướng sản
xuất hàng hóa phù hợp với điều kiện tự nhiên, sinh thái.
Phát triển các trang trại sản xuất theo hướng chuyên canh, thâm canh cao
gắn với phát triển đa dạng để sử dụng đầy đủ các điều kiện sản xuất của trang
trại. Khuyến khích các trang trại có quy mô nhỏ, sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả thực hiện liên kết, chuyển hướng sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Quy hoạch đầu tư xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa theo hướng tập
trung để khuyến khích và tạo điều kiện cho các trang trại phát triển sản xuất
theo hướng thâm canh, chuyên canh cao gắn với phát triển công nghiệp chế
biến hàng hóa nông sản.
1.2.4.4. Tổ chức thực hiện cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại
Xây dựng, ban hành quy định trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh
tế trang trại trên địa bàn.
Triển khai thực hiện cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại đủ điều kiện,
tiêu chuẩn theo quy định.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các trang trại thực hiện dồn điền, đổi
thửa, thực hiện các dự án, đề án chuyển đổi để được giao đất sử dụng đất làm
trang trại.
Thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại đủ
điều kiện theo quy định của Luật Đất đai.
Xây dựng và ban hành chính sách cụ thể về việc sử dụng đất để trang trại
yên tâm đầu tư sản xuất.
26
1.2.4.5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Các phòng, ban trực thuộc UBND các cấp tổ chức tham mưu, thực hiện
thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng
phí và xử lý vi phạm pháp luật về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi
và phát triển nông thôn trong phạm vi chức năng, quyền hạn, lĩnh vực quản lý
theo quy định của pháp luật.
1.2.5. Hệ thống chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế trang trại
- Chính sách về đất đai
Hiện nay, Nhà nước có những quyết sách đổi mới và thuận lợi cho phát
triển kinh tế trang trại như chính sách giao đất, giao rừng, dồn điền, đổi thửa,
điều này tạo đà thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trang trại ở nước ta một cách
vững chắc và lâu dài. Bên cạnh đó, nền kinh tế nông nghiệp nước ta trước đây
quá nghèo nàn, lạc hậu; chính vì vậy mà việc cải tạo lại những bờ vùng bờ thửa
sau khi dồn điền, đổi thửa là vô cùng khó khăn và tốn kém, gây không ít trở
ngại cho các chủ trang trại về vấn đề vốn và lao động.
- Chính sách về tín dụng
Nhà nước đã thành lập hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng từ
trung ương đến địa phương, đặc biệt là đã có một hệ thống ngân hàng chuyên
biệt cho nông nghiệp (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn -
Agribank) để phục vụ cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp ngày càng tiến
xa hơn và vững chắc hơn. Một số ngân hàng, quỹ tín dụng, tổ chức tín dụng
khác cũng thường bố trí một cơ cấu vốn nhất định để đầu tư cho khu vực nông
nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng. Tuy vậy, dù hệ thống ngân hàng
là rất lớn và bao phủ nhưng với nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, vấn đề bảo toàn
vốn là điều tiên quyết của mọi ngân hàng và tổ chức tín dụng. Chính điều nay đã
gây không ít khó khăn khi các nhà đầu tư vào kinh tế trang trại nhưng thiếu tài
sản thế chấp. Đây cũng chính là một trong những nội dung chính sách mà Nhà
nước cần đặc biệt quan tâm tháo gỡ cho các trang trại trong thời gian tới.
27
- Chính sách đầu tư cho trang trại
Đầu tư cho kinh tế trang trại, vốn không nhất thiết phải lớn như sản xuất
công nghiệp, đầu tư dần trong suốt quá trình sản xuất hoặc chu kỳ sản phẩm.
Điều này có thể giãn cách thời gian huy động vốn cũng như đầu tư vốn. Hiện
Đảng và Nhà nước đang huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng
nông thôn thông qua các chương trình, dự án phát triển bền vững nông nghiệp,
nông thôn như các nguồn vốn của chương trình, dự án: 135, ODA, ADB, WB…
Đây cũng là một hình thức đầu tư gián tiếp và lâu dài. Bên cạnh đó, nước ta là
một nước đang trong thời kỳ quá độ, sau những năm cải cách đổi mới, nền kinh
tế tuy đã có bước phát triển nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Chính
vì vậy, việc bảo hộ và bảo trợ cho nông nghiệp còn thấp, các chủ thể của kinh
tế trang trại chủ yếu là từ kinh tế hộ gia đình thành lập một cách tự phát, với
lượng vốn khởi điểm thấp. Vốn huy động từ nguồn vay của các ngân hàng và
tổ chức tín dụng thì ít, do không có tài sản thế chấp, hoặc có nhưng không đủ
để đáp ứng được lượng vốn cần thiết để phát triển với quy mô cao. Vốn đầu tư
cho nông nghiệp tuy không cần ồ ạt và đầu tư một lúc như trong công nghiệp,
nhưng do đặc thù của sản phẩm nông nghiệp là phải có chu kỳ của sản phẩm,
vì đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật sống, đòi hỏi phải có thời
gian sinh trưởng và phát triển nhất định. Chính điều này đòi hỏi chu kỳ đầu tư
vốn cho nông nghiệp là rất dài, mặt khác, sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng
rất lớn từ thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và đặc biệt là giá cả. Điệp khúc
“được mùa - mất giá, được giá - mất mùa” diễn ra liên tục trong nhiều năm qua.
Do đó, rủi ro trong đầu tư sản xuất nông nghiệp nói chung và trong kinh tế trang
trại nói riệng là không nhỏ, dẫn đến việc huy động vốn đầu tư là rất khó khăn.
Đây cũng là vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm.
- Chính sách về thị trường
+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm
28
Sản phẩm nông nghiệp có đặc điểm khi tiêu thụ là sản phẩm tươi sống,
khó khăn cho việc bảo quản, sản phẩm nông nghiệp mang tính mùa vụ và có
đặc điểm là cung muộn, không thể đáp ứng một cách ngay lập tức cầu, vì đối
tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống nên cần có thời gian sinh
trường, phát triển sau đó mới đến bước thu hoạch. Do đó, dù giá nông sản rất
cao, các nông trại phải mất nhiều tháng, thậm chí vài năm mới có được sản
phẩm cung cấp cho thị trường.
Khách hàng mua nông sản cũng được phân chia theo nhiều nhóm đối
tượng khác nhau. Ví dụ, những khách hàng là người có thu nhập cao thường có
yêu cầu khắt khe về sản phẩm như chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm, dù vậy họ sẵn sàng trả giá cao khi mua nông sản. Với những
nhóm khách hàng có thu nhập thấp, thường thì họ có yêu cầu về tiêu chuẩn
hàng hóa thấp nhưng phải với mức giá cả phải chăng. Ngoài ra, đối tượng khách
hàng đến từ khu vực, vùng miền, châu lục… khác nhau thì có sở thích và yêu
cầu về sản phẩm cũng khác nhau.
Một đặc điểm chú ý nữa với khách hàng là nên quan tâm đến yếu tố văn
hóa và đặc điểm tôn giáo mà khách hàng đang tuân thủ. Ví dụ, thịt lợn là thứ
mà những người theo đạo Hồi kiêng, cũng như những người theo đạo Hin-đu
không dùng thịt bò làm thực phẩm trong bữa ăn của mình. Tóm lại thị trường
tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng, nó là vấn đề sống còn của sự phát triển kinh
tế trang trại. Đối với hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp thì thị trường tiêu thụ
sản phẩm là vô cùng lớn. Tất cả các thành phần kinh tế đó đều phải sử dụng sản
phẩm của nông nghiệp. Mà hiện nay kinh tế trang trại đang là then chốt và chủ
đạo trong phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó sản xuất nông nghiệp phải gắn
liền với đất đai, phụ thuộc rất lớn về khí hậu và thời tiết, bệnh dịch. Hơn nữa
vùng sản xuất lại luôn dàn trải, không tập trung. Các hệ thống phân tán rộng
khắp trên toàn lãnh thổ. Chính điều này cũng khiến gặp không ít khó khăn trong
vấn đề tiêu thụ.
29
+ Thị trường nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ nước ngoài
Đất nước ta phải trải qua thời gian chiến tranh quá dài, quá trình đổi mới
kinh tế, mở cửa hội nhập tuy đã gặt hái nhiều thành tựu đáng ghi nhận nhưng
về cơ bản điều kiện phát triển kinh tế còn nhiều khó khăn, nông nghiệp và chế
biến sản phẩm nông nghiệp phát triển chưa đáp ứng kỳ vọng. Chính điều này
làm mất đi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực cũng như các nước
trên thế giới. Nước ta xuất khẩu sản phẩm chủ yếu là thô, giá rẻ, nhưng nhập
khẩu lại là những sản phẩm tinh, giá cao nhưng lại hợp thị hiếu của một số
người có thu nhập cao. Trong khi đó thì máy móc về chế biến của ta lại lạc hậu
về công nghệ, thiếu về chủng loại.
- Chính sách về chế biến sản phẩm sau thu hoạch
Đây là một vấn đề rất lớn có tác động đến phát triển kinh tế trang trại,
điều mà Đảng và Nhà nước luôn cần quan tâm nhưng không phải là không
vướng mắc. Sản phẩm sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, thu hoạch ồ ạt
trong thời gian ngắn nên số lượng rất lớn, dẫn đến việc đầu tư và công nghiệp
chế biến rất tốn kém và hiệu quả lại không cao, vì đặc thù công nghiệp chế biến
sản phẩm nông nghiệp mang tính đơn nhất lớn, tức là một dây chuyền thì chỉ
chế biến một vài loại sản phẩm của nông nghiệp. Chính điều này gây không ít
khó khăn cho nhà đầu tư, vì với một lượng vốn đầu tư rất lớn nhưng chỉ sản
xuất được trong thời gian rất ngắn trong năm. Chính vì vậy các nhà đầu tư cần
chú ý tới các sản phẩm phụ khi chế biến sản phẩm của nông nghiệp, để tránh
sự đơn điệu trong chế biến, sản xuất kinh doanh, cũng như dạng chi phí, tăng
thêm nguồn thu nhập, khai thác hết tiềm năng sẵn có của lĩnh vực mà nhà đầu
tư quan tâm.
Ví dụ: Nhà máy chế biến mía đường thì ngoài sản phẩm chính là đường,
thì cần quan tâm đến các sản phẩm phụ của đường như gỉ đường, bã mía, có
thể tận dụng cho việc sản xuất cồn công nghiệp, rượu và một số chế phẩm khác
như bã mía, có thể sản xuất thành các thức ăn chăn nuôi gia súc và phân bón
30
quay trở lại phục vụ vho nông nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm đến việc kéo dài
mùa vụ bằng cách trồng xen vụ, nhằm sử dụng tối đa công suất máy giảm chi
phí khấu hao trên từng đơn vị sản phẩm, giảm giá thành sản xuất, cũng như
tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Cũng như việc lập nên các nhà máy bảo
quản sản phẩm thô trong nông nghiệp nhằm kéo dài thời gian chế biến. Một
điều nữa là cần có một bộ máy quản lý chất lượng sản phẩm đã qua chế biến,
nhằm duy trì và phát huy chất lượng sản phẩm ngày càng có uy tín trên thị
trường, chính điều này đã làm tăng giá trị của sản phẩm tinh cao gấp nhiều lần
so với sản phẩm thô, dẫn tới tăng lợi nhuận, khấu hao nhanh giảm chi phí đầu
tư tới mức tối đa. Ngoài ra sản phẩm nông nghiệp phân bố rất rộng, hơn nữa
nước ta lại có địa hình phức tạp, giao thông và các cơ sở hạ tầng nông thôn còn
kém, các vùng nguyên liệu xa nhau và không lớn việc thu gom sản phẩm phức
tạp, việc bảo quản và vận chuyển vô cùng khó khăn dẫn đến giá thành cao gây
ảnh hưởng về cạnh tranh giá trên thị trường. Bởi vậy khi lập dự án cho dây
chuyền chế biến sản phẩm nông nghiệp, thì các nhà đầu tư cần chú đến việc
nghiên cứu kỹ vùng nguyên liệu có đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất của nhà
máy hay không(?) Tránh các trường hợp như các nhà máy đường của nước ta
trong những năm gần đây.
- Chính sách về lao động
+ Đào tạo đối với chủ trang trại
Con người Việt Nam xưa nay vốn cần cù và chịu thương chịu khó, tính
vươn lên trong cuộc sống, tính cộng đồng lớn. Điều này là điều kiện cho phát
triển một đất nước mạnh mẽ về cả vật chất lẫn tinh thần. Bên cạnh đó chủ trang
trại không được đào tạo, hoặc là đào tạo chắp vá, điều này khiến không ít các
trang trại làm ăn bị thua lỗ, dẫn đến phá sản. Nhà nước đã có những chính sách
về mở những lớp đào tạo đối với các chủ trang trại về quản lý, về chuyên môn
nghiệp vụ, về pháp luật cũng như các loại chuyên môn về vật nuôi và cây trồng…
+ Lao động của trang trại
31
Lượng lao động dồi dào trên 70% dân số nước ta phân bố ở nông thôn,
tính cần cù chịu khó, tính tập thể tốt. Bên cạnh đó trình độ lao động thấp, tác
phong công nghiệp hầu như không có, dẫn tới kỉ luật trong lao động kém làm
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả lao động. Lực lượng lao động không tập
trung mà phân bố rải rác khắp nơi, nên việc quy tụ lại một chỗ lại nhiều vấn đề
như chỗ ăn, ở, quản lý con người vô cùng khó khăn, điều này cũng là nhân tố
tăng các chi phí đầu tư vào ảnh hưởng lớn tới việc tăng giá thành sản phẩm.
Việc thực hiện quản lý lao động được Nhà nước xây dựng các chính sách như
chính sách đào tạo đội ngũ lao động về chuyên môn nghiệp vụ, tác phong làm
việc cũng như đạo đức lao động…
- Các chính sách khác
Ví dụ như chính sách thuế; bảo hộ sản phẩm nông nghiệp; xuất nhập
khẩu hàng nông nghiệp; chính sách ưu tiên cán bộ nông nghiệp làm việc ở vùng
sâu, vùng xa nhằm phục vụ hỗ trợ kinh tế - kỹ thuật cho các nhà đầu tư kinh tế
trang trại…
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý về kinh tế trang trại
1.3.1. Một số kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở các nước
- Sự ra đời của kinh tế trang trại là kết quả phát triển tất yếu của nền nông
nghiệp hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa. Nó là hình thức tổ chức sản
xuất nông nghiệp phù hợp và gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Bởi lẽ, kinh tế trang trại có thể phát triển với nhiều
hình thức khác nhau, với các quy mô khác nhau và trình độ công nghệ khác
nhau. Ở hầu hết các nước, trang trại gia đình là hình thức tổ chức giữ vai trò
xung kích và trở thành lực lượng chủ lực ngay cả khi nền nông nghiệp phát
triển đến trình độ cao. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, số lượng trang
trại tăng lên nhưng quy mô nhỏ và phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp.
Sau đó, khi công nghiệp phát triển ở trình độ cao thì số lượng trang trại giảm,
32
quy mô trang trại tăng và các trang trại từng bước đi vào sản xuất tập trung,
chuyên canh lớn.
- Hiệu quả của việc thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa và áp dụng công
nghệ mới ở các nước phụ thuộc rất lớn vào quy mô ruộng đất. Quy mô ruộng
đất càng nhỏ thì những chi phí trên càng cao so với lợi ích thu được, nên đã làm
hạn chế việc áp dụng công nghệ mới và máy móc hiện đại ở những quốc gia có
diện tích canh tác nhỏ. Đây là khó khăn đã làm hạn chế năng suất cây trồng vật
nuôi ở các trang trại châu Á và cần phải có biện pháp khắc phục (quy mô trung
bình của một trang trại rất nhỏ như: ở Nhật Bản là 1,38 ha, Đài Loan 1,21 ha,
Hàn Quốc 1,2 ha, Inđônêxia 0,95 ha, Ấn Độ 1,68 ha; trong khi đó một số nước
công nghiệp phát triển có quy mô trung bình của một trang trại rất lớn như: ở
Mỹ 180 ha, Pháp 29 ha, Anh 71 ha...).
- Cùng với quá trình thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa và áp dụng tiến
bộ công nghệ vào sản xuất, số lượng lao động ở hầu hết các trang trại ở các
nước ngày càng giảm. Chẳng hạn, ở Tây Âu và Bắc Mỹ, trang trại có quy mô
25 - 30 ha chỉ sử dụng 1 - 2 lao động gia đình và 1 - 2 lao động làm thuê theo
thời vụ; ở Mỹ, trang trại trên 100 ha cũng chỉ sử dụng 2 lao động chính; ở Nhật
Bản, mỗi trang trại có khoảng 3 lao động nhưng chỉ có 1,3 lao động làm nông
nghiệp. Còn một số nước đang phát triển ở châu Á, việc rút lao động ra khỏi
nông nghiệp là khó khăn hơn do trình độ cơ giới hóa còn thấp và tốc độ tăng
dân số nhanh [10].
- Bồi dưỡng và đào tạo chủ trang trại là một trong những nhân tố quan
trọng nhất đối với sự thành công của các trang trại. Với mục tiêu là sản xuất
hàng hóa, việc quản lý sản xuất kinh doanh của các trang trại chính là quản lý
một doanh nghiệp. Vì vậy, chủ trang trại phải có trình độ quản lý, điều hành
sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo cho trang trại hoạt động có hiệu quả. Hơn
nữa, điều kiện cạnh tranh gay gắt trong nước và quốc tế đòi hỏi chủ trang trại
phải có trình độ quản lý cao. Ở nhiều nước, muốn trở thành chủ trang trại có tư
33
cách pháp nhân phải được nhà nước công nhận trình độ quản lý, họ phải tốt
nghiệp các trường lớp đào tạo kỹ thuật và quản lý nông nghiệp, có bằng lái ô
tô, máy kéo, có kiến thức về kinh tế, thị trường, pháp luật... và đã có kinh
nghiệm lao động sản xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác trong hoặc
ngoài nước. Các chủ trang trại thường xuyên liên hệ với các cơ quan nghiên
cứu khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ thuật, tham gia hội thảo khoa học.
Thực tế cho thấy trình độ học vấn của các chủ trang trại tỷ lệ thuận với hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại.
- Gắn sản xuất của trang trại với công nghiệp chế biến và dịch vụ tại nông
thôn. Ở các nước phát triển, các xí nghiệp bán buôn nông sản đóng vai trò là
chiếc cầu trung gian nối các trang trại với các xí nghiệp chế biến và bán lẻ. Các
xí nghiệp này thu mua nông sản của trang trại, thực hiện bảo quản và vận
chuyển đến các nơi tập trung chế biến và tiêu thụ nông sản. Nền nông nghiệp
Mỹ có hơn 2,2 triệu trang trại nhưng có tới 2,2 vạn xí nghiệp chế biến và 60
vạn xí nghiệp bán buôn, bán lẻ và ăn uống công cộng, do đó, 80% nông sản đều
được chế biến trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ [10].
Quá trình chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng đòi hỏi sự liên
kết càng phải chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ. Sự liên kết đó được thực hiện
theo cơ chế hợp đồng: giữa các trang trại và xí nghiệp chế biến, tiêu thụ nông
sản có sự hợp tác, mặc dù họ vẫn tổ chức sản xuất độc lập. Chẳng hạn, một
công ty lớn chuyên sản xuất thịt gà, có xí nghiệp chế biến thức ăn tổng hợp, xí
nghiệp giống, phân xưởng ấp trứng, mổ gà... Các công đoạn sản xuất trứng,
nuôi gà con thì công ty thực hiện theo cơ chế hợp đồng với trang trại. Việc mua
nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, tiêu thụ thịt gà được công ty thực hiện
theo cơ chế thị trường.
- Hợp tác xã hỗ trợ trang trại
Hợp tác xã là một tổ chức với mục đích là hỗ trợ cho các xã viên trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ và nâng cao nền nông nghiệp và cải
34
thiện điều kiện sống của những người làm nông nghiệp. Do đó, hợp tác xã nông
nghiệp có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, là người bạn đồng
hành của nông dân. Để hỗ trợ cho các trang trại gia đình, cần có mạng lưới hợp
tác xã. Ở Nhật Bản, 99,2% số trang trại gia đình tham gia các hoạt động của
trên 4.000 hợp tác xã nông nghiệp tại làng xã, có hệ thống dọc lên tới huyện,
tỉnh và toàn quốc. Các hợp tác xã này đảm bảo việc cung cấp vốn, vật tư, kỹ
thuật và tiêu thụ nông sản cho trang trại. Ở Mỹ, năm 1985 có 5.396 hợp tác xã
nông nghiệp trong đó có 3.260 hợp tác xã chế biến và tiêu thụ nông sản, 2.109
hợp tác xã cung ứng vật tư, 138 hợp tác xã bảo quản vận chuyển và làm các
dịch vụ khác. Ở Thái Lan, năm 2001 có 3.370 hợp tác xã nông nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực bán vật tư, bán nông sản, cung cấp vốn cho xã viên,
các dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã của những người sử dụng nguồn nước, hợp
tác xã cải tạo đất, hợp tác xã chăn nuôi... [10]
Ở các nước phát triển, một trong những hình thức hợp tác xã mới là hợp
tác xã chuyên cho thuê kỹ thuật hiện đại. Chẳng hạn, một số trang trại và hợp
tác xã góp vốn mua máy kéo, máy liên hợp hiện đại hoặc các loại thiết bị khác
kể cả máy tính điện tử dùng cho hệ thống quản lý tự động. Hợp tác xã đem
những máy móc đó cho thuê, riêng đối với xã viên thì được thuê với giá ưu đãi.
Để đạt hiệu quả cao, các hợp tác xã phải làm công tác quảng cáo, thông tin bằng
cách xuất bản các bản tin, báo, tạp chí quảng cáo về hoạt động của mình.
Một hình thức hợp tác xã mới nữa rất phổ biến ở các nước phát triển là
kiểu hợp tác xã có thêm các đơn vị nhỏ thực hiện nghiên cứu, phát minh khoa
học và vận dụng các kết quả đó vào sản xuất. Các hợp tác xã này được thành
lập tự nguyện bằng cách hùn vốn của một số trang trại, cán bộ khoa học, hợp
tác xã hay các tổ chức khác.
Như vậy có rất nhiều loại hình hợp tác xã trong nông nghiệp: cung ứng
vốn, vật tư, kỹ thuật, dịch vụ nông nghiệp, đào tạo nguứn nhân lực, nghiên cứu
35
khoa học, chế biến nông sản, tiêu thụ sản phẩm. Mỗi trang trại cùng một lúc có
thể tham gia nhiều hợp tác xã khác nhau.
- Nhà nước hỗ trợ trang trại
+ Về ruộng đất
Trong quá trình công nghiệp hóa, để chuyển nền nông nghiệp tự cung tự
cấp sang sản xuất hàng hóa, tất cả các nước đều có chính sách và biện pháp
thích hợp về vấn đề sỏ hữu cũng như sử dụng ruộng đất để khuyến khích việc
hình thành và phát triển kinh tế trang trại.
Để tạo điều kiện cho các trang trại mở rộng quy mô ruộng đất chính
quyền các nước đều có những biện pháp cụ thể để quản lý đất đai như: ban hành
luật địa tô, hợp pháp hóa việc thuê mướn ruộng đất giữa các trang trại, giữ
quyền sở hữu đất công đem phát canh cho các trang trại sử dụng có thời hạn.
Ở Nhật Bản, trong 4 năm từ 1946 - 1949, nhà nước đã mua của điền chủ
gần 2 triệu ha ruộng đất để bán lại cho nông dân theo phương thức trả tiền dần
trong một số năm cho những nông dân thiếu hoặc không có ruộng đất mà trước
đây phải đi lĩnh canh. Từ năm 1949 - 1953, Đài Loan đã tiến hành cải cách
ruộng đất theo ba bước: giảm tô năm 1949; bán ruộng đất công cho nông dân
từ năm 1951; trưng mua ruộng đất của các điền chủ trên mức quy định. Kết quả
là, trước cải cách ruộng đất, số nông dân có đất riêng chỉ chiếm 36,1%, số nông
dân có một phần đất riêng và một phần lĩnh canh chiếm 24,1%, số tá điền
chuyên lĩnh canh là 33,2%. Sau cải cách, số chứ có ruộng riêng tăng lên nhiều,
năm 1981, những tỷ lệ đó là 84%, 9%, 7%. [10]
Hàn Quốc cũng ban hành luật cải cách ruộng đất năm 1950, theo đó nhà
nước mua lại ruộng đất của các điền chủ có trên 3 ha để bán lại cho nông dân
trả tiền dần.
+ Về tiêu thụ sản phẩm
Tuy vậy, sự liên kết trên đây không phải lúc nào cũng thuận lợi, cơ chế
thị trường có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Trong trường hợp đó, sự
36
can thiệp của nhà nước là rất cần thiết, không phải bằng các biện pháp hành
chính trực tiếp mà thông qua các đòn bẩy kinh tế gián tiếp. Sự can thiệp của
nhà nước nhằm tạo ra sự cân bằng về cung cầu trên thị trường nông sản được
thực hiện thông qua các biện pháp chủ yếu sau:
Khuyến khích các trang trại tự nguyện hạn chế sản xuất nông sản, phần
bị thiệt hại chính phủ sẽ bù đắp.
Chính phủ mua các nông sản thừa của trang trại theo giá bảo đảm thực
hiện bảo quản chúng sau đó tìm cách tiêu thụ.
Bộ Nông nghiệp có Vụ Tín dụng - Hàng hóa thực hiện thu mua bảo quản
nông sản, cho trang trại vay tín dụng; có ban thanh tra để kiểm tra chất lượng
sản phẩm; có tổ chức nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp làm nhiệm vụ dự đoán
dài hạn và ngắn hạn về nhu cầu thị trường, tình hình sản xuất, giá cả nông sản,
công nghệ mới. Bộ Nông nghiệp còn xuất bản nhiều tạp chí thông tin về sản
xuất kinh doanh nông nghiệp và phát hành rộng rãi.
+ Về lao động trong các trang trại
Sự phát triển của kinh tế trang trại phụ thuộc rất lớn vào người chủ trang
trại. Vì vậy, ở nhiều nước, muốn trở thành chủ trang trại có tư cách pháp nhân
thì họ phải tốt nghiệp qua các trường lớp đào tạo kỹ thuật và quản lý nông
nghiệp, có bằng tốt nghiệp về nông học, ngoài ra còn phải có kiến thức về kinh
tế, thị trường và pháp luật.
Đối với lao động làm thuê trong nông nghiệp, các nước có đạo luật quy
định mức lương tối thiểu. Ở Mỹ năm 1984, lương giờ trong ngành trồng trọt và
chăn nuôi là 3,93 USD. Hàng năm mức lương tối thiểu được điều chỉnh lại.
Tuy nhiên, so với lương trong các ngành khác, lương trong ngành nông
nghiệp vẫn thấp hơn, do đó dẫn tới tình trạng nhiều lao động trong nông nghiệp
bỏ ra thành phố kiếm việc làm có mức lương cao hơn. Nhiều biện pháp để giảm
bớt dòng người ra thành phố đã được thực hiện như hoàn thiện hệ thống đường
37
xá, phổ cập điện thoại và truyền hình, nâng cao điều kiện sinh hoạt theo hướng
văn minh và hiện đại ở nông thôn.
+ Về trang bị máy móc trong các trang trại
Việc trang bị máy móc hiện đại không chỉ là việc riêng của các trang trại,
trên thế giới, chính phủ các nước luôn có sự hỗ trợ để khuyên khích trang trại
đầu tư mua sắm. Ở Nhật Bản, Nhà nước cho các trang trại vay vốn tín dụng với
lãi suất thấp (từ 3,5% - 7,5%/năm) để mua sắm máy móc, cải tạo đồng ruộng;
trợ cấp từ 1/3 - 1/2 giá bán các loại máy móc nông nghiệp mà nhà nước cần
khuyến khích.
Nhìn chung, ở hầu hết các nước, vai trò của nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế trang trại được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: Đầu tư cơ sở hạ
tầng nông nghiệp; chính sách đất đai; chính sách vốn, tín dụng; chính sách thị
trường; chính sách khoa học, công nghệ; chính sách đào tạo chủ trang trại và
quản lý lao động...
1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam.
Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại cần có những bài học kinh
nghiệm sau:
Nhà nước cần ban hành các cơ chế chính sách để khuyến khích phát triển
kinh tế trang trại đồng thời có sự hỗ trợ tích cực về tài chính và chính sách đất
đai là yếu tố quyết định, tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các cơ
sở, hộ gia đình sản xuất kinh doanh.
Khai thác tiềm năng, nguồn lực của từng địa phương, từng vùng để phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội để phát triển kinh tế trang trại.
Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình độ văn hóa, quản lý
và kĩ thuật của các doanh nghiệp, hộ sản xuất và người lao động, thông qua các
chương trình khuyến nông, các trung tâm đào tạo dạy nghề của Trung ương và
địa phương. Xây dựng và phát triển các trung tâm đào tạo mới, đáp ứng nhu
cầu đào tạo nghề ngày càng tăng.
38
Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư. Khuyến khích mở rộng các thành
phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực về vốn, đất đai, khoa học kĩ thuật
để tham gia phát triển kinh tế trang trại.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của Luận văn đã khái quát được các nội dung cơ bản về trang
trại, kinh tế trang trại để từ đó đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế
trang trại: “Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của Nhà nước và thông qua một hệ thống các chính sách và
các công cụ lên các hoạt động của kinh tế trang trại nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển
kinh tế trang trại đã đặt ra”; đồng thời tập trung nghiên cứu, phân tích về chức
năng, vai trò và các nội dung quản lý nhà nước về kinh tế trang trại; giới thiệu
các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại hiện nay. Trong Chương 1 của
Luận văn cũng giới thiệu kinh nghiệm quốc tế về quản lý về kinh tế trang trại
tại một số nước; từ đó rút ra được một số bài học trong quản lý nhà nước về
kinh tế trang trại ở nước ta nói chung và tại huyện Cư Kuin nói riêng.
39
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Huyện Cư Kuin được thành lập theo Nghị định số 137/2007/NĐ-CP,
ngày 27/8/2007 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện
Krông Ana, với tổng diện tích tự nhiên là 28.830 ha, bao gồm 08 xã và 113
thôn, buôn, trung tâm hành chính đặt tại thôn Kim Châu, xã Dray Bhăng; dân
số toàn huyện đến cuối năm 2016 là 105.016 người [3], với khoảng 20 dân tộc
cùng sinh sống; trong đó người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 33,94% dân
số, người có đạo chiếm 49,26% dân số trên địa bàn toàn huyện.
Hình 2.1: Bản đồ hành chính huyện Cư Kuin
Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Cư Kuin (2016)
40
Huyện có vị trí ở phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành
phố Buôn Ma Thuột 15 km và có vị trí tiếp giáp: Phía Đông giáp huyện Krông
Pắc, huyện Krông Bông. Phía Tây giáp thành phố Buôn Ma Thuột, huyện
Krông Ana. Phía Nam giáp huyện Krông Ana, huyện Krông Bông. Phía Bắc
giáp thành phố Buôn Ma Thuột, huyện Krông Pắc.
Là một huyện có tuyến đường Quốc lộ 27 chạy qua nối liền tỉnh Đắk Lắk
với tỉnh Lâm Đồng, cách sân bay Buôn Ma Thuột khoảng 10 km và tiếp giáp
với thành phố Buôn Ma Thuột - trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng của tỉnh
Đắk Lắk và vùng Tây Nguyên, tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn
hoá, khoa học công nghệ, đồng thời cung ứng nguồn lao động dồi dào và hàng hoá
nông sản có giá trị kinh tế cao cho thị trường.
Huyện nằm trong địa hình chuyển tiếp giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột
và vùng trũng Lắk, nên cấu tạo địa hình vừa có đồi núi, vừa có các thung lũng
trũng, đồng bằng và thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam do bị chi phối bởi hệ
thống sông suối trong vùng. Khí hậu chịu ảnh hưởng chung của chế độ khí hậu
gió mùa Tây Nam mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, ít biến động
trong năm, phân bố nhiệt theo không gian khá đồng đều. Khí hậu có hai mùa rõ
rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, chiếm trên 84% lượng mưa cả
năm; mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau, lượng mưa không
đáng kể, trong đó tháng 2 và tháng 3 hầu như không mưa. Lượng mưa trung bình
năm của huyện từ 1.800 - 1.900 mm. Tổng tích ôn cả năm khoảng 8.000 - 8.5000C;
nguồn ánh sáng dồi dào, bình quân giờ chiếu sáng/năm 1.700 - 2.400 h; nhiệt độ
trung bình năm từ 240C - 250C, biên độ dao động ngày đêm từ 12 - 140C [28].
Diện tích đất tự nhiên năm 2016 của huyện Cư Kuin là 28.830 ha, trong đó
nhóm đất nông nghiệp có diện tích 25.024 ha, chiếm 86,80% tổng diện tích hành
chính; nhóm đất phi nông nghiệp có diện tích 3.764 ha, chiếm 13,06% tổng diện
tích hành chính; nhóm đất chưa sử dụng có diện tích 42 ha, chiếm 0,15% tổng diện
tích hành chính [28].
41
Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện khá phong phú với con sông Krông
Ana chảy dọc theo ranh giới phía Nam có chiều dài 20 km, dòng chảy bình
quân 125m3/s, đổ vào sông Sêrêpốk và hệ thống suối, ao, hồ, công trình thủy
lợi dày đặc, cơ bản đáp ứng lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bên
cạnh đó là nguồn nước ngầm có chất lượng còn tốt với độ khoáng hóa đặc trưng
từ 0,03 - 0,27 g/l, pH 5,7 - 6,8, có thể khai thác, xử lý và cung cấp cho các nhu
cầu dân sinh, kinh tế [28]. Tuy nhiên, những năm gần đây, do việc khai thác,
sử dụng nước ngầm bừa bãi, không đúng quy định đã làm mực nước ngầm ngày
càng giảm thấp và xuống rất nhanh vào mùa khô, ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Diện tích rừng trên địa bàn huyện thấp hơn so với các huyện khác trong
tỉnh, chỉ với 754,15 ha, trong đó rừng tự nhiên chỉ có 0,3ha [28]. Hiện nay, các
cấp, các ngành đang tập trung chỉ đạo, tăng cường công tác quản lý, trồng và
bảo vệ rừng nhằm tăng độ che phủ, hạn chế xói mòn, rửa trôi, bảo vệ hệ sinh
thái, nguồn nước và phòng, chống thiên tai.
Nguồn khoáng sản khá khiêm tốn, theo Quy hoạch thăm dò, khai thác và
sử dụng khoáng sản tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
[33], trên địa bàn huyện chỉ có 04 loại khoáng sản là sắt, cát, đá và sét với trữ
lượng không lớn và tập trung tại 04 xã Ea Bhốk, Hòa Hiệp, Cư Êwi và Ea Hu.
Trong 04 loại khoáng sản trên thì có khoáng sản cát, đá và sét đã được đánh giá
trữ lượng, còn khoáng sản sắt chưa được đánh giá trữ lượng. Nguồn khoáng
sản này đang được các tổ chức, cá nhân đầu tư khai thác để phục vụ cho hoạt
động xây dựng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó là
sự tác động không nhỏ đến vấn đề môi trường mà trước hết là sự suy thoái tài
nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường từ hoạt động khai thác, chế biến.
2.1.2. Điều kiện kinh tế
Kinh tế trên địa bàn huyện có sự phát triển kinh tế khá toàn diện, kết quả
thực hiện các ngành năm sau luôn cao hơn năm trước. Theo báo cáo kết quả
42
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội huyện Cư Kuin năm
2017, tổng giá trị sản xuất (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 4.084 tỷ đồng,
tăng trưởng 9,28% so với năm 2016, trong đó: nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2.042
tỷ đồng, tăng 4,08% so với năm 2016; công nghiệp - xây dựng đạt 1.041 tỷ
đồng, tăng 18,9% so với năm 2016; thương mại - dịch vụ ước đạt 1.001 tỷ đồng,
tăng 11,2% so với năm 2016. Giá trị sản xuất bình quân đầu người (theo giá
hiện hành) khoảng 60,20 triệu đồng/người/năm, tăng 4,5 triệu đồng/người/năm
so với năm 2016. Huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 653 tỷ
đồng, tăng 10,87% so với năm 2016. Các thành phần kinh tế tư nhân phát triển
khá ổn định đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách, phát triển kinh
tế - xã hội. Trong năm 2017, huyện Cư Kuin có 01 xã (xã Hòa Hiệp) đạt 19/19
tiêu chí nông thôn mới [30].
Kinh tế phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất của Nhân dân,
từ đó tăng cường sự tin tưởng của Nhân dân vào đường lối kinh tế, chính sách
pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà
nước. Trong đó, ngành nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo (chiếm 50%
trong cơ cấu kinh tế) với thế mạnh là sản xuất các loại cây công nghiệp lâu năm
(cà phê, hồ tiêu, điều…) và chăn nuôi heo, gà, vịt theo quy mô gia trại… Trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có
giá trị hàng hóa cao đã dần khắc phục dần tình trạng manh mún, tạo vùng
chuyên môn hóa cao, đẩy nhanh việc phát triển nền nông nghiệp thủ công, lạc
hậu sang sản xuất hàng hóa, gắn với tiêu thụ sản phẩm; góp phần tạo chuyển
biến trong mọi mặt đời sống của Nhân dân.
2.1.3. Điều kiện xã hội
Việc giải quyết các vấn đề xã hội trên địa bàn huyện trong thời gian qua
luôn được quan tâm, chú trọng và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Hệ thống đường
giao thông luôn được nâng cấp, cải tạo, sửa chữa và cơ bản đáp ứng nhu cầu đi
43
lại, sản xuất, kinh doanh của nhân dân; tỷ lệ hộ gia đình dùng điện đạt 99,8%,
phủ sóng phát thanh, truyền hình đạt 100%; toàn huyện có 21/56 trường đạt
chuẩn quốc gia, phổ cập giáo dục được duy trì bền vững, chất lượng giáo dục
tương đối ổn định; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng, chống dịch
bệnh có nhiều chuyển biến tích cực, 08/08 xã có Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia,
tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 89,5%; tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,15%, trẻ em bị suy dinh dưỡng giảm
xuống còn 15,5%). Công tác giảm nghèo được tích cực triển khai, các chính
sách hỗ trợ người nghèo được thực hiện đồng bộ và đạt kết quả khá, giảm xuống
còn 6,99% so với 9,33% số hộ năm 2016; đào tạo nghề và giải quyết việc làm
luôn được chú trọng và gắn với nhu cầu thực tế; các chính sách đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số luôn được thực hiện đầy đủ, kịp thời [30].
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư
Kuin, tỉnh Đắk Lắk
2.2.1.1. Số lượng trang trại, loại hình sản xuất trang trại
Hiện nay, trên địa bàn huyện Cư Kuin có 04 loại hình trang trại chủ yếu
phân theo ngành nghề kinh doanh (gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và tổng
hợp), trong đó phát triển mạnh là trang trại chăn nuôi. Về cơ cấu trang trại cho
thấy trang trại chăn nuôi và trồng trọt chiếm tỷ trọng trên 90%.
Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ
Nông nghiệp và PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh
tế trang trại, tính đến tháng 12/2017 toàn huyện có 76 trang trại, tăng 03 trang
trại so với năm 2016. Trong đó có 03 trang trại trồng trọt; 68 trang trại chăn
nuôi; 01 trang trại nuôi trồng thủy sản; 04 trang trại tổng hợp [29] (xem Phụ lục
II - Biểu đồ 2.1). Về số lượng và các loại hình trang trại theo các năm xem Phụ
lục II - Bảng 2.1.
44
* Trang trại trồng trọt: Năm 2017, toàn huyện có 03 trang trại trồng trọt,
chủ yếu trồng cây công nghiệp lâu năm như cà phê, hồ tiêu, điều, cao su… tập
trung tại xã Ea Bhốk.
* Trang trại chăn nuôi: Trong những năm qua tình hình dịch bệnh trên
gia súc, gia cầm vẫn còn xảy ra; tuy nhiên số trang trại chăn nuôi có xu hướng
tăng nhưng không ổn định, tăng mạnh nhất là vào năm 2014 với 13 trang trại
thành lập mới, nhưng tăng chậm ở giai đoạn 2015 - 2017 với từ 02 - 04 trang
trại mỗi năm. Tính đến năm 2017, toàn huyện có 68 trang trại chăn nuôi, chủ
yếu là nuôi heo, gà, vịt. Tại các trang trại nuôi heo và gia cầm (gà, vịt) bước
đầu đã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cho ăn và uống
bằng máng ăn và hệ thống nước uống có van tự động, tiết kiệm thời gian chăm
sóc, về chuồng trại, tiết kiệm diện tích chăn nuôi, sử dụng công nghệ xử lý chất
thải bằng Biogas tạo ra môi trường chăn nuôi thoáng mát, khử mùi hôi và tận
dụng nguồn năng lượng từ khí gas để thắp sáng và sưởi ấm cho vật nuôi; mặt
khác do sử dụng giống mới nhập ngoại có năng suất cao, chất lượng tốt như các
giống gà siêu trứng, siêu thịt và lợn siêu nạc... Bên cạnh đó thì còn một số trang
trại nhỏ chưa thật sự đầu tư tốt về hệ thống chuồng trại.
- Trang trại chăn nuôi heo: Có 43 trang trại phân bố hầu hết các xã tập
trung chủ yếu tại các xã Cư Êwi, Ea Ktur, Ea Tiêu, Hòa Hiệp, quy mô từ 500 -
1.000 con/trang trại.
- Trang trại chăn nuôi gà: Có 20 trang trại (gà thịt, gà trứng) chủ yếu tại
xã Ea Ktur, Cư Êwi quy mô bình quân từ 3.000 - 10.000 con/trang trại.
- Trang trại chăn nuôi vịt: Có 06 trang trại tập trung chủ yếu tại xã Ea
Hu, Hòa Hiệp, quy mô đàn vịt khoảng 6.000 - 7.000 con/trang trại.
* Trang trại thủy sản: có 01 trang trại thủy sản tại xã Ea Ning, vừa kết
hợp ươm san, sản xuất giống và nuôi thả cá trong lòng hồ. Thời gian qua công
tác công tác đảm bảo an ninh và bảo vệ nguồn lợi trong khai thác và nuôi trồng
45
thủy sản trên địa bàn huyện còn hạn chế, làm ảnh hưởng thiệt hại kinh tế cho
chủ trang trại thủy sản.
* Trang trại tổng hợp: Trang trại kinh doanh tổng hợp kết hợp giữa trồng
trọt, chăn nuôi, sản xuất và chế biến gắn với việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông, lâm, thuỷ sản; chủ yếu dưới hình thức vừa trồng cây lâu năm như cà phê,
cao su và chăn nuôi, ngoài ra còn có các trang trại vừa trồng trọt vừa nuôi trồng
thủy sản và sản xuất lâm nghiệp. Hiện nay, huyện Cư Kuin có 04 trang trại kinh
doanh tổng hợp tập trung tại xã Ea Bhốk, Dray Bhăng.
2.2.1.2. Thực trạng về đất đai của trang trại
a. Diện tích đất
Đất đai được coi là nguồn lực quan trọng đặc biệt đối với hộ nông dân,
nhất là trong bối cảnh hiện nay người nông dân có 5 quyền sử dụng đất (quyền
sử dụng lâu dài, quyền trao đổi, quyền chuyển nhượng, quyền thế chấp, và
quyền thừa kế).
Tổng diện tích đất của các trang trại trên địa bàn huyện đến năm 2017 là
54,65 ha, chiếm một tỷ trọng nhỏ trong diện tích đất nông nghiệp của huyện.
Việc khai thác sử dụng vẫn còn mang tính tự phát, chưa phát huy hết tiềm năng
đất đai.
Điều kiện thổ nhưỡng - đất đai huyện Cư Kuin có nhiều thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế trang trại, đặc biệt là các trang trại trồng trọt trồng các
loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, hồ tiêu, cao su. Tuy vậy,
một tỷ lệ lớn diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện thuộc các
đơn vị kinh tế nhà nước đóng chân trên địa bàn huyện quản lý (gồm 07 công ty
cà phê và 01 nông trường cao su với tổng diện tích quản lý là 6.279,18 ha,
chiếm 25,1% tổng diện tích đất nông nghiệp toàn huyện [28]), đất đai đã khai
thác sử dụng nhiều năm, bị thoái hóa, xói mòn, rửa trôi làm hạn chế năng suất
cây trồng. Phần diện tích đất của nông hộ phân bố rải rác và xen kẽ với đất doanh
nghiệp, gây khó khăn cho việc tích tụ đất, dồn điền, đổi thửa, khó đáp ứng đủ
46
tiêu chí về diện tích của trồng trọt và tổng hợp (tối thiểu 2,1 ha). Do đó, với số
lượng lớn tuyệt đối nên dù không cần nhiều diện tích nhưng trang trại chăn nuôi
vẫn chiếm phần lớn diện tích đất của trang trại. Tuy nhiên, xét trên 01 trang trại,
với đặc thù sản xuất trên quy mô diện tích đất lớn, trang trại trồng trọt có diện
tích lớn nhất với 3,2 ha/trang trại, trang trại chăn nuôi có diện tích nhỏ nhất, chỉ
0,496 ha/trang trại (xem Phụ lục 2 - Bảng 2.2).
b. Nguồn gốc đất
Đến năm 2017, tổng diện tích đất của trang trại trên địa bàn huyện là
54,65 ha, trong đó diện tích đã được cấp giấy CNQSDĐ với 51,26 ha (chiếm
93,8%) [29], diện tích đất trang trại còn lại là đất tự khai hoang, hợp đồng với
chính quyền, công ty, nhận khoán và nguồn khác.
Nguồn đất đai của các trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin được hình
thành từ nhiều nguồn: đất mới tự khai hoang, đất nương rẫy của đồng bào dân
tộc thiểu số, do chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ các tổ chức, cá nhân, đất
nhận khoán, đất đấu thầu, đất thuê mướn. Từ khi có Nghị quyết số 03/NQ-CP
của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại, nông dân đã mạnh dạn đầu tư
vốn, lao động cùng với khả năng về quản lý, khoa học công nghệ đã thúc đẩy
kinh tế phát triển, mặt khác tạo ra thu nhập cao, kích thích người sản xuất thâm
canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất tạo ra
khối lượng nông sản ngày càng lớn; đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo ra các vùng sinh thái đa dạng, phong
phú, góp phần bảo vệ đất đai, bảo vệ rừng, làm trong sạch môi trường sinh thái.
2.2.1.3. Thực trạng về vốn đầu tư, tài sản của trang trại
Tổng vốn đầu tư của các trang trại đến hết năm 2017 là 57.990 triệu đồng,
trung bình 763 triệu đồng/trang trại; trong đó nguồn vốn dành phát triển các
trang trại trồng trọt là 2.350 triệu đồng, chiếm 4,05% tổng số vốn đầu tư vào
các trang trại tại huyện Cư Kuin, trung bình 783,3 triệu đồng/trang trại; chăn
nuôi là 53.690 triệu đồng, chiếm 92,58%, trung bình 789,6 triệu đồng/trang trại.
47
Các trang trại tổng hợp chỉ đầu tư 1.650 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 2,85%, trung
bình 412,5 triệu đồng/trang trại; trang trại thuỷ sản đầu tư 300 triệu đồng chiếm
tỷ lệ 0,52% [29] (xem Phụ lục 2 - Bảng 2.3).
Đầu tư chăn nuôi theo quy mô trang trại, với phương thức chăn nuôi công
nghiệp đòi hỏi phải đầu tư lâu dài, cơ sở vật chất đồng bộ, xử lý môi trường và
bảo đảm an toàn vệ sinh phòng dịch. Nguồn vốn đầu tư vào chăn nuôi lớn và
thường xuyên, liên tục. Ngoài ra, các trang trại trồng trọt (trồng cây lâu năm
như cà phê, hồ tiêu) có vốn đầu tư ban đầu là rất lớn do chi phí giống, phân
bón, ca máy, làm trụ trồng tiêu...
Theo kết quả điều tra của tác giả đối với các trang trại trên địa bàn:
- Về nguồn gốc vốn: Có 100% số chủ trang trại cho biết mô hình trang
trại của họ có sử dụng vốn chủ sở hữu; 61,54% số chủ trang trại được hỏi có
vay từ các ngân hàng thương mại; 23,08% có vay mượn từ người thân; 15,38%
có vay tư nhân chiếm; 7,69% có nhận góp vốn từ người khác (xem Phụ lục 2 -
Biểu đồ 2.2).
- Về cơ cấu vốn đầu tư: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng vốn đầu tư của các
trang trại được hỏi đa phần từ 50%-70% (chiếm 61,54%) và từ 70%-100%
(chiếm 23,08%). Như vậy nguồn vốn đầu tư cho hoạt động của các trang trại
đang phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn này là từ quá
trình tích góp nhiều năm của chủ trang trại. Muốn trang trại thực sự được đầu
tư, phát triển quy mô thì các chủ trang trại phải thực sự có tiềm năng kinh tế
lớn (xem Phụ lục 2 - Biểu đồ 2.3).
- Về nhu cầu vay vốn: Qua điều tra, các chủ trang trại có nhu cầu vay
vốn từ ngân hàng rất lớn, nhưng lượng vốn vay được hầu hết chỉ đáp ứng được
khoảng 30%-50% nhu cầu vay (chiếm 61,54%) (xem Phụ lục 2 - Biểu đồ 2.4).
Điều này chứng tỏ khả năng tiếp cận của các chủ trang trại với nguồn
vốn vay còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, do khả năng cho vay của ngân hàng, thủ
tục rườm rà, rủi ro trong sản xuất, giá cả hàng hoá xuống thấp tạo áp lực tâm lý
48
cho chủ trang trại. Một số loại hình trang trại có tính chất sản xuất thời gian dài
như cà phê, tiêu và cây lâu năm khác, khả năng vay vốn với thời hạn dài là rất
khó khăn.
Nhìn chung vốn đầu tư của các loại hình trang trại đều có diễn biến tăng
qua các năm, nguyên nhân là do các trang trại đã chú trọng đầu tư theo hướng
thâm canh, mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc trang
thiết bị phục vụ sản xuất. Đặc biệt các cơ sở trang trại đã chuyển dịch theo
hướng đầu tư các trang trại chăn nuôi, vì vậy các loại hình trang trại khác chậm
phát triển.
Vốn đầu tư bình quân cho 1 trang trại ngày càng tăng, chứng tỏ quy mô
các trang trại ngày càng lớn, các chủ trang trại đã quan tâm đến đầu tư chiều
sâu như mua sắm máy móc thiết bị, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất… nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.1.4. Thực trạng về lao động của trang trại
a. Thông tin về chủ trang trại
Theo điều tra khảo sát, chủ trang trại ở địa bàn chủ yếu trực tiếp là người
quản lý, điều hành trang trại, đồng thời chủ yếu là người trực tiếp sản xuất,
chưa có trường hợp nào phải thuê lao động quản lý ngay cả các trang trại có
quy mô lớn.
Theo kết quả khảo sát, tuổi đời bình quân của các chủ trang trại là 39 tuổi
là tương đối cao. Ở tuổi này có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp
và chín chắn hơn trong quản lý điều hành lao động, tuy nhiên sức ỳ thường lớn,
khả năng nhanh nhạy, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật lại hạn chế.
Xét về giới tính đại đa số chủ các trang trại là nam giới chiếm 84,62%.
Chất lượng lao động gia đình và trình độ của chủ trang trại ở huyện Cư
Kuin chủ yếu là nông dân (chiếm 84,62%), chỉ có kinh nghiệm, vốn và đất đai
để làm trang trại. Ngoài ra, còn có những người đang là cán bộ hưu trí (chiếm
49
7,69%), công nhân (7,69%)… đây là những lao động nắm bắt kỹ thuật công
nghệ nhanh và có thể chuyển đổi hướng sản xuất kịp thời với giá cả thị trường.
Để phát triển sản xuất mang tính bền vững, ổn định và có hiệu quả, ngoài
việc phát huy hiệu quả của nguồn vốn đòi hỏi chủ trang trại cần phải có trình
độ, chuyện môn và năng lực quản lý tốt. Trình độ chuyên môn của chủ trang
trại khá thấp, hiện nay có 61,54% các chủ trang trại chưa qua đào tạo, số được
đào tạo cao đẳng, đại học chỉ chiếm 15,38%; sơ cấp, trung cấp và công nhân
kỹ thuật chiếm: 23,08% (xem Phụ lục 2 - Biểu đồ 2.5).
b. Tình hình lao động của trang trại
Hiện nay, lao động làm việc ở các trang trại chủ yếu thực hiện theo hình
thức thoả thuận giá trị ngày công giữa chủ trang trại với lao động, chưa thực
hiện ký kết hợp đồng lao động và chế độ bảo hiểm đối với lao động. Các trang
trại sử dụng lao động chủ yếu là lao động phổ thông, số lao động kỹ thuật còn
hạn chế, trình độ quản lý kỹ thuật của các trang trại chưa cao.
Bình quân lao động phục vụ sản xuất trang trại hiện nay hầu hết có xu
hướng giảm vì các chủ trang trại đã quan tâm đến đầu tư phát triển sản xuất
theo chiều sâu, mua sắm máy móc thiết bị để giảm bớt sức lao động trực tiếp
của con người.
Ngoài ra tùy vào đặc thù và tính chất của từng loại cây trồng vật nuôi mà
các chủ trang trại chủ động thuê mướn lao động thời vụ cho thích hợp trong
một số thời điểm nào đó trong năm.
Nhìn chung việc sử dụng lao động của trang trại vẫn mang tính chất gia
đình, làng xóm. Các trang trại có quy mô từ 3 - 5 lao động là chủ yếu, chiếm tỷ
trọng 69,23%. Các trang trại có từ 06 lao động trở lên còn rất hạn chế, chỉ chiếm
7,69%. Điều này cũng cho thấy phần lớn các trang trại có thuê mướn lao động
nhưng chủ yếu là lao động thời vụ (xem Phụ lục 2 - Biểu đồ 2.6).
Trang trại chăn nuôi sử dụng ít lao động nhất, trung bình khoảng 04 lao
động/trang trại; trang trại trồng trọt sử dụng nhiều lao động nhất, trung bình 11
50
lao động/trang trại. Tuy vậy, xét trên quy mô theo từng loại hình, số lao động
tập trung ở trang trại chăn nuôi (chiếm gần 80% tổng số lao động của trang
trại). Các loại hình còn lại chiếm tỷ trọng lao động rất thấp (xem Phụ lục 2 -
Bảng 2.4).
2.2.1.5. Việc đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào
sản xuất; thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nông sản
- Việc ứng dụng chuyển giao tiến bộ kĩ thuật công nghệ mới vào sản xuất
đã có tác động tích cực cho kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa:
Trong phát triển sản xuất các trang trại đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng
kĩ thuật, đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nhằm
hướng đến nền sản xuất hàng hóa, giảm chi phí nhân công và giá thành sản
xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, như:
+ Trong chăn nuôi: Thiết lập hệ thống chuồng trại chăn nuôi theo hướng
trại “lạnh” với hệ thộng làm mát bằng nước, quạt hút gió công suất lớn, máng
ăn tự động, hệ thống tự động điều chỉnh nhiệt độ bên trong trại, đệm lót sinh
học…; hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải; các trang thiết bị máy móc
chuyên dùng. Đồng thời đưa vào sản xuất các giống lợn đặc chủng, có tỷ lệ nạc
cao, lợn ngoại, bò lai Sind, các giống gà siêu thịt, vịt siêu trứng…
+ Trong nuôi trồng thủy sản: Đưa các giống chất lượng và năng suất cao
như cá trắm đen, cá rô phi đơn tính… vào nuôi trồng. Hạn chế đánh bắt bằng
các hình thức bất hợp pháp như: xung điện, chất nổ hoặc các ngư cụ có tính
chất hủy diệt khác.
+ Trong trồng trọt: Áp dụng công nghệ mới trong trồng trọt như hệ thống
nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới nhỏ giọt, tưới tiết kiệm, dùng phân bón và
thuốc trừ sâu vi sinh. Trồng các loại giống phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ
nhưỡng như cà phê TR4, TR9, TRS1; hồ tiêu Vĩnh Linh, Srilanca; trồng xen
các giống trái cây trái vụ chất lượng tốt, cho giá trị kinh tế cao như bơ Booth7,
51
Hass, sầu riêng DONA, RI6… đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, tăng thu nhập cho các chủ trang trại.
Tuy nhiên việc ứng dụng chuyển giao tiến bộ công nghệ kĩ thuật của các
trang trại chủ yếu đã đưa những giống cây, con cho năng suất, giá trị kinh tế
vào sản xuất; còn việc đầu tư trang thiết bị kĩ thuật, quy trình công nghệ mới
còn hạn chế. Các trang trại chưa đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kĩ thuật công nghệ
mới vào sản xuất do hạn chế nguồn kinh phí đầu tư ban đầu như hệ thống
chuồng lồng, chuồng nuôi, nhà lưới, vật tư thức ăn chăn nuôi… mặt khác số
chủ trang trại được đào tạo chuyên môn kĩ thuật còn thấp; việc áp dụng khoa
học công nghệ được xuất phát chủ yếu từ các chủ trang trại tự tìm hiểu, nghiên
cứu học tập, chưa có tính hệ thống, đồng bộ trong quá trình sản xuất; nên hiệu
quả phát triển sản xuất hàng hóa của các trang trại chưa cao.
- Trong liên kết phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, các trang trại đã
mở rộng liên kết với các doanh nghiệp, HTX để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:
Trên địa bàn huyện Cư Kuin hiện có 41 trang trại (gồm 25 trang trại heo
và 16 trang trại gà) đã thực hiện liên kết với các doanh nghiệp để đầu tư cung
ứng giống, thức ăn, kỹ thuật chăn nuôi hướng công nghiệp và liên kết tiêu thụ
sản phẩm [13].
Đây là mô hình chăn nuôi gắn với liên doanh, liên kết trong sản xuất, có
ký kết hợp đồng thương mại. Theo đó, chủ trang trại đóng vai trò là người xây
dựng, quản lý cơ sở vật chất - hạ tầng và trực tiếp thực hiện hoạt động chăn
nuôi; còn việc cung ứng con giống, vật tư đầu vào (vắc xin, thức ăn chăn
nuôi...), công tác thú y và tiêu thụ sản phẩm đầu ra đều do các Công ty Chăn
nuôi thực hiện. Trên địa bàn huyện Cư Kuin có một số Công ty hiện đang triển
khai mô hình chăn nuôi gia công, trong đó Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P.
Việt Nam và Công ty TNHH Emivest Feedmill Việt Nam là 02 doanh nghiệp
có số lượng trại gia công với quy mô nuôi lớn.
52
Hiện nay, hồ tiêu Cư Kuin đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học -
Công nghệ) chấp nhận đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Hồ tiêu Cư Kuin” tại
Quyết định số 6442/QĐ-SHTT ngày 10/10/2016. Đây là điều kiện thuận lợi để
chính quyền và nhân dân huyện Cư Kuin, trong đó có các chủ trang trại xây
dựng một số mô hình sản xuất, chế biến hồ tiêu theo công nghệ tiên tiến, thân
thiện với môi trường và thực hiện liên kết 04 “nhà” (nhà nông - nhà nước - nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp) nhằm tạo ra sản phẩm hồ tiêu đáp ứng được các
tiêu chí khắt khe tiêu thụ trên thị trường trong nước cũng như xuất khẩu ra các
thị trường trên thế giới.
Tuy vậy, ngoài các trang trại chăn nuôi gia công thì hầu hết các trang trại
còn lại chưa đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kĩ thuật, công nghệ mới vào sản xuất
để nâng cao chất lượng sản phẩm, chưa phát triển sản xuất theo hướng chuyên
môn cao, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, ổn định cho chế biến và
tiêu thụ sản phẩm.
Việc thực hiện chính sách khuyến khích khuyến khích phát triển hợp tác,
liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn theo Quyết
định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ còn gặp
một số khó khăn như: sự biến động giá cả quá lớn của mặt hàng nông sản trên
thị trường; thực tế các doanh nghiệp kí kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm nông
sản hàng hóa của nông dân chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ từ phía Nhà nước;
các hộ nông dân, trang trại tự ý phá vỡ hợp đồng khi có sự biến động lớn của
giá cả thị trường... nên số lượng hàng hóa được tiêu thụ thông qua hợp đồng
liên kết sản xuất hàng năm chiếm số lượng rất thấp.
2.2.1.6. Việc bảo vệ môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế trang trại
Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài, các trang
trại đã có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ môi trường trong phạm
vi trang trại; các trang trại trồng trọt, lâm nghiệp đã góp phần tích cực vào việc
trồng và bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, bố trí cơ cấu cây trồng hợp
53
lý, phát triển trồng cây lâu năm gắn với phát triển trồng cây hàng năm vừa đảm
bảo ổn định sản xuất vừa bảo vệ được đất đai canh tác. Các trang trại tổng hợp
đã mở rộng các hình thức sản xuất kinh doanh kết hợp phát triển sản xuất cây
trồng với vật nuôi vừa đảm bảo nguồn thức ăn đầu vào cho chăn nuôi tránh sự
ô nhiễm môi trường đồng thời tăng sự phì nhiêu cho đất, tăng năng suất cây
trồng. Các trang trại chăn nuôi, thủy sản đã tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở
chuồng trại, ao đầm, khai thác nguồn nước vệ sinh và hệ thống tiêu thoát nước,
xử lý chất thải… đảm bảo phát triển sản xuất, giữ gìn vệ sinh môi trường.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển sản xuất của mỗi loại hình trang trại
đều có những tác động ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Đối với các trang
trại trồng trọt đang phát triển sản xuất theo hướng chuyên canh kết hợp với luân
canh cây trồng nhưng việc đầu tư những tiến bộ kĩ thuật mới về công nghệ,
giống, vật tư nhất là hệ thống canh tác tưới tiêu phục vụ sản xuất còn hạn chế
nên đất đai bị khai thác nhưng không được bù đắp hiệu quả; Các trang trại chăn
nuôi đã quan tâm đầu tư xây dựng chuồng trại, trang thiết bị kĩ thuật chăn nuôi,
hệ thống tiêu thoát nước thải trong khu vực trang trại, xây dựng bể lắng, bể
biogas xử lý chất thải; tuy nhiên do trữ lượng bể còn nhỏ, việc xử lý nước thải,
chất thải chưa triệt để còn để thoát ra môi trường bên ngoài nhất là số trang trại
ở gần khu dân cư, hệ thống cống tiêu thoát không đảm bảo làm ảnh hưởng đến
môi trường… Với các trang trại tổng hợp do có điều kiện nên đã kết hợp đa
dạng các loại hình sản xuất về trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, thủy sản và
thường tận dụng các nguồn nước thải chất thải trong chăn nuôi cho sản xuất
cây trồng do vậy thường không quan tâm đầu tư xử lý chất thải.
2.2.1.7. Đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại
Trên cơ sở nguồn đất đai quản lý, nguồn vốn chủ sở hữu kết hợp với sức
lao động của chủ trang trại đã lựa chọn những hình thức kinh doanh phù hợp
để phát triển trang trại theo hướng tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có.
54
Sản xuất hàng hóa là đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại, vì vậy để
đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại có thể sử dụng 02 chỉ tiêu
chủ yếu là: Giá trị sản lượng hàng hóa và Thu nhập của trang trại.
a. Về giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại:
Tổng giá trị sản lượng hàng hóa của các trang trại huyện Cư Kuin năm
2017 là 218,658 tỷ đồng (bình quân 01 trang trại là 2.877 triệu đồng/trang trại),
tăng 15,132 tỷ đồng so với năm 2016 [29].
Trong đó, trang trại chăn nuôi có giá trị sản lượng rất lớn, với 206.665
triệu đồng (chiếm 94,52%), bình quân một trang trại 3.039 triệu đồng; trang trại
trồng trọt là 4.179 triệu đồng (chiếm 1,91%), bình quân một trang trại là 1.393
triệu đồng; trang trại nuôi trồng thủy sản có giá trị sản lượng hàng hóa là 1.011
triệu đồng (chiếm 0,46%); các trang trại tổng hợp có giá trị là 6.803 triệu đồng
(chiếm 3,11%), bình quân một trang trại là 1.701 triệu đồng (xem Phụ lục 2 -
Bảng 2.5).
Quy mô giá trị sản phẩm hàng hóa của các trang trại có sự chênh lệch
đáng kể giữa các loại hình trang trại khác nhau. Các trang trại chăn nuôi, kinh
doanh tổng hợp có quy mô giá trị sản phẩm hàng hóa lớn hơn nhiều so với các
trang trại có hướng kinh doanh trồng trọt, thủy sản.
Trang trại chăn nuôi có số lượng lớn nhất với 68 trang trại, chiếm tới
89,47%. Do các chủ trang trại có vốn lớn, kĩ thuật, diện tích sản xuất không
lớn, mặt khác đầu tư sản xuất theo phương pháp công nghiệp, sản phẩm mang
giá trị kinh tế cao, có các đầu mối tiêu thụ ổn định, chu kỳ sản xuất ngắn (2 - 3
vụ/năm); do vậy các trang trại chăn nuôi phát triển nhanh và hiệu quả; hầu hết
các trang trại đạt giá trị sản lượng hàng hóa hàng năm cao hơn các loại hình
trang trại khác, trung bình là 3.039 triệu đồng, nhiều trang trại đầu tư chăn nuôi
gia súc cho giá trị kinh tế cao như heo, gà giống ngoại, liên kết với các doanh
nghiệp nên được cung ứng giống, vật tư, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm ổn định.
55
Các trang trại tổng hợp có đất đai và diện tích mặt nước, các chủ trang
trại đã đầu tư trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, kết hợp chăn nuôi với thả cá,
hoặc kết hợp trồng cây rừng, cây thuốc có giá trị kinh tế, do vậy loại hình trang
trại này hoạt động tương đối có hiệu quả, đạt được giá trị sản lượng hàng hóa
dịch vụ bình quân hàng năm là 1.701 triệu đồng.
Trang trại thủy sản mới đi vào hoạt động, giá cả nguyên vật liệu đầu vào
ở mức cao, thị trường tiêu thụ chưa ổn định; do vậy các trang trại chưa mạnh
dạn đầu tư sản xuất, đạt giá trị sản lượng hàng hóa là 1.011 triệu đồng.
Các trang trại trồng trọt thu hút phần lớn vốn đầu tư cũng như diện tích
đất đai và sức lao động, đã bố trí cơ cấu trồng các loại cây công nghiệp lâu năm
chủ lực của địa phươn như cà phê, hồ tiêu, cao su… bên cạnh đó trồng xen
những cây cho năng suất giá trị kinh tế cao như sầu riêng, bơ, mít… nhiều trang
trại đã đẩy mạnh chuyển giao khoa học kĩ thuật vào các khâu của sản xuất như
cơ giới hóa khâu làm đất, tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa, tái canh giống mới…
Nhìn chung các trang trại trồng trọt hiện nay có giá trị sản lượng hàng hóa khá
cao, với 1.393 triệu đồng/trang trại.
b. Về thu nhập của trang trại:
Thu nhập của trang trại là phần còn lại sau khi lấy tổng doanh thu trừ đi
tổng chi phí sản xuất bao gồm chi phí vật chất, chi phí lao động thuê ngoài và
các loại chi phí khác.
Thu nhập trang trại là chỉ tiêu phù hợp nhất vừa phản ánh kết quả sản
xuất, vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của kinh tế trang trại. Tổng thu nhập
của các trang trại năm 2017 là 32.049 triệu đồng (bình quân một trang trại là
422 triệu đồng). Trong đó thu nhập của các trang trại trồng trọt là 2.690 triệu
đồng (chiếm 8,39%), thu nhập của các trang trại chăn nuôi là 150 triệu đồng
(chiếm 88,08%); thu nhập của trang trại nuôi trồng thủy sản là 43.252 triệu
đồng (chiếm 0,47%); thu nhập của các trang trại tổng hợp là 980 triệu đồng
(chiếm 3,06%) [29].
56
Kết quả tính toán thu nhập bình quân chung các loại hình trang trại là:
Trang trại trồng trọt có thu nhập trong năm là cao nhất 897 triệu đồng/trang
trại; trang trại chăn nuôi là 415 triệu đồng/trang trại; trang trại thủy sản 150
triệu đồng/trang trại; trang trại tổng hợp 245 triệu đồng/trang trại (xem Phụ lục
2 - Bảng 2.6). Nhìn chung, mức thu nhập của trang trại ở mức cao so với mặt
bằng chung của địa phương, điều này là động lực để thúc đẩy phát triển trang
trại trong thời gian tới.
Qua phân tích mối tương quan của hai chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất
kinh doanh của trang trại nói trên (xem Phụ lục 2 - Bảng 2.7), có thể thấy mỗi
chỉ tiêu có những đánh giá khác nhau về kết quả sản xuất kinh doanh giữa các
loại hình trang trại. Ví dụ: Xét giá trị bình quân của một trang trại năm 2017,
có thể thấy giá trị sản xuất hàng hóa của trang trại chăn nuôi với 3.039 triệu
đồng/trang trại/năm là vượt trội so với các loại hình khác; tuy nhiên, xét về thu
nhập, trang trại chăn nuôi chỉ đứng thứ hai sau trang trại trồng trọt (415 so với
897 triệu đồng/trang trại/năm). Nguyên nhân là do các trang trại chăn nuôi phải
đầu tư xây dựng cơ sở chuồng trại và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, với mức
đầu tư lớn, chi phí khấu hao cao, đồng thời các trang trại phải dành một phần
lợi nhuận thu được để xử lý chất thải và thực hiện các biện pháp bảo vệ môi
trường. Trong khi đó, các trang trại trồng trọt phần lớn hình thành từ quá trình
tích lũy vốn và đất đai, các chi phí liên quan như thuê nhân công và máy móc
phục vụ trồng trọt chiếm tỷ trọng thấp và được khấu hao dần trong quá trình
sản xuất.
2.2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
2.2.2.1. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (xem Sơ đồ 2.1):
57
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
huyện Cư Kuin
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin, 2015
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước cấp huyện: gồm 01 Phó Chủ tịch
UBND huyện phụ trách Nông nghiệp; lãnh đạo và một số chuyên viên phụ trách
tại các phòng: Nông nghiệp và PTNT, Tài nguyên - Môi trường, Tài chính - Kế
hoạch, Kinh tế - Hạ tầng và một số đơn vị có liên quan khác.
Trong đó, Phòng Nông nghiệp và PTNT tham mưu trực tiếp cho UBND
huyện lập và rà soát quy hoạch, kế hoạch cụ thể phát triển các loại hình trang
trại, hướng dẫn lập hồ sơ dự án, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thường
xuyên mở các lớp dạy nghề về nông nghiệp, nông thôn, cấp giấy chứng nhận
kinh tế trang trại…
Phòng Tài nguyên - Môi trường rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn
mới, quy hoạch sử dụng đất, đẩy nhanh giải quyết các thủ tục giao đất, cho thuê
58
đất, cấp giấy chứng nhận, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các trang trại,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về môi trường tại các trang trại.
Phòng Kinh tế - Hạ tầng hướng dẫn kỹ thuật và quản lý xây dựng cơ sở
hạ tầng cho vùng quy hoạch trang trại và các hộ xây dựng trang trại. Hướng
dẫn cho nông dân tổ chức sản xuất các mặt hàng đáp ứng nhu cầu của thị trường,
hỗ trợ tìm đầu ra cho nông sản.
Phòng Tài chính - Kế hoạch xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, kế hoạch phát triển kinh tế trang trại hàng năm và cho từng giai đoạn phù
hợp với thực tế địa phương, đề xuất về cơ chế hỗ trợ đầu tư, hồ sơ thanh quyết
toán đơn giản, tinh gọn.
Thực tế cho thấy có những bất cập trong việc phối hợp hoạt động giữa
các phòng với nhau. Một số công việc cần phối hợp hoạt động như kiểm tra,
thẩm định dự án, nghiệm thu trang trại, kiểm tra cấp giấy chứng nhận kinh tế
trang trại, sự phối hợp chưa tốt [13].
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở cấp xã: Về phân công nhiệm vụ ở
cấp xã trực triếp phụ trách quản lý nhà nước về kinh tế trang trại là Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch UBND xã và công chức Địa chính - Xây dựng - Nông nghiệp
và Môi trường.
Trong thực tế chức danh công chức Địa chính - Xây dựng - Nông nghiệp
và Môi trường của mỗi xã được bố trí từ 2 - 4 cán bộ, tùy theo xã loại 1, 2, 3,
dẫn đến việc phân công nhiệm vụ không rõ ràng, cụ thể; gây chồng chéo, không
thống nhất giữa các xã một, dẫn đến tình trạng có việc nhiều người cùng làm
như địa chính, có những việc không được phân công như lĩnh vực nông nghiệp,
môi trường. Hiện nay số cán bộ công chức đảm nhiệm chức danh này hầu hết
có chuyên môn về quản lý đất đai, không có chuyên môn về môi trường, rất ít
người có chuyên môn về nông nghiệp.
Cán bộ chuyên môn phụ trách kinh tế trang trại trên địa bàn huyện có
trình độ chuyên môn, trình độ chính trị và quản lý nhà nước không đồng đều, ở
59
cấp huyện được đào tạo tương đối bài bản, cấp xã có trình độ chủ yếu là trung
cấp. Điều kiện về cơ sở vật chất làm việc còn nhiều thiếu thốn, nhất là ở cấp
xã. Chính sách đãi ngộ của cán bộ công chức so với mặt bằng chung của xã hội
và giá cả hiện nay thì mới đủ trang trải cho mức sống tối thiểu, nên đời sống
còn nhiều khó khăn.
2.2.2.2. Ban hành và thực thi các chính sách về kinh tế trang trại
a. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước nói chung; tỉnh Đắk Lắk
và huyện Cư Kuin nói riêng đã có nhiều chủ trương, chính sách, kế hoạch cụ
thể để thực hiện phát triển kinh tế trang trại (xem Phụ lục 3).
Trong đó, Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về
phát triển kinh tế trang trại là văn bản hết sức quan trọng, là nền tảng cho sự ra
đời các chính sách về kinh tế trang trại. Nghị quyết nêu rất đầy đủ về sự đánh
giá của Nhà nước đối với những mặt tích cực cũng như hạn chế của kinh tế
trang trại; nêu rõ những quan điểm của Đảng và Nhà nước thống nhất nhận thức
về tính chất và vị trí của kinh tế trang trại trong nền kinh tế; đồng thời đề ra các
chính sách lâu dài và cụ thể của Nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế trang
trại, như: Chính sách đất đai; Chính sách thuế; Chính sách đầu tư, tín dụng;
Chính sách lao động; Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường; Chính sách
thị trường; Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại…
Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế
trang trại. Đây là văn bản đưa ra các tiêu chí để xác định kinh tế trang trại, khắc
phục cơ bản những bất cập mà các văn bản ban hành trước đó là Thông tư liên
tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/06/2000 của liên Bộ Nông nghiệp
và PTNT - Tổng cục Thống kê và Thông tư số 74/2003/TT-BNN, ngày
04/07/2003 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải
60
thỏa mãn điều kiện cụ thể theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 27. Các tiêu chí
đã từng bước làm tăng tính ổn định và phát triển kinh tế trang trại. Thông tư
cũng quy định chi tiết thủ tục cấp, thu hồi giấy chứng nhận kinh tế trang trại
gồm: Thẩm quyền cấp, cấp đổi, cấp lại và thu hồi; hồ sơ đề nghị cấp, cấp đổi
Giấy chứng nhận kinh tế trang trại; trình tự cấp, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng
nhận kinh tế trang trại; thu hồi Giấy chứng nhận kinh tế trang trại.
Nghị quyết số 06/NQ-HĐND, ngày 10/07/2009 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Lắk về một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk,
giai đoạn 2010 - 2015 là văn bản có tính pháp lý, là cơ sở để triển khai thực
hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
nói chung và huyện Cư Kuin nói riêng. Nghị quyết nêu rõ các nội dung chính
sách, đối tượng và mức hỗ trợ. Tuy vậy, từ năm 2016 đến nay, Nghị quyết trên
đã hết hiệu lực và vẫn chưa có văn bản thay thế.
Quyết định số 4320/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của UBND huyện Cư
Kuin về phê duyệt Dự án Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Cư Kuin giai đoạn 2015 - 2020 là văn bản cung cấp các cơ sở khoa học
và thực tiễn để xây dựng các chính sách, giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang
trại tại huyện Cư Kuin trong giai đoạn 2015 - 2020.
b. Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại
- Chính sách về đất đai:
+ Hộ sản xuất nông lâm thủy sản đang sinh sống tại địa phương sử dụng
đất vào mục đích phát triển kinh tế trang trại, phù hợp với quy mô, không có
tranh chấp được nhà nước giao đất và cho thuê đất để sử dụng ổn định lâu dài;
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
+ Trường hợp diện tích đất đang sử dụng vượt mức hạn điền (quy định
tại Điều 129 Luật Đất đai năm 2013), thì phần diện tích này được UBND xã
xem xét đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất và cũng được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
61
+ Hộ gia đình nông nghiệp sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng
đầu tư phát triển kinh tế trang trại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho thuê đất.
+ Hộ gia đình, tổ chức, cá nhân ở các địa phương có nhu cầu và khả năng
đầu tư phát triển kinh tế trang trại ở các xã thuộc huyện thì được UBND xã xem
xét và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất theo khả năng quỹ
đất hiện có ở địa phương.
- Chính sách về tín dụng:
Ngoài vốn chủ sở hữu, chủ trang trại được huy động vốn từ các nguồn
vốn khác nhau, như:
+ Vay vốn của các tổ chức tín dụng bằng thế chấp tài sản chủ sở hữu, tài
sản hình thành từ vốn vay hoặc vay bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức
chính trị - xã hội theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, được sửa đổi, bổ sung tại
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ;
+ Vay vốn không bảo đảm bằng tài sản theo quy định tại Nghị định số
55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục
vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, chủ trang trại được xem xét cho
vay không có bảo đảm tài sản từ 50 triệu đồng đến 02 tỷ đồng.
+ Vay vốn từ các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, chương
trình phủ xanh đất trồng, đồi núi trọc, chương trình khuyến khích phát triển cây,
con, ngành phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu của Chính phủ và của
tỉnh Đắk Lắk quy định.
+ Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế trang trại đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt, ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu tư cho việc xây dựng cơ sở
hạ tầng: đường giao thông, điện, nước, phát triển chợ nông thôn, các trung tâm
giao dịch mua bán nông, lâm, thủy sản, vật tư nông nghiệp thông qua các
chương trình dự án của Nhà nước và các tổ chức kinh tế thực hiện.
62
+ Trường hợp các trang trại phát triển vùng nguyên liệu sản xuất nông,
lâm, thủy sản tập trung gắn liền với cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân trong vùng quy hoạch và dự án được duyệt, thì được hưởng ưu đãi về
thuế và hỗ trợ về tài chính theo quy định tại Thông tư số 95/2004/TT-BTC ngày
11/10/2004 của Bộ Tài chính về hướng dẫn một số chính sách hỗ trợ tài chính
và ưu đãi về thuế phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy sản, muối; được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 114/2007/TT-BTC
ngày 24/09/2007 của Bộ Tài chính.
- Chính sách về lao động
Chủ trang trại, được thuê lao động với số lượng không hạn chế và không
phân biệt địa bàn sinh sống của người lao động. khuyến khích và ưu tiên chủ
trang trại, chủ đầu tư phát triển kinh tế trang trại ký hợp đồng thuê lao động là
người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, người nghèo, lao động nữ và người
thiếu việc làm ở nông thôn.
+ Các nội dung về hợp đồng lao động, tiền công lao động, bảo hiểm xã
hội, bảo hộ lao động và các nội dung khác có liên quan giữa chủ trang trại và
người lao động thực hiện theo Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/ 2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ
luật Lao động.
+ Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, chủ
trang trại, được ưu tiên vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xóa đói
giảm nghèo để tạo việc làm cho người lao động tại chỗ và thu hút lao động các
vùng đông dân cư đến phát triển sản xuất.
+ Hàng năm UBND huyện giao kế hoạch và bố trí kinh phí cho trạm
Khuyến nông huyện, Trung tâm Giáo dục thường xuyên - Giáo dục nghề nghiệp
mở các lớp bồi dưỡng kỹ thuật tay nghề cho chủ trang trại và người lao động
làm việc trong các trang trại bằng nhiều hình thức tập huấn ngắn hạn hoặc đào
tạo theo hợp đồng.
63
- Chính sách tiêu thụ sản phẩm:
Các ngành, các cấp trong huyện có nhiệm vụ tìm hiểu thị trường và xúc
tiến thương mại, cung cấp thông tin thị trường giúp chủ trang trại định hướng
sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
+ Khuyến khích các chủ trang trại liên kết hợp tác phát triển các HTX
nông nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp, Câu lạc bộ kinh tế trang trại để trao đổi
thông tin, giúp nhau trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm làm ra một
cách có hiệu quả. Nếu là HTX nông nghiệp thì được hưởng các chính sách theo
quy định của Luật HTX và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác
và HTX nông nghiệp của huyện.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến các mặt hàng
nông, lâm, thủy sản ký hợp đồng với các chủ trang trại để tiêu thụ nông sản
hàng hóa theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn liền với tiêu
thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn.
- Chính sách về thuế:
+ Chủ trang trại là hộ gia đình, cá nhân được miễn thuế đối với phần thu
nhập từ việc trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế
thông thường chưa chế biến thành sản phẩm khác theo quy định tại Điều 3,
Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn
thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.
+ Trong giai đoạn 2011 - 2020, theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày
24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp: Chủ
trang trại được miễn toàn bộ thuế sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất
64
nuôi trồng thủy sản (gọi chung là đất nông nghiệp) đối với phần diện tích trong
hạn mức giao đất nông nghiệp; Giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp ghi
thu hàng năm đối với diện tích đất nông nghiệp vượt quá hạn mức giao đất nông
nghiệp nhưng không quá hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Hạn mức giao đất nông nghiệp và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng
đất nông nghiệp được quy định tại Điều 129, 130 Luật Đất đai năm 2013.
- Chính sách về khoa học công nghệ:
+ Thông qua các đề tài khoa học, chương trình khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến công, chủ trang trại được chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật
và xây dựng các mô hình trình diễn.
+ Chủ trang trại có điều kiện sản xuất cây giống nông nghiệp, cây lâm
nghiệp, con giống chăn nuôi, giống thủy sản đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng thì
đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận
theo quy định của Pháp lệnh về giống cây trồng, vật nuôi; Đảm bảo hộ quyền
tác giả. Khuyến khích và tạo điều kiện cho chủ trang trại sản xuất giống tốt,
giống có chất lượng cao cung cấp cho thị trường, làm dịch vụ kỹ thuật cho nông
dân trong vùng.
- Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại:
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hóa,
không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc
phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần thu hồi đất được giao, được
thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi thường tại thời
điểm công bố quyết định thu hồi.
c. Tổ chức tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp quy
về kinh tế trang trại
Sau khi có Nhà nước ban hành nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế trang trại, UBND huyện Cư Kuin chỉ đạo Phòng Nông nghiệp và
PTNT, Trạm Khuyến nông, Đài truyền thanh đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
65
dành thời lượng, thông tin về các cơ chế chính sách hỗ trợ, phối hợp cùng với
MTTQ và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền, vận động, phổ biến, giáo dục pháp
luật quán triệt trong đoàn viên, hội viên, để nhân dân nâng cao nhận thức về
phát triển trang trại và thực hiện.
Kết quả, UBND huyện và các phòng ban liên quan đã tổ chức 01 lớp
tuyên truyền các văn bản pháp luật, phòng chống dịch bệnh cho đối tượng là
cán bộ thú y cơ sở; tổ chức 02 hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014, 01 hội nghị hướng dẫn thực hiện Nghị định số 155 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường và các cơ sở chăn
nuôi trên địa bàn với 200 lượt chủ trang trại tham gia; tập huấn về quản lý, điều
hành, áp dụng khoa học kỹ thuật về chăn nuôi thú y cho 74 học viên là các chủ
trang trại; cấp phát 1.000 tờ rơi, xây dựng 05 panô và treo 90 băng rôn tuyên
truyền liên quan đến kinh tế trang trại [13].
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện các văn bản
pháp quy về kinh tế trang trại ở huyện Cư Kuin còn tồn tại một số khó khăn,
bất cập như: Có rất nhiều văn bản pháp quy liên quan đến phát triển kinh tế
trang trại, nhiều chính sách trùng lặp, chồng chéo dẫn đến khó cập nhật và khó
thực hiện. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong công tác tuyên
truyền, nên thiếu tính đồng bộ, mới chỉ dừng lại ở việc cơ quan nào thì tuyên
truyền các văn bản của ngành do mình phụ trách.
2.2.2.3. Quy hoạch phát triển trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh
Đắk Lắk
Theo quy định về quản lý quy hoạch ngành nông nghiệp và PTNT tại
Quyết định số 2238/QĐ-BNN-KH ngày 20/08/2010 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và PTNT thì việc Lập quy hoạch ngành Nông nghiệp và PTNT “là quá
trình khảo sát, nghiên cứu, luận chứng, lựa chọn phương án phát triển các ngành
sản xuất tối ưu, trên cơ sở phân bố sử dụng hợp lý các nguồn lực, cho một thời
kỳ phát triển nông nghiệp, nông thôn nhất định”. Thời gian định hướng của quy
66
hoạch là 10 năm, có tầm nhìn 5 năm hoặc 10 năm tiếp sau đó và thể hiện cho
từng thời kỳ 5 năm.
Cùng với một số địa phương khác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, huyện Cư
Kuin chú trọng phát triển kinh tế trang trại, trong đó coi công tác quy hoạch là
một trong những nội dung quan trọng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế trang trại ở địa phương. Thực hiện Quyết định số 1555/QĐ-UBND
ngày 18/7/2012 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt dự án quy hoạch
phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, định hướng
đến năm 2020 và Công văn số 371/SNNNT-KH ngày 27/03/2013 của Sở
NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk về việc triển khai thực hiện dự án quy hoạch phát
triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến
năm 2020, UBND huyện Cư Kuin đã tập trung chỉ đạo các phòng, ban và các
đơn vị liên quan triển khai lập quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện (tại Công văn số 1457/UBND-TCKH ngày 19/6/2014 của UBND
huyện Cư Kuin về việc chủ trương lập Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn huyện).
Sau hơn 01 năm thực hiện, ngày 31/12/2015, Ủy ban nhân dân huyện
Cư Kuin đã phê duyệt Dự án Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Cư Kuin giai đoạn 2015 - 2020 tại Quyết định số 4320/QĐ-UBND.
Ngày 22/2/2016, UBND huyện Cư Kuin đã tổ chức công bố quy hoạch và giao
UBND các xã, các đơn vị có liên quan triển khai thực hiện.
Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin giai
đoạn 2015 - 2020 là công cụ hữu hiệu để chính quyền các cấp từ huyện đến xã
xây dựng các kế hoạch, phương án triển khai thực hiện công tác quản lý nhà
nước về kinh tế trang trại trên địa bàn. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai
thác có hiệu quả tài nguyên đất đai, lao động, vốn và áp dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ mới vào sản xuất trên cơ sở bảo vệ tốt môi trường nhằm đẩy
mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trong cơ chế thị trường, giải quyết việc làm,
67
tăng thu nhập, giảm nghèo vươn lên làm giàu chính đáng của nguời dân, đồng
thời từng bước thay đổi tập quán sản xuất nhỏ, manh mún, tiến tới nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa với quy mô lớn, chất lượng cao và đủ sức cạnh tranh
trong cơ chế thị trường.
Việc lập quy hoạch phát triển kinh tế trang trại cần đáp ứng một số mục
đích, yêu cầu như:
- Đưa kinh tế trang trại phát triển phù hợp với quy hoạch phát triển kinh
tế xã hội, nông nghiệp, nông thôn của địa phương, khắc phục tình trạng tự phát,
hiệu quả thấp và kém bền vững như hiện nay.
- Khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai, vốn, lao động và các tiềm
năng kinh tế khác để sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng và giá
trị cao, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân.
- Hình thành các vùng sản xuất tập trung các loại cây trồng, vật nuôi của
mỗi vùng, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ cho việc phát triển kinh tế trang trại
theo hướng thâm canh, đạt hiệu quả cao.
- Phát triển kinh tế trang trại phải gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường sinh
thái và sản xuất bền vững.
- Cung cấp các cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các chính sách,
giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại tại huyện Cư Kuin.
* Nội dung quy hoạch:
Theo quy hoạch phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011
- 2015 và định hướng đến năm 2020 thì huyện Cư Kuin có tiềm năng phát triển
các loại cây công nghiệp dài ngày lớn, tuy nhiên hầu hết diện tích này thuộc sự
quản lý của các đơn vị kinh tế đóng chân trên địa bàn, vì vậy việc mở rộng
trang trại trồng trọt bị hạn chế. Định hướng chung phát triển trang trại đến năm
2020 là vừa chú trọng phát triển theo chiều rộng, mở rộng quy mô diện tích và
số lượng trang trại ở tất cả các loại hình trang trại đồng thời đẩy mạnh phát triển
68
theo chiều rộng lẫn chiều sâu từng bước áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá
vào sản xuất và thu hoạch sản phẩm.
Để kinh tế trang trại phát triển bền vững, phù hợp với đặc điểm tự nhiên,
kinh tế - xã hội của từng xã; trong thời gian tới huyện Cư Kuin định hướng phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện phù hợp như sau:
a. Đối với trang trại trồng trọt
Thực hiện sử dụng đất theo các phương án quy hoạch sử dụng đất, định
hướng quy hoạch trang trại của tỉnh, huyện, phù hợp với từng xã.
Thực hiện có hiệu quả Quyết định số 41/2008/QĐ-UBND, ngày
17/11/2008 của UBND tỉnh về việc phát triển cà phê bền vững đến năm 2015
và định hướng đến năm 2020. Chuyển những diện tích cà phê ở những vùng
đất không phù hợp, hiệu quả thấp sang cây trồng khác, đồng thời tái canh diện
tích đã già cỗi ở những vùng sinh thái phù hợp. Riêng trang trại trồng cà phê,
điều không đủ điều kiện về đất đai, nguồn nước, vườn đã già cỗi, kém hiệu quả
và thiếu ổn định; cần tiến hành chuyển đổi sang phát triển các loại hình trang
trại khác như: trồng cao su, sản xuất tổng hợp, ca cao, mac ca, bơ, mít...
Vì loại hình trang trại trồng trọt đòi hỏi phải có mức hạn điền khá lớn và
giá trị sản lượng hàng hóa đạt từ 700 triệu đồng trở lên, hơn nữa phần lớn diện
tích đất đai được các hộ nhận khoán từ các công ty cà phê quốc doanh trên địa
bàn. Do đó trong kỳ quy hoạch chỉ phát triển một số mô hình trang trại trồng
trọt trên cơ sở hiện trạng đã có và xác định những mô kinh tế hộ tiềm năng.
Còn các xã có diện tích cây lâu năm lớn nhưng diện tích canh tác bình quân/hộ
thấp, phân tán và nhiều hộ có diện tích đất đai khá lớn nhưng đã nhận khoán từ
các công ty.
- Trang trại trồng cây lâu năm như cà phê, hồ tiêu hoặc kết hợp với nhau
được bố trí tại hầu hết các xã, trong đó chú trọng phát triển ở các xã: Ea Tiêu,
Dray Bhăng, Ea Bhốk, Cư Êwi.
69
Ngoài ra có thể bố trí trồng xen ghép một số loại cây trồng trong các
trang trại như ca cao, cao su, mắc ca, cây ăn quả ...
- Đối với trang trại trồng cây hàng năm rất khó đạt được tiêu chí trang
trại vì vậy trong kỳ quy hoạch dự kiến quy hoạch các mô hình trang trại trồng
rau, hoa, cây cảnh chất lượng cao trên cở sở vùng quy hoạch rau sạch tại các xã
Ea Bhôk, Dray Bhăng, Ea Tiêu và, Hoà Hiệp (theo quy hoạch nông thôn mới)
ngoài ra bố trí phát triển thêm 1 số mô hình tại các xã Ea Ktur, Ea Hu, Cư Êwi.
- Phát triển trồng thêm nấm trong một số mô hình trang trại trồng trọt và
tổng hợp tập trung tại các khu vực trung tâm huyện như Ea Tiêu, Ea Ktur, Dray
Bhăng... vừa tận dụng vỏ trấu cà phê và gần nơi tiêu thụ.
Việc quy hoạch xây dựng các vùng trang trại sản xuất nguyên liệu tập
trung phải gắn mật thiết với việc xây dựng hệ thống giao thông, các cơ sở chế
biến, đồng thời hướng dẫn cho nông dân các kỹ thuật thâm canh tăng năng suất,
chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất.
Mở rộng quy mô diện tích các loại sản phẩm có giá trị trong các trang
trại chuyên canh cây hồ tiêu, cà phê hiện nay để tăng sản phẩm và hiệu quả của
trang trại như: trồng rau, hoa, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.
Đưa diện tích đất chưa sử dụng có khả năng khai thác vào phát triển sản
xuất nông nghiệp.
b. Đối với trang trại chăn nuôi
Trang trại chăn nuôi có tác động lớn đến vấn đề ô nhiễm môi trường, vì
vậy các trang trại chăn nuôi phải đảm bảo khoảng cách với khu dân cư. Trong
thời gian tới các trang trại chăn nuôi phát triển mới và các trang trại nằm trong
khu dân cư phải di dời đều được bố trí tại khu quy hoạch chăn nuôi tập trung.
Ngoài các khu chăn nuôi tập trung đã quy hoạch theo quy hoạch nông thôn mới
thì với tốc độ phát triển loại hình trang trại chăn nuôi dựa trên lợi thế và tiềm
70
năng của các địa phương trong huyện. Định hướng sẽ bố trí thêm các khu vực
chăn nuôi tập trung mới tại các xã:
- Trang trại chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò, dê, cừu…) tập trung tại các
xã: Ea Tiêu, Ea Ktur, Dray Bhăng, Hoà Hiệp, Cư Êwi. Đồng thời phải cải tạo
đàn gia súc, từng bước thực hiện chương trình bò thịt chất lượng cao. Chú trọng
việc xây dựng các khu vực sản xuất thức ăn xanh (trồng cỏ) và chế biến dự trữ
thức ăn cho mùa khô. Bên cạnh đó cần xây dựng mô hình chăn nuôi kết hợp
trồng cây lâm nghiệp.
- Trang trại chăn nuôi heo tại hầu hết tất cả các xã trong đó tập trung ở
các xã Ea Tiêu, Ea Ktur, Cư Êwi. Ngoài ra quy hoạch các gia trại và chăn nuôi
kết hợp trong các trang trại sản xuất cây công nghiệp và trang trại tổng hợp của
các xã.
- Trang trại chăn nuôi gia cầm (gà, vịt): Đối với gà phát triển ở các xã:
Ea Ktur, Ea Tiêu, Dray Bhăng, Ea Bhôk, Ea Ning ... Đối với trang trại nuôi vịt
thì tập trung ở Ea Hu, Ea Ning, Cư Êwi, Hòa Hiệp.
- Bên cạnh đó phát triển thêm 1 số loại hình trang trại nuôi các loại vật
nuôi hoang dã có giá trị hàng hóa cao và gần thị trường tiêu thụ tại các khu vực
trung tâm như Ea Ktur, Ea Tiêu, Dray Bhăng, Ea Bhôk, Hoà Hiệp.
Quy hoạch, bố trí diện tích đất trồng cỏ, các giống thích hợp có năng suất
cao như cỏ voi, cỏ stylô, ngô thu hoạch thân cây... để phát triển chăn nuôi trâu
bò với quy mô trang trại tập trung, thâm canh cao.
c. Đối với trang trại nuôi trồng thủy sản
Tận dụng mặt nước tại các lòng hồ tại các xã có lợi thế, công trình thủy
lợi nằm trên địa bàn các xã trong đó tập trung hơn tại: Ea Hu, Ea Ning, Cư Êwi.
Ngoài ra, bố trí hình thức nuôi trồng kết hợp trong các trang trại trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản nước ngọt đối với các
diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, sử dụng các loại giống như
71
chép lai, trôi ấn Độ, cá rô Phi, cá chim trắng để tạo ra thu nhập cao hơn cho các
trang trại.
d. Đối với trang trại lâm nghiệp
Hiện nay đất lâm nghiệp cơ bản đã giao cho các hộ chăm sóc nên không
bố trí trang trại chuyên canh cây lâm nghiệp mà chỉ kết hợp sản xuất lâm nghiệp
với chăn nuôi tập trung chủ yếu tại các xã Dray Bhăng, Cư Êwi, Ea Hu và trồng
cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn các xã, ngoài mục đích lấy gỗ còn có tác
dụng che bóng, chắn gió cho vườn cây lâu năm.
đ. Đối với trang trại tổng hợp
Trang trại tổng hợp của huyện Cư Kuin chủ yếu sản xuất kinh doanh tổng
hợp, kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất và chế biến gắn với việc chuyển
đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản; chủ yếu dưới hình thức vừa trồng cây
lâu năm như cà phê, cao su và chăn nuôi, ngoài ra còn có các trang trại vừa
trồng trọt vừa nuôi trồng thủy sản và sản xuất lâm nghiệp. Bố trí các trang trại
tổng hợp theo các mô hình VAC, VACR tập trung tại các xã như Ea Bhốk,
Dray Bhăng, Hoà Hiệp, Ea Hu.
e. Một số nội dung khác
- Định hướng quy hoạch phát triển trang trại tại các xã: Dựa trên kết
quả xác định các nhóm hộ tiềm năng có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn kinh tế
trang trại theo quy định. Đồng thời kế thừa quy hoạch sản xuất nông nghiệp
trong đồ án xây dựng nông thôn mới, quy hoạch sử dụng đất điều chỉnh đến
năm 2020 từ đó làm cơ sở để quy hoạch phát triển các trang trại về số lượng,
loại hình và phạm vi không gian.
- Quy hoạch sử dụng đất trang trại: Trên cơ sở quỹ đất hiện có của trang
trại và dựa vào định mức tiêu chí phát triển trang trại; sự gia tăng số lượng trang
trại dự kiến đến năm 2020 xác định tổng diện tích đất phục vụ cho sản xuất của
các trang trại và theo từng loại hình trang trại cụ thể. Trong đó bố trí diện tích
đất trồng cỏ và quy hoạch các khu chăn nuôi tập trung.
72
- Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực:
Do sự phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình
độ và hiểu biết kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ngày càng cao. Căn cứ vào định
hướng phát triển trang trại trong những năm tới để dự báo nguồn nhân lực phục
vụ cho sự phát triển kinh tế trang trại.
+ Chú trọng giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ cho phát triển kinh tế trang trại.
+ Từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tiếp tục quan tâm và
dành ngân sách thích đáng cho các trường, các cơ sở dạy nghề công lập. Khuyến
khích mọi tổ chức, cá nhân mở cơ sở dạy nghề nhằm đẩy mạnh xã hội hóa đào
tạo nghề.
+ Nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật
cho người lao động, trước hết là các chủ trang trại. Mở các lớp đào tạo và tập
huấn kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh... cho lao
động của trang trại, hộ nông dân ngay tại địa phương thông qua tổ chức khuyến
nông, lâm.
+ Có chính sách cụ thể, hình thức phù hợp để mở rộng đào tạo nghề cho
người lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số. Tổ chức các lớp tập
huấn kiến thức sản xuất để tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo có điều kiện
tự vươn lên, vượt qua đói nghèo.
- Quy hoạch hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất trang trại:
+ Đối với cơ sở hạ tầng ngoài trang trại: Ưu tiên bố trí kinh phí đầu tư
kiên cố hoá kênh mương, sửa chữa các công trình thuỷ lợi, đồng thời tiến hành
lập các dự án đầu tư để xây dựng các công trình thuỷ lợi theo quy hoạch góp
phần đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất. Khuyến khích đầu tư nhân dân xây
dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ nhằm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất,
trong đó quan tâm đảm bảo nguồn nước tưới cho diện tích lúa nước, cà phê, ca
cao, hồ tiêu… theo quy họach.
73
Lồng ghép các chương trình dự án của Trung ương và tỉnh để đầu tư mới,
nâng cấp các tuyến đường xuống cấp; đường trên địa bàn để kết nối các tuyến
giao thông của xã, tạo nên mạng lưới giao thông liên vùng với các huyện lân
cận. Mở mới và nâng cấp hệ thống giao thông trên địa bàn huyện, gắn kết và
hoà nhập với mạng lưới giao thông liên vùng; liên kết các khu dân cư với khu
sản xuất; liên kết trung tâm các xã với trung tâm huyện và các khu, nông nghiệp
theo quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông đường bộ.
Ưu tiên đảm bảo điện cho sản xuất nông nghiệp. Đầu tư nâng cấp, xây
mới trạm biến áp, đường dây hạ, trung thế để đảm bảo cho các hộ dân sử dụng
lưới điện an toàn góp phần phát triển sản xuất.
Ngoài các cơ sở hạ tầng trên, ưu tiên xây dựng, nâng cấp các cơ sở vật
chất về trường học, y tế, văn hoá, các cơ sở hạ tầng về bưu chính viễn thông,
phát thanh truyền hình…. để phục vụ cho dân cư trên địa bàn, góp phần tích
cực vào phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và trang trại nói riêng.
+ Đối với cơ sở hạ tầng trong trang trại: Cơ sở hạ tầng trong trang trại
chủ yếu do các chủ trang trại tự đầu tư để xây dựng các công trình như: khai
hoang xây dựng đồng ruộng, làm bờ lô; xây dựng công trình thuỷ lợi nhỏ như
hồ chứa, giếng khoan…; xây nhà xưởng, sân phơi, mua sắm máy móc thiết bị,
mua đàn gia súc, gia cầm...; đầu tư cải tiến kỹ thuật…
2.2.2.4. Công tác cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại
Lợi ích thiết thực mà chủ trang trại được hưởng lợi từ việc sở hữu giấy
chứng nhận kinh tế trang trại (GCNKTTT) theo Thông tư số 27/2011/TT-
BNNPTNT chính là ở chính sách tín dụng khi được xem xét cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản với mức tối đa 500 triệu đồng (theo Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010) và nay là 02 tỷ đồng (theo Nghị định số
55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015). Trong tình hình kinh tế khó khăn như hiện
nay, số vốn trên hết sức quan trọng để các trang trại duy trì hoạt động và mở
rộng sản xuất. Ngoài ra, khi được cấp GCNKTTT, các chủ trang trại còn được
74
hưởng chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, lao động, khoa học công nghệ, bảo
hộ đầu tư... từ đó tạo động lực cho người sản xuất nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm, liên kết và hình thành mô hình sản xuất khép kín. Vì vậy, việc cấp
GCNKTTT đối với các trang trại chăn nuôi, trồng trọt quy mô lớn là hết sức
cần thiết.
Tuy vậy, tính đến tháng 12 năm 2017, số trang trại đã được cấp giấy
chứng nhận kinh tế trang trại mới theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT
trên địa bàn toàn huyện là 05/76 trang trại (02 trang trại nuôi vịt, 03 trang trại
nuôi heo). Bên cạnh đó, nhiều trang trại đã cấp theo trang trại theo tiêu chí cũ
cần phải cấp đổi lại giấy chứng nhận và bắt buộc thu hồi GCNKTTT đối với
những trang trại không đạt tiêu chí.
Qua thực tế điều tra trang trại trên địa bàn huyện, các nguyên nhân chính
của việc cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại chậm là:
Chủ trang trại cho rằng giấy chứng nhận kinh tế trang trại thực chất vẫn
chưa mang lại lợi ích thiết thực cho họ như: vay vốn ưu đãi, chính sách hỗ trợ
về đào tạo, tăng cường quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, xúc tiến thương
mại, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật... vì vậy chưa muốn lập hồ sơ đăng
ký xin cấp GCNKTTT. Theo Thông tư số 27, việc cấp GCNKTTT sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân khi giao dịch với ngân hàng mà không phải thế
chấp tài sản. Tuy nhiên thực tế cho thấy, khi thẩm định hồ sơ vay vốn, các ngân
hàng lại có những đánh giá riêng để bảo đảm an toàn tín dụng.
Một số trang trại chăn nuôi khi xây dựng chưa chú ý đến vấn đề bảo vệ
môi trường, nguồn gốc đất sản xuất của một số trang trại không rõ ràng, chưa
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… nên chưa đủ điều kiện để làm thủ tục
đăng ký cấp GCNKTTT.
Do tâm lý người dân ngại đến cơ quan quản lý nhà nước để đăng ký. Họ
e ngại trước các thủ tục, hồ sơ cấp, đổi GCNKTTT mà theo suy nghĩ của họ là
khá phức tạp. Mặt khác, tại một số địa phương chưa bố trí cán bộ chuyên trách
75
làm công tác kiểm tra, thẩm định nên việc tuyên truyền, hướng dẫn và giải
quyết thủ tục cho chủ trang trại còn nhiều hạn chế.
2.2.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Hàng năm, UBND huyện chỉ đạo Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng
Tài nguyên và Môi trường, Công an huyện, UBND các xã và các đơn vị có liên
quan phối hợp thực hiện tăng cường chức năng kiểm tra; HĐND huyện chỉ đạo
các Ban trực thuộc, HĐND các xã và các đơn vị liên quan lập các đoàn giám
sát về việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực liên quan đến kinh tế trang
trại. Công tác kiểm tra, giám sát về kinh tế trang trại tập trung ở các nội dung
như: (1) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách,
kế hoạch và pháp luật của Nhà nước về kinh tế trang trại; (2) Kiểm tra, giám
sát việc sử dụng các nguồn tài nguyên đất đai, tài nguyên nước; (3) Kiểm tra,
giám sát việc xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh
thái; (4) Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về xây dựng của các trang trại; (5)
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật của
các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
UBND huyện Cư Kuin phân công nhiệm vụ đối với nội dung kiểm tra,
giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện chính sách của các trang
trại như sau: Phòng Nông nghiệp và PTNT và UBND cấp xã kiểm tra, giám sát
hoạt động sản xuất, chuyển giao KHCN, xây dựng mô hình trình diễn, liên kết
tiêu thụ nông sản. Phòng Tài nguyên - Môi trường và UBND cấp xã kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách đất đai, bảo vệ môi trường. Phòng Tài chính
- Kế hoạch và UBND cấp xã kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách hỗ
trợ tài chính, tín dụng. Phòng Kinh tế - Hạ tầng và UBND cấp xã kiểm tra, giám
sát xây dựng các công trình và hoạt động kinh doanh, tìm kiếm và thông tin thị
trường. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách về lao động, dạy nghề.
76
Hằng năm, UBND huyện thành lập đoàn kiểm tra liên ngành thường
xuyên kiểm tra các trang trại theo các quy định hiện hành. Nội dung kiểm tra
gồm việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, hoạt
động sản xuất kinh doanh, chăn nuôi, thú y, thực hiện quy hoạch, sử dụng đất
đai, lao động, xây dựng... Kết quả, từ năm 2012 đến nay UBND huyện đã thành
lập 04 đoàn kiểm tra liên ngành, kiểm tra được 67 lượt cơ sở chăn nuôi (trang
trại). Qua kiểm tra, đa số các trang trại chăn nuôi cơ bản đã thực hiện các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường, có biện pháp quản lý và hệ thống công
trình thu gom, xử lý chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn chưa
đáp ứng các yêu cầu của pháp luật về bảo vệ môi trường; vẫn để xảy ra tình
trạng xả chất thải, nước thải, khí thải chăn nuôi chưa qua xử lý đạt quy chuẩn
ra môi trường, ảnh hưởng đến môi trường sống xung quanh; không thực hiện
đúng các công trình, biện pháp quản lý, xử lý môi trường theo nội dung hồ sơ
môi trường đã được xác nhận, phê duyệt.
Về xử lý vi phạm: Buộc chấm dứt hoạt động đối với 01 trang trại (trang
trại chăn nuôi heo ông Võ Sỹ Thắng, xã Cư Êwi); xử phạt vi phạm hành chính
đối với 01 trang trại (trang trại chăn nuôi heo của ông Nguyễn Văn Cảnh, xã
Cư Êwi); ban hành 01 văn bản yêu cầu 01 cơ sở thực hiện nghiêm túc các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường (trang trại chăn nuôi heo ông Trần
Xuân Liệu, xã Ea Ktur).
Hoạt động giám sát của HĐND huyện: Ngày 05/9/2017, HĐND huyện
thành lập đoàn giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý các
trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện (tại Quyết định số 15-QĐ-HĐND của
Thường trực HĐND huyện). Kết quả: Qua giám sát bằng văn bản đối với 04
UBND xã; giám sát trực tiếp tại 04 UBND xã, Phòng Nông nghiệp và PTNT,
Phòng Tài nguyên và Môi trường; Trạm Chăn nuôi và Thú y và 12 trang trại
[13], Đoàn giám sát đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về chăn
nuôi và bảo vệ môi trường tại các trang trại chăn nuôi trên địa bàn huyện; chỉ
77
ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; xác định rõ
trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan; từ đó có những đề xuất, kiến
nghị, đề ra các giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Những mặt đạt được
Trong những năm qua, kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin đã
phát triển mạnh, năm 2013 có 55 trang trại, đến năm 2017 đã có 76 trang trại,
tăng 21 trang trại, tương đương 38,18%. Kinh tế trang trại thực sự là hình thức
tổ chức sản xuất hàng hóa tạo ra sản lượng giá trị hàng hóa lớn về nông, lâm,
thủy sản, với quy mô vượt trội gấp nhiều lần so với kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng quỹ đất tốt hơn, thúc
đẩy việc khai hoang các diện tích đất hoang hóa, đồi núi trọc, diện tích mặt
nước… để đưa vào sản xuất, tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa lớn cho nhu
cầu chế biến và tiêu dùng. Trên cơ sở nguồn vốn sản xuất kinh doanh của các
trang trại chủ yếu từ vốn chủ sở hữu, có nguồn gốc từ quá trình tích lũy vốn sau
thời gian dài sản xuất nông nghiệp cùng với việc huy động vốn từ một số nguồn
huy động cơ bản (như vay vốn các tổ chức tín dụng, huy động từ người thân,
liên doanh sản xuất…), các trang trại đã mạnh dạn đầu tư, xây dựng các trang
trại với quy mô sản xuất và trình độ kỹ thuật ngày càng cao. Từ đó làm tăng
hiệu suất sử dụng vốn, làm giàu chính đáng cho chủ trang trại, giải quyết nhàn
rỗi và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều trang trại cũng
đã tích cực học tập và áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, chủ
động việc liên doanh, liên kết sản xuất với nhiều mô hình sản xuất hiện đại, gắn
sản xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm…
Để đạt được những kết quả đáng ghi nhận nêu trên, có sự góp sức không
nhỏ của công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại của địa phương:
78
- Về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại: Được xây
dựng và thiết kế tương đối hợp lý, dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng
đơn vị; đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước được triển khai có hiệu quả từ cấp
huyện đến cấp xã.
- Về việc ban hành và thực thi các chính sách quản lý nhà nước về kinh
tế trang trại: Trên cơ sở các văn bản của Trung ương, của tỉnh, UBND huyện
Cư Kuin đã kịp thời ban hành các văn quản lý, điều hành trong tất cả các lĩnh
vực của kinh tế trang trại. Tổ chức tuyên truyền, phố biến kịp thời, với nhiều
hình thức đa dạng các quy định của pháp luật.
- Về công tác lập quy hoạch phát triển kinh tế trang trại: Quy hoạch
được lập và ban hành kịp thời; có sự thừa kế những nội dung quy hoạch đã có
như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông thôn mới… từ đó tránh được những
chồng chéo, mâu thuẫn trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch.
- Về công tác cấp Giấy chứng nhận kinh tế trang trại: Mặc dù tiến độ
thực hiện việc cấp GCNKTTT còn chậm nhưng xuất phát từ các nguyên nhân
khách quan; có sự nổ lực của cán bộ, công chức trong việc phổ biến, tuyên
truyền và vận động người dân đăng ký cấp GCNKTTT để nhận được các chính
sách hỗ trợ của nhà nước.
- Về công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành của các trang trại: được
thực hiện thường xuyên, liên tục và có những biện pháp xử lý vi phạm và khắc
phục sai sót một cách kịp thời, thiết thực.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
- Chưa có sự thống nhất trong việc xác định vị trí, vai trò của trang trại
nông nghiệp trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện qua sự đánh giá khác nhau về
vai trò, vị trí của trang trại trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn dẫn
đến nhiều bất cập trong hoạch định và thực thi các chính sách phát triển trang
trại trong thời gian qua.
79
- Một số văn bản của Trung ương về quản lý nhà nước về kinh tế trang
trại, đặc biệt là quản lý trang trại chăn nuôi, bảo vệ môi trường được ban hành
chưa đồng bộ, một số nội dung chưa phù hợp với tình hình thực tế:
Tại Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định
về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường: (1) Việc sử dụng
tiêu chí diện tích xây dựng chuồng trại để quy định đối tượng cơ sở chăn nuôi
gia súc, gia cầm (trang trại) phải thực hiện đánh giá tác động môi trường hoặc
đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường là chưa phù hợp; bởi thực tế khối lượng
chất thải thải ra môi trường xuất phát từ số lượng vật nuôi. Trong khi các trang
trại chăn nuôi gia công có mật độ nuôi gia súc, gia cầm rất lớn, với diện tích
chuồng trại nhỏ (dưới 1.000 m2) thì chỉ cần lập kế hoạch bảo vệ môi trường;
còn các trang trại nuôi hình thức chăn thả trên đơn vị diện tích lớn hơn 1.000
m2 nhưng với số lượng vật nuôi ít và khối lượng chất thải nhỏ thì phải lập báo
cáo đánh giá tác động môi trường. (2) Quy định về tham vấn UBND xã, các tổ
chức và cộng đồng dân cư: các trang trại thuộc đối tượng đăng ký kế hoạch bảo
vệ môi trường không cần thực hiện tham vấn, do đó một số trang trại xây dựng
các công trình xử lý chất thải và bảo vệ môi trường một cách đối phó, không
đảm bảo. (3) Các nội dung và cấu trúc hồ sơ đề án môi trường khá phức tạp,
mang tính chuyên môn kỹ thuật cao, gây khó khăn cho các trang trại trong việc
lập và đăng ký, đa số phải thuê tư vấn thực hiện, gây tốn kém cho người dân.
Tại Thông tư số 04/2010/TT-BNNPTNT ngày 15/01/2010 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện trại chăn
nuôi lợn, trại chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học: Chỉ giao Cục Chăn nuôi, Sở
Nông nghiệp và PTNT kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy chuẩn, không
phân cấp cho huyện và xã kiểm tra, giám sát để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục
các vi phạm.
80
Đối với tiêu chí xác định trang trại, Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT
ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định trang trại phải có diện
tích đất từ 2,1 ha đối với trang trại trồng trọt và tổng hợp; 31 ha đối với trang
trại lâm nghiệp. Đây là những tiêu chí không thực sự phù hợp với quy mô ruộng
đất và thực tế sản xuất, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh một số sản phẩm nông
nghiệp có giá trị thương phẩm cao, với giá trị sản lượng hàng hóa hàng năm
hàng tỷ đồng nhưng không được công nhận kinh tế trang trại do không đáp ứng
tiêu chí về diện tích đất. Cần phải có sửa đổi theo hướng chú trọng hơn vào tiêu
chí giá trị sản lượng hàng hóa, gắn tiêu chí diện tích với hiệu quả sử dụng đất.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
liên quan đến phát triển kinh tế trang trại nhưng chưa đủ sâu, đủ mạnh và có
một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn.
Chính phủ đưa ra rất nhiều chính sách hỗ trợ cho trang trại tại Nghị quyết
số 03/2000/NQ-CP ngày 02/2/2000, đây là hành lang pháp lý quan trọng tạo
điều kiện cho nông dân phát triển kinh tế trang trại. Vấn đề là đến nay đã trải
qua gần 20 năm, văn bản này vẫn đang có hiệu lực thi hành, nhiều chính sách
về đất đai, tín dụng… đã thay đổi, nhiều chính sách dành cho kinh tế trang trại
trong văn bản này không còn phù hợp nữa. Hoặc như trong chính sách tín dụng,
mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho kinh tế trang trại
nhưng những chính sách đó lại nằm rải rác ở các văn bản khác nhau. Còn thực
tế, đến nay vẫn chưa có một văn bản mang tính hệ thống tích hợp tất cả những
chính sách đó, thậm chí có nhiều quy định còn chưa rõ ràng.
Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-
HĐND, ngày 10/07/2009 về một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2010 - 2015. Nghị quyết nêu rõ các nội dung chính sách,
đối tượng và mức hỗ trợ cụ thể. Tuy vậy, từ năm 2016 đến nay, Nghị quyết trên
đã hết hiệu lực và vẫn chưa có văn bản thay thế.
81
Nhiều văn bản pháp quy liên quan đến phát triển trang trại, nhiều chính
sách trùng lặp, chồng chéo dẫn đến khó cập nhật và khó thực hiện, như chính
sách tín dụng, tiếp cận vốn vay, tiếp cận thị trường, khoa học kỹ thuật của chủ
trang trại và chính sách về môi trường.
+ Về chính sách đất đai: Thực hiện theo Luật Đất đai năm 2003 và năm
2013 thì đất sản xuất nông nghiệp được giao lâu dài cho nông dân, theo đầu
nhân khẩu từ năm 2004 và đến năm 2014 tiếp tục ổn định. Về diện tích đất, đa
số các trang trại có diện tích nhỏ từ 0,5 - 1 ha, một số trang trại tổng hợp và
thủy sản có diện tích đất lớn hơn, đối với đất lúa thì thực hiện theo Nghị định
42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa. Điều này cho
thấy việc tích tụ đất đai để làm trang trại còn hạn chế.
+ Về chính sách tín dụng phát triển trang trại rất khó thực hiện. Nghị
định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn quy định cụ thể: Đối với các đối
tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn,
các hợp tác xã, chủ trang trại, tổ chức tín dụng được xem xét cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 02 tỷ đồng đối với đối tượng là các hợp tác xã,
chủ trang trại. Trong thực tế ngành ngân hàng đặt ra nhiều rào cản yêu cầu chủ
trang trại phải có như: Dự án đầu tư phát triển trang trại, giấy chứng nhận kinh
tế trang trại và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay. Nhưng
theo quy mô, vị trí của các trang trại tại huyện Cư Kuin, có nhiều trang trại
không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại và chỉ mới có 05
trang trại được cấp, do đó đến nay chưa có trang trại nào trên địa bàn huyện Cư
Kuin được vay vốn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP (trước đây là Nghị định
số 41/2010/NĐ-CP) của Chính phủ mà chủ yếu là vay bằng thế chấp tài sản
đảm bảo.
+ Về chính sách thị trường: Các cơ quan nhà nước tổ chức việc cung cấp
thông tin thị trường, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp
82
với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Hướng dẫn việc ký kết hợp
đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản, kêu gọi đầu tư phát triển chợ nông
thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo
điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự
án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, tạo sự liên kết giữa các cơ
sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên việc thực hiện còn rất hạn
chế, hầu hết các trang trại đang tự tìm hiểu thị trường, việc liên kết giữa “4 nhà”
(nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học) còn khiêm tốn, sản
phẩm của trang trại làm ra bị ép cân, ép giá, bấp bênh, khó tiêu thụ.
+ Về chính sách bảo vệ môi trường: Luật Bảo vệ môi trường và các văn
bản pháp quy quy định về bảo vệ môi trường đối với trang trại là rất cụ thể và
có tính khoa học cao. Tuy nhiên trong thực tế rất khó thực hiện do: Trình độ
khoa học kỹ thuật, nhận thức của các chủ trang trại còn thấp; Phương tiện kiểm
tra xử lý mức độ vi phạm của các trang trại của cấp huyện và cấp xã hầu như
không có; Hiệu quả đầu tư đối với trang trại là không cao, trong khi để thực
hiện theo đúng cam kết bảo vệ môi trường cần có chi phí lớn.
Như vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vẫn chưa
thực sự tạo ra được những tác động tích cực đến sự phát triển trang trại trên địa
bàn huyện Cư Kuin; cơ chế, chính sách vẫn chưa thực sự “cởi trói” và tạo ra
động lực mạnh mẽ cho 02 vấn đề quan trọng hàng đầu là tích tụ đất đai và
nguồn vốn cho phát triển trang trại trong điều kiện nguồn lực của các chủ trang
trại còn hạn chế.
- Về công tác lập và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế trang trại: Một
số nội dung quy hoạch còn chưa phù hợp với thực tế của địa phương, một số vị
trí quy hoạch chồng lấn, mâu thuẫn lẫn nhau (quy hoạch khu chăn nuôi tập
trung ở xã Cư Êwi không đảm bảo khoảng cách đến khu dân cư, chồng lấn với
quy hoạch sử dụng đất). Công tác cắm mốc giới để quản lý quy hoạch và tổ
chức thực hiện quy hoạch cũng chưa được chú trọng đúng mức. Công tác quản
83
lý quy hoạch ở một số xã chưa tốt, còn để tình trạng xây dựng khi chưa có chủ
trương của UBND huyện. Việc quản lý trang trại theo quy hoạch chỉ được thực
hiện trong những năm gần đây, để tình trạng “mạnh ai nấy làm” trong suốt
khoảng thời gian dài.
- Một số thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động của trang trại, đặc
biệt là quy định đăng ký và lập hồ sơ bảo vệ môi trường theo Nghị định số
18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ còn rườm rà, phức tạp, gây
khó khăn và tốn kém cho chủ trang trại (do không đủ năng lực, phải thuê đơn
vị tư vấn có chuyên môn thực hiện).
- Công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của các trang trại
có lúc, có nơi còn chưa được thực hiện tốt. Còn tình trạng một số trang trại vi
phạm pháp luật về môi trường, thú y. Nguyên nhân là một số chính quyền xã
chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của kinh tế trang trại, coi việc quản lý kinh tế
trang trại là nhiệm vụ của ngành nông nghiệp và ngành môi trường. Trang thiết
bị sử dụng cho việc kiểm tra, xác định thông số ô nhiễm môi trường nhằm phục
vụ cho công tác quản lý Nhà nước, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường chưa được quan tâm, đầu tư.
84
Tiểu kết Chương 2
Từ việc tìm hiểu một số thông tin khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội của huyện Cư Kuin, trong Chương 2 này, tác giả luận văn đã đi sâu
nghiên cứu, làm rõ các nội dung như: Đất đai, vốn, tài sản, lao động, việc đầu
tư, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất; thực hiện liên
kết sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nông sản của trang trại; việc bảo vệ môi trường
sinh thái trong phát triển kinh tế trang trại; cũng như đánh giá kết quả, hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các trang trại. Từ đó, có một góc nhìn tổng thể và đầy
đủ hơn về thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk.
Để đánh giá về công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại, Chương
2 của luận văn đã xem xét trên nhiều khía cạnh và nội dung quản lý, như: Hệ
thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước; việc ban hành và thực thi các chính
sách; công tác quy hoạch; công tác cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại; công
tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các trang trại. Qua đó, tác giả tổng kết
được những mặt đạt được; những tồn tại, hạn chế cần khắc phục và nguyên
nhân của chúng trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Cư Kuin (giai đoạn 2014 - 2017).
Tất cả những vấn đề nêu trên cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách
nghiêm túc nhằm hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh
tế trang trại trong thời gian tới, để kinh tế trang trại huyện Cư Kuin thực sự phát
triển theo đúng định hướng của Nhà nước và phục vụ lợi ích chính đáng của
Nhân dân.
85
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại của huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk
Thúc đẩy sự hình thành và phát triển các trang trại gia đình ở các địa
phương là các xã, trong đó trước mắt tập trung ở những vùng có quỹ đất nông
lâm ngư nghiệp bình quân trên nhân khẩu cao. Thực hiện đa dạng hóa các loại
hình kinh tế trang trại (KTTT) về quy mô, cơ cấu sản xuất, sở hữu và sử dụng
các yếu tố sản xuất, phương thức quản lý, kết hợp đầu tư mở rộng với đầu tư
chuyên sâu đưa kinh tế trang trại thực sự trở thành một trong những hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả của ngành nông nghiệp của huyện.
Phát triển mạnh các loại hình trang trại gắn sản xuất chế biến với thị
trường tiêu thụ phải dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy
hoạch sản xuất nông lâm ngư nghiệp, quy hoạch vùng sản xuất các loại cây
trồng vật nuôi của tỉnh, huyện.
Phát triển KTTT theo hướng tập trung chuyên môn hóa. Phát triển các
vùng chuyên canh cây trồng vật nuôi theo quy hoạch gắn với phát triển công
nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Tìm các loại cây trồng phù hợp để
chuyển dần diện tích một số cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp sang cây trồng
vật nuôi có giá trị kinh tế.
Chú trọng phát triển trang trại gia đình. Đây là loại hình trang trại thích
hợp nhất với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung và đặc điểm sản
xuất nông nghiệp của huyện. Các cấp chính quyền địa phương khuyến khích và
hướng dẫn các hộ gia đình nông dân cách thức liên kết, hợp tác để hình thành
các loại trang trại thích hợp.
86
Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, thông
qua các hoạt động như: xây dựng mô hình quản lý trang trại có hiệu quả, tập
huấn công tác khuyến nông, khuyến lâm, nâng cao năng lực quản lý cho chủ
trang trại, xúc tiến thành lập và đi vào hoạt động một số câu lạc bộ trang trại
điểm ở một số huyện, thành phố làm nòng cốt để phát triển kinh tế trang trại.
Phát triển trang trại đặc biệt là loại hình trang trại chăn nuôi phải đi đôi
với bảo đảm vệ sinh môi trường bằng các giải pháp xử lý chất thải, trong thời
gian tới các trang trại chăn nuôi nằm trong khu dân cư hoặc không đảm bảo về
khoảng cách với khu vực dân cư phải di dời đến các khu quy hoạch chăn nuôi
tập trung tại các xã.
Thực hiện tốt Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông
qua hợp đồng; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn
với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn; các chính sách của Nhà nước
về phát triển kinh tế trang trại.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
Để phát triển kinh tế trang trại, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản
lý nhà nước, trên cơ sở lý luận và thực tiễn tại huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk,
cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
3.2.1. Thống nhất cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả của hệ thống
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực phát triển kinh tế trang trại
3.2.1.1. Thống nhất về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế trang trại từ Trung ương đến địa phương
- Ở cấp Trung ương: Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn là cơ
quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng
87
tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước chuyên ngành và thực thi nhiệm
vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế trang trại.
- Ở cấp tỉnh: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng tham mưu, giúp Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
Các Chi cục quản lý chuyên ngành giúp Giám đốc Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thực hiện chức năng quản lý nhà nước và triển khai các
nhiệm vụ về chuyên ngành trong việc tổ chức thực thi pháp luật; thực hiện công
việc tác nghiệp thường xuyên, đồng thời đề xuất về cơ chế, chính sách đối với
lĩnh vực chuyên ngành.
Trong đó, Chi cục Phát triển nông thôn là tổ chức hành chính trực thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giúp Giám đốc Sở tham mưu cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành và
tổ chức thực thi pháp luật về kinh tế hợp tác trong nông nghiệp; kinh tế trang
trại; kinh tế hộ.
- Ở cấp huyện: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở các huyện
hoặc Phòng Kinh tế ở các thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện; tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương về phát triển kinh tế hộ;
kinh tế trang trại nông thôn và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự
uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và theo quy định của pháp luật, bảo
đảm sự thống nhất quản lý của ngành, lĩnh vực công tác ở địa phương.
3.2.1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế trang trại
Đẩy mạnh phân công, phân nhiệm và tăng cường công tác phối hợp giữa
các phòng, ban chuyên môn của huyện và các xã trong quản lý nhà nước về
kinh tế trang trại. Cụ thể:
88
Phòng Nông nghiệp và PTNT cần phối hợp với các cơ quan chức năng
tăng cường rà soát quy hoạch, kế hoạch cụ thể phát triển các loại hình trang
trại; hướng dẫn lập hồ sơ dự án, đơn giản hóa các thủ tục hành chính; thường
xuyên phối hợp mở các lớp dạy nghề về nông nghiệp, nông thôn; đẩy nhanh
tiến độ cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.
Phòng Tài nguyên và Môi trường cần rà soát quy hoạch xây dựng nông
thôn mới, quy hoạch sử dụng đất, đẩy nhanh giải quyết các thủ tục giao đất,
cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các trang
trại, tăng cường quản lý nhà nước về môi trường.
Phòng Kinh tế và Hạ tầng hướng dẫn kỹ thuật - công nghệ và quản lý
xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng quy hoạch trang trại và các hộ xây dựng trang
trại. Hướng dẫn cho nông dân tổ chức sản xuất các mặt hàng đáp ứng nhu cầu
của thị trường, tìm đầu ra cho nông sản.
Phòng Tài chính - Kế hoạch xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, kế hoạch phát triển trang trại hàng năm và cho từng giai đoạn phù hợp với
thực tế địa phương, đề xuất về cơ chế hỗ trợ đầu tư, hồ sơ thanh quyết toán đơn
giản, tinh gọn.
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội đẩy mạnh việc thực hiện chính
sách về lao động, dạy nghề theo Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020 (ban hành theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/22/2009
của Chính phủ).
Phòng Văn hóa - Thông tin, Đài Truyền thanh huyện làm tốt công tác
tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, giới thiệu các
mô hình hay, mô hình trang trại có hiệu quả để nhiều người biết và làm theo.
Đối với các xã, thị trấn trong huyện: Tổ chức đánh giá kết quả phát triển
kinh tế trang trại, phổ biến các chủ trương, cơ chế hỗ trợ, tuyên truyền vận động
cán bộ và nhân dân tham gia thực hiện, rà soát quy hoạch phát triển nông, lâm,
thủy sản, gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch sử dụng đất
89
cho phát triển trang trại, xây dựng cơ chế hỗ trợ, chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước ở cơ sở đối với các trang trại trên địa bàn. Đối với các tổ chức chính trị -
xã hội, Hội chăn nuôi - thú y và thủy sản tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội
viên tích cực tham gia hưởng ứng, xây dựng và phát triển trang trại.
3.2.1.3 Đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông
- Thực hiện chế độ “một cửa” và “một cửa liên thông” nhằm đơn giản
hóa thủ tục hành chính. Xây dựng bộ mẫu dự án trang trại, mẫu cam kết bảo vệ
môi trường, mẫu thiết kế mặt bằng xây dựng trang trại, ban hành các văn bản
hướng dẫn, tổ chức tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
- Tất cả các cá nhân, tổ chức có nhu cầu xây dựng trang trại đều cần phải
lập dự án và được UBND huyện phê duyệt. Đối với trang trại chăn nuôi:
Khoảng cách từ trại chăn nuôi lợn đến trường học, bệnh viện, khu dân cư, nơi
thường xuyên tập trung đông người, đường giao thông chính, nguồn nước mặt
tối thiểu là 200m; Khoảng cách đối với trang trại chăn nuôi gia cầm là 100m.
Trang trại được xây dựng nhà quản lý có diện tích sử dụng không quá 50 m2,
thời gian sử dụng 20 năm. Không được xây dựng nhà ở (nhà 2 tầng trở lên) và
các công trình sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, trên đất trang trại.
- Thường xuyên rà soát tất cả các trang trại trên địa bàn, kiểm tra thẩm
định cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại cho những trang trại bảo đảm tiêu
chí và trình tự cấp theo Thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011 của
Bộ Nông nghiệp và PTNT.
3.2.1.4. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cơ sở vật chất, chế độ
cho cán bộ quản lý
Nhân tố con người là một trong những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rất
lớn đến kết quả quản lý nhà nước đối với trang trại, nên phải có đội ngũ cán bộ
quản lý “có tâm và có tầm”. Cần có các giải pháp thực tế, đó là:
90
- Tổ chức mở các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến thức nâng cao trình độ
nghiệp vụ chuyên môn về quản lý nhà nước nói chung và về quản lý trang trại
nói riêng cho đội ngũ cán bộ quản lý cấp huyện và cấp xã. Thường xuyên bổ
sung kiến thức về tin học và ngoại ngữ cho cán bộ, công chức...
- Quy hoạch, rà soát nguồn cán bộ trẻ, tuyên truyền vận động, chọn cử
cán bộ công chức để đào tạo chuyên môn, với tiêu chí công chức quản lý cấp
huyện có trình độ đại học trở lên về chuyên môn. Cán bộ quản lý cấp xã có
trình độ từ cao đẳng đến đại học.
- Tổ chức mở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, cho
cán bộ công chức ở cả cấp huyện và cấp xã, với tiêu chí cán bộ công chức phải
có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc: Huyện và xã quan tâm bố trí
kinh phí đầu tư xây dựng công sở, mua sắm trang thiết bị phục vụ làm việc như
máy tính, bàn ghế, tủ làm việc...
- Xây dựng nội quy, quy chế làm việc. Phân công nhiệm vụ rõ ràng cho
từng chức danh cán bộ công chức cấp xã gồm: Địa chính - Xây dựng - Môi
trường - Nông nghiệp - Nông thôn mới. Phát huy hiệu quả làm việc, quan tâm
đến đời sống vật chất và tinh thần cũng như cơ hội thăng tiến của cán bộ công
chức, tạo không khí thoải mái nơi công sở, tạo động lực làm việc tốt hơn.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về kinh tế
trang trại
3.2.2.1. Củng cố địa vị pháp lý của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là một loại hình sản xuất kinh doanh mới xuất hiện
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Pháp luật cũng ghi nhận đây là
một hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, dựa
trên cơ sở hộ gia đình và là một hình thức phát triển cao hơn của hộ gia đình.
Tuy nhiên, hiện nay các trang trại chưa được xác định là đơn vị kinh tế thuộc
91
loại hình kinh doanh nào. Trên thực tế, các trang trại được coi như kinh tế hộ,
kinh tế tiểu chủ, được đăng ký về nhân khẩu và bộ sổ thuế như hộ gia đình.
Với tư cách pháp lý như vậy đã khiến các trang trại gặp không ít khó
khăn trong quá trình hoạt động sản xuất, nhất là trong quan hệ với ngân hàng,
cơ quan thuế. Đặc biệt đây sẽ là trở ngại rất lớn cho các trang trại khi tham gia
vào các quan hệ kinh doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Mặt khác, giấy chứng nhận kinh tế trang trại khi được cấp sẽ có giá trị pháp lý
như thế nào? Nó có thay thế cho giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không?
Hay đây chỉ là sự xác nhận một hộ đủ điều kiện để kinh doanh theo hình thức
trang trại và sau đó trang trại vẫn phải đăng ký kinh doanh? Vấn đề này vẫn
chưa được pháp luật quy định rõ ràng.
Cũng vì chưa làm rõ tư cách pháp lý nên nhiều vấn đề như đăng ký kinh
doanh, tổ chức hoạt động, giải thể, liên doanh, hợp tác… của kinh tế trang trại
vẫn chưa được pháp luật quan tâm điều chỉnh. Chính vì vậy, việc xác định tư
cách pháp lý phù hợp và tạo một hành lang pháp lý cho trang trại là một yêu
cầu rất cần thiết xuất phát từ thực tiễn khách quan của loại hình này và công
tác quản lý Nhà nước. Để thực hiện điều này, Nhà nước cần quan tâm xây dựng
một Luật hoặc một Pháp lệnh về Kinh tế trang trại (như loại hình kinh tế hợp
tác hiện nay đã có Luật Hợp tác xã năm 2013 điều chỉnh) để tạo hành lang pháp
lý tốt hơn cho quá trình phát triển của trang trại.
3.2.2.2. Tăng cường rà soát sửa đổi, bổ sung và thay thế những văn bản
quản lý nhà nước không còn phù hợp trong lĩnh vực kinh tế trang trại.
- Đối với Trung ương:
Tiến hành rà soát, phân tích một cách đầy đủ để bãi bỏ những quy định
trùng lặp, chồng chéo, không còn phù hợp; hoàn thiện các văn bản quản lý nhà
nước đặc biệt là về đất đai, tín dụng (Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số
55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ…).
92
Ban hành văn bản hợp nhất, mang tính hệ thống, tích hợp tất cả những
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại, tránh tình trạng phân tán, dàn trải
và chồng chéo.
Sửa đổi, bổ sung những quy định về lập hồ sơ môi trường (theo Nghị
định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ) và tiêu chí xác định
kinh tế trang trại (theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/4/2011
của Bộ Nông nghiệp và PTNT) theo hướng chú trọng hơn vào tiêu chí giá trị
sản lượng hàng hóa, gắn tiêu chí diện tích với hiệu quả sử dụng đất.
- Đối với địa phương:
Thay thế một số văn bản pháp lý quan trọng để thực hiện công tác quản
lý nhà nước về phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhưng đã
hết hiệu lực thi hành.
Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-
HĐND, ngày 10/07/2009 về một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2010 – 2015. Tuy vậy, từ năm 2016 đến nay, Nghị quyết
trên đã hết hiệu lực và vẫn chưa có văn bản thay thế. HĐND tỉnh cần có văn
bản mới thay thế Nghị quyết 06 để các địa phương, cơ quan chức năng và chủ
trang trại có cơ sở thực hiện.
Tỉnh cần có chủ trương phân cấp mạnh mẽ hơn cho cấp huyện, xã trong
công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt động kiểm tra các cơ sở sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp, trang trại (Thông tư số 04/2010/TT-BNNPTNT
ngày 15/01/2010 của Bộ Nông nghiệp và PTNT).
3.2.3. Nâng cao hiệu quả các chính sách hỗ trợ kinh tế trang trại
3.2.3.1. Tiến hành giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất
Tiến hành giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho diện tích chưa được cấp.
93
Các địa phương rà soát lại trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng
nhận theo quy định hiện hành.
Trong những năm qua, Nhà nước có nhiều quy định về đất đai và được
điều chỉnh, sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Tuy nhiên, một số quy định hiện nay chưa thật sự thông thoáng, chưa
khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa và đảm bảo công bằng trong nhân
dân. Do vậy cần được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp:
- Giảm thiểu các thủ tục hành chính phiền hà, đẩy nhanh tiến bộ cấp giấy
chứng nhận QSDĐ trang trại - tạo cơ sở pháp lý cho các chủ trang trại yên tâm
đầu tư phát triển sản xuất, sử dụng đất đai có hiệu quả.
- Khuyến khích và thúc đẩy nhanh quá trình nông dân chuyển đổi ruộng
đất, tiến hành “dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất” để hình thành những vùng
sản xuất hàng hóa tập trung bằng các hình thức: tuyên truyền thuyết phục, đơn
giản các thủ tục chuyển đổi, hỗ trợ kinh phí thực hiện dồn điền đổi thửa trong
việc đo đạt, vẽ lại bản đồ, tập huấn…
- Tăng hạn mức chuyển nhượng và thời hạn cho thuê đất:
Đối với đất công ích, thời hạn cho thuê đất có thể xác định theo kế hoạch
sử dụng đất của UBND xã.
UBND các huyện căn cứ nhu cầu sử dụng đất thể hiện tại đề án (dự án)
đầu tư xây dựng trang trại thực hiện các thủ tục cho các hộ gia đình, cá nhân
thuê đất theo quy định của Luật đất đai, thời hạn giao đất được xác định theo
thời gian thể hiện tại đề án (dự án) nhưng tối đa không quá 50 năm.
Hộ gia đình cá nhân được chuyển đổi đất, nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, nhận thuê và thuê lại của hộ gia đình, cá nhân khác để lập trang
trại trong thời gian giao đất và cho thuê đất. Việc chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại theo các quy định của nhà nước.
- Cho phép xây dựng một số công trình trên đất trang trại:
94
Cho phép chủ đầu tư trang trại được xây dựng một số công trình hạ tầng
thiết yếu phục vụ trực tiếp cho mục đích sản xuất: đường nội bộ, cấp thoát nước,
điện, xử lý chất thải, chuồng trại, nhà xưởng, kho, nhà quản lý bảo vệ và một
số công trình phụ trợ khác theo đề án, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3.2.3.2. Đổi mới chính sách về vốn và tín dụng cho trang trại
Cần xác định tư cách pháp nhân của trang trại để tiến hành các quan hệ
giao dịch vay vốn ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay
trung và dài hạn cho các trang trại với mức lớn hơn và lãi suất ưu đãi để đáp
ứng nhu cầu của kinh tế trang trại.
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ trang trại tiếp xúc với nguồn vốn. Ngân hàng Chính sách - Xã hội huyện
tiếp tục hỗ trợ hộ nông dân, chủ trang trại vay vốn thông qua các chương trình
của mình, bên cạnh đó huy động nội lực từ các quỹ tín dụng nhân dân và tổ vay
vốn để thuận tiện trong quá trình sản xuất.
Ngân hàng cần đơn giản hoá các thủ tục cho vay, tập trung hướng dẫn,
giúp đỡ các chủ trang trại lập dự án vay vốn theo hướng thiết thực, khả thi để
thực hiện cho vay không cần thế chấp, qua đó hỗ trợ, giúp đỡ chủ trang trại
quản lý, thực hiện các dự án đầu tư đạt hiệu quả kinh tế, thu hồi được vốn.
Xây dựng mô hình quan hệ tay ba gữa chủ trang trại, doanh nghiệp
thương nghiệp và ngân hàng. Đây là hình thức cung cấp giống, phân bón phục
vụ sản xuất gắn với cho vay vốn vốn sản xuất dựa trên cơ sở xác lập mối quan
hệ kinh tế giữa các đối tác có tính chất pháp lý, mối quan hệ đó là:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp và trang trại là quan hệ cung ứng giống, vật
tư và tiêu thụ sản phẩm cho trang trại.
- Quan hệ giữa ngân hàng nông nghiệp và trang trại là quan hệ tín dụng,
ngân hàng ký khế ước cho trang trại vay vốn sản xuất kinh doanh và khi hết
hạn vay các trang trại có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng theo khế ước đã ký.
95
- Quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp là mối quan hệ thanh toán
cho doanh nghiệp giá trị vật tư, giống, theo hoá đơn giao hàng khi cung cấp cho
trang trại với giá cả phù hợp.
Dành một phần vốn thỏa đáng từ các chương trình, dự án như vốn tín
dụng ưu đãi, vốn chương trình trồng rừng, quỹ giải quyết việc làm, vốn viện
trợ... cho các trang trại để đầu tư sản xuất.
Khuyến khích các chủ trang trại tự huy động các nguồn vốn trong gia
đình, bạn bè, người thân để đầu tư nhằm phát huy nội lực. Trên cơ sở Luật Dân
sự, cơ quan có thẩm quyền các cấp ban hành các quy định cụ thể nhằm tạo điều
kiện cũng như bảo vệ các quan hệ huy động vốn phát triển kinh tế trang trại
trong cộng đồng dân cư, đảm bảo an toàn cho người đầu tư vốn.
Đối với vùng sâu, vùng xa, những hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc có chí
làm giàu và có khả năng làm giàu, huyện nên giao cho Ngân hàng chính sách
ưu tiên cho những hộ này vay vốn đầu tư sản xuất, lập trang trại, tạo mô hình
và hướng dẫn nông dân trong vùng phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
Những hộ nông dân thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng sản xuất tập trung quy mô lớn có nhu cầu vay vốn để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất chế biến, đầu tư xây dựng cơ bản
vườn cây... thì được vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn vốn vay tối thiểu bằng
thời gian mà cây con đã thu hoạch sản phẩm đầu tiên.
Độ rủi ro trong nông nghiệp khá cao, tình trạng hạn hán, sâu bệnh, dịch
bệnh... sự thiếu ổn định trên thị trường, giá cả cũng vượt ngoài tầm kiểm soát
của trang trại. Để giúp các trang trại hạn chế, khắc phục rủi ro, sớm ổn định sản
xuất sau thiệt hại, phải sớm có chính sách và giải pháp về bảo hiểm đối với cây
trồng vật nuôi. Đây là một biện pháp bảo vệ mình một cách tự nguyện đã được
phổ biến ở các nước phát triển.
Các tổ chức khuyến nông, hội nông dân, các cơ quan quản lý chức năng
nhà nước ở địa phương cần bám sát thực tế của các trang trại, giúp các trang
96
trại lập các phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư, thủ tục xin vay
vốn. Ngành ngân hàng phải trực tiếp tham gia vào công việc tư vấn cho các chủ
trang trại, có như vậy mới đảm bảo đầu tư chắc chắn có hiệu quả và thu hồi
đúng thời hạn.
3.2.3.3. Về chính sách thuế
Để khuyến khích hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại,
nhất là những vùng đất trống, đồi núi trọc, vùng sâu, vùng xa, cần có chính sách
thực hiện miễn giảm thuế cho các trang trại từ 1 - 3 năm tuỳ theo loại hình sản
xuất kinh doanh và địa bàn canh tác của trang trại.
Các trang trại được giảm tiền thuế đất theo quy định của pháp luật về đất
đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng
cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải
tạo vào mục đích sản xuất nông, ngư nghiệp.
3.2.3.4. Nâng cao trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ của các
trang trại.
Trang trại là nơi sản xuất nông sản hàng hóa nên phải có khả năng cạnh
tranh cao. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, phải nâng cao trình độ ứng dụng
khoa học và công nghệ.
Các phòng, ban chuyên môn trên địa bàn huyện cần có cơ chế thích hợp
trong việc thực hiện chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ
mới phù hợp cho trang trại, thúc đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
UBND huyện tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ các chủ trang trại mạnh
dạn đầu tư nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất
nông, lâm nghiệp, tăng năng suất và chất lượng giống cây trồng, vật nuôi. Tăng
cường công tác kỹ thuật phục vụ sản xuất, phục vụ các trang trại như khuyến
nông, bảo vệ thực vật, thú y… để thực hiện việc hướng dẫn chuyển giao kỹ
thuật nông nghiệp, phòng trừ sâu bệnh, phục vụ tưới tiêu… đến các trang trại.
97
Nhà nước đóng vai trò chủ động trong việc xây dựng mối liên kết, hợp
đồng giữa các trang trại với nhà khoa học trong việc nghiên cứu, chế tạo máy
móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu lai tạo giống cây trồng, hướng
dẫn kỹ thuật canh tác cho chủ trang trại và người lao động của trang trại, nhờ
đó làm tăng năng suất, tăng hàm lượng “chất xám” trong các sản phẩm do các
trang trại của huyện làm ra. Ngược lại, các trang trại tạo môi trường cho nhà
khoa học nghiên cứu và thực nghiệm. Mối liên kết này được thực hiện thông
qua hợp đồng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kĩ thuật
tiên tiến vào sản xuất trong các trang trại mà các cơ quan quản lý nhà nước cấp
huyện phải làm vai trò trung gian.
Song song với việc tuyên truyền đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật vào phát triển kinh tế trang trại, nhà nước cũng cần đẩy mạnh
việc triển khai công nghệ sau thu hoạch, quy hoạch công nghệ chế biến. Quy
hoạch, xây dựng các cơ sở giết mổ chế biến sản phẩm gia súc, gia cầm xa các
khu vực đông dân, thị trấn và đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh môi trường.
Chọn hướng phát triển công nghệ chế biến ở những vùng trọng điểm, vùng đã
hình thành khu chuyên canh nguyên liệu nông sản.
Hỗ trợ kinh phí khai hoang, giống cho việc phát triển diện tích cây ăn
quả mới như mít nghệ, bơ, macca…
Tăng cường công tác kỹ thuật phục vụ sản xuất như khuyến nông, bảo
vệ thực vật, thú y nằm hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, phòng trừ
sâu bệnh dịch hại.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch giống, thực hiện quy trình sản
xuất, du nhập giống chất lượng cao và sạch bệnh. Đa dạng hoá các loại giống
cây trồng, vật nuôi. Đưa các đối tượng nuôi, trồng đã thử nghiệm có hiệu quả
vào sản xuất để đa dạng hoá các đối tượng nuôi, trồng.
98
Tập trung đổi mới giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ chế biến, tăng
cường công tác chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi, áp dụng công nghệ sau
thu hoạch, bảo vệ và tăng độ phì nhiêu của đất, bảo vệ nguồn nước.
Quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây công nghiệp, cây
lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống hoặc hỗ trợ một số trang trại có
điều kiện sản xuất giống để đảm bảo giống tốt, giống có chất lượng cao cung
cấp cho các trang trại và các hộ nông dân.
3.2.3.5. Khuyến khích trang trại sản xuất hàng hóa theo hướng liên
doanh, liên kết và ký kết hợp đồng
Khuyến khích hình thành các trang trại theo mô hình liên kết giữa trang
trại với nông dân. Đây là một hình thức liên kết mà một trang trại có uy tín tiến
hành ký hợp đồng cam kết với các hộ nông dân trong vùng về việc sử dụng
ruộng đất theo kế hoạch sản xuất chung, việc tiến hành canh tác vẫn giao cho
các hộ gia đình thực hiện. Tùy theo quy mô và trình độ sản xuất, các trang trại
phát triển quy mô, với tầm vóc như doanh nghiệp để cung ứng giống, chuyển
giao kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và tổ chức tiêu thụ cho
nông dân (xem Hình 3.1).
Hình 3.1: Mô hình liên kết giữa nông dân và trang trại
Nguồn: Hội Làm vườn Việt Nam (http://www.vacvina.org.vn)
99
Các trang trại trong cùng lĩnh vực phải liên kết và hợp tác với nhau, bên
cạnh việc tìm kiếm hợp tác với những tổ chức kinh tế khác, nhằm chia sẻ kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
Khuyến khích hình thành chủ trang trại tập thể theo cách thức hợp tác
giữa các chủ hộ sản xuất gần nhau.
Một hình thức hợp tác, liên kết tiêu biểu và đem lại hiệu quả cao là
chương trình liên kết “5 nhà” giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp
nhà nông, nhà tín dụng là tiêu biểu nhất (xem Hình 3.2).
Hình 3.2. Mô hình liên kết “05 nhà” dạng lưới trong phát triển KTTT
Nguồn: Quy hoạch phát triển KTTT huyện Cư Kuin, giai đoạn 2015 - 2020
Theo đó, Nhà nước hỗ trợ liên hệ, tìm kiếm doanh nghiệp có thể hỗ trợ
đầu vào cho nông dân sản xuất, bao tiêu sản phẩm đầu ra; quy hoạch, hướng dẫn
người nông dân sản xuất cây, con để đảm bảo số lượng, chất lượng yêu cầu;
hướng dẫn nhân dân thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác hoặc các hợp tác xã, cử
ra ban đại diện cùng với chính quyền làm việc với doanh nghiệp thống nhất giá
cả hoặc những vấn đề khó khăn, phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng;
đồng thời, chính quyền tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đúng
100
hợp đồng để giữ uy tín, duy trì niềm tin đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, có thể
dành một lượng vốn ngân sách hỗ trợ nhân dân sản xuất vụ mùa sau nếu vụ mùa
trước doanh nghiệp khó khăn trong việc thu mua vì nhu cầu thị trường.
Khuyến khích, hỗ trợ các trang trại có điều kiện liên doanh, liên kết, hợp
tác hình thành các hợp tác xã, hiệp hội, câu lạc bộ trang trại để phát huy sức
mạnh tổng hợp, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các cấp chính
quyền và các ngành chức năng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, vận động để các
hình thức hợp tác ngày càng phong phú và phạm vi hợp tác ngày càng rộng.
Hàng năm, huyện cần hỗ trợ kinh phí xây dựng từ 01 đến 02 mô hình
trang trại điển hình phù hợp với loại hình trang trại địa phương; tổ chức giới
thiệu, nhân rộng mô hình; tổ chức tham quan, học tập và trao đổi kinh nghiệm
trong và ngoài huyện.
3.2.3.6. Hỗ trợ trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông lâm sản hàng hóa.
Hướng dẫn các cơ sở công nghiệp chế biến hợp đồng cung ứng vật tư và
tiêu thụ nông, lâm sản hàng hóa với các chủ trang trại và hộ nông dân. Tuyên
truyền, hướng dẫn và giúp đỡ các trang trại, thực hiện liên kết giữa các trang
trại với các doanh nghiệp Nhà nước để phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại có
khả năng tham gia xuất khẩu sản xuất trực tiếp (như cà phê, hạt điều, hồ tiêu
Cư Kuin). Quy hoạch và đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở
các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại.
Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, hướng dẫn các trang trại
sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường trong và ngoài nước.
Để phát triển nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp ở huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk nhanh hơn thì vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập thị trường
rất là quan trọng và cần thiết. Trong đó, coi trọng thị trường nội tỉnh, trong nước
và tăng cường quan hệ, liên kết với các tỉnh lân cận như Lâm Đồng, Gia Lai,
Đắk Nông, Khánh Hòa để mở rộng thị trường.
101
Mục tiêu của chính sách hỗ trợ và phát triển thị trường nông sản nhằm
đảm bảo giá cả và tiêu thụ hết sản phẩm làm ra, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
phong phú của người tiêu dùng, người sản xuất có lợi nhuận ổn định, thúc đẩy
sản xuất nông sản hàng hóa phát triển.
Do đó, giải pháp hỗ trợ và giải quyết thị trường cho các hàng hóa, nông
sản từ các trang trại ở huyện Cư Kuin cần tập trung các nội dung chính sau:
- Tăng cường tổ chức quảng bá, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường.
Việc tổ chức xúc tiến thương mại, thông tin thị trường… bằng nhiều hình
thức phong phú, phù hợp với nông dân, chủ trang trại như: qua hệ thống truyền
thông của xã, huyện, câu lạc bộ khuyến nông, tổ chức hội chợ, phiên chợ về
giống cây trồng vật nuôi, phiên chợ rau an toàn; từng bước thực hiện giới thiệu
và bán hàng qua mạng, trang Website… giúp nông dân nắm bắt được thị trường
và yêu cầu của thị trường để quyết định sản xuất cho phù hợp, đồng thời tạo
điều kiện cho nông dân giới thiệu, quảng bá sản phẩm của mình làm ra với
người tiêu dùng…
Triển khai việc cung cấp thông tin thị trường; chuyển giao kỹ thuật giúp
cho chủ trang trại định hướng sản xuất kinh doanh cho phù hợp với thị trường
trong nước và ngoài nước.
Triển khai xây dựng và thực hiện các dự án về chế biến nông sản, xây
dựng các chợ bán buôn và bán lẻ nông sản theo đề án về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Khuyến khích các chủ trang trại, các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ký hợp đồng tiêu thụ nông sản với người sản xuất (HTX, trang trại, đại
diện hộ nông dân) theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ
tướng Chính phủ, coi đây là một trong những hướng cơ bản để giải quyết thị
trường nông sản cho trang trại.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hưởng các chính sách khuyến
khích của nhà nước về đất đai, đầu tư, tín dụng, xúc tiến thương mại… để đầu
102
tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản tại các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung. Trong đó, tập trung sơ chế rau quả sạch, giết mổ và chế biến thịt lợn, gia
cầm, thủy sản …
- Khuyến khích các chủ trang trại đầu tư phát triển sản xuất theo hướng
chuyên canh cao, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo vùng nguyên
liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá.
- Ưu tiên dành một số diện tích, địa điểm, quầy hàng tại các khu dân cư,
khu chợ… phục vụ tiêu thụ sản phẩm cho trang trại.
3.2.3.7. Nâng cao năng lực quản lý của chủ trang trại và nâng cao tay
nghề của người lao động.
Số chủ trang trại có trình độ chuyên môn mới chiếm rất thấp, do đó việc
đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang trại đặt ra rất nhiều cấp
bách. Trước mắt, thông qua tổng kết, tổ chức tham quan các trang trại quản lý
kinh doanh giỏi để học tập lẫn nhau và tổ chức bồi dưỡng những kiến thức về
khoa học và quản lý. Về lâu dài, tổ chức các khóa đào tạo chuyên môn về kỹ
thuật, nghiệp vụ quản lý cho các chủ trang trại.
Thực hiện các biện pháp nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật chuyên môn
cho các chủ trang trại; việc đào tạo, bồi dưỡng cần được tính toán cho phù hợp từ
thấp đến cao, nội dung đi vào cụ thể có liên quan đến yêu cầu phát triển sản xuất
kinh doanh của trang trại. Kết hợp giữa tập huấn với chuyển giao tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao kiến thức và kỹ năng cho các trang trại.
Ngoài việc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức
cho các chủ trang trại, cần có các lớp dạy nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ nâng
cao như xây dựng và quản lý dự án, những vấn đề quản lý thuộc lĩnh vực ứng
dụng công nghệ cao, bảo quản chế biến nông sản…
Có chính sách khuyến khích các chủ trang trại tham gia các lớp tập huấn
ngắn ngày đi tham quan học tập ở trong và nước tỉnh để nâng cao trình độ và
kiến thức cho các chủ trang trại.
103
3.2.3.8. Một số chính sách hỗ trợ khác
Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm kinh tế, văn hoá với hệ thống
hạ tầng văn hoá, xã hội, xây dựng các hồ đập chứa nước, các trạm bơm, hệ
thống kênh dẫn phục vụ tưới tiêu. Mở rộng và nâng cấp hệ thống đường giao
thông nông thôn đảm bảo giao thông, vận chuyển và đi lại thuận lợi. Đầu tư cải
tạo, mở rộng và nâng cấp hệ thống điện, thông tin liên lạc, phát triển thị trường
dịch vụ cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Hỗ trợ một phần vốn xây dựng
các công trình chợ và các tổ chức thu mua, cung ứng vật tư cho các khu vực có
trang trại theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông sản (sơ chế) tại chỗ
nhằm có thị trường ổn định, giữ vững và nâng cao giá trị sản phẩm cho các
trang trại, phải gắn sản xuất với chế biến. Đẩy mạnh hình thức tiêu thụ sản
phẩm theo hợp đồng kinh tế giữa trang trại với các cơ sở chế biến.
UBND huyện và các xã căn cứ tình hình ngân sách nhà nước của địa
phương có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin.
Có chính sách hỗ trợ di dời đối với các trang trại nằm ngoài quy hoạch
hoặc gây ô nhiễm môi trường vào khu trang trại tập trung.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện các
văn bản pháp quy về kinh tế trang trại
Với tinh thần phát triển có định hướng và theo quy hoạch, các cơ quan
quản lý Nhà nước tại huyện Cư Kuin cần tích cực tổ chức tuyên truyền, hướng
dẫn thực hiện các chủ trương chính sách, cơ chế phát triển kinh tế trang trại của
Đảng, Nhà nước, của tỉnh và của huyện. Cụ thể:
+ Phòng Nông nghiệp và PTNT, phòng Tài nguyên và Môi trường,
phòng Tài chính - Kế hoạch, phòng Kinh tế và Hạ tầng, phòng Văn hóa và
Thông tin, bộ phận một cửa thuộc Văn phòng HĐND & UBND huyện tổ chức
104
tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh
tế trang trại, tham mưu cho UBND huyện các văn bản hướng dẫn thực hiện.
+ Hệ thống chính quyền cơ sở bao gồm HĐND và UBND của 08 xã trên
địa bàn, trong đó có các cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác tuyên truyền
như công chức văn hóa, địa chính, xây dựng, nông nghiệp, môi trường, nông
thôn mới, văn phòng, thống kê; ở cấp thôn có chức danh trưởng, phó thôn, buôn
có nhiệm vụ tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế trang trại, tham mưu xây dựng cơ chế hỗ trợ trang trại, vận
động nhân dân tham gia làm kinh tế trang trại và thực hiện các chính sách đối
với trang trại, quản lý trang trại.
+ Hệ thống Khuyến nông huyện: Bao gồm trạm Khuyến nông huyện và
đội ngũ Khuyến nông viên ở cơ sở tuyên truyền về các chương trình hỗ trợ phát
triển sản xuất, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng mô hình trình diễn, hội
nghị đầu bờ.
+ Hệ thống truyền thanh: Bao gồm 01 đài truyền thanh huyện và 08 đài
truyền thanh cấp xã và 113 thôn, buôn trên địa bàn huyện đều có hệ thống loa
truyền thanh. Nội dung chuyển tải những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, các mô hình hay, cách làm sáng tạo, các gương điển hình tiên tiến
trên địa bàn về sản xuất nông nghiệp, phát triển trang trại và xây dựng nông
thôn mới.
+ Chi cục Thuế: Có chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền các chủ trương,
chính sách về thuế đối với kinh tế trang trại trên địa bàn.
+ Hệ thống tín dụng, ngân hàng trên địa bàn huyện có nhiệm vụ tuyên
truyền các chủ trương, chính sách hỗ trợ vốn vay phát triển sản xuất đối với các
trang trại.
+ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (bao gồm Đoàn Thanh niên,
Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn lao động)
được tổ chức từ huyện đến các thôn, buôn. Đây là lực lượng chính có vai trò
105
tuyên truyền các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế nói chung, trong
đó có kinh tế trang trại, tuyên truyền giới thiệu các mô hình mới, các gương
điển hình, vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên thực hiện làm theo.
+ Các tổ chức xã hội nghề nghiệp gồm có Hội Chăn nuôi - Thú y và Thủy
sản, Hội Cựu Thanh niên xung phong, Hội Sinh vật cảnh, Hội Đông y, Hội
Khuyến học... theo tôn chỉ, mục đích riêng của từng tổ chức đều có nhiệm vụ
tuyên truyền các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế trang
trại, cũng như vận động hội viên tham gia làm kinh tế trang trại.
3.2.5. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế trang trại theo hướng
sản xuất hàng hóa gắn với nhu cầu thị trường
Để trang trại phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, hình thành các
vùng sản xuất tập trung, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, khắc phục tình trạng
trang trại phát triển tự phát, các cấp chính quyền từ huyện đến xã cần rà soát lại
quy hoạch phát triển kinh tế trang trại gắn với quy hoạch nông thôn mới, quy
hoạch sử dụng đất.
Tăng cường quản lý quy hoạch các loại hình trang trại và công tác xây
dựng, xác định các vùng phát triển trang trại gắn với các dự án ưu tiên.
Công bố quỹ đất có thể giao hoặc cho thuê từ nguồn quỹ đất công do các
xã quản lý và tích tụ đất đai do mua bán, chuyển nhượng để phát triển KTTT.
Tập trung tuyên truyền, chuyển đổi các loại cây trồng, con nuôi mới đem
lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện sản xuất của huyện và theo nhu
cầu của thị trường hiện nay.
3.2.6. Triển khai một số dự án ưu tiên để hỗ trợ phát triển kinh tế trang
trại huyện Cư Kuin từ nay đến 2020
3.2.6.1. Cơ sở đề xuất
Việc đề xuất và triển khai thực hiện các dự án ưu tiên nhằm hỗ trợ có
hiệu quả cho kinh tế trang trại phát triển nhanh và bền vững, UBND huyện Cư
Kuin và các cơ quan chức năng cần chú ý một số điểm như sau:
106
+ Tập trung vào những ngành, lĩnh vực có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế trang trại huyện Cư Kuin và của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn
hiện nay.
+ Phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước, khả năng tổ chức thực
hiện ở cơ sở, thu hút nhiều lao động, nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân
dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa.
+ Các dự án khai thác được tiềm năng, thế mạnh và phát huy nội lực của
chủ trang trại và dự án có khả năng mở rộng thị trường.
3.2.6.2. Một số dự án ưu tiên
- Dự án về chế biến và bảo quản nông sản phẩm sau thu hoạch.
+ Mục tiêu dự án: Hỗ trợ chủ trang trại về vốn để đầu tư dây chuyền
chế biến và bảo quản nông sản phẩm sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm.
+ Thời gian thực hiện: (nay - 2020)
+ Kinh phí dự kiến: 120 triệu đồng (02 mô hình x 60 triệu đồng/mô hình)
- Dự án cơ giới hoá nông nghiệp:
+ Mục tiêu dự án: Hỗ trợ chủ trang trại về vốn để đầu tư để đưa các loại
máy móc vào sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Thời gian thực hiện: (nay - 2020)
+ Kinh phí dự kiến: 200 triệu đồng (04 mô hình x 50 triệu đồng/mô hình)
- Dự án hỗ trợ khoa học công nghệ:
+ Mục tiêu dự án: Hỗ trợ chủ trang trại về vốn để đầu tư xây dựng mô
hình sản xuất công nghệ cao, ứng dụng tiến bộ khoa học và đưa các loại giống
mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
+ Thời gian thực hiện: (nay - 2020)
+ Kinh phí dự kiến: 200 triệu đồng (04 mô hình x 50 triệu đồng/mô hình)
- Dự án đào tạo chủ trang trại:
107
+ Mục tiêu dự án: Nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật sản xuất cho chủ
trang trại nhằm giúp chủ trang trại thích ứng với điều kiện sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường.
+ Thời gian thực hiện: (nay - 2020)
+ Kinh phí dự kiến: 80 triệu đồng (80 chủ trang trại x 01 triệu
đồng/người).
3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong phát triển kinh
tế trang trại
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm
bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật canh tác bảo vệ và
làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo
pháp luật. Đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về tài sản
và các lợi ích khác.
- Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật
tư nông nghiệp, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, hàng kém
chất lượng để giúp nông dân và các chủ trang trại phát triển sản xuất có hiệu
quả, hạn chế rủi ro.
- UBND huyện cần quan tâm, bố trí kinh phí để đầu tư mua sắm trang
thiết bị sử dụng cho việc kiểm tra, xác định thông số ô nhiễm môi trường nhằm
phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước, kiểm tra và có cơ sở xử lý các vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được quan tâm, đầu tư.
3.2.8. Giảm thiểu, phòng ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường trong quá
trình phát triển kinh tế trang trại
Quá trình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện sẽ đi kèm với
việc làm môi trường bị ô nhiễm, nhất là môi trường nước, không khí, môi
trường đất; vì vậy, việc phát triển trang trại trên địa bàn phải đi đôi với bảo vệ
môi trường sinh thái bền vững.
108
- Đối với việc canh tác trên các trang trại đất vùng núi và gò đồi cần hạn
chế quá trình xói mòn, sạt lở đất tại các khu vực gần sông và hạn chế quá trình
phong hoá đất đá vào mùa khô cần tăng cường phủ xanh đất trống, trồng cây
che bóng, chắn gió để giảm xói mòn, rửa trôi.
Đối với trang trại chăn nuôi cần thực hiện chương trình dự án khí sinh
học qua đó đã chuyển giao công nghệ xử lý chất thải bằng phương pháp hầm
Biogas; ứng dụng chế phẩm vi sinh phối trộn với nước và thức ăn cho gia súc
gia cầm nhằm tăng hệ số sử dụng thức ăn, giảm mùi hôi thối và ô nhiễm chất
thải trong chăn nuôi; công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh, khi xây dựng
phải nằm trong khu vực quy hoạch khu chăn nuôi tập trung hoặc cách xa khu
dân cư, những trang trại hiện có nằm trong khu vực dân cư trong thời gian tới
cần phải di dời.
- Đối với các cơ sở sản xuất chế biến nông sản cần tính toàn kỹ các giải
pháp hạn chế bụi và tái chế phế phẩm. Các điểm giết mổ gia súc, gia cầm phải
được thiết kế và thực hiện quy trình giết mổ quy định tại Thông tư số
60/2010/TT-BNNPTNT ngày 25/10/2010 về “Quy định điều kiện vệ sinh thú
y đối với cơ sở giết mổ heo” và Thông tư số 61/2010/TT-BNNPTNT ngày
25/10/2010 của Bộ NN&PTNT về “Quy định điều kiện vệ sinh thú y đối với
cơ sở giết mổ gia cầm”.
- Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thân thiện với môi trường, sản
xuất sạch hơn. Tùy điều kiện cụ thể từng nơi để lựa chọn các mô hình phù hợp
nhằm đảm bảo việc thu gom triệt để nguồn thải từ quá trình chăn nuôi, không
để các nguồn thải phát tán ra ngoài môi trường, sử dụng một số chế phẩm sinh
học bổ sung vào thức ăn và chất thải chăn nuôi nhằm hạn chế khí độc hại và vi
sinh vật có hại, giảm ô nhiễm môi trường.
- Xây dựng dự án điều tra cơ bản về hiện trạng môi trường và nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh,
109
giết mổ gia súc, nuôi trồng chế biến thuỷ sản... làm cơ sở cho việc xây dựng
các chính sách quản lý phù hợp.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng KHCN bảo vệ môi trường
các lĩnh vực: công nghệ xử lý chất thải trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, chế
biến giết mổ, sản xuất thuốc và nuôi trồng và chế biến thuỷ sản;
- Nghiên cứu cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn, ưu đãi, khuyến khích các
hoạt động bảo vệ môi trường trong các khu vực chăn nuôi, giết mổ tập trung đã
được quy hoạch; các cơ quan, đơn vị và cá nhân tham gia những hoạt động
BVMT như: nghiên cứu ứng dụng và khảo nghiệm giống, thức ăn, hoá chất và
công nghệ xử lý ô nhiễm, BVMT.
- Triển khai các chương trình nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao
KHCN, BVMT cho các cơ sở sản xuất; áp dụng công nghệ mới tiết kiệm tài
nguyên, thân thiện với môi trường hơn; khuyến khích các cơ sở áp dụng sản
xuất sạch hơn.
- Đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân
lực để tăng cường năng lực trong công tác, kiểm tra, kiểm soát và quan trắc
cảnh báo môi trường, dịch bệnh. Đảm bảo có đủ khả năng kiểm soát và xử lý
các vấn đề môi trường của ngành trên phạm vi quản lý.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật;
- Xây dựng và ban hành các quy chuẩn, quy phạm,hướng dẫn để triển
khai thực hiện công tác BVMT trong sản xuất;
- Tăng cường công tác phối hợp quản lý môi trường giữa các đơn vị trong
và ngoài ngành.
110
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đắk Lắk nói chung và
huyện Cư Kuin hiện nay nói riêng, các cấp, các ngành, các địa phương trong
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Thống nhất cơ cấu tổ chức bộ máy và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan QLNNN về kinh tế trang trại;
hoàn thiện hệ thống văn bản QLNN về kinh tế trang trại; nâng cao hiệu quả các
chính sách hỗ trợ (về đất đai, vốn, tín dụng, thuế, thị trường tiêu thụ nông sản,
đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, khuyến khích trang trại
sản xuất hàng hóa theo hướng liên doanh, liên kết và ký kết hợp đồng…); đẩy
mạnh công tác tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện; rà soát, hoàn thiện quy
hoạch; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; giảm thiểu và phòng ngừa ô
nhiễm môi trường… và một số giải pháp cụ thể khác.
Muốn vậy, ngoài sự chủ động, nỗ lực của các cấp, các ngành trong bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế trang trại; cần phải có sự chung tay của các
bên liên quan, mà trước hết là sự hợp tác, chấp hành và nỗ lực không ngừng
của các chủ trang trại trên địa bàn, để góp phần đưa kinh tế trang trại của huyện
Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày càng phát triển nhanh, bền vững hơn.
111
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình đổi mới phát triển của đất nước, trong nông nghiệp,
nông thôn đã xuất hiện xuất hiện nhiều nhân tố mới mang ý nghĩa tích cực,
trong đó có kinh tế trang trại. Trong quá trình hình thành và phát triển, kinh tế
trang trại đã cho thấy sự phù hợp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong tình hình
mới. Kinh tế trang trại có vai trò to lớn trong nông nghiệp, góp phần thúc đẩy
sản xuất hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường và làm thay đổi diện mạo
kinh tế - xã hội nước ta hiện nay.
Luận văn “Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư
Kuin, tỉnh Đắk Lắk” đã làm rõ được:
- Cơ sở khoa học và kinh nghiệm quản lý nhà nước về kinh tế trang trại;
- Qua tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk và thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế trang trại, luận văn đã
chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Từ những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó, luận văn đã đưa ra 08
nhóm giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra: (1)
Thống nhất cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả của hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực phát triển kinh tế trang trại; (2) Hoàn thiện hệ thống
văn bản quản lý nhà nước về kinh tế trang trại; (3) Nâng cao hiệu quả các chính
sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại; (4) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và
hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp quy về phát triển trang trại; (5) Hoàn
thiện quy hoạch phát triển kinh tế trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa gắn
với nhu cầu thị trường; (6) Triển khai một số dự án ưu tiên để hỗ trợ phát triển
kinh tế trang trại huyện Cư Kuin từ nay đến 2020; (7) Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra trong phát triển kinh tế trang trại; (8) Giảm thiểu, phòng
ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển kinh tế trang trại.
112
Mặc dù còn hạn chế về nhiều mặt, song luận văn cơ bản đã hoàn thành
nhiệm vụ đề ra. Hy vọng với kết quả của luận văn sẽ có những đóng góp nhất
định và bổ ích cho công tác nghiên cứu lý luận cũng như hoạt động thực tiễn
của vấn đề quản lý nhà nước về kinh tế trang trại ở Việt Nam nói chung và tại
địa phương nói riêng trong thời gian tới.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tuy đã nỗ lực hết mình,
đầu tư nhiều công sức, thời gian… nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi thực sự biết ơn và trân trọng sự thông cảm cũng như những góp ý chân
thành của các giảng viên, nhà nghiên cứu, hội đồng thẩm định đề tài, cũng như
những ai quan tâm đến luận văn này./.
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (1988), Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, Nghị quyết
số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988, Hà Nội.
2. Chính phủ (2000), Kinh tế trang trại, Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP
ngày 02/2/2000, Hà Nội.
3. Chi cục Thống kê huyện Cư Kuin (2017), Hệ thống niên giám thống
kê 2016, Đắk Lắk.
4. Phan Công Chung (2006), Hỏi đáp về kinh tế trang trại và kỹ thuật
trồng cây công nghiệp, Nhà xuất bản Thanh Hóa, Thanh Hóa.
5. Hà Hoàng Dũng (2015), Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
6. Trần Quốc Đạt (2012), Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sỹ kinh tế phát triển, Đại học
Kinh tế Đà Nẵng, Đà Nẵng.
7. Nguyễn Đình Điền (2000), Trang trại gia đình, bước phát triển mới
của kinh tế hộ nông dân, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Nguyễn Điền và cộng sự (1993), Kinh tế trang trại gia đình trên thế
giới và ở Châu Á, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
9. Trần Đức (1998), Mô hình kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nhà xuất
bản Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Trần Đức (1995), Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Hai (2000), Một số nhận thức về kinh tế trang trại Việt Nam,
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Quản lý hành
chính nhà nước, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
114
13. Hội đồng nhân dân huyện Cư Kuin (2017), Báo cáo gám sát việc
chấp hành pháp luật trong công tác quản lý các trang trại chăn nuôi trên địa
bàn huyện, Báo cáo số 47/BC-HĐND ngày 25/10/2017, Cư Kuin.
14. Trần Lệ Thị Bích Hồng (2007), Thực trạng và giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên,
Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học
Thái Nguyên, Thái Nguyên.
15. Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Lan (2003), Kinh tế trang trại và những giải pháp thúc
đẩy sự phát triển kinh tế trang trại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Đại
học Ngoại thương, Hà Nội.
17. Trương Thành Long (2014), Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Luận văn thạc sỹ Kinh tế chính trị, trường
Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Nguyễn Thành Nam (2008), Nghiên cứu các giải pháp phát triển
kinh tế trang trại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Kinh tế
Nông nghiệp, Đại học Kinh tế Thái Nguyên, Thái Nguyên.
19. Trần Thị Nga (2016), Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
trên địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học
Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
20. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng.
21. Phan Ấn Quốc (2011), Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại
tỉnh Kon Tum, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.
22. Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
115
23. Ngô Xuân Toàn, Đỗ Thanh Vinh (2014), “Phát triển mô hình kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An”, Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, số 31, tr.97-106.
24. Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lí trang trại trong kinh tế thị
trường, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
25. Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp và PTNT 1 (2011), Tài liệu bồi
dưỡng quản lý nhà nước về nông nghiệp cho công chức địa chính - nông nghiệp
- xây dựng và môi trường các xã trung du và miền núi, Hà Nội.
26. Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
27. Trần Anh Tuấn (2012), Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2016), Báo cáo thuyết minh tổng
hợp kế hoạch sử dụng đất năm 2017 huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, Cư Kuin.
29. Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2018), Báo cáo tình hình phát triển
kinh tế tập thể, trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2017 và Kế hoạch
phát triển năm 2018 trên địa bàn huyện Cư Kuin, Báo cáo số 23/BC-UBND
ngày 13/3/2018, Cư Kuin.
30. Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2017), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh năm 2017
và chỉ tiêu, nhiệm vụ chủ yếu năm 2018, Báo cáo số 253/BC-UBND ngày
18/12/2017, Cư Kuin.
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2017), ban hành Kế hoạch thực hiện
Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, Quyết định số 726/QĐ-UBND
ngày 27/3/2017, Đắk Lắk.
116
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2013), Về việc phê duyệt quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm đầu kỳ (2011-2015)
của huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, Quyết định số 2536/QĐ-UBND ngày
03/12/2013, Đắk Lắk.
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2014), Về việc phê duyệt Quy hoạch
thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030, Quyết định số 2210/QĐ-UBND ngày 23/9/2014, Đắk Lắk.
117
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk (Phiếu này áp dụng cho đối tượng là: Chủ trang trại)
Kính mong quý ông (bà) dành thời gian để trả lời một số câu hỏi khảo sát dưới đây. Tôi cam kết những thông tin mà ông (bà) cung cấp sẽ được giữ bí mật và chỉ được dùng cho mục đích nghiên cứu. Rất mong nhận được sự hợp tác của các quý ông (bà)!
Xin chân thành cảm ơn!
Thưa quý ông (bà)! Tôi hiện là học viên cao học ngành Quản lý công của Học viện Hành chính Quốc gia. Hiện nay tôi đang thực hiện luận văn tốt nghiệp với đề tài “Quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk”. Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tôi tiến hành thu thập thông tin với hình thức thông qua phiếu điều tra xã hội học.
I. Xin ông (bà) cho biết một số thông tin cá nhân: Đánh dấu (x) vào ô chọn 1. Giới tính Nam 2. Độ tuổi Dưới 25 tuổi Từ 40 - 59 tuổi 3. Nghề nghiệp chính Làm nông Nội trợ Hưu trí 4. Trình độ Tiểu học và THCS Trung cấp Trên Đại học
Nữ Từ 25 - 39 tuổi Trên 60 tuổi Công nhân Công chức, viên chức Khác: ………………………. THPT Cao đẳng, Đại học
II. THÔNG TIN CHUNG VỀ TRANG TRẠI Điền thông tin vào dấu ba chấm (…) hoặc đánh dấu (x) vào các ô lựa chọn. 5. Năm thành lập trang trại Trước năm 1993 Từ 2003 - 2011 Mới thành lập 6. Loại hình sản xuất của trang trại Trồng trọt Thủy sản Tổng hợp
Từ 1993 - 2003 2011 - 2015 Chăn nuôi Lâm nghiệp
118
…………………. (con) …………………. (m2)
Sản xuất theo hợp đồng (gia công…) Hình thức liên kết sản xuất khác:…
Mượn từ người thân
Hình thức khác:……………………. 10% - 30% 50% - 70%
10% - 30% 50% - 70%
Thuê lao động ngoài
7. Vật nuôi/cây trồng: 7.1. Loại vật nuôi (heo/gà/vịt/dê/cừu/bò...): …………………. 7.2. Loại cây trồng (cà phê/tiêu/cao su…): …………………. 8. Quy mô trang trại: 8.1. Số lượng vật nuôi: 8.2. Diện tích cây trồng: 9. Hình thức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: Tự phát (tự cung, tự cấp, tự tiêu thụ) Kết hợp 10. Tổng số vốn đầu tư cho trang trại: 300 - 500 triệu đồng 100 - 300 triệu đồng 01 - 02 tỷ đồng 500 triệu đồng - 01 tỷ đồng Trên 02 tỷ đồng 11. Nguồn vốn (có thể chọn nhiều phương án) Tự có Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng Vay tư nhân Nhận góp vốn từ người khác 12. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng vốn đầu tư: 0% - 10% 30% - 50% 100% vốn chủ sở hữu 13. Nguồn vốn vay của trang trại đáp ứng được bao nhiêu % nhu cầu vay 0% - 10% 30% - 50% trên 70% 14. Số lao động của trang trại 3 - 5 người 1 - 2 người 6 - 8 người 9 người trở lên 15. Công tác quản lý, điều hành trang trại do ai đảm nhiệm Chủ trang trại III. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QLNN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI 16. Xin cho biết mức độ đồng ý của ông (bà) trong các phát biểu dưới đây (có 05 mức độ tăng dần theo sự đồng ý: 1-Hoàn toàn không đồng ý; 2- Không đồng ý; 3- Không ý kiến; 4- Đồng ý; 5- Hoàn toàn đồng ý): Đánh dấu (x) vào mức độ đồng ý phù hợp nhất.
TT Phát biểu
Không đồng ý
Không ý kiến
Đồng ý
Hoàn toàn không đồng ý
Hoàn toàn đồng ý
119
16.1
16.2
16.3
Hệ thống văn bản quản lý nhà nước đã phù hợp và hỗ trợ tốt cho sự phát triển của kinh tế trang trại Các chính sách phát triển kinh tế trang trại hiện nay được ban hành ngày càng nhiều và thiết thực Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại hiện nay của địa phương phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế trang trại trong tương lai 16.4 Thủ tục cấp Giấy chứng nhận kinh tế trang trại hiện nay là đơn giản, dễ tiếp cận và sở hữu GCN KTTT là hữu dụng
16.5 Công tác kiểm tra các điều kiện hoạt động của trang trại được kiểm tra thường xuyên, liên tục
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Đánh dấu (x) vào tất cả các ô lựa chọn (có thể lựa chọn nhiều phương án).
17. Theo ông (bà), công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại cần cải thiện, nâng cao hiệu quả ở các khâu/hoạt động nào sau đây: Hoàn thiện hệ thống các văn bản QLNN về kinh tế trang trại
Xây dựng và ban hành văn bản có tính pháp lý cao và thống nhất các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT trên địa bàn Đơn giản hóa thủ tục hành chính, thủ tục cấp Giấy chứng nhận KTTT
(ghi cụ
Rà soát, điều chỉnh các nội dung quy hoạch phát triển kinh tế trang trại phù hợp với hiện trạng và định hướng phát triển của địa phương Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đảm bảo hiệu quả, hiệu quả và tránh gây phiền hà cho người dân
Đề xuất khác thể): …………..……………………………… ………….…………………………
18. Xin cho biết mức độ cần thiết của các nội dung chính sách dưới đây, mà theo ông (bà) trang trại cần sự quan tâm, hỗ trợ từ Nhà nước (có 05 mức độ tăng dần theo sự cần thiết: 1- Rất không cần thiết; 2- Không cần thiết; 3- Trung dung; 4- Cần thiết; 5- Rất cần thiết): Đánh dấu (x) vào mức độ phù hợp nhất.
TT Nội dung
Rất không cần thiết
Trung dung
Cần thiết
Không cần thiết
Rất cần thiết
18.1
Cho vay vốn tín dụng (không cần tài sản đảm bảo)
120
18.2 Hỗ trợ lãi suất ưu đãi
18.3
18.4
18.6
18.7
18.8
18.9
Ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, mặt nước sản xuất Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực, kỹ năng quản lý trang trại 18.5 Hỗ trợ đào tạo lao động, dạy nghề Được tiếp cận các dự án chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ (về con giống, cây giống, trang thiết bị kỹ thuật, quy trình công nghệ mới…) Hỗ trợ xây dựng các công trình xử lý chất thải, các chế phẩm sinh học, biện pháp giảm thiểu tác động môi trường Hỗ trợ tìm kiếm thị trường đầu ra tiêu thụ sản phẩm cho trang trại; tạo điều kiện tham gia các hội chợ, triển lãm xúc tiến thương mại Tư vấn thành lập trang trại; thẩm định các phương án đầu tư sản xuất kinh doanh cho các trang trại khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh
Xin chân thành cảm ơn quý ông (bà) đã tham gia đóng góp ý kiến!
121
Phụ lục 2: HỆ THỐNG BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Số lượng và loại hình trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
Đơn vị tính: trang trại
Số lượng trang trại theo năm Loại hình trang trại 2014 2015 2016 2017
Trồng trọt 03 03 03 03
Chăn nuôi 64 66 68 60
Nuôi trồng thủy sản 01 00 01 01
Tổng hợp 04 04 04 04
Tổng cộng 72 73 76 68
Nguồn: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Cư Kuin 2014-2017
Bảng 2.2: Diện tích đất của trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
Đơn vị tính: ha
Diện tích đất sử dụng của trang trại theo từng năm TT Loại hình trang trại
2014 2015 2016 2017
1
2
3
4 Trồng trọt - Diện tích trung bình (ha/TT) Chăn nuôi - Diện tích trung bình (ha/TT) Nuôi trồng thủy sản - Diện tích trung bình (ha/TT) Tổng hợp - Diện tích trung bình (ha/TT)
Tổng cộng 8,9 2,97 19,1 0,318 2,3 2,3 9 2,25 39,21 9,6 3,2 33,41 0,522 2,3 2,3 9 2,25 54,31 9,6 3,2 33,75 0,496 2,3 2,3 9 2,25 54,65 9,6 3,2 32,31 0,497 2,3 2,3 9 2,25 53,21
Nguồn: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Cư Kuin (2014-2017)
122
Bảng 2.3: Tình hình vốn đầu tư của trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin năm 2017
Loại hình trang trại Đơn vị tính: Triệu đồng Vốn đầu tư của trang trại đến năm 2017
2.350
Trồng trọt
T T 1 4,05% 783,3
53.690
2 Chăn nuôi
92,58% 789,6
300
3 Nuôi trồng thủy sản 0,52% 300
1.650
4 Tổng hợp
Số vốn (tr.đồng) Tỷ lệ (%) Số vốn TB mỗi trang trại (tr.đồng/TT) Số lượng (tr.đồng) Tỷ lệ (%) Số vốn TB mỗi trang trại (tr.đồng/TT) Số lượng (tr.đồng) Tỷ lệ (%) Số vốn TB mỗi trang trại (tr.đồng/TT) Số lượng (tr.đồng) Tỷ lệ (%) Số vốn TB mỗi trang trại (tr.đồng/TT)
2,85% 412,5
Tổng cộng 57.990
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2017)
Bảng 2.4: Tình hình lao động của trang trại huyện Cư Kuin (2014 - 2017)
Đơn vị tính: người
TT Loại hình trang trại
Tổng số lao động của trang trại theo từng năm 2016 2015 2017 2014
1
2
3
4 36 12 274 4,57 6 6 40 10 33 11 253 3,95 5 5 30 7,5 32 10,67 261 4,02 5 5 31 7,75 33 11 299 4,40 5 5 31 7,75 Trồng trọt - Số LĐ trung bình (người/TT) Chăn nuôi - Số LĐ trung bình (người/TT) Nuôi trồng thủy sản - Số LĐ trung bình (người/TT) Tổng hợp - Số LĐ trung bình (người/TT)
Tổng cộng 321 329
341 356 Nguồn: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Cư Kuin (2014-2017)
123
Bảng 2.5: Tổng giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại năm 2017
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tổng giá trị sản lượng hàng hóa dịch vụ năm 2017
Loại hình trang trại Tổng giá trị Tỷ trọng Bình quân/TT
1.393 3.039 1.011 1.701 2.877 Trồng trọt Chăn nuôi Nuôi trồng thủy sản Tổng hợp Tổng cộng 4.179 1,91% 206.665 94,52% 1.011 0,46% 6.803 3,11% 218.658 100% Số lượng trang trại 3 68 1 4 76
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2017)
Bảng 2.6: Tổng thu nhập của trang trại năm 2017
Đơn vị tính: Triệu đồng
Thu nhập của trang trại năm 2017
Loại hình trang trại Tổng giá trị Tỷ trọng Bình quân/TT
897 415 150 245 422 Số lượng trang trại 3 68 1 4 76 Trồng trọt Chăn nuôi Nuôi trồng thủy sản Tổng hợp Tổng cộng 2.690 8,39% 28.229 88,08% 150 0,47% 980 3,06% 32.049
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2017)
124
1,47%
5,88%
4,41%
Trồng trọt
Chăn nuôi
Nuôi trồng thủy sản
Tổng hợp
88,24%
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu các loại hình trang trại huyện Cư Kuin năm 2017
120,00%
100,00%
100,00%
Nguồn: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Cư Kuin, 2017
)
%
(
80,00%
m ế i
61,54%
60,00%
40,00%
h c i ạ r t g n a r t
23,08%
ố S
15,38%
20,00%
7,69%
0,00%
Nguồn gốc vốn
Vay TCTD
Vốn chủ sở hữu Mượn người thân
Vay tư nhân
Góp vốn liên doanh
Biểu đồ 2.2. Nguồn gốc vốn của các trang trại
Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát và tính toán của tác giả luận văn
125
70%
60%
50%
40%
g n ọ r t
61,54%
30%
ỷ T
20%
23,08%
10%
7,69%
7,69%
0% 0 0 % - 1 0 %
1 0 % - 3 0 %
3 0 % - 5 0 %
5 0 % - 7 0 %
7 0 % - 1 0 0 %
Tỷ lệ vốn CSH/Tổng vốn đầu tư
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng vốn đầu tư của các trang trại
0,00%
7,69%
15,38%
15,38%
61,54%
0% - 10%
10% - 30%
30% - 50%
50% - 70%
70% - 100%
Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát và tính toán của tác giả luận văn
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ đáp ứng nhu cầu vay của các trang trại
Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát và tính toán của tác giả luận văn
126
Trên đại học 0,00%
Cao đẳng, đại học 15,38%
Tiểu học và THCS 15,38%
Trung cấp 23,08%
THPT 46,15%
THPT
Tiểu học và THCS
Trung cấp
Cao đẳng, đại học
Trên đại học
Biểu đồ 2.5. Trình độ của chủ trang trại huyện Cư Kuin
Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát và tính toán của tác giả luận văn
7,69%
23,08%
69,23%
1 - 2 người
3 - 5 người
6 - 8 người
Biểu đồ 2.6. Quy mô lao động của các trang trại huyện Cư Kuin
Nguồn: Số liệu điều tra khảo sát và tính toán của tác giả luận văn
127
3.500
3.039
3.000
) g n ồ đ . r T
2.500
2.000
1.701
1.393
1.500
1.011
1.000
897
500
415
( i ạ r t g n a r t 1 0 n â u q h n
ì
245
b
150
-
ị r t
Chăn nuôi
Trồng trọt
Nuôi trồng thủy sản
Tổng hợp
á i G
Loại hình trang trại
GTSLHH
Thu nhập
Biểu đồ 2.7. Giá trị sản lượng hàng hóa và thu nhập bình quân của các
loại hình trang trại huyện Cư Kuin năm 2017
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin (2017)
128
Phụ lục 3: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI CỦA TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG
TT Số hiệu văn bản Trích yếu nội dung Tên loại văn bản Cơ quan ban hành Ngày ban hành
I. Văn bản của Trung ương
Nghị quyết 03/2000/NQ-CP Chính phủ phát triển kinh tế trang trại 02/02/2000 1
Thông tư 06/6/2000 2 61/2000/TT-BNN- KH Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn lập quy hoạch phát triển kinh tế trang trại
Thông tư 82/2000/TT-BTC Bộ Tài chính 14/8/2000 3 hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại
23/6/2000 4 Thông tư liên tịch 69/2000/TTLT/BNN- TCTK Bộ NN&PTNT - Tổng cục Thống kê hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại
Thông tư 74/2003/TT-BNN 04/7/2003 5 Bộ Nông nghiệp và PTNT sửa đổi mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK
6 Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn 05/8/2008
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
129
TT Số hiệu văn bản Trích yếu nội dung Tên loại văn bản Cơ quan ban hành Ngày ban hành
7 Thông tư 15/01/2010 04/2010/TT- BNNPTNT Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện trại chăn nuôi lợn, trại chăn nuôi gia cầm an toàn sinh học
Nghị định 41/2010/NĐ-CP Chính phủ 12/4/2010 8 chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn
21/01/2011 9 Thông tư 02/2011/TT- BNNPTNT Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn nhiệm vụ quản lý nhà nước về chăn nuôi
13/4/2011 10 Thông tư 27/2011/TT- BNNPTNT Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại
11 Quyết định 62/2013/QĐ-TTg 25/10/2013 Thủ tướng Chính phủ chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn
12 Nghị định 55/2015/NĐ-CP Chính phủ 09/6/2015 chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
13 Nghị định 18/2015/NĐ-CP Chính phủ 14/02/2015
quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường
130
TT Số hiệu văn bản Trích yếu nội dung Cơ quan ban hành Tên loại văn bản Ngày ban hành
II. Văn bản của tỉnh
1 Nghị quyết 35/2006/NQ-HĐND 17/10/2006 Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020
2 Chương trình 26-CTr/TU Tỉnh ủy Đắk Lắk 20/10/2008
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
3 Quyết định 1436/QĐ-UBND 8/6/2009 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Cư Kuin đến năm 2020
4 Nghị quyết 06/NQ-HĐND 10/7/2009 Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk một số chính sách phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2010 - 2015
5 Quyết định 1555/QĐ-UBND 18/7/2012 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt dự án quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020
6 Công văn 371/SNNNT-KH 27/03/2013 Sở NN và PTNT tỉnh Đắk Lắk
triển khai thực hiện dự án quy hoạch phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020
131
TT Số hiệu văn bản Trích yếu nội dung Tên loại văn bản Cơ quan ban hành Ngày ban hành
7 Quyết định 15/2017/QĐ-UBND 18/4/2017 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
ban hành quy định mức hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
8 Quyết định 726/QĐ-UBND 27/3/2017 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016 - 2020
II. Văn bản của huyện
1 Kế hoạch 33-KH/HU Huyện ủy Cư Kuin 21/10/2008
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
2 Công văn 1457/UBND-TCKH Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin chủ trương lập Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện
3 Quyết định 4320/QĐ-UBND 31/12/2015 Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin phê duyệt Dự án Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Cư Kuin giai đoạn 2015 - 2020
132
4 Công văn 234/UBND-TNMT 21/01/2017 Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động chăn nuôi trên địa bàn huyện
(*) Văn bản được sắp xếp theo trình tự thời gian ban hành.
133