BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…/… …/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ CHIỀU
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Hà Nội, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …/… BỘ NỘI VỤ …/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA SAU ĐẠI HỌC
LÊ THỊ CHIỀU
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. ĐẶNG ĐÌNH THANH
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực và đảm
bảo có nguồn gốc rõ ràng của tất cả các số liệu, kết quả thống kê nêu trong
luận văn.
Tác giả luận văn
Lê Thị Chiều
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đặng Đình Thanh -
Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, giúp đỡ tôi
xây dựng và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc
gia, cô Nguyễn Thị Ngân chủ nhiệm lớp cùng các thầy cô giảng dạy lớp cao
học Quản lý công đã tích cực quan tâm và truyền đạt cho tôi những kiến thức
quý báu, giúp tôi hoàn thành khóa học tại Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng đánh giá luận
văn thạc sĩ đã có những ý kiến đóng góp quý báu để bản luận văn của tôi được
hoàn thiện hơn và được bảo vệ luận văn trước Hội đồng.
Xin chân thành cảm ơn tập thể lớp cao học HC20.B3 và gia đình đã
quan tâm động viên và giúp đỡ tôi về tinh thần để tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Lê Thị Chiều
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................. 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..... 5
6. Ý nghĩa của luận văn ......................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn: ........................................................................ 6
NỘI DUNG .................................................................................................................... 7
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ TRANG TRẠI ........................................................................................... 7
1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI .................................. 7
1.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại............................... 7
1.1.2. Các loại hình kinh tế trang trại ..................................................... 9
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại ................................................. 12
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của kinh tế trang trại đối với sự phát triển
của nền sản xuất nông nghiệp ................................................................ 14
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI .............................................................. 15
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ............ 15
1.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước đối với kinh tế
trang trại .................................................................................................. 16
1.2.2.1 Sự quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là một chức năng
đặc thù của chức năng quản lý ............................................................... 17
1.2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại có tác động nhiều
mặt đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng và xã hội nói chung ....................................... 17
1.2.3. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với kinh tế trang
trại ............................................................................................................. 18
1.2.3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trang
trại cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước ....... 19
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC GIANG VÀ BÀI HỌC VỚI HUYỆN LỤC NAM . 25
1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Lục Ngạn về quản lý nhà nước đối với
kinh tế trang trại ..................................................................................... 25
1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Yên Thế về quản lý nhà nước đối với
kinh tế trang trại ..................................................................................... 27
1.3.4. Bài học vận dụng cho huyện Lục Nam ....................................... 28
Tóm tắt chương 1 ....................................................................................................... 31
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ
TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG
........................................................................................................................................ 32
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
HUYỆN LỤC NAM ................................................................................ 32
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên .................................................................... 32
2.1.2. Về kinh tế ....................................................................................... 34
2.1.3. Về xã hội ......................................................................................... 35
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM .............................................................. 36
2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục
Nam ........................................................................................................... 36
2.2.2. Doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ....... 39
2.2.3. Về thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam .. 40
2.2.4. Về giải quyết việc làm cho người lao động ................................. 41
2.2.5. Trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tại các trang
trại ............................................................................................................ 42
2.2.6. Trình độ tổ chức quản lý .............................................................. 43
2.2.7. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm ...................................... 43
2.2.8. Giải quyết vấn đề an toàn môi trường ........................................ 44
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ
TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM ....................... 45
2.3.1. Công tác quy hoạch, kế hoạch trong quản lý nhà nước đối với
phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ................ 45
2.3.2. Thực thi pháp luật có liên quan ................................................... 46
2.3.3. Ban hành và thực thi chính sách có liên quan ........................... 47
2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đối với kinh
tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ........................................... 51
2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện
đối với quản lý nhà nước về kinh tế trang trại .................................... 52
2.4. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN LỤC NAM....................................................................... 55
2.4.1. Những thành tựu đã đạt được ..................................................... 55
2.4.2. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với
kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam................................... 59
2.4.3. Nguyên nhân tồn tại ...................................................................... 64
Tóm tắt chương 2 ....................................................................................................... 67
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC
NAM - TỈNH BẮC GIANG ..................................................................................... 69
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC
NAM – TỈNH BẮC GIANG ................................................................... 69
3.1.1. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang
trại của tỉnh Bắc Giang .......................................................................... 69
3.2.2. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang
trại của huyện Lục Nam giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm
2030 ........................................................................................................... 72
3.2.3 Phương hướng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Lục Nam ......................................................................... 75
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM ..... 78
3.2.1. Giải pháp về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam................................................ 78
3.2.2. Giải pháp về pháp luật ................................................................. 80
3.2.3. Giải pháp về chính sách ............................................................... 81
3.2.4. Giải pháp về kiểm tra, giám sát ................................................... 89
3.2.5. Tạo quan hệ hợp tác giữa các trang trại..................................... 91
3.2.6. Về bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ......... 92
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 94
3.3.1. Kiến nghị đối với Ủy ban nhân dân tỉnh .................................... 94
3.3.2 Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ....................... 94
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 99
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐẦY ĐỦ
1 KTTT Kinh tế trang trại
2 HĐND Hội đồng nhân dân
3 UBND Ủy ban nhân dân
4 HTX Hợp tác xã
5 QLNN Quản lý Nhà nước
6 Bộ NN&PT NT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
7 SXNN Sản xuất nông nghiệp
8 KT-XH Kinh tế - xã hội
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 So sánh số lượng và loại hình trang trại năm 2010-2016
Bảng 2.2: Chi tiết doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
năm 2015
Bảng 2.3 : Thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Bảng 2.4: Phân bố lao động tham gia sản xuất kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện Lục Nam theo lĩnh vực sản xuất
Biểu đồ 2.1. Giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Lục Nam giai đoạn 2011-2015
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu trang trại năm 2015
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuyên suốt quá trình hơn 2000 năm lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
và 30 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đã và đang tiếp tục khẳng định vai trò to
lớn của ngành kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế chung của đất nước.
Trước sự thay đổi về kinh tế và đời sống của nhân dân, sự gia tăng dân số và
các khu công nghiệp làm giảm diện tích đất nông nghiệp cũng như sự phát
triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật đòi hỏi công tác sản xuất nông nghiệp
cần có sự thay đổi để phát triển. Đáp ứng yêu cầu đó mô hình kinh tế trang
trại trong sản xuất kinh tế nông nghiệp ở nước ta đã hình thành và không
ngừng được mở rộng, phát triển. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân
đã hình thành các trang trại đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ quản
lý cao hơn. Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng
với nhiều thành phần kinh tế tham gia nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia
đình nông dân và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân viên chức,
bộ đội… đã nghỉ hưu. Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai
thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trống đồi trọc
hoang hóa, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn góp phần xóa đói giảm
nghèo, tăng thêm nông sản hàng hóa, giúp người dân phát huy được lợi thế so
sánh, mở rộng quy mô sản xuất kinh tế trang trại hàng hoá, nâng cao năng
suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Bắc Giang là một tỉnh thuộc trung du miền núi phía Bắc với đặc điểm địa
hình của vùng đồi núi thấp, thổ nhưỡng và khí phù hợp với các loại cây ăn
quả, cây công nghiệp như vải thiều, cam, na, nuôi trồng các loại gia súc gia
1
cầm khác... Hiện nay, ở Bắc Giang đã hình thành nhiều mô hình trang trại như
trang trại trồng nấm, trang trại chim bồ câu, vịt trời, các trang trại cây ăn quả,
trang trại chăn nuôi gia súc... tập trung chủ yếu tại các huyện Lạng Giang,
Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế… Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2020, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bắc Giang đã xác định kinh tế
trang trại là động lực chính, là ngành mũi nhọn được ưu tiên phát triển gắn
với xây dựng nông thôn mới, đồng thời ban hành nhiều chính sách để các
trang trại phát triển có hiệu quả.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang nói chung và đặc biệt trên địa bàn huyện Lục Nam - địa
phương có sự phát triển các mô hình kinh tế trang trại tương đối nhanh và
mạnh của tỉnh - nói riêng còn nhiều hạn chế bất cập, sự phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam chủ yếu là mang tính tự phát, các trang
trại chưa được giao đất, thuê đất ổn định lâu dài, hầu hết các xã có trang trại
phát triển chưa làm tốt công tác quy hoạch sản xuất, thủy lợi, giao thông, điện
nước sinh hoạt, thông tin liên lạc thị trường còn kém phát triển. Phần lớn các
trang trại còn thiếu hiểu biết về thị trường, khoa học kỹ thuật và quản lý, thiếu
vốn sản xuất để phát triển lâu dài, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá
nông sản xuống thấp, tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Do vậy đề tài “Quản lý
nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc
Giang” được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn để góp phần
làm rõ những vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay đã có rất nhiều đề tài cũng như các công trình nghiên cứu khoa
học về kinh tế trang trại cũng như sự tác động của nhà nước đối với kinh tế
trang trại. Điển hình có thể kể tới như:
Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước KC.07-13: “Tổng kết và xây dựng mô hình
2
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với
văn minh thời đại” do Vũ Trọng Khải chủ nhiệm[1]. Đề tài có nghiên cứu về
việc xây dựng các mô hình hệ thống nông nghiệp sinh thái đa canh, mô hình
trang trại làng mở, mô hình phát triển phi làng xã và sự hình thành trang trại
hữu hạn, trang trại cổ phần, trang trại nhà nước và trang trại dự phần mô hình
hợp tác xã nông nghiệp.
Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do
Nguyễn Đình Hương chủ nhiệm năm 2000 là công trình nghiên cứu công phu
nhất về kinh tế trang trại ở Việt Nam cho đến nay[2]. Đề tài đã đề xuất một số
giải pháp cụ thể về đất đai, về vốn tín dụng, phát triển nguồn nhân lực, về thị
trường, khoa học - công nghệ, phát triển hạ tầng nông thôn, phát triển công
nghiệp chế biến và tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại.
Năm 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho trường Đại học Kinh tế
Quốc dân chủ trì phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Giang ,
nghiên cứu đề tài cấp Bộ trọng điểm do Phạm văn Khôi chủ nhiệm: “Nghiên
cứu các mô hình phát triển bền vững trang trại vùng cây ăn quả tỉnh Bắc
Giang” nghiệm thu năm 2011[3]. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý
luận và thực tiễn mô hình phát triển kinh tế trang trại theo hình thức sở hữu,
theo quy mô, theo phương hướng kinh doanh và trình độ công nghệ, đề tài đã
đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng
tính phát triển bền vững của các trang trại ở vùng cây ăn quả của tỉnh Bắc
Giang trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Với phương pháp tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, tác giả nghiên
cứu cụ thể về hoạt động quản lý của nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong những điều kiện cụ thể. Đây là một
3
đề tài mới và không bị trùng lặp với các đề tài khoa học đã công bố trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Qua việc nghiên cứu phân tích những vấn đề về vai trò và thực trạng
quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam và bài
học kinh nghiệm thực tiễn từ các địa phương khác, tác giả đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với kinh tế trang
trại nói chung và trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang nói riêng
- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại của
một số địa phương và rút ra bài học cho huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với kinh
tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang từ đó chỉ ra
những yếu tố còn tồn tại cần khắc phục, nguyên nhân của những tồn tại đó
- Từ thực trạng đã nêu, đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện
nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối với các trang trại trên địa bàn huyện
Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào xem xét thực trạng những hoạt động trong công tác
quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại. Trong đó chủ thể quản lý là cơ
quan quản lý Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, đối tượng quản
lý là kinh tế trang trại với các công cụ quản lý đó là quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế chính sách và pháp luật có liên quan đến kinh tế trang trại và trực tiếp tổ
chức điều hành quá trình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục
4
Nam - tỉnh Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu chủ yếu trên phạm vi địa bàn huyện
Lục Nam Bao gồm các trang trại tại các xã: Tam Dị, Vô Tranh, Huyền Sơn,
Khám Lạng, Đông Phú và một số trang trại tiêu biểu khác trên địa bàn huyện
Yên Thế và huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang
4.2.2. Về thời gian
Luận văn tập trung nghiên cứu về kinh tế trang trại giai đoạn 2010 -2016,
định hướng đến năm 2020.
4.2.3. Về nội dung nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về các chiến lược, quy hoạch; về luật pháp, chính
sách đối với kinh tế trang trại; công tác kiểm tra giám sát của Nhà nước và Bộ
máy tổ chức quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại,
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ
trương chính sách của Nhà nước; các học thuyết kinh tế và quản lý nhà nước
về kinh tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thu thập thông tin tài liệu tổng hợp, thống
kê, phân tích số liệu, so sánh, để làm sáng tỏ nội dung của vấn đề nghiên cứu.
Các số liệu trong luận văn được tham khảo từ chi cục thống kê huyện Lục
Nam và thu thập trực tiếp tại các địa phương có trang trại tập trung.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà
nước đối với kinh tế trang trại. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quản
5
lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại của một số địa phương tác giả rút ra
những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
Qua việc phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối
với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện, tác giả chỉ ra những mặt tích cực đã
đạt được và những yếu tố còn tồn tại. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện
nhằm tăng cường hoạt động quản lý đối với các trang trại trên địa bàn huyện
Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao
gồm kết cấu 3 chương cụ thể như sau:
Chương I. Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
Chương II. Thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang
Chương III. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
6
phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại
Lịch sử phát triển nông nghiệp trên thế giới nói chung và ở nước ta nói
riêng đã cho thấy có nhiều hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp khác nhau.
Tuy nhiên, hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn và gắn với
sản xuất nông nghiệp hàng hóa hay còn được gọi là kinh tế trang trại (KTTT)
chỉ thực sự bắt đầu khi xuất hiện nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Do đó, đã
sớm có nhiều quan điểm khác nhau về trang trại nhưng đều có những điểm
chung về nguồn gốc hình thành và chủ sở hữu trang trại như sau:.
Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông lâm ngư nghiệp,
phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nhưng có tính chất
hàng hóa rõ rệt. Các trang trại có sự tập trung, tích tụ cao hơn so với mức bình
quân của kinh tế hộ gia đình trong xã hội ở từng vùng về các điều kiện sản
xuất như đất đai, vốn, lao động đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa lớn
hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn[4].
Trang trại mang tính chất sản xuất hàng hóa nông nghiệp, gắn liền với
thị trường vì vậy có nhu cầu cao hơn kinh tế hộ về tiếp thị, về sự tác động của
khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, sự phát triển của công
nghiệp, nhất là đối với công nghệ bảo quản, chế biến nông - lâm - thủy sản,
chế tạo công cụ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất và đáp
ứng được đòi hỏi của khách hàng về quy cách, chất lượng sản phẩm để đảm
bảo tiêu thụ hàng hóa cạnh tranh trên thị trường[5].
Trang trại và kinh tế trang trại là hai khái niệm khác nhau, theo đó
trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của
7
quan hệ kinh tế.
Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong kinh tế
nông nghiệp, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ
sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. Sự
phát triển KTTT nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển KTTT bền vững; có việc làm tăng
thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân bổ lao
động, dân cư xây dựng nông thôn mới. Với tư cách là một loại hình kinh tế,
KTTT bao gồm tổng thể các yếu tố vật chất với các hoạt động kinh tế - xã hội
và các hoạt động này có quan hệ, tác động với môi trường tự nhiên. Do vậy,
KTTT bao gồm có ba mặt cơ bản là kinh tế, xã hội và môi trường.
Về mặt kinh tế: KTTT là loại hình tổ chức sản xuất trong khu vực
nông, lâm, ngư nghiệp. Bao gồm tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất các
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại.
Các yếu tố vật chất của sản xuất trước hết là ruộng đất, tiền vốn và các tư liệu
sản xuất khác được tập trung ở quy mô nhất định nhằm mục tiêu sản xuất
hàng hóa. Trong loại hình KTTT, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc quyết định phương
hướng sản xuất kinh doanh, kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất tới việc tiếp
cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm.
Về mặt xã hội: KTTT là loại hình kinh tế trong đó các quan hệ xã hội
đan xen như: quan hệ giữa thành viên trong trang trại, quan hệ giữa chủ trại
và người lao động trong trang trại, quan hệ giữa những người lao động trong
nội bội trang trại, quan hệ giữa chủ trang trại với các quan hệ thị trường khác.
Về mặt môi trường, KTTT là một không gian sinh thái đa dạng. Không
gian sinh thái trong loại hình KTTT có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại
8
trực tiếp đến hệ sinh thái của vùng.
Ở nước ta, KTTT đã manh mún xuất hiện từ thời Lý, Trần với các hình
thức như thái ấp, các điền trang trong nông nghiệp. Thời nhà Lê, Nguyễn,
KTTT phát triển tương đối mạnh và tồn tại dưới các hình thức như: đồn điền,
điền trang…
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khóa VI 70(4/1988) về phát huy quyền
làm chủ kinh tế hộ gia đình đã đặt nền móng cho sự phát triển một cách nhanh
chóng. Theo đó KTTT là hình thức tổ chức sản xuất KTTT bao gồm nông -
lâm - thủy sản có mục đính chính là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu của một chủ trang trại, sản xuất được tiến hành trên quy mô
ruộng đất với các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn, trình độ kỹ thuật cao hơn
phương thức tổ chức sản xuất tiến bộ gắn với thị trường có hạch toán kinh tế
theo hình thức của doanh nghiệp
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại và
căn cứ vào chủ trương đối với KTTT đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 12 năm 1997 và Nghị
quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1989 của Bộ Chính trị về phát triển nông
nghiệp và nông thôn mô hình KTTT trong sản xuất kinh tế nông nghiệp ở
nước ta đã hình thành và không ngừng được mở rộng và phát triển. Hiện nay,
nhiều trang trại đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất như: sản xuất an
toàn, sản xuất sạch, công nghệ cao, nhờ đó tạo ra năng suất, chất lượng cao và
đạt hiệu quả về kinh tế.
Quá trình hình thành và phát triển của KTTT gắn liền với quá trình công
nghiệp hóa của đất nước và đang dần trở thành lực lượng chủ lực trong sản xuất
hàng hóa nông sản, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hóa trong công nghiệp.
1.1.2. Các loại hình kinh tế trang trại
Hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam, KTTT đang phát triển dưới
9
nhiều hình thức, nó thay đổi tùy theo đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng
quốc gia, từng vùng miền lãnh thổ. Theo đề nghị số 64/CP của Chính Phủ
chúng ta có thể căn cứ vào một số tiêu chí để phân loại các trang trại như sau:
Phân loại theo quy mô sử dụng
Theo cách phân loại này trang trại được chia làm 4 loại hình đó là
+ Trang trại nhỏ: quy mô trang trại có diện tích dưới 2ha
+ Trang trại vừa: quy mô trang trại có diện tích từ 2-5ha
+ Trang trại khá lớn: quy mô trang trại có diện tích từ 5-10ha
+ Trang trại lớn: quy mô trang trại có diện tích trên 10ha
Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn thì mức hạn điền tối thiểu cho trang trại là 2,1ha đối với
các tỉnh thuộc Bắc Bộ và Duyên hải miền trung
Phân loại theo lĩnh vực sản xuất
Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trang trại phân theo lĩnh vực sản xuất bao
gồm:
- Trang trại trồng trọt: Đây là loại hình trang trại vô cùng đa dạng và phong
phú (tùy theo đặc điểm khí hậu đất đai của mỗi vùng miền), bao gồm các
trang trại trồng cây ăn quả như na, vải, hồng, nhãn, cam bưởi…, cây công
nghiệp như cao su, cà phê… trang trại lương thực, thực phẩm và các trang trại
trồng hoa, cây cảnh…
- Trang trại chăn nuôi: Loại hình trang trại chăn nuôi cũng khá đa dạng
như chăn nuôi đại gia súc (bò, dê…) gia súc nhỏ (lợn, đà điểu), các trang trại
gia cầm, chim bồ câu…
- Trang trại nuôi trồng thủy sản: Đây là loại hình trang trại có tính chất
đặc thù gắn liền với môi trường nước. Tùy vào địa hình khí hậu và môi trường
nước ngọt hay nước mặn mà người dân có các hình thức sản xuất nuôi trồng
10
thủy sản khác nhau.
-Trang trại lâm nghiệp: Là trang trại trồng rừng thường có quy mô lớn và
được phát triển ở các vùng núi phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ
đòi hỏi vấn đề về vốn mà vấn đề thu hồi vốn thường bị kéo dài thời gian trong
khoảng 5, 10 hoặc thậm chí là 15 năm. Do vậy, để người dân có khả năng và
yên tâm sản xuất kinh doanh trang trại lâm nghiệp, Nhà nước cần có chinh
sách đầu tư, hỗ trợ về vốn, tín dụng lâu dài.
-Trang trại tổng hợp: Là loại hình trang trại sản xuất kết hợp theo các mô
hình VAC (vườn - ao - chuồng), VAC-R (vườn - ao - chuồng - ruộng).
Đối với các trang trại chuyên ngành (chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thủy
sản…) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành
chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm.
Trường hợp trang trại không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản
lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.
Phân loại theo chủ thể kinh doanh
Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê tư liệu sản xuất. Trường hợp
phổ biến hiện nay là chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhưng phải đi
thuê máy móc, thiết bị, chuồng trại, kho chứa… Ở nước ta, chủ trang trại có
quyền sử dụng đất chứ không có quyền sở hữu nên không phân loại trang
trại theo loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất mà phân theo chủ đề kinh
doanh. Theo đó có các loại hình trang trại như sau:
- Trang trại nhà nước: Bao gồm các hình thức như nông trường quốc doanh,
công ty nông nghiệp nhà nước… thường có quy mô lớn nên hình thành nhiều
cấp trung gian. Các nông trường công ty này lại khoán cho các hộ gia đình
công nhân lập trang trại gia đình.
- Các hợp tác xã nông nghiệp: Hợp tác xã(HTX) nông nghiệp được hình thành
nhờ sự hợp tác sản xuất cả các xã viên. Hiện nay loại hình này rất ít tồn tại.
Sau khi luật HTX ra đời, nhiều HTX nông nghiệp dần chuyển thành HTX
11
dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình nông dân.
- Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy
mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa các công ty hợp doanh. Họ có thể trực
tiếp sản xuất hoặc giao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm,
hùn vốn hay góp phần lớn vốn góp chung.
- Trang trại gia đình: Là loại hình trang trại phổ biến nhất của KTTT. Loại
hình này thực chất là các hộ nông dân chuyển từ nền kinh tế tiểu nông sản
xuất tự túc tiến lên KTTT sản xuất hàng hóa với các mức độ khác nhau. Trang
trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và sử dụng ruộng đất, về chủng
loại và số lượng lao động khác nhau, về nguồn vốn và khoa học công nghệ, về
ngành nghề, mặt hàng sản xuất. Trong hình thức này, mỗi gia đình là một chủ
thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản xuất, tự lo cả đầu vào và đầu ra
cho sản phẩm.
- Trang trại tư nhân kinh doanh nông nghiệp: Là loại trang trại của cá nhân,
nhà tư bản, công thương gia hoặc công ty cổ phần, hoặc thuê đất đai, thuê lao
động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao
động làm thuê như các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh công nghiệp và các
dịch vụ khác của nền kinh tế.
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại
KTTT có những đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất: Là kinh tế hộ nông dân sản xuất ra hàng hóa nông lâm
nghiệp, thủy sản với trình độ chuyên môn hóa cao, đáp ứng nhu cầu của thị
trường hoặc tạo ra thu nhập hợp pháp thông qua việc sở hữu trang trại và lao
động phi trang trại. Đây là một đặc trưng cơ bản của KTTT.
Thứ hai: Quy mô sản xuất hàng hóa của trang trại phải đạt mức độ và
khả năng đa dạng hóa sản phẩm ở mức thỏa mãn thu nhập cần thiết và đảm
12
bảo cho khả năng tái sản xuất mở rộng.
Điểm khác biệt căn bản giữa KTTT với kinh tế hộ nông dân là quy mô
và tỷ suất hàng hóa của quá trình sản xuất. KTTT là hình thức sản xuất với
quy mô lớn với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận kinh tế. Vì vậy chủ trang trại
bán hầu hết sản phẩm mình làm ra để thu lợi nhuận, chấp nhận cạnh tranh và
mua lại các vật tư sản xuất và hàng tiêu dùng trên thị trường.
Thứ ba: Trong trang trại, các yếu tố sản xuất đặc biệt quan trọng là đất
đai và tiền vốn được tập trung tới một quy mô nhất định theo yêu cầu phát
triển của sản xuất hàng hóa. Do vậy quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư
dẫn đến chuyên môn hóa và hình thành các vùng chuyên canh.
Do tính chất sản xuất hàng hóa quy mô lớn, quá trình phát triển KTTT
sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất
khác nhau bao gồm:
- Cơ cấu sản xuất độc canh: Là mức phát triển thấp của KTTT. Trang trại chỉ
sản xuất kinh doanh một loại cây trồng hoặc vật nuôi nhất định. Do vậy tính
chuyên môn nghiệp vụ và sản xuất hàng hóa chưa cao.
- Cơ cấu sản xuất đa canh: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi để
tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình
-Cơ cấu sản xuất chuyên môn hóa: Đây là giai đoạn trang trại đã tích đủ về
đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống phân
công lao động, sản xuất chuyên môn đòi hỏi ứng dụng trình độ khoa học
công nghệ và kỹ thuật cao
Thứ tư: Tổ chức quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ cao hơn và
có thu nhập cao hơn so với sản xuất kinh tế hộ: KTTT có hình thức tổ chức và
quản lý điều hành sản xuất với khả năng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu
mới của khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và kiến thức về thị trường. Do
được tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh tiến bộ và quy mô lớn hơn, hiệu quả
hơn nên KTTT có thu nhập cao hơn nhiều lần so với kinh tế hộ. Đây cũng là
13
mục tiêu cơ bản của mô hình KTTT
Thứ năm: Về mặt pháp lý, KTTT không phải là một thành phần kinh tế
trong cơ cấu của nền kinh tế nhiều thành phần mà chỉ là một hình thức sản
xuất kinh doanh trong nông nghiệp nông thôn. KTTT không đồng nhất với
kinh tế hộ và có địa vị pháp lý độc lập. Các chủ trang trại là những người có ý
chí làm giàu, có điều kiện làm giàu và biết làm giàu, có vốn, trình độ kỹ thuật
và khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình
thường trực tiếp tham gia lao động quản lý, đồng thời thuê mướn thêm lao
động để sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu: Tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc sử
dụng lâu dài của chủ trang trại. KTTT là cơ sở sản xuất nông nghiệp nền tảng,
là tế bào hay hạt nhân kinh tế, gia đình độc lập hoặc gia đình liên kết theo
kiểu kinh tế hợp tác. Vì vậy KTTT căn bản dựa trên nền tảng của nền kinh tế
hộ nông dân và mang tính chất của kinh tế hộ[6].
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của kinh tế trang trại đối với sự phát triển của
nền sản xuất nông nghiệp
Ở nước ta, KTTT đã tạo bước chuyển biến cơ bản về giá trị sản phẩm
hàng hóa, thu nhập của trang trại vượt trội hơn hẳn so với kinh tế hộ. Hình
thành nên những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung, thúc đẩy quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, chuyển đổi các loại giống
cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hóa cao.
Thứ nhất: KTTT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền sản
xuất nông-lâm-ngư nghiệp. Việc sử dụng đầy đủ hiệu quả các yếu tố sản xuất
tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Thứ hai: Vai trò huy động và khai thác các nguồn lực trong dân, giải
quyết việc làm cho xã hội, làm giàu cho đất nước. KTTT thu hút được một
14
lực lượng đông đảo lao động dư thừa ở nông thôn tham gia vào sản xuất chăn
nuôi, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân, có ý
nghĩa tích cực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và giảm sứ ép di cư tự do
từ nông thôn ra thành thị, giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn
Thứ ba: KTTT góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường, đẩy mạnh tiến trình
hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng hóa, tạo động lực cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng
cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế
Thứ tư: KTTT có vai trò rất lớn trong vấn đề bảo vệ môi trường, sử dụng
hiệu quả và bảo vệ tài nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái trong tiến
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn[7]
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ TRANG TRẠI
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
Quản lý nhà nước (QLNN): Là một dạng quản lý xã hội mang tính chất
quyền lực nhà nước, được các cơ quan nhà nước (lập pháp; hành pháp và tư
pháp) sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con
người nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước đối với xã hội[8].
Trong hoạt động QLNN ở nước ta có sự phân công, phối hợp giữa 03
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ quan hành pháp (Chính phủ) thực
hiện chức năng quản lý hành chính đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội
(hay còn gọi là cơ quan quản lý hành chính nhà nước thẩm quyền chung, có
chức năng quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng…). Để thực hiện chức năng quản lý tổng hợp, hệ thống tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước được tổ chức theo bộ, ngành (thực hiện chức năng quản
lý ngành) và địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, xã)
thực hiện chức năng quản lý theo lãnh thổ.
Theo đó, QLNN về nông nghiệp là dạng quản lý chuyên ngành do
15
NN&PTNT làm tham mưu cho Chính phủ duy trì trật tự pháp luật, đưa ra các
thể chế, chính sách nhằm điều chỉnh các quan hệ và hành vi hoạt động của
con người trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn theo thẩm
quyền được phân công.
Từ cách tiếp cận như trên, có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với kinh tế
trang trại được hiểu là hoạt động QLNN chuyên ngành trong QLNN về nông
nghiệp nông thôn, được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá
trình phát triển KTTT trong nông nghiệp do Bộ NN&PTNT thực hiện, nhằm
duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật, bảo đảm thực
thi chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đối với sự phát triển KTTT trong nền
kinh tế nông nghiệp, có thể định nghĩa như sau:
Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là sự tác động có tổ chức có
định hướng của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách và các công cụ kinh tế
của mình lên trang trại và các yếu tố khác có liên quan để đạt được mục tiêu
đề ra. Đây là hoạt động quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT thông qua
các công cụ kế hoạch, pháp luật và các chính sách để tạo điều kiện và tiền đề,
môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh KTTT hướng
tới mục tiêu chung của toàn nền kinh tế xử lý những việc ngoài khả năng tự
giải quyết của đơn vị kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế trên tất cả các
lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm KTTT; điều
tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, sản phẩm KTTT, giữa KTTT với
toàn bộ nền kinh tế; thực hiện sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động trong
KTTT và kinh tế nông thôn[9].
1.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước đối với kinh tế
trang trại
Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT không chỉ ở sự điều
tiết, khống chế định hướng bằng pháp luật, bằng các chính sách và bằng đòn
16
bẩy kinh tế mà còn bằng chính thực lực của kinh tế Nhà nước. Tuỳ điều kiện
cụ thể của KTTT ở từng địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định.
QLNN đối với KTTT là một tất yếu khách quan được thể hiện ở những nội
dung cụ thể sau:
* Sự quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là một chức năng đặc thù
của chức năng quản lý
Trang trại là đơn vị sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình, được hình
thành và phát triển từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần thay thế
phương thức sản xuất phong kiến. Việc phát triển KTTT không chỉ có quan
hệ trực tiếp tới phát triển nông nghiệp của địa phương cũng như của cả nước
mà còn chịu tác động chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên, khí hậu và trình độ khoa học kỹ
thuật.
* Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại có tác động nhiều
mặt đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng và xã hội nói chung
Thứ nhất: Kinh tế trang trại ảnh hưởng trực tiếp tới khu công nghiệp và
nông nghiệp nông thôn, quá trình tích tụ ruộng đất -lấy đất của nông dân làm
cho nông dân không có đất sản xuất và gia tăng lao động gây áp lực cho các
đô thị và khu công nghiệp.
Thứ hai: Sự phát triển của các trang trại thiếu quy hoạch gây ô nhiễm
môi trường, do quá trình sản xuất nuôi trồng của các trang trại còn mang tính
hình thức, lao động thủ công hàng hóa cho nên khi sử dụng tài nguyên theo
quy mô lớn và theo lợi nhuận gây ra thoái hóa đất, mất cân bằng sinh thái, ô
nhiễm không khí do lượng phân bón vô cơ lớn và ô nhiễm nguồn nước, đặc
biệt có những hiện tượng sử dụng các chất cấm có chứa các chất độc hại trong
trồng trọt và chăn nuôi có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống xung quanh.
Thứ ba: quá trình phát triển KTTT tất yếu kéo theo sự biến đổi về văn
17
hóa, môi trường địa phương, vùng miền. Mang bản chất là nông nghiệp nên
kèm theo sự thay đổi về kinh tế, các tệ nạn xã hội và văn hóa thôn bản cũng
biến đổi mang tính công nghiệp, tình cảm và mức độ gắn kết giữa các hộ gia
đình có phần biến đổi theo hướng giảm sút.
* Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại rất cần có sự quản lý
quy hoạch tổng thể mang tầm vĩ mô để đảm bảo tính cân đối, tính thống
nhất giữa các bộ phận cấu thành trong toàn bộ hệ thống của kinh tế trang
trại
Tại những vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau thì có những thế mạnh
khác nhau về giống cây trồng, vật nuôi. Điều này gây khó khăn cho việc phát
triển kinh tế nông thôn, thoái hóa tài nguyên đất làm ảnh hưởng đến chất lượng
hàng hóa nông sản đồng thời ảnh hưởng đến môi trường, gây thiệt hại lớn về
kinh tế - xã hội của địa phương. Do đó đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất của
Nhà nước trong công tác xây dựng, quy hoạch và phát triển KTTT ở tầm vĩ mô.
Hoạt động QLNN tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển
bằng cách xác lập và vận hành có hiệu quả một hệ thống thị trường đồng bộ ở
nông thôn, đồng thời tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển bằng cách
Nhà nước trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến thiên tai, bảo vệ
môi trường, đảm bảo trật tự trị an và hạn chế tội phạm ở nông thôn.
1.2.3. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
Việc đảm bảo sự phát triển cân đối của KTTT trong cơ cấu nền kinh tế
nông nghiệp tùy thuộc vào hướng phát triển chung của đất nước. Do đó những
định hướng phát triển về KTTT nói riêng và kinh tế nông nghiệp nói chung
chịu sự tác động trực tiếp của
Nhà nước. Nhà nước với vị trí và những quyền lực đặc biệt có vai trò
không thể thay thế đối với bất kỳ loại hình sản xuất kinh doanh nào. Chính vì
vậy, những tác động tích cực của Nhà nước là điều kiện để KTTT phát triển.
18
QLNN đối với KTTT bao gồm những nội dung sau:
* Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trang trại
cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước
Quy hoạch phát triển KTTT bao gồm quy hoạch tổng thể và quy hoạch
chi tiết trong các loại hình KTTT, là cơ sở để lập kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và là căn cứ để dự toán ngân sách
hàng năm của các cấp chính quyền.
Quy hoạch, kế hoạch phát triển KTTT cần được xây dựng trên những
cơ sở lý luận khoa học, sự nghiên cứu toàn diện và khách quan thực trạng của
KTTT và phải được đặt trong tình hình kinh tế - xã hội cụ thể qua từng giai
đoạn, phải có những định hướng lâu dài, những mục tiêu dài hạn, mục tiêu
ngắn hạn và những phương hướng hoạt động cụ thể, thể hiện tầm nhìn chiến
lược của các cơ quan Nhà nước. Sự hoàn chỉnh của quy hoạch tổng thể sẽ tạo
cơ sở cho các cấp quản lý xây dựng những quy hoạch cho riêng mình, mặt
khác giúp cho các chủ trang trại cũng như các chủ thể kinh tế khác có những
định hướng sản xuất cụ thể, phù hợp.
* Xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế trang trại
Hệ thống các quy định pháp luật thể hiện quan điểm, định hướng của
Nhà nước đối với đối tượng quản lý. Đây là căn cứ pháp lý để cơ quan Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý, đồng thời cũng là cơ sở khách quan để
quản lý tuân thủ và áp dụng. Sự thiếu hoàn thiện và chưa hợp lý của hệ thống
các văn bản pháp luật dễ dẫn đến tình trạng không thống nhất trong quá trình
giải quyết công việc của các cơ quan quản lý, gây khó khăn cho người dân.
Đặc biệt đối với lĩnh vực kinh tế thì khung pháp lý ổn định và thuận lợi có tác
động rất lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế cũng
như của xã hội.
Việc ghi nhận địa vị pháp lý của các trang trại là điều kiện tiên quyết để
19
KTTT được hình thành. Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính Phủ về kinh tế
trang trại ghi rõ: “Thống nhất nhận thức về vị trí và vai trò của kinh tế trang
trại” đã tạo ra bước đột phá trong sự nghiệp phát triển KTTT của các địa
phương trong cả nước, vai trò quan trọng thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, Xác lập cơ sở pháp lý, bảo vệ và hỗ trợ hình thành phát triển cơ
chế thị trường trong nông nghiệp nói chung và KTTT ở nông thôn
Dựa trên nhận thức đúng đắn, khách quan và khoa học các quy luật vận
động của nền KTTT theo cơ chế thị trường, Nhà nước ban hành các văn bản
pháp quy nhằm tổ chức có tính chất Nhà nước các quan hệ kinh tế khách quan
đó phù hợp với quy chế mới. Như vậy pháp luật giữ vai trò là yếu tố tạo dựng,
hỗ trợ và bảo vệ cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế theo mục
tiêu định hướng của Đảng và nhà nước ta.
Hai là, xác lập trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho KTTT.
Bằng việc tổ chức có tính chất Nhà nước của các quan hệ kinh tế khách
quan dưới hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, về thực chất pháp luật đã xác
định trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho mọi hoạt động KTTT.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế tham gia vào
các quan hệ KTTT. Việc bảo vệ lợi ích nói trên của các chủ thể kinh tế chỉ có
thể thực hiện bằng cách ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, ghi
nhận hình thức và các thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh... vào
luật pháp. Nhờ vậy lợi ích của các chủ thể kinh tế được tôn trọng và được giải
quyết thoả đáng. Nếu thiếu luật pháp thì việc giải quyết, xử lý các quan hệ lợi
ích sẽ thiếu trật tự, gây lộn xộn không cần thiết có ảnh hưởng tiêu cực đến các
hoạt động kinh tế.
* Xây dựng và ban hành chính sách phát triển kinh tế trang trại
Hệ thống các chính sách hỗ trợ là công cụ linh hoạt và hiệu quả, rất phù
hợp với loại hình kinh tế năng động và đòi hỏi sự hỗ trợ lớn của Nhà nước
20
như KTTT. Nhà nước có thể sử dụng các chính sách trên cơ sở xác định mức độ
các vấn đề cần ưu tiên giải quyết trong mỗi giai đoạn khác nhau. Có một số
chính sách được hầu hết các quốc gia sử dụng như: Chính sách đất đai; chính
sách vốn và tín dụng; chính sách khoa học công nghệ; chính sách lao động;
chính sách đào tạo các chủ trang trại; chính sách thị trường…
Các chính sách phát triển KTTT của nước ta cụ thể như sau:
Thứ nhất, Chính sách đất đai: Chính sách đất đai có vai trò quan trọng đặc
biệt vì các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong KTTT và nông thôn gắn liền
với vấn đề ruộng đất. Mục tiêu trực tiếp của chính sách ruộng đất là quản lý,
sử dụng có hiệu quả, đồng thời bảo vệ độ phì nhiêu của đất đai, vì đất là tư
liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt của KTTT. Để đạt được mục tiêu trên, từ khi
chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới
quan trọng trong chính sách ruộng đất, thể hiện tập trung ở Nghị định 64/CP
ngày 27/9/1993, về giao đất cho hộ nông dân, Luật Đất đai năm 1993 với
những nội dung chủ yếu sau đây:
- Toàn bộ quỹ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý
trên phạm vi cả nước.
- Ruộng đất được Nhà nước giao quyền ổn định, lâu dài cho những người làm
nông, lâm, ngư nghiệp (các doanh nghiệp nhà nước, tập thể, hộ gia đình và cá
nhân). Các hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho
thuê và thế chấp quyền sử dụng ruộng đất trong thời hạn được giao.
- Người sử dụng có trách nhiệm sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu
quả và phải bảo vệ, cải tạo đất và đóng thuế cho Nhà nước.
- Nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích,
chuyển quyền sử dụng đất trái phép. Kiên quyết xoá bỏ những phương thức
kinh doanh lạc hậu làm huỷ hoại đất đai.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các trang trại thực hiện dồn điền
đổi thửa, thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ban hành các
21
chính sách cụ thể về việc sử dụng đất theo quy định của luật Đất đai[15].
Thứ hai. Chính sách về thuế
- Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát
triển KTTT, nhất là ở những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven
biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại với thời gian tối đa theo
Nghị quyết số 51/1999/NQ-CP, ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về
việc Quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)
số 03/1998/QH10.
- Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng
sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên
chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích SXNN.
Thứ ba. Chính sách đầu tư tín dụng
Trang trại phát triển sản xuất kinh doanh được vay vốn tín dụng thương
mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện
theo quy định tại Quyết định số 67/1999/QĐ -TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999
của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát triển
nông nghiệp và nông thôn”, chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn
vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày
29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng[8].
Thứ tư, Chính sách khuyến nông
Chính sách khuyến nông có từ rất sớm trong lịch sử phát triển nông
nghiệp nước ta. Từ khi có chỉ thị 100/ CT (1981) và sau Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị (1988), công tác khuyến nông được đặc biệt coi trọng. Nghị định 13/
CP (2/3/1993) của Chính phủ quy định cụ thể về công tác khuyến nông. Theo
Nghị định này, Nhà nước tổ chức hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến
22
cơ sở, cho phép phát triển các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các đoàn
thể, các tổ chức kinh tế-xã hội và tư nhân để giúp nông dân phát triển sản
xuất. Nghị định 13/CP cũng quy định nội dung chủ yếu của công tác khuyến
nông.
Thứ năm, Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường
Bộ NN&PTNT cùng với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương
quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây nông nghiệp, lâm nghiệp
và các cơ sở sản xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ một số
trang trại có điều kiện sản xuất giống để bảo đảm đủ giống tốt, giống có chất
lượng cao cung cấp cho các trang trại và hộ nông dân trong vùng. Khuyến
khích chủ trang trại góp vốn vào quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, liên kết với
cơ sở khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào
trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng.
Thứ sáu, Chính sách thị trường
Bộ công thương, Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung Ương tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, khuyến cáo khoa
học kỹ thuật, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu
cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Nhà nước đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ
nông sản thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà
nước với hợp tác chủ trang trại, hộ nông dân.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực
tiếp sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập
khẩu vật tư nông nghiệp.
Thứ bảy, Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại
Tải sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hoá,
không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc
23
phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần thu hồi đất được giao, được
thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi thường tại thời
điểm công bố quyết định thu hồi[7].
Hiệu quả của hệ thống chính sách là xây dựng chính sách thống nhất,
phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước, đồng bộ hóa với quy hoạch và hệ thống pháp luật. Đồng thời Nhà
nước phải xác định được tầm quan trọng và mức độ tác động khác nhau của
mỗi chính sách đó để có những ưu tiên thực hiện hợp lý.
* Công tác kiểm tra giám sát
Kiểm tra giám sát là việc làm không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động
công tác QLNN. Việc kiểm tra giám sát các hoạt động liên quan đến KTTT sẽ
giúp các cơ quan Nhà nước có thể nắm bắt được tình hình hoạt động và phát
triển của các trang trại tại địa phương, ngoài ra còn có thể quản lý được chất
lượng đầu vào và đầu ra đối với các sản phẩm của KTTT.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy việc phát triển KTTT đạt hiệu quả
không chỉ bằng bàn tay vô hình-sự điều tiết của thị trường hay chỉ bằng bàn
tay hữu hình tức là sự điều tiết của Nhà nước mà cần phải có sự kết hợp chặt
chẽ, thống nhất giữa bàn tay hữu hình và bàn tay vô hình. Đặc biệt trong điều
kiện cụ thể của nước ta, phát triển KTTT vừa phải đạt hiệu quả kinh tế, vừa
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, quản lý Nhà nước đối với KTTT thực hiện chức năng điều
chỉnh các mối quan hệ kinh tế nhằm lành mạnh hoá toàn bộ các mối quan hệ
KT-XH. Trên cơ sở hệ thống các mối quan hệ kinh tế lành mạnh được duy trì ổn
định sẽ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển ổn định của của KTTT.
* Bộ máy quản lý Nhà nước
Bộ máy QLNN về kinh tế và KTTT phải được sắp xếp tinh gọn và linh
hoạt, có khả năng thích ứng và nắm bắt nhanh chóng những biến động của
24
kinh tế thị trường, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển nhanh mạnh của nền kinh
tế. Để vận hành bộ máy trên cần một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với công việc. Vấn đề
cán bộ luôn được đặt ra trong tất cả các lĩnh vực quản lý KT-XH bởi đây
chính là lực lượng chủ chốt đưa đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước đi vào thực tiễn đời sống. Bên cạnh đó sự chủ động sáng tạo của cán bộ
công chức sẽ tác động rất lớn đến kết quả của hoạt động quản lý.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG VÀ BÀI HỌC VỚI HUYỆN LỤC NAM
1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Lục Ngạn về quản lý nhà nước đối với
kinh tế trang trại
Về quy hoạch, kế hoạch: Chính quyền huyện Lục Ngạn đã triển khai
xây dựng quy hoạch các vùng KTTT chuyên trồng các cây ăn quả, hỗ trợ
chuyển đổi phương hướng kinh doanh và ứng dụng công nghệ phù hợp với
từng loại hình trang trại. Thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học
và công nghệ, nhất là các chương trình triển khai sản xuất cây ăn quả theo tiêu
chuẩn VietGAP nhằm nâng cao độ an toàn trong sản xuất, đặc biệt tạo sự an
toàn cho sản phẩm. Nhờ đó các vùng chuyên canh cây ăn quả đã hình thành
và phát triển bền vững trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Về chính sách ứng dụng khoa học công nghệ và chính sách thị trường: Năm
2005, huyện Lục Ngạn tiến hành việc chăm sóc thử nghiệm vải thiều theo tiêu
chuẩn VietGAP tại một số trang trại điển hình với quy mô 5ha. Năm 2007 mở
rộng diện tích lên 150 ha và đến năm 2010 đã nâng tổng diện tích trồng vải
theo tiêu chuẩn VietGAP lên hơn 4000 ha đồng thời tiến hành trồng thí điểm
theo tiêu chuẩn GlobalGAP nhằm từng bước phát triển thương hiệu vải thiều
ra các thị trường khó tính như Pháp, Mỹ, Oxtraylia và hướng tới một số thị
trường Trung Đông.... Lục Ngạn hiện có khoảng 16.200 ha trồng vải thiều,
25
việc mở rộng diện tích sản xuất vải thiều sạch an toàn theo tiêu chuẩn
VietGAP ngày càng được chính quyền và người dân ở Lục Ngạn quan tâm
thực hiện chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP. Việc chăm sóc
vải theo tiêu chuẩn VietGAP luôn được giám sát một cách chặt chẽ bởi các
chuyên gia, kỹ sư nông nghiệp đưa hiệu quả sản xuất lên rất nhiều bởi chất
lượng vải cao nên giá thành khá cao. Sản xuất vải thiều VietGAP, GlobalGAP
đã và đang trở thành xu thế tất yếu tại “vựa vải” của cả nước.
Có thể thấy vải sạch VietGAP, GlobalGAP với những tiêu chuẩn khắt
khe nhưng đảm bảo chất lượng đã góp phần nâng cao hiệu quả cho người
trồng, giúp phát huy hiệu quả kinh tế bền vững đồng thời bảo vệ môi trường.
Theo UBND huyện Lục Ngạn, với nhiều cải tiến trong hình thức, mẫu mã,
cách đóng gói sẽ giúp hình ảnh vải thiều Lục Ngạn độc đáo, khác biệt hơn.
Huyện cũng áp dụng mọi biện pháp thiết thực nhất nhằm hỗ trợ người dân
trong việc xuất bán vải trong nội địa và xuất khẩu, phối hợp với cơ quan
chuyên môn hoàn tất các thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu vải thiều Lục
Ngạn tại 7 nước là: Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Trung Quốc, Campuchia,
Singapore và Australia. Ngoài ra huyện cũng thường xuyên đứng ra tổ chức
các chương trình giao lưu ngày hội trái cây tại Hà Nội và tại trung tâm huyện
Lục Ngạn để giới thiệu và quảng bá thương hiệu nông sản. Đây là một hoạt
động không chỉ tạo sự gắn kết và học hỏi giao lưu giữa các chủ trang trại mà
còn tạo dựng hình ảnh thương hiệu trái cây Lục Ngạn[16].
UBND tỉnh Bắc Giang và UBND huyện Lục Ngạn đã phối hợp chặt
chẽ với các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin cung-
cầu, liên kết sản xuất với doanh nghiệp, thương nhân và các hệ thống phân
phối, chú trọng mở rộng thị trường trong nước. Tạo thuận lợi cho các thành
phần kinh tế tham gia tiêu thụ vải thiều, chủ động và thường xuyên phối hợp
với các cơ quan truyền thông trung ương, địa phương để tuyên truyền, quảng
bá thương hiệu vải thiều của tỉnh, kịp thời thông tin về giá cả, diễn biến thị
26
trường giúp người dân, doanh nghiệp chủ động điều tiết mang lại hiệu quả cao
1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Yên Thế về quản lý nhà nước đối với kinh
tế trang trại
Với ưu thế về diện tích đất đồi núi phù hợp cho phát triển cây công
nghiệp cây ăn quả, Các trang trại ở Yên Thế đã tận dụng tốt vốn đất cho cây
trồng cùng với lồng ghép với chăn nuôi, đặc biệt là gà đồi. Mỗi trang trại ở
Yên Thế có khoảng 5000- đến 30.000 con gà thả vườn. Nhờ có sự khuyến
khích của nhà nước, sự phối kết hợp hài hòa giữa 3 nhà : nhà khoa học-nhà
nước và nhà nông của Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Bắc Giang
với chính quyền và bà con nông dân huyện Yên Thế được tổng kết và xây
dựng thành quy trình sản xuất gà đồi an toàn, do đó các mô hình KTTT trên
địa bàn huyện Yên Thế luôn phát triển bền vững
Ngoài ra, huyện Yên Thế cũng có những chính sách và cơ chế hỗ trợ
tích cực cho sự phát triển KTTT tại địa phương như:
- Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, kết hợp lồng ghép các chương trình dự
án giao thông nông thôn, điện, thủy lợi giúp cho nhiều trang trại có đường
giao thông thuận lợi cho việc đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa.
- Hỗ trợ tạo nguồn vốn vay cho các chủ trang trại thông qua các dự án
xóa đói giảm nghèo, thành lập các nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án phát
triển cây trồng, vật nuôi. Giúp cho nhiều chủ trang trại có điều kiện tiếp cận
vay vốn ngân hàng và các quỹ tín dụng khác để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
trang trại, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi cho quá trình sản xuất.
- Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) thôn huyện
Yên Thế thường xuyên phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Bắc Giang, Sở Tài
Nguyên và Môi trường cùng Hội nông dân tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản
lý, về kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi cho các chủ trang trại. Thông qua các lớp
tập huấn, thành lập các câu lạc bộ cho các chủ trang trại giao lưu, học hỏi
27
kinh nghiệm lẫn nhau. Cơ sở hạ tầng KT-XH được đầu tư do sự hỗ trợ của
Nhà nước thông qua các chương trình phát triển trang trại và sự đóng góp của
người dân do nguồn thu trang trại tăng lên.
Lục Ngạn và Yên Thế là hai địa bàn chủ yếu là đồi núi, có độ dốc lớn,
độ che phủ của các loại cây ăn quả rất lớn. Diện tích cây ăn quả tỉ lệ thuận với
độ che phủ và chất lượng độ che phủ, đảm bảo an toàn môi trường. Ngoài ra,
sự thay thế các mô hình chuyên trồng cây ăn quả không hiệu quả ở Yên Thế
chuyển sang kết hợp giữa trồng cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm đã tạo lập
mối quan hệ sinh thái giữa trồng trọt và chăn nuôi, trong đó chăn nuôi gia
cầm và trồng cây ăn quả không chỉ tận dụng được các điều kiện của nhau mà
còn tạo sự ràng buộc trong canh tác của các hoạt động đó như việc thay vì
phun thuốc trừ sâu cho cây ăn quả phải bón bằng các loại phân hữu cơ vi sinh
để không ảnh hưởng đến đàn gia cầm. Nhờ đó tính an toàn trong sản xuất và
an toàn nông sản được tăng lên rõ rệt.
1.3.4. Bài học vận dụng cho huyện Lục Nam
Từ những kinh nghiệm thực tế của các địa phương và quốc gia kể trên
có thể đưa ra một số bài học vận dụng cho huyện Lục Nam về QLNN đối với
KTTT như sau:
Một là, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn tới các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các nông hộ đồng thời chú trọng đến việc đầu tư, nâng cấp cơ
sở hạ tầng giao thông thủy lợi tại nông thôn. KTTT có thể phát triển với nhiều
hình thức đa dạng khác nhau nhưng trang trại gia đình là loại hình thích hợp
và phổ biến nhất. Đây là hình thức sản xuất lấy hộ gia đình làm nền tảng để
sản xuất nông sản hàng hóa, sử dụng lao động gia đình trong quản lý và sản
xuất, có thể sử dụng lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ. Quá trình phát
triển trang trại ở hầu hết các xã trên địa bàn của huyện, đều có xu hướng
chung là các trang trại gia đình được hình thành chủ yếu từ cơ sở của các tiểu
28
hộ sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cung, tự cấp, khép kín, vươn lên sản xuất
nhiều nông sản, hàng hóa với quy mô nhỏ đến lớn, tiếp cận thị trường từng
bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh. Kinh tế trang trại có thể và có điều
kiện để phát triển ở tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp
(nông, lâm, ngư nghiệp) và tất cả các vùng khác nhau (đồi núi, đồng bằng,…)
Việc xây dựng trang trại khép kín vườn-ao-chuồng-ruộng (VAC-R) được
coi là mô hình chăn nuôi tổng hợp khép kín kiểu mới trong giai đoạn hiện nay
là một hướng đi đúng, cần được Nhà nước đầu tư và khuyến khích nhiều hơn
nữa. Ưu điểm của mô hình này là giúp người nuôi tiết kiệm được rất nhiều chi
phí sản xuất, bảo vệ môi trường chăn nuôi, thông qua việc tận dụng một cách
triệt để nhờ những gì có trong chất thải, thức ăn, khí đốt,…đồng thời cũng
giảm thiểu bệnh tật và có thể phát triển chăn nuôi bền vững. góp phần thúc
đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn.
Hai là, Sự phát triển của các trang trại lại chủ yếu dựa vào việc ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất để tăng năng
suất và chất lượng nông sản trên một đơn vị diện tích. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô đất đai, lao
động, mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công nghệ trong sản xuất nông
nghiệp.Do vậy phải áp dụng khoa học kỹ thuật phù hợp với công tác sản xuất
nuôi trồng để đạt được hiệu quả cao nhất.
Ba là, Bồi dưỡng, đào tạo chủ trang trại là một trong những nhân tố quan
trọng nhất đối với sự thành công của KTTT ở các vùng. Do tính chất tiền thân
là hình thức canh tác tự cung tự cấp và tư tưởng làm việc theo kinh nghiệm
truyền thống dân gian còn tồn tại nên hiệu quả sản xuất từ các trang trại chưa
cao. Hơn nữa, mục tiêu KTTT là sản xuất nông sản hàng hóa, việc quản lý sản
xuất kinh doanh của KTTT yêu cầu các chủ trang trại phải có trình độ nhất
29
định. Vì vậy, Nhà nước cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức áp
dụng phương pháp chăm sóc theo khoa học cho bà con nông dân để có thể
đảm bảo cho các trang trại hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, sự tồn tại và phát triển của KTTT gắn liền với tiến trình công
nghiệp hóa và sự phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường cạnh
tranh. Việc tạo dựng thương hiệu nông sản từ các trang trại là hết sức cần thiết
cho việc đưa đầu ra sản phẩm ra ngoài thị trường, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay khi nhà nước ta đang tuyên truyền sử dụng thực phẩm sạch, người
tiêu dùng nói không với thực phẩm bẩn thì đây là việc làm đảm bảo an toàn
tối đa không chỉ cho chủ trang trại mà cho cả thị trường tiêu dùng
Năm là, Nhà nước phải có biện pháp gắn trang trại với công nghiệp chế
biến và dịch vụ tại nông thôn. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên thu
nhập từ ngoài nông nghiệp của các gia đình nông dân đang ngày càng phổ
biến ở nhiều nơi. Việc hình thành và phát triển thị trường hàng hóa, công
nghiệp chế biến và dịch vụ cho KTTT là điều kiện hết sức quan trọng để thúc
đẩy trang trại phát triển có hiệu quả.
Sáu là, đề cao vai trò đặc biệt quan trọng của Nhà nước trong quá trình
hình thành, quản lý và đảm bảo phát triển KTTT. Vai trò của Nhà nước được
thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp
nông thôn; ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển KTTT…
Đặc biệt là những định hướng cụ thể và quy hoạch đồng bộ việc sử dụng đất
nông nghiệp vào sản xuất KTTT thành các vùng chuyên môn hóa tập trung.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp tích cực can thiệp gián tiếp vào
thị trường nông sản thông qua các đòn bẩy kinh tế để tạo sự cân bằng về cung
và cầu trên thị trường nhằm điều tiết thị trường nông sản ổn định, chống
30
khủng hoảng, đảm bảo mọi rủi ro cho nông dân.
Tóm tắt chương 1
QLNN đối với KTTT là sự quản lý vĩ mô mang tính chất thực hiện quyền
lực Nhà nước trong quản lý, thông qua công cụ kế hoạch, pháp luật và các
chính sách để tạo điều kiện tiền đề, môi trường cho KTTT phát triển, đồng
thời kiểm soát quá trình phát triển đó theo mục tiêu đã định. Những chức năng
chủ yếu QLNN đối với KTTT là: định hướng phát triển, điều chỉnh các mối
quan hệ, hỗ trợ giúp đỡ và bổ sung những vị trí cần thiết hoặc then chốt trong
quá trình phát triển KTTT.
Vai trò của QLNN đối với KTTT bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối
hợp các hoạt động lao động chung trên cơ sở xã hội hoá sản xuất và phát triển
KTTT hàng hoá trong nền kinh tế nông nghiệp. Nhà nước là cơ quan nhận
thức đúng các quy luật vận động phát triển, nắm vững và dự báo được các yếu
tố tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội trong nước và quốc tế để vạch ra các
chiến lược và kế hoạch phát triển thể chế hoá các chủ trương, đường lối phát
triển KTTT thành các quy chế, luật lệ để hướng dẫn và sử dụng các kích thích
kinh tế nhằm định hướng phát triển các vùng KTTT các thành phần kinh tế
các loại hình doanh nghiệp, hoạt động ở nông thôn v.v... phát triển đúng
hướng và có hiệu quả.
Như vậy, QLNN đối với KTTT là sự quản lý của nhà nước về mặt kinh tế
để các mô hình KTTT có thể phát triển theo mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra.
Để đạt được mục tiêu đó Nhà nước cần xây dựng một hệ thống luật pháp cùng
với các chính sách hợp lý, hoàn thiện. QLNN đối với KTTT có vai trò to lớn
trong việc xử lý các vụ lợi cá nhân nảy sinh trong quá trình phát triển; đảm bảo
môi trường thuận lợi và an ninh cho sự phát triển QLNN đối với KTTT nông
thôn, đảm bảo một số lĩnh vực hoạt động trong KTTT bằng thực lực kinh tế Nhà
nước để điều tiết, hướng dẫn, định hướng sự phát triển của KTTT theo cơ chế
31
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ
TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
HUYỆN LỤC NAM
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Lục Nam là một huyện miền núi nằm ở phía đông bắc của tỉnh Bắc
Giang, cách trung tâm thành phố Bắc Giang 27km, được thành lập theo Nghị
định số 24/NĐ-TTg ngày 21/01/1957 của Thủ tướng Chính phủ, phía Bắc
giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây giáp huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn và
huyện Lạng Giang, phía Nam giáp thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương và thị xã Đông Triều tỉnh Quảng Ninh. Có diện tích 597 km2 , chiều dài từ Đông sang
Tây là 70km, chiều rộng từ Bắc tới Nam là 25km, trong đó diện tích đất nông
nghiệp khoảng 18.720 ha, đất lâm nghiệp 27 nghìn ha, còn lại là một số diện
tích đất khác. Toàn huyện có 25 xã và 2 thị trấn, với 334 thôn bản; hệ thống
giao thông khá thuận lợi có Quốc lộ 31, QL 37 và tỉnh lộ 293, tỉnh lộ 295
chạy qua, kết hợp với tuyến đường sắt Hà Nội- Quảng Ninh và tuyến đường
sông Lục Nam, đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán. Lục
Nam có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao thông lớn nối liền với các
tỉnh trong vùng. Huyện có thuận lợi trong giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các
vùng miền núi và đồng bằng, là thời cơ để huyện có những bước chuyển
mình, bứt phá, tạo nên diện mạo mới của một huyện đang phát triển.
Khí hậu và thời tiết. Khí hậu của huyện Lục Nam chịu ảnh hưởng của
khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 23,9Cº.
Điều kiện khí hậu của Lục Nam nhìn chung thuận lợi cho hệ sinh thái động
32
thực vật phát triển đa dạng nói chung, trong đó có sản xuất nông lâm nghiệp.
Độ ẩm và số giờ nắng trong năm phù hợp cho việc canh tác luân canh, tăng
vụ. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều, mưa lớn thường tập trung vào
các tháng 7 và tháng 8 gây ngập úng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của
nhân dân.
2.1.1.2. Về địa hình
Huyện Lục Nam có 3 dãy núi tạo thành 3 vòng cung từ Đông Bắc đến
Đông Nam. Phía Đông Bắc có dãy Bảo Đài gồm nhiều đồi núi thấp với đỉnh
cao nhất là 284m, phía Đông có vòng cung Yên Tử đỉnh cao nhất là 779m,
phía Đông Nam có dãy núi Huyền Đinh gồm nhiều triền núi hình lượn sóng
đỉnh cao nhất là 615m. Đặc điểm trên tạo cho huyện Lục Nam có địa hình
lòng chảo, nghiêng dần về phía Tây Nam và địa hình được phân thành 3 vùng
khác nhau rõ rệt: Vùng núi, vùng trung du và vùng chiêm trũng.
Tài nguyên đất của huyện Lục Nam rất phong phú, đa dạng, thích nghi với
nhiều loại cây trồng, chủ yếu các loại đất phù sa ít được bồi đắp. Địa hình có
độ dốc lớn nên đất bị sói mòn, rửa trôi bạc màu và nghèo dinh dưỡng, cần có
biện pháp cải tạo đất, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để nâng cao độ phì
nhiêu của đất và góp phần cải tạo môi trường
Tài nguyên nước
- Sông ngòi: Lục Nam nằm trên con sông lớn là sông Lục Nam chảy
dài từ huyện Sơn Động qua Lục Ngạn và đổ ra sông Thái Bình, nhờ vậy có rất
nhiều điều kiện phát triển kinh tế, thuận lợi cho giao thông đường thủy, trao
đổi hàng hóa, điểm khởi đầu vào huyện từ xã Trường Giang đến điểm ra cuối
là xã Đan Hội dài 38km, lòng sông và tương đối bằng phẳng, mức nước thấp
nhất vào mùa khô là 0,7m; biên động dao động giữa mùa lũ và mùa khô lớn,
trung bình trên dưới 7m.
- Hệ thống suối chảy qua các xã: Bảo Đài, Chu Điện, Lan Mẫu, Yên Sơn đổ
33
ra sông Lục Nam tại cống Chản, cống Mân xã Yên Sơn Toàn huyện có 90 hồ
đập lớn nhỏ với 211 km kênh mương các cấp và 31 trạm bơm các loại phục
vụ tưới tiêu cho 4430 ha đất canh tác. Nhìn chung nước mặt chủ yếu sử dụng
cho sản xuất nông nghiệp(đạt 50% diện tích đất canh tác. Lục Nam còn có
thắng cảnh Suối Mỡ: là công trình mang tính chiến lược có ý nghĩa rất lớn đối
với sự phát triển du lịch sinh thái, đồng thời đảm bảo cung cấp nguồn nước
phục vụ nông nghiệp cho nông dân.
Ngoài ra, các hồ chứa nước lớn của huyện như hồ Suối Nứa, hồ Suối
Mỡ và hồ Cây Đa là những nơi luôn đảm bảo cung cấp nước tưới thường
xuyên cho hoạt động nông nghiệp đặc biệt là lúc nước và hoa màu trên địa
bàn toàn huyện.
Tài nguyên rừng: Theo số liệu điều tra đến tháng 6 năm 2006 toàn
huyện có 26.323 ha đất lâm nghiệp. 96,47% đất nông nghiệp đã được giao và
có chủ sử dụng kết hợp vườn rừng, trang trại đồi rừng, nông lâm kết hợp. Số
diện tích này hiện đang được địa phương bảo vệ, chăm sóc tốt.
2.1.2. Về kinh tế
Là huyện miền núi có địa hình đa dạng gồm vùng núi cao, đồi núi thấp
và chiêm trũng nên trong Chương trình phát triển KTTT, Lục Nam chú trọng
phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản, cây ăn quả, rau màu thực phẩm...
phù hợp với điều kiện từng địa phương. Ít có địa phương nào của tỉnh có nhiều
loại nông sản chất lượng cao gắn liền địa danh Lục Nam như: na Huyền Sơn,
dứa Bảo Sơn, củ đậu, dưa hấu, hồng Chu Điện, nhãn lồng Đan Hội...
- Kinh tế của huyện chủ yếu là trồng lúa nước và hoa mầu. Ngoài ra
còn phát triển cây ăn quả như: Vải thiều, cam, bưởi…
- Trong các năm qua, nền kinh tế của huyện Lục Nam có những
chuyển biến rõ rệt, cơ cấu nền kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực với
mức tăng trưởng khá, sản xuất nông-lâm nghiệp, thuỷ sản ngày một ổn định
34
và sản xuất theo hướng hàng hoá.
2.1.3. Về xã hội
Huyện Lục Nam có 27 đơn vị hành chính: 25 xã và 2 thị trấn; có 23 xã
thuộc vùng khó khăn (trong đó 5 xã đặc biệt khó khăn). Diện tích tự nhiên
59.678 ha, trong đó đất nông nghiệp 46.624 ha. Tổng số hộ dân toàn huyện
trên 48.300 hộ với trên 210.000 nhân khẩu; gồm 13 dân tộc anh em cùng sinh
sống, bao gồm: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Cao Lan,
Mường… trong đó người dân tộc thiểu số chiếm gần 13% chủ yếu là dân tộc
Tày, Nùng trong đó số hộ nghèo là 18.869 hộ chiếm tỷ lệ 39,1% tổng số hộ
toàn huyện.
Ngoài ra huyện còn có các di tích văn hoá, lịch sử rất phong phú về thể
loại: đình, chùa, miếu, nghè, lăng tẩm, văn bia, với 79 di tích. Trong đó đã
được Bộ văn hoá thông tin và truyền thông xếp hạng 10 di tích như: Khu Suối
Mỡ, Đình Sàn, Chùa Thượng Lâm…Về tín ngưỡng, ngoài phật giáo còn có
đạo Thiên chúa giáo với một giáo sứ Đại Lãm với 3 nhà thờ: Thanh Giã, Đại
Lãm và Già Khê. Nhìn chung các công trình văn hoá phong phú về số lượng,
dáng vẻ đa dạng nhưng quy mô còn nhỏ phần lớn đã xuống cấp do thời gian
và chưa được quan tâm tu bổ thường xuyên
Nhận xét: Lục Nam là huyện có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao
thông lớn giữa các tỉnh trong vùng, có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế,
văn hóa giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển
mọi mặt, tuy nhiên còn có nhiều khó khăn cơ bản mà huyện đang từng bước
khắc phục đó là:
- Là một huyện miền núi Trung du phía bắc cho nên địa hình chủ yếu là trung
du và núi non hiểm trở, do vậy rất khó khăn cho vấn đề giao thông, xây dựng
cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, hệ thống điện đường trường trạm còn nhiều
35
hạn chế, nên việc tiếp cận thông tin của người dân vẫn còn nhiều hạn chế …
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN LỤC NAM
2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
2.2.1.1. Về giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp
Theo số liệu thống kê 2015 của Chi cục thống kê huyện Lục Nam, giá trị
sản xuất bình quân đất nông nghiệp trong những năm qua liên tục tăng
trưởng, tuy nhiên tốc độ tăng còn tương đối chậm so với sự phát triển chung
về mặt kinh tế.
Biểu đồ 2.1. Giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Lục Nam giai đoạn 2011-2015
(Đơn vị tính: triệu đồng)
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy số liệu từ giá trị sản xuất bình quân đất
nông nghiệp phân bố không đồng đều, chủ yếu là trên lĩnh vực trồng trọt, luôn
chiếm hơn 60% giá trị sản xuất nông nghiệp. Ngược lại, lâm nghiệp lại chiếm
tỉ trọng rất thấp, chỉ từ 2-4% trong năm, cơ cấu sản giá trị xuất bình quân đất
36
nông nghiệp trên lĩnh vực trồng trọt qua từ 2012-2014 đều có sự tăng lên
nhưng không đáng kể. Tuy nhiên đến năm 2015 thì cơ cấu sản xuất bình quân
đất nông nghiệp lại giảm đi 1.2% so với năm 2014. Theo đó, giá trị sản xuất
bình quân đất nông nghiệp trong những năm qua liên tục tăng trưởng trong đó
chủ yếu là đất trồng trọt, năm 2011 giá trị sản xuất đất nông nghiệp từ trồng
trọt là 2.257.356 triệu đồng đạt 66.6% trong cơ cấu giá trị bình quân sản xuất
đất nông nghiệp. Chăn nuôi đạt 1.503.174 triệu đồng chiếm tỷ lệ 30% trong
tổng cơ cấu giá trị bình quân sản xuất đất nông nghiệp. Giá trị sản xuất bình
quân đất lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm khoảng 2.5% trong tổng số cơ cấu giá
trị bình quân sản xuất đất nông nghiệp. Tính đến năm 2015 giá trị sản xuất bình
quân đất trồng trọt tăng lên 3.290.017 triệu đồng. Tăng 0.6% so với năm 2011.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ huyện Lục Nam khoá XX, nhiệm kỳ 2010 – 2015, sản
xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Toàn huyện có hơn 100 hộ được cấp giấy
chứng nhận đạt tiêu chuẩn KTTT theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT
của Bộ NN&PTNT hầu hết các trang trại đều tích cực chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, sản xuất với quy mô lớn, có hiệu quả
2.2.1.2. Về số lượng, cơ cấu số lượng trang trại trên địa bàn huyện
Năm 2010, số lượng trang trại trên địa bàn toàn huyện là 596 trang trại,
trong đó trang trại trồng trọt là 237 trang trại, trang trại chăn nuôi là 298 trang
trại, trang trại lâm nghiệp là 9 trang trại và trang trại tổng hợp là 15 trang trại.
Theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNN thì đến năm
2015 số lượng trang trại đạt tiêu chuẩn KTTT trên địa bàn huyện giảm đáng
kể. Tính đến hết tháng 10 năm 2015 toàn huyện Lục Nam có 540 trang trại.
Trong đó chỉ có 89 trang trại đạt tiêu chí và được cấp giấy chứng nhận KTTT
và chủ yếu là các trang trại chăn nuôi, Đến tháng 9 năm 2017 số lượng trang
trại trên địa bàn huyện có tăng thêm được 13 trang trại đạt tiêu chuẩn cụ thể
37
như sau:
Bảng 2.1 So sánh số lượng và loại hình trang trại năm 2010-2016
Loại hình trang trại 2010 2015 2016 So sánh 2016-2010
Trồng trọt 273 06 12 -261
Chăn nuôi 298 73 74 -224
Lâm nghiệp 09 06 07 -2
Tổng hợp 15 03 08 -7
Thủy sản 01 01 01 0
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)
Tổng cộng 596 89 102
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu trang trại năm 2015
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)
(Đơn vị tính: %)
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy, cơ cấu trang trại trên địa bàn huyện
Lục Nam phân theo lĩnh vực không đồng đều, các trang trại chăn nuôi chiếm
tỉ lệ rất lớn trong tổng cơ cấu trang trại (83.9%). Các loại hình trang trại trồng
trọt, lâm nghiệp, tổng hợp và thủy sản chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong cơ cấu
38
trang trại trên địa bàn huyện.
Quy mô cho các trang trại trồng trọt tuy còn rất ít nhưng giá trị kinh tế
cao. Theo đó các trang trại trồng trọt luôn chiếm trên 60% giá trị hàng hóa
KTTT. Trong khi các trang trại lâm nghiệp chiếm diện tích rất lớn nhưng giá
trị kinh tế chỉ chiếm từ 2.5% đến 4.2% trong cơ cấu giá trị hàng hóa kinh tế
nông nghiệp.
2.2.2. Doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Từ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ
thuật vào quá trình sản xuất, KTTT ngày càng phát triển và mang lại nguồn
thu lớn cho nông dân. Năm 2015, trên địa bàn huyện Lục Nam có 71 trang
trại lợi nhuận thu từ 300 triệu đồng/năm trở lên và 74 hộ gia đình có mô hình
sản xuất tiêu biểu lợi nhuận thu từ 200 triệu đồng/năm trở lên…
Đặc biệt các trang trại lớn hiện nay có doanh thu hàng năm đạt hàng tỷ
đồng, điển hình như mô hình trang trại chăn nuôi vịt trời ở thôn Trại Mít, xã
Đông Hưng đạt doanh thu 3.6 tỷ đồng/ năm; mô hình trang trại lâm nghiệp
(keo và bạch đàn) của gia đình bà Hường ở thôn Cai Vàng - xã Đông Hưng
với diện tích 185 ha cho doanh thu ước tính đạt 1.3 tỷ đồng/ năm.
Bảng 2.2: Chi tiết doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Nam năm 2015
Tổng số Tổng Bình quân Cơ cấu
trang trại doanh thu doanh thu doanh
thu
Trang trại trồng trọt 1.734.366 289.061 1.13% 6
Trang trại chăn nuôi 145.109.060 1.987.795 94.44% 73
Trang trại Lâm nghiệp 6 6.315.966 1.002.661 4.11%
Trang trại thủy sản 494.871 164.957 0.11% 3
(Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu Chi cục thống kê Lục Nam 2015)
39
Trang trại tổng hợp 325.946 325.946 0.21% 1
Chăn nuôi là thế mạnh trong SXNN của huyện Lục Nam. Với 73 trang
trại đạt tiêu chuẩn KTTT theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ
NN&PTNT về KTTT. Do vậy cơ cấu doanh thu từ các trang trại chủ yếu là
các trang trại chăn nuôi, đạt 94.44% trong tổng số cơ cấu doanh thu. Trong
khi đó, các trang trại thủy sản, trang trại trồng trọt và tổng hợp doanh thu chỉ
đạt từ hơn 100 triệu đến hơn 300 triệu đồng/năm, chiếm tỉ lệ rất nhỏ chỉ từ
0.11% đến 1.13% trong cơ cấu doanh thu từ trang trại. Trang trại lâm nghiệp
chỉ có 6 trang trại, tuy nhiên lại đạt mức doanh thu rất lớn và ổn định, chiếm
4.11% trong cơ cấu doanh thu của trang trại.
2.2.3. Về thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Thu nhập của trang trại là phần còn lại sau khi lấy tổng doanh thu trừ
đi tổng chi phí sản xuất bao gồm chi phí vật chất đầu tư đầu vào, chi phí lao
động thuê ngoài và chi phí phát sinh hao hụt khác. Thu nhập KTTT là tiêu chí
phản ánh rõ nhất kết quả sản xuất và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các
trang trại
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Bảng 2.3 : Thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
2012
2015
Loại hình trang trại
Tổng
Tổng thu
TNBQ/
Tổng
Tổng thu
TNBQ/
nhập
trang trại
số
nhập
trang trại
số
trang
trang
trại
trại
02
Trang trại trồng trọt
213.142
106.571
1.294.338
215.723
06
55
Trang trại chăn nuôi
46.352.762 842.777
91.005.596 1.246.652
73
Trang trại Lâm nghiệp 04
2.348.660
587.165
5.528.520
921.420
06
0
Trang trại thủy sản
0
0
129.427
129.427
01
0
Trang trại tổng hợp
0
0
298.862
298.862
01
(Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu thống kê , Chi cục thống kê Lục Nam 2015)
40
Qua bảng trên ta thấy, các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã và
đang có mức thu nhập tương đối cao so với mức sống trung bình của người
dân. Trung bình mỗi trang trại đạt từ 300 triệu đồng/ năm trở lên. Do đặc thù
về địa hình và khí hậu thuận lợi cho phát triển chăn nuôi nên các trang trại
chăn nuôi thường đạt mức thu nhập cao, đạt từ 900 triệu cho đến hơn tỉ
đồng/trang trại/năm. Trong khi đó, các trang trại thủy sản, trồng trọt và các
trang trại tổng hợp có doanh thu chỉ từ 150 triệu đồng/trang trại/năm. Đối
chiếu với bảng 2.1 ở trên ta có thể thấy, các trang trại phải đầu tư vốn từ vài
chục cho đến vài trăm triệu đồng. Như vậy, đối với những trang trại mới việc
huy động nguồn vốn là tương đối khó khăn. Nhà nước cần có các chính sách
hỗ trợ, ưu đãi về vốn cũng như về giống cho chủ trang trại.
2.2.4. Về giải quyết việc làm cho người lao động
Cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế là không đồng đều . Lao
động tập trung chủ yếu thuộc lĩnh vực nông-lâm nghiệp chiếm 95,62% so với
tổng số lao động. Các ngành khác lao động không nhiều
Bảng 2.4: Phân bố lao động tham gia sản xuất kinh tế trang trại trên địa
(Đơn vị tính: Người)
bàn huyện Lục Nam theo lĩnh vực sản xuất
Phân bổ lao động 2012 2013 2014 2015
Trang trại trồng trọt 96 106 130 144
Trang trại chăn nuôi 516 572 642 738
Trang trại lâm nghiệp 96 96 134 144
Trang trại tổng hợp 0 0 9 9
Trang trại thủy sản 0 0 7 7
(Nguồn: Chi cục thống kê Lục Nam 2015, báo cáo thống kê Phòng Nội vụ huyện Lục Nam)
41
Tổng số 708 774 922 1042
Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy số lượng lao động phổ thông
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh tế trang trại còn rất nhỏ so với tổng số
lực lượng lao động hiện có trên địa bàn huyện. Các lao động tham gia vào sản
xuất KTTT chủ yếu là lao động trong gia đình.
Các trang trại hình thành chủ yếu từ hộ gia đình nông dân, do vậy lao
động trong gia đình chiếm tỷ lệ khá cao, đồng thời thu hút một lượng lao
động nhàn rỗi tại địa phương. Sự hình thành và phát triển nhanh về số lượng
và chất lượng các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã góp phần giải
quyết vấn đề việc làm cho hàng ngàn lao động phổ thông trên địa bàn huyện
Lục Nam. Qua đó, góp phần tích cực vào việc giảm tải vấn nạn người lao
động bỏ làng đi làm kinh tế ở các khu công nghiệp, tình trạng thanh thiếu niên
đi xuất khẩu lao động hoặc vượt biên trái phép sang Trung Quốc.
2.2.5. Trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tại các trang trại
Hiện nay, việc đầu tư công nghệ khoa học cho các trang trại ở huyện
Lục Nam còn ở trình độ thấp. Các chủ trang trại chủ yếu sử dụng những trang
thiết bị thô sơ, lạc hậu so với sự tiến bộ của khoa học hiện đại. Thực tế từ các
trang trại trồng trọt hiện nay cho thấy, các trang trại chưa có hệ thống tưới
tiêu hiện đại, đặc biệt với các trang trại trồng trọt lớn, chỉ có 2 trên tổng số
hơn 70 trang trại áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt cho trang trại, số còn lại
đều tiến hành chăm sóc thủ công. Ngoài ra, ở hầu hết các trang trại cũng chưa
đầu tư hệ thống bảo quản nông sản thích hợp. Ở Hàn Quốc và một số địa
phương khác các chủ trang trại thường rất chú trọng đến việc xây dựng nhà
bảo quản nông sản, nhất là đối với những nông sản cần đảm bảo nhiệt độ, độ
ẩm... được thiết kế lắp đặt một cách công phu. Tuy nhiên, các trang trại trên địa
bàn huyện Lục Nam đều chưa thể tiếp cận những thành tự khoa học đó vì chi phí
lắp đặt thi công cao, đòi hỏi những yêu cầu cao về trình độ kỹ thuật và địa hình
42
phức tạp
2.2.6. Trình độ tổ chức quản lý
Trình độ quản lý của chủ trang trại và tay nghề của người lao động còn
nhiều hạn chế, đại bộ phận chủ trang trại chưa qua đào tạo nên lúng túng
trước cơ chế thị trường, lao động làm việc trong các trang trại chủ yếu là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo tay nghề nên năng suất, chất lượng lao động
thấp. Vấn đề này cũng đặt ra những đòi hỏi cấp bách về nhu cầu đào tạo, tập
huấn bồi dưỡng kiến thức về kinh doanh, quản trị kinh doanh, về thị trường và
kinh tế thị trường cho các chủ trang trại.
Hầu hết các chủ trang trại hiện nay tự quản lý trực tiếp trang trại của
mình và đa số các chủ trang trại đều chưa được học qua các lớp đào tạo về
quản lý cũng như chuyên môn. Đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ
nông nghiệp khi bước sang làm KTTT còn nhiều bỡ ngỡ, nhiều trường hợp
còn chưa quen với sản xuất kinh doanh hiện đại. Do đó họ chỉ làm theo kinh
nghiệm sẵn có, rất ít chủ trang trại áp dụng hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm không cao, mẫu mã chưa
phong phú, sức cạnh tranh với các sản phẩm bên ngoài còn yếu.
2.2.7. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
Tuy đã có những ứng dụng kịp thời về khoa học kỹ thuật trong sản xuất, áp
dụng các phương thức sản xuất tiến bộ nhưng thực tế cho thấy chất lượng và
sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa chưa cao, sản phẩm tiêu thụ chủ yếu
dưới dạng thô hoặc tươi sống, chưa qua chế biến nên giá bán thấp, sức cạnh
tranh yếu giá cả và thị trường tiêu thụ còn bấp bênh, thiếu ổn định trong khi
nhận thức và hiểu biết về thị trường và kinh tế thị trường của các chủ trang
trại còn nhiều hạn chế, nhiều chủ trang trại chưa nắm bắt được nhu cầu thị
trường nên sản xuất thụ động, thường chỉ dựa vào kinh nghiệm trong các
quyết định về đầu tư và kinh doanh nên thường gặp rủi ro, bất lợi. Chưa tạo ra
43
được những sản phẩm có thương hiệu để đứng vững trên thị trường.
Mặc dù giá trị sản xuất hàng hóa bình quân một trang trại tương đối lớn (trung bình
02tỷ đồng/trang trại) nhưng số có thu nhập cao chỉ tập trung ở một số loại hình
trang trại chăn nuôi, thủy sản còn các loại hình trang trại trồng trọt, lâm nghiệp.
2.2.8. Giải quyết vấn đề an toàn môi trường
Nhiều chủ trang trại vì mục tiêu lợi nhuận đã không chú ý đến việc bảo
vệ môi trường, xả chất thải, nước thải ra các cống rãnh. Các loại chất thải xuất
hiện ngày càng nhiều tại các vùng nông thôn trong khi khả năng đầu tư cho
xử lý, giảm thiều ô nhiễm rất hạn chế. Việc sử dụng hóa chất chăm sóc, bảo
quản nông sản là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Ngày càng có nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật kích thích tăng
trưởng được sử dụng tại các trang trại. Hóa chất được sử dụng nhiều nhưng
các biện pháp làm sạch môi trường trang trại, diệt trừ mầm bệnh trước khi
bước vào vụ sản xuất mới lại ít được các chủ trang trại quan tâm, do vậy
lượng hóa chất bảo vệ thực vật còn đọng lại trong đất khá lớn gây ô nhiễm
nguồn đất và ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm trọng.
Hiện nay, phần lớn các chất thải sinh hoạt không được phân loại, vứt
bừa bãi ra môi trường. Lượng rác tồn đọng tại các kênh, mương khá lớn và
phổ biến, dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới cộng
đồng dân cư, gia tăng gánh nặng bệnh tật. Do đó, bảo vệ môi trường cần được
gắn với trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân và mọi người dân. Hiện việc xử
phạt hành chính đối với các chủ trang trại chưa đủ mạnh, phổ biến ở mức 5-7
triệu đồng, cao nhất là 28 triệu đồng nên chưa đủ sức răn đe. Việc xử phạt
chưa gắn với thanh tra kiểm tra sau xử lý nên chưa thực sự đạt hiệu quả. Để
phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần phải giải quyết hàng loạt
mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt, lâu dài và đặt trong tổng thể, gắn kết hài
44
hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường.
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ
TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM
2.3.1. Công tác quy hoạch, kế hoạch trong quản lý nhà nước đối với phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Theo quyết định số 751/QĐ-UBND ngày 15/5/2009 về quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Lục Nam giai đoạn 2008-2020 của chủ tịch
UBND tỉnh Bắc Giang, với mục tiêu giảm dần tỉ trọng nông lâm ngư nghiệp
trong cơ cấu kinh tế nhưng tăng về giá trị sản xuất từ 6% giai đoạn 2008-2010
lên 6,3% vào giai đoạn 2011-2015 và 6,5% giai đoạn 2016-2020. Đưa giá trị
sản xuất bình quân/ha đất nông nghiệp đạt 35 triệu đồng vào năm 2010 và
trên 50 triệu đồng vào năm 2020, tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi khoảng 45%
giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, Về thủy sản phấn đấu đến năm 2020 khai
thác 90% diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản, tổ chức nuôi trồng theo
hướng thâm canh và bán thâm canh. Phấn đấu nâng tổng sản lượng lên 20
ngàn tấn vào năm 2020, đưa tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản lên 10% so với
giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản. Theo đó, địa phương đã thực hiện
quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm kỳ đầu giai đoạn 2011-2015, được UBND tỉnh phê duyệt năm 2013.
Hiện nay, huyện đang lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai
đoạn 2016-2020, trình HĐND huyện quyết định trước khi trình UBND huyện
phê duyệt. Huyện thường xuyên cùng Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về công tác quản lý nhà nước về giao, cho
thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của UBND huyện
Lục Nam. Cho đến nay công tác quy hoạch sử dụng đất, định hướng các vùng
sản xuất và định hướng các loại vật nuôi, cây trồng giai đoạn 2011-2020 đã
45
được UBND huyện Lục Nam phê duyệt
Việc xây dựng quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trên cơ sở tổng hợp
các quy hoạch ngành, có ý kiến tham gia của người dân. Chú trọng đến việc
quy hoạch sử dụng đất chính xác, khoa học được thực hiện theo Luật đất đai
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các trình tự, căn cứ pháp lý để lập,
điều chỉnh quy hoạch kế hoạch sử dụng đất; chất lượng thẩm định quy hoạch
và đánh giá kết quả thực hiện , tính phù hợp giữa quy hoạch sử dụng đất nông
nghiệp với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đều được thông qua ý kiến
tham gia của người dân, quá trình thực hiện luôn được báo cáo và giám sát
chặt chẽ.
Hằng năm, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tổ chức rà soát, lập
danh mục các dự án sử dụng đất, phát triển KT-XH trình HĐND huyện phê
duyệt, kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về đất đai, tăng cường thanh
tra, kiểm tra, tuyên truyền hướng dẫn cơ sở thực hiện tốt các quy hoạch, có kế
hoạch tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ địa chính cấp
xã.
Việc chấp hành pháp luật trong thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng
đất được UBND huyện quan tâm thực hiện. Tất cả các chỉ tiêu quan trọng như
đất lúa, đất rừng đặc dụng đều được giữ vững. Việc giao đất, cho thuê đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đều được thực hiện đúng quy trình. Ngoài
ra, huyện đã tổ chức công khai bản đồ sử dụng đất để người dân và doanh
nghiệp nắm được.
2.3.2. Thực thi pháp luật có liên quan
Việc cấp giấy chứng nhận KTTT trên địa bàn huyện Lục Nam đến
tháng 12 năm 2015 chỉ có 27 trang trại trong tổng số trang trại được cấp giấy
chứng nhận KTTT và chủ yếu là các trang trại chăn nuôi. Để tạo điều kiện
cho các trang trại được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước và làm cơ
46
sở cho công tác kiểm tra, kiểm soát trong QLNN, chính quyền địa phương đã
ban hành các quy định hướng dẫn, thủ tục, điều kiện cấp và thu hồi giấy
chứng nhận KTTT cho các cá nhân và hộ gia đình theo thông tư số
27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNT. Ngoài ra cũng đã ban hành một
số văn bản góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển KTTT trên địa bàn
huyện thông qua đó tạo điều kiện cho cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, huyện, xã,
thị trấn và các chủ trang trại trên địa bàn cập nhật được các văn bản, chính
sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển KTTT.
Đối với các trang trại chăn nuôi, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, địa
điểm trang trại thường nằm cùng trên đất ở của các hộ vì vậy đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đảm bảo cho các chủ trang trại yên tâm
sản xuất.
Huyện đã xây dựng kế hoạch, đề án, có cơ chế thích hợp thực hiện
chính sách dồn điền đổi thửa, chuyển ruộng trũng cấy lúa không ăn chắc sang
nuôi trồng thủy sản, thực hiện lồng ghép các chương trình khuyến nông,
khuyến lâm để hỗ trợ cây, con giống, vật tư, hỗ trợ mua máy móc phục vụ sản
xuất nông nghiệp từ nguồn ngân sách huyện và chương trình mục tiêu quốc
gia, chương trình giảm nghèo 134, 135, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở
các lớp tập huấn, hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật đến các hộ nông dân,
qua đó góp phần quan trọng thúc đẩy và tạo điều kiện cho KTTT phát triển.
2.3.3. Ban hành và thực thi chính sách có liên quan
Để nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất, nhà nước đã
có nhiều chính sách để khuyến khích phát triển những mô hình KTTT phù
hợp gắn với đặc điểm của từng vùng, miền có hiệu quả và bền vững thì nhất
định phải có sự khuyến khích, hỗ trợ từ phía Nhà nước với tư cách nhà quản
lý, nhà cung cấp dịch vụ thông qua các chủ trương chính sách cụ thể trên từng
lĩnh vực, và những chính sách khuyến khích, hỗ trợ này có ý nghĩa rất quan
47
trọng góp phần quyết định đến sự phát triển của KTTT. Cụ thể như sau:
2.3.3.1. Chính sách đất đai
Đất đai là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất
nông, lâm, thủy sản của KTTT. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ quyền
sở hữu, quyền sử dụng đất hợp pháp, hợp lòng dân được coi là yếu tố cơ bản
và tích cực để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn nói chung và là cơ sở
để tạo bước chuyển mình cho KTTT phát triển.
Thực thi chính sách, pháp luật về đất đai của Trung ương, và quy
hoạch kế hoạch của UBND tỉnh Bắc Giang, UBND huyện Lục Nam đã tiến
hành lập quy hoạch sử dụng đất, ban hành các quy chế về trình tự, điều kiện, thủ
tục giao đất, cấp đất, cho thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các nhân, tổ chức và hộ gia đình, giúp họ yên
tâm đầu tư sản xuất kinh doanh trên diện tích đất để phát triển KTTT.
Đến nay, tất cả các địa phương trên địa bàn huyện Lục Nam đều đã
hoàn thành xét duyệt quy hoạch sử dụng đất. Công tác cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ gia đình và các chủ trang trại đều được các cấp
chính quyền quan tâm giải quyết thủ tục hành chính trong quá trình cấp đất,
giao đất và cho thuê đất bước đầu đã được đơn giản hóa, thúc đẩy sự phát
triển có hiệu quả của KTTT.
- Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản
sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất
thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được
UBND xã xét cho thuê đất để phát triền trang trại.
- Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử
dụng đất vượt quá hạn mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để
phát triển trang trại thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang phần diện tích
đất vượt hạn mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy
48
chứng nhận quyền sử dụng đất.
2.3.3.2. Chính sách tín dụng, huy động vốn đầu tư hỗ trợ phát triển kinh
tế trang trại
Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ được Đảng, Nhà nước đặc
biệt quan tâm đến phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với một nước nông
nghiệp truyền thống như nước ta. Trên cơ sở chính sách ưu đãi về tài chính tín
dụng đối với KTTT do Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương ban hành,
UBND tỉnh Bắc Giang đã tiến hành cụ thể hóa chính sách tín dụng của Trung
ương và một số ưu đãi riêng xuất phát từ những đặc thù về kinh tế-xã hội của
địa phương, nhằm khuyến khích các hộ gia đình và cá nhân đầu tư sản xuất
kinh doanh những lĩnh vực, địa bàn còn khó khăn của địa phương.
Thực hiện chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn của
Chính phủ, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Agribank Bắc
Giang luôn có những chính sách ưu đãi với nông dân trong phát triển kinh tế
với mạng lưới giao dịch rộng khắp toàn tỉnh. Xác định rõ tiềm năng thế mạnh
của địa bàn huyện Lục Nam, ngân hàng Agribank chi nhánh Lục Nam đã chú
trọng cho vay vốn với nhiều hình thức để đảm bảo cho các chủ trang trại có
nguồn vốn như cho vay chăn nuôi phát triển trang trại, cho vay chăm sóc chế
biến tiêu thụ nông sản ở các xã. Để tạo thuận lợi cho người vay vốn, ngân
hàng luôn quan tâm cải cách thủ tục cho vay, mở nhiều định hướng và chế độ
hỗ trợ cho vay hướng dẫn chi tiết cho khách hàng, nhất là khách hàng ở vùng
sâu vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tích cực khảo sát nhu cầu vay,
chủ động tiếp cận với người dân ở vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm.
Như vậy, có thể nói nhờ chính sách ưu đãi, khuyến khích của Trung ương
và hỗ trợ của địa phương trong lĩnh vực tài chính và tín dụng đã tạo nên nhiều
điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại trong việc huy động vốn để đầu tư,
mở rộng quy mô để sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị máy
móc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
49
2.3.3.3. Chính sách khuyến nông
Đổi mới cơ cấu KTTT là một chính sách lớn của Đảng ta. Mục tiêu của
chính sách là biến nền kinh tế chủ yếu là KTTT của nước ta thành nền kinh tế
có cơ cấu hướng ngoại, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nông thôn
trong khi số lượng tuyệt đối của sản xuất KTTT vẫn cứ tăng lên. Chính sách
đổi mới cơ cấu kinh tế KTTT, nông thôn thể hiện tập trung ở Nghị quyết
Trung ương lần 5 (khoá VII) với những nội dung chủ yếu sau đây:
- Phổ biến tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ chế biến bảo
quản, phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến.
- Bồi dưỡng, phát triển kỹ năng, kiến thức về kinh tế và kỹ thuật cho nông dân.
- Tổ chức khuyến khích các phong trào sản xuất ở nông thôn.
- Phát triển nhanh, vững chắc và có hiệu quả các ngành công nghiệp dịch
vụ ở nông thôn trên cơ cở đó tăng nhanh tỷ trọng các ngành này trong cơ cấu
kinh tế nông - công - dịch vụ ở mỗi vùng và mỗi địa phương. Chú trọng
những ngành công nghiệp dịch vụ phục vụ KTTT.
- Tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế KTTT, đa
dạng hoá sản phẩm chăn nuôi và chú trọng chăn nuôi xuất khẩu.
- Phát triển mạnh ngành thuỷ sản trên tất cả các mặt nuôi trồng đánh bắt,
chế biến để khai thác có hiệu quả tiềm năng mặt nước và biển của nước ta.
- Phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng bảo vệ rừng hiện có, chăm sóc
và tái sinh vốn rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, kết hợp hợp lý giữa khai
thác với chế biến lâm sản.
Việc ban hành những chính sách này đã làm cho các mô hình KTTT ở
nước ta tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Sự
phát triển của KTTT đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông
thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm nông sản hàng hoá. Nhiều
50
trang trại đã sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ
sản xuất cho nông dân trên địa bàn huyện, tạo nguồn cung ổn định cho các cơ
sở chế biến, tạo thêm nhiều sản phẩm chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu.
2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đối với kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và
giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý vi phạm
pháp luật về nông, lâm nghiệp, thủy sản và phát triển nông thôn trong phạm vi
quản lý theo quy định của pháp luật. Tham mưu UBND tỉnh hướng dẫn và
kiểm tra hoạt động của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ, các tổ chức kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân về thủy sản, QLNN đối với các hoạt động của Hội, tổ
chức phi chính phủ.
Kiểm tra giám sát có vai trò hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy sự
phát triển của KTTT. Trong những năm qua công tác kiểm tra giám sát đối
với các loại hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã được các
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tích cực thực hiện một cách chặt chẽ:
- Cấp chứng nhận đăng ký sản xuất kinh doanh đối với KTTT. Kiểm
tra giám sát việc thực hiện cho vay tín dụng của ngân hàng và việc sử dụng
vốn vay của chủ trang trại hàng năm. Từ đó chỉ ra được những sai phạm, bất
cập trong QLNN đối với KTTT
- Thường xuyên thanh tra kiểm tra về vệ sinh an toàn trong sản xuất,
an toàn môi trường. Tiến hành kiểm tra, xử lý các hộ gia đình, chủ trang trại
không thiết lập hệ thống xử lý nước thải gây ô nhiễm môi trường.
- Đảm bảo các chủ trang trại được hưởng các chế độ ưu đãi theo đúng
chính sách của pháp luật trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời xử lý
nghiêm minh những cán bộ công chức có hành vi cố ý làm trái pháp luật,
51
chính sách của Nhà nước nhằm trục lợi cá nhân trong công tác QLNN.
2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện đối
với quản lý nhà nước về kinh tế trang trại
Tại điều 1. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 30/09/2015 của
UBND huyện Lục Nam, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí
chức năng như sau:
Phòng NN&PTNT huyện Lục Nam là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện; tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng QLNN về :
KTTT; lâm nghiệp; thủy lợi; thủy sản; phát triển nông thôn; phòng, chống
thiên tai; chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản;
phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ; KTTT nông thôn; kinh tế hợp tác
xã nông, lâm, ngư gắn với ngành nghề, làng nghề nông thôn, nước sạch nông
thôn và thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND
huyện và theo quy định của pháp luật;
Phòng NN&PTNT huyện có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản
riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý của UBND huyện theo quy định pháp luật;
đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của
Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang
Tại điều 2. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 30/09/2015 của
UBND huyện Lục Nam, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí
nhiệm vụ và quyền hạn như sau
Trình UBND huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch
dài hạn , 05 năm và hàng năm; chương trình khuyến khích phát triển nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, phát triển nông thôn, phòng chống
thiên tai; chất lượng an toàn thực phẩm để UBND huyện trình HĐND huyện
thông qua; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách
52
hành chính thuộc lĩnh vực QLNN được giao.
Trình chủ tịch UBND huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực chuyên
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc thẩm quyền của chủ tịch
UBND huyện.
Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch, các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành được phê duyệt;
thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi lĩnh
vực quản lý được giao; theo dõi thi hành pháp luật.
Tổ chức thực hiện công tác phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản; công tác phòng chống thiên tai, sâu bệnh, dịch bệnh trên địa bàn huyện
Tổ chức bảo vệ đê điều, các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ; công trình
nuôi trồng thuỷ sản; công trình cấp, thoát nước nông thôn; công trình phòng,
chống lũ, lụt, bão; quản lý mạng lưới thuỷ nông trên địa bàn theo quy định
của pháp luật.
Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với UBND cấp xã trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi
và phát triển nông thôn; về thực hiện các biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển nông nghiệp, thuỷ sản, chế biến nông sản và thuỷ sản; phát triển
ngành, nghề, làng nghề nông thôn.
Đầu mối phối hợp tổ chức và hướng dẫn thực hiện nội dung liên quan
đến phát triển nông thôn; tổng hợp tình hình, báo cáo UBND huyện việc xây
dựng và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện về các lĩnh vực: phát triển
kinh tế hộ, trang trại, kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp; khai thác và sử
dụng nước sạch nông thôn; chế biến nông sản và thuỷ sản.
Thống kê diễn biến đất nông nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản; tổ
chức thực hiện các biện pháp canh tác phù hợp để khai thác và sử dụng hợp lý
53
tài nguyên đất, nước cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Quản lý các hoạt động dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, thuỷ
sản; vật tư nông nghiệp, phân bón và thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản
trên địa bàn huyện.
Tổ chức thực hiện công tác khuyến nông, khuyến ngư và các dự án phát
triển nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện.
Giúp UBND huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định,
đăng ký, cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của
cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật và theo phân công của
UBND huyện.
Phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra và thanh tra việc thi hành
pháp luật; tham mưu cho UBND huyện giải quyết các tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn theo quy
định của pháp luật.
Thực hiện nhiệm vụ thường trực của Ban Chỉ huy phòng, chống lụt,
bão; tìm kiếm cứu nạn của huyện theo quy định; đề xuất phương án, biện
pháp và tham gia chỉ đạo việc phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai về
lũ, lụt, bão, sạt, lở, hạn hán, úng ngập và dịch bệnh trong sản xuất nông
nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn huyện.
Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình
thực hiện nhiệm vụ được giao về các lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi
và phát triển nông thôn theo quy định của UBND huyện và Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
Thực tế cho thấy, các hoạt động của Phòng Nông nghiệp huyện Lục
Nam và các trạm khuyến nông cấp cơ sở đã thực hiện rất sát với vai trò,
nhiệm vụ của mình. Góp phần đưa nền kinh tế nông nghiệp của huyện phát
54
triển đúng hướng theo chỉ đạo của UBND tỉnh đưa ra.
2.4. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN LỤC NAM
2.4.1. Những thành tựu đã đạt được
Với lợi thế vùng đồi núi trung du, các mô hình KTTT trên địa bàn
huyện Lục Nam tiếp tục phát triển mạnh. Với những dự án quy hoạch, kế
hoạch cụ thể KTTT trên địa bàn huyện đã khai thác tốt hơn về tiềm năng đất
đai, lao động, tiền vốn và khoa học kỹ thuật góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hóa, đã hình thành được
một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung lớn phục vụ chế biên, xuất khẩu như:
Vùng sản xuất cây ăn quả: vải, nhãn, bưởi, cam, na...; vùng sản xuất rau chế
biến, rau an toàn; vùng chăn nuôi tập trung: gà, lợn,... và vùng gỗ nguyên liệu;
tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn góp phần tích cực
cho địa phương xây dựng nông thôn mới. Mỗi năm các trang trại có doanh thu
bình quân gần 3 tỷ đồng; doanh thu lớn nhất là các trang trại chăn nuôi (trên
10 tỷ đồng). Thu nhập bình quân của trang trại/năm đạt trên 200 triệu đồng,
thu hút trên 2.000 lao động.
Về đất đai: UBND huyện đã có chính sách phù hợp để hỗ trợ việc tích
tụ ruộng đất, phục vụ cho phát triển KTTT. Đặc biệt trong giai đoạn 2010-
2015, huyện đã chỉ đạo chuyển đổi được 3.6ha ruộng trũng cấy lúa cho năng
suất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng,
năng lực sản xuất được tăng cường ổn định. Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt
15,2%. Trong giai đoạn 2005-2015, UBND huyện đã cùng các cấp nỗ lực xây
dựng hoàn thành xây dựng nông thôn mới tại các xã Đông Hưng, Tiên Hưng,
các xã còn lại đều đang nỗ lực phấn đấu hoàn thiện. Bên cạnh đó, huyện chú
trọng hỗ trợ các địa phương cứng hoá kênh mương nội đồng, xây dựng, nâng
55
cấp một số chợ nông thôn, từng bước góp phần thúc đẩy thành phần kinh tế
trang trại phát triển.
Bằng các chính sách tích cực của UBND huyện Lục Nam, đến nay có
gần 100/320 trang trại cho thu nhập 50 triệu đồng/năm trở lên, trong đó có 21
trang trại đạt thu nhập 80-90 triệu đồng/năm.
Về chính sách tín dụng: Từ năm 2003 đến nay, huyện có chính sách hỗ
trợ 4 triệu đồng/ha cho các trang trại thuỷ sản đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; 10
triệu đồng cho mỗi trang trại sản xuất kinh doanh có hiệu quả để cải tạo chuồng
trại, mua thức ăn, thuốc thú y, giống cây, con mới... Cùng với hỗ trợ vốn, huyện
còn phối hợp với các đơn vị chức năng tổ chức chuyển giao kỹ thuật trồng trọt,
chăn nuôi và kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho các chủ trang trại.
Ngoài các cơ chế chính sách hỗ trợ của Trung Ương, hàng năm tỉnh,
huyện đều có cơ chế hỗ trợ phát triển các trang trại trên địa bàn huyện như:
KTTT hàng năm đều tổ chức tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật;
hỗ trợ đưa cây con giống mới cho các trang trại phát triển sản xuất. Tổ chức
lập quy hoạch các vùng sản xuất như: vùng sản xuất Na, Dứa, Lạc, rau mầu
theo mô hình tập trung “Cánh đồng mẫu” và rau chế biến, quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng, quy hoạch khu chăn nuôi tập trung….
Về ứng dụng khoa học kỹ thuật: Những năm qua, huyện Lục Nam luôn
quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phát triển KTTT
công nghệ cao trên địa bàn, nhất là từ khi có Quyết định số 1895/QĐ-TTg
ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “phát
triển KTTT ứng dụng công nghệ cao” thuộc Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao đến năm 2020. Lĩnh vực trồng trọt luôn đi đầu trong việc áp
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là việc ứng dụng
công nghệ cao.
Đã ứng dụng, hoàn thiện công nghệ sản xuất, sử dụng các chế phẩm
56
sinh học thay thế bón phân đạm vô cơ để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và
an toàn thực phẩm; áp dụng quy trình sản xuất VietGAP đối với cây ăn quả
(vải thiều, na dai), rau chế biến, rau an toàn; nhân giống và sản xuất nấm ăn,
nấm dược liệu tại Trung tâm Giống nấm...; thực hiện cơ giới hóa trong khâu
làm đất và thu hoạch lúa đạt khá cao, trong đó cơ giới hóa trong khâu làm đất
bình quân toàn huyện đạt từ 70 - 75%, khâu thu hoạch đạt từ 35 - 40 %.
Với các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng vào canh tác, giai đoạn
2013-2016 sản lượng na toàn huyện đạt 17.000 tấn trên tổng diện tích hơn
2.000ha. Doanh thu từ na mỗi năm hơn 400 tỷ đồng, trong đó nhiều hộ thu lãi
hàng trăm triệu. Theo cán bộ Phòng nông nghiệp huyện, hiện nay 100% diện tích
na của hai xã Huyền Sơn, Nghĩa Phương và một phần diện tích ở xã Đông Phú
đã áp dụng cho ra quả từ cành, thân. Thời gian tới, huyện tập huấn, khuyến cáo
nông dân thực hiện cách làm này để cải thiện chất lượng quả.
Về sản phẩm lúa chất lượng: Việc nghiên cứu, ứng dụng các giống lúa
lai hai dòng, ba dòng, giống lúa chất lượng, giống lúa cực ngắn ngày chất
lượng cao, kháng rầy nâu như: HĐT8, ĐS1, QR1, RVT, VS1, BG6, P6ĐB,…
đã góp phần mở rộng diện tích lúa chất lượng, lúa hàng hoá của toàn huyện.
Diện tích gieo trồng các giống lúa chất lượng (giống HT1, BG1, BG6, BC15,
Thiên ưu 8,...) được mở rộng. Năm 2016, diện tích sản xuất lúa chất lượng đạt
3.950 ha trong tổng số 16.830 ha diện tích lúa gieo cấy, sản lượng đạt 96.773
tấn. Năng suất trung bình trong năm 2015 đạt 57.5 tạ/ha.
Về sản phẩm rau chế biến, rau an toàn: Tiếp tục triển khai thực hiện
Đề án sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP giai đoạn 2013 - 2016,
trong 3 năm đã tập huấn, đào tạo được trên 2.250 hộ, xây dựng mô hình sản
xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP được 60 ha, có sự tham gia của
doanh nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất- bảo quản- tiêu thụ. Kết quả năm
2016, diện tích rau chế biến, rau an toàn là 5686 ha, sản lượng đạt 104.105 tấn,
57
trong đó rau chế biến khoảng 920 ha. Các sản phẩm rau chế biến bao gồm:
dưa chuột bao tử, cà chua bi, dưa chuột Nhật, khoai tây chế biến Atlantics,
hành lá, măng tây xanh,... đang có thị trường tiêu thụ khá ổn định thông qua
hợp đồng liên kết với các nhà máy chế biến và các doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu sang Nga, EU, Nhật Bản. Trong tổ chức sản xuất đã thực hiện việc
liên kết khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ; có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh
nghiệp, nhà khoa học, nhà quản lý và người nông dân.
Về sản phẩm cây ăn quả: Đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật và quy trình
VietGAP, GlobalGAP trong canh tác cây ăn quả; xây dựng vườn ươm giống
cam sạch bệnh bằng giống V2, CS1. Triển khai đề tài nghiên cứu thực trạng
sản xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng
cây cam đường canh trên địa bàn xã Vô Tranh, Bình Sơn. Việc triển khai thực
hiện sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn VietGAP đã góp phần tăng giá trị từ
20-30% so với vải thiều sản xuất thông thường, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ
sinh thực phẩm. Năm 2016, diện tích vải áp dụng quy trình sản xuất theo hướng
VietGAP đạt 3.100 ha, sản lượng đạt 7 nghìn tấn. Sản phẩm quả vải thiều đã xuất
khẩu sang một số thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật, Anh, ÚC,…
Xây dựng mô hình tưới tiết kiệm nước cho cây có múi có giá trị kinh
tế cao trên địa bàn xã Bình Sơn (mô hình tưới nhỏ giọt cho cây cam đường
canh diện tích 1,55 ha, xã Bình Sơn) phổ biến với nhiều hình thức khác nhau
như: tưới phun gốc, tưới nhỏ giọt và cung cấp phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật cho cây qua hệ thống tưới này.
Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến
thương mại, xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh sản xuất theo hướng hàng hóa. Nâng
cấp kết cấu hạ tầng thuỷ lợi nội đồng, củng cố các tổ chức quản lý khai thác
công trình thủy lợi, phát triển hạ tầng thủy lợi chủ động tưới, tiêu theo hướng
tiên tiến, tiết kiệm nước cho các cây trồng, nâng cao mức bảo đảm an toàn
58
phòng chống thiên tai, bão, lũ, lụt và an toàn hồ đập...
Thông qua việc tổ chức các khóa học đào tạo bồi dưỡng cán bộ công
chức chuyên môn cùng với các chủ trang trại về việc áp dụng các khoa học kỹ
thuật mới vào sản xuất, chăn nuôi góp phần phát huy tốt hơn những lợi thế
sẵn có, đồng thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do hình thức sản
xuất thủ công truyền thống.
Thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đẩy
mạnh liên doanh, liên kết và tiêu thụ nông sản, chuyển từ nhận thức sản xuất
manh mún nhỏ lẻ sang sản xuất theo hướng hàng hóa để nâng cao giá trị và
sức cạnh tranh của sản phẩm.
Được coi là mũi nhọn trong phát triển KTTT hàng hoá, các trang trại
trên địa bàn huyện Lục Nam đã và đang góp phần thay đổi cơ cấu KTTT, lao
động ở nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân. Hiệu quả của
KTTT trên địa bàn huyện đã góp phần làm thay đổi diện mạo vùng quê nông
thôn, nhiều hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu, ở các vùng nông
thôn xuất hiện không ít những triệu phú, tỷ phú nông dân xuất phát từ làm
KTTT. Có thể khẳng định KTTT là hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến của
kinh tế hộ, mang lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp do đó cần có
chính sách phát triển
2.4.2. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với kinh
tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
QLNN đối với KTTT tuy KTTT đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng
vẫn còn những tồn tại cần sớm được khắc phục, đó là:
Thứ nhất: Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Mặc dù huyện đã có
những nỗ lực trong việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo định kỳ,
thường xuyên tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ địa chính cấp xã nhưng việc
quản lý đất ở cấp xã còn bị buông lỏng và bộc lộ nhiều yếu kém, xảy ra nhiều
59
sai phạm trong quá trình quy hoạch đất đai. Chính quyền cấp xã chưa làm tốt
công tác quy hoạch sản xuất, hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện nước, thị
trường… làm cho không ít trang trại gặp khó khăn trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Các trang trại phát triển theo hướng tự phát, chưa gắn với quy
hoạch vùng sản xuất và các cơ sở chế biến; thị trường tiêu thụ sản phẩm không
ổn định, vật tư đầu vào sản xuất cao; thiên tai, dịch bệnh xảy ra thường xuyên.
Nhà nước thiếu tập trung quản lý trong công cuộc dồn điền đổi thửa,
quy hoạch thành các vùng trang trại chuyên môn cao. Những định hướng phát
triển của Nhà nước mà cụ thể là của UBND huyện Lục Nam còn mang tính
hình thức quan liêu, không sát với thực tế tình hình và nhu cầu phát triển của
người dân. Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch hàng năm và dài
hạn để phát triển trang trại. Thiếu quy hoạch tổng thể và lâu dài, đặc biệt là
quy hoạch sử dụng đất sau khi được công bố đã đặt nhiều trang trại hình thành
trước đó nằm “ngoài quy hoạch” nên không được áp dụng chính sách hỗ trợ
phát triển KTTT.
Vấn đề ô nhiễm môi trường do nước thải, chất thải không được xử lý.
Quy mô sản xuất càng lớn nguy cơ ô nhiễm càng tăng, nhất là đối với các
trang trại chăn nuôi và thủy sản.
Việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất KTTT trên địa bàn huyện
trong thời gian qua còn tự phát, chưa có quy hoạch; các mô hình ứng dụng
công nghệ cao trong sản xuất KTTT còn nhỏ lẻ, phân tán và chậm nhân ra
diện rộng, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm KTTT chưa cao; công nghệ
chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa được quan tâm.
Thứ hai: Việc thực thi pháp luật liên quan đến KTTT còn nhiều vấn đề
bất cập, yếu kém. Các văn bản pháp luật chưa thực sự được thực tế hóa do sự
chồng chéo về nội dung và chưa có sự hướng dẫn cụ thể, gây ra hiểu nhầm
hiểu sai cách thực hiện. Một số cán bộ công chức chuyên môn còn làm trái
60
với những chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt ở các xã, thôn thuộc
vùng đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí thấp việc thực thi pháp luật trong
công tác QLNN đối với KTTT còn mang tính chất hình thức, đối phó.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa được thể chế hoá thành
những chính sách cụ thể, việc giao và cho thuê đất chưa được thực hiện chu
đáo, nhiều chủ trang trại vẫn còn băn khoăn chưa thực sự yên tâm đầu tư phát
triển sản xuất, nhất là gần 30% số đất chưa được giao hoặc cho thuê ổn định
lâu dài.
Thiếu sự khuyến khích của Nhà nước trong việc phát triển, chưa có
biện pháp hỗ trợ kịp thời và có hiệu quả. Nhận thức về vai trò của KTTT của
các cấp, các ngành chưa đầy đủ, dẫn đến các cơ chế, chính sách, nhằm giúp
cho các chủ trang trại hiện nay còn thiếu, chưa đồng bộ. Từ năm 2000 đến
nay, mới chỉ có Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về
KTTT và một số chính sách đối với KTTT được quy định trong một số văn
bản quy phạm pháp luật. Nhiều tỉnh đã ban hành các chính sách đặc thù để
khuyến khích phát triển KTTT trên địa bàn (chính sách khuyến khích phát
triển khu chăn nuôi tập trung, trồng trọt chuyên canh hoặc trang trại chăn nuôi
ngoài khu dân cư; chính sách tín dụng; chính sách đất đai; chính sách hỗ trợ
đầu tư cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật; chính sách hỗ trợ giống cây con
vật nuôi và phòng chống dịch bệnh; chính sách xúc tiến thương mại và đào
tạo…). Tuy nhiên, vẫn mang tính tự phát và gặp nhiều khó khăn. Công tác
quản lý nhà nước về phát triển KTTT ở địa phương (ban hành cơ chế chính
sách, công tác quản lý, hướng dẫn, tư vấn hỗ trợ các trang trại) chưa được
quan tâm đầy đủ.
Thứ ba: Việc ban hành và thực thi chính sách liên quan đến KTTT còn
nhiều lỗ hổng, tình trạng quan liêu không bám sát thực tế, không có sự kiểm
61
tra giám sát chặt chẽ do vậy các chính sách đưa ra còn thiếu phù hợp với tình
trạng điều kiện của địa phương và nguyện vọng của người dân đặc biệt là
chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng tuy được UBND huyện phối hợp với ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Lục Nam tích cực cải cách
các thủ tục cho vay, điều kiện cho vay vốn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn bất
cập, thủ tục rườm rà gây khó khăn cho việc rải ngân để thực hiện chính sách
của Nhà nước.
Hơn nữa, ngân sách Nhà nước chi cho hoạt động QLNN đối với kinh
tế trang trại còn chưa được cụ thể, rõ ràng, thường gộp chung với các hoạt
động khác trong công tác quản lý. Do vậy còn nhiều sai sót trong việc sử
dụng chi tiêu ngân sách nhà nước cho các hoạt động mở lớp đào tạo tập huấn
kiến thức cho cán bộ chuyên trách và kiến thức khoa học kỹ thuật cho các hộ
nông dân.
Sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài chưa nhiều. Hầu hết vốn đầu tư là vốn tự có và vốn
vay của cộng đồng. Vốn vay của các tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ.
Nguồn lực đầu tư bao gồm cả tài chính và nhân lực đầu tư cho KTTT công
nghệ cao chưa tương xứng, nên chưa tạo ra sự đột phá trong sản xuất KTTT
Thứ tư: Việc kiểm tra giám sát hoạt động QLNN đối với KTTT chưa
được tiến hành thanh tra thường xuyên, chưa quyết liệt. Các cuộc thanh tra
còn mang tính hình thức, chưa thực sự xử lý nghiêm các hành vi sai phạm của
cán bộ chuyên trách trong công tác quản lý cũng như sai phạm của các chủ
trang trại trong quá trình sản xuất kinh doanh kinh tế trang trại.
Các hoạt động của cơ quan thanh tra còn bộc lộ những sơ hở trong
công tác kiểm tra giám sát, những tiêu chí đánh giá tiêu chuẩn chất lượng kinh
tế trang trại còn chung chung, thiếu hướng dẫn thực hiện chi tiết, cụ thể. Đồng
62
thời chưa có khung xử lý vi phạm thích đáng đối với các trường hợp vi phạm
của cán bộ công chức cũng như sự vi phạm trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các chủ trang trại dẫn đến sự coi thường làm ngơ trước pháp luật.
Thứ năm: Bộ máy quản lý Nhà nước đối với KTTT còn nhiều yếu
kém, chưa thực sự phát huy hết năng lực của cá nhân do chưa có đội ngũ
chuyên môn hướng dẫn. Các trạm khuyến nông, khuyến lâm cấp xã chỉ có từ
1-2 cán bộ phụ trách toàn bộ công tác khuyến nông khuyến lâm tại địa
phương nên không thể phát huy hết năng lực. Phòng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện chưa có cán bộ chuyên trách riêng biệt về mảng kinh tế
trang trại, vai trò chức năng của từng chuyên viên chưa được cụ thể hóa rõ
ràng nên dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.
Việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ chuyên
trách cùng với bà con nông dân tuy đã được UBND huyện tích cực phối hợp
cùng sở KH&CN tỉnh Bắc Giang tiến hành thực hiện tuy nhiên hiệu quả thực
tế chưa cao. Lực lượng lao động của các trang trại chưa được đào tạo nghề cơ
bản lao động chưa được đào tạo nghề, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn. Chủ
trang trại chủ yếu là nông dân, không được đào tạo chuyên môn về quản lý, kỹ
thuật nên khả năng quản lý sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên kết
tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm thực tế.
Nhiều chủ trang trại vẫn áp dụng phương pháp sản xuất truyền thống, chưa chú ý
tới việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất cũng như tìm
hiểu thị trường đầu ra cho sản phẩm, dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm làm
ra chưa cao, sản phẩm làm ra có lúc khó tiêu thụ. Các khóa tập huấn đào tạo chưa
có sự kiểm tra giám sát thực hành sau quá trình đào tạo.
KTTT chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và gia đình cán
bộ, công nhân viên đã nghỉ hưu.; phương thức tổ chức sản xuất và quan hệ
sản xuất chậm đổi mới... Mặt khác, các trang trại chủ yếu sử dụng lao động
63
của gia đình; một số trang trại có thuê lao động thời vụ và lao động thường
xuyên, tiền công lao động chỉ được thực hiện theo hình thức thoả thuận giữa hai
bên, chưa thực sự tạo sự ổn định về giải quyết việc làm cho người lao động
2.4.3. Nguyên nhân tồn tại
2.4.3.1. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Một là: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách Nhà
nước về kinh tế trang trại của Nhà nước còn chưa được cụ thể, rõ ràng, chưa
có hướng dẫn thực hiện chi tiết. Các nội dung còn hạn chế. Sự chồng chéo,
không thống nhất giữa các quyết định của các Bộ, Ngành, các cấp chính
quyền có liên quan và các văn bản hướng dẫn còn nhiều bất cập, gây ảnh
hưởng đến hoạt động quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại.
Ở hầu hết các địa phương có trang trại phát triền chưa chủ động triển
khai quy hoạch sản xuất, thiếu sự gắn bó giữa trang trại với sự hình thành các
vùng sản xuất tập trung và định hướng phát triển chung của vùng; hệ thống
thuỷ lợi, giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, thị trường kém phát triển,
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa nên trang trại chưa góp phần tích cực phát
huy được đầy đủ sức mạnh kinh tế của vùng.
Hai là: Nguồn lực đất đai chưa thực sự được huy động hiệu quả nhất
để trở thành động lực cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tình trạng
đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư nhưng chậm sử
dụng hoặc không đưa vào sử dụng vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
Trong lĩnh vực nông lâm thủy sản, hiệu quả sử dụng đất còn thấp.Tốc
độ tăng hệ số sử dụng đất lúa có xu hướng giảm. khả năng tích tụ và tập trung
ruộng đất của nông dân rất thấp. Kinh tế trang trại phát triển chậm, chỉ chiếm
1% số nông hộ. Quy mô đất trung bình của một trang trại cũng chỉ đạt 6 ha.
Trong khi đó, hoạt động của thị trường đất nông nghiệp rất yếu ớt. Chỉ có
64
2,5% hộ nông thôn bán quyền sử dụng đất trong 5 năm từ 2001-2005.
Hoạt động thị trường thuê đất ở nông thôn cũng rất hạn chế. Rất nhiều
nông dân sản xuất không hiệu quả, kiếm thu nhập chủ yếu từ các hoạt động
phi nông nghiệp, phi chính thức nhưng vẫn muốn giữ đất để bảo hiểm rủi ro
do thiếu hệ thống an sinh xã hội chính thức tại nông thôn. Trong khi đó, với
nguồn tích lũy hạn chế và thiếu hỗ trợ tín dụng nên rất khó cho các nông dân
giỏi có đủ khả năng mua hoặc thuê lại đất của các nông dân khác. Kết quả là
rất nhiều đất nông nghiệp, đặc biệt tại khu vực ven đô được các nhà đầu tư
thành thị mua hoặc thuê để đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả hoặc đất rừng hoạt
động theo hình thức phát canh thu tô.
Đây là vấn đề khó khăn nhất của trang trại. Để đạt tiêu chí trang trại,
hộ nông dân phải có quỹ đất đủ lớn theo quy định. Nhưng hiện nay đa số các
địa phương không còn quỹ đất mới để giao cho nông hộ làm trang trại. Do đó,
phần lớn các hộ gia đình nông dân phải dồn điền đổi thửa, mua bán, thuê
mướn, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nhiều chủ khác nhau với nhiều
loại đất khác nhau để có khu đất tương đối tập trung để làm trang trại. Do có
quá nhiều giao dịch, trao đổi, mua bán (nhìn chung là tự nguyện và hợp pháp)
với nhiều loại đất khác nhau nên đa số các chủ trang trại gặp khó khăn ở việc
xác nhận, chứng nhận và cấp sổ đỏ sau trao đổi mua bán.
Ba là: Việc ban hành và thực thi các chính sách của Nhà nước đối với
KTTT còn gặp nhiều bất cập bởi các quy định giữa các Bộ ngành. Sản xuất
của các trang trại chưa thật sự bền vững, phần lớn chất lượng sản phẩm chưa
được quản lý chặt chẽ. Số lượng trang trại hiện nay tăng chậm và phân bố không
đều giữa các xã. Hầu hết các trang trại có quy mô diện tích dưới mức hạn điền,
có nguồn gốc đa dạng, đã gây không ít những bất cập trong việc quản lý, sử
dụng diện tích đất để phát triển KTTT. Phần lớn các trang trại mới chủ yếu tập
65
trung mở rộng diện tích, áp dụng kỹ thuật truyền thống mà chưa quan tâm nhiều
tới việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, tưới nước, cơ giới hoá, bảo quản
chế biến vv… nên năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao.
Bốn là: Năng lực quản lý của cán bộ công chức còn nhiều hạn chế,
thiếu sự khảo sát kiểm tra giám sát thực tế thường xuyên do vậy không nắm
bắt được những vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trang trại
tại địa phương. Định hướng thị trường phần lớn chủ trang trại gặp khó khăn
về tiêu thụ nông sản vì đa số còn thiếu hiểu biết về thị trường, lúng túng và
chịu thua thiệt khi giá nông sản biến động. Ngoài ra, do các trang trại thường
nằm ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nên khả năng kết nối với thị
trường cũng gặp khó khăn. Tính liên kết giữa các trang trại với nhau và liên
kết giao dịch với các tổ chức kinh tế khác còn ở mức thấp, chậm hình thành
các vùng sản xuất hàng hoá tập trung đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và xuất khẩu. Một số chủ trang trại chưa nắm bắt kịp thời yêu cầu của thị
trường để định hướng sản xuất nên sản phẩm làm ra có lúc khó tiêu thụ, hiệu
quả chưa cao.
Năm là: Kinh phí hỗ trợ việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn của huyện và tỉnh chưa được quan tâm đầu tư. Huyện chưa
áp dụng phương thức quản lý khoa học, đồng thời chưa có hỗ trợ về việc ứng
dụng khoa học công nghệ cho các nông hộ. Số lượng trang trại ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất, chế biến bảo quản còn hạn chế mới chỉ tập trung ở
một số lĩnh vực và khu vực nhất định. Cơ giới hóa trong nông nghiệp chưa
được chú trọng do trang trại chủ yếu quy mô nhỏ, dẫn đến sử dụng nhiều lao
động, hiệu quả thấp. tỷ trọng giá trị sản xuất KTTT ứng dụng công nghệ cao
trong tổng giá trị sản xuất KTTT còn thấp; chưa thu hút được doanh nghiệp
lớn, có tiềm lực tài chính và công nghệ để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất KTTT
66
công nghệ cao trên địa bàn.
Vì vậy, để thúc đẩy KTTT phát triển cần phải có cơ chế chính sách đủ
mạnh, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn sản xuất hiện nay.
2.4.3.2. Nhóm nguyên nhân khách quan
Thứ nhất: Quá trình vay vốn, tín dụng còn gặp nhiều thủ tục rườm rà,
khó khăn. Thiếu vốn và khó tiếp cận tín dụng đối với trang trại: Có đến 70%
số trang trại đang kinh doanh bằng vốn tự có hoặc chiếm dụng vốn (mua chịu
vật tư, phân bón, thức ăn). Tuy có không ít các chủ trang trại thường xuyên
vay vốn của các tổ chức tín dụng, nhưng chủ yếu là các khoản vay nhỏ và
ngắn hạn do không có thế chấp. Khi cần đầu tư mua sắm để khởi nghiệp trang
trại thường muốn vay vốn lãi suất thấp và dài hạn hơn. Điều này làm ảnh
hưởng đến việc tính toán nguồn vốn hỗ trợ cho vay
Thứ hai: Hạ tầng, công nghệ sản xuất yếu kém làm giảm sức cạnh tranh
của trang trại: Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư, cải tạo, chưa đáp ứng
yêu cầu đi lại, vận chuyển, cấp, tiêu thoát nước phục vụ sản xuất của trang
trại. Chi phí cho mua thuê và cải tạo đất, chi phí mua cây con giống và các chi
phí sản xuất trong điều kiện tiếp cận tín dụng khó khăn khiến cho trang trại
không còn vốn để đầu tư hạ tầng và công nghệ. Đa số các trang trại chỉ là các
“hộ sản xuất lớn”, không có sự biến đổi về chất trong sản xuất, khả năng cạnh
tranh khó khăn. Nếu sớm được hỗ trợ về hạ tầng và công nghệ sản xuất, sẽ
giúp trang trại bứt phá ngay từ đầu.
Thứ ba: Thị trường không ổn định. Đây là nguyên nhân cơ bản và ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh tế của các trang trại. Tình
trạng giá cả thị trường thường xuyên biến động gây tâm lý hoang mang,
không yên tâm sản xuất cho các chủ trang trại vì sợ giá cả thấp, hàng hóa khó
tiêu thụ sẽ dẫn đến lỗ lớn. Hơn nữa, huyệncũng chưa có chính sách thực sự
hiệu quả để hỗ trợ bà con nông dân trong việc đưa nông sản ra thị trường cạnh
tranh, cũng như chưa có chính sách hỗ trợ đảm bảo cho các chủ trang trại
trong các trường hợp do thiên tai, dịch bệnh.
67
Tóm tắt chương 2
Lục Nam là huyện có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao thông
lớn giữa các tỉnh trong vùng, có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn
hóa giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển
KTTT.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của UBND huyện
Lục Nam. Cho đến nay công tác quy hoạch sử dụng đất, định hướng các vùng
sản xuất và định hướng các loại vật nuôi, cây trồng giai đoạn 2011-2020 đã
được UBND huyện Lục Nam tổ chức chỉ đạo và thực hiện một cách nghiêm
túc và thu được những kết quả nhất định, được thể hiện thông qua kết quả của
quá trình phát triển kinh tế trang trại tại địa phương.
Thông qua những chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các
định hướng cụ thể của UBND tỉnh và sự nhạy bén trong kiểm soát thị trường,
UBND huyện Lục Nam đã có những biện pháp tích cực, kịp thời trong công
tác quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện. Qua đó góp
phần tăng trưởng kinh tế, tăng mức sống của người dân, tạo được nhiều việc
làm cho nhân dân lao động, đồng thời giảm thiểu số hộ nghèo trên địa bàn
huyện, giải quyết các vấn nạn về lao động và trật tự an ninh trên địa bàn
huyện.
Tuy đã đạt được những thành quả nhất định, nhưng hoạt động quản lý
nhà nước đối với KTTT trên địa bàn huyện vẫn còn một số khó khăn và
những bất cập cần giải quyết trong thời gian tới như các vấn đề về hỗ trợ
chính sách tín dụng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ công
chức có liên quan và các chủ trang trại có những kiến thức nhất định trong
quản lý kinh tế trang trại để hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh tế trang
68
trại trên địa bàn đạt được hiệu quả tối đa.
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH
BẮC GIANG
3.1.1. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
của tỉnh Bắc Giang
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại
trong thời gian qua và căn cứ vào chủ trương đối với KTTT đã được nêu
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tháng 12 năm 1997 và Nghị quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1989 của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế trang trại và nông thôn, cần gíải quyết một số
vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại trong thời gian tới.
Phát triển KTTT nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; có việc
làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo;
phân bổ lao động, dân cư xây dựng nông thôn mới.
Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất đã hình thành các trang trại gắn
liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch
lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình
công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn.
Căn cứ vào những chủ trương phát triển của Đảng và Nhà nước, Nghị
quyết về phát triển KTTT của Bắc Giang có thể nhận thấy một số quan điểm
69
thống nhất cơ bản về phát triển KTTT của vùng như sau:
- KTTT là một trong những thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu
của nông nghiệp hàng hóa nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của
vùng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
- Thực hiện đa dạng hóa trang trại đặc biệt chú trọng phát triển trang trại
gia đình trong nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây
nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu và các loại trang trại tận dụng được
mặt nước, dải đất ven bờ.
- Phát triển KTTT dựa trên cơ sở kết hợp giữa nội lực của nông nghiệp,
nông thôn , thành phố và thu hút nguồn lực bên ngoài.
- Tăng cường công tác quản lý từ cấp thành phố đến cấp cơ sở, đóng
góp tích cực vào sự phát triển của mô hình KTTT. Tránh tình trạng quản lý
quan liêu, bàn giấy. Tăng cường các hoạt động khảo sát tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh trang trại thực tế tại các địa phương. Luôn luôn bám sát
các hoạt động của chủ trang trại cũng như những biến động của thị trường
- Quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái, đặc biệt là môi
trường sông, hồ, bảo vệ và gìn giữ tài nguyên đất. Đảm bảo hạn chế tốt nhất
những vấn đề ô nhiễm môi trường đất, nước. Đồng thời giữ gìn và bảo vệ tốt
rừng đầu nguồn.
Trong thời gian tới tỉnh Bắc Giang, ngành nông nghiệp xác định lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi vẫn là hai ngành chính trong đóng góp vào giá trị sản
xuất toàn ngành. Mục tiêu đến năm 2020, trong cơ cấu giá trị sản xuất nông,
lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh, tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm
87,6%, trong đó trồng trọt chiếm 40% và chăn nuôi chiếm 43,8% tổng giá trị
sản xuất toàn ngành.
Đối với lĩnh vực trồng trọt: tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ
cấu cây trồng theo hướng phát triển các cây trồng chủ lực theo lợi thế của
70
tỉnh, có thị trường như: lúa chất lượng, ngô, lạc, rau chế biến, rau an toàn; vải
thiều, cam, bưởi,...; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện dồn điền, đổi thửa, phát triển
thành các khu sản xuất chuyên canh, cánh đồng mẫu lớn, gắn với bảo quản,
chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Đẩy mạnh áp dụng khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh ở
thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.Trong giai đoạn 2016-2020,
hình thành một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối
với một số cây trồng chủ lực, có thế mạnh của tỉnh như: mô hình nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao đối với sản xuất cây ăn quả (vải thiều, cây có múi) ở
Lục Ngạn, Tân Yên; mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với
sản xuất cây rau chế biến, rau an toàn, hoa cây cảnh ở Lạng Giang, Yên
Dũng, Tân Yên, Lục Nam, Hiệp Hòa, Việt Yên và thành phố Bắc Giang; mô
hình sản xuất nấm ăn tại Lạng Giang; mô hình sản xuất chè tại huyện Yên
Thế. Phát triển vùng cây ăn quả huyện Lục Ngạn trọng tâm là vải thiều và cây
có múi. Mở rộng diện tích sản xuất vải theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,
đạt các tiêu chuẩn xuất khẩu, nhằm xây dựng Bắc Giang trở thành vùng trồng
cây ăn quả trọng điểm của miền Bắc.
Đối với lĩnh vực chăn nuôi: Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi,
chuyển dịch chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi trang trại,
gia trại; duy trì chăn nuôi nông hộ theo hình thức chăn nuôi công nghiệp, bán
công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao; phát triển chăn nuôi theo hướng an
toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm; khuyến khích tổ chức sản xuất
khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để giảm chi phí đầu tư,
tăng hiệu quả kinh tế.
Những quan điểm trên đây đã khẳng định tính đúng đắn trong định hướng
phát triển KTTT vùng của Bắc Giang, phù hợp với những quan điểm phát
71
triển KTTT của cả nước.
3.2.2. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
của huyện Lục Nam giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm 2030
Phát triển nằm trong định hướng chung của toàn tỉnh và gắn với phát
triển các địa bàn lân cận.
Phát huy lợi thế về đất, rừng, khoáng sản và tiềm năng du lịch; huy động
cao nhất mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về kinh tế, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tập trung cao vào phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
ngành nghề nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hoá.
Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xoá đói, giảm nghèo, tạo
việc làm, giảm chênh lệch về mức sống giữa các khu vực, không ngừng nâng
cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; quan tâm xây dựng và phát
triển văn hoá, bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
Nhiệm kỳ 2015-2020, Lục Nam phấn đấu trở thành huyện phát triển
khá của tỉnh theo hướng bền vững, toàn diện. Theo đó, tốc độ tăng giá trị sản
xuất bình quân hàng năm 16-16,5%; sản lượng lương thực có hạt giữ ổn định
90.000 tấn; giá trị công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-xây dựng tăng bình quân
21-22%; giá trị thương mại và dịch vụ tăng 23-24%; sản xuất nông-lâm-thủy
sản tăng 6-7%. Cơ cấu kinh tế 2020, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-xây
dựng giữ vị trí chủ chốt 38%, cơ cấu kinh tế của huyện. Địa phương tiếp tục
cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, giải phóng mặt
bằng... khuyến khích các Doanh nghiệp mở rộng và đầu tư trên địa bàn; đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các dự án, quy hoạch và đầu tư phát triển dịch vụ, hạ
72
tầng xã hội phục vụ các cụm công nghiệp.
Theo báo cáo đánh giá của Phòng Nông nghiệp huyện Lục Nam năm
2016, phương hướng nhiệm vụ 2017, mục tiêu cho sản xuất KTTT được đặt
ra như sau:
Về trồng trọt, Sản xuất cây ăn quả: Định hướng phát triển cây ăn quả
theo hướng VietGAP, đặc biệt đối với cây vải thiều; giữ ổn định diện tích cây
vải khoảng 6000 ha, trong đó vải VietGAP 1350 ha, vải sớm 1550 ha, sản
lượng quả vải tươi 30.000 tấn.
Về chăn nuôi: Giữ ổn định đàn trâu 9500 con, đàn bỏ 9850 con, đàn
lợn 124.500 con, đàn gia cầm 1.800.000 con. Tổng sản lượng thịt hơi thương
phẩm các loại 23.500 tấn.
Về thủy sản: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh tăng năng
suất và an toàn sinh học với tổng diện tích 1785 ha.
3.2.2.1. Về phát triển kinh tế
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực theo đó:
+ Năm 2015: tỷ trọng GTSX ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 45%;
công nghiệp - xây dựng: 33%; dịch vụ: 22%.
+ Đến năm 2020: tỷ trọng GTSX ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 35%;
công nghiệp - xây dựng: 38%; dịch vụ: 27%.
- GTSX bình quân/người/năm: năm 2015: 21,3 triệu đồng; đến năm 2020:
53,9 triệu đồng.
3.2.2.2 Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực
Về nông nghiệp: Tập trung phát triển 4 loại cây trồng chủ yếu: cây rau
màu thực phẩm (chú trọng phát triển rau chế biến xuất khẩu), cây ăn quả, cây
lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày) và 4 loại vật nuôi chủ yếu: lợn, bò,
gà, cá nhằm nâng cao giá trị sản xuất/đơn vị diện tích canh tác, đồng thời đảm
73
bảo khả năng cung ứng cho công nghiệp chế biến.
Đối với cây rau màu: Quy hoạch vùng sản xuất tập trung tại các xã
đồng mùa, đồng chiêm và một số xã miền núi có chủ động nước ở vụ đông.
Phấn đấu diện tích cây rau màu hàng năm khoảng 5.000-7.000 ha, với sản
lượng 100 ngàn tấn. Đẩy mạnh sản xuất rau, quả chế biến.
Đối với cây ăn quả: Ổn định diện tích và nâng cao chất lượng sản
phẩm, về quy mô diện tích khoảng trên 8 ngàn ha, trong đó chủ lực là vải
thiều với diện tích khoảng 5 ngàn ha, Na 1,5 ngàn ha, Nhãn 1 ngàn ha, Dứa và
Hồng 500 ha.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lên khoảng 45%
giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Về lâm nghiệp: Xây dựng lâm phận ổn định theo 2 loại rừng, phấn đấu
nâng độ che phủ của rừng ổn định trên 50%.
Đến năm 2020, tổng diện tích đất lâm nghiệp là 27 ngàn ha, trong đó:
diện tích rừng đặc dụng giữ ổn định ở mức 3 ngàn ha và rừng sản xuất 24
ngàn ha. Tổ chức kinh doanh có hiệu quả diện tích rừng kinh tế, phấn đấu giá
trị của ngành lâm nghiệp chiếm 20% so với tổng GTSX của ngành nông, lâm,
thuỷ sản vào năm 2020.
Về thuỷ sản: Phấn đấu đến năm 2020 khai thác 90% diện tích có khả
năng nuôi thủy sản, chuyển đổi một phần diện tích vùng trũng sang nuôi trổng
thuỷ sản. Tổ chức nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh và bán thâm
canh. Phấn đấu nâng tổng sản lượng thuỷ sản toàn huyện đạt 20 ngàn tấn vào
năm 2020; đưa tỷ trọng GTSX thuỷ sản lên 10% so với GTSX của ngành
nông, lâm, thuỷ sản.
-Thực hiện các chính sách xã hội và giải quyết việc làm: Triển khai
thực hiện có hiệu quả các chương trình giải quyết việc làm gắn với nâng cao
74
chất lượng nguồn lao động. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm từ 1,8 đến
2 vạn lao động, trong đó xuất khẩu 1,5-2 ngàn lao động; nâng cao thời gian sử
dụng lao động khu vực nông thôn lên 93 - 95% vào năm 2020.
Tăng cường huy động các nguồn lực theo hướng xã hội hoá, đẩy nhanh
tốc độ xoá đói, giảm nghèo; thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở cho đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa và
trợ giúp các đối tượng chính sách, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đẩy
mạnh phát triển sản xuất, từng bước nâng cao mức sống của dân cư. Phấn đấu
đến năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo còn 3-5%.
Về khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường: Ứng dụng các tiến bộ
khoa học vào sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và trong công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp nhằm nâng cao năng xuất lao động, năng xuất cây trồng vật
nuôi và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.
Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tổ chức tốt công
tác bảo vệ môi trường, giảm thiểu sự cố môi trường và thiên tai.
Tổ chức thu gom và xử lý rác thải đạt 65% ở khu vực nông thôn và
90% ở khu vực thành thị vào năm 2020.
Tăng tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đến năm 2020 ở thành thị
là 99,5% và ở nông thôn là 95%.
3.2.3 Phương hướng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện Lục Nam
Trên cơ sở những quan điểm phát triển KTTT huyện Lục Nam, phương
hướng phá triển của các trang trại ở Lục Nam được xác định như sau:
Một là, khuyến khích các trang trại phát triển sản xuất theo hướng bán
thâm canh và thâm canh, hướng mạnh đến phục vu nhu cầu đô thị và xuất
khẩu, lấy giá trị sản lượng hàng hóa và thu nhập trên một số đơn vị diện tích
làm thước đo hiệu quả kinh tế của trang trại.
Hai là, xác định quy mô đất đai phù hợp với mỗi loại trang trại, hình thành
75
các vùng sản xuất tập trung, gắn liền với chế biến và tiêu thụ, cụ thể là:
-Vùng thị trấn: Phát triển các trang trại ít sử dụng diện tích đất canh tác song
có giá trị kinh tế cao như trồng hoa cây cảnh, chăn nuôi lợn, gà, bò... theo
hướng hiện đại, phục vụ nhu cầu đô thị và xuất khẩu
- Vùng đồng bằng: Khuyến khích tập trung ruộng đất để hình thành các trang
trại sản xuất lúa đặc sản với quy mô trang trại 2-3 ha, sản xuất giống lúa có
phẩm chất có giá trị kinh tế cao phục vụ cho đô thị và cho xuất khẩu.
- Vùng đồi núi: Tập trung phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả có chất lượng và
hiệu quả kinh tế cao, riêng với vùng núi đá vôi phát triển chăn nuôi dê, xây
dựng các mô hình SXNN gắn với dịch vụ và du lịch.
- Vùng bãi bồi ven sông Lục Nam, đầm trũng: Phát triển trang trại thủy sản
theo phương thức bán thâm canh hoặc thâm canh, nuôi trồng các loài thủy sản
chất lượng cao (cá diêu hồng, cá chim, tôm sú...) kết hợp với khai thác nguồn
lợi tự nhiên và phát triển chăn nuôi gia cầm để tăng thu nhập.
Ba là, khuyến khích và phát triển các trang trại liên doanh có quy mô lớn, gắn
sản xuất với chế biến, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đủ
sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Phương hướng cụ thể về phát triển kinh tế của các ngành đến năm 2020
Về trồng trọt và chăn nuôi: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt
bình quân khoảng 3,5% năm giai đoạn 2016-2020. Bảo đảm an ninh lương
thực, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát triển nhóm cây,
còn có thế mạnh là “4 cây (cây ăn quả, cây lương thực, cây thực phẩm và cây
công nghiệp ngắn ngày), 2 con (lợn và bò)”, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn
vị diện tích canh tác, phấn đấu đạt khoảng 45 triệu đồng vào năm 2020. Tỷ
suất hàng hóa nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 khoảng 50%...
Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp sinh thái sạch, công
nghệ cao, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Mở rộng diện tích vụ
76
Đông, tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học và tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất, phát triển trồng rau an toàn, trồng hoa và cây cảnh ở vùng ven đô, ven
thị trấn,thị tứ.
Tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi lên khoảng 45% giá trị sản xuất các ngành
nông nghiệp, tỷ trọng ngành trồng trọt còn chiếm khoảng 49% và tỷ trọng
dịch vụ nông nghiệp tăng lên 6% trong cả giai đoạn quy hoạch.
Năng suất lao động nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân
khoảng 5,5%. Ổn định diện tích và nâng cao chất lượng cây ăn quả, quy mô
diện tích khoảng 45 nghìn ha, trong đó chủ lực là vải thiều với với diện tích
khoảng 35 nghìn ha. Thực hiện thâm canh, nâng cao chất lượng, cơ cấu lại
giống để rải vụ thu hoạch, đồng thời, sử dụng công nghệ sinh học để có vùng
vảo chất lượng cao và an toàn, phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Về lâm nghiệp: xây dựng lâm nghiệp ổn định theo 3 loại rừng, phấn đấu đưa
cơ cấu của ngành chiếm khoảng 3% trong tổng GDP vào cuối thời kỳ quy
hoạch.
Dự kiến đến năm 2020, tổng diện tích đất lâm nghiệp là 195.974,7 ha. Trong
đó, diện tích rừng đặc dụng giữ ổn định ở mức 18.411,3 ha, rừng phòng hộ
18.803 ha và rừng sản xuất 113.760,4 ha.
Về thủy sản: phấn đấu đến năm 2020 khai thác 90% tổng số diện tích có
khả năng nuôi thủy sản (gần 13 nghìn ha). Áp dụng công nghệ mới để nâng
cao năng suất nuôi trồng thủy sản đạt 25 đến 30 tạ/ha theo hình thức nuôi
trồng công nghiệp và bán công nghiệp. Nâng tổng sản lượng cá nuôi toàn tỉnh
đạt 25 - 30 nghìn tấn vào năm 2015 và đạt 40 - 55 nghìn tấn vào năm 2030.
Đưa tốc độ tăng trưởng bình quân ngành thủy sản đạt khoảng 15%/năm
Bưởi và cam Canh là hai cây trồng mới được đánh giá có hiệu quả cao
nên tỉnh, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc để xem xét, giải quyết các vấn
đề kinh tế thị trường tìm đầu ra cho sản phẩm tránh trường hợp người dân sản
77
xuất ồ ạt, tư thương ép giá như cây vải; nghiên cứu công nghệ bảo quản sản
phẩm nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; đồng thời tìm, hướng dẫn người dân
phương pháp, kỹ thuật trồng rải vụ kéo dài thời gian thu hoạch nông sản
hướng tới mục tiêu xuất khẩu sản phẩm. Dự báo quy mô, chất lượng sản
phẩm sẽ tiếp tục được mở rộng và nâng cao hơn nữa. Do đó trong thời gian
tới Nhà nước cần hỗ trợ về mặt kỹ thuật canh tác, kỹ thuật cận thu hoạch phù
hợp với thổ nhưỡng từng vùng nhằm tạo mẫu mã quả đẹp hơn cho sản phẩm,
tăng số lượng quả trên cây, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM
3.2.1. Giải pháp về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam
Để trang trại phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, hình thành các
vùng sản xuất tập trung, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, khắc phục tình trạng
trang trại phát triển tự phát. UBND huyện Lục Nam cần xây dựng quy hoạch
tổng thể cho KTTT trên địa bàn huyện. Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ
thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, cơ sở công nghiệp
chế biến, cơ sở sản xuất, cung ứng giống cây, con, vv…đảm bảo đáp ứng tốt
các yêu cầu phát triển sản xuất của trang trại. Từ quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, huyện cần tiếp tục triển khai quy hoạch
phát triển trang trại cùng với quy hoạch xây dựng nông thôn mới để thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Quy hoạch trang trại cần
tập trung vào các nội dung chủ yếu như: quy hoạch sử dụng đất đai của địa phương
theo phương thức trang trại, quy hoạch sản xuất nông -lâm nghiệp và chế biến - tiêu
thụ nông sản, quy hoạch về bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ cho sản xuất trang trại.
Huyện Lục Nam cần rà soát lại quy hoạch phát triển sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp, xác định vùng phát triển KTTT, chủ yếu là các vùng đất
78
trống đồi trọc, ao hồ, đầm, bãi bồi ven sông,... Xác định phương hướng phát
triển các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế đất đai, khí hậu của từng
vùng và có tính đến khả năng tiêu thụ sản phẩm.
Việc quy hoạch phân vùng phát triển KTTT nhằm tạo điều kiện cho tất cả
các xã trên địa bàn của huyện phát triển đồng đều trên cơ sở hình thành cơ cấu
kinh tế hợp lý và liên kết giữa các xã, tạo nên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ
trên địa bàn. Cụ thể:
- Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500-700m, mật độ dân cư
thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Về cơ
bản, mô hình trang trại ở đây là trang trại lâm nghiệp, trồng rừng kinh tế, cây
bản địa lấy gỗ có giá trị kinh tế cao, mô hình trang trại nông-lâm kết hợp, bảo
vệ nguồn gen thực vật quý hiếm theo các dự án.
- Đối với vùng gò đồi: Các thành phần trong mô hình KTTT ở đây có
thể kết hợp nông- lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây
công nghiệp (thông, bạch đàn, keo,...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn nuôi
đại gia súc (trâu, bò, lợn, dê,...). Phát triển các trang trại trồng rừng kinh tế
(cây lấy gỗ), cây công nghiệp lâu năm kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, trồng
cây ngắn ngày theo phương thức lấy ngắn nuôi dài.
- Đối với vùng đồng bằng: Với nhiệm vụ chiến lược là vùng kinh tế
trọng điểm, đảm bảo vững chắc an toàn lương thực, tạo sản phẩm hàng hóa
đạt chất lượng cao cho thị trường. Vì vậy, phát triển mô hình trang trại nông
nghiệp toàn diện như: trang trại trồng trọt (thâm canh cây lúa chất lượng cao,
cậy thực phẩm, trang trại lúa cá), chăn nuôi (lợn, gia cầm), nuôi trồng thủy
sản, dịch vụ hoặc kết hợp các mô hình trên.
- Quy hoạch phát triển các trang trại chăn nuôi: cần cách xa khu vực dân
cư tập trung, có biện pháp xử lý tránh ô nhiễm môi trường.
- Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, hệ
thống cung cấp điện nước, cơ sở hạ tầng để sản xuất và kinh doanh, đáp ứng
79
tốt các yêu cầu phát triển sản xuất trang trại.
- Các địa phương cần tiến hành rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến
nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại.
Tiến hành giao đất, cho thuê đất cho nông dân có diện tích sản xuất.
3.2.2. Giải pháp về pháp luật
Để từng bước hoàn thiện thể chế pháp lý, xác định tư cách chủ thể, tạo
khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi cho KTTT phát triển hiệu quả và
bền vững, cần thiết phải tiến hành một số giải pháp về chính sách pháp luật
trên địa bàn huyện Lục Nam như sau:
Thứ nhất, cần phải giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà, đẩy
mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trang trại để các chủ
trang trại yên tâm sản xuất kinh doanh, sử dụng đất đai có hiệu quả. Trong đó
khẳng định cụ thể hơn về vai trò, vị trí, tư cách pháp nhân,... của loại hình
KTTT cũng như các chính sách định hướng phát triển. Trên cơ sở đó chính
quyền các cấp có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp, kiểm tra việc thực hiện
nhằm tạo điều kiện để KTTT phát triển có hiệu quả trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, chính quyền các cấp cần phổ biến các văn bản pháp luật mới
nhất của Trung ương, của địa phương về KTTT, những chính sách mới của
nhà nước nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho KTTT để nhân dân trên toàn
huyện nắm được và yên tâm đầu tư, xây dựng và phát triển KTTT thông qua
việc tổ chức các chương trình, hội nghị về phát triển KTTT cho các hộ nông
dân, các chủ trang trại.
Thứ ba, đối với các trang trại có quy mô và doanh thu nhỏ, cần hướng
dẫn cho họ thủ tục, trình tự, điều kiện cấp và thu hồi giấy chứng nhận KTTT
để các trang trại có đủ điều kiện được cáp giấy chứng nhận KTTT còn những
trang trại chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí thì phấn đấu để hoàn thành đủ các
80
tiêu chí nêu trong thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT, ngày 13/7/2011 của Bộ
NN&PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận KTTT. Đối
với các trang trại có quy mô và doanh thu lớn cần có kế hoạch thống kê, rà
soát để trình Chính phủ có chủ trương cho chuyển sang đăng ký thành lập
doanh nghiệp và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế đất nước ngày càng phát triển. KTTT
cũng là một bộ phận của kinh tế cả nước vì vậy việc hoàn thiện thể chế,
khung pháp lý đối với KTTT là vấn đề đáng quan tâm và cần được thực hiện
sớm để tạo điều kiện và môi trường tốt nhất để KTTT trên địa bàn huyện Lục
Nam phát triển góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Bắc Giang cũng
như cả nước. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm
hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người giao lại
quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có
hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng lãng phí và
tham nhũng đất đai.
3.2.3. Giải pháp về chính sách
Để đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương, về phía ngành nông nghiệp
cần phối hợp với huyện, xã để có những cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp
thông qua hệ thống khuyến nông. Trong đó tập trung tuyên truyền, hướng
dẫn, tập huấn quy trình sản xuất cây ăn quả theo hướng VietGAP, bảo đảm
chất lượng thuốc bảo vệ thực vật, hỗ trợ chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản
xuất an toàn, tham mưu cho UBND tỉnh về cơ chế hỗ trợ trang trại khi chính
sách của Bộ được ban hành, phấn đấu trở thành trang trại lớn uy tín, không
chỉ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế hộ gia đình mà còn hướng tới mục tiêu
là trang trại sinh thái, trang trại du lịch.
Cần tranh thủ sự hỗ trợ, quan tâm đầu tư của Tỉnh ủy, HĐND và UBND
81
tỉnh và tiềm lực của huyện; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp đối với việc thực hiện
công tác dân tộc và chính sách dân tộc.
Tập trung hơn nữa các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc, lồng ghép nguồn vốn các Chương trình mục tiêu quốc gia, xây dựng
cơ bản tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ, hỗ trợ có mục tiêu của Trung
ương, của tỉnh, vốn ODA, kêu gọi tài trợ của các tổ chức quốc tế. Đặc biệt,
quan tâm đầu tư từ ngân sách địa phương và huy động vốn xã hội hoá từ các
thành phần kinh tế để tăng cường đầu tư xây dựng các công trình thiết yếu
cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ là người dân tộc
thiểu số; tăng cường và bố trí cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng vào các
chức danh chủ chốt cấp xã nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Kiện toàn
tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ làm công tác dân tộc, đặc biệt là ở cấp
huyện và cấp xã.
3.2.3.1. Về đầu tư vốn, tín dụng
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói chung KTTT
nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng. Việc hình thành và phát triển KTTT
đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế hộ gia đình vì quy mô sản xuất lớn hơn. Do
đó cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển KTTT.
Hiện nay do năng lực tích luỹ còn thấp nên có tới 80% số hộ nông dân có
nhu cầu vay vốn tín dụng. Mục tiêu lâu dài của chính sách tín dụng là góp
phần từng bước thúc đẩy sự ra đời của thị trường vốn trong nông thôn. Căn cứ
vào định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của huyện Lục
Nam, chính sách tín dụng cho phát triển kinh tế trang trại cần được tập trung
ở những nội dung sau:
-Khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, Nhà nước tạo điều
82
kiện về đất đai, thủ tục cấp phép, cho vay vốn để phát triển sản xuất
-Tăng cường các quỹ cho nông dân vay vốn, trong đó tăng vốn cho quỹ
khuyến nông luôn đảm bảo có từ 70-90 tỷ đồng để nông dân vay giúp nông
dân phát triển sản xuất
-Cần phải bổ sung đối tượng là chủ trang trại được hưởng chính sách bảo
lãnh tín dụng theo “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” tại
Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng căn cứ vào mức bảo lãnh tín
dụng của “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” để cho các
trang trại vay vốn.
-Chủ trang trại được sử dụng bảo hiểm sản phẩm nông nghiệp và các tài
sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn tại ngân hàng và các tổ chức
tín dụng.
- Huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và nhân
dân bằng nhiều hình thức thích hợp như: tiết kiệm (có và không có kỳ hạn),
tín phiếu và trái phiếu kho bạc, ngân phiếu và kỳ phiếu ngân hàng v.v...
- Mở rộng việc cho vay của các tổ chức tín dụng đến hộ sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản để phát triển sản xuất, không phân biệt thành
phần kinh tế. Các hộ gia đình, chủ trang trại trên địa bàn kinh tế xã hội khó
khăn được vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo để tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao động vùng đông dân cư.
-Ưu tiên cho vay để triển khai các dự án do Nhà nước chỉ định, cho vay
đối với vùng cao, vùng xa, vùng sâu, vùng kinh tế mới, hải đảo và các hộ
nghèo, góp phần xoá đói giảm nghèo trong nông thôn.
Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công trình hạ
tầng như thủy lợi, giao thông, điện,... Các công trình được đầu tư xây dựng ở
bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát
83
triển KTTT.
UNBD huyện Lục Nam cần có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại
được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Các địa phương có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại được vay
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nườc. Cần đổi mới mạnh mẽ phương
thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc điểm của từng loại hình KTTT. Đổi mới thủ
thục cho vay, thu lãi suất sao cho đơn giản, thuận tiện hơn, có cơ chế cho vay, thu
lãi theo thời vụ của cây trồng, vật nuôi.
Xây dựng mô hình quan hệ tay ba giữa chủ trang trại, công ty chế biến và
ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, UBND huyện Lục Nam cũng nên có những chính sách tín
dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: tăng vốn vay cao hơn cho
KTTT, đồng thời tưng lượng vốn vay trung và dài hạn để thuận lợi cho các
trang trại trồng cây lâu năm hoặc chăn nuôi gia súc, gia cầm, không phân biệt
vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh, đơn giản
hóa thủ tục, giảm lãi suất,...
UBND huyện Lục Nam cần phối hợp với các ngân hàng tại địa phương tạo
điều kiện cho các chủ trang trại vay vốn để phát triển trang trại của mình.
Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với phát
triển kinh tế trang trại và vùng gò đồi như: thành lập các quỹ cho vay KTTT,
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, quy định lãi suất và thời hạn cho
vay hợp lý, cần phát triển hình thức cho vay tín chấp, mức vốn vay nhiều hơn
so với quy định hiện nay của ngân hàng. Triển khai thực hiện quyết định số
178/2001/QĐ-TT ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng
lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao đất, thuê nhận, khoán rừng
84
và đất lâm nghiệp.
Phối hợp với các chương trình, dự án phân cấp giảm nghèo, khuyến nông,
nguồn vốn giải quyết việc làm để cho vay phát triển KTTT. Các tổ chức chính
trị xã hội (Hội Nông dân, hội Phụ nữ,...) bố trí một phần kinh phí từ các
nguồn vốn cho vay để phát triển theo mô hình trang trại
3.2.3.2. Chính sách đất đai
UBND huyện Lục Nam cần tiến hành giao đất, cho thuê đất và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích đất chưa được cấp. Các địa
phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận
theo chính sách nêu trong Nghị quyết của Chính phủ và hướng dẫn Tổng cục
địa chính.
Để có sự phát triển bền vững của các trang trại cần có sự điều chỉnh đất đai
trong các trang trại theo hướng tăng quy mô bằng cách tiếp tục khuyến khích
dồn điền, đổi thửa để tích tụ ruộng đất. Khuyến khích các hộ có điều kiện đầu
tư thuê đất nhất là trồng cây hàng năm và diện tích mặt nước nuôi trồng thủy
sản để đầu tư sản xuất hàng hóa.
Giao đất ổn định, lâu dài cho chủ trang trại. Chủ trang trại đang sử dụng
đất ổn định nhưng chưa được giao hoặc đã nhận chuyển nhượng, được thừa
kế, cho tặng quyền sử dụng đất trước ngày Luật đất đai có hiệu lực, nếu có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật thì được giao đất hoặc cho thuê đất và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ trang trại có hợp đồng
thuê đất hợp pháp của nhà nước để sản xuất, kinh doanh khi hết thời hạn hợp
đồng nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng được ưu tiên ký hợp đồng lại hoặc gia
hạn hợp đồng để bảo đảm thời hạn thuê đất lâu dài.
Về khuyến khích mở rộng quy mô và phát triển sản xuất hàng hóa tập
85
trung: Chủ trang trại có dự án sản xuất cần dồn điền, đổi thửa (tích tụ ruộng
đất) để xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, cánh đồng lớn thì được nhà
nước hỗ trợ kinh phí vận động, tuyên truyền, khảo sát, đo đạc quy hoạch đồng
ruộng để thực hiện dồn điền, đổi thửa.
Chủ trang trại có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt, khi
chuyển đổi mục đích sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng các
công trình như: Giao thông, thủy lợi, chuồng trại, kho tàng … để phục vụ phát
triển sản xuất của trang trại thì được miễn nộp tiền chuyển mục đích sử dụng
đất.
UBND các cấp có trách nhiệm chứng thực hợp đồng mà người sử dụng
đất tự nguyện cho cá nhân, hộ gia đình thuê, thuê lại, cho mượn quyền sử
dụng đất để phát triển kinh tế trang trại.
Cho phép các chủ đầu tư trang trại được xây dựng các công trình hạ
tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất như đường nội bộ, ống
cấp thoát nước, mạng lưới điện, xử lý nước thải, chuồng trại, xưởng, kho, nhà
quản lý bảo vệ và các công trình phụ có liên quan theo đề án dự án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt
Khi chủ trang trại thay đổi các phương án sản xuất dưới đây thì không phải xin
phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng phải đăng ký với văn phòng của tổ
chức có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất hoặc UBND xã nơi có đất:
- Xây dựng nhà lưới, nhà kính phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình
thức trồng trọt không trực tiếp trên đất.
- Xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật
khác được pháp luật cho phép.
- Xây dựng cơ sở ươm tạo cây giống, con giống.
- Xây dựng kho chứa nông sản, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ cho trang
trại, phân bón tổng hợp, máy móc công cụ sản xuất nông nghiệp phục vụ tại
86
chỗ cho trang trại.
Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang
trại, hộ gia đình được giao đất phát triển theo quy hoạch. Triển khai cấp giấy
chứng nhận KTTT đối với số trang trại đạt tiêu chuẩn hiện có nhằm tạo điều
kiện cho các chủ trang trại yên tâm đầu tư và vay vốn sản xuất.
Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các
doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển
trang trại được UBND xã sở tại cho thuê đất.
Miễn tiền thuế sử dụng đất cho các trang trại đối với các xã vùng núi và
giảm 50% cho các xã vùng đồng bằng trong 5 năm đối với diện tích đất vượt
hạn điền. Việc miễn và giảm thuế nhằm tạo điều kiện cho các trang trại phát
triển, giai đoạn đầu tiên các trang trại thường gặp khó khăn rất lớn về vốn. Do
vậy việc miễn giảm thuế sẽ giúp các trang trại bớt đi một gánh nặng về vốn và
có thể khuyến khích các gia đình đầu tư vào làm KTTT nhiều hơn.
Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các xã vùng núi và 3 năm đối với các xã
vùng đồng bằng, vùng khai hoang phục hóa. Việc miễn tiền thuê đất sẽ giúp
cho các chủ trang trại có thêm một lượng vốn không nhỏ đầu tư vào phát triển
trang trại của mình. Đối với các xã vùng núi, người dân còn nghèo khó, việc miễn
tiền thuê đất 7 năm sẽ khuyến khích các chủ trang trại tập trung vào làm kinh tế mà
không phải lo trả nợ tiền thuê đất trong một thời gian dài, giúp các trang trại tin
tưởng vào các chính sách thúc đẩy phát triển KTTT trên địa bàn huyện.
Đẩy nhanh tiến độ giao đất cho các hộ dân vùng đồi núi để phát triển kinh
tế lâm nghiệp, trong khi giao đất phải căn cứ vào quỹ đất trống, đồi trọc ở địa
phương, như cầu và khả nưng đầu tư trồng rừng, tránh tình trạng đất giao
không sản xuất hoặc sử dụng không hết diện tích, giữ đất trong khi các hộ có
nhu cầu không có đất trồng rừng. Đồng thời ưu tiên các hộ ở địa phương đó,
hộ có ý chí vươn lên làm giàu, mặt khác cần khuyến khích những người có
87
vốn ở nơi khác để đầu tư phát triển KTTT theo hợp đồng sử dụng đất. Hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp có nhu cầu và khả năng sử dụng đất vượt hạn điền
của địa phương được UBND xã xét thuê đất phát triển KTTT.
3.2.3.3. Về chính sách thị trường: Để phát triển sản xuất hàng hóa nông
nghiệp trên địa bàn huyện Lục Nam một cách ổn định thì vai trò của Nhà
nước trong việc tạo lập thị trường là rất quan trọng và cần thiết. Trong đó coi
trọng thị trường nội địa và tăng cường quan hệ, liên kết với các tỉnh và tìm
hiểu thị trường quốc tế như huyện Lục Ngạn là những phương hướng giải
quyết thiết thực.
Mục tiêu của chính sách thị trường là đảm bảo giá cả, ổn định thị trường
một cách tương đối để bảo vệ sản xuất KTTT, bảo vệ lợi ích chính đáng của
người sản xuất và người tiêu dùng. Để đạt mục tiêu trên, chính sách thị trường
cần thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau đây:
- Thu hẹp và tiến tới xoá bỏ quan hệ tỷ giá bất hợp lý giữa giá hàng công
nghiệp và dịch vụ với giá hàng nông sản, tạo điều kiện khách quan cho việc
thực hiện tái sản xuất mở rộng kinh tế trang trại.
- Thực hiện chế độ một giá đối với mọi loại vật tư và nông sản hàng hoá
bằng cách tạo thương hiệu cho nông sản.
- Trong những trường hợp đặc biệt, nhà nước có thể áp dụng những chính
sách như trợ giá đầu vào (phân bón, hạt giống mới...) để hỗ trợ sản xuất phát
triển; hoặc mua trợ giá đối với sản phẩm đầu ra theo những đợt để ổn định giá
cả thị trường, chống tụt giá quá mức có tác động xấu đến sản xuất KTTT như
cách làm của Hàn Quốc.
Ngoài ra UBND huyện Lục Nam cần tăng cường tổ chức quảng bá, xúc
tiến thương mại, thông tin thị trường như việc tổ chức giao lưu nông sản cho
các chủ trang trại thông qua hội chợ, tổ chức giao lưu giữa các câu lạc bộ
88
khuyến nông, hội nông dân...
Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cơ sỏ chế biến nông lâm
sản và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các trang trại để giải quyết thị
trường nông sản cho trang trại, giúp các chủ trang trại được đảm bảo về đầu ra
cho nông sản. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hưởng các
chính sách khuyến khích của nhà nước về đất đai, đầu tư, tín dụng, xúc tiến
thương mại... để đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản tại các vùng sản
xuất hàng hóa tập trung.
3.2.4. Giải pháp về kiểm tra, giám sát
Các viện và trung tâm nghiên cứu khoa học theo dõi sát nhu cầu của
trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ
thuật mới cho nông dân.
Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với chính quyền các
cấp trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ các trang trại phát triển kinh tế.
Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động ở
các trang trại, các chủ lao động thường thuê lao động không hạn chế về số
lượng nhưng phải thực hiện tốt việc trang bị dụng cụ theo từng loại nghề cho
người lao động, có trách nhiệm với người lao động khi găp rủi ro, ốm đau, tai
nạn trong thời gian hợp đồng.
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông
nghiệp, đặc biệt là giống nhập từ các nước khác, xử lý kịp thời những trường
hợp buôn bán hàng giả, giống kém chất lượng thậm chí có nguy cơ gây hại
cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và toàn
doanh nghiệp.
Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đảm bảo các
chủ trang trại thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật canh tác và làm giàu
89
đất, bảo vệ môi trường. Cần thường xuyên kiểm tra, giám sát và thống kê số
lượng trang trại hàng năm để kịp thời nắm bắt tình hình phát triển của các
trang trại trên địa bàn.
Kiểm tra chặt chẽ việc xử lý chất thải từ các trang trại, nhất là trang
trại chăn nuôi. Các trang trại phải có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn,
không gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tới nhân dân xung quanh.
Về hình thức kiểm tra: có thể tiến hành kiểm tra định kỳ theo kế hoạch
hoặc kiểm tra đột xuất khi thấy cần thiết hoặc khi có đơn thư khiếu nại đối với
trang trại được kiểm tra.
Về nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về lao động,
thực hiện các quy định chung đối với KTTT như về giống, về vốn, nguyên
liệu,...
Phương pháp kiểm tra: Kiểm tra trực tiếp bằng cách đến các trang trại kiểm
tra để nắm tình hình thực tế cụ thể của từng trang trại. Hoặc kiểm tra gián tiếp
thông qua các báo cáo của các đơn vị trực thuộc hoặc báo cáo trực tiếp từ
trang trại.
Cơ quan được phép kiểm tra: Các cơ quan được phép kiểm tra các
trang trại trực thuộc đơn vị của mình quản lý và có trách nhiệm báo cáo lên cơ
quan cấp trên trực tiếp quản lý mình. Trong trường hợp gặp các tình huống
khó xử lý có thể trình lên cấp có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn cách thức
xử lý hoặc trực tiếp giải quyết.
Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện các
chương trình, chính sách phát triển KTTT. Qua đó phát hiện những nhân tố
mới, những sáng kiến, cách làm hay để khen thưởng động viên, nhân rộng;
đồng thời chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời những hạn chế, thiếu sót, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức từ huyện đến cơ sở và đề ra nhiệm vụ, giải pháp cho những
90
năm tiếp theo.
3.2.5. Tạo quan hệ hợp tác giữa các trang trại
Nhà nước cần làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân, thông qua việc hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các
trang trại nhằm trao đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm,
dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các trang trại bằng việc thành lập
các hội hoặc câu lạc bộ kinh tế trang trại, thông qua các câu lạc bộ này các
chủ trang trại có thể trao đổi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển
và quản lý trang trại của mình. Ngoài ra các chủ trang trại có thể giúp đỡ lẫn
nhau bằng việc hình thành quỹ chung để giúp đỡ các trang trại gặp khó khăn
trong quá trình kinh doanh. Đồng thời các trang trại có thể giúp đỡ lẫn nhau,
liên minh, liên kết trong quá trình nhập nguyên liệu đầu vào cũng như đầu ra
của các sản phẩm hàng hóa tạo sức cạnh tranh và sự ổn định trong tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường, hạn chế tình trạng ép giá của các tư thương và rủi ro
trong sản xuất kinh doanh.
Trong nền sản xuất hàng hóa lớn như hiện nay cần đẩy mạnh sự hợp
tác, liên kết, cả liên kết dọc và liên kết ngang, như là một tất yếu trong cơ chế
thị trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh, nhờ lợi thế về quy mô và các năng
lực sản xuất mới trong liên kết và hợp tác. tổ chức liên kết hợp tác thích hợp,
đó là câu lạc bộ trang trại để cùng nhau học tập, trao đổi, giúp đỡ nhau về
khoa học, công nghệ, về kinh nghiệm sản xuất, quản lý, thông tin thị trường,
giá cả…kịp thời, hiệu quả. Xây dựng mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ
trang trại với các hộ dân để chủ trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu
thụ sản phẩm nông sản. Số chủ trang trại có trình độ chuyên môn mới chiếm
khoảng 32%, do đó việc đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang
91
trại đặt ra rất cấp bách. Trước mắt, thông qua tổng kết, tổ chức tham quan các
trang trại quản lý kinh doanh giỏi để học tập lẫn nhau và tổ chức bồi dưỡng
những kiến thức về khoa học và quản lý. Về lâu dài, tổ chức các khoá đào tạo
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý cho các chủ trang trại.
3.2.6. Về bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
Do bộ máy quản lý được hình thành trong thời bao cấp hiện vẫn còn nhiều
nấc trung gian, nhiều chức năng quản lý còn chồng chéo, bộ máy cồng kềnh
kém hiệu lực, đã gây nhiều cản trở cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế
nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng. Vì vậy, cần sắp xếp lại
bộ máy theo tinh thần QLNN vĩ mô, xoá bỏ những tổ chức không có chức
năng, tinh giản những khâu trung gian, chồng chéo bất hợp lý, xoá bỏ những
tổ chức can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ sở các
tổ chức kinh tế. Cần xác định đúng vị trí và chức năng của từng bộ phận trong
hệ thống bộ máy nhà nước quản lý nông nghiệp và mối quan hệ giữa chúng
như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ NN&PTNT và các Bộ khác có liên quan.
UBND huyện Lục Nam cần thực hiện nghiêm túc chức năng QLNN đối
với KTTT, phải nắm vững đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện phát triển kinh tế xã hội và các
chương trình, chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi để vận dụng sáng tạo,
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế địa phương. Biết khai thác tiềm
năng thế mạnh của từng vùng để chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội chung cho
cả huyện. Cần thiết lập bộ máy QLNN đối với KTTT một cách đồng bộ thống
nhất về cơ cấu bộ máy quản lý, chức năng, nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ quản lý.
Thống nhất quản lý về phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị hóa nông thôn, bao
gồm: quản lý khai thác, sử dụng nước sạch ở nông thôn, hỗ trợ đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Thống nhất quản lý về đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý HTX, trang
92
trại, đào tạo nghề cho nông dân.
Ngoài ra, cần quan tâm đến công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho
các cán bộ chủ chốt, tổ chức các lớp tập huấn về quản lý đối với KTTT cho
các cán bộ chuyên trách để đáp ứng yêu cầu phát triển KTTT trong giai đoạn
hiện nay. Ngoài các chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hiện hành,
trang trại được hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho chủ
trang trại và đào tạo nghề lần đầu cho lao động kỹ thuật của trang trại
Thực hiện QLNN đối với quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại,
nhằm định hướng phát triển và đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh,
khuyến khích mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của loại hình KTTT,
khắc phục tình trạng phát triển mang tính tự phát tích tụ ruộng đất tràn lan.
Thực hiện QLNN đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích
chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi trường sinh thái.
Nhà nước cần có chính sách riêng đối với lao động trang trại, lao động thuộc
lĩnh vực nông nghiệp, trong đó ưu đãi về lương, điều kiện làm việc, cơ hội
phát triển nghề nghiệp để khuyến khích người lao động.
3.2.7 Về khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường: Xây dựng chương trình,
kế hoạch, đề tài nghiên cứu khoa học về phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn,
phối hợp tổ chức triển khai các kết quả nghiên cứu đã được cấp thẩm quyền
phê duyệt. Thu thập thông tin chuyên ngành và phát triển nông thôn.
Sử dụng và khai thác hợp lý tài nguyên trên cơ sở đảm bảo sự bền vững môi
trường sinh thái, tăng cường quản lý của nhà nước trong việc triển khai các
chương trình hỗ trợ để các trang trại sử dụng hợp lý tài nguyên và áp dụng các
biện pháp cần thiết bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
thiết lập cơ chế xử phạt kịp thời, nghiêm khắc với những tổ chức cá nhân
không tuân thủ quy định, gây ô nhiễm môi trường, thường xuyên phát động
và khuyến khích các trang trại tích cực tham gia bảo vệ môi trường, phát triển
93
công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; phối hợp với ngành Tài nguyên và môi
trường xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động có liên quan trong
công tác quản lý đối với KTTT.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh
- Đề nghị UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù để khuyến
khích phát triển kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp; chỉ đạo tổ chức
tín dụng tạo điều kiện tiếp cận vay vốn
Sớm xây dựng cơ chế hỗ trợ xây dựng mô hình, dự án điểm sản xuất
cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao theo hướng an toàn vệ sinh dịch bệnh
kết hợp hỗ trợ kỹ thuật sản xuất gắn với chến biến tiêu thụ sản phẩm cho chủ
trang trại
UBND tỉnh cần có những cơ chế hỗ trợ xây dựng các mô hình KTTT
trên địa bàn huyện Lục Nam sao cho phù hợp với địa hình, khí hậu cũng như
các thế mạnh của vùng, đưa ra những định hướng và tạo điều kiện tốt nhất
cho bà con nông dân có thể sản xuất kinh doanh vật nuôi, cây trồng có giá trị
kinh tế cao, đồng thời phối hợp với các phòng ban chuyên môn, cùng các ban
ngành đoàn thể, hỗ trợ, tư vấn cho bà con nông dân và đặc biệt là cho các chủ
trang trại cách chăm sóc cây trồng vật nuôi theo hướng đảm bảo an toàn vệ
sinh dịch bệnh, tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP
trong trồng trọt và chăn nuôi để tạo niềm tin và đem lại giá trị cạnh tranh trên
thị trường.
- Có cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp chế biến trong và ngoài phạm vi tỉnh, hỗ
trợ các nhà khoa học, chủ trang trại trong việc tìm đầu ra ổn định cho nông
sản. Sớm bãi bỏ những quy định đã lạc hậu, không còn phù hợp vì sự phát
triển của nông nghiệp, nông thôn
94
3.3.2 Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật, định hướng, kinh
nghiệm nắm bắt thị trường đầu ra, quản lý tài chính cho các chủ trang trại.
-Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có những giải pháp cụ thể về hỗ
trợ đào tạo, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm; xây dựng một số
mô hình KTTT điểm về ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh, sản xuất theo
chuỗi trong trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản để KTTT trên địa bàn huyện sẽ có
những bước phát triển mạnh mẽ, tận dụng được tiềm năng, thế mạnh của địa
phương.
Tóm tắt chương 3
Để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong định hướng phát triển kinh tế trang trại trên cả nước nói chung và trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng, UBND huyện Lục Nam cần có những nhìn
nhận thiết thực về thực trạng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại trên
địa bàn hiện nay. Cần nắm rõ những vấn đề và các nguyên nhân tồn tại vấn đề
để có phương án khắc phục kịp thời.
Huyện Lục Nam cần nghiêm túc tổ chức các phương án thực hiện giải
pháp để tăng cường quản lý đối với kinh tế trang trại từ huyện tới xã để tránh
tình trạng các trang trại phát triển tự phát như giai đoạn hiện nay. Trong đó
các vấn đề liên quan đến quy hoạch, kế hoạch, thực hiện các chính sách pháp
luật, chính sách thị trường, chính sách tín dụng, chính sách đất đai, đầu cơ
tích trữ cho nông dân được đảm bảo những quyền lợi tối ưu trong sản xuất.
Đồng thời tăng cường các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi
cố ý gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động quản lý của nhà nước như ô
nhiễm môi trường, bán phá giá v.v...
UBND tỉnh Bắc Giang cùng với các cơ quan chuyên môn có liên quan cần
tích cực chú trọng việc thực hiện các phương hướng giải pháp nhằm thực hiện
95
chức năng QLNN đối với KTTT trên địa bàn huyện có hiệu quả.
Tăng cường mở các lớp đào tạo công tác khuyến nông, khuyến lâm cho cán bộ
công chức và mở các lớp tập huấn về phương pháp chăm sóc cây trồng vật nuôi
theo hướng đảm bảo an toàn vệ sinh dịch bệnh, tăng cường áp dụng các tiêu
chuẩn VietGAP và GlobalGAP trong trồng trọt và chăn nuôi cho các chủ
trang trại là một trong những nhiệm vụ cấp bách cần sớm được thực hiện có
hiệu quả.
KẾT LUẬN
Tính đến cuối năm 2016, cả nước có khoảng 33.488 trang trại, tăng
13.460 trang trại (67,2%) so với năm 2011. Số liệu điều tra do Tổng cục Thống
kê thực hiện năm 2016 công bố kết quả sơ bộ cho thấy, từ năm 2011-2016, bình
quân mỗi năm số trang trại của cả nước tăng trên 13%. Trong đó, vùng đồng bằng
sông Hồng trang trại phát triển mạnh nhất (tăng 6.435 trang trại), chiếm gần một
nửa số trang trại tăng thêm trong vòng 5 năm qua của cả nước[24].
KTTT ở nước ta thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
của các địa phương. Nhiều nơi, đã đạt được những thành tựu khá toàn diện
trên các lĩnh vực. Đời sống của người dân được cải thiện đáng kể, KTTT cũng
góp phần tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, góp
phần quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.
KTTT là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
- nông thôn. Trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang có nhiều loại hình
tổ chức KTTT nhưng chủ yếu vẫn là loại hình KTTT gia đình, là một bộ phận
của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
96
được hình thành và phát triển chủ yếu từ sự tích cực phát triển vươn lên của
kinh tế nông hộ và cùng với sự tác động tích cực của Nhà nước thông qua
việc tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý để KTTT hình thành và phát triển.
Mô hình KTTT là thực tiễn sinh động giúp huyện, ngành chuyên môn
cũng như cấp ủy, chính quyền địa phương có được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp
thời để phát triển kinh tế nông nghiệp xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện;
đồng thời qua đó nắm được những khó khăn, vướng mắc của các mô hình
kinh tế, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tháo gỡ.
Phát triển KTTT trên địa bàn huyện Lục Nam hiện nay là rất cần thiết
và đúng hướng. Tuy nhiên, KTTT trong những năm qua phát triển quá nhanh
về số lượng, hoạt động tự phát, chưa có sự hướng dẫn và quy hoạch của Nhà
nước. Quá trình hình thành và phát triển còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại
nhiều vấn đề mới phát sinh cần phải nhanh chóng được khắc phục. Trong khi
đó, Nhà nước chưa kịp thời ban hành những thể chế pháp lý để công nhận loại
hình KTTT cũng như chưa có những chính sách cụ thể để hỗ trợ, khuyến
khích và định hướng cho KTTT phát triển có hiệu quả và bền vững, tính tự
phát của trang trại còn quá lớn, vai trò của các cấp Đảng và chính quyền, các
đoàn thể đối với sự phát triển của mô hình KTTT còn mờ nhạt. Để KTTT tiếp
tục phát triển đúng hướng tất yếu phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước
đối với KTTT để vừa thúc đẩy việc hình thành những trang trại mới ở nơi có
điều kiện, phát huy mặt tích cực nảy sinh trong quá trình phát triển.
Qua kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trên đây, tôi
hy vọng sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao vai trò QLNN đối với KTTT
trên địa bàn huyện Lục Nam nói riêng và ở tỉnh Bắc Giang nói chung. Đồng
thời qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy KTTT ở Bắc Giang phát triển nhanh, hiệu
quả, bền vững và đúng hướng, góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông
97
nghiệp - nông thôn nước ta trong những năm tới.
Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từ các nông trại ngày một cao, yêu cầu chất
lượng bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng chặt chẽ nghiêm ngặt,
nếu nông dân ta tích cực thay đổi tư duy làm KTTT, chắc chắn KTTT sẽ giúp
ta thay đổi cuộc sống giàu có và hạnh phúc hơn
Để KTTT phát triển một cách bền vững, có định hướng thì huyện Lục
Nam cần có những giải pháp đồng bộ. Trước hết các ngành, các cấp cần nhận
thức đúng về ý nghĩa, vai trò của KTTT, từ đó thực hiện nghiêm túc các chính
sách phát triển trang trại đã ban hành. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng
các chủ trang trại có đủ năng lực trong công tác quản lý, điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của trang trại. Cùng với đó đẩy mạnh việc chuyển giao
tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các chủ trang trại cũng như nâng cao tay nghề
cho người lao động. Điều quan trọng, chính quyền địa phương cần giúp đỡ
các trang trại tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi, trong đó tăng cường việc
cho vay trung hạn, dài hạn đảm bảo đủ chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật
nuôi với số vốn được vay lớn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Thực hiện tốt
việc quy hoạch vùng có thể phát triển trang trại để đầu tư đồng bộ hệ thống
đường giao thông, điện, nước. Như vậy, chính quyền các cấp cũng như các
ngành chức năng cần giúp các trang trại liên minh, liên kết với nhau thành
từng khối theo ngành nghề sản xuất, chăn nuôi, theo từng vùng. Khi có mối
liên minh, liên kết, các trang trại có thể phối hợp, trao đổi kinh nghiệm sản
xuất, giúp đỡ nhau về giống vốn và cùng tìm đầu ra cho sản phẩm, cùng tạo
98
sức mạnh cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2012), “phải đa dạng hóa nguồn lực xây dựng nông thôn
mới”, Báo nông nghiệp Việt Nam, số ra ngày 23 tháng 4.
2. Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát
triển nông nghiệp và nông thôn.
3. Bộ Chính trị(1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
4. Bộ Chính trị(1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
5. Đỗ Kim Chung (2015) “giáo trình Phương pháp khuyến nông” nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội (7).
6. Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng (2012), Xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam, tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Ngô Thế Dân(2015) “Đề xuất một số cơ chế chính sách hỗ trợ kinh tế
trang trại, kinh tế hộ trong tình hình hiện nay,” tham luận tại Hội thảo
khoa học “Xây dựng chính sách để hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh
tế trang trại và kinh tế vườn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2020, tầm
nhìn 2030”.
8. Nguyễn Hữu Đạt (1995), Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông dân
phát triển kinh tế hộ gia đình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội (4).
9. Đinh Phi Hổ (2005), kinh tế trang trại nhìn từ góc độ kinh tế học, tạp
chí kinh tế phát triển số tháng 9/2005.
10. Đinh Phi Hổ (2010), Kinh tế trang trại “lực lượng đột phá” thúc đẩy
phát triển kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền vững, Số 8
tháng 12-2010.
11. Nguyễn Đình Hương (2000), “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,
99
nhà xuất bản Nông nghiệp (2).
12. Vũ Trọng Khải (2004), “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh
thời đại”, nhà xuất bản Nông nghiệp (1).
13. Trần Tú Khánh (2016), “Chính sách phát triển kinh tế trang trại theo
hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Nghệ An”, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội (5).
14. Phạm văn Khôi (2011), “Nghiên cứu các mô hình phát triển bền vững
trang trại vùng cây ăn quả tỉnh Bắc Giang”, nhà xuất bản Nông nghiệp
(3).
15. Nguyễn Minh Phong (2012), Đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước
trong bối cảnh mới. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
16. Nguyễn Trung Quế, Phạm Văn Khiên (2001), Điều tra đánh giá hiệu
quả kinh tế của một số nông sản xuất khẩu của Việt Nam, Viện Kinh tế
Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Bùi Minh Vũ, Nguyễn Thị Lai(2005), “Trang trại và những đặc trưng
cơ bản của nó” Tạp chí Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội
số ra ngày 6/7 (6).
18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Một số vấn đề về
CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ
2001-2010, nhà xuất bản Nông nghiệp.
19. Chi cục thống kê Lục Nam (2015), Niên giám thống kê năm 2010,
2015 – Lục Nam. NXB Thống kê, Hà Nội
20. Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình Quản lý Nhà nước
về kinh tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (8).
21. Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình quản lý Nhà nước
về đô thị và nông thôn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (9).
22. Phòng Kinh tế huyện Lục Nam (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm
100
2013, nhiệm vụ công tác năm 2014.
23. Phòng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện Lục Nam (2014),
Báo cáo tổng kết công tác năm 2014, nhiệm vụ công tác năm 2015.
24. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lục Nam (2015),
Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, nhiệm vụ công tác năm 2016.
25. Quốc Hội(2013), Luật Đất Đai 2013, Nhà Xuất bản lao động, Hà Nội.
26. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang(2016), báo cáo tình hình
kinh tế trang trại Bắc Giang, các năm 2015, 2016, 6 tháng đầu năm
101
2017.