BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…/… …/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ CHIỀU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Hà Nội, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …/… BỘ NỘI VỤ …/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA SAU ĐẠI HỌC

LÊ THỊ CHIỀU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. ĐẶNG ĐÌNH THANH

Hà Nội, 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học

độc lập của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực và đảm

bảo có nguồn gốc rõ ràng của tất cả các số liệu, kết quả thống kê nêu trong

luận văn.

Tác giả luận văn

Lê Thị Chiều

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi

đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình.

Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đặng Đình Thanh -

Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, giúp đỡ tôi

xây dựng và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc

gia, cô Nguyễn Thị Ngân chủ nhiệm lớp cùng các thầy cô giảng dạy lớp cao

học Quản lý công đã tích cực quan tâm và truyền đạt cho tôi những kiến thức

quý báu, giúp tôi hoàn thành khóa học tại Học viện.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng đánh giá luận

văn thạc sĩ đã có những ý kiến đóng góp quý báu để bản luận văn của tôi được

hoàn thiện hơn và được bảo vệ luận văn trước Hội đồng.

Xin chân thành cảm ơn tập thể lớp cao học HC20.B3 và gia đình đã

quan tâm động viên và giúp đỡ tôi về tinh thần để tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Lê Thị Chiều

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................ 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................. 4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..... 5

6. Ý nghĩa của luận văn ......................................................................... 5

7. Kết cấu của luận văn: ........................................................................ 6

NỘI DUNG .................................................................................................................... 7

CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

KINH TẾ TRANG TRẠI ........................................................................................... 7

1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI .................................. 7

1.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại............................... 7

1.1.2. Các loại hình kinh tế trang trại ..................................................... 9

1.1.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại ................................................. 12

1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của kinh tế trang trại đối với sự phát triển

của nền sản xuất nông nghiệp ................................................................ 14

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI

VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI .............................................................. 15

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ............ 15

1.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước đối với kinh tế

trang trại .................................................................................................. 16

1.2.2.1 Sự quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là một chức năng

đặc thù của chức năng quản lý ............................................................... 17

1.2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại có tác động nhiều

mặt đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng và xã hội nói chung ....................................... 17

1.2.3. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với kinh tế trang

trại ............................................................................................................. 18

1.2.3.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trang

trại cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước ....... 19

1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH BẮC GIANG VÀ BÀI HỌC VỚI HUYỆN LỤC NAM . 25

1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Lục Ngạn về quản lý nhà nước đối với

kinh tế trang trại ..................................................................................... 25

1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Yên Thế về quản lý nhà nước đối với

kinh tế trang trại ..................................................................................... 27

1.3.4. Bài học vận dụng cho huyện Lục Nam ....................................... 28

Tóm tắt chương 1 ....................................................................................................... 31

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ

TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG

........................................................................................................................................ 32

2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI

HUYỆN LỤC NAM ................................................................................ 32

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên .................................................................... 32

2.1.2. Về kinh tế ....................................................................................... 34

2.1.3. Về xã hội ......................................................................................... 35

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM .............................................................. 36

2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục

Nam ........................................................................................................... 36

2.2.2. Doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ....... 39

2.2.3. Về thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam .. 40

2.2.4. Về giải quyết việc làm cho người lao động ................................. 41

2.2.5. Trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tại các trang

trại ............................................................................................................ 42

2.2.6. Trình độ tổ chức quản lý .............................................................. 43

2.2.7. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm ...................................... 43

2.2.8. Giải quyết vấn đề an toàn môi trường ........................................ 44

2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ

TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM ....................... 45

2.3.1. Công tác quy hoạch, kế hoạch trong quản lý nhà nước đối với

phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ................ 45

2.3.2. Thực thi pháp luật có liên quan ................................................... 46

2.3.3. Ban hành và thực thi chính sách có liên quan ........................... 47

2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đối với kinh

tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam ........................................... 51

2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện

đối với quản lý nhà nước về kinh tế trang trại .................................... 52

2.4. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN LỤC NAM....................................................................... 55

2.4.1. Những thành tựu đã đạt được ..................................................... 55

2.4.2. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với

kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam................................... 59

2.4.3. Nguyên nhân tồn tại ...................................................................... 64

Tóm tắt chương 2 ....................................................................................................... 67

CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC

NAM - TỈNH BẮC GIANG ..................................................................................... 69

3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT

TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC

NAM – TỈNH BẮC GIANG ................................................................... 69

3.1.1. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang

trại của tỉnh Bắc Giang .......................................................................... 69

3.2.2. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang

trại của huyện Lục Nam giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm

2030 ........................................................................................................... 72

3.2.3 Phương hướng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên

địa bàn huyện Lục Nam ......................................................................... 75

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM ..... 78

3.2.1. Giải pháp về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam................................................ 78

3.2.2. Giải pháp về pháp luật ................................................................. 80

3.2.3. Giải pháp về chính sách ............................................................... 81

3.2.4. Giải pháp về kiểm tra, giám sát ................................................... 89

3.2.5. Tạo quan hệ hợp tác giữa các trang trại..................................... 91

3.2.6. Về bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ......... 92

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 94

3.3.1. Kiến nghị đối với Ủy ban nhân dân tỉnh .................................... 94

3.3.2 Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ....................... 94

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 99

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT TỪ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐẦY ĐỦ

1 KTTT Kinh tế trang trại

2 HĐND Hội đồng nhân dân

3 UBND Ủy ban nhân dân

4 HTX Hợp tác xã

5 QLNN Quản lý Nhà nước

6 Bộ NN&PT NT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

7 SXNN Sản xuất nông nghiệp

8 KT-XH Kinh tế - xã hội

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 So sánh số lượng và loại hình trang trại năm 2010-2016

Bảng 2.2: Chi tiết doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

năm 2015

Bảng 2.3 : Thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Bảng 2.4: Phân bố lao động tham gia sản xuất kinh tế trang trại trên địa bàn

huyện Lục Nam theo lĩnh vực sản xuất

Biểu đồ 2.1. Giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Lục Nam giai đoạn 2011-2015

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu trang trại năm 2015

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xuyên suốt quá trình hơn 2000 năm lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

và 30 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công cuộc công

nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đã và đang tiếp tục khẳng định vai trò to

lớn của ngành kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế chung của đất nước.

Trước sự thay đổi về kinh tế và đời sống của nhân dân, sự gia tăng dân số và

các khu công nghiệp làm giảm diện tích đất nông nghiệp cũng như sự phát

triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật đòi hỏi công tác sản xuất nông nghiệp

cần có sự thay đổi để phát triển. Đáp ứng yêu cầu đó mô hình kinh tế trang

trại trong sản xuất kinh tế nông nghiệp ở nước ta đã hình thành và không

ngừng được mở rộng, phát triển. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân

đã hình thành các trang trại đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ quản

lý cao hơn. Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng

với nhiều thành phần kinh tế tham gia nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia

đình nông dân và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân viên chức,

bộ đội… đã nghỉ hưu. Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai

thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất trống đồi trọc

hoang hóa, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn góp phần xóa đói giảm

nghèo, tăng thêm nông sản hàng hóa, giúp người dân phát huy được lợi thế so

sánh, mở rộng quy mô sản xuất kinh tế trang trại hàng hoá, nâng cao năng

suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.

Bắc Giang là một tỉnh thuộc trung du miền núi phía Bắc với đặc điểm địa

hình của vùng đồi núi thấp, thổ nhưỡng và khí phù hợp với các loại cây ăn

quả, cây công nghiệp như vải thiều, cam, na, nuôi trồng các loại gia súc gia

1

cầm khác... Hiện nay, ở Bắc Giang đã hình thành nhiều mô hình trang trại như

trang trại trồng nấm, trang trại chim bồ câu, vịt trời, các trang trại cây ăn quả,

trang trại chăn nuôi gia súc... tập trung chủ yếu tại các huyện Lạng Giang,

Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế… Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội

đến năm 2020, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bắc Giang đã xác định kinh tế

trang trại là động lực chính, là ngành mũi nhọn được ưu tiên phát triển gắn

với xây dựng nông thôn mới, đồng thời ban hành nhiều chính sách để các

trang trại phát triển có hiệu quả.

Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế trang trại trên địa bàn

tỉnh Bắc Giang nói chung và đặc biệt trên địa bàn huyện Lục Nam - địa

phương có sự phát triển các mô hình kinh tế trang trại tương đối nhanh và

mạnh của tỉnh - nói riêng còn nhiều hạn chế bất cập, sự phát triển kinh tế

trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam chủ yếu là mang tính tự phát, các trang

trại chưa được giao đất, thuê đất ổn định lâu dài, hầu hết các xã có trang trại

phát triển chưa làm tốt công tác quy hoạch sản xuất, thủy lợi, giao thông, điện

nước sinh hoạt, thông tin liên lạc thị trường còn kém phát triển. Phần lớn các

trang trại còn thiếu hiểu biết về thị trường, khoa học kỹ thuật và quản lý, thiếu

vốn sản xuất để phát triển lâu dài, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá

nông sản xuống thấp, tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Do vậy đề tài “Quản lý

nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc

Giang” được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn để góp phần

làm rõ những vấn đề trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Hiện nay đã có rất nhiều đề tài cũng như các công trình nghiên cứu khoa

học về kinh tế trang trại cũng như sự tác động của nhà nước đối với kinh tế

trang trại. Điển hình có thể kể tới như:

Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước KC.07-13: “Tổng kết và xây dựng mô hình

2

phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với

văn minh thời đại” do Vũ Trọng Khải chủ nhiệm[1]. Đề tài có nghiên cứu về

việc xây dựng các mô hình hệ thống nông nghiệp sinh thái đa canh, mô hình

trang trại làng mở, mô hình phát triển phi làng xã và sự hình thành trang trại

hữu hạn, trang trại cổ phần, trang trại nhà nước và trang trại dự phần mô hình

hợp tác xã nông nghiệp.

Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh

tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” do

Nguyễn Đình Hương chủ nhiệm năm 2000 là công trình nghiên cứu công phu

nhất về kinh tế trang trại ở Việt Nam cho đến nay[2]. Đề tài đã đề xuất một số

giải pháp cụ thể về đất đai, về vốn tín dụng, phát triển nguồn nhân lực, về thị

trường, khoa học - công nghệ, phát triển hạ tầng nông thôn, phát triển công

nghiệp chế biến và tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại.

Năm 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho trường Đại học Kinh tế

Quốc dân chủ trì phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Giang ,

nghiên cứu đề tài cấp Bộ trọng điểm do Phạm văn Khôi chủ nhiệm: “Nghiên

cứu các mô hình phát triển bền vững trang trại vùng cây ăn quả tỉnh Bắc

Giang” nghiệm thu năm 2011[3]. Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý

luận và thực tiễn mô hình phát triển kinh tế trang trại theo hình thức sở hữu,

theo quy mô, theo phương hướng kinh doanh và trình độ công nghệ, đề tài đã

đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng

tính phát triển bền vững của các trang trại ở vùng cây ăn quả của tỉnh Bắc

Giang trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập

kinh tế quốc tế.

Với phương pháp tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, tác giả nghiên

cứu cụ thể về hoạt động quản lý của nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa

bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong những điều kiện cụ thể. Đây là một

3

đề tài mới và không bị trùng lặp với các đề tài khoa học đã công bố trước đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Qua việc nghiên cứu phân tích những vấn đề về vai trò và thực trạng

quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam và bài

học kinh nghiệm thực tiễn từ các địa phương khác, tác giả đề xuất các giải

pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại trên

địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.

3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với kinh tế trang

trại nói chung và trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang nói riêng

- Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại của

một số địa phương và rút ra bài học cho huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.

- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với kinh

tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang từ đó chỉ ra

những yếu tố còn tồn tại cần khắc phục, nguyên nhân của những tồn tại đó

- Từ thực trạng đã nêu, đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện

nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối với các trang trại trên địa bàn huyện

Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài đi sâu vào xem xét thực trạng những hoạt động trong công tác

quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại. Trong đó chủ thể quản lý là cơ

quan quản lý Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, đối tượng quản

lý là kinh tế trang trại với các công cụ quản lý đó là quy hoạch, kế hoạch, cơ

chế chính sách và pháp luật có liên quan đến kinh tế trang trại và trực tiếp tổ

chức điều hành quá trình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục

4

Nam - tỉnh Bắc Giang.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4.2.1. Về không gian nghiên cứu

Đề tài được triển khai nghiên cứu chủ yếu trên phạm vi địa bàn huyện

Lục Nam Bao gồm các trang trại tại các xã: Tam Dị, Vô Tranh, Huyền Sơn,

Khám Lạng, Đông Phú và một số trang trại tiêu biểu khác trên địa bàn huyện

Yên Thế và huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang

4.2.2. Về thời gian

Luận văn tập trung nghiên cứu về kinh tế trang trại giai đoạn 2010 -2016,

định hướng đến năm 2020.

4.2.3. Về nội dung nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu về các chiến lược, quy hoạch; về luật pháp, chính

sách đối với kinh tế trang trại; công tác kiểm tra giám sát của Nhà nước và Bộ

máy tổ chức quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại,

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của

chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ

trương chính sách của Nhà nước; các học thuyết kinh tế và quản lý nhà nước

về kinh tế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp thu thập thông tin tài liệu tổng hợp, thống

kê, phân tích số liệu, so sánh, để làm sáng tỏ nội dung của vấn đề nghiên cứu.

Các số liệu trong luận văn được tham khảo từ chi cục thống kê huyện Lục

Nam và thu thập trực tiếp tại các địa phương có trang trại tập trung.

6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà

nước đối với kinh tế trang trại. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quản

5

lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại của một số địa phương tác giả rút ra

những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế

trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.

Qua việc phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối

với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện, tác giả chỉ ra những mặt tích cực đã

đạt được và những yếu tố còn tồn tại. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện

nhằm tăng cường hoạt động quản lý đối với các trang trại trên địa bàn huyện

Lục Nam - tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao

gồm kết cấu 3 chương cụ thể như sau:

Chương I. Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

Chương II. Thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa

bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang

Chương III. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với

6

phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG

CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI

1.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại

Lịch sử phát triển nông nghiệp trên thế giới nói chung và ở nước ta nói

riêng đã cho thấy có nhiều hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp khác nhau.

Tuy nhiên, hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn và gắn với

sản xuất nông nghiệp hàng hóa hay còn được gọi là kinh tế trang trại (KTTT)

chỉ thực sự bắt đầu khi xuất hiện nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Do đó, đã

sớm có nhiều quan điểm khác nhau về trang trại nhưng đều có những điểm

chung về nguồn gốc hình thành và chủ sở hữu trang trại như sau:.

Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông lâm ngư nghiệp,

phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nhưng có tính chất

hàng hóa rõ rệt. Các trang trại có sự tập trung, tích tụ cao hơn so với mức bình

quân của kinh tế hộ gia đình trong xã hội ở từng vùng về các điều kiện sản

xuất như đất đai, vốn, lao động đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa lớn

hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn[4].

Trang trại mang tính chất sản xuất hàng hóa nông nghiệp, gắn liền với

thị trường vì vậy có nhu cầu cao hơn kinh tế hộ về tiếp thị, về sự tác động của

khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, sự phát triển của công

nghiệp, nhất là đối với công nghệ bảo quản, chế biến nông - lâm - thủy sản,

chế tạo công cụ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất và đáp

ứng được đòi hỏi của khách hàng về quy cách, chất lượng sản phẩm để đảm

bảo tiêu thụ hàng hóa cạnh tranh trên thị trường[5].

Trang trại và kinh tế trang trại là hai khái niệm khác nhau, theo đó

trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của

7

quan hệ kinh tế.

Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong kinh tế

nông nghiệp, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng

cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ

sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. Sự

phát triển KTTT nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật,

kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển KTTT bền vững; có việc làm tăng

thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân bổ lao

động, dân cư xây dựng nông thôn mới. Với tư cách là một loại hình kinh tế,

KTTT bao gồm tổng thể các yếu tố vật chất với các hoạt động kinh tế - xã hội

và các hoạt động này có quan hệ, tác động với môi trường tự nhiên. Do vậy,

KTTT bao gồm có ba mặt cơ bản là kinh tế, xã hội và môi trường.

Về mặt kinh tế: KTTT là loại hình tổ chức sản xuất trong khu vực

nông, lâm, ngư nghiệp. Bao gồm tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất các

quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại.

Các yếu tố vật chất của sản xuất trước hết là ruộng đất, tiền vốn và các tư liệu

sản xuất khác được tập trung ở quy mô nhất định nhằm mục tiêu sản xuất

hàng hóa. Trong loại hình KTTT, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc

quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc quyết định phương

hướng sản xuất kinh doanh, kỹ thuật sản xuất, tổ chức sản xuất tới việc tiếp

cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm.

Về mặt xã hội: KTTT là loại hình kinh tế trong đó các quan hệ xã hội

đan xen như: quan hệ giữa thành viên trong trang trại, quan hệ giữa chủ trại

và người lao động trong trang trại, quan hệ giữa những người lao động trong

nội bội trang trại, quan hệ giữa chủ trang trại với các quan hệ thị trường khác.

Về mặt môi trường, KTTT là một không gian sinh thái đa dạng. Không

gian sinh thái trong loại hình KTTT có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại

8

trực tiếp đến hệ sinh thái của vùng.

Ở nước ta, KTTT đã manh mún xuất hiện từ thời Lý, Trần với các hình

thức như thái ấp, các điền trang trong nông nghiệp. Thời nhà Lê, Nguyễn,

KTTT phát triển tương đối mạnh và tồn tại dưới các hình thức như: đồn điền,

điền trang…

Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khóa VI 70(4/1988) về phát huy quyền

làm chủ kinh tế hộ gia đình đã đặt nền móng cho sự phát triển một cách nhanh

chóng. Theo đó KTTT là hình thức tổ chức sản xuất KTTT bao gồm nông -

lâm - thủy sản có mục đính chính là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc

quyền sở hữu của một chủ trang trại, sản xuất được tiến hành trên quy mô

ruộng đất với các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn, trình độ kỹ thuật cao hơn

phương thức tổ chức sản xuất tiến bộ gắn với thị trường có hạch toán kinh tế

theo hình thức của doanh nghiệp

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại và

căn cứ vào chủ trương đối với KTTT đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị

lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 12 năm 1997 và Nghị

quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1989 của Bộ Chính trị về phát triển nông

nghiệp và nông thôn mô hình KTTT trong sản xuất kinh tế nông nghiệp ở

nước ta đã hình thành và không ngừng được mở rộng và phát triển. Hiện nay,

nhiều trang trại đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất như: sản xuất an

toàn, sản xuất sạch, công nghệ cao, nhờ đó tạo ra năng suất, chất lượng cao và

đạt hiệu quả về kinh tế.

Quá trình hình thành và phát triển của KTTT gắn liền với quá trình công

nghiệp hóa của đất nước và đang dần trở thành lực lượng chủ lực trong sản xuất

hàng hóa nông sản, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hóa trong công nghiệp.

1.1.2. Các loại hình kinh tế trang trại

Hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam, KTTT đang phát triển dưới

9

nhiều hình thức, nó thay đổi tùy theo đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng

quốc gia, từng vùng miền lãnh thổ. Theo đề nghị số 64/CP của Chính Phủ

chúng ta có thể căn cứ vào một số tiêu chí để phân loại các trang trại như sau:

Phân loại theo quy mô sử dụng

Theo cách phân loại này trang trại được chia làm 4 loại hình đó là

+ Trang trại nhỏ: quy mô trang trại có diện tích dưới 2ha

+ Trang trại vừa: quy mô trang trại có diện tích từ 2-5ha

+ Trang trại khá lớn: quy mô trang trại có diện tích từ 5-10ha

+ Trang trại lớn: quy mô trang trại có diện tích trên 10ha

Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn thì mức hạn điền tối thiểu cho trang trại là 2,1ha đối với

các tỉnh thuộc Bắc Bộ và Duyên hải miền trung

Phân loại theo lĩnh vực sản xuất

Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn trang trại phân theo lĩnh vực sản xuất bao

gồm:

- Trang trại trồng trọt: Đây là loại hình trang trại vô cùng đa dạng và phong

phú (tùy theo đặc điểm khí hậu đất đai của mỗi vùng miền), bao gồm các

trang trại trồng cây ăn quả như na, vải, hồng, nhãn, cam bưởi…, cây công

nghiệp như cao su, cà phê… trang trại lương thực, thực phẩm và các trang trại

trồng hoa, cây cảnh…

- Trang trại chăn nuôi: Loại hình trang trại chăn nuôi cũng khá đa dạng

như chăn nuôi đại gia súc (bò, dê…) gia súc nhỏ (lợn, đà điểu), các trang trại

gia cầm, chim bồ câu…

- Trang trại nuôi trồng thủy sản: Đây là loại hình trang trại có tính chất

đặc thù gắn liền với môi trường nước. Tùy vào địa hình khí hậu và môi trường

nước ngọt hay nước mặn mà người dân có các hình thức sản xuất nuôi trồng

10

thủy sản khác nhau.

-Trang trại lâm nghiệp: Là trang trại trồng rừng thường có quy mô lớn và

được phát triển ở các vùng núi phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ

đòi hỏi vấn đề về vốn mà vấn đề thu hồi vốn thường bị kéo dài thời gian trong

khoảng 5, 10 hoặc thậm chí là 15 năm. Do vậy, để người dân có khả năng và

yên tâm sản xuất kinh doanh trang trại lâm nghiệp, Nhà nước cần có chinh

sách đầu tư, hỗ trợ về vốn, tín dụng lâu dài.

-Trang trại tổng hợp: Là loại hình trang trại sản xuất kết hợp theo các mô

hình VAC (vườn - ao - chuồng), VAC-R (vườn - ao - chuồng - ruộng).

Đối với các trang trại chuyên ngành (chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thủy

sản…) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành

chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm.

Trường hợp trang trại không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản

lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.

Phân loại theo chủ thể kinh doanh

Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê tư liệu sản xuất. Trường hợp

phổ biến hiện nay là chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhưng phải đi

thuê máy móc, thiết bị, chuồng trại, kho chứa… Ở nước ta, chủ trang trại có

quyền sử dụng đất chứ không có quyền sở hữu nên không phân loại trang

trại theo loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất mà phân theo chủ đề kinh

doanh. Theo đó có các loại hình trang trại như sau:

- Trang trại nhà nước: Bao gồm các hình thức như nông trường quốc doanh,

công ty nông nghiệp nhà nước… thường có quy mô lớn nên hình thành nhiều

cấp trung gian. Các nông trường công ty này lại khoán cho các hộ gia đình

công nhân lập trang trại gia đình.

- Các hợp tác xã nông nghiệp: Hợp tác xã(HTX) nông nghiệp được hình thành

nhờ sự hợp tác sản xuất cả các xã viên. Hiện nay loại hình này rất ít tồn tại.

Sau khi luật HTX ra đời, nhiều HTX nông nghiệp dần chuyển thành HTX

11

dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình nông dân.

- Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy

mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa các công ty hợp doanh. Họ có thể trực

tiếp sản xuất hoặc giao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm,

hùn vốn hay góp phần lớn vốn góp chung.

- Trang trại gia đình: Là loại hình trang trại phổ biến nhất của KTTT. Loại

hình này thực chất là các hộ nông dân chuyển từ nền kinh tế tiểu nông sản

xuất tự túc tiến lên KTTT sản xuất hàng hóa với các mức độ khác nhau. Trang

trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và sử dụng ruộng đất, về chủng

loại và số lượng lao động khác nhau, về nguồn vốn và khoa học công nghệ, về

ngành nghề, mặt hàng sản xuất. Trong hình thức này, mỗi gia đình là một chủ

thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản xuất, tự lo cả đầu vào và đầu ra

cho sản phẩm.

- Trang trại tư nhân kinh doanh nông nghiệp: Là loại trang trại của cá nhân,

nhà tư bản, công thương gia hoặc công ty cổ phần, hoặc thuê đất đai, thuê lao

động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao

động làm thuê như các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh công nghiệp và các

dịch vụ khác của nền kinh tế.

1.1.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại

KTTT có những đặc trưng cơ bản như sau:

Thứ nhất: Là kinh tế hộ nông dân sản xuất ra hàng hóa nông lâm

nghiệp, thủy sản với trình độ chuyên môn hóa cao, đáp ứng nhu cầu của thị

trường hoặc tạo ra thu nhập hợp pháp thông qua việc sở hữu trang trại và lao

động phi trang trại. Đây là một đặc trưng cơ bản của KTTT.

Thứ hai: Quy mô sản xuất hàng hóa của trang trại phải đạt mức độ và

khả năng đa dạng hóa sản phẩm ở mức thỏa mãn thu nhập cần thiết và đảm

12

bảo cho khả năng tái sản xuất mở rộng.

Điểm khác biệt căn bản giữa KTTT với kinh tế hộ nông dân là quy mô

và tỷ suất hàng hóa của quá trình sản xuất. KTTT là hình thức sản xuất với

quy mô lớn với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận kinh tế. Vì vậy chủ trang trại

bán hầu hết sản phẩm mình làm ra để thu lợi nhuận, chấp nhận cạnh tranh và

mua lại các vật tư sản xuất và hàng tiêu dùng trên thị trường.

Thứ ba: Trong trang trại, các yếu tố sản xuất đặc biệt quan trọng là đất

đai và tiền vốn được tập trung tới một quy mô nhất định theo yêu cầu phát

triển của sản xuất hàng hóa. Do vậy quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư

dẫn đến chuyên môn hóa và hình thành các vùng chuyên canh.

Do tính chất sản xuất hàng hóa quy mô lớn, quá trình phát triển KTTT

sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất

khác nhau bao gồm:

- Cơ cấu sản xuất độc canh: Là mức phát triển thấp của KTTT. Trang trại chỉ

sản xuất kinh doanh một loại cây trồng hoặc vật nuôi nhất định. Do vậy tính

chuyên môn nghiệp vụ và sản xuất hàng hóa chưa cao.

- Cơ cấu sản xuất đa canh: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi để

tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình

-Cơ cấu sản xuất chuyên môn hóa: Đây là giai đoạn trang trại đã tích đủ về

đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống phân

công lao động, sản xuất chuyên môn đòi hỏi ứng dụng trình độ khoa học

công nghệ và kỹ thuật cao

Thứ tư: Tổ chức quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ cao hơn và

có thu nhập cao hơn so với sản xuất kinh tế hộ: KTTT có hình thức tổ chức và

quản lý điều hành sản xuất với khả năng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu

mới của khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và kiến thức về thị trường. Do

được tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh tiến bộ và quy mô lớn hơn, hiệu quả

hơn nên KTTT có thu nhập cao hơn nhiều lần so với kinh tế hộ. Đây cũng là

13

mục tiêu cơ bản của mô hình KTTT

Thứ năm: Về mặt pháp lý, KTTT không phải là một thành phần kinh tế

trong cơ cấu của nền kinh tế nhiều thành phần mà chỉ là một hình thức sản

xuất kinh doanh trong nông nghiệp nông thôn. KTTT không đồng nhất với

kinh tế hộ và có địa vị pháp lý độc lập. Các chủ trang trại là những người có ý

chí làm giàu, có điều kiện làm giàu và biết làm giàu, có vốn, trình độ kỹ thuật

và khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình

thường trực tiếp tham gia lao động quản lý, đồng thời thuê mướn thêm lao

động để sản xuất kinh doanh.

Thứ sáu: Tư liệu sản xuất của trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc sử

dụng lâu dài của chủ trang trại. KTTT là cơ sở sản xuất nông nghiệp nền tảng,

là tế bào hay hạt nhân kinh tế, gia đình độc lập hoặc gia đình liên kết theo

kiểu kinh tế hợp tác. Vì vậy KTTT căn bản dựa trên nền tảng của nền kinh tế

hộ nông dân và mang tính chất của kinh tế hộ[6].

1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của kinh tế trang trại đối với sự phát triển của

nền sản xuất nông nghiệp

Ở nước ta, KTTT đã tạo bước chuyển biến cơ bản về giá trị sản phẩm

hàng hóa, thu nhập của trang trại vượt trội hơn hẳn so với kinh tế hộ. Hình

thành nên những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung, thúc đẩy quá trình

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, chuyển đổi các loại giống

cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hóa cao.

Thứ nhất: KTTT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền sản

xuất nông-lâm-ngư nghiệp. Việc sử dụng đầy đủ hiệu quả các yếu tố sản xuất

tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Thứ hai: Vai trò huy động và khai thác các nguồn lực trong dân, giải

quyết việc làm cho xã hội, làm giàu cho đất nước. KTTT thu hút được một

14

lực lượng đông đảo lao động dư thừa ở nông thôn tham gia vào sản xuất chăn

nuôi, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân, có ý

nghĩa tích cực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và giảm sứ ép di cư tự do

từ nông thôn ra thành thị, giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn

Thứ ba: KTTT góp phần thúc đẩy kinh tế thị trường, đẩy mạnh tiến trình

hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao khả năng cạnh

tranh của hàng hóa, tạo động lực cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng

cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế

Thứ tư: KTTT có vai trò rất lớn trong vấn đề bảo vệ môi trường, sử dụng

hiệu quả và bảo vệ tài nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái trong tiến

trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn[7]

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

KINH TẾ TRANG TRẠI

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

Quản lý nhà nước (QLNN): Là một dạng quản lý xã hội mang tính chất

quyền lực nhà nước, được các cơ quan nhà nước (lập pháp; hành pháp và tư

pháp) sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con

người nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước đối với xã hội[8].

Trong hoạt động QLNN ở nước ta có sự phân công, phối hợp giữa 03

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ quan hành pháp (Chính phủ) thực

hiện chức năng quản lý hành chính đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội

(hay còn gọi là cơ quan quản lý hành chính nhà nước thẩm quyền chung, có

chức năng quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc

phòng…). Để thực hiện chức năng quản lý tổng hợp, hệ thống tổ chức bộ máy

hành chính nhà nước được tổ chức theo bộ, ngành (thực hiện chức năng quản

lý ngành) và địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, xã)

thực hiện chức năng quản lý theo lãnh thổ.

Theo đó, QLNN về nông nghiệp là dạng quản lý chuyên ngành do

15

NN&PTNT làm tham mưu cho Chính phủ duy trì trật tự pháp luật, đưa ra các

thể chế, chính sách nhằm điều chỉnh các quan hệ và hành vi hoạt động của

con người trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn theo thẩm

quyền được phân công.

Từ cách tiếp cận như trên, có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với kinh tế

trang trại được hiểu là hoạt động QLNN chuyên ngành trong QLNN về nông

nghiệp nông thôn, được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá

trình phát triển KTTT trong nông nghiệp do Bộ NN&PTNT thực hiện, nhằm

duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự pháp luật, bảo đảm thực

thi chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đối với sự phát triển KTTT trong nền

kinh tế nông nghiệp, có thể định nghĩa như sau:

Quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là sự tác động có tổ chức có

định hướng của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách và các công cụ kinh tế

của mình lên trang trại và các yếu tố khác có liên quan để đạt được mục tiêu

đề ra. Đây là hoạt động quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT thông qua

các công cụ kế hoạch, pháp luật và các chính sách để tạo điều kiện và tiền đề,

môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh KTTT hướng

tới mục tiêu chung của toàn nền kinh tế xử lý những việc ngoài khả năng tự

giải quyết của đơn vị kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế trên tất cả các

lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm KTTT; điều

tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, sản phẩm KTTT, giữa KTTT với

toàn bộ nền kinh tế; thực hiện sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động trong

KTTT và kinh tế nông thôn[9].

1.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước đối với kinh tế

trang trại

Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT không chỉ ở sự điều

tiết, khống chế định hướng bằng pháp luật, bằng các chính sách và bằng đòn

16

bẩy kinh tế mà còn bằng chính thực lực của kinh tế Nhà nước. Tuỳ điều kiện

cụ thể của KTTT ở từng địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định.

QLNN đối với KTTT là một tất yếu khách quan được thể hiện ở những nội

dung cụ thể sau:

* Sự quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại là một chức năng đặc thù

của chức năng quản lý

Trang trại là đơn vị sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình, được hình

thành và phát triển từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần thay thế

phương thức sản xuất phong kiến. Việc phát triển KTTT không chỉ có quan

hệ trực tiếp tới phát triển nông nghiệp của địa phương cũng như của cả nước

mà còn chịu tác động chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên, khí hậu và trình độ khoa học kỹ

thuật.

* Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại có tác động nhiều

mặt đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng và xã hội nói chung

Thứ nhất: Kinh tế trang trại ảnh hưởng trực tiếp tới khu công nghiệp và

nông nghiệp nông thôn, quá trình tích tụ ruộng đất -lấy đất của nông dân làm

cho nông dân không có đất sản xuất và gia tăng lao động gây áp lực cho các

đô thị và khu công nghiệp.

Thứ hai: Sự phát triển của các trang trại thiếu quy hoạch gây ô nhiễm

môi trường, do quá trình sản xuất nuôi trồng của các trang trại còn mang tính

hình thức, lao động thủ công hàng hóa cho nên khi sử dụng tài nguyên theo

quy mô lớn và theo lợi nhuận gây ra thoái hóa đất, mất cân bằng sinh thái, ô

nhiễm không khí do lượng phân bón vô cơ lớn và ô nhiễm nguồn nước, đặc

biệt có những hiện tượng sử dụng các chất cấm có chứa các chất độc hại trong

trồng trọt và chăn nuôi có ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống xung quanh.

Thứ ba: quá trình phát triển KTTT tất yếu kéo theo sự biến đổi về văn

17

hóa, môi trường địa phương, vùng miền. Mang bản chất là nông nghiệp nên

kèm theo sự thay đổi về kinh tế, các tệ nạn xã hội và văn hóa thôn bản cũng

biến đổi mang tính công nghiệp, tình cảm và mức độ gắn kết giữa các hộ gia

đình có phần biến đổi theo hướng giảm sút.

* Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại rất cần có sự quản lý

quy hoạch tổng thể mang tầm vĩ mô để đảm bảo tính cân đối, tính thống

nhất giữa các bộ phận cấu thành trong toàn bộ hệ thống của kinh tế trang

trại

Tại những vùng có điều kiện tự nhiên khác nhau thì có những thế mạnh

khác nhau về giống cây trồng, vật nuôi. Điều này gây khó khăn cho việc phát

triển kinh tế nông thôn, thoái hóa tài nguyên đất làm ảnh hưởng đến chất lượng

hàng hóa nông sản đồng thời ảnh hưởng đến môi trường, gây thiệt hại lớn về

kinh tế - xã hội của địa phương. Do đó đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất của

Nhà nước trong công tác xây dựng, quy hoạch và phát triển KTTT ở tầm vĩ mô.

Hoạt động QLNN tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển

bằng cách xác lập và vận hành có hiệu quả một hệ thống thị trường đồng bộ ở

nông thôn, đồng thời tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển bằng cách

Nhà nước trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến thiên tai, bảo vệ

môi trường, đảm bảo trật tự trị an và hạn chế tội phạm ở nông thôn.

1.2.3. Những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

Việc đảm bảo sự phát triển cân đối của KTTT trong cơ cấu nền kinh tế

nông nghiệp tùy thuộc vào hướng phát triển chung của đất nước. Do đó những

định hướng phát triển về KTTT nói riêng và kinh tế nông nghiệp nói chung

chịu sự tác động trực tiếp của

Nhà nước. Nhà nước với vị trí và những quyền lực đặc biệt có vai trò

không thể thay thế đối với bất kỳ loại hình sản xuất kinh doanh nào. Chính vì

vậy, những tác động tích cực của Nhà nước là điều kiện để KTTT phát triển.

18

QLNN đối với KTTT bao gồm những nội dung sau:

* Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế trang trại

cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước

Quy hoạch phát triển KTTT bao gồm quy hoạch tổng thể và quy hoạch

chi tiết trong các loại hình KTTT, là cơ sở để lập kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và là căn cứ để dự toán ngân sách

hàng năm của các cấp chính quyền.

Quy hoạch, kế hoạch phát triển KTTT cần được xây dựng trên những

cơ sở lý luận khoa học, sự nghiên cứu toàn diện và khách quan thực trạng của

KTTT và phải được đặt trong tình hình kinh tế - xã hội cụ thể qua từng giai

đoạn, phải có những định hướng lâu dài, những mục tiêu dài hạn, mục tiêu

ngắn hạn và những phương hướng hoạt động cụ thể, thể hiện tầm nhìn chiến

lược của các cơ quan Nhà nước. Sự hoàn chỉnh của quy hoạch tổng thể sẽ tạo

cơ sở cho các cấp quản lý xây dựng những quy hoạch cho riêng mình, mặt

khác giúp cho các chủ trang trại cũng như các chủ thể kinh tế khác có những

định hướng sản xuất cụ thể, phù hợp.

* Xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế trang trại

Hệ thống các quy định pháp luật thể hiện quan điểm, định hướng của

Nhà nước đối với đối tượng quản lý. Đây là căn cứ pháp lý để cơ quan Nhà

nước thực hiện chức năng quản lý, đồng thời cũng là cơ sở khách quan để

quản lý tuân thủ và áp dụng. Sự thiếu hoàn thiện và chưa hợp lý của hệ thống

các văn bản pháp luật dễ dẫn đến tình trạng không thống nhất trong quá trình

giải quyết công việc của các cơ quan quản lý, gây khó khăn cho người dân.

Đặc biệt đối với lĩnh vực kinh tế thì khung pháp lý ổn định và thuận lợi có tác

động rất lớn đến lợi ích của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế cũng

như của xã hội.

Việc ghi nhận địa vị pháp lý của các trang trại là điều kiện tiên quyết để

19

KTTT được hình thành. Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính Phủ về kinh tế

trang trại ghi rõ: “Thống nhất nhận thức về vị trí và vai trò của kinh tế trang

trại” đã tạo ra bước đột phá trong sự nghiệp phát triển KTTT của các địa

phương trong cả nước, vai trò quan trọng thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

Một là, Xác lập cơ sở pháp lý, bảo vệ và hỗ trợ hình thành phát triển cơ

chế thị trường trong nông nghiệp nói chung và KTTT ở nông thôn

Dựa trên nhận thức đúng đắn, khách quan và khoa học các quy luật vận

động của nền KTTT theo cơ chế thị trường, Nhà nước ban hành các văn bản

pháp quy nhằm tổ chức có tính chất Nhà nước các quan hệ kinh tế khách quan

đó phù hợp với quy chế mới. Như vậy pháp luật giữ vai trò là yếu tố tạo dựng,

hỗ trợ và bảo vệ cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế theo mục

tiêu định hướng của Đảng và nhà nước ta.

Hai là, xác lập trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho KTTT.

Bằng việc tổ chức có tính chất Nhà nước của các quan hệ kinh tế khách

quan dưới hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, về thực chất pháp luật đã xác

định trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho mọi hoạt động KTTT.

Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế tham gia vào

các quan hệ KTTT. Việc bảo vệ lợi ích nói trên của các chủ thể kinh tế chỉ có

thể thực hiện bằng cách ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, ghi

nhận hình thức và các thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh... vào

luật pháp. Nhờ vậy lợi ích của các chủ thể kinh tế được tôn trọng và được giải

quyết thoả đáng. Nếu thiếu luật pháp thì việc giải quyết, xử lý các quan hệ lợi

ích sẽ thiếu trật tự, gây lộn xộn không cần thiết có ảnh hưởng tiêu cực đến các

hoạt động kinh tế.

* Xây dựng và ban hành chính sách phát triển kinh tế trang trại

Hệ thống các chính sách hỗ trợ là công cụ linh hoạt và hiệu quả, rất phù

hợp với loại hình kinh tế năng động và đòi hỏi sự hỗ trợ lớn của Nhà nước

20

như KTTT. Nhà nước có thể sử dụng các chính sách trên cơ sở xác định mức độ

các vấn đề cần ưu tiên giải quyết trong mỗi giai đoạn khác nhau. Có một số

chính sách được hầu hết các quốc gia sử dụng như: Chính sách đất đai; chính

sách vốn và tín dụng; chính sách khoa học công nghệ; chính sách lao động;

chính sách đào tạo các chủ trang trại; chính sách thị trường…

Các chính sách phát triển KTTT của nước ta cụ thể như sau:

Thứ nhất, Chính sách đất đai: Chính sách đất đai có vai trò quan trọng đặc

biệt vì các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong KTTT và nông thôn gắn liền

với vấn đề ruộng đất. Mục tiêu trực tiếp của chính sách ruộng đất là quản lý,

sử dụng có hiệu quả, đồng thời bảo vệ độ phì nhiêu của đất đai, vì đất là tư

liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt của KTTT. Để đạt được mục tiêu trên, từ khi

chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới

quan trọng trong chính sách ruộng đất, thể hiện tập trung ở Nghị định 64/CP

ngày 27/9/1993, về giao đất cho hộ nông dân, Luật Đất đai năm 1993 với

những nội dung chủ yếu sau đây:

- Toàn bộ quỹ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý

trên phạm vi cả nước.

- Ruộng đất được Nhà nước giao quyền ổn định, lâu dài cho những người làm

nông, lâm, ngư nghiệp (các doanh nghiệp nhà nước, tập thể, hộ gia đình và cá

nhân). Các hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho

thuê và thế chấp quyền sử dụng ruộng đất trong thời hạn được giao.

- Người sử dụng có trách nhiệm sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu

quả và phải bảo vệ, cải tạo đất và đóng thuế cho Nhà nước.

- Nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích,

chuyển quyền sử dụng đất trái phép. Kiên quyết xoá bỏ những phương thức

kinh doanh lạc hậu làm huỷ hoại đất đai.

Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các trang trại thực hiện dồn điền

đổi thửa, thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ban hành các

21

chính sách cụ thể về việc sử dụng đất theo quy định của luật Đất đai[15].

Thứ hai. Chính sách về thuế

- Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát

triển KTTT, nhất là ở những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven

biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại với thời gian tối đa theo

Nghị quyết số 51/1999/NQ-CP, ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về

việc Quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)

số 03/1998/QH10.

- Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp

luật về đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng

sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên

chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích SXNN.

Thứ ba. Chính sách đầu tư tín dụng

Trang trại phát triển sản xuất kinh doanh được vay vốn tín dụng thương

mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện

theo quy định tại Quyết định số 67/1999/QĐ -TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999

của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát triển

nông nghiệp và nông thôn”, chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn

vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày

29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín

dụng[8].

Thứ tư, Chính sách khuyến nông

Chính sách khuyến nông có từ rất sớm trong lịch sử phát triển nông

nghiệp nước ta. Từ khi có chỉ thị 100/ CT (1981) và sau Nghị quyết 10 của Bộ

chính trị (1988), công tác khuyến nông được đặc biệt coi trọng. Nghị định 13/

CP (2/3/1993) của Chính phủ quy định cụ thể về công tác khuyến nông. Theo

Nghị định này, Nhà nước tổ chức hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến

22

cơ sở, cho phép phát triển các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các đoàn

thể, các tổ chức kinh tế-xã hội và tư nhân để giúp nông dân phát triển sản

xuất. Nghị định 13/CP cũng quy định nội dung chủ yếu của công tác khuyến

nông.

Thứ năm, Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường

Bộ NN&PTNT cùng với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương

quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây nông nghiệp, lâm nghiệp

và các cơ sở sản xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ một số

trang trại có điều kiện sản xuất giống để bảo đảm đủ giống tốt, giống có chất

lượng cao cung cấp cho các trang trại và hộ nông dân trong vùng. Khuyến

khích chủ trang trại góp vốn vào quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, liên kết với

cơ sở khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào

trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng.

Thứ sáu, Chính sách thị trường

Bộ công thương, Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung Ương tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, khuyến cáo khoa

học kỹ thuật, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu

cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Nhà nước đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ

nông sản thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà

nước với hợp tác chủ trang trại, hộ nông dân.

Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực

tiếp sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập

khẩu vật tư nông nghiệp.

Thứ bảy, Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại

Tải sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hoá,

không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc

23

phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần thu hồi đất được giao, được

thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi thường tại thời

điểm công bố quyết định thu hồi[7].

Hiệu quả của hệ thống chính sách là xây dựng chính sách thống nhất,

phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước, đồng bộ hóa với quy hoạch và hệ thống pháp luật. Đồng thời Nhà

nước phải xác định được tầm quan trọng và mức độ tác động khác nhau của

mỗi chính sách đó để có những ưu tiên thực hiện hợp lý.

* Công tác kiểm tra giám sát

Kiểm tra giám sát là việc làm không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động

công tác QLNN. Việc kiểm tra giám sát các hoạt động liên quan đến KTTT sẽ

giúp các cơ quan Nhà nước có thể nắm bắt được tình hình hoạt động và phát

triển của các trang trại tại địa phương, ngoài ra còn có thể quản lý được chất

lượng đầu vào và đầu ra đối với các sản phẩm của KTTT.

Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy việc phát triển KTTT đạt hiệu quả

không chỉ bằng bàn tay vô hình-sự điều tiết của thị trường hay chỉ bằng bàn

tay hữu hình tức là sự điều tiết của Nhà nước mà cần phải có sự kết hợp chặt

chẽ, thống nhất giữa bàn tay hữu hình và bàn tay vô hình. Đặc biệt trong điều

kiện cụ thể của nước ta, phát triển KTTT vừa phải đạt hiệu quả kinh tế, vừa

đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, quản lý Nhà nước đối với KTTT thực hiện chức năng điều

chỉnh các mối quan hệ kinh tế nhằm lành mạnh hoá toàn bộ các mối quan hệ

KT-XH. Trên cơ sở hệ thống các mối quan hệ kinh tế lành mạnh được duy trì ổn

định sẽ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển ổn định của của KTTT.

* Bộ máy quản lý Nhà nước

Bộ máy QLNN về kinh tế và KTTT phải được sắp xếp tinh gọn và linh

hoạt, có khả năng thích ứng và nắm bắt nhanh chóng những biến động của

24

kinh tế thị trường, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển nhanh mạnh của nền kinh

tế. Để vận hành bộ máy trên cần một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ cao, có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với công việc. Vấn đề

cán bộ luôn được đặt ra trong tất cả các lĩnh vực quản lý KT-XH bởi đây

chính là lực lượng chủ chốt đưa đường lối của Đảng, chính sách của Nhà

nước đi vào thực tiễn đời sống. Bên cạnh đó sự chủ động sáng tạo của cán bộ

công chức sẽ tác động rất lớn đến kết quả của hoạt động quản lý.

1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH BẮC GIANG VÀ BÀI HỌC VỚI HUYỆN LỤC NAM

1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Lục Ngạn về quản lý nhà nước đối với

kinh tế trang trại

Về quy hoạch, kế hoạch: Chính quyền huyện Lục Ngạn đã triển khai

xây dựng quy hoạch các vùng KTTT chuyên trồng các cây ăn quả, hỗ trợ

chuyển đổi phương hướng kinh doanh và ứng dụng công nghệ phù hợp với

từng loại hình trang trại. Thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học

và công nghệ, nhất là các chương trình triển khai sản xuất cây ăn quả theo tiêu

chuẩn VietGAP nhằm nâng cao độ an toàn trong sản xuất, đặc biệt tạo sự an

toàn cho sản phẩm. Nhờ đó các vùng chuyên canh cây ăn quả đã hình thành

và phát triển bền vững trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Về chính sách ứng dụng khoa học công nghệ và chính sách thị trường: Năm

2005, huyện Lục Ngạn tiến hành việc chăm sóc thử nghiệm vải thiều theo tiêu

chuẩn VietGAP tại một số trang trại điển hình với quy mô 5ha. Năm 2007 mở

rộng diện tích lên 150 ha và đến năm 2010 đã nâng tổng diện tích trồng vải

theo tiêu chuẩn VietGAP lên hơn 4000 ha đồng thời tiến hành trồng thí điểm

theo tiêu chuẩn GlobalGAP nhằm từng bước phát triển thương hiệu vải thiều

ra các thị trường khó tính như Pháp, Mỹ, Oxtraylia và hướng tới một số thị

trường Trung Đông.... Lục Ngạn hiện có khoảng 16.200 ha trồng vải thiều,

25

việc mở rộng diện tích sản xuất vải thiều sạch an toàn theo tiêu chuẩn

VietGAP ngày càng được chính quyền và người dân ở Lục Ngạn quan tâm

thực hiện chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP. Việc chăm sóc

vải theo tiêu chuẩn VietGAP luôn được giám sát một cách chặt chẽ bởi các

chuyên gia, kỹ sư nông nghiệp đưa hiệu quả sản xuất lên rất nhiều bởi chất

lượng vải cao nên giá thành khá cao. Sản xuất vải thiều VietGAP, GlobalGAP

đã và đang trở thành xu thế tất yếu tại “vựa vải” của cả nước.

Có thể thấy vải sạch VietGAP, GlobalGAP với những tiêu chuẩn khắt

khe nhưng đảm bảo chất lượng đã góp phần nâng cao hiệu quả cho người

trồng, giúp phát huy hiệu quả kinh tế bền vững đồng thời bảo vệ môi trường.

Theo UBND huyện Lục Ngạn, với nhiều cải tiến trong hình thức, mẫu mã,

cách đóng gói sẽ giúp hình ảnh vải thiều Lục Ngạn độc đáo, khác biệt hơn.

Huyện cũng áp dụng mọi biện pháp thiết thực nhất nhằm hỗ trợ người dân

trong việc xuất bán vải trong nội địa và xuất khẩu, phối hợp với cơ quan

chuyên môn hoàn tất các thủ tục đăng ký bảo hộ thương hiệu vải thiều Lục

Ngạn tại 7 nước là: Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Trung Quốc, Campuchia,

Singapore và Australia. Ngoài ra huyện cũng thường xuyên đứng ra tổ chức

các chương trình giao lưu ngày hội trái cây tại Hà Nội và tại trung tâm huyện

Lục Ngạn để giới thiệu và quảng bá thương hiệu nông sản. Đây là một hoạt

động không chỉ tạo sự gắn kết và học hỏi giao lưu giữa các chủ trang trại mà

còn tạo dựng hình ảnh thương hiệu trái cây Lục Ngạn[16].

UBND tỉnh Bắc Giang và UBND huyện Lục Ngạn đã phối hợp chặt

chẽ với các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin cung-

cầu, liên kết sản xuất với doanh nghiệp, thương nhân và các hệ thống phân

phối, chú trọng mở rộng thị trường trong nước. Tạo thuận lợi cho các thành

phần kinh tế tham gia tiêu thụ vải thiều, chủ động và thường xuyên phối hợp

với các cơ quan truyền thông trung ương, địa phương để tuyên truyền, quảng

bá thương hiệu vải thiều của tỉnh, kịp thời thông tin về giá cả, diễn biến thị

26

trường giúp người dân, doanh nghiệp chủ động điều tiết mang lại hiệu quả cao

1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Yên Thế về quản lý nhà nước đối với kinh

tế trang trại

Với ưu thế về diện tích đất đồi núi phù hợp cho phát triển cây công

nghiệp cây ăn quả, Các trang trại ở Yên Thế đã tận dụng tốt vốn đất cho cây

trồng cùng với lồng ghép với chăn nuôi, đặc biệt là gà đồi. Mỗi trang trại ở

Yên Thế có khoảng 5000- đến 30.000 con gà thả vườn. Nhờ có sự khuyến

khích của nhà nước, sự phối kết hợp hài hòa giữa 3 nhà : nhà khoa học-nhà

nước và nhà nông của Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Bắc Giang

với chính quyền và bà con nông dân huyện Yên Thế được tổng kết và xây

dựng thành quy trình sản xuất gà đồi an toàn, do đó các mô hình KTTT trên

địa bàn huyện Yên Thế luôn phát triển bền vững

Ngoài ra, huyện Yên Thế cũng có những chính sách và cơ chế hỗ trợ

tích cực cho sự phát triển KTTT tại địa phương như:

- Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, kết hợp lồng ghép các chương trình dự

án giao thông nông thôn, điện, thủy lợi giúp cho nhiều trang trại có đường

giao thông thuận lợi cho việc đi lại cũng như vận chuyển hàng hóa.

- Hỗ trợ tạo nguồn vốn vay cho các chủ trang trại thông qua các dự án

xóa đói giảm nghèo, thành lập các nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án phát

triển cây trồng, vật nuôi. Giúp cho nhiều chủ trang trại có điều kiện tiếp cận

vay vốn ngân hàng và các quỹ tín dụng khác để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

trang trại, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi cho quá trình sản xuất.

- Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) thôn huyện

Yên Thế thường xuyên phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Bắc Giang, Sở Tài

Nguyên và Môi trường cùng Hội nông dân tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản

lý, về kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi cho các chủ trang trại. Thông qua các lớp

tập huấn, thành lập các câu lạc bộ cho các chủ trang trại giao lưu, học hỏi

27

kinh nghiệm lẫn nhau. Cơ sở hạ tầng KT-XH được đầu tư do sự hỗ trợ của

Nhà nước thông qua các chương trình phát triển trang trại và sự đóng góp của

người dân do nguồn thu trang trại tăng lên.

Lục Ngạn và Yên Thế là hai địa bàn chủ yếu là đồi núi, có độ dốc lớn,

độ che phủ của các loại cây ăn quả rất lớn. Diện tích cây ăn quả tỉ lệ thuận với

độ che phủ và chất lượng độ che phủ, đảm bảo an toàn môi trường. Ngoài ra,

sự thay thế các mô hình chuyên trồng cây ăn quả không hiệu quả ở Yên Thế

chuyển sang kết hợp giữa trồng cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm đã tạo lập

mối quan hệ sinh thái giữa trồng trọt và chăn nuôi, trong đó chăn nuôi gia

cầm và trồng cây ăn quả không chỉ tận dụng được các điều kiện của nhau mà

còn tạo sự ràng buộc trong canh tác của các hoạt động đó như việc thay vì

phun thuốc trừ sâu cho cây ăn quả phải bón bằng các loại phân hữu cơ vi sinh

để không ảnh hưởng đến đàn gia cầm. Nhờ đó tính an toàn trong sản xuất và

an toàn nông sản được tăng lên rõ rệt.

1.3.4. Bài học vận dụng cho huyện Lục Nam

Từ những kinh nghiệm thực tế của các địa phương và quốc gia kể trên

có thể đưa ra một số bài học vận dụng cho huyện Lục Nam về QLNN đối với

KTTT như sau:

Một là, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn tới các hoạt động sản xuất

kinh doanh của các nông hộ đồng thời chú trọng đến việc đầu tư, nâng cấp cơ

sở hạ tầng giao thông thủy lợi tại nông thôn. KTTT có thể phát triển với nhiều

hình thức đa dạng khác nhau nhưng trang trại gia đình là loại hình thích hợp

và phổ biến nhất. Đây là hình thức sản xuất lấy hộ gia đình làm nền tảng để

sản xuất nông sản hàng hóa, sử dụng lao động gia đình trong quản lý và sản

xuất, có thể sử dụng lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ. Quá trình phát

triển trang trại ở hầu hết các xã trên địa bàn của huyện, đều có xu hướng

chung là các trang trại gia đình được hình thành chủ yếu từ cơ sở của các tiểu

28

hộ sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cung, tự cấp, khép kín, vươn lên sản xuất

nhiều nông sản, hàng hóa với quy mô nhỏ đến lớn, tiếp cận thị trường từng

bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh. Kinh tế trang trại có thể và có điều

kiện để phát triển ở tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp

(nông, lâm, ngư nghiệp) và tất cả các vùng khác nhau (đồi núi, đồng bằng,…)

Việc xây dựng trang trại khép kín vườn-ao-chuồng-ruộng (VAC-R) được

coi là mô hình chăn nuôi tổng hợp khép kín kiểu mới trong giai đoạn hiện nay

là một hướng đi đúng, cần được Nhà nước đầu tư và khuyến khích nhiều hơn

nữa. Ưu điểm của mô hình này là giúp người nuôi tiết kiệm được rất nhiều chi

phí sản xuất, bảo vệ môi trường chăn nuôi, thông qua việc tận dụng một cách

triệt để nhờ những gì có trong chất thải, thức ăn, khí đốt,…đồng thời cũng

giảm thiểu bệnh tật và có thể phát triển chăn nuôi bền vững. góp phần thúc

đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn.

Hai là, Sự phát triển của các trang trại lại chủ yếu dựa vào việc ứng dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất để tăng năng

suất và chất lượng nông sản trên một đơn vị diện tích. Hiệu quả sản xuất kinh

doanh của các trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô đất đai, lao

động, mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công nghệ trong sản xuất nông

nghiệp.Do vậy phải áp dụng khoa học kỹ thuật phù hợp với công tác sản xuất

nuôi trồng để đạt được hiệu quả cao nhất.

Ba là, Bồi dưỡng, đào tạo chủ trang trại là một trong những nhân tố quan

trọng nhất đối với sự thành công của KTTT ở các vùng. Do tính chất tiền thân

là hình thức canh tác tự cung tự cấp và tư tưởng làm việc theo kinh nghiệm

truyền thống dân gian còn tồn tại nên hiệu quả sản xuất từ các trang trại chưa

cao. Hơn nữa, mục tiêu KTTT là sản xuất nông sản hàng hóa, việc quản lý sản

xuất kinh doanh của KTTT yêu cầu các chủ trang trại phải có trình độ nhất

29

định. Vì vậy, Nhà nước cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức áp

dụng phương pháp chăm sóc theo khoa học cho bà con nông dân để có thể

đảm bảo cho các trang trại hoạt động có hiệu quả.

Bốn là, sự tồn tại và phát triển của KTTT gắn liền với tiến trình công

nghiệp hóa và sự phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường cạnh

tranh. Việc tạo dựng thương hiệu nông sản từ các trang trại là hết sức cần thiết

cho việc đưa đầu ra sản phẩm ra ngoài thị trường, đặc biệt trong giai đoạn

hiện nay khi nhà nước ta đang tuyên truyền sử dụng thực phẩm sạch, người

tiêu dùng nói không với thực phẩm bẩn thì đây là việc làm đảm bảo an toàn

tối đa không chỉ cho chủ trang trại mà cho cả thị trường tiêu dùng

Năm là, Nhà nước phải có biện pháp gắn trang trại với công nghiệp chế

biến và dịch vụ tại nông thôn. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên thu

nhập từ ngoài nông nghiệp của các gia đình nông dân đang ngày càng phổ

biến ở nhiều nơi. Việc hình thành và phát triển thị trường hàng hóa, công

nghiệp chế biến và dịch vụ cho KTTT là điều kiện hết sức quan trọng để thúc

đẩy trang trại phát triển có hiệu quả.

Sáu là, đề cao vai trò đặc biệt quan trọng của Nhà nước trong quá trình

hình thành, quản lý và đảm bảo phát triển KTTT. Vai trò của Nhà nước được

thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp

nông thôn; ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển KTTT…

Đặc biệt là những định hướng cụ thể và quy hoạch đồng bộ việc sử dụng đất

nông nghiệp vào sản xuất KTTT thành các vùng chuyên môn hóa tập trung.

Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp tích cực can thiệp gián tiếp vào

thị trường nông sản thông qua các đòn bẩy kinh tế để tạo sự cân bằng về cung

và cầu trên thị trường nhằm điều tiết thị trường nông sản ổn định, chống

30

khủng hoảng, đảm bảo mọi rủi ro cho nông dân.

Tóm tắt chương 1

QLNN đối với KTTT là sự quản lý vĩ mô mang tính chất thực hiện quyền

lực Nhà nước trong quản lý, thông qua công cụ kế hoạch, pháp luật và các

chính sách để tạo điều kiện tiền đề, môi trường cho KTTT phát triển, đồng

thời kiểm soát quá trình phát triển đó theo mục tiêu đã định. Những chức năng

chủ yếu QLNN đối với KTTT là: định hướng phát triển, điều chỉnh các mối

quan hệ, hỗ trợ giúp đỡ và bổ sung những vị trí cần thiết hoặc then chốt trong

quá trình phát triển KTTT.

Vai trò của QLNN đối với KTTT bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối

hợp các hoạt động lao động chung trên cơ sở xã hội hoá sản xuất và phát triển

KTTT hàng hoá trong nền kinh tế nông nghiệp. Nhà nước là cơ quan nhận

thức đúng các quy luật vận động phát triển, nắm vững và dự báo được các yếu

tố tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội trong nước và quốc tế để vạch ra các

chiến lược và kế hoạch phát triển thể chế hoá các chủ trương, đường lối phát

triển KTTT thành các quy chế, luật lệ để hướng dẫn và sử dụng các kích thích

kinh tế nhằm định hướng phát triển các vùng KTTT các thành phần kinh tế

các loại hình doanh nghiệp, hoạt động ở nông thôn v.v... phát triển đúng

hướng và có hiệu quả.

Như vậy, QLNN đối với KTTT là sự quản lý của nhà nước về mặt kinh tế

để các mô hình KTTT có thể phát triển theo mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra.

Để đạt được mục tiêu đó Nhà nước cần xây dựng một hệ thống luật pháp cùng

với các chính sách hợp lý, hoàn thiện. QLNN đối với KTTT có vai trò to lớn

trong việc xử lý các vụ lợi cá nhân nảy sinh trong quá trình phát triển; đảm bảo

môi trường thuận lợi và an ninh cho sự phát triển QLNN đối với KTTT nông

thôn, đảm bảo một số lĩnh vực hoạt động trong KTTT bằng thực lực kinh tế Nhà

nước để điều tiết, hướng dẫn, định hướng sự phát triển của KTTT theo cơ chế

31

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ

TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH BẮC GIANG

2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI

HUYỆN LỤC NAM

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên

2.1.1.1. Vị trí địa lý

Lục Nam là một huyện miền núi nằm ở phía đông bắc của tỉnh Bắc

Giang, cách trung tâm thành phố Bắc Giang 27km, được thành lập theo Nghị

định số 24/NĐ-TTg ngày 21/01/1957 của Thủ tướng Chính phủ, phía Bắc

giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây giáp huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn và

huyện Lạng Giang, phía Nam giáp thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương và thị xã Đông Triều tỉnh Quảng Ninh. Có diện tích 597 km2 , chiều dài từ Đông sang

Tây là 70km, chiều rộng từ Bắc tới Nam là 25km, trong đó diện tích đất nông

nghiệp khoảng 18.720 ha, đất lâm nghiệp 27 nghìn ha, còn lại là một số diện

tích đất khác. Toàn huyện có 25 xã và 2 thị trấn, với 334 thôn bản; hệ thống

giao thông khá thuận lợi có Quốc lộ 31, QL 37 và tỉnh lộ 293, tỉnh lộ 295

chạy qua, kết hợp với tuyến đường sắt Hà Nội- Quảng Ninh và tuyến đường

sông Lục Nam, đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán. Lục

Nam có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao thông lớn nối liền với các

tỉnh trong vùng. Huyện có thuận lợi trong giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các

vùng miền núi và đồng bằng, là thời cơ để huyện có những bước chuyển

mình, bứt phá, tạo nên diện mạo mới của một huyện đang phát triển.

Khí hậu và thời tiết. Khí hậu của huyện Lục Nam chịu ảnh hưởng của

khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 23,9Cº.

Điều kiện khí hậu của Lục Nam nhìn chung thuận lợi cho hệ sinh thái động

32

thực vật phát triển đa dạng nói chung, trong đó có sản xuất nông lâm nghiệp.

Độ ẩm và số giờ nắng trong năm phù hợp cho việc canh tác luân canh, tăng

vụ. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều, mưa lớn thường tập trung vào

các tháng 7 và tháng 8 gây ngập úng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của

nhân dân.

2.1.1.2. Về địa hình

Huyện Lục Nam có 3 dãy núi tạo thành 3 vòng cung từ Đông Bắc đến

Đông Nam. Phía Đông Bắc có dãy Bảo Đài gồm nhiều đồi núi thấp với đỉnh

cao nhất là 284m, phía Đông có vòng cung Yên Tử đỉnh cao nhất là 779m,

phía Đông Nam có dãy núi Huyền Đinh gồm nhiều triền núi hình lượn sóng

đỉnh cao nhất là 615m. Đặc điểm trên tạo cho huyện Lục Nam có địa hình

lòng chảo, nghiêng dần về phía Tây Nam và địa hình được phân thành 3 vùng

khác nhau rõ rệt: Vùng núi, vùng trung du và vùng chiêm trũng.

Tài nguyên đất của huyện Lục Nam rất phong phú, đa dạng, thích nghi với

nhiều loại cây trồng, chủ yếu các loại đất phù sa ít được bồi đắp. Địa hình có

độ dốc lớn nên đất bị sói mòn, rửa trôi bạc màu và nghèo dinh dưỡng, cần có

biện pháp cải tạo đất, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để nâng cao độ phì

nhiêu của đất và góp phần cải tạo môi trường

Tài nguyên nước

- Sông ngòi: Lục Nam nằm trên con sông lớn là sông Lục Nam chảy

dài từ huyện Sơn Động qua Lục Ngạn và đổ ra sông Thái Bình, nhờ vậy có rất

nhiều điều kiện phát triển kinh tế, thuận lợi cho giao thông đường thủy, trao

đổi hàng hóa, điểm khởi đầu vào huyện từ xã Trường Giang đến điểm ra cuối

là xã Đan Hội dài 38km, lòng sông và tương đối bằng phẳng, mức nước thấp

nhất vào mùa khô là 0,7m; biên động dao động giữa mùa lũ và mùa khô lớn,

trung bình trên dưới 7m.

- Hệ thống suối chảy qua các xã: Bảo Đài, Chu Điện, Lan Mẫu, Yên Sơn đổ

33

ra sông Lục Nam tại cống Chản, cống Mân xã Yên Sơn Toàn huyện có 90 hồ

đập lớn nhỏ với 211 km kênh mương các cấp và 31 trạm bơm các loại phục

vụ tưới tiêu cho 4430 ha đất canh tác. Nhìn chung nước mặt chủ yếu sử dụng

cho sản xuất nông nghiệp(đạt 50% diện tích đất canh tác. Lục Nam còn có

thắng cảnh Suối Mỡ: là công trình mang tính chiến lược có ý nghĩa rất lớn đối

với sự phát triển du lịch sinh thái, đồng thời đảm bảo cung cấp nguồn nước

phục vụ nông nghiệp cho nông dân.

Ngoài ra, các hồ chứa nước lớn của huyện như hồ Suối Nứa, hồ Suối

Mỡ và hồ Cây Đa là những nơi luôn đảm bảo cung cấp nước tưới thường

xuyên cho hoạt động nông nghiệp đặc biệt là lúc nước và hoa màu trên địa

bàn toàn huyện.

Tài nguyên rừng: Theo số liệu điều tra đến tháng 6 năm 2006 toàn

huyện có 26.323 ha đất lâm nghiệp. 96,47% đất nông nghiệp đã được giao và

có chủ sử dụng kết hợp vườn rừng, trang trại đồi rừng, nông lâm kết hợp. Số

diện tích này hiện đang được địa phương bảo vệ, chăm sóc tốt.

2.1.2. Về kinh tế

Là huyện miền núi có địa hình đa dạng gồm vùng núi cao, đồi núi thấp

và chiêm trũng nên trong Chương trình phát triển KTTT, Lục Nam chú trọng

phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản, cây ăn quả, rau màu thực phẩm...

phù hợp với điều kiện từng địa phương. Ít có địa phương nào của tỉnh có nhiều

loại nông sản chất lượng cao gắn liền địa danh Lục Nam như: na Huyền Sơn,

dứa Bảo Sơn, củ đậu, dưa hấu, hồng Chu Điện, nhãn lồng Đan Hội...

- Kinh tế của huyện chủ yếu là trồng lúa nước và hoa mầu. Ngoài ra

còn phát triển cây ăn quả như: Vải thiều, cam, bưởi…

- Trong các năm qua, nền kinh tế của huyện Lục Nam có những

chuyển biến rõ rệt, cơ cấu nền kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực với

mức tăng trưởng khá, sản xuất nông-lâm nghiệp, thuỷ sản ngày một ổn định

34

và sản xuất theo hướng hàng hoá.

2.1.3. Về xã hội

Huyện Lục Nam có 27 đơn vị hành chính: 25 xã và 2 thị trấn; có 23 xã

thuộc vùng khó khăn (trong đó 5 xã đặc biệt khó khăn). Diện tích tự nhiên

59.678 ha, trong đó đất nông nghiệp 46.624 ha. Tổng số hộ dân toàn huyện

trên 48.300 hộ với trên 210.000 nhân khẩu; gồm 13 dân tộc anh em cùng sinh

sống, bao gồm: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Cao Lan,

Mường… trong đó người dân tộc thiểu số chiếm gần 13% chủ yếu là dân tộc

Tày, Nùng trong đó số hộ nghèo là 18.869 hộ chiếm tỷ lệ 39,1% tổng số hộ

toàn huyện.

Ngoài ra huyện còn có các di tích văn hoá, lịch sử rất phong phú về thể

loại: đình, chùa, miếu, nghè, lăng tẩm, văn bia, với 79 di tích. Trong đó đã

được Bộ văn hoá thông tin và truyền thông xếp hạng 10 di tích như: Khu Suối

Mỡ, Đình Sàn, Chùa Thượng Lâm…Về tín ngưỡng, ngoài phật giáo còn có

đạo Thiên chúa giáo với một giáo sứ Đại Lãm với 3 nhà thờ: Thanh Giã, Đại

Lãm và Già Khê. Nhìn chung các công trình văn hoá phong phú về số lượng,

dáng vẻ đa dạng nhưng quy mô còn nhỏ phần lớn đã xuống cấp do thời gian

và chưa được quan tâm tu bổ thường xuyên

Nhận xét: Lục Nam là huyện có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao

thông lớn giữa các tỉnh trong vùng, có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế,

văn hóa giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển

mọi mặt, tuy nhiên còn có nhiều khó khăn cơ bản mà huyện đang từng bước

khắc phục đó là:

- Là một huyện miền núi Trung du phía bắc cho nên địa hình chủ yếu là trung

du và núi non hiểm trở, do vậy rất khó khăn cho vấn đề giao thông, xây dựng

cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, hệ thống điện đường trường trạm còn nhiều

35

hạn chế, nên việc tiếp cận thông tin của người dân vẫn còn nhiều hạn chế …

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN LỤC NAM

2.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

2.2.1.1. Về giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp

Theo số liệu thống kê 2015 của Chi cục thống kê huyện Lục Nam, giá trị

sản xuất bình quân đất nông nghiệp trong những năm qua liên tục tăng

trưởng, tuy nhiên tốc độ tăng còn tương đối chậm so với sự phát triển chung

về mặt kinh tế.

Biểu đồ 2.1. Giá trị sản xuất bình quân đất nông nghiệp trên địa bàn

huyện Lục Nam giai đoạn 2011-2015

(Đơn vị tính: triệu đồng)

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)

Qua biểu đồ trên ta có thể thấy số liệu từ giá trị sản xuất bình quân đất

nông nghiệp phân bố không đồng đều, chủ yếu là trên lĩnh vực trồng trọt, luôn

chiếm hơn 60% giá trị sản xuất nông nghiệp. Ngược lại, lâm nghiệp lại chiếm

tỉ trọng rất thấp, chỉ từ 2-4% trong năm, cơ cấu sản giá trị xuất bình quân đất

36

nông nghiệp trên lĩnh vực trồng trọt qua từ 2012-2014 đều có sự tăng lên

nhưng không đáng kể. Tuy nhiên đến năm 2015 thì cơ cấu sản xuất bình quân

đất nông nghiệp lại giảm đi 1.2% so với năm 2014. Theo đó, giá trị sản xuất

bình quân đất nông nghiệp trong những năm qua liên tục tăng trưởng trong đó

chủ yếu là đất trồng trọt, năm 2011 giá trị sản xuất đất nông nghiệp từ trồng

trọt là 2.257.356 triệu đồng đạt 66.6% trong cơ cấu giá trị bình quân sản xuất

đất nông nghiệp. Chăn nuôi đạt 1.503.174 triệu đồng chiếm tỷ lệ 30% trong

tổng cơ cấu giá trị bình quân sản xuất đất nông nghiệp. Giá trị sản xuất bình

quân đất lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm khoảng 2.5% trong tổng số cơ cấu giá

trị bình quân sản xuất đất nông nghiệp. Tính đến năm 2015 giá trị sản xuất bình

quân đất trồng trọt tăng lên 3.290.017 triệu đồng. Tăng 0.6% so với năm 2011.

Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ huyện Lục Nam khoá XX, nhiệm kỳ 2010 – 2015, sản

xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Toàn huyện có hơn 100 hộ được cấp giấy

chứng nhận đạt tiêu chuẩn KTTT theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT

của Bộ NN&PTNT hầu hết các trang trại đều tích cực chuyển đổi cơ cấu cây

trồng vật nuôi, sản xuất với quy mô lớn, có hiệu quả

2.2.1.2. Về số lượng, cơ cấu số lượng trang trại trên địa bàn huyện

Năm 2010, số lượng trang trại trên địa bàn toàn huyện là 596 trang trại,

trong đó trang trại trồng trọt là 237 trang trại, trang trại chăn nuôi là 298 trang

trại, trang trại lâm nghiệp là 9 trang trại và trang trại tổng hợp là 15 trang trại.

Theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNN thì đến năm

2015 số lượng trang trại đạt tiêu chuẩn KTTT trên địa bàn huyện giảm đáng

kể. Tính đến hết tháng 10 năm 2015 toàn huyện Lục Nam có 540 trang trại.

Trong đó chỉ có 89 trang trại đạt tiêu chí và được cấp giấy chứng nhận KTTT

và chủ yếu là các trang trại chăn nuôi, Đến tháng 9 năm 2017 số lượng trang

trại trên địa bàn huyện có tăng thêm được 13 trang trại đạt tiêu chuẩn cụ thể

37

như sau:

Bảng 2.1 So sánh số lượng và loại hình trang trại năm 2010-2016

Loại hình trang trại 2010 2015 2016 So sánh 2016-2010

Trồng trọt 273 06 12 -261

Chăn nuôi 298 73 74 -224

Lâm nghiệp 09 06 07 -2

Tổng hợp 15 03 08 -7

Thủy sản 01 01 01 0

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)

Tổng cộng 596 89 102

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu trang trại năm 2015

(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Lục Nam 2015)

(Đơn vị tính: %)

Qua biểu đồ trên ta có thể thấy, cơ cấu trang trại trên địa bàn huyện

Lục Nam phân theo lĩnh vực không đồng đều, các trang trại chăn nuôi chiếm

tỉ lệ rất lớn trong tổng cơ cấu trang trại (83.9%). Các loại hình trang trại trồng

trọt, lâm nghiệp, tổng hợp và thủy sản chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong cơ cấu

38

trang trại trên địa bàn huyện.

Quy mô cho các trang trại trồng trọt tuy còn rất ít nhưng giá trị kinh tế

cao. Theo đó các trang trại trồng trọt luôn chiếm trên 60% giá trị hàng hóa

KTTT. Trong khi các trang trại lâm nghiệp chiếm diện tích rất lớn nhưng giá

trị kinh tế chỉ chiếm từ 2.5% đến 4.2% trong cơ cấu giá trị hàng hóa kinh tế

nông nghiệp.

2.2.2. Doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Từ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ

thuật vào quá trình sản xuất, KTTT ngày càng phát triển và mang lại nguồn

thu lớn cho nông dân. Năm 2015, trên địa bàn huyện Lục Nam có 71 trang

trại lợi nhuận thu từ 300 triệu đồng/năm trở lên và 74 hộ gia đình có mô hình

sản xuất tiêu biểu lợi nhuận thu từ 200 triệu đồng/năm trở lên…

Đặc biệt các trang trại lớn hiện nay có doanh thu hàng năm đạt hàng tỷ

đồng, điển hình như mô hình trang trại chăn nuôi vịt trời ở thôn Trại Mít, xã

Đông Hưng đạt doanh thu 3.6 tỷ đồng/ năm; mô hình trang trại lâm nghiệp

(keo và bạch đàn) của gia đình bà Hường ở thôn Cai Vàng - xã Đông Hưng

với diện tích 185 ha cho doanh thu ước tính đạt 1.3 tỷ đồng/ năm.

Bảng 2.2: Chi tiết doanh thu từ các trang trại trên địa bàn huyện Lục

(Đơn vị tính: triệu đồng)

Nam năm 2015

Tổng số Tổng Bình quân Cơ cấu

trang trại doanh thu doanh thu doanh

thu

Trang trại trồng trọt 1.734.366 289.061 1.13% 6

Trang trại chăn nuôi 145.109.060 1.987.795 94.44% 73

Trang trại Lâm nghiệp 6 6.315.966 1.002.661 4.11%

Trang trại thủy sản 494.871 164.957 0.11% 3

(Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu Chi cục thống kê Lục Nam 2015)

39

Trang trại tổng hợp 325.946 325.946 0.21% 1

Chăn nuôi là thế mạnh trong SXNN của huyện Lục Nam. Với 73 trang

trại đạt tiêu chuẩn KTTT theo thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ

NN&PTNT về KTTT. Do vậy cơ cấu doanh thu từ các trang trại chủ yếu là

các trang trại chăn nuôi, đạt 94.44% trong tổng số cơ cấu doanh thu. Trong

khi đó, các trang trại thủy sản, trang trại trồng trọt và tổng hợp doanh thu chỉ

đạt từ hơn 100 triệu đến hơn 300 triệu đồng/năm, chiếm tỉ lệ rất nhỏ chỉ từ

0.11% đến 1.13% trong cơ cấu doanh thu từ trang trại. Trang trại lâm nghiệp

chỉ có 6 trang trại, tuy nhiên lại đạt mức doanh thu rất lớn và ổn định, chiếm

4.11% trong cơ cấu doanh thu của trang trại.

2.2.3. Về thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Thu nhập của trang trại là phần còn lại sau khi lấy tổng doanh thu trừ

đi tổng chi phí sản xuất bao gồm chi phí vật chất đầu tư đầu vào, chi phí lao

động thuê ngoài và chi phí phát sinh hao hụt khác. Thu nhập KTTT là tiêu chí

phản ánh rõ nhất kết quả sản xuất và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các

trang trại

(Đơn vị tính: triệu đồng)

Bảng 2.3 : Thu nhập của các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

2012

2015

Loại hình trang trại

Tổng

Tổng thu

TNBQ/

Tổng

Tổng thu

TNBQ/

nhập

trang trại

số

nhập

trang trại

số

trang

trang

trại

trại

02

Trang trại trồng trọt

213.142

106.571

1.294.338

215.723

06

55

Trang trại chăn nuôi

46.352.762 842.777

91.005.596 1.246.652

73

Trang trại Lâm nghiệp 04

2.348.660

587.165

5.528.520

921.420

06

0

Trang trại thủy sản

0

0

129.427

129.427

01

0

Trang trại tổng hợp

0

0

298.862

298.862

01

(Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu thống kê , Chi cục thống kê Lục Nam 2015)

40

Qua bảng trên ta thấy, các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã và

đang có mức thu nhập tương đối cao so với mức sống trung bình của người

dân. Trung bình mỗi trang trại đạt từ 300 triệu đồng/ năm trở lên. Do đặc thù

về địa hình và khí hậu thuận lợi cho phát triển chăn nuôi nên các trang trại

chăn nuôi thường đạt mức thu nhập cao, đạt từ 900 triệu cho đến hơn tỉ

đồng/trang trại/năm. Trong khi đó, các trang trại thủy sản, trồng trọt và các

trang trại tổng hợp có doanh thu chỉ từ 150 triệu đồng/trang trại/năm. Đối

chiếu với bảng 2.1 ở trên ta có thể thấy, các trang trại phải đầu tư vốn từ vài

chục cho đến vài trăm triệu đồng. Như vậy, đối với những trang trại mới việc

huy động nguồn vốn là tương đối khó khăn. Nhà nước cần có các chính sách

hỗ trợ, ưu đãi về vốn cũng như về giống cho chủ trang trại.

2.2.4. Về giải quyết việc làm cho người lao động

Cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế là không đồng đều . Lao

động tập trung chủ yếu thuộc lĩnh vực nông-lâm nghiệp chiếm 95,62% so với

tổng số lao động. Các ngành khác lao động không nhiều

Bảng 2.4: Phân bố lao động tham gia sản xuất kinh tế trang trại trên địa

(Đơn vị tính: Người)

bàn huyện Lục Nam theo lĩnh vực sản xuất

Phân bổ lao động 2012 2013 2014 2015

Trang trại trồng trọt 96 106 130 144

Trang trại chăn nuôi 516 572 642 738

Trang trại lâm nghiệp 96 96 134 144

Trang trại tổng hợp 0 0 9 9

Trang trại thủy sản 0 0 7 7

(Nguồn: Chi cục thống kê Lục Nam 2015, báo cáo thống kê Phòng Nội vụ huyện Lục Nam)

41

Tổng số 708 774 922 1042

Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy số lượng lao động phổ thông

tham gia vào hoạt động sản xuất kinh tế trang trại còn rất nhỏ so với tổng số

lực lượng lao động hiện có trên địa bàn huyện. Các lao động tham gia vào sản

xuất KTTT chủ yếu là lao động trong gia đình.

Các trang trại hình thành chủ yếu từ hộ gia đình nông dân, do vậy lao

động trong gia đình chiếm tỷ lệ khá cao, đồng thời thu hút một lượng lao

động nhàn rỗi tại địa phương. Sự hình thành và phát triển nhanh về số lượng

và chất lượng các trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã góp phần giải

quyết vấn đề việc làm cho hàng ngàn lao động phổ thông trên địa bàn huyện

Lục Nam. Qua đó, góp phần tích cực vào việc giảm tải vấn nạn người lao

động bỏ làng đi làm kinh tế ở các khu công nghiệp, tình trạng thanh thiếu niên

đi xuất khẩu lao động hoặc vượt biên trái phép sang Trung Quốc.

2.2.5. Trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tại các trang trại

Hiện nay, việc đầu tư công nghệ khoa học cho các trang trại ở huyện

Lục Nam còn ở trình độ thấp. Các chủ trang trại chủ yếu sử dụng những trang

thiết bị thô sơ, lạc hậu so với sự tiến bộ của khoa học hiện đại. Thực tế từ các

trang trại trồng trọt hiện nay cho thấy, các trang trại chưa có hệ thống tưới

tiêu hiện đại, đặc biệt với các trang trại trồng trọt lớn, chỉ có 2 trên tổng số

hơn 70 trang trại áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt cho trang trại, số còn lại

đều tiến hành chăm sóc thủ công. Ngoài ra, ở hầu hết các trang trại cũng chưa

đầu tư hệ thống bảo quản nông sản thích hợp. Ở Hàn Quốc và một số địa

phương khác các chủ trang trại thường rất chú trọng đến việc xây dựng nhà

bảo quản nông sản, nhất là đối với những nông sản cần đảm bảo nhiệt độ, độ

ẩm... được thiết kế lắp đặt một cách công phu. Tuy nhiên, các trang trại trên địa

bàn huyện Lục Nam đều chưa thể tiếp cận những thành tự khoa học đó vì chi phí

lắp đặt thi công cao, đòi hỏi những yêu cầu cao về trình độ kỹ thuật và địa hình

42

phức tạp

2.2.6. Trình độ tổ chức quản lý

Trình độ quản lý của chủ trang trại và tay nghề của người lao động còn

nhiều hạn chế, đại bộ phận chủ trang trại chưa qua đào tạo nên lúng túng

trước cơ chế thị trường, lao động làm việc trong các trang trại chủ yếu là lao

động phổ thông chưa qua đào tạo tay nghề nên năng suất, chất lượng lao động

thấp. Vấn đề này cũng đặt ra những đòi hỏi cấp bách về nhu cầu đào tạo, tập

huấn bồi dưỡng kiến thức về kinh doanh, quản trị kinh doanh, về thị trường và

kinh tế thị trường cho các chủ trang trại.

Hầu hết các chủ trang trại hiện nay tự quản lý trực tiếp trang trại của

mình và đa số các chủ trang trại đều chưa được học qua các lớp đào tạo về

quản lý cũng như chuyên môn. Đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ

nông nghiệp khi bước sang làm KTTT còn nhiều bỡ ngỡ, nhiều trường hợp

còn chưa quen với sản xuất kinh doanh hiện đại. Do đó họ chỉ làm theo kinh

nghiệm sẵn có, rất ít chủ trang trại áp dụng hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ

thuật. Cho nên năng suất và chất lượng sản phẩm không cao, mẫu mã chưa

phong phú, sức cạnh tranh với các sản phẩm bên ngoài còn yếu.

2.2.7. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm

Tuy đã có những ứng dụng kịp thời về khoa học kỹ thuật trong sản xuất, áp

dụng các phương thức sản xuất tiến bộ nhưng thực tế cho thấy chất lượng và

sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa chưa cao, sản phẩm tiêu thụ chủ yếu

dưới dạng thô hoặc tươi sống, chưa qua chế biến nên giá bán thấp, sức cạnh

tranh yếu giá cả và thị trường tiêu thụ còn bấp bênh, thiếu ổn định trong khi

nhận thức và hiểu biết về thị trường và kinh tế thị trường của các chủ trang

trại còn nhiều hạn chế, nhiều chủ trang trại chưa nắm bắt được nhu cầu thị

trường nên sản xuất thụ động, thường chỉ dựa vào kinh nghiệm trong các

quyết định về đầu tư và kinh doanh nên thường gặp rủi ro, bất lợi. Chưa tạo ra

43

được những sản phẩm có thương hiệu để đứng vững trên thị trường.

Mặc dù giá trị sản xuất hàng hóa bình quân một trang trại tương đối lớn (trung bình

02tỷ đồng/trang trại) nhưng số có thu nhập cao chỉ tập trung ở một số loại hình

trang trại chăn nuôi, thủy sản còn các loại hình trang trại trồng trọt, lâm nghiệp.

2.2.8. Giải quyết vấn đề an toàn môi trường

Nhiều chủ trang trại vì mục tiêu lợi nhuận đã không chú ý đến việc bảo

vệ môi trường, xả chất thải, nước thải ra các cống rãnh. Các loại chất thải xuất

hiện ngày càng nhiều tại các vùng nông thôn trong khi khả năng đầu tư cho

xử lý, giảm thiều ô nhiễm rất hạn chế. Việc sử dụng hóa chất chăm sóc, bảo

quản nông sản là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng. Ngày càng có nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật kích thích tăng

trưởng được sử dụng tại các trang trại. Hóa chất được sử dụng nhiều nhưng

các biện pháp làm sạch môi trường trang trại, diệt trừ mầm bệnh trước khi

bước vào vụ sản xuất mới lại ít được các chủ trang trại quan tâm, do vậy

lượng hóa chất bảo vệ thực vật còn đọng lại trong đất khá lớn gây ô nhiễm

nguồn đất và ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm trọng.

Hiện nay, phần lớn các chất thải sinh hoạt không được phân loại, vứt

bừa bãi ra môi trường. Lượng rác tồn đọng tại các kênh, mương khá lớn và

phổ biến, dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới cộng

đồng dân cư, gia tăng gánh nặng bệnh tật. Do đó, bảo vệ môi trường cần được

gắn với trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân và mọi người dân. Hiện việc xử

phạt hành chính đối với các chủ trang trại chưa đủ mạnh, phổ biến ở mức 5-7

triệu đồng, cao nhất là 28 triệu đồng nên chưa đủ sức răn đe. Việc xử phạt

chưa gắn với thanh tra kiểm tra sau xử lý nên chưa thực sự đạt hiệu quả. Để

phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần phải giải quyết hàng loạt

mâu thuẫn giữa lợi ích trước mắt, lâu dài và đặt trong tổng thể, gắn kết hài

44

hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường.

2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ

TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM

2.3.1. Công tác quy hoạch, kế hoạch trong quản lý nhà nước đối với phát

triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Theo quyết định số 751/QĐ-UBND ngày 15/5/2009 về quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Lục Nam giai đoạn 2008-2020 của chủ tịch

UBND tỉnh Bắc Giang, với mục tiêu giảm dần tỉ trọng nông lâm ngư nghiệp

trong cơ cấu kinh tế nhưng tăng về giá trị sản xuất từ 6% giai đoạn 2008-2010

lên 6,3% vào giai đoạn 2011-2015 và 6,5% giai đoạn 2016-2020. Đưa giá trị

sản xuất bình quân/ha đất nông nghiệp đạt 35 triệu đồng vào năm 2010 và

trên 50 triệu đồng vào năm 2020, tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi khoảng 45%

giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, Về thủy sản phấn đấu đến năm 2020 khai

thác 90% diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản, tổ chức nuôi trồng theo

hướng thâm canh và bán thâm canh. Phấn đấu nâng tổng sản lượng lên 20

ngàn tấn vào năm 2020, đưa tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản lên 10% so với

giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản. Theo đó, địa phương đã thực hiện

quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5

năm kỳ đầu giai đoạn 2011-2015, được UBND tỉnh phê duyệt năm 2013.

Hiện nay, huyện đang lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai

đoạn 2016-2020, trình HĐND huyện quyết định trước khi trình UBND huyện

phê duyệt. Huyện thường xuyên cùng Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về công tác quản lý nhà nước về giao, cho

thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của UBND huyện

Lục Nam. Cho đến nay công tác quy hoạch sử dụng đất, định hướng các vùng

sản xuất và định hướng các loại vật nuôi, cây trồng giai đoạn 2011-2020 đã

45

được UBND huyện Lục Nam phê duyệt

Việc xây dựng quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trên cơ sở tổng hợp

các quy hoạch ngành, có ý kiến tham gia của người dân. Chú trọng đến việc

quy hoạch sử dụng đất chính xác, khoa học được thực hiện theo Luật đất đai

2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các trình tự, căn cứ pháp lý để lập,

điều chỉnh quy hoạch kế hoạch sử dụng đất; chất lượng thẩm định quy hoạch

và đánh giá kết quả thực hiện , tính phù hợp giữa quy hoạch sử dụng đất nông

nghiệp với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đều được thông qua ý kiến

tham gia của người dân, quá trình thực hiện luôn được báo cáo và giám sát

chặt chẽ.

Hằng năm, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tổ chức rà soát, lập

danh mục các dự án sử dụng đất, phát triển KT-XH trình HĐND huyện phê

duyệt, kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về đất đai, tăng cường thanh

tra, kiểm tra, tuyên truyền hướng dẫn cơ sở thực hiện tốt các quy hoạch, có kế

hoạch tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ địa chính cấp

xã.

Việc chấp hành pháp luật trong thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng

đất được UBND huyện quan tâm thực hiện. Tất cả các chỉ tiêu quan trọng như

đất lúa, đất rừng đặc dụng đều được giữ vững. Việc giao đất, cho thuê đất, cấp

giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đều được thực hiện đúng quy trình. Ngoài

ra, huyện đã tổ chức công khai bản đồ sử dụng đất để người dân và doanh

nghiệp nắm được.

2.3.2. Thực thi pháp luật có liên quan

Việc cấp giấy chứng nhận KTTT trên địa bàn huyện Lục Nam đến

tháng 12 năm 2015 chỉ có 27 trang trại trong tổng số trang trại được cấp giấy

chứng nhận KTTT và chủ yếu là các trang trại chăn nuôi. Để tạo điều kiện

cho các trang trại được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước và làm cơ

46

sở cho công tác kiểm tra, kiểm soát trong QLNN, chính quyền địa phương đã

ban hành các quy định hướng dẫn, thủ tục, điều kiện cấp và thu hồi giấy

chứng nhận KTTT cho các cá nhân và hộ gia đình theo thông tư số

27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ NN&PTNT. Ngoài ra cũng đã ban hành một

số văn bản góp phần không nhỏ thúc đẩy sự phát triển KTTT trên địa bàn

huyện thông qua đó tạo điều kiện cho cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, huyện, xã,

thị trấn và các chủ trang trại trên địa bàn cập nhật được các văn bản, chính

sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển KTTT.

Đối với các trang trại chăn nuôi, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, địa

điểm trang trại thường nằm cùng trên đất ở của các hộ vì vậy đã được cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đảm bảo cho các chủ trang trại yên tâm

sản xuất.

Huyện đã xây dựng kế hoạch, đề án, có cơ chế thích hợp thực hiện

chính sách dồn điền đổi thửa, chuyển ruộng trũng cấy lúa không ăn chắc sang

nuôi trồng thủy sản, thực hiện lồng ghép các chương trình khuyến nông,

khuyến lâm để hỗ trợ cây, con giống, vật tư, hỗ trợ mua máy móc phục vụ sản

xuất nông nghiệp từ nguồn ngân sách huyện và chương trình mục tiêu quốc

gia, chương trình giảm nghèo 134, 135, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, mở

các lớp tập huấn, hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật đến các hộ nông dân,

qua đó góp phần quan trọng thúc đẩy và tạo điều kiện cho KTTT phát triển.

2.3.3. Ban hành và thực thi chính sách có liên quan

Để nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất, nhà nước đã

có nhiều chính sách để khuyến khích phát triển những mô hình KTTT phù

hợp gắn với đặc điểm của từng vùng, miền có hiệu quả và bền vững thì nhất

định phải có sự khuyến khích, hỗ trợ từ phía Nhà nước với tư cách nhà quản

lý, nhà cung cấp dịch vụ thông qua các chủ trương chính sách cụ thể trên từng

lĩnh vực, và những chính sách khuyến khích, hỗ trợ này có ý nghĩa rất quan

47

trọng góp phần quyết định đến sự phát triển của KTTT. Cụ thể như sau:

2.3.3.1. Chính sách đất đai

Đất đai là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất

nông, lâm, thủy sản của KTTT. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ quyền

sở hữu, quyền sử dụng đất hợp pháp, hợp lòng dân được coi là yếu tố cơ bản

và tích cực để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn nói chung và là cơ sở

để tạo bước chuyển mình cho KTTT phát triển.

Thực thi chính sách, pháp luật về đất đai của Trung ương, và quy

hoạch kế hoạch của UBND tỉnh Bắc Giang, UBND huyện Lục Nam đã tiến

hành lập quy hoạch sử dụng đất, ban hành các quy chế về trình tự, điều kiện, thủ

tục giao đất, cấp đất, cho thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho các nhân, tổ chức và hộ gia đình, giúp họ yên

tâm đầu tư sản xuất kinh doanh trên diện tích đất để phát triển KTTT.

Đến nay, tất cả các địa phương trên địa bàn huyện Lục Nam đều đã

hoàn thành xét duyệt quy hoạch sử dụng đất. Công tác cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho hộ gia đình và các chủ trang trại đều được các cấp

chính quyền quan tâm giải quyết thủ tục hành chính trong quá trình cấp đất,

giao đất và cho thuê đất bước đầu đã được đơn giản hóa, thúc đẩy sự phát

triển có hiệu quả của KTTT.

- Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản

sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất

thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được

UBND xã xét cho thuê đất để phát triền trang trại.

- Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử

dụng đất vượt quá hạn mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để

phát triển trang trại thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang phần diện tích

đất vượt hạn mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy

48

chứng nhận quyền sử dụng đất.

2.3.3.2. Chính sách tín dụng, huy động vốn đầu tư hỗ trợ phát triển kinh

tế trang trại

Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ được Đảng, Nhà nước đặc

biệt quan tâm đến phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với một nước nông

nghiệp truyền thống như nước ta. Trên cơ sở chính sách ưu đãi về tài chính tín

dụng đối với KTTT do Chính phủ và các Bộ, ngành ở Trung ương ban hành,

UBND tỉnh Bắc Giang đã tiến hành cụ thể hóa chính sách tín dụng của Trung

ương và một số ưu đãi riêng xuất phát từ những đặc thù về kinh tế-xã hội của

địa phương, nhằm khuyến khích các hộ gia đình và cá nhân đầu tư sản xuất

kinh doanh những lĩnh vực, địa bàn còn khó khăn của địa phương.

Thực hiện chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn của

Chính phủ, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Agribank Bắc

Giang luôn có những chính sách ưu đãi với nông dân trong phát triển kinh tế

với mạng lưới giao dịch rộng khắp toàn tỉnh. Xác định rõ tiềm năng thế mạnh

của địa bàn huyện Lục Nam, ngân hàng Agribank chi nhánh Lục Nam đã chú

trọng cho vay vốn với nhiều hình thức để đảm bảo cho các chủ trang trại có

nguồn vốn như cho vay chăn nuôi phát triển trang trại, cho vay chăm sóc chế

biến tiêu thụ nông sản ở các xã. Để tạo thuận lợi cho người vay vốn, ngân

hàng luôn quan tâm cải cách thủ tục cho vay, mở nhiều định hướng và chế độ

hỗ trợ cho vay hướng dẫn chi tiết cho khách hàng, nhất là khách hàng ở vùng

sâu vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, tích cực khảo sát nhu cầu vay,

chủ động tiếp cận với người dân ở vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm.

Như vậy, có thể nói nhờ chính sách ưu đãi, khuyến khích của Trung ương

và hỗ trợ của địa phương trong lĩnh vực tài chính và tín dụng đã tạo nên nhiều

điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại trong việc huy động vốn để đầu tư,

mở rộng quy mô để sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị máy

móc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.

49

2.3.3.3. Chính sách khuyến nông

Đổi mới cơ cấu KTTT là một chính sách lớn của Đảng ta. Mục tiêu của

chính sách là biến nền kinh tế chủ yếu là KTTT của nước ta thành nền kinh tế

có cơ cấu hướng ngoại, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nông thôn

trong khi số lượng tuyệt đối của sản xuất KTTT vẫn cứ tăng lên. Chính sách

đổi mới cơ cấu kinh tế KTTT, nông thôn thể hiện tập trung ở Nghị quyết

Trung ương lần 5 (khoá VII) với những nội dung chủ yếu sau đây:

- Phổ biến tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ chế biến bảo

quản, phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến.

- Bồi dưỡng, phát triển kỹ năng, kiến thức về kinh tế và kỹ thuật cho nông dân.

- Tổ chức khuyến khích các phong trào sản xuất ở nông thôn.

- Phát triển nhanh, vững chắc và có hiệu quả các ngành công nghiệp dịch

vụ ở nông thôn trên cơ cở đó tăng nhanh tỷ trọng các ngành này trong cơ cấu

kinh tế nông - công - dịch vụ ở mỗi vùng và mỗi địa phương. Chú trọng

những ngành công nghiệp dịch vụ phục vụ KTTT.

- Tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế KTTT, đa

dạng hoá sản phẩm chăn nuôi và chú trọng chăn nuôi xuất khẩu.

- Phát triển mạnh ngành thuỷ sản trên tất cả các mặt nuôi trồng đánh bắt,

chế biến để khai thác có hiệu quả tiềm năng mặt nước và biển của nước ta.

- Phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng bảo vệ rừng hiện có, chăm sóc

và tái sinh vốn rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, kết hợp hợp lý giữa khai

thác với chế biến lâm sản.

Việc ban hành những chính sách này đã làm cho các mô hình KTTT ở

nước ta tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Sự

phát triển của KTTT đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông

thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm nông sản hàng hoá. Nhiều

50

trang trại đã sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật, tiêu thụ

sản xuất cho nông dân trên địa bàn huyện, tạo nguồn cung ổn định cho các cơ

sở chế biến, tạo thêm nhiều sản phẩm chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu.

2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đối với kinh tế

trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và

giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý vi phạm

pháp luật về nông, lâm nghiệp, thủy sản và phát triển nông thôn trong phạm vi

quản lý theo quy định của pháp luật. Tham mưu UBND tỉnh hướng dẫn và

kiểm tra hoạt động của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ, các tổ chức kinh tế tập

thể, kinh tế tư nhân về thủy sản, QLNN đối với các hoạt động của Hội, tổ

chức phi chính phủ.

Kiểm tra giám sát có vai trò hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy sự

phát triển của KTTT. Trong những năm qua công tác kiểm tra giám sát đối

với các loại hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam đã được các

Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tích cực thực hiện một cách chặt chẽ:

- Cấp chứng nhận đăng ký sản xuất kinh doanh đối với KTTT. Kiểm

tra giám sát việc thực hiện cho vay tín dụng của ngân hàng và việc sử dụng

vốn vay của chủ trang trại hàng năm. Từ đó chỉ ra được những sai phạm, bất

cập trong QLNN đối với KTTT

- Thường xuyên thanh tra kiểm tra về vệ sinh an toàn trong sản xuất,

an toàn môi trường. Tiến hành kiểm tra, xử lý các hộ gia đình, chủ trang trại

không thiết lập hệ thống xử lý nước thải gây ô nhiễm môi trường.

- Đảm bảo các chủ trang trại được hưởng các chế độ ưu đãi theo đúng

chính sách của pháp luật trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời xử lý

nghiêm minh những cán bộ công chức có hành vi cố ý làm trái pháp luật,

51

chính sách của Nhà nước nhằm trục lợi cá nhân trong công tác QLNN.

2.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền cấp huyện đối

với quản lý nhà nước về kinh tế trang trại

Tại điều 1. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 30/09/2015 của

UBND huyện Lục Nam, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí

chức năng như sau:

Phòng NN&PTNT huyện Lục Nam là cơ quan chuyên môn thuộc

UBND huyện; tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng QLNN về :

KTTT; lâm nghiệp; thủy lợi; thủy sản; phát triển nông thôn; phòng, chống

thiên tai; chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thủy sản;

phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hộ; KTTT nông thôn; kinh tế hợp tác

xã nông, lâm, ngư gắn với ngành nghề, làng nghề nông thôn, nước sạch nông

thôn và thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND

huyện và theo quy định của pháp luật;

Phòng NN&PTNT huyện có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản

riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý của UBND huyện theo quy định pháp luật;

đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của

Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang

Tại điều 2. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND ngày 30/09/2015 của

UBND huyện Lục Nam, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí

nhiệm vụ và quyền hạn như sau

Trình UBND huyện ban hành quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch

dài hạn , 05 năm và hàng năm; chương trình khuyến khích phát triển nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, phát triển nông thôn, phòng chống

thiên tai; chất lượng an toàn thực phẩm để UBND huyện trình HĐND huyện

thông qua; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách

52

hành chính thuộc lĩnh vực QLNN được giao.

Trình chủ tịch UBND huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực chuyên

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc thẩm quyền của chủ tịch

UBND huyện.

Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế

hoạch, các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên ngành được phê duyệt;

thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi lĩnh

vực quản lý được giao; theo dõi thi hành pháp luật.

Tổ chức thực hiện công tác phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy

sản; công tác phòng chống thiên tai, sâu bệnh, dịch bệnh trên địa bàn huyện

Tổ chức bảo vệ đê điều, các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ; công trình

nuôi trồng thuỷ sản; công trình cấp, thoát nước nông thôn; công trình phòng,

chống lũ, lụt, bão; quản lý mạng lưới thuỷ nông trên địa bàn theo quy định

của pháp luật.

Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với UBND cấp xã trong việc

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi

và phát triển nông thôn; về thực hiện các biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, phát triển nông nghiệp, thuỷ sản, chế biến nông sản và thuỷ sản; phát triển

ngành, nghề, làng nghề nông thôn.

Đầu mối phối hợp tổ chức và hướng dẫn thực hiện nội dung liên quan

đến phát triển nông thôn; tổng hợp tình hình, báo cáo UBND huyện việc xây

dựng và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện về các lĩnh vực: phát triển

kinh tế hộ, trang trại, kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp; khai thác và sử

dụng nước sạch nông thôn; chế biến nông sản và thuỷ sản.

Thống kê diễn biến đất nông nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản; tổ

chức thực hiện các biện pháp canh tác phù hợp để khai thác và sử dụng hợp lý

53

tài nguyên đất, nước cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.

Quản lý các hoạt động dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, thuỷ

sản; vật tư nông nghiệp, phân bón và thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản

trên địa bàn huyện.

Tổ chức thực hiện công tác khuyến nông, khuyến ngư và các dự án phát

triển nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn trên địa bàn huyện.

Giúp UBND huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định,

đăng ký, cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của

cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật và theo phân công của

UBND huyện.

Phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra và thanh tra việc thi hành

pháp luật; tham mưu cho UBND huyện giải quyết các tranh chấp, khiếu nại,

tố cáo về nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn theo quy

định của pháp luật.

Thực hiện nhiệm vụ thường trực của Ban Chỉ huy phòng, chống lụt,

bão; tìm kiếm cứu nạn của huyện theo quy định; đề xuất phương án, biện

pháp và tham gia chỉ đạo việc phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai về

lũ, lụt, bão, sạt, lở, hạn hán, úng ngập và dịch bệnh trong sản xuất nông

nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn huyện.

Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình

thực hiện nhiệm vụ được giao về các lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi

và phát triển nông thôn theo quy định của UBND huyện và Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn.

Thực tế cho thấy, các hoạt động của Phòng Nông nghiệp huyện Lục

Nam và các trạm khuyến nông cấp cơ sở đã thực hiện rất sát với vai trò,

nhiệm vụ của mình. Góp phần đưa nền kinh tế nông nghiệp của huyện phát

54

triển đúng hướng theo chỉ đạo của UBND tỉnh đưa ra.

2.4. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN LỤC NAM

2.4.1. Những thành tựu đã đạt được

Với lợi thế vùng đồi núi trung du, các mô hình KTTT trên địa bàn

huyện Lục Nam tiếp tục phát triển mạnh. Với những dự án quy hoạch, kế

hoạch cụ thể KTTT trên địa bàn huyện đã khai thác tốt hơn về tiềm năng đất

đai, lao động, tiền vốn và khoa học kỹ thuật góp phần thúc đẩy chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hóa, đã hình thành được

một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung lớn phục vụ chế biên, xuất khẩu như:

Vùng sản xuất cây ăn quả: vải, nhãn, bưởi, cam, na...; vùng sản xuất rau chế

biến, rau an toàn; vùng chăn nuôi tập trung: gà, lợn,... và vùng gỗ nguyên liệu;

tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn góp phần tích cực

cho địa phương xây dựng nông thôn mới. Mỗi năm các trang trại có doanh thu

bình quân gần 3 tỷ đồng; doanh thu lớn nhất là các trang trại chăn nuôi (trên

10 tỷ đồng). Thu nhập bình quân của trang trại/năm đạt trên 200 triệu đồng,

thu hút trên 2.000 lao động.

Về đất đai: UBND huyện đã có chính sách phù hợp để hỗ trợ việc tích

tụ ruộng đất, phục vụ cho phát triển KTTT. Đặc biệt trong giai đoạn 2010-

2015, huyện đã chỉ đạo chuyển đổi được 3.6ha ruộng trũng cấy lúa cho năng

suất thấp sang nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng,

năng lực sản xuất được tăng cường ổn định. Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt

15,2%. Trong giai đoạn 2005-2015, UBND huyện đã cùng các cấp nỗ lực xây

dựng hoàn thành xây dựng nông thôn mới tại các xã Đông Hưng, Tiên Hưng,

các xã còn lại đều đang nỗ lực phấn đấu hoàn thiện. Bên cạnh đó, huyện chú

trọng hỗ trợ các địa phương cứng hoá kênh mương nội đồng, xây dựng, nâng

55

cấp một số chợ nông thôn, từng bước góp phần thúc đẩy thành phần kinh tế

trang trại phát triển.

Bằng các chính sách tích cực của UBND huyện Lục Nam, đến nay có

gần 100/320 trang trại cho thu nhập 50 triệu đồng/năm trở lên, trong đó có 21

trang trại đạt thu nhập 80-90 triệu đồng/năm.

Về chính sách tín dụng: Từ năm 2003 đến nay, huyện có chính sách hỗ

trợ 4 triệu đồng/ha cho các trang trại thuỷ sản đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; 10

triệu đồng cho mỗi trang trại sản xuất kinh doanh có hiệu quả để cải tạo chuồng

trại, mua thức ăn, thuốc thú y, giống cây, con mới... Cùng với hỗ trợ vốn, huyện

còn phối hợp với các đơn vị chức năng tổ chức chuyển giao kỹ thuật trồng trọt,

chăn nuôi và kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho các chủ trang trại.

Ngoài các cơ chế chính sách hỗ trợ của Trung Ương, hàng năm tỉnh,

huyện đều có cơ chế hỗ trợ phát triển các trang trại trên địa bàn huyện như:

KTTT hàng năm đều tổ chức tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật;

hỗ trợ đưa cây con giống mới cho các trang trại phát triển sản xuất. Tổ chức

lập quy hoạch các vùng sản xuất như: vùng sản xuất Na, Dứa, Lạc, rau mầu

theo mô hình tập trung “Cánh đồng mẫu” và rau chế biến, quy hoạch bảo vệ

và phát triển rừng, quy hoạch khu chăn nuôi tập trung….

Về ứng dụng khoa học kỹ thuật: Những năm qua, huyện Lục Nam luôn

quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phát triển KTTT

công nghệ cao trên địa bàn, nhất là từ khi có Quyết định số 1895/QĐ-TTg

ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “phát

triển KTTT ứng dụng công nghệ cao” thuộc Chương trình quốc gia phát triển

công nghệ cao đến năm 2020. Lĩnh vực trồng trọt luôn đi đầu trong việc áp

dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là việc ứng dụng

công nghệ cao.

Đã ứng dụng, hoàn thiện công nghệ sản xuất, sử dụng các chế phẩm

56

sinh học thay thế bón phân đạm vô cơ để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và

an toàn thực phẩm; áp dụng quy trình sản xuất VietGAP đối với cây ăn quả

(vải thiều, na dai), rau chế biến, rau an toàn; nhân giống và sản xuất nấm ăn,

nấm dược liệu tại Trung tâm Giống nấm...; thực hiện cơ giới hóa trong khâu

làm đất và thu hoạch lúa đạt khá cao, trong đó cơ giới hóa trong khâu làm đất

bình quân toàn huyện đạt từ 70 - 75%, khâu thu hoạch đạt từ 35 - 40 %.

Với các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng vào canh tác, giai đoạn

2013-2016 sản lượng na toàn huyện đạt 17.000 tấn trên tổng diện tích hơn

2.000ha. Doanh thu từ na mỗi năm hơn 400 tỷ đồng, trong đó nhiều hộ thu lãi

hàng trăm triệu. Theo cán bộ Phòng nông nghiệp huyện, hiện nay 100% diện tích

na của hai xã Huyền Sơn, Nghĩa Phương và một phần diện tích ở xã Đông Phú

đã áp dụng cho ra quả từ cành, thân. Thời gian tới, huyện tập huấn, khuyến cáo

nông dân thực hiện cách làm này để cải thiện chất lượng quả.

Về sản phẩm lúa chất lượng: Việc nghiên cứu, ứng dụng các giống lúa

lai hai dòng, ba dòng, giống lúa chất lượng, giống lúa cực ngắn ngày chất

lượng cao, kháng rầy nâu như: HĐT8, ĐS1, QR1, RVT, VS1, BG6, P6ĐB,…

đã góp phần mở rộng diện tích lúa chất lượng, lúa hàng hoá của toàn huyện.

Diện tích gieo trồng các giống lúa chất lượng (giống HT1, BG1, BG6, BC15,

Thiên ưu 8,...) được mở rộng. Năm 2016, diện tích sản xuất lúa chất lượng đạt

3.950 ha trong tổng số 16.830 ha diện tích lúa gieo cấy, sản lượng đạt 96.773

tấn. Năng suất trung bình trong năm 2015 đạt 57.5 tạ/ha.

Về sản phẩm rau chế biến, rau an toàn: Tiếp tục triển khai thực hiện

Đề án sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP giai đoạn 2013 - 2016,

trong 3 năm đã tập huấn, đào tạo được trên 2.250 hộ, xây dựng mô hình sản

xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP được 60 ha, có sự tham gia của

doanh nghiệp theo chuỗi liên kết sản xuất- bảo quản- tiêu thụ. Kết quả năm

2016, diện tích rau chế biến, rau an toàn là 5686 ha, sản lượng đạt 104.105 tấn,

57

trong đó rau chế biến khoảng 920 ha. Các sản phẩm rau chế biến bao gồm:

dưa chuột bao tử, cà chua bi, dưa chuột Nhật, khoai tây chế biến Atlantics,

hành lá, măng tây xanh,... đang có thị trường tiêu thụ khá ổn định thông qua

hợp đồng liên kết với các nhà máy chế biến và các doanh nghiệp chế biến

xuất khẩu sang Nga, EU, Nhật Bản. Trong tổ chức sản xuất đã thực hiện việc

liên kết khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ; có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh

nghiệp, nhà khoa học, nhà quản lý và người nông dân.

Về sản phẩm cây ăn quả: Đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật và quy trình

VietGAP, GlobalGAP trong canh tác cây ăn quả; xây dựng vườn ươm giống

cam sạch bệnh bằng giống V2, CS1. Triển khai đề tài nghiên cứu thực trạng

sản xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng

cây cam đường canh trên địa bàn xã Vô Tranh, Bình Sơn. Việc triển khai thực

hiện sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn VietGAP đã góp phần tăng giá trị từ

20-30% so với vải thiều sản xuất thông thường, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ

sinh thực phẩm. Năm 2016, diện tích vải áp dụng quy trình sản xuất theo hướng

VietGAP đạt 3.100 ha, sản lượng đạt 7 nghìn tấn. Sản phẩm quả vải thiều đã xuất

khẩu sang một số thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật, Anh, ÚC,…

Xây dựng mô hình tưới tiết kiệm nước cho cây có múi có giá trị kinh

tế cao trên địa bàn xã Bình Sơn (mô hình tưới nhỏ giọt cho cây cam đường

canh diện tích 1,55 ha, xã Bình Sơn) phổ biến với nhiều hình thức khác nhau

như: tưới phun gốc, tưới nhỏ giọt và cung cấp phân bón, thuốc bảo vệ thực

vật cho cây qua hệ thống tưới này.

Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến

thương mại, xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh sản xuất theo hướng hàng hóa. Nâng

cấp kết cấu hạ tầng thuỷ lợi nội đồng, củng cố các tổ chức quản lý khai thác

công trình thủy lợi, phát triển hạ tầng thủy lợi chủ động tưới, tiêu theo hướng

tiên tiến, tiết kiệm nước cho các cây trồng, nâng cao mức bảo đảm an toàn

58

phòng chống thiên tai, bão, lũ, lụt và an toàn hồ đập...

Thông qua việc tổ chức các khóa học đào tạo bồi dưỡng cán bộ công

chức chuyên môn cùng với các chủ trang trại về việc áp dụng các khoa học kỹ

thuật mới vào sản xuất, chăn nuôi góp phần phát huy tốt hơn những lợi thế

sẵn có, đồng thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do hình thức sản

xuất thủ công truyền thống.

Thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, đẩy

mạnh liên doanh, liên kết và tiêu thụ nông sản, chuyển từ nhận thức sản xuất

manh mún nhỏ lẻ sang sản xuất theo hướng hàng hóa để nâng cao giá trị và

sức cạnh tranh của sản phẩm.

Được coi là mũi nhọn trong phát triển KTTT hàng hoá, các trang trại

trên địa bàn huyện Lục Nam đã và đang góp phần thay đổi cơ cấu KTTT, lao

động ở nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân. Hiệu quả của

KTTT trên địa bàn huyện đã góp phần làm thay đổi diện mạo vùng quê nông

thôn, nhiều hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu, ở các vùng nông

thôn xuất hiện không ít những triệu phú, tỷ phú nông dân xuất phát từ làm

KTTT. Có thể khẳng định KTTT là hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến của

kinh tế hộ, mang lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp do đó cần có

chính sách phát triển

2.4.2. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nhà nước đối với kinh

tế trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

QLNN đối với KTTT tuy KTTT đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng

vẫn còn những tồn tại cần sớm được khắc phục, đó là:

Thứ nhất: Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Mặc dù huyện đã có

những nỗ lực trong việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo định kỳ,

thường xuyên tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ địa chính cấp xã nhưng việc

quản lý đất ở cấp xã còn bị buông lỏng và bộc lộ nhiều yếu kém, xảy ra nhiều

59

sai phạm trong quá trình quy hoạch đất đai. Chính quyền cấp xã chưa làm tốt

công tác quy hoạch sản xuất, hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện nước, thị

trường… làm cho không ít trang trại gặp khó khăn trong quá trình sản xuất và

tiêu thụ sản phẩm. Các trang trại phát triển theo hướng tự phát, chưa gắn với quy

hoạch vùng sản xuất và các cơ sở chế biến; thị trường tiêu thụ sản phẩm không

ổn định, vật tư đầu vào sản xuất cao; thiên tai, dịch bệnh xảy ra thường xuyên.

Nhà nước thiếu tập trung quản lý trong công cuộc dồn điền đổi thửa,

quy hoạch thành các vùng trang trại chuyên môn cao. Những định hướng phát

triển của Nhà nước mà cụ thể là của UBND huyện Lục Nam còn mang tính

hình thức quan liêu, không sát với thực tế tình hình và nhu cầu phát triển của

người dân. Nhiều địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch hàng năm và dài

hạn để phát triển trang trại. Thiếu quy hoạch tổng thể và lâu dài, đặc biệt là

quy hoạch sử dụng đất sau khi được công bố đã đặt nhiều trang trại hình thành

trước đó nằm “ngoài quy hoạch” nên không được áp dụng chính sách hỗ trợ

phát triển KTTT.

Vấn đề ô nhiễm môi trường do nước thải, chất thải không được xử lý.

Quy mô sản xuất càng lớn nguy cơ ô nhiễm càng tăng, nhất là đối với các

trang trại chăn nuôi và thủy sản.

Việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất KTTT trên địa bàn huyện

trong thời gian qua còn tự phát, chưa có quy hoạch; các mô hình ứng dụng

công nghệ cao trong sản xuất KTTT còn nhỏ lẻ, phân tán và chậm nhân ra

diện rộng, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm KTTT chưa cao; công nghệ

chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch chưa được quan tâm.

Thứ hai: Việc thực thi pháp luật liên quan đến KTTT còn nhiều vấn đề

bất cập, yếu kém. Các văn bản pháp luật chưa thực sự được thực tế hóa do sự

chồng chéo về nội dung và chưa có sự hướng dẫn cụ thể, gây ra hiểu nhầm

hiểu sai cách thực hiện. Một số cán bộ công chức chuyên môn còn làm trái

60

với những chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt ở các xã, thôn thuộc

vùng đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí thấp việc thực thi pháp luật trong

công tác QLNN đối với KTTT còn mang tính chất hình thức, đối phó.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa được thể chế hoá thành

những chính sách cụ thể, việc giao và cho thuê đất chưa được thực hiện chu

đáo, nhiều chủ trang trại vẫn còn băn khoăn chưa thực sự yên tâm đầu tư phát

triển sản xuất, nhất là gần 30% số đất chưa được giao hoặc cho thuê ổn định

lâu dài.

Thiếu sự khuyến khích của Nhà nước trong việc phát triển, chưa có

biện pháp hỗ trợ kịp thời và có hiệu quả. Nhận thức về vai trò của KTTT của

các cấp, các ngành chưa đầy đủ, dẫn đến các cơ chế, chính sách, nhằm giúp

cho các chủ trang trại hiện nay còn thiếu, chưa đồng bộ. Từ năm 2000 đến

nay, mới chỉ có Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về

KTTT và một số chính sách đối với KTTT được quy định trong một số văn

bản quy phạm pháp luật. Nhiều tỉnh đã ban hành các chính sách đặc thù để

khuyến khích phát triển KTTT trên địa bàn (chính sách khuyến khích phát

triển khu chăn nuôi tập trung, trồng trọt chuyên canh hoặc trang trại chăn nuôi

ngoài khu dân cư; chính sách tín dụng; chính sách đất đai; chính sách hỗ trợ

đầu tư cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật; chính sách hỗ trợ giống cây con

vật nuôi và phòng chống dịch bệnh; chính sách xúc tiến thương mại và đào

tạo…). Tuy nhiên, vẫn mang tính tự phát và gặp nhiều khó khăn. Công tác

quản lý nhà nước về phát triển KTTT ở địa phương (ban hành cơ chế chính

sách, công tác quản lý, hướng dẫn, tư vấn hỗ trợ các trang trại) chưa được

quan tâm đầy đủ.

Thứ ba: Việc ban hành và thực thi chính sách liên quan đến KTTT còn

nhiều lỗ hổng, tình trạng quan liêu không bám sát thực tế, không có sự kiểm

61

tra giám sát chặt chẽ do vậy các chính sách đưa ra còn thiếu phù hợp với tình

trạng điều kiện của địa phương và nguyện vọng của người dân đặc biệt là

chính sách tín dụng.

Chính sách tín dụng tuy được UBND huyện phối hợp với ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Lục Nam tích cực cải cách

các thủ tục cho vay, điều kiện cho vay vốn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn bất

cập, thủ tục rườm rà gây khó khăn cho việc rải ngân để thực hiện chính sách

của Nhà nước.

Hơn nữa, ngân sách Nhà nước chi cho hoạt động QLNN đối với kinh

tế trang trại còn chưa được cụ thể, rõ ràng, thường gộp chung với các hoạt

động khác trong công tác quản lý. Do vậy còn nhiều sai sót trong việc sử

dụng chi tiêu ngân sách nhà nước cho các hoạt động mở lớp đào tạo tập huấn

kiến thức cho cán bộ chuyên trách và kiến thức khoa học kỹ thuật cho các hộ

nông dân.

Sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế có

vốn đầu tư nước ngoài chưa nhiều. Hầu hết vốn đầu tư là vốn tự có và vốn

vay của cộng đồng. Vốn vay của các tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ.

Nguồn lực đầu tư bao gồm cả tài chính và nhân lực đầu tư cho KTTT công

nghệ cao chưa tương xứng, nên chưa tạo ra sự đột phá trong sản xuất KTTT

Thứ tư: Việc kiểm tra giám sát hoạt động QLNN đối với KTTT chưa

được tiến hành thanh tra thường xuyên, chưa quyết liệt. Các cuộc thanh tra

còn mang tính hình thức, chưa thực sự xử lý nghiêm các hành vi sai phạm của

cán bộ chuyên trách trong công tác quản lý cũng như sai phạm của các chủ

trang trại trong quá trình sản xuất kinh doanh kinh tế trang trại.

Các hoạt động của cơ quan thanh tra còn bộc lộ những sơ hở trong

công tác kiểm tra giám sát, những tiêu chí đánh giá tiêu chuẩn chất lượng kinh

tế trang trại còn chung chung, thiếu hướng dẫn thực hiện chi tiết, cụ thể. Đồng

62

thời chưa có khung xử lý vi phạm thích đáng đối với các trường hợp vi phạm

của cán bộ công chức cũng như sự vi phạm trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của các chủ trang trại dẫn đến sự coi thường làm ngơ trước pháp luật.

Thứ năm: Bộ máy quản lý Nhà nước đối với KTTT còn nhiều yếu

kém, chưa thực sự phát huy hết năng lực của cá nhân do chưa có đội ngũ

chuyên môn hướng dẫn. Các trạm khuyến nông, khuyến lâm cấp xã chỉ có từ

1-2 cán bộ phụ trách toàn bộ công tác khuyến nông khuyến lâm tại địa

phương nên không thể phát huy hết năng lực. Phòng nông nghiệp và phát

triển nông thôn huyện chưa có cán bộ chuyên trách riêng biệt về mảng kinh tế

trang trại, vai trò chức năng của từng chuyên viên chưa được cụ thể hóa rõ

ràng nên dẫn đến tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ.

Việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ chuyên

trách cùng với bà con nông dân tuy đã được UBND huyện tích cực phối hợp

cùng sở KH&CN tỉnh Bắc Giang tiến hành thực hiện tuy nhiên hiệu quả thực

tế chưa cao. Lực lượng lao động của các trang trại chưa được đào tạo nghề cơ

bản lao động chưa được đào tạo nghề, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn. Chủ

trang trại chủ yếu là nông dân, không được đào tạo chuyên môn về quản lý, kỹ

thuật nên khả năng quản lý sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên kết

tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm thực tế.

Nhiều chủ trang trại vẫn áp dụng phương pháp sản xuất truyền thống, chưa chú ý

tới việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất cũng như tìm

hiểu thị trường đầu ra cho sản phẩm, dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm làm

ra chưa cao, sản phẩm làm ra có lúc khó tiêu thụ. Các khóa tập huấn đào tạo chưa

có sự kiểm tra giám sát thực hành sau quá trình đào tạo.

KTTT chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và gia đình cán

bộ, công nhân viên đã nghỉ hưu.; phương thức tổ chức sản xuất và quan hệ

sản xuất chậm đổi mới... Mặt khác, các trang trại chủ yếu sử dụng lao động

63

của gia đình; một số trang trại có thuê lao động thời vụ và lao động thường

xuyên, tiền công lao động chỉ được thực hiện theo hình thức thoả thuận giữa hai

bên, chưa thực sự tạo sự ổn định về giải quyết việc làm cho người lao động

2.4.3. Nguyên nhân tồn tại

2.4.3.1. Nhóm nguyên nhân chủ quan

Một là: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách Nhà

nước về kinh tế trang trại của Nhà nước còn chưa được cụ thể, rõ ràng, chưa

có hướng dẫn thực hiện chi tiết. Các nội dung còn hạn chế. Sự chồng chéo,

không thống nhất giữa các quyết định của các Bộ, Ngành, các cấp chính

quyền có liên quan và các văn bản hướng dẫn còn nhiều bất cập, gây ảnh

hưởng đến hoạt động quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại.

Ở hầu hết các địa phương có trang trại phát triền chưa chủ động triển

khai quy hoạch sản xuất, thiếu sự gắn bó giữa trang trại với sự hình thành các

vùng sản xuất tập trung và định hướng phát triển chung của vùng; hệ thống

thuỷ lợi, giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, thị trường kém phát triển,

nhất là ở các vùng sâu, vùng xa nên trang trại chưa góp phần tích cực phát

huy được đầy đủ sức mạnh kinh tế của vùng.

Hai là: Nguồn lực đất đai chưa thực sự được huy động hiệu quả nhất

để trở thành động lực cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tình trạng

đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư nhưng chậm sử

dụng hoặc không đưa vào sử dụng vẫn còn diễn ra khá phổ biến.

Trong lĩnh vực nông lâm thủy sản, hiệu quả sử dụng đất còn thấp.Tốc

độ tăng hệ số sử dụng đất lúa có xu hướng giảm. khả năng tích tụ và tập trung

ruộng đất của nông dân rất thấp. Kinh tế trang trại phát triển chậm, chỉ chiếm

1% số nông hộ. Quy mô đất trung bình của một trang trại cũng chỉ đạt 6 ha.

Trong khi đó, hoạt động của thị trường đất nông nghiệp rất yếu ớt. Chỉ có

64

2,5% hộ nông thôn bán quyền sử dụng đất trong 5 năm từ 2001-2005.

Hoạt động thị trường thuê đất ở nông thôn cũng rất hạn chế. Rất nhiều

nông dân sản xuất không hiệu quả, kiếm thu nhập chủ yếu từ các hoạt động

phi nông nghiệp, phi chính thức nhưng vẫn muốn giữ đất để bảo hiểm rủi ro

do thiếu hệ thống an sinh xã hội chính thức tại nông thôn. Trong khi đó, với

nguồn tích lũy hạn chế và thiếu hỗ trợ tín dụng nên rất khó cho các nông dân

giỏi có đủ khả năng mua hoặc thuê lại đất của các nông dân khác. Kết quả là

rất nhiều đất nông nghiệp, đặc biệt tại khu vực ven đô được các nhà đầu tư

thành thị mua hoặc thuê để đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả hoặc đất rừng hoạt

động theo hình thức phát canh thu tô.

Đây là vấn đề khó khăn nhất của trang trại. Để đạt tiêu chí trang trại,

hộ nông dân phải có quỹ đất đủ lớn theo quy định. Nhưng hiện nay đa số các

địa phương không còn quỹ đất mới để giao cho nông hộ làm trang trại. Do đó,

phần lớn các hộ gia đình nông dân phải dồn điền đổi thửa, mua bán, thuê

mướn, chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nhiều chủ khác nhau với nhiều

loại đất khác nhau để có khu đất tương đối tập trung để làm trang trại. Do có

quá nhiều giao dịch, trao đổi, mua bán (nhìn chung là tự nguyện và hợp pháp)

với nhiều loại đất khác nhau nên đa số các chủ trang trại gặp khó khăn ở việc

xác nhận, chứng nhận và cấp sổ đỏ sau trao đổi mua bán.

Ba là: Việc ban hành và thực thi các chính sách của Nhà nước đối với

KTTT còn gặp nhiều bất cập bởi các quy định giữa các Bộ ngành. Sản xuất

của các trang trại chưa thật sự bền vững, phần lớn chất lượng sản phẩm chưa

được quản lý chặt chẽ. Số lượng trang trại hiện nay tăng chậm và phân bố không

đều giữa các xã. Hầu hết các trang trại có quy mô diện tích dưới mức hạn điền,

có nguồn gốc đa dạng, đã gây không ít những bất cập trong việc quản lý, sử

dụng diện tích đất để phát triển KTTT. Phần lớn các trang trại mới chủ yếu tập

65

trung mở rộng diện tích, áp dụng kỹ thuật truyền thống mà chưa quan tâm nhiều

tới việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, tưới nước, cơ giới hoá, bảo quản

chế biến vv… nên năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao.

Bốn là: Năng lực quản lý của cán bộ công chức còn nhiều hạn chế,

thiếu sự khảo sát kiểm tra giám sát thực tế thường xuyên do vậy không nắm

bắt được những vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trang trại

tại địa phương. Định hướng thị trường phần lớn chủ trang trại gặp khó khăn

về tiêu thụ nông sản vì đa số còn thiếu hiểu biết về thị trường, lúng túng và

chịu thua thiệt khi giá nông sản biến động. Ngoài ra, do các trang trại thường

nằm ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn nên khả năng kết nối với thị

trường cũng gặp khó khăn. Tính liên kết giữa các trang trại với nhau và liên

kết giao dịch với các tổ chức kinh tế khác còn ở mức thấp, chậm hình thành

các vùng sản xuất hàng hoá tập trung đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước

và xuất khẩu. Một số chủ trang trại chưa nắm bắt kịp thời yêu cầu của thị

trường để định hướng sản xuất nên sản phẩm làm ra có lúc khó tiêu thụ, hiệu

quả chưa cao.

Năm là: Kinh phí hỗ trợ việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng kiến

thức chuyên môn của huyện và tỉnh chưa được quan tâm đầu tư. Huyện chưa

áp dụng phương thức quản lý khoa học, đồng thời chưa có hỗ trợ về việc ứng

dụng khoa học công nghệ cho các nông hộ. Số lượng trang trại ứng dụng công

nghệ cao trong sản xuất, chế biến bảo quản còn hạn chế mới chỉ tập trung ở

một số lĩnh vực và khu vực nhất định. Cơ giới hóa trong nông nghiệp chưa

được chú trọng do trang trại chủ yếu quy mô nhỏ, dẫn đến sử dụng nhiều lao

động, hiệu quả thấp. tỷ trọng giá trị sản xuất KTTT ứng dụng công nghệ cao

trong tổng giá trị sản xuất KTTT còn thấp; chưa thu hút được doanh nghiệp

lớn, có tiềm lực tài chính và công nghệ để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất KTTT

66

công nghệ cao trên địa bàn.

Vì vậy, để thúc đẩy KTTT phát triển cần phải có cơ chế chính sách đủ

mạnh, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn sản xuất hiện nay.

2.4.3.2. Nhóm nguyên nhân khách quan

Thứ nhất: Quá trình vay vốn, tín dụng còn gặp nhiều thủ tục rườm rà,

khó khăn. Thiếu vốn và khó tiếp cận tín dụng đối với trang trại: Có đến 70%

số trang trại đang kinh doanh bằng vốn tự có hoặc chiếm dụng vốn (mua chịu

vật tư, phân bón, thức ăn). Tuy có không ít các chủ trang trại thường xuyên

vay vốn của các tổ chức tín dụng, nhưng chủ yếu là các khoản vay nhỏ và

ngắn hạn do không có thế chấp. Khi cần đầu tư mua sắm để khởi nghiệp trang

trại thường muốn vay vốn lãi suất thấp và dài hạn hơn. Điều này làm ảnh

hưởng đến việc tính toán nguồn vốn hỗ trợ cho vay

Thứ hai: Hạ tầng, công nghệ sản xuất yếu kém làm giảm sức cạnh tranh

của trang trại: Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư, cải tạo, chưa đáp ứng

yêu cầu đi lại, vận chuyển, cấp, tiêu thoát nước phục vụ sản xuất của trang

trại. Chi phí cho mua thuê và cải tạo đất, chi phí mua cây con giống và các chi

phí sản xuất trong điều kiện tiếp cận tín dụng khó khăn khiến cho trang trại

không còn vốn để đầu tư hạ tầng và công nghệ. Đa số các trang trại chỉ là các

“hộ sản xuất lớn”, không có sự biến đổi về chất trong sản xuất, khả năng cạnh

tranh khó khăn. Nếu sớm được hỗ trợ về hạ tầng và công nghệ sản xuất, sẽ

giúp trang trại bứt phá ngay từ đầu.

Thứ ba: Thị trường không ổn định. Đây là nguyên nhân cơ bản và ảnh

hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh tế của các trang trại. Tình

trạng giá cả thị trường thường xuyên biến động gây tâm lý hoang mang,

không yên tâm sản xuất cho các chủ trang trại vì sợ giá cả thấp, hàng hóa khó

tiêu thụ sẽ dẫn đến lỗ lớn. Hơn nữa, huyệncũng chưa có chính sách thực sự

hiệu quả để hỗ trợ bà con nông dân trong việc đưa nông sản ra thị trường cạnh

tranh, cũng như chưa có chính sách hỗ trợ đảm bảo cho các chủ trang trại

trong các trường hợp do thiên tai, dịch bệnh.

67

Tóm tắt chương 2

Lục Nam là huyện có vị trí chiến lược trọng yếu, có đường giao thông

lớn giữa các tỉnh trong vùng, có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn

hóa giữa miền núi và đồng bằng, có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển

KTTT.

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của UBND huyện

Lục Nam. Cho đến nay công tác quy hoạch sử dụng đất, định hướng các vùng

sản xuất và định hướng các loại vật nuôi, cây trồng giai đoạn 2011-2020 đã

được UBND huyện Lục Nam tổ chức chỉ đạo và thực hiện một cách nghiêm

túc và thu được những kết quả nhất định, được thể hiện thông qua kết quả của

quá trình phát triển kinh tế trang trại tại địa phương.

Thông qua những chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các

định hướng cụ thể của UBND tỉnh và sự nhạy bén trong kiểm soát thị trường,

UBND huyện Lục Nam đã có những biện pháp tích cực, kịp thời trong công

tác quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa bàn huyện. Qua đó góp

phần tăng trưởng kinh tế, tăng mức sống của người dân, tạo được nhiều việc

làm cho nhân dân lao động, đồng thời giảm thiểu số hộ nghèo trên địa bàn

huyện, giải quyết các vấn nạn về lao động và trật tự an ninh trên địa bàn

huyện.

Tuy đã đạt được những thành quả nhất định, nhưng hoạt động quản lý

nhà nước đối với KTTT trên địa bàn huyện vẫn còn một số khó khăn và

những bất cập cần giải quyết trong thời gian tới như các vấn đề về hỗ trợ

chính sách tín dụng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ công

chức có liên quan và các chủ trang trại có những kiến thức nhất định trong

quản lý kinh tế trang trại để hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh tế trang

68

trại trên địa bàn đạt được hiệu quả tối đa.

CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG

3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN

KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM – TỈNH

BẮC GIANG

3.1.1. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

của tỉnh Bắc Giang

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại

trong thời gian qua và căn cứ vào chủ trương đối với KTTT đã được nêu

trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

tháng 12 năm 1997 và Nghị quyết số 06 ngày 10 tháng 11 năm 1989 của Bộ

Chính trị về phát triển kinh tế trang trại và nông thôn, cần gíải quyết một số

vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận

lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại trong thời gian tới.

Phát triển KTTT nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ

thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; có việc

làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo;

phân bổ lao động, dân cư xây dựng nông thôn mới.

Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất đã hình thành các trang trại gắn

liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch

lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình

công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn.

Căn cứ vào những chủ trương phát triển của Đảng và Nhà nước, Nghị

quyết về phát triển KTTT của Bắc Giang có thể nhận thấy một số quan điểm

69

thống nhất cơ bản về phát triển KTTT của vùng như sau:

- KTTT là một trong những thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu

của nông nghiệp hàng hóa nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của

vùng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.

- Thực hiện đa dạng hóa trang trại đặc biệt chú trọng phát triển trang trại

gia đình trong nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây

nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu và các loại trang trại tận dụng được

mặt nước, dải đất ven bờ.

- Phát triển KTTT dựa trên cơ sở kết hợp giữa nội lực của nông nghiệp,

nông thôn , thành phố và thu hút nguồn lực bên ngoài.

- Tăng cường công tác quản lý từ cấp thành phố đến cấp cơ sở, đóng

góp tích cực vào sự phát triển của mô hình KTTT. Tránh tình trạng quản lý

quan liêu, bàn giấy. Tăng cường các hoạt động khảo sát tình hình hoạt động

sản xuất kinh doanh trang trại thực tế tại các địa phương. Luôn luôn bám sát

các hoạt động của chủ trang trại cũng như những biến động của thị trường

- Quan tâm giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái, đặc biệt là môi

trường sông, hồ, bảo vệ và gìn giữ tài nguyên đất. Đảm bảo hạn chế tốt nhất

những vấn đề ô nhiễm môi trường đất, nước. Đồng thời giữ gìn và bảo vệ tốt

rừng đầu nguồn.

Trong thời gian tới tỉnh Bắc Giang, ngành nông nghiệp xác định lĩnh vực

trồng trọt, chăn nuôi vẫn là hai ngành chính trong đóng góp vào giá trị sản

xuất toàn ngành. Mục tiêu đến năm 2020, trong cơ cấu giá trị sản xuất nông,

lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh, tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm

87,6%, trong đó trồng trọt chiếm 40% và chăn nuôi chiếm 43,8% tổng giá trị

sản xuất toàn ngành.

Đối với lĩnh vực trồng trọt: tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ

cấu cây trồng theo hướng phát triển các cây trồng chủ lực theo lợi thế của

70

tỉnh, có thị trường như: lúa chất lượng, ngô, lạc, rau chế biến, rau an toàn; vải

thiều, cam, bưởi,...; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện dồn điền, đổi thửa, phát triển

thành các khu sản xuất chuyên canh, cánh đồng mẫu lớn, gắn với bảo quản,

chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Đẩy mạnh áp dụng khoa học công

nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất

lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh ở

thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.Trong giai đoạn 2016-2020,

hình thành một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối

với một số cây trồng chủ lực, có thế mạnh của tỉnh như: mô hình nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao đối với sản xuất cây ăn quả (vải thiều, cây có múi) ở

Lục Ngạn, Tân Yên; mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với

sản xuất cây rau chế biến, rau an toàn, hoa cây cảnh ở Lạng Giang, Yên

Dũng, Tân Yên, Lục Nam, Hiệp Hòa, Việt Yên và thành phố Bắc Giang; mô

hình sản xuất nấm ăn tại Lạng Giang; mô hình sản xuất chè tại huyện Yên

Thế. Phát triển vùng cây ăn quả huyện Lục Ngạn trọng tâm là vải thiều và cây

có múi. Mở rộng diện tích sản xuất vải theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,

đạt các tiêu chuẩn xuất khẩu, nhằm xây dựng Bắc Giang trở thành vùng trồng

cây ăn quả trọng điểm của miền Bắc.

Đối với lĩnh vực chăn nuôi: Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi,

chuyển dịch chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi trang trại,

gia trại; duy trì chăn nuôi nông hộ theo hình thức chăn nuôi công nghiệp, bán

công nghiệp và ứng dụng công nghệ cao; phát triển chăn nuôi theo hướng an

toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm; khuyến khích tổ chức sản xuất

khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để giảm chi phí đầu tư,

tăng hiệu quả kinh tế.

Những quan điểm trên đây đã khẳng định tính đúng đắn trong định hướng

phát triển KTTT vùng của Bắc Giang, phù hợp với những quan điểm phát

71

triển KTTT của cả nước.

3.2.2. Quan điểm, mục tiêu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

của huyện Lục Nam giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm 2030

Phát triển nằm trong định hướng chung của toàn tỉnh và gắn với phát

triển các địa bàn lân cận.

Phát huy lợi thế về đất, rừng, khoáng sản và tiềm năng du lịch; huy động

cao nhất mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao chất lượng

tăng trưởng kinh tế; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về kinh tế, thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tập trung cao vào phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và

ngành nghề nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất

hàng hoá.

Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xoá đói, giảm nghèo, tạo

việc làm, giảm chênh lệch về mức sống giữa các khu vực, không ngừng nâng

cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; quan tâm xây dựng và phát

triển văn hoá, bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an

toàn xã hội.

Nhiệm kỳ 2015-2020, Lục Nam phấn đấu trở thành huyện phát triển

khá của tỉnh theo hướng bền vững, toàn diện. Theo đó, tốc độ tăng giá trị sản

xuất bình quân hàng năm 16-16,5%; sản lượng lương thực có hạt giữ ổn định

90.000 tấn; giá trị công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-xây dựng tăng bình quân

21-22%; giá trị thương mại và dịch vụ tăng 23-24%; sản xuất nông-lâm-thủy

sản tăng 6-7%. Cơ cấu kinh tế 2020, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-xây

dựng giữ vị trí chủ chốt 38%, cơ cấu kinh tế của huyện. Địa phương tiếp tục

cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, giải phóng mặt

bằng... khuyến khích các Doanh nghiệp mở rộng và đầu tư trên địa bàn; đẩy

nhanh tiến độ thực hiện các dự án, quy hoạch và đầu tư phát triển dịch vụ, hạ

72

tầng xã hội phục vụ các cụm công nghiệp.

Theo báo cáo đánh giá của Phòng Nông nghiệp huyện Lục Nam năm

2016, phương hướng nhiệm vụ 2017, mục tiêu cho sản xuất KTTT được đặt

ra như sau:

Về trồng trọt, Sản xuất cây ăn quả: Định hướng phát triển cây ăn quả

theo hướng VietGAP, đặc biệt đối với cây vải thiều; giữ ổn định diện tích cây

vải khoảng 6000 ha, trong đó vải VietGAP 1350 ha, vải sớm 1550 ha, sản

lượng quả vải tươi 30.000 tấn.

Về chăn nuôi: Giữ ổn định đàn trâu 9500 con, đàn bỏ 9850 con, đàn

lợn 124.500 con, đàn gia cầm 1.800.000 con. Tổng sản lượng thịt hơi thương

phẩm các loại 23.500 tấn.

Về thủy sản: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh tăng năng

suất và an toàn sinh học với tổng diện tích 1785 ha.

3.2.2.1. Về phát triển kinh tế

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực theo đó:

+ Năm 2015: tỷ trọng GTSX ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 45%;

công nghiệp - xây dựng: 33%; dịch vụ: 22%.

+ Đến năm 2020: tỷ trọng GTSX ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 35%;

công nghiệp - xây dựng: 38%; dịch vụ: 27%.

- GTSX bình quân/người/năm: năm 2015: 21,3 triệu đồng; đến năm 2020:

53,9 triệu đồng.

3.2.2.2 Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực

Về nông nghiệp: Tập trung phát triển 4 loại cây trồng chủ yếu: cây rau

màu thực phẩm (chú trọng phát triển rau chế biến xuất khẩu), cây ăn quả, cây

lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày) và 4 loại vật nuôi chủ yếu: lợn, bò,

gà, cá nhằm nâng cao giá trị sản xuất/đơn vị diện tích canh tác, đồng thời đảm

73

bảo khả năng cung ứng cho công nghiệp chế biến.

Đối với cây rau màu: Quy hoạch vùng sản xuất tập trung tại các xã

đồng mùa, đồng chiêm và một số xã miền núi có chủ động nước ở vụ đông.

Phấn đấu diện tích cây rau màu hàng năm khoảng 5.000-7.000 ha, với sản

lượng 100 ngàn tấn. Đẩy mạnh sản xuất rau, quả chế biến.

Đối với cây ăn quả: Ổn định diện tích và nâng cao chất lượng sản

phẩm, về quy mô diện tích khoảng trên 8 ngàn ha, trong đó chủ lực là vải

thiều với diện tích khoảng 5 ngàn ha, Na 1,5 ngàn ha, Nhãn 1 ngàn ha, Dứa và

Hồng 500 ha.

Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lên khoảng 45%

giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.

Về lâm nghiệp: Xây dựng lâm phận ổn định theo 2 loại rừng, phấn đấu

nâng độ che phủ của rừng ổn định trên 50%.

Đến năm 2020, tổng diện tích đất lâm nghiệp là 27 ngàn ha, trong đó:

diện tích rừng đặc dụng giữ ổn định ở mức 3 ngàn ha và rừng sản xuất 24

ngàn ha. Tổ chức kinh doanh có hiệu quả diện tích rừng kinh tế, phấn đấu giá

trị của ngành lâm nghiệp chiếm 20% so với tổng GTSX của ngành nông, lâm,

thuỷ sản vào năm 2020.

Về thuỷ sản: Phấn đấu đến năm 2020 khai thác 90% diện tích có khả

năng nuôi thủy sản, chuyển đổi một phần diện tích vùng trũng sang nuôi trổng

thuỷ sản. Tổ chức nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh và bán thâm

canh. Phấn đấu nâng tổng sản lượng thuỷ sản toàn huyện đạt 20 ngàn tấn vào

năm 2020; đưa tỷ trọng GTSX thuỷ sản lên 10% so với GTSX của ngành

nông, lâm, thuỷ sản.

-Thực hiện các chính sách xã hội và giải quyết việc làm: Triển khai

thực hiện có hiệu quả các chương trình giải quyết việc làm gắn với nâng cao

74

chất lượng nguồn lao động. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm từ 1,8 đến

2 vạn lao động, trong đó xuất khẩu 1,5-2 ngàn lao động; nâng cao thời gian sử

dụng lao động khu vực nông thôn lên 93 - 95% vào năm 2020.

Tăng cường huy động các nguồn lực theo hướng xã hội hoá, đẩy nhanh

tốc độ xoá đói, giảm nghèo; thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở cho đồng

bào dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa và

trợ giúp các đối tượng chính sách, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đẩy

mạnh phát triển sản xuất, từng bước nâng cao mức sống của dân cư. Phấn đấu

đến năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo còn 3-5%.

Về khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường: Ứng dụng các tiến bộ

khoa học vào sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và trong công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp nhằm nâng cao năng xuất lao động, năng xuất cây trồng vật

nuôi và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.

Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tổ chức tốt công

tác bảo vệ môi trường, giảm thiểu sự cố môi trường và thiên tai.

Tổ chức thu gom và xử lý rác thải đạt 65% ở khu vực nông thôn và

90% ở khu vực thành thị vào năm 2020.

Tăng tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đến năm 2020 ở thành thị

là 99,5% và ở nông thôn là 95%.

3.2.3 Phương hướng quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại trên địa

bàn huyện Lục Nam

Trên cơ sở những quan điểm phát triển KTTT huyện Lục Nam, phương

hướng phá triển của các trang trại ở Lục Nam được xác định như sau:

Một là, khuyến khích các trang trại phát triển sản xuất theo hướng bán

thâm canh và thâm canh, hướng mạnh đến phục vu nhu cầu đô thị và xuất

khẩu, lấy giá trị sản lượng hàng hóa và thu nhập trên một số đơn vị diện tích

làm thước đo hiệu quả kinh tế của trang trại.

Hai là, xác định quy mô đất đai phù hợp với mỗi loại trang trại, hình thành

75

các vùng sản xuất tập trung, gắn liền với chế biến và tiêu thụ, cụ thể là:

-Vùng thị trấn: Phát triển các trang trại ít sử dụng diện tích đất canh tác song

có giá trị kinh tế cao như trồng hoa cây cảnh, chăn nuôi lợn, gà, bò... theo

hướng hiện đại, phục vụ nhu cầu đô thị và xuất khẩu

- Vùng đồng bằng: Khuyến khích tập trung ruộng đất để hình thành các trang

trại sản xuất lúa đặc sản với quy mô trang trại 2-3 ha, sản xuất giống lúa có

phẩm chất có giá trị kinh tế cao phục vụ cho đô thị và cho xuất khẩu.

- Vùng đồi núi: Tập trung phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả có chất lượng và

hiệu quả kinh tế cao, riêng với vùng núi đá vôi phát triển chăn nuôi dê, xây

dựng các mô hình SXNN gắn với dịch vụ và du lịch.

- Vùng bãi bồi ven sông Lục Nam, đầm trũng: Phát triển trang trại thủy sản

theo phương thức bán thâm canh hoặc thâm canh, nuôi trồng các loài thủy sản

chất lượng cao (cá diêu hồng, cá chim, tôm sú...) kết hợp với khai thác nguồn

lợi tự nhiên và phát triển chăn nuôi gia cầm để tăng thu nhập.

Ba là, khuyến khích và phát triển các trang trại liên doanh có quy mô lớn, gắn

sản xuất với chế biến, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đủ

sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.

Phương hướng cụ thể về phát triển kinh tế của các ngành đến năm 2020

Về trồng trọt và chăn nuôi: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt

bình quân khoảng 3,5% năm giai đoạn 2016-2020. Bảo đảm an ninh lương

thực, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát triển nhóm cây,

còn có thế mạnh là “4 cây (cây ăn quả, cây lương thực, cây thực phẩm và cây

công nghiệp ngắn ngày), 2 con (lợn và bò)”, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn

vị diện tích canh tác, phấn đấu đạt khoảng 45 triệu đồng vào năm 2020. Tỷ

suất hàng hóa nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 khoảng 50%...

Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp sinh thái sạch, công

nghệ cao, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Mở rộng diện tích vụ

76

Đông, tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học và tiến bộ kỹ thuật vào sản

xuất, phát triển trồng rau an toàn, trồng hoa và cây cảnh ở vùng ven đô, ven

thị trấn,thị tứ.

Tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi lên khoảng 45% giá trị sản xuất các ngành

nông nghiệp, tỷ trọng ngành trồng trọt còn chiếm khoảng 49% và tỷ trọng

dịch vụ nông nghiệp tăng lên 6% trong cả giai đoạn quy hoạch.

Năng suất lao động nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân

khoảng 5,5%. Ổn định diện tích và nâng cao chất lượng cây ăn quả, quy mô

diện tích khoảng 45 nghìn ha, trong đó chủ lực là vải thiều với với diện tích

khoảng 35 nghìn ha. Thực hiện thâm canh, nâng cao chất lượng, cơ cấu lại

giống để rải vụ thu hoạch, đồng thời, sử dụng công nghệ sinh học để có vùng

vảo chất lượng cao và an toàn, phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Về lâm nghiệp: xây dựng lâm nghiệp ổn định theo 3 loại rừng, phấn đấu đưa

cơ cấu của ngành chiếm khoảng 3% trong tổng GDP vào cuối thời kỳ quy

hoạch.

Dự kiến đến năm 2020, tổng diện tích đất lâm nghiệp là 195.974,7 ha. Trong

đó, diện tích rừng đặc dụng giữ ổn định ở mức 18.411,3 ha, rừng phòng hộ

18.803 ha và rừng sản xuất 113.760,4 ha.

Về thủy sản: phấn đấu đến năm 2020 khai thác 90% tổng số diện tích có

khả năng nuôi thủy sản (gần 13 nghìn ha). Áp dụng công nghệ mới để nâng

cao năng suất nuôi trồng thủy sản đạt 25 đến 30 tạ/ha theo hình thức nuôi

trồng công nghiệp và bán công nghiệp. Nâng tổng sản lượng cá nuôi toàn tỉnh

đạt 25 - 30 nghìn tấn vào năm 2015 và đạt 40 - 55 nghìn tấn vào năm 2030.

Đưa tốc độ tăng trưởng bình quân ngành thủy sản đạt khoảng 15%/năm

Bưởi và cam Canh là hai cây trồng mới được đánh giá có hiệu quả cao

nên tỉnh, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc để xem xét, giải quyết các vấn

đề kinh tế thị trường tìm đầu ra cho sản phẩm tránh trường hợp người dân sản

77

xuất ồ ạt, tư thương ép giá như cây vải; nghiên cứu công nghệ bảo quản sản

phẩm nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch; đồng thời tìm, hướng dẫn người dân

phương pháp, kỹ thuật trồng rải vụ kéo dài thời gian thu hoạch nông sản

hướng tới mục tiêu xuất khẩu sản phẩm. Dự báo quy mô, chất lượng sản

phẩm sẽ tiếp tục được mở rộng và nâng cao hơn nữa. Do đó trong thời gian

tới Nhà nước cần hỗ trợ về mặt kỹ thuật canh tác, kỹ thuật cận thu hoạch phù

hợp với thổ nhưỡng từng vùng nhằm tạo mẫu mã quả đẹp hơn cho sản phẩm,

tăng số lượng quả trên cây, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

KINH TẾ TRANG TRẠI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM

3.2.1. Giải pháp về chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

trang trại trên địa bàn huyện Lục Nam

Để trang trại phát triển tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, hình thành các

vùng sản xuất tập trung, tạo ra khả năng cạnh tranh mới, khắc phục tình trạng

trang trại phát triển tự phát. UBND huyện Lục Nam cần xây dựng quy hoạch

tổng thể cho KTTT trên địa bàn huyện. Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ

thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, cơ sở công nghiệp

chế biến, cơ sở sản xuất, cung ứng giống cây, con, vv…đảm bảo đáp ứng tốt

các yêu cầu phát triển sản xuất của trang trại. Từ quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, huyện cần tiếp tục triển khai quy hoạch

phát triển trang trại cùng với quy hoạch xây dựng nông thôn mới để thực hiện

Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Quy hoạch trang trại cần

tập trung vào các nội dung chủ yếu như: quy hoạch sử dụng đất đai của địa phương

theo phương thức trang trại, quy hoạch sản xuất nông -lâm nghiệp và chế biến - tiêu

thụ nông sản, quy hoạch về bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng

phục vụ cho sản xuất trang trại.

Huyện Lục Nam cần rà soát lại quy hoạch phát triển sản xuất nông,

lâm, ngư nghiệp, xác định vùng phát triển KTTT, chủ yếu là các vùng đất

78

trống đồi trọc, ao hồ, đầm, bãi bồi ven sông,... Xác định phương hướng phát

triển các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế đất đai, khí hậu của từng

vùng và có tính đến khả năng tiêu thụ sản phẩm.

Việc quy hoạch phân vùng phát triển KTTT nhằm tạo điều kiện cho tất cả

các xã trên địa bàn của huyện phát triển đồng đều trên cơ sở hình thành cơ cấu

kinh tế hợp lý và liên kết giữa các xã, tạo nên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ

trên địa bàn. Cụ thể:

- Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500-700m, mật độ dân cư

thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Về cơ

bản, mô hình trang trại ở đây là trang trại lâm nghiệp, trồng rừng kinh tế, cây

bản địa lấy gỗ có giá trị kinh tế cao, mô hình trang trại nông-lâm kết hợp, bảo

vệ nguồn gen thực vật quý hiếm theo các dự án.

- Đối với vùng gò đồi: Các thành phần trong mô hình KTTT ở đây có

thể kết hợp nông- lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây

công nghiệp (thông, bạch đàn, keo,...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn nuôi

đại gia súc (trâu, bò, lợn, dê,...). Phát triển các trang trại trồng rừng kinh tế

(cây lấy gỗ), cây công nghiệp lâu năm kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, trồng

cây ngắn ngày theo phương thức lấy ngắn nuôi dài.

- Đối với vùng đồng bằng: Với nhiệm vụ chiến lược là vùng kinh tế

trọng điểm, đảm bảo vững chắc an toàn lương thực, tạo sản phẩm hàng hóa

đạt chất lượng cao cho thị trường. Vì vậy, phát triển mô hình trang trại nông

nghiệp toàn diện như: trang trại trồng trọt (thâm canh cây lúa chất lượng cao,

cậy thực phẩm, trang trại lúa cá), chăn nuôi (lợn, gia cầm), nuôi trồng thủy

sản, dịch vụ hoặc kết hợp các mô hình trên.

- Quy hoạch phát triển các trang trại chăn nuôi: cần cách xa khu vực dân

cư tập trung, có biện pháp xử lý tránh ô nhiễm môi trường.

- Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, hệ

thống cung cấp điện nước, cơ sở hạ tầng để sản xuất và kinh doanh, đáp ứng

79

tốt các yêu cầu phát triển sản xuất trang trại.

- Các địa phương cần tiến hành rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến

nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại.

Tiến hành giao đất, cho thuê đất cho nông dân có diện tích sản xuất.

3.2.2. Giải pháp về pháp luật

Để từng bước hoàn thiện thể chế pháp lý, xác định tư cách chủ thể, tạo

khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi cho KTTT phát triển hiệu quả và

bền vững, cần thiết phải tiến hành một số giải pháp về chính sách pháp luật

trên địa bàn huyện Lục Nam như sau:

Thứ nhất, cần phải giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà, đẩy

mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trang trại để các chủ

trang trại yên tâm sản xuất kinh doanh, sử dụng đất đai có hiệu quả. Trong đó

khẳng định cụ thể hơn về vai trò, vị trí, tư cách pháp nhân,... của loại hình

KTTT cũng như các chính sách định hướng phát triển. Trên cơ sở đó chính

quyền các cấp có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp, kiểm tra việc thực hiện

nhằm tạo điều kiện để KTTT phát triển có hiệu quả trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, chính quyền các cấp cần phổ biến các văn bản pháp luật mới

nhất của Trung ương, của địa phương về KTTT, những chính sách mới của

nhà nước nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho KTTT để nhân dân trên toàn

huyện nắm được và yên tâm đầu tư, xây dựng và phát triển KTTT thông qua

việc tổ chức các chương trình, hội nghị về phát triển KTTT cho các hộ nông

dân, các chủ trang trại.

Thứ ba, đối với các trang trại có quy mô và doanh thu nhỏ, cần hướng

dẫn cho họ thủ tục, trình tự, điều kiện cấp và thu hồi giấy chứng nhận KTTT

để các trang trại có đủ điều kiện được cáp giấy chứng nhận KTTT còn những

trang trại chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí thì phấn đấu để hoàn thành đủ các

80

tiêu chí nêu trong thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT, ngày 13/7/2011 của Bộ

NN&PTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận KTTT. Đối

với các trang trại có quy mô và doanh thu lớn cần có kế hoạch thống kê, rà

soát để trình Chính phủ có chủ trương cho chuyển sang đăng ký thành lập

doanh nghiệp và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế đất nước ngày càng phát triển. KTTT

cũng là một bộ phận của kinh tế cả nước vì vậy việc hoàn thiện thể chế,

khung pháp lý đối với KTTT là vấn đề đáng quan tâm và cần được thực hiện

sớm để tạo điều kiện và môi trường tốt nhất để KTTT trên địa bàn huyện Lục

Nam phát triển góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh Bắc Giang cũng

như cả nước. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm

hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người giao lại

quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có

hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng lãng phí và

tham nhũng đất đai.

3.2.3. Giải pháp về chính sách

Để đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương, về phía ngành nông nghiệp

cần phối hợp với huyện, xã để có những cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp

thông qua hệ thống khuyến nông. Trong đó tập trung tuyên truyền, hướng

dẫn, tập huấn quy trình sản xuất cây ăn quả theo hướng VietGAP, bảo đảm

chất lượng thuốc bảo vệ thực vật, hỗ trợ chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản

xuất an toàn, tham mưu cho UBND tỉnh về cơ chế hỗ trợ trang trại khi chính

sách của Bộ được ban hành, phấn đấu trở thành trang trại lớn uy tín, không

chỉ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế hộ gia đình mà còn hướng tới mục tiêu

là trang trại sinh thái, trang trại du lịch.

Cần tranh thủ sự hỗ trợ, quan tâm đầu tư của Tỉnh ủy, HĐND và UBND

81

tỉnh và tiềm lực của huyện; đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy

đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp đối với việc thực hiện

công tác dân tộc và chính sách dân tộc.

Tập trung hơn nữa các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng

dân tộc, lồng ghép nguồn vốn các Chương trình mục tiêu quốc gia, xây dựng

cơ bản tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ, hỗ trợ có mục tiêu của Trung

ương, của tỉnh, vốn ODA, kêu gọi tài trợ của các tổ chức quốc tế. Đặc biệt,

quan tâm đầu tư từ ngân sách địa phương và huy động vốn xã hội hoá từ các

thành phần kinh tế để tăng cường đầu tư xây dựng các công trình thiết yếu

cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ là người dân tộc

thiểu số; tăng cường và bố trí cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng vào các

chức danh chủ chốt cấp xã nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Kiện toàn

tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ làm công tác dân tộc, đặc biệt là ở cấp

huyện và cấp xã.

3.2.3.1. Về đầu tư vốn, tín dụng

Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói chung KTTT

nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng. Việc hình thành và phát triển KTTT

đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế hộ gia đình vì quy mô sản xuất lớn hơn. Do

đó cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển KTTT.

Hiện nay do năng lực tích luỹ còn thấp nên có tới 80% số hộ nông dân có

nhu cầu vay vốn tín dụng. Mục tiêu lâu dài của chính sách tín dụng là góp

phần từng bước thúc đẩy sự ra đời của thị trường vốn trong nông thôn. Căn cứ

vào định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của huyện Lục

Nam, chính sách tín dụng cho phát triển kinh tế trang trại cần được tập trung

ở những nội dung sau:

-Khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, Nhà nước tạo điều

82

kiện về đất đai, thủ tục cấp phép, cho vay vốn để phát triển sản xuất

-Tăng cường các quỹ cho nông dân vay vốn, trong đó tăng vốn cho quỹ

khuyến nông luôn đảm bảo có từ 70-90 tỷ đồng để nông dân vay giúp nông

dân phát triển sản xuất

-Cần phải bổ sung đối tượng là chủ trang trại được hưởng chính sách bảo

lãnh tín dụng theo “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” tại

Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng căn cứ vào mức bảo lãnh tín

dụng của “Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” để cho các

trang trại vay vốn.

-Chủ trang trại được sử dụng bảo hiểm sản phẩm nông nghiệp và các tài

sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn tại ngân hàng và các tổ chức

tín dụng.

- Huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và nhân

dân bằng nhiều hình thức thích hợp như: tiết kiệm (có và không có kỳ hạn),

tín phiếu và trái phiếu kho bạc, ngân phiếu và kỳ phiếu ngân hàng v.v...

- Mở rộng việc cho vay của các tổ chức tín dụng đến hộ sản xuất nông,

lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản để phát triển sản xuất, không phân biệt thành

phần kinh tế. Các hộ gia đình, chủ trang trại trên địa bàn kinh tế xã hội khó

khăn được vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm

nghèo để tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao động vùng đông dân cư.

-Ưu tiên cho vay để triển khai các dự án do Nhà nước chỉ định, cho vay

đối với vùng cao, vùng xa, vùng sâu, vùng kinh tế mới, hải đảo và các hộ

nghèo, góp phần xoá đói giảm nghèo trong nông thôn.

Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công trình hạ

tầng như thủy lợi, giao thông, điện,... Các công trình được đầu tư xây dựng ở

bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát

83

triển KTTT.

UNBD huyện Lục Nam cần có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại

đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại

được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

Các địa phương có kế hoạch bố trí vốn để hỗ trợ các trang trại đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng, cơ sở chế biến, cung cấp thông tin. Trang trại được vay

vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nườc. Cần đổi mới mạnh mẽ phương

thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc điểm của từng loại hình KTTT. Đổi mới thủ

thục cho vay, thu lãi suất sao cho đơn giản, thuận tiện hơn, có cơ chế cho vay, thu

lãi theo thời vụ của cây trồng, vật nuôi.

Xây dựng mô hình quan hệ tay ba giữa chủ trang trại, công ty chế biến và

ngân hàng thương mại.

Bên cạnh đó, UBND huyện Lục Nam cũng nên có những chính sách tín

dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: tăng vốn vay cao hơn cho

KTTT, đồng thời tưng lượng vốn vay trung và dài hạn để thuận lợi cho các

trang trại trồng cây lâu năm hoặc chăn nuôi gia súc, gia cầm, không phân biệt

vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh, đơn giản

hóa thủ tục, giảm lãi suất,...

UBND huyện Lục Nam cần phối hợp với các ngân hàng tại địa phương tạo

điều kiện cho các chủ trang trại vay vốn để phát triển trang trại của mình.

Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với phát

triển kinh tế trang trại và vùng gò đồi như: thành lập các quỹ cho vay KTTT,

huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, quy định lãi suất và thời hạn cho

vay hợp lý, cần phát triển hình thức cho vay tín chấp, mức vốn vay nhiều hơn

so với quy định hiện nay của ngân hàng. Triển khai thực hiện quyết định số

178/2001/QĐ-TT ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng

lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao đất, thuê nhận, khoán rừng

84

và đất lâm nghiệp.

Phối hợp với các chương trình, dự án phân cấp giảm nghèo, khuyến nông,

nguồn vốn giải quyết việc làm để cho vay phát triển KTTT. Các tổ chức chính

trị xã hội (Hội Nông dân, hội Phụ nữ,...) bố trí một phần kinh phí từ các

nguồn vốn cho vay để phát triển theo mô hình trang trại

3.2.3.2. Chính sách đất đai

UBND huyện Lục Nam cần tiến hành giao đất, cho thuê đất và cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích đất chưa được cấp. Các địa

phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận

theo chính sách nêu trong Nghị quyết của Chính phủ và hướng dẫn Tổng cục

địa chính.

Để có sự phát triển bền vững của các trang trại cần có sự điều chỉnh đất đai

trong các trang trại theo hướng tăng quy mô bằng cách tiếp tục khuyến khích

dồn điền, đổi thửa để tích tụ ruộng đất. Khuyến khích các hộ có điều kiện đầu

tư thuê đất nhất là trồng cây hàng năm và diện tích mặt nước nuôi trồng thủy

sản để đầu tư sản xuất hàng hóa.

Giao đất ổn định, lâu dài cho chủ trang trại. Chủ trang trại đang sử dụng

đất ổn định nhưng chưa được giao hoặc đã nhận chuyển nhượng, được thừa

kế, cho tặng quyền sử dụng đất trước ngày Luật đất đai có hiệu lực, nếu có đủ

điều kiện theo quy định của pháp luật thì được giao đất hoặc cho thuê đất và

được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ trang trại có hợp đồng

thuê đất hợp pháp của nhà nước để sản xuất, kinh doanh khi hết thời hạn hợp

đồng nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng được ưu tiên ký hợp đồng lại hoặc gia

hạn hợp đồng để bảo đảm thời hạn thuê đất lâu dài.

Về khuyến khích mở rộng quy mô và phát triển sản xuất hàng hóa tập

85

trung: Chủ trang trại có dự án sản xuất cần dồn điền, đổi thửa (tích tụ ruộng

đất) để xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, cánh đồng lớn thì được nhà

nước hỗ trợ kinh phí vận động, tuyên truyền, khảo sát, đo đạc quy hoạch đồng

ruộng để thực hiện dồn điền, đổi thửa.

Chủ trang trại có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt, khi

chuyển đổi mục đích sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sang xây dựng các

công trình như: Giao thông, thủy lợi, chuồng trại, kho tàng … để phục vụ phát

triển sản xuất của trang trại thì được miễn nộp tiền chuyển mục đích sử dụng

đất.

UBND các cấp có trách nhiệm chứng thực hợp đồng mà người sử dụng

đất tự nguyện cho cá nhân, hộ gia đình thuê, thuê lại, cho mượn quyền sử

dụng đất để phát triển kinh tế trang trại.

Cho phép các chủ đầu tư trang trại được xây dựng các công trình hạ

tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất như đường nội bộ, ống

cấp thoát nước, mạng lưới điện, xử lý nước thải, chuồng trại, xưởng, kho, nhà

quản lý bảo vệ và các công trình phụ có liên quan theo đề án dự án được cấp

có thẩm quyền phê duyệt

Khi chủ trang trại thay đổi các phương án sản xuất dưới đây thì không phải xin

phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng phải đăng ký với văn phòng của tổ

chức có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất hoặc UBND xã nơi có đất:

- Xây dựng nhà lưới, nhà kính phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình

thức trồng trọt không trực tiếp trên đất.

- Xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật

khác được pháp luật cho phép.

- Xây dựng cơ sở ươm tạo cây giống, con giống.

- Xây dựng kho chứa nông sản, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ cho trang

trại, phân bón tổng hợp, máy móc công cụ sản xuất nông nghiệp phục vụ tại

86

chỗ cho trang trại.

Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang

trại, hộ gia đình được giao đất phát triển theo quy hoạch. Triển khai cấp giấy

chứng nhận KTTT đối với số trang trại đạt tiêu chuẩn hiện có nhằm tạo điều

kiện cho các chủ trang trại yên tâm đầu tư và vay vốn sản xuất.

Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các

doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển

trang trại được UBND xã sở tại cho thuê đất.

Miễn tiền thuế sử dụng đất cho các trang trại đối với các xã vùng núi và

giảm 50% cho các xã vùng đồng bằng trong 5 năm đối với diện tích đất vượt

hạn điền. Việc miễn và giảm thuế nhằm tạo điều kiện cho các trang trại phát

triển, giai đoạn đầu tiên các trang trại thường gặp khó khăn rất lớn về vốn. Do

vậy việc miễn giảm thuế sẽ giúp các trang trại bớt đi một gánh nặng về vốn và

có thể khuyến khích các gia đình đầu tư vào làm KTTT nhiều hơn.

Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các xã vùng núi và 3 năm đối với các xã

vùng đồng bằng, vùng khai hoang phục hóa. Việc miễn tiền thuê đất sẽ giúp

cho các chủ trang trại có thêm một lượng vốn không nhỏ đầu tư vào phát triển

trang trại của mình. Đối với các xã vùng núi, người dân còn nghèo khó, việc miễn

tiền thuê đất 7 năm sẽ khuyến khích các chủ trang trại tập trung vào làm kinh tế mà

không phải lo trả nợ tiền thuê đất trong một thời gian dài, giúp các trang trại tin

tưởng vào các chính sách thúc đẩy phát triển KTTT trên địa bàn huyện.

Đẩy nhanh tiến độ giao đất cho các hộ dân vùng đồi núi để phát triển kinh

tế lâm nghiệp, trong khi giao đất phải căn cứ vào quỹ đất trống, đồi trọc ở địa

phương, như cầu và khả nưng đầu tư trồng rừng, tránh tình trạng đất giao

không sản xuất hoặc sử dụng không hết diện tích, giữ đất trong khi các hộ có

nhu cầu không có đất trồng rừng. Đồng thời ưu tiên các hộ ở địa phương đó,

hộ có ý chí vươn lên làm giàu, mặt khác cần khuyến khích những người có

87

vốn ở nơi khác để đầu tư phát triển KTTT theo hợp đồng sử dụng đất. Hộ gia

đình sản xuất nông nghiệp có nhu cầu và khả năng sử dụng đất vượt hạn điền

của địa phương được UBND xã xét thuê đất phát triển KTTT.

3.2.3.3. Về chính sách thị trường: Để phát triển sản xuất hàng hóa nông

nghiệp trên địa bàn huyện Lục Nam một cách ổn định thì vai trò của Nhà

nước trong việc tạo lập thị trường là rất quan trọng và cần thiết. Trong đó coi

trọng thị trường nội địa và tăng cường quan hệ, liên kết với các tỉnh và tìm

hiểu thị trường quốc tế như huyện Lục Ngạn là những phương hướng giải

quyết thiết thực.

Mục tiêu của chính sách thị trường là đảm bảo giá cả, ổn định thị trường

một cách tương đối để bảo vệ sản xuất KTTT, bảo vệ lợi ích chính đáng của

người sản xuất và người tiêu dùng. Để đạt mục tiêu trên, chính sách thị trường

cần thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau đây:

- Thu hẹp và tiến tới xoá bỏ quan hệ tỷ giá bất hợp lý giữa giá hàng công

nghiệp và dịch vụ với giá hàng nông sản, tạo điều kiện khách quan cho việc

thực hiện tái sản xuất mở rộng kinh tế trang trại.

- Thực hiện chế độ một giá đối với mọi loại vật tư và nông sản hàng hoá

bằng cách tạo thương hiệu cho nông sản.

- Trong những trường hợp đặc biệt, nhà nước có thể áp dụng những chính

sách như trợ giá đầu vào (phân bón, hạt giống mới...) để hỗ trợ sản xuất phát

triển; hoặc mua trợ giá đối với sản phẩm đầu ra theo những đợt để ổn định giá

cả thị trường, chống tụt giá quá mức có tác động xấu đến sản xuất KTTT như

cách làm của Hàn Quốc.

Ngoài ra UBND huyện Lục Nam cần tăng cường tổ chức quảng bá, xúc

tiến thương mại, thông tin thị trường như việc tổ chức giao lưu nông sản cho

các chủ trang trại thông qua hội chợ, tổ chức giao lưu giữa các câu lạc bộ

88

khuyến nông, hội nông dân...

Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cơ sỏ chế biến nông lâm

sản và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các trang trại để giải quyết thị

trường nông sản cho trang trại, giúp các chủ trang trại được đảm bảo về đầu ra

cho nông sản. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hưởng các

chính sách khuyến khích của nhà nước về đất đai, đầu tư, tín dụng, xúc tiến

thương mại... để đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản tại các vùng sản

xuất hàng hóa tập trung.

3.2.4. Giải pháp về kiểm tra, giám sát

Các viện và trung tâm nghiên cứu khoa học theo dõi sát nhu cầu của

trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ

thuật mới cho nông dân.

Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với chính quyền các

cấp trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ các trang trại phát triển kinh tế.

Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động ở

các trang trại, các chủ lao động thường thuê lao động không hạn chế về số

lượng nhưng phải thực hiện tốt việc trang bị dụng cụ theo từng loại nghề cho

người lao động, có trách nhiệm với người lao động khi găp rủi ro, ốm đau, tai

nạn trong thời gian hợp đồng.

Kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông

nghiệp, đặc biệt là giống nhập từ các nước khác, xử lý kịp thời những trường

hợp buôn bán hàng giả, giống kém chất lượng thậm chí có nguy cơ gây hại

cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và toàn

doanh nghiệp.

Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đảm bảo các

chủ trang trại thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật canh tác và làm giàu

89

đất, bảo vệ môi trường. Cần thường xuyên kiểm tra, giám sát và thống kê số

lượng trang trại hàng năm để kịp thời nắm bắt tình hình phát triển của các

trang trại trên địa bàn.

Kiểm tra chặt chẽ việc xử lý chất thải từ các trang trại, nhất là trang

trại chăn nuôi. Các trang trại phải có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn,

không gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng tới nhân dân xung quanh.

Về hình thức kiểm tra: có thể tiến hành kiểm tra định kỳ theo kế hoạch

hoặc kiểm tra đột xuất khi thấy cần thiết hoặc khi có đơn thư khiếu nại đối với

trang trại được kiểm tra.

Về nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về lao động,

thực hiện các quy định chung đối với KTTT như về giống, về vốn, nguyên

liệu,...

Phương pháp kiểm tra: Kiểm tra trực tiếp bằng cách đến các trang trại kiểm

tra để nắm tình hình thực tế cụ thể của từng trang trại. Hoặc kiểm tra gián tiếp

thông qua các báo cáo của các đơn vị trực thuộc hoặc báo cáo trực tiếp từ

trang trại.

Cơ quan được phép kiểm tra: Các cơ quan được phép kiểm tra các

trang trại trực thuộc đơn vị của mình quản lý và có trách nhiệm báo cáo lên cơ

quan cấp trên trực tiếp quản lý mình. Trong trường hợp gặp các tình huống

khó xử lý có thể trình lên cấp có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn cách thức

xử lý hoặc trực tiếp giải quyết.

Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện các

chương trình, chính sách phát triển KTTT. Qua đó phát hiện những nhân tố

mới, những sáng kiến, cách làm hay để khen thưởng động viên, nhân rộng;

đồng thời chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời những hạn chế, thiếu sót, góp phần

nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công

chức, viên chức từ huyện đến cơ sở và đề ra nhiệm vụ, giải pháp cho những

90

năm tiếp theo.

3.2.5. Tạo quan hệ hợp tác giữa các trang trại

Nhà nước cần làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết

toàn dân, thông qua việc hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các

trang trại nhằm trao đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm,

dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh tế.

Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các trang trại bằng việc thành lập

các hội hoặc câu lạc bộ kinh tế trang trại, thông qua các câu lạc bộ này các

chủ trang trại có thể trao đổi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển

và quản lý trang trại của mình. Ngoài ra các chủ trang trại có thể giúp đỡ lẫn

nhau bằng việc hình thành quỹ chung để giúp đỡ các trang trại gặp khó khăn

trong quá trình kinh doanh. Đồng thời các trang trại có thể giúp đỡ lẫn nhau,

liên minh, liên kết trong quá trình nhập nguyên liệu đầu vào cũng như đầu ra

của các sản phẩm hàng hóa tạo sức cạnh tranh và sự ổn định trong tiêu thụ sản

phẩm trên thị trường, hạn chế tình trạng ép giá của các tư thương và rủi ro

trong sản xuất kinh doanh.

Trong nền sản xuất hàng hóa lớn như hiện nay cần đẩy mạnh sự hợp

tác, liên kết, cả liên kết dọc và liên kết ngang, như là một tất yếu trong cơ chế

thị trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh, nhờ lợi thế về quy mô và các năng

lực sản xuất mới trong liên kết và hợp tác. tổ chức liên kết hợp tác thích hợp,

đó là câu lạc bộ trang trại để cùng nhau học tập, trao đổi, giúp đỡ nhau về

khoa học, công nghệ, về kinh nghiệm sản xuất, quản lý, thông tin thị trường,

giá cả…kịp thời, hiệu quả. Xây dựng mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ

trang trại với các hộ dân để chủ trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu

thụ sản phẩm nông sản. Số chủ trang trại có trình độ chuyên môn mới chiếm

khoảng 32%, do đó việc đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ trang

91

trại đặt ra rất cấp bách. Trước mắt, thông qua tổng kết, tổ chức tham quan các

trang trại quản lý kinh doanh giỏi để học tập lẫn nhau và tổ chức bồi dưỡng

những kiến thức về khoa học và quản lý. Về lâu dài, tổ chức các khoá đào tạo

chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý cho các chủ trang trại.

3.2.6. Về bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại

Do bộ máy quản lý được hình thành trong thời bao cấp hiện vẫn còn nhiều

nấc trung gian, nhiều chức năng quản lý còn chồng chéo, bộ máy cồng kềnh

kém hiệu lực, đã gây nhiều cản trở cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế

nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng. Vì vậy, cần sắp xếp lại

bộ máy theo tinh thần QLNN vĩ mô, xoá bỏ những tổ chức không có chức

năng, tinh giản những khâu trung gian, chồng chéo bất hợp lý, xoá bỏ những

tổ chức can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ sở các

tổ chức kinh tế. Cần xác định đúng vị trí và chức năng của từng bộ phận trong

hệ thống bộ máy nhà nước quản lý nông nghiệp và mối quan hệ giữa chúng

như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ NN&PTNT và các Bộ khác có liên quan.

UBND huyện Lục Nam cần thực hiện nghiêm túc chức năng QLNN đối

với KTTT, phải nắm vững đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện phát triển kinh tế xã hội và các

chương trình, chính sách đối với vùng dân tộc, miền núi để vận dụng sáng tạo,

phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế địa phương. Biết khai thác tiềm

năng thế mạnh của từng vùng để chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội chung cho

cả huyện. Cần thiết lập bộ máy QLNN đối với KTTT một cách đồng bộ thống

nhất về cơ cấu bộ máy quản lý, chức năng, nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ quản lý.

Thống nhất quản lý về phát triển cơ sở hạ tầng và đô thị hóa nông thôn, bao

gồm: quản lý khai thác, sử dụng nước sạch ở nông thôn, hỗ trợ đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.

Thống nhất quản lý về đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý HTX, trang

92

trại, đào tạo nghề cho nông dân.

Ngoài ra, cần quan tâm đến công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho

các cán bộ chủ chốt, tổ chức các lớp tập huấn về quản lý đối với KTTT cho

các cán bộ chuyên trách để đáp ứng yêu cầu phát triển KTTT trong giai đoạn

hiện nay. Ngoài các chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hiện hành,

trang trại được hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho chủ

trang trại và đào tạo nghề lần đầu cho lao động kỹ thuật của trang trại

Thực hiện QLNN đối với quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại,

nhằm định hướng phát triển và đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh,

khuyến khích mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của loại hình KTTT,

khắc phục tình trạng phát triển mang tính tự phát tích tụ ruộng đất tràn lan.

Thực hiện QLNN đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích

chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi trường sinh thái.

Nhà nước cần có chính sách riêng đối với lao động trang trại, lao động thuộc

lĩnh vực nông nghiệp, trong đó ưu đãi về lương, điều kiện làm việc, cơ hội

phát triển nghề nghiệp để khuyến khích người lao động.

3.2.7 Về khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường: Xây dựng chương trình,

kế hoạch, đề tài nghiên cứu khoa học về phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn,

phối hợp tổ chức triển khai các kết quả nghiên cứu đã được cấp thẩm quyền

phê duyệt. Thu thập thông tin chuyên ngành và phát triển nông thôn.

Sử dụng và khai thác hợp lý tài nguyên trên cơ sở đảm bảo sự bền vững môi

trường sinh thái, tăng cường quản lý của nhà nước trong việc triển khai các

chương trình hỗ trợ để các trang trại sử dụng hợp lý tài nguyên và áp dụng các

biện pháp cần thiết bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh,

thiết lập cơ chế xử phạt kịp thời, nghiêm khắc với những tổ chức cá nhân

không tuân thủ quy định, gây ô nhiễm môi trường, thường xuyên phát động

và khuyến khích các trang trại tích cực tham gia bảo vệ môi trường, phát triển

93

công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; phối hợp với ngành Tài nguyên và môi

trường xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động có liên quan trong

công tác quản lý đối với KTTT.

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Kiến nghị đối với UBND tỉnh

- Đề nghị UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù để khuyến

khích phát triển kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông nghiệp; chỉ đạo tổ chức

tín dụng tạo điều kiện tiếp cận vay vốn

Sớm xây dựng cơ chế hỗ trợ xây dựng mô hình, dự án điểm sản xuất

cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao theo hướng an toàn vệ sinh dịch bệnh

kết hợp hỗ trợ kỹ thuật sản xuất gắn với chến biến tiêu thụ sản phẩm cho chủ

trang trại

UBND tỉnh cần có những cơ chế hỗ trợ xây dựng các mô hình KTTT

trên địa bàn huyện Lục Nam sao cho phù hợp với địa hình, khí hậu cũng như

các thế mạnh của vùng, đưa ra những định hướng và tạo điều kiện tốt nhất

cho bà con nông dân có thể sản xuất kinh doanh vật nuôi, cây trồng có giá trị

kinh tế cao, đồng thời phối hợp với các phòng ban chuyên môn, cùng các ban

ngành đoàn thể, hỗ trợ, tư vấn cho bà con nông dân và đặc biệt là cho các chủ

trang trại cách chăm sóc cây trồng vật nuôi theo hướng đảm bảo an toàn vệ

sinh dịch bệnh, tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP

trong trồng trọt và chăn nuôi để tạo niềm tin và đem lại giá trị cạnh tranh trên

thị trường.

- Có cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp chế biến trong và ngoài phạm vi tỉnh, hỗ

trợ các nhà khoa học, chủ trang trại trong việc tìm đầu ra ổn định cho nông

sản. Sớm bãi bỏ những quy định đã lạc hậu, không còn phù hợp vì sự phát

triển của nông nghiệp, nông thôn

94

3.3.2 Đối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật, định hướng, kinh

nghiệm nắm bắt thị trường đầu ra, quản lý tài chính cho các chủ trang trại.

-Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có những giải pháp cụ thể về hỗ

trợ đào tạo, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm; xây dựng một số

mô hình KTTT điểm về ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh, sản xuất theo

chuỗi trong trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản để KTTT trên địa bàn huyện sẽ có

những bước phát triển mạnh mẽ, tận dụng được tiềm năng, thế mạnh của địa

phương.

Tóm tắt chương 3

Để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

trong định hướng phát triển kinh tế trang trại trên cả nước nói chung và trên

địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng, UBND huyện Lục Nam cần có những nhìn

nhận thiết thực về thực trạng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại trên

địa bàn hiện nay. Cần nắm rõ những vấn đề và các nguyên nhân tồn tại vấn đề

để có phương án khắc phục kịp thời.

Huyện Lục Nam cần nghiêm túc tổ chức các phương án thực hiện giải

pháp để tăng cường quản lý đối với kinh tế trang trại từ huyện tới xã để tránh

tình trạng các trang trại phát triển tự phát như giai đoạn hiện nay. Trong đó

các vấn đề liên quan đến quy hoạch, kế hoạch, thực hiện các chính sách pháp

luật, chính sách thị trường, chính sách tín dụng, chính sách đất đai, đầu cơ

tích trữ cho nông dân được đảm bảo những quyền lợi tối ưu trong sản xuất.

Đồng thời tăng cường các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi

cố ý gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động quản lý của nhà nước như ô

nhiễm môi trường, bán phá giá v.v...

UBND tỉnh Bắc Giang cùng với các cơ quan chuyên môn có liên quan cần

tích cực chú trọng việc thực hiện các phương hướng giải pháp nhằm thực hiện

95

chức năng QLNN đối với KTTT trên địa bàn huyện có hiệu quả.

Tăng cường mở các lớp đào tạo công tác khuyến nông, khuyến lâm cho cán bộ

công chức và mở các lớp tập huấn về phương pháp chăm sóc cây trồng vật nuôi

theo hướng đảm bảo an toàn vệ sinh dịch bệnh, tăng cường áp dụng các tiêu

chuẩn VietGAP và GlobalGAP trong trồng trọt và chăn nuôi cho các chủ

trang trại là một trong những nhiệm vụ cấp bách cần sớm được thực hiện có

hiệu quả.

KẾT LUẬN

Tính đến cuối năm 2016, cả nước có khoảng 33.488 trang trại, tăng

13.460 trang trại (67,2%) so với năm 2011. Số liệu điều tra do Tổng cục Thống

kê thực hiện năm 2016 công bố kết quả sơ bộ cho thấy, từ năm 2011-2016, bình

quân mỗi năm số trang trại của cả nước tăng trên 13%. Trong đó, vùng đồng bằng

sông Hồng trang trại phát triển mạnh nhất (tăng 6.435 trang trại), chiếm gần một

nửa số trang trại tăng thêm trong vòng 5 năm qua của cả nước[24].

KTTT ở nước ta thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế

của các địa phương. Nhiều nơi, đã đạt được những thành tựu khá toàn diện

trên các lĩnh vực. Đời sống của người dân được cải thiện đáng kể, KTTT cũng

góp phần tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, góp

phần quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.

KTTT là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp

- nông thôn. Trên địa bàn huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang có nhiều loại hình

tổ chức KTTT nhưng chủ yếu vẫn là loại hình KTTT gia đình, là một bộ phận

của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

96

được hình thành và phát triển chủ yếu từ sự tích cực phát triển vươn lên của

kinh tế nông hộ và cùng với sự tác động tích cực của Nhà nước thông qua

việc tạo lập môi trường kinh tế và pháp lý để KTTT hình thành và phát triển.

Mô hình KTTT là thực tiễn sinh động giúp huyện, ngành chuyên môn

cũng như cấp ủy, chính quyền địa phương có được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp

thời để phát triển kinh tế nông nghiệp xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện;

đồng thời qua đó nắm được những khó khăn, vướng mắc của các mô hình

kinh tế, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp tháo gỡ.

Phát triển KTTT trên địa bàn huyện Lục Nam hiện nay là rất cần thiết

và đúng hướng. Tuy nhiên, KTTT trong những năm qua phát triển quá nhanh

về số lượng, hoạt động tự phát, chưa có sự hướng dẫn và quy hoạch của Nhà

nước. Quá trình hình thành và phát triển còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại

nhiều vấn đề mới phát sinh cần phải nhanh chóng được khắc phục. Trong khi

đó, Nhà nước chưa kịp thời ban hành những thể chế pháp lý để công nhận loại

hình KTTT cũng như chưa có những chính sách cụ thể để hỗ trợ, khuyến

khích và định hướng cho KTTT phát triển có hiệu quả và bền vững, tính tự

phát của trang trại còn quá lớn, vai trò của các cấp Đảng và chính quyền, các

đoàn thể đối với sự phát triển của mô hình KTTT còn mờ nhạt. Để KTTT tiếp

tục phát triển đúng hướng tất yếu phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước

đối với KTTT để vừa thúc đẩy việc hình thành những trang trại mới ở nơi có

điều kiện, phát huy mặt tích cực nảy sinh trong quá trình phát triển.

Qua kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trên đây, tôi

hy vọng sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao vai trò QLNN đối với KTTT

trên địa bàn huyện Lục Nam nói riêng và ở tỉnh Bắc Giang nói chung. Đồng

thời qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy KTTT ở Bắc Giang phát triển nhanh, hiệu

quả, bền vững và đúng hướng, góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông

97

nghiệp - nông thôn nước ta trong những năm tới.

Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từ các nông trại ngày một cao, yêu cầu chất

lượng bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng chặt chẽ nghiêm ngặt,

nếu nông dân ta tích cực thay đổi tư duy làm KTTT, chắc chắn KTTT sẽ giúp

ta thay đổi cuộc sống giàu có và hạnh phúc hơn

Để KTTT phát triển một cách bền vững, có định hướng thì huyện Lục

Nam cần có những giải pháp đồng bộ. Trước hết các ngành, các cấp cần nhận

thức đúng về ý nghĩa, vai trò của KTTT, từ đó thực hiện nghiêm túc các chính

sách phát triển trang trại đã ban hành. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng

các chủ trang trại có đủ năng lực trong công tác quản lý, điều hành hoạt động

sản xuất kinh doanh của trang trại. Cùng với đó đẩy mạnh việc chuyển giao

tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các chủ trang trại cũng như nâng cao tay nghề

cho người lao động. Điều quan trọng, chính quyền địa phương cần giúp đỡ

các trang trại tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi, trong đó tăng cường việc

cho vay trung hạn, dài hạn đảm bảo đủ chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật

nuôi với số vốn được vay lớn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Thực hiện tốt

việc quy hoạch vùng có thể phát triển trang trại để đầu tư đồng bộ hệ thống

đường giao thông, điện, nước. Như vậy, chính quyền các cấp cũng như các

ngành chức năng cần giúp các trang trại liên minh, liên kết với nhau thành

từng khối theo ngành nghề sản xuất, chăn nuôi, theo từng vùng. Khi có mối

liên minh, liên kết, các trang trại có thể phối hợp, trao đổi kinh nghiệm sản

xuất, giúp đỡ nhau về giống vốn và cùng tìm đầu ra cho sản phẩm, cùng tạo

98

sức mạnh cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Anh (2012), “phải đa dạng hóa nguồn lực xây dựng nông thôn

mới”, Báo nông nghiệp Việt Nam, số ra ngày 23 tháng 4.

2. Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát

triển nông nghiệp và nông thôn.

3. Bộ Chính trị(1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng.

4. Bộ Chính trị(1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng.

5. Đỗ Kim Chung (2015) “giáo trình Phương pháp khuyến nông” nhà

xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội (7).

6. Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng (2012), Xây dựng nông

thôn mới ở Việt Nam, tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới,

Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Ngô Thế Dân(2015) “Đề xuất một số cơ chế chính sách hỗ trợ kinh tế

trang trại, kinh tế hộ trong tình hình hiện nay,” tham luận tại Hội thảo

khoa học “Xây dựng chính sách để hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh

tế trang trại và kinh tế vườn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2020, tầm

nhìn 2030”.

8. Nguyễn Hữu Đạt (1995), Đầu tư hỗ trợ của nhà nước cho nông dân

phát triển kinh tế hộ gia đình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội (4).

9. Đinh Phi Hổ (2005), kinh tế trang trại nhìn từ góc độ kinh tế học, tạp

chí kinh tế phát triển số tháng 9/2005.

10. Đinh Phi Hổ (2010), Kinh tế trang trại “lực lượng đột phá” thúc đẩy

phát triển kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền vững, Số 8

tháng 12-2010.

11. Nguyễn Đình Hương (2000), “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh

tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”,

99

nhà xuất bản Nông nghiệp (2).

12. Vũ Trọng Khải (2004), “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh

tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh

thời đại”, nhà xuất bản Nông nghiệp (1).

13. Trần Tú Khánh (2016), “Chính sách phát triển kinh tế trang trại theo

hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Nghệ An”, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội (5).

14. Phạm văn Khôi (2011), “Nghiên cứu các mô hình phát triển bền vững

trang trại vùng cây ăn quả tỉnh Bắc Giang”, nhà xuất bản Nông nghiệp

(3).

15. Nguyễn Minh Phong (2012), Đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước

trong bối cảnh mới. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

16. Nguyễn Trung Quế, Phạm Văn Khiên (2001), Điều tra đánh giá hiệu

quả kinh tế của một số nông sản xuất khẩu của Việt Nam, Viện Kinh tế

Nông nghiệp, Hà Nội.

17. Bùi Minh Vũ, Nguyễn Thị Lai(2005), “Trang trại và những đặc trưng

cơ bản của nó” Tạp chí Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội

số ra ngày 6/7 (6).

18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Một số vấn đề về

CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ

2001-2010, nhà xuất bản Nông nghiệp.

19. Chi cục thống kê Lục Nam (2015), Niên giám thống kê năm 2010,

2015 – Lục Nam. NXB Thống kê, Hà Nội

20. Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình Quản lý Nhà nước

về kinh tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (8).

21. Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình quản lý Nhà nước

về đô thị và nông thôn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (9).

22. Phòng Kinh tế huyện Lục Nam (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm

100

2013, nhiệm vụ công tác năm 2014.

23. Phòng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện Lục Nam (2014),

Báo cáo tổng kết công tác năm 2014, nhiệm vụ công tác năm 2015.

24. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lục Nam (2015),

Báo cáo tổng kết công tác năm 2015, nhiệm vụ công tác năm 2016.

25. Quốc Hội(2013), Luật Đất Đai 2013, Nhà Xuất bản lao động, Hà Nội.

26. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang(2016), báo cáo tình hình

kinh tế trang trại Bắc Giang, các năm 2015, 2016, 6 tháng đầu năm

101

2017.