BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8.34.04.03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG VĂN CHỨC

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc

của bản thân. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung

thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong

bất cứ công trình nào.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Phương Anh

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính quốc

gia, Ban Quản lý đào tạo Sau đại học, Lãnh đạo Khoa Quản lý nhà nước về xã

hội, đặc biệt là lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Văn Chức đã tận tình

giúp đỡ và hướng dẫn tôi nghiên cứu Luận văn này.

Sau hơn 02 năm học tập và nghiên cứu, tiếp thu kiến thức được các

thầy, cô trong Học viện truyền thụ; được sự quan tâm, tạo điều kiện của Lãnh

đạo Học viện Hành chính quốc gia và cơ quan công tác, cùng gia đình; đến

nay, tôi đã hoàn thành bản luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước đối với hoạt

động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh”. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân

thành tới lãnh đạo cơ quan và các đồng nghiệp đã động viên, tạo điều kiện

giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.

Do khả năng và điều kiện thời gian còn hạn chế, vấn đề lựa chọn

nghiên cứu trong đề tài khá phức tạp, nhạy cảm nên Luận văn không tránh

khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ

bảo và góp ý của các thầy, cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Phạm Thị Phương Anh

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

CNXH Chủ nghĩa xã hội

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam

GHPGVN Giáo hội phật giáo Việt Nam

ĐKSSYN Đoàn kết sư sãi yêu nước

PGNT PGNT

QLNN Quản lý nhà nước

TTHC Thủ tục hành chính

TW Trung ương

UBND Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG ................................................. 10

1.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài ............................................. 10

1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với

hoạt động của Phật giáo Nam Tông ............................................................. 17

1.3. Chủ thể và nội dung Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo

Nam Tông .................................................................................................... 27

1.4. Kinh nghiệm và bài học Quản lý nhà nước về hoạt động Phật giáo ở

một số địa phương ....................................................................................... 34

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT

ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH ......................... 39

2.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Trà Vinh 39

2.2. Hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh ........................... 40

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo Nam

Tông ở tỉnh Trà Vinh ................................................................................... 48

2.4. Nhận xét về hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo

Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh .......................................................................... 63

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở

TỈNH TRÀ VINH .......................................................................................... 69

3.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở Trà Vinh ..... 69

3.2. Quan điểm của Đảng và phương hướng của tỉnh Trà Vinh về công tác

tôn giáo ........................................................................................................ 72

3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo

Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh .......................................................................... 78

3.4. Khuyến nghị ......................................................................................... 88

KẾT LUẬN .................................................................................................... 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC .................................................................... 100

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu đã đi sâu

vào đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh

hoạt cộng đồng của người Việt. Sự tồn tại lâu dài của Phật giáo trong

đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã đem lại những đóng góp đáng kể cho văn

hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị trong tiến trình lịch sử Việt Nam.

Trong quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Tây Nam Bộ,

PGNT đã đóng vai trò quan trọng khi nó chi phối lớn đến đời sống tinh thần,

tôn giáo của người dân nơi đây. Có thể nói nó đã góp phần hình thành nên đặc

trưng văn hóa truyền thống của mảnh đất này.

Dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cùng với sự nỗ lực

của chức sắc, tín đồ, PGNT đã có những đóng góp tích cực trong quá trình

đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. PGNT

thông qua các hoạt động răn dạy các tín đồ, sư sãi thực hành theo những lời

huấn thị của đức Phật “từ bi, bác ái, hỉ xả”, cứu giúp những mảnh đời, số phận

kém may mắn. Ngoài ra, trong đời sống chính trị, PGNT cũng đã tích cực

tuyên truyền, vận động tín đồ, sư sãi chấp hành nghiêm túc các chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước, góp phần làm thất bại âm mưu các thế lực

thù địch chống phá cách mạng nước ta và thực hiện tốt phương châm “Đạo

pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Từ những hoạt động đó, PGNT đã đóng

góp vai trò tích cực trong việc xây dựng đất nước phồn thịnh, xã tắc được

bình an, đời sống của người dân được an lạc.

Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, trong

những năm qua, tỉnh Trà Vinh đã huy động mọi nguồn lực tập trung đầu tư

phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà đời

sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân trong tỉnh nói chung, đồng bào

Khmer nói riêng từng bước nâng lên. Điều này đã tạo điều kiện để Phật giáo

trên địa bàn tỉnh hoạt động đúng Hiến chương của GHPGVN và đúng quy

định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

1

Từ trước đến nay, hoạt động của PGNT ở tỉnh Trà Vinh luôn được

Trung ương và Tỉnh ủy Trà Vinh đặc biệt quan tâm. Công tác quản lý nhà

nước đối với các hoạt động tôn giáo được tăng cường, dần đi vào nền nếp; các

hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, thuần túy tôn giáo và tuân thủ các quy

định của pháp luật về hoạt động tôn giáo. Các ban, ngành chức năng, các cấp

trong tỉnh thường xuyên phối hợp, thống nhất tham mưu cho thường trực Tỉnh

ủy, UBND chỉ đạo và giải quyết những vụ việc liên quan đến tôn giáo theo

đúng chức năng của từng cấp, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh những thành tích đã

đạt được thì công tác quản lý nhà nước đối với PGNT ở địa phương vẫn còn

tồn tại một số hạn chế. Quản lý nhà nước nhiều khi còn chồng chéo giữa Ban

Dân tộc và Sở Nội vụ tỉnh; hoạt động quản lý nhiều khi còn lúng túng, chưa

phát huy hết tiềm năng, vai trò PGNT trong việc thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng, an ninh ở địa phương; một số

vụ việc phức tạp có liên quan đến PGNT chưa được giải quyết kịp thời, ảnh

hưởng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị tại địa phương, làm tổn

hại tình cảm tôn giáo của đồng bào với chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó,

PGNT vừa mang tính chất dân tộc vừa mang tính chất tôn giáo, nên nó là vấn

đề nhạy cảm để các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện chiến

lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.

Trước thực trạng đó và trên tinh thần triển khai kế hoạch thực hiện Chỉ

thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị Khóa XII về tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX

về tăng cường công tác ở vùng đồng bào Khmer trong tình hình mới; Đồng

thời ổn định tình hình hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh góp

phần ổn định tình hình an ninh dân tộc, tôn giáo khu vực Tây Nam Bộ và cả

nước; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước đối

với hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh” làm đề tài luận văn

thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công của mình.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Phật giáo nói chung và PGNT nói riêng là đề tài dành được nhiều sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu về tôn giáo. Trong đó sự phát triển của

PGNT và những ảnh hưởng của nó đối với người dân Khmer Nam Bộ đã

được nhiều công trình khoa học đề cập, nghiên cứu. Một số công trình nghiên

cứu tiêu biểu có thể chia thành nhóm vấn đề như sau:

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về PGNT

Tác phẩm “Phật giáo Khơ me Nam Bộ - Những vấn đề nhìn lại” được

Nxb Tôn Giáo xuất bản năm 2008 của tác giả Nguyễn Mạnh Cường đã miêu

tả chi tiết về cuộc sống của người Khmer tại Nam Bộ, đồng thời cho thấy vai

trò quan trọng của PGNT trong đời sống của đồng bào Khmer Nam Bộ. Bên

cạnh đó, tác phẩm cũng phần nào phản ánh được những nét văn hóa độc đáo

đặc trưng trong đời sống tôn giáo của đồng bào nơi đây.

Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học “Phật giáo Nam Tông Khmer An giang -

Những vấn đề đặt ra” do tác giả Nguyễn Nghị Thanh thực hiện năm 2013 tại

Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Tác giả đã

tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề của PGNT Khmer hiện nay như

vấn đề về chi phái, tính truyền thống, đặc điểm, vai trò của PGNT trước

những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu đó, tác

giả đã đề xuất những biện pháp khoa học nhằm khắc phục các hạn chế và phát

huy những đóng góp của PGNT Khmer ở An Giang trong đời sống và trong

sự nghiệp đoàn kết tôn giáo nói chung của An Giang.

Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị của tác giả Sơn Rốt: “Tư tưởng Hồ

Chí Minh về công tác tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với

đồng bào Khmer ở Trà Vinh trong sự nghiệp đổi mới”, Trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã làm rõ tư

tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo cũng như những chủ trương, chính

sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách tôn giáo nhằm đánh

giá sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo về chính sách

tôn giáo ở Trà Vinh trong những năm đổi mới vừa qua. Thông qua đó đề xuất

3

những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo và

nâng cao công tác vận động đồng bào Khmer thực hiện tốt chủ trương chính

sách của Đảng và Nhà nước góp phần ổn định đời sống.

Tác giả Phan Thị Phượng với luận văn thạc sĩ Triết học “Ảnh hưởng

của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của người Khmer Sóc Trăng hiện

nay” được thực hiện năm 2009 tại Học viện Chính trị hành chính - Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã trình

bày được thực trạng ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống tinh thần của cộng

đồng người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời tác giả cũng đề xuất một số

giải pháp nhằm khắc phục hạn chế còn tồn tại ở các lĩnh vực văn hóa, kinh tế

hay tổ chức cán bộ.

Luận văn thạc sĩ Triết học của tác giả Dương Xuân Dũng (2009). Phật

giáo Nam Tông và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần Người Khmer

ở An Giang hiện nay. Tác giả phân tích thực chất của PGNT và ảnh hưởng của

nó đối với đời sống tinh thần của người Khmer ở An Giang hiện nay, đồng thời

đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực của PGNT trong đời sống

tinh thần của người Khmer, làm cho đời sống tinh thần của đồng bào ngày càng

phong phú và lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Luận văn thạc sĩ văn hóa của tác giả Lâm Thạch Sơn (1997) Ngôi chùa

trong đời sống văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Tác giả phân tích

vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc

Trăng, qua đó cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa đời sống vật chất, tinh thần

với tôn giáo của người Khmer ở Sóc Trăng.

Dưới những góc độ khác nhau các công trình trên đã đề cập nhiều khía

cạnh liên quan đến đồng bào Khmer và văn hóa Khmer, ảnh hưởng của Phật

giáo Khmer Nam Bộ ĐBSCL đã vẽ lên bức tranh khá toàn diện về đặc điểm

tự nhiên, về lịch sử hình thành vùng đất và các dân tộc ở vùng ĐBSCL.

Tác phẩm “Phật giáo Nam Tông trong văn hóa Khmer Nam Bộ (trường

hợp tỉnh Trà Vinh)” của tác giả Trang Thiếu Tùng được xuất bản bởi Nxb.

4

Khoa học xã hội hay bài viết “Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với tư

tưởng và đạo đức người Khmer tỉnh Trà Vinh” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

tôn giáo số 07 năm 2014.

Tác phẩm “Chính sách đối với Phật giáo Nam Tông Khmer và đồng

bào vùng Khmer vùng Tây Nam Bộ” của tác giả Lê Quốc Lý được xuất bản

bởi Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật năm 2017.

Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp quan trọng vào nghiên

cứu về tôn giáo, PGNT ở nhiều góc độ khác nhau nhằm làm rõ thêm vai trò

quan trọng của tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng trong đời sống của người

dân. Những tác phẩm đó tuy chưa thực sự thể hiện rõ được các nét đặc trưng

của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nhưng cũng đã phần nào phản ánh được

sự phát triển, ảnh hưởng của tôn giáo ở Nam Bộ nói chung và PGNT Khmer

tới người dân trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nói riêng. Tuy nhiên, chưa có tác

phẩm nào nghiên cứu PGNT ở Trà Vinh dưới góc độ quản lý nhà nước.

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về Quản lý nhà nước về tôn giáo

Đề tài khoa học cấp Bộ: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật

giáo Nam Tông Khmer ở Việt Nam” do ThS. Nguyễn Phúc Nguyên, Ban Tôn

giáo Chính phủ làm chủ nhiệm đề tài. Tác giả cũng đã nhận diện tính đặc thù

của PGNT Khmer, xây dựng thành công bức tranh tổng quát về thực trạng

hoạt động của PGNT Khmer trên các phương diện: Tổ chức, sinh hoạt phật

sự, đào tạo, quan hệ quốc tế, đội ngũ sư sãi, hội nhập quốc tế, cơ cấu tổ chức,

cơ sở thờ tự, kinh sách… Tuy nhiên, nghiên cứu PGNT Khmer là vấn đề khó

bởi lẽ nghiên cứu tôn giáo luôn gắn liền với vấn đề dân tộc, trong khi đó tôn

giáo và dân tộc luôn là hai vấn đề dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng. Chính vì

vậy, những nội dung của quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và quản lý

nhà nước về PGNT Khmer nói riêng luôn phải đặt song song với vấn đề dân

tộc. Vấn đề này tác giả đã nêu ra ra nhưng chưa phân tích kỹ.

* Một số luận văn chuyên ngành về tôn giáo như:

Trịnh Lâm Đồng (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

5

trên địa bàn huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, Luận văn cao học, Học Viện Hành

chính Quốc gia.

Trần Ngọc Quyên (2017), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

trên địa bàn thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện

Hành chính quốc gia.

Thái Châu Báu (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện Hành chính quốc gia.

Phan Thị Phương Mai (2011), Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội , Luận văn

tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính, Học viện chính trị - hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

Trần Thanh Tùng (2013), Tổ chức Giáo phận Xuân Lộc - Những vấn đề

đặt ra hiện nay, Luận văn cao học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia

Hồ Chí Minh.

Đăng Bản (2013), Công tác đấu tranh chống lợi dụng đạo Tin Lành

ĐêGa ở Tây nguyên hiện nay, Luận văn Cao học, Học viện chính trị - hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

Dương Đình Văn (2012), Công tác tranh thủ hàng giáo sĩ đạo Công

giáo trên địa bàn tỉnh Nghệ An thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp

Cao cấp lý luận chính trị - hành chính, Học viện chính trị - hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh.

Đào Xuân Hồng (2013), Ảnh hưởng của cộng đồng Vatican II (1962 –

1965) đối với đạo Công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, luận văn Cao học,

Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

Những số liệu và phân tích sâu sắc của các công trình nghiên cứu

chuyên ngành quản lý nhà nước về tôn giáo đã trở thành nguồn tài liệu tham

khảo quý giá. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tới công

tác quản lý nhà nước đối với PGNT Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Bên

cạnh đó, một số công trình nghiên cứu cũng đã được thực hiện từ lâu, có

6

nhiều nội dung cũng đã không còn phù hợp với tình hình hiện tại. Vì vậy, tôi

đã kế thừa một cách có chọn lọc các tư liệu nghiên cứu trong quá trình thực

hiện đề tài của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích:

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp góp

phần hoàn thiện QLNN đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông trên địa

bàn tỉnh Trà Vinh.

Nhiệm vụ:

- Khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông;

- Phân tích thực trạng Phật giáo Nam Tông trên địa bàn tỉnh Trà Vinh;

- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với PGNT trên địa bàn tỉnh

Trà Vinh thời gian qua;

- Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng, định hướng chính sách

của nhà nước, qua đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với hoạt

động của PGNT ở Trà Vinh trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT trên

địa bàn tỉnh Trà Vinh theo quy định của pháp luật.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về không gian: địa bàn tỉnh Trà Vinh.

- Về thời gian: từ năm 2016 đến nay (Từ khi ban hành Luật Tín

ngưỡng, tôn giáo)

- Về nội dung: PGNT được chia ra làm hai hệ phái là Nam Tông Kinh

và Nam Tông Khmer. Văn hóa Khmer ở Trà Vinh chi phối đời sống tinh thần,

tín ngưỡng, tôn giáo và hình thành đặc trưng văn hóa truyền thống của miền

đất này. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung nghiên

cứu đến QLNN đối với hoạt động của PGNT nói chung và của PGNT Khmer

nói riêng theo quy định của pháp luật.

7

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách

của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tôn

giáo trong thời kỳ đổi mới.

- Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn tác giả sử dụng một số

phương pháp nghiên cứu sau:

+ Phương pháp thống kê;

+ Phương pháp so sánh;

+ Phương pháp phân tích tổng hợp;

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tiếp cận hệ thống;

+ Phương pháp lịch sử;

+ Phương pháp tổng kết: Luận văn có sử dụng những kết quả nghiên

cứu trong và ngoài nước đã công bố liên quan đến đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo nói chung và hoạt động PGNT nói riêng. Từ đó, áp dụng

trong quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

- Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp thêm căn cứ để xây dựng và thực hiện chính sách về

tôn giáo ở địa phương.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn

giáo và cho các nhà quản lý đang thực thi công vụ trong công tác tôn giáo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục;

8

luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật

giáo Nam Tông

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo

Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối

với hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh.

9

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG

1.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài

1.1.1. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo

1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện cách đây hàng

ngàn năm và sẽ tồn tại cùng xã hội loài người trong một khoảng thời gian khó

đoán định.

Tôn giáo là một khái niệm có nhiều định nghĩa khác nhau. Trong đề tài

này, chúng tôi xin phép đưa ra một số định nghĩa cơ bản như sau: Ở các nước

Tây Âu và Bắc Mỹ, tôn giáo được hiểu như là “Tôn giáo là một hệ thống có

tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành liên quan đến những

điều thiêng liêng, nghĩa là sự tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và thực

hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng đồng đạo đức, được gọi

là Giáo hội” (E. Durkheim); “Tôn giáo là một loại đặc biệt tác động đến cộng

đồng. Tôn giáo gắn kết những thế lực siêu nhiên. Quy định các mối quan hệ

giữa các thế lực của chúng với những con người tạo thành lĩnh vực của

những hoạt động tôn giáo” (Max Weber); “Tôn giáo là một hệ thống các biểu

tượng có tác dụng tạo ra những trạng thái mạnh mẽ, lan tỏa, kéo dài và

những động cơ trong những con người bằng cách trình bày có hệ thống

những quan niệm về một trật tự tồn tại chung và che phủ những quan niệm

này bằng một thực tế tỏa ra rằng những tình trạng và những động cơ dường

như là hiện thực duy nhất” (Clifford Geertz); “Tôn giáo là một hình thái ý

thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho

những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày” (F.Engels); K.

Marx cho rằng: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa

tìm thấy bản thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con

người chính là thế giới những con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước

10

ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người

mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo biến bản chất con người

thành tính hiện thực, ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực

thật sự. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế

giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã

hội không có tinh thần; tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [8, tr569].

Quan điểm của K.Marx, xem tôn giáo như là sự cứu rỗi (một trái tim, một tinh

thần) của những con người đang sống trong sự khủng hoảng, không mang

nghĩa của sự phê phán tôn giáo…

Ở Việt Nam, tôn giáo được hiểu là “niềm tin vào các lực lượng siêu

nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và

tác động qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải

những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu

hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn

hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng

những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã

hội/tôn giáo khác nhau” (Đặng Nghiêm Vạn);…

Liên quan đến cách giải thích về tôn giáo, lần đầu tiên trong văn bản

quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam đưa ra cách hiểu về tôn giáo.

Khoản 5, Điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo giải thích: “Tôn giáo là niềm tin

của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối

tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [37, tr1].

Về phương diện quản lý nhà nước, khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh

thường được tiếp cận từ góc độ thực thể xã hội với các dấu hiệu cơ bản sau:

+ Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi;

+ Có giáo chủ;

+ Có tín đồ, người tin theo;

+ Có tổ chức.

11

1.1.1.2. Hoạt động tôn giáo

Hoạt động tôn giáo ra đời nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của tôn

giáo. Hoạt động tôn giáo là thực hiện việc đạo theo một giáo lý, giáo luật,

giáo lễ của một tôn giáo cụ thể. Nó được thực hiện dưới sự hướng dẫn bởi

người có chức năng, nhiệm vụ hoặc tự hành lễ của các tín đồ. Hoạt động tôn

giáo được diễn ra tại nơi thờ tự hoặc tư gia của các tín đồ.

Theo quy định tại Khoản 11, Điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 thì

“Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và

quản lý tổ chức tôn giáo” [37, tr2].

Trong đó truyền bá tôn giáo (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền

những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền

đạo, niềm tin tôn giáo của các tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo được

tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền

đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo.

Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý

giáo luật, lễ nghi tôn giáo.

Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của

một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công

nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.

Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo nhằm thực hiện quy định của giáo

luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt

động trong tổ chức tôn giáo.

1.1.2. Phật giáo và Phật giáo Nam Tông

1.1.2.1. Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo và triết lý do Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni)

khởi xướng, ông sinh trưởng ở phía Bắc Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công

nguyên. Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử tên là Tất Đạt Đa. Phụ thân

ngài là vua Tịnh Phạn (Shuddhodana, Zas gtsang-ma). Mẫu thân của Ngài là

Ma Gia (Maya-devi, Lha-mo sGyu-‘phrul-ma). Đức Phật được thụ thai một

12

cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma Gia thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên

hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà (Asita), rằng đứa bé sẽ trở

thành một ông vua vĩ đại, hoặc một nhà hiền triết cao quý; hoàng tử còn được

gọi là Thích Ca Mâu Ni (hay Shakyamuni) có nghĩa là "nhà hiền triết của bộ

tộc Thích Ca" (hay bộ tộc Shakya). Ông đã từng có vợ và con trai, nhưng sau

đó đã từ bỏ tất cả để đi tìm đạo, cứu vớt chúng sinh.

Từ Ấn Độ, Phật Giáo lan truyền dần sang các nước lân cận, rồi toàn

khu vực châu Á và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo 2

hướng: về hướng Bắc, về phương Nam.

Về phương Bắc, thì gọi là Phật Giáo Bắc Tông (mang tư tưởng Đại

Thừa) gồm các vùng: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông cổ, Mãn Châu, Bắc - Nam

Hàn, Nhật Bản, Bắc Việt Nam...

Về phương Nam, thì gọi là Nam Tông (mang tư tưởng Tiểu Thừa) gồm

các vùng: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Kampuchia, Indonesia, Nam

Việt Nam ...

Đại thừa tức là "cỗ xe lớn" hay còn gọi là Đại Thặng tức là "bánh xe lớn"

là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật . Xuất hiện trong thế kỉ thứ nhất

trước công nguyên, phái này tự nhận là cỗ xe lớn nhờ dựa trên tính đa dạng của

giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ. Cả hai Tiểu

thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác

nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng. Hình tượng tiêu biểu

của Đại thừa là Bồ Tát với đặc tính vượt trội là lòng từ bi.

Tiểu thừa hay Tiểu Thặng, nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hay "bánh xe nhỏ".

Tiểu thừa được một số đại biểu phái Đại thừa thường dùng chỉ những người

theo "Phật giáo nguyên thuỷ", "Phật giáo Nam Tông". Trước năm 1950.

Nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo có ý định thay thế danh từ này nhưng không

đạt kết quả vì danh từ này đã khắc sâu trong tư tưởng của nhiều Phật tử.

Điểm nổi bật làm cho Phật giáo trở nên đặc sắc hơn các tôn giáo khác

là của Phật giáo có giáo lý căn bản, rõ ràng cùng lối giáo huấn nhẹ nhàng

13

nhưng sâu sắc. Mục tiêu tối thượng của Phật giáo là giáo huấn cho con người

các phương cách thoát khỏi sự đau khổ tạo ra bởi những biến động của đời

sống như sinh, lão, bệnh, tử bằng nỗ lực thực nghiệm của chính mình.

1.1.2.2. Phật giáo Nam Tông

Phật giáo Nam tông được truyền vào Việt Nam theo con đường của các

nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đường biển tới Srilanca, Mianma, Thái Lan

tới vùng sông Mê Công (Campuchia) và vào vùng các tỉnh Đồng bằng sông

Cửu Long (phía Nam) của Việt Nam, được đông đảo người dân đặc biệt là

đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của người Khmer, do

đó gọi là Phật giáo Nam tông Khmer. (ở Việt Nam còn có Phật giáo Nam tông

của người Kinh. Nội dung này tác giả xin trình bày ở một bài viết khác).

Phật giáo Nam tông đã có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long vào

khoảng thế kỷ thứ IV. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đại bộ phận các Phum

(xóm), Sóc (nhiều xóm hợp thành) của người Khmer đều có chùa thờ Phật.

Phật giáo Nam tông Khmer tập trung chủ yếu ở 9 tỉnh (thành phố) Đồng bằng

sông Cửu Long như: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang,

Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau.

Theo phong tục của người Khmer, khi người con trai đến tuổi 12, 13

phải vào chùa tu một thời gian với nhiều ý nghĩa: báo hiếu cho ông bà, cha

mẹ; để thể hiện tình cảm, trách nhiệm đối với dân tộc và để tỏ lòng thành kính

với Đức Phật… Các thanh niên này cần phải tu tối thiểu ở chùa là một tháng,

cũng có thể ở chùa tu lâu dài hoặc suốt đời, tùy theo nhân duyên, căn cơ và ý

nguyện của từng người. Sau thời gian một tháng họ có thể trở lại cuộc sống

đời thường bất cứ lúc nào, có thể lập gia đình, làm ăn, tham gia các công việc

xã hội, khi muốn họ lại có thể xin vào chùa tu một thời gian rồi sau đó lại có

thể trở về với gia đình.

Theo truyền thống, Phật giáo Nam tông Khmer không có người nữ đi tu

ở chùa, tuy nhiên những người phụ nữ Khmer lại được giáo dục và ảnh hưởng

rất lớn bởi tư tưởng và đạo đức Phật giáo, thông qua nếp sống của những

14

người đàn ông trong gia đình (là những người ông, người cha, người chồng)

và thông qua các lễ hội, các buổi nhà sư thuyết giảng giáo lý và nghi thức

truyền thống mang đậm nét Phật giáo của dân tộc Khmer: Lễ Phật đản; lễ

Dâng y; nghi thức dâng cúng vật phẩm cho chư tăng; lễ Chol Chnam Thmay

(như tết nguyên đán ở Việt Nam); lễ Đôn-ta (lễ cúng ông bà); lễ cúng

Trăng… Dù là lễ của Phật giáo hay lễ dân tộc nhưng mọi hoạt động này đều

gắn liền với các nghi thức tôn giáo bởi mọi người cùng đến chùa, đọc kinh,

thả đèn lồng… và có sự tham gia của các vị sư.

Giống như Phật giáo Bắc tông, sư tăng Phật giáo Nam tông cũng thụ

giới qua các bậc Sadi và Tỳ khiêu, tuy nhiên số lượng giới phải giữ có sự

khác biệt. Đối với Phật giáo Nam tông:

- Người thụ giới Sa di phải giữ 105 giới.

- Người đã thụ giới Sa di được thụ giới Tỳ khiêu phải giữ 227 giới.

Cũng có thể người đi tu nếu không muốn thụ giới Tỳ khiêu thì có thể

giữ ở bậc Sa di suốt đời.

Người nam đi tu theo Phật giáo Nam tông trên tinh thần tự nguyện, tuy

nhiên chỉ được nhận vào chùa và được thụ giới Sadi khi đáp ứng được một số

yêu cầu cơ bản:

- Phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng (nếu còn nhỏ).

- Phải là công dân tốt, không vi phạm pháp luật.

- Phải có thầy dẫn dắt và có những vật dụng cần thiết của một nhà sư.

Trong hoạt động đời sống hàng ngày, Phật giáo Nam tông thực hành

theo giới luật Phật giáo Nguyên thủy nên không ăn chay như Phật giáo Bắc

tông, họ sống bằng sự dâng cúng thức ăn mỗi ngày của Phật tử. Các sư chỉ ăn

2 bữa một ngày, vào buổi sáng sớm và trước giờ Ngọ (12 giờ trưa). Sau 12

giờ trưa cho đến hết đêm nhà sư chỉ được dùng vật lỏng để uống, như: nước,

sữa, trà… Trong một năm có thời gian do bận việc mùa vụ, Phật tử không

được rảnh rỗi thì Ban Quản trị chùa có thể trao đổi với các gia đình Phật tử

dâng cúng theo từng ngày nhất định, tránh ngày thì quá nhiều, ngày lại quá ít.

15

Nếu tín đồ bận, các sư có thể nhận thực phẩm do các gia đình dâng cúng, đem

về chùa nhờ người nấu.

PGNT nghiêm trì giữ theo giới luật như khi đức Phật Thích Ca còn tại

thế, vì vậy còn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy và đọc tụng chủ yếu 5 bộ

kinh khởi đầu, do đó PGNT cũng được gọi là Phật giáo Nguyên thủy.

Từ năm 1981, trong ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

những năm qua PGNT tiếp tục có những đóng góp công sức xây dựng

GHPGVN, đất nước Việt Nam vững mạnh và trường tồn, làm phong phú

thêm truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, xứng đáng với truyền thống của

Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.

1.1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo Nam Tông

Để đảm bảo sự phát triển ổn định của xã hội, nhà nước thực hiện chức

năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó có quản lý nhà nước về

lĩnh vực tôn giáo. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được hiểu

theo hai nghĩa:

Nghĩa rộng: quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình

sử dụng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ

quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng

các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp

luật, đạt được mục tiêu cụ thể trong quản lý.

Nghĩa hẹp: quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình

chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ

thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các

hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng quy định

của pháp luật.

Dù hiểu theo nghĩa nào thì quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

vẫn có điểm chung là sử dụng quyền lực nhà nước, một dạng quyền lực đặc

biệt của xã hội để tác động, điều chỉnh hoạt động tôn giáo, để hoạt động tôn

giáo được tiến hành theo quy định của pháp luật.

16

Như vậy quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là hoạt động của các

cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các

hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT là hệ thống các biện pháp

quản lý của nhà nước, do các cơ quan chức năng và chính quyền thực hiện đối

với các pháp nhân, thể nhân và hoạt động của PGNT, nhằm đảm bảo cho

PGNT hoạt động theo đúng hiến pháp và pháp luật của nhà nước; bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo

của nhân dân; ngăn ngừa các hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm việc trái

pháp luật, xâm hại an ninh, trật tự.

1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà

nước đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông

1.2.1. Sự cần thiết của Quản lý nhà nước đối với hoạt động của

Phật giáo Nam Tông

1.2.1.1. Thực hiện chức năng của Nhà nước

Vì trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích của quốc gia dân tộc nên ở bất cứ

quốc gia nào, nhà nước nào cũng có sự quản lý nhà nước đối với hoạt động

tôn giáo. Chỉ là ở mỗi quốc gia thì có sự điều chỉnh trong công tác quản lý

khác nhau mà thôi. Điều này không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà

còn xuất phát từ thực tế khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và

ảnh hưởng của tôn giáo.

Tôn giáo được ra đời từ những tiền đề kinh tế - xã hội, từ nguồn gốc tâm

lý và nhận thức của con người và tôn giáo cũng phản ánh được sự biến đổi của

lịch sử nhân loại. Khi những nguồn gốc phát sinh tôn giáo chưa được giải quyết

thì tôn giáo sẽ vẫn còn tồn tại. Bên cạnh những vai trò tích cực của tôn giáo đối

với kinh tế xã hội và đời sống nhận thức, tâm linh của con người thì tôn giáo

cũng mang những hạn chế, tiêu cực. Chẳng hạn, những hạn chế của tôn giáo

17

trong việc nhận thức thế giới khách quan, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra:

“Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc

của con người” [8, tr 62]. Tôn giáo thường bị những kẻ xấu lợi dụng vì mục

đích chính trị đen tối, tôn giáo có khả năng liên kết con người trong một cộng

đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy người ta đến chỗ nghi kị, đối

đầu, hận thù và xung đột gây nên những thảm họa cho nhân loại…

Do đó để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực trong

tôn giáo, nhà nước cần thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động

tôn giáo nói chung và đối với hoạt động của PGNT nói riêng. Sự quản lý của

nhà nước sẽ đảm bảo các hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với ý chí của

nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội và nhu cầu tâm linh tinh

thần của quần chúng. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để các tôn giáo

hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, theo phương châm

“tốt đời, đẹp đạo”.

Trong thời đại ngày nay, khi quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra

sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động quản lý nhà nước

về tôn giáo trong thời gian qua còn tồn tại nhiều hạn chế thì thì việc quản lý

nhà nước các hoạt động tôn giáo càng cần phải tăng cường. Khi mà quan điểm

của Đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo đang có nhiều đổi mới thì việc quản

lý nhà nước các hoạt động tôn giáo sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nhận thức

đúng về vai trò của tôn giáo, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam.

Việc tăng cường quản lý nhà nước không chỉ giữ vai trò quan trọng trong thực

hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp đổi mới mà còn góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước; mà còn

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho người dân; tạo ra

mối quan hệ tốt giữa quần chúng với Đảng và nhà nước; góp phần củng cố,

phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững an ninh quốc phòng.

1.2.1.2. Vai trò của Phật giáo Nam Tông trong đời sống

Trong lịch sử phát triển của cộng đồng nói chung và của dân tộc Khmer

18

nói riêng thì sự xuất hiện, dung nhập đạo Phật vào đời sống của đồng bào có

vai trò hết sức quan trọng. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, PGNT đã trở

thành đặc trưng văn hóa truyền thống với nền tảng giáo lý vững chắc, với

những luân lý đạo đức Phật giáo luôn hướng con người đến những giá trị cao

cả: “chân - thiện - mỹ”. Những bài học về “vô thường”, “vô ngã, vị tha”, “từ

bi hỷ xả”, “an lạc”, “niết bàn”, … đã thấm nhuần trong tâm thức mỗi người

dân. Đối với đồng bào dân tộc Khmer, cùng với tín ngưỡng dân gian truyền

thống, PGNT đã trở thành một phần “máu thịt”, gắn bó chặt chẽ với đồng bào

nói chung và trở thành bản sắc văn hóa của người Khmer nói riêng.

PGNT có tầm ảnh hưởng và chi phối lớn đến mọi lĩnh vực đời sống cư

dân từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần của người dân, đặc biệt là

người dân Khmer ở ĐBSCL nói chung, ở tỉnh Trà Vinh nói riêng. Các công

việc gắn với cá nhân hay tập thể đó đều chịu những ảnh hưởng nhất định từ

triết lý của PGNT. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong các

hoạt động lễ hội văn hóa cộng đồng, thậm chí tới các công việc cá nhân của

mỗi gia đình như ma chay, cưới hỏi, làm nhà… luôn có sự tham gia trực tiếp

hay sự hướng dẫn của các sư trong chùa.

PGNT đã góp phần cố kết cộng đồng, định hướng thế giới quan và

nhân sinh quan, định hướng chuẩn mực và luân lý đạo đức, tạo ra nếp sống

cho con người. Đạo Phật có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục hình

thành nhân cách, đạo đức, dân trí của đồng bào. Phật giáo đã đưa ra những tư

tưởng và phương pháp cải cách xã hội, “giáo hóa đạo đức tinh thần của con

người, khuyên người ta sống từ, bi, hỷ, xả, bác ái…” [25, tr. 25]. Sự giao hòa

giữa giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam với giáo lý nhà Phật đã tạo ra

sức sống mãnh liệt và bền vững của Phật giáo.

PGNT cũng đã có những nỗ lực tích cực trong quá trình đồng hành

cùng dân tộc thông qua các hoạt động răn dạy các tín đồ, sư sãi thực hành

theo những lời huấn thị của đức Phật “từ bi, bác ái, hỉ xả”, cứu giúp những

mảnh đời, số phận kém may mắn. Ngoài ra, trong đời sống chính trị, PGNT

19

cũng đã tích cực tuyên truyền, vận động tín đồ, sư sãi chấp hành nghiêm túc

các chủ trương, chính sách của Nhà nước.

Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển PGNT dễ bị lợi dụng

vào các âm mưu chống phá, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo

của các thế lực thù địch như bị lôi cuốn tham gia vào chính trị tiêu cực gây

ảnh hưởng không nhỏ đến chính trị ở Việt Nam.

Vì vậy, xác định được vai trò quan trọng của PGNT đối với sự phát

triển của đời sống người dân và nhằm phát huy những điểm tương đồng của

tôn giáo và CNXH, những yếu tố tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội

để phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới thì việc tăng cường quản lý

nhà nước về hoạt động của tôn giáo nói chung và PGNT là rất cần thiết. Các

cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo đã luôn tạo điều kiện, vận động để

PGNT thực hiện tốt vai trò dẫn dắt các tín đồ hành đạo, khơi dậy và phát huy

những mặt tích cực trong hoạt động, sinh hoạt của các tôn giáo hợp pháp, từ

thiện cứu giúp nhân đạo; biểu dương những nhà tu hành, những tín đồ thực

hiện tốt phương châm “tốt đời, đẹp đạo”… Đồng thời, luôn cảnh giác đấu

tranh, ngăn chặn các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ khối

đại đại đoàn kết dân tộc, đội lốt tôn giáo vì các mưu đồ kinh tế, chính trị,

chống phá sự nghiệp cách mạng.

1.2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của người dân

Trước hết, cần khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của

nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội mới mà chúng ta

đang xây dựng, đó là hướng con người đến “Chân - Thiện - Mỹ”; vì vậy

những đạo đức tôn giáo phù hợp truyền thống văn hóa dân tộc cần được tiếp

tục phát huy, nhân rộng các hoạt động từ thiện, xã hội, chăm lo cho người

nghèo. Trong lĩnh vực tôn giáo, ngay khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc,

trong Sắc lệnh số 234/SL ngày 14 tháng 6 năm 1955 của Chính phủ Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa về hoạt động tôn giáo do chủ tịch Hồ Chí Minh ký và ban

hành đã khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do

20

thờ cúng của nhân dân. Không ai được vi phạm quyền tự do ấy. Mỗi người Việt

Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”.

Trong những năm gần đây, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà

nước ta về vấn đề tôn giáo ngày càng rõ ràng và chứa đựng những nội dung

mới, các Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhìn nhận

“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang

và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Chủ

trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo, phù hợp với

luật pháp quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham

gia. Điều này được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013.

Cụ thể, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: “Mọi người có quyền bình đẳng

theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ

quyền tự do tôn giáo” đã mở rộng cho tất cả mọi người là công dân hoặc mất

quyền công dân vẫn có quyền tin, theo tôn giáo đồng thời khẳng định trách

nhiệm bảo hộ của Nhà nước về quyền này.

Do đó, tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo như ban

hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm khung pháp lý, xây dựng

đội ngũ cán bộ công chức làm công tác tôn giáo,… cũng là cách cụ thể để nhà

nước thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo của nhân dân.

1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về Phật giáo

Nam Tông

1.2.2.1. Yếu tố bên trong

Một là, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý

nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo

Sau hơn ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, xã hội; đời sống của nhân dân ngày

càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Nhiều chính sách, pháp luật về kinh tế

21

và xã hội trong đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được xây

dựng và ban hành đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn quản lý nhà nước về

tôn giáo và công tác tôn giáo. Nhiều văn bản pháp luật được ban hành đã tạo

thành hành lang pháp lý quan trọng giúp cho công tác quản lý nhà nước về

tôn giáo đạt hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tế hệ thống khuôn khổ về pháp

luật đối với tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các luật, nghị định, thông tư hướng

dẫn không phải bao giờ cũng bao quát được các vấn đề phát sinh liên quan đến.

Việc giải quyết các vấn đề, tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể để áp dụng

luật và các văn bản có liên quan. Bên cạnh đó, cũng có những tình huống nằm

ngoài phạm vi hoặc chưa được quy định trong luật. Những trường hợp này cần

phải có văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo.

Do vậy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo là một yếu tố có ảnh hưởng đến công tác QLNN đối với tôn giáo. Yếu tố

này đòi hỏi phải có tính chính xác và tính kịp thời, nếu một vấn đề phát sinh

liên quan đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo không được hướng dẫn

giải quyết chính xác, kịp thời thì nó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Đồng

thời làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực này.

Tóm lại, thực hiện tốt việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và

quy định hướng dẫn sẽ có tác động tích cực và mang lại hiệu quả cho công tác

quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng, còn nếu không nó

sẽ có tác động ngược lại.

Hai là, bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo

Bộ máy quản lý là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến công tác

quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tổ chức tốt một bộ máy

chuyên trách sẽ có tính quyết định đến việc thực thi và hoàn thành các nhiệm

vụ được giao.

Hiện nay, ở cấp Trung ương nước ta có bộ máy đầu mối, chuyên trách

về thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là Ban Tôn

giáo Chính phủ, Bộ Nội vụ… Ở cấp địa phương, cơ quan quản lý trực tiếp về

22

tín ngưỡng, tôn giáo là Ban Tôn giáo hoặc Phòng Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ

các tỉnh, thành phố.

Việc tổ chức bộ máy chuyên trách trong công tác quản lý nhà nước về

tín ngưỡng, tôn giáo là thực sự cần thiết. Đây là cơ quan đảm nhận chức năng

nghiên cứu, tham mưu cho Nhà nước các cơ chế, chính sách về tín ngưỡng,

tôn giáo như xây dựng văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, kiến nghị

cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan và xây dựng quy định về kiểm tra,

giám sát, tổ chức hướng dẫn thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo cho các địa phương.

Ba là, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo

Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo

là những người trực tiếp thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về tôn

giáo. Họ là những người tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo và đảm bảo thực thi các văn bản đó. Do đó, năng lực, trình

độ của các cán bộ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng

các văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, đội ngũ cán bộ làm

công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đòi hỏi phải có tư duy khoa học, khả

năng nghiên cứu và am hiểu các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước,

có kinh nghiệm thực tế.

Bên cạnh đó, ngoài việc tự nghiên cứu, học tập, bổ sung kiến thức thì

trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo cần được kiểm tra, đánh giá lại năng lực và trình độ chuyên

môn hàng năm. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý cử các cán bộ công chức tham

gia các khóa đào tạo, tập huấn để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức

các chương trình tọa đàm, trao đổi nhằm chia sẻ kinh nghiệm thực tế.

Cùng với việc tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức thì đội ngũ cán bộ làm

công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng phải tự rèn luyện, tu

dưỡng bản thân, nâng cao bản lĩnh chính trị để không thể hiện ý chí chủ quan,

không cửa quyền, tham ô, tham nhũng trong công việc.

23

Như vậy, năng lực, trình độ của các cán bộ là yếu tố quan trọng góp

phần thành công vào công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Do

vậy, việc đào tạo con người nói chung hay đội ngũ cán bộ công chức nói riêng

cần phải được quan tâm, chú trọng.

Bốn là, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong công tác quản lý nhà

nước đối với tôn giáo

Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn giáo, cơ chế phối hợp hoạt

động giữa các cơ quan quản lý các cấp có vai trò quan trọng, quyết định hiệu

quả quản lý và ảnh hưởng trực tiếp đến từng đối tượng quản lý, cụ thể:

Thứ nhất, cơ chế phối hợp tạo cơ sở cho việc thi hành luật cũng như

các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế.

Thứ hai, cơ chế phối hợp phần nâng cao ý thức pháp luật, tôn trọng

pháp luật, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm các quyền

lợi của mỗi cá nhân, tổ chức tôn giáo.

Thứ ba, cơ chế phối hợp phát huy được các nguồn lực để tập trung và

xử lý có hiệu quả những vấn đề khó khăn, phức tạp trong quản lý nhà nước

đối với tín ngưỡng, tôn giáo mà đối với một người, một cơ quan, tổ chức

không thể giải quyết được.

Vì vậy, để quản lý nhà nước về tôn giáo hiệu quả thì các cơ quan nhà

nước cần có sự phân cấp rõ ràng về quyền và trách nhiệm của mình. Đồng

thời trong quá trình hoạt động các cơ quan phải có sự phối hợp một cách kịp

thời và hiệu quả để hoạt động quản lý không bị chồng chéo nhưng cũng

không buông lỏng.

1.2.2.2. Yếu tố bên ngoài

Một là, đặc điểm tổ chức của Phật giáo Nam Tông

Phật giáo Nam Tông tại Việt Nam như sự góp mặt của một loài hoa

trong vườn hoa Phật giáo Việt Nam. Những đặc điểm riêng của nó đã hòa

cùng với nhiều loài hoa Phật giáo khác, góp phần tô điểm làm giàu sắc hương

tươi thắm cho vườn hoa văn hóa tinh thần của đất nước và dân tộc Việt Nam.

24

PGNT Việt Nam không đặt nặng nghi lễ, vì chuộng đời sống chân thật,

mộc mạc và đơn giản, chú trọng ở nội tâm hơn là hình thức. Nhưng PGNT rất

quan tâm tới giới luật. Vì vậy có một số đặc điểm như sau: Kính lễ nhau theo

tôn ti hạ lạp, nhưng không đón rước quá trịnh trọng như phong kiến; Trai tịnh

là không thọ thực quá giờ ngọ và dùng tam tịnh nhục chứ không ăn chay;

Tụng kinh không dùng chuông mõ và không xướng tán ngân nga; Chỉ thờ

Đức Phật Thích Ca và chỉ cúng hương hoa để tỏ lòng thành kính chứ không

cúng vật thực; Đi khất thực không nhận tiền bạc.

Đa số những bài kinh tụng niệm đều có nguồn gốc từ kinh tạng Pali

được chuyển dịch sang tiếng phổ thông. Phần tiếng phổ thông đôi chỗ là văn

xuôi, đôi chỗ là thơ lục bát hay song thất lục bát nên gần gũi với người Việt.

Trong các trường chùa, các lớp bổ túc Pali, nội dung được đưa vào

giảng dạy là chữ Pali, giáo lý, văn hóa, nghề thủ công và cả đạo đức nhân

cách cho cộng đồng tín đồ. Các lớp học trong chùa do chính các sư đảm trách,

họ được gọi là các sãi giáo. Vì vậy, các vị sư được cộng đồng kính trọng;

tiếng nói, ý kiến của sư tăng về những công việc chung luôn luôn được mọi

người dân trong phum, sóc tin tưởng, nghe theo. Các vị sư còn góp phần quan

trọng vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp qua việc lấy

chính đạo hạnh và đức độ của mình trong cuộc sống làm gương cho xã hội.

Hai là, những ảnh hưởng của phong tục, tập quán và sự phát triển

kinh tế - xã hội của Việt Nam đối với Phật giáo Nam Tông

Khi đến với Việt Nam, Phật giáo nói chung và PGNT nói riêng đã tìm

đến với văn hóa dân gian để kết thành duyên nợ. PGNT đã tìm đến với nguồn

cội của văn hóa dân tộc, tìm đến với sức sống và bản sắc của văn hóa Việt

Nam, đặc biệt là bản sắc văn hóa của đồng bào vùng ĐBSCL. Người dân

Nam Bộ đã nhìn thấy được những giá trị đạo đức Phật giáo có thể giúp họ bảo

lưu, duy trì và chuyển tải những giá trị tốt đẹp của vốn có của họ. Phong tục

tập quán của người Nam Bộ được thể hiện qua đạo lý uống nước nhớ nguồn,

truyền thống bao dung, nhân nghĩa, truyền thống yêu nước, phóng khoáng,

25

đoàn kết, v.v… tất cả được dung nạp vào Phật giáo.

Vì thế, Phật giáo cũng góp phần củng cố, gìn giữ và phát huy những

những phong tục tập quán cổ truyền của người Việt Nam. Có thể nói, sau khi

vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng đồng hành cùng dân tộc, hòa mình

với văn hóa bản địa, từ đó làm phong phú, sâu sắc thêm nền văn hóa của

người Việt. Không chỉ có vậy, chính nền văn hóa của người Việt, các phong

tục, tập quán truyền thống của dân dân tộc cũng làm cho Phật giáo có sự thay

đổi để thích nghi. Từ đó, tạo nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo ở Việt

Nam, không giống với Phật giáo ở các nước trong khu vực và ngay cả trên

quê hương đã sản sinh ra chính tôn giáo đó.

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhu cầu tôn giáo của người

Việt ngày càng đa dạng hơn. Cuộc sống tôn giáo của tầng lớp tu sĩ và những

người thực hành tâm linh có nhiều biến đổi dưới tác động của xã hội đương

đại và nền kinh tế thị trường, sinh hoạt tôn giáo có xu hướng phát triển mạnh

hơn trước với nhiều sắc thái mới… Những sự thay đổi đó, bên cạnh những giá

trị tích cực cũng làm nảy sinh những vấn đề phức tạp về văn hóa, xã hội, an

ninh quốc gia và làm ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Điều

này đặt ra trước các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách và quản lý

tôn giáo cần phải có những chiến lược mang tính dự báo để tôn giáo có thể

phù hợp với sự phát triển và trở thành một trong những động lực quan trọng

giúp tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Ba là, yêu cầu của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới (1986), Đảng và Nhà

nước ta không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước

trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương,

chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của

đồng bào có đạo, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước

trong lĩnh vực này. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam

thể hiện tính đúng đắn trong các chủ trương và chính sách đối với tôn giáo

26

của Đảng và Nhà nước Việt Nam làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm

tin tưởng vào Đảng, Nhà nước. Từ đó ủng hộ và tham gia tích cực vào công

cuộc đổi mới. Chính điều này đã góp phần vào sự ổn định tình hình chính trị

và phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập sâu rộng, hoạt động của các tôn

giáo có sự phát triển đa dạng, phong phú, các hoạt động lễ hội tổ chức ngày

càng mở rộng quy mô, từ đó cũng sẽ nảy sinh những vấn đề cần đặc biệt quan

tâm. Do đó, công tác QLNN về tôn giáo của chúng ta sẽ còn gặp không ít khó

khăn, thách thức. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo

ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song về nhiều mặt còn hạn chế như hệ

thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ chưa đủ rõ ràng và nhất

quán. Nhiệm vụ công tác tôn giáo nặng nề hơn trong khi đó tổ chức, bộ máy

làm công tác QLNN về tôn giáo còn bất cập, bộ máy hành chính còn nhiêu

khê, nhũng nhiễu, quan liêu.

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để đất nước ta phát triển, trong đó

các tôn giáo cũng có điều kiện để phát triển; đặc biệt là để thích ứng với hội

nhập các tôn giáo sẽ tăng cường hoạt động truyền giáo, đào tạo giáo sỹ

chuyên nghiệp hơn, trang bị cơ sở vật chất hoạt động hiện đại hơn, nhất là đào

tạo chức sắc chuyên nghiệp ở nước ngoài, đó là điều tất yếu. Vấn đề đặt ra là

với vai trò quản lý Nhà nước, chính quyền cần có giải pháp hiệu quả để phát

huy tính tích cực và vai trò của đạo đức tôn giáo làm phong phú thêm đời

sống văn hóa, đạo đức của cộng đồng; cũng như giảm thiểu những tác động

tiêu cực trong quá trình hội nhập, giao lưu giữa các tôn giáo.

1.3. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động của

Phật giáo Nam Tông

1.3.1. Chủ thể và khách thể quản lý

1.3.1.1. Chủ thể quản lý

Theo nghĩa rộng, chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động của

PGNT bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước gồm: Cơ quan quyền lực nhà

27

nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước

(Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân,

Viện kiểm sát nhân dân).

Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì chủ thể quản lý nhà nước đối

với PGNT là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống cơ quan thực thi quyền

hành pháp các cấp bao gồm: Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ,

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ, Ủy ban nhân dân cấp huyện và phòng

Nội vụ, Ủy ban nhân dân cấp xã. Các cơ quan này có nhiều chức năng, nhiệm

vụ trong đó có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước đối

với hoạt động tôn giáo. Cụ thể:

+ Chính phủ: Điều 96, Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ thực hiện 8

nhóm nhiệm vụ, quyền hạn. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với

các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề tôn giáo.

+ Bộ Nội vụ: Nghị định số 34/2017/NĐ-CP, ngày 03/4/ 2017 của Chính

phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội

vụ, trong đó thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo như sau

(khoản 14, Điều 2):

Ban hành theo thẩm quyền hoặc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ

quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác liên quan;

Trong việc tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực

hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo;

Hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về công tác quản lý nhà nước về tôn

giáo đối với các ngành, các cấp liên quan và các địa phương;

Thống nhất quản lý về xuất bản các ấn phẩm, sách kinh, tác phẩm, giáo

trình giảng dạy, văn hóa phẩm thuần túy tôn giáo của các tổ chức tôn giáo

được Nhà nước cho phép hoạt động;

Hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật;

Thực hiện và hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức

sắc tôn giáo về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp

28

luật; làm đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo trong nước và quốc tế;

Khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng và áp dụng

chính sách đãi ngộ đối với các tổ chức tôn giáo, cá nhân tham gia hoạt động

tôn giáo.

+ Ban Tôn giáo Chính phủ: Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg, ngày

03/8/2018 của của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội

vụ. Trong đó nêu rõ: “Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan tương đương Tổng

cục trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ

quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và tổ chức thực hiện chính

sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước; thực hiện các

dịch vụ công thuộc lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp

luật” [6, tr. 1]. Ban Tôn giáo Chính phủ có 14 đơn vị trực thuộc, trong đó có

10 đơn vị hành chính giúp Trưởng ban thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước,

04 đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ban.

+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ: thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về tôn giáo theo quy định tại Khoản 6, Điều 21, Luật Tổ chức chính

quyền địa phương (2015) và Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, ngày 04/4/2014

của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, thành

phố trực thuộc Trung ương.

+ Ủy ban nhân dân cấp huyện và phòng Nội vụ: thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về tôn giáo theo quy định tại Khoản 4, Điều 28, Luật Tổ

chức chính quyền địa phương (2015) và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, ngày

05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy

ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

+ Ủy ban nhân dân cấp xã: Quản lý các hoạt động tôn giáo của chức

sắc, nhà tu hành, tín đồ tại nơi thờ tự theo chương trình đã đăng ký hàng năm.

Phối hợp quản lý các hoạt động tôn giáo bất thường đã được cấp trên cho

phép tại địa phương. Kịp thời báo cáo cấp trên để xem xét, giải quyết tiếp

29

trong trường hợp phức tạp hoặc vượt quá thẩm quyền; chấp hành chế độ báo

cáo định kỳ về UBND huyện.

1.3.1.2. Khách thể quản lý

Hoạt động tôn giáo của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành, chức việc; nơi thờ tự

cùng các cơ sở vật chất khác, đồ dùng việc đạo, sinh hoạt tôn giáo và hệ thống

hành chính đạo (tổ chức giáo hội ở cấp trung ương, địa phương và cơ sở).

Đối tượng cụ thể của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo

của PGNT ở Việt Nam nói chung gồm:

+ Hoạt động tôn giáo của tín đồ: bao gồm những sư tăng (những người

tu hành tại chùa) các tín đồ tu hành tại gia.

+ Chức sắc PGNT (Hòa thượng, thượng tọa, đại đức,…); chức việc (như

thành viên Ban trị sự giáo hội phật giáo, Hội đoàn kết sư sãi yêu nước,…);

+ Địa điểm sinh hoạt (chùa, tư gia…);

+ Hoạt động sinh hoạt tôn giáo (Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan báo hiếu...);

+ Hệ thống hành chính đạo (tổ chức giáo hội ở cấp trung ương, địa

phương và cơ sở).

1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo

Theo quy định tại Điều 60, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, nội

dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm:

Một là, xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về

tín ngưỡng, tôn giáo.

Việc xây dựng chính sách và ban hành các văn bản QPPL về tín

ngưỡng, tôn giáo đã tạo thành khung pháp lý hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phát triển, mặt khác đảm bảo

cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật,

phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Bởi lẽ chính sách và pháp luật

vừa là căn cứ, vừa là công cụ cơ bản của quản lý nhà nước về tôn giáo, vì vậy

Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách cũng như xây dựng, hoàn chỉnh

hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng,

30

tôn giáo là cần thiết.

Hai là, quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo rất phức tạp và đa dạng, nhạy cảm liên

quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực. Vì vậy, quy định tổ chức bộ

máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động rất quan trọng.

Nhà nước ban hành các quy định về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo một cách thống nhất từ trung ương đến cơ sở, được quy định

chức năng nhiệm vụ một cách rõ ràng, phân cấp, phân quyền phù hợp. Nhờ

vậy mới có thể thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo một cách

toàn diện, tránh được sự chồng chéo hoặc buông lỏng. Quyết định số

32/2018/QĐ-TTg, ngày 03/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ

trực thuộc Bộ Nội vụ được ban hành đã quy định một cách đầy đủ về tổ chức

và nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng,

tôn giáo tại Việt Nam hiện nay

Ba là, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Trên cơ sở các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các cơ quan

QLNN về tôn giáo đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các

văn bản pháp luật. Đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành

để thực hiện đầy đủ và kịp thời các hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng,

tôn giáo như: xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo, xét duyệt chương

trình mục vụ thường xuyên và đột xuất, quản lý đào tạo chức sắc tôn

giáo,…Nhờ sự tích cực, chủ động trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật

về tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan quản lý nhà nước mà hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo đã hoạt động đúng theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Bốn là, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Đây là nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn

giáo nhằm tiếp tục quán triệt triển khai, tuyên truyền, phổ biến kịp thời các

chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn

31

giáo cho cán bộ, công chức, viên chức, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn

giáo và Nhân dân, từ đó tạo sự thống nhất trong nội bộ và sự đồng thuận

ngoài xã hội; góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã

hội, phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, các nội dung tuyên truyền, phổ biến

tập trung là Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn có liên quan về tín

ngưỡng, tôn giáo; quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng và kiến thức

quốc phòng, an ninh có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo.

Năm là, nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo.

Đội ngũ cán bộ, công chức tham gia trong bộ máy các cơ quan quản lý

nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là nhân tố tác động trực tiếp đến công tác

quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hoạt động quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo rất phức tạp và đa dạng, nhạy cảm. Vì vậy cán bộ, công chức,

viên chức hoạt động trong lĩnh vực này cần được đào tạo, bồi dưỡng thường

xuyên để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng về kỹ năng, am

hiểu về tín ngưỡng, tôn giáo để hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.

Đầu tư nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều công

trình nghiên cứu công phu, sâu rộng sẽ tăng cường sự hiểu biết trong lĩnh vực

này. Đồng thời qua đó rút ra được những bài học, kinh nghiệm quý giá, giúp

quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực này có hiệu quả hơn.

Sáu là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm

pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là chức năng vốn có của hoạt động quản

lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra

giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ sở tôn giáo, các tín đồ, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo. Theo quy định, Ban Tôn giáo Chính phủ và Thanh tra Sở Nội vụ có

thẩm quyền thanh tra việc thực hiện quy định của pháp luật các nội dung:

Đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức

32

tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc;

đăng ký hội đoàn, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác; thành

lập, quản lý, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên

hoạt động tôn giáo; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách

chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo; thuyên chuyển nơi hoạt động của

chức sắc, nhà tu hành; đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo hàng năm của

tổ chức tôn giáo cơ sở; hội nghị thường niên, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ

chức tôn giáo trực thuộc; hoạt động xuất bản các xuất bản phẩm, ấn phẩm tôn

giáo; thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm của

cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện hoạt động tôn giáo; thực

hiện các nhiệm vụ khác khi được Bộ trưởng Bộ Nội vụ giao cho Ban Tôn giáo

Chính phủ; Giám đốc Sở Nội vụ giao cho Thanh tra Sở Nội vụ.

Sở Nội vụ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại,

tố cáo trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật; thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Việc xử lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn giáo và vi phạm

chính sách tôn giáo căn cứ theo Luật Khiếu nại, tố cáo và các chính sách tôn

giáo của Đảng, nhà nước để giải quyết ngay từ cơ sở và đúng thẩm quyền

pháp lý của từng cấp quản lý. Xử lý vi phạm chính sách tôn giáo theo các văn

bản pháp luật hiện hành của Nhà nước: Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự,

Luật Dân sự, Luật tín ngưỡng tôn giáo,…

Bảy là, quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

Nhà nước thực hiện quản lý việc xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối

ngoại tôn giáo. Các hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải

tuân thủ và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa

bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị. Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước

muốn mời tổ chức, cá nhân ở nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp

thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước

33

tham gia làm thành viên của các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài, tham gia các

hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài, thực hiện

theo quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài

không được tổ chức điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động

tôn giáo, không được truyền bá tôn giáo. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong

nước muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép các cơ quan quản

lý nhà nước.

Công tác QLNN đối với hoạt động PGNT hiện này được quy định trực

tiếp tại Khoản 6, Điều 21 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015).

Trong đó quy định UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn xem xét và giải

quyết việc đề nghị sửa chữa các công trình thờ tự, tín ngưỡng, tôn giáo của

nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật, xử lý hành vi xâm phạm

tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và

chính sách của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Tất cả những công việc

trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt công tác quản lý nhà nước

đối với hoạt động tôn giáo cần phải thực hiện tốt tất cả những công việc này.

1.4. Kinh nghiệm và bài học quản lý nhà nước về hoạt động Phật

giáo ở một số địa phương

1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương

1.4.1.1. Thành phố Cần Thơ

Sự hình thành và phát triển các tôn giáo tại Thành phố Cần Thơ khá đa

dạng. Hiện nay, thành phố Cần Thơ có 5 tôn giáo chính bao gồm: Phật giáo,

Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hoà Hảo. Phật giáo người Việt có

mặt ở Cần Thơ ngay từ khi vùng đất này được khai mở, do những di dân từ

miền Bắc, miền Trung đem theo tôn giáo này từ nguyên quán đến vùng đất

mới. Tổng số tín đồ 5 tôn giáo chiếm 32,93% dân số của tỉnh đại đa số là

nông dân và tầng lớp lao động.

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố Cần Thơ, các

tôn giáo cũng có những đóng góp tích cực trên các lĩnh vực, góp phần cùng

34

Nhà nước chăm lo cho người nghèo thông qua các chính sách an sinh xã hội,

hoạt động nhân đạo, từ thiện, chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, chuyển

viện cấp cứu miễn phí, làm cầu, đường giao thông, tặng nhà tình thương, học

bổng…; ngoài những đóng góp về vật chất, văn hoá và đạo đức tôn giáo cũng

đã góp phần giữ gìn sự ổn định, nâng cao giá trị đạo đức, tinh thần trong nhân

dân, giữ gìn bản sắc truyền thống, văn hoá dân tộc của con người Việt Nam,

con người Cần Thơ. Để đạt được kết quả trên là nhờ Cần Thơ đã làm tốt công

tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo. Hệ thống chính trị của thành

phố Cần Thơ quán triệt và vận dụng thực hiện một cách phù hợp, sáng tạo

những đường lối, chủ trương, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và nhà

nước. Cụ thể: Thành uỷ ban hành Quy chế 04 quy định hệ thống chính trị

trong tỉnh tham gia làm công tác tôn giáo, lập ban chỉ đạo công tác tôn giáo,

Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Bản quy định về phân cấp quản lý giải

quyết những vấn đề tôn giáo trong tỉnh, Ban Tôn giáo chỉ ra quy chế hoạt

động của Tổ công tác tôn giáo ở xã, phường, thị trấn…

Bên cạnh đó cả hệ thống chính trị các cấp thành phố Cần Thơ còn tác

động vào các tôn giáo trong tỉnh bằng tăng cường các cuộc sinh hoạt học tập,

thực hiện tốt chủ trương, chính sách đáp ứng nhu cầu hợp lý của các tôn giáo

tập hợp đoàn kết, chăm lo đời sống, xây dựng lực lượng ở cơ sở, cốt cán.

Thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp

luật cho chức sắc, chức việc các tôn giáo. Trong quá trình thực hiện công

cuộc cải cách hành chính, thành phố Cần Thơ xây dựng và thực hiện các thủ

tục hành chính theo quy trình ISO (Tiêu chuẩn hóa quốc tế) đã được công bố

về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện giải quyết thủ tục hành chính qua

dịch vụ công trực tuyến nhằm tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tôn giáo

hoạt động. Nhờ vậy góp phần ổn định an ninh tôn giáo, tạo ra môi trường sinh

hoạt tôn giáo lành mạnh, bình đẳng, an toàn.

1.4.1.2. Tỉnh Sóc Trăng

Sóc Trăng là tỉnh có đông đồng bào Khmer nhất cả nước với trên

35

400.000 người, chiếm 31% dân số của tỉnh, hầu hết theo PGNT. Toàn tỉnh có

92 ngôi chùa Khmer với gần 2.000 vị sư sãi, chức sắc tôn giáo [19].

Thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ

7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo, tỉnh Sóc

Trăng đã quan tâm xây dựng và triển khai thực hiện tốt các chính sách về văn

hóa, giáo dục trong cộng đồng PGNT Khmer như: mở lớp bồi dưỡng kiến

thức quản lý cho hàng trăm sư sãi, chức sắc; có cơ chế, chính sách hỗ trợ và

vận động xã hội hóa để trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự của PGNT Khmer, bảo

tồn và phát huy các lễ hội truyền thống; chính sách hỗ trợ sinh hoạt đối với

chức sắc; chính sách hỗ trợ đào tạo đội ngũ sư sãi, chức sắc; hỗ trợ xuất bản

kinh sách; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hàng trăm cơ sở thờ

tự; vận động sư sãi, chức sắc tham gia các hoạt động xã hội và các tổ chức

địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của

đoàn thể nhân dân…Đặc biệt việc cấp phát báo, tạp chí cho 92 chùa Khmer trên

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các sư sãi, chức sắc và

phật tử; nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, sư sãi Khmer và

đồng bào Khmer; góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới trong đồng bào

Khmer của tỉnh.

Với sự quan tâm của chính quyền, tình hình tôn giáo trên địa bàn đã

chuyển biến tích cực. Hầu hết sư sãi, chức sắc đều thể hiện sự an tâm, phấn

khởi, sống “tốt đời, đẹp đạo”, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Trà Vinh

Từ thực tiễn trong quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo nói

chung và quản lý nhà nước về PGNT nói riêng tại một số địa phương có điều

kiện tương tự, bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Trà Vinh trong công tác

quản lý nhà nước về PGNT như sau:

Một là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn

giáo, cần quán triệt để có nhận thức đúng về tôn giáo. Tiếp tục quan tâm

36

nhiều hơn và chủ động lập kế hoạch xây dựng, phát triển đời sống văn hóa

của đồng bào theo tôn giáo. Việc chủ động lập kế hoạch sẽ giúp tránh được sự

lúng túng, sai sót trong quá trình triển khai các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước đối với các tín đồ. Để làm được điều này, cần phải đào tạo

và bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm bảo đảm đội ngũ cán bộ có

năng lực và chuyên môn tốt, góp phần thực hiện tốt các chính sách liên quan.

Hai là, cần có một cơ chế lãnh đạo quản lý, vận động phù hợp đối với

công tác tôn giáo - phân công rõ, phân cấp phù hợp, thiết lập các quan hệ phối

hợp giữa các ngành liên quan.

Ba là, đầu tư thích hợp cho công tác tôn giáo như xây dựng bộ máy

chuyên trách công tác tôn giáo đến tận cấp cơ sở. Từng cấp nên chỉ có một đầu

mối chung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo để đảm bảo tính thống nhất.

Bốn là, có nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao trình độ học vấn của

nhân dân, đặc biệt là các tín đồ tôn giáo, nhằm giúp họ nhận thức đúng đắn và

đầy đủ về các chính sách phát triển văn hóa, giáo dục ở địa phương. Để làm

được điều này, cần tăng cường đầu tư giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện để hầu

hết con em trong độ tuổi đến trường.

Năm là, tiếp tục củng cố các cơ sở tôn giáo hiện có. Tăng cường quản lý,

kiểm tra, kiểm soát văn hóa phẩm của tôn giáo. Đa dạng hóa các hình thức thông

tin tuyên truyền, phim ảnh và các ấn phẩm văn hóa bằng song ngữ Việt - Khmer.

Sáu là, chăm lo đào tạo, có chính sách thỏa đáng đối với sư sãi; khắc

phục khuynh hướng thương mại hóa trong việc tổ chức các lễ hội.

37

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nếu so với bề dày lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam thì sự có mặt

của PGNT trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam được xem là khá khiêm

tốn.Tuy nhiên trong thời gian tồn tại và phát triển của mình, PGNT cũng đã

có những đóng góp nhất định cho thành quả chung của Phật giáo Việt Nam.

Có thể nói từ khi du nhập Việt Nam, PGNT đã biết cách thể hiện khá

nhuần nhuyễn tinh thần khế lý khế cơ của Phật giáo, và nhờ vậy không lạ gì

thành quả của quá trình vận động thống nhất Phật giáo nước nhà gặp rất nhiều

thuận duyên, trong đó có sự đóng góp quan trọng của sư tăng, tín đồ PGNT

trải qua các thời kỳ. Xác định lập trường quan điểm nhập thân phấn đấu cho

lý tưởng phục vụ vì sự nghiệp chung của Phật giáo Việt Nam, nhằm phát huy

ánh sáng chánh pháp của đức Phật được lưu lộ và tồn tại mãi trên quê hương

Việt Nam, vì đại nghĩa dân tộc và an lạc hạnh phúc của nhân dân, chư tăng,

tín đồ PGNT nói chung và tín đồ PGNT ở tỉnh Trà Vinh nói riêng đang phấn

đấu tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống phục vụ đạo pháp và dân tộc

trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tuy nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực thì niềm tin tôn giáo của các

tín đồ cũng rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để gây ra những ảnh hưởng

bất lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước tình hình như vậy,

công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo nói chung và các

hoạt động tôn giáo của PGNT tại tỉnh Trà Vinh nói riêng là rất cần thiết. Việc

tăng cường quyền lực, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối

với các hoạt động tôn giáo là một tất yếu khách quan vừa mang tính Đảng,

vừa mang tính nhân dân sâu sắc.

Để tăng cường hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo thì không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà quản lý -

đó là chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, mà còn chịu ảnh hưởng của

nhiều yếu tố như đặc điểm tôn giáo, quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, thể

chế chính trị, lịch sử, văn hóa,… Nhưng dù thực hiện quản lý nhà nước đối

với các hoạt động tôn giáo theo phương pháp, cách thức nào thì việc bảo đảm

quyền tự do tôn giáo của nhân dân vẫn là điều cần phải đặt lên hàng đầu.

38

CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH

2.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh

Trà Vinh

Trà Vinh là tỉnh Duyên hải ở phía Đông Nam ĐBSCL, nằm giữa sông

Tiền và sông Hậu, với diện tích tự nhiên là 2.358 km². Vị trí địa lý giới hạn

từ: 9°31’46’’ đến 10°04’5” vĩ độ Bắc và 105°57’16” đến 106°36’04” kinh độ

Đông. Phía Bắc, Tây - Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long; phía Đông giáp tỉnh Bến Tre

với sông Cổ Chiên; phía Tây giáp tỉnh Sóc Trăng với Sông Hậu; phía Nam,

Đông - Nam giáp biển Đông với hơn 65 km bờ biển. Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn

vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm thành phố Trà Vinh, thị xã

Duyên Hải và 07 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành,

Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú với 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã.

Địa hình Trà Vinh mang tính chất vùng đồng bằng ven biển, chịu ảnh

hưởng bởi sự giao thoa giữa sông và biển đã hình thành các vùng trũng,

phẳng xen lẫn các giồng cát, các huyện phía bắc địa hình bằng phẳng hơn các

huyện ven biển, địa hình dọc theo 2 bờ sông thường cao, vào sâu nội đồng bị

các giồng cát hình cánh cung chia cắt tạo nên các vùng trũng cục bộ, xu thế

độ dốc chỉ thể hiện ở trên từng cánh đồng. Nhìn chung địa hình thuận lợi cho

sản xuất nông nghiệp từ 0,6 - 1m thích hợp cho tưới tiêu tự chảy, ít bị hạn

cũng như không bị ngập úng.

Trà Vinh có số dân là 1.009.168 người, chiếm 5,84% Đồng bằng sông

Cửu Long (theo điều tra dân số năm 2019), có 275.817 hộ dân cư trong đó

41.481 hộ sống ở khu vực thành thị (chiếm 15%), 234.336 hộ sống ở khu vực

nông thôn (chiếm 85%). Mật độ dân số 414 người/km².

Trên địa bàn Trà Vinh có 29 dân tộc sinh sống, nhưng đông nhất là 03

dân tộc Kinh (69%), Khmer (29%) và dân tộc Hoa (1%); có 59 xã, phường,

thị trấn có trên 20% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Trà Vinh là địa bàn

39

cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc

trưng như tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.

Trà Vinh là tỉnh nghèo khoáng sản, chỉ có cát xây dựng nhưng lại có bờ

biển dài 65 km. Vùng biển ở khu vực Trà Vinh có nguồn tài nguyên phong

phú, có giá trị kinh tế cao, cùng với hệ thống sông ngòi chằng chịt, nguồn lợi

thuỷ sản nội đồng, ven biển sẽ là tiềm năng lớn để thúc đẩy nền kinh tế của

tỉnh phát triển. Trung tâm tỉnh lỵ nằm trên quốc lộ 53, cách thành phố Hồ Chí

Minh gần 200 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km. Trà Vinh nối với thành

phố Vĩnh Long bằng quốc lộ 53, tuyến thông thương đường bộ duy nhất nối

Trà Vinh với các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam.

2.2. Hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển

Trà Vinh có 9 tôn giáo chính đang hoạt động là là Phật giáo, Công giáo,

Cao Đài, Tin Lành, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Hồi giáo, Tứ Ân Hiếu

nghĩa, Bửu sơn kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo. Toàn tỉnh có 399 cơ sở thờ

tự, 6.700 chức sắc, chức việc và khoảng hơn 550 ngàn tín đồ các tôn giáo

chiếm 54% dân số.

Phật giáo Nam Tông đã có mặt ở Trà Vinh từ rất sớm, vào năm 373 thế

kỷ IV Sau Công nguyên, chùa Som Bua Răng Sây (Som Bua) ở xã Hòa Ân,

huyện Cầu Kè là ngôi chùa đầu tiên của PGNT trên địa bàn tỉnh được hình

thành [48, tr. 212].

Có thể nói, PGNT giữ vai trò độc tôn trong đời sống cộng đồng của

đồng bào Khmer; ngôi chùa PGNT vừa là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, vừa là

trung tâm văn hóa của cộng đồng dân tộc Khmer ở Trà Vinh. PGNT ở Trà

Vinh là một hệ phái Phật giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc

và cách mạng Việt Nam. Chư tăng PGNT Trà Vinh sớm giác ngộ cách mạng,

sớm tham gia phong trào yêu nước giải phóng dân tộc. Ngay từ những năm

1930, sư sãi PGNT đã góp phần mình vào công cuộc cách mạng do Đảng

40

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nhiều sư sãi

đã tham gia phục vụ cách mạng, nhiều ngôi chùa như đã trở thành nơi nuôi

giấu cán bộ cách mạng.

Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược nhiều sư sãi và

phật tử PGNT đã một lòng theo Đảng tham gia cách tham gia đánh đuổi giặc

ngoại xâm. Đặc biệt là vào ngày 20/3/1965 dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Khu

Tây Nam Bộ và Tỉnh ủy Trà Vinh, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà

Vinh được thành lập. Ngay từ những ngày đầu thành lập, dưới sự lãnh đạo

của Khu ủy Khu Tây Nam bộ và Tỉnh uỷ Trà Vinh, Hội đã tập hợp sư sãi và

tín đồ PGNT theo cách mạng, nhiều ngôi chùa PGNT Khmer đã trở thành cơ

sở cách mạng, như: chùa Ô Mịch (xã Châu Điền, huyện Cầu Kè), chùa Mé

Láng (xã Định An, huyện Trà Cú); chùa Căn Nom (xã Trường Thọ, huyện

Cầu Ngang) chùa Ấp Sóc (xã Huyền Hội, huyện Càng Long), chùa Pro Khúp

(xã Ngũ Lạc, huyện Duyên Hải)… Nhiều vị cao tăng đã vận động sư sãi và

Phật tử đấu tranh chính trị như: Sư cả Thạch Phát, Hòa thượng Kim Nhiêu

Kem, Thượng tọa Kim Túc Chơn, Hòa thượng Kim Chao, Hòa thượng Thạch

Còn, Hòa thượng Trầm Phước Tỵ, Hòa thượng Trần Dạnh, Hoà thượng Lâm

Co, Hòa thượng Thạch Út… Đồng thời cũng có nhiều sư sãi đã theo tiếng gọi

thiêng liêng của Tổ quốc khoác áo Cà sa đi kháng chiến và đã hy sinh thân

mình để giành độc lập tự do cho dân tộc, tiêu biểu là những tấm gương tu sĩ

Liệt sĩ Dương Sóc, Liệt sĩ Kim Sum, Liệt sĩ Kim Nang, Hòa thượng Sơn

Vọng, Hòa thượng Thạch Som đã khoác áo cà sa đi kháng chiến giành độc lập

tự do cho dân tộc, cho Tổ quốc “Đi làm cách mạng là làm phước” (Cố Đại lão

Hòa Thượng Thạch Som, Nguyên Đệ Tam Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo

Việt Nam).

Sau năm 1975 đến nay, PGNT của tỉnh tiếp tục đồng hành cùng dân

tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đặc biệt là từ năm 1981 đến nay với tinh

thần đoàn kết, hòa hợp tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động PGNT

41

tỉnh tiếp tục lãnh đạo sư sãi và tín đồ tiếp tục đẩy mạnh việc hoằng pháp độ

sinh hướng dẫn sư sãi và đồng bào Phật tử hành đạo đúng đường hướng của

Giáo hội. Mặt khác, là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực

phòng, chống và làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực

thù địch nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp

phần nền móng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của GHPG

nước nhà trong lòng dân tộc và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Được sự chấp thuận của UBND và sự giúp đỡ của các Sở, ngành và

chính quyền các cấp trong 02 ngày 11 và 12/10/1993 Đại hội đại biểu Phật

giáo tỉnh Trà Vinh lần thứ I (nhiệm kỳ 1993 - 1998) được tiến hành long trọng

tại hội trường Thành ủy thành phố Trà Vinh. Đây là Đại hội mang tính bước

ngoặt đánh dấu sự ra đời của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh. Phật giáo Trà

Vinh đến nay đã qua 06 kỳ Đại hội Ban Trị sự Phật giáo tỉnh.

Tính từ Đại hội lần thứ I của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đến nay,

PGNT ở Trà Vinh có nhiều vị cao tăng đạo cao đức trọng, đã được Đại hội

đại biểu Phật giáo cả nước suy tôn vào Hội đồng chứng minh, suy cử vào

thành viên Hội đồng trị sự và là thành viên các Ban, Viện của Giáo hội Phật

giáo Việt Nam như: HT. Ma Ha Thạch Sa Rây, HT. Thạch Xom là Phó Pháp

chủ, Hội đồng chứng minh; HT. Thạch Sok Xane, Phó chủ tịch Hội đồng trị

sự giáo hội Phật giáo Việt Nam, v.v…

Dưới sự lãnh đạo của GHPGVN, cùng với sự nỗ lực của sư sãi, tín đồ

PGNT, nhiều hoạt động Phật sự của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã thu

được những thành tích đáng ghi nhận, góp phần vào việc xây dựng và phát

triển ngôi nhà chung GHPGVN, nhiều vị giáo phẩm PGNT đã tích cực tham

gia các phong trào ở địa phương, được nhân dân tín nhiệm bầu vào các tổ

chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân các cấp.

Với trí tuệ, đức độ và uy tín của nhà tu hành, nhiều vị giáo phẩm đã đóng góp

những ý kiến hiệu quả giúp cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội và thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, thực

42

hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, để cùng xây dựng quê hương Trà Vinh vững

mạnh, giàu đẹp.

2.2.2. Số lượng tín đồ, chức sắc

Số lượng chư tăng PGNT tỉnh Trà Vinh nhiều nhất so với số lượng chư

tăng cùng hệ ở các tỉnh khác ở Nam Bộ. Tính đến hết năm 2019, PGNT tại

tỉnh Trà Vinh có 3.371 vị tăng. Hầu hết chức sắc PGNT Khmer ở tỉnh Trà

Vinh có phẩm trật là Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng đều có trình độ học

vấn từ lớp 9/12 trở lên và đều tốt nghiệp Trung cấp Pali.

Bảng 2.1: Số lượng các chư tăng PGNT tỉnh Trà Vinh

Đơn vị: người

Tỳ kheo và Tổng Năm Hòa thượng Thượng Tọa Đại Đức Sadi

2924 3.264 2016 35 48 257

2960 3.265 2017 32 53 218

2637 3.342 2018 26 54 625

1708 3.371 2019 24 57 1582

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo các năm của Giáo hội Phật giáo

tỉnh Trà Vinh

Số lượng các chức sắc của PGNT tỉnh Trà Vinh cũng đã có sự gia tăng

qua các năm, tuy nhiên con số này là không lớn. So với số lượng các tín đồ thì

được đánh giá là khá mỏng bởi số lượng tín đồ của PGNT tỉnh Trà Vinh lên

tới 305.000 người năm 2019.

Để đáp ứng nhu cầu tu học ngày một nâng cao của sư sãi Nam Tông

Khmer, PGNT tỉnh Trà Vinh đã thành lập Trường Trung cấp PGNT Khmer.

Trường Trung cấp Phật học Trà Vinh có 45 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa IV,

khóa V và 60 Tăng Ni sinh đang theo học Trường Trung cấp Phật học tỉnh.

Trường Trung cấp Pali Khmer tỉnh hiện có 95 Tăng sinh đang theo học, và đã

tốt nghiệp ra trường 27 vị. Trong thời gian qua, việc giáo dục giáo lý, giáo

luật của PGNT cho các sư tăng, sư sãi của tỉnh Trà Vinh cũng đã đạt được

43

nhiều kết quả tích cực. Các lớp sơ cấp và trung cấp Phật học được mở thường

xuyên tại các địa phương. Chương trình đào tạo của các lớp cũng có sự đan

xen giữa kiến thức Phật học và kiến thức xã hội.

Trong năm 2019, Tăng Ni sinh trong tỉnh đã được Ban trị sự giới thiệu

theo học tại các trường ở các thành phố lớn và các tỉnh lân cận như: Học viện

Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tỉnh Bạc Liêu,

Thành phố Cần Thơ. Với sự kết hợp của Hội ĐKSSYN tỉnh, lớp Ngữ văn

Khmer các cấp học từ lớp 1 đến lớp 12 được mở rộng khắp. Đặc biệt, nhằm

nâng cao trình độ Phật học và thế học, đào tạo nguồn nhân lực kế thừa, hàng

năm đã có rất nhiều chư tăng của tỉnh Trà Vinh du học nước ngoài. Hiện nay,

toàn tỉnh có 59 vị đang du học trong đó có 54 vị hiện đang du học tại Thái

Lan, có 01 vị đã tốt nghiệp Thạc sĩ Quản lí Giáo dục và đang học chương

trình Tiến sĩ tại Trường Đại học Apollos, 01 vị du học tại Đài Loan, 02 vị học

Cao cấp Giảng sư, 02 vị học lớp Luật.

Trong những năm qua tình hình hoạt động của chức sắc, chức việc, nhà

tu hành và tín đồ PGNT cơ bản ổn định, tuân thủ pháp luật, yên tâm tu học,

hành đạo, thực hành tôn giáo theo đường hướng “tốt đời, đẹp đạo”. Các sư sãi

cũng là những tri thức, họ đã truyền dạy cho các thanh niên trong thời gian tu

học tại chùa toàn bộ những tinh hoa tri thức được tích lũy, giúp họ nâng cao

nhận thức và hiểu biết.

2.2.3 Cơ sở thờ tự và những hoạt động từ thiện nhân đạo, dạy học,

chữa bệnh, lao động sản xuất

Phật giáo tỉnh Trà Vinh hiện nay có 250 tự viện, trong đó PGNT

Khmer có 143 tự viện, Nam Tông Kinh có 4 tự viện. Như vậy, tính đến thời

điểm hiện tại, Trà Vinh là tỉnh có số chùa PGNT nhiều nhất so với các tỉnh

Nam Bộ. Phân bố địa bàn các ngôi chùa của PGNT Khmer tại tỉnh Trà Vinh

như sau:

44

Bảng 2.2: Phân bố chùa Nam Tông Khmer tại tỉnh Trà Vinh

Đơn vị: chùa

STT Địa phương Số lượng chùa

1 Huyện Trà Cú 44

2 Huyện Cầu ngang 23

3 Huyện Cầu Kè 22

4 Huyện Tiểu Cần 15

5 Huyện Châu Thành 15

6 Thành phố Trà Vinh 13

7 Huyện Duyên Hải 7

8 Huyện Càng Long 4

143 Tổng

Nguồn: Ban Tôn giáo tỉnh Trà Vinh

Các chùa tập trung hầu hết ở thành phố Trà Vinh và các huyện Trà Cú,

Cầu Ngang, Cầu Kè, Tiểu Cần, Châu Thành. Được sự quan tâm của các cấp

chính quyền và sự ủng hộ của tín đồ, phật tử, trong hai năm trở lại đây, PGNT

tỉnh Trà Vinh đã có 19 chùa tu sửa lại chính điện, xây mới 32 trai đường, 25

Niệm Phật đường và nhiều công trình phụ trợ khác khiến cảnh chùa ngày một

khang trang, giữ gìn được những đường nét kiến trúc cổ kính, là nơi bảo lưu

các di sản văn hóa đặc trưng của người Khmer. Hầu hết các tự viện trong tỉnh

đều được công nhận cơ sở thờ tự, tôn giáo tín ngưỡng văn minh. Sau khi được

sự thống nhất của GHPGVN và hệ phái Nam Tông về mẫu dấu thống nhất

trong toàn hệ phái, cho đến nay hầu hết các chùa PGNT đã khắc xong con

dấu, tạo điều kiện cho công tác quản lý tài sản của chùa, giao dịch hành chính

được thuận lợi.

Việc thực hiện in ấn kinh sách để nhằm phục vụ hệ thống giáo dục Phật

giáo đáp ứng yêu cầu đọc tụng, nghiên cứu, học tâp của sư sãi và đồng bào

Khmer luôn được quan tâm, đặc biệt là kinh sách bằng tiếng Pali. Dưới sự hỗ

trợ của các cấp chính quyền và GHPGVN, đã có 52 đầu kinh sách và hàng

45

nghìn quyển bằng chữ Khmer, chữ Pali được xuất bản. Kinh sách được phát

đến tận chùa, nhờ vậy mà hầu hết tủ sách các chùa ở Trà Vinh đã có Bộ Đại

tạng Kinh bằng tiếng Khmer được thỉnh từ Campuchia về.

Nhằm phát huy và bảo tồn các giá trị truyền thống và biệt truyền của

PGNT, đảm bảo việc tu học của chư tăng theo đúng truyền thống, PGNT tỉnh

Trà Vinh thường xuyên tổ chức các nghi lễ Phật giáo như lễ xuất gia, lễ Phật

đản, an cư kiết hạ, lễ dâng y… theo truyền thống. Đây cũng là dịp để tín đồ,

phật tử được thể hiện đức tin và tình cảm tôn giáo của mình, tạo không khí

vui tươi, phấn khởi trong đời sống người dân. Hàng năm, vào ngày 15/4 Âm

lịch, PGNT Khmer đều tổ chức lễ Phật đản trang nghiêm và long trọng, đồng

thời để thể hiện tấm lòng tri ân và tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sỹ đã hi

sinh vì Tổ quốc, vào dịp này PGNT Khmer cũng tổ chức các hoạt động nhằm

thể hiện đạo lý ‘‘uống nước nhớ nguồn’’.

Ngoài ra, vào những dịp lễ trọng, các chùa đều tổ chức lễ cầu an, cầu

siêu, hồi hướng công đức đến các vị tiền nhân đã có nhiều công lao và đóng

góp cho PGNT Khmer như Hòa thượng Sơn Vong, Hòa thượng Thích Huệ

Quang, Hòa thượng Thái Không, nhà sư liệt sỹ Dương Sóc, nhà sư liệt sỹ Kim

Nang, nhà sư liệt sỹ Kim Sum… đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,

độc lập tự do cho Tổ quốc. Các hoạt động thăm hỏi, mừng thọ các vị chức sắc

cao niên trong PGNT Khmer được tổ chức thường xuyên cũng đã tạo ra không

khí đoàn kết, gắn bó và thắm tình đạo vị trong Phật giáo tỉnh Trà Vinh.

Các chùa PGNT Khmer ở Trà Vinh đã thành lập được 68 dàn nhạc ngũ

âm, 39 bộ trống chhayam, 35 đội múa chằng, 10 đội ghe ngo… nhằm tạo

không khí vui tươi, phấn khởi và phát huy bản sắc của người Khmer. Hưởng

ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, các vị sư trụ trì, Ban Quản

trị chùa Khmer đã tích cực thực hiện và khuyến khích tín đồ thực hiện, nhiều

khóm, ấp có đồng bào Khmer sinh sống được công nhận là khóm, ấp văn hóa,

có 47 chùa được công nhận là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo văn minh.

46

Nhằm tạo điều kiện cho chức sắc và tín đồ PGNT có điều kiện tu học,

nâng cao kiến thức phật học và kiến thức xã hội, các chùa PGNT Khmer ở

Trà Vinh đã xây dựng được 58 phòng đọc sách với 156 bộ Tam tạng kinh

điển (tiếng Khmer) và 11 bộ chú giải kinh Tam tạng; có 107 dụng cụ truyền

thanh; 119 máy truyền hình công cộng…

Theo quan niệm của PGNT Khmer thì sư sãi và người dân có mối quan

hệ khăng khít với nhau, nên hoạt động từ thiện của chùa là việc làm thường

xuyên mang ý nghĩa cứu nhân độ thế. Các chùa là nơi cưu mang trẻ nhỏ côi

cút hoặc con nhà nghèo được ăn và học chữ. Hàng năm có 100% các chùa mở

lớp học khác nhau như lớp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, lớp học hè

cho các con em Phật tử, lớp Pali - Khmer với số lượng cụ thể như sau: Ngữ

văn Khmer mở được 5.086 phòng, có 114.848 học viên; sơ cấp Pali - Khmer

mở được 639 phòng, có 14.816 học viên; trung cấp Pali - Khmer mở được 78

phòng, có 2.332 học viên. Chùa còn là nơi giúp đỡ người già neo đơn. Gắn

với cuộc sống của dân cư nên các sư cũng đồng thời tham gia các hoạt động

xã hội, cũng nhằm mục đích cứu nhân độ thế.

Chính vì vậy, hoạt động từ thiện xã hội luôn được PGNT tỉnh Trà Vinh

coi là một trong những công tác trọng tâm, được chư tăng, phật tử tích cực

hưởng ứng các phong trào từ thiện nhân đạo như: xây cầu đường nông thôn,

bếp cơm từ thiện ở bệnh viện, bếp cơm mái ấm học đường, tặng tập viết, xe

đạp, học bổng cho học sinh nghèo, tặng quà cho bà con nghèo có hoàn

cảnh khó khăn, nuôi dạy trẻ mồ côi, người già neo đơn, xây nhà tình

thương,… Đặc biệt là tại các chùa còn thường xuyên tổ chức quyên góp

xây cầu nông thôn và bàn giao lại cho các địa phương, được các cấp chính

quyền và bà con đánh giá cao. Đây là hoạt động rất có ý nghĩa về phương

diện kinh tế, xã hội, mang lại hiệu quả thiết thực và có chiều sâu, nhất là

trong tình hình Đảng và Nhà nước ta quan tâm cho sự nghiệp xây dựng và

phát triển nông thôn, nâng cao đời sống kinh tế người nông dân.

47

Hiện nay, toàn tỉnh có 6 Tuệ Tĩnh đường, phòng phát thuốc từ thiện và

phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc tại các cơ sở Phật giáo, hoạt động có hiệu

quả, khám bệnh, châm cứu, bấm huyệt và bốc thuốc Nam giúp đỡ bà con

nghèo trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, Phật giáo tỉnh có Nhà dưỡng lão tại chùa

Liên Bửu (huyện Châu Thành) và Trung tâm Bảo trợ xã hội, Nhà dưỡng lão

tại chùa Long Hòa (huyện Trà Cú) nuôi và cấp dưỡng cho các cụ già và trẻ

em cơ nhỡ…

Các sư sãi PGNT cũng tích cực phối hợp với các vị tăng ni trong Ban

Trị sự Phật giáo để hướng dẫn, giúp đỡ người dân trong các hoạt động sản

xuất nông, lâm nghiệp, cùng cán bộ xuống đến khóm, ấp vận động bà con áp

dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả cây

trồng, vật nuôi. Cùng với sự giúp sức của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài

tỉnh, cuộc sống đồng bào Khmer tại Trà Vinh đã từng ngày đổi mới, theo kịp

sự phát triển của khu vực và trên cả nước.

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật

giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

2.3.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật

Tỉnh ủy Trà Vinh đã xác định công tác quản lý nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo nói chung và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động

PGNT Khmer là một trong những lĩnh vực công tác quan trọng. Trong nhiều

năm trở lại đây, tỉnh Trà Vinh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện

công tác quản lý nhà nước về PGNT. Các văn bản quản lý nhà nước ở lĩnh vực

này chưa được ban hành riêng rẽ mà thường lồng ghép trong các văn bản thể

hiện chủ trương, chính sách công tác để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đảm

bảo quốc phòng, an ninh trong vùng đồng bào Khmer - PGNT. Cụ thể như:

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI “Về công tác

tôn giáo”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình hành động số 18,

trong đó có nêu các tôn giáo được hoạt động đúng pháp luật, phát huy các

nhân tố tích cực, giá trị văn hóa, tính ngưỡng tốt đẹp của các tôn giáo để tôn

48

giáo có những đóng góp cho phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ

nạn xã hội, tham gia giáo dục, cảm hóa người lầm lạc.

Kế hoạch số 44/KH-UBND của UBND tỉnh Trà Vinh nhằm thực hiện

kế hoạch số 81-KH/TU ngày 23/4/2018 của Ban thường vụ tỉnh ủy về thực

hiện chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban bí thư về tăng cường công

tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới [51].

Quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 15/3/2018 ban hành Kế hoạch thực

hiện Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày 08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và

tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn

2017 - 2021” trên địa bàn tỉnh Trà Vinh [49].

Quyết định Số 13/2018/QĐ – UBND ngày 19/4/2018 Ban hành Quy

chế phối hợp thực hiện một cửa liên thông trong cấp giấy phép xây dựng mới

và sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nhằm tạo

điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo thực hiện các thủ tục hành chính [56].

UBND Trà Vinh đã tổ chức phổ biến, quán triệt rộng rãi trong cán bộ

công chức. Tại các hội nghị giao ban an ninh - quốc phòng hàng tuần. Tỉnh ủy

đã chỉ đạo cụ thể, giao ban cán sự Đảng UBND tỉnh chỉ đạo UBND tỉnh giao

cơ quan chuyên môn hướng dẫn các huyện, thị xã và thành phố triển khai thực

hiện nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời tổ chức phổ

biến, tuyên truyền cho cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh đến cơ sở tạo sự

chuyển biến trong nhận thức về chủ trương công tác đối với hoạt động tôn

giáo nói chung và PGNT nói riêng của Trung ương. Nhìn chung, việc quán

triệt và tổ chức triển khai thực hiện được tiến hành nghiêm túc, kịp thời theo

sự chỉ đạo của Trung ương, đảm bảo đúng yêu cầu đặt ra. Trong hệ thống

chính trị có sự thống nhất cao với chủ trương của Trung ương về giải quyết

vấn đề của PGNT; có sự chuyển biến, đổi mới tích cực trong cách nhìn nhận,

đánh giá vấn đề PGNT và xây dựng kế hoạch công tác quản lý nhà nước đối

với PGNT trong tình hình mới phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Trung ương

49

và sát với tình hình thực tế tại địa phương.

Hàng năm, tại các hội nghị sơ, tổng kết 6 tháng, 01 năm về công tác tôn

giáo của UBND tỉnh đều có đánh giá sơ kết về công tác quản lý nhà nước đối

với PGNT và đề ra các giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả đối với

công tác này. Trên cơ sở đó các sở, ngành liên quan căn cứ chức năng, nhiệm

vụ triển khai thực hiện, phối hợp thống nhất tham mưu UBND tỉnh xử lý, giải

quyết các vấn đề liên quan đến PGNT đảm bảo đúng quy định pháp luật.

2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật

giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

UBND đã chỉ đạo các ngành, địa phương quan tâm, thực hiện tốt công

tác phối hợp trong quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Giao Sở Nội vụ

(Ban Tôn giáo) là cơ quan chuyên môn làm đầu mối phối hợp với các ngành,

địa phương tham mưu giải quyết các nhu cầu tôn giáo.

Trong những năm qua tỉnh Trà Vinh đã quan tâm, củng cố, kiện toàn tổ

chức bộ máy làm công tác tôn giáo nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quản

lý nhà nước về trong tình hình mới. Về tổ chức bộ máy:

+ Cấp tỉnh:

Hiện nay, Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội Vụ gồm có 02 phòng (Tổng

hợp - hành chính và Nghiệp vụ) gồm 17 cán bộ công chức và lao động (01

Trưởng ban; 02 Phó Trưởng ban; 01 phó Phòng Tổng hợp - hành chính; 09

chuyên viên và 04 nhân viên văn phòng).

+ Cấp huyện:

Các phòng Nội vụ huyện, thị xã và thành phố đều bố trí từ 1-2 biên chế

(01 lãnh đạo phòng Nội vụ và 01 chuyên viên trực tiếp phụ trách về công tác

tôn giáo). Tuy nhiên có một số phòng chỉ bố trí 01 cán bộ phụ trách nên còn

gặp không ít khó khăn trong công tác theo dõi, quản lý các hoạt động tôn giáo

trên địa bàn (tổng số cán bộ làm công tác tôn giáo cấp huyện hiện nay là 28

người).

50

+ Cấp xã:

Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở các xã, thị trấn hầu hết là

những cán bộ kiêm nhiệm, chưa có cán bộ chuyên trách. Đa số đều bố trí Chủ

tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã và 01 cán bộ phụ trách công tác Văn hóa -

xã hội hoặc tư pháp xã kiêm nhiệm công tác tôn giáo.

UBND đã chỉ đạo các ngành, địa phương quan tâm, thực hiện tốt công

tác phối hợp trong quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Giao Sở Nội vụ

(Ban Tôn giáo) là cơ quan chuyên môn làm đầu mối phối hợp với các ngành,

địa phương tham mưu giải quyết các nhu cầu tôn giáo. Ban Tôn giáo - Sở Nội

vụ đã ký kết chương trình phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hội Nông

dân tỉnh và Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh về việc tuyên truyền, vận động

chức sắc, tín đồ tôn giáo chấp hành quy định pháp luật.

Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ đã chủ động phối hợp với Sở Tài nguyên -

Môi trường, Sở Xây dựng hướng dẫn các cơ sở Phật giáo chấp hành nghiêm

các thủ tục về cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

tham mưu UBND tỉnh chấp thuận cho phép xây dựng, giao đất, cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở Phật giáo theo đúng quy định.

Cùng với các ngành chức năng tỉnh (Ban Dân vận Tỉnh ủy, Uỷ ban Mặt trận

Tổ quốc tỉnh, Công an tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường) và

các địa phương tham mưu UBND tỉnh giải quyết các vấn đề phát sinh trên địa

bàn, một số vụ việc phức tạp; tổ chức tiếp xúc, gặp gỡ các chức sắc, chức việc

để tuyên truyền, vận động, động viên tín đồ thực hiện nghiêm chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia

các phong trào thi đua yêu nước, hưởng ứng các cuộc vận động của Trung

ương và địa phương... Mô hình kết hợp làm việc của các Sở liên quan cùng

giải quyết sự việc, giúp cho các chức sắc PGNT dễ hiểu, dễ chấp hành.

Ban Tôn giáo tỉnh luôn định kỳ họp liên ngành mỗi tháng họp một lần

nhằm thống nhất ý kiến trước khi tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết nhu

cầu của các tổ chức tôn giáo. Duy trì làm việc với Ban Trị sự Giáo hội Phật

51

giáo Việt Nam tỉnh và cá nhân chức sắc, trưởng điểm nhóm kịp thời nắm bắt

nhu cầu chính đáng và chấn chỉnh sai phạm (nếu có).Từ những hoạt động

phối hợp chủ động, có hiệu quả của các sở, ngành, địa phương có liên quan đã

góp phần tích cực vào việc ổn định tình hình tôn giáo trên địa bàn.

2.3.3. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về hoạt động Phật

giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

Trong những năm qua, người dân Trà Vinh đặc biệt là đồng bào theo

PGNT nơi đây được nắm bắt thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước, đó cũng là nhờ công tác tuyên truyền, chủ chương

chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước được triển khai và thực hiện tốt

trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Khi Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua năm 2016 và có hiệu lực

vào năm 2018 cùng với đó là Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ

quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo

được ban hành thì tỉnh Trà Vinh đã tổ chức Hội nghị quán triệt cho các cán bộ

chủ chốt lãnh đạo các Sở, ban, ngành của tỉnh; Ban Thường vụ các đoàn thể

của tỉnh,… và đặc biệt là gần 980 lượt là các vị sư cả nhất, sư cả nhì, achar

của các chùa PGNT để nắm được các chủ trương, chính sách và các quy định

của Nhà nước. 100% các đơn vị cấp huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức Hội

nghị quán triệt và phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nghị định số

162/2017/NĐ-CP của Chính Phủ cho toàn thể cán bộ chủ chốt, cán bộ công

tác tôn giáo của cấp huyện, cấp xã và toàn bộ các chức sắc PGNT trên địa bàn

tỉnh nắm thông suốt và thực hiện.

Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ đã tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị

1940/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo

cho hơn 3000 chức sắc nhà tu hành và 3.455 lượt cán bộ, công chức tham dự.

Qua đó cán bộ, công chức, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo nhận thức đầy

đủ hơn về chính sách đất đai của nhà nước ta có liên quan đến tôn giáo, để

chức sắc nhà tu hành bày tỏ chia sẻ, cảm thông và hợp tác với chính quyền

52

trong giải quyết vấn đề nhà đất liên quan đến tôn giáo theo quy định.

Các lớp bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng an ninh cho các chức sắc,

chức việc của PGNT cũng được tỉnh Trà Vinh tổ chức thường xuyên. Năm

2018, đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho 394 lượt chức

sắc, chức việc, nhà tu hành PGNT. Năm 2019, Ban Tôn giáo tỉnh đã phối hợp

với trường Chính trị và UBND các huyện, thành phố mở 6 lớp bồi dưỡng kiến

thức quốc phòng – an ninh cho chức sắc, nhà tu hành với 946 vị tham dự;

phối hợp với Vụ Pháp chế Thanh Tra, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức 1 lớp

tuyên truyền về Pháp luật cho chức sắc, chức việc các tôn giáo với số lượng

231 vị tham dự. Tuyên truyền pháp luật được thực hiện đa dạng thông qua các

loại hình: hệ thống báo chí; trang bị tài liệu, tờ rơi, đội thông tin lưu động, các

hoạt động văn hóa, thể thao, hội thi, đối thoại, tiếp xúc của cán bộ; đội ngũ

người có uy tín, tiêu biểu, các vị chức sắc tôn giáo, sư sãi, Achar; qua “Ngày

hội Đại đoàn kết dân tộc ở khu dân cư” dịp 18/11 hàng năm; qua các lễ hội

của đồng bào Khmer.

Thường xuyên tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng về hoạt

động PGNT bằng nhiều hình thức đã làm cho cán bộ Đảng viên và chức sắc,

tín đồ các tôn giáo hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm chính sách của Đảng

và Nhà nước ta hiện nay, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,

đoàn kết tôn giáo, tuân thủ pháp luật, giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền

quốc gia.

2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác quản lý

nhà nước về hoạt động Phật giáo Nam tông ở tỉnh Trà Vinh

Xuất phát từ đặc điểm, tình hình hoạt động tôn giáo của tỉnh, trong

nhiều năm qua, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh đã hướng

trọng tâm đến công tác bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ

làm công tác tôn giáo các cấp trong hệ thống chính trị nhằm tăng cường nhận

thức và nâng cao kỹ năng quản lý, xử lý các vấn đề tôn giáo. Tỉnh Trà Vinh

đã thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức

53

trên địa bàn tỉnh, tuyên truyền phổ biến pháp luật theo Quyết định số 306/QĐ-

TTg ngày 08/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành kế hoạch

triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định số 174/QĐ-TTg

ngày 09/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt “Đề án bồi

dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo giai đoạn 2017-2020” và Kế

hoạch số 1953/KH-BNV ngày 12/4/2017 của Bộ Nội vụ về việc triển khai

thực hiện Quyết định số 174/QĐTTg ngày 09/02/2017 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt “Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo

giai đoạn 2017 - 2020”. Nhờ đó mà hầu hết các cán bộ, công chức làm công

tác tôn giáo cấp tỉnh, huyện đều đã tham dự các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về

công tác tôn giáo của Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo

Chính phủ tổ chức.

Ngoài ra, Trường Chính trị tỉnh đã liên kết với Trường Đại học khoa

học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí Minh mở lớp Đại học chuyên ngành Dân

tộc – tôn giáo cho 121 cán bộ, công chức của tỉnh. Thông qua các lớp đào tạo,

bồi dưỡng mà các cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về hoạt

động tôn giáo đã nắm và hiểu được chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về tôn giáo tham mưu giải quyết các vấn đề tôn giáo trên

địa bàn kịp thời, đúng quy định pháp luật. Một số công chức cấp huyện còn

được cử tham dự lớp đào tạo thạc sĩ công tác tôn giáo tại các cơ sở giáo dục.

Đối với cấp xã, hàng năm Sở Nội vụ, Ban Tôn giáo đã tổ chức các lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tôn giáo dành cho Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch,

Phó Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn; UBND các huyện, thị xã và

thành phố tổ chức phổ biến, quán triệt cho cán bộ thôn, buôn, Tổ dân phố

nhằm nâng cao nghiệp vụ, xử lý tốt các vấn đề liên quan tôn giáo.

Năm 2019, Ban Tôn giáo tỉnh đã phối hợp với trường Chính trị và

UBND các huyện, thành phố tham gia báo cáo 03 lớp bồi dưỡng kiến thức

hành chính và kỹ năng, nghiệp vụ cho 408 cán bộ cấp xã nhằm nâng cao

nghiệp vụ cho cán bộ cấp cơ sở. Qua đó trình độ của cán bộ công chức làm

54

công tác tôn giáo được nâng lên rõ rệt về cơ bản đáp ứng được yêu cầu công

tác tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, hàng chục cán bộ của tỉnh theo học các lớp cao học,

nghiên cứu sinh thuộc các ngành như: lịch sử Đảng, luật, triết học, hành

chính,… đã thực hiện các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, tiến sĩ thuộc các

lĩnh vực có liên quan đến tình hình tôn giáo. Từ đó, đã xây dựng được đội ngũ

đông đảo các cán bộ ở các cấp có kiến thức về công tác tôn giáo. Đội ngũ cán

bộ làm công tác tôn giáo của Trà Vinh trở thành lực lượng đủ khả năng tuyên

truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước, của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh vào sâu trong đời sống và hoạt động của các

tín đồ tôn giáo trên địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng trong việc giữ vững và

ổn định tình hình hoạt động tôn giáo tại tỉnh trong nhiều năm qua.

2.3.5. Quản lý các hoạt động hành chính của Phật giáo Nam Tông ở

tỉnh Trà Vinh

Thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên

địa bàn tỉnh Trà Vinh, UBND đã chỉ đạo các sở, ban, ngành có liên quan và

Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thực hiện tốt các chủ trương,

chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi

cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành và các tín đồ của PGNT hoạt động tôn

giáo theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể như:

Nhằm tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến

các chức việc và tín đồ, tỉnh Trà Vinh còn hỗ trợ cho các chùa thành lập tủ

sách pháp luật và hỗ trợ các đầu sách như: 200 quyển Luật Đất đai; 310 quyển

Luật Hôn nhân và gia đình; 248 quyển Luật Bảo vệ Môi trường; 284 quyển

Luật Cư trú... Do kinh tế của địa phương còn rất khó khăn, đời sống vật chất

của sư sãi và tín đồ PGNT cũng còn nhiều khó khăn nên tỉnh đã tranh thủ

nguồn vốn từ Trung ương và ngân sách của địa phương, để đầu tư nhằm tiếp

tục phát triển toàn diện vùng đồng bào theo tôn giáo. Tỉnh đã hỗ trợ kinh phí

hoạt động cho Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh 300 triệu đồng/năm, hỗ trợ

55

mua sắm trang thiết bị văn phòng (máy photo, máy vi tính,...).

Ngoài ra tỉnh Trà Vinh còn hỗ trợ kinh phí tổ chức hội nghị chuyên đề

PGNT Khmer lần thứ VIII, và kinh phí tham dự hội nghị chuyên đề tại các

tỉnh Hậu Giang, Cà Mau, An Giang,… Tạo điều kiện thuận lợi cho trụ trì các

cơ sở thờ tự PGNT được xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, công trình phụ trợ,

nhập 196 bộ Đại tạng kinh để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tu học của sư sãi

và đồng bào phật tử, tạo điều kiện cho Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh và

Hội đoàn kết sư sãi yêu nước cấp huyện tổ chức các kỳ thi tốt nghiệp sơ cấp

(lớp 9) và trung cấp (lớp 12) Palo - Khmer,… Công nhận cơ sở thờ tự tín

ngưỡng, tôn giáo văn minh cho 96 chùa của PGNT. Công nhận di tích lịch sử

văn hóa cách mạng cấp tỉnh cho 10 chùa.

UBND Trà Vinh đã chỉ đạo Ban Tôn giáo triển khai hướng dẫn việc đăng

ký và cấp phép hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của Luật tín ngưỡng, tôn

giáo. Năm 2018 đến nay các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh

cũng đã cấp phép thành lập 02 cơ sở tôn giáo, bổ nhiệm trụ trì 11 chùa PGNT

Khmer. Thực hiện Công văn số 122/VPCP ngày 26/2/2004 của Văn phòng

Chính phủ về thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng đối với PGNT Khmer, Ban Tôn

giáo tỉnh Trà Vinh đã tham mưu Thường trực Tỉnh ủy và UBND hỗ trợ tiền khắc

dấu cho chùa PGNT Khmer trên địa bàn tỉnh, 143/143 chùa được khắc con dấu,

và sử dụng con dấu trong hoạt động Phật sự và trong quan hệ giao dịch theo quy

định của Hiến chương, Nội quy Tăng sự Trung ương.

Hàng năm, cứ khoảng cuối tháng 9 và đầu tháng 10, Ban Tôn giáo tỉnh

Trà Vinh đã chủ động ban hành công văn gửi Phòng Nội vụ các huyện, thành

phố trong tỉnh và các tổ chức tôn giáo của tỉnh nhắc nhở Ủy ban nhân dân cấp

xã và các tổ chức tôn giáo đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo năm sau

với thời hạn vào ngày 15/10 hàng năm theo pháp luật tôn giáo của Nhà nước

và hệ phái PGNT cũng không ngoại lệ.

Theo báo cáo tổng hợp hàng năm của Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ, tỉnh

Trà Vinh có trên 95% các chùa PGNT trong tỉnh có đăng ký Chương trình

56

hoạt động tôn giáo hàng năm đối với UBND cấp xã. Qua đó, tạo điều chính

quyền cơ sở tác động, điều chỉnh các hoạt động tôn giáo của các chùa PGNT

ngay từ đầu năm; tránh việc mất thời gian trong việc giải quyết các hoạt động

tôn giáo ngoài chương trình đăng ký.

Các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo còn tăng cường làm việc,

gặp gỡ, trao đổi hướng dẫn chức sắc, lãnh đạo tổ chức tôn giáo thực hiện tốt

việc sinh hoạt, hoạt động tôn giáo nhất là trong việc tổ chức Đại hội đại biểu

Hội đoàn kết sư sãi yêu nước lần thứ VII.

Ban Tôn giáo tỉnh chủ động phối hợp với các Sở, ngành đề xuất tham

mưu cho Tỉnh ủy và UBND tỉnh giao đất và cơ sở vật chất gắn liền với đất

cho các tổ chức của PGNT sử dụng vào mục đích tôn giáo, hỗ trợ và tạo điều

kiện giúp đỡ các tổ chức tôn giáo trong các ngày lễ trọng.

Tổ chức các đoàn đi thăm, chúc mừng, tặng quà đối với tổ chức, cá

nhân tôn giáo trong ngày lễ trọng của PGNT góp phần tích cực trong việc

tăng cường tình cảm, gắn kết giữa các tổ chức tôn giáo với chính quyền.

Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo của tỉnh Trà Vinh còn

cử đại biểu tham dự Hội nghị tổng kết công tác Phật sự hàng năm và thực

hiện việc trao tặng bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho các tập thể và cá

nhân của PGNT vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào xây

dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư - tốt đời đẹp đạo. Thông qua công tác

khen thưởng đã động viên rất lớn tinh thần tập thể tăng tín đồ PGNT ở tỉnh

Trà Vinh. Chính từ đó, các chư tăng, tín đồ PGNT ngày càng phát huy truyền

thống yêu nước, tiếp tục đóng góp công sức của mình cho sự nghiệp cách

mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Người Khmer ở Trà Vinh và người Khmer ở Vương quốc Campuchia

vốn có mối quan hệ đồng tôn giáo, đồng văn hóa; có ngôn ngữ, chữ viết

chung và ít nhiều có mối quan hệ mang tính tộc người. Do vậy, việc quan hệ

làm ăn sinh sống, thăm thân nhân giữa người Khmer ở Trà Vinh và người

Khmer ở Vương quốc Campuchia diễn ra rất phổ biến. Về tôn giáo, vào thời

57

Pháp thuộc ít nhiều PGNT Khmer có phụ thuộc vào Phật giáo Vương quốc

Campuchia. Vì vậy, để thực hiện Quyết định số 79/2010/QĐ/-TTg ngày

30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế Quản lý nhà nước về

thông tin đối ngoại, Tỉnh ủy Trà Vinh đã ban hành Kế hoạch “về chiến lược

phát triển thông tin, đối ngoại”, UBND tỉnh Trà Vinh ban hành kế hoạch

“hoạt động thông tin đối ngoại” trên địa bàn tỉnh, nhằm nâng cao nhận thức

về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tình hình mới.

Đồng thời quán triệt sâu sắc những chủ trương quan điểm cơ bản, những định

hướng chiến lược của Đảng ta trong công tác thông tin đối ngoại. Qua đó đã

tổ chức hội nghị tập huấn công tác thông tin đối ngoại cho chức sắc nhà tu

hành trong đó có sư sãi và đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh.

Trên tinh thần đó, trong những năm vừa qua, tỉnh Trà Vinh đã tạo điều

kiện thuận lợi cho cá tổ chức cá nhân tôn giáo trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt

công tác đối ngoại nhân dân như: tạo điều kiện để 07 vị cao tăng PGNT

Khmer thăm Phật giáo Vương quốc Campuchia theo lời mời của vua sãi Tep

Vong. Qua đó, giúp tổ chức cá nhân mà nhất là các tổ chức cá nhân có định

kiến với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhận thức đúng đắn về chủ

trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, Thường

trực Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành và UBND các huyện và

thành phố trong tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo trong

tỉnh làm tốt công tác đối ngoại.

2.3.6. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Hội đoàn kết sư sãi

yêu nước tại địa phương

Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh, tiền thân là Hội sư sãi yêu

nước do khu ủy Tây Nam Bộ thành lập ngày 20/3/1965 nhằm mục đích tuyên

truyền vận động, tập hợp tầng lớp nhân sĩ, trí thức sư sãi Khmer yêu nước

đoàn kết cùng nhân dân trong tỉnh đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất

nước. Sau khi tái lập tỉnh, ngày 6/11/1992, UBND Trà Vinh đã ban hành

Quyết định công nhận Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh. Đến nay

58

Hội ĐKSS yêu nước tỉnh Trà Vinh đã tổ chức 07 kỳ Đại hội.

Ngày 09/11/2018, Chủ tịch UBND Trà Vinh đã ban hành Quyết định số

2253/QĐ-UBND về việc công nhận Ban Chấp hành; Ủy viên dự khuyết Ban

Chấp Hành; Ban Thường trực; Ban cố vấn và phê duyệt Điều lệ Hội Đoàn kết

sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2018 - 2023. Ngoài Ban

Chấp hành cấp tỉnh gồm 45 - 60 thành viên thì tùy từng địa bàn hành chính

cấp huyện mà Ban Chấp hành hội cấp huyện được bầu với số lượng từ 19 đến

39 thành viên. Ban chấp hành chi hội có số lượng là 7 đến 15 thành viên.

Nhiệm kỳ của các cấp hội là 5 năm. Trong quá trình thực hiện tùy theo tình

hình thực tế của các cấp hội, hàng năm có thể tổ chức hội nghị đại biểu để bầu

bổ sung Ban Chấp hành, hoặc điều chỉnh những công việc cần thiết. Hội Đoàn

kết sư sãi yêu nước tỉnh ngoài Ban Chấp hành, Ban cố vấn còn có ban chuyên

trách, cấp huyện có ban chuyên môn như sau: Ban Giáo dục và Đào tạo, Ban

Hoằng pháp - Tuyên truyền pháp luật, Ban Văn hóa - từ thiện xã hội, Ban

Kinh tế - Tài chính, Ban Kiểm soát - văn phòng, Ban Thư ký.

Hội đoàn kết sư sãi yêu nước do Ban dân tộc tỉnh trực tiếp quản lý.

Hàng năm, tỉnh hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của Hội, tạo điều kiện thuận lợi

cho Hội hoạt động theo Điều lệ đã được phê duyệt, qua đó phát huy được vai

trò của Hội trong đời sống xã hội, là nơi tập hợp sư sãi và đồng bào Khmer

đồng hành cùng dân tộc, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ

và phát triển đất nước, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh. Thường xuyên báo cáo tình hình liên quan đến Hội

đoàn kết sư sãi yêu nước theo sự chỉ đạo của Ban Tôn giáo Chính phủ.

2.3.7. Quản lý các hoạt động từ thiện, nhân đạo của Phật giáo Nam

Tông tỉnh Trà Vinh

Chính quyền và mặt trận tổ quốc các cấp đã cùng Hội đoàn kết sư sãi

yêu nước của tỉnh Trà Vinh đã tích cực tuyên truyền, vận động Sư sãi và Phật

tử của PGNT tham gia hưởng ứng công tác an sinh xã hội như: xây dựng cầu,

đường giao thông nông thôn ấp liền ấp, xã liền xã, cất nhà tình thương, nhà

59

tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, phát quà cho người nghèo nhân dịp lễ tết hàng

năm, bốc thuốc nam miễn phí cho bệnh nhân nghèo, nhận nuôi trẻ em mồ côi

và chăm sóc người già neo đơn, v.v…

Bên cạnh đó, các ngành chức năng như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y

tế, Sở Lao động Thương binh và Xã hội… của tỉnh cũng thường xuyên hướng

dẫn và giúp đỡ về mặt chuyên môn nghiệp vụ cho các cơ sở từ thiện xã hội

của PGNT như: các Tuệ tĩnh đường, nhà dưỡng lão, lớp học… thực hiện các

hoạt động từ thiện xã hội theo đúng qui định của pháp luật. Năm 2019, Sở

Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh đã tặng 351 quyển sách giáo khoa tiếng

Khmer quyển 5 và nhiều dụng cụ học tập khác. Đồng thời hỗ trợ kinh phí để

trả lương cho các giáo viên giảng dạy tại các điểm trường. Còn Sở Y tế hướng

dẫn và hỗ trợ về chuyên môn để các Tuệ tĩnh đường thực hiện tốt nhất việc

khám chữa bệnh cho người dân.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh các hoạt động từ thiện – xã hội của

các sư sãi và phật tử của PGNT có yếu tố nước ngoài diễn ra đa dạng với

nhiều hình thức như: các đoàn nước ngoài thăm, hoạt động từ thiện, tài trợ

kinh phí để xây dựng cơ sở tôn giáo, để truyền đạo… Nhận thấy đây là những

hoạt động dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa

đến tình hình an ninh trật tự nên các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo tại

tỉnh Trà Vinh rất chú trọng, quan tâm. Thường xuyên cử cán bộ theo dõi, nắm

bắt thông tin, tăng cường giám sát để bảo đảm các hoạt động từ thiện, xã hội

diễn ra theo đúng quy định của Pháp luật.

2.3.8. Đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo trên địa bàn

tỉnh Trà Vinh

Trong những năm gần đây nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức

khó khăn, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân

quyền để chống phá Đảng và Nhà nước ta, trong đó tôn giáo là một công cụ

để những thế lực thù địch lợi dụng gây mất trật tự an ninh xã hội, chia rẽ khối

đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, công tác tôn giáo của

60

toàn ngành được quán triệt và triển khai rộng rãi trên khắp các tỉnh thành

trong cả nước.

Trong quá trình quản lý hoạt động tôn giáo ở Trà Vinh trong thời gian

vừa qua đã gặp phải một số vấn đề nhạy cảm và phức tạp như tình hình tranh

chấp đất đai tại một số ít cơ sở tôn giáo (giữa sư sãi và tín đồ); một số tu sĩ trẻ

sử dụng tài khoản cá nhân trên internet chia sẻ các nội dung xấu độc, khơi gợi

lại vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ, chia rẽ đoàn kết dân tộc Kinh, Khmer,

chống Đảng, nhà nước và chế độ, ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước

về tôn giáo, trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị ở địa phương.

Do địa hình và chính trị ở Trà Vinh rất phức tạp và nhạy cảm; là một

tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer trong những năm gần đây, các tổ chức

phản động lưu vong, các hội nhóm “Khmer Campuchia Krôm” ở Campuchia

và các nước, cùng một số phần tử đội lốt tôn giáo được sự tài trợ và chỉ đạo

của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động

chống phá cách mạng; chúng lợi dụng các vấn đề có tính nhạy cảm trong dân

tộc, tôn giáo để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương

giáo nhằm âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” phá hoại sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Vì vậy, tại Trà Vinh, công tác phối hợp đấu tranh với việc lợi dụng tôn

giáo có sự phối hợp thường xuyên với các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể chính trị xã hội làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chủ

trương, chính sách, pháp luật của nhà nước trên các phương tiện thông tin đại

chúng góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, cũng như chức sắc, nhà tu

hành và tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt quan điểm, chính sách, pháp luật về

tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan báo, đài tăng cường đưa các tin,

bài phản ánh hoạt động của các thế lực phản động, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn

của các tổ chức này nhằm giúp cho đồng bào hiểu rõ hơn bản chất phản động

của chúng. Nhiều tin bài của báo chí, truyền thanh, truyền hình đã giúp chức

sắc, tín đồ hiệu rõ âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo và nhân quyền của các

61

thế lực nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng. Đồng

thời, qua công tác truyền thông góp phần vận động chức sắc, chức việc, tín đồ

các tôn giáo tích cực tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc,

phối hợp cùng các cơ quan chức năng chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn

chặn làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch lợi

dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng

góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn.

2.3.9. Thanh tra, kiểm tra, và giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các

vi phạm pháp luật liên quan tới hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh

Trà Vinh

UBND thường xuyên đôn đốc kiểm tra và giao Sở Nội vụ (Ban Tôn

giáo) chủ động nắm tình hình, thường xuyên theo dõi việc tổ chức thực hiện

của các địa phương; đồng thời hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đảm bảo

thực hiện đúng quy định của pháp luật. Hàng năm, UBND tỉnh giao Sở Nội

vụ (Ban Tôn giáo) tổ chức thanh tra, kiểm tra về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn

giáo, trong đó có công tác đối với PGNT, kịp thời phát hiện những thiếu sót

để sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế nhằm thực hiện tốt hơn công

tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, công

tác đối với PGNT nói riêng.

Để nắm chắc diễn biến tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa

bàn, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ Trà Vinh đã phối hợp với các Sở, ban, ngành có

liên quan và UBND các huyện, thành phố kịp thời giải quyết tốt các đơn thư

khiếu nại của các tổ chức, cá nhân tôn giáo căn cứ Luật Khiếu nại Tố cáo,

Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo… xử lý thấu tình, đạt

lý, không để xảy ra điểm nóng về tôn giáo kéo dài hoặc tồn đọng, đảm bảo

yêu cầu chính trị, pháp luật và nghiệp vụ của đơn vị.

Các địa phương đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện các

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nghiêm

túc, có chất lượng và hiệu quả. Các phòng chuyên môn đã chủ tải: đồng bám

62

sát chức năng nhiệm vụ được giao, nắm chắc tình hình diễn biến trong sinh

hoạt và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo trên địa bàn để tham mưu giải

quyết xử lý theo thẩm quyền, đúng quy định pháp luật các vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực tôn giáo.

2.4. Nhận xét về hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động

Phật giáo Nam tông ở tỉnh Trà Vinh

2.4.1. Kết quả đạt được

Đời sống của đồng bào có đạo trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển,

các hoạt động tôn giáo diễn ra sôi động như: với Phật giáo là Đại lễ Phật Đản,

Đại lễ kỷ niệm ngày thành lập GHPGVN, 143/143 chùa PGNT Khmer tổ

chức lễ dâng y cà sa, các cuộc lễ đều diễn ra ổn định, theo nghi thức tôn giáo

phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc.

Nói chung, các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đều tin tưởng vào chủ

trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, đó cũng là do có sự

trao đổi và sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp chính quyền tỉnh Trà Vinh

mà trong đó trực tiếp là sự quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ các tổ chức tôn giáo

của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, là việc thực hiện tốt công tác quản lý

nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Các đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách và Pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo đã được các cấp,

các ngành triển khai, tổ chức một cách kịp thời, vận dụng một cách đúng đắn.

Đa số các cấp ủy, chính quyền và mặt trận đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở,

nhất là đội ngũ cán bộ công tác tôn giáo đã có sự chuyển biến rõ nét về nhận

thức. Do đó công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung, công tác quản

lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT nói riêng được tăng cường. Công

tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh với các sở,

ban, ngành và UBND các huyện, thành thị về những nội dung liên quan đến

tôn giáo đã được đẩy mạnh, quá trình phối hợp được tiến hành chặt chẽ, đồng

bộ hơn đem lại kết quả rõ rệt. Vấn đề tôn giáo là trách nhiệm của hệ thống

chính trị, do công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã

63

hội, các cấp, các ngành, các địa bàn do Đảng lãnh đạo. Công tác phối hợp

giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị bước đầu phát huy trách nhiệm của

các ngành, các cấp trong việc tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh giải quyết

các vấn đề về tôn giáo đạt những kết quả quan trọng, đáng chú ý công tác

tranh thủ vận động hàng ngũ chức sắc, người có uy tín trong Phật giáo tham

gia vào các tổ chức xã hội, các cơ quan chính quyền đã có tác dụng tốt trong

việc tác động giáo hội, chức sắc PGNT hoạt động tuân thủ pháp luật, phản

bác lại các luận điệu xấu xuất hiện trong PGNT.

Cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở tỉnh Trà Vinh đã phối hợp và

quản lý tốt hoạt động của Hội ĐKSSYN trên địa bàn tỉnh để Hội phát huy

được vai trò tập hợp được chức sắc, sư sãi, tín đồ PGNT trong khối đại đoàn

kết toàn dân tộc, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào các phong trào yêu nước tại địa

phương, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh được

củng cố và từng bước kiện toàn, chất lượng của cán bộ công tác tôn giáo từng

bước được nâng lên. Không chỉ chú ý tập trung kiện toàn cơ quan quản lý nhà

nước về tôn giáo cấp tỉnh mà bộ phận phụ trách công tác tôn giáo cấp huyện

và cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo cấp xã cũng được quan tâm. Nhiều

nơi đã kịp thời điều động, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ

có trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị và tâm huyết theo yêu cầu nhiệm

vụ công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong tình hình mới.

Trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn

giáo đã có sự đổi mới về phương pháp và lề lối làm việc theo hướng chủ

động, thiết thực và chú ý hơn đến hiệu lực, hiệu quả. Công tác xử lý, giải

quyết về hoạt động của PGNT theo đúng quy định của luật tín ngưỡng tôn

giáo và Nghị định của Chính phủ. Những vụ việc phức tạp còn tồn đọng từ

nhiều năm trước từng bước được xử lý, những vụ việc mới phát sinh được

xem xét giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.

64

Tỉnh Trà Vinh đã nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách hành chính trong

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong cải cách thủ tục hành chính và đã bước đầu

thu được những kết quả khả quan. Việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông

trong giải quyết các thủ tục hành chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cá

nhân, tổ chức nói chung và các tổ chức PGNT nói riêng khi thực hiện các giao

dịch với các cơ quan nhà nước.

2.4.2. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác QLNN đối với hoạt động

PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh vẫn còn một số những hạn chế bất cập sau đây:

Một là, vẫn còn một số hạn chế trong công tác tuyên truyền, vận động

quần chúng, chức sắc; việc triển khai thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và

Nghị định 162 ở một số huyện vẫn còn lung túng, hướng dẫn quy trình, thủ

tục hồ sơ theo quy định của Luật chưa đảm bảo theo yêu cầu. Một số cấp ủy,

chính quyền ở một số huyện trên địa bàn tỉnh Trà Vinh chưa quan tâm đúng

mức công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo trong PGNT, công tác tuyên truyền tuy

có sự thay đổi nhưng tần suất tuyên truyền chưa nhiều. Công tác tuyên truyền

của Mặt trận cấp tỉnh chỉ làm điểm, còn lại các huyện, xã xây dựng kế hoạch

tuyên truyền rộng rãi trong dân, nhưng do thiếu kinh phí nên công tác tuyên

truyền còn gặp nhiều khó khăn.

Hai là, công tác tác tham mưu cho chính quyền cơ sở trong việc quản

lý, giải quyết và xử lý một số tình huống cụ thể liên quan đến tôn giáo trên địa

bàn thì một số công chức làm công tác QLNN về tôn giáo còn lúng túng và

chưa kịp thời, còn thụ động trông chờ vào việc hướng dẫn, xin ý kiến chỉ đạo

của tỉnh trong cả những tình huống đơn giản mà cấp huyện, cấp xã có thể chủ

động giải quyết được, vì vậy hiệu quả công tác QLNN trong lĩnh vực tôn giáo

ở một số địa phương chưa cao.

Ba là, công tác phát động quần chúng, xây dựng phong trào bảo vệ an

ninh Tổ quốc vùng đồng bào có đạo, tuyên truyền giáo dục trong nhân dân

65

các chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc, vạch rõ âm mưu thủ đoạn của

địch lợi dụng tôn giáo tuy đã được tiến hành thực hiện nhưng chưa được mở

rộng và triển khai đồng bộ. Chính vì vậy, dẫn đến sự thiếu đảm bảo an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trong đấu tranh ngăn chặn các phần tử lợi dụng

tôn giáo, tín ngưỡng để tung tin chống phá chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn

kết dân tộc.

Bốn là. cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác

QLNN đối với hoạt động PGNT ở Trà Vinh, cụ thể là giữa các sở ban ngành

liên quan với UBND các cấp còn thiếu chặt chẽ. Sự phối hợp giữa các ban

ngành đôi khi còn bị động, chưa chủ động giải quyết hiệu quả. Đôi khi xem

xét và xử lý vấn đề tôn giáo còn mang nặng cảm tính chính trị nên gây ngăn

cách giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Khi phát sinh

các vụ việc phức tạp trong PGNT mỗi cơ quan lại có cách ứng xử khác nhau

thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ đó mang lại hiệu quả không cao.

2.4.3. Nguyên nhân

Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chưa nhận thức đầy đủ về tầm

quan trọng việc thực hiện các văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác tôn

giáo; Công tác cụ thể hóa các chính sách của nhà nước tại địa phương còn gặp

nhiều khó khăn. Chưa thấy hết tính chất phức tạp của hoạt động tôn giáo vừa

là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân có tín ngưỡng, tôn

giáo vừa là nơi các thế lực thù địch dễ lợi dụng để lôi kéo quần chúng chống

phá chính quyền.

Trình độ năng lực chuyên môn của một số cán bộ chưa đáp ứng được

yêu cầu, nhất là cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở thiếu am hiểu về PGNT

nên phát hiện, đấu tranh xử lý các mâu thuẫn trong hoạt động sinh hoạt tôn

giáo chưa kịp thời. Một số ít cán bộ, công chức làm công tác dân tộc, tôn giáo

còn hạn chế về kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, chưa tương xứng với yêu cầu

66

công tác, nắm bắt tình hình chưa kịp thời, hiệu lực, hiệu quả công tác từng lúc

chưa cao, giải quyết một số vụ việc liên quan đến tôn giáo còn nóng vội.

Đại đa số tín đồ Phật giáo Nam Tông là đồng bào dân tộc thiểu số, đời

sống kinh tế còn nhiều khó khăn, việc tiếp cận với các phương tiện truyền

thông đại chúng tuy có nhưng vẫn còn khá hạn chế, trình độ dân trí thấp, hiểu

biết pháp luật ít nên dễ bị dụ dỗ, kích động.

Công tác tôn giáo nói chung và công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo

nói riêng vẫn là một lĩnh vực công tác chính trị đặc biệt, phức tạp và nhạy

cảm. Công tác kiểm tra đôn đốc của UBND tỉnh tuy đã có cải thiện nhưng

chưa được chú trọng quan tâm một cách thường xuyên, chưa thực sự coi đây

là nhiệm vụ thường xuyên, chưa tập trung chỉ đạo cũng như đôn đốc triển

khai thực hiện một cách triệt để.

67

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trà Vinh là một tỉnh có chiến lược quan trọng về kinh tế và quốc phòng

đối với vùng ĐBSCL và khu vực Tây Nam Bộ. Trà Vinh là địa phương giàu

phong tục tập quán, là nơi hội tụ của nhiều tôn giáo, là vùng đất đa tộc người

và đặc biệt đây là nơi cư tụ lâu đời nhất của người Khmer. Do vậy nơi đây

còn là cái nôi, là điểm hội tụ nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Khmer ở Đồng

bằng sông Cửu Long.

Trong thời gian qua tỉnh Trà Vinh có nhiều thành tựu nổi bật trong

công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông trên địa

bàn tỉnh. Cơ bản các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh Trà Vinh đã quản lý

được hoạt động đạo sự của PGNT theo đúng khuôn khổ của Hiến pháp và

pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, giúp

Phật giáo Nam Tông thực hiện đúng theo phương châm "Đạo pháp - Dân tộc

- Chủ nghĩa xã hội", các hoạt động đạo sự đều đồng hành cùng dân tộc, đồng

thời phát huy được mặt tích cực của PGNT trong hoạt động từ thiện xã hội,

góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách an sinh xã

hội tại địa phương.

Bên cạnh những thành tựu trong quản lý nhà nước đối với hoạt động

của PGNT vẫn còn một số hạn chế như: Nhận thức của một số cấp ủy đảng,

chính quyền còn xem nhẹ công tác quản lý nhà nước về công tác tôn giáo nói

chung, quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT nói riêng, một số cán

bộ công chức làm công tác tôn giáo chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính

sách của Đảng về công tác này, một số cán bộ chưa được đào tạo chuyên sâu,

ít am hiểu các kiến thức về PGNT nên nảy sinh tâm ý ái ngại khi tiếp xúc,

công tác tuyên truyền vận động tín đồ PGNT có hiệu quả chưa cao.

68

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG

Ở TỈNH TRÀ VINH

3.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Phật giáo Nam tông ở Trà Vinh

3.1.1. Những xu hướng tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho Phật

giáo Nam Tông phát triển phù hợp với thời kỳ hội nhập

Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế văn hóa thế giới đã ảnh hưởng sâu

sắc tới đời sống của các tín đồ PGNT. Vì vậy, Phật giáo Nam Tông cũng đã

có nhiều biến đổi cho phù hợp tình hình mới. Cách hành đạo và tu trì đã có

nhiều thay đổi. Hình thức khất thực, tụng niệm, hành lễ ngày càng giảm nhẹ

về thời gian và đơn giản về nghi thức giúp các tín đồ có thể dành nhiều thời

gian cho công cuộc mưu sinh.

Những biến đổi của xã hội đương đại khiến cho quá trình tu trì của các

nhà sư trở nên thoáng hơn, giáo ý không còn hà khắc như trước nữa. Ngày

nay đa số các chùa đều có tivi, internet, báo, thư viện,… để các nhà sư cập

nhật thông tin, nâng cao trình độ và đặc biệt là nâng tầm hiểu biết về các vấn

đề nhân sinh. Chính vì vậy, số lượng các nhà sư có trình độ cao ngày càng

tăng và khả năng hiểu biết uyên bác hơn, trở thành những hình tượng tiêu

biểu cho các tín đồ noi theo.

Cùng với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh, việc tuyên truyền phát

triển đạo là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ tôn giáo nào. Việc phát triển tín đồ,

mua đất, xây dựng mới cơ sở thờ tự của PGNT là một việc làm tất yếu và tiêu

chí quan trọng trong hoạt động phật sự của tôn giáo này. Do đó, trong thời

gian tới chắc chắn PGNT sẽ phát triển về số lượng tín đồ, chất lượng, cơ cấu

tổ chức các cấp đạo và quy mô cơ sở thờ tự của họ. Vấn đề đặt ra là các cơ

quan quản lý nhà nước tỉnh Trà Vinh cần có những kế hoạch với các nội dung

và biện pháp phù hợp để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt

động của PGNT, nhằm phát huy được các nguồn lực của PGNT vào sự phát

69

triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

trong thời gian tới.

3.1.2. Những xu hướng tạo nên thách thức đối với Phật giáo Nam

Tông trong tình hình mới

Sự thay đổi môi trường sống, sự giao thoa văn hóa cũng đã ảnh hưởng

không nhỏ tới việc thực hành tôn giáo của các tín đồ PGNT. Sự thay đổi trong

thực hành tôn giáo không chỉ biểu hiện ở việc giảm sút số lượng tín đồ đến

chùa tu học mà các lễ hội do nhà chùa tổ chức cũng không còn thu hút được

đông đảo nhân dân, đặc biệt là người Khmer trẻ tham dự.

Xu hướng tiếp theo là việc các tín đồ PGNT chỉ thực hành tôn giáo

giống như một dạng thức văn hóa mà che mẹ, anh em, bạn bè họ tuân theo và

chỉ có rất ít người hiểu được các nghi lễ ấy thực sự có ý nghĩa như thế nào

trong cuộc sống. Dù các nghi lễ tôn giáo vẫn được thực hiện thường xuyên

nhưng Phật giáo vẫn chưa thực sự đi vào đời sống tâm linh của họ. Rất ít người

tự nhận mình là tín đồ theo PGNT có thể hiểu được các triết lý của Phật giáo

hay hiểu được các ý nghĩa của các nghi lễ tôn giáo vẫn diễn ra trong cuộc sống

của họ. Điều này là do trong đời sống tôn giáo nói chung, người Việt Nam nói

chung thường đơn giản hóa những vấn đề lý luận, trọng thực hành và thường

vận dụng một cách linh hoạt các giáo lý của tôn giáo trong cuộc sống.

Xu hướng cải giáo đang trở nên phổ biến trong đời sống tôn giáo của

nhân dân tỉnh Trà Vinh và PGNT cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Do đó,

có thể nói rằng hiện nay không phải tất cả người Khmer sinh ra đều là tín đồ

PGNT. Bởi lẽ không gian xã hội của cá nhân ngày càng rộng mở đã tạo điều

kiện để các cá nhân không chỉ tiếp nhận các giá trị tôn giáo truyền thống mà

còn tiếp nhận các giá trị tôn giáo khác phù hợp với tâm lý, sở thích từng

người. Bên cạnh đó, một bộ phận cải giáo là do bị lôi kéo, tác động hoặc vì

lợi ích kinh tế trước mắt.

Thời gian gần đây, hiện tượng một số phật tử người Khmer ở Trà Vinh

đã bỏ đạo gốc PGNT để đi theo các đạo khác như Tin lành, Công giáo... Từ

70

đó, gây ra những mâu thuẫn về tình cảm tôn giáo ngay trong nội bộ cộng

đồng. Thậm chí, cùng một gia đình nhưng các thế hệ, các thành viên khác

nhau lại đi theo các tôn giáo khác nhau. Từ mâu thuẫn tôn giáo dẫn đến những

sự va chạm về lợi ích, quan điểm... tạo ra những nguy cơ gây mất ổn định

chính trị, trật tự an toàn xã hội [40, tr37].

Trong những năm tới, các lực lượng thù địch tiếp tục đẩy mạnh các

hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu thủ đoạn, hình

thức khác nhau. Chúng sẽ tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo làm mũi nhọn tấn

công chính trị gây sức ép với Việt Nam, đưa vấn đề tôn giáo là một nội dung

trong hoạt động "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam của chúng. Ý đồ của

chúng là dùng niềm tin tôn giáo để làm phai nhạt lòng tin của quần chúng tín

đồ với Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ dân với Đảng, tăng cường các hoạt

động phá hoại tư tưởng, thúc đẩy xu hướng chống đối của tôn giáo với Đảng.

Vì vậy tùy từng thời điểm và hoàn cảnh cụ thể mà hình thức chống phá của

lực lượng thù địch khác nhau. Nhưng nhìn chung, hoạt động lợi dụng PGNT

của tỉnh Trà Vinh sẽ diễn ra theo hai khuynh hướng.

Một là hoạt động theo khuynh hướng quá khích, chống đối cực đoan

như: lợi dụng chính sách mở cửa, dân chủ của Đảng để yêu sách "đòi tự do

tôn giáo, quan hệ với bên ngoài để hỗ trợ về vật chất, chỉ đạo hoạt động, soạn

thảo và phát tán tài liệu vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân

quyền. Lợi dụng mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, cơ sở vật chất, những sở hở

thiếu sót của cán bộ ta trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, chính sách

kinh tế xã hội để kích động, lôi kéo quần chúng biểu tình, gây rối an ninh trật

tự, bạo loạn chính trị; Chống phá, hạ uy tín các tổ chức tôn giáo hợp pháp, vô

hiệu hóa các chức sắc tiến bộ,…

Hai là hoạt động chống đối theo phương thức "Diễn biến hòa bình".

Chúng thường núp dưới vỏ bọc hoạt động thuần túy tôn giáo, hoạt động thích

nghi tôn giáo, dễ mất cảnh giác, khó áp dụng đối sách đấu tranh, ngăn chặn.

Biểu hiện của hoạt động này là triệt để lợi dụng đường lối đổi mới, mở rộng

71

dân chủ của Đảng, nhà nước để ngấm ngầm chống đối; Lợi dụng các hoạt

động từ thiện, nhân đạo xã hội trên các lĩnh vực để mở rộng phạm vi hoạt

động của giáo hội, tăng cường vai trò ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống

xã hội. Khi có thời cơ sẽ tập hợp lực lượng để tiến hành các hoạt động chống

đối; Tăng cường đào tạo giáo sỹ, củng cố nhân sự, tổ chức giáo hội cơ sở để

quản lý, kiểm soát, khống chế tín đồ. Đẩy mạnh hoạt động xin lại, đòi lại cơ

sở vật chất mà Nhà nước quản lý, sử dụng, xin xây dựng cơ sở vật chất mới,

xin tiếp nhận cơ sở vật chất, nhận hiến tặng cơ sở vật chất để phục vụ các hoạt

động mở rộng và phát triển tôn giáo,..

Việc phân chia thành hai khuynh hướng như trên chỉ mang tính tương

đối. Trong thực tế hiện nay và sắp tới đối tượng lợi dụng tôn giáo có thể cùng

lúc hoạt động theo cả hai khuynh hướng. Như vậy, PGNT ở Trà Vinh nói

riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung đang đứng trước những biến đổi,

những thách thức không nhỏ. Làm thế nào để phát huy vai trò của PGNT và

hạn chế những mặt tiêu cực cản trở quá trình phát triển là vấn đề đòi hỏi phải

có lời giải. Phát huy vai trò của PGNT cũng chính là khơi dậy lòng yêu nước,

lòng tự tôn dân tộc của đồng bào Khmer, góp phần ổn định an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội.

3.2. Quan điểm của Đảng và phương hướng của tỉnh Trà Vinh về

công tác tôn giáo

3.2.1. Quan điểm của Đảng

Trong thời gian vừa qua, cùng với những thành quả to lớn, có ý nghĩa

lịch sử của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta không thể không

kể đến những thành quả đạt được trên lĩnh vực công tác tôn giáo của Đảng,

Nhà nước ta. Để có được thành quả trên lĩnh vực quan trọng này, Đảng ta đã

trải qua một quá trình đổi mới nhận thức tương đối lâu dài, đồng thời Nhà

nước cũng đã không ngừng củng cố và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp

luật về tôn giáo.

Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, để phát huy sức mạnh toàn dân,

72

phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về

tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa

VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công tác tôn giáo”, Chỉ thị số 18-

CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện

Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về

công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các tỉnh, thành phố đều xây dựng

chương trình hành động; nhiều tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về

công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống

nhất trong hệ thống chính trị thực hiện công tác tôn giáo. Nghị quyết Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính

sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo

đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn

giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà

nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực cho công

cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên

quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ,

phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng,

tôn giáo trái quy định của pháp luật” [26, tr.165].

Như vậy, quan điểm, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo của

Đảng, Nhà nước Việt Nam là nhất quán và xuyên suốt kể từ ngày thành lập

nước (năm 1945 đến nay) với 05 quan điểm cơ bản sau:

Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân

dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt

tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong

khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

73

Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,

không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo

là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các tôn giáo đều bình đẳng

trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đoàn kết đồng bào

theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào

không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền

thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân

dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn

giáo. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê

tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động

chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh

quốc gia.

Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần

chúng. Lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp

chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền

nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn

giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc

lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế

- xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân

dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt

dưới sự lãnh đạo của Đảng. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn

bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách

làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm

công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng

điểm có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận

động quần chúng.

Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do

74

hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp luật và

được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất

bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo,... của

mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt

động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi

dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép

buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền

đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến

pháp và pháp luật.

Những chủ trương, đường lối của Đảng về tôn giáo và công tác tôn

giáo được Quốc hội, Chính phủ cụ thể hoá trong những văn bản quy phạm

pháp luật như sau:

- Hiến pháp năm 2013;

- Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04/02/2005 của Thủ tướng Chính

phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành;

- Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg, ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính

phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo;

- Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;

- Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi là Nghị

định). Nghị định có hiệu lực thi hành đồng thời với Luật kể từ ngày

01/01/2018.

- Quyết định số 199/ QĐ-BNV ngày 31/01/2018 về việc công bố thủ

tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thuộc phạm vi chức năng

của Bộ Nội vụ.

Những thành tựu đạt được trong thời gian qua đã chứng minh quan

điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo đã và đang đi đúng hướng, phản ánh một

cách khoa học, khách quan quy luật vận động và phát triển của tôn giáo; đồng

75

thời, thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo trong điều kiện lịch sử - cụ

thể của đất nước hiện nay.

3.2.2. Phương hướng của tỉnh Trà Vinh

Mục tiêu được chính quyền tỉnh Trà Vinh là trong thời gian tới sẽ đưa

tỉnh Trà Vinh trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực đồng bằng sông Cửu

Long. Để đạt được điều đó thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc Kinh - Khmer - Hoa là việc làm cần thiết. Do đó, tỉnh Trà Vinh đã xác

định cần thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc nhằm xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI “Về công tác

tôn giáo”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình hành động số 18,

trong đó có nêu các tôn giáo được hoạt động đúng pháp luật, phát huy các

nhân tố tích cực, giá trị văn hóa, tín ngưỡng tốt đẹp của các tôn giáo để... tôn

giáo có những đóng góp cho phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ

nạn xã hội, tham gia giáo dục, cảm hóa người lầm lạc.

Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 của

Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định: "Tiếp tục triển khai thực hiện

tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; giữ

gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc; Phát huy những giá trị đạo đức,

văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc và tín đồ tôn giáo sống

tốt đời, đẹp đạo, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện

cho các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận sinh hoạt đúng hiến

chương, điều lệ và đúng quy định của pháp luật".

Trong thời gian tới, từ quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước và thực tiễn của địa phương, tỉnh Trà Vinh đã xác

định phương hướng nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo nói chung và đối với hoạt động của PGNT nói riêng trên

76

địa bàn tỉnh như sau:

Một là, Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh

Trà Vinh trong giai đoạn tới nhằm góp phần bảo đảm cho thực hiện thắng lợi

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tăng

cường đoàn kết tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát

huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh.

Hai là, Tiếp tục triển khai, quán triệt sâu trong nội bộ, tuyên truyền,

phổ biến trong nhân dân, trong đó có quần chúng là tín đồ tôn giáo về Nghị

quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về công tác tôn

giáo, Luật tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản của Chính Phủ, của Tỉnh ủy,

UBND Trà Vinh về tôn giáo và hoạt động tôn giáo.

Ba là, Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo tham

gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện tốt nhiệm

vụ chính trị ở địa phương như tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh

phát triển kinh tế, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực

hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, phong trào toàn dân

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Thông qua hành động cách mạng

của quần chúng, góp phần vào việc xây dựng lực lượng cốt cán trong tôn

giáo; xây dựng chính quyền cơ sở ở vùng có đông đồng bào tôn giáo thực sự

trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Bốn là, Tham mưu, phối hợp các cấp, các ngành trong hệ thống chính

trị từ cơ sở đến tỉnh giúp cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các ngành, các cấp,

cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, nhân dân quán triệt sâu, kỹ các quan

điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác tôn giáo, tạo sự

thống nhất trong nhận thức và hành động đối với tôn giáo và hoạt động tôn

giáo.

77

Năm là, Thực hiện nhất quán việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo, xem tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ

phận người dân, đồng thời phải tăng cường công tác QLNN đối với hoạt động

tôn giáo, nâng cao cảnh giác với các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chia rẽ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chống phá Đảng, Nhà nước,

chế độ, gây mất an ninh chính trị, trật tự xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa các

cấp, nắm tình hình xử lý các vụ việc phát sinh, đặc biệt là phát hiện sớm, phát

hiện ngay từ cơ sở. Kiên quyết xử lý nghiêm các hoạt động vi phạm pháp luật,

bảo đảm mọi hoạt động, sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng quy định của pháp

luật. Trước mắt các huyện, thị, thành phố, các ngành rà soát các trường hợp

tồn đọng tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong thời gian sớm nhất.

Sáu là, Củng cố bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp; có biện pháp, kế

hoạch ổn định cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng

nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, bản lĩnh đối với cán bộ, công chức làm công

tác tôn giáo, nhất là cán bộ tôn giáo - dân tộc cấp xã, phường, thị trấn để đảm

đương nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng đội ngũ những người trực tiếp

làm công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo có tính chuyên nghiệp cao,

nhiệm vụ chuyên môn thành thạo, đủ năng lực phẩm chất để thực hiện QLNN

đối với hoạt động tôn giáo.

Như vậy, Song song với chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách về

đời sống kinh tế, Tỉnh ủy cũng đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện

tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, tạo điều kiện

thuận lợi để các tôn giáo sinh hoạt đúng hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn

giáo và quy định của pháp luật; hỗ trợ trùng tu, sửa chữa nhiều cơ sở thờ tự.

3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật

giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh

3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với

Phật giáo Nam Tông trong điều kiện mới

Tiếp tục quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018

78

của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày

12/3/2003 của BCH Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo trong tình

hình mới; tuyên truyền và thực hiện tốt Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định

162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều

và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản dưới luật

hướng dẫn thi hành Luật, nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn nhằm nâng

cao nhận thức cho cán bộ, công chức, đảng viên của cả hệ thống chính trị.

Đề nghị Đảng và Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và đồng bộ với pháp luật

trong các lĩnh vực liên quan. Đề xuất Chính phủ ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật để cụ thể hoá Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có Nghị

định về xử phạt hành chính về tín ngưỡng, tôn giáo; bổ sung các quy định cụ

thể về phân công trách nhiệm, phối hợp công tác giữa các cấp, các ngành

trong công tác tôn giáo,... Xây dựng và hoàn thiện một chiến lược tổng thể

phát triển ngành quản lý nhà nước về tôn giáo trong cơ cấu tổ chức đa ngành,

đa lĩnh vực. Cần thể chế hóa các chủ trương, chính sách về vấn đề từ thiện xã

hội của các tôn giáo thành những văn bản qui phạm pháp luật, tạo hành lang

pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tôn giáo được hoạt động thuận lợi trong lĩnh

vực từ thiện xã hội.

Bên cạnh đó cần đánh giá và tổng kết, chỉ ra những thành công, bất cập,

hạn chế của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về việc thực hiện

các văn bản quy phạm pháp luật về công tác tôn giáo. Từ đó, đưa ra giải pháp

xử lý, khắc phục, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung

và pháp luật về tôn giáo nói riêng, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong thời gian tới.

Ngoài ra, cần tổng kết việc thực hiện pháp luật về tôn giáo với quan

điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, đáp ứng yêu cầu của công cuộc

đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, bối cảnh cuộc Cánh mạng Công

nghiệp 4.0, đặc biệt là trong điều kiện tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

79

Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, đòi hỏi Tỉnh

ủy, UBND tỉnh Trà Vinh cần phải cụ thể hóa chủ trương, chính sách chung

của Đảng và Nhà nước thành chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn

đang diễn ra tại Trà Vinh bằng những văn bản cụ thể. Các cơ quan chức năng

của tỉnh Trà Vinh cần phải xây dựng các chiến lược quản lý nhà nước về tôn

giáo trên địa bàn một cách cụ thể phù hợp với tình hình mới để làm định

hướng cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Để có chiến lược và

chính sách đúng đắn thì cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng của các cấp, các

ngành trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực

trạng công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trà Vinh hiện nay. Tiếp tục đẩy

mạnh việc thực hiện cải cách hành chính tại địa phương để tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.

Bên cạnh các văn bản quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung thì Đảng,

Nhà nước và UBND Trà Vinh cũng cần xây dựng những văn bản quản lý nhà

nước đối với hoạt động của Phật giáo và PGNT nói riêng để phù hợp với

những đặc thù của tôn giáo này. Như vậy công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động của PGNT mới được cụ thể và chặt chẽ.

Khi ban hành các chính sách cần phải gắn công tác tôn giáo với công

tác dân tộc. Đa phần các phật tử của PGNT là đồng bào dân tộc Khmer. Vì

vậy khi xây dựng các chiến lược, chính sách phát triển đời sống kinh tế xã hội

đồng bào Khmer tại địa phương cần phải kết hợp với vấn đề quản lý nhà nước

đối với hoạt động tôn giáo.

3.3.2. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà

nước trên địa bàn tỉnh đối với Phật giáo Nam Tông

Để làm tốt công tác này, Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh cần

thực hiện tốt chức năng tham mưu cho UBND tỉnh công tác quản lý nhà nước

về tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật. Chủ động phối hợp với

các sở, ban, ngành, đoàn thể chức năng và chính quyền địa phương liên quan

80

kịp thời giải quyết, xử lý các vi phạm trong hoạt động tôn giáo theo quy định

của pháp luật. Những vấn đề khó khăn, phức tạp liên quan đến hoạt động tôn

giáo phải được bàn bạc thống nhất với các sở, ban, ngành, đoàn thể chức năng

và chính quyền địa phương liên quan về chủ trương, biện pháp giải quyết

trước khi tham mưu trình cấp có thẩm quyền quyết định.

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành chức năng từ

tỉnh đến cơ sở trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ

chức tôn giáo nói chung, PGNT nói riêng, nhất là mối quan hệ làm việc, giúp

đỡ, Phối hợp giữa Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo), Ban Dân vận Tỉnh ủy, Uỷ ban

Mặt trận tổ quốc tỉnh, Công an tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên & Môi

trường và UBND các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Sự phối hợp đó sẽ

tạo nên những đề xuất, tham mưu đúng đắn trong việc thực hiện chính sách

tôn giáo; đồng thời tăng cường các biện pháp để chủ động nắm tình hình; nắm

xu thế, chủ trương hoạt động của các tôn giáo; đấu tranh kiên quyết đối với

những phần tử cực đoan, bảo thủ, có những hành vi lợi dụng tôn giáo gây rối

hoặc tuyên truyền, xuyên tạc chính sách; hạn chế đến mức cao nhất xảy ra các

điểm nóng liên quan đến tôn giáo.

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, bồi

dưỡng kiến thức và nghiệp vụ công tác tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ cán

bộ, công chức làm công tác tôn giáo các cấp; tổ chức tuyên truyền, phổ biến

các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về

tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn

giáo; vận động chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo chấp hành chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn

giáo; theo dõi tình hình, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra các vấn đề liên quan đến

tín ngưỡng, tôn giáo; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết những

vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định pháp luật.

81

3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp

luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng nhân dân,

chức sắc, tín đồ Phật giáo Nam Tông trên địa bàn tỉnh Trà Vinh chấp

hành nghiêm các quy định của pháp luật

Các cấp uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tiếp tục quán triệt,

triển khai trong cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo

nói riêng về việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà

nước ta về công tác tôn giáo. Các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân trong vùng giáo nắm và

thực hiện tốt Luật Tín ngưỡng tôn giáo và các văn bản pháp luật có liên quan.

Các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cần được

dịch sang tiếng Khmer để tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng đồng bào

Khmer, đồng thời thực hiện tốt Quy chế dân chủ trong vùng đồng bào Khmer,

đảm bảo đồng bào được biết, được bàn, được kiểm tra việc thực hiện đường

lỗi, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cần tăng cường tuyên truyền tới đồng bào bằng nhiều kênh khác

nhau. Bên cạnh việc mở lớp tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cho các chức sắc, chức

việc thì việc truyền thông công tác tôn giáo còn cần được thực hiện linh hoạt và

đa dạng như truyền đạt về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho cán

bộ cấp xã, các chức sắc PGNT ở ngay các chùa. Sau đó, kết hợp với những

buổi hành lễ, các chức sắc lại truyền đạt cho tín đồ ở chùa. Tài liệu được tỉnh

cung cấp nên sử dụng dưới dạng tờ rơi để chức sắc và tín đồ dễ đọc, dễ nhớ.

Bên cạnh đó cũng cần phối hợp với cấp ủy, chính quyền cơ sở, địa

phương, với các vị chức sắc, trụ trì các chùa Nam Tông Khmer tuyên truyền

cả những nội dung như: nâng cao hiểu biết về tệ nạn xã hội; ý thức bảo vệ

môi trường; nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; hiểu biết về an

toàn thực phẩm và phòng, chống buôn lậu, an toàn giao thông…

Cần có chiến lược lâu dài phối hợp với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh để xây

82

dựng đội ngũ sư sãi, nhất là đội ngũ sư sãi Khmer vừa tinh thông đạo pháp, có

uy tín với người đồng đạo, song lại vừa có thái độ chính trị tốt. Việc đào tạo

tăng tài phải chú ý kết hợp cả ba nội dung: tiếng Pali, Phật học và học vấn (văn

hóa). Cần duy trì cả ba cấp đào tạo: cấp cơ sở (theo chùa), bậc trung cấp theo

đơn vị tỉnh và bậc cao cấp cho toàn khối PGNT. Đối với bậc cao cấp, phải tăng

cường đào tạo tại Học viện PGNT tại thành phố Cần Thơ. Đồng thời có kế

hoạch cử Sư sãi đi học ở một số nước có PGNT như Myanmar, Sri Lanka, Ấn

Độ… Trước mắt, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ Phật học,

văn hoá và tiếng Pali cho đội ngũ sư sãi hiện có của PGNT Khmer.

Phối hợp với chính quyền tạo điều kiện xây dựng các ngôi chùa thành

các điểm sinh hoạt văn hóa, trang bị tivi, đài, hệ thống phát thanh, tủ sách, đặc

biệt là "tủ sách pháp luật" để phục vụ nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng

bào cũng như tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,

Nhà nước và các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.

Hiện nay đã có chương trình tiếng Khmer trên Đài Phát thanh truyền

hình tỉnh Trà Vinh. Tuy nhiên cần tăng thời lượng phát sóng chương trình

phát thanh, truyền hình. Đồng thời xây dựng nhiều thêm nhiều chương trình

với những nội dung phong phú, đa dạng hơn góp phần nâng cao hơn nữa nhận

thức của đồng bào dân tộc Khmer. Bên cạnh đó, cũng cần thực hiện các

phóng sự, phim tài liệu tìm hiểu về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng ở

Trà Vinh để những người quan tâm có thêm những hiểu biết nhất định về sự

phát triển của tôn giáo tại địa phương.

Các cơ quan thông tấn, báo chí ở địa phương và trung ương cần mở

chuyên mục, đưa tin về các hoạt động từ thiện xã hội, gương người tốt, việc

tốt của các cá nhân, tổ chức tôn giáo để phát huy hơn nữa truyền thống "tốt

đời, đẹp đạo" của các tín đồ tôn giáo.

Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các mô hình “Dân

vận khéo” trên các lĩnh vực đời sống xã hội, phát huy tốt vai trò của Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng lực lượng cốt cán, người có uy

83

tín trong đồng bào dân tộc Khmer, trong cộng đồng PGNT. Xây dựng và thực

hiện các chính sách thi đua khen thưởng dành cho các cá nhân, tổ chức có

đóng góp trong công cuộc xây dựng đời sống mới.

Đẩy mạnh công tác đối ngoại về tôn giáo, chủ động tham gia các diễn

đàn tôn giáo quốc tế và khu vực. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế,

các cuộc đối thoại song phương, đa phương để họ hiểu đúng chủ trương,

chính sách tôn giáo và lên tiếng ủng hộ vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo của

Việt Nam. Tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức của PGNT tham gia các hội

nghị, diễn đàn quốc tế liên quan đến tôn giáo.

3.3.4. Kiện toàn bộ máy và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở

Giải pháp này yêu cầu địa phương phải tiến hành xây dựng cơ cấu tổ

chức bộ máy làm công tác tôn giáo đầy đủ, hoàn chỉnh, thống nhất từ cấp tỉnh

đến cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo phải có chuyên môn

nghiệp vụ vững vàng và có phông kiến thức rộng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo đang diễn biến phức tạp.

Thực tế hiện nay, đội ngũ làm công tác tôn giáo ở tỉnh Trà Vinh phần

lớn chỉ qua kinh nghiệm mà chưa được đào tạo cơ bản, như tốt nghiệp đại học

hay có văn bằng sau đại học về tôn giáo học. Chính vì vậy, năng lực quản lý

của các cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và xã phải được bồi dưỡng một cách

chuyên sâu về công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thông qua việc tổ chức

các khóa tập huấn nghiệp vụ công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung

và với PGNT nói riêng.

Cần chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đảm

nhiệm chức vụ được giao, bố trí đúng người làm công tác tôn giáo. Cán bộ làm

công tác quản lý nhà nước về tôn giáo phải là người thường xuyên bám nắm cơ

sở, xuống thực tế để có thể thực sự sát dân. Phải thường xuyên tiếp xúc với các

chức sắc tôn giáo, các tín đồ tôn giáo bằng cách xây dựng các buổi đối thoại

định kỳ để có thể lắng nghe, hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, kịp thời giải

quyết những vướng mắc, kiến nghị của các tín đồ tôn giáo. Nhờ vậy có thể phát

84

huy sức dân đồng lòng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.

Đồng thời, tăng cường cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức cho cơ

sở ở vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, nhất là ở những địa bàn trọng

điểm,... Cán bộ công tác tôn giáo ở vùng Khmer phải biết tiếng Pali, phải am

hiểu phong tục, tập quán của dân tộc Khmer, cần tìm hiểu để trang bị những

kiến thức cần thiết về các lễ nghi, giáo lý, giáo luật của PGNT. Có như vậy thì

công tác quản lý nhà nước về hoạt động của PGNT mới đạt hiệu quả cao.

Cán bộ làm công tác tôn giáo phải thực hiện tốt phong cách dân vận

“trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; không quan

liêu, tham nhũng; làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải

quyết vấn đề về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng.

Gắn chặt công tác đào tạo, bồi dưỡng với công tác quy hoạch và bố trí

cán bộ. Ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trong một thời gian dài.

Bởi lẽ thực tế hiện nay điểm mạnh của một số cán bộ làm công tác tôn giáo là

có mối quan hệ tốt với chức sắc, chức việc của các tôn giáo, biết rõ tâm tư,

nguyện vọng của họ và có thể coi đây như vốn xã hội của những cán bộ này.

Tuy nhiên, vốn đó khó chuyển giao cho người khác; và nếu cán bộ ấy chuyển

công tác hay về hưu, sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung.

Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tôn giáo và nghiệp vụ

tôn giáo. Có kế hoạch phát hiện, đào tạo những cán bộ có uy tín, có năng lực

vận động chức sắc tôn giáo để tạo mối quan hệ đồng thuận.

Tạo điều kiện về mọi mặt như trang bị cơ sở vật chất, tài chính,… để

đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hoạt động tốt, tham mưu ngày càng tốt

hơn cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo

theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo và

thực hiện Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc

thiểu số trong thời kỳ mới. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc

85

Khmer, đặc biệt là cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo. Tuyển chọn những

cán bộ, chức sắc có “đức cao, vọng trọng” và có uy tín trước đồng bào.

Có chế độ chính sách thu hút đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; cần

triển khai trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện Đề án về

chế độ, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác QLNN về tôn giáo để các cán bộ thực sự yên tâm công tác và gắn bó

lâu dài với công việc; thực hiện thi đua khen thưởng kịp thời các cán bộ, công

chức làm công tác tôn giáo để tạo động lực trong hoạt động.

Điểm đáng lưu ý là công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị, công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã

hội, nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa bàn. Cho nên, đội ngũ cán bộ làm công

tác tôn giáo không chỉ là số cán bộ chuyên trách của cơ quan quản lý nhà

nước về tôn giáo, mà là tất cả cán bộ làm công tác tôn giáo, liên quan đến

công tác tôn giáo của các cơ quan Đảng, Nhà nước (bao gồm lực lượng vũ

trang), Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể ở tất cả các cấp. Vì vậy, tỉnh cũng cần

có chính sách bồi dưỡng các kiến thức về công tác tôn giáo cho cả những cán

bộ không chuyên trách. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà

nước đối với hoạt động tôn giáo bằng việc cử các cán bộ, công chức làm công

tác này đi giao lưu, học hỏi kinh nghiệm tại các địa phương, các quốc gia có

sự đông đảo các tín đồ theo PGNT như: Campuchia,... Nhờ vậy có thể vận

dụng được những giải pháp, kinh nghiệm quý giá vào thực tế quản lý hoạt

động tôn giáo tại Trà Vinh.

3.3.5. Kết hợp quản lý tôn giáo với quản lý dân tộc, chống lợi dụng

tôn giáo trên địa bàn Tỉnh

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để đồng bào nhận rõ âm

mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông

tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc,

phản động. Làm tốt công tác dự báo những tình huống phức tạp nảy sinh về tư

tưởng chính trị để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả.

86

Chủ động ngăn chặn, phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các

thế lực thù địch; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của các cơ quan chức

năng trong lĩnh vực thông tin, truyền thông. Nâng cao trình độ của đội ngũ

làm công tác tư tưởng, thông tin và truyền thông; quản lý hiệu quả công tác

thông tin truyền thông.

Tạo điều kiện giúp đỡ PGNT có đủ kinh sách phục vụ nhu cầu sinh

hoạt tôn giáo, xoá bỏ sự phụ thuộc vào kinh sách ở nước ngoài. Đối với

PGNT do một thời gian dài chưa có sự quan tâm hỗ trợ in ấn, xuất bản nên

hiện nay kinh bổn của PGNT còn thiếu, số kinh sách còn lại chủ yếu được ghi

trên lá bối, đến nay hầu hết đã mục nát, không sử dụng được nên đã xảy ra

tình trạng in lậu kinh sách từ nước ngoài chuyển vào trong nước mà các

ngành chức năng khó kiểm soát được nội dung. Do vậy, Nhà nước cần quan

tâm hỗ trợ cho việc xuất bản kinh sách phục vụ hoạt động tôn giáo cho người

Khmer ở Nam Bộ; không để các thế lực cực đoan, thù địch bên ngoài lợi

dụng, gây chia rẽ đoàn kết.

Khi có xung đột về lợi ích giữa các dân tộc, giữa các bộ phận trong cộng

đồng các dân tộc, cần giải quyết theo tinh thần hòa giải; chống kỳ thị, chia rẽ

dân tộc. Phát hiện kịp thời, đấu tranh vô hiệu hóa các hoạt động truyền bá,

kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, ly khai, tự

trị; xử lý nghiêm các phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động

trái pháp luật, kích động chia rẽ các dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, gây

mất trật tự xã hội, xâm phạm lợi ích an ninh quốc gia. Chủ động đấu tranh với

hoạt động của các thế lực thù địch chỉ đạo, hậu thuẫn số đối tượng bên trong

đòi ly khai, tự trị; đấu tranh với các hoạt động quốc tế hóa vấn đề dân tộc và

sự can thiệp từ bên ngoài. Cùng với đó, cần phát huy tinh thần yêu nước của

đồng bào có đạo và truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của đồng bào các

dân tộc thiểu số; phối hợp chặt chẽ các tổ chức đoàn thể, lực lượng vũ trang;

tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ, đồng tâm hiệp lực của đồng bào trong cuộc đấu

tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên địa bàn.

87

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong hệ thống chính trị phát huy vai

trò, luôn sâu sát, nắm chắc tư tưởng của quần chúng, vận động họ tích cực

thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, các quy định của địa phương, nâng cao trách nhiệm công dân trong xây

dựng và phát triển địa phương ngày càng giàu, mạnh.

Làm tốt công tác dân tộc – tôn giáo sẽ góp phần giữ vững ổn định chính trị,

xã hội tại địa phương và huy động sự đóng góp của đồng bào các tôn giáo trong

củng cố, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, ngăn chăm âm mưu lợi dụng của

các thế lực thù địch chống phá cách mạng, vi phạm pháp luật Nhà nước.

3.3.6. Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra giải quyết

khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo

Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt

động tôn giáo nói chung và hoạt động của đạo Tin lành nói riêng nhằm kịp

thời phát hiện các vụ việc phát sinh và đưa ra cách thức giải quyết hợp lý,

tuân theo pháp luật và vẫn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

nhân dân. Từ đó tạo niềm tin cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào có đạo tin

tưởng vào Đảng, vào chính quyền.

Tăng cường thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động tôn

giáo nói chung và hoạt động của đạo PGNT nói riêng nhằm kịp thời phát hiện

các vụ việc phát sinh và đưa ra cách thức giải quyết hợp lý, tuân theo pháp

luật và vẫn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Từ đó tạo

niềm tin cho nhân dân, đặc biệt là tín đồ tôn giáo tin tưởng vào Đảng, vào

chính quyền. Chủ động phối họp với các ban, bộ, ngành chức năng giải quyết

các vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo, vận dụng đúng đắn chính sách,

pháp luật để giải quyết các khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo còn

kéo dài, phát hiện và xử lý tình huống phức tạp ngay từ cơ sở, bảo đảm an

ninh trật tự, không để các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo để móc nối, kích động,

chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Công tác thanh tra, kiểm tra bao gồm việc kiểm tra, giám sát hoạt động

88

sinh hoạt tôn giáo của các tổ chức PGNT theo Kế hoạch đã đăng ký hàng năm

và theo tình hình biến động của PGNT tại địa phương nhằm chủ động ngăn

chặn các hoạt động vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, các hoạt

động lệch chuẩn tâm linh, phản văn hóa và mê tín dị đoan. Tăng cường công

tác kiểm tra quy định, quy chế hoạt động, quản lý tại các cơ sở PGNT đang

hoạt động trên địa bàn. Kiểm tra công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động

của PGNT của UBND các huyện trong tỉnh, đặc biệt là các huyện thường

xuyên có hoạt động nổi cộm về PGNT nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng

cường hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo; thực hiện

nghiêm các quy định của pháp luật cả từ phía cơ quan Nhà nước, cán bộ làm

công tác tôn giáo và các tổ chức, cá nhân tôn giáo, để kịp thời phát hiện và xử

lý các vấn đề phát sinh mới hoặc tồn đọng kéo dài chưa giải quyết, bảo đảm

đáp ứng nhu cầu chính đáng, bình đẳng trong các tôn giáo.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tiếp cận các chính sách, các

dịch vụ xã hội trợ giúp pháp lý cho đồng bào Khmer, các chương trình, dự án,

quỹ đầu tư có mục tiêu và chính sách hỗ trợ người nghèo nhằm bảo đảm đầu tư

có hiệu quả, đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích, tránh lãng phí, tiêu cực.

3.4. Khuyến nghị

3.4.1. Với Trung ương

Cần xác định lại tính phức tạp của công tác tôn giáo trong tình hình hiện

nay và lâu dài, đặc biệt là công tác đối với PGNT, chính vì sự phức tạp đó nên

cần quán triệt lại trong toàn bộ hệ thống chính trị những quan điểm cơ bản,

những đánh giá đúng mức tính phức tạp đó bằng những dẫn chứng cụ thể của

từng địa phương. Từ đó có thái độ rõ ràng và có trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị.

Do đặc thù công việc tôn giáo vừa nhạy cảm, phức tạp, vừa khó và tế

nhị; việc lựa chọn và bố trí cán bộ đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ, khả

năng kinh nghiệm thực tiễn mới có thể đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chính trị ở

địa phương. Do đó đề nghị Trung ương cần có chế độ chính sách “đặc thù

89

ngành” để thu hút cán bộ, khuyến khích động viên yên tâm gắn bó với công

tác này.

3.4.2. Ban Tôn giáo Chính phủ

Ban Tôn giáo Chính phủ cần sớm có văn bản hướng dẫn một số nội dung

còn chưa rõ ràng trong quá trình triển khai thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn

giáo để các địa phương thực hiện thống nhất, đồng bộ trong cả nước.

Ban Tôn giáo Chính phủ cần chỉ đạo các Vụ chuyên môn thuộc Ban có

sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ khi hướng dẫn, phối hợp với các

địa phương.

Trong tình hình hiện nay, tôn giáo đang là một vấn đề lớn, các thế lực

thù địch tiếp tục tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng

nước ta. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với

các hoạt động phải quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác

tôn giáo. Về lâu dài cần phải có phương án quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo lý

luận chính trị, chuyên sâu quản lý nhà nước về tôn giáo, có trình độ, kinh

nghiệm, phẩm chất phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.

Cần tăng cường mở các lớp đào tạo chuyên sâu dài hạn và ngắn hạn

nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ, đồng thời nắm vững chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tham mưu và quản

lý tốt hoạt động của các tôn giáo trong tình hình hiện nay.

3.4.2. Với địa phương

Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính

trị đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác tôn giáo, nhất là công tác quản

lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trong tỉnh, tạo sức mạnh tổng hợp,

thu hút, tập hợp sư sãi và tín đồ tham gia vào các tổ chức quần chúng, các tổ

chức chính trị xã hội, làm cho sư sãi và tín đồ tin tưởng vào Đảng và Nhà

90

nước tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương, cơ sở; thực

hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc Việt Nam với chế độ xã

hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Chủ động củng cố, kiện toàn và quan tâm bố trí kinh phí, phương tiện

cho cơ quan làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương; có

chính sách đãi ngộ, thu hút và giữ chân công chức có kinh nghiệm làm công

tác quản lý nhà nước về tôn giáo, uy tín đối với chức sắc.

Xây dựng kế hoạch công tác đối với PGNT theo từng giai đoạn. Chủ

trương giải quyết kịp thời những trường hợp xin cấp giấy phép xây dựng, xin

giao quyền sử dụng đất có nguồn gốc rõ ràng, có nhu cầu chính đáng để vừa

tranh thủ được lực lượng tôn giáo tích cực, tiến bộ đồng thời ngăn chặn được

các phần tử xấu lợi dụng kích động, xuyên tạc chính sách tôn giáo, chính sách

đất đai của Đảng và Nhà nước ta.

91

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và quản lý nhà nước đối với

hoạt động của PGNT nói riêng là một nhiệm vụ chính trị quan trọng có tính

chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế diễn

biến phức tạp, vấn đề tôn giáo là nguyên cớ để các thế lực thù địch lợi dụng

nhằm gây sức ép, làm mất ổn định về chính trị.

Nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà

nước ta về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được các cấp ủy

Đảng và chính quyền tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm nên PGNT đã được tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho Giáo hội và tín đồ hoạt động đúng với chương

trình hoạt động đạo sự, tuân thủ Hiến Pháp và pháp luật. Một số trường hợp vi

phạm pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo cũng đã được xử lý nghiêm minh, góp

phần phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các thế lực lợi dụng tự do tôn

giáo để chống phá cách mạng.

Trong tình hình mới, PGNT đang có những sự thay đổi nhất định, các

cơ quan quản lý nhà nước cần phải nắm bắt kịp thời các xu thế đó và có

những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Có như

vậy mới có thể tăng cường hơn nữa niềm tin của các tín đồ tôn giáo đối với

Đảng, càng khẳng định rõ Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng tự do tín

ngưỡng, tôn giáo.

Từ kết quả nghiên cứu thực trạng công tác QLNN đối với hoạt động

tôn giáo của tỉnh và căn cứ vào quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các

cấp chính quyền về công tác tôn giáo, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp sau:

Cần hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn

giáo nói chung và PGNT nói riêng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính

sách pháp luật đến chức việc và tín đồ của PGNT; Hoàn thiện về bộ máy

quản lý và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo;

Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tín đồ của PGNT; kết hợp

quản lý tôn giáo với quản lý dân tộc, chống lợi dụng tôn giáo; Tăng cường

thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật

liên quan đến PGNT.

92

KẾT LUẬN

Phật giáo Nam Tông đã có quá trình lâu dài thâm nhập trong đời sống

văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ nói chung và người dân tỉnh Trà Vinh

nói riêng. Ảnh hưởng của Phật giáo thể hiện một số bình diện của lối sống như

phong tục tập quán, lễ hội, môi trường sinh thái, tính cố kết cộng đồng, tinh

thần yêu nước,… và nó trở thành bản sắc văn hóa của người dân nơi đây.

Trà Vinh là tỉnh có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng ở khu vực

đồng bằng sông Cửu Long, lại là địa bàn tập trung đông đảo người Khmer

sinh sống do đó trong thời gian qua sự phát triển và ảnh hưởng của PGNT rất

mạnh mẽ và cũng ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp. Trên cơ sở tìm hiểu về quản

lý nhà nước đối với PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay, tác giả luận

văn đã phân tích và đạt được các kết quả như sau:

Thứ nhất, Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận khoa học về PGNT

và quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT. Đồng thời cũng chỉ ra

những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT

và một số bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với PGNT của một số

tỉnh khu vực ĐBSCL, từ đó có thể vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề

tôn giáo còn tồn tại cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với

hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Thứ hai, Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý

nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Từ đó, có

một số nhận định về những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân của hạn

chế trong công tác quản lý nhà nước đối với PGNT trên địa bàn tỉnh Trà

Vinh. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT

trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

93

Thứ ba, Luận văn đã nêu lên được các quan điểm chỉ đạo của Đảng,

nhà nước và chính quyền địa phương đối với vấn đề tôn giáo, cùng với việc

căn cứ vào thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của Tỉnh, tác giả đã

đề xuất nhóm giải pháp cơ bản bám sát vào các nội dung chính của quản lý

nhà nước đối với hoạt động của PGNT nhằm góp phần hoàn thiện công tác

quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Tác giả hy vọng các giải pháp và những khuyến nghị mà đề tài luận văn

đã đưa ra nếu được áp dụng sẽ góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh./.

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan An (1980), Vài khía cạnh dân tộc về người Khmer ở Việt Nam và

Campuchia. Hội nghị về quan hệ Việt Nam Campuchia trong lịch sử.

2. Phan An (1985), Nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long,

Tạp chí Dân tộc học, (số 3).

3. Nguyễn Bắc (1984), Tìm hiểu văn hóa - nghệ thuật Campuchia, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Chỉ thị 117-

CT/TW ngày 29/9/1981 về công tác với đồng bào Khmer.

5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín

ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Giáo trình tập huấn công tác quản lý nhà

nước đối với hoạt động tôn giáo.

7. C. Mác - Ph. Ăngghen (1983), Tuyển tập, tập V, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), C. Mác - Ph. Ănghen toàn tập, tập 1, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Nguyễn Khắc Cảnh (1995), Đặc điểm, các hình thái quần cư và các loại

hình Phum Sóc người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long. Tập san khoa

học Trường ĐHTH Tp HCM, (chuyên đề Đông Phương học).

10. Nguyễn Khắc Cảnh (1996), Vấn đề nguồn gốc và sự hình thành cộng

đồng người Khmer ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long ở Việt Nam,

Trường ĐHTH Tp. HCM.

11. Chỉ thị số 68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư về công tác ở vùng

đồng bào Dân tộc Khmer.

12. Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/1/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

12. Chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định một số điều

và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

14. Chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy

95

định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

15. Chính phủ (2008), Nghị định số 13/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND, thành phố trực thuộc Trung ương.

16. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố

trực thuộc tỉnh.

17. Hoàng Văn Chức (chủ biên, 2009), Giáo trình Quản lý Nhà nước về tôn

giáo và dân tộc, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

18. Cổng thông tin điện tử thành phố Cần Thơ, http://cantho.gov.vn/, Tổng

quan về thành phố Cần Thơ, Cần Thơ.

19. Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng, http://soctrang.gov.vn/, Tổng quan

về tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng.

20. Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh. http://travinh.gov.vn/, Tổng quan về

tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.

21. Nguyễn Mạnh Cường (2004), Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong

tang ma người Khmer Nam bộ. Trong Xây dựng đời sống văn hóa dân tộc

Khmer Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Vụ Văn hóa Dân tộc - Bộ

Văn hóa Thông tin ấn hành.

22. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơme Nam bộ (những vấn đề

nhìn lại), Nxb Tôn giáo.

23. Đảng bộ tỉnh Trà Vinh (2010), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh

lần thứ IX.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Dương Xuân Dũng (2009), Phật giáo Nam Tông và ảnh hưởng của nó đối

96

với đời sống tinh thần người Khmer ở An Giang hiện nay, Luận văn thạc

sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

28. Mạc Đường (1999), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb

khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Thích Nhất Hạnh (2008), Đạo Phật hiện đại hóa, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

30. Thiều Quang Hiếu (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật

giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc

gia, Hà Nội.

31. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

32. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), Quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn cao học, Học viện Hành chính quốc gia.

33. V. Jemes, Tính đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo. Nxb Matxcơva, 1999.

34. Võ Sĩ Khải (2002), Văn hóa đồng bằng Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

35. Trần Hồng Liên (2014), Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở Trà

Vinh hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 05 (131).

36. Trần Thanh Nam (2001), Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân

tộc Khmer Nam bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

37. Nghị quyết số 24- NQ/BCT ngày 16/10/1990 (khoá XI) của Bộ Chính trị

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) “Về công tác tôn giáo trong

hình mới”.

38. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng “Về công tác tôn giáo”.

39. Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 09/9/2011 của Tỉnh ủy Trà Vinh về tiếp tục

phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer giai đoạn 2011 - 2015.

40. Nguyễn Minh Ngọc - Nguyễn Mạnh Cường (2005), Tôn giáo tín ngưỡng

97

các cư dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long, Nxb. Phương Đông.

41. Dương Nhơn (2008), "Phật giáo Nam Tông Khmer trong bối cảnh thống

nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (5).

42. Quốc hội (2016), Luật tín ngưỡng, tôn giáo.

43. Trần Ngọc Quyên (2017), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

trên địa bàn thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện

Hành chính quốc gia.

44. Sở Nội vụ (UBND) tỉnh Trà Vinh (2019): Báo cáo Tổng kết công tác

quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2019 và Kế hoạch công tác

năm 2020, Trà Vinh.

45. Lâm Thạch Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người

Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ văn hóa, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh.

46. Thủ tướng chính phủ (2018), Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg, ngày

03/8/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.

47. Trần Quang Thuận, Phật giáo Nam Tông tại Đông Nam Á, Nxb Tôn giáo.

48. Thích Nhật Từ, Thích Bửu Chánh, Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý

(2018), Phật giáo vùng MeKong: Di sản và văn hóa, Nxb Đại học Quốc

gia thành phố Hồ Chí Minh.

49. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Quyết định Ban hành Kế hoạch

thực hiện Quyết định số 1163/QĐ-TTG ngày 08/8/2017 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền

núi giai đoạn 2017-2021” trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.

50. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Quyết định Ban hành Quy chế

phối hợp thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong cấp giấy phép xây

dựng mới và sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà

Vinh, Trà Vinh.

98

51. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Kế hoạch thực hiện Kế hoạch số

81-KH/TU ngày 23/4/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ

thị số 19-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Ban Bí Thư về tăng tường công

tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới, Trà Vinh.

52. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình về tôn giáo ở

Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

53. Văn kiện Đại hội Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Trà Vinh

nhiệm kỳ 2017 - 2022.

54. Văn kiện Đại hội đại biểu Hội Đoàn kết Sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh, lần

thứ VI, nhiệm kỳ 2018 - 2023.

99

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Nội dung STT Trang

Phụ lục số 01 Số liệu tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự 101

Người dân tộc khmer phân theo các tỉnh/ Phụ lục số 02 102 thành trong cả nước

Thực trạng tình hình bộ máy làm công tác Phụ lục số 03 103 quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Trà Vinh

Phong phẩm, thuyên chuyển chức sắc, chức Phụ lục số 04 104 việc năm 2019

Phụ lục số 05 Cơ sở thờ tự xây dựng mới và sửa chữa, cải 105 tạo năm 2019

Phụ lục số 06 Tổng hợp công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật về tôn giáo cho chức sắc, 106 chức việc, nhà tu hành tín đồ các tôn giáo

năm 2019

Phụ lục số 07 Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc năm 2019 107

100

Phụ lục 1: SỐ LIỆU TÍN ĐỒ, CHỨC SẮC, CƠ SỞ THỜ TỰ

(Tính đến ngày 10/10/2019)

STT

Tôn giáo

Số lượng tín đồ

Số lượng chức sắc Số lượng chức

Số lượng tôn giáo

việc

Số lượng cơ

Số lượng cơ

sở thờ tự

sở đào tạo

1

Phật giáo

461.877

255

01

138

307

2

Công giáo

75.088

55

52

46

0

3

Cao Đài

23.802

467

723

47

0

4

Tin Lành

1.073

03

27

03

0

Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt

5

5.760

77

174

17

0

Nam

6

Hồi giáo

175

0

05

01

0

7

Phật giáo Hòa Hảo

93

0

0

0

0

8

Bửu Sơn Kỳ Hương

1.000

0

0

0

0

9

Tứ ân Hiếu nghĩa

457

0

03

01

0

370

01

Tổng cộng:

569.325

740

1.291

101

Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh

Phụ lục 2: NGƯỜI DÂN TỘC KHMER PHÂN THEO CÁC TỈNH/ THÀNH TRONG CẢ NƯỚC

Tỉnh / thành

Người

Tỉnh / thành

Người

Tỉnh / thành

Người

Tỉnh / thành

Người

Thành phố Hà Nội

129

Tỉnh Quảng Ninh

Tỉnh Phú Yên

Bà Rịa Vũng Tàu

2.878

34

19

Tỉnh Bắc Giang

Tỉnh Khánh Hòa

147

Tp. Hồ Chí Minh

25.958

Tình Hà Giang

9

31

Tỉnh Phú Thọ

Tỉnh Ninh Thuận

40

Tỉnh Vĩnh Long

22.302

Tỉnh Cao Bằng

10

36

Tỉnh Vĩnh Phúc

Tỉnh Bình Định

40

Tỉnh An Giang

90.263

Tỉnh Bắc Kạn

12

11

Tỉnh Ninh Bình

Tỉnh Kon Tum

60

Tỉnh Bình Thuận

713

Tỉnh

Tuyên

34

18

Quang

Tỉnh Lào Cai

19

Tỉnh Thanh Hóa

93

Tỉnh Gia Lai

222

Thành phố Cần

21.412

Thơ

Tỉnh Nghệ An

Tỉnh Đắk Lắk

543

Tỉnh Hậu Giang

22.718

Tỉnh Điện Biên

19

60

Tỉnh Hà Tĩnh

Tỉnh Đắk Nông

513

Tỉnh Sóc Trăng

406.594

Tỉnh Lai Châu

3

11

Tỉnh Quảng Bình

Tỉnh Lâm Đồng

1.098

Tỉnh Bạc Liêu

70.660

Tỉnh Sơn La

34

10

Tỉnh Quảng Trị

Tỉnh Bình Phước

15.577

Tỉnh Cà Mau

29.842

Tỉnh Yên Bái

11

5

Thừa Thiên Huế

Tỉnh Tây Ninh

7.577

Tỉnh Kiên Giang

210.879

Tỉnh Hòa Bình

42

26

Tỉnh Quảng Nam

Tỉnh Bình Dương

15.434

Tỉnh Trà Vinh

326.653

Tỉnh Thái Nguyên

76

43

Tỉnh Quảng Ngãi

Tỉnh Đồng Nai

7.057

Các tỉnh còn lại

3.384

Tỉnh Lạng Sơn

35

11

102

Nguồn: Thống kê của Ủy ban dân tộc tính đến tháng 12/2018

Phụ lục 03: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH BỘ MÁY LÀM

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TẠI TỈNH TRÀ VINH

Số lượng cán bộ

Trình độ học vấn

Trình độ chuyên môn

Trình độ lý luận chính trị

kinh nghiệm công tác QLNN về tôn giáo

STT

Tên cơ qian QLNN về tôn giáo

Cấp QLNN tôn giáo ở địa phương

Thông thạo ít nhất 01 ngoại ngữ

12/12

Tổng số

Chuyên trách

Kiêm nhiệm

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Sơ cấp

Trung cấp

Cao cấp

Dưới 5 năm

trên 5 năm

Sau đại học

Sau đại học

Thông thạo ít nhấy 01 tiếng dân tộc thiểu số

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(11)

(12)

(13)

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

(19)

(20)

(21)

(22)

(2)

(3)

(1) Trước khi thực hiện chỉ thị số 01 (2005)

Cấp tỉnh

9

1

9

8

1

1

6

0

3

3

7

4

1

5

0

1

1

6

0

1 (lái xe)

2

24

24

24

14

1

9

0

7

12

/

/

/

0

14

1

9

0

Cấp huyện Cấp xã

Ban tôn giáo Phòng DT-TG

3

Thời điểm hiện nay (2020)

1

0

0

13

Cấp tỉnh

17

13

15

0

2

2

4

14

15

13

2

0

0

13

2

Ban tôn giáo

4 (nhân viên)

2

0

4

1

22

28

0

28

0

10

8

/

13

/

15

1

4

1

22

1

3

0

8

70

Cấp huyện Cấp xã

Phòng nội vụ UBND xã

266

266

266

145

/

125

7

130

/

/

/

0

145

8

70

0

Nguồn: Tổng hợp của Ban Tôn giáo Chính phủ

103

Phụ lục 4: PHONG PHẨM, THUYÊN CHUYỂN CHỨC SẮC,

CHỨC VIỆC NĂM 2019

STT

Tôn giáo

Số chức sắc

Số chức việc

Số chức sắc,

được phong

được bổ

chức việc

phẩm

nhiệm

thuyên chuyển

Phật giáo 1 21 01 0

Công giáo 2 13 13 04

Cao Đài 3 30 04 05

Tin lành 4 0 0 0

Hồi giáo 5 0 0 0

6 Tịnh độ Cư sĩ Phật 0 0 0

hội Việt Nam

7 Tứ ân Hiếu nghĩa 0 0 0

8 Bửu Sơn Kỳ 0 0 0

Hương

9 Phật giáo Hòa Hảo 0 0 0

Tổng cộng 64 18 09

104

Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở nội vụ tỉnh Trà Vinh

Phụ lục 5: CƠ SỞ THỜ TỰ XÂY DỰNG MỚI VÀ SỬA CHỮA, CẢI TẠO

NĂM 2019

STT Tên tôn giáo Số cơ sở thờ tự Số cơ sở thờ tự

xây mới sửa chữa, cải tạo

1 Phật giáo 01 05

2 Công giáo 02 0

3 Cao Đài 0 02

4 Tin lành 0 0

5 Hồi giáo 0 0

6 Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 0 01

Việt Nam

7 Tứ ân Hiếu nghĩa 0 0

8 Bửu Sơn Kỳ Hương 0 0

9 Phật giáo Hòa Hảo 0 0

Tổng cộng 03 08

105

Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh

Phụ lục 6:

TỔNG HỢP CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC

PHÁP LUẬT VỀ TÔN GIÁO CHO CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC,

NHÀ TU HÀNH TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO NĂM 2019

STT Đối tượng được phổ biến Số lớp Số người được

phổ biến

1 Cán bộ làm công tác tôn giáo 03 443

Cấp tỉnh 08

Cấp huyện 27

Cấp xã 408

2 Tuyên truyền, phổ biến cho 04 269

chức sắc, chức việc các tôn giáo

3 Tuyên truyền, phổ biến cho tín 02 663

đồ các tôn giáo

106

Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh

Phụ lục 7: ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHỨC SẮC NĂM 2019

STT Tên tôn giáo Số đang học Số tốt nghiệp

năm 2019

1 Phật giáo 99 151

Học viện Phật giáo 09 0

Cao đẳng Phật giáo 0 0

Trung cấp Phật giáo 37 0

Các lớp khác 53 151

2 Công giáo 0 04

Đại chủng viện 0 04

Các lớp bồi dưỡng 0 0

3 Tin lành 0 0

Viện Thánh kinh Thần học 0 0

Các lớp bồi dưỡng 0 0

4 Cao đài 34 34

Lớp bồi dưỡng giáo lý 34 34

143 Tổng 189

107

Nguồn: Ban Tôn giáo tỉnh Trà Vinh