BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM THỊ PHƯƠNG ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8.34.04.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG VĂN CHỨC
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc
của bản thân. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung
thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong
bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Phương Anh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính quốc
gia, Ban Quản lý đào tạo Sau đại học, Lãnh đạo Khoa Quản lý nhà nước về xã
hội, đặc biệt là lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Văn Chức đã tận tình
giúp đỡ và hướng dẫn tôi nghiên cứu Luận văn này.
Sau hơn 02 năm học tập và nghiên cứu, tiếp thu kiến thức được các
thầy, cô trong Học viện truyền thụ; được sự quan tâm, tạo điều kiện của Lãnh
đạo Học viện Hành chính quốc gia và cơ quan công tác, cùng gia đình; đến
nay, tôi đã hoàn thành bản luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước đối với hoạt
động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh”. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới lãnh đạo cơ quan và các đồng nghiệp đã động viên, tạo điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Do khả năng và điều kiện thời gian còn hạn chế, vấn đề lựa chọn
nghiên cứu trong đề tài khá phức tạp, nhạy cảm nên Luận văn không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo và góp ý của các thầy, cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Phạm Thị Phương Anh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
CNXH Chủ nghĩa xã hội
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
GHPGVN Giáo hội phật giáo Việt Nam
ĐKSSYN Đoàn kết sư sãi yêu nước
PGNT PGNT
QLNN Quản lý nhà nước
TTHC Thủ tục hành chính
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG ................................................. 10
1.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài ............................................. 10
1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với
hoạt động của Phật giáo Nam Tông ............................................................. 17
1.3. Chủ thể và nội dung Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo
Nam Tông .................................................................................................... 27
1.4. Kinh nghiệm và bài học Quản lý nhà nước về hoạt động Phật giáo ở
một số địa phương ....................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH ......................... 39
2.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Trà Vinh 39
2.2. Hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh ........................... 40
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo Nam
Tông ở tỉnh Trà Vinh ................................................................................... 48
2.4. Nhận xét về hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo
Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh .......................................................................... 63
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở
TỈNH TRÀ VINH .......................................................................................... 69
3.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở Trà Vinh ..... 69
3.2. Quan điểm của Đảng và phương hướng của tỉnh Trà Vinh về công tác
tôn giáo ........................................................................................................ 72
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo
Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh .......................................................................... 78
3.4. Khuyến nghị ......................................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC .................................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu đã đi sâu
vào đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh
hoạt cộng đồng của người Việt. Sự tồn tại lâu dài của Phật giáo trong
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã đem lại những đóng góp đáng kể cho văn
hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
Trong quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Tây Nam Bộ,
PGNT đã đóng vai trò quan trọng khi nó chi phối lớn đến đời sống tinh thần,
tôn giáo của người dân nơi đây. Có thể nói nó đã góp phần hình thành nên đặc
trưng văn hóa truyền thống của mảnh đất này.
Dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cùng với sự nỗ lực
của chức sắc, tín đồ, PGNT đã có những đóng góp tích cực trong quá trình
đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. PGNT
thông qua các hoạt động răn dạy các tín đồ, sư sãi thực hành theo những lời
huấn thị của đức Phật “từ bi, bác ái, hỉ xả”, cứu giúp những mảnh đời, số phận
kém may mắn. Ngoài ra, trong đời sống chính trị, PGNT cũng đã tích cực
tuyên truyền, vận động tín đồ, sư sãi chấp hành nghiêm túc các chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước, góp phần làm thất bại âm mưu các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta và thực hiện tốt phương châm “Đạo
pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Từ những hoạt động đó, PGNT đã đóng
góp vai trò tích cực trong việc xây dựng đất nước phồn thịnh, xã tắc được
bình an, đời sống của người dân được an lạc.
Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, trong
những năm qua, tỉnh Trà Vinh đã huy động mọi nguồn lực tập trung đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân trong tỉnh nói chung, đồng bào
Khmer nói riêng từng bước nâng lên. Điều này đã tạo điều kiện để Phật giáo
trên địa bàn tỉnh hoạt động đúng Hiến chương của GHPGVN và đúng quy
định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
1
Từ trước đến nay, hoạt động của PGNT ở tỉnh Trà Vinh luôn được
Trung ương và Tỉnh ủy Trà Vinh đặc biệt quan tâm. Công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo được tăng cường, dần đi vào nền nếp; các
hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, thuần túy tôn giáo và tuân thủ các quy
định của pháp luật về hoạt động tôn giáo. Các ban, ngành chức năng, các cấp
trong tỉnh thường xuyên phối hợp, thống nhất tham mưu cho thường trực Tỉnh
ủy, UBND chỉ đạo và giải quyết những vụ việc liên quan đến tôn giáo theo
đúng chức năng của từng cấp, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh những thành tích đã
đạt được thì công tác quản lý nhà nước đối với PGNT ở địa phương vẫn còn
tồn tại một số hạn chế. Quản lý nhà nước nhiều khi còn chồng chéo giữa Ban
Dân tộc và Sở Nội vụ tỉnh; hoạt động quản lý nhiều khi còn lúng túng, chưa
phát huy hết tiềm năng, vai trò PGNT trong việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng, an ninh ở địa phương; một số
vụ việc phức tạp có liên quan đến PGNT chưa được giải quyết kịp thời, ảnh
hưởng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị tại địa phương, làm tổn
hại tình cảm tôn giáo của đồng bào với chính quyền cơ sở. Bên cạnh đó,
PGNT vừa mang tính chất dân tộc vừa mang tính chất tôn giáo, nên nó là vấn
đề nhạy cảm để các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện chiến
lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam.
Trước thực trạng đó và trên tinh thần triển khai kế hoạch thực hiện Chỉ
thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị Khóa XII về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
về tăng cường công tác ở vùng đồng bào Khmer trong tình hình mới; Đồng
thời ổn định tình hình hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh góp
phần ổn định tình hình an ninh dân tộc, tôn giáo khu vực Tây Nam Bộ và cả
nước; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước đối
với hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Phật giáo nói chung và PGNT nói riêng là đề tài dành được nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu về tôn giáo. Trong đó sự phát triển của
PGNT và những ảnh hưởng của nó đối với người dân Khmer Nam Bộ đã
được nhiều công trình khoa học đề cập, nghiên cứu. Một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu có thể chia thành nhóm vấn đề như sau:
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về PGNT
Tác phẩm “Phật giáo Khơ me Nam Bộ - Những vấn đề nhìn lại” được
Nxb Tôn Giáo xuất bản năm 2008 của tác giả Nguyễn Mạnh Cường đã miêu
tả chi tiết về cuộc sống của người Khmer tại Nam Bộ, đồng thời cho thấy vai
trò quan trọng của PGNT trong đời sống của đồng bào Khmer Nam Bộ. Bên
cạnh đó, tác phẩm cũng phần nào phản ánh được những nét văn hóa độc đáo
đặc trưng trong đời sống tôn giáo của đồng bào nơi đây.
Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học “Phật giáo Nam Tông Khmer An giang -
Những vấn đề đặt ra” do tác giả Nguyễn Nghị Thanh thực hiện năm 2013 tại
Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Tác giả đã
tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề của PGNT Khmer hiện nay như
vấn đề về chi phái, tính truyền thống, đặc điểm, vai trò của PGNT trước
những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu đó, tác
giả đã đề xuất những biện pháp khoa học nhằm khắc phục các hạn chế và phát
huy những đóng góp của PGNT Khmer ở An Giang trong đời sống và trong
sự nghiệp đoàn kết tôn giáo nói chung của An Giang.
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị của tác giả Sơn Rốt: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với
đồng bào Khmer ở Trà Vinh trong sự nghiệp đổi mới”, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo cũng như những chủ trương, chính
sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách tôn giáo nhằm đánh
giá sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo về chính sách
tôn giáo ở Trà Vinh trong những năm đổi mới vừa qua. Thông qua đó đề xuất
3
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo và
nâng cao công tác vận động đồng bào Khmer thực hiện tốt chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước góp phần ổn định đời sống.
Tác giả Phan Thị Phượng với luận văn thạc sĩ Triết học “Ảnh hưởng
của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của người Khmer Sóc Trăng hiện
nay” được thực hiện năm 2009 tại Học viện Chính trị hành chính - Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã trình
bày được thực trạng ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống tinh thần của cộng
đồng người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời tác giả cũng đề xuất một số
giải pháp nhằm khắc phục hạn chế còn tồn tại ở các lĩnh vực văn hóa, kinh tế
hay tổ chức cán bộ.
Luận văn thạc sĩ Triết học của tác giả Dương Xuân Dũng (2009). Phật
giáo Nam Tông và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần Người Khmer
ở An Giang hiện nay. Tác giả phân tích thực chất của PGNT và ảnh hưởng của
nó đối với đời sống tinh thần của người Khmer ở An Giang hiện nay, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực của PGNT trong đời sống
tinh thần của người Khmer, làm cho đời sống tinh thần của đồng bào ngày càng
phong phú và lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận văn thạc sĩ văn hóa của tác giả Lâm Thạch Sơn (1997) Ngôi chùa
trong đời sống văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Tác giả phân tích
vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc
Trăng, qua đó cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa đời sống vật chất, tinh thần
với tôn giáo của người Khmer ở Sóc Trăng.
Dưới những góc độ khác nhau các công trình trên đã đề cập nhiều khía
cạnh liên quan đến đồng bào Khmer và văn hóa Khmer, ảnh hưởng của Phật
giáo Khmer Nam Bộ ĐBSCL đã vẽ lên bức tranh khá toàn diện về đặc điểm
tự nhiên, về lịch sử hình thành vùng đất và các dân tộc ở vùng ĐBSCL.
Tác phẩm “Phật giáo Nam Tông trong văn hóa Khmer Nam Bộ (trường
hợp tỉnh Trà Vinh)” của tác giả Trang Thiếu Tùng được xuất bản bởi Nxb.
4
Khoa học xã hội hay bài viết “Ảnh hưởng của Phật giáo Nam Tông đối với tư
tưởng và đạo đức người Khmer tỉnh Trà Vinh” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
tôn giáo số 07 năm 2014.
Tác phẩm “Chính sách đối với Phật giáo Nam Tông Khmer và đồng
bào vùng Khmer vùng Tây Nam Bộ” của tác giả Lê Quốc Lý được xuất bản
bởi Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật năm 2017.
Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp quan trọng vào nghiên
cứu về tôn giáo, PGNT ở nhiều góc độ khác nhau nhằm làm rõ thêm vai trò
quan trọng của tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng trong đời sống của người
dân. Những tác phẩm đó tuy chưa thực sự thể hiện rõ được các nét đặc trưng
của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nhưng cũng đã phần nào phản ánh được
sự phát triển, ảnh hưởng của tôn giáo ở Nam Bộ nói chung và PGNT Khmer
tới người dân trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nói riêng. Tuy nhiên, chưa có tác
phẩm nào nghiên cứu PGNT ở Trà Vinh dưới góc độ quản lý nhà nước.
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về Quản lý nhà nước về tôn giáo
Đề tài khoa học cấp Bộ: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật
giáo Nam Tông Khmer ở Việt Nam” do ThS. Nguyễn Phúc Nguyên, Ban Tôn
giáo Chính phủ làm chủ nhiệm đề tài. Tác giả cũng đã nhận diện tính đặc thù
của PGNT Khmer, xây dựng thành công bức tranh tổng quát về thực trạng
hoạt động của PGNT Khmer trên các phương diện: Tổ chức, sinh hoạt phật
sự, đào tạo, quan hệ quốc tế, đội ngũ sư sãi, hội nhập quốc tế, cơ cấu tổ chức,
cơ sở thờ tự, kinh sách… Tuy nhiên, nghiên cứu PGNT Khmer là vấn đề khó
bởi lẽ nghiên cứu tôn giáo luôn gắn liền với vấn đề dân tộc, trong khi đó tôn
giáo và dân tộc luôn là hai vấn đề dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng. Chính vì
vậy, những nội dung của quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và quản lý
nhà nước về PGNT Khmer nói riêng luôn phải đặt song song với vấn đề dân
tộc. Vấn đề này tác giả đã nêu ra ra nhưng chưa phân tích kỹ.
* Một số luận văn chuyên ngành về tôn giáo như:
Trịnh Lâm Đồng (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
5
trên địa bàn huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, Luận văn cao học, Học Viện Hành
chính Quốc gia.
Trần Ngọc Quyên (2017), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện
Hành chính quốc gia.
Thái Châu Báu (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện Hành chính quốc gia.
Phan Thị Phương Mai (2011), Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trên địa bàn quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội , Luận văn
tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính, Học viện chính trị - hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trần Thanh Tùng (2013), Tổ chức Giáo phận Xuân Lộc - Những vấn đề
đặt ra hiện nay, Luận văn cao học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh.
Đăng Bản (2013), Công tác đấu tranh chống lợi dụng đạo Tin Lành
ĐêGa ở Tây nguyên hiện nay, Luận văn Cao học, Học viện chính trị - hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Dương Đình Văn (2012), Công tác tranh thủ hàng giáo sĩ đạo Công
giáo trên địa bàn tỉnh Nghệ An thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp
Cao cấp lý luận chính trị - hành chính, Học viện chính trị - hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh.
Đào Xuân Hồng (2013), Ảnh hưởng của cộng đồng Vatican II (1962 –
1965) đối với đạo Công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, luận văn Cao học,
Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Những số liệu và phân tích sâu sắc của các công trình nghiên cứu
chuyên ngành quản lý nhà nước về tôn giáo đã trở thành nguồn tài liệu tham
khảo quý giá. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tới công
tác quản lý nhà nước đối với PGNT Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Bên
cạnh đó, một số công trình nghiên cứu cũng đã được thực hiện từ lâu, có
6
nhiều nội dung cũng đã không còn phù hợp với tình hình hiện tại. Vì vậy, tôi
đã kế thừa một cách có chọn lọc các tư liệu nghiên cứu trong quá trình thực
hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp góp
phần hoàn thiện QLNN đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông trên địa
bàn tỉnh Trà Vinh.
Nhiệm vụ:
- Khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với Phật giáo Nam Tông;
- Phân tích thực trạng Phật giáo Nam Tông trên địa bàn tỉnh Trà Vinh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với PGNT trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh thời gian qua;
- Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng, định hướng chính sách
của nhà nước, qua đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với hoạt
động của PGNT ở Trà Vinh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh theo quy định của pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: địa bàn tỉnh Trà Vinh.
- Về thời gian: từ năm 2016 đến nay (Từ khi ban hành Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo)
- Về nội dung: PGNT được chia ra làm hai hệ phái là Nam Tông Kinh
và Nam Tông Khmer. Văn hóa Khmer ở Trà Vinh chi phối đời sống tinh thần,
tín ngưỡng, tôn giáo và hình thành đặc trưng văn hóa truyền thống của miền
đất này. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung nghiên
cứu đến QLNN đối với hoạt động của PGNT nói chung và của PGNT Khmer
nói riêng theo quy định của pháp luật.
7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tôn
giáo trong thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn tác giả sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp thống kê;
+ Phương pháp so sánh;
+ Phương pháp phân tích tổng hợp;
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tiếp cận hệ thống;
+ Phương pháp lịch sử;
+ Phương pháp tổng kết: Luận văn có sử dụng những kết quả nghiên
cứu trong và ngoài nước đã công bố liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo nói chung và hoạt động PGNT nói riêng. Từ đó, áp dụng
trong quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp thêm căn cứ để xây dựng và thực hiện chính sách về
tôn giáo ở địa phương.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn
giáo và cho các nhà quản lý đang thực thi công vụ trong công tác tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục;
8
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật
giáo Nam Tông
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo
Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG
1.1. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
1.1.1. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện cách đây hàng
ngàn năm và sẽ tồn tại cùng xã hội loài người trong một khoảng thời gian khó
đoán định.
Tôn giáo là một khái niệm có nhiều định nghĩa khác nhau. Trong đề tài
này, chúng tôi xin phép đưa ra một số định nghĩa cơ bản như sau: Ở các nước
Tây Âu và Bắc Mỹ, tôn giáo được hiểu như là “Tôn giáo là một hệ thống có
tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành liên quan đến những
điều thiêng liêng, nghĩa là sự tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và thực
hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng đồng đạo đức, được gọi
là Giáo hội” (E. Durkheim); “Tôn giáo là một loại đặc biệt tác động đến cộng
đồng. Tôn giáo gắn kết những thế lực siêu nhiên. Quy định các mối quan hệ
giữa các thế lực của chúng với những con người tạo thành lĩnh vực của
những hoạt động tôn giáo” (Max Weber); “Tôn giáo là một hệ thống các biểu
tượng có tác dụng tạo ra những trạng thái mạnh mẽ, lan tỏa, kéo dài và
những động cơ trong những con người bằng cách trình bày có hệ thống
những quan niệm về một trật tự tồn tại chung và che phủ những quan niệm
này bằng một thực tế tỏa ra rằng những tình trạng và những động cơ dường
như là hiện thực duy nhất” (Clifford Geertz); “Tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho
những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày” (F.Engels); K.
Marx cho rằng: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa
tìm thấy bản thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con
người chính là thế giới những con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước
10
ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người
mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo biến bản chất con người
thành tính hiện thực, ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực
thật sự. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã
hội không có tinh thần; tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [8, tr569].
Quan điểm của K.Marx, xem tôn giáo như là sự cứu rỗi (một trái tim, một tinh
thần) của những con người đang sống trong sự khủng hoảng, không mang
nghĩa của sự phê phán tôn giáo…
Ở Việt Nam, tôn giáo được hiểu là “niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và
tác động qua lại một cách siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải
những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu
hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn
hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng
những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã
hội/tôn giáo khác nhau” (Đặng Nghiêm Vạn);…
Liên quan đến cách giải thích về tôn giáo, lần đầu tiên trong văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam đưa ra cách hiểu về tôn giáo.
Khoản 5, Điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo giải thích: “Tôn giáo là niềm tin
của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối
tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức” [37, tr1].
Về phương diện quản lý nhà nước, khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh
thường được tiếp cận từ góc độ thực thể xã hội với các dấu hiệu cơ bản sau:
+ Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
+ Có giáo chủ;
+ Có tín đồ, người tin theo;
+ Có tổ chức.
11
1.1.1.2. Hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo ra đời nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của tôn
giáo. Hoạt động tôn giáo là thực hiện việc đạo theo một giáo lý, giáo luật,
giáo lễ của một tôn giáo cụ thể. Nó được thực hiện dưới sự hướng dẫn bởi
người có chức năng, nhiệm vụ hoặc tự hành lễ của các tín đồ. Hoạt động tôn
giáo được diễn ra tại nơi thờ tự hoặc tư gia của các tín đồ.
Theo quy định tại Khoản 11, Điều 2, Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 thì
“Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và
quản lý tổ chức tôn giáo” [37, tr2].
Trong đó truyền bá tôn giáo (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền
những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền
đạo, niềm tin tôn giáo của các tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo được
tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền
đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo.
Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý
giáo luật, lễ nghi tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công
nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo nhằm thực hiện quy định của giáo
luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt
động trong tổ chức tôn giáo.
1.1.2. Phật giáo và Phật giáo Nam Tông
1.1.2.1. Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo và triết lý do Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni)
khởi xướng, ông sinh trưởng ở phía Bắc Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công
nguyên. Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử tên là Tất Đạt Đa. Phụ thân
ngài là vua Tịnh Phạn (Shuddhodana, Zas gtsang-ma). Mẫu thân của Ngài là
Ma Gia (Maya-devi, Lha-mo sGyu-‘phrul-ma). Đức Phật được thụ thai một
12
cách thần kỳ trong giấc mơ, bà Ma Gia thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên
hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà (Asita), rằng đứa bé sẽ trở
thành một ông vua vĩ đại, hoặc một nhà hiền triết cao quý; hoàng tử còn được
gọi là Thích Ca Mâu Ni (hay Shakyamuni) có nghĩa là "nhà hiền triết của bộ
tộc Thích Ca" (hay bộ tộc Shakya). Ông đã từng có vợ và con trai, nhưng sau
đó đã từ bỏ tất cả để đi tìm đạo, cứu vớt chúng sinh.
Từ Ấn Độ, Phật Giáo lan truyền dần sang các nước lân cận, rồi toàn
khu vực châu Á và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo 2
hướng: về hướng Bắc, về phương Nam.
Về phương Bắc, thì gọi là Phật Giáo Bắc Tông (mang tư tưởng Đại
Thừa) gồm các vùng: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông cổ, Mãn Châu, Bắc - Nam
Hàn, Nhật Bản, Bắc Việt Nam...
Về phương Nam, thì gọi là Nam Tông (mang tư tưởng Tiểu Thừa) gồm
các vùng: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Kampuchia, Indonesia, Nam
Việt Nam ...
Đại thừa tức là "cỗ xe lớn" hay còn gọi là Đại Thặng tức là "bánh xe lớn"
là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật . Xuất hiện trong thế kỉ thứ nhất
trước công nguyên, phái này tự nhận là cỗ xe lớn nhờ dựa trên tính đa dạng của
giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ. Cả hai Tiểu
thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác
nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng. Hình tượng tiêu biểu
của Đại thừa là Bồ Tát với đặc tính vượt trội là lòng từ bi.
Tiểu thừa hay Tiểu Thặng, nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hay "bánh xe nhỏ".
Tiểu thừa được một số đại biểu phái Đại thừa thường dùng chỉ những người
theo "Phật giáo nguyên thuỷ", "Phật giáo Nam Tông". Trước năm 1950.
Nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo có ý định thay thế danh từ này nhưng không
đạt kết quả vì danh từ này đã khắc sâu trong tư tưởng của nhiều Phật tử.
Điểm nổi bật làm cho Phật giáo trở nên đặc sắc hơn các tôn giáo khác
là của Phật giáo có giáo lý căn bản, rõ ràng cùng lối giáo huấn nhẹ nhàng
13
nhưng sâu sắc. Mục tiêu tối thượng của Phật giáo là giáo huấn cho con người
các phương cách thoát khỏi sự đau khổ tạo ra bởi những biến động của đời
sống như sinh, lão, bệnh, tử bằng nỗ lực thực nghiệm của chính mình.
1.1.2.2. Phật giáo Nam Tông
Phật giáo Nam tông được truyền vào Việt Nam theo con đường của các
nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đường biển tới Srilanca, Mianma, Thái Lan
tới vùng sông Mê Công (Campuchia) và vào vùng các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long (phía Nam) của Việt Nam, được đông đảo người dân đặc biệt là
đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của người Khmer, do
đó gọi là Phật giáo Nam tông Khmer. (ở Việt Nam còn có Phật giáo Nam tông
của người Kinh. Nội dung này tác giả xin trình bày ở một bài viết khác).
Phật giáo Nam tông đã có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long vào
khoảng thế kỷ thứ IV. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đại bộ phận các Phum
(xóm), Sóc (nhiều xóm hợp thành) của người Khmer đều có chùa thờ Phật.
Phật giáo Nam tông Khmer tập trung chủ yếu ở 9 tỉnh (thành phố) Đồng bằng
sông Cửu Long như: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau.
Theo phong tục của người Khmer, khi người con trai đến tuổi 12, 13
phải vào chùa tu một thời gian với nhiều ý nghĩa: báo hiếu cho ông bà, cha
mẹ; để thể hiện tình cảm, trách nhiệm đối với dân tộc và để tỏ lòng thành kính
với Đức Phật… Các thanh niên này cần phải tu tối thiểu ở chùa là một tháng,
cũng có thể ở chùa tu lâu dài hoặc suốt đời, tùy theo nhân duyên, căn cơ và ý
nguyện của từng người. Sau thời gian một tháng họ có thể trở lại cuộc sống
đời thường bất cứ lúc nào, có thể lập gia đình, làm ăn, tham gia các công việc
xã hội, khi muốn họ lại có thể xin vào chùa tu một thời gian rồi sau đó lại có
thể trở về với gia đình.
Theo truyền thống, Phật giáo Nam tông Khmer không có người nữ đi tu
ở chùa, tuy nhiên những người phụ nữ Khmer lại được giáo dục và ảnh hưởng
rất lớn bởi tư tưởng và đạo đức Phật giáo, thông qua nếp sống của những
14
người đàn ông trong gia đình (là những người ông, người cha, người chồng)
và thông qua các lễ hội, các buổi nhà sư thuyết giảng giáo lý và nghi thức
truyền thống mang đậm nét Phật giáo của dân tộc Khmer: Lễ Phật đản; lễ
Dâng y; nghi thức dâng cúng vật phẩm cho chư tăng; lễ Chol Chnam Thmay
(như tết nguyên đán ở Việt Nam); lễ Đôn-ta (lễ cúng ông bà); lễ cúng
Trăng… Dù là lễ của Phật giáo hay lễ dân tộc nhưng mọi hoạt động này đều
gắn liền với các nghi thức tôn giáo bởi mọi người cùng đến chùa, đọc kinh,
thả đèn lồng… và có sự tham gia của các vị sư.
Giống như Phật giáo Bắc tông, sư tăng Phật giáo Nam tông cũng thụ
giới qua các bậc Sadi và Tỳ khiêu, tuy nhiên số lượng giới phải giữ có sự
khác biệt. Đối với Phật giáo Nam tông:
- Người thụ giới Sa di phải giữ 105 giới.
- Người đã thụ giới Sa di được thụ giới Tỳ khiêu phải giữ 227 giới.
Cũng có thể người đi tu nếu không muốn thụ giới Tỳ khiêu thì có thể
giữ ở bậc Sa di suốt đời.
Người nam đi tu theo Phật giáo Nam tông trên tinh thần tự nguyện, tuy
nhiên chỉ được nhận vào chùa và được thụ giới Sadi khi đáp ứng được một số
yêu cầu cơ bản:
- Phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng (nếu còn nhỏ).
- Phải là công dân tốt, không vi phạm pháp luật.
- Phải có thầy dẫn dắt và có những vật dụng cần thiết của một nhà sư.
Trong hoạt động đời sống hàng ngày, Phật giáo Nam tông thực hành
theo giới luật Phật giáo Nguyên thủy nên không ăn chay như Phật giáo Bắc
tông, họ sống bằng sự dâng cúng thức ăn mỗi ngày của Phật tử. Các sư chỉ ăn
2 bữa một ngày, vào buổi sáng sớm và trước giờ Ngọ (12 giờ trưa). Sau 12
giờ trưa cho đến hết đêm nhà sư chỉ được dùng vật lỏng để uống, như: nước,
sữa, trà… Trong một năm có thời gian do bận việc mùa vụ, Phật tử không
được rảnh rỗi thì Ban Quản trị chùa có thể trao đổi với các gia đình Phật tử
dâng cúng theo từng ngày nhất định, tránh ngày thì quá nhiều, ngày lại quá ít.
15
Nếu tín đồ bận, các sư có thể nhận thực phẩm do các gia đình dâng cúng, đem
về chùa nhờ người nấu.
PGNT nghiêm trì giữ theo giới luật như khi đức Phật Thích Ca còn tại
thế, vì vậy còn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy và đọc tụng chủ yếu 5 bộ
kinh khởi đầu, do đó PGNT cũng được gọi là Phật giáo Nguyên thủy.
Từ năm 1981, trong ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
những năm qua PGNT tiếp tục có những đóng góp công sức xây dựng
GHPGVN, đất nước Việt Nam vững mạnh và trường tồn, làm phong phú
thêm truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, xứng đáng với truyền thống của
Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
1.1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo Nam Tông
Để đảm bảo sự phát triển ổn định của xã hội, nhà nước thực hiện chức
năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó có quản lý nhà nước về
lĩnh vực tôn giáo. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được hiểu
theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình
sử dụng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ
quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng
các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp
luật, đạt được mục tiêu cụ thể trong quản lý.
Nghĩa hẹp: quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình
chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ
thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng quy định
của pháp luật.
Dù hiểu theo nghĩa nào thì quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
vẫn có điểm chung là sử dụng quyền lực nhà nước, một dạng quyền lực đặc
biệt của xã hội để tác động, điều chỉnh hoạt động tôn giáo, để hoạt động tôn
giáo được tiến hành theo quy định của pháp luật.
16
Như vậy quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là hoạt động của các
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các
hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động PGNT là hệ thống các biện pháp
quản lý của nhà nước, do các cơ quan chức năng và chính quyền thực hiện đối
với các pháp nhân, thể nhân và hoạt động của PGNT, nhằm đảm bảo cho
PGNT hoạt động theo đúng hiến pháp và pháp luật của nhà nước; bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân; ngăn ngừa các hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm việc trái
pháp luật, xâm hại an ninh, trật tự.
1.2. Sự cần thiết và những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà
nước đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông
1.2.1. Sự cần thiết của Quản lý nhà nước đối với hoạt động của
Phật giáo Nam Tông
1.2.1.1. Thực hiện chức năng của Nhà nước
Vì trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích của quốc gia dân tộc nên ở bất cứ
quốc gia nào, nhà nước nào cũng có sự quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo. Chỉ là ở mỗi quốc gia thì có sự điều chỉnh trong công tác quản lý
khác nhau mà thôi. Điều này không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà
còn xuất phát từ thực tế khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và
ảnh hưởng của tôn giáo.
Tôn giáo được ra đời từ những tiền đề kinh tế - xã hội, từ nguồn gốc tâm
lý và nhận thức của con người và tôn giáo cũng phản ánh được sự biến đổi của
lịch sử nhân loại. Khi những nguồn gốc phát sinh tôn giáo chưa được giải quyết
thì tôn giáo sẽ vẫn còn tồn tại. Bên cạnh những vai trò tích cực của tôn giáo đối
với kinh tế xã hội và đời sống nhận thức, tâm linh của con người thì tôn giáo
cũng mang những hạn chế, tiêu cực. Chẳng hạn, những hạn chế của tôn giáo
17
trong việc nhận thức thế giới khách quan, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra:
“Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc
của con người” [8, tr 62]. Tôn giáo thường bị những kẻ xấu lợi dụng vì mục
đích chính trị đen tối, tôn giáo có khả năng liên kết con người trong một cộng
đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy người ta đến chỗ nghi kị, đối
đầu, hận thù và xung đột gây nên những thảm họa cho nhân loại…
Do đó để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực trong
tôn giáo, nhà nước cần thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo nói chung và đối với hoạt động của PGNT nói riêng. Sự quản lý của
nhà nước sẽ đảm bảo các hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với ý chí của
nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội và nhu cầu tâm linh tinh
thần của quần chúng. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để các tôn giáo
hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, theo phương châm
“tốt đời, đẹp đạo”.
Trong thời đại ngày nay, khi quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra
sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động quản lý nhà nước
về tôn giáo trong thời gian qua còn tồn tại nhiều hạn chế thì thì việc quản lý
nhà nước các hoạt động tôn giáo càng cần phải tăng cường. Khi mà quan điểm
của Đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo đang có nhiều đổi mới thì việc quản
lý nhà nước các hoạt động tôn giáo sẽ giúp các tổ chức, cá nhân nhận thức
đúng về vai trò của tôn giáo, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Việc tăng cường quản lý nhà nước không chỉ giữ vai trò quan trọng trong thực
hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới mà còn góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước; mà còn
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho người dân; tạo ra
mối quan hệ tốt giữa quần chúng với Đảng và nhà nước; góp phần củng cố,
phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững an ninh quốc phòng.
1.2.1.2. Vai trò của Phật giáo Nam Tông trong đời sống
Trong lịch sử phát triển của cộng đồng nói chung và của dân tộc Khmer
18
nói riêng thì sự xuất hiện, dung nhập đạo Phật vào đời sống của đồng bào có
vai trò hết sức quan trọng. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, PGNT đã trở
thành đặc trưng văn hóa truyền thống với nền tảng giáo lý vững chắc, với
những luân lý đạo đức Phật giáo luôn hướng con người đến những giá trị cao
cả: “chân - thiện - mỹ”. Những bài học về “vô thường”, “vô ngã, vị tha”, “từ
bi hỷ xả”, “an lạc”, “niết bàn”, … đã thấm nhuần trong tâm thức mỗi người
dân. Đối với đồng bào dân tộc Khmer, cùng với tín ngưỡng dân gian truyền
thống, PGNT đã trở thành một phần “máu thịt”, gắn bó chặt chẽ với đồng bào
nói chung và trở thành bản sắc văn hóa của người Khmer nói riêng.
PGNT có tầm ảnh hưởng và chi phối lớn đến mọi lĩnh vực đời sống cư
dân từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần của người dân, đặc biệt là
người dân Khmer ở ĐBSCL nói chung, ở tỉnh Trà Vinh nói riêng. Các công
việc gắn với cá nhân hay tập thể đó đều chịu những ảnh hưởng nhất định từ
triết lý của PGNT. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong các
hoạt động lễ hội văn hóa cộng đồng, thậm chí tới các công việc cá nhân của
mỗi gia đình như ma chay, cưới hỏi, làm nhà… luôn có sự tham gia trực tiếp
hay sự hướng dẫn của các sư trong chùa.
PGNT đã góp phần cố kết cộng đồng, định hướng thế giới quan và
nhân sinh quan, định hướng chuẩn mực và luân lý đạo đức, tạo ra nếp sống
cho con người. Đạo Phật có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục hình
thành nhân cách, đạo đức, dân trí của đồng bào. Phật giáo đã đưa ra những tư
tưởng và phương pháp cải cách xã hội, “giáo hóa đạo đức tinh thần của con
người, khuyên người ta sống từ, bi, hỷ, xả, bác ái…” [25, tr. 25]. Sự giao hòa
giữa giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam với giáo lý nhà Phật đã tạo ra
sức sống mãnh liệt và bền vững của Phật giáo.
PGNT cũng đã có những nỗ lực tích cực trong quá trình đồng hành
cùng dân tộc thông qua các hoạt động răn dạy các tín đồ, sư sãi thực hành
theo những lời huấn thị của đức Phật “từ bi, bác ái, hỉ xả”, cứu giúp những
mảnh đời, số phận kém may mắn. Ngoài ra, trong đời sống chính trị, PGNT
19
cũng đã tích cực tuyên truyền, vận động tín đồ, sư sãi chấp hành nghiêm túc
các chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển PGNT dễ bị lợi dụng
vào các âm mưu chống phá, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo
của các thế lực thù địch như bị lôi cuốn tham gia vào chính trị tiêu cực gây
ảnh hưởng không nhỏ đến chính trị ở Việt Nam.
Vì vậy, xác định được vai trò quan trọng của PGNT đối với sự phát
triển của đời sống người dân và nhằm phát huy những điểm tương đồng của
tôn giáo và CNXH, những yếu tố tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội
để phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới thì việc tăng cường quản lý
nhà nước về hoạt động của tôn giáo nói chung và PGNT là rất cần thiết. Các
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo đã luôn tạo điều kiện, vận động để
PGNT thực hiện tốt vai trò dẫn dắt các tín đồ hành đạo, khơi dậy và phát huy
những mặt tích cực trong hoạt động, sinh hoạt của các tôn giáo hợp pháp, từ
thiện cứu giúp nhân đạo; biểu dương những nhà tu hành, những tín đồ thực
hiện tốt phương châm “tốt đời, đẹp đạo”… Đồng thời, luôn cảnh giác đấu
tranh, ngăn chặn các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ khối
đại đại đoàn kết dân tộc, đội lốt tôn giáo vì các mưu đồ kinh tế, chính trị,
chống phá sự nghiệp cách mạng.
1.2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của người dân
Trước hết, cần khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội mới mà chúng ta
đang xây dựng, đó là hướng con người đến “Chân - Thiện - Mỹ”; vì vậy
những đạo đức tôn giáo phù hợp truyền thống văn hóa dân tộc cần được tiếp
tục phát huy, nhân rộng các hoạt động từ thiện, xã hội, chăm lo cho người
nghèo. Trong lĩnh vực tôn giáo, ngay khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc,
trong Sắc lệnh số 234/SL ngày 14 tháng 6 năm 1955 của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa về hoạt động tôn giáo do chủ tịch Hồ Chí Minh ký và ban
hành đã khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do
20
thờ cúng của nhân dân. Không ai được vi phạm quyền tự do ấy. Mỗi người Việt
Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Trong những năm gần đây, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề tôn giáo ngày càng rõ ràng và chứa đựng những nội dung
mới, các Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhìn nhận
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Chủ
trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo, phù hợp với
luật pháp quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia. Điều này được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013.
Cụ thể, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: “Mọi người có quyền bình đẳng
theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ
quyền tự do tôn giáo” đã mở rộng cho tất cả mọi người là công dân hoặc mất
quyền công dân vẫn có quyền tin, theo tôn giáo đồng thời khẳng định trách
nhiệm bảo hộ của Nhà nước về quyền này.
Do đó, tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo như ban
hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm khung pháp lý, xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức làm công tác tôn giáo,… cũng là cách cụ thể để nhà
nước thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về Phật giáo
Nam Tông
1.2.2.1. Yếu tố bên trong
Một là, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo
Sau hơn ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, xã hội; đời sống của nhân dân ngày
càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Nhiều chính sách, pháp luật về kinh tế
21
và xã hội trong đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được xây
dựng và ban hành đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn quản lý nhà nước về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Nhiều văn bản pháp luật được ban hành đã tạo
thành hành lang pháp lý quan trọng giúp cho công tác quản lý nhà nước về
tôn giáo đạt hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tế hệ thống khuôn khổ về pháp
luật đối với tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các luật, nghị định, thông tư hướng
dẫn không phải bao giờ cũng bao quát được các vấn đề phát sinh liên quan đến.
Việc giải quyết các vấn đề, tùy thuộc vào từng tình huống cụ thể để áp dụng
luật và các văn bản có liên quan. Bên cạnh đó, cũng có những tình huống nằm
ngoài phạm vi hoặc chưa được quy định trong luật. Những trường hợp này cần
phải có văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo.
Do vậy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo là một yếu tố có ảnh hưởng đến công tác QLNN đối với tôn giáo. Yếu tố
này đòi hỏi phải có tính chính xác và tính kịp thời, nếu một vấn đề phát sinh
liên quan đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo không được hướng dẫn
giải quyết chính xác, kịp thời thì nó sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Đồng
thời làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực này.
Tóm lại, thực hiện tốt việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
quy định hướng dẫn sẽ có tác động tích cực và mang lại hiệu quả cho công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng, còn nếu không nó
sẽ có tác động ngược lại.
Hai là, bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo
Bộ máy quản lý là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tổ chức tốt một bộ máy
chuyên trách sẽ có tính quyết định đến việc thực thi và hoàn thành các nhiệm
vụ được giao.
Hiện nay, ở cấp Trung ương nước ta có bộ máy đầu mối, chuyên trách
về thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là Ban Tôn
giáo Chính phủ, Bộ Nội vụ… Ở cấp địa phương, cơ quan quản lý trực tiếp về
22
tín ngưỡng, tôn giáo là Ban Tôn giáo hoặc Phòng Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ
các tỉnh, thành phố.
Việc tổ chức bộ máy chuyên trách trong công tác quản lý nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo là thực sự cần thiết. Đây là cơ quan đảm nhận chức năng
nghiên cứu, tham mưu cho Nhà nước các cơ chế, chính sách về tín ngưỡng,
tôn giáo như xây dựng văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, kiến nghị
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan và xây dựng quy định về kiểm tra,
giám sát, tổ chức hướng dẫn thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo cho các địa phương.
Ba là, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
là những người trực tiếp thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về tôn
giáo. Họ là những người tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo và đảm bảo thực thi các văn bản đó. Do đó, năng lực, trình
độ của các cán bộ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng
các văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đòi hỏi phải có tư duy khoa học, khả
năng nghiên cứu và am hiểu các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước,
có kinh nghiệm thực tế.
Bên cạnh đó, ngoài việc tự nghiên cứu, học tập, bổ sung kiến thức thì
trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo cần được kiểm tra, đánh giá lại năng lực và trình độ chuyên
môn hàng năm. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý cử các cán bộ công chức tham
gia các khóa đào tạo, tập huấn để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức
các chương trình tọa đàm, trao đổi nhằm chia sẻ kinh nghiệm thực tế.
Cùng với việc tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức thì đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng phải tự rèn luyện, tu
dưỡng bản thân, nâng cao bản lĩnh chính trị để không thể hiện ý chí chủ quan,
không cửa quyền, tham ô, tham nhũng trong công việc.
23
Như vậy, năng lực, trình độ của các cán bộ là yếu tố quan trọng góp
phần thành công vào công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Do
vậy, việc đào tạo con người nói chung hay đội ngũ cán bộ công chức nói riêng
cần phải được quan tâm, chú trọng.
Bốn là, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong công tác quản lý nhà
nước đối với tôn giáo
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn giáo, cơ chế phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan quản lý các cấp có vai trò quan trọng, quyết định hiệu
quả quản lý và ảnh hưởng trực tiếp đến từng đối tượng quản lý, cụ thể:
Thứ nhất, cơ chế phối hợp tạo cơ sở cho việc thi hành luật cũng như
các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế.
Thứ hai, cơ chế phối hợp phần nâng cao ý thức pháp luật, tôn trọng
pháp luật, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm các quyền
lợi của mỗi cá nhân, tổ chức tôn giáo.
Thứ ba, cơ chế phối hợp phát huy được các nguồn lực để tập trung và
xử lý có hiệu quả những vấn đề khó khăn, phức tạp trong quản lý nhà nước
đối với tín ngưỡng, tôn giáo mà đối với một người, một cơ quan, tổ chức
không thể giải quyết được.
Vì vậy, để quản lý nhà nước về tôn giáo hiệu quả thì các cơ quan nhà
nước cần có sự phân cấp rõ ràng về quyền và trách nhiệm của mình. Đồng
thời trong quá trình hoạt động các cơ quan phải có sự phối hợp một cách kịp
thời và hiệu quả để hoạt động quản lý không bị chồng chéo nhưng cũng
không buông lỏng.
1.2.2.2. Yếu tố bên ngoài
Một là, đặc điểm tổ chức của Phật giáo Nam Tông
Phật giáo Nam Tông tại Việt Nam như sự góp mặt của một loài hoa
trong vườn hoa Phật giáo Việt Nam. Những đặc điểm riêng của nó đã hòa
cùng với nhiều loài hoa Phật giáo khác, góp phần tô điểm làm giàu sắc hương
tươi thắm cho vườn hoa văn hóa tinh thần của đất nước và dân tộc Việt Nam.
24
PGNT Việt Nam không đặt nặng nghi lễ, vì chuộng đời sống chân thật,
mộc mạc và đơn giản, chú trọng ở nội tâm hơn là hình thức. Nhưng PGNT rất
quan tâm tới giới luật. Vì vậy có một số đặc điểm như sau: Kính lễ nhau theo
tôn ti hạ lạp, nhưng không đón rước quá trịnh trọng như phong kiến; Trai tịnh
là không thọ thực quá giờ ngọ và dùng tam tịnh nhục chứ không ăn chay;
Tụng kinh không dùng chuông mõ và không xướng tán ngân nga; Chỉ thờ
Đức Phật Thích Ca và chỉ cúng hương hoa để tỏ lòng thành kính chứ không
cúng vật thực; Đi khất thực không nhận tiền bạc.
Đa số những bài kinh tụng niệm đều có nguồn gốc từ kinh tạng Pali
được chuyển dịch sang tiếng phổ thông. Phần tiếng phổ thông đôi chỗ là văn
xuôi, đôi chỗ là thơ lục bát hay song thất lục bát nên gần gũi với người Việt.
Trong các trường chùa, các lớp bổ túc Pali, nội dung được đưa vào
giảng dạy là chữ Pali, giáo lý, văn hóa, nghề thủ công và cả đạo đức nhân
cách cho cộng đồng tín đồ. Các lớp học trong chùa do chính các sư đảm trách,
họ được gọi là các sãi giáo. Vì vậy, các vị sư được cộng đồng kính trọng;
tiếng nói, ý kiến của sư tăng về những công việc chung luôn luôn được mọi
người dân trong phum, sóc tin tưởng, nghe theo. Các vị sư còn góp phần quan
trọng vào việc duy trì, phát triển các giá trị đạo đức xã hội tốt đẹp qua việc lấy
chính đạo hạnh và đức độ của mình trong cuộc sống làm gương cho xã hội.
Hai là, những ảnh hưởng của phong tục, tập quán và sự phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam đối với Phật giáo Nam Tông
Khi đến với Việt Nam, Phật giáo nói chung và PGNT nói riêng đã tìm
đến với văn hóa dân gian để kết thành duyên nợ. PGNT đã tìm đến với nguồn
cội của văn hóa dân tộc, tìm đến với sức sống và bản sắc của văn hóa Việt
Nam, đặc biệt là bản sắc văn hóa của đồng bào vùng ĐBSCL. Người dân
Nam Bộ đã nhìn thấy được những giá trị đạo đức Phật giáo có thể giúp họ bảo
lưu, duy trì và chuyển tải những giá trị tốt đẹp của vốn có của họ. Phong tục
tập quán của người Nam Bộ được thể hiện qua đạo lý uống nước nhớ nguồn,
truyền thống bao dung, nhân nghĩa, truyền thống yêu nước, phóng khoáng,
25
đoàn kết, v.v… tất cả được dung nạp vào Phật giáo.
Vì thế, Phật giáo cũng góp phần củng cố, gìn giữ và phát huy những
những phong tục tập quán cổ truyền của người Việt Nam. Có thể nói, sau khi
vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng đồng hành cùng dân tộc, hòa mình
với văn hóa bản địa, từ đó làm phong phú, sâu sắc thêm nền văn hóa của
người Việt. Không chỉ có vậy, chính nền văn hóa của người Việt, các phong
tục, tập quán truyền thống của dân dân tộc cũng làm cho Phật giáo có sự thay
đổi để thích nghi. Từ đó, tạo nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo ở Việt
Nam, không giống với Phật giáo ở các nước trong khu vực và ngay cả trên
quê hương đã sản sinh ra chính tôn giáo đó.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhu cầu tôn giáo của người
Việt ngày càng đa dạng hơn. Cuộc sống tôn giáo của tầng lớp tu sĩ và những
người thực hành tâm linh có nhiều biến đổi dưới tác động của xã hội đương
đại và nền kinh tế thị trường, sinh hoạt tôn giáo có xu hướng phát triển mạnh
hơn trước với nhiều sắc thái mới… Những sự thay đổi đó, bên cạnh những giá
trị tích cực cũng làm nảy sinh những vấn đề phức tạp về văn hóa, xã hội, an
ninh quốc gia và làm ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Điều
này đặt ra trước các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách và quản lý
tôn giáo cần phải có những chiến lược mang tính dự báo để tôn giáo có thể
phù hợp với sự phát triển và trở thành một trong những động lực quan trọng
giúp tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Ba là, yêu cầu của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới (1986), Đảng và Nhà
nước ta không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương,
chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của
đồng bào có đạo, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
trong lĩnh vực này. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam
thể hiện tính đúng đắn trong các chủ trương và chính sách đối với tôn giáo
26
của Đảng và Nhà nước Việt Nam làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm
tin tưởng vào Đảng, Nhà nước. Từ đó ủng hộ và tham gia tích cực vào công
cuộc đổi mới. Chính điều này đã góp phần vào sự ổn định tình hình chính trị
và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập sâu rộng, hoạt động của các tôn
giáo có sự phát triển đa dạng, phong phú, các hoạt động lễ hội tổ chức ngày
càng mở rộng quy mô, từ đó cũng sẽ nảy sinh những vấn đề cần đặc biệt quan
tâm. Do đó, công tác QLNN về tôn giáo của chúng ta sẽ còn gặp không ít khó
khăn, thách thức. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
ở nước ta tuy đã được cải thiện đáng kể song về nhiều mặt còn hạn chế như hệ
thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ chưa đủ rõ ràng và nhất
quán. Nhiệm vụ công tác tôn giáo nặng nề hơn trong khi đó tổ chức, bộ máy
làm công tác QLNN về tôn giáo còn bất cập, bộ máy hành chính còn nhiêu
khê, nhũng nhiễu, quan liêu.
Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện để đất nước ta phát triển, trong đó
các tôn giáo cũng có điều kiện để phát triển; đặc biệt là để thích ứng với hội
nhập các tôn giáo sẽ tăng cường hoạt động truyền giáo, đào tạo giáo sỹ
chuyên nghiệp hơn, trang bị cơ sở vật chất hoạt động hiện đại hơn, nhất là đào
tạo chức sắc chuyên nghiệp ở nước ngoài, đó là điều tất yếu. Vấn đề đặt ra là
với vai trò quản lý Nhà nước, chính quyền cần có giải pháp hiệu quả để phát
huy tính tích cực và vai trò của đạo đức tôn giáo làm phong phú thêm đời
sống văn hóa, đạo đức của cộng đồng; cũng như giảm thiểu những tác động
tiêu cực trong quá trình hội nhập, giao lưu giữa các tôn giáo.
1.3. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động của
Phật giáo Nam Tông
1.3.1. Chủ thể và khách thể quản lý
1.3.1.1. Chủ thể quản lý
Theo nghĩa rộng, chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động của
PGNT bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước gồm: Cơ quan quyền lực nhà
27
nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước
(Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân).
Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì chủ thể quản lý nhà nước đối
với PGNT là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống cơ quan thực thi quyền
hành pháp các cấp bao gồm: Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ, Ủy ban nhân dân cấp huyện và phòng
Nội vụ, Ủy ban nhân dân cấp xã. Các cơ quan này có nhiều chức năng, nhiệm
vụ trong đó có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo. Cụ thể:
+ Chính phủ: Điều 96, Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ thực hiện 8
nhóm nhiệm vụ, quyền hạn. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với
các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề tôn giáo.
+ Bộ Nội vụ: Nghị định số 34/2017/NĐ-CP, ngày 03/4/ 2017 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội
vụ, trong đó thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo như sau
(khoản 14, Điều 2):
Ban hành theo thẩm quyền hoặc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ
quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác liên quan;
Trong việc tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo;
Hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo đối với các ngành, các cấp liên quan và các địa phương;
Thống nhất quản lý về xuất bản các ấn phẩm, sách kinh, tác phẩm, giáo
trình giảng dạy, văn hóa phẩm thuần túy tôn giáo của các tổ chức tôn giáo
được Nhà nước cho phép hoạt động;
Hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật;
Thực hiện và hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức
sắc tôn giáo về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp
28
luật; làm đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo trong nước và quốc tế;
Khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng và áp dụng
chính sách đãi ngộ đối với các tổ chức tôn giáo, cá nhân tham gia hoạt động
tôn giáo.
+ Ban Tôn giáo Chính phủ: Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg, ngày
03/8/2018 của của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội
vụ. Trong đó nêu rõ: “Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan tương đương Tổng
cục trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ
quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi cả nước; thực hiện các
dịch vụ công thuộc lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp
luật” [6, tr. 1]. Ban Tôn giáo Chính phủ có 14 đơn vị trực thuộc, trong đó có
10 đơn vị hành chính giúp Trưởng ban thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước,
04 đơn vị sự nghiệp phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ban.
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Nội vụ: thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về tôn giáo theo quy định tại Khoản 6, Điều 21, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương (2015) và Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, ngày 04/4/2014
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, thành
phố trực thuộc Trung ương.
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện và phòng Nội vụ: thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về tôn giáo theo quy định tại Khoản 4, Điều 28, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương (2015) và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, ngày
05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
+ Ủy ban nhân dân cấp xã: Quản lý các hoạt động tôn giáo của chức
sắc, nhà tu hành, tín đồ tại nơi thờ tự theo chương trình đã đăng ký hàng năm.
Phối hợp quản lý các hoạt động tôn giáo bất thường đã được cấp trên cho
phép tại địa phương. Kịp thời báo cáo cấp trên để xem xét, giải quyết tiếp
29
trong trường hợp phức tạp hoặc vượt quá thẩm quyền; chấp hành chế độ báo
cáo định kỳ về UBND huyện.
1.3.1.2. Khách thể quản lý
Hoạt động tôn giáo của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành, chức việc; nơi thờ tự
cùng các cơ sở vật chất khác, đồ dùng việc đạo, sinh hoạt tôn giáo và hệ thống
hành chính đạo (tổ chức giáo hội ở cấp trung ương, địa phương và cơ sở).
Đối tượng cụ thể của quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
của PGNT ở Việt Nam nói chung gồm:
+ Hoạt động tôn giáo của tín đồ: bao gồm những sư tăng (những người
tu hành tại chùa) các tín đồ tu hành tại gia.
+ Chức sắc PGNT (Hòa thượng, thượng tọa, đại đức,…); chức việc (như
thành viên Ban trị sự giáo hội phật giáo, Hội đoàn kết sư sãi yêu nước,…);
+ Địa điểm sinh hoạt (chùa, tư gia…);
+ Hoạt động sinh hoạt tôn giáo (Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan báo hiếu...);
+ Hệ thống hành chính đạo (tổ chức giáo hội ở cấp trung ương, địa
phương và cơ sở).
1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Theo quy định tại Điều 60, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, nội
dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm:
Một là, xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc xây dựng chính sách và ban hành các văn bản QPPL về tín
ngưỡng, tôn giáo đã tạo thành khung pháp lý hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phát triển, mặt khác đảm bảo
cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tuân thủ đúng các quy định của pháp luật,
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Bởi lẽ chính sách và pháp luật
vừa là căn cứ, vừa là công cụ cơ bản của quản lý nhà nước về tôn giáo, vì vậy
Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách cũng như xây dựng, hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
30
tôn giáo là cần thiết.
Hai là, quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo rất phức tạp và đa dạng, nhạy cảm liên
quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực. Vì vậy, quy định tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động rất quan trọng.
Nhà nước ban hành các quy định về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo một cách thống nhất từ trung ương đến cơ sở, được quy định
chức năng nhiệm vụ một cách rõ ràng, phân cấp, phân quyền phù hợp. Nhờ
vậy mới có thể thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo một cách
toàn diện, tránh được sự chồng chéo hoặc buông lỏng. Quyết định số
32/2018/QĐ-TTg, ngày 03/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ
trực thuộc Bộ Nội vụ được ban hành đã quy định một cách đầy đủ về tổ chức
và nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo tại Việt Nam hiện nay
Ba là, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên cơ sở các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các cơ quan
QLNN về tôn giáo đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các
văn bản pháp luật. Đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành
để thực hiện đầy đủ và kịp thời các hoạt động quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo như: xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo, xét duyệt chương
trình mục vụ thường xuyên và đột xuất, quản lý đào tạo chức sắc tôn
giáo,…Nhờ sự tích cực, chủ động trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo của các cơ quan quản lý nhà nước mà hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo đã hoạt động đúng theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Bốn là, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Đây là nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm tiếp tục quán triệt triển khai, tuyên truyền, phổ biến kịp thời các
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn
31
giáo cho cán bộ, công chức, viên chức, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn
giáo và Nhân dân, từ đó tạo sự thống nhất trong nội bộ và sự đồng thuận
ngoài xã hội; góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội, phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, các nội dung tuyên truyền, phổ biến
tập trung là Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn có liên quan về tín
ngưỡng, tôn giáo; quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng và kiến thức
quốc phòng, an ninh có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo.
Năm là, nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo.
Đội ngũ cán bộ, công chức tham gia trong bộ máy các cơ quan quản lý
nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là nhân tố tác động trực tiếp đến công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hoạt động quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo rất phức tạp và đa dạng, nhạy cảm. Vì vậy cán bộ, công chức,
viên chức hoạt động trong lĩnh vực này cần được đào tạo, bồi dưỡng thường
xuyên để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng về kỹ năng, am
hiểu về tín ngưỡng, tôn giáo để hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.
Đầu tư nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều công
trình nghiên cứu công phu, sâu rộng sẽ tăng cường sự hiểu biết trong lĩnh vực
này. Đồng thời qua đó rút ra được những bài học, kinh nghiệm quý giá, giúp
quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực này có hiệu quả hơn.
Sáu là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là chức năng vốn có của hoạt động quản
lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra
giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ sở tôn giáo, các tín đồ, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo. Theo quy định, Ban Tôn giáo Chính phủ và Thanh tra Sở Nội vụ có
thẩm quyền thanh tra việc thực hiện quy định của pháp luật các nội dung:
Đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức
32
tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc;
đăng ký hội đoàn, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác; thành
lập, quản lý, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên
hoạt động tôn giáo; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách
chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo; thuyên chuyển nơi hoạt động của
chức sắc, nhà tu hành; đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo hàng năm của
tổ chức tôn giáo cơ sở; hội nghị thường niên, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo trực thuộc; hoạt động xuất bản các xuất bản phẩm, ấn phẩm tôn
giáo; thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm của
cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện hoạt động tôn giáo; thực
hiện các nhiệm vụ khác khi được Bộ trưởng Bộ Nội vụ giao cho Ban Tôn giáo
Chính phủ; Giám đốc Sở Nội vụ giao cho Thanh tra Sở Nội vụ.
Sở Nội vụ thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật; thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn giáo và vi phạm
chính sách tôn giáo căn cứ theo Luật Khiếu nại, tố cáo và các chính sách tôn
giáo của Đảng, nhà nước để giải quyết ngay từ cơ sở và đúng thẩm quyền
pháp lý của từng cấp quản lý. Xử lý vi phạm chính sách tôn giáo theo các văn
bản pháp luật hiện hành của Nhà nước: Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự,
Luật Dân sự, Luật tín ngưỡng tôn giáo,…
Bảy là, quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhà nước thực hiện quản lý việc xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối
ngoại tôn giáo. Các hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải
tuân thủ và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa
bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị. Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước
muốn mời tổ chức, cá nhân ở nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp
thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước
33
tham gia làm thành viên của các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài, tham gia các
hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài, thực hiện
theo quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài
không được tổ chức điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động
tôn giáo, không được truyền bá tôn giáo. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong
nước muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép các cơ quan quản
lý nhà nước.
Công tác QLNN đối với hoạt động PGNT hiện này được quy định trực
tiếp tại Khoản 6, Điều 21 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015).
Trong đó quy định UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn xem xét và giải
quyết việc đề nghị sửa chữa các công trình thờ tự, tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật, xử lý hành vi xâm phạm
tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Tất cả những công việc
trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo cần phải thực hiện tốt tất cả những công việc này.
1.4. Kinh nghiệm và bài học quản lý nhà nước về hoạt động Phật
giáo ở một số địa phương
1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương
1.4.1.1. Thành phố Cần Thơ
Sự hình thành và phát triển các tôn giáo tại Thành phố Cần Thơ khá đa
dạng. Hiện nay, thành phố Cần Thơ có 5 tôn giáo chính bao gồm: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hoà Hảo. Phật giáo người Việt có
mặt ở Cần Thơ ngay từ khi vùng đất này được khai mở, do những di dân từ
miền Bắc, miền Trung đem theo tôn giáo này từ nguyên quán đến vùng đất
mới. Tổng số tín đồ 5 tôn giáo chiếm 32,93% dân số của tỉnh đại đa số là
nông dân và tầng lớp lao động.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố Cần Thơ, các
tôn giáo cũng có những đóng góp tích cực trên các lĩnh vực, góp phần cùng
34
Nhà nước chăm lo cho người nghèo thông qua các chính sách an sinh xã hội,
hoạt động nhân đạo, từ thiện, chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, chuyển
viện cấp cứu miễn phí, làm cầu, đường giao thông, tặng nhà tình thương, học
bổng…; ngoài những đóng góp về vật chất, văn hoá và đạo đức tôn giáo cũng
đã góp phần giữ gìn sự ổn định, nâng cao giá trị đạo đức, tinh thần trong nhân
dân, giữ gìn bản sắc truyền thống, văn hoá dân tộc của con người Việt Nam,
con người Cần Thơ. Để đạt được kết quả trên là nhờ Cần Thơ đã làm tốt công
tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo. Hệ thống chính trị của thành
phố Cần Thơ quán triệt và vận dụng thực hiện một cách phù hợp, sáng tạo
những đường lối, chủ trương, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và nhà
nước. Cụ thể: Thành uỷ ban hành Quy chế 04 quy định hệ thống chính trị
trong tỉnh tham gia làm công tác tôn giáo, lập ban chỉ đạo công tác tôn giáo,
Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Bản quy định về phân cấp quản lý giải
quyết những vấn đề tôn giáo trong tỉnh, Ban Tôn giáo chỉ ra quy chế hoạt
động của Tổ công tác tôn giáo ở xã, phường, thị trấn…
Bên cạnh đó cả hệ thống chính trị các cấp thành phố Cần Thơ còn tác
động vào các tôn giáo trong tỉnh bằng tăng cường các cuộc sinh hoạt học tập,
thực hiện tốt chủ trương, chính sách đáp ứng nhu cầu hợp lý của các tôn giáo
tập hợp đoàn kết, chăm lo đời sống, xây dựng lực lượng ở cơ sở, cốt cán.
Thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật cho chức sắc, chức việc các tôn giáo. Trong quá trình thực hiện công
cuộc cải cách hành chính, thành phố Cần Thơ xây dựng và thực hiện các thủ
tục hành chính theo quy trình ISO (Tiêu chuẩn hóa quốc tế) đã được công bố
về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện giải quyết thủ tục hành chính qua
dịch vụ công trực tuyến nhằm tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tôn giáo
hoạt động. Nhờ vậy góp phần ổn định an ninh tôn giáo, tạo ra môi trường sinh
hoạt tôn giáo lành mạnh, bình đẳng, an toàn.
1.4.1.2. Tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng là tỉnh có đông đồng bào Khmer nhất cả nước với trên
35
400.000 người, chiếm 31% dân số của tỉnh, hầu hết theo PGNT. Toàn tỉnh có
92 ngôi chùa Khmer với gần 2.000 vị sư sãi, chức sắc tôn giáo [19].
Thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo, tỉnh Sóc
Trăng đã quan tâm xây dựng và triển khai thực hiện tốt các chính sách về văn
hóa, giáo dục trong cộng đồng PGNT Khmer như: mở lớp bồi dưỡng kiến
thức quản lý cho hàng trăm sư sãi, chức sắc; có cơ chế, chính sách hỗ trợ và
vận động xã hội hóa để trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự của PGNT Khmer, bảo
tồn và phát huy các lễ hội truyền thống; chính sách hỗ trợ sinh hoạt đối với
chức sắc; chính sách hỗ trợ đào tạo đội ngũ sư sãi, chức sắc; hỗ trợ xuất bản
kinh sách; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hàng trăm cơ sở thờ
tự; vận động sư sãi, chức sắc tham gia các hoạt động xã hội và các tổ chức
địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của
đoàn thể nhân dân…Đặc biệt việc cấp phát báo, tạp chí cho 92 chùa Khmer trên
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các sư sãi, chức sắc và
phật tử; nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên, sư sãi Khmer và
đồng bào Khmer; góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới trong đồng bào
Khmer của tỉnh.
Với sự quan tâm của chính quyền, tình hình tôn giáo trên địa bàn đã
chuyển biến tích cực. Hầu hết sư sãi, chức sắc đều thể hiện sự an tâm, phấn
khởi, sống “tốt đời, đẹp đạo”, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Trà Vinh
Từ thực tiễn trong quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo nói
chung và quản lý nhà nước về PGNT nói riêng tại một số địa phương có điều
kiện tương tự, bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Trà Vinh trong công tác
quản lý nhà nước về PGNT như sau:
Một là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn
giáo, cần quán triệt để có nhận thức đúng về tôn giáo. Tiếp tục quan tâm
36
nhiều hơn và chủ động lập kế hoạch xây dựng, phát triển đời sống văn hóa
của đồng bào theo tôn giáo. Việc chủ động lập kế hoạch sẽ giúp tránh được sự
lúng túng, sai sót trong quá trình triển khai các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với các tín đồ. Để làm được điều này, cần phải đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm bảo đảm đội ngũ cán bộ có
năng lực và chuyên môn tốt, góp phần thực hiện tốt các chính sách liên quan.
Hai là, cần có một cơ chế lãnh đạo quản lý, vận động phù hợp đối với
công tác tôn giáo - phân công rõ, phân cấp phù hợp, thiết lập các quan hệ phối
hợp giữa các ngành liên quan.
Ba là, đầu tư thích hợp cho công tác tôn giáo như xây dựng bộ máy
chuyên trách công tác tôn giáo đến tận cấp cơ sở. Từng cấp nên chỉ có một đầu
mối chung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tôn giáo để đảm bảo tính thống nhất.
Bốn là, có nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao trình độ học vấn của
nhân dân, đặc biệt là các tín đồ tôn giáo, nhằm giúp họ nhận thức đúng đắn và
đầy đủ về các chính sách phát triển văn hóa, giáo dục ở địa phương. Để làm
được điều này, cần tăng cường đầu tư giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện để hầu
hết con em trong độ tuổi đến trường.
Năm là, tiếp tục củng cố các cơ sở tôn giáo hiện có. Tăng cường quản lý,
kiểm tra, kiểm soát văn hóa phẩm của tôn giáo. Đa dạng hóa các hình thức thông
tin tuyên truyền, phim ảnh và các ấn phẩm văn hóa bằng song ngữ Việt - Khmer.
Sáu là, chăm lo đào tạo, có chính sách thỏa đáng đối với sư sãi; khắc
phục khuynh hướng thương mại hóa trong việc tổ chức các lễ hội.
37
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Nếu so với bề dày lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam thì sự có mặt
của PGNT trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam được xem là khá khiêm
tốn.Tuy nhiên trong thời gian tồn tại và phát triển của mình, PGNT cũng đã
có những đóng góp nhất định cho thành quả chung của Phật giáo Việt Nam.
Có thể nói từ khi du nhập Việt Nam, PGNT đã biết cách thể hiện khá
nhuần nhuyễn tinh thần khế lý khế cơ của Phật giáo, và nhờ vậy không lạ gì
thành quả của quá trình vận động thống nhất Phật giáo nước nhà gặp rất nhiều
thuận duyên, trong đó có sự đóng góp quan trọng của sư tăng, tín đồ PGNT
trải qua các thời kỳ. Xác định lập trường quan điểm nhập thân phấn đấu cho
lý tưởng phục vụ vì sự nghiệp chung của Phật giáo Việt Nam, nhằm phát huy
ánh sáng chánh pháp của đức Phật được lưu lộ và tồn tại mãi trên quê hương
Việt Nam, vì đại nghĩa dân tộc và an lạc hạnh phúc của nhân dân, chư tăng,
tín đồ PGNT nói chung và tín đồ PGNT ở tỉnh Trà Vinh nói riêng đang phấn
đấu tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống phục vụ đạo pháp và dân tộc
trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực thì niềm tin tôn giáo của các
tín đồ cũng rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để gây ra những ảnh hưởng
bất lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước tình hình như vậy,
công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo nói chung và các
hoạt động tôn giáo của PGNT tại tỉnh Trà Vinh nói riêng là rất cần thiết. Việc
tăng cường quyền lực, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo là một tất yếu khách quan vừa mang tính Đảng,
vừa mang tính nhân dân sâu sắc.
Để tăng cường hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo thì không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà quản lý -
đó là chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, mà còn chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố như đặc điểm tôn giáo, quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, thể
chế chính trị, lịch sử, văn hóa,… Nhưng dù thực hiện quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo theo phương pháp, cách thức nào thì việc bảo đảm
quyền tự do tôn giáo của nhân dân vẫn là điều cần phải đặt lên hàng đầu.
38
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở TỈNH TRÀ VINH
2.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh
Trà Vinh
Trà Vinh là tỉnh Duyên hải ở phía Đông Nam ĐBSCL, nằm giữa sông
Tiền và sông Hậu, với diện tích tự nhiên là 2.358 km². Vị trí địa lý giới hạn
từ: 9°31’46’’ đến 10°04’5” vĩ độ Bắc và 105°57’16” đến 106°36’04” kinh độ
Đông. Phía Bắc, Tây - Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long; phía Đông giáp tỉnh Bến Tre
với sông Cổ Chiên; phía Tây giáp tỉnh Sóc Trăng với Sông Hậu; phía Nam,
Đông - Nam giáp biển Đông với hơn 65 km bờ biển. Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn
vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm thành phố Trà Vinh, thị xã
Duyên Hải và 07 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành,
Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú với 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã.
Địa hình Trà Vinh mang tính chất vùng đồng bằng ven biển, chịu ảnh
hưởng bởi sự giao thoa giữa sông và biển đã hình thành các vùng trũng,
phẳng xen lẫn các giồng cát, các huyện phía bắc địa hình bằng phẳng hơn các
huyện ven biển, địa hình dọc theo 2 bờ sông thường cao, vào sâu nội đồng bị
các giồng cát hình cánh cung chia cắt tạo nên các vùng trũng cục bộ, xu thế
độ dốc chỉ thể hiện ở trên từng cánh đồng. Nhìn chung địa hình thuận lợi cho
sản xuất nông nghiệp từ 0,6 - 1m thích hợp cho tưới tiêu tự chảy, ít bị hạn
cũng như không bị ngập úng.
Trà Vinh có số dân là 1.009.168 người, chiếm 5,84% Đồng bằng sông
Cửu Long (theo điều tra dân số năm 2019), có 275.817 hộ dân cư trong đó
41.481 hộ sống ở khu vực thành thị (chiếm 15%), 234.336 hộ sống ở khu vực
nông thôn (chiếm 85%). Mật độ dân số 414 người/km².
Trên địa bàn Trà Vinh có 29 dân tộc sinh sống, nhưng đông nhất là 03
dân tộc Kinh (69%), Khmer (29%) và dân tộc Hoa (1%); có 59 xã, phường,
thị trấn có trên 20% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Trà Vinh là địa bàn
39
cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc
trưng như tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.
Trà Vinh là tỉnh nghèo khoáng sản, chỉ có cát xây dựng nhưng lại có bờ
biển dài 65 km. Vùng biển ở khu vực Trà Vinh có nguồn tài nguyên phong
phú, có giá trị kinh tế cao, cùng với hệ thống sông ngòi chằng chịt, nguồn lợi
thuỷ sản nội đồng, ven biển sẽ là tiềm năng lớn để thúc đẩy nền kinh tế của
tỉnh phát triển. Trung tâm tỉnh lỵ nằm trên quốc lộ 53, cách thành phố Hồ Chí
Minh gần 200 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km. Trà Vinh nối với thành
phố Vĩnh Long bằng quốc lộ 53, tuyến thông thương đường bộ duy nhất nối
Trà Vinh với các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam.
2.2. Hoạt động của Phật giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Trà Vinh có 9 tôn giáo chính đang hoạt động là là Phật giáo, Công giáo,
Cao Đài, Tin Lành, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Hồi giáo, Tứ Ân Hiếu
nghĩa, Bửu sơn kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo. Toàn tỉnh có 399 cơ sở thờ
tự, 6.700 chức sắc, chức việc và khoảng hơn 550 ngàn tín đồ các tôn giáo
chiếm 54% dân số.
Phật giáo Nam Tông đã có mặt ở Trà Vinh từ rất sớm, vào năm 373 thế
kỷ IV Sau Công nguyên, chùa Som Bua Răng Sây (Som Bua) ở xã Hòa Ân,
huyện Cầu Kè là ngôi chùa đầu tiên của PGNT trên địa bàn tỉnh được hình
thành [48, tr. 212].
Có thể nói, PGNT giữ vai trò độc tôn trong đời sống cộng đồng của
đồng bào Khmer; ngôi chùa PGNT vừa là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, vừa là
trung tâm văn hóa của cộng đồng dân tộc Khmer ở Trà Vinh. PGNT ở Trà
Vinh là một hệ phái Phật giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc
và cách mạng Việt Nam. Chư tăng PGNT Trà Vinh sớm giác ngộ cách mạng,
sớm tham gia phong trào yêu nước giải phóng dân tộc. Ngay từ những năm
1930, sư sãi PGNT đã góp phần mình vào công cuộc cách mạng do Đảng
40
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nhiều sư sãi
đã tham gia phục vụ cách mạng, nhiều ngôi chùa như đã trở thành nơi nuôi
giấu cán bộ cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược nhiều sư sãi và
phật tử PGNT đã một lòng theo Đảng tham gia cách tham gia đánh đuổi giặc
ngoại xâm. Đặc biệt là vào ngày 20/3/1965 dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Khu
Tây Nam Bộ và Tỉnh ủy Trà Vinh, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà
Vinh được thành lập. Ngay từ những ngày đầu thành lập, dưới sự lãnh đạo
của Khu ủy Khu Tây Nam bộ và Tỉnh uỷ Trà Vinh, Hội đã tập hợp sư sãi và
tín đồ PGNT theo cách mạng, nhiều ngôi chùa PGNT Khmer đã trở thành cơ
sở cách mạng, như: chùa Ô Mịch (xã Châu Điền, huyện Cầu Kè), chùa Mé
Láng (xã Định An, huyện Trà Cú); chùa Căn Nom (xã Trường Thọ, huyện
Cầu Ngang) chùa Ấp Sóc (xã Huyền Hội, huyện Càng Long), chùa Pro Khúp
(xã Ngũ Lạc, huyện Duyên Hải)… Nhiều vị cao tăng đã vận động sư sãi và
Phật tử đấu tranh chính trị như: Sư cả Thạch Phát, Hòa thượng Kim Nhiêu
Kem, Thượng tọa Kim Túc Chơn, Hòa thượng Kim Chao, Hòa thượng Thạch
Còn, Hòa thượng Trầm Phước Tỵ, Hòa thượng Trần Dạnh, Hoà thượng Lâm
Co, Hòa thượng Thạch Út… Đồng thời cũng có nhiều sư sãi đã theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc khoác áo Cà sa đi kháng chiến và đã hy sinh thân
mình để giành độc lập tự do cho dân tộc, tiêu biểu là những tấm gương tu sĩ
Liệt sĩ Dương Sóc, Liệt sĩ Kim Sum, Liệt sĩ Kim Nang, Hòa thượng Sơn
Vọng, Hòa thượng Thạch Som đã khoác áo cà sa đi kháng chiến giành độc lập
tự do cho dân tộc, cho Tổ quốc “Đi làm cách mạng là làm phước” (Cố Đại lão
Hòa Thượng Thạch Som, Nguyên Đệ Tam Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo
Việt Nam).
Sau năm 1975 đến nay, PGNT của tỉnh tiếp tục đồng hành cùng dân
tộc, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đặc biệt là từ năm 1981 đến nay với tinh
thần đoàn kết, hòa hợp tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động PGNT
41
tỉnh tiếp tục lãnh đạo sư sãi và tín đồ tiếp tục đẩy mạnh việc hoằng pháp độ
sinh hướng dẫn sư sãi và đồng bào Phật tử hành đạo đúng đường hướng của
Giáo hội. Mặt khác, là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực
phòng, chống và làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp
phần nền móng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của GHPG
nước nhà trong lòng dân tộc và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Được sự chấp thuận của UBND và sự giúp đỡ của các Sở, ngành và
chính quyền các cấp trong 02 ngày 11 và 12/10/1993 Đại hội đại biểu Phật
giáo tỉnh Trà Vinh lần thứ I (nhiệm kỳ 1993 - 1998) được tiến hành long trọng
tại hội trường Thành ủy thành phố Trà Vinh. Đây là Đại hội mang tính bước
ngoặt đánh dấu sự ra đời của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh. Phật giáo Trà
Vinh đến nay đã qua 06 kỳ Đại hội Ban Trị sự Phật giáo tỉnh.
Tính từ Đại hội lần thứ I của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đến nay,
PGNT ở Trà Vinh có nhiều vị cao tăng đạo cao đức trọng, đã được Đại hội
đại biểu Phật giáo cả nước suy tôn vào Hội đồng chứng minh, suy cử vào
thành viên Hội đồng trị sự và là thành viên các Ban, Viện của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam như: HT. Ma Ha Thạch Sa Rây, HT. Thạch Xom là Phó Pháp
chủ, Hội đồng chứng minh; HT. Thạch Sok Xane, Phó chủ tịch Hội đồng trị
sự giáo hội Phật giáo Việt Nam, v.v…
Dưới sự lãnh đạo của GHPGVN, cùng với sự nỗ lực của sư sãi, tín đồ
PGNT, nhiều hoạt động Phật sự của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã thu
được những thành tích đáng ghi nhận, góp phần vào việc xây dựng và phát
triển ngôi nhà chung GHPGVN, nhiều vị giáo phẩm PGNT đã tích cực tham
gia các phong trào ở địa phương, được nhân dân tín nhiệm bầu vào các tổ
chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân các cấp.
Với trí tuệ, đức độ và uy tín của nhà tu hành, nhiều vị giáo phẩm đã đóng góp
những ý kiến hiệu quả giúp cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội và thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, thực
42
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, để cùng xây dựng quê hương Trà Vinh vững
mạnh, giàu đẹp.
2.2.2. Số lượng tín đồ, chức sắc
Số lượng chư tăng PGNT tỉnh Trà Vinh nhiều nhất so với số lượng chư
tăng cùng hệ ở các tỉnh khác ở Nam Bộ. Tính đến hết năm 2019, PGNT tại
tỉnh Trà Vinh có 3.371 vị tăng. Hầu hết chức sắc PGNT Khmer ở tỉnh Trà
Vinh có phẩm trật là Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng đều có trình độ học
vấn từ lớp 9/12 trở lên và đều tốt nghiệp Trung cấp Pali.
Bảng 2.1: Số lượng các chư tăng PGNT tỉnh Trà Vinh
Đơn vị: người
Tỳ kheo và Tổng Năm Hòa thượng Thượng Tọa Đại Đức Sadi
2924 3.264 2016 35 48 257
2960 3.265 2017 32 53 218
2637 3.342 2018 26 54 625
1708 3.371 2019 24 57 1582
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo các năm của Giáo hội Phật giáo
tỉnh Trà Vinh
Số lượng các chức sắc của PGNT tỉnh Trà Vinh cũng đã có sự gia tăng
qua các năm, tuy nhiên con số này là không lớn. So với số lượng các tín đồ thì
được đánh giá là khá mỏng bởi số lượng tín đồ của PGNT tỉnh Trà Vinh lên
tới 305.000 người năm 2019.
Để đáp ứng nhu cầu tu học ngày một nâng cao của sư sãi Nam Tông
Khmer, PGNT tỉnh Trà Vinh đã thành lập Trường Trung cấp PGNT Khmer.
Trường Trung cấp Phật học Trà Vinh có 45 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa IV,
khóa V và 60 Tăng Ni sinh đang theo học Trường Trung cấp Phật học tỉnh.
Trường Trung cấp Pali Khmer tỉnh hiện có 95 Tăng sinh đang theo học, và đã
tốt nghiệp ra trường 27 vị. Trong thời gian qua, việc giáo dục giáo lý, giáo
luật của PGNT cho các sư tăng, sư sãi của tỉnh Trà Vinh cũng đã đạt được
43
nhiều kết quả tích cực. Các lớp sơ cấp và trung cấp Phật học được mở thường
xuyên tại các địa phương. Chương trình đào tạo của các lớp cũng có sự đan
xen giữa kiến thức Phật học và kiến thức xã hội.
Trong năm 2019, Tăng Ni sinh trong tỉnh đã được Ban trị sự giới thiệu
theo học tại các trường ở các thành phố lớn và các tỉnh lân cận như: Học viện
Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tỉnh Bạc Liêu,
Thành phố Cần Thơ. Với sự kết hợp của Hội ĐKSSYN tỉnh, lớp Ngữ văn
Khmer các cấp học từ lớp 1 đến lớp 12 được mở rộng khắp. Đặc biệt, nhằm
nâng cao trình độ Phật học và thế học, đào tạo nguồn nhân lực kế thừa, hàng
năm đã có rất nhiều chư tăng của tỉnh Trà Vinh du học nước ngoài. Hiện nay,
toàn tỉnh có 59 vị đang du học trong đó có 54 vị hiện đang du học tại Thái
Lan, có 01 vị đã tốt nghiệp Thạc sĩ Quản lí Giáo dục và đang học chương
trình Tiến sĩ tại Trường Đại học Apollos, 01 vị du học tại Đài Loan, 02 vị học
Cao cấp Giảng sư, 02 vị học lớp Luật.
Trong những năm qua tình hình hoạt động của chức sắc, chức việc, nhà
tu hành và tín đồ PGNT cơ bản ổn định, tuân thủ pháp luật, yên tâm tu học,
hành đạo, thực hành tôn giáo theo đường hướng “tốt đời, đẹp đạo”. Các sư sãi
cũng là những tri thức, họ đã truyền dạy cho các thanh niên trong thời gian tu
học tại chùa toàn bộ những tinh hoa tri thức được tích lũy, giúp họ nâng cao
nhận thức và hiểu biết.
2.2.3 Cơ sở thờ tự và những hoạt động từ thiện nhân đạo, dạy học,
chữa bệnh, lao động sản xuất
Phật giáo tỉnh Trà Vinh hiện nay có 250 tự viện, trong đó PGNT
Khmer có 143 tự viện, Nam Tông Kinh có 4 tự viện. Như vậy, tính đến thời
điểm hiện tại, Trà Vinh là tỉnh có số chùa PGNT nhiều nhất so với các tỉnh
Nam Bộ. Phân bố địa bàn các ngôi chùa của PGNT Khmer tại tỉnh Trà Vinh
như sau:
44
Bảng 2.2: Phân bố chùa Nam Tông Khmer tại tỉnh Trà Vinh
Đơn vị: chùa
STT Địa phương Số lượng chùa
1 Huyện Trà Cú 44
2 Huyện Cầu ngang 23
3 Huyện Cầu Kè 22
4 Huyện Tiểu Cần 15
5 Huyện Châu Thành 15
6 Thành phố Trà Vinh 13
7 Huyện Duyên Hải 7
8 Huyện Càng Long 4
143 Tổng
Nguồn: Ban Tôn giáo tỉnh Trà Vinh
Các chùa tập trung hầu hết ở thành phố Trà Vinh và các huyện Trà Cú,
Cầu Ngang, Cầu Kè, Tiểu Cần, Châu Thành. Được sự quan tâm của các cấp
chính quyền và sự ủng hộ của tín đồ, phật tử, trong hai năm trở lại đây, PGNT
tỉnh Trà Vinh đã có 19 chùa tu sửa lại chính điện, xây mới 32 trai đường, 25
Niệm Phật đường và nhiều công trình phụ trợ khác khiến cảnh chùa ngày một
khang trang, giữ gìn được những đường nét kiến trúc cổ kính, là nơi bảo lưu
các di sản văn hóa đặc trưng của người Khmer. Hầu hết các tự viện trong tỉnh
đều được công nhận cơ sở thờ tự, tôn giáo tín ngưỡng văn minh. Sau khi được
sự thống nhất của GHPGVN và hệ phái Nam Tông về mẫu dấu thống nhất
trong toàn hệ phái, cho đến nay hầu hết các chùa PGNT đã khắc xong con
dấu, tạo điều kiện cho công tác quản lý tài sản của chùa, giao dịch hành chính
được thuận lợi.
Việc thực hiện in ấn kinh sách để nhằm phục vụ hệ thống giáo dục Phật
giáo đáp ứng yêu cầu đọc tụng, nghiên cứu, học tâp của sư sãi và đồng bào
Khmer luôn được quan tâm, đặc biệt là kinh sách bằng tiếng Pali. Dưới sự hỗ
trợ của các cấp chính quyền và GHPGVN, đã có 52 đầu kinh sách và hàng
45
nghìn quyển bằng chữ Khmer, chữ Pali được xuất bản. Kinh sách được phát
đến tận chùa, nhờ vậy mà hầu hết tủ sách các chùa ở Trà Vinh đã có Bộ Đại
tạng Kinh bằng tiếng Khmer được thỉnh từ Campuchia về.
Nhằm phát huy và bảo tồn các giá trị truyền thống và biệt truyền của
PGNT, đảm bảo việc tu học của chư tăng theo đúng truyền thống, PGNT tỉnh
Trà Vinh thường xuyên tổ chức các nghi lễ Phật giáo như lễ xuất gia, lễ Phật
đản, an cư kiết hạ, lễ dâng y… theo truyền thống. Đây cũng là dịp để tín đồ,
phật tử được thể hiện đức tin và tình cảm tôn giáo của mình, tạo không khí
vui tươi, phấn khởi trong đời sống người dân. Hàng năm, vào ngày 15/4 Âm
lịch, PGNT Khmer đều tổ chức lễ Phật đản trang nghiêm và long trọng, đồng
thời để thể hiện tấm lòng tri ân và tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sỹ đã hi
sinh vì Tổ quốc, vào dịp này PGNT Khmer cũng tổ chức các hoạt động nhằm
thể hiện đạo lý ‘‘uống nước nhớ nguồn’’.
Ngoài ra, vào những dịp lễ trọng, các chùa đều tổ chức lễ cầu an, cầu
siêu, hồi hướng công đức đến các vị tiền nhân đã có nhiều công lao và đóng
góp cho PGNT Khmer như Hòa thượng Sơn Vong, Hòa thượng Thích Huệ
Quang, Hòa thượng Thái Không, nhà sư liệt sỹ Dương Sóc, nhà sư liệt sỹ Kim
Nang, nhà sư liệt sỹ Kim Sum… đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
độc lập tự do cho Tổ quốc. Các hoạt động thăm hỏi, mừng thọ các vị chức sắc
cao niên trong PGNT Khmer được tổ chức thường xuyên cũng đã tạo ra không
khí đoàn kết, gắn bó và thắm tình đạo vị trong Phật giáo tỉnh Trà Vinh.
Các chùa PGNT Khmer ở Trà Vinh đã thành lập được 68 dàn nhạc ngũ
âm, 39 bộ trống chhayam, 35 đội múa chằng, 10 đội ghe ngo… nhằm tạo
không khí vui tươi, phấn khởi và phát huy bản sắc của người Khmer. Hưởng
ứng lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, các vị sư trụ trì, Ban Quản
trị chùa Khmer đã tích cực thực hiện và khuyến khích tín đồ thực hiện, nhiều
khóm, ấp có đồng bào Khmer sinh sống được công nhận là khóm, ấp văn hóa,
có 47 chùa được công nhận là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo văn minh.
46
Nhằm tạo điều kiện cho chức sắc và tín đồ PGNT có điều kiện tu học,
nâng cao kiến thức phật học và kiến thức xã hội, các chùa PGNT Khmer ở
Trà Vinh đã xây dựng được 58 phòng đọc sách với 156 bộ Tam tạng kinh
điển (tiếng Khmer) và 11 bộ chú giải kinh Tam tạng; có 107 dụng cụ truyền
thanh; 119 máy truyền hình công cộng…
Theo quan niệm của PGNT Khmer thì sư sãi và người dân có mối quan
hệ khăng khít với nhau, nên hoạt động từ thiện của chùa là việc làm thường
xuyên mang ý nghĩa cứu nhân độ thế. Các chùa là nơi cưu mang trẻ nhỏ côi
cút hoặc con nhà nghèo được ăn và học chữ. Hàng năm có 100% các chùa mở
lớp học khác nhau như lớp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, lớp học hè
cho các con em Phật tử, lớp Pali - Khmer với số lượng cụ thể như sau: Ngữ
văn Khmer mở được 5.086 phòng, có 114.848 học viên; sơ cấp Pali - Khmer
mở được 639 phòng, có 14.816 học viên; trung cấp Pali - Khmer mở được 78
phòng, có 2.332 học viên. Chùa còn là nơi giúp đỡ người già neo đơn. Gắn
với cuộc sống của dân cư nên các sư cũng đồng thời tham gia các hoạt động
xã hội, cũng nhằm mục đích cứu nhân độ thế.
Chính vì vậy, hoạt động từ thiện xã hội luôn được PGNT tỉnh Trà Vinh
coi là một trong những công tác trọng tâm, được chư tăng, phật tử tích cực
hưởng ứng các phong trào từ thiện nhân đạo như: xây cầu đường nông thôn,
bếp cơm từ thiện ở bệnh viện, bếp cơm mái ấm học đường, tặng tập viết, xe
đạp, học bổng cho học sinh nghèo, tặng quà cho bà con nghèo có hoàn
cảnh khó khăn, nuôi dạy trẻ mồ côi, người già neo đơn, xây nhà tình
thương,… Đặc biệt là tại các chùa còn thường xuyên tổ chức quyên góp
xây cầu nông thôn và bàn giao lại cho các địa phương, được các cấp chính
quyền và bà con đánh giá cao. Đây là hoạt động rất có ý nghĩa về phương
diện kinh tế, xã hội, mang lại hiệu quả thiết thực và có chiều sâu, nhất là
trong tình hình Đảng và Nhà nước ta quan tâm cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển nông thôn, nâng cao đời sống kinh tế người nông dân.
47
Hiện nay, toàn tỉnh có 6 Tuệ Tĩnh đường, phòng phát thuốc từ thiện và
phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc tại các cơ sở Phật giáo, hoạt động có hiệu
quả, khám bệnh, châm cứu, bấm huyệt và bốc thuốc Nam giúp đỡ bà con
nghèo trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, Phật giáo tỉnh có Nhà dưỡng lão tại chùa
Liên Bửu (huyện Châu Thành) và Trung tâm Bảo trợ xã hội, Nhà dưỡng lão
tại chùa Long Hòa (huyện Trà Cú) nuôi và cấp dưỡng cho các cụ già và trẻ
em cơ nhỡ…
Các sư sãi PGNT cũng tích cực phối hợp với các vị tăng ni trong Ban
Trị sự Phật giáo để hướng dẫn, giúp đỡ người dân trong các hoạt động sản
xuất nông, lâm nghiệp, cùng cán bộ xuống đến khóm, ấp vận động bà con áp
dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả cây
trồng, vật nuôi. Cùng với sự giúp sức của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
tỉnh, cuộc sống đồng bào Khmer tại Trà Vinh đã từng ngày đổi mới, theo kịp
sự phát triển của khu vực và trên cả nước.
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật
giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
2.3.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
Tỉnh ủy Trà Vinh đã xác định công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo nói chung và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
PGNT Khmer là một trong những lĩnh vực công tác quan trọng. Trong nhiều
năm trở lại đây, tỉnh Trà Vinh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện
công tác quản lý nhà nước về PGNT. Các văn bản quản lý nhà nước ở lĩnh vực
này chưa được ban hành riêng rẽ mà thường lồng ghép trong các văn bản thể
hiện chủ trương, chính sách công tác để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đảm
bảo quốc phòng, an ninh trong vùng đồng bào Khmer - PGNT. Cụ thể như:
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI “Về công tác
tôn giáo”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình hành động số 18,
trong đó có nêu các tôn giáo được hoạt động đúng pháp luật, phát huy các
nhân tố tích cực, giá trị văn hóa, tính ngưỡng tốt đẹp của các tôn giáo để tôn
48
giáo có những đóng góp cho phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ
nạn xã hội, tham gia giáo dục, cảm hóa người lầm lạc.
Kế hoạch số 44/KH-UBND của UBND tỉnh Trà Vinh nhằm thực hiện
kế hoạch số 81-KH/TU ngày 23/4/2018 của Ban thường vụ tỉnh ủy về thực
hiện chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/1/2018 của Ban bí thư về tăng cường công
tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới [51].
Quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 15/3/2018 ban hành Kế hoạch thực
hiện Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày 08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và
tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn
2017 - 2021” trên địa bàn tỉnh Trà Vinh [49].
Quyết định Số 13/2018/QĐ – UBND ngày 19/4/2018 Ban hành Quy
chế phối hợp thực hiện một cửa liên thông trong cấp giấy phép xây dựng mới
và sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo thực hiện các thủ tục hành chính [56].
UBND Trà Vinh đã tổ chức phổ biến, quán triệt rộng rãi trong cán bộ
công chức. Tại các hội nghị giao ban an ninh - quốc phòng hàng tuần. Tỉnh ủy
đã chỉ đạo cụ thể, giao ban cán sự Đảng UBND tỉnh chỉ đạo UBND tỉnh giao
cơ quan chuyên môn hướng dẫn các huyện, thị xã và thành phố triển khai thực
hiện nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời tổ chức phổ
biến, tuyên truyền cho cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh đến cơ sở tạo sự
chuyển biến trong nhận thức về chủ trương công tác đối với hoạt động tôn
giáo nói chung và PGNT nói riêng của Trung ương. Nhìn chung, việc quán
triệt và tổ chức triển khai thực hiện được tiến hành nghiêm túc, kịp thời theo
sự chỉ đạo của Trung ương, đảm bảo đúng yêu cầu đặt ra. Trong hệ thống
chính trị có sự thống nhất cao với chủ trương của Trung ương về giải quyết
vấn đề của PGNT; có sự chuyển biến, đổi mới tích cực trong cách nhìn nhận,
đánh giá vấn đề PGNT và xây dựng kế hoạch công tác quản lý nhà nước đối
với PGNT trong tình hình mới phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Trung ương
49
và sát với tình hình thực tế tại địa phương.
Hàng năm, tại các hội nghị sơ, tổng kết 6 tháng, 01 năm về công tác tôn
giáo của UBND tỉnh đều có đánh giá sơ kết về công tác quản lý nhà nước đối
với PGNT và đề ra các giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả đối với
công tác này. Trên cơ sở đó các sở, ngành liên quan căn cứ chức năng, nhiệm
vụ triển khai thực hiện, phối hợp thống nhất tham mưu UBND tỉnh xử lý, giải
quyết các vấn đề liên quan đến PGNT đảm bảo đúng quy định pháp luật.
2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật
giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
UBND đã chỉ đạo các ngành, địa phương quan tâm, thực hiện tốt công
tác phối hợp trong quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Giao Sở Nội vụ
(Ban Tôn giáo) là cơ quan chuyên môn làm đầu mối phối hợp với các ngành,
địa phương tham mưu giải quyết các nhu cầu tôn giáo.
Trong những năm qua tỉnh Trà Vinh đã quan tâm, củng cố, kiện toàn tổ
chức bộ máy làm công tác tôn giáo nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quản
lý nhà nước về trong tình hình mới. Về tổ chức bộ máy:
+ Cấp tỉnh:
Hiện nay, Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội Vụ gồm có 02 phòng (Tổng
hợp - hành chính và Nghiệp vụ) gồm 17 cán bộ công chức và lao động (01
Trưởng ban; 02 Phó Trưởng ban; 01 phó Phòng Tổng hợp - hành chính; 09
chuyên viên và 04 nhân viên văn phòng).
+ Cấp huyện:
Các phòng Nội vụ huyện, thị xã và thành phố đều bố trí từ 1-2 biên chế
(01 lãnh đạo phòng Nội vụ và 01 chuyên viên trực tiếp phụ trách về công tác
tôn giáo). Tuy nhiên có một số phòng chỉ bố trí 01 cán bộ phụ trách nên còn
gặp không ít khó khăn trong công tác theo dõi, quản lý các hoạt động tôn giáo
trên địa bàn (tổng số cán bộ làm công tác tôn giáo cấp huyện hiện nay là 28
người).
50
+ Cấp xã:
Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở các xã, thị trấn hầu hết là
những cán bộ kiêm nhiệm, chưa có cán bộ chuyên trách. Đa số đều bố trí Chủ
tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã và 01 cán bộ phụ trách công tác Văn hóa -
xã hội hoặc tư pháp xã kiêm nhiệm công tác tôn giáo.
UBND đã chỉ đạo các ngành, địa phương quan tâm, thực hiện tốt công
tác phối hợp trong quản lý hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Giao Sở Nội vụ
(Ban Tôn giáo) là cơ quan chuyên môn làm đầu mối phối hợp với các ngành,
địa phương tham mưu giải quyết các nhu cầu tôn giáo. Ban Tôn giáo - Sở Nội
vụ đã ký kết chương trình phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Hội Nông
dân tỉnh và Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh về việc tuyên truyền, vận động
chức sắc, tín đồ tôn giáo chấp hành quy định pháp luật.
Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ đã chủ động phối hợp với Sở Tài nguyên -
Môi trường, Sở Xây dựng hướng dẫn các cơ sở Phật giáo chấp hành nghiêm
các thủ tục về cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
tham mưu UBND tỉnh chấp thuận cho phép xây dựng, giao đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở Phật giáo theo đúng quy định.
Cùng với các ngành chức năng tỉnh (Ban Dân vận Tỉnh ủy, Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc tỉnh, Công an tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường) và
các địa phương tham mưu UBND tỉnh giải quyết các vấn đề phát sinh trên địa
bàn, một số vụ việc phức tạp; tổ chức tiếp xúc, gặp gỡ các chức sắc, chức việc
để tuyên truyền, vận động, động viên tín đồ thực hiện nghiêm chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia
các phong trào thi đua yêu nước, hưởng ứng các cuộc vận động của Trung
ương và địa phương... Mô hình kết hợp làm việc của các Sở liên quan cùng
giải quyết sự việc, giúp cho các chức sắc PGNT dễ hiểu, dễ chấp hành.
Ban Tôn giáo tỉnh luôn định kỳ họp liên ngành mỗi tháng họp một lần
nhằm thống nhất ý kiến trước khi tham mưu cho UBND tỉnh giải quyết nhu
cầu của các tổ chức tôn giáo. Duy trì làm việc với Ban Trị sự Giáo hội Phật
51
giáo Việt Nam tỉnh và cá nhân chức sắc, trưởng điểm nhóm kịp thời nắm bắt
nhu cầu chính đáng và chấn chỉnh sai phạm (nếu có).Từ những hoạt động
phối hợp chủ động, có hiệu quả của các sở, ngành, địa phương có liên quan đã
góp phần tích cực vào việc ổn định tình hình tôn giáo trên địa bàn.
2.3.3. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về hoạt động Phật
giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
Trong những năm qua, người dân Trà Vinh đặc biệt là đồng bào theo
PGNT nơi đây được nắm bắt thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, đó cũng là nhờ công tác tuyên truyền, chủ chương
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước được triển khai và thực hiện tốt
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
Khi Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua năm 2016 và có hiệu lực
vào năm 2018 cùng với đó là Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo
được ban hành thì tỉnh Trà Vinh đã tổ chức Hội nghị quán triệt cho các cán bộ
chủ chốt lãnh đạo các Sở, ban, ngành của tỉnh; Ban Thường vụ các đoàn thể
của tỉnh,… và đặc biệt là gần 980 lượt là các vị sư cả nhất, sư cả nhì, achar
của các chùa PGNT để nắm được các chủ trương, chính sách và các quy định
của Nhà nước. 100% các đơn vị cấp huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức Hội
nghị quán triệt và phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nghị định số
162/2017/NĐ-CP của Chính Phủ cho toàn thể cán bộ chủ chốt, cán bộ công
tác tôn giáo của cấp huyện, cấp xã và toàn bộ các chức sắc PGNT trên địa bàn
tỉnh nắm thông suốt và thực hiện.
Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ đã tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị
1940/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo
cho hơn 3000 chức sắc nhà tu hành và 3.455 lượt cán bộ, công chức tham dự.
Qua đó cán bộ, công chức, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo nhận thức đầy
đủ hơn về chính sách đất đai của nhà nước ta có liên quan đến tôn giáo, để
chức sắc nhà tu hành bày tỏ chia sẻ, cảm thông và hợp tác với chính quyền
52
trong giải quyết vấn đề nhà đất liên quan đến tôn giáo theo quy định.
Các lớp bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng an ninh cho các chức sắc,
chức việc của PGNT cũng được tỉnh Trà Vinh tổ chức thường xuyên. Năm
2018, đã tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho 394 lượt chức
sắc, chức việc, nhà tu hành PGNT. Năm 2019, Ban Tôn giáo tỉnh đã phối hợp
với trường Chính trị và UBND các huyện, thành phố mở 6 lớp bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng – an ninh cho chức sắc, nhà tu hành với 946 vị tham dự;
phối hợp với Vụ Pháp chế Thanh Tra, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức 1 lớp
tuyên truyền về Pháp luật cho chức sắc, chức việc các tôn giáo với số lượng
231 vị tham dự. Tuyên truyền pháp luật được thực hiện đa dạng thông qua các
loại hình: hệ thống báo chí; trang bị tài liệu, tờ rơi, đội thông tin lưu động, các
hoạt động văn hóa, thể thao, hội thi, đối thoại, tiếp xúc của cán bộ; đội ngũ
người có uy tín, tiêu biểu, các vị chức sắc tôn giáo, sư sãi, Achar; qua “Ngày
hội Đại đoàn kết dân tộc ở khu dân cư” dịp 18/11 hàng năm; qua các lễ hội
của đồng bào Khmer.
Thường xuyên tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng về hoạt
động PGNT bằng nhiều hình thức đã làm cho cán bộ Đảng viên và chức sắc,
tín đồ các tôn giáo hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm chính sách của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo, tuân thủ pháp luật, giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia.
2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác quản lý
nhà nước về hoạt động Phật giáo Nam tông ở tỉnh Trà Vinh
Xuất phát từ đặc điểm, tình hình hoạt động tôn giáo của tỉnh, trong
nhiều năm qua, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh đã hướng
trọng tâm đến công tác bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ
làm công tác tôn giáo các cấp trong hệ thống chính trị nhằm tăng cường nhận
thức và nâng cao kỹ năng quản lý, xử lý các vấn đề tôn giáo. Tỉnh Trà Vinh
đã thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức
53
trên địa bàn tỉnh, tuyên truyền phổ biến pháp luật theo Quyết định số 306/QĐ-
TTg ngày 08/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành kế hoạch
triển khai thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Quyết định số 174/QĐ-TTg
ngày 09/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt “Đề án bồi
dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo giai đoạn 2017-2020” và Kế
hoạch số 1953/KH-BNV ngày 12/4/2017 của Bộ Nội vụ về việc triển khai
thực hiện Quyết định số 174/QĐTTg ngày 09/02/2017 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt “Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
giai đoạn 2017 - 2020”. Nhờ đó mà hầu hết các cán bộ, công chức làm công
tác tôn giáo cấp tỉnh, huyện đều đã tham dự các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về
công tác tôn giáo của Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ tổ chức.
Ngoài ra, Trường Chính trị tỉnh đã liên kết với Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí Minh mở lớp Đại học chuyên ngành Dân
tộc – tôn giáo cho 121 cán bộ, công chức của tỉnh. Thông qua các lớp đào tạo,
bồi dưỡng mà các cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về hoạt
động tôn giáo đã nắm và hiểu được chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về tôn giáo tham mưu giải quyết các vấn đề tôn giáo trên
địa bàn kịp thời, đúng quy định pháp luật. Một số công chức cấp huyện còn
được cử tham dự lớp đào tạo thạc sĩ công tác tôn giáo tại các cơ sở giáo dục.
Đối với cấp xã, hàng năm Sở Nội vụ, Ban Tôn giáo đã tổ chức các lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tôn giáo dành cho Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn; UBND các huyện, thị xã và
thành phố tổ chức phổ biến, quán triệt cho cán bộ thôn, buôn, Tổ dân phố
nhằm nâng cao nghiệp vụ, xử lý tốt các vấn đề liên quan tôn giáo.
Năm 2019, Ban Tôn giáo tỉnh đã phối hợp với trường Chính trị và
UBND các huyện, thành phố tham gia báo cáo 03 lớp bồi dưỡng kiến thức
hành chính và kỹ năng, nghiệp vụ cho 408 cán bộ cấp xã nhằm nâng cao
nghiệp vụ cho cán bộ cấp cơ sở. Qua đó trình độ của cán bộ công chức làm
54
công tác tôn giáo được nâng lên rõ rệt về cơ bản đáp ứng được yêu cầu công
tác tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, hàng chục cán bộ của tỉnh theo học các lớp cao học,
nghiên cứu sinh thuộc các ngành như: lịch sử Đảng, luật, triết học, hành
chính,… đã thực hiện các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, tiến sĩ thuộc các
lĩnh vực có liên quan đến tình hình tôn giáo. Từ đó, đã xây dựng được đội ngũ
đông đảo các cán bộ ở các cấp có kiến thức về công tác tôn giáo. Đội ngũ cán
bộ làm công tác tôn giáo của Trà Vinh trở thành lực lượng đủ khả năng tuyên
truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh vào sâu trong đời sống và hoạt động của các
tín đồ tôn giáo trên địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng trong việc giữ vững và
ổn định tình hình hoạt động tôn giáo tại tỉnh trong nhiều năm qua.
2.3.5. Quản lý các hoạt động hành chính của Phật giáo Nam Tông ở
tỉnh Trà Vinh
Thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh, UBND đã chỉ đạo các sở, ban, ngành có liên quan và
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành và các tín đồ của PGNT hoạt động tôn
giáo theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể như:
Nhằm tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến
các chức việc và tín đồ, tỉnh Trà Vinh còn hỗ trợ cho các chùa thành lập tủ
sách pháp luật và hỗ trợ các đầu sách như: 200 quyển Luật Đất đai; 310 quyển
Luật Hôn nhân và gia đình; 248 quyển Luật Bảo vệ Môi trường; 284 quyển
Luật Cư trú... Do kinh tế của địa phương còn rất khó khăn, đời sống vật chất
của sư sãi và tín đồ PGNT cũng còn nhiều khó khăn nên tỉnh đã tranh thủ
nguồn vốn từ Trung ương và ngân sách của địa phương, để đầu tư nhằm tiếp
tục phát triển toàn diện vùng đồng bào theo tôn giáo. Tỉnh đã hỗ trợ kinh phí
hoạt động cho Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh 300 triệu đồng/năm, hỗ trợ
55
mua sắm trang thiết bị văn phòng (máy photo, máy vi tính,...).
Ngoài ra tỉnh Trà Vinh còn hỗ trợ kinh phí tổ chức hội nghị chuyên đề
PGNT Khmer lần thứ VIII, và kinh phí tham dự hội nghị chuyên đề tại các
tỉnh Hậu Giang, Cà Mau, An Giang,… Tạo điều kiện thuận lợi cho trụ trì các
cơ sở thờ tự PGNT được xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, công trình phụ trợ,
nhập 196 bộ Đại tạng kinh để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tu học của sư sãi
và đồng bào phật tử, tạo điều kiện cho Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh và
Hội đoàn kết sư sãi yêu nước cấp huyện tổ chức các kỳ thi tốt nghiệp sơ cấp
(lớp 9) và trung cấp (lớp 12) Palo - Khmer,… Công nhận cơ sở thờ tự tín
ngưỡng, tôn giáo văn minh cho 96 chùa của PGNT. Công nhận di tích lịch sử
văn hóa cách mạng cấp tỉnh cho 10 chùa.
UBND Trà Vinh đã chỉ đạo Ban Tôn giáo triển khai hướng dẫn việc đăng
ký và cấp phép hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của Luật tín ngưỡng, tôn
giáo. Năm 2018 đến nay các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh
cũng đã cấp phép thành lập 02 cơ sở tôn giáo, bổ nhiệm trụ trì 11 chùa PGNT
Khmer. Thực hiện Công văn số 122/VPCP ngày 26/2/2004 của Văn phòng
Chính phủ về thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng đối với PGNT Khmer, Ban Tôn
giáo tỉnh Trà Vinh đã tham mưu Thường trực Tỉnh ủy và UBND hỗ trợ tiền khắc
dấu cho chùa PGNT Khmer trên địa bàn tỉnh, 143/143 chùa được khắc con dấu,
và sử dụng con dấu trong hoạt động Phật sự và trong quan hệ giao dịch theo quy
định của Hiến chương, Nội quy Tăng sự Trung ương.
Hàng năm, cứ khoảng cuối tháng 9 và đầu tháng 10, Ban Tôn giáo tỉnh
Trà Vinh đã chủ động ban hành công văn gửi Phòng Nội vụ các huyện, thành
phố trong tỉnh và các tổ chức tôn giáo của tỉnh nhắc nhở Ủy ban nhân dân cấp
xã và các tổ chức tôn giáo đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo năm sau
với thời hạn vào ngày 15/10 hàng năm theo pháp luật tôn giáo của Nhà nước
và hệ phái PGNT cũng không ngoại lệ.
Theo báo cáo tổng hợp hàng năm của Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ, tỉnh
Trà Vinh có trên 95% các chùa PGNT trong tỉnh có đăng ký Chương trình
56
hoạt động tôn giáo hàng năm đối với UBND cấp xã. Qua đó, tạo điều chính
quyền cơ sở tác động, điều chỉnh các hoạt động tôn giáo của các chùa PGNT
ngay từ đầu năm; tránh việc mất thời gian trong việc giải quyết các hoạt động
tôn giáo ngoài chương trình đăng ký.
Các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo còn tăng cường làm việc,
gặp gỡ, trao đổi hướng dẫn chức sắc, lãnh đạo tổ chức tôn giáo thực hiện tốt
việc sinh hoạt, hoạt động tôn giáo nhất là trong việc tổ chức Đại hội đại biểu
Hội đoàn kết sư sãi yêu nước lần thứ VII.
Ban Tôn giáo tỉnh chủ động phối hợp với các Sở, ngành đề xuất tham
mưu cho Tỉnh ủy và UBND tỉnh giao đất và cơ sở vật chất gắn liền với đất
cho các tổ chức của PGNT sử dụng vào mục đích tôn giáo, hỗ trợ và tạo điều
kiện giúp đỡ các tổ chức tôn giáo trong các ngày lễ trọng.
Tổ chức các đoàn đi thăm, chúc mừng, tặng quà đối với tổ chức, cá
nhân tôn giáo trong ngày lễ trọng của PGNT góp phần tích cực trong việc
tăng cường tình cảm, gắn kết giữa các tổ chức tôn giáo với chính quyền.
Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo của tỉnh Trà Vinh còn
cử đại biểu tham dự Hội nghị tổng kết công tác Phật sự hàng năm và thực
hiện việc trao tặng bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho các tập thể và cá
nhân của PGNT vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư - tốt đời đẹp đạo. Thông qua công tác
khen thưởng đã động viên rất lớn tinh thần tập thể tăng tín đồ PGNT ở tỉnh
Trà Vinh. Chính từ đó, các chư tăng, tín đồ PGNT ngày càng phát huy truyền
thống yêu nước, tiếp tục đóng góp công sức của mình cho sự nghiệp cách
mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Người Khmer ở Trà Vinh và người Khmer ở Vương quốc Campuchia
vốn có mối quan hệ đồng tôn giáo, đồng văn hóa; có ngôn ngữ, chữ viết
chung và ít nhiều có mối quan hệ mang tính tộc người. Do vậy, việc quan hệ
làm ăn sinh sống, thăm thân nhân giữa người Khmer ở Trà Vinh và người
Khmer ở Vương quốc Campuchia diễn ra rất phổ biến. Về tôn giáo, vào thời
57
Pháp thuộc ít nhiều PGNT Khmer có phụ thuộc vào Phật giáo Vương quốc
Campuchia. Vì vậy, để thực hiện Quyết định số 79/2010/QĐ/-TTg ngày
30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế Quản lý nhà nước về
thông tin đối ngoại, Tỉnh ủy Trà Vinh đã ban hành Kế hoạch “về chiến lược
phát triển thông tin, đối ngoại”, UBND tỉnh Trà Vinh ban hành kế hoạch
“hoạt động thông tin đối ngoại” trên địa bàn tỉnh, nhằm nâng cao nhận thức
về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tình hình mới.
Đồng thời quán triệt sâu sắc những chủ trương quan điểm cơ bản, những định
hướng chiến lược của Đảng ta trong công tác thông tin đối ngoại. Qua đó đã
tổ chức hội nghị tập huấn công tác thông tin đối ngoại cho chức sắc nhà tu
hành trong đó có sư sãi và đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh.
Trên tinh thần đó, trong những năm vừa qua, tỉnh Trà Vinh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho cá tổ chức cá nhân tôn giáo trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt
công tác đối ngoại nhân dân như: tạo điều kiện để 07 vị cao tăng PGNT
Khmer thăm Phật giáo Vương quốc Campuchia theo lời mời của vua sãi Tep
Vong. Qua đó, giúp tổ chức cá nhân mà nhất là các tổ chức cá nhân có định
kiến với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhận thức đúng đắn về chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, Thường
trực Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ngành và UBND các huyện và
thành phố trong tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo trong
tỉnh làm tốt công tác đối ngoại.
2.3.6. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Hội đoàn kết sư sãi
yêu nước tại địa phương
Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh, tiền thân là Hội sư sãi yêu
nước do khu ủy Tây Nam Bộ thành lập ngày 20/3/1965 nhằm mục đích tuyên
truyền vận động, tập hợp tầng lớp nhân sĩ, trí thức sư sãi Khmer yêu nước
đoàn kết cùng nhân dân trong tỉnh đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất
nước. Sau khi tái lập tỉnh, ngày 6/11/1992, UBND Trà Vinh đã ban hành
Quyết định công nhận Hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh. Đến nay
58
Hội ĐKSS yêu nước tỉnh Trà Vinh đã tổ chức 07 kỳ Đại hội.
Ngày 09/11/2018, Chủ tịch UBND Trà Vinh đã ban hành Quyết định số
2253/QĐ-UBND về việc công nhận Ban Chấp hành; Ủy viên dự khuyết Ban
Chấp Hành; Ban Thường trực; Ban cố vấn và phê duyệt Điều lệ Hội Đoàn kết
sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2018 - 2023. Ngoài Ban
Chấp hành cấp tỉnh gồm 45 - 60 thành viên thì tùy từng địa bàn hành chính
cấp huyện mà Ban Chấp hành hội cấp huyện được bầu với số lượng từ 19 đến
39 thành viên. Ban chấp hành chi hội có số lượng là 7 đến 15 thành viên.
Nhiệm kỳ của các cấp hội là 5 năm. Trong quá trình thực hiện tùy theo tình
hình thực tế của các cấp hội, hàng năm có thể tổ chức hội nghị đại biểu để bầu
bổ sung Ban Chấp hành, hoặc điều chỉnh những công việc cần thiết. Hội Đoàn
kết sư sãi yêu nước tỉnh ngoài Ban Chấp hành, Ban cố vấn còn có ban chuyên
trách, cấp huyện có ban chuyên môn như sau: Ban Giáo dục và Đào tạo, Ban
Hoằng pháp - Tuyên truyền pháp luật, Ban Văn hóa - từ thiện xã hội, Ban
Kinh tế - Tài chính, Ban Kiểm soát - văn phòng, Ban Thư ký.
Hội đoàn kết sư sãi yêu nước do Ban dân tộc tỉnh trực tiếp quản lý.
Hàng năm, tỉnh hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của Hội, tạo điều kiện thuận lợi
cho Hội hoạt động theo Điều lệ đã được phê duyệt, qua đó phát huy được vai
trò của Hội trong đời sống xã hội, là nơi tập hợp sư sãi và đồng bào Khmer
đồng hành cùng dân tộc, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Thường xuyên báo cáo tình hình liên quan đến Hội
đoàn kết sư sãi yêu nước theo sự chỉ đạo của Ban Tôn giáo Chính phủ.
2.3.7. Quản lý các hoạt động từ thiện, nhân đạo của Phật giáo Nam
Tông tỉnh Trà Vinh
Chính quyền và mặt trận tổ quốc các cấp đã cùng Hội đoàn kết sư sãi
yêu nước của tỉnh Trà Vinh đã tích cực tuyên truyền, vận động Sư sãi và Phật
tử của PGNT tham gia hưởng ứng công tác an sinh xã hội như: xây dựng cầu,
đường giao thông nông thôn ấp liền ấp, xã liền xã, cất nhà tình thương, nhà
59
tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, phát quà cho người nghèo nhân dịp lễ tết hàng
năm, bốc thuốc nam miễn phí cho bệnh nhân nghèo, nhận nuôi trẻ em mồ côi
và chăm sóc người già neo đơn, v.v…
Bên cạnh đó, các ngành chức năng như: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y
tế, Sở Lao động Thương binh và Xã hội… của tỉnh cũng thường xuyên hướng
dẫn và giúp đỡ về mặt chuyên môn nghiệp vụ cho các cơ sở từ thiện xã hội
của PGNT như: các Tuệ tĩnh đường, nhà dưỡng lão, lớp học… thực hiện các
hoạt động từ thiện xã hội theo đúng qui định của pháp luật. Năm 2019, Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh đã tặng 351 quyển sách giáo khoa tiếng
Khmer quyển 5 và nhiều dụng cụ học tập khác. Đồng thời hỗ trợ kinh phí để
trả lương cho các giáo viên giảng dạy tại các điểm trường. Còn Sở Y tế hướng
dẫn và hỗ trợ về chuyên môn để các Tuệ tĩnh đường thực hiện tốt nhất việc
khám chữa bệnh cho người dân.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh các hoạt động từ thiện – xã hội của
các sư sãi và phật tử của PGNT có yếu tố nước ngoài diễn ra đa dạng với
nhiều hình thức như: các đoàn nước ngoài thăm, hoạt động từ thiện, tài trợ
kinh phí để xây dựng cơ sở tôn giáo, để truyền đạo… Nhận thấy đây là những
hoạt động dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa
đến tình hình an ninh trật tự nên các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo tại
tỉnh Trà Vinh rất chú trọng, quan tâm. Thường xuyên cử cán bộ theo dõi, nắm
bắt thông tin, tăng cường giám sát để bảo đảm các hoạt động từ thiện, xã hội
diễn ra theo đúng quy định của Pháp luật.
2.3.8. Đấu tranh chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo trên địa bàn
tỉnh Trà Vinh
Trong những năm gần đây nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức
khó khăn, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân
quyền để chống phá Đảng và Nhà nước ta, trong đó tôn giáo là một công cụ
để những thế lực thù địch lợi dụng gây mất trật tự an ninh xã hội, chia rẽ khối
đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, công tác tôn giáo của
60
toàn ngành được quán triệt và triển khai rộng rãi trên khắp các tỉnh thành
trong cả nước.
Trong quá trình quản lý hoạt động tôn giáo ở Trà Vinh trong thời gian
vừa qua đã gặp phải một số vấn đề nhạy cảm và phức tạp như tình hình tranh
chấp đất đai tại một số ít cơ sở tôn giáo (giữa sư sãi và tín đồ); một số tu sĩ trẻ
sử dụng tài khoản cá nhân trên internet chia sẻ các nội dung xấu độc, khơi gợi
lại vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ, chia rẽ đoàn kết dân tộc Kinh, Khmer,
chống Đảng, nhà nước và chế độ, ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo, trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị ở địa phương.
Do địa hình và chính trị ở Trà Vinh rất phức tạp và nhạy cảm; là một
tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer trong những năm gần đây, các tổ chức
phản động lưu vong, các hội nhóm “Khmer Campuchia Krôm” ở Campuchia
và các nước, cùng một số phần tử đội lốt tôn giáo được sự tài trợ và chỉ đạo
của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động
chống phá cách mạng; chúng lợi dụng các vấn đề có tính nhạy cảm trong dân
tộc, tôn giáo để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương
giáo nhằm âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” phá hoại sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Vì vậy, tại Trà Vinh, công tác phối hợp đấu tranh với việc lợi dụng tôn
giáo có sự phối hợp thường xuyên với các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị xã hội làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, chính sách, pháp luật của nhà nước trên các phương tiện thông tin đại
chúng góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, cũng như chức sắc, nhà tu
hành và tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt quan điểm, chính sách, pháp luật về
tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan báo, đài tăng cường đưa các tin,
bài phản ánh hoạt động của các thế lực phản động, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn
của các tổ chức này nhằm giúp cho đồng bào hiểu rõ hơn bản chất phản động
của chúng. Nhiều tin bài của báo chí, truyền thanh, truyền hình đã giúp chức
sắc, tín đồ hiệu rõ âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo và nhân quyền của các
61
thế lực nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng. Đồng
thời, qua công tác truyền thông góp phần vận động chức sắc, chức việc, tín đồ
các tôn giáo tích cực tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc,
phối hợp cùng các cơ quan chức năng chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn
chặn làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng
góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn.
2.3.9. Thanh tra, kiểm tra, và giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các
vi phạm pháp luật liên quan tới hoạt động Phật giáo Nam Tông ở tỉnh
Trà Vinh
UBND thường xuyên đôn đốc kiểm tra và giao Sở Nội vụ (Ban Tôn
giáo) chủ động nắm tình hình, thường xuyên theo dõi việc tổ chức thực hiện
của các địa phương; đồng thời hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đảm bảo
thực hiện đúng quy định của pháp luật. Hàng năm, UBND tỉnh giao Sở Nội
vụ (Ban Tôn giáo) tổ chức thanh tra, kiểm tra về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo, trong đó có công tác đối với PGNT, kịp thời phát hiện những thiếu sót
để sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế nhằm thực hiện tốt hơn công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, công
tác đối với PGNT nói riêng.
Để nắm chắc diễn biến tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa
bàn, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ Trà Vinh đã phối hợp với các Sở, ban, ngành có
liên quan và UBND các huyện, thành phố kịp thời giải quyết tốt các đơn thư
khiếu nại của các tổ chức, cá nhân tôn giáo căn cứ Luật Khiếu nại Tố cáo,
Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo… xử lý thấu tình, đạt
lý, không để xảy ra điểm nóng về tôn giáo kéo dài hoặc tồn đọng, đảm bảo
yêu cầu chính trị, pháp luật và nghiệp vụ của đơn vị.
Các địa phương đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nghiêm
túc, có chất lượng và hiệu quả. Các phòng chuyên môn đã chủ tải: đồng bám
62
sát chức năng nhiệm vụ được giao, nắm chắc tình hình diễn biến trong sinh
hoạt và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo trên địa bàn để tham mưu giải
quyết xử lý theo thẩm quyền, đúng quy định pháp luật các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực tôn giáo.
2.4. Nhận xét về hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động
Phật giáo Nam tông ở tỉnh Trà Vinh
2.4.1. Kết quả đạt được
Đời sống của đồng bào có đạo trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển,
các hoạt động tôn giáo diễn ra sôi động như: với Phật giáo là Đại lễ Phật Đản,
Đại lễ kỷ niệm ngày thành lập GHPGVN, 143/143 chùa PGNT Khmer tổ
chức lễ dâng y cà sa, các cuộc lễ đều diễn ra ổn định, theo nghi thức tôn giáo
phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc.
Nói chung, các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đều tin tưởng vào chủ
trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, đó cũng là do có sự
trao đổi và sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp chính quyền tỉnh Trà Vinh
mà trong đó trực tiếp là sự quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ các tổ chức tôn giáo
của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, là việc thực hiện tốt công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Các đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách và Pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo đã được các cấp,
các ngành triển khai, tổ chức một cách kịp thời, vận dụng một cách đúng đắn.
Đa số các cấp ủy, chính quyền và mặt trận đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở,
nhất là đội ngũ cán bộ công tác tôn giáo đã có sự chuyển biến rõ nét về nhận
thức. Do đó công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung, công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT nói riêng được tăng cường. Công
tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh với các sở,
ban, ngành và UBND các huyện, thành thị về những nội dung liên quan đến
tôn giáo đã được đẩy mạnh, quá trình phối hợp được tiến hành chặt chẽ, đồng
bộ hơn đem lại kết quả rõ rệt. Vấn đề tôn giáo là trách nhiệm của hệ thống
chính trị, do công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
63
hội, các cấp, các ngành, các địa bàn do Đảng lãnh đạo. Công tác phối hợp
giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị bước đầu phát huy trách nhiệm của
các ngành, các cấp trong việc tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh giải quyết
các vấn đề về tôn giáo đạt những kết quả quan trọng, đáng chú ý công tác
tranh thủ vận động hàng ngũ chức sắc, người có uy tín trong Phật giáo tham
gia vào các tổ chức xã hội, các cơ quan chính quyền đã có tác dụng tốt trong
việc tác động giáo hội, chức sắc PGNT hoạt động tuân thủ pháp luật, phản
bác lại các luận điệu xấu xuất hiện trong PGNT.
Cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở tỉnh Trà Vinh đã phối hợp và
quản lý tốt hoạt động của Hội ĐKSSYN trên địa bàn tỉnh để Hội phát huy
được vai trò tập hợp được chức sắc, sư sãi, tín đồ PGNT trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào các phong trào yêu nước tại địa
phương, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của Trà Vinh được
củng cố và từng bước kiện toàn, chất lượng của cán bộ công tác tôn giáo từng
bước được nâng lên. Không chỉ chú ý tập trung kiện toàn cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo cấp tỉnh mà bộ phận phụ trách công tác tôn giáo cấp huyện
và cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo cấp xã cũng được quan tâm. Nhiều
nơi đã kịp thời điều động, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ
có trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị và tâm huyết theo yêu cầu nhiệm
vụ công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong tình hình mới.
Trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo đã có sự đổi mới về phương pháp và lề lối làm việc theo hướng chủ
động, thiết thực và chú ý hơn đến hiệu lực, hiệu quả. Công tác xử lý, giải
quyết về hoạt động của PGNT theo đúng quy định của luật tín ngưỡng tôn
giáo và Nghị định của Chính phủ. Những vụ việc phức tạp còn tồn đọng từ
nhiều năm trước từng bước được xử lý, những vụ việc mới phát sinh được
xem xét giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.
64
Tỉnh Trà Vinh đã nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách hành chính trong
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong cải cách thủ tục hành chính và đã bước đầu
thu được những kết quả khả quan. Việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông
trong giải quyết các thủ tục hành chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cá
nhân, tổ chức nói chung và các tổ chức PGNT nói riêng khi thực hiện các giao
dịch với các cơ quan nhà nước.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác QLNN đối với hoạt động
PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh vẫn còn một số những hạn chế bất cập sau đây:
Một là, vẫn còn một số hạn chế trong công tác tuyên truyền, vận động
quần chúng, chức sắc; việc triển khai thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và
Nghị định 162 ở một số huyện vẫn còn lung túng, hướng dẫn quy trình, thủ
tục hồ sơ theo quy định của Luật chưa đảm bảo theo yêu cầu. Một số cấp ủy,
chính quyền ở một số huyện trên địa bàn tỉnh Trà Vinh chưa quan tâm đúng
mức công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo trong PGNT, công tác tuyên truyền tuy
có sự thay đổi nhưng tần suất tuyên truyền chưa nhiều. Công tác tuyên truyền
của Mặt trận cấp tỉnh chỉ làm điểm, còn lại các huyện, xã xây dựng kế hoạch
tuyên truyền rộng rãi trong dân, nhưng do thiếu kinh phí nên công tác tuyên
truyền còn gặp nhiều khó khăn.
Hai là, công tác tác tham mưu cho chính quyền cơ sở trong việc quản
lý, giải quyết và xử lý một số tình huống cụ thể liên quan đến tôn giáo trên địa
bàn thì một số công chức làm công tác QLNN về tôn giáo còn lúng túng và
chưa kịp thời, còn thụ động trông chờ vào việc hướng dẫn, xin ý kiến chỉ đạo
của tỉnh trong cả những tình huống đơn giản mà cấp huyện, cấp xã có thể chủ
động giải quyết được, vì vậy hiệu quả công tác QLNN trong lĩnh vực tôn giáo
ở một số địa phương chưa cao.
Ba là, công tác phát động quần chúng, xây dựng phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc vùng đồng bào có đạo, tuyên truyền giáo dục trong nhân dân
65
các chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc, vạch rõ âm mưu thủ đoạn của
địch lợi dụng tôn giáo tuy đã được tiến hành thực hiện nhưng chưa được mở
rộng và triển khai đồng bộ. Chính vì vậy, dẫn đến sự thiếu đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trong đấu tranh ngăn chặn các phần tử lợi dụng
tôn giáo, tín ngưỡng để tung tin chống phá chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc.
Bốn là. cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác
QLNN đối với hoạt động PGNT ở Trà Vinh, cụ thể là giữa các sở ban ngành
liên quan với UBND các cấp còn thiếu chặt chẽ. Sự phối hợp giữa các ban
ngành đôi khi còn bị động, chưa chủ động giải quyết hiệu quả. Đôi khi xem
xét và xử lý vấn đề tôn giáo còn mang nặng cảm tính chính trị nên gây ngăn
cách giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Khi phát sinh
các vụ việc phức tạp trong PGNT mỗi cơ quan lại có cách ứng xử khác nhau
thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ đó mang lại hiệu quả không cao.
2.4.3. Nguyên nhân
Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chưa nhận thức đầy đủ về tầm
quan trọng việc thực hiện các văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác tôn
giáo; Công tác cụ thể hóa các chính sách của nhà nước tại địa phương còn gặp
nhiều khó khăn. Chưa thấy hết tính chất phức tạp của hoạt động tôn giáo vừa
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân có tín ngưỡng, tôn
giáo vừa là nơi các thế lực thù địch dễ lợi dụng để lôi kéo quần chúng chống
phá chính quyền.
Trình độ năng lực chuyên môn của một số cán bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhất là cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở thiếu am hiểu về PGNT
nên phát hiện, đấu tranh xử lý các mâu thuẫn trong hoạt động sinh hoạt tôn
giáo chưa kịp thời. Một số ít cán bộ, công chức làm công tác dân tộc, tôn giáo
còn hạn chế về kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, chưa tương xứng với yêu cầu
66
công tác, nắm bắt tình hình chưa kịp thời, hiệu lực, hiệu quả công tác từng lúc
chưa cao, giải quyết một số vụ việc liên quan đến tôn giáo còn nóng vội.
Đại đa số tín đồ Phật giáo Nam Tông là đồng bào dân tộc thiểu số, đời
sống kinh tế còn nhiều khó khăn, việc tiếp cận với các phương tiện truyền
thông đại chúng tuy có nhưng vẫn còn khá hạn chế, trình độ dân trí thấp, hiểu
biết pháp luật ít nên dễ bị dụ dỗ, kích động.
Công tác tôn giáo nói chung và công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo
nói riêng vẫn là một lĩnh vực công tác chính trị đặc biệt, phức tạp và nhạy
cảm. Công tác kiểm tra đôn đốc của UBND tỉnh tuy đã có cải thiện nhưng
chưa được chú trọng quan tâm một cách thường xuyên, chưa thực sự coi đây
là nhiệm vụ thường xuyên, chưa tập trung chỉ đạo cũng như đôn đốc triển
khai thực hiện một cách triệt để.
67
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trà Vinh là một tỉnh có chiến lược quan trọng về kinh tế và quốc phòng
đối với vùng ĐBSCL và khu vực Tây Nam Bộ. Trà Vinh là địa phương giàu
phong tục tập quán, là nơi hội tụ của nhiều tôn giáo, là vùng đất đa tộc người
và đặc biệt đây là nơi cư tụ lâu đời nhất của người Khmer. Do vậy nơi đây
còn là cái nôi, là điểm hội tụ nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
Trong thời gian qua tỉnh Trà Vinh có nhiều thành tựu nổi bật trong
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Nam Tông trên địa
bàn tỉnh. Cơ bản các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh Trà Vinh đã quản lý
được hoạt động đạo sự của PGNT theo đúng khuôn khổ của Hiến pháp và
pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, giúp
Phật giáo Nam Tông thực hiện đúng theo phương châm "Đạo pháp - Dân tộc
- Chủ nghĩa xã hội", các hoạt động đạo sự đều đồng hành cùng dân tộc, đồng
thời phát huy được mặt tích cực của PGNT trong hoạt động từ thiện xã hội,
góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách an sinh xã
hội tại địa phương.
Bên cạnh những thành tựu trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
của PGNT vẫn còn một số hạn chế như: Nhận thức của một số cấp ủy đảng,
chính quyền còn xem nhẹ công tác quản lý nhà nước về công tác tôn giáo nói
chung, quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT nói riêng, một số cán
bộ công chức làm công tác tôn giáo chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính
sách của Đảng về công tác này, một số cán bộ chưa được đào tạo chuyên sâu,
ít am hiểu các kiến thức về PGNT nên nảy sinh tâm ý ái ngại khi tiếp xúc,
công tác tuyên truyền vận động tín đồ PGNT có hiệu quả chưa cao.
68
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG
Ở TỈNH TRÀ VINH
3.1. Dự báo xu hướng hoạt động của Phật giáo Nam tông ở Trà Vinh
3.1.1. Những xu hướng tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho Phật
giáo Nam Tông phát triển phù hợp với thời kỳ hội nhập
Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế văn hóa thế giới đã ảnh hưởng sâu
sắc tới đời sống của các tín đồ PGNT. Vì vậy, Phật giáo Nam Tông cũng đã
có nhiều biến đổi cho phù hợp tình hình mới. Cách hành đạo và tu trì đã có
nhiều thay đổi. Hình thức khất thực, tụng niệm, hành lễ ngày càng giảm nhẹ
về thời gian và đơn giản về nghi thức giúp các tín đồ có thể dành nhiều thời
gian cho công cuộc mưu sinh.
Những biến đổi của xã hội đương đại khiến cho quá trình tu trì của các
nhà sư trở nên thoáng hơn, giáo ý không còn hà khắc như trước nữa. Ngày
nay đa số các chùa đều có tivi, internet, báo, thư viện,… để các nhà sư cập
nhật thông tin, nâng cao trình độ và đặc biệt là nâng tầm hiểu biết về các vấn
đề nhân sinh. Chính vì vậy, số lượng các nhà sư có trình độ cao ngày càng
tăng và khả năng hiểu biết uyên bác hơn, trở thành những hình tượng tiêu
biểu cho các tín đồ noi theo.
Cùng với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh, việc tuyên truyền phát
triển đạo là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ tôn giáo nào. Việc phát triển tín đồ,
mua đất, xây dựng mới cơ sở thờ tự của PGNT là một việc làm tất yếu và tiêu
chí quan trọng trong hoạt động phật sự của tôn giáo này. Do đó, trong thời
gian tới chắc chắn PGNT sẽ phát triển về số lượng tín đồ, chất lượng, cơ cấu
tổ chức các cấp đạo và quy mô cơ sở thờ tự của họ. Vấn đề đặt ra là các cơ
quan quản lý nhà nước tỉnh Trà Vinh cần có những kế hoạch với các nội dung
và biện pháp phù hợp để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động của PGNT, nhằm phát huy được các nguồn lực của PGNT vào sự phát
69
triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
trong thời gian tới.
3.1.2. Những xu hướng tạo nên thách thức đối với Phật giáo Nam
Tông trong tình hình mới
Sự thay đổi môi trường sống, sự giao thoa văn hóa cũng đã ảnh hưởng
không nhỏ tới việc thực hành tôn giáo của các tín đồ PGNT. Sự thay đổi trong
thực hành tôn giáo không chỉ biểu hiện ở việc giảm sút số lượng tín đồ đến
chùa tu học mà các lễ hội do nhà chùa tổ chức cũng không còn thu hút được
đông đảo nhân dân, đặc biệt là người Khmer trẻ tham dự.
Xu hướng tiếp theo là việc các tín đồ PGNT chỉ thực hành tôn giáo
giống như một dạng thức văn hóa mà che mẹ, anh em, bạn bè họ tuân theo và
chỉ có rất ít người hiểu được các nghi lễ ấy thực sự có ý nghĩa như thế nào
trong cuộc sống. Dù các nghi lễ tôn giáo vẫn được thực hiện thường xuyên
nhưng Phật giáo vẫn chưa thực sự đi vào đời sống tâm linh của họ. Rất ít người
tự nhận mình là tín đồ theo PGNT có thể hiểu được các triết lý của Phật giáo
hay hiểu được các ý nghĩa của các nghi lễ tôn giáo vẫn diễn ra trong cuộc sống
của họ. Điều này là do trong đời sống tôn giáo nói chung, người Việt Nam nói
chung thường đơn giản hóa những vấn đề lý luận, trọng thực hành và thường
vận dụng một cách linh hoạt các giáo lý của tôn giáo trong cuộc sống.
Xu hướng cải giáo đang trở nên phổ biến trong đời sống tôn giáo của
nhân dân tỉnh Trà Vinh và PGNT cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Do đó,
có thể nói rằng hiện nay không phải tất cả người Khmer sinh ra đều là tín đồ
PGNT. Bởi lẽ không gian xã hội của cá nhân ngày càng rộng mở đã tạo điều
kiện để các cá nhân không chỉ tiếp nhận các giá trị tôn giáo truyền thống mà
còn tiếp nhận các giá trị tôn giáo khác phù hợp với tâm lý, sở thích từng
người. Bên cạnh đó, một bộ phận cải giáo là do bị lôi kéo, tác động hoặc vì
lợi ích kinh tế trước mắt.
Thời gian gần đây, hiện tượng một số phật tử người Khmer ở Trà Vinh
đã bỏ đạo gốc PGNT để đi theo các đạo khác như Tin lành, Công giáo... Từ
70
đó, gây ra những mâu thuẫn về tình cảm tôn giáo ngay trong nội bộ cộng
đồng. Thậm chí, cùng một gia đình nhưng các thế hệ, các thành viên khác
nhau lại đi theo các tôn giáo khác nhau. Từ mâu thuẫn tôn giáo dẫn đến những
sự va chạm về lợi ích, quan điểm... tạo ra những nguy cơ gây mất ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội [40, tr37].
Trong những năm tới, các lực lượng thù địch tiếp tục đẩy mạnh các
hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam với nhiều âm mưu thủ đoạn, hình
thức khác nhau. Chúng sẽ tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo làm mũi nhọn tấn
công chính trị gây sức ép với Việt Nam, đưa vấn đề tôn giáo là một nội dung
trong hoạt động "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam của chúng. Ý đồ của
chúng là dùng niềm tin tôn giáo để làm phai nhạt lòng tin của quần chúng tín
đồ với Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ dân với Đảng, tăng cường các hoạt
động phá hoại tư tưởng, thúc đẩy xu hướng chống đối của tôn giáo với Đảng.
Vì vậy tùy từng thời điểm và hoàn cảnh cụ thể mà hình thức chống phá của
lực lượng thù địch khác nhau. Nhưng nhìn chung, hoạt động lợi dụng PGNT
của tỉnh Trà Vinh sẽ diễn ra theo hai khuynh hướng.
Một là hoạt động theo khuynh hướng quá khích, chống đối cực đoan
như: lợi dụng chính sách mở cửa, dân chủ của Đảng để yêu sách "đòi tự do
tôn giáo, quan hệ với bên ngoài để hỗ trợ về vật chất, chỉ đạo hoạt động, soạn
thảo và phát tán tài liệu vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân
quyền. Lợi dụng mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, cơ sở vật chất, những sở hở
thiếu sót của cán bộ ta trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, chính sách
kinh tế xã hội để kích động, lôi kéo quần chúng biểu tình, gây rối an ninh trật
tự, bạo loạn chính trị; Chống phá, hạ uy tín các tổ chức tôn giáo hợp pháp, vô
hiệu hóa các chức sắc tiến bộ,…
Hai là hoạt động chống đối theo phương thức "Diễn biến hòa bình".
Chúng thường núp dưới vỏ bọc hoạt động thuần túy tôn giáo, hoạt động thích
nghi tôn giáo, dễ mất cảnh giác, khó áp dụng đối sách đấu tranh, ngăn chặn.
Biểu hiện của hoạt động này là triệt để lợi dụng đường lối đổi mới, mở rộng
71
dân chủ của Đảng, nhà nước để ngấm ngầm chống đối; Lợi dụng các hoạt
động từ thiện, nhân đạo xã hội trên các lĩnh vực để mở rộng phạm vi hoạt
động của giáo hội, tăng cường vai trò ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống
xã hội. Khi có thời cơ sẽ tập hợp lực lượng để tiến hành các hoạt động chống
đối; Tăng cường đào tạo giáo sỹ, củng cố nhân sự, tổ chức giáo hội cơ sở để
quản lý, kiểm soát, khống chế tín đồ. Đẩy mạnh hoạt động xin lại, đòi lại cơ
sở vật chất mà Nhà nước quản lý, sử dụng, xin xây dựng cơ sở vật chất mới,
xin tiếp nhận cơ sở vật chất, nhận hiến tặng cơ sở vật chất để phục vụ các hoạt
động mở rộng và phát triển tôn giáo,..
Việc phân chia thành hai khuynh hướng như trên chỉ mang tính tương
đối. Trong thực tế hiện nay và sắp tới đối tượng lợi dụng tôn giáo có thể cùng
lúc hoạt động theo cả hai khuynh hướng. Như vậy, PGNT ở Trà Vinh nói
riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung đang đứng trước những biến đổi,
những thách thức không nhỏ. Làm thế nào để phát huy vai trò của PGNT và
hạn chế những mặt tiêu cực cản trở quá trình phát triển là vấn đề đòi hỏi phải
có lời giải. Phát huy vai trò của PGNT cũng chính là khơi dậy lòng yêu nước,
lòng tự tôn dân tộc của đồng bào Khmer, góp phần ổn định an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
3.2. Quan điểm của Đảng và phương hướng của tỉnh Trà Vinh về
công tác tôn giáo
3.2.1. Quan điểm của Đảng
Trong thời gian vừa qua, cùng với những thành quả to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta không thể không
kể đến những thành quả đạt được trên lĩnh vực công tác tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta. Để có được thành quả trên lĩnh vực quan trọng này, Đảng ta đã
trải qua một quá trình đổi mới nhận thức tương đối lâu dài, đồng thời Nhà
nước cũng đã không ngừng củng cố và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp
luật về tôn giáo.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, để phát huy sức mạnh toàn dân,
72
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về
tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa
VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công tác tôn giáo”, Chỉ thị số 18-
CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các tỉnh, thành phố đều xây dựng
chương trình hành động; nhiều tỉnh, thành phố có Nghị quyết chuyên đề về
công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo để chỉ đạo thống
nhất trong hệ thống chính trị thực hiện công tác tôn giáo. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo trái quy định của pháp luật” [26, tr.165].
Như vậy, quan điểm, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo của
Đảng, Nhà nước Việt Nam là nhất quán và xuyên suốt kể từ ngày thành lập
nước (năm 1945 đến nay) với 05 quan điểm cơ bản sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
73
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo
là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân
dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh
quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp
chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn
giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc
lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế
- xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân
dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn
bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách
làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm
công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng
điểm có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận
động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
74
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp luật và
được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất
bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo,... của
mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt
động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi
dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép
buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền
đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
Những chủ trương, đường lối của Đảng về tôn giáo và công tác tôn
giáo được Quốc hội, Chính phủ cụ thể hoá trong những văn bản quy phạm
pháp luật như sau:
- Hiến pháp năm 2013;
- Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04/02/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành;
- Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg, ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo;
- Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;
- Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi là Nghị
định). Nghị định có hiệu lực thi hành đồng thời với Luật kể từ ngày
01/01/2018.
- Quyết định số 199/ QĐ-BNV ngày 31/01/2018 về việc công bố thủ
tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thuộc phạm vi chức năng
của Bộ Nội vụ.
Những thành tựu đạt được trong thời gian qua đã chứng minh quan
điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo đã và đang đi đúng hướng, phản ánh một
cách khoa học, khách quan quy luật vận động và phát triển của tôn giáo; đồng
75
thời, thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo trong điều kiện lịch sử - cụ
thể của đất nước hiện nay.
3.2.2. Phương hướng của tỉnh Trà Vinh
Mục tiêu được chính quyền tỉnh Trà Vinh là trong thời gian tới sẽ đưa
tỉnh Trà Vinh trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực đồng bằng sông Cửu
Long. Để đạt được điều đó thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc Kinh - Khmer - Hoa là việc làm cần thiết. Do đó, tỉnh Trà Vinh đã xác
định cần thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc nhằm xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI “Về công tác
tôn giáo”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình hành động số 18,
trong đó có nêu các tôn giáo được hoạt động đúng pháp luật, phát huy các
nhân tố tích cực, giá trị văn hóa, tín ngưỡng tốt đẹp của các tôn giáo để... tôn
giáo có những đóng góp cho phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ
nạn xã hội, tham gia giáo dục, cảm hóa người lầm lạc.
Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 của
Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định: "Tiếp tục triển khai thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc; Phát huy những giá trị đạo đức,
văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc và tín đồ tôn giáo sống
tốt đời, đẹp đạo, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo điều kiện
cho các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận sinh hoạt đúng hiến
chương, điều lệ và đúng quy định của pháp luật".
Trong thời gian tới, từ quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước và thực tiễn của địa phương, tỉnh Trà Vinh đã xác
định phương hướng nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo nói chung và đối với hoạt động của PGNT nói riêng trên
76
địa bàn tỉnh như sau:
Một là, Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh trong giai đoạn tới nhằm góp phần bảo đảm cho thực hiện thắng lợi
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tăng
cường đoàn kết tín đồ các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, Tiếp tục triển khai, quán triệt sâu trong nội bộ, tuyên truyền,
phổ biến trong nhân dân, trong đó có quần chúng là tín đồ tôn giáo về Nghị
quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về công tác tôn
giáo, Luật tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản của Chính Phủ, của Tỉnh ủy,
UBND Trà Vinh về tôn giáo và hoạt động tôn giáo.
Ba là, Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo tham
gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị ở địa phương như tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển kinh tế, xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực
hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, phong trào toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Thông qua hành động cách mạng
của quần chúng, góp phần vào việc xây dựng lực lượng cốt cán trong tôn
giáo; xây dựng chính quyền cơ sở ở vùng có đông đồng bào tôn giáo thực sự
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Bốn là, Tham mưu, phối hợp các cấp, các ngành trong hệ thống chính
trị từ cơ sở đến tỉnh giúp cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các ngành, các cấp,
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, nhân dân quán triệt sâu, kỹ các quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác tôn giáo, tạo sự
thống nhất trong nhận thức và hành động đối với tôn giáo và hoạt động tôn
giáo.
77
Năm là, Thực hiện nhất quán việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, xem tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận người dân, đồng thời phải tăng cường công tác QLNN đối với hoạt động
tôn giáo, nâng cao cảnh giác với các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chống phá Đảng, Nhà nước,
chế độ, gây mất an ninh chính trị, trật tự xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa các
cấp, nắm tình hình xử lý các vụ việc phát sinh, đặc biệt là phát hiện sớm, phát
hiện ngay từ cơ sở. Kiên quyết xử lý nghiêm các hoạt động vi phạm pháp luật,
bảo đảm mọi hoạt động, sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng quy định của pháp
luật. Trước mắt các huyện, thị, thành phố, các ngành rà soát các trường hợp
tồn đọng tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm trong thời gian sớm nhất.
Sáu là, Củng cố bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp; có biện pháp, kế
hoạch ổn định cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng
nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, bản lĩnh đối với cán bộ, công chức làm công
tác tôn giáo, nhất là cán bộ tôn giáo - dân tộc cấp xã, phường, thị trấn để đảm
đương nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng đội ngũ những người trực tiếp
làm công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo có tính chuyên nghiệp cao,
nhiệm vụ chuyên môn thành thạo, đủ năng lực phẩm chất để thực hiện QLNN
đối với hoạt động tôn giáo.
Như vậy, Song song với chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách về
đời sống kinh tế, Tỉnh ủy cũng đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, tạo điều kiện
thuận lợi để các tôn giáo sinh hoạt đúng hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo và quy định của pháp luật; hỗ trợ trùng tu, sửa chữa nhiều cơ sở thờ tự.
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật
giáo Nam Tông ở tỉnh Trà Vinh
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với
Phật giáo Nam Tông trong điều kiện mới
Tiếp tục quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018
78
của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
12/3/2003 của BCH Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo trong tình
hình mới; tuyên truyền và thực hiện tốt Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định
162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành Luật, nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn nhằm nâng
cao nhận thức cho cán bộ, công chức, đảng viên của cả hệ thống chính trị.
Đề nghị Đảng và Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và đồng bộ với pháp luật
trong các lĩnh vực liên quan. Đề xuất Chính phủ ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật để cụ thể hoá Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có Nghị
định về xử phạt hành chính về tín ngưỡng, tôn giáo; bổ sung các quy định cụ
thể về phân công trách nhiệm, phối hợp công tác giữa các cấp, các ngành
trong công tác tôn giáo,... Xây dựng và hoàn thiện một chiến lược tổng thể
phát triển ngành quản lý nhà nước về tôn giáo trong cơ cấu tổ chức đa ngành,
đa lĩnh vực. Cần thể chế hóa các chủ trương, chính sách về vấn đề từ thiện xã
hội của các tôn giáo thành những văn bản qui phạm pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tôn giáo được hoạt động thuận lợi trong lĩnh
vực từ thiện xã hội.
Bên cạnh đó cần đánh giá và tổng kết, chỉ ra những thành công, bất cập,
hạn chế của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về việc thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về công tác tôn giáo. Từ đó, đưa ra giải pháp
xử lý, khắc phục, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung
và pháp luật về tôn giáo nói riêng, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong thời gian tới.
Ngoài ra, cần tổng kết việc thực hiện pháp luật về tôn giáo với quan
điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, đáp ứng yêu cầu của công cuộc
đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, bối cảnh cuộc Cánh mạng Công
nghiệp 4.0, đặc biệt là trong điều kiện tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
79
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, đòi hỏi Tỉnh
ủy, UBND tỉnh Trà Vinh cần phải cụ thể hóa chủ trương, chính sách chung
của Đảng và Nhà nước thành chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn
đang diễn ra tại Trà Vinh bằng những văn bản cụ thể. Các cơ quan chức năng
của tỉnh Trà Vinh cần phải xây dựng các chiến lược quản lý nhà nước về tôn
giáo trên địa bàn một cách cụ thể phù hợp với tình hình mới để làm định
hướng cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Để có chiến lược và
chính sách đúng đắn thì cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng của các cấp, các
ngành trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực
trạng công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trà Vinh hiện nay. Tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện cải cách hành chính tại địa phương để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh các văn bản quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung thì Đảng,
Nhà nước và UBND Trà Vinh cũng cần xây dựng những văn bản quản lý nhà
nước đối với hoạt động của Phật giáo và PGNT nói riêng để phù hợp với
những đặc thù của tôn giáo này. Như vậy công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động của PGNT mới được cụ thể và chặt chẽ.
Khi ban hành các chính sách cần phải gắn công tác tôn giáo với công
tác dân tộc. Đa phần các phật tử của PGNT là đồng bào dân tộc Khmer. Vì
vậy khi xây dựng các chiến lược, chính sách phát triển đời sống kinh tế xã hội
đồng bào Khmer tại địa phương cần phải kết hợp với vấn đề quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo.
3.3.2. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trên địa bàn tỉnh đối với Phật giáo Nam Tông
Để làm tốt công tác này, Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh cần
thực hiện tốt chức năng tham mưu cho UBND tỉnh công tác quản lý nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật. Chủ động phối hợp với
các sở, ban, ngành, đoàn thể chức năng và chính quyền địa phương liên quan
80
kịp thời giải quyết, xử lý các vi phạm trong hoạt động tôn giáo theo quy định
của pháp luật. Những vấn đề khó khăn, phức tạp liên quan đến hoạt động tôn
giáo phải được bàn bạc thống nhất với các sở, ban, ngành, đoàn thể chức năng
và chính quyền địa phương liên quan về chủ trương, biện pháp giải quyết
trước khi tham mưu trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành chức năng từ
tỉnh đến cơ sở trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ
chức tôn giáo nói chung, PGNT nói riêng, nhất là mối quan hệ làm việc, giúp
đỡ, Phối hợp giữa Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo), Ban Dân vận Tỉnh ủy, Uỷ ban
Mặt trận tổ quốc tỉnh, Công an tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên & Môi
trường và UBND các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Sự phối hợp đó sẽ
tạo nên những đề xuất, tham mưu đúng đắn trong việc thực hiện chính sách
tôn giáo; đồng thời tăng cường các biện pháp để chủ động nắm tình hình; nắm
xu thế, chủ trương hoạt động của các tôn giáo; đấu tranh kiên quyết đối với
những phần tử cực đoan, bảo thủ, có những hành vi lợi dụng tôn giáo gây rối
hoặc tuyên truyền, xuyên tạc chính sách; hạn chế đến mức cao nhất xảy ra các
điểm nóng liên quan đến tôn giáo.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng kiến thức và nghiệp vụ công tác tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác tôn giáo các cấp; tổ chức tuyên truyền, phổ biến
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo; vận động chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo chấp hành chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo; theo dõi tình hình, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra các vấn đề liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo; hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết những
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định pháp luật.
81
3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp
luật về tôn giáo của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng nhân dân,
chức sắc, tín đồ Phật giáo Nam Tông trên địa bàn tỉnh Trà Vinh chấp
hành nghiêm các quy định của pháp luật
Các cấp uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tiếp tục quán triệt,
triển khai trong cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo
nói riêng về việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về công tác tôn giáo. Các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân trong vùng giáo nắm và
thực hiện tốt Luật Tín ngưỡng tôn giáo và các văn bản pháp luật có liên quan.
Các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cần được
dịch sang tiếng Khmer để tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng đồng bào
Khmer, đồng thời thực hiện tốt Quy chế dân chủ trong vùng đồng bào Khmer,
đảm bảo đồng bào được biết, được bàn, được kiểm tra việc thực hiện đường
lỗi, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cần tăng cường tuyên truyền tới đồng bào bằng nhiều kênh khác
nhau. Bên cạnh việc mở lớp tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cho các chức sắc, chức
việc thì việc truyền thông công tác tôn giáo còn cần được thực hiện linh hoạt và
đa dạng như truyền đạt về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho cán
bộ cấp xã, các chức sắc PGNT ở ngay các chùa. Sau đó, kết hợp với những
buổi hành lễ, các chức sắc lại truyền đạt cho tín đồ ở chùa. Tài liệu được tỉnh
cung cấp nên sử dụng dưới dạng tờ rơi để chức sắc và tín đồ dễ đọc, dễ nhớ.
Bên cạnh đó cũng cần phối hợp với cấp ủy, chính quyền cơ sở, địa
phương, với các vị chức sắc, trụ trì các chùa Nam Tông Khmer tuyên truyền
cả những nội dung như: nâng cao hiểu biết về tệ nạn xã hội; ý thức bảo vệ
môi trường; nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; hiểu biết về an
toàn thực phẩm và phòng, chống buôn lậu, an toàn giao thông…
Cần có chiến lược lâu dài phối hợp với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh để xây
82
dựng đội ngũ sư sãi, nhất là đội ngũ sư sãi Khmer vừa tinh thông đạo pháp, có
uy tín với người đồng đạo, song lại vừa có thái độ chính trị tốt. Việc đào tạo
tăng tài phải chú ý kết hợp cả ba nội dung: tiếng Pali, Phật học và học vấn (văn
hóa). Cần duy trì cả ba cấp đào tạo: cấp cơ sở (theo chùa), bậc trung cấp theo
đơn vị tỉnh và bậc cao cấp cho toàn khối PGNT. Đối với bậc cao cấp, phải tăng
cường đào tạo tại Học viện PGNT tại thành phố Cần Thơ. Đồng thời có kế
hoạch cử Sư sãi đi học ở một số nước có PGNT như Myanmar, Sri Lanka, Ấn
Độ… Trước mắt, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ Phật học,
văn hoá và tiếng Pali cho đội ngũ sư sãi hiện có của PGNT Khmer.
Phối hợp với chính quyền tạo điều kiện xây dựng các ngôi chùa thành
các điểm sinh hoạt văn hóa, trang bị tivi, đài, hệ thống phát thanh, tủ sách, đặc
biệt là "tủ sách pháp luật" để phục vụ nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng
bào cũng như tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước và các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.
Hiện nay đã có chương trình tiếng Khmer trên Đài Phát thanh truyền
hình tỉnh Trà Vinh. Tuy nhiên cần tăng thời lượng phát sóng chương trình
phát thanh, truyền hình. Đồng thời xây dựng nhiều thêm nhiều chương trình
với những nội dung phong phú, đa dạng hơn góp phần nâng cao hơn nữa nhận
thức của đồng bào dân tộc Khmer. Bên cạnh đó, cũng cần thực hiện các
phóng sự, phim tài liệu tìm hiểu về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng ở
Trà Vinh để những người quan tâm có thêm những hiểu biết nhất định về sự
phát triển của tôn giáo tại địa phương.
Các cơ quan thông tấn, báo chí ở địa phương và trung ương cần mở
chuyên mục, đưa tin về các hoạt động từ thiện xã hội, gương người tốt, việc
tốt của các cá nhân, tổ chức tôn giáo để phát huy hơn nữa truyền thống "tốt
đời, đẹp đạo" của các tín đồ tôn giáo.
Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các mô hình “Dân
vận khéo” trên các lĩnh vực đời sống xã hội, phát huy tốt vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng lực lượng cốt cán, người có uy
83
tín trong đồng bào dân tộc Khmer, trong cộng đồng PGNT. Xây dựng và thực
hiện các chính sách thi đua khen thưởng dành cho các cá nhân, tổ chức có
đóng góp trong công cuộc xây dựng đời sống mới.
Đẩy mạnh công tác đối ngoại về tôn giáo, chủ động tham gia các diễn
đàn tôn giáo quốc tế và khu vực. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế,
các cuộc đối thoại song phương, đa phương để họ hiểu đúng chủ trương,
chính sách tôn giáo và lên tiếng ủng hộ vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo của
Việt Nam. Tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức của PGNT tham gia các hội
nghị, diễn đàn quốc tế liên quan đến tôn giáo.
3.3.4. Kiện toàn bộ máy và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở
Giải pháp này yêu cầu địa phương phải tiến hành xây dựng cơ cấu tổ
chức bộ máy làm công tác tôn giáo đầy đủ, hoàn chỉnh, thống nhất từ cấp tỉnh
đến cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo phải có chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng và có phông kiến thức rộng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo đang diễn biến phức tạp.
Thực tế hiện nay, đội ngũ làm công tác tôn giáo ở tỉnh Trà Vinh phần
lớn chỉ qua kinh nghiệm mà chưa được đào tạo cơ bản, như tốt nghiệp đại học
hay có văn bằng sau đại học về tôn giáo học. Chính vì vậy, năng lực quản lý
của các cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và xã phải được bồi dưỡng một cách
chuyên sâu về công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thông qua việc tổ chức
các khóa tập huấn nghiệp vụ công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung
và với PGNT nói riêng.
Cần chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đảm
nhiệm chức vụ được giao, bố trí đúng người làm công tác tôn giáo. Cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo phải là người thường xuyên bám nắm cơ
sở, xuống thực tế để có thể thực sự sát dân. Phải thường xuyên tiếp xúc với các
chức sắc tôn giáo, các tín đồ tôn giáo bằng cách xây dựng các buổi đối thoại
định kỳ để có thể lắng nghe, hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, kịp thời giải
quyết những vướng mắc, kiến nghị của các tín đồ tôn giáo. Nhờ vậy có thể phát
84
huy sức dân đồng lòng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Đồng thời, tăng cường cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức cho cơ
sở ở vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, nhất là ở những địa bàn trọng
điểm,... Cán bộ công tác tôn giáo ở vùng Khmer phải biết tiếng Pali, phải am
hiểu phong tục, tập quán của dân tộc Khmer, cần tìm hiểu để trang bị những
kiến thức cần thiết về các lễ nghi, giáo lý, giáo luật của PGNT. Có như vậy thì
công tác quản lý nhà nước về hoạt động của PGNT mới đạt hiệu quả cao.
Cán bộ làm công tác tôn giáo phải thực hiện tốt phong cách dân vận
“trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”; không quan
liêu, tham nhũng; làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải
quyết vấn đề về tôn giáo nói chung và PGNT nói riêng.
Gắn chặt công tác đào tạo, bồi dưỡng với công tác quy hoạch và bố trí
cán bộ. Ổn định đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trong một thời gian dài.
Bởi lẽ thực tế hiện nay điểm mạnh của một số cán bộ làm công tác tôn giáo là
có mối quan hệ tốt với chức sắc, chức việc của các tôn giáo, biết rõ tâm tư,
nguyện vọng của họ và có thể coi đây như vốn xã hội của những cán bộ này.
Tuy nhiên, vốn đó khó chuyển giao cho người khác; và nếu cán bộ ấy chuyển
công tác hay về hưu, sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung.
Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tôn giáo và nghiệp vụ
tôn giáo. Có kế hoạch phát hiện, đào tạo những cán bộ có uy tín, có năng lực
vận động chức sắc tôn giáo để tạo mối quan hệ đồng thuận.
Tạo điều kiện về mọi mặt như trang bị cơ sở vật chất, tài chính,… để
đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hoạt động tốt, tham mưu ngày càng tốt
hơn cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo
theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo và
thực hiện Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc
thiểu số trong thời kỳ mới. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc
85
Khmer, đặc biệt là cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo. Tuyển chọn những
cán bộ, chức sắc có “đức cao, vọng trọng” và có uy tín trước đồng bào.
Có chế độ chính sách thu hút đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; cần
triển khai trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện Đề án về
chế độ, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác QLNN về tôn giáo để các cán bộ thực sự yên tâm công tác và gắn bó
lâu dài với công việc; thực hiện thi đua khen thưởng kịp thời các cán bộ, công
chức làm công tác tôn giáo để tạo động lực trong hoạt động.
Điểm đáng lưu ý là công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa bàn. Cho nên, đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo không chỉ là số cán bộ chuyên trách của cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo, mà là tất cả cán bộ làm công tác tôn giáo, liên quan đến
công tác tôn giáo của các cơ quan Đảng, Nhà nước (bao gồm lực lượng vũ
trang), Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể ở tất cả các cấp. Vì vậy, tỉnh cũng cần
có chính sách bồi dưỡng các kiến thức về công tác tôn giáo cho cả những cán
bộ không chuyên trách. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo bằng việc cử các cán bộ, công chức làm công
tác này đi giao lưu, học hỏi kinh nghiệm tại các địa phương, các quốc gia có
sự đông đảo các tín đồ theo PGNT như: Campuchia,... Nhờ vậy có thể vận
dụng được những giải pháp, kinh nghiệm quý giá vào thực tế quản lý hoạt
động tôn giáo tại Trà Vinh.
3.3.5. Kết hợp quản lý tôn giáo với quản lý dân tộc, chống lợi dụng
tôn giáo trên địa bàn Tỉnh
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để đồng bào nhận rõ âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông
tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc,
phản động. Làm tốt công tác dự báo những tình huống phức tạp nảy sinh về tư
tưởng chính trị để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả.
86
Chủ động ngăn chặn, phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các
thế lực thù địch; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của các cơ quan chức
năng trong lĩnh vực thông tin, truyền thông. Nâng cao trình độ của đội ngũ
làm công tác tư tưởng, thông tin và truyền thông; quản lý hiệu quả công tác
thông tin truyền thông.
Tạo điều kiện giúp đỡ PGNT có đủ kinh sách phục vụ nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo, xoá bỏ sự phụ thuộc vào kinh sách ở nước ngoài. Đối với
PGNT do một thời gian dài chưa có sự quan tâm hỗ trợ in ấn, xuất bản nên
hiện nay kinh bổn của PGNT còn thiếu, số kinh sách còn lại chủ yếu được ghi
trên lá bối, đến nay hầu hết đã mục nát, không sử dụng được nên đã xảy ra
tình trạng in lậu kinh sách từ nước ngoài chuyển vào trong nước mà các
ngành chức năng khó kiểm soát được nội dung. Do vậy, Nhà nước cần quan
tâm hỗ trợ cho việc xuất bản kinh sách phục vụ hoạt động tôn giáo cho người
Khmer ở Nam Bộ; không để các thế lực cực đoan, thù địch bên ngoài lợi
dụng, gây chia rẽ đoàn kết.
Khi có xung đột về lợi ích giữa các dân tộc, giữa các bộ phận trong cộng
đồng các dân tộc, cần giải quyết theo tinh thần hòa giải; chống kỳ thị, chia rẽ
dân tộc. Phát hiện kịp thời, đấu tranh vô hiệu hóa các hoạt động truyền bá,
kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, ly khai, tự
trị; xử lý nghiêm các phần tử lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
trái pháp luật, kích động chia rẽ các dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, gây
mất trật tự xã hội, xâm phạm lợi ích an ninh quốc gia. Chủ động đấu tranh với
hoạt động của các thế lực thù địch chỉ đạo, hậu thuẫn số đối tượng bên trong
đòi ly khai, tự trị; đấu tranh với các hoạt động quốc tế hóa vấn đề dân tộc và
sự can thiệp từ bên ngoài. Cùng với đó, cần phát huy tinh thần yêu nước của
đồng bào có đạo và truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của đồng bào các
dân tộc thiểu số; phối hợp chặt chẽ các tổ chức đoàn thể, lực lượng vũ trang;
tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ, đồng tâm hiệp lực của đồng bào trong cuộc đấu
tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên địa bàn.
87
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong hệ thống chính trị phát huy vai
trò, luôn sâu sát, nắm chắc tư tưởng của quần chúng, vận động họ tích cực
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các quy định của địa phương, nâng cao trách nhiệm công dân trong xây
dựng và phát triển địa phương ngày càng giàu, mạnh.
Làm tốt công tác dân tộc – tôn giáo sẽ góp phần giữ vững ổn định chính trị,
xã hội tại địa phương và huy động sự đóng góp của đồng bào các tôn giáo trong
củng cố, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, ngăn chăm âm mưu lợi dụng của
các thế lực thù địch chống phá cách mạng, vi phạm pháp luật Nhà nước.
3.3.6. Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt
động tôn giáo nói chung và hoạt động của đạo Tin lành nói riêng nhằm kịp
thời phát hiện các vụ việc phát sinh và đưa ra cách thức giải quyết hợp lý,
tuân theo pháp luật và vẫn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân. Từ đó tạo niềm tin cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào có đạo tin
tưởng vào Đảng, vào chính quyền.
Tăng cường thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động tôn
giáo nói chung và hoạt động của đạo PGNT nói riêng nhằm kịp thời phát hiện
các vụ việc phát sinh và đưa ra cách thức giải quyết hợp lý, tuân theo pháp
luật và vẫn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Từ đó tạo
niềm tin cho nhân dân, đặc biệt là tín đồ tôn giáo tin tưởng vào Đảng, vào
chính quyền. Chủ động phối họp với các ban, bộ, ngành chức năng giải quyết
các vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo, vận dụng đúng đắn chính sách,
pháp luật để giải quyết các khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo còn
kéo dài, phát hiện và xử lý tình huống phức tạp ngay từ cơ sở, bảo đảm an
ninh trật tự, không để các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo để móc nối, kích động,
chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.
Công tác thanh tra, kiểm tra bao gồm việc kiểm tra, giám sát hoạt động
88
sinh hoạt tôn giáo của các tổ chức PGNT theo Kế hoạch đã đăng ký hàng năm
và theo tình hình biến động của PGNT tại địa phương nhằm chủ động ngăn
chặn các hoạt động vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, các hoạt
động lệch chuẩn tâm linh, phản văn hóa và mê tín dị đoan. Tăng cường công
tác kiểm tra quy định, quy chế hoạt động, quản lý tại các cơ sở PGNT đang
hoạt động trên địa bàn. Kiểm tra công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
của PGNT của UBND các huyện trong tỉnh, đặc biệt là các huyện thường
xuyên có hoạt động nổi cộm về PGNT nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo; thực hiện
nghiêm các quy định của pháp luật cả từ phía cơ quan Nhà nước, cán bộ làm
công tác tôn giáo và các tổ chức, cá nhân tôn giáo, để kịp thời phát hiện và xử
lý các vấn đề phát sinh mới hoặc tồn đọng kéo dài chưa giải quyết, bảo đảm
đáp ứng nhu cầu chính đáng, bình đẳng trong các tôn giáo.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tiếp cận các chính sách, các
dịch vụ xã hội trợ giúp pháp lý cho đồng bào Khmer, các chương trình, dự án,
quỹ đầu tư có mục tiêu và chính sách hỗ trợ người nghèo nhằm bảo đảm đầu tư
có hiệu quả, đúng đối tượng, sử dụng đúng mục đích, tránh lãng phí, tiêu cực.
3.4. Khuyến nghị
3.4.1. Với Trung ương
Cần xác định lại tính phức tạp của công tác tôn giáo trong tình hình hiện
nay và lâu dài, đặc biệt là công tác đối với PGNT, chính vì sự phức tạp đó nên
cần quán triệt lại trong toàn bộ hệ thống chính trị những quan điểm cơ bản,
những đánh giá đúng mức tính phức tạp đó bằng những dẫn chứng cụ thể của
từng địa phương. Từ đó có thái độ rõ ràng và có trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị.
Do đặc thù công việc tôn giáo vừa nhạy cảm, phức tạp, vừa khó và tế
nhị; việc lựa chọn và bố trí cán bộ đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ, khả
năng kinh nghiệm thực tiễn mới có thể đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chính trị ở
địa phương. Do đó đề nghị Trung ương cần có chế độ chính sách “đặc thù
89
ngành” để thu hút cán bộ, khuyến khích động viên yên tâm gắn bó với công
tác này.
3.4.2. Ban Tôn giáo Chính phủ
Ban Tôn giáo Chính phủ cần sớm có văn bản hướng dẫn một số nội dung
còn chưa rõ ràng trong quá trình triển khai thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn
giáo để các địa phương thực hiện thống nhất, đồng bộ trong cả nước.
Ban Tôn giáo Chính phủ cần chỉ đạo các Vụ chuyên môn thuộc Ban có
sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ khi hướng dẫn, phối hợp với các
địa phương.
Trong tình hình hiện nay, tôn giáo đang là một vấn đề lớn, các thế lực
thù địch tiếp tục tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng
nước ta. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với
các hoạt động phải quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác
tôn giáo. Về lâu dài cần phải có phương án quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo lý
luận chính trị, chuyên sâu quản lý nhà nước về tôn giáo, có trình độ, kinh
nghiệm, phẩm chất phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
Cần tăng cường mở các lớp đào tạo chuyên sâu dài hạn và ngắn hạn
nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ, đồng thời nắm vững chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tham mưu và quản
lý tốt hoạt động của các tôn giáo trong tình hình hiện nay.
3.4.2. Với địa phương
Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác tôn giáo, nhất là công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trong tỉnh, tạo sức mạnh tổng hợp,
thu hút, tập hợp sư sãi và tín đồ tham gia vào các tổ chức quần chúng, các tổ
chức chính trị xã hội, làm cho sư sãi và tín đồ tin tưởng vào Đảng và Nhà
90
nước tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương, cơ sở; thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc Việt Nam với chế độ xã
hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chủ động củng cố, kiện toàn và quan tâm bố trí kinh phí, phương tiện
cho cơ quan làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương; có
chính sách đãi ngộ, thu hút và giữ chân công chức có kinh nghiệm làm công
tác quản lý nhà nước về tôn giáo, uy tín đối với chức sắc.
Xây dựng kế hoạch công tác đối với PGNT theo từng giai đoạn. Chủ
trương giải quyết kịp thời những trường hợp xin cấp giấy phép xây dựng, xin
giao quyền sử dụng đất có nguồn gốc rõ ràng, có nhu cầu chính đáng để vừa
tranh thủ được lực lượng tôn giáo tích cực, tiến bộ đồng thời ngăn chặn được
các phần tử xấu lợi dụng kích động, xuyên tạc chính sách tôn giáo, chính sách
đất đai của Đảng và Nhà nước ta.
91
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Quản lý nhà nước về tôn giáo nói chung và quản lý nhà nước đối với
hoạt động của PGNT nói riêng là một nhiệm vụ chính trị quan trọng có tính
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt là trong bối cảnh quốc tế diễn
biến phức tạp, vấn đề tôn giáo là nguyên cớ để các thế lực thù địch lợi dụng
nhằm gây sức ép, làm mất ổn định về chính trị.
Nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà
nước ta về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được các cấp ủy
Đảng và chính quyền tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm nên PGNT đã được tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho Giáo hội và tín đồ hoạt động đúng với chương
trình hoạt động đạo sự, tuân thủ Hiến Pháp và pháp luật. Một số trường hợp vi
phạm pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo cũng đã được xử lý nghiêm minh, góp
phần phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các thế lực lợi dụng tự do tôn
giáo để chống phá cách mạng.
Trong tình hình mới, PGNT đang có những sự thay đổi nhất định, các
cơ quan quản lý nhà nước cần phải nắm bắt kịp thời các xu thế đó và có
những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Có như
vậy mới có thể tăng cường hơn nữa niềm tin của các tín đồ tôn giáo đối với
Đảng, càng khẳng định rõ Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng công tác QLNN đối với hoạt động
tôn giáo của tỉnh và căn cứ vào quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các
cấp chính quyền về công tác tôn giáo, tác giả đề xuất hệ thống giải pháp sau:
Cần hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn
giáo nói chung và PGNT nói riêng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính
sách pháp luật đến chức việc và tín đồ của PGNT; Hoàn thiện về bộ máy
quản lý và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo;
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tín đồ của PGNT; kết hợp
quản lý tôn giáo với quản lý dân tộc, chống lợi dụng tôn giáo; Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
liên quan đến PGNT.
92
KẾT LUẬN
Phật giáo Nam Tông đã có quá trình lâu dài thâm nhập trong đời sống
văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ nói chung và người dân tỉnh Trà Vinh
nói riêng. Ảnh hưởng của Phật giáo thể hiện một số bình diện của lối sống như
phong tục tập quán, lễ hội, môi trường sinh thái, tính cố kết cộng đồng, tinh
thần yêu nước,… và nó trở thành bản sắc văn hóa của người dân nơi đây.
Trà Vinh là tỉnh có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng ở khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, lại là địa bàn tập trung đông đảo người Khmer
sinh sống do đó trong thời gian qua sự phát triển và ảnh hưởng của PGNT rất
mạnh mẽ và cũng ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp. Trên cơ sở tìm hiểu về quản
lý nhà nước đối với PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay, tác giả luận
văn đã phân tích và đạt được các kết quả như sau:
Thứ nhất, Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận khoa học về PGNT
và quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT. Đồng thời cũng chỉ ra
những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT
và một số bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với PGNT của một số
tỉnh khu vực ĐBSCL, từ đó có thể vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề
tôn giáo còn tồn tại cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
Thứ hai, Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý
nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Từ đó, có
một số nhận định về những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân của hạn
chế trong công tác quản lý nhà nước đối với PGNT trên địa bàn tỉnh Trà
Vinh. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
93
Thứ ba, Luận văn đã nêu lên được các quan điểm chỉ đạo của Đảng,
nhà nước và chính quyền địa phương đối với vấn đề tôn giáo, cùng với việc
căn cứ vào thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của Tỉnh, tác giả đã
đề xuất nhóm giải pháp cơ bản bám sát vào các nội dung chính của quản lý
nhà nước đối với hoạt động của PGNT nhằm góp phần hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
Tác giả hy vọng các giải pháp và những khuyến nghị mà đề tài luận văn
đã đưa ra nếu được áp dụng sẽ góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
hoạt động của PGNT trên địa bàn tỉnh Trà Vinh./.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An (1980), Vài khía cạnh dân tộc về người Khmer ở Việt Nam và
Campuchia. Hội nghị về quan hệ Việt Nam Campuchia trong lịch sử.
2. Phan An (1985), Nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long,
Tạp chí Dân tộc học, (số 3).
3. Nguyễn Bắc (1984), Tìm hiểu văn hóa - nghệ thuật Campuchia, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Chỉ thị 117-
CT/TW ngày 29/9/1981 về công tác với đồng bào Khmer.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Văn bản pháp luật Việt Nam về tín
ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Giáo trình tập huấn công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo.
7. C. Mác - Ph. Ăngghen (1983), Tuyển tập, tập V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), C. Mác - Ph. Ănghen toàn tập, tập 1, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Khắc Cảnh (1995), Đặc điểm, các hình thái quần cư và các loại
hình Phum Sóc người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long. Tập san khoa
học Trường ĐHTH Tp HCM, (chuyên đề Đông Phương học).
10. Nguyễn Khắc Cảnh (1996), Vấn đề nguồn gốc và sự hình thành cộng
đồng người Khmer ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long ở Việt Nam,
Trường ĐHTH Tp. HCM.
11. Chỉ thị số 68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư về công tác ở vùng
đồng bào Dân tộc Khmer.
12. Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/1/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
12. Chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định một số điều
và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
14. Chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy
95
định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
15. Chính phủ (2008), Nghị định số 13/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND, thành phố trực thuộc Trung ương.
16. Chính phủ (2008), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh.
17. Hoàng Văn Chức (chủ biên, 2009), Giáo trình Quản lý Nhà nước về tôn
giáo và dân tộc, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
18. Cổng thông tin điện tử thành phố Cần Thơ, http://cantho.gov.vn/, Tổng
quan về thành phố Cần Thơ, Cần Thơ.
19. Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng, http://soctrang.gov.vn/, Tổng quan
về tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng.
20. Cổng thông tin điện tử tỉnh Trà Vinh. http://travinh.gov.vn/, Tổng quan về
tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.
21. Nguyễn Mạnh Cường (2004), Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong
tang ma người Khmer Nam bộ. Trong Xây dựng đời sống văn hóa dân tộc
Khmer Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Vụ Văn hóa Dân tộc - Bộ
Văn hóa Thông tin ấn hành.
22. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơme Nam bộ (những vấn đề
nhìn lại), Nxb Tôn giáo.
23. Đảng bộ tỉnh Trà Vinh (2010), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ IX.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Dương Xuân Dũng (2009), Phật giáo Nam Tông và ảnh hưởng của nó đối
96
với đời sống tinh thần người Khmer ở An Giang hiện nay, Luận văn thạc
sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
28. Mạc Đường (1999), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Thích Nhất Hạnh (2008), Đạo Phật hiện đại hóa, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
30. Thiều Quang Hiếu (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của Phật
giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc
gia, Hà Nội.
31. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), Quản lý nhà nước đối với đạo Tin lành trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn cao học, Học viện Hành chính quốc gia.
33. V. Jemes, Tính đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo. Nxb Matxcơva, 1999.
34. Võ Sĩ Khải (2002), Văn hóa đồng bằng Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
35. Trần Hồng Liên (2014), Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở Trà
Vinh hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 05 (131).
36. Trần Thanh Nam (2001), Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân
tộc Khmer Nam bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
37. Nghị quyết số 24- NQ/BCT ngày 16/10/1990 (khoá XI) của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) “Về công tác tôn giáo trong
hình mới”.
38. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng “Về công tác tôn giáo”.
39. Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 09/9/2011 của Tỉnh ủy Trà Vinh về tiếp tục
phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer giai đoạn 2011 - 2015.
40. Nguyễn Minh Ngọc - Nguyễn Mạnh Cường (2005), Tôn giáo tín ngưỡng
97
các cư dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long, Nxb. Phương Đông.
41. Dương Nhơn (2008), "Phật giáo Nam Tông Khmer trong bối cảnh thống
nhất và hội nhập của Phật giáo Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (5).
42. Quốc hội (2016), Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
43. Trần Ngọc Quyên (2017), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, Luận văn cao học, Học viện
Hành chính quốc gia.
44. Sở Nội vụ (UBND) tỉnh Trà Vinh (2019): Báo cáo Tổng kết công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo năm 2019 và Kế hoạch công tác
năm 2020, Trà Vinh.
45. Lâm Thạch Sơn (1997), Ngôi chùa trong đời sống văn hóa của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn thạc sĩ văn hóa, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
46. Thủ tướng chính phủ (2018), Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg, ngày
03/8/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.
47. Trần Quang Thuận, Phật giáo Nam Tông tại Đông Nam Á, Nxb Tôn giáo.
48. Thích Nhật Từ, Thích Bửu Chánh, Trương Văn Chung, Nguyễn Công Lý
(2018), Phật giáo vùng MeKong: Di sản và văn hóa, Nxb Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh.
49. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Quyết định Ban hành Kế hoạch
thực hiện Quyết định số 1163/QĐ-TTG ngày 08/8/2017 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2017-2021” trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, Trà Vinh.
50. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Quyết định Ban hành Quy chế
phối hợp thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong cấp giấy phép xây
dựng mới và sửa chữa, cải tạo công trình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Trà
Vinh, Trà Vinh.
98
51. Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh (2018), Kế hoạch thực hiện Kế hoạch số
81-KH/TU ngày 23/4/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ
thị số 19-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Ban Bí Thư về tăng tường công
tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới, Trà Vinh.
52. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình về tôn giáo ở
Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Văn kiện Đại hội Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Trà Vinh
nhiệm kỳ 2017 - 2022.
54. Văn kiện Đại hội đại biểu Hội Đoàn kết Sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh, lần
thứ VI, nhiệm kỳ 2018 - 2023.
99
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Nội dung STT Trang
Phụ lục số 01 Số liệu tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự 101
Người dân tộc khmer phân theo các tỉnh/ Phụ lục số 02 102 thành trong cả nước
Thực trạng tình hình bộ máy làm công tác Phụ lục số 03 103 quản lý nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Trà Vinh
Phong phẩm, thuyên chuyển chức sắc, chức Phụ lục số 04 104 việc năm 2019
Phụ lục số 05 Cơ sở thờ tự xây dựng mới và sửa chữa, cải 105 tạo năm 2019
Phụ lục số 06 Tổng hợp công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về tôn giáo cho chức sắc, 106 chức việc, nhà tu hành tín đồ các tôn giáo
năm 2019
Phụ lục số 07 Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc năm 2019 107
100
Phụ lục 1: SỐ LIỆU TÍN ĐỒ, CHỨC SẮC, CƠ SỞ THỜ TỰ
(Tính đến ngày 10/10/2019)
STT
Tôn giáo
Số lượng tín đồ
Số lượng chức sắc Số lượng chức
Số lượng tôn giáo
việc
Số lượng cơ
Số lượng cơ
sở thờ tự
sở đào tạo
1
Phật giáo
461.877
255
01
138
307
2
Công giáo
75.088
55
52
46
0
3
Cao Đài
23.802
467
723
47
0
4
Tin Lành
1.073
03
27
03
0
Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt
5
5.760
77
174
17
0
Nam
6
Hồi giáo
175
0
05
01
0
7
Phật giáo Hòa Hảo
93
0
0
0
0
8
Bửu Sơn Kỳ Hương
1.000
0
0
0
0
9
Tứ ân Hiếu nghĩa
457
0
03
01
0
370
01
Tổng cộng:
569.325
740
1.291
101
Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh
Phụ lục 2: NGƯỜI DÂN TỘC KHMER PHÂN THEO CÁC TỈNH/ THÀNH TRONG CẢ NƯỚC
Tỉnh / thành
Người
Tỉnh / thành
Người
Tỉnh / thành
Người
Tỉnh / thành
Người
Thành phố Hà Nội
129
Tỉnh Quảng Ninh
Tỉnh Phú Yên
Bà Rịa Vũng Tàu
2.878
34
19
Tỉnh Bắc Giang
Tỉnh Khánh Hòa
147
Tp. Hồ Chí Minh
25.958
Tình Hà Giang
9
31
Tỉnh Phú Thọ
Tỉnh Ninh Thuận
40
Tỉnh Vĩnh Long
22.302
Tỉnh Cao Bằng
10
36
Tỉnh Vĩnh Phúc
Tỉnh Bình Định
40
Tỉnh An Giang
90.263
Tỉnh Bắc Kạn
12
11
Tỉnh Ninh Bình
Tỉnh Kon Tum
60
Tỉnh Bình Thuận
713
Tỉnh
Tuyên
34
18
Quang
Tỉnh Lào Cai
19
Tỉnh Thanh Hóa
93
Tỉnh Gia Lai
222
Thành phố Cần
21.412
Thơ
Tỉnh Nghệ An
Tỉnh Đắk Lắk
543
Tỉnh Hậu Giang
22.718
Tỉnh Điện Biên
19
60
Tỉnh Hà Tĩnh
Tỉnh Đắk Nông
513
Tỉnh Sóc Trăng
406.594
Tỉnh Lai Châu
3
11
Tỉnh Quảng Bình
Tỉnh Lâm Đồng
1.098
Tỉnh Bạc Liêu
70.660
Tỉnh Sơn La
34
10
Tỉnh Quảng Trị
Tỉnh Bình Phước
15.577
Tỉnh Cà Mau
29.842
Tỉnh Yên Bái
11
5
Thừa Thiên Huế
Tỉnh Tây Ninh
7.577
Tỉnh Kiên Giang
210.879
Tỉnh Hòa Bình
42
26
Tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Bình Dương
15.434
Tỉnh Trà Vinh
326.653
Tỉnh Thái Nguyên
76
43
Tỉnh Quảng Ngãi
Tỉnh Đồng Nai
7.057
Các tỉnh còn lại
3.384
Tỉnh Lạng Sơn
35
11
102
Nguồn: Thống kê của Ủy ban dân tộc tính đến tháng 12/2018
Phụ lục 03: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH BỘ MÁY LÀM
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TẠI TỈNH TRÀ VINH
Số lượng cán bộ
Trình độ học vấn
Trình độ chuyên môn
Trình độ lý luận chính trị
kinh nghiệm công tác QLNN về tôn giáo
STT
Tên cơ qian QLNN về tôn giáo
Cấp QLNN tôn giáo ở địa phương
Thông thạo ít nhất 01 ngoại ngữ
12/12
Tổng số
Chuyên trách
Kiêm nhiệm
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Sơ cấp
Trung cấp
Cao cấp
Dưới 5 năm
trên 5 năm
Sau đại học
Sau đại học
Thông thạo ít nhấy 01 tiếng dân tộc thiểu số
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
(13)
(14)
(15)
(16)
(17)
(18)
(19)
(20)
(21)
(22)
(2)
(3)
(1) Trước khi thực hiện chỉ thị số 01 (2005)
Cấp tỉnh
9
1
9
8
1
1
6
0
3
3
7
4
1
5
0
1
1
6
0
1 (lái xe)
2
24
24
24
14
1
9
0
7
12
/
/
/
0
14
1
9
0
Cấp huyện Cấp xã
Ban tôn giáo Phòng DT-TG
3
Thời điểm hiện nay (2020)
1
0
0
13
Cấp tỉnh
17
13
15
0
2
2
4
14
15
13
2
0
0
13
2
Ban tôn giáo
4 (nhân viên)
2
0
4
1
22
28
0
28
0
10
8
/
13
/
15
1
4
1
22
1
3
0
8
70
Cấp huyện Cấp xã
Phòng nội vụ UBND xã
266
266
266
145
/
125
7
130
/
/
/
0
145
8
70
0
Nguồn: Tổng hợp của Ban Tôn giáo Chính phủ
103
Phụ lục 4: PHONG PHẨM, THUYÊN CHUYỂN CHỨC SẮC,
CHỨC VIỆC NĂM 2019
STT
Tôn giáo
Số chức sắc
Số chức việc
Số chức sắc,
được phong
được bổ
chức việc
phẩm
nhiệm
thuyên chuyển
Phật giáo 1 21 01 0
Công giáo 2 13 13 04
Cao Đài 3 30 04 05
Tin lành 4 0 0 0
Hồi giáo 5 0 0 0
6 Tịnh độ Cư sĩ Phật 0 0 0
hội Việt Nam
7 Tứ ân Hiếu nghĩa 0 0 0
8 Bửu Sơn Kỳ 0 0 0
Hương
9 Phật giáo Hòa Hảo 0 0 0
Tổng cộng 64 18 09
104
Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở nội vụ tỉnh Trà Vinh
Phụ lục 5: CƠ SỞ THỜ TỰ XÂY DỰNG MỚI VÀ SỬA CHỮA, CẢI TẠO
NĂM 2019
STT Tên tôn giáo Số cơ sở thờ tự Số cơ sở thờ tự
xây mới sửa chữa, cải tạo
1 Phật giáo 01 05
2 Công giáo 02 0
3 Cao Đài 0 02
4 Tin lành 0 0
5 Hồi giáo 0 0
6 Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 0 01
Việt Nam
7 Tứ ân Hiếu nghĩa 0 0
8 Bửu Sơn Kỳ Hương 0 0
9 Phật giáo Hòa Hảo 0 0
Tổng cộng 03 08
105
Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh
Phụ lục 6:
TỔNG HỢP CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT VỀ TÔN GIÁO CHO CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC,
NHÀ TU HÀNH TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO NĂM 2019
STT Đối tượng được phổ biến Số lớp Số người được
phổ biến
1 Cán bộ làm công tác tôn giáo 03 443
Cấp tỉnh 08
Cấp huyện 27
Cấp xã 408
2 Tuyên truyền, phổ biến cho 04 269
chức sắc, chức việc các tôn giáo
3 Tuyên truyền, phổ biến cho tín 02 663
đồ các tôn giáo
106
Nguồn: Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ Trà Vinh
Phụ lục 7: ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHỨC SẮC NĂM 2019
STT Tên tôn giáo Số đang học Số tốt nghiệp
năm 2019
1 Phật giáo 99 151
Học viện Phật giáo 09 0
Cao đẳng Phật giáo 0 0
Trung cấp Phật giáo 37 0
Các lớp khác 53 151
2 Công giáo 0 04
Đại chủng viện 0 04
Các lớp bồi dưỡng 0 0
3 Tin lành 0 0
Viện Thánh kinh Thần học 0 0
Các lớp bồi dưỡng 0 0
4 Cao đài 34 34
Lớp bồi dưỡng giáo lý 34 34
143 Tổng 189
107
Nguồn: Ban Tôn giáo tỉnh Trà Vinh