BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ DUY TUYẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ DUY TUYẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VIẾT ĐỊNH
HÀ NỘI – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn
được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Viết Định. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn theo quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Duy Tuyến
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc
gia, tôi đã nhận được sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của các thầy cô giáo bộ
môn trong khoa và các giảng viên thuộc các khoa khác của Học viện.
Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia,
Khoa Sau đại học và Khoa Quản lý nhà nước về xã hội đã giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn cao học chuyên ngành Quản lý công.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Viết
Định, người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo huyện Đông
Anh, cùng các ban, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn thuộc
huyện Đông Anh, nơi em thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cũng như các
tổ chức, cá nhân, bạn bè, đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi tìm
hiểu, nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã cổ vũ,
động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Học viên
Lê Duy Tuyến
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PCCC : Phòng cháy chữa cháy
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra trên địa bàn
huyện ............................................................................................................... 51
Bảng 2.2. Công tác tuyên truyền và huấn luyện nghiệp vụ PCCC trên địa bàn
huyện Đông Anh (2014 – 2018). .................................................................... 61
Bảng 2.3. Hiểu biết của người dân một số địa phương về Luật Phòng cháy và
chữa cháy (Nguồn: Cảnh sát PCCC số 5) ...................................................... 75
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................... Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài luận văn ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài ............................................... 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY ................................................. 9
1.1. Một số vấn đề cơ bản về phòng cháy, chữa cháy .................................. 9
1.1.1. Khái niệm phòng cháy, chữa cháy .......................................................... 9
1.1.2. Nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy ...................................................... 11
1.1.3. Tính chất của hoạt động phòng cháy, chữa cháy .................................. 13
1.1.4. Yêu cầu của công tác phòng cháy, chữa cháy ...................................... 14
1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy ...................................... 18
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ...................... 18
1.2.2.Vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ...................... 21
1.2.3. Nguyên tắc và phương pháp quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa
cháy………………………………………………………………………….25
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ........................ 27
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nƣớc về phòng cháy,
chữa cháy ........................................................................................................ 36
1.3.1. Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng cháy, chữa cháy ......... 36
1.3.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy ......................................................................................................... 37
1.3.3. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác phòng cháy, chữa
cháy…………………………………………………………………………..37
1.3.4. Nguồn lực tài chính và trang bị phương tiện cho lực lượng phòng cháy,
chữa cháy ......................................................................................................... 38
1.3.5. Ý thức xã hội và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện pháp luật về
phòng cháy, chữa cháy ..................................................................................... 38
1.3.6. Các yếu tố về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội .............................. 39
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên thế
giới và một số địa phƣơng ............................................................................ 40
1.4.1. Kinh nghiệm phòng cháy, chữa cháy của một số quốc gia trên thế
giới……… ....................................................................................................... 40
1.4.2. Kinh nghiệm phòng cháy, chữa cháy tại một số địa phương trong
nước…. ....................................................................................................... ….42
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ........... 43
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY,
CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .......................................................................................................... 46
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội .......................................................................................... 46
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
………………………………………………………………...…………46
2.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của địa phương
đến hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy .......................... 48
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy
trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ..................................... 51
2.2.1. Công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh .......... 51
2.2.2. Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội ................................................................................... 55
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên
địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ............................................. 70
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 70
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ................................................ 72
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 80
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 81
3.1. Quan điểm và mục tiêu tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy,
chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới ............................................................................................................ 81
3.1.1. Quan điểm ............................................................................................. 81
3.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 84
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy,
chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới ............................................................................................................ 86
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo huyện, đảng ủy cơ quan
và các đơn vị liên quan đối với công tác phòng cháy, chữa cháy ................... 86
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng
cháy, chữa cháy ............................................................................................... 88
3.2.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng lực lượng làm công
tác quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy .............................................. 88
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về
phòng cháy, chữa cháy .................................................................................... 91
3.2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia hoạt động phòng
cháy, chữa cháy ............................................................................................... 93
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng khoa học công nghệ về phòng
cháy, chữa cháy ............................................................................................... 95
3.2.7. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công tác phòng
cháy, chữa cháy ............................................................................................... 98
3.2.8. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
hành chính trong quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy .................... 100
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 103
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Phòng cháy và chữa cháy là một vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu, là
một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh
tế - xã hội, trên cả nước ngày càng xuất hiện nhiều khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, các khu kinh tế tập trung với quy mô ngày càng lớn,
dây truyền công nghệ ngày càng hiện đại, đắt tiền, khối lượng hàng hóa, vật
tư của các cơ sở tập trung ngày càng nhiều. Tính chất cháy của nhiều thiết bị,
dây truyền công nghệ, vật liệu mới cũng phức tạp và nguy hiểm hơn trước.
Bên cạnh đó, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, nhiều khu dân cư, tổ hợp
nhà cao tầng được xây dựng, nhiều loại vật liệu dễ cháy được sử dụng để xây
dựng các công trình này. Điều đó đồng nghĩa với nguy cơ cháy, nhất là cháy
lớn, cháy gây thiệt hại nghiêm trọng cũng ngày càng gia tăng. Nhiều vụ cháy
đã để lại hậu quả nặng nề cho con người, tác động xấu đến môi trường, ảnh
hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Nhận thức được hậu quả vô cùng nghiêm trọng do cháy gây ra, trong
những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, đoàn thể đã có
nhiều nỗ lực trong công tác thực hiện các hoạt động phòng cháy, chữa cháy:
Chỉ thị 47-CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng cháy, chữa cháy, qua đó
huy động cả hệ thống chính trị tham gia công tác phòng cháy, chữa cháy và
cứu nạn cứu hộ. Chỉ thị cũng nhấn mạnh: “Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng
cao năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa
cháy ở các cấp. Phát huy trách nhiệm của cơ quan quản lý các cấp trong việc
phối hợp với các bộ, ban ngành thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy…”.
1
Trước đó, ngày 29 tháng 6 năm 2001, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã
thông qua Luật PCCC, có hiệu lực thi hành ngày 04/10/2001. Tiếp đó tại kỳ
họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII ngày 22/11/2013 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật PCCC. Các luật khác như Bộ luật Hình sự, Luật
dân sự, Luật Xây dựng,…cũng đều có các quy định về hoạt động phòng cháy,
chữa cháy. Ngoài ra, nhiều thông tư, nghị định về phòng cháy, chữa cháy
cũng được ban hành như: Nghị định 79/2014/NĐ-CP “Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật PCCC”, Thông tư số 66/2014/TT-BCA ngày 16/12/2014 hướng dẫn thi
hành Nghị định79/2014/NĐ-CP, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, chống
tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình,v.v…
Trên cơ sở các quy định pháp luật, các cấp, các ngành ngày càng nhận
thức rõ hơn và thực hiện đầy đủ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách
nhiệm trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC; nhận thức về
công tác PCCC trong cơ quan, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư được nâng
lên. Mặc dù vậy, tình trạng cháy vẫn không hề suy giảm, thậm chí có chiều
hướng gia tăng và ngày càng phức tạp bởi sự đa dạng về hình thức mà nghiêm
trọng về mức độ, điều này gây ra nhiều lo lắng, bức xúc cho người dân và trở
thành dư luận không tốt trong xã hội.
Phòng cháy và chữa cháy không chỉ là hoạt động của các cơ quan nhà
nước mà là trác nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức và của toàn xã hội. Do vậy,
các hoạt động phòng ngừa, giảm thiểu và thực hiện các hoạt động chữa cháy,
xử lý các hành vi vi phạm quy định về PCCC nhất thiết phải có sự quản lý
nhà nước thông qua việc ban hành và thực hiện nghiêm minh luật pháp, các
quy định về phòng cháy, chữa cháy; nhà nước cần có cơ chế theo dõi, thanh
tra, giám sát việc thi hành pháp luật các quy định nói trên. Điều này đòi hỏi
2
các cơ quan quản lý nhà nước về PCCC ở các cấp, từ Trung ương đến cơ sở
phải có trách nhiệm bảo đảm sự ứng phó toàn diện, mang tính phối hợp và
linh hoạt đối với công tác phòng cháy và chữa cháy.
Huyện Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội không nằm ngoài
thực trạng cháy đang có những diễn biến phức tạp, khó lường. Tuy nhiên,
nhiều năm nay, công tác phòng cháy, chữa cháy chưa được cấp lãnh đạo thực
sự quan tâm chỉ đạo, hoạt động quản lý, phối hợp triển khai thực hiện nhiệm
vụ giữa các cơ quan chức năng còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, nhất là khi
gặp các tình huống phức tạp, mới phát sinh; đồng thời, ý thức của tổ chức, cá
nhân về công tác PCCC chưa cao, còn chủ quan, lơ là, không lường hết được
những hậu quả nghiêm trọng khi xảy ra cháy.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, việc nghiên cứu, tổng
kết, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra bài học kinh
nghiệm từ đó đề ra các giải pháp chủ yếu nâng cao hơn nữa hiệu lực quản lý
nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện nhằm đáp ứng đòi hỏi bức thiết của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một yêu cầu tất yếu khách
quan, có ý nghĩa sâu sát cả về lý luận và thực tiễn. Đây không chỉ là nhiệm vụ
cần thiết, cấp bách trước mắt mà còn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững của huyện.
Từ thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công nhằm góp phần đưa ra các giải
pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quản lý nhà nước về PCCC đã được một số tác giả đề cập trong
một số nghiên cứu khoa học như:
- Đề tài khoa học của các tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế
Từ, Kiều Hồng Mai: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động PCCC
3
trong các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay”.Hà Nội, 2004. Đề
tài khoa học đã đánh giá thực trạng hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong
các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay và đưa ra quan điểm, giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong
các cơ sở sản xuất công nghiệp.
- TS. Đào Hữu Dân, năm 2001: “Nghiên cứu chức năng quản lý Nhà
nước trong lĩnh vực PCCC của lực lượng Cảnh sát PCCC trước yêu cầu đòi
hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”.Đề tài khoa học cấp cơ sở đã
hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy của lực lượng Cảnh sát phòng
cháy, chữa cháy, từ đó chỉ ra những yêu cầu, những nội dung mà lực lượng
Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy cần phải làm để thể hiện rõ vai trò, trách
nhiệm của mình nhằm đáp ứng những đòi hỏi trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Giáo trình của tác giả TS. Đào Hữu Dân - Trường Đại học PCCC:
“Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy”- NXB Giao thông vận tải, Hà
Nội-2012. Tác giả đã làm rõ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam trong hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy; tìm hiểu cụ thể về nguyên tắc, tính chất của công tác phòng cháy
chữa cháy, những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị của tác giả Nguyễn Thị Hương
Giang: “Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”.Tác giả đã
đánh giá thực trạngquản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam và đưa ra quan
điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với
dịch vụ phòng cháy, chữa cháy trong các doanh nghiệp này.
4
- Luận văn thạc sĩ Luật hành chính của tác giả Trần Đình Chung:
“Quản lý nhà nước về PCCC từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Đà Nẵng,
năm 2014. Tác giả đã đánh giá thực trạngquản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đưa ra những kiến nghị, giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về phòng cháy, chữa cháy trên cả nước.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Nguyễn Tuấn Sơn: “Quản lý nhà
nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa àn t nh Thừa Thiên uế”, năm
2015. Tác giả đã đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất những phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên
địa bàn tỉnh.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Văn Nam: “Nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy đối với khu phức hợp Royal
City, thành phố Hà Nội”, năm 2015. Tác giả đã đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước về phòng cháy, chữa cháy tại khu phức hợp Royal City, thành phố
Hà Nội và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy tại khu phức hợp này.
- Nguyễn Mạnh Tuấn, luận văn thạc sĩ, năm 2015, “Giải pháp nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy của Ủy ban nhân
dân phường trên địa bàn quận Hoàn Kiếm”. Tác giả đã đánh giá thực trạng
quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy trên địa bàn quận Hoàn Kiếm và
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy của ủy ban nhân dân các phường.
Ngoài ra, trên Tạp chí Khoa học PCCC còn có một số bài viết, bài
nghiên cứu của một số tác giả đề cập đến nội dung quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy.
5
Các công trình nghiên cứu trên đều có liên quan đến đề tài, ở mức độ
nhất định đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của hoạt động quản lý
nhà nước về PCCC trong các cơ sở, đơn vị, địa bàn khác nhau, nhưng chưa có
đề tài nghiên cứu trực tiếp quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu từ các công
trình nghiên cứu khoa học là rất quan trọng để tác giả thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số lý luận quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy; phân tích thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay; luận văn đề
xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn huyện Đông Anh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý
nhà nước về PCCC. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt
động quản lý nhà nước về PCCC.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PCCC, chỉ ra những khó
khăn, hạn chế và phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong các hoạt
động quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về
PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động quản lý nhà nước về PCCC.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước
về phòng cháy chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước
về phòng cháy chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội từ
năm 2014 đến 2018 và định hướng đến 2025.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng cháy chữa cháy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập thông tin, hệ thống văn
bản, tài liệu.
- Phương pháp thực tiễn: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, đối
chiếu.
- Phương pháp xử lý thông tin, số liệu, tài liệu, bảng biểu hóa
- Phương pháp kế thừa, tổng kết kinh nghiệm
6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Đề tài đã hệ thống hóa một số lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước
về PCCC.
- Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về
PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Chỉ ra những kết quả đã
đạt được, hạn chế; nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và những hạn chế,
từ đó làm cơ sở để tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7
- Đề tài đã đề xuất một số giải pháp cụ thể, sát thực và phù hợp với tình
hình thực tiễn nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa
bàn huyện Đông Anh , thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và tư tưởng, quan điểm của Đảng ta về hoạt động quản lý nhà nước
về PCCC, luận văn góp phần làm rõ những luận cứ khoa học về công tác quản
lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời, luận văn đề xuất một số giải pháp có tính khả thi có
thể áp dụng nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa
bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
khoa học và trong quá trình xây dựng kế hoạch quản lý nhà nước về PCCC ở
các cơ quan, đơn vị nói chung, trên địa bàn các quận, huyện nói riêng và cho
những người có nhu cầu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Luận văn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên
địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
1.1. Một số vấn đề cơ bản về phòng cháy, chữa cháy
1.1.1. Khái niệm phòng cháy, chữa cháy
1.1.1.1. Khái niệm cháy
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005,
“cháy” được hiểu là: “Phản ứng ôxy hóa có kèm theo tỏa nhiệt và phát sáng.
Cháy chỉ xảy ra khi có sự kết hợp giữa chất cháy, chất ôxi hóa (thường là ôxi
trong không khí) và nguồn gây cháy. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì không
có cháy” [31]. Trong Tiêu chuẩn Việt Nam 5303:1990 (An toàn cháy - thuật
ngữ và định nghĩa), cũng nêu rõ: “Cháy là phản ứng ôxy hóa, tỏa nhiệt và
phát sáng”. Như vậy, về bản chất, cháy là một phản ứng hóa học giữa các chất
cháy với ôxy của không khí hoặc với một chất ôxy hóa khác kèm theo sự tỏa
nhiệt và phát sáng. Cháy chỉ có thể xảy ra khi có sự kết hợp trong những điều
kiện nhất định giữa chất cháy (hơi, khí, bụi cháy) với chất ôxy hóa có tác
động của nguồn gây cháy. Các yêu tố cần cho sự cháy bao gồm: chất cháy,
nguồn gây cháy và chất ôxy hóa, thiếu một trong ba yếu tố trên thì không có
sự cháy xảy ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào cứ có đủ 3 yếu tố đó là sự cháy
xảy ra mà phải có sự kết hợp các yếu tố trong những điều kiện nhất định. Các
điều kiện gây cháy ở đây có thể là thời gian tiếp xúc, khoảng cách giữa các
chất cháy với nguồn gây cháy; giới hạn nồng độ bốc cháy của chất cháy;
cường độ nguồn gây cháy, nhiệt độ môi trường v.v…Vì vậy, trong lĩnh vực
PCCC phải nghiên cứu các nguyên nhân và điều kiện gây cháy để phục vụ
công tác phòng cháy cũng như dập tắt đám cháy.
9
Việc nghiên cứu xác định bản chất, quy luật hình thành sự cháy có ý nghĩa
quan trọng không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học PCCC mà còn có ý
nghĩa tích cực trong quản lý nhà nước về PCCC. Tuy nhiên giữa nghiên cứu
khoa học PCCC với quản lý nhà nước về PCCC không đồng nhất với nhau về
khái niệm “cháy”. Theo khoản 1 Điều 3 Luật PCCC, cháy được hiểu là: “Trường
hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và
ảnh hưởng môi trường”. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật PCCC là phạm
vi quản lý nhà nước về PCCC không tác động đến mọi trường hợp gây cháy nói
chung mà chỉ giới hạn trong trường hợp cháy xảy ra nhưng không kiểm soát
được (đám cháy). Quan niệm về cháy như vậy là tiền đề để xem xét các hoạt
động của con người trong phòng ngừa cháy cũng như trong hoạt động chữa cháy
và các hoạt động khác có liên quan đến công tác PCCC.
1.1.1.2. Khái niệm phòng cháy
Theo Tiêu chuẩn Việt Nam 5303:1990 (An toàn cháy, thuật ngữ và
định nghĩa) đã nêu rõ: “An toàn cháy là tình trạng hoặc tính chất của các sản
phẩm, các phương pháp, phương tiện sản xuất và các khu vực đảm bảo loại
trừ được khả năng phát sinh cháy và hạn chế được hậu quả khi cháy xảy ra
nhờ các biện pháp tổ chức, các giải pháp kỹ thuật và công nghệ”. Hoạt động
đó có thể là sự tác động tích cực từ phía Nhà nước (bằng việc ban hành các
quy định bảo đảm yêu cầu phòng cháy; tổ chức công tác kiểm tra, tuyên
truyền, xử lý vi phạm…) và sự tự giác thực hiện của cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân và của toàn xã hội. Theo đó, trên quan điểm phòng ngừa tích
cực, phòng ngừa chủ động, có thể chỉ ra rằng: Phòng cháy là hệ thống các
iện pháp, giải pháp về tổ chức, kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn chế các điều
kiện và nguyên nhân gây cháy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cứu người,
cứu tài sản, chống cháy lan khi xảy ra cháy và cho việc tổ chức dập tắt đám
cháy [17, tr.34].
10
1.1.1.3. Khái niệm chữa cháy
Từ sự cháy (trong phạm vi kiểm soát) phát sinh và phát triển thành đám
cháy là một quá trình có thể do nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó có những nguyên nhân do sơ xuất bất cẩn hoặc ngoài sự kiểm soát của con
người đã và sẽ tiếp tục tồn tại, gây nên những đám cháy có thể gây tổn hại lớn
về người và tài sản. Vì vậy, việc phòng ngừa cháy phải đi đôi với chữa cháy,
hoạt động chữa cháy tồn tại như là một tất yếu trong các hoạt động chung của
xã hội. Điều 3 Luật PCCC năm 2001, quy định: “Chữa cháy ao gồm các
công việc huy động, triển khai lực lượng, phương tiện chữa cháy, cắt điện, tổ
chức thoát nạn, cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan, dập tắt đám cháy và
các hoạt động khác có liên quan đến chữa cháy”.
Hoạt động phòng cháy và hoạt động chữa cháy tuy là hai khái niệm có
nội hàm khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một thể
thống nhất trong chủ động phòng ngừa cháy và sẵn sàng dập tắt đám cháy. Vì
vậy, trong cuốn Giáo trình Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy đã
khái quát như sau: Phòng cháy chữa cháy là tổng hợp các iện pháp, giải
pháp về tổ chức, chiến thuật và kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn chế nguyên
nhân, điều kiện gây cháy; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động cứu
người, cứu tài sản, chống cháy lan và chữa cháy kịp thời, có hiệu quả khi có
cháy xảy ra [30, tr.30].
1.1.2. Nguyên tắc phòng cháy, chữa cháy
Đúc rút từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn, Luật PCCC năm 2001
đã rút ra 4 nguyên tắc của hoạt động phòng cháy, chữa cháy như sau:
Một là, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Phòng cháy, chữa
cháy là hoạt động mang tính chất xã hội rộng lớn, vì vậy phải coi đây là sự
nghiệp của toàn dân, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, cơ
sở, hộ gia đình và mỗi cá nhân, có như vậy công tác phòng cháy, chữa cháy
11
mới đạt được hiệu quả cao. Phải tổ chức phát động thành phong trào để dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mọi hoạt động phòng cháy, chữa cháy.
Hai là, trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy lấy phòng ngừa là
chính, phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các
vụ cháy xảy ra và thiệt hai do cháy gây ra.
Phòng cháy và chữa cháy là hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau,
chúng luôn có mối quan hệ mật thiết trong hoạt động phòng cháy và chữa
cháy, công tác phòng ngừa đi trước, phải tổ chức công tác phòng ngừa triệt
để, hiệu quả để làm giảm đến mức thấp nhất số vụ cháy xảy ra.
Ba là, phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các
điều kiện khác để khi có xảy ra cháy thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả.
Trong công tác phòng cháy và chữa cháy luôn phải coi phòng ngừa là
chính nhưng không vì thế mà coi nhẹ công tác chữa cháy, bởi vì cháy xảy ra
do nhiều nguyên nhân khác nhau cho nên dù có là tốt công tác phòng ngừa
đến đâu cũng vẫn có thể xảy ra cháy. Do vậy phải chuẩn bị sẵn sàng để chữa
cháy kịp thời và có hiệu quả.
Bốn là, mỗi hoạt động phòng cháy, chữa cháy trước hết phải được thực
hiện và giải quyết bằng phương tiện và lực lượng tại chỗ.
Thông thường, khi đám cháy mới xảy ra thường là cháy nhỏ nếu
được phát hiện kịp thời và có lực lượng phương tiện tại chỗ thì việc dập tắt
đám cháy rất nhanh và đơn giản, nhưng nếu không phát hiện kịp thời thì
đám cháy sẽ phát triển rất lớn, việc tổ chức chữa cháy sẽ rất khó khăn,
phức tạp và dẫn đến thiệt hại rất nghiêm trọng. Do đó, cần phải chủ động
chuẩn bị lực lượng và phương tiện tại chỗ trong đó mỗi cơ quan, tổ chức,
cơ sở, khu dân cư phải thành lập lực lượng dân phòng và lực lượng phòng
cháy, chữa cháy để làm lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân tham
gia phòng cháy, chữa cháy.
12
1.1.3. Tính chất của hoạt động phòng cháy, chữa cháy
Tính chất cơ bản của hoạt động phòng cháy, chữa cháy được thể hiện:
Một là, tính quần chúng. Tính chất này xuất phát từ thực tế là cháy có
thể xảy ra ở bất cứ đâu và bất cứ thời gian nào có khi có đủ điều kiện phát
sinh trong khi đó nguyên nhân gây cháy chủ yếu do sự bất cẩn của con người
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong sinh hoạt gây ra. Mặt khác, việc
phát hiện cứu chữa các vụ cháy trên chủ yếu do cá nhân và các thành viên tại
cơ sở xảy ra cháy thực hiện.
Trong hoạt động hàng ngày tại nơi làm việc và nơi cơ trú thường xuyên
tồn tại lửa, các thiết bị sinh lửa, sinh nhiệt và các loại chất cháy như vậy ở đâu
cũng có đủ các điều kiện gây cháy. Theo thống kê cho thấy nguyên nhân gây
cháy chủ yếu do con người thiếu ý thức hoặc kiến thức gây ra, nhưng cũng chính
con người lại phát hiện cháy và tổ chức chữa cháy. Do đó công tác phòng cháy
và chữa cháy mang tính chất quần chúng rất sâu sắc và tính xã hội cao.
Hai là, tính pháp chế. Hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật về phòng cháy, chữa cháy đang ngày càng được hoàn thiện cho phù hợp
với tình hình phát triển của xã hội như ban hành Luật Phòng cháy, chữa cháy
năm 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy, chữa cháy
năm 2013 và nhiều các thông tư, nghị định có liên quan. Tính chất pháp chế
trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy thể hiện những hoạt động trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội có liên quan đến phòng cháy và chữa cháy phải
triệt để tuân thủ những quy định trong pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.
Các tổ chức, cơ quan, hộ gia đình và cá nhân trong hoạt động của mình bắt
buộc phải chấp hành đầy đủ và thường xuyên những quy định của pháp luật
về phòng cháy chữa cháy thì mới đem lại hiệu quả.
Để ngăn ngừa cháy xảy ra, đòi hỏi mọi cơ quan tổ chức hộ gia đình và
các cá nhân phải chấp hành triệt để các quy định về an toàn phòng cháy, chữa
13
cháy, phải xác định việc phòng cháy và chữa cháy là trách nhiệm của chính
mình, nhưng trong thực tiễn thì ý thức phòng cháy, chữa cháy của nhiều
người còn chưa cao. Do đó song song với các biện pháp tuyên truyền, vận
động giáo dục, thuyết phục phải thực hiện phương pháp cưỡng chế để bắt
buộc mọi người phải tuân thủ các văn bản quy định pháp luật về phòng cháy,
chữa cháy.
Ba là, tính khoa học. Hoạt động phòng cháy và chữa cháy là hoạt động
mang tính khoa học kỹ thuật. Tính chất khoa học kỹ thuật xuất phát từ việc
xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp, biện pháp về phòng cháy, chữa
cháy phải dựa trên cơ sở nghiên cứu bản chất, các quy trình phát sinh, phát
triển và dập tắt đám cháy. Các biện pháp phòng ngừa và chống cháy lan cũng
như biện pháp chữa cháy và điều kiện đảm bảo việc thực hiện phải dự trên cơ
sở tính khoa học, không thể tùy tiện.
Bản chất của sự cháy là phản ứng hóa học kèm theo tỏa nhiệt và phát ra
ánh sáng. Để sự cháy không biến thành đám cháy gây thiệt hại cho con người
và để dập tắt đám cháy cần phải áp dụng bộ môn khoa học tự nhiên và xã hội .
Bốn là, tính chiến đấu. Cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Để chữa cháy
kịp thời và có hiệu quả phải tổ chức việc thường trực sẵn sằng chữa cháy
24/24 giờ với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao.
Trong việc chữa cháy rất nguy hiểm, vì các công trình có thể sụp đổ,
đám cháy có nhiệt độ cao, khói độc, đôi khi còn có nhiều chất nổ, chất độc do
đó đòi hỏi người chữa cháy phải mưu trí, dũng cảm, có kỹ thuật cao, nghiêm
chỉnh chấp hành mệnh lệnh chỉ huy, có kỹ thuật thành thạo, áp dụng chiến
thuật chữa cháy đúng đắn, linh hoạt.
1.1.4. Yêu cầu của công tác phòng cháy, chữa cháy
Đối với từng đối tượng khác nhau mà đưa ra từng yêu cầu cụ thể để
đảm bảo cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy đạt hiệu quả:
14
1.1.4.1. Những yêu cầu phòng cháy, chữa cháy đối với cơ sở sản xuất,
kinh doanh
Theo quy định tại Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001, cơ sở được
bố trí trên một phạm vi nhất định, có người quản lý, hoạt động và cần thiết có
phương án phòng cháy và chữa cháy độc lập phải thực hiện các yêu cầu cơ
bản sau đây:
- Có quy định, nội quy về an toàn phòng cháy và chữa cháy;
- Có các biện pháp về phòng cháy;
- Có hệ thống báo cháy, chữa cháy, ngăn cháy phù hợp với tính chất
hoạt động của cơ sở;
- Có lực lượng, phương tiện và các điều kiện khác đáp ứng yêu cầu về
phòng cháy và chữa cháy;
- Có phương án chữa cháy, thoát nạn, cứu người, cứu tài sản và chống
cháy lan;
- Bố trí kinh phí cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy;
- Có hồ sơ theo dõi, quản lý hoạt động phòng cháy và chữa cháy.
Theo Khoản 1 Điều 7 Nghị định 79/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật
Phòng cháy và chữa cháy và Luật Phòng cháy và chữa cháy sửa đổi thì các cơ
sở phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Có quy định, nội quy, biển cấm, biển báo, sơ đồ hoặc biển chỉ dẫn về
phòng cháy và chữa cháy, thoát nạn phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt
động của cơ sở.
- Có quy định và phân công chức trách, nhiệm vụ phòng cháy và chữa
cháy trong cơ sở.
- Hệ thống điện, chống sét, chống tĩnh điện; thiết bị sử dụng điện, sinh
lửa, sinh nhiệt; việc sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt phải bảo đảm an toàn về
phòng cháy và chữa cháy.
15
- Có quy trình kỹ thuật an toàn về phòng cháy và chữa cháy phù hợp
với điều kiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Có lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở, chuyên ngành được
huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy và tổ chức thường trực sẵn
sàng chữa cháy đáp ứng yêu cầu chữa cháy tại chỗ.
- Có phương án chữa cháy, thoát nạn đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định tại Điều 21 Nghị định này.
- Có hệ thống giao thông, cấp nước, thông tin liên lạc phục vụ chữa
cháy, hệ thống báo cháy, chữa cháy, ngăn cháy, phương tiện phòng cháy và
chữa cháy khác, phương tiện cứu người phù hợp với tính chất, đặc điểm của
cơ sở bảo đảm về số lượng, chất lượng và hoạt động phù hợp với tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về phòng cháy và chữa cháy hoặc theo quy định của Bộ
Công an.
- Có văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy và chữa
cháy của cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy đối với công trình quy
định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định này.
1.1.4.2. Những yêu cầu phòng cháy, chữa cháy đối với tòa nhà cao
tầng, chung cư
Để đảm bảo thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy an toàn, có hiệu
quả thì các toàn nhà cao tầng và chung cư cần đảm bảo các yêu cầu như sau:
Thứ nhất, phải có hệ thống báo cháy tự động. Tòa nhà từ 05 tầng trở
lên phải trang bị hệ thống báo cháy tự động. Hệ thống này phải đảm bảo các
yêu cầu sau: Phát hiện cháy nhanh, chuyển tín hiệu rõ ràng và đảm bảo độ tin
cậy. Trường hợp hệ thống báo cháy tự động có liên kết với hệ thống chữa
cháy thì ngoài chức năng báo cháy còn phải điều khiển hệ thống chữa cháy
hoạt động ngay để kịp thời dập tắt đám cháy.
16
Hai là, cứ 50 – 150m2 phải có 1 bình chữa cháy. Tất cả các khu vực
trong tòa nhà có nguy hiểm về cháy, kể cả những nơi đã được trang bị hệ
thống chữa cháy đều phải trang bị bình chữa cháy xách tay hoặc bình chữa
cháy có bánh xe. Bình phải được bố trí ở vị trí thiết kế, không để bình tập
trung ở một chỗ.
Ba là, cửa thoát hiểm phải luôn đóng kín. Cửa của các lối ra thoát nạn
từ các hành lang tầng, không gian chung, phòng chờ, sảnh và buồng thang bộ
phải không có chốt khóa để có thể mở được cửa tự do từ bên trong mà không
cần chìa. Với các tòa nhà có chiều cao lớn hơn 15m, các cánh cửa này phải là
cửa đặc hoặc với kính cường lực.
Đối với các buồng thang bộ, cửa ra vào phải có cơ cấu tự đóng và khe
cửa phải được chèn kín. Các cửa trong buồng thang bộ mở trực tiếp ra ngoài
không có cơ cấu tự đóng và không cần chèn kín khe cửa.
Bốn là, có 1 - 2 họng nước tại mỗi điểm trong nhà. Các tòa chung cư
phải bố trí từ 01 – 02 họng nước chữa cháy cho mỗi điểm bên trong nhà với
lượng nước tính cho mỗi họng là 2,5 lít/giây.
Các họng chữa cháy bên trong tòa nhà phải bố trí cạnh lối ra vào, trên
chiếu nghỉ buồng thang, ở sảnh, hành lang và những nơi dễ thấy, dễ sử dụng.
Tâm của họng chữa cháy phải đặt ở độ cao 1,25m so với mặt sàn; Mỗi họng
chữa cháy trong tòa nhà phải có đặt van khóa, lăng phun nước và cuộn vòi
mềm có đủ độ dài theo tính toán. (Theo Tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN
2622:1995).
Năm là,có ít nhất 02 lối ra thoát nạn. Trong các nhà cao tầng phải có ít
nhất 02 lối ra thoát nạn để đảm bảo cho người thoát nạn an toàn khi có cháy,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng chữa cháy hoạt động.
Trong các nhà cao tầng có diện tích mỗi tầng lớn hơn 300m2 thì hành
lang chung hoặc lối đi phải có ít nhất hai lối thoát ra hai cầu thang thoát nạn.
17
Cho phép thiết kế một cầu thang thoát nạn ở một phía, còn phía kia phải thiết
kế ban công nối với thang thoát nạn bên ngoài nếu diện tích mỗi tầng nhỏ hơn
300m2.(Theo Tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN 6160:1996).
1.1.4.3. Những yêu cầu phòng cháy, chữa cháy đối với phương tiện
giao thông cơ giới
Điều 10 Nghị định 79/2014/NĐ-CP quy định cụ thể như sau:
Một là, phương tiện giao thông cơ giới từ 4 chỗ ngồi trở lên, phương
tiện giao thông cơ giới vận chuyển chất, hàng hóa nguy hiểm về cháy phải
bảo đảm và duy trì các điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy.
Hai là, phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm
an toàn phòng cháy và chữa cháy gồm tàu thủy, tàu hỏa chuyên dùng để vận
chuyển hành khách, vận chuyển xăng, dầu, chất lỏng dễ cháy, khí cháy, vật
liệu nổ, hóa chất có nguy hiểm về cháy phải bảo đảm và duy trì các điều kiện
an toàn về phòng cháy và chữa cháy.
Ba là, phương tiện giao thông cơ giới khi vận chuyển các chất, hàng
nguy hiểm về cháy trên đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ phải có giấy
phép vận chuyển chất, hàng nguy hiểm về cháy do cơ quan Cảnh sát phòng
cháy và chữa cháy cấp theo quy định của pháp luật về vận chuyển hàng hóa
nguy hiểm, trên đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ (trừ các trường hợp
thuộc thẩm quyền của Bộ Quốc phòng).
Bốn là, chủ sở hữu, người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao
thông phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy trong
suốt quá trình hoạt động của phương tiện.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
Khái niệm quản lý
18
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các
cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực
hiện mục tiêu chung của tổ chức. Quản lý có nhiều cách định nghĩa, cách hiểu
khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu, tiếp cận. Tuy nhiên, theo
Từ điển Tiếng Việt, quản lý được hiểu là “trông nom, coi giữ” là “1. Trông
coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, 2. Tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
Theo Giáo trình Quản lý học đại cương của Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu dự kiến”. [13, tr.9]
Khái niệm quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy
Về quản lý nhà nước, khái niệm này thường được hiểu theo nghĩa hẹp
là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ
chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với các
quá trình xã hội và hành vi của con người, do các cơ quan trong hệ thống
hành chính từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu,
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Từ những nội dung nêu trên có thể rút
ra một số điểm chú ý sau: Một là, quản lý hành chính nhà nước có tư cách là
quyền lực nhà nước hay còn gọi là quyền hành pháp trong hành động; Hai là,
quản lý hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực hiện hàng ngày, tổ
chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân
bằng việc ra các quyết định quản lý hành chính mang tính quy phạm hay tính
cá biệt và tiến hành các hành vi quản lý cụ thể; Ba là, quản lý hành chính nhà
nước được thực hiện bởi hệ thống pháp nhân công quyền - thiết chế tổ chức
hành chính nhà nước.
19
Từ những phân tích kể trên, khái niệm quản lý nhà nước về PCCC ở
luận văn này được hiểu: “Quản lý nhà nước về PCCC là sự tác động có tổ
chức của các cơ quan nhà nước, ằng pháp luật do nhà nước an hành, tác
động tới hoạt động PCCC trong các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
của các chủ thể có thẩm quyền, hướng tới mục đích ngăn ngừa, hạn chế đến
mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra góp phần ảo vệ
tính mạng, ảo vệ tài sản của nhà nước, của tổ chức và cá nhân, ảo vệ môi
trường, ảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội” [10]. Đó là một bộ phận
trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Quản lý
nhà nước về phòng cháy, chữa cháy mang ý nghĩa chính là quản lý việc thực
hiện luật pháp, chính sách và các chương trình của Nhà nước liên quan đến
phòng cháy và chữa cháy.
Căn cứ vào Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001, cơ quan quản lý
nhà nước về phòng cháy, chữa cháy được tổ chức như sau [15]:
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
trong phạm vi cả nước.
+ Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về phòng cháy và chữa cháy.
+ Các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an tổ
chức thực hiện các quy định về phòng cháy và chữa cháy.
+ Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy
tại địa phương.
Đối tượng quản lý nhà nước về PCCC gồm có các cơ quan, tổ chức, hộ
gia đình và từng cá nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật về phòng cháy,
chữa cháy, cụ thể:
20
+ Các cơ quan, tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
viên thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên
và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng cháy, chữa cháy; kiến
nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực
hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; tham gia hoạt động phòng cháy,
chữa cháy, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân và tài sản khi xảy ra cháy và
tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy.
+ Hộ gia đình: Có trách nhiệm giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình
thực hiện pháp luật liên quan đến hoạt động phòng cháy, chữa cháy; phối hợp
với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng cháy, chữa cháy và
thực hiện các biện pháp khác về PCCC.
+ Cá nhân: Có trách nhiệm chấp hành pháp luật về PCCC, tham gia vào
đội dân phòng, đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở khi được yêu cầu; thông
báo kịp thời cho những người xung quanh và cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền khi phát hiện cháy.
1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
1.2.2.1. Góp phần định hướng công tác phòng cháy, chữa cháy
Thực tiễn những năm gần đây, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
vừa qua cho thấy, thông qua việc mở rộng quan hệ quốc tế, chúng ta đã tiếp
thu được nhiều thành tựu khoa học công nghệ của nhân loại, nhiều nhà máy,
xí nghiệp mọc lên khiến hàng hóa ngày càng đa dạng, giúp người dân nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần. Nhưng mặt khác, cũng trong quá trình mở
cửa hội nhập luôn tiềm ẩn nguy cơ về an ninh, trật tự an toàn xã hội. Việc
phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu của xã hội là rất cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải hạn chế
được rủi ro, khủng hoảng, những tác động xấu tới đời sống người dân. Như
vậy, công tác phòng cháy, chữa cháy là một phần trong hoạt động đảm bảo
21
trật tự, an toàn xã hội, góp phần thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
khai thác tối đa mọi tiềm năng, đảm bảo cuộc sống cho người dân.
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền đã có
những nỗ lực to lớn trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn cháy, giải quyết có
hiệu quả và hạn chế thấp nhất thiệt hại do các vụ cháy xảy ra, chúng ta cũng
đã có một khung pháp lý để giúp các cơ quan quản lý nhà nước xử lý những
hành vi vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Hoạt động quản lý
nhà nước về phòng cháy, chữa cháy có vai trò hết sức quan trọng đối với việc
định hướng về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn cấp huyện.
Thứ nhất, giúp phát huy tối đa tính hiệu quả, hiệu lực của việc triển
khai thi hành Luật Phòng cháy, chữa cháy và các văn bản quy phạm pháp luật
về phòng cháy, chữa cháy, đảm bảo quyền lực của nhà nước được thực thi
nghiêm túc, công bằng, xã hội văn minh, trật tự.
Thứ hai, quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy thúc đẩy việc
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức,
của từng gia đình và mỗi cá nhân đối với việc triển khai thi hành Luật Phòng
cháy, chữa cháy, từ đó góp phần xây dựng ý thức cảnh giác của mỗi cá nhân,
cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.
Thứ ba, đảm bảo thống nhất hoạt động quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy từ trung ương đến các cấp tỉnh, huyện, xã; đảm bảo sự tham
gia tích cực của các cơ quan có liên quan nhằm góp phần thực hiện có hiệu
quả các công tác về phòng cháy, chữa cháy.
1.2.2.2. Góp phần huy động và phối hợp các lực lượng tham gia công
tác phòng cháy, chữa cháy
Ủy ban nhân dân các cấp với sự tham mưu tích cực của lực lượng Cảnh
sát phòng cháy, chữa cháy đã ban hành các chương trình hành động, các kế
hoạch hoạt động theo từng năm và kế hoạch phối hợp với các ngành liên
22
quan. Sự tích cực, chủ động của cơ quan chủ quản, đã góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ sự tham gia, vào cuộc của các cấp, các ngành, các cơ quan chức
năng. Hàng năm, lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy đã xây dựng và
thực hiện nhiều kế hoạch triển khai các hoạt động phòng cháy, chữa cháy theo
chức năng, nhiệm vụ của mình. Đối với cấp ủy các cấp, hoạt động phòng
cháy, chữa cháy đã được cụ thể hóa trong các nghị quyết của cấp ủy và kế
hoạch hoạt động hàng năm nhằm thực hiện tốt công tác chỉ đạo về phòng
cháy, chữa cháy của địa phương.
Hoạt động phòng cháy, chữa cháy cũng được các tổ chức phi chính phủ
quan tâm, hỗ trợ mọi nguồn lực để triển khai thực hiện. Sự tham gia của các
tổ chức phi chính phủ trong việc triển khai các hoạt động truyền thông nhằm
nâng cao nhận thức về phòng cháy, chữa cháy đã góp phần thay đổi nhận
thức, hành vi của các tổ chức, cá nhân trong công tác phòng cháy, chữa cháy
ở mỗi địa phương.
Công tác phòng cháy, chữa cháy đã huy động được sự tham gia tích
cực của các tổ chức, đoàn thể và đã hình thành được mạng lưới tại cộng đồng
sẵn sàng ứng phó khi có cháy xảy ra. Trước hết, phải kể đến vai trò quan
trọng của lực lượng chữa cháy tại chỗ, bởi họ là những người trực tiếp làm
việc tại các cơ sở, nơi cư trú do đó các thành viên Đội phòng cháy, chữa cháy
cơ sở sẽ hiểu vể mức độ nguy hiểm cháy tại nơi ở, nơi làm việc, nơi sản xuất,
kho tàng; họ được trang bị những kiến thức cơ bản về phòng cháy, chữa cháy
nên có hiểu biết để tham mưu cho UBND cấp xã, người đứng đầu cơ sở về
các biện pháp phòng cháy, chữa cháy như đề xuất việc ban hành các nội quy,
quy định về các biện pháp phòng cháy, chữa cháy. Tiếp đến là vai trò các cơ
quan thông tin đại chúng đã quan tâm, dành nhiều thời lượng tuyên truyền về
pháp luật và kiến thức PCCC với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, nội
dung sâu sắc, thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân. Hơn nữa là
23
vai trò của lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, những người được trang
bị kiến thức và phương tiện hiện đại để tham gia công tác phòng cháy, chữa
cháy: thực hiện các chương trình tập huấn về phòng cháy, chữa cháy, hướng dẫn
cách xử lý khi có cháy xảy ra cho người dân và trực tiếp tham gia và công tác
chữa cháy, cứu hộ cứu nạn, đặc biệt là khi có các vụ cháy lớn xảy ra.
Nhìn chung hoạt động quản lý nhà nước đã đóng vai trò quan trọng
trong việc huy động sự tham gia của các lực lượng vào công tác phòng cháy,
chữa cháy, góp phần thực hiện hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy ở mỗi địa phương.
1.2.2.3. Góp phần hạn chế thiệt hại do cháy gây ra, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội
Trong bối cảnh hiện nay, trước những phát triển chung của nền kinh tế
và mục tiêu bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ
phát triển đất nước, đã đặt ra thách thức lớn trong việc duy trì, phát triển sản
xuất bền vững, đòi hỏi công tác PCCC phải được thực hiện triệt để, rộng
khắp; góp phần bảo vệ thành quả sản xuất và đời sống nhân dân, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống pháp
luật về PCCC luôn được Ðảng, Nhà nước điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ
xây dựng và phát triển đất nước giúp các tổ chức, cá nhân nắm rõ trách nhiệm
của mình trong công tác phòng cháy, chữa cháy, nâng cao tính cảnh giác, tích
cực phòng ngừa, ngăn chặn góp phần làm hạn chế tình trạng cháy xảy ra.
Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy được thực hiện tốt là góp
phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bởi khi xảy ra
tình trạng cháy thì toàn xã hội phải vào cuộc để giải quyết hậu quả của nó.
Do vậy, thực hiện có hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy sẽ đóng vai trò không nhỏ trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội.
24
1.2.3. Nguyên tắc và phương pháp quản lý nhà nước về phòng cháy,
chữa cháy
1.2.3.1. Nguyên tắc
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan
trọng của con người; là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của
nhà nước [10, tr.66].
Nguyên tắc quản lý nhà nước là các quy tắc, những tư tưởng chỉ đạo
đòi hỏi các chủ thể của quản lý nhà nước phải tuân thủ trong tổ chức và hoạt
động quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước về PCCC phải tuân thủ những nguyên tắc chung của
quản lý hành chính nhà nước, đó là các nguyên tắc:
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo;
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng với quản lý theo địa
phương;
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng
và phối hợp quản lý liên ngành;
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm của hoạt động phòng cháy, chữa
cháy, Luật PCCC đã đề ra các nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động quản lý
nhà nước về PCCC. Đó là:
Thứ nhất, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt
động phòng cháy, chữa cháy.
Thứ hai, trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy lấy phòng ngừa là
25
chính; phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các
vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra.
Thứ a, phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và
các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả.
Thứ tư, mọi hoạt động phòng cháy, chữa cháy trước hết phải được thực
hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ.
Các nguyên tắc trên là cơ sở và định hướng của các quyết định quản lý;
xác định những vấn đề có tính chiến lược trong công tác PCCC; đồng thời là
cơ sở cho công tác tổ chức chỉ đạo, điều hành các mặt công tác cụ thể về
PCCC nhằm bảo đảm an toàn phòng chống cháy trên cấp độ toàn xã hội cũng
như trong từng cơ sở, khu dân cư và trong mỗi hộ gia đình.
Đối với lực lượng Cảnh sát PCCC, việc áp dụng các nguyên tắc trên có
ý nghĩa quyết định đến thành công trong công tác quản lý nhà nước về PCCC.
Vì vậy phải được quán triệt trên tất cả các mặt công tác từ tham mưu,
tuyên truyền, xây dựng phong trào, xây dựng lực lượng PCCC tại chỗ, kiểm
tra, xử lý vi phạm đến việc tổ chức chữa cháy, cứu nạn cứu hộ và xây dựng
lực lượng Cảnh sát PCCC chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
1.2.3.2. Phương pháp
Phương pháp quản lý nhà nước về PCCC là cách thức tác động của chủ
thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích quản lý đặt ra
[10, tr.96].
Các phương pháp quản lý nhà nước về phòng cháy bao gồm:
- Phương pháp thuyết phục
Phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần
thiết và tự giác thực hiện các quy định về PCCC.
- Phương pháp cưỡng chế
Phương pháp cưỡng chế là sử dụng những quy định bắt buộc đơn
phương đối với đối tượng quản lý.
26
Phương pháp cưỡng chế giữ vai trò quan trọng trong quản lý hành
chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về PCCC nói riêng, nhằm bảo
đảm tính nghiêm minh trong việc tuân thủ pháp luật.
- Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý bằng cách ra các chỉ
thị, mệnh lệnh từ trên xuống. Tức là chủ thể quản lý ra những quyết định bắt
buộc đối với đối tượng quản lý.
Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý là rất to lớn, nó xác
lập trật tự, kỷ cương quản lý, đồng thời là khâu nối các phương pháp quản lý
khác và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý một cách nhanh chóng, góp
phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC.
- Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là cách tác động gián tiếp đến hành vi của các cá
nhân hoặc tổ chức thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động
đến lợi ích của con người. Sử dụng phương pháp kinh tế nhằm khuyến khích
vật chất, phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, hoạch toán kinh tế,
thưởng, phạt v.v…
Trong các phương pháp trên, phương pháp thuyết phục được đặt lên
hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Phương pháp cưỡng
chế là quan trọng; phương pháp kinh tế là biện pháp cơ bản, là động lực thúc
đẩy hoạt động quản lý; phương pháp hành chính là rất cần thiết nhưng phải
được sử dụng một cách đúng đắn. Tuy nhiên, việc áp dụng các phương pháp
phải chú ý đến sự tác động lẫn nhau và tính đồng bộ cũng như ưu thế của từng
phương pháp để phát huy hiệu quả quản lý cao nhất.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
Nội dung quản lý nhà nước về PCCC là việc xác định các mặt hoạt
động PCCC được đặt dưới sự quản lý, điều chỉnh của Nhà nước. Theo điều 57
27
Luật PCCC thì nội dung quản lý nhà nước về PCCC được thể hiện trên các
lĩnh vực sau [10, tr.69]:
1.2.4.1. Xây dựng và ch đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch về phòng cháy, chữa cháy
Trên cơ sở những quy định của Luật Phòng cháy và chữa cháy, chiến
lược quốc gia về phòng cháy, chữa cháy đến năm 2020 tập trung vào những
nội dung chủ yếu như sau:
Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý:
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý cấp Trung ương tập trung
vào việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy Đảng,
chính quyền đối với công tác phòng cháy, chữa cháy. Qua đó, nâng cao năng
lực quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng
cháy, chữa cháy; củng cố hệ thống tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ làm công tác phòng cháy, chữa cháy ở các cấp; thường xuyên kiểm tra,
đánh giá tình hình thực hiện pháp luật, chính sách về phòng cháy, chữa cháy;
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm về phòng cháy, chữa cháy theo quy định
của pháp luật; tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành, kiểm tra theo chuyên đề
về phòng cháy, chữa cháy; đưa mục tiêu về phòng cháy, chữa cháy vào kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm ở cấp trung ương và địa phương;
xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành phù hợp trong công tác
phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu việc hình thành mạng lưới cộng tác viên,
tình nguyện viên phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu chuyển các mô hình
hoạt động có hiệu quả thành nhiệm vụ thường xuyên.
Hai là, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về phòng cháy,
chữa cháy:
Hàng năm, tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền thông, vận động về
phòng cháy, chữa cháy. Xây dựng và vận hành trang thông tin điện tử, tờ tin
28
về phòng cháy, chữa cháy. Tổ chức các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận
động về cách sinh hoạt, bố trí vật dụng dễ cháy xa nguồn nhiệt; trách nhiệm
của các thành viên gia đình trong thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật về phòng cháy, chữa cháy. Nghiên cứu đưa các nội dung về phòng cháy,
chữa cháy, cách thoát hiểm khi xảy ra sự cố cháy vào các chương trình đào
tạo về xã hội học, về kỹ năng sống ở các bậc học.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng cháy, chữa cháy
vừa là nội dung đồng thời là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong công tác
phòng cháy, chữa cháy, làm cho mọi người dân và người đứng đầu cơ quan tổ
chức hiểu và tự giác thực hiện. Cần phải xác định rõ trách nhiệm trong công
tác tuyên truyền, nội dung tuyên truyền, đối tượng tuyên truyền như là những
quy định bắt buộc, đồng thời khuyến khích các tổ chức chính trị tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức về phòng cháy chữa cháy cho toàn xã hội.
Ba là, can thiệp, xử lý vi phạm về phòng cháy, chữa cháy:
Can thiệp và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quy đinh về phòng
cháy chữa cháy. Tuyệt đối không cấp chứng nhận hoạt động đối với các cơ sở
chưa đảm bảo an toàn về cháy, thậm chí đình chỉ hoạt động đối với những cơ
quan, tổ chức cố tình hoạt động khi chưa đảm bảo ản toàn cháy; vi phạm các
quy định về phòng cháy, chữa cháy gây hậu quả nghiêm trọng.
Bốn là, xã hội hóa công tác phòng cháy, chữa cháy:
Xã hội hóa công tác phòng cháy, chữa cháy nhằm khuyến khích các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng tham gia phòng cháy, chữa
cháy. Hoạt động này tạo mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ
chức, cá nhân và toàn xã hội cùng chung tay thực hiện tốt công tác phòng
cháy, chữa cháy. Xã hội hóa công tác phòng cháy, chữa cháy để thu hút
nhiều nguồn lực hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các nạn nhân
khi xảy ra cháy.
29
Năm là, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế:
Công tác nghiên cứu, ứng dụng và phổ biến tiến bộ khoa học và công
nghệ về PCCC là yêu cầu cấp thiết nhằm chống tụt hậu và từng bước theo kịp
kỹ thuật tiến tiến về PCCC của các nước thế giới.
Cấp Trung ương thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học về
phòng cháy, chữa cháy nhằm kịp thời bổ sung, điều chỉnh những bất cập của
hệ thống pháp luật về phòng cháy, chữa cháy trong quá trình triển khai thực
hiện. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm vận động nguồn lực hỗ trợ
cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn toàn quốc.
1.2.4.2. Ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn ản quy
phạm pháp luật và văn ản quy phạm kỹ thuật về phòng cháy, chữa cháy
Quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy để thực thi quyền lực
nhà nước thông qua các văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật. Đó là sự
tác động chủ yếu bằng pháp luật của các chủ thể quản lý nhà nước nhằm thực
hiện các chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy đạt hiệu quả.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, Luật Phòng cháy chữa cháy
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày
29/06/2001. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp lý của Việt Nam, một văn
bản pháp luật chuyên về phòng cháy, chữa cháy được ban hành. Pháp luật
cũng quy định rõ những hành vi vi phạm về phòng cháy, chữa cháy gây hậu
quả nghiêm trọng thì bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ
thể (khoản 4, điều 131): “Người vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người
30
này từ 31% đến 60%, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
Để thúc đẩy việc thực hiện Luật Phòng cháy và chữa cháy, Chính phủ
đã ban hành một số nghị định, chỉ thị, thông tư và kế hoạch hành động quốc
gia nêu rõ vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành, UBND các cấp, các tổ chức
quần chúng, cộng đồng và các cá nhân như sau:
- Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy.
- Nghị định số 76/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của
pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí
vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
- Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, ana toàn xã hội, chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình.
- Quyết định số 44/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định
về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng phòng cháy và chữa cháy.
- Quyết định số 1110/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở của lực lượng Cảnh sát PCCC và
cứu nạn cứu hộ đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030”.
- Chỉ thị số 1634/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Tăng cường chỉ
đạo thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm trong công tác phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
- Thông tư số 56 /2014/TT-BCA Quy định về trang bị phương tiện
phòng cháy và chữa cháy cho lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy và
chữa cháy cơ sở, lực lượng phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành.
31
- Thông tư số 66/2014/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số
điều của Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ.
- Thông tư số 48/2015/TT-BCA của Bộ Công an quy định về trang
phục chữa cháy của lực lượng dân phòng, lục lượng PCCC cơ sở, lực lượng
PCCC chuyên ngành.
- Thông tư số 47/2015/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn về bảo
đảm an toàn PCCC đối với cơ sở kinh doanh vũ trường, karaoke.
Khung pháp lý nói trên quy định cách tiếp cận nhiều mặt trong phòng
ngừa, đấu tranh, xử lý vi phạm về phòng cháy, chữa cháy và có sự tham gia
của các cơ quan nhà nước và tổ chức đoàn thể khác nhau.
Xây dựng hệ thống pháp luật về PCCC đầy đủ, đông bộ, có tính khả thi
cao là trách nhiệm trước hết của các chủ thể quản lý nhà nước về PCCC.
Đồng thời, để nâng cao hiệu lực quản lý thì phải làm tốt công tác tuyên
truyền, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC trên cấp độ
toàn xã hội.
1.2.4.3. Tổ chức và ch đạo hoạt động phòng cháy, chữa cháy
Tổ chức và chỉ đạo hoạt động PCCC được “luật hóa” bằng các quy
định trong Luật PCCC. Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “Trong hoạt động
PCCC lấy phòng ngừa là chính; phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn
chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra” bằng
các giải pháp, biện pháp về tổ chức và kỹ thuật nhằm hạn chế, loại trừ các
nguyên nhân và điều kiện gây cháy. Thứ hai “Phải chuẩn bị sẵn sàng lực
lượng, phương tiện, phương án và các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì
chữa cháy kịp thời, có hiệu quả” trong việc thực hiện nhiệm vụ thường trực
sẵn sàng chữa cháy của lực lượng Cảnh sát PCCC cũng như đối với các lực
lượng PCCC khác.
32
1.2.4.4. Tổ chức đào tạo, xây dựng lực lượng, trang bị và quản lý
phương tiện phòng cháy, chữa cháy
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ phòng cháy, chữa cháy:
Một là, tuyển dụng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy phải đúng quy trình, dân chủ, công khai, đáp ứng các tiêu chí
của cán bộ trong tình hình mới, đảm bảo tuyển chọn đúng nhân tài phục vụ
đất nước.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý
nhà nước về phòng cháy, chữa cháy thông qua việc đổi mới nội dụng, chương
trình đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về PCCC theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, ưu tiên cho đào tạo chính quy, nhất là cấp cơ sở. Tập trung bồi dưỡng
lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước về PCCC. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải luôn gắn sát với
yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn về PCCC đặt ra hiện nay.
Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ tương xứng với chức năng,
nhiệm vụ của cán bộ quản lý nhà nước về PCCC. Đây là giải pháp vừa là
động viên, khuyến khích cán bộ cống hiến tài năng vừa giúp họ có điều kiện
chăm lo cho xây dựng và phát triển cuộc sống gia đình bền vững và thu hút
được nhân tài.
Bốn là, nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát
hoạt động của cán bộ quản lý nhà nước về PCCC, nhất là giám sát của nhân
dân, các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở.
Trang bị, quản lý phương tiện phòng cháy, chữa cháy:
Các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình phải tự trang bị phương tiện PCCC
cho cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới và hộ gia đình thuộc phạm vi mình
quản lý; UBND cấp xã trang bị phương tiện PCCC cho lực lượng dân phòng.
33
1.2.4.5. Bảo đảm ngân sách cho hoạt động phòng cháy, chữa cháy; tổ
chức bảo hiểm cháy gắn với hoạt động phòng cháy, chữa cháy
Hàng năm, nhà nước bố trí kinh phí từ ngân sách cho công tác phòng
cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Kinh
phí thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy được bố trí trong dự toán chi
thường xuyên hàng năm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức cấp trung ương và
trong dự toán chi ngân sách thường xuyên của các cấp ở địa phương.
Để thực hiện quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy thì Nhà nước
đã tập trung đầu tư mọi nguồn lực từ ngân sách nhà nước để chi cho hoạt
động PCCC:
Một là, chi đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, tập huấn kỹ năng để nâng cao năng lực cho cán bộ và các lực
lượng làm công tác PCCC.
Hai là, chi thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, công
chức và nhận dân về PCCC.
Ba là, chi hợp tác quốc tế đón khách nước ngoài vào làm việc tại Việt
Nam, tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam, chi công tác nước
ngoài.
Bốn là, chi điều tra, khảo sát, thu thập thông tin về thực trạng cháy để
lập kế hoạch phục vụ công tác yêu cầu chỉ đạo, quản lý nhà nước về PCCC.
Năm là, chi tập huấn, triển khai nhiệm vụ, kiểm tra, sơ kết, tổng kết,
đánh giá tình hình thực hiện các nội dung hoạt động của công tác phòng cháy,
chữa cháy.
Sáu là, chi khen thưởng trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy.
Bảy là, chi các hoạt động quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy tại
các khu dân cư.
34
Tám là, chi các nội dung khác liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý
trong công tác phòng cháy, chữa cháy tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội ở trung ương và địa phương.
Để bảo đảm nguồn tài chính cho hoạt động PCCC không chỉ dựa vào
ngân sách nhà nước mà còn phải thu từ bảo hiểm cháy; từ đóng góp tự nguyện
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn thu từ bảo
hiểm cháy bắt buộc được trích lại 5% từ doanh thu phí bảo hiểm để phục vụ
cho công tác tuyên truyền, trang bị phương tiện cho lực lượng PCCC.
1.2.4.6. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo
về phòng cháy, chữa cháy; điều tra vụ cháy
- Thanh tra, kiểm tra các hoạt động về phòng cháy, chữa cháy:
+ Định kỳ 1 năm 1 lần, Bộ Công an tổ chức các đoàn liên ngành kiểm
tra, giám sát các hoạt động phòng cháy, chữa cháy ở địa phương và bộ, ngành
liên quan hoặc kiểm tra đột xuất theo chỉ đạo của Chính phủ về hoạt động
phòng cháy, chữa cháy ở cơ sở.
+ Các bộ ngành được phân công quản lý và thực hiện các hoạt động về
phòng cháy, chữa cháy có trách nhiệm tổ chức các đoàn công tác gồm đại
diện của các đơn vị có liên quan đến việc triển khai, thực hiện pháp luật về
phòng cháy, chữa cháy và đi kiểm tra, giám sát định kỳ việc thực hiện các
hoạt động tại cơ sở.
+ Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đánh giá thực tế hoạt động
phòng cháy, chữa cháy tại địa bàn theo từng năm, đánh giá giữa kỳ, đánh giá
cuối kỳ kết quả thực hiện Chương trình hành động quốc gia về phòng cháy,
chữa cháy.
- Xử lý người có hành vi vi phạm về phòng cháy, chữa cháy:
Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc
35
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại tố cáo về phòng cháy chữa cháy:
Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo với các hành vi vi
phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy được thực hiện theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Điều tra vụ cháy: Công tác điều tra vụ cháy giúp tổng kết, đánh giá
nguyên nhân xảy ra cháy để có những biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
1.2.4.7. Tổng kết, đánh giá công tác phòng cháy, chữa cháy
Ngành Công an chỉ đạo và phối hợp với các ban ngành liên quan thực
hiện việc tổng kết, đánh gia công tác phòng cháy, chữa cháy định kỳ hàng
năm và 5 năm.
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà nƣớc về phòng
cháy, chữa cháy
1.3.1. Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng cháy, chữa
cháy
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm
kỹ thuật về PCCC tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Luật PCCC và các Nghị
định đã quy định cụ thể trách nhiệm các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
về PCCC. Thực tế cho thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCCC
còn chồng chéo với các luật khác, quy định còn chung chung nên việc áp
dụng thiếu thống nhất; hệ thống văn bản quy phạm kỹ thuật về PCCC còn
nhiều bất cập nhiều quy chuẩn, tiêu chuẩn chưa thống nhất nên việc áp dụng
rất khó khăn. Công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC thiếu
kiên quyết nên tính răn đe của pháp luật chưa cao.
Để hoạt động quản lý nhà nước về PCCC có hiệu quả, cần phải xây
dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy
36
phạm kỹ thuật về PCCC hoàn chỉnh, đồng bộ, bảo đảm tính pháp lý; quy định
rõ trách nhiệm các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý nhà nước về PCCC,
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy
Hoạt động quản lý nhà nước về PCCC có liên quan trực tiếp đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt
động quản lý nhà nước về PCCC, ngày 25/6/2015 Bộ Chính trị đã ban hành
Chỉ thị số 47-CT/TW về lãnh đạo công tác PCCC; Quốc hội đã ban hành Luật
PCCC; Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Kế hoạch triển khai
thực hiện công tác PCCC; Bộ Công an, các Bộ, Ngành liên quan, UBND các
cấp đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện công tác PCCC, với sự
vào cuộc quyết liệt của các Bộ, Ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo
hoạt động quản lý nhà nước về PCCC, nên hiệu quả quản lý nhà nước về
PCCC đã có bước chuyển rõ rệt, nhận thức về PCCC đối với chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý nhà nước về PCCC được nâng lên và dần đi vào nề nếp.
1.3.3. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác phòng cháy,
chữa cháy
Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ lực lượng Cảnh sát PCCC có vai trò
đặc biệt quan trọng trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công
tác PCCC. Hiện nay, cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC
vừa thiếu, vừa yếu nên hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC chưa cao. Để
thống nhất trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện chức năng này, Đảng, Nhà
nước, Chính phủ quan tâm sớm triển khai kiện toàn tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ làm công tác PCCC trên phạm vi cả nước; bổ sung biên chế cán
bộ có trình độ nghiệp vụ PCCC; đồng thời thường xuyên tổ chức các lớp bồi
37
dưỡng, đào tạo chuyên sâu về PCCC trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu
PCCC trong tình hình mới.
1.3.4. Nguồn lực tài chính và trang bị phương tiện cho lực lượng
phòng cháy, chữa cháy
Nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động PCCC và việc trang bị phương
tiện PCCC đã được quy định cụ thể trong Luật PCCC. Nhưng hiện nay nguồn
lực tài chính đầu tư cho hoạt động PCCC còn rất hạn chế nên việc trang bị
phương tiện chữa cháy và phục vụ công tác PCCC chưa đáp ứng yêu cầu;
chưa bổ sung kinh phí hoạt động cho công tác PCCC cấp huyện, xã nên
không có kinh phí để phục vụ công tác tuyên truyền, trang bị phương tiện
chữa cháy cho lực lượng dân phòng, PCCC cơ sở và chuyên ngành…gây khó
khăn trong hoạt động quản lý nhà nước về PCCC.
1.3.5. Ý thức xã hội và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện
pháp luật về phòng cháy, chữa cháy
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCCC đã được ban hành đầy
đủ, đồng bộ và quy định rõ trách nhiệm PCCC. Cụ thể tại khoản 1 Điều 4
Luật PCCC quy định “Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia
hoạt động phòng cháy và chữa cháy”. Nhưng trong thực tế việc huy động này
gặp rất nhiều khó khăn.
Luật PCCC và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật PCCC quy
định cụ thể về trách nhiệm chủ thể quản lý nhà nước về PCCC (Chính phủ,
Bộ Công an, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND
các cấp) nhưng trong thực tế việc triển khai thực hiện của các chủ thể nêu trên
còn nhiều bất cập.
Đối tượng của quản lý nhà nước về PCCC là cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân. Trong thời gian qua, các đối tượng nêu trên ý thức chấp hành
pháp luật về PCCC nhìn chung có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn
38
còn một bộ phận đối tượng của quản lý nhà nước về PCCC ý thức chấp hành
pháp luật về PCCC còn rất hạn chế, nhận thức về tính hiệu quả đem lại trong
việc chấp hành các quy định về PCCC và hậu quả do cháy gây ra còn nhiều
bất cập.
1.3.6. Các yếu tố về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Các yếu tố tự nhiên, môi trường ảnh hưởng tới hoạt động phòng cháy,
chữa cháy được hiểu là các điều kiện thời tiết và các nhân tố khí tượng. Các
nhân tố này bao gồm:
Nhiệt độ: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình cháy như làm
khô vật liệu cháy; làm độ ẩm không khí giảm và bề mặt đất nóng lên,…Chính
vì vậy, vào mùa khô nóng, công tác đảm bảo về phòng cháy chữa cháy càng
cần được đẩy mạnh.
Độ ẩm: Bao gồm độ ẩm không khí, độ ẩm vật liệu cháy và độ ẩm bề
mặt đất.
Gió: là nhân tố ảnh hưởng rất nhiều đến sự cháy, nhất là cháy rừng, gió
làm thúc đẩy quá trình làm khô vật liệu cháy, làm bùng phát ngọn lửa và đẩy
nhanh tốc độ đám cháy, mang theo tàn lử gây ra các đám cháy khác, làm đám
cháy phát triển nhanh và lan rộng.
Nguồn nước: đây là yếu tố quan trọng trong hoạt động chữa cháy,
những địa bàn gần nguồn nước, có nhiều ao, hồ sẽ thuận tiện hơn cho hoạt
động phòng cháy, chữa cháy. Vì vậy, tại các khu dân cư, khu chức năng đô
thị, khu công nghiệp, làng nghề,…cần phải tận dụng các ao hồ, sông ngòi để
dự trự nước chữa cháy, phải đảm bảo có đủ lượng nước dự trữ tại mọi thời
điểm và có đường cho xe chữa cháy vào lấy nước.
Địa hình: trong công tác phòng cháy, chữa cháy, cần phải đảm bảo đầy
đủ về hệ thống trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động chữa
cháy nhưng hiệu quả của nó lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố địa hình. Có
39
những nơi địa hình hiểm trở, đường gồ ghề, đi lại khó khăn; trong khu đông
dân cư thì đường nhỏ hẹp, xe chữa cháy không thể ra vào được hay tại các tòa
nhà cao tầng mà vòi phun nước không với tới gây ra rất nhiều khó khăn cho
công tác phòng cháy, chữa cháy.
Các yếu tố về kinh tế xã hội bao gồm:
Kinh tế: Nền kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư
cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, có nguồn kinh phí cho công tác PCCC, cũng
như mua sắm các trang thiết bị hiện đại về PCCC.
Xã hội: Đời sống xã hội phát triển kéo theo trình độ dân chí được nâng
lên góp phần nâng cao ý thức chấp hành các quy định về PCCC.
Tất cả các yếu tố nêu trên có tác động rất lớn đến hiệu quả quản lý nhà
nước về PCCC. Trong thời gian tới cần phải khắc phục các bất cập và hạn chế
trên để công tác quản lý nhà nước về PCCC đạt hiệu quả, phục vụ đắc lực yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa cháy trên
thế giới và một số địa phƣơng
1.4.1. Kinh nghiệm phòng cháy, chữa cháy của một số quốc gia trên
thế giới
Tại Nhật Bản, quốc gia có nền giáo dục về PCCC tốt nhất
Đặc điểm của các công trình kiến trúc Nhật Bản là sử dụng rất nhiều
vật liệu bằng gỗ, do vậy dễ phát sinh hỏa hoạn. Vì thế, phòng cháy đã thành ý
thức mạnh mẽ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Nhật Bản,
trong đó chú trọng những nội dung sau:
Giáo dục công tác PCCC ở mọi lứa tuổi: Nội dung phòng cháy chữa
cháy ở Nhật là một trong những nội dung giáo dục quan trọng nhất với mục
đích mang lại kiến thức cho mỗi cá nhân, giúp họ bảo vệ tính mạng của mình,
an toàn của cộng đồng và tài sản chung của xã hội.
40
Trong sách cho trẻ mẫu giáo, nội dung lánh nạn khi có thiên tai, hiểm
họa cũng được đưa vào giảng dạy: các bé tuân theo chỉ thị của người lớn ra
sao, hành động, di chuyển như thế nào. Nội dung giáo dục này được lặp đi lặp
lại và diễn tập từ khi người Nhật còn là trẻ em tới khi trở thành người trưởng
thành đi làm trong các cơ quan công sở theo mỗi năm.
Không chỉ được dạy cách sơ tán an toàn mà trẻ em Nhật còn được hướng
dẫn cụ thể cách sử dụng bình cứu hỏa cũng như cách xử lý các tình huống cháy.
Do vậy, ngay từ khi còn rất nhỏ, các bố mẹ nên đưa ra những bài học, lời khuyên
dành cho con cái về các vấn đề PCCC, để có thể bảo vệ được mình, bảo vệ được
người khác, bảo vệ được những người thân xung quanh mình.
Cá biệt, tại các cấp học phổ thông, nội dung phòng chống hiểm họa
được thực hành nhiều lần trong năm, với nhiều trường hợp cụ thể, đặc biệt tại
những khu vực có các công trình dễ cháy, những khu dễ xảy ra hỏa hoạn và
động đất. Đây là lý do tại sao người Nhật luôn bình tĩnh, tự tin, sáng suốt
trong quá trình phòng cháy chữa cháy hiệu quả và giảm thiểu thiệt hại.
Tại Canada: Chú trọng công tác phòng tránh
Phòng cháy chữa cháy không phải là chuyện mới trong vấn đề quản lý
chung cư. Công tác phòng chống cháy được làm chặt chẽ ngay từ khâu quy
hoạch đến thiết kế, xây dựng, lắp đặt các thiết bị. Tòa nhà chỉ được đưa vào
sử dụng sau khi đã được các cơ quan chức năng nghiệm thu hệ thống phòng
chống cháy.
Trước khi tòa nhà bàn giao, các nhà quản lý sẽ làm việc với chủ đầu tư
kiểm tra toàn bộ hệ thống báo cháy và chữa cháy của tòa nhà. Nếu không đáp
ứng được các yêu cầu kỹ thuật, chủ đầu tư sẽ không được phép bàn giao cho
người mua. Cùng với đó là các biện pháp quản lý, xử phạt đối với chủ đầu tư
và ban quản lý các chung cư cao tầng nếu có vi phạm, người dân luôn được
41
nhắc nhở ý thức trong phòng chống cháy và được rèn luyện kỹ năng thoát
hiểm. Tất cả đều hướng tới sự an toàn, chất lượng sống của người sử dụng.
1.4.2. Kinh nghiệm phòng cháy, chữa cháy tại một số địa phương
trong nước
Tại huyện oài Đức, thành phố à Nội
Hoài Đức là địa bàn có nhiều cụm, điểm công nghiệp làng nghề nên
nguy cơ cháy cao. Để làm tốt công tác phòng ngừa cháy nổ, UBND huyện
Hoài Đức đã chỉ đạo các đơn vị phối hợp tuyên truyền, giáo dục ý thức, thực
hiện tốt kỹ năng PCCC, xử lý tình huống khi xảy ra cháy. Đi đôi với việc phát
triển, mở rộng hoạt động sản xuất của các làng nghề truyền thống, quá trình
đô thị hóa nhanh chóng trên địa bàn huyện Hoài Đức cũng khiến các công
trình xây dựng nhà ở trong khu dân cư dày đặc, nhu cầu sử dụng nguồn nhiệt,
nguồn lửa, gas, xăng dầu, tiềm ẩn những nguy cơ phát sinh cháy. Do đó,
UBND huyện đã chỉ đạo các đơn vị như Công an huyện, Ban Chỉ huy quân sự
huyện, Công ty Điện lực, Phòng Giáo dục và đào tạo cùng 20 xã, thị trấn
thường xuyên tuyên truyền, hướng dẫn, trao đổi thông tin liên quan tới công
tác PCCC ở cơ sở tới người dân; trang bị đầy đủ cơ sở vật chất như máy bơm
áp lực mạnh cho các xã trọng điểm, lập danh sách các cơ sở tiềm ẩn nguy cơ
cháy cao, giám sát thực hiện pháp luật về PCCC một cách tiệt để. Nhờ đó, số
vụ cháy xảy ra đã giảm và giảm cả thiệt hại.
Tại quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng
Lãnh đạo quận thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan chuyên
môn cùng các đơn vị liên quan của quận phối hợp chặt chẽ để triển khai
quyết liệt các biện pháp nghiệp vụ trong công tác phòng ngừa cháy, thường
xuyên tổ chức kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị cơ sở thực hiện các biện pháp,
giải pháp an toàn PCCC. Thông qua công tác kiểm tra, nắm địa bàn lực
lượng Cảnh sát PCCC đã phát hiện và kiến nghị khắc phục hàng nghìn sơ hở
42
thiếu sót mất an toàn PCCC, ngăn chặn kịp thời các nguy cơ gây cháy, bảo
vệ an toàn các cơ sở trọng điểm, các sự kiện chính trị quan trọng của địa
phương và đất nước.
Tại huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phòng cháy, chữa cháy,
Huyện đã thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống cháy và phân công trách nhiệm
cho từng thành viên thường xuyên kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp thực hiện nghiêm Luật PCCC và các văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước về công tác PCCC. Để công tác tuyên truyền, phổ
biến kiến thức pháp luật về PCCC và cứu nạn cứu hộ có hiệu quả tới từng cá
nhân, tổ chức và toàn xã hội, lãnh đạo huyện đã chỉ đạo Phòng Cảnh sát
PCCC, Công an huyện, Đài Truyền thanh huyện phối hợp với các cơ quan
liên quan tổ chức tuyên truyền sâu rộng bằng cách xây dựng các phóng sự,
tin, bài; tuyên truyền trên hệ thống phát thanh tại các địa phương, khu dân cư,
chợ, trung tâm văn hóa; tuyên truyền miệng thông qua các buổi họp tại các cơ
quan, đơn vị, trường học, bệnh viện,…
Để công tác PCCC được triển khai và thực hiện tốt, huyện thường
xuyên tổ chức các đoàn liên ngành kiểm tra, đôn đốc các xã, thị trấn và các cơ
sở có tiềm ẩn nguy cơ cháy cao như chợ, các cửa hàng kinh doanh xăng dầu,
gas; cơ sở giáo dục; đình, đền...
Với việc áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ mà nhận thức của các cấp,
các ngành, cơ quan, đơn vị và mỗi người dân huyện Cần Giờ về PCCC được
nâng cao và có chuyển biến tích cực, không để xảy ra cháy lớn, cháy lan...
trên địa bàn, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy xảy ra.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Từ kinh nghiệm phòng cháy, chữa cháy tại một số địa phương trong
nước và thực tế phòng cháy chữa cháy tại một số quốc gia có trình độ cao, có
thể rút ra bài học cho huyện Đông Anh như sau:
43
Một là, tăng cường sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ của
Huyện ủy uỷ, Ủy ban nhân dân huyện đối với công tác PCCC cũng như phối
hợp giữa các lực lượng chuyên trách tham gia công tác này trên địa bàn
huyện. Đồng thời có sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Ban chỉ huy quân sự
huyện, Công an, Cảnh sát PCCC huyện để chủ động phối hợp xây dựng các
chương trình, kế hoạch, phương án tác chiến kịp thời trao đổi thông tin giữa
các lực lượng.
Hai là, nêu cao vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc huyện
cùng các đơn vị liên quan trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy; chú trọng giáo
dục nâng cao nhận thức về phòng cháy chữa cháy cho mọi lứa tuổi, mọi tầng
lớp nhân dân bởi đây là nhiệm vụ thường trực của tất cả mọi người.
Ba là, tăng cường công tác huấn luyện về nghiệp vụ chữa cháy cho lực
lượng chữa cháy cơ sở để xử lý kịp thời, không để xảy ra cháy lan, cháy lớn;
duy trì tốt hoạt động hệ thống chữa cháy được trang bị tại cơ sở để đảm bảo
công tác xử lý ban đầu khi có sự cố xảy ra đạt kết quả cao; thường xuyên
kiểm tra các điều kiện an toàn phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp
luật và các tiêu chuẩn, quy phạm về phòng cháy chữa cháy, kiên quyết xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm an toàn phòng cháy chữa cháy để thực hiện công
tác; tăng cường phối hợp với các đơn vị chức năng trên địa bàn huyện trong
công tác đảm bảo an toàn PCCC…
Bốn là, chú trọng giáo dục và tập huấn kỹ năng phòng cháy, chữa cháy
cho học sinh, kể cả các cháu nhỏ đang học tại cấp học mầm non.
44
Tiểu kết chƣơng 1
Quản lý nhà nước về PCCC là một hoạt động quan trọng trong quản lý
nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh trật tự nói riêng. Hoạt
động quản lý nhà nước về PCCC được tiến hành trên cơ sở các quy định của
Luật PCCC. Để làm cơ sở cho việc khảo sát, đánh giá thực trạng về tình hình
PCCC và quản lý nhà nước về PCCC, trong chương 1 tập trung nghiên cứu
làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận. Kết quả như sau:
- Xây dựng các khái niệm có liên quan: Khái niệm về cháy; khái
niệm về PCCC; khái niệm về quản lý nhà nước về PCCC
- Phân tích làm rõ nội dung, nguyên tắc, phương pháp và các yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về PCCC
- Phân tích làm rõ vai trò của quản lý nhà nước về phòng cháy chữa
cháy đối với đời sống xã hội; Tìm hiểu kinh nghiệm quản lý tại một số quốc
gia và địa phương từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
Đây là những tiêu chí quan trọng về lý luận trong quản lý nhà nước về
PCCC, làm cơ sở cho đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về
phòng cháy chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh.
45
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA
CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, có diện tích tự nhiên là
182,3 km2, cách trung tâm thành phố 15 km về phía Bắc. Phía đông giáp thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, phía đông bắc giáp huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh, phía đông nam giáp quận Long Biên và huyện Gia Lâm với ranh giới
là Sông Đuống, phía nam giáp các quận Tây Hồ và Bắc Từ Liêm với ranh
giới là sông Hồng, phía tây giáp huyện Mê Linh, phía Bắc giáp huyện Sóc
Sơn; hiện nay huyện Đông Anh có 23 đơn vị hành chính cấp xã và một thị
trấn, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc
phòng, với kết cấu địa hình tự nhiên bằng phẳng và cơ sở hạ tầng phát triển đa
dạng với nhiều loại hình như: đường sông, đường bộ, đường sắt, hầm đường
bộ, nhà ga,…;
Đồng thời, huyện Đông Anh còn là vùng đất lưu giữ nhiều những di
tích lịch sử, những lễ hội truyền thống của dân tộc, đặc biệt là những di tích,
lễ hội liên quan đến Cổ Loa thành. Huyện cũng còn lưu giữ được nhiều những
bộ môn nghệ thuật truyền thống có giá trị như ca trù Lỗ Khê, rối nước Đào
Thục, tuồng cổ Cổ Loa…
Về dân số, toàn huyện có khoảng 383.800 người với mật độ là 2063
người/km2, trình độ dân trí ngày càng nâng cao.
46
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sau hơn 30 năm thực hiên đường lối đổi mới, kinh tế - xã hội của
huyện Đông Anh đã có những chuyển biến rất tích cực. Toàn huyện Đông
Anh có khoảng trên 4.050 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh (trong đó
có trên 1.300 cơ quan, doanh nghiệp thuộc diện quản lý nhà nước về PCCC
theo Nghị định 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ), các cơ sở này đang hoạt
động tại 05 khu công nghiệp, cụm công nghiệp và xen lẫn trong khu dân cư;
có nhiều khu dân cư có nguy cơ cháy cao mà xe chữa cháy không thể tiếp cận
được; 03 chợ lớn (chợ Trung tâm, chợ Tó và chợ Vân Trì), 05 siêu thị nhỏ và
hơn 3.000 hộ tiểu thương kinh doanh buôn bán; ngoài ra trên địa bàn huyện
còn có nhiều tổng kho xăng dầu, công ty gas, hàng chục cơ sở sản xuất hóa
chất và hàng trăm cơ sở sản xuất khác đang hoạt động tại làng nghề các xã
Vân Hà, Hải Bối; các khu nhà trọ tại xã Kim Chung, Võng La, Đại Mạch,
Kim Nỗ, Hải Bối.
Trong những năm vừa qua, do tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đòi hỏi
huyện Đông Anh cần có những định hướng phát triển phù hợp và xứng tầm.
Đứng trước bối cảnh đó, lãnh đạo huyện Đông Anh đã chỉ đạo đẩy mạnh đầu
tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực và
mang lại những thành quả vô cùng ấn tượng. Cụ thể (tính đến năm 2018):
tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện Đông Anh ước đạt 127.967
tỷ đồng, tăng 10,6%; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 2.128
tỷ đồng (tăng 2,3%); giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ước
đạt 18.540 tỷ đồng (tăng 11,2%); giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ đạt
10.171 tỷ đồng (tăng 15,8% so với cùng kỳ). Tổng thu ngân sách trên địa bàn
huyện ước đạt 2.752 tỷ đồng (đạt 109,7% dự toán). Cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng hiện đại, phù hợp với Nghị quyết Đại hội đảng bộ
huyện đã đề ra.
47
Huyện ủy, UBND huyện đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp và cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư; cải cách thủ tục
hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thông thoáng để thu
hút đầu tư. Thời gian tới, huyện Đông Anh tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến
độ giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn; hoàn thành việc giao đất ở (đất
dịch vụ) cho các hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện nhận; đẩy mạnh cải cách
hành chính, thực hiện có hiệu quả ứng dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ
3, mức độ 4 và phần mềm một cửa “3 cấp”; tiếp tục triển khai các đề án
"Chiếu sáng nông thôn", "Quản lý ao hồ", "Trồng và quản lý cây xanh" và
một số đề án thành phần, thuộc đề án xây dựng huyện Đông Anh trở thành
quận...
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị như: giao thông, cấp điện, cấp thoát
nước…có bước phát triển mạnh, nhiều khu đô thị hiện đại, có hạ tầng đồng bộ
được xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng, phục vụ cho phát triển kinh tế -
xã hội, nhiều công trình có quy mô lớn, phức tạp về kỹ thuật đã đầu tư xây
dựng (cầu Thăng Long, cầu Nhật Tân, hệ thống đường cao tốc, khu đô thị Bắc
Thăng Long – Vân Trì, khu đô thị Eurowindow River Park, khu thương mại
dịch vụ 1/5 Đông Anh, ga đường sắt...), đời sống nhân dân được cải thiện,
diện mạo đô thị ngày càng văn minh.
2.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của địa
phương đến hoạt động quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
Huyện Đông Anh có diện tích tự nhiên tương đối lớn, dân số đông,
trình độ dân trí ngày càng nâng cao, tập trung nhiều cơ quan, doanh nghiệp,
cơ sở giáo dục, khu vui chơi giải trí, đơn vị quân đội, cơ sở hạ tầng được đẩy
mạnh đầu tư,…Chính những yếu tố này đã tạo những thuận lợi cho hoạt động
quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn:
48
- Đông Anh là huyện được thành phố xây dựng đề án quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, vì vậy không chỉ đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế
mà các vấn đề về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội nói chung, về
phòng cháy, chữa cháy nói riêng được trung ương và chính quyền địa phương
hết sức quan tâm, chỉ đạo sát sao. Điều này giúp cho việc xây dựng và triển
khai các kế hoạch về PCCC được triển khai một cách đồng bộ, giúp cho sự
phối hợp giữa các bên liên quan trong hoạt động PCCC nhịp nhàng, ăn ý hơn.
- Giáo dục phát triển, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, cùng
sự phát triển của khoa học công nghệ, các phương tiện thông tin đại chúng tạo
điều kiện cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCCC được triển
khai nhanh chóng, người dân dễ dàng nắm bắt thông tin và triển khai thực
hiện, các hoạt động diễn tập, tập huấn về PCCC, cứu nạn cứu hộ được thực
hiện một cách có hiệu quả.
- Với điều kiện tự nhiên tương đối rộng và bằng phẳng, có hệ thống
sông ngòi, ao hồ, kênh rạch lớn, đảm bảo đủ nguồn nước khi có đám cháy xảy
ra, thuận lợi cho hoạt động chữa cháy tại chỗ, ngăn chặn tình trạng cháy lan
và giảm thiểu tới mức thấp nhất những thiệt hại do cháy gây ra.
- Hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng được đầu tư phát triển, giao
thông đi lại thuận tiện tạo thuận lợi cho việc di chuyển của các phương tiện
phục vụ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, đảm bảo sự có mặt kịp thời của các lực
lượng chữa cháy chuyên nghiệp khi có sự cố cháy xảy ra,…
Bên cạnh những thuận lợi kể trên thì những điều kiện về tự nhiên, xã
hội kể trên cũng gây ra những khó khăn nhất định cho hoạt động quản lý nhà
nước về PCCC như: địa bàn quản lý quá rộng khiến việc đi chuyển đến các
điểm có sự cố cháy mất nhiều thời gian, có nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ
luôn tiềm ẩn nguy cơ cháy cao, sự hình thành và phát triển các cơ sở sản xuất
49
kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ, mang tính tự phát xen lẫn trong các khu dân cư
diễn ra nhanh chóng gây khó khăn cho công tác điều tra cơ bản, hay các chủ
cơ sở, các hộ gia đình vẫn chưa quan tâm đúng mức cho hoạt động PCCC,…
Vì vậy, trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ
quốc, các tổ chức đoàn thể và Cảnh sát PCCC đã triển khai nhiều biện pháp
tuyên truyền, huấn luyện nhằm nâng cao nhận thức về công tác PCCC cho
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình và cá nhân, như: mô hình
xây dựng “Cụm dân cư, chung cư an toàn về PCCC”, “Cụm cơ quan an toàn
về PCCC”, “Ngành hàng, quầy hàng, sạp hàng kinh doanh trong chợ an toàn
về PCCC”, “Các chuyên ngành xăng dầu, khí đốt hóa lỏng, khách sạn - nhà
nghỉ, karaoke, cầm đồ an toàn PCCC”… hay như mô hình vận động nhân
dân, tiểu thương kinh doanh trong chợ tự trang bị bình chữa cháy; ký kết quy
chế phối hợp trong xây dựng phong trào toàn dân PCCC và quản lý nhà nước
về PCCC...; đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền và phát động xây dựng
phong trào toàn dân PCCC trong cơ quan, doanh nghiệp, khu dân cư và
trường học theo phương châm “Dân hiểu, dân bàn, dân thực hiện” trong công
tác PCCC, bước đầu nhận thức về công tác PCCC của người dân được nâng
lên. Đến nay 100% tiểu thương kinh doanh tại các chợ ký cam kết đảm bảo an
toàn PCCC và tự trang bị bình chữa cháy; trên 85% hộ gia đình tự trang bị
bình chữa cháy và 100% hộ dân ký cam kết tiêu chí hộ an toàn về PCCC;
100% cơ quan, doanh nghiệp trang bị phương tiện chữa cháy và thành lập lực
lượng PCCC.
50
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
2.2.1. Công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh
2.2.1.1. Thực trạng cháy và thiệt hại do cháy gây ra
Số vụ cháy Thiệt hại (tỷ Số người chết Số người bị Năm (vụ) đồng) (người) thương (người)
2014 32 1,2 00 00
2015 40 3,3 00 00
2016 76 5,1 00 01
2017 82 10,2 00 02
2018 41 22,1 00 01
Bảng 2.1. Thống kê số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra trên địa àn huyện
(Nguồn: Phòng Cảnh sát PCCC huyện Đông Anh).
Theo số liệu thống kê của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5, trong 05 năm
(2014-2018) xảy ra 271 vụ cháy, làm 04 người bị thương, thiệt hại về tải sản
ước tính khoảng 42 tỷ đồng.
Nguyên nhân gây cháy: do sự cố về điện 173 vụ, chiếm 63,83%; do sơ
xuất trong sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt 82 vụ, chiếm 30,26%; do đốt
(bệnh lý, tư thù cá nhân, đốt thực bì, đốt rác, tự tử…) 10 vụ, chiếm 3,69%; vi
phạm quy định an toàn PCCC gây cháy 05 vụ, chiếm 1,85% và chưa rõ
nguyên nhân 01 vụ, chiếm 0,37%. Từ số liệu trên cho thấy, nguyên nhân vụ
cháy do sự cố về điện chiếm tỉ lệ cao nhất (trên 63%), do sơ xuất trong sử
dụng lửa, nhiệt trên 30% và còn lại là các nguyên nhân khác.
Số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra tăng dần theo từng năm (năm
2014 xảy ra 32 vụ, thiệt hại trên 01 tỷ đồng; năm 2015 xảy ra 40 vụ, thiệt hại
trên 03 tỷ đồng; năm 2016 xảy ra 76 vụ, thiệt hại trên 05 tỷ đồng; năm 2017
51
xảy ra 82 vụ thiệt hại trên 10 tỷ đồng và năm 2018 xảy ra 41 vụ thiệt hại trên
22 tỷ đồng). Đặc biệt năm 2018, số lượng vụ cháy giảm một nửa so với năm
2017 nhưng thiệt hại lại lớn gấp đôi, nguyên nhân là do trong năm này trên
địa bàn huyện đã để xảy ra 2 vụ cháy lớn tại một cơ sở sản xuất sơn và một
của hàng giày da. Có thể thấy, trung bình mỗi năm, huyện Đông Anh xảy ra
54,2 vụ cháy các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà dân, phương tiện giao thông
cơ giới; thiệt hại bình quân 8,4 tỷ đồng/năm; so với 05 năm trước (2009-
2013) số vụ cháy tăng trên 200% và diễn biến phức tạp, khó lường. Đáng chú
ý là nguy cơ cháy đối với các kho hàng, cơ sở sản xuất trong các khu công
nghiệp, các khu dân cư thu nhập thấp, các cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong
các khu dân cư, các tổng kho xăng dầu và cơ sở kinh doanh xăng dầu, các
tổng kho khí đốt hóa lỏng và cơ sở kinh doanh khí đốt hóa lỏng, các Chợ,
Siêu thị…, đặc biệt các cơ sở vừa làm kho chứa hàng, vừa là nơi sản xuất,
một số chợ cơ sở hạ tầng đã xuống cấp và các khu dân cư nằm trong các ngõ
sâu không có đường cho xe chữa cháy tiếp cận luôn tiềm ẩn. Bên cạnh đó,
tình hình cháy xe ô tô lưu thông trên đường quốc lộ, đường cao tốc có chiều
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, có vụ cháy xảy ra cùng lúc 03 ô tô; các
vụ cháy xe này trong thời gian qua chưa gây thiệt hại về người nhưng trên
thực tế vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và nếu xảy ra thì thiệt hại rất khó lường.
Tình hình cháy lớn diễn ra không nhiều nhưng thiệt hại và hậu quả của
nó để lại rất lớn, trong 05 năm, huyện Đông Anh chỉ xảy ra 03 vụ cháy lớn
(chiếm 1,1% số vụ cháy), nhưng thiệt hại về tài sản gần 30 tỷ đồng (chiếm 71%
tổng thiệt hại). Các vụ cháy lớn thường xảy ra vào ban đêm và những ngày nghỉ,
khi xảy ra cháy lực lượng tại cơ sở quá mỏng, phát hiện cháy chậm, chữa cháy
không kịp thời dẫn đến cháy lớn và gây hậu quả nghiêm trọng.
Qua phân tích tình hình cháy cho thấy, số vụ cháy và thiệt hại do cháy
gây ra tuy có xu hướng tăng nhưng đã được kiềm chế cả về số vụ và thiệt hại so
52
với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời không để xảy ra cháy lớn gây
thiệt hại về người và những cơ sở nhạy cảm về chính trị, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước, tạo môi trường bình yên, an toàn
để thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước đến đầu tư.
2.2.1.2. oạt động phòng cháy, chữa cháy trên địa àn huyện
Kể từ năm 2001, khi Luật phòng cháy, chữa cháy ra đời đã xác định cụ
thể, chi tiết về các hành vi vi phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy, xác
định các biện pháp phòng ngừa cháy và can thiệp, xử lý kịp thời khi có sự cố
cháy xảy ra nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và tài sản. Đồng thời,
khi Luật phòng cháy, chữa cháy được ban hành, Chính phủ và các bộ, ngành
liên quan cũng đã ban hành các nghị định, thông tư và các kế hoạch hành
động phòng cháy, chữa cháy, trong đó xác định vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc triển khai thực hiện, theo dõi, báo cáo, phối hợp và
lập ngân sách cho công tác phòng cháy, chữa cháy. Do vậy, hoạt động phòng
cháy, chữa cháy đã được cơ quan quản lý nhà nước, các cấp, các ngành đoàn
thể quan tâm và tập trung triển khai thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
Hoạt động phòng cháy, chữa cháy tại huyện Đông Anh trong thực tiễn
được triển khai thực hiện như sau:
Thứ nhất, về phòng cháy:
- UBND huyện cùng với các ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến các chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức
và các tầng lớp nhân dân đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, ý
thức trách nhiệm, nghiêm túc chấp hành pháp luật về phòng cháy, chữa cháy.
Hoạt động tuyên truyền đã được đổi mới về nội dung, hình thức, tăng số
lượng các tin, bài phóng sự, chuyên mục tuyên truyền, phổ biến giáo dục kiến
thức pháp luật, kỹ năng về PCCC và cứu nạn cứu hộ rộng rãi trên các phương
53
tiện thông tin đại chúng của huyện; quan tâm xây dựng phong trào “Toàn dân
PCCC”, gắn công tác PCCC với việc thực hiện các phong trào thi đua của địa
phương, cơ quan, doanh nghiệp và định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết biểu
dương khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong
trào PCCC.
- Người dân tại các thôn xóm, cụm dân cư, người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, cơ sở sản xuất và tập thể đội ngũ công nhân viên đang làm việc
trong các đơn vị này tích cực tham gia vào các khóa huấn luyện, các buổi diễn
tập về phòng cháy, chữa cháy.
- UBND huyện đã phối hợp với lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa
cháy cùng các ban ngành liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tổ chức
thực hiện chính sách pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; kiên quyết xử lý
nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, đơn vị chưa làm tốt công tác
phòng cháy, chữa cháy, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
phòng cháy, chữa cháy, cơ sở không đáp ứng đủ các yêu cầu về phòng cháy,
chữa cháy, đặc biệt ở những địa bàn cơ sở trọng điểm có nguy cơ về cháy
như: chung cư, nhà cao tầng, chợ, trung tâm thương mại, các cơ sở kinh
doanh hoạt động vui chơi, giải trí, nơi tập trung đông người; các cơ sở kinh
doanh xăng dầu, khí dầu mỏ hoá lỏng, hoá chất; các kho, xưởng sản xuất; cơ
sở kinh doanh, dịch vụ xen kẽ trong khu dân cư... Không để phát sinh vi phạm
mới về PCCC; kiên quyết không cấp giấy phép hoặc thu hồi giấy phép, tạm
đình chỉ, đình chỉ hoạt động kinh doanh đối với những cơ sở, doanh nghiệp,
dự án không đảm bảo các điều kiện an toàn PCCC.
Thứ hai, về chữa cháy:
- Trong công tác chữa cháy đã chú trọng đẩy mạnh công tác luyện tập,
diễn tập các phương án chữa cháy cho các lực lượng, nhất là lực lượng PCCC
cơ sở và dân phòng; tổ chức huấn luyện kỹ năng, nghiệp vụ PCCC theo
54
phương châm “bốn tại chỗ” nhằm đảm bảo công tác sẵn sàng xử lý sự cố
cháy, cứu nạn cứu hộ được thực hiện nghiêm túc 24/24 giờ. Đội cảnh sát
PCCC số 5 luôn duy trì việc trực thông tin, nhận và xử lý tin báo cháy đúng
quy trình, chính xác, kịp thời; đảm bảo quân số thường trực, đầu giờ sáng
hàng ngày tiến hành kiểm tra phương tiện, đảm bảo lực lượng và phương tiện
sẵn sàng chiến đấu; xuất xe nhanh, kịp thời khi có sự cố cháy xảy ra và theo
sự điều động của cấp trên.
- Phát hiện, báo tin về vụ cháy: Khi xảy ra cháy trên địa bàn, người dân
đã nhanh chóng hô hoán cho những người xung quanh biết, đồng thời báo tin
cho cơ quan có thẩm quyền để kịp thời triển khai các biện pháp chữa cháy.
- Hỗ trợ thiệt hại: UBND huyện, UBND các xã chủ trì phối hợp với Ủy
ban mặt trận tổ quốc huyện và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội khác chủ
động động viên tinh thần và hỗ trợ vật chất cho các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại
do vụ cháy gây ra, giúp họ sớm ổn định đời sống, tiếp tục kinh doanh, sản xuất.
2.2.2. Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
2.2.2.1. Thực hiện văn ản và an hành các văn ản ch đạo, hướng dẫn
thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa cháy
Đánh giá được tầm quan trọng của công tác đảm bảo an ninh trật tự, an
toàn xã hội nói chung và công tác phòng cháy, chữa cháy nói riêng, hàng
năm, phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy số 5 đã tham mưu cho UBND
huyện Đông Anh xây dựng 05 báo cáo thực hiện chỉ thị của Thành ủy thành
phố Hà Nội về PCCC, 05 kết luận, 43 kế hoạch, 09 hướng dẫn, 21 công văn,
19 quyết định về lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện các biện pháp quản
lý nhà nước về PCCC để các ban, ngành, đoàn thể và các xã, thị trấn nắm
được. Cụ thể:
55
- Năm 2014: UBND huyện Đông Anh xây dựng và ban hành Kế hoạch
số 28/KH-UBND ngày 14/02/2014 chỉ đạo các ban ngành, cơ sở, doanh
nghiệp hưởng ứng tuần Lễ Quốc gia về “An toàn vệ sinh lao động phòng
chống cháy nổ lần thứ 16 năm 2014”. Ban hành Kế hoạch số 66/KH-UBND
ngày 08/04/2014 về thực hiện Quyết định số 44/2012/QĐ-TTg ngày
15/10/2013 của Thủ tướng về “Công tác PCCC và cứu nạn cứu hộ”. Tổ chức
Hội nghị tập huấn nghiệp vụ PCCC và cứu nạn cứu hộ theo quyết định số
44/QĐ-TTg đối với lực lượng PCCC dân phòng, Công an Xã, Thị trấn, Công
an phụ trách Xã, Thị trấn trên địa bàn huyện Đông Anh. Ban hành kế hoạch
số 97/KH-UBND ngày 21/5/2014 Kế hoạch tập huấn cho lực lượng PCCC
dân phòng và Công an các Xã, Thị trấn trên địa bàn huyện. Kế hoạch số
210/KH – UBND ngày 05/12/2014 của UBND huyện Đông Anh về việc
“thực hiện Kế hoạch tăng cường công tác phòng cháy và chữa cháy mùa hanh
khô và các hoạt động Lễ hội, Tết Nguyên đán Ất Mùi 2015”;
- Năm 2015: UBND huyện ban hành kế hoạch số 10-KH/HU ngày
05/11/2015 thực hiện kế hoạch KH-174/TU ngày 28/9/2015 của Thành ủy Hà
nội về việc thực hiện Chỉ thị số 47-CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư
“về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng cháy, chữa
cháy”; ban hành Chỉ thị số 42-CT/HU ngày 09/3/2015; Kế hoạch số 87/KH-
UBND ngày 08/4/2015 về triển khai Chỉ thị số 27/CT-TU ngày 19/11/2014
của Thành ủy Hà Nội về “Tăng cường công tác lãnh đạo công tác PCCC &
cứu nạn cứu hộ trong tình hình mới”. Kế hoạch số 165/KH-UBND ngày
18/8/2015 Kiểm tra việc thực hiện “công tác Phòng cháy và chữa cháy tại các
xã, thị trấn trên địa bàn huyện Đông Anh năm 2015”; ban hành Quyết định số
3636/QĐ-UBND ngày 22/10/2015 về việc “phê chuẩn quy chế phối hợp giữa
Công an huyện, Ban chỉ huy Quân sự huyện với Phòng Cảnh sát PC&CC Số
56
5 trong công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và
nhiệm vụ quốc phòng trên địa bàn huyện Đông Anh”.
- Năm 2016: Xây dựng kế hoạch số 36/KH-BCD ngày 29/2/2016 về Kế
hoạch Tổ chức hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia về an toàn VSLĐ
phòng chống cháy lần thứ 18 năm 2016 trên địa bàn huyện Đông Anh năm
2016; ra văn bản số 148/UBND-VP ngày 02/3/2016 về việc thực hiện công
tác rà soát, điều tra thực trạng công tác phòng cháy và chữa cháy trên địa bàn
huyện; ban hành công văn số 286/UBND-VP ngày 11/4/2016 về việc Tăng
cường công tác PCCC, cứu nạn cứu hộ phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 –
2021 trên địa bàn huyện; xây dựng kế hoạch số 92 /KH-UBND ngày
12/5/2016 về kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 47-CT/TW ngày 25/6/2015 của
Ban bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng cháy,
chữa cháy trên địa bàn huyện.
- Năm 2017: Xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
kiến thức phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh giai đoạn
2017-2021; Kế hoạch về việc khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém; đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn. Kế
hoạch số 211/KH-UBND ngày 08/8/2017 về tuyên truyền, phổ biến pháp luật
và kiến thức phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh giai đoạn
2017-2021; Kế hoạch số 134/KH-UBND ngày 04/5/2017 về phòng cháy,
chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn huyện Đông Anh giai đoạn 2017 –
2020; Kế hoạch số 212/KH-UBND ngày 08/8/2017 về việc về việc khắc
phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh; Kế hoạch số 216/KH-
UBND ngày 07/8/2017 về việc thực hiện Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐND
ngày 14/8/2017 quy định về việc xử lý các cơ sở không đảm bảo yêu cầu về
57
PCCC trên địa bàn Thành phố Hà Nội được đưa vào sử dụng trước khi Luật
PCCC có hiệu lực; Kế hoạch số 256/KH-UBND ngày 09/10/2017 về kiểm tra,
ra soát công tác PCCC đối với nhà ở hộ gia đình; nhà ở kết hợp sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ; cơ sở sản xuất, kho hàng hóa xen lẫn trong khu dân cư.
- Năm 2018: Ban hành Kế hoạch số 331/KH-UBND Ngày 21/12/2017
về việc thực hiện công tác PCCC & cứu nạn cứu hộ trên địa bàn huyện Đông
Anh năm 2018; Kết luận số 66/TB-VP ngày 05/4/2018 của UBND Thành phố
Hà Nội về Thông báo Kết luận của Phó Chủ tịch thường trực UBND Thành phố
Nguyễn Văn Sửu tại buổi họp kiểm điểm tình hình thực hiện công tác phòng
cháy và chữa cháy trên địa bàn Thành phố; thống nhất chỉ đạo tăng cường các
biện pháp đảm bảo công tác phòng cháy và chữa cháy trong thời gian tới; Kết
luận của đồng chí Trung tướng Bùi Văn Thành - Thứ trưởng Bộ Công an về đảm
bảo ANTT, an toàn PCCC & cứu nạn cứu hộ; Kế hoạch số 58/KH-
CSPC&CCHN-P1 ngày 17/4/2018 về thực hiện Công điện số 01/CĐ-BCA-V11
ngày 10/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc tăng cường công tác PCCC
và cứu nạn cứu hộ.
Các văn bản ban hành đều thể hiện tính chiến lược lâu dài, đồng thời
cũng mang tính cấp bách; chính vì vậy, khi văn bản ban hành, đều được các
cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp đồng tình ủng hộ và triển
khai thực hiện nghiêm túc.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC, Phòng cảnh
sát PC&CC số 5 tham mưu UBND huyện ban hành 07 kế hoạch quản lý nhà
nước về PCCC theo chuyên ngành, như: Kế hoạch đảm bảo an toàn PCCC chợ;
xăng dầu; khí dầu mỏ hóa lỏng; khách sạn, nhà nghỉ; karaoke; cầm đồ và phế
liệu. Đây là những kế hoạch mang tính chuyên sâu, gắn trách nhiệm của người
đứng đầu cơ sở và chính quyền địa phương trong thực hiện công tác PCCC.
58
2.2.2.2. Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy
Trên địa bàn huyện Đông Anh bộ máy hoạt động về phòng cháy, chữa
cháy bao gồm UBND huyện, phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy số 5 và
UBND các xã, thị trấn
Phòng cảnh sát PC&CC số 5, thuộc Cảnh sát PC&CC thành phố Hà
Nội, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn hai huyện
là Đông Anh và Sóc Sơn. Phòng cảnh sát PC&CC số 5 có 128 đồng chí (trong
đó, cán bộ trong biên chế: 80 đồng chí, hợp đồng lao động: 07 đồng chí, chiến
sỹ nghĩa vụ: 41 đồng chí). Về trình độ chuyên môn: 21 đồng chí đại học, 46
đồng chí trung cấp, 07 đồng chí lái xe và 06 đồng chí chưa qua đào tạo.
Qua phân tích cho thấy, mặt bằng trình độ năng lực cán bộ chiến sỹ còn
hạn chế, số cán bộ có trình độ đại học chỉ chiếm 26,3%, còn lại là trình độ
trung cấp, lái xe và chưa qua đào tạo chuyên ngành PCCC; trong đó, lực
lượng chiến sỹ nghĩa vụ chiếm một tỷ lệ đáng kể (34,2%) nhưng chưa được
đào tạo; nhiều đồng chí đã được đào tạo nhưng năng lực còn hạn chế nên ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác.
Mô hình tổ chức của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5, Cảnh sát PC&CC
thành phố Hà Nội, bao gồm Ban chỉ huy phòng, bên dưới có 03 đội nghiệp vụ:
Ban chỉ huy Phòng gồm 04 đồng chí (01 trưởng và 03 phó); Đội tham mưu
tổng hợp gồm 21 đồng chí; Đội hướng dẫn kiểm tra an toàn PCCC gồm 20
đồng chí; Đội chữa cháy & cứu nạn cứu hộ chuyên nghiệp gồm 83 đồng chí;
Đảng bộ phòng có 04 Chi bộ trực thuộc với tổng số đảng viên 56 đồng chí.
Ở các xã, thị trấn: Hiện nay, việc triển khai công tác PCCC và cứu nạn
cứu hộ tại các xã, thị trấn còn nhiều bất cập. Có nơi còn buông lỏng
hoặc “khoán trắng” cho lực lượng Cảnh sát PCCC. Để khắc phục tình trạng
này, Công an thành phố đã phối hợp với Cảnh sát PCCC số 5 tổ chức triển
59
khai thực hiện công tác quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và cứu
nạn, cứu hộ đối với UBND các xã, thị trấn và lực lượng cảnh sát khu vực,
công an phụ trách xã trên địa bàn huyện.
Theo phân cấp, Công an cấp xã, phường, thị trấn, trực tiếp là lực lượng
Cảnh sát khu vực và Công an phụ trách xã, phải nắm chắc tình hình, tổ chức
điều tra cơ bản, trực tiếp kiểm tra, hướng dẫn công tác phòng cháy, chữa cháy
và cứu nạn, cứu hộ tại các cơ sở; giám sát việc chấp hành các quyết định về
phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cấp có thẩm quyền đối với cơ
sở vi phạm.
Đồng thời, lực lượng này cũng trực tiếp chỉ đạo các lực lượng tại chỗ
tổ chức chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ giai đoạn ban đầu, phối hợp với lực
lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ xử lý các vụ cháy,
tai nạn, sự cố.
2.2.2.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức về
phòng cháy, chữa cháy
Xác định công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân tham
gia PCCC là nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước về
PCCC.Vì vậy, trong những năm vừa qua, công tác tuyên truyền, giáo dục về
Luật Phòng cháy và chữa cháy được các cấp ủy đảng, chính quyền từ huyện
xuống cơ sở quan tâm, chú trọng. UBND huyện đã phối hợp với Phòng Cảnh
sát PCCC, cùng các ban, ngành đoàn thể của huyện tổ chức tuyên truyền về
phòng cháy, chữa cháy thông qua các hình thức hội thảo, hội nghị, tọa đàm,
sân khấu hóa,…Đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện thường xuyên
đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kiến thức
PCCC theo phương châm “dân hiểu, dân àn, dân thực hiện” trong công tác
PCCC; nội dung tuyên truyền ngắn gọn, dễ hiểu, hình ảnh sinh động.
60
Lớp tuyên Lượt người Lớp huấn luyện Lượt người Năm truyền PCCC tham gia nghiệp vụ PCCC tham gia
2014 82 3.857 78 2.920
2015 145 11.214 133 4.221
2016 147 12.529 142 5.067
2017 158 16.882 159 7.030
2018 156 16.014 172 7.612
Bảng 2.2. Công tác tuyên truyền và huấn luyện nghiệp vụ PCCC trên địa àn
huyện Đông Anh (2014 – 2018).
(Nguồn: Phòng Cảnh sát PCCC huyện Đông Anh).
Trong 05 năm, trên toàn huyện đã mở được bình quân 138 lớp tuyên
truyền về PCCC mỗi năm, với khoảng 12.100 lượt người tham gia và 137 lớp
huấn luyện nghiệp vụ PCCC, có 5.370 lượt người tham gia và được cấp giấy
chứng nhận nghiệp vụ PCCC; tổ chức phát động và xây dựng phong trào toàn
dân tham gia PCCC tại 133 cụm dân cư, chung cư an toàn về PCCC, với
24/24 xã, thị trấn; tổ chức được 135 buổi nói chuyện chuyên đề, tuyên truyền
hướng dẫn PCCC có hàng chục nghìn lượt người dự nghe; đã vận động nhân
dân tự trang bị được 64.141 bình chữa cháy/75.588 hộ dân, đạt 85%; viết và
đăng 359 tin bài, 3.748 khuyến cáo về các biện pháp đảm bảo an toàn về
PCCC, treo 404 băng rôn, khẩu hiệu; 100% cơ quan, doanh nghiệp và hộ dân
ký cam kết thực hiện tiêu chí an toàn về PCCC; sử dụng 299 lượt xe chữa
cháy tuyên truyền trực quan tại các tuyên đường tập trung đông dân cư, chợ,
trường học; phát hơn 10.000 tờ rơi tuyên truyền về PCCC; gửi 600 quyển tài
liệu hướng dẫn về an toàn phòng cháy và chữa cháy trong sử dụng hệ thống
điện; phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trung ương, Thành phố
như: THHN,VTC14, ANTV,.…, phòng văn hóa thông tin các huyện, các
xã, thị trấn tổ chức tuyên truyền, khuyến cáo về công tác PCCC đối với
61
các loại hình nguy hiểm về cháy như chợ, trung tâm thương mại, khu công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, các cửa hàng kinh doanh khí đốt
hóa lỏng, hóa chất …; vào các thời điểm Tuần lễ quốc gia an toàn vệ sinh lao
động – phòng chống cháy, ngày Toàn dân PCCC (4/10) tổ chức Hội thao kỹ
thuật chữa cháy, Hội thi tìm hiểu pháp luật về PCCC, thi tiểu phẩm
PCCC…thu hút hàng vạn lượt người tham gia khơi dậy được ý thức PCCC
trong mỗi cá nhân, doanh nghiệp. Cùng với đó, Luật Phòng cháy và chữa
cháy cũng được các địa phương trong huyện tuyên truyền trên hệ thống
truyền thanh của huyện. Các xã, thị trấn lồng ghép nội dung phòng cháy,
chữa cháy vào các buổi sinh hoạt thôn, xóm, tổ dân phố góp phần nâng
cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của xã hội, của mỗi thành
viên trong gia đình trong việc phòng cháy, chữa cháy.
Để giảm thiểu các vụ cháy xảy ra và nâng cao kiến thức pháp luật,
khả năng cứu chữa khi có cháy xảy ra tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, cơ sở kinh doanh, đặc biệt là các cơ sở giáo dục mầm non tư thục,
cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn huyện. Cán bộ Đội cảnh sát PCCC số
5 đã cung cấp đến các cơ quan, đơn vị tình hình cháy cùng các vụ cháy
điển hình xảy ra trên địa bàn huyện, những nội dung cơ bản của các văn
bản Quy phạm pháp luật về PCCC, như: Luật PCCC, các Chỉ thị, Kế
hoạch của Chính phủ, Bộ Công an, UBND thành phố, UBND huyện Đông
Anh về công tác PCCC; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của UBND xã, hộ
gia đình và cá nhân trong công tác PCCC. Hàng năm, lãnh đạo UBND,
công an các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, các chủ cơ sở sản xuất kinh
doanh cũng được hướng dẫn quy trình cứu chữa một vụ cháy, hướng dẫn
hô hoán, gõ kẻng báo động, cách thoát nạn khi có cháy và được hướng
dẫn cách sử dụng bình chữa cháy, máy bơm chữa cháy.
62
2.2.2.4. Công tác tổ chức, phối hợp với các cơ quan chức năng, các
ngành trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy
Hoạt động PCCC là trách nhiệm của toàn xã hội và của toàn dân. Do
đó, việc huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân và sự phối hợp của các bên
liên quan tham gia hoạt động PCCC là một nguyên tắc mang tính chủ đạo
được quy định tại khoản 1 điều 4 Luật PCCC. Nhận thức được tầm quan trọng
đó, trong 05 năm qua, UBND huyện Đông Anh đã chỉ đạo tăng cường sự phối
hợp giữa các cơ quan có liên quan, đảm bảo hoạt động PCCC đạt hiệu quả
cao, theo đó Phòng cảnh sát PC&CC số 5 đã ký 14 Quy chế phối hợp với
UBND các xã, thị trấn, công an, quân đội, điện lực, Ủy ban mặt trận tổ quốc,
ban quản lý các chợ…nhằm phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về PCCC.
Theo quy chế phối hợp, Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 và Ban Thường
trực, cùng các thành viên trực thuộc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện
Đông Anh như: Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiện Phụ nữ, Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân huyện, Liên đoàn Lao động, Hội Người
cao tuổi huyện và Mặt trận tổ quốc các xã, thị trấn sẽ phối hợp thực hiện các
công tác đẩy mạnh phong trào Toàn dân PCCC trên địa bàn huyện như: tăng
cường tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức cho đoàn viên, hội viên và
các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Đổi mới nội dung, hình thức, biện
pháp, nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân PCCC. Xây dựng và nhân rộng
các mô hình, điển hình tiên tiến, động viên khen thưởng kịp thời những tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân PCCC; Gắn kết
phong trào toàn dân PCCC với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu
nước; vận động nhân dân tham gia xây dựng nông thôn mới; “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Dân vận khéo”; “Thực hiện
63
quy chế dân chủ ở cơ sở”… Huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc tham gia phong trào toàn dân PCCC và “Ngày toàn dân
PCCC”; tổ chức đăng ký thi đua xây dựng khu dân cư, xã, phường, thị trấn,
cơ quan, doanh nghiệp, an toàn điển hình tiên tiến về PCCC; Xây dựng lực
lượng Cảnh sát PC&CC, cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt,
có năng lực chuyên môn giỏi, biết phát huy sáng kiến, sự sáng tạo, thể hiện là
lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thường
xuyên bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ chính trị, pháp luật, chuyên môn,
đối với lực lượng làm công tác xây dựng phong trào toàn dân PCCC.
Định kỳ 6 tháng, Phòng cảnh sát PC&CC số 5 và Ủy ban Mặt trận tổ
quốc huyện tổ chức giao ban, đánh giá tình hình thực hiện và đề ra các giải
pháp để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp.
Với đơn vị phát thanh, truyền hình: trong 5 năm đã cung cấp 529 tin bài
về PCCC cho đài phát thanh của huyện với tần suất phát thanh 47 giờ/năm;
đưa 142 tin, bài đăng trên Website của Cảnh sát PC&CC TP Hà Nội và của
huyện; phối hợp cùng đài truyền hình an ninh (ANTV) quay 02 phóng sự an
toàn về PCCC cơ sở khách sạn, nhà nghỉ và nhà cho thuê mỗi năm, đặc biệt
tại các điểm dễ xảy ra cháy như khu nhà trọ xã Kinh Chung, làng nghề thủ
công mỹ nghệ xã Vân Hà, Liên Hà,...
Với các doanh nghiệp trên địa bàn: Phối hợp với các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tổ chức các lớp tuyên truyền, huấn luyện
nghiệp vụ PCCC, nâng cao khả năng chữa cháy của lực lượng PCCC cơ sở để
lực lượng này có đủ khả năng thực hiện tốt công tác phòng ngừa, phát hiện và
dập tắt kịp thời nếu có cháy xảy ra (mở 242 lớp với 23058 người tham dự).
Ngoài ra, Phòng Cảnh sát PCCC số 5 còn tổ chức xây dựng và ký quy
chế phối hợp với Công ty Điện lực huyện Đông Anh, Xí nghiệp môi trường
64
Đô thị huyện, Công ty nước sạch huyện Đông Anh,…nhằm thực hiện tốt công
tác quản lý nhà nước về PCCC.
Việc thực hiện quy chế phối hợp nhằm củng cố và nâng cao vai trò
nòng cốt của lực lượng Cảnh sát PCCC, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các đơn vị, tổ chức liên quan, từ đó nâng cao sự đoàn kết, thống nhất
trong việc tham mưu với cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện phong trào toàn dân PCCC trên địa bàn huyện, huy động sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân tham gia xây dựng phong
trào toàn dân PCCC, bảo vệ an ninh tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Qua đó, đã tạo chuyển biến tích
cực về nhận thức cũng như tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
PCCC, tình hình cháy tại các cơ quan, doanh nghiệp và hộ gia đình đã được
kiềm chế cả về số vụ và thiệt hại.
2.2.2.5. Công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy
* Nhiệm vụ phòng cháy:
Trong hoạt động phòng cháy thì công tác điều tra cơ bản là một trong
những nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động này nhằm để phục vụ cho việc tham
mưu, chỉ đạo, hướng dẫn các biện pháp, giải pháp đảm bảo an toàn PCCC; xác
định trọng tâm, trọng điểm công tác theo từng giai đoạn, theo địa bàn, theo
chuyên đề; xác định nhu cầu kinh phí đầu tư cho công tác PCCC phù hợp với
yêu cầu, đòi hỏi của tình hình.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, UBND huyện Đông Anh đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác điều tra cơ bản ở các địa bàn, cơ sở trọng
điểm trong lĩnh vực PCCC. Đến nay đã tiến hành điều tra, khảo sát xây dựng
được 1303 hồ sơ quản lý công tác PCCC của 1303 cơ sở (trong đó: Loại I: 39
(cơ sở); Loại II: 326 (cơ sở); Loại III: 872 (cơ sở); KPL: 66 (cơ sở). Đồng
thời, thường xuyên tổ chức kiểm tra theo kế hoạch tăng cường công tác PCCC
65
mùa hanh khô và các hoạt động Lễ hội, Tết Nguyên đán; thực hiện công tác
kiểm tra theo các kế hoạch, phương án bảo vệ tuyệt đối an toàn các kỳ cuộc
thi, hoạt động văn hóa, thể thao diễn ra trên địa bàn huyện theo kế hoạch của
UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo; xây dựng, triển khai kế hoạch thực hiện
tuần Lễ Quốc gia an toàn vệ sinh lao động, phòng chống, cháy, ngày toàn dân
PCCC 04/10; thực hiện tốt công tác tuyên truyền đến các ban ngành, cơ sở,
treo băng rôn, khẩu hiệu hưởng ứng tạo không khí sôi nổi, thiết thực.
Công tác xây dựng phong trào toàn dân PCCC tiếp tục được quan tâm
chỉ đạo thực hiện và đạt kết quả tích cực. UBND huyện đã chỉ đạo xuống từng
cơ sở, địa bàn chủ động rà soát, củng cố 156 đội dân phòng của 156 thôn,
xóm, tổ dân phố với 965 đội viên; 24 đội dân phòng của 24 xã, thị trấn trên
địa bàn huyện; 450 đội chữa cháy cơ sở, với 4950 đội viên; xây dựng 03 đội
nữ tiểu thương tự quản về PCCC tại 03 chợ có 36 đội viên. Các lực lượng này
hàng năm đều được chính quyền địa phương và lãnh đạo cơ sở tổ chức huấn
luyện để sẵn sàng xử lý các tình huống cháy xảy ra. Đến nay, trên địa bàn
huyện đã tổ chức đánh giá công nhận 90 đơn vị cơ sở đạt “Điển hình tiên tiến
về PCCC”. Nhìn chung các cơ sở trên địa bàn đều có nhiều những hoạt động
nổi bật và tích cực phấn đấu đạt các tiêu chí đề ra.
* Nhiệm vụ chữa cháy:
Để chủ động trong công tác chữa cháy, UBND huyện Đông Anh đã
phối hợp với Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 xây dựng đầy đủ giáo án, lịch tập
luyện và triển khai huấn luyện sát giáo án và tình hình thực tế của địa phương
như: chiến thuật, kỹ thuật chữa cháy đối với chợ, trung tâm thương mại, các
cơ sở sản xuất, kho tàng có quy mô lớn, nhà cao tầng, nhà khung sắt mái tôn
v.v…; Đảm bảo tốt công tác thường trực sẵn sàng chiến đầu, chữa cháy kịp
thời các vụ cháy xảy ra trên địa bàn quản lý. Thực hiện giao ban, giao ca đúng
giờ; xây dựng các tài liệu hướng dẫn sử dụng trang thiết bị PCCC mới; chủ
66
động tổ chức rút kinh nghiệm toàn diện 100% các vụ cháy xảy ra, qua đó
rút ra những bài học trong kinh nghiệm tổ chức chữa cháy, cứu hộ, cứu
nạn, quản lý địa bàn, quản lý cơ sở, các điều kiện giao thông; bảo quản,
bảo dưỡng nguồn nước chữa cháy, phương tiện chữa cháy; chiến thuật
chữa cháy để phục vụ trực tiếp trong chỉ đạo, thực hiện các mặt công tác
PCCC và cứu nạn cứu hộ.
Công tác học tập, tập luyện đã được thực hiện thường xuyên và liên tục
với số giờ luôn được duy trì: Lãnh đạo Phòng 80 giờ lý thuyết, 100 giờ thực
hành; Chỉ huy đội 100 giờ lý thuyết và 250 giờ thực hành; chiến sỹ 180 giờ lý
thuyết và 611 giờ thực hành; lái xe 40 giờ lý thuyết và 100 giờ thực hành.
Đồng thời, không ngừng đổi mới nội dung, hình thức huấn luyện nhằm kích
thích tính tự học trong mỗi cán bộ chiến sĩ.
Bên cạnh đó, Ban Chỉ huy Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 đã chỉ đạo các
đội chữa cháy và cứu nạn cứu hộ thuộc Phòng tăng cường học tập, tập luyện
để tham dự Hội thi thể thao nghiệp vụ chữa cháy và cứu nạn cứu hộ theo
chương trình của thành phố trong các dịp lễ lớn như: ngày hội toàn dân PCCC
4/10, kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát PCCC,…
Để chủ động trong công tác tổ chức chữa cháy, đã chỉ đạo lực lượng
chữa cháy lập mới và bổ sung 354 phương án chữa cháy, phối hợp các lực
lượng tổ chức thực tập 116 phương án chữa cháy có huy động nhiều lực
lượng, phương tiện tham gia; phối hợp với UBND 05 xã tổ chức thực tập
phương án chữa cháy tại trụ sở UBND 05 xã, 12 doanh nghiệp và 08 khu dân
cư có nguy cơ cháy cao không có đường cho xe chữa cháy hoạt động hoặc
tiếp cận khó khăn.
2.2.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về phòng
cháy, chữa cháy
Công tác thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa quan trọng của chủ thể quản lý
nhà nước về PCCC. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, UBND
67
huyện Đông Anh đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Cảnh sát PCCC số 5
thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn để nâng cao chất lượng công
tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường công tác điều tra cơ bản, phân loại cơ sở
thuộc diện quản lý về PCCC, trên cơ sở đó có biện pháp quản lý, kiểm tra,
hướng dẫn sát với thực tế và phù hợp với từng loại hình, tính chất hoạt động.
Trong 05 năm đã tổ chức kiểm tra an toàn về PCCC được 3.582 lượt cơ
sở; kiểm tra an toàn về PCCC 12 chuyên ngành (chợ, trung tâm thương mại,
khách sạn - nhà nghỉ, các trường học, cơ sở sản xuất kinh doanh, xăng dầu,
khí dầu mỏ hóa lỏng…) với 217 lượt cơ sở; phối hợp với các phòng, ban
thuộc UBND huyện kiểm tra an toàn về PCCC được 205 lượt cơ sở vào các
đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm. Qua kiểm tra kiến nghị cơ sở khắc
phục trên 5.000 thiếu sót, tồn tại mất an toàn về PCCC; lập biên bản vi phạm
và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC 416 trường
hợp với tổng số tiền phạt 1.800.500.000 đồng, chuyển cơ quan điều tra tiếp
tục điều tra làm rõ 01 vụ. Ra quyết định đình chỉ hoạt động 01 cơ sở. (Nguồn:
Phòng Cảnh sát PCCC huyện Đông Anh).
Công tác khám nghiệm hiện trường, điều tra xử lý vụ cháy được thực
hiện nghiêm túc đúng quy định, số vụ cháy được điều tra làm rõ đạt 99,3%.
Đối với công tác thanh tra: trong 05 năm qua, UBND huyện đã phối
hợp với thanh tra Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội thanh tra được12 lượt
cơ sở.
Qua thanh tra, kiểm tra, người đứng đầu cơ sở đã nhận thức rõ hơn vai
trò, trách nhiệm của mình trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của
pháp luật về PCCC; đồng thời đề ra biện pháp khắc phục hàng nghìn sơ hở,
thiếu sót, vi phạm về PCCC.
68
2.2.2.7. Công tác quản lý trang thiết bị, phương tiện phòng cháy, chữa
cháy
Trang thiết bị, phương tiện chữa cháy và cứu nạn cứu hộ là một trong
những yếu tố quan trọng, quyết định đến hiệu quả công tác PCCC và cứu nạn
cứu hộ. Tuy nhiên, về phương tiện chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ: 05 xe chữa
cháy, 01 xe thang, 01 xe chỉ huy, 02 ca nô và 03 máy bơm chữa cháy. Phương
tiện chữa cháy của lực lượng Cảnh sát PCCC đa số có tuổi thọ trung bình trên
20 năm, chất lượng kém, chưa đáp ứng yêu cầu chữa cháy; hiện tại chưa được
trang bị phương tiện cứu nạn cứu hộ nên khi có sự cố xảy ra việc xử lý rất khó
khăn, lúng túng; đặc biệt thiếu phương tiện chữa cháy đặc chủng như: chữa
cháy các tổng kho xăng dầu, hầm, xe thông tin liên lạc và ánh sáng… nên
hiệu quả chữa cháy không cao.
Giao thông, nguồn nước: Nhìn chung hạ tầng giao thông trên địa bàn
huyện đáp ứng tốt yêu cầu lưu thông của xe chữa cháy và hệ thống nguồn
nước tự nhiên từ các sông, hồ, ao, ngòi đảm bảo đầy đủ cho hoạt động chữa
cháy tại chỗ. Tuy nhiên, một số khu dân cư, thôn, xóm cũ tồn tại nhiều ngõ,
hẻm nhỏ xe chữa cháy không vào được; tại một số nơi bị lấn chiếm cơi nới để
kinh doanh buôn bán, hệ thống dây điện, điện thoại chằng chịt không đảm bảo
chiều cao thông thủy cho xe chữa cháy hoạt động.
Hệ thống cấp nước chữa cháy: Toàn huyện đã lắp đặt 253 trụ nước
chữa cháy và 05 bên lấy nước phục vụ chữa; nhìn chung hệ thống cấp nước
chữa cháy đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên, qua kiểm tra thực tế, số trụ nước đã
lắp không đảm bảo khoảng cách theo tiêu chuẩn (có nhiều khu vực khoảng
cách giữa 02 trụ nước chữa cháy gần 1000 mét, theo tiêu chuẩn 150 mét);
nhiều trụ nước không có nước, một số khu dân cư có nguy cơ cháy cao không
có nguồn nước phục vụ công tác chữa cháy.
69
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Từ khi Luật PCCC năm 2001 có hiệu lực thi hành, đến nay luật đã đi
vào cuộc sống, công tác PCCC đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, hiệu
lực quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC trên địa bàn huyện được
tăng cường.
- Trong thực hiện văn bản và ban hành các văn bản chỉ đạo về PCCC:
Có thể thấy trong 5 năm qua, từ năm 2013 – 2018, UBND huyện Đông Anh
đã ban hành khá nhiều văn bản chỉ đạo công tác PCCC. Nhìn chung, các văn
bản trên đều bám sát với chủ trương, đường lối của Đảng và phù hợp với các
văn bản quy phạm pháp luật mà nhà nước đã ban hành; phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương. Những văn bản này tạo nên hành lang pháp lý tương
đối chặt chẽ, đưa việc thực hiện công tác PCCC dần đi vào nề nếp và có bước
chuyển biến rõ rệt.
- Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Luật PCCC và các
văn bản quy phạm pháp luật về PCCC được các cấp chính quyền và các ban
ngành, đoàn thể quan tâm. UBND huyện Đông Anh và UBND các xã, thị trấn
đã chỉ đạo, phối hợp với các cấp, các ngành chức năng có liên quan tích cực
triển khai đồng bộ các hoạt động phòng cháy thông qua các hoạt động thông
tin tuyên truyền về PCCC với nhiều hình thức phong phú, đa dạng như thông
tin trực tiếp, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, sinh hoạt hội
viên, hội thi, các tiểu phẩm, liên hoan sân khấu với các nội dung về PCCC,
tuyên truyền Luật PCCC.
Trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, các ngành, các đơn vị, cơ sở đối với
công tác PCCC được nâng lên; UBND các cấp ngày càng thấy rõ trách nhiệm
của mình trong việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện pháp luật về PCCC; quan tâm
70
đầu tư kinh phí, mua sắm phương tiện cho các hoạt động PCCC và cứu nạn
cứu hộ.
Phong trào toàn dân PCCC được đẩy mạnh và hoạt động có hiệu quả;
nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào toàn dân PCCC được
đông đảo người dân đồng tình ủng hộ và tham gia, như: mô hình xây dựng
Cụm cơ quan an toàn về PCCC; khu dân cư, chung cư an toàn về PCCC; Chợ
an toàn về PCCC, hay như mô hình vận động tiểu thương tự trang bị bình
chữa cháy, hộ gia đình tự trang bị bình chữa cháy.v.v...; lực lượng PCCC cơ
sở và dân phòng đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong công tác
PCCC tại cơ sở và khu dân cư, hàng năm lực lượng này đã dập tắt kịp thời
trên 50% tổng số vụ cháy xảy ra, góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn
nguy cơ cháy lan, cháy lớn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an
ninh trật tự tại địa phương.
- Công tác tổ chức, phối hợp giữa các cơ quan, các ngành trong công
tác PCCC: Trên địa bàn huyện, các lực lượng chức năng, các ban, ngành đã
chủ động xây dựng, ký kết và triển khai thực hiện hàng trăm quy chế, kế
hoạch phối hợp trong triển khai thực hiện công tác PCCC tập trung vào các
lĩnh vực trọng điểm như: xây dựng, kiến trúc, xăng dầu, điện lực, hàng không,
hóa chất vật liệu nổ công nghiệp... kết quả đó, đã từng bước tháo gỡ khó khăn,
vấn đề còn chồng chéo trong thực hiện quản lý Nhà nước về PCCC, tăng
cường được trách nhiệm, nghĩa vụ của các cấp, các ngành đối với công tác
này. Sự phối hợp này cũng đã góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính trong
lĩnh vực PCCC. Công tác phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng (công an,
quân đội, y tế, công thương...) trong công tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ
cũng đã được đẩy mạnh, góp phần không nhỏ tổ chức cứu chữa thành công
nhiều vụ cháy lớn, tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ nhiều nạn nhân khỏi các sự cố,
tai nạn nghiêm trọng.
71
- Trong công tác tổ chức phòng cháy, chữa cháy: Hàng năm trên địa
bàn huyện Đông Anh xảy ra khoảng 54 vụ cháy, trong đó khoảng 30 vụ cháy
có gây thiệt hại về tài sản. Trong 05 năm qua, UBND huyện phối hợp với
Phòng cảnh sát PC&CC số 5 đã trực tiếp xuất xe và tổ chức cứu chữa 129 vụ
cháy, bảo vệ được nhiều tài sản của nhà nước và nhân dân có giá trị hàng trăm
tỉ đồng điển hình là vụ cháy tại cơ sở kinh doanh giày da Minh Đức, cơ sở
sản xuất sơn Hòa Phát, cháy cơ sở chế biến gỗ tại làng nghề xã Vân Hà…
- Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về PCCC: Với chức
năng giúp UBND huyện quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện,
Phòng cảnh sát PC&CC số 5 đã triển khai quyết liệt các biện pháp nghiệp vụ
trong công tác phòng ngừa cháy, thường xuyên tổ chức kiểm tra, hướng dẫn
các đơn vị cơ sở thực hiện các biện pháp, giải pháp an toàn PCCC. Thông
qua công tác kiểm tra, nắm địa bàn lực lượng Cảnh sát PCCC số 5 đã phát
hiện và kiến nghị khắc phục hàng nghìn sơ hở thiếu sót mất an toàn PCCC,
ngăn chặn kịp thời các nguy cơ gây cháy, bảo vệ an toàn các cơ sở trọng
điểm, các sự kiện chính trị quan trọng của địa phương và đất nước; các công
trình xây dựng lớn, có nguy hiểm về cháy đã thực hiện tốt việc thẩm duyệt
thiết kế về PCCC.
Có thể khẳng định rằng, hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa
bàn huyện Đông Anh đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
Một là, tình trạng cháy trên địa bàn còn nhiều diễn biến phức tạp: công
tác quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện trong 05 năm qua đã đạt
được kết quả quan trọng, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện đã bộc lộ
nhiều hạn chế, đó là: với mục tiêu kiềm chế sự gia tăng số vụ cháy và thiệt hại
72
do cháy gây ra, nhưng tình hình cháy những năm gần đây còn diễn biến rất
phức tạp, vẫn để xảy ra những vụ cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng về tài
sản; nguy cơ cháy có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn và khó kiểm soát.
Hai là, còn khó khăn trong việc triển khai thực hiện các quy định của
pháp luật về PCCC: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
công tác PCCC còn chậm, thậm chí có văn bản chưa được ban hành theo quy
định của Luật PCCC; một số quy định thiếu tính khả thi hoặc đã lạc hậu,
không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hoặc có sự chồng chéo,
thiếu thống nhất giữa các quy định của pháp luật.
Việc tổ chức thi hành các văn bản quy phạm pháp luật PCCC tại địa
phương, cơ quan, đơn vị chưa nghiêm, chưa triệt để. Chưa chú trọng rà soát
các tiêu chuẩn ngành liên quan đến một số lĩnh vực, công trình, phương tiện
đặc thù để kịp thời kiến nghị sửa đổi, hoặc ban hành theo thẩm quyền theo
quy định của Luật PCCC (cụ thể như: Chưa ban hành văn bản hướng dẫn về
công tác quy hoạch có liên quan đến PCCC; tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC
tại địa phương).
Việc triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể hệ thống PCCC chỉ được
thực hiện tại các thành phố lớn; các địa phương còn lại triển khai chậm hoặc
không triển khai; trong số các Đề án quy hoạch đã phê duyệt, có rất ít đề án
gắn quy hoạch về PCCC với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
đô thị ở địa phương nên rất khó khăn trong triển khai thực hiện.
Trong suốt 5 năm qua, Huyện ủy, UBND huyện đã tích cực ra nhiều
các văn bản (quyết định, kế hoạch, hướng dẫn) trong quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn theo đúng công văn, chỉ đạo của cơ quan
cấp trên và tình hình của địa phương đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy
nhiên, công tác tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về phòng cháy, chữa
cháy có lúc, có nơi còn thụ động, chưa kịp thời; vẫn còn một số kế hoạch
73
PCCC chuyên ngành chưa được sơ kết; các văn bản chỉ đạo tại một số địa
phương, cơ quan, doanh nghiệp triển khai thực hiện chưa nghiêm, thiếu kiểm tra,
giám sát…Các tồn tại trên do năng lực của đội ngũ làm công tác tham mưu còn
hạn chế, công tác quản lý địa bàn thiếu chặt chẽ, nhận thức của một số chính
quyền địa phương đối với công tác quản lý nhà nước về PCCC chưa cao.
Vì vậy, trong thời gian tới, lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện cùng với
lực lượng Cảnh sát PCCC tiếp tục triển khai các chương trình, hướng dẫn về
PCCC của cơ quan cấp trên một cách chủ động, kịp thời, trong đó chú trọng
khâu kiểm tra, giám sát thực hiện tại các xã, thị trấn, đơn vị, doanh nghiệp,
nghiêm túc sơ kết, tổng kết hàng quý, hàng năm để đảm bảo pháp luật đi vào
thực tiễn đờ sống xã hội, đồng thời nghiên cứu kỹ tình hình thực tế của địa
phương nhằm đưa ra kế hoạch thực hiện một cách toàn diện, hiệu quả nhất.
Ba là, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng cháy, chữa
cháy còn những tồn tại, vướng mắc: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật và kiến thức, kỹ năng về PCCC tuy đã được lãnh đạo huyện và
các ngành quan tâm nhưng vẫn còn mang tính hình thức, chưa thường xuyên,
chủ yếu tập trung vào một số dịp cao điểm; địa điểm chủ yếu tập trung ở thị
trấn chưa quan tâm đến khu vực nông thôn. Một bộ phận người đứng đầu cơ
sở chưa thật sự quan tâm đến công tác tuyên truyền kiến thức PCCC chỉ tập
trung cho việc kinh doanh, sản xuất, hoặc cá biệt có những trường hợp đã mua
bảo hiểm cháy thì họ không quan tâm đến việc duy trì các điều kiện an toàn
PCCC; nhận thức của một bộ phận nhân dân về an toàn PCCC chưa đầy đủ,
còn thờ ơ, xem nhẹ; kiến thức về PCCC và thoát nạn chưa được triển khai sâu
rộng; thành phần tham dự tuyên truyền PCCC đa số người già và phụ nữ, số
cán bộ đảng viên, công chức rất ít tham gia; trong công tác tuyên truyền có
lúc, có nơi còn mang tính thời vụ, hoặc để đối phó nên hiệu quả đạt thấp.
74
Theo kết quả khảo sát bằng bảng hỏi về công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh ở một số xã:
Cổ Loa, Kim Chung, Mai Lâm, Vân Hà, Võng La về các văn bản pháp luật,
thông tư, nghị định: Luật Phòng cháy và chữa cháy, Nghị định số
79/2014/NĐ-CP, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, cho thấy tỷ lệ số người tiếp
cận được với các văn bản này còn rất hạn chế. Kết quả khảo sát từ cao xuống
thấp như sau:
+ Luật Phòng cháy và chữa cháy: 55,6%
+ Nghị định số 79/2014/NĐ-CP: 35,5%
+ Nghị định số 167/2013/NĐ-CP: 23,8%
(Đơn vị:%)
Địa phương Cổ Loa Kim Chung Mai Lâm Vân Hà Võng La Đã đọc 38,9 39,6 38,2 41,7 40,3 Đã nghe 78,8 79,1 78,5 79,7 79,3 Đã biết 91,7 90,8 89,4 91,0 90,2
Bảng 2.3. iểu iết của người dân một số địa phương về
Luật Phòng cháy và chữa cháy
(Nguồn: Cảnh sát PCCC số 5)
Bảng 2.3 cho thấy: tỷ lệ người dân hiểu biết (được đọc, được nghe) về
Luật phòng cháy và chữa cháy khá thấp. Sự hiểu biết này chủ yếu thông qua
các kênh phương tiện truyền thông đại chúng, tài liệu truyền thông, các hội
nghị, hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật, sinh hoạt câu lạc bộ. Một thực tế
đáng buồn là mặc dù Luật phòng cháy và chữa cháy đã có hiệu lực thi hành
một thời gian tương đối dài nhưng khi được hỏi đến thì rất nhiều người lại
không biết về luật này.
Các biện pháp tuyên truyền chủ yếu hiện nay bao gồm: Tuyên truyền
miệng; tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng (loa, đài phát
75
thanh, truyền hình, báo chí...); phát hành tờ rơi, treo băng rôn, khẩu hiệu; thực
hành, trải nghiệm các hoạt động chữa cháy, thoát nạn; thi tìm hiểu pháp luật
về PCCC; triển khai dịch vụ tin nhắn trên điện thoại di động đề tuyên truyền
về PCCC; công khai phê phán những vi phạm quy định an toàn PCCC trên
các phương tiện thông tin đại chúng,...Tuy nhiên, qua đánh giá hiện nay, các
hình thức tuyên truyền này lặp đi lặp lại về nội dung, còn mang nặng tính
hình thức, phòng trào, làm tran lan mà không thăm dò, nghiên cứu tình hình
cụ thể của từng địa phương, cơ sở nên hiệu quả không cao. Vì vậy, trong thời
gian tới cần phải có sự đổi mới về cả nội dung lẫn hình thức tuyên truyền.
Bốn là, trong công tác tổ chức, phối hợp giữa các cơ quan, các ngành
vẫn còn một số hạn chế nhất định, việc phối hợp trong công tác tuyên truyền
chưa được thường xuyên, nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phong phú
để thu hút đông đảo người dân tham gia. Mặt khác, các cơ quan có liên quan
chưa thật sự quan tâm đến hoạt động này nên ảnh hưởng phần nào đến chất
lượng của công tác phối hợp.
Năm là, công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm về PCCC còn chưa
quyết liệt, chặt chẽ: Về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong PCCC, còn
thiếu sự phối hợp giữa các lực lượng, chưa thực sự quyết liệt, triệt để. Sau
hoạt động thanh tra, kiểm tra, việc tổ chức khắc phục các tồn tại, thiếu sót, vi
phạm quy định về PCCC còn chậm, chưa triệt để, nguy cơ cháy vẫn còn tồn
tại. Những lỗi vi phạm thường gặp là: không lập hồ sơ theo dõi công tác
PCCC; không ban hành nội quy, quy định về PCCC; chế độ bảo quản, bảo
dưỡng phương tiện báo cháy, chữa cháy không đúng quy định; giao thông nội
bộ cho xe chữa cháy hoạt động bị lấn chiếm; không kiểm tra hệ thống chống
sét đánh thẳng; không mua bảo hiểm cháy bắt buộc; không tổ chức tuyên
truyền, huấn luyện nghiệp vụ PCCC; không lập và thực tập phương án chữa
cháy; hệ thống điện và việc sử dụng điện không đảm bảo; sắp xếp hàng hóa
không đúng quy định…Nguyên nhân của những vi phạm đó là một bộ phận
76
lãnh đạo các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ đến công tác PCCC, mặt dù
đã kiến nghị nhiều lần nhưng không khắc phục; do áp lực kinh doanh nên
không dành thời gian đến công tác PCCC; một số doanh nghiệp đã mua bảo
hiểm cháy bắt buộc nên không quan tâm đến công tác PCCC.
Việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực PCCC liên quan đến lợi ích doanh
nghiệp và quan hệ kinh tế - xã hội phức tạp, có những trường hợp không giải
quyết được dứt điểm. Tình trạng vi phạm các quy định về PCCC trong lĩnh
vực xây dựng, quy hoạch tại các đô thị, khu dân cư còn xảy ra nhiều, một số
công trình được đưa vào sử dụng, nhưng chưa được thẩm duyệt, nghiệm thu
về PCCC; một số công trình chủ đầu tư tự thay đổi công năng, tự ý chuyển
đổi thiết kế xây dựng... Tình hình cháy vẫn diễn biến phức tạp, ở nhiều địa
bàn, cơ sở trọng điểm, nhà cao tầng - siêu cao tầng, chợ, trung tâm thương
mại, khu dân cư tập trung, nhà ở kết hợp kinh doanh, phương tiện giao thông
thủy, bộ...Trong khi đó, các lực lượng chức năng chưa chú trọng việc xử lý
trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật về PCCC “có khả năng
thực tế gây thiệt hại” theo quy định tại Điều 313 Bộ luật Hình sự.
Sáu là, tại một số cơ quan, đơn vị chưa bố trí kinh phí hoặc thiếu kinh
phí đầu tư cho công tác PCCC cho nên việc trang bị phương tiện, dụng cụ
PCCC còn thiếu và lạc hậu; lực lượng dân phòng tham gia công tác PCCC tại
khu dân cư chủ yếu tự nguyện, chế độ chính sách, động viên khen thưởng
chưa được quan tâm.
Vì vậy, ưu tiên bố trí nguồn lực, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, phương tiện, trang thiết bị; chỉ đạo bố trí ngân sách PCCC đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; đẩy mạnh công tác xã hội hóa PCCC; tăng
cường nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, hợp tác quốc tế về PCCC;
có chính sách phù hợp khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng hạ
tầng cơ sở PCCC, nghiên cứu, sản xuất phương tiện, thiết bị PCCC, tham gia
hoạt động PCCC.
77
2.3.2.2. Nguyên nhân
Các nguyên nhân của thiếu sót, cụ thể là:
Một là, hệ thống pháp luật về PCCC về cơ bản là đầy đủ, có tính đồng
bộ nhưng một số quy định trong Luật PCCC, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật PCCC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư
số 66/2014/TT-BCA của Bộ Công an và một số quy chuẩn, tiêu chuẩn về
PCCC chưa được thực thi nghiêm minh như: công tác xây dựng lực
lượng dân phòng, việc duy trì các điều kiện an toàn PCCC đối với các chợ,
trung tâm thương mại, nhà cao tầng, cửa hàng kinh doanh xăng dầu, khí đốt
hóa lỏng...; một số tiêu chuẩn đã cũ không còn phù hợp với thực tế, một số
loại công trình mới nhưng chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn để áp dụng, chế tài
xử phạt nhẹ. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn thường ban hành chậm làm
cho việc tổ chức thực hiện gặp nhiều trở ngại.
Hai là, về nhận thức, một bộ phận lãnh đạo các cấp, các ngành, đơn vị,
cơ sở và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò, vị trí của
công tác PCCC trong đời sống xã hội, trách nhiệm đối với công tác PCCC
chưa cao, chưa gắn công tác đảm bảo an toàn PCCC với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự.
Luật PCCC, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC và các
văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định về trách nhiệm của Chủ
tịch UBND các cấp, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ sở,
chủ phương tiện giao thông cơ giới, chủ hộ gia đình và cá nhân trong công tác
PCCC nhưng trên thực tế, sự chuyển biến trong nhận thức và từ nhận thức
đến việc thực thi các quy định của pháp luật về PCCC chưa cao.
Ba là, về phía chủ thể quản lý mà đặc biệt là lực lượng Cảnh sát PCCC
với vai trò là lực lượng nòng cốt trong quản lý nhà nước về PCCC đang phải
đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập:
78
- Lực lượng Cảnh sát PCCC tuy đã được đầu tư xây dựng về tổ chức,
biên chế, cán bộ và đào tạo, trang bị phương tiện chữa cháy và cứu nạn, cứu
hộ, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu do thiếu về biên chế, yếu về trình độ
nghiệp vụ, cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ cao số lượng rất thấp; phương
tiện chữa cháy, cứu nạn cứu hộ vừa thiếu, vừa lạc hậu, chưa đáp ứng được
yêu cầu công tác PCCC phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [29].
Về năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý: Công tác quản lý vẫn còn
mang tính hành chính, thiếu tính đồng bộ, quyết liệt; công tác kiểm tra an toàn
về PCCC chưa bám sát các nội dung cần kiểm tra và các tiêu chuẩn, quy
chuẩn hiện hành để phát hiện và kiến nghị đúng các tồn tại, thiếu sót dễ dẫn
đến cháy; tình trạng vi phạm kéo dài nhưng xử lý chưa kiên quyết. Công tác
thẩm duyệt thiết kế về PCCC chưa chuyên sâu và thiếu kiên quyết đối với chủ
đầu tư, cơ quan tư vấn thiết kế trong việc thực hiện các quy định tại quy
chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC; nội dung kiểm tra đối chiếu thẩm duyệt còn đơn
giản, chưa sâu, đặc biệt là các giải pháp đảm bảo an toàn PCCC hệ thống
thoát nạn, tạo áp, hút khói, bố trí dây chuyền công nghệ sản xuất, hệ thống
điện, chống sét, thang máy chữa cháy.v.v... Việc nghiệm thu PCCC chưa bám
sát các nội dung đã thẩm duyệt, không phát hiện được vi phạm trong quá trình
thi công. Công tác xử lý vi phạm chưa nghiêm, còn xuê xoa, nể nang.
- Mô hình tổ chức, chưa có sự thống nhất chung trên toàn quốc: Bên
cạnh các nguyên nhân trên không thể không nói đến những nguyên nhân
khách quan tác động đến hiệu lực quản lý nhà nước về PCCC, đó là: những
khó khăn, bất cập trong xây dựng kinh tế, xã hội của đất nước; sự tác động
của tình trạng suy thoái kinh tế, lạm phát, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đời
sống của một bộ phận dân cư còn rất khó khăn; việc bảo đảm các điều kiện
làm việc cho cán bộ chiến sỹ và các phương tiện phục vụ công tác của lực
lượng Cảnh sát PCCC chưa đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước về PCCC
đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC.
79
Tiểu kết chƣơng 2
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng cháy trên địa bàn huyện
Đông Anh và công tác quản lý nhà nước về PCCC của các chủ thể quản lý.
Luận văn đã phân tích, làm rõ đặc điểm tình hình, lĩnh vực, nguyên
nhân gây cháy, số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra. Đặc biệt trong phần
này đã rút ra 4 nhóm nguyên nhân gây cháy chủ yếu.
Luận văn đã phân tích, làm rõ các hoạt động quản lý nhà nước về PCCC
đã được triển khai trong 05 năm qua. Từ đó rút ra các ưu điểm, các mặt còn tồn
tại thiếu sót và nguyên nhân của các thiếu sót trong quản lý nhà nước về PCCC
trên địa bàn huyện. Đây là những tiêu chí quan trọng để đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PCCC trong tình hình hiện nay.
80
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG
CHÁY, CHỮA CHÁY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm và mục tiêu tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong
thời gian tới
3.1.1. Quan điểm
Trong những năm qua, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự ủng
hộ của các cấp, các ngành và toàn xã hội, công tác quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy đã có những chuyển biến rõ rệt, đã kiềm chế được sự gia tăng
về số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính
mạng và tài sản của nhân dân, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm đổi mới, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
về PCCC, Nhà nước đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng trong
quản lý công tác PCCC bằng việc ban hành Luật PCCC (có hiệu lực thi hành
từ 4/10/2001).
Từ khi Luật PCCC có hiệu lực thi hành đến nay, Đảng ủy Công an
Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã chủ động tham mưu, đề xuất Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành nhiều văn bản và triển khai
nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực, đạt được những kết quả rất quan trọng, góp
phần kiềm chế sự gia tăng về số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra so với tốc
độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của xã hội, đặc biệt đã kiềm chế được
81
số vụ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng ở mức 1,5 - 5% so với tổng số vụ
cháy xảy ra, bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của
nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong
tình hình mới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình cháy diễn biến
phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ và thiệt hại...
Nguyên nhân chính của tình hình trên là do một bộ phận lãnh đạo các
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cơ sở và cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân về
nhận thức chưa đầy đủ, còn thiếu chủ động và thực hiện chưa đầy đủ trách
nhiệm của mình trong công tác phòng cháy và chữa cháy; chưa thực hiện đầy
đủ và duy trì các điều kiện an toàn về PCCC; chưa chấp hành nghiêm các quy
định của pháp luật về PCCC và những kiến nghị của cơ quan Cảnh sát PCCC.
Việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm quy định về PCCC chưa mạnh,
tác dụng răn đe yếu. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho công tác PCCC nói chung
chưa cao... chưa đáp ứng được đòi hỏi của yêu cầu nhiệm vụ…
Trước tình hình trên, cần tập trung nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
đối với công tác PCCC nhằm tạo chuyển biến mới mạnh mẽ trong công tác
PCCC đấu tranh ngăn chặn nguy cơ cháy, cháy lớn và hạn chế đến mức thấp
nhất thiệt hại do cháy gây ra. Trong thời gian tới cần triển khai các phương
hướng cụ thể như sau:
Một là, cần tiếp tục chỉ đạo triển khai và thực hiện có hiệu quả Luật
PCCC; bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu
chuẩn, quy chuẩn về PCCC; tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả
Chỉ thị 47/CT-TƯ ngày 25/06/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác PCCC; hoàn thiện cơ sở pháp lý và triển khai có
hiệu quả nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ hằng ngày.
Hai là, cần nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành và người đứng
đầu đơn vị cơ sở trong việc tổ chức thực hiện công tác PCCC; phát huy sức
82
mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân tham gia công tác
PCCC, hình thành thế trận toàn dân PCCC. Quán triệt phương châm "Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc",
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác PCCC. Tập trung xây
dựng và duy trì hoạt động của lực lượng PCCC cơ sở và dân phòng, đặc biệt
là ở những cơ sở, địa bàn trọng điểm có nhiều nguy cơ xảy ra cháy.
Ba là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ PCCC: Nắm tình hình, điều tra cơ bản, nắm bắt kịp thời các
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, từ đó chủ động đề ra các giải pháp mang tính lâu dài cho
các ngành, lĩnh vực kinh tế; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, kiểm
tra, thẩm duyệt, chữa cháy và công tác nghiên cứu khoa học, điều tra nguyên
nhân vụ cháy…
Bốn là, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác điều tra nguyên
nhân vụ cháy và tăng cường công tác xử lý những trường hợp vi phạm quy
định về PCCC. Đối với những cơ sở có nhiều vi phạm nghiêm trọng quy định
PCCC, không an toàn, có nguy cơ nếu xảy cháy sẽ dẫn đến cháy lớn, thiệt hại
nghiêm trọng và đe dọa tính mạng của nhiều người phải có biện pháp xử lý
mạnh, kể cả tạm đình chỉ và đình chỉ hoạt động. Đối với những trường hợp vi
phạm nghiêm trọng quy định PCCC hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong
PCCC gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
thì phải khởi tố và xét xử.
Năm là, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng Cảnh sát
PCCC và cứu nạn cứu hộ; đầu tư đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
PCCC và cứu nạn cứu hộ đi đôi với việc nghiên cứu chế độ, chính sách phù
hợp để thu hút cán bộ làm công tác PCCC và cứu nạn cứu hộ; đầu tư trang bị
phương tiện, nhất là phương tiện PCCC đặc chủng, phương tiện cứu nạn cứu
83
hộ để nâng cao sức chiến đấu cho lực lượng Cảnh sát PCCC; nâng cao hiệu
quả các biện pháp nghiệp vụ và chất lượng đội ngũ cán bộ của lực lượng
Cảnh sát PCCC và cứu nạn cứu hộ, tiến tới xây dựng lực lượng Cảnh sát
PCCC và cứu nạn cứu hộ chính quy, tinh nhuệ và hiện đại ngang tầm với
năng lực và mô hình tổ chức của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phân cấp nhiệm vụ và tăng cường biên chế cho Công an cấp huyện, đầu tư
hơn nữa cho công tác PCCC nhằm phát huy vai trò, trách nhiệm quản lý công
tác PCCC ở địa phương.
3.1.2. Mục tiêu
Thực hiện Luật Phòng cháy, chữa cháy năm 2001, cùng các chỉ thị của
Chính phủ, thông tư của các bộ ngành về việc tổ chức triển khai thi hành Luật
Phòng cháy, chữa cháy và chương trình hành động quốc gia về phòng cháy,
chữa cháy đến năm 2020, UBND huyện Đông Anh đã có những định hướng
và mục tiêu thiết thực, phù hợp với thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước
về phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện.
Thứ nhất, công tác phòng cháy, chữa cháy phải được coi là một vấn đề xã
hội cấp bách vì cháy gây ra hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về kinh tế, hạn
chế sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội, ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền, vận động và xây dựng các mô hình hoạt động phòng cháy, chữa cháy.
Thứ ba, việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về phòng
cháy chữa cháy cần nghiêm minh đặc biệt là các biện pháp xử lý đối với các
tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về phòng cháy, chữa cháy gây hậu quả
nghiêm trọng.
Thứ tư, phòng cháy, chữa cháy là trách nhiệm của toàn xã hội, cần sự
vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, người dân, cần có sự phối hợp đồng
bộ của tất cả các lực lượng, đoàn thể xã hội.
84
Chính vì vậy, để thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa
bàn, UBND huyện Đông Anh đã chủ động xây dựng các mục tiêu thực hiện
như sau:
Một là, nghiêm túc triển khai thực hiện có hiệu quả quả Luật Phòng
cháy, chữa cháy, các văn bản chỉ đạo của các Bộ ngành, của thành phố về
công tác PCCC & cứu nạn cứu hộ. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến các nội dung về PCCC & cứu nạn cứu hộ bằng nhiều hình thức
phong phú dễ hiểu, thiết thực tại trụ sở cơ quan, khu tập thể, chung cư, nơi
sản xuất kinh doanh để mọi người nắm được những kiến thức cơ bản và cách
sử dụng phương tiện PCCC, các kỹ năng thoát nạn.
Hai là, tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác an toàn PCCC tại địa
phương; nâng cao chất lượng quản lý, bảo quản, bảo trì, bảo dưỡng các
phương tiện, trang thiết bị PCCC đáp ứng điều kiện sản xuất kinh doanh, sinh
hoạt trên địa bàn huyện.
Ba là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách
nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong công
tác phòng cháy, chữa cháy; từng bước ngăn chặn và giảm dần số vụ cháy và
thiệt hại do cháy gây ra. Tăng cường công tác kiểm tra an toàn PCCC trong
mùa hanh khô, các dịp lễ tết, thực hiện tốt phương châm “lấy phòng ngừa là
chính”. Phấn đấu đến năm 2022, đạt 100% người dân trên địa bàn huyện được
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và các chính sách của Nhà nước có
liên quan đến hoạt động phòng cháy, chữa cháy; đạt 100% người dân biết sử
dụng các phương tiện, phương án chữa cháy cơ bản. Duy trì và mở rộng các
mô hình, các giải pháp can thiệp kịp thời khi cháy xảy ra, nâng cao chất lượng
các họat động về phòng cháy, chữa cháy.
85
Bốn là, làm tốt công tác thi đua khen thưởng, kịp thời động viên những
tập thể, cá nhân tiêu biểu đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm với những tập
thể, cá nhân vi phạm trong công tác PCCC.
Năm là, xây dựng được mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp trong công tác phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện.
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong
thời gian tới
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo huyện, đảng ủy
cơ quan và các đơn vị liên quan đối với công tác phòng cháy, chữa cháy
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện đối với mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội của đất nước, trong đó có nhiệm vụ quản lý nhà
nước về phòng cháy, chữa cháy. Trong Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta xác
định mục tiêu: “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để cụ thể
hóa nội dung trên, Ban Bí thư ra Chỉ thị 47-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm
2015 về công tác phòng cháy, chữa cháy đã nhấn mạnh: “Kiện toàn tổ chức
bộ máy, nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy ở các cấp. Phát huy trách nhiệm của lực lượng Công an nhân
dân trong việc hướng dẫn các bộ, ban ngành, địa phương thực hiện công tác
phòng cháy, chữa cháy…”. Theo đó, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trân
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở phải xác định công tác
PCCC là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, hàng ngày
trong công tác đảm bảo an ninh trật tự. Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
86
nước về công tác PCCC và cứu nạn cứu hộ, trọng tâm là: Luật PCCC; các Nghị
định của Chính phủ; Thông tư của Bộ Công an về công tác PCCC. Tăng cường
sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp đối với công tác PCCC. Người đứng đầu
các tổ chức cơ sở Đảng phải chịu trách nhiệm trước Huyện ủy, Chủ tịch UBND
huyện nếu để xảy ra cháy gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản trong
phạm vi quản lý của mình. Đảng viên, cán bộ, công nhân viên chức phải gương
mẫu chấp hành các quy định của pháp luật về PCCC; đưa nội dung chấp hành
các quy định pháp luật về PCCC thành một tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt
động của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm.
Để quán triệt tốt chủ trương trên, trong quá trình thực hiện cần cụ thể
hóa trách nhiệm PCCC là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình
và cá nhân trên địa bàn huyện, mọi công dân từ 18 tuổi trở lên, đủ sức khỏe có
trách nhiệm tham gia vào đội dân phòng, đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở
được lập nơi cư trú hoặc nơi làm việc khi có yêu cầu. Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, chủ hộ gia đình là người chịu trách nhiệm về PCCC trong
phạm vi quản lý của mình. Lực lượng Cảnh sát PC&CC số 5 cần thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị được giao, có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra hoạt động
phòng cháy và chữa cháy của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và làm
nhiệm vụ chữa cháy khi xảy ra sự cố cháy trên địa bàn.
UBND huyện cần tăng cường thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành,
chuyên ngành; tổ chức kiểm tra, đánh giá, hướng dẫn thực hiện có hiệu quả
công tác PCCC & cứu nạn cứu hộ tại các cơ sở trọng điểm về cháy trên địa
bàn; đặc biệt là vào dịp Tết nguyên đán; các thời điểm diễn ra các sự kiện
quan trọng của đất nước, của thành phố, của huyện; các dịp lễ, tết; khi có các
đoàn khách cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc tế đến thăm, làm việc hoặc đi
qua địa bàn huyện.
87
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
phòng cháy, chữa cháy
Mặc dù Đảng và Nhà nước quan tâm, đã ban hành một hệ thống văn
bản pháp luật khá đầy đủ về PCCC nhưng những quy định trong các văn bản
pháp luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa làm thay đổi cơ bản tình
hình cháy, cũng như các vi phạm về PCCC đang diễn ra trên địa bàn huyện
Đông Anh thời gian qua. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật về PCCC, UBND huyện Đông Anh cần kiến nghị lên HĐND và UBND
thành phố Hà Nội và các cơ quan trung ương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật về PCCC để tìm ra các giải pháp hữu hiệu,
ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả và giảm thiểu một các đáng kể số lượng các
vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra.
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, chính sách thì các
văn bản do huyện ban hành cần hướng dẫn rõ ràng, dễ hiểu, tùy tình hình mỗi
xã, thị trấn để việc áp dụng đảm bảo đạt hiệu quả cao. UBND huyện cần chỉ
đạo, phối hợp đồng bộ với các ban ngành, tổ chức có liên quan trong việc áp
dụng văn bản vào đời sống; hạn chế trường hợp các cơ quan không thống nhất
trong việc áp dụng văn bản luật, khiến người dân không hiểu hoặc thực hiện
không đúng.
3.2.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng lực lượng
làm công tác quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của Phòng Cảnh sát
PCCC số 5 ở Chương 2, có thể thấy, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về PCCC, yếu tố quan trọng hiện nay là phải kiện toàn tổ chức bộ máy và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công các quản lý nhà nước về PCCC,
thực hiện việc phân cấp trong quản lý, bổ sung biên chế, đào tạo bồi dưỡng
nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ và trang bị phương tiện, thiết bị phục
88
vụ công tác quản lý nhà nước về PCCC. Kể từ 08/2018, Bộ Công an đã quyết
định sáp nhập Cảnh sát PCCC Hà Nội vào Công an thành phố, theo đó, một
phần lực lượng của Phòng Cảnh sát PCCC số 5 sáp nhập và công an huyện
Đông Anh thành Đội Cảnh sát PCCC và cứu hộ cứu nạn , hoạt động PCCC
trên địa bàn huyện do Trưởng Công an huyện trực tiếp chỉ đạo. Do đó bộ máy
quản lý cần được nhanh chóng kiện toàn, cụ thể:
Thứ nhất, thống nhất mô hình tổ chức làm công tác quản lý nhà nước
về PCCC tại các Đội Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ cứu nạn
- Phải thống nhất thành lập các đơn vị Cảnh sát PCCC chuyên trách
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về PCCC tại địa bàn như: Đội thanh tra,
kiểm tra về PCCC, Đội thẩm duyệt thiết kế về PCCC, Đội điều tra, xử lý về
PCCC, Đội tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và Đội Cảnh
sát chữa cháy và cứu nạn cứu hộ,…đảm bảo tính chuyên sâu và hiệu quả.
- Phân cấp cụ thể thẩm quyền quản lý đối với các cơ sở theo chức
năng nhiệm vụ của các Đội công tác; đồng thời, nghiên cứu bổ sung phân cấp
quản lý nhà nước về PCCC cho các phòng cảnh sát PCCC khu vực.
Hai là, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ quản lý nhà nước
cho đội ngũ cán bộ Cảnh sát PCCC; xây dựng đội ngũ cán bộ Cảnh sát PCCC
có cơ cấu hợp lý và hoạt động chuyên nghiệp;
Đội ngũ cán bộ Cảnh sát PCCC đóng vai trò quyết định trong thực hiện
nhiệm vụ, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa vi phạm quy định về
PCCC. Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác PCCC, đội ngũ cán bộ
Cảnh sát PCCC không chỉ cần tăng về số lượng mà phải bảo đảm về chất
lượng. Theo đó cần xây dựng và triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ cho lực lượng Cảnh sát PCCC đến năm 2025 và những năm tiếp theo.
Căn cứ vào nhu cầu thực tiễn và sự phát triển của công tác PCCC, xác định
yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ PCCC cơ bản, chuyên
89
sâu về từng lĩnh vực, có khả năng tiếp cận và vận dụng kiến thức khoa học kỹ
thuật PCCC tiên tiến của thế giới; có trình độ pháp luật, quản lý, kiến thức tin
học và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao; thực hiện việc đào
tạo cán bộ có trình độ sau đại học, đồng thời cử đi đào tạo, bồi dưỡng, nghiên
cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận công nghệ, kinh nghiệm PCCC ở các nước
tiên tiến.
Tập trung bồi dưỡng theo chuyên đề cho các chức danh: Cán bộ lãnh
đạo chỉ huy cấp phòng, cán bộ thanh tra, kiểm tra, thẩm duyệt, điều tra xử lý,
tham mưu và chỉ huy chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ. Thực hiện nghiêm túc quy
định của Bộ Công an về bố trí, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn chức
danh, kết hợp việc bố trí cán bộ quản lý cơ sở theo địa bàn, theo lĩnh vực,
ngành một cách hợp lý; thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ nhất là số cán
bộ kiểm tra.
Xây dựng đội ngũ cán bộ Cảnh sát PCCC có phong cách làm việc khoa
học, chính quy, chuyên nghiệp, tôn trọng nhân dân, khắc phục lối làm việc sự
vụ, hành chính hóa, gây phiền hà, sách nhiễu với các doanh nghiệp và người
dân. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ chiến sĩ
Cảnh sát PCCC. Thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, Công an nhân dân vì nước quên thân vì dân
phục vụ” trong toàn lực lượng. Xây dựng hình ảnh người cán bộ Cảnh sát
PCCC trung thực, dũng cảm, sáng tạo, có phong cách làm việc khoa học,
chính quy; có trình độ khoa học kỹ thuật và hết lòng vì dân.
Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
hoạt động quản lý nhà nước về PCCC
Ngày nay khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, các tập đoàn kinh
tế lớn đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều, đi kèm theo đó là nhiều dây
chuyền công nghiệp hiện đại, tiến tiến cũng đã được trang bị và lắp đặt. Để
90
đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về PCCC đòi hỏi chúng ta phải không
ngừng nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong quản lý nhà nước về
PCCC nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu
cải cách hành chính.
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, để đáp ứng yêu cầu công tác
PCCC trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu hội nhập
quốc tế trong công tác PCCC là tất yếu khách quan. Phải tăng cường mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan PCCC
các nước, các tổ chức quốc tế trong đào tạo, trao đổi kinh nghiệm và trang bị
phương tiện, thiết bị PCCC; tăng cường trao đổi các đoàn công tác, tranh thủ
sự giúp đỡ của các quốc gia nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho
lực lượng PCCC tại các nước tiên tiến trên thế giới.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến
thức về phòng cháy, chữa cháy
Để nâng cao nhận thức về công tác PCCC cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về PCCC là nhiệm vụ thường
xuyên không chỉ của các cơ quan Nhà nước về PCCC mà của cả hệ thống
chính trị và nhân dân trên địa bàn huyện Đông Anh. Các cơ qua chức năng
tiếp tục tham mưu UBND huyện tổ chức tổng kết, sơ kết các mô hình như:
“Cụm dân cư, chung cư an toàn về PCCC”, “Cụm cơ quan, doanh nghiệp an
toàn về PCCC”, “Chợ an toàn về PCCC”, “Các chuyên ngành an toàn
PCCC”.v.v…; đẩy mạnh xây dựng phong trào “Toàn dân PCCC” cho các
năm tiếp theo.
Thực hiện tốt các Quy chế phối hợp “Công an, Quân đội, Cảnh sát
PCCC”, “Cảnh sát PCCC với điện lực”, “Cảnh sát PCCC với Mặt trận tổ
quốc”, “Cảnh sát PCCC với Chủ tịch UBND 24 xã, thị trấn”, “Quy chế khu
công nghiệp Đông Anh”… tạo mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong công tác
91
tuyên truyền, huấn luyện, xây dựng phong trào toàn dân PCCC, củng cố -
kiện toàn lực lượng PCCC cơ sở, dân phòng nhằm xây dựng thế trận PCCC
toàn dân vững chắc trên địa bàn huyện.
Đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, huấn luyện nghiệp vụ
PCCC phong phú, thiết thực và phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa
phương, cơ sở; phối hợp với các cơ quan báo, đài xây dựng “Chuyên mục
Toàn dân PCCC”. Đẩy mạnh tuyên truyền PCCC trực tiếp tại các cơ quan,
doanh nghiệp và khu dân cư.
Tiếp tục triển khai chuyên sâu mô hình “Cụm dân cư, chung cư an toàn
PCCC” đã được xây dựng; nghiên cứu xây dựng mới các mô hình PCCC
chuyên ngành có nguy cơ cao về cháy; tổ chức sơ kết, tổng kết các mô hình
đã xây dựng để rút kinh nghiệm và nhân rộng.
Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, ý
thức chấp hành các quy định của pháp luật đối với công tác PCCC & cứu nạn
cứu hộ: Phát hành cẩm nang, tờ rơi phổ biến kiến thức; chỉ đạo các cơ quan
thông tin đại chúng trong việc xây dựng các tin, bài, phóng sự, mở các chuyên
trang, chuyên mục; tăng thời lượng đưa tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức
hướng dẫn các biện pháp PCCC & cứu nạn cứu hộ; biểu dương gương người
tốt, việc tốt trong công tác PCCC & cứu nạn cứu hộ; phê phán công khai các
hành vi thiếu trách nhiệm, các vi phạm nghiêm trọng về PCCC của các tổ
chức, cá nhân trên các phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục phòng
ngừa chung.
Trong tuyên truyền phải làm cho người dân nắm vững những nguyên
tắc của PCCC với những nội dung cơ bản như: Phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tham gia hoạt động PCCC; lấy phòng ngừa là chính, hạn chế đến
mức thấp nhất các vụ cháy và thiệt hại do cháy gây ra; phải có ý thức chủ
động về lực lượng, phương tiện, phương án và các điều kiện khác để chữa
92
cháy kịp thời hiệu quả...Và phải được thực hiện trước hết với lực lượng,
phương tiện tại chỗ. Nội dung tuyên truyền cần nhấn mạnh trách nhiệm
PCCC của các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, hộ gia đình sinh sống và làm việc trên địa bàn huyện cũng như
các lực lượng chuyên trách như lực lượng dân phòng, Cảnh sát PCCC. Tuyên
truyền về các tiêu chuẩn được áp dụng về PCCC; những quy định về bảo
hiểm cháy, chính sách đối với người tham gia chữa cháy. Tuyên truyền phổ
biến về những hành vi liên quan đến phòng PCCC bị pháp luật nghiêm cấm.
Trên thực tế nhiều vụ cháy xảy ra có nguyên nhân sâu xa do không nắm vững
các quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy. Tuyên truyền sâu
rộng về "Ngày toàn dân phòng cháy và chữa cháy" 04 tháng 10 hàng năm.
Các cơ sở, hộ gia đình và cá nhân phải thường xuyên làm tốt công tác
phòng ngừa, giáo dục ý thức phòng cháy cho thanh niên, làm tốt truyền thông
hướng dẫn vận động nhân dân phòng cháy và chữa cháy, thường xuyên tổ
chức việc kiểm tra phát hiện và tổ chức khắc phục những sơ hở thiếu sót,
những vi phạm quy định an toàn phòng cháy, chữa cháy. Đồng thời xử lý
nghiêm những vi phạm quy định an toàn phòng cháy, chữa cháy,…
3.2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia hoạt
động phòng cháy, chữa cháy
Huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng liên quan thể hiện tính
chủ động trong phòng cháy, chữa cháy. Để chữa cháy có hiệu quả cần phải
chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về lực lượng, phương tiện, tổ chức phối hợp
đồng bộ, chặt chẽ giữa các lực lượng chữa cháy. Mỗi nhiệm vụ đều có những
đặc điểm khác nhau, vì vậy phải chú trọng công tác huấn luyện, thực tập các
phương án chữa cháy cần thiết để đáp ứng yêu cầu chữa cháy hiện nay.
Quán triệt phương châm lấy phòng ngừa là chính; huy động sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân vào việc thực hiện nhiệm
93
vụ PCCC. Bản chất của hoạt động phòng cháy là phòng ngừa cháy, áp dụng
tổng hợp các biện pháp, giải pháp về tổ chức và kỹ thuật nhằm hạn chế, loại
trừ các nguyên nhân và điều kiện gây cháy. Vì vậy, công tác PCCC cần xây
dựng theo hướng tự nguyện, tự phòng, tự quản theo cụm dân cư, cụm doanh
nghiệp. Thực hiện phương châm 4 tại chỗ (lực lượng tại chỗ, phương tiện tại
chỗ, chỉ huy tại chỗ và hậu cần tại chỗ) mà lực lượng nòng cốt là lực lượng
dân phòng, nhân dân và lực lượng PCCC chuyên ngành. Để làm tốt công tác
phòng ngừa cháy, cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp cơ bản trong phòng
cháy, trong thiết kế và thẩm duyệt thiết kế về PCCC, quy định trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đầu tư xây dựng và sử dụng công
trình, làm tốt công tác phòng cháy đối với các nhà ở và khu dân cư, các đặc
khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao, phòng cháy
trong việc sản xuất cung ứng, sử dụng điện và các thiết bị, dụng cụ điện,
phòng cháy đối với chợ, trung tâm thương mại, kho tàng, cảng biển, nhà ga,
bến tàu, bến xe, trụ sở làm việc, thư viện, bảo tàng, kho lưu trữ, bệnh viện,
trường học, khách sạn, vũ trường, rạp hát, rạp chiếu phim, những nơi công
cộng đông người...
Để làm tốt công tác phòng cháy, bên cạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về phòng cháy và chữa cháy, các quy định tiêu chuẩn an toàn
phòng chống cháy cần có sự phối hợp chặt chẽ, tích cực, chủ động giữa các
lực lượng, ban ngành, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, xây dựng và
triển khai một cách nghiêm túc, chặt chẽ các quy chế phối hợp phòng cháy
chữa cháy giữa lực lượng PCCC chuyên nghiệp của huyện với các cơ quan,
đơn vị khác để xây dựng phong trào quần chúng tham gia hoạt động phòng
cháy và chữa cháy.
Bên cạnh đó, có thể huy động nguồn lực từ các tổ chức phi chính phủ:
Nguồn lực từ các chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ được
94
triển khai rất hiệu quả trong thực tiễn, bởi các hoạt động của các chương trình
này thường tập trung vào việc hỗ trợ nâng cao kiến thức, kỹ năng và thay đổi
hành vi cho người dân. Do đó, với sự hỗ trợ từ các tổ chức này, người dân sẽ
có sự thay đổi nhận thức về PCCC, để PCCC không chỉ là trách nhiệm của
các cơ quan chức năng mà là trách nhiệm của từng cá nhân, gia đình và toàn
xã hội cùng chung tay vào cuộc nhằm giảm thiếu số lượng các vụ cháy và
thiệt hại do cháy gây ra.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng khoa học công nghệ về
phòng cháy, chữa cháy
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện PCCC cho lực
lượng PCCC nói chung và đặc biệt là cho lực lượng Cảnh sát PCCC nói riêng
đủ mạnh để các lực lượng này hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần coi
việc đầu tư cơ sở vật chất, huy động nguồn lực tài chính cho công tác PCCC là
trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương. Trên thực
tế, hầu hết mọi người đều cho rằng họ gặp khó khăn trong triển khai các hoạt
động PCCC là do thiếu cơ sở vật chất, thiếu kinh phí. Vì vậy, đối với từng loại
hình cơ sở phải có trang bị đầy đủ các vật dụng, phương tiện đảm bảo an toàn
về PCCC:
+ Đối với các cơ quan, cơ sở sản xuất, khu dân cư: Có quy định, nội quy,
biển cấm, biển báo, sơ đồ hoặc biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy,
thoát nạn phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt động của cơ sở; đảm bảo có
quy định và phân công chức trách, nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy trong
cơ sở; cần đảm bảo có hệ thống điện, chống sét, chống tĩnh điện; thiết bị sử
dụng điện, sinh lửa, sinh nhiệt; việc sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt phải bảo
đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy; đảm bảo có hệ thống giao thông,
cấp nước, thông tin liên lạc phục vụ chữa cháy, hệ thống báo cháy, chữa cháy,
ngăn cháy, phương tiện phòng cháy và chữa cháy khác, phương tiện cứu
95
người phù hợp với tính chất, đặc điểm của cơ sở bảo đảm về số lượng, chất
lượng và hoạt động phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về phòng
cháy và chữa cháy hoặc theo quy định của Bộ Công an.
+ Đối với các tòa nhà cao tầng, chung cư: phải có hệ thống báo cháy tự
động. Hệ thống này sau khi đưa vào hoạt động phải được kiểm tra mỗi năm ít
nhất 02 lần; được bảo dưỡng ít nhất 2 năm một lần. (Theo Tiêu chuẩn Việt
Nam: TCVN 3890:2009); Cứ mỗi khoảng cách và không gian nhất định phải
bố trí có một bình chữa cháy. Trong đó, với mức độ nguy hiểm thấp, định
mức trang bị bình chữa cháy là 150m2/bình; mức độ nguy hiểm trung bình là
75m2/bình và với mức độ nguy hiểm cao là 50m2/bình. (Theo Tiêu chuẩn
Việt Nam: TCVN 3890:2009); Bố trí hợp lý các cửa lối thoát hiểm: Cửa của
lối ra thoát nạn từ các gian phòng hay các hành lang phải là cửa đặc được
trang bị cơ cấu tự đóng và khe cửa phải được chèn kín. Các cửa này nếu cần
để mở khi sử dụng phải được trang bị cơ cấu tự đóng khi có cháy. (Theo Quy
chuẩn Việt Nam: QCVN 06:2010/BXD).
+ Trang bị đầy đủ các vật dụng cần thiết cho các phương tiện giao thông
cơ giới: Cần đảm bảo có quy định, nội quy, biển cấm, biển báo, sơ đồ hoặc
biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy, thoát nạn phù hợp với đặc điểm,
tính chất hoạt động của phương tiện; Có quy trình vận hành phương tiện; hệ
thống điện, nhiên liệu; việc bố trí, sắp xếp người, vật tư, hàng hóa trên
phương tiện phải bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy; Người điều
khiển phương tiện giao thông cơ giới phải được học tập kiến thức về phòng
cháy và chữa cháy trong quá trình đào tạo cấp giấy phép điều khiển phương
tiện theo quy định của Bộ Giao thông - Vận tải; Người điều khiển phương
tiện giao thông cơ giới có phụ cấp trách nhiệm theo quy định của pháp luật về
chế độ tiền lương và phụ cấp trách nhiệm đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang và người điều khiển, người làm việc, người phục
96
vụ trên phương tiện giao thông cơ giới có từ 30 chỗ ngồi trở lên và trên
phương tiện giao thông cơ giới chuyên dùng để vận chuyển các chất, hàng
nguy hiểm về cháy, nổ phải có giấy chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ phòng
cháy và chữa cháy do cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy có thẩm
quyền cấp; Có phương tiện chữa cháy phù hợp với yêu cầu, tính chất, đặc
điểm của phương tiện, bảo đảm về số lượng, chất lượng và hoạt động theo
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về phòng cháy và chữa cháy hoặc theo quy
định của Bộ Công an.
Cùng với đó, việc huy động tài chính để tiến hành các hoạt động PCCC
là rất cần thiết và có thể thực hiện bằng các cách sau:
+ Tăng nguồn kinh phí từ ngân sách của đại phương dành cho công tác
PCCC.
+ Các hoạt động gây quỹ: các tổ chức, các ban ngành, đoàn thể có thể tổ
chức các hoạt động gây quỹ như tổ chức các cuộc biểu diễn, phát huy thế mạnh
ngành nghề truyền thống tại đại phương để có nguồn quỹ hoạt động.
+ Huy động kinh phí từ các hiệp hội, doanh nghiệp trên địa bàn huyện:
kêu gọi sự tham gia đóng góp, ủng hộ về mặt tài chính từ các hiệp hội nghề
nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn, thậm chí có thể đề xuất từ các nguồn
tài trợ quốc tế.
+ Tăng nguồn kinh phí từ nguồn bảo hiểm PCCC.
Đồng thời phải tích cực, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực PCCC, tranh thủ được nguồn ngoại lực trong công tác đào tạo,
trang bị phương tiện và chuyển giao công nghệ PCCC bổ sung cho nội lực
còn nhiều khó khăn của nước ta.
Đẩy mạnh việc xã hội hoá công tác nghiên cứu khoa học công nghệ
PCCC nhằm phát huy tối đa tiềm lực nghiên cứu khoa học công nghệ về
PCCC của các ngành, địa phương, cơ sở, tổ chức kinh tế, xã hội nhằm đưa
97
công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ về PCCC vào thực tế của
đơn vị, cơ sở, địa phương mình và coi đó là nhiệm vụ cơ bản trong công tác
PCCC; tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế trong công tác nghiên cứu khoa
học về PCCC của các nước tiên tiến, nhất là nghiên cứu chế tạo, ứng dụng vật
liệu và công nghệ PCCC mới vào lĩnh vực hoạt động PCCC của Việt Nam.
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn
cao về lĩnh vực PCCC (kể cả đào tạo trong và ngoài nước), đảm bảo đủ trình
độ, năng lực để nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học công nghệ về
PCCC tiên tiến, theo kịp với trình độ của các nước trong khu vực và quốc tế
góp phần đảm bảo an toàn PCCC cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Bên cạnh đó, cần phát huy sức mạnh của các phương tiện và lực lượng
tại chỗ. Lực lượng này phải được tổ chức chặt chẽ, tập huấn, huấn luyện kỹ và
thường xuyên để có đủ khả năng, kinh nghiệm làm tốt công tác phòng ngừa
và chữa cháy tại chỗ kịp thời, có hiệu quả. Đồng thời, mỗi cơ quan, tổ chức và
hộ gia đình phải tự trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy cần thiết
đáp ứng yêu cầu phòng cháy, chữa cháy tại chỗ và sử dụng thành thạo các
phương tiện đó.
3.2.7. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công
tác phòng cháy, chữa cháy
Giám sát đối với công tác PCCC đây là hoạt động theo dõi, quan sát
trong việc thi hành, chấp hành của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý về
PCCC. Đây là hoạt động phản ánh những hạn chế bất cập trong công tác quản
lý nhà nước về PCCC, để nắm chắc tình hình đặc điểm nguy hiểm cháy tại
các cơ sở, khu dân cư; chủ động khảo sát, dự báo tình hình và thực hiện tốt
chức năng tham mưu để đề ra và triển khai thực hiện có hiệu quả các biện
pháp đảm bảo an toàn PCCC trên địa bàn huyện.
98
Đối với công tác thanh tra:
Thanh tra PCCC là thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật
về PCCC của các cơ sở, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật và góp phần bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở trong hoạt
động PCCC. Việc tiến hành thanh tra phải thực hiện theo đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật về thanh tra và các văn bản
pháp luật khác có liên quan.
Đối với công tác quản lý phòng cháy trong đầu tư xây dựng:
Nhiệm vụ của quản lý phòng cháy trong đầu tư xây dựng là: Kiểm tra,
hướng dẫn các cơ sở, chủ đầu tư, thiết kế, thi công và các cơ quan, đơn vị có
liên quan thực hiện đầy đủ các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC được
Nhà nước ban hành khi đầu tư xây dựng các công trình; góp phần chủ động loại
trừ, hạn chế những điều kiện và nguyên nhân có thể gây cháy, hoặc nếu có cháy
hay sự cố xảy ra thì cũng hạn chế được thiệt hại ở mức thấp nhất.
Trước yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, công tác thẩm duyệt về
PCCC cần được đơn giản hóa và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin
nhằm tạo điều kiện cho chủ đầu tư, các doanh nghiệp tiến hành sản xuất, kinh
doanh. Cơ quan Cảnh sát PCCC chỉ thẩm duyệt đối với các dự án có nguy cơ
cháy cao, các công trình xây dựng có quy mô lớn liên quan đến nhiều người
theo danh mục phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định 79/2014/NĐ- CP của
Chính phủ; các công trình xây dựng còn lại giao cho cơ quan quản lý xây
dựng và chủ đầu tư thẩm định phê duyệt thiết kế dự án và cấp phép xây dựng.
Đối với các công trình cần thẩm duyệt thì thời hạn thẩm duyệt cũng được rút
ngắn so với quy định hiện nay.
Đối với công tác kiểm tra an toàn về PCCC:
Kiểm tra an toàn về PCCC của Cảnh sát PCCC là hoạt động kiểm tra của
cơ quan quản lý nhà nước về PCCC đối với các cơ sở theo quy định của pháp
99
luật trong việc thực hiện pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, nội quy, quy
định về PCCC.
Mục đích của kiểm tra là nắm vững thực trạng công tác PCCC của các
đối tượng thuộc diện quản lý về PCCC; phát hiện kịp thời các sơ hở, thiếu sót
vi phạm quy định của Nhà nước đối với công tác PCCC; trong việc tổ chức,
thực hiện các biện pháp, giải pháp phòng ngừa cháy; trong việc trang bị và
quản lý phương tiện, thiết bị và các hệ thống PCCC; trong việc tổ chức lực
lượng và chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện chữa cháy để đối phó với các tình
huống cháy có thể xảy ra.
Thông qua kiểm tra còn để phát hiện những vấn đề mới phát sinh trong
thực tế hoạt động PCCC của các cơ sở để nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện
hoặc đổi mới các biện pháp quản lý cũng như các biện pháp, giải pháp kỹ
thuật phòng ngừa cháy đối với từng loại hình cơ sở.
Nội dung kiểm tra về PCCC: kiểm tra điều kiện an toàn về PCCC của cơ
sở, khu dân cư, hộ gia đình, phương tiện giao thông cơ giới theo quy định của
Luật PCCC, Nghị định 79/2014/NĐ-CP và các quy định của pháp luật có liên
quan; kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm PCCC của từng đối tượng quy định
tại Luật PCCC, Nghị định này và các quy định của pháp luật có liên quan;
kiểm tra việc chấp hành các quy định của Luật PCCC, Nghị định này, tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các quy định của pháp luật có liên quan và các yêu
cầu về PCCC của cơ quan Cảnh sát PCCC.
3.2.8. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm hành chính trong quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong
Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình
khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
100
Việc khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc
thực thi quyền lực của bộ máy Nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công
vụ của cán bộ, công chức trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
PCCC. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực PCCC
không những có vai trò quan trọng trong quản lý Nhà nước về PCCC, mà còn
thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước về PCCC với nhân dân.
Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo để kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp
của đường lối, chính sách, pháp luật về PCCC đã ban hành và việc thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về PCCC của cán bộ thực thi nhiệm vụ, từ đó có
cơ sở thực tiễn để hoàn thiện các chủ trương đường lối của Đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý Nhà nước về PCCC. Do vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Để giảm thiểu khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực PCCC phải nâng cao chất
lượng hiệu quả trong quản lý nhà nước về PCCC. Phải chấp hành nghiêm túc
các quy định của pháp luật trong thực thi công vụ; tăng cường mối quan hệ và
sự phối hợp với chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về PCCC và pháp luật khiếu nại, tố cáo; đề cao trách
nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực PCCC.
Về công tác xử lý vi phạm hành chính:
Xử lý vi phạm về PCCC là biện pháp thực hiện quyền lực Nhà nước
đối với các tổ chức và cá nhân vi phạm quy định về PCCC. Mục đích của việc
xử lý vi phạm là nhằm đảm bảo cho việc chấp hành các quy định của Nhà
nước về PCCC nghiêm minh; giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi
phạm và nâng cao ý thức tự giác chấp hành các quy định về PCCC. Đối với
các cơ sở có nhiều vi phạm quy định về PCCC, không bảo đảm an toàn, có
nguy cơ cháy cao, nếu xảy ra cháy sẽ dẫn đến cháy lớn, thiệt hại nghiêm trọng
và đe dọa đến tính mạng nhiều người phải có biện pháp xử lý mạnh, kể cả tạm
101
đình chỉ hay đình chỉ hoạt động. Đối với những trường hợp vi phạm nghiêm
trọng quy định về PCCC hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong PCCC gây
hậu quả nghiêm trọng đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự phải khởi tố, xét
xử theo quy định của pháp luật.
Về hoạt động điều tra vụ cháy:
Sớm củng cố hình thành bộ phận chuyên trách điều tra vụ cháy (kể cả
việc tăng cường các phương tiện phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường).
102
Tiểu kết chƣơng 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa
cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (2014 – 2018) một
cách khách quan, tác giả đã mạnh dạn đề xuất phương hướng và một số giải
pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy trên địa
bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Hệ thống các giải
pháp này có quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau. Vì vậy, trong quá trình thực
hiện phải tiến hành đồng bộ các giải pháp. Thực hiện tốt hệt thống các giải
pháp này, chắc chắn trong thời gian tới trên địa bàn huyện Đông Anh sẽ giảm
được số vụ cháy, hạn chế được những thiệt hại do sự cố cháy xảy ra góp phần
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu
đặt ra của chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
103
KẾT LUẬN
Phòng cháy chữa cháy là bộ phận cấu thành trong toàn bộ hoạt động
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước, đây là hoạt
động mang tính xã hội rộng lớn, vì vậy phải coi phòng cháy chữa cháy là sự
nghiệp của toàn dân, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, cơ
sở, hộ gia đình và mỗi cá nhân, có như vậy công tác phòng cháy và chữa cháy
mới đạt hiệu quả cao. Phải tổ chức phát động thành phong trào để dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mọi hoạt động phòng cháy chữa cháy. Trong
hoạt động phòng cháy chữa cháy lấy phòng ngừa là chính, phải tích cực và chủ
động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do
cháy gây ra. Đồng thời, phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương
án và các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu
quả, góp phần vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội phát triển bền vững.
Trong bối cảnh đó, hiện nay, huyện Đông Anh tiếp tục thực hiện công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế theo hướng đa ngành đa
lĩnh vực, nỗ lực hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
được giao. Vì vậy, ngày càng có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
các công trình hạ tầng kỹ thuật, các điểm dịch vụ vui chơi giải trí, các công
trình phúc lợi xã hội,… được đầu tư xây dựng, các làng nghề truyền thống có
thu nhập cao được ưu tiên phát triển. Do đó, đảm bảo an toàn về phòng cháy,
chữa cháy là hoạt động rất cần thiết và cần được chú trọng trên địa bàn huyện.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động PCCC trên địa bàn
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, tác giả đã đi sâu nghiên cứu cơ sở lý
luận về quản lý nhà nước về PCCC; làm rõ các khái niệm liên quan, những
vấn đề cốt lõi, cơ bản về quản lý nhà nước về PCCC, như: khái niệm, đặc
điểm của quản lý; nguyên tắc, nội dung, phương pháp, vai trò của quản lý nhà
nước về PCCC. Qua đó, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PCCC trên
104
địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; khái quát về tình hình kinh tế -
xã hội của huyện Đông Anh, tình hình cháy trên địa bàn huyện; làm rõ kết
quả, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những kết quả và hạn chế trong hoạt
động quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh trong những
năm gần đây (2014 – 2018). Từ đó, rút ra được những bài học kinh nghiệm
trong quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn huyện.
Qua nghiên cứu từ cơ sở lý luận đến thực tiễn về quản lý nhà nước về
PCCC trên địa bàn huyện Đông Anh, tác giả đã đề xuất các phương hướng và
giải pháp tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về PCCC trên địa bàn
huyện trong thời gian tới.
Tác giả là người rất tâm huyết với đề tài “Quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy trên địa bàn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”. Chính vì
vậy, tác giả đã tích cực nghiên cứu với tinh thần cầu thị; với mong muốn góp
phần vào việc nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về PCCC trên đại bàn
huyện Đông Anh trong thời gian tới. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và khả
năng, trình độ còn hạn chế nên luận văn sẽ không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Tác giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô và
các bạn.
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2015), Ch thị số 47-CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
PCCC.
2. Chỉ thị 1634/ CT-TTg ngày 31/8/2010 về “Tăng cường chỉ đạo và thực
hiện một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm trong công tác phòng cháy
chữa cháy và cứu nạn cứu hộ”.
3. Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác PCCC
năm 2014 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5.
4. Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác PCCC
năm 2015 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5.
5. Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác PCCC
năm 2016 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5.
6. Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác PCCC
năm 2017 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5.
7. Cảnh sát PC&CC thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác PCCC
năm 2018 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5.
8. Trần Đình Chung (2014), Quản lý nhà nước về PCCC từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật hành chính, Đà Nẵng.
9. Ðào Hữu Dân, Trường ÐH PCCC (2001), Nghiên cứu chức năng quản lý
Nhà Nước trong lĩnh vực PCCC của lực lượng Cảnh sát PCCC trước
yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Ðề tài khoa
học cấp cơ sở - Hà Nội.
10. Ðào Hữu Dân - Trường Ðại học PCCC (2012), Quản lý nhà nước về
phòng cháy chữa cháy, NXB Giao thông vận tải.
11. Ðảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia.
106
12. Nguyễn Thị Hương Giang (2015), Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước
đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
13. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên – 2015), Giáo trình Quản lý học đại cương,
NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
14. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
15. Luật Phòng cháy và chữa cháy được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 29/6/2001.
16. Nguyễn Chấn Nam (2008), Quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng cháy
chữa cháy của lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, Luận văn thạc
sỹ quản lý hành chính công, Hà Nội.
17. Nghị định số 35/2003/NÐ-CP ngày 04/4 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật PCCC.
18. Nghị định số 123/2005/NÐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực PCCC.
19. Nghị định số 09/2006/NÐ-CP của Chính phủ quy định về phòng cháy và
chữa cháy rừng.
20. Nghị định số 130/2006/NÐ-CP ngày 08/11/2016 của Chính phủ quy định
chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.
21. Nghị định số 55/2007/NÐ-CP ngày 06/4/2007 về kinh doanh xăng dầu.
22. Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống
bạo lực gia đình.
23. Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/07/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC.
107
24. Quyết định số 1635/QĐ-TTg ngày 22/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Chỉ thị số 47-
CT/TW ngày 25/6/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCCC.
25. Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Từ, Kiều Hồng Mai (2004), Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng cháy, chữa cháy trong các cơ
sở sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
26. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003): Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán ộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Thành ủy Hà Nội (2014), Ch thị số 27-CT/TU ngày 19/11/2014 của Ban
Thường vụ Thành ủy Hà Nội “về tăng cường lãnh đạo công tác phòng
cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong tình hình mới”.
28. Thành ủy Hà Nội (2018), Ch thị số 24-CT/TU ngày 31/10/2018 của Ban
Thường vụ Thành ủy về “Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
trong công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ cứu nạn trên địa bàn
thành phố Hà Nội”.
29. Thông tư liên tịch số 41/2006/TTLT-TC-CA về hướng dẫn một số điều
về Nghị định số 130/2006/NÐ-CP của Chính phủ quy định về chế độ bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc.
30. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2012), Giáo trình quản lý nhà
nước về phòng cháy và chữa cháy, Hà Nội.
31. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam (2005), Hà Nội.
32. Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học (2004), NXB Đà Nẵng.
33. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2014.
108
34. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2014.
35. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2015.
36. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2016.
37. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2017.
38. UBND huyện Đông Anh, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2018.
39. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết 05 năm thi hành Luật Phòng
cháy, chữa cháy (2011 - 2015).
40. UBND thành phố Hà Nội (2018), ch thị 01/CT-UBND của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hà Nội về việc “tăng cường công tác quản lý vật liệu nổ
và phòng chống cháy, nổ trên địa bàn Thành phố Hà Nội”.
41. Nguyễn Như Ý(1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông
tin, Hà Nội.
109