BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỌC SƠN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỌC SƠN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên

Nguyễn Học Sơn

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh

sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô

cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học

tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy PGS.TS. Vũ Trọng Hách

người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận

văn này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa

Quản lý công đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi

điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho

đến khi thực hiện đề tài luận văn.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Quý thầy cô đã không ngừng hỗ trợ

và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực

hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn

đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu

và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Hà Nội, ngày …… tháng năm 2018

Học viên thực hiện

Nguyễn Học Sơn

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI ............................................................................ 8

1.1. Những khái niệm cơ bản ................................................................................ 8

1.1.1. Trật tự an toàn xã hội .................................................................................. 8

1.1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............................................... 10

1.2. Nội dung và vai trò quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ................... 16

1.2.1. Nội dung .................................................................................................... 16

1.2.2. Vai trò Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ................................... 21

1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. ..... 23

1.3.1. Về chính trị ................................................................................................ 23

1.3.2. Về pháp luật .............................................................................................. 24

1.3.3. Về kinh tế .................................................................................................. 25

1.3.4. Hội nhập quốc tế ....................................................................................... 25

1.4. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực ................. 26

1.4.1. Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm ............................ 26

1.4.2. Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội ...................... 27

1.4.3. Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy ........................................... 28

1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............................. 29

1.5.1. Xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức .................................................................. 29

1.5.2. Huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ........................................................ 31

1.5.3. Bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

được rút ra. .......................................................................................................... 31

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 34

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN

TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, HÀ NỘI ............... 36

2.1. Khái quát huyện Thanh Trì .......................................................................... 36

2.1.1. Về lịch sử, vị trí địa lý và đặc điểm dân cư ............................................... 36

2.1.2. Về hệ thống chính trị và tình hình kinh tế - xã hội ................................... 36

2.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện Thanh Trì, Hà Nội. ................................................................................... 38

2.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội. .......................................................................................................... 38

2.2.2.Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội. .......................................................................................................... 46

2.2.3. Kết quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực. 48

2.2.4 Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trật tự, an toàn xã hội. ......................... 53

2.3. Đánh giá chung ............................................................................................. 54

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ............................................................. 54

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................... 56

2.3.3. Bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ............. 58

2.3.4. Bài học kinh nghiệm cho Công an huyện Thanh Trì ................................ 59

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 61

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỂ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. .............................................................. 62

3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội. ....................................................................... 62

3.1.1. Phương hướng kết hợp đảm bảo trật tự an toàn xã hội, giữ gìn an ninh

quốc gia, quốc phòng trên địa bàn huyện và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên

địa bàn huyện Thanh Trì ..................................................................................... 62

3.1.2. Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội phải hướng đến phục vụ và

đáp ứng tốt cho nhu cầu của người dân. ............................................................. 63

3.1.3. Nâng cao trách nhiệm các cấp, các ngành trên địa bàn đảm bảo trật tự an

toàn xã hội. .......................................................................................................... 64

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội ... 65

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, củng cố hệ thống chính trị

cơ sở .................................................................................................................... 65

3.2.2. Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, xã hội trên địa bàn huyện và

hoàn thiện bộ máy công an huyện Thanh Trì đáp ứng đảm bảo trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn huyện ......................................................................................... 66

3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn xã hội của

cán bộ công an huyện Thanh Trì ......................................................................... 70

3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa công an huyện và các ngành, các

cấp trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. ......... 71

3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện cho lực lượng đảm bảo trật tự an

toàn xã hội. .......................................................................................................... 72

3.2.6. Tăng cường và hoàn thiện chức năng thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm

trong trật tự an toàn xã hội. ................................................................................. 73

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 75

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 79

BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt/ Ký hiệu Cụm từ đầy đủ

UBND Ủy ban nhân dân

TTXH Trật tự xã hội

TTATXH Trật tự an toàn xã hội

QLNN Quản lý nhà nước

XHCN Xã hội chủ nghĩa

HĐND Hội đồng nhân dân

TNGT Tai nạn giao thông

TNXH Tệ nạn xã hội

CATP Công an thành phố

CBCS Cán bộ cảnh sát

ANQG An ninh quốc gia

ANTQ An ninh Tổ quốc

ANTT An ninh trật tự

CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

ANNT An ninh nông thôn

ANND An ninh nhân dân

ANCT An ninh chính trị

PCCC Phòng cháy chữa cháy.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội là một bộ phận không thể tách

rời của hoạt động quản lý nhà nước. Giữ vững an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự,

an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng và duy trì cuộc sống

trật tự, ổn định cho người dân và toàn xã hội không chỉ có ý nghĩa quan trọng

đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội một cách lành mạnh và bền vững, trật tự,

theo đúng định hướng mà còn góp phần quan trọng vào việc tăng niềm tin của

nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào chế độ XHCN. Do đó, QLNN về

TTATXH là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, có vai trò quan trọng trong

sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Gần đây, tình hình quốc tế có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường.

Chiến tranh, bạo lực nổ ra ở Ucraina, Iraq, Palestine, đảo chính ở Thái Lan,

khủng bố ở Tân Cương - Trung Quốc, dịch bệnh Ebola đang bùng phát, hoành

hành tại các quốc gia Tây Phi, đặc biệt là việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn

khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt

Nam, là hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật

biển năm 1982, đã có những ảnh hưởng, tác động sâu sắc đến tình hình an ninh

của Việt Nam. Đây cũng là những vấn đề mới phát sinh, đặt ra cho hoạt động

quản lý nhà nước nói chung, trong đó có quản lý nhà nước về ANTT nói riêng.

Thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước cũng như công cuộc xây dựng

Thủ đô, địa bàn huyện Thanh Trì không tránh khỏi chịu sự ảnh hưởng tích cực

và tiêu cực của các địa bàn khác. Chính phủ, thành phố và huyện triển khai thực

hiện nhiều dự án công trình trọng điểm về giao thông, đô thị, khu công nghiệp,

dự án đấu giá quyền sử dụng đất; hàng trăm ha đất nông nghiệp phải thu hồi dẫn

đến tình trạng người dân thiếu việc làm. Mặt khác, do tác động của mặt trái cơ

chế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp nhân dân diễn ra

1

nhanh chóng và rõ rệt, người huyện ngoài về huyện cư trú, tạm trú, làm việc, lao

động, học tập ngày càng đông, các cơ sở kinh doanh dịch vụ, nhạy cảm về

ANTT ngày càng nhiều. Hơn nữa, hoạt động của tội phạm và tệ nạn xã hội diễn

biến phức tạp với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, liều lĩnh... tình hình an ninh nông

thôn, an ninh tôn giáo có nhiều tiềm ẩn phức tạp đã tác động không nhỏ đến

công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện.

Thực tế những năm gần đây cho thấy tình hình ANTT, TTATXH trên địa bàn

huyện Thanh Trì có nhiều phức tạp. Đáng chú ý là hoạt động của số đối tượng

chính trị tham gia nhóm NoU; tình hình tranh chấp đất đai, hoạt động biểu hiện lấn

lướt chính quyền của tôn giáo; tình hình phát triển đạo lạ, tín ngưỡng trái pháp luật;

các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến thu hồi, đền bù, giải phóng mặt

bằng; tình hình ô nhiễm môi trường; tội phạm ma túy, buôn lậu, làm hàng giả,

chống người thi hành công vụ…diễn biến phức tạp. Có thể nói, tình hình ANTT an

toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, ảnh

hưởng không nhỏ đến đời sống chính trị - xã hội tại địa phương.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội tại

Thủ đô Hà Nội nói chung và tại địa bàn huyện Thanh Trì nói riêng, Công an

huyện Thanh Trì những năm qua đã chủ động tập trung lực lượng, triển khai

đồng bộ các biện pháp công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện và đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những

thành tích đạt được, công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn còn có những

thiếu sót, bộc lộ những bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của

công tác quản lý nhà nước về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì: công tác

giữ gìn an ninh trật tự chưa được thực hiện thường xuyên, sự quản lý về trật tự

an toàn xã hội chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ

phận, ban, ngành liên quan, nên có những trường hợp vi phạm pháp luật không

được xử lý nghiêm túc, làm mất lòng tin của dân. Có những đồng chí nhận thức

về công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm.., nên khi thực hiện các biện pháp

2

công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó công tác xử lý chưa

kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm pháp luật trên địa

bàn huyện. Mặt khác, sự phối hợp của Công an với quần chúng nhân dân chưa

được tiến hành một cách đồng bộ nên đã làm hạn chế hiệu quả, hiệu lực quản lý

nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì. Với những đặc

điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại huyện Thanh Trì, đề tài được tiến

hành nghiên cứu, nhằm tổng kết, khắc phục những khuyết điểm, phát huy những

ưu điểm, tìm ra những giải pháp, đóng góp kinh nghiệm để tăng cường công tác

quản lý, giữ gìn TTATXH của cán bộ chiến sĩ công an huyện Thanh Trì. Với lý do

đó, học viên lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên

ngành Quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đề tài luận văn

Cho đến nay, lý luận quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội đã được đề

cập đến nhiều trong các giáo trình, bài viết, sách, luận án….. như:

- Học viện Cảnh sát nhân dân (2016), Giáo trình quản lý Nhà nước về an

ninh trật tự, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

-Học viện chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Tăng cường quản lý

nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn xã hội trong hoạt động của cảnh sát

nhân dân ở nước ta hiện nay” - Lê Thế Tiệm (1996).

- Học viện Hành chính quốc gia (2007), Giáo trình Hành chính Công, Nxb

Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

- Học viện Hành chính (2010), Giáo trình lý luận Hành chính Nhà nước,

Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

- Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình Quản lý công, Nxb

Bách khoa, Hà Nội.

- Bài viết của ThS Nguyễn Trung Anh – Phó trưởng khoa Dân vận và Công

tác xã hội Học viện cán bộ thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề “Nhận thức quản

lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội”.

3

- “Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội” - Chỉ đạo biên soạn Đại

tá Phạm Văn Đức – NXB Công An Nhân dân, Hà Nội – (1998).

- “Kỹ năng giao tiếp của cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội” -

Chủ biên PGS. TS Đinh Trọng Hoàn – NXB Công An Nhân Dân – (2009).

- Bài viết: “Quản lý nhà nước về an ninh trật tự” - Chủ biên Trần Viết

Long và tập thể tác giả Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội – (2007).

- “An ninh trật tự vùng nông thôn huyện Phú Yên – thực trạng và giải

pháp”, luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Anh Tuấn – (1999).

- “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về AN, TT trong lĩnh

vực đầu tư nước ngoài tại địa bàn huyện Hưng Yên”, luận văn Thạc sĩ của Lê

Văn Tuyến (2006).

Các công trình khoa học trên đi sâu nghiên cứu công tác đảm bảo ANTT ở

các địa bàn khác; còn trên địa bàn huyện Thanh Trì về vấn đề này có 01 công

trình nghiên cứu đề tài cấp Thành phố “Những giải pháp xây dựng xã, thị trấn

an toàn về an ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì trong điều kiện

hiện nay” từ năm 2008 do tác giả Nguyễn Duy Ngọc làm chủ nhiệm, nguyên

Trưởng Công an huyện Thanh Trì (hiện là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh

sát Bộ Công An) - Công trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến khía cạnh của công

tác đảm bảo ANTT đó là an ninh nông thôn trên địa bàn huyện, hơn nữa thời

điểm nghiên cứu là vào năm 2008, đến nay một số nội dung không còn phù hợp

với tình hình thực tiễn trên địa bàn. Luận văn Thạc sỹ “Công tác đảm bảo an

ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong tình

hình hiện nay” của ThS Võ Hồng Trường, Trung tá, Đồn trưởng Đồn Công an

Cầu Bươu năm 2014 – Luận văn này nghiên cứu chủ yếu về thực trạng công tác

đảm bảo an ninh nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Trì, đánh giá kết quả, hạn

chế, thiếu sót, nguyên nhân, đưa ra dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả công

tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn huyện Thanh Trì, chưa nghiên cứu sâu

vấn đề Quản lý nhà nước nói chung và Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã

4

hội nói riêng. Qua nghiên cứu cho thấy, vấn đề học viên chọn làm đề tài luận

văn Thạc sĩ không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế

của công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn huyện Thanh Trì cùng với những

nguyên nhân và hạn chế, luận văn xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện,

góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững ANTT tại địa phương.

3.2 Nhiệm vụ

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm, đặc điểm,

nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

- Phân tích đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước về trật tự

an toàn xã hội tại huyện Thanh Trì.

- Rút ra những ưu diểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân của những

ưu điểm và hạn chế, thiếu xót đang đặt ra đối với công tác này trên địa bàn

huyện Thanh Trì

- Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm

tăng cường công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quản lý nhà nước và trật tự

an toàn xã hội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước của cán bộ, chiến

sĩ về trật tự an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Công an huyện Thanh

Trì, Thành phố Hà Nội.

5

Luận văn tập trung nghiên cứu công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực

đảm bảo, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của lực lượng công an nhân dân trên địa

bàn huyện Thanh Trì trong thời gian từ 2015 đến 2018.

5. Phương pháp lí luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê

- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối và quan điểm của Đảng và

Nhà nước về trật tự an toàn xã hội và công tác quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: được dựng để nghiên cứu các công trình

khoa học đã được công bố, sách, giáo trình liên quan đến quản lý nhà nước về

trật tự an toàn xã hội. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng kết và khảo sát thực

tế về tình hình trật tự an toàn xã hội và công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực

này tại địa bàn huyện Thanh Trì.

- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: được sử dụng để đánh giá,

nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của công tác quản lý trật tự an toàn xã

hội theo chức năng của lực lượng công an huyện Thanh Trì.

6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và rút ra những đánh giá,

nhận xét thực tiễn hoạt động của lực lượng công an trong quản lý nhà nước về

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì. Luận văn đề xuất những giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn huyện Thanh Trì.

- Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong

công tác thực tiễn của Công an huyện Thanh Trì.

6

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục số

liệu, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã

hội.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội.

7

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI

1.1. Những khái niệm cơ bản

1.1.1. Trật tự an toàn xã hội

Trong một số tài liệu, từ điển, bài viết… thuật ngữ “trật tự an toàn xã hội”

được hiểu một cách phổ biến là sự hoạt động ổn định hài hòa của các thành phần

xã hội trong cơ cấu xã hội; trật tự xã hội nhằm duy trì sự phát triển xã hội và cơ

chế bảo đảm tính trật tự xã hội là các thiết chế xã hội. Trật tự xã hội biểu hiện

tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các hành động xã hội. Nhờ

trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định, cho phép nó hoạt động

một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài.

Cũng có tác giả tách thuật ngữ “trật tự an toàn” thành hai vấn đề riêng biệt là

“trật tự” và “an toàn”. Chẳng hạn: “trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên

dưới, trước sau... An toàn là yên ổn trọn vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn”

[26, Tr 16].

Trật tự xã hội còn được hiểu là: Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành

và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà

mọi người phải tuân theo. Trật tự xã hội là một mặt của trật tự an toàn xã hội và

có nội dung bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân

thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi

người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động,

sinh hoạt, nghỉ ngơi của mọi người.

Như vậy, nói đến trật tự an toàn xã hội là nói đến tình trạng (trạng thái) ổn

định, có trật tự, kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được xác lập trên cơ

sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (được gọi là những quy phạm

pháp luật) và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức truyền thống được mọi

8

người trong xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ và nhờ đó mà mọi người có

được cuộc sống yên ổn. Nói cách khác: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội

có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn trên cơ sở các quy

phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định.

Dưới góc độ đảm bảo ANTT, khái niệm trật tự an toàn xã hội được định nghĩa

như sau: Là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên

cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định.

Đấu tranh giữ gìn trật tự an toàn xã hội bao gồm: giữ gìn trật tự nơi công cộng; đảm

bảo trật tự an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ nạn xã hội; bảo vệ môi

trường... Bảo vệ trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Trong

đó lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có chức năng tham mưu,

hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng,

bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tham gia phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã

hội, bảo vệ môi trường. Dù đứng ở góc độ nghiên cứu nào, chúng ta cũng thấy có

sự thống nhất trong đánh giá về nội hàm của khái niệm trật tự an toàn xã hội, điều

đó được thể hiện trên những dấu hiệu căn bản sau:

- Đó là một trạng thái trật tự, nề nếp, kỷ cương, bình yên của xã hội.

- Trạng thái này chỉ đạt tới độ vững chắc khi được thiết lập trên cơ sở sự tự

giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi người trong xã hội.

- Là kết quả tổng hợp của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm,

tệ nạn xã hội; công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên nhiều llĩnh

vực khác nhau của đời sống xã hội.

Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội bình yên, trong đó mọi người

được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực

đạo đức, pháp lí xác định. Giữ gìn trật tự an toàn xã hội là phòng ngừa, phát

hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về

trật tự an toàn xã hội.

9

Có nhiều quan điểm về “trật tự an toàn xã hội” đều có những ưu điểm nhất

định. Tuy nhiên các quan điểm này không tránh khỏi những hạn chế khi xác

định nội hàm, khách thể và phương pháp điều chỉnh.

Để có khái niệm TTATXH một cách chính xác, có ý nghĩa chỉ đạo thực

tiễn, xuất phát từ 3 căn cứ sau: Thứ nhất, trật tự an toàn xã hội là sản phẩm tất

yếu của xã hội có Nhà nước. Trong tất cả các kiểu Nhà nước đều hình thành và

tồn tại một trật tự an toàn xã hội của mình nhằm bảo vệ Nhà nước và xã hội đó.

Vì vậy, khái niệm trật tự an toàn xã hội phải phản ánh được bản chất của Nhà

nước của dân, do dân và vì dân mà chúng ta đang xây dựng. Thứ hai, TTATXH

còn phải được quan niệm như là kết quả của trạng thái xã hội ổn định vững vàng

của Nhà nước và hệ thống chính trị, trong đó quyền của công dân được bảo vệ

và tôn trọng. Thứ ba, trật tự an toàn xã hội được điều chỉnh bởi một hệ thống các

quy phạm pháp luật, đạo đức, chính trị và bằng phương pháp giáo dục thuyết

phục, cưỡng chế Nhà nước, trong đó quy phạm pháp luật đóng vai trò quan

trọng trong việc hình thành trật tự đó.

Tác giả thống nhất khái niệm thuật ngữ an toàn xã hội theo quan niệm sau:

“Trật tự an toàn xã hội là trạng thái của các quan hệ xã hội được hình thành

và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của nhà nước và các chuẩn mực

đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của mỗi quốc gia, nhờ

đó mọi công dân sống và lao động có tổ chức, có kỉ cương, mọi lợi ích chính

đáng được đảm bảo không bị xâm hại” [38, tr 14].

1.1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

1.1.2.1. Các khái niệm

- Quản lý

Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có

khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu về quản

lý từ góc độ riêng của mình và đưa ra định nghĩa về quản lý.

Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào

những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá

10

trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục

đích đã định trước. Vấn đề mà chúng ta quan tâm nghiên cứu là quản lý xã hội

(quản lý nhà nước, quản lý của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã

hội….).

Chủ thể của quản lý là con người hay tổ chức của người. Những cá nhân

hay tổ chức của con người phải là những chủ thể đại diện có quyền uy, có quyền

hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân

hướng tới mục tiêu chung nhằm đạt được kết quả nhất định trong quản lý.

Khách thể của quản lý là hành vi, hoạt động của con người và các quá trình

xã hội nhằm hướng tới trật tự quản lý. Trật tự này được quy định bởi nhiều loại

quy phạm xã hội khác nhau như quy định bởi nhiều loại quy phạm xã hội khác

nhau như quy phạm tập quán, quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị, quy phạm

tôn giáo, quy phạm pháp luật.

Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới

đối tượng quản lý nhằm đạt mục đích đề ra. Như vậy:

- Quản lý xuất hiện ở bất kỳ đâu, khi nào nếu có ở đó và lúc đó có hoạt

động chung của con người.

- Quản lý là sự tác động có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các

đối tượng quản lý.

- Mục đích và nhiệm vụ của quản lý và điều khiển, chỉ đạo hoạt động

chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo

thành một hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung

đó theo những phương hướng thống nhất, nhằm đạt được mục đích đã định

trước.

- Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy.

- Quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là một quá trình phức tạp, đa dạng và là một yếu tố

không thể thiếu trong đời sống xã hội. Các – Mác cho rằng quản lý xã hội là một

11

chức năng đặc biệt nảy sinh, trước hết là chính bản chất của quá trình lao động

xã hội, ông viết: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà

tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ

nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức

năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động

này khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc

công tự điều khiển mình nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng” [5, Tr 342].

Sau này ông còn nói: “Lao động giám sát và quản lý ở tất cả những nơi mà hoạt

động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình phối hợp mang tính xã

hội, chứ không phải là lao động riêng rẽ của những người sản xuất độc lập” [6,

Tr 432].

“Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,

hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của

nhà nước” [37, Tr5]. Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ

thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý

nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy, tất

cả các cơ quan nhà nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

Pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước, bằng việc sử dụng

pháp luật, nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội hoặc các cá nhân

để các chủ thể này thay mặt nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.

Chủ thể quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá nhân mang quyền lực nhà

nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý nhà nước

bao gồm: Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được nhà nước ủy

quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.

Khách thể quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, trật tự quản lý nhà

nước do pháp luật quy định.

“Quản lý nhà nước đang được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, cũng có

khi nhân dân trực tiếp thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu toàn dân hoặc do tổ

12

chức xã hội thực hiện nếu được nhà nước giao quyền thực hiện chức năng nhà

nước. Quản lý nhà nước không phải là quản lý các tổ chức chính trị gọi là nhà

nước, mà là sự quản lý có tính chất nhà nước do nhà nước thực hiện thông qua

bộ máy nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức

năng của Nhà nước” [38, Tr20]. Quản lý nhà nước là sự tác động và điều chỉnh

mang tính quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội, đó là những tác

động có tính pháp lý dựa trên căn cứ khoa học và có tính khoa học, được thực

hiện một cách liên tục để thực hiện quá trình phát triển xã hội. Như vây, QLNN

là một dạng hoạt động của nhà nước, theo nghĩa rộng đó là toàn bộ hoạt động

của bộ máy nhà nước từ lập pháp đến hành pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp

đó là việc thực hiện các hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan quản lý

nhà nước bao gồm: Chính phủ, các bộ, UBND các cấp. Dĩ nhiên, quản lý nhà

nước phải do cơ quan QLNN tiến hành như các tổ chức quần chúng, tổ chức

chính trị xã hội hoặc nhân dân trực tiếp thực hiện nhưng phải do nhà nước giao

quyền, nhân danh trên cơ sở quyền lực nhà nước.

- Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là bộ phận rất quan trọng của

quản lý nhà nước nói chung, của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói riêng.

Về thực chất, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội bao gồm những

điểm chính yếu sau:

- Là sự tác động có tổ chức, có hệ thống và bằng pháp luật vào tất cả những

yếu tố cấu thành nên trật tự an toàn xã hội nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu

quả các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm bảo cho một nền

trật tự an toàn xã hội theo ý chí của nhà nước.

- Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh

các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người liên quan đến trật

tự an toàn xã hội.

13

Hệ thống các chủ thể quản lý rất rộng, trong đó chủ thể trực tiếp, nòng cốt -

là lực lượng Công an nhân dân.

Đối tượng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là tất cả các cơ quan, -

tổ chức, nhóm người, cộng đồng người, các cá nhân tham gia các mối quan hệ

thuộc phạm trù trật tự an toàn xã hội.

Mục tiêu cụ thể của quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là nhằm thực

hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ an toàn các cơ quan nhà nước, các tổ chức, bảo vệ

trật tự pháp luật và các kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với tình trạng

phạm tội, với các vi phạm pháp luật và các loại tệ nạn xã hội, giữ cho xã hội

luôn luôn ở trong trạng thái bình yên, trật tự, nề nếp kỷ cương...

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm

bảo cho các quá trình xã hội, các hoạt động trong đời sống xã hội diễn ra một

cách bình thường, an toàn... trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các quy định của

pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức Xã hội chủ nghĩa.

Trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ

vững chắc an ninh quốc gia, tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào

Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần nhấn mạnh rằng: Nếu tình hình

trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo dài, không kiểm soát

được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành vấn đề chống đối

chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia.

1.1.2.2 Đặc điểm của quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội.

Về thực chất, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội bao gồm những

đặc điểm chính yếu sau:

Là sự tác động có tổ chức, có hệ thống và bằng pháp luật vào tất cả những

yếu tố cấu thành nên trật tự an toàn xã hội nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả

các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm bảo cho một nền trật tự

an toàn xã hội theo ý chí của nhà nước.

14

Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh

các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người liên quan đến trật tự

an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, quyền lực của nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể

có thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để đảm bảo thực hiện ý chí

nhà nước như các biện pháp về tổ chức, về kinh tế, tuyên truyền giáo dục, thuyết

phục, cưỡng chế …. Chính các biện pháp này thể hiện sự tập trung rõ nét của

sức mạnh Nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của

chủ thể nhà nước được thực hiện.

QLNN về trật tự ATXH là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể có

quyền năng hành pháp nhằm tạo nên sự ổn định, an toàn cho đất nước trên mọi

phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm đạt tới các mục tiêu xây

dựng thành công và bảo vệ vững chắc XHCN.

Đối tượng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là tất cả các cơ quan,

tổ chức, nhóm người, cộng đồng người, các cá nhân tham gia các mối quan hệ

thuộc phạm trù trật tự an toàn xã hội. Cơ quan quản lý phải thể hiện những quy

định khắt khe, hàng loạt các điều kiện đảm bảo TTATXH, cán bộ công chức

phải có trình độ chuyên môn nhất định có trách nhiệm với công việc xử lý các vi

phạm pháp luật về TTATXH đều dựa trên cơ sở pháp luật, đúng pháp luật.

Trong quá trình đó các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà

quan trọng hơn cả, chúng nhận chức năng chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của

các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối

tượng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa

vụ của bên trong quan hệ quản lý.

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội thường xuyên khai thác, kế thừa,

sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhất là trong giai đoạn

hiện nay, khi mà kỹ thuật điện, điện tử và khoa học công nghệ, thông tin viễn

thông phổ biến …. Từ đó đòi hỏi các cơ quan QLNN cần có kế hoạch đầu tư,

15

nâng cấp các trang thiết bị kỹ thuật và ứng dụng nhanh nhất thành tựu của các

ngành khoa học vào QLNN về TTATXH.

1.2. Nội dung và vai trò quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

1.2.1. Nội dung

1.2.1.1 Hoạch định chính sách chiến lược ban hành chương trình mục tiêu

về đảm bảo trật tự an toàn xã hội

Chiến lược, chính sách, kế hoạch, mục tiêu đảm bảo TTATXH luôn luôn

phải đi đúng hướng, nhất là thể hiện sự nhất quán với chủ trương, đường lối, tư

tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ TTATXH. Mục tiêu

QLNN về TTATXH bao gồm mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong từng lĩnh

vực như sau:

Mục tiêu chung của QLNN về TTATXH trong thời kỳ hiện nay là: Bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội

chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi, ngăn chặn, làm

thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; giữ

vững ổn định chính trị, trật tự xã hội và môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi

phục vụ đắc lực chiến lược phát triển theo định hướng XHCN, góp phần thực

hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu cụ thể đó là tạo được sự chuyển biến trong công tác xây dựng

Đảng, Nhà nước, ngăn chặn từng bước đẩy lùi suy thoái chính trị đạo đức, lối

sống quan liêu, tham nhũng lãng phí trong một số bộ phận đảng viên, củng cố

đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tập

trung hiệu quả việc tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa nền

kinh tế đất nước ra khỏi tình trạng khó khăn. Phòng ngừa, ngăn chặn các nguy

cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng, không để xảy ra

bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Xây dựng

lực lượng vũ trang các mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất

16

lượng tổng hợp và chiến đấu cao. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự

phát triển của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên khu vực và thế giới.

Trên cơ sở những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, có thể đưa ra mục

tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực như sau:

Về chính trị: Đảm bảo giữ vững ổn định chính trị xã hội, xác định, củng cố

phát huy vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, tăng cường hiệu quả QLNN đối với quản

lý xã hội, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Về kinh tế - xã hội: Bảo vệ đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước, góp phần bảo vệ nguồn lực của nền kinh tế, tạo môi trường đầu tư thuận

lợi, đảm bảo công bằng xã hội đi đôi với tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Về tư tưởng – văn hóa: Bảo vệ sự phát triển đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê

nin, tư tưởng HCM, kế thừa phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp

thu có chọn lọc tinh hoa, văn hóa nhân loại phù hợp với văn hóa Việt Nam, củng cố

khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trên cơ sở đoàn kết các cộng đồng dân tộc.

Về trật tự an toàn xã hội: Ngăn chặn, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm,

tập trung phòng, chống có hiệu quả các loại tội phạm nguy hiểm gây hậu quả tác

hại, gây bức xúc trong xã hội, bài trừ các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn nghiện hút,

cờ bạc, mại dâm, tệ nạn quan liêu, tham nhũng; ngăn ngừa, làm giảm các tai

nạn; duy trì trật tự, kỷ cương, xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, nghiêm

minh trong đời sống xã hội.

1.2.1.2 Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội

Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực TTATXH được Quốc hội,

Chính phủ và Thanh tra hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành

chính nhà nước, cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà

nước phải thể chế hóa các Luật, Nghị định của Chính phủ để triển khai trong

ngành và lĩnh vực mình quản lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho công tác QLNN về TTATXH cũng như đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân; đồng thời thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cơ

17

quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyền trong giải quyết các vấn

đề TTATXH.

Trong thực tiễn các hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có nhiều vấn

đề mới nảy sinh, một số chính sách quy định khi được ban hành không theo kịp

diễn biến của quá trình đổi mới, một số quyết định hành chính, hành vi hành

chính của các cấp các ngành thiếu chuẩn xác, còn bất cập, .... đã dẫn đến việc

TTATXH có khả năng tăng nhanh về số lượng, cũng như phức tạp về tính chất.

Tuy nhiên, pháp luật về TTATXH được ban hành khá đầy đủ, nhưng nhiều văn

bản thiếu đồng bộ, bất cập hoặc đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn..... Việc

thường xuyên nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện tổ chức các văn bản TTATXH là

cần thiết và quan trọng, nhằm đánh giá thực trạng, hạn chế , khó khăn, vướng

mắc trong quản lý, triển khai pháp luật về TTATXH, kiến nghị sửa đổi, bổ sung

văn bản quy phạm pháp luật công tác QLNN về TTATXH, tạo ra sự chuyển

biến tích cực, hạn chế các vụ việc TTATXH nổi cộm, phức tạp kéo dài.

1.2.1.3 Tổ chức bộ máy và bố trí nguồn lực quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội

Năm 2018 là năm thứ ba của nhiệm kỳ khóa XII - năm bản lề có ý nghĩa

quyết định thắng lợi của việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Đất

nước ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi mới để phát triển nhanh và

bền vững. Bối cảnh tình hình đó đặt ra cho lực lượng CAND nhiệm vụ rất nặng

nề, đòi hỏi phải nỗ lực cao hơn nữa, tiếp tục phấn đấu hoàn thành hơn nữa các

mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đề ra.

Đây là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan

đến rất nhiều đối tượng và tổ chức xã hội rất tinh vi và phức tạp. Vì vậy, cần phải

thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN

về TTATXH. Để có được điều này thì một trong những giải pháp quan trọng là

việc thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho CBCC làm công tác QLNN về

TTATXH. Ngoài phổ biến các quy định được sửa đổi, bổ sung hay mới ban hành;

18

còn cung cấp kiến thức, trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác xử lý về

TTATXH trong thực thi công vụ; tạo điều kiện cho đội ngũ, cán bộ công chức có

cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và phương thức giải quyết. QLNN về TTATXH thông

qua thực tế quá trình thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị và địa phương.

Công an phải là lực lượng nòng cốt, phối hợp với các ban, bộ, ngành, đoàn

thể bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, tạo sự chuyển biến rõ nét về

TTATXH, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của nhân dân, góp phần tích cực bảo

vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình,

an ninh, an toàn để đất nước phát triển nhanh và bền vững... Nâng cao chất

lượng công tác dự báo, phân tích tình hình; phát hiện từ sớm các mối đe dọa đến

lợi ích, an ninh quốc gia, TTATXH để chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng,

Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, giải pháp bảo đảm

ANTT; kiên quyết không để bị động, bất ngờ. Đẩy mạnh các hoạt động đối

ngoại, triển khai các biện pháp bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, TTATXH,

góp phần thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của

Đảng, Nhà nước.

1.2.1.4 Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm

pháp luật

Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình nhà nước về

TTATXH, là phương thức đảm bảo pháp chế XHCN, tăng cường kỷ luật và

nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Thanh tra, kiểm tra TTATXH là một mắt

xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình QLNN và TTATXH. Qua thanh tra,

kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết TTATXH sẽ nâng cao trách nhiệm quản lý

của các cấp các ngành đồng thời nắm bắt được tình hình trật tự ATXH của từng

địa phương và kết quả giải quyết ở cơ quan đơn vị đó. Qua đó, thấy được những

bài học kinh nghiệm cũng như những vướng mắc thiếu sót trong việc thực hiện

các chính sách pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo sâu sắc hơn, hoặc đề nghị xử lý

19

những người thiếu trách nhiệm xử lý những người không thực hiện đúng quy

định của pháp luật.

Trong công tác thanh kiểm tra về TTATXH phải thực hiện tốt việc phối

hợp giữa công an với các ban ngành đoàn thể trên các lĩnh vực QLNN về

TTATXH. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể,

tổ chức kinh tế xã hội và quan hệ giữa các tổ chức này với lực lượng công an

trong việc thực hiện quan hệ đấu tranh, ngăn ngừa hoạt động phá hoại của các

thế lực thù địch, phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội. Đồng thời đề cao vị

trí, vai trò giám sát của HĐND, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp thông qua

việc đóng góp ý kiến liên quan đến các hoạt động của quản lý TTATXH.

Quản lý nhà nước về TTATXH là nhiệm vụ của các cơ quan, cá nhân có

thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước trong hoạt động QLNN của mình,

thực hiện QLNN về TTATXH có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội, từ đó làm cho nền hành chính quốc gia phát

triển. Hoạt động QLNN TTATXH thực chất là hoạt động chấp hành và điều

hành, việc giải quyết các vi phạm TTATXH, được thể hiện đúng quy định mà

các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, được các cơ

quan hành chính nhà nước áp dụng vào hoạt động QLNN về TTATXH.

Mặt khác, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về

TTATXH thể hiện hoạt động điều hành khi giải quyết các vi phạm TTATXH

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã trực tiếp tác động lên các hành vi chủ

thể vi phạm, làm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể khi xử lý vi phạm TTATXH.

Đồng thời công tác QLNN về TTATXH đảm bảo tồn tại và sự ổn định chấp

hành, giải quyết TTATXH phải tuân thủ nghiêm minh quy định của văn bản

pháp luật, xử lý theo pháp luật, công minh và đảm bảo công bằng cho đối tượng

vi phạm TTATXH đảm bảo được các quyền lợi của các chủ thể liên quan, nhất

là vi phạm TTATXH.

20

1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

Cũng như tất cả các quốc gia nói chung, vấn đề quản lý nhà nước về trật tự

an toàn xã hội nói chung và nói riêng có vai trò hết sức quan trọng đối với công

tác quản lý nhà nước bởi nó là một tiền đề nhằm ổn định xã hội xác lập cơ sở để

phát triển các mặt kinh tế - văn hóa – xã hội.

Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh phải nhằm bảo đảm cho đất

nước hòa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, “không để bị động, bất ngờ trong mọi

tình huống”, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi cuộc

chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động đối với nước ta. Các thế lực thù

địch hiện nay đang thực hiện nhiều âm mưu, nhiều thủ đoạn nhằm kìm hãm sự

phát triển của đất nước, phá hoại sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa,...

Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng mọi sơ hở của ta

hòng làm suy yếu nội bộ để “tự diễn biến”, tạo nên các tình huống phức tạp, bất

ngờ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” làm mất ổn định chính trị,

gây bạo loạn lật đổ hoặc bất ngờ tiến hành chiến tranh xâm lược.

Chúng ta biết rằng, bản chất của quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

là nhằm quản lý con người trên lĩnh vực trật tự an toàn xã hội, tập trung vào

quản lý cư trú đi lại hành nghề, kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự cũng

như các hoạt động khác của con người. Khi tham gia vào quá trình xã hội, quá

trình quản lý nhà nước về TTATXH hội giúp cho các nhà quản lý có được

những thông tin cần thiết về con người trong các hoạt động của đời sống xã hội

như thông tin về dân số, cơ cấu mật độ dân số, an toàn giao thông… Đây là

những nguồn thông tin cơ bản thu được thông qua hoạt động quản lý nhà nước

về trật tự an toàn xã hội, giúp cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, xây

dựng các chính sách cũng như các chiến lược phát triển kinh tế - văn hóa của đất

nước, các kế hoạch của các ngành, các cấp từ Trung ương tới cơ sở.

Ngoài ra, QLNN về TTATXH còn có vai trò to lớn là điều chỉnh, điều

khiển các hoạt động xã hội và hành vi của công dân theo trật tự nhất định của

21

nền trật tự xã hội chủ nghĩa đó là một nền trật tự của một xã hội mà nơi đó con

người sống có kỷ cương, nền nếp, lành mạnh, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là một biện pháp công tác cơ bản

của lực lượng công an nhân dân để phòng ngừa tội phạm, hoạt động quản lý nhà

nước về trật tự an toàn xã hội có tác dụng tước bỏ điều kiện xóa bỏ cơ số tội

phạm và phần tử xấu lợi dụng để hoạt động phạm pháp.

Hoạt động quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội có điều kiện đi sâu

nắm chắc tình hình thu nhập thông tin, cung cấp thông tin cho các hoạt động

nghiệp vụ làm cơ sở cho việc triển khai các mặt công tác nghiệp vụ khác của lực

lượng Công an nhân dân như hỗ trợ cho các hoạt động điều tra: hoạt động sưu tra,

xác minh hiềm nghi... Dù ở giai đoạn nào thì vai trò của quản lý hành chính về trật

tự an toàn xã hội rất lớn góp phần xây dựng cuộc sống yên vui lành mạnh, hạnh

phúc của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước.

Đất nước ta hiện nay đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá với đặc trưng của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có nhiều thay đổi

cơ bản vì hiện đại hoá kinh tế có mối quan hệ đến vấn đề dân chủ hoá các mặt

đời sống xã hội. Người lao động ở thời kỳ này đòi hỏi phải có việc làm và tự do

lựa chọn việc làm theo khả năng trí tuệ của mình. Các quyền cơ bản của dân đòi

hỏi phải được đảm bảo hơn như các quyền tự do cư trú, đi lại... Vấn đề dân chủ

của dân phải được đảm bảo bằng pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là đảm bảo cho quyền tự do của công dân được thực

hiện trong thực hiện pháp luật, hoạt động quản lý hành chính về trật tự an toàn

xã hội đóng vai trò biểu hiện của nhà nước pháp quyền, nó đảm bảo vững chắc

cho nhà nước của dân, do dân, vì dân. Song còn đó những mặt trái: sự phân hoá

giàu nghèo, tội phạm mới xuất hiện, phương thức thủ đoạn của tội phạm ngày

càng tinh vi... Quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước luôn phải

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, quản lý

hành chính về trật tự an toàn xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì nó quan hệ

22

đến sự an toàn và ổn định của xã hội, sự bền vững của quốc gia và sự sống của

chế độ.

1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

1.3.1. Về chính trị

Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế

hoạch, phương án bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Bảo vệ an ninh quốc phòng, giữ gìn trật tự an toàn xã hội gắn liền với sự

tồn vong của chế độ chính trị, lợi ích sống còn của quốc gia dân tộc, của đất

nước; Chủ tịch nước Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công tác bảo vệ an ninh quốc gia,

giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng,

nếu thoát li đường lối chính trị của Đảng thì khéo mấy cũng không có kết quả”.

Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội mang bản chất giai cấp sâu sắc.

Đó là bản chất của giai cấp công nhân, do các cơ quan nhà nước của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bản chất đó được biểu hiện ở

mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,

nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo

đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất

bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự

nghiệp cách mạng của nhân dân ta” [19, Tr 2]. Đây là nhiệm vụ trọng yếu,

thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó: “Xây dựng Quân đội

nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước

hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao…”

[20, Tr 2].

Như vậy, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là vấn đề rất quan trọng

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là trách nhiệm của cả hệ thống chính

trị và của toàn Đảng, toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân

23

dân có vai trò đặc biệt quan trọng. Căn cứ vào nhiệm vụ quản lý nhà nước về

trật tự an toàn xã hội, công tác tuyên truyền, giáo dục cần được triển khai, tiến

hành sâu, rộng trong toàn xã hội, nhằm tạo ra sự thống nhất nhận thức, thấy rõ

mục tiêu và nhiệm vụ chung của việc quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

là yêu cầu khách quan có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện

nay; cũng như tuyên truyền giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách

nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng -

an ninh. Đồng thời, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động

trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới như: chiến tranh

bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, vùng trời, “diễn

biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm

xuyên quốc gia.

1.3.2 Về pháp luật

Quản lý nhà nước về TTATXH là quá trình nắm và điều hành bằng pháp

luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ khác của Quốc hội và Nhà nước trong

mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội, có quan hệ đến việc giữ gìn, bảo vệ độc lập,

chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do hệ thống các cơ quan lập

pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến

hành theo chức năng nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của mỗi cơ quan. Chủ thể

quản lý nhà nước về TTATXH bao gồm tổng thể các cơ quan nhà nước, từ trung

ương đến cơ sở. Trong đó, nòng cốt là các cơ quan quản lý nhà nước. Khách thể

quản lý nhà nước về TTATXH bao gồm tổng thể các lĩnh vực, các hoạt động

xây dựng đảm bảo an toàn cho xã hội, tất cả các hoạt động xã hội có quan hệ

đến việc giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia

của các cơ quan nhà nước, của toàn dân. Toàn dân và các đoàn thể quần chúng

tích cực tham gia các hoạt động quản lý nhà nước về ATXH dưới nhiều hình

thức khác nhau theo cơ chế chung: Đảng lãnh đạo, Nhà nước điều hành, nhân

24

dân làm chủ. Các đặc điểm trên đòi hỏi việc quản lý nhà nước phải hết sức khoa

học, đồng bộ, cụ thể, chặt chẽ, nghiêm túc.

1.3.3. Về kinh tế

Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí của quốc gia là những

điều kiện về vật chất, tinh thần là những yếu tố cơ bản để đảm bảo cho việc tổ

chức thực hiện tốt các nội dung yêu cầu QLNN về TTATXH. Hay nói một cách

khác đó là điều kiện cần và đủ để đảm bảo Luật TTATXH có khả năng đi vào

cuộc sống (có tính khả thi). Xuất phát từ điều kiện kinh tế, khả năng xây dựng,

tổ chức các công trình, mạng lưới hệ thống cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng

đến việc khai thác sử dụng các phương tiện mà Nhà nước quy định các nội dung

yêu cầu quản lý và trách nhiệm công dân trong việc chấp hành quy định quản lý.

Cùng với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia, việc xác định

nội dung, yêu cầu QLNN về TTATXH còn phải căn cứ vào trình độ dân trí cũng

như khả năng, điều kiện, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Do vậy,

QLNN về TTATXH nhất thiết phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã

hội, trình độ dân trí của quốc gia, vừa là nguyên tắc cơ bản, vừa là điều kiện

khách quan cần và đủ để đảm bảo TTATXH đạt kết quả tốt nhất.

1.3.4. Hội nhập quốc tế

Hợp tác quốc tế về đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực,

công tác bảo vệ an ninh trật tự không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc gia và cũng

không phải chỉ là hoạt động độc lập của các cơ quan, cán bộ chuyên trách, với

sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước. Công tác bảo vệ an

ninh trật tự hiện nay đã vượt khỏi biên giới quốc gia, có sự hỗ trợ, phối hợp của

các cơ quan, tổ chức quốc tế , các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong

khuôn khổ luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Vì vậy trong QLNN về

TTATXH cần tổ chức tốt các mối quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song

25

phương với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ

an ninh trật tự.

1.4 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực

1.4.1 Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm

Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm là một bộ phận trong

QLNN về trật tự an toàn xã hội.

Thứ nhất, hoạt động quản lý Nhà nước trong phòng ngừa tội phạm góp

phần đảm bảo sự ổn định và phát triển về mọi mặt tại địa bàn cơ sở.

Sự phát triển về mọi mặt ở các địa bàn cơ sở phụ thuộc vào nhiều yếu tố

khác nhau, trong đó vấn đề đảm bảo tình hình an ninh, trật tự, làm cơ sở cho

việc triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển kinh

tế, xã hội là một nhiệm vụ mang tính chất chiến lược. Thực tiễn tiến hành hoạt

động quản lý nhà nước trong phòng ngừa tội phạm cho thấy vai trò quan trọng

của hoạt động này trong việc đảm bảo cho sự hoạt động bình thường, đúng đắn

của các cơ quan, tổ chức, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn, góp

phần tích cực trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và các

diễn biến phức tạp về an ninh, trật tự, từ đó thắt chặt thêm sự đồng thuận, thống

nhất trong cộng đồng dân cư sinh sống trên địa bàn.

Thứ hai, hoạt động quản lý Nhà nước trong phòng ngừa tội phạm vừa

mang hiệu quả kinh tế cao vừa mang tính nhân đạo sâu sắc.

Lực lượng Công an với chức năng nhiệm vụ tiến hành các hoạt động phòng

ngừa không để tội phạm xảy ra không chỉ bảo vệ được tài sản của nhà nước và

nhân dân; hạn chế những thiệt hại vật chất trong quá trình đấu tranh, xử lý tội

phạm mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh

tế, xã hội ở địa bàn cơ sở. Mặt khác phòng ngừa tội phạm là nhằm không để một

công dân nào trên địa bàn phải chịu hình phạt của pháp luật bởi những hành vi

phạm tội. Đối với toàn xã hội, điều quan trọng hơn cả là không để các hành vi

phạm tội xảy ra. Mặt khác, một người khi đã có hành vi phạm tội thì cần phải có

26

các biện pháp xử lý, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích - đó cũng

chính là một biện pháp phòng ngừa tích cực và nhân đạo.

Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước trong phòng ngừa tội phạm góp phần

tích cực vào việc phát hiện, ngăn chặn tội phạm và làm giảm tội phạm trong

cộng đồng dân cư.

Tuyên truyền, vận động mọi người hiểu và tự giác chấp hành pháp luật; xây

dựng nếp sống văn hóa, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; xây dựng

môi trường xã hội lành mạnh. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc góp phần làm

giảm tội phạm.

1.4.2. Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội

Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là quá trình nhà nước cùng các

ngành, các cấp các đoàn thể tổ chức xã hội và mọi công dân (trong đó lực

lượng công an là nòng cốt) tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm phát hiện,

ngăn chặn, loại trừ các tệ nạn xã hội.

Đấu tranh loại trừ tệ nạn ra khỏi đời sống xã đòi hỏi phải có sự tham gia

của các cấp, các ngành, của toàn thể xã hội. Trong đó, lực lượng cơ sở có một

vai trò, vị trí rất quan trọng. Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt tuyên

truyền, hướng dẫn quần chúng nhân dân và trực tiếp thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các biện pháp theo chức năng,

nhiệm vụ của mình để phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn. Là nơi thực

hiện các cuộc vận động của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hoá

mới ở khu dân cư, góp phần đẩy lùi và bài trừ tệ nạn xã hội. Do đó cần xác

định đúng vai trò của nhà trường trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội

Trong quá trình đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội, nhà nước ta luôn

chú trọng đến việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật và đã ban hành

nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh công tác này, như: tội hành nghề mê

tín dị đoan; tội chứa mại dâm; tội môi giới mại dâm; tội mua dâm người

27

chưa thành niên; tội đánh bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; các tội

phạm về ma tuý…

Trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm cần xử lý nghiêm

minh những đối tượng hoạt động tệ nạn xã hội chuyên nghiệp, những đối tượng

chủ chứa, tổ chức, môi giới, cầm đầu trong các đường dây, ổ nhóm hoạt động tệ

nạn xã hội, cần tích cực, kiên trì cũng như quan tâm tạo các điều kiện thuận lợi về

vật chất và tinh thần để động viên, giáo dục, cảm hoá đối tượng là nạn nhân của tệ

nạn xã hội để họ yên tâm rèn luyện để trở thành công dân có ích cho xã hội.

1.4.3. Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy

“Phòng cháy và chữa cháy là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia

đình và cá nhân trên lãnh thổ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người đứng

đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình là người chịu trách nhiệm tổ chức hoạt

động và thường xuyên kiểm tra phòng cháy và chữa cháy trong phạm vi trách

nhiệm của mình” [15, Tr2]. Trong đó lực lượng công an giữ vai trò nòng cốt,

chịu trách nhiệm hướng dẫn phòng cháy và làm nhiệm vụ chữa cháy. UBND các

cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan thông tin, tổ chức, hộ gia đình

phải nhận thức rõ hơn và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong tổ chức,

chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định an toàn về PCCC.

Hiệu lực quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC ngày càng được tăng

cường; hệ thống các văn bản pháp luật; hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn về

PCCC ngày càng hoàn thiện đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối chặt chẽ, đưa

việc thực hiện công tác PCCC vào khuôn khổ và nề nếp. Năm 2001, trước yêu cầu

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luật PCCC được Quốc

hội Khóa X, Kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001. Ngày 22/11/2013, Quốc hội

đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC. Ngày 25/6/2015,

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 47/CT-TW của Ban Bí

thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCCC…

28

Nền kinh tế nước ta đã, đang và sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ,

phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại. Theo đó, huyện Thanh Trì phấn đấu lên quận vào năm 2020. Nên trong

những năm tới tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng nhanh, các đô thị

mới, khu công nghiệp – khu chế xuất – khu công nghệ cao sẽ tiếp tục mở rộng,

phát triển; các tổ hợp nhà nhiều tầng và siêu cao tầng sẽ phát triển mạnh cả về số

lượng cũng như quy mô; hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại, chợ cũng

không ngừng tăng cao; số lượng các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ tăng

nhanh chóng, trong đó có rất nhiều cơ sở lớn có nguy cơ cháy, nổ cao. Tất cả

các yếu tố nêu trên có liên quan trực tiếp đến nguy cơ cháy, nổ và những thảm

họa khôn lường do cháy, nổ gây ra.

Trước yêu cầu ngày càng cao của việc bảo đảm an toàn PCCC phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoạt động quản lý nhà nước về

PCCC đang đứng trước sự đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và

phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý.

1.5 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội.

1.5.1 Xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức

Do sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, tháng 3/2017, trên

địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức đã xảy ra tình trạng vi phạm trên đất Quốc

phòng. Người dân trên địa bàn xã Đồng Tâm đã có đơn thư khiếu tố lên các cơ

quan của huyện và TP. UBND TP Hà Nội đã giải quyết, xử lý cán bộ sai phạm.

Tuy nhiên, mặc dù các cơ quan chức năng của thành phố đã áp dụng nhiều

biện pháp như tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đối thoại, trả lời và giải

quyết nhiều kiến nghị của người dân, nhưng một số công dân vẫn khiếu kiện,

kích động, không chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, có nhiều hoạt

động gây mất an ninh trật tự tại địa bàn.

Ngày 30-3-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Thành phố Hà Nội đã

ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành vi “gây rối trật tự công cộng” theo

29

điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Công an

Thành phố đã 3 lần triệu tập các công dân có liên quan lên làm việc nhưng số

người này không chấp hành, tiếp tục có các hành vi chống đối. Ngày 15-4-2017,

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hà Nội đã áp dụng biện pháp

ngăn chặn, bắt giữ 4 công dân về hành vi gây rối trật tự công cộng để điều tra.

Ngay sau khi Công an Thành phố triển khai bắt giữ các đối tượng trên, số công

dân xã Đồng Tâm đã tập trung đông người bao vây, không cho xe ô tô của các

lực lượng làm nhiệm vụ ra khỏi địa bàn ở xã Đồng Tâm; giữ, đập phá 5 xe ô tô

của lực lượng chức năng (gồm 1 xe chở quân, 3 xe Innova, 1 xe cứu thương);

giữ trái phép 38 cán bộ huyện Mỹ Đức và cán bộ, chiến sỹ Công an thành phố

Hà Nội tại Nhà văn hóa thôn Hoành...

Lãnh đạo Thành phố trực tiếp tuyên truyền, vận động với số cầm đầu, quá

khích, giải thích rõ việc bắt giữ người là hành vi vi phạm pháp luật; yêu cầu họ

thả cán bộ, chiến sỹ bị bắt giữ trái pháp luật. Thành phố đã tổ chức 2 tổ công tác

trực tiếp xuống địa bàn tuyên truyền, vận động quần chúng, tuy nhiên, các đối

tượng không hợp tác...

Đến ngày 20/4, Thanh tra Hà Nội đã công bố quyết định thanh tra toàn diện

việc quản lý, sử dụng và quá trình xử lý từ trước đến nay với diện tích đất khu

sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Kết

quả sẽ được công bố sau 45 ngày.

Căng thẳng tại xã Đồng Tâm kéo dài từ ngày 15 đến 22/4 mới được tháo gỡ

hoàn toàn sau cuộc đối thoại giữa đồng chí Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch

UBND Thành phố Hà Nội với người dân thôn Hoành.

Việc một số công dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức lôi kéo, kích động

người dân, có các hành vi vi phạm pháp luật với mức độ ngày càng nghiêm

trọng, gây rối an ninh TTATXH trên địa bàn. Đây là một hành động coi thường

pháp luật Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh TTATXH trên địa

bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.

30

1.5.2 Huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Tại Kim Nỗ (Đông Anh – Hà Nội), trong ngày khởi công Dự án xây dựng

sân gôn (năm 2004) đã có gần 400 nông dân bao vây tấn công lực lượng bảo vệ

và quan khách với lý do Dự án khởi động kéo dài, gây thiệt hại nhiều cho người

dân có đất bị giải phóng mặt bằng và doanh nghiệp đã không thực hiện lời hứa

với người dân trước khi thu hồi đất. Họ chửi bới, ném gạch đá, chai xăng vào

quan khách tham dự buổi lễ; xô xát trở lên căng thẳng, hơn 10 chiến sỹ công an bị

thương. Những đối tượng quá khích còn đập nhát một chiếc xe máy của nhân viên

bảo vệ. Một số phương tiện, máy móc thi công bị hư hỏng; nhiều phương tiện hỗ

trợ của lực lượng cảnh sát cũng bị mất mát và hư hỏng. Để tránh những thương

vong đáng tiếc, lãnh đạo huyện Đông Anh đã phải ra lệnh ngừng buổi lễ thi công.

1.5.3 Bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn

xã hội được rút ra.

Một là, cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quản lý Nhà

nước về trật tự an toàn xã hội trong phòng chống tệ nạn xã hội, hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật phải được phổ biến một cách sâu rộng cho mọi tầng lớp xã hội,

thông qua đó để mọi người nâng cao ý thức và thực hiện theo pháp luật.

Hai là, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội phải được

đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng; phát huy sức

mạnh của hệ thống chính trị; xây dựng tư duy mới về TTATXH; “xã hội hoá”,

biến vấn đề TTATXH và công tác bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn

Đảng, toàn dân; trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt.

Ba là, thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của Bộ Công an đối với công tác bảo đảm

TTATXH; coi đó là nguyên tắc, phương châm trong mọi hoạt động chấp hành

và điều hành của các lực lượng tham gia công tác bảo đảm TTATXH từ Trung

ương xuống địa phương. Lực lượng Công an cần chủ động trong mọi tình

huống, nhạy bén, đi trước đón đầu; coi trọng công tác dự báo; nắm chắc tình

31

hình, phòng ngừa từ xa; kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng hệ

thống pháp luật tiếp cận sát tình hình; sẵn sàng ngăn chặn, đối phó với mọi diễn

biến bất lợi về TTATXH.

Bốn là, dựa vào nhân dân; coi trọng thế trận lòng dân; thế trận An ninh nhân

dân; kết hợp giữa lực lượng an ninh với quốc phòng; thường xuyên đổi mới hình

thức vận động quần chúng; sáng tạo phát huy cao nhất sự đồng tình ủng hộ của

quần chúng nhân dân, tham gia công tác bảo đảm TTATXH. Bám sát và coi trọng

tổng kết thực tiễn công tác bảo đảm TTATXH; lấy thực tiễn kinh nghiệm để soi rọi

lý luận, bổ sung lý luận ngày một hoàn thiện, thực hiện sứ mệnh dẫn đường, chỉ

đạo cho thực tiễn công tác đấu tranh bảo đảm TTATXH.

Năm là, xây dựng, tổ chức hệ thống lực lượng cán bộ, chiến sỹ tham gia

bảo đảm TTATXH phù hợp; có đạo đức, có kỷ luật và năng lực thực tiễn chiến

đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; chăm lo đội ngũ tri thức, cán bộ

khoa học trong lực lượng Công an nhân dân; có chính sách ưu đãi nhất định; tạo

điều kiện tốt nhất trong khả năng có thể để họ làm việc và cống hiến hết sức

mình trong nghiên cứu, đào tạo vì sự nghiệp đấu tranh bảo đảm TTATXH.

Sáu là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các

nước, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong

lĩnh vực đấu tranh bảo đảm TTATXH.

Một số kinh nghiệm khi xảy ra điểm nóng về TTATXH:

- Phải tuyệt đối tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phải tin vào dân, dựa vào

dân. Mà dân là ai, chính là những người đang đứng trước mặt chúng ta, thậm chí

đang la mắng, chửi bới, có hành vi quá khích, nhưng phải tin vào họ là những

người lương thiện, hướng thiện, những người luôn nhận ra lẽ phải để cùng chính

quyền giải quyết vấn đề.

- Phải chọn những phương pháp tốt nhất (không sử dụng bạo lực), rồi đến

phương pháp ít tốt hơn (thượng sách, trung sách, hạ sách). Trước hết phải đối

thoại với dân, có thể có trung gian hòa giải để làm xích lại gần nhau lòng tin, sự

32

khác biệt. Đối thoại chỉ có thể có hiệu quả và thực chất khi đã tìm ra được những

nội dung cần thiết, khi các bên đã đạt đến một trạng thái sẵn sàng đối thoại, đủ

bình tĩnh để bày tỏ và giải quyết những vấn đề đặt ra. Phải tuân thủ nguyên tắc

bình đẳng giữa các bên trong quá trình đối thoại.

- Phải đảm bảo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý, thậm chí cả hợp tình, nhất là đối

với những tình huống phải bắt những người vi phạm pháp luật. Coi trọng vận động

quần chúng. Lực lượng bạo lực nên tập trung vào giữ gìn an ninh, TTATX

33

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

An ninh quốc gia cùng với trật tự an toàn xã hội tạo nên sự ổn định, phát

triển bền vững của đất nước, là hàng rào an toàn trước những nguy cơ tấn công

từ mọi phía, bằng mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch với Việt Nam, đồng thời

góp phần củng cố vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Giữ cho xã hội được an

toàn, có trật tự, kỷ cương cũng có nghĩa là tạo được môi trường sống yên ổn,

góp phần đảm bảo cuộc sống vui vẻ, lành mạnh, hạnh phúc cho mọi người, vì

vậy đây cũng là lĩnh vực được quần chúng quan tâm và sẵn sàng tham gia. Cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là

nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó lực lượng công an nhân

dân có vai trò là nòng cốt, xung kích. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam rất

quan tâm đến lĩnh vực này và đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật

làm cơ sở, hành lang pháp lý cho công tác quản lý về trật tự an toàn xã hội cả ở

tầm vĩ mô, cả ở tầm cơ sở, trong đó có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của công an xã, thị trấn.

Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an

toàn xã hội lại càng quan trọng. Tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới diễn

biến phức tạp, khó lường; những khó khăn trong nước do tác động từ bên ngoài

và cả những tồn tại từ những giai đoạn trước để lại đã bộc lộ và tác động tiêu

cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Cộng vào đó,

tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, có mặt, những lĩnh vực

đang có chiều hướng gia tăng, gây lo ngại, bức xúc xã hội... Tình hình trên đây

đặt ra cho công an huyện, với tư cách là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt

trận đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội giữ gìn an ninh trật tự tại cơ

sở, đồng thời là chủ thể quan trọng, trực tiếp trong quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn huyện nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Trước hết, cần

nhận thức sâu sắc hơn nữa rõ về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình là góp phần

34

đắc lực vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;

giữ vững an ninh, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; chủ

động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với tội phạm, tệ nạn xã hội, giảm thiểu

hành vi vi phạm pháp luật... Từ đó, công an huyện Thanh Trì cần phải được xây

dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp

phần quan trọng vào việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn huyện.

35

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, HÀ NỘI

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thanh

Trì, thành phố Hà Nội.

2.1.1 Về đặc điểm tự nhiên.

Thanh Trì là huyện ngoại thành Hà Nội, mảnh đất giàu truyền thống lịch

sử, văn hóa và cách mạng, là huyện Anh hùng của Thủ đô Anh hùng. Nằm ở đầu

những tuyến giao thông huyết mạch, quan trọng (đường thủy có sông Hồng,

đường bộ có tuyến quốc lộ 1A, 1B, đường sắt Bắc – Nam đi qua), do đó huyện

Thanh Trì có vị trí quan trọng về quân sự và kinh tế đối với Thủ đô Hà Nội.

Trong những năm gần đây, huyện Thanh Trì đã và đang được đô thị hóa

với tốc độ nhanh; nhiều khu, cụm công nghiệp và khu đô thị được xây dựng; có

nhiều điều kiện thuận lợi, thông thoáng để người dân làm ăn, sinh sống, do vậy

số người huyện ngoài về huyện cư trú, tạm trú, lao động, học tập ngày càng

đông. Dân cư trên địa bàn huyện hiện có 68.154 hộ, 231.834 khẩu (so với tháng

12/2003 tăng 25.398 hộ, 56.212 khẩu = 26,08%); hộ, nhân khẩu đăng ký tạm trú

là 5.406 hộ, 24.240 khẩu; ngoài ra trên địa bàn huyện hiện có 3.379 nhân khẩu

đăng ký lưu trú, 683 nhân khẩu tạm vắng và 34 nhân khẩu là người nước ngoài,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài tạm trú trên địa bàn huyện.

Đây là điều kiện thận lợi để huyện Thanh Trì phát triển mạnh về kinh tế

nhưng cũng có những tác động không nhỏ đến công tác đảm bảo ANTT.

2.1.2. Về đặc điểm kinh tế - xã hội

Tăng trưởng kinh tế: trong 5 năm trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế,

xã hội của Thủ đô, cán bộ và nhân dân huyện Thanh Trì đã nỗ lực phấn đấu,

vượt qua khó khăn đưa kinh tế huyện tiếp tục tăng trưởng khá. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế bình quân đạt từ 15,4 – 15,5%/năm. Thu ngân sách tăng nhanh, tỷ

36

lệ tăng thu ngân sách hàng năm đạt 16%; công tác chi ngân sách được đảm bảo,

chủ động, linh hoạt, chặt chẽ, tiết kiệm, có hiệu quả. Công tác xóa đói giảm

nghèo được chỉ đạo thường xuyên, có hiệu quả; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới

giảm từ 5,28% (năm 2010) xuống dưới 1% (năm 2015).

Cơ cấu kinh tế: Trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2012 – 2017, khu vực công

nghiệp – dịch vụ chiếm 68%. Cơ cấu kinh tế huyện chuyển dịch theo hướng

giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp dịch vụ.

Cơ cấu đầu tư: có sự chuyển hướng, tập trung hơn vào việc đầu tư xây

dựng cơ cấu hạ tầng, chú trọng phát triển dịch vụ (chiếm đến 63% tổng số vốn

đầu tư xã hội năm 2017).

Về dân số: Mật độ dân cư toàn huyện là 3.626 người/km2 (so với tháng

12/2003 tăng 878 người/km2). Bình quân diện tích đất canh tác ở các xã sản

xuất nông nghiệp là 183,3 m2/nhân khẩu.

Nguồn lao động: Nguồn lao động của huyện trong giai đoạn 2012 - 2017

tương đối dồi dào, chiếm 60,7% dân số, tăng bình quân 2,3%/năm. Lao động có

việc làm hàng năm tăng 2,7%/năm, tỷ lệ thất nghiệp vẫn tồn tại, chiếm khoảng

5%.

Các công tác khác: công tác giáo dục đào tạo được quan tâm và đạt được

nhiều kết quả tốt; chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện tiếp tục được nâng lên.

Trong 5 năm, huyện Thanh Trì đã đầu tư với tổng kinh phí trên 1.000 tỷ đồng

xây dựng mới 30 trường học, cải tạo và sửa chữa nâng cấp 90 trường. Là huyện

đầu tiên thực hiện Đề án: “Xây dựng bể bơi phòng, chống đuối nước trong các

trường học”. Hiện toàn huyện có 51 trường đạt chuẩn quốc gia (tăng 24 trường

so với năm 2010).

Mức sống dân cư: công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa

bàn tiếp tục được chú trọng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ khám chữa

bệnh từ huyện đến cơ sở được quan tâm đầu tư; đội ngũ cán bộ, y bác sỹ được

tăng cường, cơ bản đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; 100%

37

các xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2011 – 2020 (theo bộ tiêu

chí mới).

Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai kịp thời, hiệu

quả, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; không có dịch

bệnh lớn xảy ra.

Nhìn chung những đặc điểm trên là những đặc điểm thuận lợi để huyện

Thanh Trì hoạt động có hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. Tuy

nhiên, kinh tế thị trường phát triển nhanh tạo sự phân tầng mạnh mẽ giữa các

giai cấp. Tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn đến năm 2017 có sự tăng nhẹ phản ánh

mức độ thiếu việc làm trong thực tế của người dân dẫn đến thực trạng báo động

về các tệ nạn xã hội. Đô thi hóa tăng nhanh làm phát sinh các vấn đề xã hội: biến

đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm dịch bệnh bất thường dẫn đến ảnh hưởng năng

suất, chất lượng cây trồng vật nuôi. Đồng thời là những bất cập trong việc thực

hiện các chính sách đền bù, giải tỏa, điều này trở thành nguyên nhân gây ra tình

trạng tranh chấp giữa các hộ dân, giữa cá nhân với doanh nghiệp… Mặt khác, có

hàng tram cửa hàng, dịch vụ, siêu thị và các dịch vụ khác. Việc quản lý các cơ

sở kinh doanh đặc biệt các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm còn nhiều bất cập

như: karaoke, khách sạn, tẩm quất, mát xa… sẽ dẫn đến tình hình tội phạm và tệ

nạn xã hội.

2.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội.

2.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật

tự an toàn xã hội.

2.2.1.1 Xây dựng kế hoạch thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội

Công tác tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện về công tác đảm bảo trật

tự an toàn xã hội

Để thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa

bàn huyện Thanh Trì, bên cạnh việc chủ động, trực tiếp tiến hành các hoạt động

38

quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội; lực lượng Công an huyện

luôn chủ động triển khai thực hiện các biện pháp, công tác để nắm tình hình, từ

đó tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện ban hành các văn bản chỉ đạo các

ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy chính quyền các xã, thị trấn về công tác đảm bảo

an ninh trật tự, an toàn xã hội góp phần thực hiện tốt chủ trương chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển

kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn, cụ thể:

Thời gian qua, công an huyện Thanh Trì đã tham mưu đắc lực cho Huyện

ủy, UBND huyện và phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức

quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,

của Nhà nước và của Bộ Công an về đảm bảo ANTT; trọng tâm là Chỉ thị số 48-

CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính tị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Nghị quyết số

28/NQ ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Chiến

lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Kết luận số 86/KL-TW ngày

05/11/2010 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày

14/10/2006 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới”…và các Đề án thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm, gắn với các chương trình,

kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Hàng năm, công an huyện đều tham mưu cho Huyện ủy Thanh Trì ban

hành các chỉ thị về lãnh đạo công tác đảm bảo ANTT trên cơ sở thực hiện các

chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy về lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảm bảo ANTT.

Theo đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện chịu trách nhiệm chính trong việc chỉ

đạo, điều hành công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện; Chủ tịch UBND các

xã, thị trấn, thủ trưởng các đơn vị, các cơ quan, doanh nghiệp chịu trách nhiệm

chính trong trong việc tổ chức thực hiện công tác đảm bảo ANTT trên phạm vi

địa phương, đơn vị mình.

39

Công an huyện đã tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện ban hành các

chương trình, chỉ thị, chuyên đề về công tác đảm bảo ANTT như: Chương trình

số 05 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Trì khóa XXII (nhiệm kỳ 2010-

2015) về “Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh; đảm bảo an ninh chính trị

và trật tự an toàn xã hội”; chỉ thị số 29-CT/HU ngày 11/12/2013 của Huyện ủy

“Về nhiệm vụ bảo đảm ANQG, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực

lượng Công an huyện”; chỉ thị số 12-CT/HU ngày 26/8/2007 về “lãnh đạo thực

hiện chuyên đề xây dựng xã, thị trấn an toàn về an ninh nông thôn”; chỉ thị số 63-

CT/HU ngày 20/6/2012 của Huyện ủy Thanh Trì về “tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”.

Công an huyện Thanh Trì đã chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân

huyện ban hành nhiều kế hoạch, chương trình công tác để chỉ đạo các ban,

ngành, đoàn thể, các xã, thị trấn và các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp trên địa

bàn triển khai thực hiện công tác đảm bảo ANTT như: Kế hoạch số 14 thực hiện

Chương trình số 05-CTr/HU ngày 19/5/2011 của Huyện ủy Thanh Trì (khóa

XXII) về “Tăng cường quốc phòng – an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội”;

kế hoạch số 08 thực hiện Chỉ thị số 22-CT/HU ngày 26/12/2012 của Huyện ủy

Thanh Trì về “Thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự

an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an huyện Thanh Trì”; kế hoạch số

191 về “Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm trên

địa bàn huyện Thanh Trì”; kế hoạch số 15 về “Thực hiện chương trình phòng,

chống tội phạm mua bán người”, kế hoạch số 95 về “Thực hiện Nghị quyết số

07 của Quốc hội và Chương trình của Thủ tướng Chính phủ về phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án”; kế hoạch số 27 về “Vận

động thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phòng chống cháy nổ”; kế

hoạch số 45 về “Thực hiện chỉ thị 406/TTg, Nghị quyết 32/CP của chính phủ về

các biện pháp làm giảm tai nạn giao thông”… Nghị quyết số 32/CP của Chính

phủ và Thông tư số 12/BCA của Bộ Công an về các biện pháp đảm bảo an toàn

40

giao thông…tham mưu cho UBND huyện có kế hoạch chỉ đạo các ban, ngành,

đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện thực

hiện công tác đảm bảo ANTT một cách chủ động, hiệu quả.

Nhìn chung, trong những năm qua, Công an huyện Thanh Trì đã làm tốt

chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả

công tác đảm bảo ANTT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Công an huyện Thanh Trì thường

xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các mệnh lệnh, phương

án, kế hoạch đảm bảo ANTT của Ban Giám đốc CATP Hà Nội. Phối hợp với

các cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học trên địa bàn làm tốt công tác

bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý việc sử dụng các phương tiện bưu chính viễn

thông, không để kẻ địch và đối tượng xấu lợi dụng hoạt động xâm hại an ninh

quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước. Song song với công tác đảm bảo an ninh

chính trị, trong những năm qua, Công an huyện Thanh Trì đã chủ động xây

dựng, triển khai và tổ chức thực hiện các kế hoạch, chuyên đề bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn, như: Phòng chống tội phạm gây án nghiêm trọng; tội

phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu “Xã hội đen”; tội phạm có yếu tố

nước ngoài; tội phạm sử dụng công nghệ cao; đấu tranh với các đường dây mua

bán trái phép chất ma túy liên huyện…

2.2.1.2 Tổ chức chính trị - xã hội huyện Thanh Trì trong công tác quản lý

nhà nước về trật tự an toàn xã hội

Xác định Mặt trận Tổ quốc huyện và các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ

chức quần chúng trực tiếp gắn với hoạt động sống thường nhật của cộng đồng

dân cư. Vì vậy nếu lực lượng công an là nòng cốt trong điều tra, xử lý các

trường hợp vi phạm pháp luật thì các tổ chức chính trị - xã hội phải làm tốt công

tác nắm tình hình, tuyên truyền giải thích và vận động nhân dân trong việc chấp

hành pháp luật và thực hiện các nội dung xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ

quốc, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.

41

Tính đến tháng 7/2017, toàn Công an huyện Thanh Trì có 364 cán bộ chiến

sỹ (Ban chỉ huy Công an huyện có 07 đồng chí) được bố trí công tác tại 15 đội,

đồn, Công an thị trấn, trong đó:

- 11 đơn vị nghiệp vụ (73,3% tổng số đầu mối) gồm: đội Tham mưu, Chính

trị - hậu cần, An ninh, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát

trật tự - phản ứng nhanh, Cảng sát giao thông, Điều tra tổng hợp, Cảnh sát điều

tra tội phạm về TTXH, Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế &

chức vụ, Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư

pháp.

- 04 đơn vị quản lý địa bàn (26,7% tổng số đầu mối) gồm: Đồn Công an

cầu Bươu (phụ trách 05 xã: Tân Triều, Thanh Liệt, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp,

Hữu Hòa); đồn Công an Đông Mỹ (phụ trách 05 xã: Đông Mỹ, Duyên Hà, Vạn

Phúc, Yên Mỹ, Tứ Hiệp); đội xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT

(phụ trách 05 xã: Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Liên Ninh); Công

an thị trấn Văn Điển.

- Cơ cấu các đội nghiệp vụ thuộc Công an huyện Thanh Trì gồm có:

+ Đội An ninh:

- Về tổ chức: Đội An ninh có 21 CBCS (trong đó có 01 đội trưởng và 02

phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện tổ

chức, thực hiện các biện pháp, công tác nghiệp vụ để chủ động phòng ngừa, kịp

thời phát hiện và đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động của các loại đối

tượng hoạt động xâm phạm ANQG trên địa bàn quản lý theo quy định.

Tiến hành công tác ĐTCB, QLNV theo quy định, tham gia KTNV và đấu

tranh chuyên án theo yêu cầu của các đơn vị Công an cấp trên. Nắm tình hình về

âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại đối tượng xâm phạm

ANQG, chủ động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu và

hoạt động của các đối tượng có hành vi xâm phạm ANQG trên địa bàn huyện.

42

Tiếp nhận, xử lý và xác minh tin ban đầu đối với các vụ, việc, hiện tượng có dấu

hiệu hoạt động xâm phạm ANQG và phối hợp với các đơn vị Công an cấp trên

tiến hành công tác truy xét, truy tìm đối với các vụ, việc, đối tượng liên quan

đến ANQG xảy ra trên địa bàn.

Tham gia quản lý tạm trú và theo dõi hoạt động của người nước ngoài, Việt

kiều, các cơ sở có người nước ngoài lưu trú…trên địa bàn; phối hợp với các đơn

vị trong và ngoài lực lượng Công an tham gia xây dựng thế trận ANND và

phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trên địa bàn huyện theo quy định.

Như vậy có thể thấy rằng, với chức năng nhiệm vụ như trên, thì lực lượng

An ninh của Công an huyện Thanh Trì có 21/364 cán bộ chiến sỹ (đạt 5,77%) là

không đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay.

+ Đội Tham mưu:

- Về tổ chức: Đội Tham mưu có 16 CBCS (trong đó có 01 đội trưởng và 02

phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện

tổng hợp tình hình, kết quả công tác của Công an huyện; xây dựng và tổ chức

thực hiện chương trình, chủ trương, kế hoạch, biện pháp công tác chung về bảo

vệ ANTT trên địa bàn; chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu đề

xuất Trưởng Công an huyện triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Huyện ủy,

UBND huyện và Công an thành phố Hà Nội về công tác bảo vệ ANTT.

+ Đội Chính trị, hậu cần:

- Về tổ chức: Đội Chính trị, hậu cần có 21 CBCS (trong đó có 01 đội

trưởng và 03 phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện tổ

chức thực hiện các mặt công tác xây dựng lực lượng, hậu cần, kỹ thuật, tài

chính. Quản lý tổ chức biên chế, nghiên cứu đề xuất Trưởng Công an huyện tổ

chức triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, quyết định của

43

Huyện ủy, UBND huyện và Công an cấp trên về công tác tổ chức cán bộ, bảo vệ

chính trị nội bộ, công tác chính trị tư tưởng, công tác Thanh tra, công tác đảng,

công tác hậu cần, kỹ thuật, tài chính…để phục vụ đảm bảo ANTT trên địa bàn.

+ Đội Điều tra tổng hợp:

- Về tổ chức: Đội Điều tra tổng hợp có 10 CBCS (trong đó có 01 đội

trưởng và 02 phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: Là đội nghiệp vụ thuộc Cơ quan cảnh sát điều

tra Công an huyện, có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện, thủ trưởng cơ

quan cảnh sát điều tra Công an huyện theo dõi, tổng hợp tình hình điều tra và

diễn biến, hoạt động của các loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ

quan cảnh sát điều tra Công an cấp huyện để nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các

chủ trương, kế hoạch, biện pháp công tác phòng ngừa, đấu tranh phù hợp; hướng

dẫn các mặt công tác cơ bản của lực lượng cảnh sát điều tra ở Công an huyện; tổ

chức thẩm định hồ sơ một số vụ án, trực tiếp tiến hành điều tra một số vụ án do

thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện giao theo Luật tố tụng hình

sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH; đội Cảnh sát điều tra về trật tự

quản lý kinh tế và chức vụ; đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy:

- Về tổ chức: Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH có 30 CBCS (trong

đó có 01 đội trưởng và 03 phó đội trưởng); Đội Cảnh sát điều tra về trật tự quản

lý kinh tế và chức vụ có 13 CBCS (trong đó có 01 đội trưởng và 02 phó đội

trưởng); Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy có 14 CBCS (trong đó có 01

đội trưởng và 02 phó đội trưởng):

- Về chức năng, nhiệm vụ: là đơn vị nghiệp vụ thuộc cơ quan cảnh sát điều

tra Công an huyện, có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện, Thủ trưởng cơ

quan cảnh sát điều tra Công an huyện tiến hành các biện pháp, công tác nghiệp

vụ chủ động phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý các loại tội phạm về TTXH,

trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, tội phạm tham nhũng, tội phạm và các vi

44

phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, các tội phạm về ma túy…trên địa bàn

huyện theo quy định.

+ Đội Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH:

- Về tổ chức: Đội cảnh sát quản lý hành chính có 20 CBCS (trong đó có 01

đội trưởng và 02 phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện chỉ

đạo và tổ chức thực hiện các biện pháp, công tác quản lý hành chính về TTXH ở

địa bàn theo quy định; phối hợp hướng dẫn cảnh sát khu vực, Công an phụ trách

xã, Công an xã về đảm bảo AN, TT ở cơ sở; tham gia phòng chống cháy nổ trên

địa bàn huyện.

+ Đội Cảnh sát trật tự, phản ứng nhanh:

- Về tổ chức: Đội cảnh sát trật tự, phản ứng nhanh có 23 CBCS (trong đó

có 01 đội trưởng và 03 phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện tổ

chức thực hiện công tác đảm bảo trật tự công cộng, trật tự đô thị; phòng ngừa,

phát hiện đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa

bàn công cộng; tiếp nhận và tổ chức xử lý, giải quyết các tin 113; tham gia xây

dựng phương án phòng chống lụt bão, thiên tai, cứu hộ cứu nạn trên địa bàn

huyện theo quy định.

+ Đội Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp:

- Về tổ chức: Đội Thi hành án hình hình sự và hỗ trợ tư pháp có 43 CBCS

(trong đó có 01 đội trưởng, 03 phó đội trưởng và 20 công dân phục vụ có thời

hạn trong CAND).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện

quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thi hành án hình sự trên địa bàn

huyện; thi hành biện pháp tư pháp, quản lý nhà tạm giữ và kho vật chứng, thực

hiện công tác tạm giam, tạm giữ và hỗ trợ tư pháp theo quy định.

+ Đội Cảnh sát giao thông:

45

- Về tổ chức: Đội cảnh sát giao thông có 29 CBCS (trong đó có 01 đội

trưởng và 03 phó đội trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện tổ

chức thực hiện các biện pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông theo quy định;

phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn giao thông và hoạt động của bọn tội phạm trên tuyến giao thông; phối hợp

với các cơ quan liên quan tuyên truyền, giáo dục vận động toàn dân chấp hành

pháp luật về trật tự an toàn giao thông.

- Các đơn vị quản lý địa bàn:

- Về tổ chức: Công an thị trấn Văn Điển có 27 CBCS (trong đó có 01

trưởng và 02 phó trưởng). Đồn Công an Cầu Bươu có 33 CBCS (trong đó có 01

trưởng đồn và 03 phó trưởng đồn). Đồn Công an Đông Mỹ có 27 CBCS (trong

đó có 01 trưởng đồn và 03 phó trưởng đồn). Đội xây dựng phong trào và phụ

trách xã về AN, TT có 30 CBCS (trong đó có 01 đội trưởng và 03 phó đội

trưởng).

- Về chức năng, nhiệm vụ: có trách nhiệm giúp Trưởng Công an huyện tiến

hành các biện pháp nghiệp vụ, tổ chức tuần tra kiểm soát, cơ động chiến đấu

nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, góp

phần bảo đảm ANTT. Tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn đẩy

mạnh phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, xây dựng lực lượng Công an xã, Bảo

vệ dân phố thuộc khu vực được giao quản lý.

2.2.2. Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật quản lý nhà nước về trật

tự an toàn xã hội.

Lực lượng Công an chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể đổi mới

nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, tổ chức vận động nhân

dân nâng cao ý thức cảnh giác, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh trật tự,

tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, coi đó là nghĩa

vụ và quyền lợi để góp phần bảo vệ sự bình yên cho cá nhân, gia đình và cộng

46

đồng xã hội. Tập trung tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn

dân tộc, ý thức sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Nâng cao chất

lượng hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, củng cố thế trận an

ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, trọng tâm các địa bàn

tập trung đồng bào các tôn giáo, dân tộc, địa bàn nông thôn có tranh chấp, khiếu

nại đông người, kéo dài và địa bàn cơ quan, doanh nghiệp thường xảy ra đình

công, lãn công. Chú trọng chỉ đạo xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình

tiên tiến, có hiệu quả theo hướng xã hội hóa ngày càng cao, với nhiều hình thức

tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải về ANTT từ cơ sở. Động viên, khích lệ

nhân dân tích cực tham gia xây dựng khu dân cư, xã, thị trấn, cơ quan, doanh

nghiệp, trường học…, an toàn về ANTT; chủ động phòng ngừa, phát hiện, tố

giác tội phạm, giáo dục, giúp đỡ, cảm hóa người vi phạm pháp luật tái hòa nhập

cộng đồng; tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội

của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hàng năm, đột xuất khen thưởng và đề xuất

khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; có chính sách thỏa đáng đối với lực lượng làm công

tác an ninh trật tự và quần chúng tích cực tham gia phòng chống tội phạm khi bị

thương, hy sinh, hoặc bị thiệt hại về tài sản khi tham gia phong trào toàn dân bảo

vệ an ninh Tổ quốc.

Trong những năm qua, công an huyện Thanh Trì đã triển khai làm tốt công

tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều nội dung và hình thức phù hợp để

nhân dân nắm vững pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật. Trong những năm

qua, ngoài các hình thức tuyên truyền truyền thống (như phát trên hệ thống truyền

thanh, in tờ rơi, khẩu hiệu, pa nô…), Công an huyện Thanh Trì đã sử dụng những

hình thức phù hợp để tuyên truyền như: Lồng ghép tuyên truyền pháp luật tại các

hội nghị ở cơ sở; phối hợp với các ngành, đoàn thể, các xã, thị trấn, các cơ quan,

doanh nghiệp, nhà trường tổ chức các lớp tuyên truyền giáo dục pháp luật miễn

phí; phối hợp với đài phát thanh huyện, đài truyền thanh các xã, thị trấn để biên

47

tập và phát thanh “Bản tin ANTT” vào 21 giờ hàng ngày trên Đài phát thành

huyện và hệ thống đài truyền thanh các xã, thị trấn. Củng cố Tủ sách pháp luật tại

các thôn, xóm, cụm dân cư, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học; thường xuyên

trang bị các văn bản pháp luật mới liên quan đến cuộc sống hàng ngày để tạo điều

kiện thuận lợi cho cán bộ và nhân dân sử dụng.

2.2.3. Kết quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số

lĩnh vực.

2.2.3.1 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực đấu tranh

phòng chống tội phạm

Đấu tranh phòng chống tội phạm được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong

toàn bộ hoạt động đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Nhiệm vụ này bao gồm hai

mặt: phòng ngừa từ xa để ngăn chặn nguồn phát sinh tội phạm và kiên quyết tấn

công, trấn áp các loại tội phạm đã phát sinh.

Cấp ủy Đảng, chính quyền, tăng cường kiểm tra, chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010 về “Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” ; Chỉ thị

06/CT-BCA-C41 ngày 20/10/2016 của Bộ Công an về “ Tăng cường công tác

phòng chống tội phạm đảm bảo trật tự xã hội ở địa bàn nông thôn, góp phần

phục vụ xây dựng nông thôn mới trong tình hình hiện nay”; Phát huy vai trò của

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng các cấp trong công tác phòng, chống

tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên,

công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Các tổ chức đảng, cơ

quan nhà nước, đoàn thể quần chúng luôn xác định phòng, chống tội phạm là

nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,

phát hiện và xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng và Nhà

nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm. Kiện toàn Ban Chỉ đạo 138 các cấp

theo hướng sáp nhập các ban chỉ đạo về lĩnh vực phòng chống tội phạm, phòng

48

chống ma túy, phòng chống tệ nạn xã hội về một đầu mối và tăng cường cán bộ

có phẩm chất, nhiệt huyết, năng lực, kinh nghiệm vào Ban Chỉ đạo 138 các cấp.

Sự nghiệp phòng chống tội phạm là sự nghiệp của nhân dân, do dân, vì dân,

là nhiệm vụ của toàn bộ các ngành trong bộ máy Nhà nước trong đó có ngành

Công an là then chốt.

Trong quản lý nhà nước về TTATXH tại cơ sở, công an huyện Thanh Trì

đã chủ động bàn bạc, đề xuất những hình thức, biện pháp phối hợp với các ban

ngành, đoàn thể, tăng cường các hoạt động phòng ngừa xã hội, hạn chế môi

trường, điều kiện dễ phát sinh tội phạm. Cán bộ, chiến sĩ Công an huyện, theo

chức năng, nhiệm vụ được phân công đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền,

vận động, tổ chức nhân dân tham gia phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội

phạm, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý; giáo dục người phạm tội trong gia

đình, ở địa bàn dân cư gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa” và “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”, gắn và phục

vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp cục

củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả hoạt động của các lực lượng bán

chuyên trách và các tổ chức tự giác của quần chúng ở cơ sở. Đẩy nhanh quá

trình “xã hội hóa” công tác phòng, chống tội phạm, huy động thêm nhiều nguồn

lực cho công tác phòng, chống tội phạm.

Trong 5 năm qua, có hàng trăm kẻ phạm tội đã bị phát hiện, đưa ra truy

tố, xét xử, chịu những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật cụ thể:

49

SỐ LIỆU TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ TỪ

NĂM 2013 – 2017

STT Năm

Tội phạm

Tội phạm

Tội phạm về

Tội phạm xâm

Tổng số

hình sự, mua

ma túy

quản lý kinh

phạm trật tự an

bán người:

tế, môi trường

toàn công cộng

1

2013

46

23

26

13

108

2

2014

51

11

20

12

94

3

2015

46

18

17

10

91

4

2016

60

14

24

9

107

5

2017

58

16

22

15

111

Tổng

261

82

109

59

511

Nguồn: Báo cáo Tổng kết của UBND huyện Thanh Trì về tình hình kinh tế -

xã hội từ năm 2013 - 2017

SỐ VỤ TỘI PHẠM XÂM PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ TỪ NĂM 2013 – 2017

Năm Giết

Hiếp

Cướp

Cướp

Trộm

Bắt

Cố ý gây

Bắt

Tội

người

dâm

tài sản

giật

cắp

cóc

thương

người

phạm

tích

trái pháp

khác

luật

2013

2014

12 10 25 6 3 46 1 7 69

2015

15 7 55 8 4 35 0 8 85

2016

16 8 52 15 2 42 1 11 72

2017

10 12 50 14 5 61 3 9 69

17 8 51 10 6 35 2 8 74

70 45 53 7 43 233 369 20 219 Tổng

Nguồn: Báo cáo Tổng kết của Công an huyện Thanh Trì từ năm 2013 - 2017

50

2.2.3.2 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực phòng

chống tệ nạn xã hội.

Phòng chống tệ nạn xã hội là vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã

hội coi trọng, quan tâm đặc biệt.

Công an huyện Thanh Trì đã tham mưu cho UBND huyện xây dựng, triển

khai, tổ chức thực hiện các kế hoạch, chuyên đề công tác đảm bảo ANTT; như:

kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 18/7/2008 về thực hiện chuyên đề “Rà soát tình

hình liên quan đến ANTT tại các thôn, xóm, cụm dân cư hàng tháng”; kế hoạch

số 115/KH-UBND ngày 12/8/2011 về thực hiện chuyên đề “Phát huy vai trò các

đoàn thể quần chúng, phát hiện và giải quyết kịp thời mâu thuẫn phát sinh trong

nội bộ nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn huyện Thanh Trì”; kế hoạch số 15/KH-UBND ngày 18/01/2013 về

“Thực hiện chương trình phòng, chống tội phạm mua bán người trên địa bàn

huyện Thanh Trì”…tiếp tục huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các

tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện Nghị quyết 09/CP và các Đề án chương

trình quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng chống mua bán người, chương

trình phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS…quản lý các cơ sở kinh doanh

có điều kiện và dịch vụ nhạy cảm về ANTT; phòng chống cháy nổ; quản lý, vận

động thu hồi vũ khí vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; Nghị quyết số 32/CP của Chính

phủ và Thông tư số 12/BCA của Bộ Công an về các biện pháp đảm bảo an toàn

giao thông…tham mưu cho UBND huyện có kế hoạch chỉ đạo các ban, ngành,

đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện thực

hiện công tác đảm bảo ANTT một cách chủ động, hiệu quả.

Là địa bàn có số người huyện ngoài về tạm trú, cư trú, học tập đông; hàng

năm Công an huyện đều chỉ đạo các lực lượng chức năng làm tốt công tác quản lý

cư trú, kịp thời phát hiện các trường hợp vi phạm để xử lý theo quy định; đã chỉ

đạo các lực lượng chức năng phối hợp với các xã, thị trấn thu nhập dữ liệu dân cư

để quản lý một cách khoa học, chặt chẽ, tạo thuận lợi cho nhân dân khi giải quyết

51

các thủ tục hành chính. Thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động của 200 cơ

sở kinh doanh có điều kiện và dịch vụ nhạy cảm về ANTT (gồm: 03 khách sạn,

51 Nhà nghỉ, 04 cơ sở kinh doanh Karaoke, 5 cơ sở dịch vụ cầm đồ, 27 cơ sở

massage, 40 cơ sở kinh doanh in ấn, 106 cơ sở kinh doanh internet…)

2.2.3.3 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực phòng cháy

chữa cháy

Ðể thực hiện quản lý nhà nước về PCCC, Chính phủ giao cho Bộ Công an,

các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước

về PCCC, trong đó Bộ Công an trực tiếp thực hiện và chịu trách nhiệm trước

Chính phủ về quản lý nhà nước đối với công tác PCCC.

Cấp ủy Đảng, chính quyền tăng cường kiểm tra, chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả chỉ thị số 47/CT-TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác PCCC…Trong những năm qua, UBND huyện Thanh trì ngày

càng tích cực tham gia quản lý nhà nước về PCCC, thấy rõ hơn trách nhiệm của

mình trong việc tổ chức chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định

an toàn về PCCC. Lãnh đạo UBND huyện đã trực tiếp đi kiểm tra PCCC, tập

trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc về PCCC ở địa phương, quan tâm chỉ

đạo việc quy hoạch về PCCC; xây dựng và nhân rộng những mô hình tốt về

PCCC…

Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác PCCC, phòng Cảnh sát

PCCC số 7 đã tham mưu cho UBND huyện nhiều kế hoạch, văn bản chỉ đạo triển

khai đến từng chi bộ, thôn để đẩy mạnh, nâng cao ý thức người dân trong phong

trào toàn dân PCCC. Phối hợp tuyên truyền về pháp luật và kiến thức PCCC với

nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, nội dung sâu sắc, thu hút được sự quan tâm

của đông đảo người dân. Ý thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân

được nâng cao và đi vào nền nếp; phong trào Toàn dân tham gia PCCC được đẩy

mạnh, phát triển sâu rộng. Hầu hết các công trình xây dựng lớn, có nguy hiểm về

cháy, nổ đã đưa các giải pháp PCCC vào ngay từ khi thiết kế và thực hiện tốt việc

52

thẩm duyệt về PCCC. Công tác kiểm tra, hướng dẫn các biện pháp an toàn PCCC

được thực hiện nghiêm túc; trung bình mỗi năm đã phát hiện và yêu cầu khắc

phục, loại trừ hàng ngàn vi phạm, thiếu sót có thể dẫn đến cháy, nổ. Công tác xử

lý vi phạm an toàn PCCC được triển khai quyết liệt, đi đôi với việc xử phạt vi

phạm hành chính. Lực lượng Cảnh sát PCCC đã kiên quyết đình chỉ hoạt động

nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng quy định an toàn PCCC và thoát nạn…

Tổ chức thực hiện nghiêm việc kiểm tra định kỳ đối với các cơ sở theo quy định;

tăng cường kiểm tra đột xuất khi phát hiện các dấu hiệu không đảm bảo an toàn

về PCCC nhất là đối với các chợ, trung tâm thương mại, các cơ sở tập trung đông

người, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ có nguy cơ cháy, nổ cao...Nhiều khu

dân cư người dân tự giác tham gia phong trào Toàn dân PCCC, trang bị phương

tiện chữa cháy, giải tỏa lấn chiếm, tạo khoảng cách an toàn PCCC, dành đường

cho xe chữa cháy cơ động khi có sự cố cháy nổ xảy ra… Lực lượng Cảnh sát

PCCC trên địa bàn huyện Thanh Trì phát triển lớn mạnh, xử lý có hiệu quả những

vụ cháy, nổ, cứu nạn, cứu hộ phức tạp, quy mô lớn…

2.2.4 Thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm trật tự, an toàn xã hội.

Thanh tra, kiểm tra là một chức năng của QLNN, đồng thời là một bộ phận

trong chu trình quản lý, có quan hệ và ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức

năng khác và các bộ phận khác trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự.

Trên bất cứ lĩnh vực nào đi đôi với xây dựng và phát triển bao giờ cũng là

bảo vệ, giữ gìn, vô hiệu hóa những hoạt động tiêu cực, phá hoại nảy sinh từ các

hoạt động chống đối ở bên trong và thế lực thù địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc

thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra đối với việc tổ chức thực hiện, chấp

hành những chủ trương, chính sách, quyết định liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ

an ninh trật tự phải được quan tâm đặc biệt. Song thực tế những năm qua, vấn đề

thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự của các ngành,

các cấp, các tổ chức xã hội còn nhiều yếu kém, vừa có chỗ bị chồng chéo, vừa

có chỗ buông lỏng, có nhiều cơ quan cũng thực hiện chức năng này nhưng lại

53

rơi vào tình trạng chia cắt, thiếu thống nhất đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả của việc QLNN trên lĩnh vực này. Ngay trong ngành Công an, công tác

thanh tra cũng chưa được tập trung chỉ đạo, hiệu quả hạn chế, thời gian bị chi

phối vào các việc cụ thể như xác minh giải quyết đơn khiếu tố…

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Thứ nhất, có sự vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban,

ngành, đoàn thể nên công tác phòng, chống tội phạm, HIV/AIDS, tệ nạn xã hội

trên địa bàn huyện nên việc triển khai nhiệm vụ trong công tác QLNN về

TTATXH diễn ra nhanh chóng kịp thời.

Thứ hai, công an huyện Thanh Trì đã xây dựng và triển khai thực hiện các

chương trình, kế hoạch đảm bảo ANTT hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế

địa bàn; thực hiện đồng bộ các biện pháp công tác đảm bảo ANTT, từng bước

đổi mới và nâng cao hiệu quả các mặt công tác do đó tình hình TTATXH trên

địa bàn huyện luôn được ổn định và giữ vững, không để hình thành các điểm

nóng về ANTT; không để xảy ra đột biến, bất ngờ, khủng bố, phá hoại, bạo loạn,

gây rối về chính trị; không để xảy ra phức tạp về an ninh nông thôn, an ninh tôn

giáo, an ninh thông tin, an ninh văn hóa – tư tưởng…Tỷ lệ điều tra khám phá

các vụ án luôn ở mức cao; các vụ trọng án đều được tập trung lực lượng, biện

pháp để điều tra khám phá trong thời gian ngắn.

Thứ ba, các mặt công tác QLNN về ANTT đã từng bước đi vào nề nếp,

nhất là công tác cải cách hành chính, công tác quản lý nhân hộ khẩu, cấp chứng

minh nhân dân. Đã chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện thành lập

Ban chỉ đạo vận động, thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; thực hiện tốt

công tác quản lý, sử dụng pháo, không để xảy ra tình trạng mua bán, vận

chuyển, tang trữ và đốt pháp nổ trên địa bàn.

Thứ tư, công tác giữ gìn trật tự giao thông, trật tự cộng cộng, trật tự đô thị

có nhiều chuyển biến tích cực, đã kiềm chế sự gia tăng của tai nạn giao thông,

54

diện mạo đô thị được cải thiện rõ nét; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật được tăng cường; ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng

cao, nhất là việc chấp hành luật giao thông và văn hóa giao thông.

Thứ năm, công tác vận động quần chúng, xây dựng phong trào toàn dân

bảo vệ an ninh Tổ quốc được thực hiện hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế

địa bàn; đã tham mưu cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo, huy động các ban,

ngành, đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học và các tầng lớp nhân

dân tham gia; huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị từ

huyện đến cơ sở trong công tác đảm bảo ANTT, góp phần thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

Thứ sáu, công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo có nhiều cải tiến và đổi

mới; duy trì việc giao chỉ tiêu công tác cho từng đội, đồn, Công an thị trấn và

từng cán bộ chiến sỹ (theo từng năm, từng tháng và từng đợt cao điểm); triển

khai và thực hiện quyết liệt các biện pháp quản lý và phòng ngừa sai phạm của

cán bộ chiến sỹ; nâng cao chất lượng, đảm bảo phát huy tinh thần tự giác, ý thức

tổ chức kỷ luật của cán bộ chiến sỹ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây

dựng lực lượng đã được quan tâm thường xuyên và đúng mức.

Thứ bảy, Công an huyện thường xuyên phối hợp với các ngành, đoàn thể

và lực lượng cơ sở để nắm tình hình liên quan đến ANTT trên địa bàn huyện

thông qua việc thực hiện các Nghị quyết liên tịch, kế hoạch liên ngành; đặc biệt

thông qua việc triển khai thực hiện chuyên đề “Rà soát tình hình liên quan đến

ANTT tại thôn, xóm, cụm dân cư hàng tháng” để nắm tình hình liên quan đến

ANTT tại địa bàn cơ sở.

Nhìn chung, trong những năm qua, Công an huyện Thanh Trì đã làm tốt

chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả

công tác đảm bảo ANTT, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Công an huyện Thanh Trì thường

xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các mệnh lệnh, phương

55

án, kế hoạch đảm bảo ANTT của Ban Giám đốc CATP Hà Nội. Phối hợp với

các cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học trên địa bàn làm tốt công tác

bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý việc sử dụng các phương tiện bưu chính viễn

thông, không để kẻ địch và đối tượng xấu lợi dụng hoạt động xâm hại an ninh

quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước. Song song với công tác đảm bảo an ninh

chính trị, trong những năm qua, Công an huyện Thanh Trì đã chủ động xây

dựng, triển khai và tổ chức thực hiện các kế hoạch, chuyên đề bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn, như: Phòng chống tội phạm gây án nghiêm trọng; tội

phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu “Xã hội đen”; tội phạm có yếu tố

nước ngoài; tội phạm sử dụng công nghệ cao; đấu tranh với các đường dây mua

bán trái phép chất ma túy liên huyện…

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những ưu điểm là cơ bản, trong thời gian qua công tác đảm bảo

ANTT trên địa bàn huyện Thanh Trì còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế và

nguyên nhân cần khắc phục, đó là:

Xuất phát từ tình hình kinh tế khó khăn, số lượng người thất nghiệp gia

tăng ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Tác động của văn hóa phẩm đồi trụy, trò

chơi bạo lực trên internet… cũng dẫn tới lối sống không lành mạnh của một bộ

phận thanh thiếu niên và nảy sinh các hành vi tội ác khó lường. Trong khi đó,

công tác quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn sơ hở thiếu sót làm phát sinh

tội phạm, nhất là các lĩnh vực: tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản.

Công tác phòng ngừa của các lực lượng chức năng còn hạn chế, có nơi, có lúc

chưa chủ động chưa kịp thời triển khai các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn tội

phạm, nhất là tội phạm tham nhũng, tội phạm kinh tế. Việc xử lý trách nhiệm

đối với người đứng đầu các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương để tội

phạm lộng hành có nơi còn chưa nghiệm. Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, nhất

là chưa có các quy định cụ thể về giám định tài chính, tài sản, thiệt hại trong các

vụ án tài chính, tham nhũng…

56

Những năm gần đây Công an huyện Thanh Trì đang tập trung trẻ hóa đội

ngũ cán bộ và lãnh đạo chỉ huy cấp đội do vậy kinh nghiệm công tác thực tiễn

còn ít; một số cán bộ trẻ mới ra trường không có ý thức phấn đấu, không tự học

hỏi để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ. Trang thiết bị, phương

tiện, công cụ hỗ trợ phục vụ công tác chiến đấu của Công an huyện,công an xã

chưa tương xứng với tình hình địa bàn; nhiều công cụ phương tiện đã cũ, hỏng,

xuống cấp nhưng chậm được sửa chữa, thay thế.

Công tác tuyên truyền về pháp luật và chấp hành pháp luật trong nhân dân

ở nhiều nơi trên địa bàn huyện chưa thực sự sâu rộng, thiết thực; việc tiếp cận

tuyên truyền, vận động các đối tượng cá biệt còn khó khăn và chưa được đầu tư

đúng mức. Nhận thức, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của một bộ phận quần

chúng còn hạn chế. Tình hình vi phạm hành chính còn diễn ra phổ biến ở nhiều

địa phương trên nhiều lĩnh vực.

Qua thực tiễn công tác đảm bảo AN, TT trên địa bàn huyện Thanh Trì

những năm qua, rút ra một số kết luận đó là:

- Phải nắm chắc tình hình toàn diện trên địa bàn; luôn dự báo kịp thời tình

hình và những vấn đề liên quan đến AN, TT trên địa bàn để tham mưu với cấp

ủy, chính quyền trong công tác chỉ đạo; đồng thời đề ra các nội dung, biện pháp

công tác đảm bảo phù hợp, hiệu quả.

- Phải có sự quan tâm chặt chẽ, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy, chính quyền,

của Ban Giám đốc Công an thành phố Hà Nội và sự phối hợp, giúp đỡ của các

ban, ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong công tác đảm bảo AN, TT

- Triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp, công tác đảm bảo AN, TT;

chú trọng công tác xây dựng và sử dụng mạng lưới bí mật đảm bảo hiệu quả,

thiết thực.

- Quan tâm làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, động viên cán bộ

chiến sỹ. Nâng cao vai trò trách nhiệm của cán bộ chiến sỹ, nhất là đội ngũ lãnh

đạo chỉ huy trong việc điều hành, giám sát, đôn đốc các bộ phận, các lực lượng

thực hiện các chỉ tiêu công tác đảm bảo AN, TT.

57

- Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức

nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ chiến sỹ; chú trọng khâu đào tạo tại chỗ, giao

việc gắn với hướng dẫn, kèm cặp để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ.

2.3.3. Bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội.

Một là, hoàn thiện chính sách, luật pháp nhất là chính sách luật pháp về đất

đai thiếu đồng bộ và chồng chéo, không có tính kế thừa, chưa bảo đảm công

bằng, người hưởng chính sách sau có lợi hơn người hưởng chính sách trước...

tạo ra sự bức xúc, dẫn đến tình trạng đơn thư, khiếu kiện đông người, vượt cấp

và có hành vi quá khích như căng băng cờ, khẩu hiệu, gây rối trật tự công cộng,

cản trở, chống đối khi giải phóng mặt bằng... nhằm gây sức ép với các cấp chính

quyền đòi nâng giá đền bù, hỗ trợ hoặc đưa ra những đòi hỏi vô lý.

Hai là, một số ban, ngành chức năng, cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa thật

sự coi trọng công tác đảm bảo TTATXH, có nơi, có lúc, có việc còn cho rằng

đây là công việc của công an, cần phải thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra”, vi phạm quy chế dân chủ ở cơ sở, các chủ dự án chỉ

quan tâm đến lợi ích kinh trước mắt, ít chú ý đến công tác tuyên truyền giải

thích chủ trương, chính sách nhất là những chủ trương, chính sách liên quan đến

quyền lợi của người dân.

Ba là, làm tốt công tác quản lý đất đai, đặc biệt quan tâm hồ sơ địa chính ở

cấp xã, cấp huyện tạo cơ sở cho việc quản lý đất đai, không để diễn ra tình trạng

lấn chiếm đất đai.

Bốn là, giải quyết đơn thư, khiếu kiện của người dân phải được giải quyết

dứt điểm từ cơ sở, nếu có khó khăn phải báo cáo xin ý kiến của cấp có thẩm

quyền.

Năm là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền luật pháp và ý thức chấp

hành của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí của nhân dân.

Một số kinh nghiệm khi xảy ra điểm nóng về TTATXH:

58

- Phải tuyệt đối tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phải tin vào dân, dựa vào

dân. Mà dân là ai, chính là những người đang đứng trước mặt chúng ta, thậm chí

đang la mắng, chửi bới, có hành vi quá khích, nhưng phải tin vào họ là những

người lương thiện, hướng thiện, những người luôn nhận ra lẽ phải để cùng chính

quyền giải quyết vấn đề.

- Phải chọn những phương pháp tốt nhất (không sử dụng bạo lực), rồi đến

phương pháp ít tốt hơn (thượng sách, trung sách, hạ sách). Trước hết phải đối

thoại với dân, có thể có trung gian hòa giải để làm xích lại gần nhau lòng tin, sự

khác biệt. Đối thoại chỉ có thể có hiệu quả và thực chất khi đã tìm ra được những

nội dung cần thiết, khi các bên đã đạt đến một trạng thái sẵn sàng đối thoại, đủ

bình tĩnh để bày tỏ và giải quyết những vấn đề đặt ra. Phải tuân thủ nguyên tắc

bình đẳng giữa các bên trong quá trình đối thoại.

- Phải đảm bảo nguyên tắc hợp pháp, hợp lý, thậm chí cả hợp tình, nhất là

đối với những tình huống phải bắt những người vi phạm pháp luật. Coi trọng

vận động quần chúng. Lực lượng bạo lực nên tập trung vào giữ gìn an ninh,

TTATXH.

2.3.4. Bài học kinh nghiệm cho Công an huyện Thanh Trì

Một là, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội phải được

đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng; phát huy sức

mạnh của hệ thống chính trị; xây dựng tư duy mới về TTATXH; “xã hội hoá”,

biến vấn đề TTATXH và công tác bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn

Đảng, toàn dân; trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt.

Hai là, thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của Bộ Công an đối với công tác bảo đảm

TTATXH; coi đó là nguyên tắc, phương châm trong mọi hoạt động chấp hành

và điều hành của các lực lượng tham gia công tác bảo đảm TTATXH từ Trung

ương xuống địa phương.

59

Ba là, chủ động trong mọi tình huống, nhạy bén, đi trước đón đầu; coi

trọng công tác dự báo; nắm chắc tình hình, phòng ngừa từ xa; kịp thời tham mưu

cho Đảng, Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật tiếp cận sát tình hình; sẵn

sàng ngăn chặn, đối phó với mọi diễn biến bất lợi về TTATXH.

Bốn là, dựa vào nhân dân; coi trọng thế trận lòng dân; thế trận An ninh

nhân dân; kết hợp giữa lực lượng an ninh với quốc phòng; thường xuyên đổi

mới hình thức vận động quần chúng; sáng tạo phát huy cao nhất sự đồng tình

ủng hộ của quần chúng nhân dân, tham gia công tác bảo đảm TTATXH.

Năm là, bám sát và coi trọng tổng kết thực tiễn công tác bảo đảm

TTATXH; lấy thực tiễn kinh nghiệm để soi rọi lý luận, bổ sung lý luận ngày một

hoàn thiện, thực hiện sứ mệnh dẫn đường, chỉ đạo cho thực tiễn công tác đấu

tranh bảo đảm TTATXH.

Sáu là, xây dựng, tổ chức hệ thống lực lượng cán bộ, chiến sỹ tham gia bảo

đảm TTATXH phù hợp; có đạo đức, có kỷ luật và năng lực thực tiễn chiến đấu,

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chăm lo đội ngũ tri thức, cán bộ khoa

học trong lực lượng Công an nhân dân; có chính sách ưu đãi nhất định; tạo điều

kiện tốt nhất trong khả năng có thể để họ làm việc và cống hiến hết sức mình

trong nghiên cứu, đào tạo vì sự nghiệp đấu tranh bảo đảm TTATXH.

Bảy là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các

nước, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trong

lĩnh vực đấu tranh bảo đảm TTATXH.

60

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Huyện Thanh Trì là một trong những huyện có lịch sử hình thành và bề dày

truyền thống của Thủ đô Hà Nội. Trong suốt chiều dài lịch sử và quá trình cách

mạng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Thanh Trì trước đây, huyện

Thanh Trì ngày nay đã trung thành, gắn bó và góp phần xứng đáng vào truyền

thống cách mạng Thủ đô. Bước vào thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước nói

chung, Thủ đô nói riêng theo định hướng XHCN, Đảng bộ, Ủy ban nhân dân

huyện Thanh Trì càng ý thức trách nhiệm, chức năng của mình trong Quản lý

Nhà nước về mọi mặt đời sống xã hội của huyện, trong đó đặc biệt nhấn mạnh

đến lĩnh vực đảm bảo về Trật tự an toàn xã hội.

Bộ mặt của huyện ngày nay càng ngày càng được đô thị hóa theo hướng

văn minh, hiện đại, đời sống mọi mặt của các tầng lớp dân cư được nâng cao,

chất lượng cuộc sống càng được đảm bảo, trật tự an ninh trong huyện được giữ

vững. Có thể nói đó là những thành tựu nổi bật của huyện trong những năm qua.

Tuy nhiên, trên lĩnh vực Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội vẫn còn

những tồn tại, hạn chế, bất cập..

Lực lượng Công an Huyện, với tư cách là lực lượng xung kích, nòng cốt,

trực tiếp tiến hành Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội tại địa bàn huyện,

tuy đã có nhiều cố gắng, song do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác

nhau, nên việc thực hiện chức năng nắm tình hình mọi mặt, tham mưu cho Đảng

ủy, Ủy ban nhân dân huyện còn thiếu chủ động, việc triển khai các biện pháp

công tác còn lúng túng, đôi khi chạy theo vụ việc, tình hình tội phạm, tệ nạn và

các vi phạm pháp luật khác trên địa bàn huyện còn diễn biến phức tạp, một số

tồn tại về trật tự an toàn xã hội đang gây bức xúc cho người dân... Điều đó đặt ra

yêu cầu cần có những giải pháp vừa trước mắt vừa lâu dài nhằm tăng cường hiệu

quả Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong thời gian tới.

61

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC VỂ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.

3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội.

3.1.1. Đảm bảo kết hợp trật tự an toàn xã hội, giữ gìn an ninh quốc gia,

quốc phòng trên địa bàn huyện và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên địa

bàn huyện Thanh Trì

Trước hết, tăng cường quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội theo định

hướng bảo vệ, giữ gìn an ninh quốc gia, quốc phòng, phục vụ đắc lực nhiệm vụ

chính trị, giữ vững bản chất giai cấp Nhà nước. Xác định tăng cường quản lý

Nhà nước về TTATXH theo hướng trên chính là để lên hàng đầu mục đích, nội

dung của QLNN trên lĩnh vực này trước hết là giữ vững an ninh quốc gia – một

yếu tố quan trọng trong hai mặt của quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Để đạt

được mục đích QLNN về TTATXH nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo trực

tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, phải vận dụng được toàn dân tham gia,

nòng cốt là chế độ chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng. Vì lẽ đó, phải quán

triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp toàn diện, phát huy sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các cơ quan Nhà nước và của mọi tầng

lớp nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự.

Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia phòng, chống

tội phạm giai đoạn 2018-2025 và định hướng đến năm 2030 với các giải pháp

được nêu như: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phân bổ ngân sách bảo

đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị

nghiệp vụ cho công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao vai trò trách nhiệm,

xử lý nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương để

62

xảy ra tình hình tội phạm phức tạp, kéo dài, hoạt động lộng hành hoặc bao che

cho tội phạm; đẩy nhanh tiến độ đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp;

xây dựng cơ chế điều hành, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc thực hiện

chiến lược cải cách hành chính, cải cách tư pháp thống nhất từ Trung ương đến

địa phương; tăng cường, hoàn thiện mối quan hệ phối hợp liên ngành trong

phòng, chống tội phạm; thường xuyên trao đổi thông tin tội phạm và phương

thức, thủ đoạn hoạt động mới của các loại tội phạm để có đối sách kịp thời, hiệu

quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; nắm chắc diễn biến, đánh

giá, thống kê chính xác về tình hình tội phạm; tiếp tục hoàn thiện, đổi mới công

tác thông tin, thống kê tội phạm, xây dựng; bổ sung hệ thống thống kê công tác

xử lý vi phạm hành chính. Thường xuyên tổng kết, nghiên cứu, xây dựng các

luận cứ khoa học về tội phạm, dự báo về tình hình phạm tội hàng năm, giữa kỳ

và từng giai đoạn để điều chỉnh, bổ sung các mục tiêu, giải pháp, chính sách cho

phù hợp yêu cầu thực tiễn.

3.1.2. Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội phải hướng đến phục

vụ và đáp ứng tốt cho nhu cầu của người dân.

Nhiệm vụ bảo vệ TTATXH là sự nghiệp của toàn dân, nó liên quan đến lợi

ích thiết thực của mọi thành viên trong xã hội, đó là sự nghiệp của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân. Do đó cần phải tăng cường lực lượng hướng về cơ sở.

Cán bộ, công chức phải sát dân, gần dân, hiểu biết pháp luật, làm tốt công tác

tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia quản lý nhà nước về TTATXH, bằng

việc xây dựng phong trào toàn dân xây dựng, bảo vệ an ninh Tổ quốc, gắn với

thế trận xây dựng an ninh nhân dân. Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy: “ Khi nhân

dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ

ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”. Chú trọng xây dựng các tuyến và địa bàn

về TTATXH, chủ động phòng ngừa đấu tranh có hiệu quả chống các loại tội

phạm. Nhân rộng các mô hình, điển hình tiến tiến về giữ gìn TTATXH, triển

63

khai sâu rộng đến từng thôn, khu dân cư, các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt là

những địa bàn phức tạp, trọng điểm về TTATXH.

3.1.3. Nâng cao trách nhiệm các cấp, các ngành trên địa bàn đảm bảo

trật tự an toàn xã hội.

Các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở cần quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của mình; đề ra các nghị quyết,

chương trình để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, kế hoạch phòng, chống

tội phạm; bảo đảm trật tự an toàn xã hội; định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá tình

hình, kết quả thực hiện; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, kịp thời giải

quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phòng, chống tội

phạm. Người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải chịu trách

nhiệm trước hết về tình hình tội phạm và tổ chức thực hiện công tác phòng,

chống tội phạm ở ngành, địa phương mình.

Huy động sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể nhân dân, Mặt trận Tổ quốc

tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; tăng cường đấu tranh

phòng, chống tội phạm và giáo dục pháp luật cho thanh niên, học sinh, sinh

viên. Các địa phương chủ động xây dựng phương án bảo đảm an ninh trật tự trên

địa bàn.

Công an huyện cần tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng; tăng cường

huấn luyện, diễn tập trong xử lý điểm nóng, trấn áp tội phạm; diễn tập phối hợp

các lực lượng trong bảo đảm an ninh trật tự; tiến hành sơ kết, tổng kết định kỳ

về công tác bảo đảm an ninh trật tự để rút kinh nghiệm; chủ động nghiên cứu

các khía cạnh xã hội về nguyên nhân xuất hiện tội phạm; chủ động phối hợp kịp

thời với các địa phương giải quyết tốt mọi tình huống xảy ra.

Phòng Văn hóa – thông tin: tăng cường quản lý báo chí truyền thông, phối

hợp với các ban, ngành liên quan, các cơ quan báo chí chủ động ngăn chặn, phản

64

bác các luồng thông tin xuyên tạc, sai sự thật, kịp thời cung cấp thông tin chính

thống cho dư luận và nhân dân; xử lý nghiêm các sai phạm về thông tin.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn

xã hội

3.2.1 Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, củng cố hệ thống chính

trị cơ sở

Xác định công tác đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội ở

địa phương là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, Ban Chấp hành Đảng huyện

Thanh Trì cần chủ động xây dựng các Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình, lãnh

đạo và triển khai thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt, thể hiện rõ quan điểm đổi

mới, sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực

hiện công tác đảm bảo an ninh, quốc phòng, TTATXH địa phương của các cấp

ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang trong huyện.

Trong đó, huyện nên thành lập và thường xuyên duy trì hoạt động Ban chỉ

đạo giải quyết tình trạng cấp bách về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;

Ban chỉ đạo cải cách tư pháp; Ban chỉ đạo công tác tôn giáo..., phải chủ động

tham mưu giúp Huyện ủy, UBND huyên xây dựng và triển khai các Nghị quyết,

Chỉ thị, Chương trình, kế hoạch; các đơn vị lực lượng vũ trang trong huyện cần

triển khai hiệu quả các phương án bảo vệ tuyệt đối các mục tiêu trọng điểm, các

sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa bàn.

Chính quyền các cấp cần tập trung chỉ đạo, xây dựng và tổ chức thực hiện

đồng bộ công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn

giao thông, trật tự văn minh. Kiên quyết xử lý các trường hợp lợi dụng khiếu

kiện gây mất an ninh. Lực lượng Công an, Quân đội phải thực hiện tốt vai trò là

cơ quan thường trực tham mưu cho cấp ủy trong công tác quốc phòng, an ninh

trật tự ở địa phương; để kiềm chế và từng bước đẩy lùi hoạt động của các loại tội

phạm; Công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, phòng chống lụt bão, tìm kiếm

cứu nạn, phòng chống cháy nổ, chính sách hậu phương quân đội... phải được tập

65

luyện và thực hiện tốt. Thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang,

dân quân, tự vệ, các tổ tự quản; tăng cường hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất và

phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, MTTQ và các đoàn

thể chính trị - xã hội từ huyện tới cơ sở phải phối hợp hiệu quả với các cơ quan

chức năng, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, đẩy mạnh việc phòng ngừa, đấu

tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”; chủ động đấu

tranh với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị trong nước, không để tiếp

tay cho các thế lực thù địch; tích cực tham gia góp phần đảm bảo an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; không để xảy ra bạo động hoặc hình thành

các điểm nóng, phức tạp.

Các cấp ủy, chính quyền cần phải vào cuộc tích cực cùng các ban, ngành,

MTTQ và các đoàn thể, sự đồng lòng, chung tay, góp sức của các tầng lớp nhân

dân trong công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an ninh xã hội trong tình

hình mới.

3.2.2. Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, xã hội trên địa bàn

huyện và hoàn thiện bộ máy công an huyện Thanh Trì đáp ứng đảm bảo trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện

3.2.2.1 Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, xã hội trên địa bàn

huyện Thanh Trì đáp ứng đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện

Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật với chủ trương hướng về cơ sở

Thứ nhất, cần củng cố, kiện toàn đội ngũ người làm công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật từ huyện đến cơ sở -

đây được coi là yếu tố mấu chốt quyết định đến chất lượng và hiệu quả thực hiện

công tác này. Về tổ chức bộ máy, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp

luật các cấp không ngừng củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động,

thành viên của Hội đồng là lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành, tổ chức, đơn vị của

huyện. Ngoài ra, Công an huyện, Bộ Chỉ huy quân sự huyện, Bộ đội và Cảnh sát

66

Phòng cháy, chữa cháy huyện cũng đã thành lập Hội đồng phối hợp phổ biến,

giáo dục pháp luật của ngành. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên không

ngừng được tăng cường và nâng cao chất lượng, đội ngũ người làm công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật phải tạo thành mạng lưới rộng khắp ở tất cả cơ quan,

đơn vị, đến từng xã, thôn, buôn. Bên cạnh đó, đội ngũ hòa giải viên của tổ hòa

giải phải hàng ngày, hàng giờ đưa pháp luật đến với người dân ngay tại địa bàn,

kịp thời đáp ứng các yêu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân.

Thứ hai, trong thời gian tới, Phòng Tư pháp huyện Thanh Trì cần triển khai

duy trì thường xuyên hơn các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật để phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn; nhiều hình thức nên được cải

tiến để ngày càng đa dạng, linh hoạt, chuyển tải được nhiều thông tin pháp luật

về cơ sở. Trong đó, phải kể đến việc tổ chức các hội thi, cuộc thi tìm hiểu pháp

luật, tổ chức hội nghị phổ biến pháp luật, xây dựng ấn phẩm tài liệu tuyên truyền

pháp luật, bản tin Tư pháp Thanh Trì, Trang tin điện tử, tuyên truyền qua hệ

thống truyền thanh cơ sở; triển khai một số cuộc thi như: Thi tìm hiểu dịch vụ

công, Tìm hiểu An toàn giao phông, phòng cháy chữa cháy, Tìm hiểu Phòng

chống tệ nạn xã hội,…. và những hoạt động lồng ghép hiệu quả việc phổ biến,

giáo dục pháp luật thông qua hòa giải cơ sở, trợ giúp pháp lý…. Các số hội thi,

cuộc thi được tổ chức theo hình thức sân khấu hóa, cách thức tổ chức luôn được

cải tiến khiến cho các thí sinh đến từ cơ sở hoặc những người dân tham gia cổ

vũ không cảm thấy nhàm chán. Các tiểu phẩm dự thi chứa đựng các bài thơ, bài

hát, câu vè, bằng những câu nói dân gian, gần gũi với cuộc sống thường ngày

của người dân, trở nên dễ nhớ, dễ hiểu hơn đối với đông đảo người dân.

- Các tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền pháp luật có nội dung ngắn gọn, xúc tích,

dễ hiểu, gần gũi với đời sống thường ngày để người dân có điều kiện tìm hiểu

pháp luật. Bên cạnh đó, các cuốn tài liệu, đề cương, chuyên đề, sổ tay và các ấn

phẩm tuyên truyền pháp luật khác cần được xây dựng theo kế hoạch hàng năm

67

và cấp phát miễn phí đến tận cơ sở được đông đảo cán bộ và nhân dân trên địa

bàn huyện đón nhận.

- Để phát huy vai trò của mình, Phòng Tư pháp huyện thường xuyên phối

hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình huyện, Đài Truyền thanh - Truyền hình

các xã trong địa bàn và hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở để chuyển tải kịp thời

các thông tin, các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các

văn bản mới thuộc các lĩnh vực đất đai, dân sự, hình sự, giao thông, dân chủ cơ

sở, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo… đến từng hộ gia đình. Đồng thời, Sở Tư pháp

huyện Thanh Trì nên phối hợp với Báo Thanh Trì dành riêng một chuyên mục

giới thiệu văn bản pháp luật mới và giải đáp pháp luật vào số báo cuối tuần để

kịp thời giải đáp những thắc mắc của người dân về các lĩnh vực pháp luật mà họ

quan tâm.

- Cùng với công tác hòa giải, công tác trợ giúp pháp lý cũng là một kênh

chuyển tải các quy định của pháp luật đến với người dân, có tính thiết thực cao

vì thông qua việc tham gia tố tụng, đại diện, tư vấn, hòa giải cho đối tượng, đã

trực tiếp cung cấp kiến thức pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người dân, góp phần tạo môi trường pháp lý xã hội để thực hiện tốt các nhiệm

vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương đồng thời, kết

hợp với việc cấp phát tài liệu, tờ gấp, nói chuyện chuyên đề về pháp luật, hoạt

động trợ giúp pháp lý đã đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước đến với các đối tượng chính sách, yếu thế, tạo niềm tin trong nhân

dân.

3.2.2.2 Hoàn thiện bộ máy công an huyện Thanh Trì đáp ứng đảm bảo trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Thời gian tới huyện Thanh Trì sẽ phát triển mạnh và trở thành huyện nội

thành của Thủ đô, để phù hợp với mô hình quản lý đô thị hiện đại sẽ không còn

lực lượng Công an xã mà thay vào đó là lực lượng Công an phường (từ 15 xã,

01 thị trấn có thể trở thành 17 đến 20 phường), nên cần phải tăng cường biên

68

chế, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Công an huyện Thanh

Trì; đồng thời chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, công

cụ hỗ trợ đủ để đáp ứng yêu cầu công tác đảm bảo ANTT trong tình hình mới,

cụ thể là:

- Tăng cường biên chế: Trong thời gian tới cần tăng biên chế của Công an

huyện lên 500 CBCS (trong đó lực lượng an ninh chiếm từ 10 đến 15%).

- Kiện toàn về mô hình tổ chức: Hiện nay mô hình tổ chức một số đội thuộc

Công an huyện chưa theo đúng quy định của Bộ Công an (cụ thể: đội xây dựng

phong trào và phụ trách xã về ANTT được cơ cấu tổ chức và có chức năng

nhiệm vụ như một đồn Công an trọng điểm; trong khi đó công tác xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được giao cho đội Tham mưu). Địa

bàn huyện Thanh Trì rộng, tình hình ANTT ngày càng phức tạp, trong khi đó

hiện nay Bộ Công an mới quyết định thành lập 02 đồn Công an trọng điểm là

chưa phù hợp, không đáp ứng yêu cầu công tác đảm bảo ANTT.

Công an huyện Thanh Trì cần đề nghị Công an thành phố Hà Nội và Bộ

Công an để nghiên cứu điều chỉnh mô hình tổ chức cho phù hợp, hiệu quả hơn,

đó là:

+ Thành lập thêm 03 đồn Công an trong điểm để phụ trách công tác đảm

bảo AN, TT tại các địa bàn.

+ Chuyển chức năng xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

(hiện đang giao đội Tham mưu thực hiện), nhiệm vụ hướng dẫn quản lý Cảnh

sát khu vực, Công an phụ trách xã và Công an xã (hiện đang giao các đội Tham

mưu, Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH và các đơn vị quản lý địa bàn thực

hiện) về đội xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT theo đúng quy định

của Bộ Công an.

+ Thành lập mới đội Kỹ thuật hình sự - khám nghiệm; đội Cảnh sát phòng

chống tội phạm về môi trường và đội Bắt truy nã.

69

3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ đảm bảo trật tự an toàn xã

hội của cán bộ công an huyện Thanh Trì

Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn thể cán

bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược

của việc xây dựng, củng cố lực lượng Công an huyện và cơ sở trong sự nghiệp

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại, coi

đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính

trị của đơn vị, địa phương.

Công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng Công an cần bảo đảm ổn định lâu dài,

đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở; ưu tiên tuyển chọn công dân

phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đã hoàn thành

nghĩa vụ trở về địa phương. Thực hiện đầy đủ các quy định về lương, nâng mức

phụ cấp cho Công an và các chế độ đãi ngộ khác, như trợ cấp ngày công lao

động thêm giờ, ngày công lao động vào ban đêm…

Cần tiếp tục nâng cao vai trò nòng cốt của Công an trong phong trào Toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền xã và phối hợp

với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội trong tuyên truyền, phổ biến đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về an ninh, trật tự,

thông tin kịp thời, thường xuyên về phương thức thủ đoạn hoạt động các loại tội

phạm, tệ nạn xã hội nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân dân; kịp thời phát

hiện, biểu dương khen thưởng gương người tốt, việc tốt trong đấu tranh, phòng

chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự; nhân rộng các mô hình, điển hình tiên

tiến tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải ở cơ sở.

Công an các đơn vị, địa phương cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng

dẫn Công an xã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, chủ động nắm tình hình một

cách đầy đủ nhiều lĩnh vực trên địa bàn xã để tham mưu với cấp ủy, chính quyền

cùng cấp có các chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự.

70

Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; quản lý, giáo dục, cảm hóa,

giúp đỡ số đối tượng cải tạo không giam giữ, người bị kết án tù được hưởng án

treo, người chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, tha tù trước thời hạn,

người sau cai nghiện ma túy trở về địa phương tái hòa nhập cộng đồng.

Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội

bộ nhân dân ngay từ đầu và tại cơ sở, không để kéo dài, hình thành “điểm nóng”

về an ninh, trật tự.

3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa công an huyện và các

ngành, các cấp trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện.

Trong những năm tới, lực lượng Công an nhân dân các cấp cần chủ động

phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền cơ sở đẩy mạnh hơn nữa

công tác tuyên truyền về đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước đến các tầng lớp Nhân dân, phát động phong trào quần chúng

phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, giáo dục, cảm hóa người vi phạm pháp

luật tại khu dân cư, góp phần xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận

an ninh nhân dân và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Thời gian tới, tình hình ANTT sẽ có nhiều tiềm ẩn phức tạp hơn, do đó

công tác phối hợp trong đảm bảo ANTT cần phải tốt hơn nữa và tập trung vào

việc bổ sung, kiện toàn các chương trình phối hợp, nội dung và hình thức phối

hợp đạt hiệu quả cao nhất, cụ thể:

- Thường xuyên tổ chức rà soát phát hiện những vấn đề bất cập, thiếu sót,

hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong đảm bảo ANTT sao cho

phù hợp với tình hình thực tế; nghiên cứu xây dựng các quy chế, chương trình

phối hợp mới để đưa việc phối hợp trong đảm bảo ANTT giữa các lực lượng

đồng bộ, hiệu quả. Thường xuyên tổ chức tập huấn, phổ biến quy chế phối hợp

cho các lực lượng để thống nhất thực hiện.

71

- Hình thức phối hợp cần phải linh hoạt, đa dạng, phù hợp với từng hoàn

cảnh cụ thể như: tổ chức giao ban định kỳ hàng tháng, hàng quý, 6 tháng và tổng

kết năm; trao đổi thông tin đột xuất hàng ngày giữa lãnh đạo các đơn vị; tổ chức

phối hợp trong diễn tập giải quyết các phương án đảm bảo ANTT; chủ động

tham gia giải quyết các vụ việc liên quan đến ANTT theo chức năng nhiệm vụ

và quy chế phối hợp…

- Nội dung phối hợp phải toàn diện, thiết thực; trong đó tập trung vào

những vấn đề nổi cộm, tình hình phức tạp liên quan đến ANTT trên địa bàn đã

được xác định trong quy chế phối hợp, cụ thể:

Đối với các ban, ngành, đoàn thể, các xã, thị trấn, các cơ quan, doanh

nghiệp, trường học: công tác phối hợp chủ yếu trong triển khai thực hiện các nội

dung phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, phối hợp trong tuyên truyền

vận động cán bộ, nhân dân chấp hành chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

nước, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, phối

hợp trong triển khai công tác phòng ngừa tại các địa bàn, mục tiêu, phối hợp

trong công tác nắm tình hình, quản lý, cảm hóa giáo dục và đấu tranh xử lý đối

với những trường hợp vi phạm tại địa phương, đơn vị.

- Thường xuyên củng cố mối đoàn kết giữa các lực lượng tham gia phối

hợp đảm bảo ANTT; từng đơn vị phải phát huy tính chủ động, tinh thần trách

nhiệm trong việc thực hiện quy chế phối hợp. Định kỳ sơ kết, tổng kết đánh giá

kết quả công tác phối hợp của từng lực lượng để phát huy những ưu điểm, khắc

phục tồn tại, hạn chế, đồng thời đề xuất các cấp khen thưởng đối với những tập

thể, cá nhân có thành tích trong công tác phối hợp đảm bảo ANTT để đưa công

tác này từng bước đi vào nền nếp, có hiệu quả, thiết thực.

3.2.5 Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện cho lực lượng đảm bảo trật

tự an toàn xã hội.

Việc quan tâm đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất, phương tiện và các điều

kiện đảm bảo phục vụ công tác, chiến đấu đối với lực lượng chuyên trách và lực

72

lượng nòng cốt làm công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh quốc

gia và đảm bảo trật tự an toàn xã hội là việc làm hết sức thiết thực và cần thiết.

Cần kịp thời giải quyết các chính sách công nhận thương binh, liệt sĩ đối

với những trường hợp Công an bị thương, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Nâng

cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện lực lượng Công an và định kỳ tổ

chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, bảo đảm lực lượng Công an có

phẩm chất, đạo đức, ý thức trách nhiệm trong công tác, gắn bó gần gũi với nhân

dân, nắm vững quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

Công an; biết tổ chức phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động

phạm tội và các hành vi vi phạm pháp luật khác, giải quyết và xử lý những vụ

việc xảy ra ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước và quy định của ngành Công an.

Xây dựng cơ sở vật chất, trụ sở làm việc và nhà công vụ, trong thời gian tới

cần tập trung hoàn thiện việc xây dựng cơ sở vật chất, nhất là việc xây dựng mới

Nhà tạm giữ Công an huyện để phục vụ công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

Hiện đại hóa, trang bị thêm các phương tiện, vũ khí, công cụ hỗ trợ chiến

đấu cho các các lực lượng mũi nhọn của công an.

3.2.6 Tăng cường và hoàn thiện chức năng thanh tra, kiểm tra, xử lí vi

phạm trong trật tự an toàn xã hội.

Thanh tra, kiểm tra là một chức năng của QLNN, đồng thời là một bộ phận

trong chu trình quản lý, có quan hệ và ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức

năng khác và các bộ phận khác trong quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Trên

bất cứ lĩnh vực nào đi đôi với xây dựng và phát triển bao giờ cũng là bảo vệ, giữ

gìn, vô hiệu hóa những hoạt động tiêu cực, phá hoại nảy sinh từ các hoạt động

chống đối ở bên trong và thế lực thù địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc thực hiện

chức năng thanh tra, kiểm tra đối với việc tổ chức thực hiện, chấp hành những

chủ trương, chính sách, quyết định liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự

phải được quan tâm đặc biệt. Song thực tế những năm qua, vấn đề thanh tra,

kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự của các ngành, các cấp,

73

các tổ chức xã hội còn nhiều yếu kém, vừa có chỗ bị chồng chéo, vừa có chỗ

buông lỏng, có nhiều cơ quan cũng thực hiện chức năng này nhưng lại rơi vào

tình trạng chia cắt, thiếu thống nhất đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả

của việc QLNN trên lĩnh vực này. Ngay trong ngành Công an, công tác thanh tra

cũng chưa được tập trung chỉ đạo, hiệu quả hạn chế, thời gian bị chi phối vào

các việc cụ thể như xác minh giải quyết đơn khiếu tố… Vì vậy, cần phải:

- Quy định rõ thẩm quyền, nội dung, phạm vi và cơ chế hoạt động thanh

tra, kiểm tra đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự của từng cơ

quan thanh tra như: Thanh tra nhà nước, thanh tra của các ngành, thanh tra trong

ngành Công an làm nhiệm vụ hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu, giúp đỡ các

ngành QLNN về ATNT trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng,….

Khắc phục tình trạng nhiều nội dung công tác thuộc chức năng QLNN về ANTT

không được chú ý, kiểm tra, kịp thời đánh giá kết quả thực hiện để chỉ đạo uốn

nắn, khắc phục.

- Phát huy vai trò thanh tra, kiểm tra tại chỗ trong nội bộ từng ngành, cơ

quan, đơn vị của chính cấp ủy, thủ trưởng cơ quan trong suốt quá trình quản lý

việc thực hiện an ninh trật tự từ chu trình thu thập thông tin, đánh giá, dự báo

tình hình, ra quyết định, tổ chức thực hiện cho đến kết quả hoạt động quản lý,

không chỉ là kiểm tra kết quả thực hiện. Mục tiêu chủ yếu của QLNN trong bảo

vệ ANTT chính là chủ động loại bỏ mọi mối đe dọa chế độ an toàn, ổn định của

chế độ ổn định đất nước, cho nên hoạt động thanh tra, kiểm tra cần đặc biệt chú

ý đến việc ban hành các quyết định quản lý nhằm chủ động hạn chế, gạt bỏ

những quản lý sơ hở, sai lầm, không để lại hậu quả xấu xảy ra đối với ANTT.

- Cụ thể hóa và phát huy vai trò của cơ quan Công an trong thanh tra, kiểm

tra đối với việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT của các ngành, các tổ chức xã

hội mà pháp luật đã quy định. Tăng cường vai trò của thanh tra Bộ Nội vụ về

việc thực hiện chức năng QLNN về ANTT trong ngành Công an và thanh tra

việc thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ về bảo vệ an ninh trật tự của

các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

74

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Chương 3 của luận văn trên cơ sở thực trạng diễn biến phức tạp của tình

hình chính trị quốc tế và trong nước, xu thế toàn cầu hóa, cũng như đường lối

đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng ta để dự báo tình hình có tác

động ảnh hưởng đến ANTT trên địa bàn huyện; chỉ ra những thuận lợi và khó

trong công tác đảm bảo ANTT của Công an huyện Thanh Trì trong thời gian tới.

Chương này, cũng đã đưa ra các hệ thống giải pháp có tính khả thi góp

phần nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện Thanh Trì

trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo ANTT trên địa

bàn huyện Thanh Trì trong thời gian tới thì ngoài các giải pháp như tập trung

củng cố hệ thống chính trị, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho nhân dân; thì lực lượng Công an huyện Thanh Trì cần

tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp nâng cao hiệu quả các mặt công tác

đảm bảo ANTT để phòng ngừa tốt, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có

hiệu quả các hoạt động phạm tội và tệ nạn xã hội trên địa bàn.

75

KẾT LUẬN

Thanh Trì là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội với điều kiện

kinh tế, xã hội về cơ bản còn thấp, hệ thống chính trị ở cơ sở tuy đã được củng

cố, kiện toàn nhưng chưa thực sự vững mạnh. Tình hình ANTT còn tiềm ẩn

nhiều yếu tố phức tạp và nổi lên một số vấn đề như: hoạt động tôn giáo trái pháp

luật, lấn lướt chính quyền địa phương; hoạt động của các đối tượng chống đối

chính trị, công khai thành lập các hội nhóm trên mạng xã hội để chống đối; hoạt

động của người nước ngoài, Việt kiều; các vụ việc tranh chấp khiếu kiện liên

quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng; tình hình ô nhiễm môi trường; tội phạm

hình sự, ma túy, buôn lậu, hàng giả, chống người thi hành công vụ… đã đặt ra

nhiệm vụ cấp bách là phải nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, rút ra những bài

học thực tế để có giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo ANTT trên địa

bàn huyện trong thời gian tới. Vì vậy, việc tổ chức nghiên cứu đề tài là rất cần

thiết.

Với những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và nhà nước trong những

năm qua, có thể khẳng định: công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn Huyện đạt kết

quả rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn

huyện là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính

trị, trong đó lực lượng Công an làm nòng cốt nhằm đảm bảo sự ổn định, vững

mạnh của chế độ chính trị, kinh tế, xã hội; bảo đảm độc lập, chủ quyền và toàn

vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phạm

tội và vi phạm phạm pháp luật khác trên địa bàn huyện.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn

huyện Thanh Trì, lực lượng Công an huyện, Công an xã trên địa bàn đã chủ

động tập trung lực lượng, phương tiện, triển khai các biện pháp, công tác nhằm

đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện như: Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về

đảm bảo ANTT trên địa bàn; phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, các xã, thị

76

trấn, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học trong đảm bảo ANTT; triển khai

công tác nắm tình hình ANTT; Điều tra cơ bản, xây dựng và sử dụng mạng lưới

bí mật; vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; công tác

đấu tranh, xử lý tội phạm góp phần đảm bảo ANTT trên địa bàn. Quá trình triển

khai thực hiện các biện pháp, công tác đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,

góp phần giữ vững ANTT trên địa bàn huyện Thanh Trì.

Tuy nhiên, công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện thời gian qua vẫn

còn một số tồn tại cần phải khắc phục; nhất là trong thời gian tới tình hình

ANTT sẽ có những diễn biến theo chiều hướng phức tạp, do vậy nhiệm vụ đảm

bảo ANTT đặt ra cho cấp ủy, chính quyền và Công an huyện Thanh Trì rất nặng

nề.

Quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

công tác an ninh và chiến lược phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội trên địa bàn

Thủ đô; nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn

huyện Thanh Trì trong thời gian tới, đề tài đã đưa ra hệ thống các giải pháp có

tính khả thi cao. Các giải pháp này là đồng bộ, tập trung vào các vấn đề vừa

chiến lược, vừa cấp bách, có thể áp dụng ngay tại địa bàn.

Nghiên cứu công tác đảm bảo ANTT trên một địa bàn là một vấn đề lớn và

phức tạp; có liên quan đến nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội

đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Đây là một vấn đề rộng lớn, tác giả chưa

có điều kiện nghiên cứu, tiếp cận lý luận chuyên sâu, các tư liệu liên quan tản

mạn, thiếu tính hệ thống; do vậy, nội dung đề tài sẽ không tránh khỏi những

khiếm khuyết, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến tham gia đóng góp

của các Nhà khoa học, của các đồng chí lãnh đạo và cán bộ chiến sỹ đang trực

tiếp làm công tác đảm bảo ANTT trên địa bàn huyện Thanh Trì để luận văn

được hoàn chỉnh hơn.

Để hoàn thành luận văn này, kinh nghiệm nhiều năm công tác ở Huyện, tác

giả đã tiến hành thu thập tài liệu, số liệu từ nhiều ngồn, tổ chức khảo sát thực

77

tiễn ở địa bàn các xã Tân Triều, Vĩnh Quỳnh và tổ chức tọa đàm, trao đổi với

những đồng chí cán bộ Công an huyện Thanh Trì có kinh nghiệm công tác và

các ban, ngành, đoàn thể huyện cũng như các phòng nghiệp vụ thuộc Công an

thành phố Hà Nội.

Quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn tác giả đã nhận được sự giúp đỡ

nhiệt tình lãnh đạo Công an huyện Thanh Trì, các đơn vị thuộc Công an huyện,

các ban, ngành, đoàn thể huyện Thanh Trì. Nhân dịp này, tác giả xin chân thành

cảm ơn các đơn vị, cá nhân trong và ngoài ngành Công an, trong và ngoài Học

viện Hành Chính Quốc gia đã giúp đỡ tác giả hoàn thành đề tài luận văn này./.

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an (2005), Kế hoạch số 85/2005-BCA ngày 4/10/2005 của Bộ Công

an, Hà Nội.

2. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân, Nhà xuất bản

Công an nhân dân, Hà Nội.

3. Bộ Công an (2006), Quyết định số 826/2006/QĐ-BCA (X13) ngày 20/7/2006

của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về chức trách, nhiệm vụ công an xã,

phường, thị trấn, Hà Nội.

4. C. Mác – Ph. Ăngghen (1983), Toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

5. C. Mác – Ph. Ăngghen (1983), Toàn tập, Tập 25, Nhà xuất bản Sự thật, Hà

Nội.

6. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính

phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.

7. Chính phủ (2002), Nghị định số 56/2002/NĐ-CP ngày 15/5/2002 của Chính

phủ về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng, Hà Nội.

8. Chính phủ (2003), Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19/12/2003 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn, Hà Nội.

9. Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 2/4/2010 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường

bộ, Hà Nội.

10. Công an Thành phố Hà Nội (2006), Kế hoạch số 77/KH/CAHN ngày

26/6/2006 của Công an Thành phố Hà Nội, Hà Nội.

11. Công an huyện Thanh Trì (2013), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công

tác Công an năm 2013.

12. Công an huyện Thanh Trì (2014), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công

tác Công an năm 2014.

79

13. Công an huyện Thanh Trì (2015), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công

tác Công an năm 2015.

14. Công an huyện Thanh Trì (2016), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công

tác Công an năm 2016.

15. Công an huyện Thanh Trì (2017), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công

tác Công an năm 2017.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Về nhiệm vụ an ninh – quốc phòng và

chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Thái Hiển (2005), Một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước

trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, Luận văn Thạc sỹ quản lý hành

chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.

22. Học viện Cảnh sát nhân dân (2007), Giáo trình quản lí nhà nước về an ninh

trật tự, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

23. Học viện Hành chính (2006), Tài liệu tham khảo Quản lí hành chính nhà

nước về văn hoá – xã hội, giáo dục – y tế, an ninh - quốc phòng, Lưu hành

nội bộ, Hà Nội.

24. Nguyễn Duy Hùng và Hồ Trọng Ngữ (1997), Những vấn đề lí luận và thực

tiễn quản lý nhà nước về an ninh trật tự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ,

Hà Nội.

80

25. Nguyễn Lân (2003), Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt, Nhà xuất bản Văn học -

Hà Nội.

26. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

27. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

28. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

29. Bùi Thiện Ngộ (1993), Làm tốt công tác trật tự xã hội trong tình hình mới,

Tạp chí Cộng sản, Hà Nội.

30. Trần Đại Quang (1996), Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội.

31. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

32. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam.

33. Quốc hội (2001), Luật Phòng cháy chứa cháy nước CHXHCN Việt Nam.

34. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự nước CHXHCN Việt Nam.

35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Công an

nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội (2007), Luật Công an nhân dân.

37. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

38. Lê Thế Tiệm (1997), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự

an toàn xã hội trong hoạt động của cảnh sát nhân dân ở nước ta hiện nay,

Luận văn Tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

39. Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì (2013), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện

kinh tế - xã hội năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2014.

40. Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì (2014), Báo cáo tổng kết tình hình thực

hiện kinh tế - xã hội năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm

2015.

81

41. Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì (2015), Báo cáo tổng kết tình hình thực

hiện kinh tế - xã hội năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm

2016.

42. Nguyễn Xuân Yêm (1998), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh

quốc gia, trật tự an toàn xã hội, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội.

82