BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------/------------ BỘ NỘI VỤ ----/----

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM HỒNG THẮM

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO TRONG LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG QUỐC CHÍNH HÀ NỘI – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Quản lý nhà nước về thể thao thành tích

cao trong lực lượng Công an nhân dân” là công trình nghiên cứu khoa học

của riêng tôi.

Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin

được đăng tải trên các ấn phẩm sách, báo, tạp chí, đề tài khoa học,

website,…(theo Danh mục tài liệu tham khảo).

Các số liệu trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc cụ thể, rõ

ràng. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ

công trình khoa học nào khác.

Tác giả Luận văn

Phạm Hồng Thắm

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý

báu của các Thầy, Cô giáo trong Học viện Hành chính Quốc gia;

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS

Trương Quốc Chính, người hướng dẫn khoa học, đã chỉ bảo tận tình, chu đáo.

Thầy không chỉ hướng dẫn, khuyến khích, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá

trình viết Luận văn, mà quan trọng hơn cả là tôi đã học hỏi được phương pháp

tư duy độc lập và sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, phong cách làm việc

nghiêm túc, hiệu quả;

Tôi xin cám ơn lãnh đạo và công chức các phòng ban của Tổng cục

Chính trị Công an nhân dân, Tổng cục Thể dục thể thao, Trung tâm Huấn

luyện và Thi đấu thể thao Công an nhân dân đã cung cấp số liệu, giúp đỡ tôi

hoàn thành Luận văn này;

Tôi xin tri ân sự khích lệ và ủng hộ nhiệt tình của gia đình, người thân,

bạn bè và đồng nghiệp trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành Luận văn;

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song Luận văn này chắc chắn không tránh

khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả mong nhận được các ý kiến, chỉ bảo

của các Thầy, Cô giáo; các nhà khoa học; góp ý của bạn bè, đồng nghiệp và

những người quan tâm để tác giả rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Học viên

Phạm Hồng Thắm

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ

THAO THÀNH TÍCH CAO .......................................................................... 8

1.1. Những vấn đề lý luận chung .................................................................... 8

1.1.1. Quản lý nhà nước ................................................................................... 8

1.1.2. Thể thao thành tích cao ....................................................................... 10

1.1.3. Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao..................................... 16

1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích

cao ................................................................................................................... 17

1.2.1. Yếu tố Đảng cầm quyền ....................................................................... 17

1.2.2. Năng lực lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức .............. 18

1.2.3. Nguồn lực cho phát triển thể thao thành tích cao.............................. 19

1.2.4. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế .......... 19

1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao ...................... 20

1.4. Vai trò của quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao ................... 30

1.4.1. Tạo lập và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để quản lý giám sát hoạt

động của thể thao thành tích cao. ................................................................. 30

1.4.2. Tổ chức quản lý và định hướng hoạt động thể thao thành tích cao ....... 31

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 34

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO

THÀNH TÍCH CAO TRONG LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN . 35

2.1. Yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao

trong lực lƣợng Công an nhân dân .............................................................. 35

2.1.1.Quá trình phát triển của thể thao thành tích cao trong lực lượng

Công an nhân dân .......................................................................................... 35

2.1.2. Bối cảnh quốc tế và trong nước liên quan đến sự phát triển của thể

thao thành tích cao trong lực lượng công an nhân dân .............................. 37

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao

trong lực lƣợng Công an nhân dân .............................................................. 39

2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật ................................................................ 39

2.2.2. Tổ chức bộ máy .................................................................................... 41

2.2.3. Các nguồn lực cho phát triển thể thao thành tích cao ....................... 46

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát ............................................................. 59

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về phát triển thể thao thành

tích cao trong lực lƣợng Công an nhân dân ............................................... 62

2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân ................................................................. 62

2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân ....................................................... 64

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 70

Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO TRONG

LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN ...................................................... 71

3.1. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ .................................................................. 71

3.1.1. Phương hướng ..................................................................................... 71

3.1.2. Nhiệm vụ ............................................................................................... 73

3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nƣớc ...................................................... 75

3.2.1. Tiếp tục rà soát, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, đóng

góp sửa đổi Luật Thể dục, thể thao ............................................................... 75

3.2.2. Tăng cường công tác tham mưu trong hoạt động phát triển thể thao

thành tích cao ................................................................................................. 78

3.2.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách thỏa đáng đối với

cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực thể thao thành tích cao ......... 80

3.2.4. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách khen thưởng, đãi ngộ đối

với vận động viên, huấn luyện viên trong thể thao thành tích cao ............. 82

3.2.5. Tăng cường quản lý hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật, nghiên cứu

ứng dụng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực hoạt động thể thao thành

tích cao ............................................................................................................ 85

3.2.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế về thể thao thành tích cao ................. 88

3.2.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thể thao thành tích cao .......... 92

KẾT LUẬN .................................................................................................... 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Diễn giải

1 CAND Công an nhân dân

2 CBCS Cán bộ chiến sỹ

3 CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

4 CNV Công nhân viên

5 HCB Huy chương bạc

6 HCĐ Huy chương đồng

7 HCV Huy chương vàng

8 HLV Huấn luyện viên

9 QLNN Quản lý nhà nước

10 QPPL Quy phạm pháp luật

11 TDTT Thể dục thể thao

12 VĐV Vận động viên

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phát triển thể dục thể thao luôn là một chủ trương lớn của Đảng và nhà

nước ta. Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ mới ra đời,

công tác thể dục thể thao nâng cao sức khỏe cho nhân dân đã được Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Ngày 27/03/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã công bố Sắc lệnh số 38 thành lập Nha Thanh niên và Thể dục thuộc Bộ

Quốc gia Giáo dục, đánh dấu sự ra đời của nền thể dục thể thao cách mạng

Việt Nam.

Trong xu thế phát triển mới của thể dục thể thao thế giới và điều kiện

kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước, ngày 03/12/2010, Thủ tướng Chính phủ

đã ký Quyết định số 2198/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển thể dục

thể thao Việt Nam đến năm 2020, trong đó đặt ra mục tiêu của ngành thể dục

thể thao Việt Nam là xây dựng và phát triển nền TDTT nước nhà, chú trọng

đến các nội dung như TDTT quần chúng, TDTT trong lực lượng vũ trang, thể

thao thành tích cao và chuyên nghiệp,… góp phần nâng cao sức khỏe nhân

dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH,

tăng tuổi thọ của người Việt Nam theo tinh thần: vì dân cường nước thịnh, hội

nhập và phát triển.

Nhập cuộc với nền thể thao khu vực và trên thế giới, thể thao Việt Nam

không chỉ tham gia thi đấu mà còn là những “sứ giả” của tình đoàn kết, hữu

nghị thể hiện tinh thần và chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của nước ta.

Các hoạt động TDTT cũng như giao lưu văn hóa, hợp tác đào tạo đã góp phần

xóa bỏ dần rào cản của sự khác biệt về chế độ chính trị, khoảng cách địa lý,

ngôn ngữ… Qua đó, hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế trở nên thân

thiện hơn, thể hiện khát khao vươn lên với tinh thần Olympic “nhanh hơn –

1

cao hơn – mạnh hơn” của Việt Nam – một dân tộc đã anh dũng vượt qua sự

tàn phá, đau thương của chiến tranh vẫn mong muốn làm bạn với thế giới.

Phát triển thể thao thành tích cao là một nhiệm vụ chính trị nhằm phát

huy truyền thống của dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa thông tin của nhân

dân, đề cao sức mạnh ý chí, tinh thần tự hào dân tộc, góp phần nâng cao uy tín

và vị thế của dân tộc Việt Nam. Thể thao thành tích cao có vị trí quan trọng

trong việc phát triển TDTT nói chung, nâng cao sức khỏe và năng lực con

người, có tác dụng to lớn trong việc tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa

các quốc gia, dân tộc và góp phần nâng cao uy tín của đất nước.

72 năm xây dựng và trưởng thành, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam

không chỉ đóng góp vai trò quan trọng trong các nhiệm vụ chính trị, xã hội mà

còn đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển của thể thao Việt Nam. Để hoàn

thành tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, mang lại

cuộc sống yên bình cho nhân dân, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân

dân phải có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ

nghiệp vụ cao, đồng thời phải có sức khỏe tốt để có khả năng ứng phó với các

loại tội pham nguy hiểm, những tình huống gay go, phức tạp, các đồng chí

trong lực lượng CAND phải thường xuyên luyện tập TDTT, chú trọng phát

triển các môn thể thao võ thuật, bắn súng, bơi, chạy vũ trang nhằm phục vụ

trực tiếp cho tác nghiệp chuyên môn, nâng cao hiệu quả công tác, bản lĩnh, ý

chí, khả năng sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Việc nâng cao sức chiến

đấu cho cán bộ, chiến sĩ không thể tách rời với thể thao thành tích cao. Nhiều

vận động viên tài năng của thể thao Việt Nam đã vinh danh trên các đấu

trường thể thao khu vực, châu lục và thế giới đều được huấn luyện từ môi

trường đào tạo của thể thao Công an nhân dân – Trung tâm Huấn luyện và Thi

đấu thể thao CAND. Có được thành công trên một phần là do sự quan tâm,

đầu tư của ngành CAND cũng như sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các VĐV,

HLV ngành CAND.

2

Với những quan điểm đó, Đảng và nhà nước đã có những chính sách

tăng tỷ lệ chi ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất TDTT, đổi mới phương thức quản lý góp phần đưa thể thao

thành tích cao có bước phát triển vượt bậc, đạt được mục tiêu đề ra. Tuy

nhiên, so với các nước phát triển trong khu vực thì TDTT ở nước ta nói

chung, thể thao thành tích cao nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như:

chưa xây dựng được một chiến lược phát triển Thể thao thành tích cao mang

tính toàn diện, tập trung, hiệu quả; chậm ban hành các quyết định pháp lý về

việc tham gia thực hiện một số hoạt động tác nghiệp trong lĩnh vực thể thao

thành tích cao đối với các Hiệp hội, Liên đoàn thể thao…; đội ngũ cán bộ

quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao còn thiếu, trình độ không đồng

đều nên vai trò, hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu

cầu, dẫn đến tình trạng lẫn lộn giữa công tác quản lý nhà nước và các hoạt

động sự nghiệp; chưa chú trọng việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt

là vai trò của y học hồi phục, chăm sóc và chữa trị chấn thương trong quá

trình đào tạo vận động viên nên chưa có biện pháp tích cực đầu tư kinh phí,

trang thiết bị.

Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý nhà nước đối với công tác

phát triển thể thao thành tích cao nói chung và thể thao thành tích cao trong lực

lượng CAND Việt Nam nói riêng, là một vận động viên đã từng tham gia thi

đấu, giành giải cao trong các cuộc thi Quốc tế, Châu lục và khu vực, đồng thời

là cán bộ công tác, huấn luyện trong lĩnh vực thể thao, học viên đã chọn đề tài:

“Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân

dân” làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công của Nông Minh Đức với đề

tài: “Quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở Việt Nam hiện nay ”. Luận văn

làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về thể

3

dục, thể thao. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước về thể dục, thể thao ở nước ta hiện nay. [17].

Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công của Nguyễn Lê Minh với đề

tài: “Quản lý nhà nước về xã hội hóa thể dục thể thao tại Thành phố Hồ Chí

Minh ”. Luận văn làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về quản lý nhà nước

trong thực thi chính sách xã hội hóa thể dục thể thao; phân tích, tìm hiểu,

đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về xã hội hóa thể dục thể thao

tại TP. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, đề xuất xây dựng những giải pháp nhằm

góp phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về xã hội hóa thể dục thể thao

tại TP. Hồ Chí Minh, nâng cao tính hiệu lực,hiệu quả.

Đề án chuyên viên cao cấp của Bùi Thanh Nguyên (2012): “Phát triển

thể thao thành tích cao tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2012 – 2015, định hướng đến

2020” . Đề án nêu lên thực trạng của thể thao tỉnh Bạc Liêu từ 1997 – 2011,

chỉ ra những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế đó; thấy

được vị trí, vai trò của công tác thể thao nói chung, thể thao thành tích cao nói

riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, từ đó đưa ra các giải pháp

nhằm phát triển thể thao thành tích cao tại tỉnh Bạc Liêu.[2]

Đề án chuyên viên cao cấp của Trần Quang Hạ (2015): “Đề án phát

triển thể thao thành tích cao thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2025”.

Nội dung của Đề án nêu rõ thực trạng phát triển thể thao thành tích cao của

thành phố Hồ Chí Minh, từ đó hướng đến mục tiêu đổi mới, hoàn thiện hệ

thống tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao, phát triển thể thao thành tích cao

theo hướng bền vững, xác định một số môn thể thao có thế mạnh, phù hợp với

đặc điểm, thể chất và trình độ phát triển của thành phố; từng bước đảm bảo

các điều kiện về cơ sở vật chất và ổn định nguồn kinh phí hoạt động thể thao

thành tích cao. [29]

Ngoài ra, còn có một số tài liệu chuyên ngành về lĩnh vực TDTT như:

“Lý luận và phương pháp huấn luyện thể thao” [16] của tác giả Nguyễn Văn

4

Trạch; “Tìm hiểu một số vấn đề quản lý nhà nước về thể dục thể thao” [33]

của tác giả Vũ Trọng Lợi; : “Một số vấn đề cơ bản về quản lý thể dục thể thao

(Sách chuyên khảo dùng cho chuyên ngành quản lý TDTT bậc sau đại học)”

[31] của Ủy ban Thể dục thể thao, Trường Đại học Thể dục thể thao 1;…

Các công trình nghiên cứu đó, phần nào đề cập đến các nội dung liên

quan đến quản lý nhà nước về thể dục thể thao trên nhiều khía cạnh, lĩnh vực

đơn lẻ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên vấn đề

quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao, và nhất là vấn đề này trong lực

lượng vũ trang nói chung, Công an nhân dân nói riêng. Luận văn này là một

sự triển khai theo hướng như vậy.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích của luận văn

Mục đích của luận văn nhằm hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản

về thể thao thành tích cao, quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao nói

chung, trong lực lượng CAND nói riêng. Qua đó nghiên cứu, phân tích thực

trạng công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thể thao thành tích cao trong

lực lượng CAND. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản

lý nhà nước đối với thể dục thể thao nói chung, thể thao thành tích cao trong

lực lượng CAND nói riêng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Hệ thống lại một số cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thể thao

thành tích cao nói chung và trong lực lượng Công an nhân dân nói riêng;

- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thể thao thành tích

cao trong lực lượng Công an nhân dân Việt Nam;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về thể thao

thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hiện nay.

5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước về

thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Quản lý nhà nước về thể dục thể thao nói chung, thể dục

thể thao thành tích cao nói riêng và thực trạng QLNN về thể thao thành tích

cao của lực lượng Công an nhân dân

- Về không gian: Thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an

nhân dân

- Về thời gian: Từ năm 2012 đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

- Phương pháp luận biện chứng duy vật; cơ sở lý luận là quan điểm của

Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện con người

nói chung và phát triển thể dục thể thao thành tích cao trong lực lượng vũ

trang nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Phương pháp sử dụng tài liệu,

các bản báo cáo của các tác giả đã nghiên cứu, đã đánh giá. Phương pháp

phân tích tài liệu được sử dụng từ việc chọn đối tượng, thu thập những thông

tin cần thiết đến việc phân tích thông tin và dữ liệu thu thập được. Đề tài có

sử dụng một số tài liệu như sách, báo, tài liệu tuyên truyền, tạp chí mạng, các

trang web có liên quan đến Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong

lực lượng Công an nhân dân;

- Phương pháp quan sát: khảo sát trực tiếp tại Trung tâm Huấn luyện và

Thi đấu thể thao CAND được sử dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu nhằm

thu thập những thông tin cần thiết về vấn đề thể thao thành tích cao;

- Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu thu thập số liệu,

xử lý số liệu,... làm căn cứ phân tích thực trạng thể thao thành tích cao từ khi

6

có Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ

về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm

2020. Trên cơ sở đó nhằm chỉ rõ những vấn đề bức xúc đặt ra đối với quản lý

nhà nước về thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân trong

bối cảnh hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

6. Những đóng góp của luận văn

6.1. Về lý luận

- Nghiên cứu góp phần hệ thống hóa lại một số vấn đề lý luận về phát

triển thể thao thành tích cao và quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

trong lực lượng Công an nhân dân

6.2. Về thực tiễn

- Nghiên cứu góp phần chỉ ra một số vấn đề về quản lý nhà nước cần

được quan tâm giải quyết đối với thể thao thành tích cao.

- Kết quả là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên ngành thể dục thể

thao, và những nhà quản lý trong lĩnh vực phát triển thể thao thành tích cao.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về phát triển thể thao

thành tích cao

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong

lực lượng Công an nhân dân

Chương 3: Phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà

nước về thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân

7

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO

THÀNH TÍCH CAO

1.1. Những vấn đề lý luận chung

1.1.1. Quản lý nhà nước

1.1.1.1. Khái niệm Quản lý

Thuật ngữ Quản lý có rất nhiều cách hiểu khác nhau, tùy thuộc theo

góc độ nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau. Kinh tế học, hành

chính học, luật học… và nhiều ngành khoa học khác như xã hội học…đều sử

dụng thuật ngữ quản lý với nội dung phù hợp với đối tượng nghiên cứu của

mình. Có thể đề cập một số khái niệm như sau:

- Quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành

công việc thông qua những nỗ lực của người khác.

- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả cách hoạt động của những

người cộng sự cùng chung một tổ chức.

- Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn,

các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục

đích, đúng ý chí và phù hợp với quy luật khách quan.

Hiểu một cách đơn giản hơn, quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì

đó, tức là có việc quản lý người khác và có việc tự quản lý việc của mình.

Mục đích của quản lý là điều khiển, chỉ đạo chung con người, phối hợp các

hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hoạt động chung thống nhất của

cả tập thể và hướng hoạt động chung đó theo những mục tiêu đã định trước.

Như vậy, thuật ngữ quản lý có thể hiểu như sau:

Quản lý là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên

đối tượng bị quản lý và khách thể của quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất

các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều

kiện biến động của môi trường.

8

1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước

Nhà nước ra đời là một tất yếu trong lịch sử để đảm nhận sứ mệnh cao

cả là duy trì sự ổn định phát triển chung toàn xã hội thông qua các hoạt động

quản lý. Nội hàm quản lý nhà nước có thể thay đổi phụ thuộc vào chế độ

chính trị, bối cảnh lịch sử hay đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh tế -

xã hội của mỗi quốc gia qua các thời kỳ.

Thuật ngữ “quản lý nhà nước” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:

⦁ Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành

của cả bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền

lực nhà nước trên phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp.

⦁ Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức,

điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình

xã hội và hành vi của con người theo pháp luật, nhằm đạt được những

mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan

nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chấp hành, điều

hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng, tổ chức bộ máy và

củng cố chế độ công tác nội bộ của mình.

Từ hai cách hiểu theo nghĩa rộng và hẹp như trên, có thể định nghĩa về

QLNN như sau:

“Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính

quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân,

tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy

nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển

của xã hội.” [15; Tr 28]

Từ đó có thể rút ra đặc điểm của Quản lý nhà nước như sau:

- Thứ nhất,quản lý nhà nước là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà

nước được trao quyền, gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan

tư pháp.

9

- Thứ hai, đối tượng quản lý nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức

sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

- Thứ ba, quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh

vực đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,

ngoại giao…

- Thứ tư, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng

công cụ pháp luật, chính sách, kế hoạch để quản lý xã hội

- Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì

sự ổn định và phát triển của xã hội.

1.1.2. Thể thao thành tích cao

1.1.2.1. Thuật ngữ thể thao

Thuật ngữ “thể thao” phát âm rất giống nhau trong nhiều ngôn ngữ của

các quốc gia trên thế giới. Sự đa nghĩa của thuật ngữ “thể thao” có nguồn gốc

trong sự phát sinh ra nó. Theo một số chuyên gia, cơ sở ngôn ngữ ban đầu của

thuật ngữ này từ tiếng Pháp („desport – với nghĩa giảm bớt gánh nặng sau khi

làm việc), sau chuyển sang phiên âm tiếng Anh “sport”. Từ đó, thuật ngữ này

được phổ biến để chỉ những hoạt động đa dạng nghỉ ngơi, giải trí ngoài giờ

lao động. [1; Tr. 5]

“Thể thao” theo nghĩa hẹp là một loại hoạt động trò chơi (trình độ khác

nhiều so với trò chơi thông thường, đơn giản), một hình thức thi đấu đặc biệt,

chủ yếu và phần nhiều bằng sự vận động thể lực, nhằm phát huy những năng

lực chuyên biệt, đạt những thành tích cao, cao nhất, được so sánh trực tiếp,

công bằng trong những điều kiện chuyên môn như nhau.

Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “thể thao” diễn tả một hiện tượng phức tạp,

đa dạng và đa chức năng của thực tế xã hội, chiếm vị trí quan trọng trong văn

hóa thể chất và văn hóa tinh thần của xã hội. Nó là phương tiện tác động đặc

biệt của giáo dục thể chất, cho phép bộc lộ khả năng chức phận của cơ thể và

nâng cao chúng tới mức tột đỉnh, vượt qua những “giới hạn” bình thường và

10

là nhân tố tác động sâu sắc đến nhân cách, hướng tới sự kích thích cá nhân,

tính quyết đoán và tự khẳng định mình.

1.1.2.2. Khái niệm thể thao thành tích cao

Thể thao thành tích cao là hoạt động tập luyện và thi đấu của vận động

viên trong đó, thành tích cao, kỷ lục thể thao được coi là giá trị văn hóa, là

sức mạnh và năng lực của con người; nhà nước phát triển thể thao thành tích

cao nhằm phát huy tối đa khả năng về thể lực, ý chí và trình độ kỹ thuật của

vận động viên để đạt thành tích cao trong thi đấu thể thao. Phát triển thể thao

thành tích cao là một nhiệm vụ chính trị nhằm phát huy truyền thống của

dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, đề cao sức mạnh ý

chí, tinh thần tự hào dân tộc, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của dân tộc

Việt Nam.

Thể thao thành tích cao có vị trí quan trọng trong việc phát triển thể dục

thể thao nói chung, nâng cao sức khỏe và năng lực con người, có tác dụng to

lớn trong việc tăng cường tình đoàn kết hữu nghĩ giữa các quốc gia, dân tộc

và góp phần nâng cao uy tín của địa phương, đất nước.

Thể thao thành tích cao có mối quan hệ biện chứng với thể dục thể thao

nói chung và với phong trào thể thao quần chúng nói riêng. Ngày nay, ở các

quốc gia phát triển, thể thao thành tích cao đã trở thành một ngành kinh tế -

công nghiệp thể hiện ở một số lĩnh vực tiêu biểu như: bóng đá, quần vợt, bóng

rổ, đua xe mô tô, ô tô… và đã trở thành nghề nghiệp của một bộ phận trong

xã hội. Vì vậy, ở nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác thể

dục thể thao, trong đó có thể thao thành tích cao. Điều này được thể hiện khá

rõ qua các hệ thống quan điểm, luật pháp, chủ trương, chính sách cụ thể, theo

Luật thể dục thể thao số 77/2006/QH11 (Điều 31), được Quốc hội khóa XI

thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 29 tháng 11 năm 2006 [11]: “Nhà nước có

chính sách phát triển thể thao thành tích cao, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,

trang thiết bị hiện đại; đào tạo, bồi dưỡng vận động viên, huấn luyện viên đạt

11

trình độ quốc gia, quốc tế; tổ chức thi đấu thể thao thành tích cao; tham gia

các giải thể thao quốc tế; khuyến khích tổ chức cá nhân tham gia phát triển

thể thao thành tích cao” .

Có thể hiểu: Thể thao thành tích cao (hay thể thao thi đấu) là sự phát

huy, nâng cao giới hạn tiềm lực tối đa của cá nhân và tập thể về hình thái cơ

thể, chức năng sinh lý, phẩm chất tâm lý, tố chất thể lực và kỹ - chiến thuật để

đạt thành tích thi đấu xuất sắc, thông qua huấn luyện, thi đấu một cách hệ

thống, khoa học.

Theo định nghĩa này, khái niệm thể thao thành tích cao có nội hàm

như sau:

Thể thao thành tích cao là một bộ phận quan trọng trong tổ hợp thành

thể dục thể thao. Nó là một hoạt động thể dục thể thao xã hội lấy hoạt động

thi đấu làm đặc trưng chủ yếu, lấy việc lập thành tích thể thao ưu việt, giành

được chiến thắng trong thi đấu làm thành mục đích chủ yếu. [16; Tr. 5]

Cụ thể là:

- Thứ nhất, thể thao thành tích cao là một loại hoạt động thể dục thể

thao mang tính xã hội, là một bộ phận quan trọng trong thể dục thể thao. Thể

dục thể thao là một loại hình hoạt động có sự phát triển mạnh mẽ, đi vào lòng

người, đồng thời nó ảnh hưởng tích cực đến sinh hoạt xã hội và sinh hoạt cá

nhân của mỗi người. Trong một phạm vi rất lớn, nó có ích lợi cho sự phát

triển mạnh mẽ của thể thao thành tích cao.

- Thứ hai, thể thao thành tích cao là lấy các loại hoạt động thi đấu ở

mức độ khác nhau, quy mô khác nhau, trình độ khác nhau; đồng thời cũng lấy

việc tham gia và cử hành các hoạt động thi đấu này làm thành nội dung hoạt

động chủ yếu của các hoạt động chuẩn bị.

- Thứ ba, mục đích chủ yếu của mọi người tham gia vào thể thao thành

tích cao là lập nên thành tích cao và giành được thắng lợi trong các cuộc thi

đấu ở các cấp, các loại hình thi đấu.

12

Đặc trưng của thể thao thành tích cao

Thể thao thành tích cao lấy tính tương đối độc lập làm thành một trong

ba lĩnh vực lớn của thể dục thể thao hiện đại, bởi vì đặc trưng cơ bản của nó

có khác biệt rõ ràng với các lĩnh vực khác nhau của thể dục thể thao:

- Tính thi đấu của thể thao thành tích cao rõ ràng hơn. Đặc trưng chủ

yếu nhất của thể thao thành tích cao là biểu hiện rõ tính thi đấu, bởi vì mục

đích cơ bản của VĐV khi tham gia thể thao thành tích cao được quyết định

bởi phương thức biểu hiện và nội dung hoạt động cơ bản của thể thao thành

tích cao.

- Yêu cầu của thể thao thành tích cao đối với người tham gia. Trình độ

kỹ nghệ cao siêu, chức năng cơ thể và tâm trí cao hơn người bình thường, sự

phối hợp tập thể được trải qua các quá trình chuẩn bị tỉ mỉ. VĐV tham gia thể

thao thành tích cao cố gắng hết sức giành được thành tích cao nhất. Vì đặc

trưng này, thể thao thành tích cao có sự khác biệt rất lớn đối với thể thao quần

chúng và thể thao trường học.

- Lịch thi đấu của thể thao thành tích cao. Thi đấu là hình thức biểu

hiện cơ bản của thể thao thành tích cao mà luật thi đấu là văn bản mang tính

pháp luật đảm bảo cho điều kiện thi đấu của hai bên được ngang nhau, sự

cạnh tranh được công bằng. Nếu không, ý nghĩa của việc thi đấu sẽ bị mất đi,

thể thao thành tích cao cũng không có phương pháp nào phát triển, thậm chí

không còn tồn tại.

- Tính giải trí của thể thao thành tích cao. Thể thao thành tích cao là sản

vật văn minh cao độ của loài người, nó kết hợp thể thao và văn hóa thành một

loại phương thức sống vui vẻ mà con người cố gắng phấn đấu để có được.

1.1.2.3. Thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân

Việt Nam

Tính chất gay go và quyết liệt của cuộc đấu tranh chống tội phạm, yêu

cầu khẩn trương, kịp thời của mỗi nhiệm vụ cụ thể đặt ra vấn đề: Nếu Công

13

an nhân dân không được tổ chức theo hướng vũ trang thì không hoàn thành

được nhiệm vụ của mình. Công tác thể dục, thể thao trong lực lượng Công an

nhân dân là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp thể dục thể thao của đất

nước nhằm tăng cường sức khỏe, thể chất cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân

dân, phát huy nguồn lực con người để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết 40 NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Phải kiên

quyết và khẩn trương tăng cường lực lượng Công an thành một công cụ

chuyên chính tuyệt đối trung thành với Đảng, có liên hệ mật thiết với quần

chúng thành một lực lượng chiến đấu vững mạnh có tổ chức vũ trang, có tổ

chức chặt chẽ, thông thạo về nghiệp vụ và có trình độ khoa học kỹ thuật”. Để

góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đó, cần phải “xây dựng lực lượng

Công an nhân dân thành một lực lượng vũ trang sắc bén, tuyệt đối trung thành

với Đảng, với Tổ quốc và với nhân dân, có lực lượng chuyên trách chính quy,

hiện đại”

Trong Nghị quyết 31 NQ/TW của Bộ Chính trị (1980) đã chỉ rõ

phương hướng xây dựng lực lượng Công an nhân dân thành lực lượng vũ

trang mạnh và tiến công sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc

và với nhân dân, phòng ngừa và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt

động làm tổn hại đến an ninh quốc gia, các vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Chính quyền, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ

cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, việc rèn luyện

thân thể, phát triển thể lực của mỗi chiến sĩ Công an nói riêng, của toàn lực

lượng Công an nhân dân Việt Nam nói chung là hết sức cần thiết.

Phát triển thể dục, thể thao trong toàn lực lượng Công an nhân dân là

trách nhiệm chung của hai Bộ; trong đó Công an các đơn vị, địa phương (các

cấp ủy Đảng, các cấp lãnh đạo, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và toàn thể

cán bộ, chiến sỹ, học viên, công nhân viên trong lực lượng Công an nhân

14

dân) giữ vai trò quyết định. Các cơ quan thể dục thể thao cùng cấp giữ vai

trò phối hợp.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao trong lực lượng Công

an nhân dân, trọng tâm là rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn gắn liền với cuộc

vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, với

phương châm mỗi người tự chọn cho mình một môn thể thao hoặc một hình

thức tập luyện để tăng cường sức khỏe, nâng cao hiệu quả công tác, phục vụ

đời sống văn hóa tinh thần, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân

tinh nhuệ, trong sạch, vững mạnh.

Quan tâm hơn nữa việc xây dựng lực lượng vận động viên các môn thể

thao thành tích cao của lực lượng Công an nhân dân để đóng góp các tài năng

thể thao cho Quốc gia; ưu tiên đầu tư các môn thể thao trọng điểm, mũi nhọn,

chú trọng các môn thể thao mang tính ứng dụng nghiệp vụ của lực lượng

Công an nhân dân. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi

dưỡng phẩm chất đạo đức cho đội ngũ huấn luyện viên, vận động viên và

trọng tài. Kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực trong hoạt động thể dục,

thể thao

Tiếp tục kiện toàn hệ thống cơ quan tham mưu, các đơn vị sự nghiệp và

các tổ chức xã hội về thể dục thể thao trong lực lượng Công an nhân dân cho

phù hợp với tổ chức, đáp ứng được chức năng quản lý, chỉ đạo và tổ chức

thực hiện nhiệm vụ công tác thể dục thể thao cũng như nhiệm vụ xây dựng

lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn mới; xây dựng quy hoạch đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, trợ lý thể dục, thể thao trong

lực lượng Công an nhân dân

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa thể dục thể thao và chuyên nghiêp hóa

thể thao phù hợp đặc thù của lực lượng Công an nhân dân; chú trọng phát

triển các tổ chức thể thao tại các địa phương, chủ động thành lập các Liên

đoàn, Hiệp hội thể thao trong lực lượng Công an nhân dân. Kết hợp có hiệu

15

quả đầu tư của Nhà nước với việc khai thác nguồn vốn đầu tư khác để xây

dựng cơ sở vật chất cho thể dục thể thao Công an nhân dân. Thống nhất quản

lý việc xây dựng cơ sở vật chất thể dục, thể thao theo quy hoạch của Quốc

gia, đầu tư trọng điểm, đúng mục đích, đảm bảo tính khả thi, khai thác và sử

dụng có hiệu quả các công trình thể thao do Nhà nước và lực lượng Công an

nhân dân đầu tư.

Xây dựng kế hoạch và chủ động giao lưu thể dục, thể thao trong nước

và mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế về thể dục, thể thao với các nước, để

phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao trong lực lượng Công an nhân dân, góp

phần nâng cao vị thế thể thao của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.

1.1.3. Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

1.1.3.1. Quản lý nhà nước về thể dục thể thao

Quản lý nhà nước về thể dục thể thao là một bộ phận, một lĩnh vực của

quản lý nhà nước. Nó có những đặc điểm, nội dung chung của quản lý nhà

nước và đặc điểm, nội dung riêng của lĩnh vực thể dục thể thao. Từ khái niệm

về quản lý nhà nước và văn cứ vào đặc điểm của quản lý nhà nước về thể dục

thể thao, tác giả luận văn xây dựng khái niệm quản lý nhà nước về thể dục thể

thao như sau:

Quản lý nhà nước về thể dục thể thao là sự tác động có tổ chức, bằng

quyền hành pháp và thông qua một hệ thống các chính sách với các công cụ

lên các hoạt động thể dục thể thao nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn

lực, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển hoạt động thể

thao đã đặt ra.

1.1.3.2. Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

Từ các khái niệm về thể thao, thể thao thành tích cao, quản lý nhà

nước, quản lý nhà nước về thể dục, thể thao. Quản lý nhà nước về thể thao

thành tích cao có thể được hiểu như sau:

16

Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao là một trong những nội

dung của quản lý nhà nước về thể dục thể thao; là hoạt động để thi hành pháp

luật nhằm làm cho chính sách, pháp luật của nhà nước về công tác thể thao

thành tích cao đi vào thực tiễn, phát huy có hiệu quả trong đời sống xã hội,

thúc đẩy hoạt động thể thao thành tích cao ngày càng phát triển đúng định

hướng đã đặt ra.

1.1.3.3. Cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao

Căn cứ Điều 5, chương 1 Luật Thể dục thể thao quy định:

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thể dục thể thao

- Ủy ban Thể dục thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) chịu

trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thể dục thể thao

- Bộ, cơ quan nganh Bộ phối hợp với Ủy ban Thể dục thể thao (nay là

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) thực hiện quản lý nhà nước về thể dục thể

thao theo thẩm quyền

- Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp thực hiện quản lý nhà nước về thể

dục thể thao ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.

1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về thể thao thành

tích cao

1.2.1. Yếu tố Đảng cầm quyền

Đảng cầm quyền là nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị

của tất cả các quốc gia trên thế giới, nó có vai trò là một trong những thành

phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội công dân hiện đại, có ảnh hưởng

lớn đến toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…từ cơ cấu tổ

chức đến sự vận hành của cả hệ thống chính trị.

Xét trong mối quan hệ với Đảng cộng sản Việt Nam thì nhà nước Cộng

hòa XHCN Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ thể chế hóa các chủ trương,

đường lối của Đảng thành các chính sách pháp luật để giải quyết các vấn đề

trong xã hội. Khi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

17

nhà nước đúng đắn, phù hợp thì quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

sẽ có hiệu quả. Nếu chủ trương, đường lối, chính sách không phù hợp sẽ trở

thành rào cản đối với sự nghiệp thể dục thể thao nói chung, sự nghiệp phát

triển thể thao thành tích cao nói riêng.

Nhìn lại chặng đường hình thành của thể dục thể thao Việt Nam, nền

thể dục thể thao nước nhà được xây dựng theo quan điểm của Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh, phục vụ nhiệm vụ cách mạng, vì lợi ích của nhân dân. Trên

cơ sở phát huy truyền thống thượng võ hàng nghìn năm của dân tộc, nền thể

dục thể thao cách mạng tiếp thu có chọn lọc những nhân tố tích cực của thể

dục thể thao từ hồi Pháp thuộc. Trong thời kỳ vận động cách mạng giải phóng

dân tộc ấy, Đảng ta luôn quan tâm đến thể dục thể thao và coi đó như một vũ

khí đấu tranh, một phương diện tập hợp lực lượng, giác ngộ quần chúng, nhất

là thanh niên, vùng lên tham gia đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật, giải

phóng dân tộc.

1.2.2. Năng lực lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức

Một bộ máy dù có hoàn chỉnh đến đâu, một chính sách dù có đúng đắn

đến thế nào cũng sẽ không thể đi vào thực tế cuộc sống nếu thiếu đi đội ngũ

để vận hành và thực thi nó, và đó chính là đội ngũ cán bộ công chức quản lý.

Nếu như đội ngũ này có trình độ quản lý quy hoạch, có sự am hiểu về tình

hình, nắm rõ điểm yếu cũng như thế mạnh của Ngành, của từng môn thể thao

và biết vận dụng kiến thức quản lý vào thực tế thì nó sẽ đưa lại kết quả cao

hơn. Ngược lại, nếu như trình độ của đội ngũ này thấp kém, chỉ biết làm theo

hướng dẫn chung, không có tính sáng tạo, chủ động thì rõ ràng không thể phát

huy những lợi thế của các môn thể thao thành tích cao và hiệu quả tất yếu sẽ

không cao, chưa kể đến sự mất niềm tin của người dân, người hâm mộ vào

nền thể thao nước nhà.

18

1.2.3. Nguồn lực cho phát triển thể thao thành tích cao

Nguồn lực để phát triển thể thao thành tích cao bao gồm nguồn tài

chính, đất đai và nguồn nhân lực. Nguồn tài chính và đất đai là một yếu tố vô

cùng quan trọng để phát triển thể thao thành tích cao, bởi vì mọi hoạt động tập

luyện, biểu diễn, thi đấu thể thao đều cần phải có cơ sở vật chất, sân bãi tối

thiểu, các trang thiết bị tập luyện phù hợp, đầy đủ thì mới có thể phát huy hết

tiềm năng, đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh các yếu tố về sân bãi, cơ sở

vật chất đạt chuẩn, còn phải có đầu tư về khoa học công nghệ, chế độ dinh

dưỡng, thực phẩm dinh dưỡng, chăm sóc vận động viên, … tất cả đều phải có

nguồn tài chính lớn.

Bên cạnh yếu tố tài chính và đất đai thì yếu tố con người cũng vô cùng

quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, kết quả của thể thao thành

tích cao. Đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ cao thuộc nhiều lĩnh vực, đội

ngũ huấn luyên viên, giáo viên, bác sĩ thể thao có trình độ chuyên môn giỏi sẽ

có tác động rất lớn đến thành tích thi đấu của vận động viên trong thể thao

thành tích cao.

1.2.4. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế

Quá trình toàn cầu hóa về kinh tế - xã hội đã mang lại sự giao thoa và

thậm chí không còn ranh giới giữa các quốc gia ở nhiều góc độ, đặc biệt là

vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, trong đó có thể thao thành tích cao. Sự phát

triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền thông, sự

tăng trưởng của các tập đoàn đa quốc gia được coi là đòn bẩy, tạo cơ hội

chuyển giao, chia sẻ kiến thức, kỹ thuật và công nghệ giữa các quốc gia, các

khu vực và trên toàn thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung

trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta

trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc

tế của Đảng, đất nước chúng ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng

19

sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập để tranh thủ những

thời cơ thuận lợi, những giá trị tích cực mà kinh tế thế giới mang đến, chúng

ta “đi tắt, đón đầu” trong lĩnh vực khoa học công nghệ, song cũng không ít

những khó khăn, thách thức đặt ra đòi hỏi sự chung sức giải quyết.

1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao

Thứ nhất: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển thể thao thành tích cao

* Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thể thao

thành tích cao

Văn bản quy phạm pháp luật là một công cụ quan trọng và hữu hiệu để

quản lý nhà nước. Hằng năm, các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ, công

chức, viên chức giành khá nhiều thời gian, công sức để soạn thảo văn bản

QPPL. Việc xây dựng văn bản QPPL là một công việc khó, độ phức tạp cao.

Nội dung văn bản QPPL phải thể hiện chính xác đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về từng lĩnh vực công tác; đồng

thời, văn bản QPPL hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, nhân dân giải quyết

đúng đắn các công việc diễn ra trong xã hội, tạo động lực tích cực thúc đẩy sự

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao, an ninh, quốc phòng,… Việc xây

dựng tốt hệ thống văn bản QPPL là một nhiệm vụ quan trọng góp phần xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân.

Việc ban hành văn bản QPPL phải đúng thẩm quyền và thủ tục do pháp

luật quy định. Theo tinh thần của Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 thì

chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL thì văn bản

đó mới hợp hiến, hợp pháp. Thậm chí mỗi loại cơ quan nhà nước, hoặc chức

danh nhà nước căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhà nước

giao chỉ có thẩm quyền ban hành một hoặc một số loại văn bản QPPL nhất

định. Căn cứ vào Điều 2 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008 thì văn bản

20

QPPL bao gồm: Hiến pháp; Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị

quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước;

Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;…

Việc xây dựng và ban hành văn bản QPPL trong thể dục thể thao nói

chung, thể thao thành tích cao nói riêng được xác định là mảng công việc

quan trọng, tạo hành lang pháp lý để thực hiện các nhiệm vụ khác.

* Tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát

triển thể thao thành tích cao

Chiến lược là một chương trình hành động tổng quát, triển khai các giải

pháp để đạt được các mục tiêu toàn diện về phát triển trong một khoảng thời

gian tương đối dài, thường từ 10 – 20 năm

Quy hoạch là việc xác định cơ cấu, bố trí nguồn lực để đảm bảo tính

cân đối trong hoạt động thể thao thành tích cao, phù hợp với điều kiện kinh tế,

xã hội. Quy hoạch cũng phải đảm bảo xác định trong 1 giai đoạn nhất định

với khoảng thời gian tương đối dài ( 5 năm, 10 năm, 20 năm) và phải phù hợp

với chiến lược đã đề ra

Kế hoạch là một chương trình hành động cụ thể để đạt đến các mục tiêu

định trước trong những khoảng thời gian nhất định (5 năm, hàng năm). Kế

hoạch bao gồm những mục tiêu cụ thể và những giải pháp hành động cụ thể

để lựa chọn, từ đó đạt được những mục tiêu đã đề ra

Việc xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển

thể thao thành tích cao cần phải đảm bảo một số nội dung sau:

- Xác định, đánh giá đúng thực trạng phát triển của thể thao thành tích

cao trong giai đoạn hiện tại. Trên cơ sở đó làm rõ những tồn tại, thách thức và

nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại đó trong việc phát triển thể thao

thành tích cao

- Xác định các mục tiêu, xu hướng phát triển thể thao thành tích cao

trước những yêu cầu nâng cao thành tích thể thao và xu hướng toàn cầu hóa,

21

hội nhập quốc tế, đặc biệt là trước các thế vận hội Olympic, ASIAD, SEA

Games… sắp tới

- Xác định các giải pháp chủ yếu để phát triển thể thao thành tích cao

hợp lý cả về số lượng và chất lượng

Thứ hai: Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho

thể thao thành tích cao

Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho thể thao

thành tích cao là một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước

về thể thao thành tích cao. Để đảm bảo cho sự nghiệp phát triển thể thao

thành tích cao theo đúng định hướng, không ngừng nâng cao chất lượng hoạt

động thi đấu, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực rất lớn, đa dạng phong phú, bao

gồm nhiều lực lượng lao động khác nhau về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ

đào tạo, từ cán bộ quản lý cấp cao ở trung ương đến quản lý cấp cơ sở, cán bộ

khoa học thuộc các lĩnh vực có liên quan, từ huấn luyện viên, trọng tài đến

vận động viên từng môn thể thao…

Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho phát triển thể

thao thành tích cao là việc ban hành các chính sách đào tạo, và sử dụng nguồn

nhân lực cho thể thao thành tích cao. Chính sách khuyến khích các tổ chức xã

hội nghề nghiệp về thể thao như các liên đoàn, hiệp hội thể thao tham gia đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, huấn luyện viên, hướng dẫn viên, trọng tài thể thao…

[33; Tr. 65]

Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng một cách có hệ thống đội ngũ cán

bộ quản lý về thể thao làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ

trung ương đến địa phương (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, các Phòng Văn hóa – thông tin), đây là đội ngũ cán bộ

làm công tác quản lý nhà nước về thể thao có nhiệm vụ chính là tham mưu

xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách của nhà nước về thể dục thể

thao; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý thể thao làm trong các tổ chức xã hội

22

về thể thao như Ủy ban Olympic Việt Nam…., tổ chức xã hội nghề nghiệp về

thể thao như các liên đoàn, hiệp hội thể thao, đây là những nhà quản lý

chuyên nghiệp tổ chức các hoạt động thể dục thể thao; bồi dưỡng đội ngũ

huấn luyện viên, giảng viên, hướng dẫn viên về thể thao, đây là những cán bộ

chuyên môn đòi hỏi tính chuyên sâu trong các hoạt động nghề nghiệp; đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học thể thao làm việc trong các cơ sở nghiên cứu

ứng dụng khoa học công nghệ về thể thao; đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao

động khác phục vụ cho công tác quản lý, huấn luyện, giảng dạy thể thao như

kỹ thuật viên, điều dưỡng viên, chăm sóc sức khỏe vệ sinh môi trường…

Các nguồn lực đầu tư cho phát triển thể thao thành tích cao phải phù

hợp và đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo về chương

trình, nội dung đào tạo, đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài và

cơ sở vật chất phục vụ trong tập luyện và thi đấu thể thao. Đầu tư kinh phí để

xây dựng và phát triển chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng nhân lực

cho thể thao thành tích cao là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo

chất lượng, cũng như góp phần không nhỏ đối với việc nâng cao thành tích

thể thao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, sẽ hỗ trợ lớn cho việc tập

luyện và thi đấu cho các vận động viên, huấn luyện viên.

Thứ ba: Tổ chức, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và

công nghệ trong lĩnh vực thể thao thành tích cao

Khoa học và công nghệ là 2 yếu tố quan trọng cho sự phát triển của thể

thao hiện đại. Chính sách đầu tư và thu hút các nhà khoa học nghiên cứu khoa

học, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động

thể thao thành tích cao, nghiên cứu ứng dụng khoa học nâng cao thành tích

trong các môn thể thao trọng điểm là vô cùng cần thiết. Trong hành trình phát

triển của các Đại hội Olympic hiện đại, sự kết nối giữa thể thao và khoa học

được nhận thức rõ. Một điều có thể thấy là, từ những phương pháp đào tạo

cho tới những trang thiết bị tập luyện, cũng như công tác y tế, khoa học thể

23

thao đang là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích thi

đấu của các vận động viên.

Hiện tại, trên thế giới nhiều quốc gia đều đang đẩy mạnh việc áp dụng

những ứng dụng khoa học công nghệ vào việc nâng cao thành tích của các

vận động viên, trong đó bao gồm cả các lĩnh vực như sinh lý, tâm lý, điều

khiển cơ và cơ chế sinh học. Ngoài ra còn bao gồm cả dinh dưỡng, chế độ ăn

uống, công nghệ thể thao, nhân trắc học, kích thước cơ thể và việc phân tích

hiệu suất…

Thứ tư: Huy động, sử dụng các nguồn lực phát triển thể thao thành

tích cao

Nguồn lực phát triển thể thao thành tích cao bao gồm: nguồn tài chính,

đất đai và nhân lực cho phát triển thể thao thành tích cao

⦁Nguồn tài chính cho thể thao thành tích cao là rất quan trọng, bởi lẽ

muốn tổ chức các hoạt động tập luyện, biểu diễn, thi đấu thể thao đòi hỏi phải

có cơ sở vật chất, sân bãi tối thiểu, trang thiết bị tập luyện phù hợp thì mới

phát huy được hiệu quả như mong muốn. Để đạt được thành tích thể thao cao,

ngoài việc có cơ sở vật chất, sân bãi, trang thiết bị đạt chuẩn còn phải có đầu

tư khoa học kỹ thuật, công nghệ nuôi dưỡng, chăm sóc vận động viên, tất cả

đều cần đến nguồn tài chính lớn. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu

trách nhiệm ban hành cơ chế chính sách nhằm huy động nguồn tài chính bảo

đảm đáp ứng được yêu cầu đầu tư phát triển cho thể thao thành tích cao.

Nguồn tài chính đó được huy động từ:

- Do cân đối ngân sách nhà nước theo luật Ngân sách nhà nước

- Huy động từ các tổ chức, cá nhân bằng các hình thức vận động tài trợ

- Thu từ các hoạt động quảng cáo trên các sản phẩm của thể thao như

quảng cáo trong các trận thi đấu

- Thu từ bán vé và chuyển nhượng bản quyền phát thanh, truyền hình

đối với các giải thể thao

24

- Thu thuế thu nhập cá nhân trong hoạt động thể thao chuyên nghiệp

- Thu thuế các dịch vụ của hoạt động thể thao như dịch vụ ăn uống,

nghỉ ngơi, sản xuất, mua bán trang thiết bị thể thao

- Thu thuế từ việc tổ chức các hoạt động dự đoán kết quả thi đấu thể

thao, nhất là bóng đá và các cuộc thi đấu thể thao chuyên nghiệp (nhà nghề)

trong và ngoài nước

Nhà nước quy định việc quản lý và sử dụng các nguồn tài chính huy

động được trên đây nhằm mục đích đầu tư có hiệu quả, đúng trọng tâm, trọng

điểm cho phát triển thể thao thành tích cao.

⦁Đất đai để xây dựng các công trình sân chơi, bãi tập, nhà thi đấu thể

thao là nguồn lực quan trọng không thể thiếu để phát triển thể thao thành tích

cao. Bởi vậy, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thể thao nói chung, thể thao

thành tích cao nói riêng là phải xây dựng quy hoạch đất đai cho thể thao, quản

lý và sử dụng đất đã quy hoạch theo đúng mục đích đã được quy hoạch theo

Luật đất đai. Nhà nước cần ban hành tiêu chí về quy mô diện tích đất cho từng

loại công trình, cụm công trình phục vụ mục đích tập luyện thể thao của từng

đối tượng khác nhau. Sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả tránh lãnh

phí tài nguyên quốc gia là mục tiêu, nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước

về đất đai trong lĩnh vực thể dục thể thao nói chung, thể thao thành tích cao

trong lực lượng công an nhân dân nói riêng.

Thứ năm: Tổ chức chỉ đạo công tác thi đua, khen thưởng trong hoạt

động thể thao thành tích cao

Thi đua, khen thưởng trong hoạt động thể thao thành tích cao được thực

hiện theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng và quy định trong

Luật Thể dục, thể thao. Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thể

thao thành tích cao có thành tích xuất sắc đều được xét khen thưởng xứng

đáng cả về vật chất lẫn tinh thần.

25

Do tính chất đặc thù của hoạt động thi đấu thể thao nên chế độ thưởng

vật chất cho các vận động viên, huấn luyện viên thể thao thành tích cao đạt

thành tích xuất sắc tại các giải thể thao quốc gia và quốc tế do Thủ tướng

Chính phủ quyết định.

Thi đua trong hoạt động thể dục thể thao có tầm quan trọng rất lớn, tạo

động lực thúc đẩy ý chí phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, gian khổ

trong tập luyện, dũng cảm trong thi đấu vì màu cờ sắc áo, niềm tự hào quốc

gia, dân tộc và vì lòng tự trọng của bản thân, gia đình vận động viên, huấn

luyện viên.

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong thể thao thành tích cao

là xây dựng, ban hành và tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách khen

thưởng đối với những tổ chức, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong lĩnh vực

thể thao thành tích cao. Ban hành các tiêu chí thi đua khen thưởng trong hoạt

động thể thao thành tích cao đòi hỏi phải cụ thể, khoa học, thống nhất, phù

hợp với thực tiễn, có hiệu quả với phong trào thi đua

Công tác theo dõi, kiểm tra đánh giá phong trào thi đua thường xuyên,

đột xuất vô cùng quan trọng, có kiểm tra đánh giá khách quan trung thực,

chính xác thì mới khen thưởng đúng người có công, phong trào thi đua mới có

nhiều người hưởng ứng. Tổng kết đánh giá phong trào thi đua và thường

xuyên nghiên cứu để đổi mới nội dung, hình thức và biện pháp thi đua khen

thưởng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng của quản lý nhà nước về thể

dục, thể thao, nhất là việc khen thưởng vật chất đối với vận động viên, huấn

luyện viên thể thao thành tích cao trong nền kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế hiện nay.

Thứ sáu: Tổ chức, chỉ đạo thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thể

thao thành tích cao

Luật Thể dục, thể thao quy định tại Điều 76: Nhà nước mở rộng giao

lưu và hợp tác quốc tế về thể thao trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ

26

quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của pháp luật

Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thành viên; góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết lẫn

nhau giữa các dân tộc

Hợp tác quốc tế về thể thao thành tích cao bao gồm nhiều nội dung với

những hình thức đa dạng phong phú đó là quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia

về một hay nhiều lĩnh vực trong thể thao ví dụ như đào tạo cán bộ, tập huấn

cho đội thể thao hay thi đấu giao lưu, hữu nghị… Quan hệ hợp tác giúp đỡ

lẫn nhau giữa các tổ chức thể thao quốc gia của hai nước hay nhiều nước

trong một tổ chức thể thao quốc tế. Quan hệ hợp tác về đầu tư sản xuất dụng

cụ, trang thiết bị thể dục thể thao và khai thác kinh doanh dịch vụ thể thao của

nước ngoài vào Việt Nam, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Quan hệ hợp

tác trong khuôn khổ của các tổ chức thể thao quốc tế mà Việt Nam là thành

viên như phong trào Olympic quốc tế, Hội đồng thể thao châu Á, Hiệp hội thể

thao Đông Nam Á, Tổ chức quốc tế về chống Doping và các Liên đoàn hiệp

hội thể thao quốc tế khác

Tổ chức, chỉ đạo hợp tác quốc tế về thể thao thành tích cao là công việc:

- Quy định quy trình, tiêu chí lựa chọn, giới thiệu tổ chức, cá nhân tham

gia các tổ chức thể thao quốc tế;

- Quy định cơ quan nào của Việt Nam có thẩm quyền ký kết, gia

nhập, phê duyệt các điều ước quốc tế về thể thao theo quy định của pháp

luật Việt Nam;

- Quy định việc tổ chức và tham gia tổ chức các sự kiện thể thao quốc

tế tại Việt Nam;

- Quy định việc tham gia thi đấu và biểu diễn thể thao của của tổ chức,

cá nhân Việt Nam ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân người nước ngoài đến thi

đấu, biểu diễn tại Việt Nam;

27

- Quy định về hợp tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng trao đổi chuyên gia,

huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài thể thao; quy định về công nhận

bằng cấp, chứng chỉ đào tạo của các cơ sở đào tạo chuyên môn về thể thao

của nước ngoài và của các tổ chức quốc tế về thể thao;

- Quy định về nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công

nghệ tiên tiến trong lĩnh vực thể thao;

- Quy định về việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động thể thao

giữa các tổ chức, cá nhân Việt Nam với nước ngoài;

- Quy định về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, sản xuất dụng cụ, trang

thiết bị tập luyện, thi đấu từng môn thể thao;

- Quy định việc giới thiệu các môn thể thao dân tộc ra nước ngoài, và

du nhập các môn thể thao có xuất xứ từ nước ngoài vào Việt Nam;

- Quy định việc hợp tác trong lĩnh vực chống tiêu cực trong các hoạt

động thể thao. Những nội dung này được các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật và được các tổ chức, cá

nhân thực hiện dưới sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền.

Thứ bảy: Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố và xử lý vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực thể thao thành tích cao

- Thanh tra là phạm trù dùng chỉ hoạt động của các tổ chức thuộc Tổng

thanh tra nhà nước và thanh tra nhà nước chuyên ngành (Thanh tra Bộ, Thanh

tra Sở). Cơ quan thanh tra và đối tượng thanh tra thường không có quan hệ

trực thuộc. Nhưng các cơ quan thanh tra do thủ trưởng các cơ quan hành

chính thành lập, hoạt động với tư cách là cơ quan chức năng giúp thủ trưởng

cùng cấp. Vì vậy, có thể coi hoạt động thanh tra ngành được cơ quan cấp trên

tiến hành trong quan hệ với cơ quan trực thuộc [8; Tr. 271]

Như vậy, thanh tra là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên,

định kỳ nhằm rút ra nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan

28

nhà nước nhằm khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động của quan lý nhà nước.

- Kiểm tra là khái niệm rộng, chủ yếu được hiểu là hoạt động thường

xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới nhằm

xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi cần thiết, hoặc kiểm

tra cụ thể việc thực hiện 1 quyết định hành chính nào đó.

Hoạt động kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc, vì vậy, khi thực

hiện kiểm tra, cơ quan cấp trên, thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các

biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất, hoặc áp

dụng các biện pháp tác động tích cực tới đối tượng bị kiểm tra như khen

thưởng về vật chất, tinh thần…

- Giám sát dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước,

tòa án, các tổ chức chính trị xã hội và công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ

nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý xã hội. Như vậy, giám sát là sự tác động

quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu

của một hệ thống đối với hệ thống khác, nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo

chiều dọc.

Thanh tra, kiểm tra hoạt động thể thao thành tích cao trong lực lượng

công an nhân dân được tiến hành thường xuyên ở các cấp độ khác nhau, với

nhiều hình thức khác nhau:

* Đối với Quốc hội, các Ủy ban và các đoàn đại biểu Quốc hội thực

hiện chức năng giám sát định kỳ theo mỗi kỳ họp, hàng năm hoặc theo

chuyên đề ở từng lĩnh vực đối với hoạt động thể dục thể thao để xem xét việc

thực thi pháp luật của bộ máy quản lý hành chính nhà nước

* Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thể dục thể thao. Theo

khoản 4, Điều 11 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định Chính phủ:

“Thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp thể dục thể thao, tạo điều kiện

để mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động thể dục thể thao quần

29

chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng

thể thao…”

* Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ

thực hiện quản lý nhà nước về thể dục thể thao. Về lĩnh vực thể thao thành

tích cao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra,

giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, phòng chống tham

nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thể thao

thành tích cao thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

* Căn cứ tình hình thực trạng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và đội

ngũ CBCS, CNV, HLV; căn cứ về quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập có

thu, cấp ủy, lãnh đạo Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND luôn coi trọng công

tác kiểm tra, giám sát.

1.4. Vai trò của quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích cao

1.4.1. Tạo lập và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để quản lý giám sát

hoạt động của thể thao thành tích cao

Quản lý về thể thao thành tích cao thực hiện hóa các mục tiêu, ý tưởng

của các nhà chính trị - những người đại diện của nhân dân, tạo lập và hoàn

thiện khuôn khổ pháp luật để quản lý, giám sát hoạt động của thể thao thành

tích cao. Vai trò này xuất phát từ chức năng chấp hành của cơ quan hành

chính nhà nước. Chủ thể hành chính nhà nước có trách nhiệm chấp hành

quyết định của các cơ quan chính trị nhằm đạt được các mục tiêu chính trị của

quốc gia, phục vụ lợi ích của đất nước, của nhân dân

Để quản lý thể thao thành tích cao, cơ quan quản lý nhà nước phải thiết

lập một hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản pháp quy. Việc xác lập

khuôn khổ pháp luật đầy đủ, đồng bộ và đúng đắn nhất luôn được xem là điều

kiện tiên quyết bảo đảm thể thao thành tích cao hoạt động hiệu quả. Môi

trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến sự đầu tư cho thể thao thành tích cao,

đến chế độ đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ quản lý, huấn luyện viên, vận

30

động viên, trọng tài thể thao… Hệ thống pháp luật phải đảm bảo quyền lợi

chính đáng và hợp pháp của những người công tác trong lĩnh vực thể thao

thành tích cao, ngăn ngừa những khả năng trục lợi làm tổn hại đến lợi ích của

quốc gia, của nguồn nhân lực trong thể thao thành tích cao

1.4.2. Tổ chức quản lý và định hướng hoạt động thể thao thành

tích cao

Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao góp phần điều hành các

hoạt động thể thao thành tích cao, làm cho sự phát triển của thể thao thành

tích cao đúng hướng, đáp ứng các mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn

phát triển tới mức tối đa và với hiệu quả cao nhất. Vai trò này xuất phát từ

chức năng cụ thể của điều hành hành chính nhà nước là: định hướng (thông

qua quy hoạch, kế hoạch), điều chỉnh các quan hệ xã hội (thông qua ban hành

văn bản lập quy), hướng dẫn và tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, chính

sách… kiểm tra, thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật.

Để thể thao thành tích cao phát triển lành mạnh và ổn định, cơ quan

quản lý nhà nước thiết lập mô hình quản lý và quy định cơ chế hoạt động của

thể thao thành tích cao. Phát huy tác dụng tích cực và rõ ràng trong duy trì sự

thống nhất chính trị quốc gia, sự đoàn kết dân tộc và sự ổn định của xã hội,

làm phấn chấn tinh thần dân tộc, tăng cường tinh thần đoàn kết… Đồng thời,

giúp thể thao thành tích cao thể hiện vai trò trong việc cải thiện quan hệ quốc

tế, phát triển sự hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc, quốc gia, thúc tiến sự giao

lưu văn hóa.

1.4.3. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động thể thao thành

tích cao

Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao nhằm đảm bảo những điều

kiện vật chất to lớn cho thể thao thành tích cao phát triển. Nhà nước là người

đầu tư, và đồng thời là người đặt hàng lớn nhất cho thể thao thành tích cao.

31

Để thực hiện tốt vai trò này, quản lý nhà nước luôn có trách nhiệm duy trì và

tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố xã hội: duy

trì và phát triển các nguồn tài nguyên, kiến tạo các nguồn lực vật chất, sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển nguồn lực con người,

khắc phục những thất bại của thị trường hoặc hậu quả do những sai sót của

hành chính nhà nước gây ra…

Sự khai triển thương nghiệp hóa và sự phát triển chuyên nghiệp hóa các

môn thể thao thành tích cao đã làm sản sinh ra các hiệu ích kinh tế khả quan, vì

vậy mà tổ chức các đại hội thể dục, thể thao mang tính tổng hợp (như đại hội

Olympic) và đại hội thể thao có sự ảnh hưởng lớn của từng môn (như giải vô

địch thế giới) thường mang lại cho người tổ chức một thu nhập kinh tế lớn.

Ngoài ra, hoạt động của các hiệp hội thể thao thành tích cao, câu lạc bộ và hoạt

động thi đấu đều mang lại thu nhập kinh tế, không chỉ duy trì và thúc tiến sự

vận hành của bản thân mà còn tạo ra một con đường việc làm mới cho xã hội

1.4.4. Góp phần phát huy các giá trị văn hóa của thể thao thành tích cao

Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao có vai trò phát huy các giá

trị văn hóa của thể thao thành tích cao. Cùng với sự phát triển của xã hội và

quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội thì vai trò này càng quan trọng và mở

rộng. Vì suy cho cùng, hành chính nhà nước được thiết lập nhằm để phục vụ

lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội, chủ thể của quyền lực

nhà nước

Giá trị văn hóa xã hội của thể thao thành tích cao có rất nhiều, trong đó

giá trị được chúng ta coi trọng nhất là thể thao thành tích cao là một loại văn

hóa quy phạm nâng cao trình độ đạo đức xã hội. Các nhà xã hội học thể dục

thể thao cho rằng: thể thao thành tích cao có giá trị xã hội rất lớn vì đạo đức

thể thao, nguyên tắc của Olympic, tinh thần của Olympic được tuyên truyền

rộng rãi. Những quan niệm đạo đức được xây dựng trong thể thao thành tích

cao như công bằng, dân chủ, cạnh tranh, hợp tác, đoàn kết, hữu nghị, khiêm

32

tốn, thành thực,… là những văn hóa quy phạm không thể khuyết thiếu. Nó có

ý nghĩa giáo dục đối với thanh thiếu niên, thậm chí đối với toàn bộ thành viên

của xã hội

Có thể nói, quản lý nhà nước về thể dục thể thao nói chung, thể thao

thành tích cao nói riêng có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế

xã hội đất nước./.

33

Tiểu kết chƣơng 1

Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể

thao đến năm 2020, ở mục “Nâng cao hiệu quả đào tạo tài năng thể thao” nêu

rõ: “Đổi mới tổ chức, quản lý thể thao thành tích cao theo hướng chuyên

nghiệp, phù hợp với đặc điểm của từng môn và từng địa phương. Ưu tiên đầu

tư của nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ cho các cơ sở đào

tạo vận động viên các môn thể thao trọng điểm; tích cực chuẩn bị lực lượng

vận động viên và các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cần thiết, để sẵn sàng

đăng cai tổ chức Đại hội thể thao Châu Á. Sử dụng hiệu quả các nguồn lực”.

Trong Luật Thể dục, thể thao dành hẳn Chương III cho “Thể thao thành tích

cao”. Có thể thấy, trong mọi chiến lược, hoặc quy hoạch phát triển thể dục,

thể thao Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đều có một phần

thích đáng dành cho “thể thao thành tích cao”.

Trong chương 1 của Luận văn, học viên đã đi sâu tìm hiểu và làm rõ

các khái niệm về thể thao thành tích cao, về quản lý nhà nước, và quản lý nhà

nước về thể thao thành tích cao. Đồng thời, nêu được các yếu tố ảnh hưởng

đến quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao, việc nghiên cứu các yếu tố

ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao sẽ có tác động rất

lớn trong việc tìm ra các giải pháp làm giảm tác động tiêu cực của các yếu tố

này trong quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao.

Bên cạnh đó, học viên cũng đưa ra và phân tích nội dung quản lý nhà

nước về thể thao thành tích cao, và vai trò của quản lý nhà nước đối với phát

triển nền thể dục, thể thao nói chung, và đối với sự nghiệp thể thao thành tích

cao nói riêng./.

34

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO THÀNH TÍCH

CAO TRONG LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN

2.1. Yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích

cao trong lực lƣợng Công an nhân dân

2.1.1. Quá trình phát triển của thể thao thành tích cao trong lực

lượng Công an nhân dân

Quá trình phát triển của thể thao thành tích cao trong lực lượng Công

an nhân dân gắn liền với quá trình phát triển của thể thao thành tích cao ở

nước ta.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa ra đời. Tới ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc

chống thực dân Pháp lại bùng nổ. Đất nước phân chia xen kẽ vùng tạm bị

thực dân Pháp chiếm đóng và vùng tự do của Chính phủ Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa, kéo dài tới năm 1954. Thể dục thể thao ở vùng tự do chỉ là phong

trào thể dục thể thao quần chúng góp phần rèn luyện thân thể cho cán bộ,

chiến sĩ. “Ở vùng Pháp tạm chiếm, thể thao thành tích cao vẫn phát triển

manh nha như thời Pháp thuộc. Đồng thời, Đoàn thể thao Việt Nam (vùng

Pháp tạm chiếm) có tham gia Thế Vận Hội và Á Vận Hội. Đoàn thể thao Việt

Nam tham dự Thế Vận Hội Helsinki (Phần Lan) năm 1952 gồm 9 tuyển thủ

của 5 môn: điền kinh, bơi lội, đấu kiếm, quyền anh, xe đạp. Đoàn có thành

tích thi đấu rất thấp”. [1; Tr. 33]

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến trường kỳ của

nhân dân ta đã kết thúc. Nước ta bước vào giai đoạn mới từ năm 1945 – 1975,

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,

thống nhất đất nước. Ở giai đoạn này, cả 2 miền Nam – Bắc đều tiếp tục phát

triển thể thao thành tích cao, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn.

35

Sau đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất

nước, thể thao thành tích cao của cả nước đã dần từng bước phát triển mới. Từ

năm 1990, nhờ kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới về chính

sách ngoại giao nên thể thao thành tích cao của nước ta bước vào thời kỳ phát

triển tốt hơn, góp phần hội nhập quốc tế.

Chặng đường dài gần 60 năm (09/3/1959 – 09/3/2017) xây dựng và

trưởng thành, thể thao Công an nhân dân đã có những sức bật mới để vươn

xa, góp phần không nhỏ cho sự lớn mạnh của thể thao Việt Nam trên đấu

trường khu vực, châu lục và trên thế giới.

Từ lò đào tạo của thể thao Công an nhân dân, nhiều vận động viên đã

được xướng tên trên các đấu trường quốc tế và khu vực. 25 môn thể thao

thành tích cao với trên 700 vận động viên các tuyến và khoảng 400 vận động

viên thường xuyên tập trung ăn, ở, sinh hoạt tại Trung tâm HL&TĐ Thể thao

CAND để tập luyện, tham gia các giải quốc gia và quốc tế, đó chính là niềm

tự hào của thể thao Công an nhân dân hôm nay.

Qua gần 60 năm, thể thao Công an nhân dân đã góp phần tạo lên những

thành tích nổi bật của thể thao Công an nhân dân tại các giải đấu trong nước

và quốc tế, đặc biệt là trong các kỳ SEA Games. Trong nhiều thành tích của

thể thao Công an nhân dân, dấu ấn lớn nhất là tạo được phong trào rèn luyện

thể lực trong toàn lực lượng từ cấp Bộ đến Công an các địa phương.

Tại Đại hội thể thao toàn quốc năm 2014, với hơn 300 vận động viên

của 19 môn thể thao, tập trung chủ yếu vào các môn mang tính chất nghiệp vụ

của lực lượng Công an nhân dân như: chạy, bơi, bắn súng, võ thuật… Đoàn

thể thao Công an nhân dân đã thi đấu xuất sắc, chung cuộc xếp hạng 9/65 đơn

vị trên toàn quốc. Giành 88 huy chương các loại, trong đó 19 huy chương

vàng, 32 huy chương bạc, 37 huy chương đồng. Đồng thời, cũng đánh dấu sự

phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhiều quốc gia như: Hàn Quốc,

Trung Quốc, Liên bang Nga,… trên lĩnh vực thể thao ứng dụng ở công tác

36

đào tạo, huấn luyện, trao đổi chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ. Và chính điều

đó đã góp phần đưa Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND có những bước đột

phá và sức bật không ngừng để ngày càng vươn xa. Bề dày truyền thống của

quá trình phát triển này vừa là thuận lợi, nhưng cũng vừa là thách thức lớn đối

với QLNN về thể thao thành tích cao nói chung, và thể thao thành tích cao

trong lực lượng Công an nhân dân nói riêng, bởi vì để có thể vượt qua và tiến

xa hơn những thành tích đáng tự hào trước đây là điều không hề dễ dàng.

2.1.2. Bối cảnh quốc tế và trong nước liên quan đến sự phát triển của

thể thao thành tích cao trong lực lượng công an nhân dân

a. Bối cảnh quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thể dục thể thao

ở mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ngày 28/4/1980 Ủy ban Olympic quốc

tế (IOC) chính thức công nhận Ủy ban Olympic Việt Nam là thành viên của

phong trào Olympic quốc tế. Cũng từ đó, thể thao Việt Nam đã sớm hội nhập

với thể thao quốc tế. Đứng trước cơ hội và thách thức phát triển thể thao

mang xu thế toàn cầu, thành tích thi đấu thể thao của nước ta không ngừng

phải cạnh tranh gay gắt với các quốc gia trên thế giới, với châu lục và khu vực

Đông Nam Á. Cạnh tranh giành chiến thắng về thể thao, thể hiện sức mạnh

của dân tộc, chính là một đặc trưng quan trọng của thể thao thành tích cao.

Bên cạnh đó, vẫn giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc trong suốt quá trình

tham gia phong trào Olympic quốc tế.

Trong những năm gần đây, Chính phủ các quốc gia ngày càng quan tâm

và tích cực tham gia chỉ đạo, tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, nhất là

tăng cường đầu tư các công trình công cộng về thể dục thể thao và thúc đẩy

phát triển, kinh doanh dịch vụ thể dục thể thao giải trí, đặc biệt là trong phát

triển thể thao đỉnh cao.

Xu thế phát triển thể thao thành tích cao được thể hiện:

37

- Các quốc gia rất coi trọng tranh Huy chương vàng Olympic, trình độ

thi đấu thể thao tăng lên rõ rệt;

- Về chiến lược, các quốc gia có xu hướng điều chỉnh thu hẹp số môn

thể thao chủ đạo, số lượng vận động viên có tiềm năng giành huy chương để

đầu tư có trọng điểm nhằm mục tiêu giành huy chương vàng Olympic và ưu

tiên môn thể thao nhiều lần giành huy chương vàng Olympic;

- Tần suất các cuộc thi đấu thể thao ngày càng nhiều, dẫn đến sự thay đổi

quan niệm trong huấn luyện thể thao truyền thống như tối ưu hóa phương thức

huấn luyện, nâng cao trình độ thi đấu của vận động viên trong thời gian ngắn;

- Xu hướng ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin, tự động hóa

phương pháp vận động và đo lường thể chất trong hoạt động thể thao thành

tích cao ngày càng phát triển và được coi là yếu tố quan trọng để nâng cao

thành tích thể thao;

- Kinh doanh thể thao và thể thao nhà nghề tác động lớn đến sự phát

triển kinh tế của thể thao thành tích cao;

- Hoạt động giao lưu quốc tế trong đào tạo nhân tài, hợp tác trao đổi kỹ

thuật và công nghệ thể thao cũng được khuyến khích và đẩy mạnh.

b. Bối cảnh trong nước

Thể dục thể thao Việt Nam sớm hội nhập quốc tế, có nhiều cơ hội tiếp

cận với xu thế toàn cầu. Ngành thể dục thể thao nước ta là một trong số các

ngành sớm triển khai chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước, bước đầu

Ngành Thể dục thể thao đã huy động được một phần không nhỏ nguồn lực từ

người dân, doanh nghiệp và xã hội đầu tư phát triển thể dục thể thao, tạo sự

chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ quản lý ngành, huấn luyện

viên, trọng tài và vận động viên; tuy nhiên hiệu quả thu được vẫn chưa cao vì

vẫn bị chi phối bởi tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước

Thể dục thể thao cơ bản đã hòa nhập với xu thế chung của phong trào

thể thao thế giới, thể hiện ở các hoạt động: cải tiến hệ thống thi đấu quốc gia

38

phù hợp với hệ thống giải thể thao quốc tế; bước đầu có sự kết hợp của Nhà

nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thể dục thể thao trong quản lý, tổ

chức các hoạt động thể dục thể thao; hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật thể dục

thể thao đã được cải thiện nhiều cả về số lượng và chất lượng; công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, công nghệ và y học thể thao có

bước phát triển đột phá.

Tuy nhiên, nền thể thao và quản lý thể thao trong đó có QLNN của Việt

Nam vẫn đứng trước một số thách thức không nhỏ:

- Sự quan tâm chỉ đạo công tác phát triển thể dục thể thao còn hạn chế;

chưa ý thức được việc đầu tư phát triển thể dục thể thao là một trong những

yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực và góp phần bảo

đảm an sinh xã hội;

- Thể chế về quản lý hoạt động thể dục thể thao ở nước ta còn thiếu

đồng bộ; chưa chú trọng xây dựng chính sách phát triển dài hạn, trung hạn,

thiếu chiến lược phát triển ngành, ít các chương trình, dự án quy mô quốc gia;

- Đầu tư phát triển thể dục thể thao thiếu tính hệ thống và chưa phù hợp

với quy mô, mức độ phát triển thể dục thể thao Việt Nam, nhất là trong thời

gian từ năm 2008 đến nay có phần giảm sút do ảnh hưởng cả suy thoái kinh tế

thế giới đối với nước ta. [33; Tr. 181 – 182]

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về thể thao thành tích

cao trong lực lƣợng Công an nhân dân

2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật

Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách phát triển

thể dục thể thao là một trong những nội dung của quản lý nhà nước về thể

dục thể thao. Các văn bản QPPL quy định về lĩnh vực thể dục thể thao nói

chung, thể thao thành tích cao bao gồm:

- Luật Thể dục thể thao được Quốc hội khóa XI chính thức thông qua

tại kỳ họp thứ 10 ngày 29/11/2006 là văn bản pháp lý quan trọng đối với công

39

tác quản lý thể dục thể thao, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động phát triển

thể thao nói chung, thể thao thành tích cao trong lực lượng CAND nói riêng;

- Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Thể dục thể thao;

- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục thể thao

đến năm 2020;

- Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg ngày 06 tháng 6 năm 2011 của Thủ

tướng Chính phủ “về một số chế độ đãi ngộ đối với HLV, VĐV thể thao được

tập trung tập huấn và thi đấu”;

- Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12 năm 2010 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển thể dục thể thao đến

năm 2020;

- Quyết định 1752/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt “quy hoạch hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật thể dục, thể

thao quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”;

- Quyết định 2160/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt “quy hoạch phát triển thể dục thể thao Việt Nam

đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”;

- Chỉ thị số 48/CT-BVHTTDL ngày 05 tháng 4 năm 2011 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch về việc tổ chức triển khai thực hiện chiến lược phát

triển thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020.

Ngoài ra, Vụ thể thao thành tích cao đã phối hợp và biên soạn “Chiến

lược phát triển thể dục thể thao tới năm 2015 và định hướng tới năm 2020”;

xây dựng kế hoạch đào tạo VĐV trẻ có tài năng, là nguồn bổ sung cho các đội

tuyển Quốc gia, đồng thời chuẩn bị lực lượng tham dự Olympic trẻ Châu Á tổ

chức tại Singapore và các giải quốc tế khác… Cùng với đó, Vụ còn phối hợp

40

với các đơn vị có liên quan tham gia soạn thảo các văn bản như: Thông tư liên

tịch với Bộ Tài chính về khuyến khích các đơn vị ngoài công lập tham gia đào

tạo tài năng thể thao Quốc gia; Thông tư liên tịch với Bộ xây dựng quy định

về hệ thống tiêu chuẩn chuyên môn đối với các công trình thể thao; Quyết

định số 66/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cụ TDTT trực thuộc Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch,…

Bên cạnh các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành, Bộ Công an

cũng đã có những chỉ đạo, ban hành các Quyết định, Kế hoạch, Chỉ thị triển

khai thực hiện sâu rộng kế hoạch phát triển thể thao thành tích cao trong toàn

lực lượng như:

- Kế hoạch số 101/KH-BCA-X11 ngày 04/5/2012 của Bộ Công an về

việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ thể dục

thể thao ngành Công an đến năm 2020;

- Chỉ thị số 08/CT-BCA-X11 của Bộ Công an ngày 21/9/2012 về tăng

cường công tác điều lệnh, huấn luyện quân sự, võ thuật trong lực lượng Công

an nhân dân;

- Quyết định số 7258/QĐ-BCA ngày 31/12/2015 của Bộ trưởng Bộ

Công an về việc thành lập Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND.

2.2.2. Tổ chức bộ máy

Theo nguyên lý chung nhất, bộ máy hành chính nhà nước là một tổ

chức có quyền ban hành các quyết định hành chính thuộc quyền hành pháp;

hoạch định và phê chuẩn các chủ trương, đường lối, chính sách quản lý và tổ

chức thực hiện các quyết định đó; đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của công dân, của

xã hội về sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Tổ chức bộ máy nhằm tạo ra

một cơ cấu với các mối quan hệ ổn định, vững chắc, thông suốt từ trung ương

đến các đơn vị hành chính cơ sở thấp nhất, cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính

là một hệ thống thứ bậc và được phân định theo nhiều tiêu chí khác nhau:

41

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thể dục, thể thao;

- Ủy ban Thể dục thể thao chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện

quản lý nhà nước về thể dục thể thao;

- Bộ Công an chủ trì và phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

phát triển thể dục, thể thao trong Công an nhân dân; tích cực đào tạo VĐV trẻ

và VĐV trình độ cao tham gia thi đấu tranh huy chương tại các Đại hội thể

thao khu vực và thế giới; triển khai công tác giáo dục đạo đức thể thao đối với

VĐV thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp;

- Căn cứ vào Quyết định 66/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục

TDTT: Tổng cục TDTT là cơ quan trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch quản lý nhà nước và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về

thể dục, thể thao trong phạm vi cả nước;

- Căn cứ Quyết định số 7832/QĐ-BCA ngày 29 tháng 12 năm 2014 của

Bộ trưởng Bộ Công an quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức

bộ máy của Tổng cục Chính trị Công an nhân dân: Tổng cục Chính trị CAND

có chức năng tham mưu cho Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công

an tập trung xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh toàn diện theo

hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước;

- Căn cứ Quyết định số 7258/QĐ-BCA ngày 31 tháng 12 năm 2015 của

Bộ trưởng Bộ Công an thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và tổ chức bộ máy của Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao Công an

nhân dân: Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND chịu sự quản lý trực tiếp của

Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị CAND; chịu sự quản lý nhà nước về

công tác thể dục, thể thao của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đồng thời

chịu sự quản lý theo lãnh thổ của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.

42

Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND được xây dựng trên mặt bằng diện

tích 7,0 ha với nhiều hạng mục công trình và được tổ chức bàn giao tiếp nhận

các hạng mục công trình từ tháng 8/ 2008 – 2013, với tổng số vốn đầu tư gần

200 tỉ đồng, đến nay các hạng mục công trình đều đã được đưa vào quản lý và

sử dụng. Ngày 15/6/2011, Bộ trưởng Bộ Công an có Quyết định số 2071/QĐ-

BCA và số 2072/QĐ-BCA về việc thành lập Trung tâm Thể thao CAND

thuộc Cục Công tác chính trị.

Sau hơn 04 năm đi vào hoạt động, đến ngày 31/12/2015, Bộ trưởng Bộ

Công an đã ký Quyết định số 7258/QĐ-BCA về việc thành lập và quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm HL&TĐ

Thể thao CAND trực thuộc Tổng cục Chính trị CAND, do Giám đốc phụ

trách (hưởng chế độ, chính sách Phó Cục trưởng) và 04 Phó Giám đốc (hưởng

chế độ, chính sách Trưởng phòng). Ngoài ra còn biên chế thành 04 Đội, 01

Ban và 01 Câu lạc bộ gồm: Đội Hậu cần – Tài vụ; Đội Y tế, Y sinh huấn

luyện; Đội Thể thao ứng dụng; Ban Quản lý huấn luyện; Câu lạc bộ Bóng đá

CAND.

Cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND được

thực hiện như sau:

2.2.2.1. Cấp ủy và lãnh đạo Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND: gồm

5đồng chí

+ 01 Giám đốc, phụ trách, chỉ đạo chung toàn đơn vị, công tác tổ chức,

tài chính, đội Y tế, y sinh huấn luyện, CLB Bóng đá và một số môn thể thao

như Bắn súng, Bóng đá, Tennis, Dance sport…

+ 04 Phó Giám đốc, phụ trách đội Tổng hợp, công tác Chính trị nội bộ,

công đoàn, đội thể thao ứng dụng, phục trách Ban huấn luyện, công tác Phụ

nữ và một số môn thể thao như Boxing, Muay, Pencak Silat, Vovinam…

43

2.2.2.2. Về bộ máy quản lý và vận hành Trung tâm HL&TĐ Thể

thao CAND

+ Đội Tổng hợp gồm 6 đồng chí phụ trách chung, trực tiếp chỉ đạo

công tác tham mưu tổng hợp, tổ chức cán bộ, bảo vệ nội bộ, thực hiện chính

sách đối với toàn đơn vị, đảm bảo an ninh trật tự, quản lý sử dụng cơ sở vật

chất phục vụ nhiệm vụ chính trị…

Ngoài ra còn có Tổ bảo vệ, gồm 12 nhân viên hợp đồng có nhiệm vụ

bảo vệ công tác an ninh, trông giữ phương tiện, cơ sở vật chất.

+ Đội Hậu cần – Tài vụ gồm 09 đồng chí, chịu trách nhiệm chung

trước cấp ủy, lãnh đạo về công tác hậu cần, tài chính, kế toán của đơn vị. Trực

tiếp phụ trách, thực hiện công tác tài chính, kế toán.

Ngoài ra còn có 13 nhân viên hợp đồng cấp dưỡng; 07 nhân viên vệ sinh;

05 nhân viên hợp đồng bể bơi; và 01 nhân viên hợp đồng xây dựng cơ bản.

+ Đội Y tế, Y sinh huấn luyện gồm 05 đồng chí phụ trách việc xây

dựng kế hoạch, báo cáo giám đốc các công việc liên quan đến hoạt động

chung của bộ phận, dự trù kinh phí, thiết bị, vật tư… Chủ trì các công tác của

bộ phận nghiên cứu khoa học, hội nghị, hội thảo, kiểm tra đánh giá y sinh

học, tuyển chọn VĐV, khám chữa bệnh, phục hồi chấn thương, tư vấn dinh

dưỡng, hồi phục, cải thiện thành tích, cứu hộ, cứu đuối…

+ Đội Thể thao ứng dụng gồm 05 đồng chí, phụ trách chung, chịu trách

nhiệm trước lãnh đạo Trung tâm về mọi mặt hoạt động của Đội, phụ trách

công tác chuyên môn huấn luyện thể thao ứng dụng nghiệp vụ các môn: Điền

kinh, Võ, Võ ứng dụng CAND, Bắn súng, Bơi,…

+ Ban Quản lý huấn luyện gồm 07 đồng chí, chịu trách nhiệm chính,

tham mưu giúp Ban Giám đốc phối hợp với các bộ phận chức năng, theo dõi,

báo cáo kết quả công việc, thành tích thi đấu và các mặt công tác khác của các

bộ môn thể thao CAND.

44

+ Câu lạc bộ Bóng đá CAND gồm 05 đồng chí, phụ trách về tài chính,

kế hoạch, tổ chức thi đấu, quản lý vận động viên (ăn, ở, sinh hoạt, học tập)…

Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức bộ máy Trung tâm HL&TĐ Thể

thao CAND:

- Tổ chức, quản lý, huấn luyện các đội thể thao thành tích cao CAND

làm nhiệm vụ thi đấu quốc gia và quốc tế;

- Tổ chức tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện tài năng trẻ thể thao, các

vận động viên năng khiếu nghiệp dư, bổ sung cho các đội thể thao thành tích

cao CAND;

- Đào tạo, huấn luyện đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên bổ sung

cho các đơn vị, địa phương (võ thuật, bắn súng, bơi lội, điền kinh…);

- Tổ chức huấn luyện quân sự, võ thuật, thể dục thể thao cho sinh viên

các trường CAND, cán bộ, chiến sỹ khi có yêu cầu; phối hợp với các đơn vị

liên quan tổ chức thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh theo

quy định;

- Phối hợp và hỗ trợ tập huấn các đội thể thao của Công an các đơn vị,

địa phương khi có yêu cầu; tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ chuyên trách,

huấn luyện viên, trọng tài các môn thể thao, thể thao ứng dụng, quân sự, võ

thuật trong lực lượng CAND;

- Tổ chức nghiên cứu, đề xuất hoạt động của các môn thể thao ứng

dụng và đảm bảo ứng dụng khoa học y sinh vào công tác huấn luyện thể thao

thành tích cao, huấn luyện ứng dụng chiến đấu;

- Nghiên cứu đề xuất nâng cấp, mua sắm trang thiết bị tập luyện, thi

đấu đảm bảo phục vụ hoạt động của Trung tâm; đề xuất chế độ dinh dưỡng,

chăm sóc sức khỏe, chế độ đặc thù cho vận động viên, huấn luyện viên,

trọng tài;

45

- Tổ chức phục vụ các hoạt động thi đấu thể thao, thể thao ứng dụng,

quân sự, võ thuật do Bộ Công an đăng cai tổ chức; thực hiện chế độ hợp đồng

đối với các vận động viên, huấn luyện viên theo quy định;

- Tổ chức quản lý 25 môn Thể thao thành tích cao với trên 700 VĐV

các tuyến (quản lý ăn, ở, học tập, tập luyện tại Trung tâm hơn 400 VĐV) và

thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành về công tác Thể dục thể thao, quân sự,

võ thuật.

2.2.3. Các nguồn lực cho phát triển thể thao thành tích cao

2.2.3.1. Công tác khai thác cơ sở vật chất

- Bộ Công an: tạo điều kiện để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sử

dụng cơ sở vật chất hiện có của các đơn vị Công an cho nhiệm vụ tập huấn, tổ

chức các giải thi đấu quốc gia và quốc tế

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch quan tâm giúp đỡ Công an các đơn vị, địa phương cùng cấp được

hưởng ưu đãi cơ sở vật chất khi sử dụng các hạng mục, công trình thể thao để

phục vụ các hoạt động thể thao do lực lượng Công an nhân dân tổ chức. Cơ

quan chuyên môn thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia tư vấn cho

các đơn vị Công an trong việc xây dựng các công trình thể dục, thể thao đúng

tiêu chuẩn, kỹ thuật phục vụ thi đấu thể thao hiệu quả.

Theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an thì Trung tâm HL&TĐ

Thể thao CAND là đơn vị sự nghiệp công lập có thu. Tuy nhiên với điều kiện

các công trình được đầu tư một số mới được bàn giao, một số đã xuống cấp

nghiêm trọng. Vì vậy, việc khai thác hiện nay chủ yếu thu từ các nhà đầu tư

liên doanh, liên kết đang được triển khai thực hiện. Hiện nay, Trung tâm

HL&TĐ Thể thao CAND đang liên doanh khai thác với Công ty Cổ phần

Động Lực và Công ty Cổ phần Lan Anh.

2.2.3.2. Nguồn lực con người

* Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức quản lý thể dục, thể thao

46

- Bộ Công an: Hằng năm xây dựng kế hoạch mở các lớp tập huấn, bồi

dưỡng chuyên môn thể dục, thể thao cho các cán bộ làm công tác thể dục thể

thao nhằm nâng cao năng lực quản lý, tổ chức, huấn luyện thể dục, thể thao

trong lực lượng Công an nhân dân;

Tuyển chọn cán bộ, huấn luyện viên tham gia các khóa đào tạo, huấn

luyện, tập huấn bồi dưỡng kiến thức về thể dục, thể thao do Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch tổ chức;

Cử cán bộ, huấn luyện viên đi đào tạo Chương trình Đại học và sau

Đại học Thể dục thể thao ở các trường do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

quản lý.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Tạo điều kiện cho cán bộ làm công

tác quản lý thể dục thể thao, huấn luyện viên, trọng tài trong Công an nhân

dân được dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch tổ chức; được tham gia trong thành phần đoàn cán bộ thể dục,

thể thao đi thăm quan, học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ và giao lưu

quốc tế (Kinh phí do nghành Công an tự túc);

Phối hợp mở các lớp bồi dưỡng về công tác quản lý, tập huấn chuyên

môn nghiệp vụ thể dục thể thao cho cán bộ làm công tác thể dục thể thao

trong lực lượng Công an nhân dân (tập trung các bộ môn võ thuật và bơi ứng

dụng); Cử cán bộ, huấn luyện viên tham gia giảng dạy, huấn luyện các lớp bồi

dưỡng về công tác thể dục, thể thao do Bộ Công an (hoặc Công an các đơn vị,

địa phương cùng cấp) tổ chức;

Tạo điều kiện cho các huấn luyện viên, vận động viên Công an nhân

dân được học tập tại các trường Đại học, Cao đẳng thể dục, thể thao do Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý;

Tạo điều kiện cho các bác sỹ, y sỹ, nhân viên chuyên môn trong lĩnh

vực chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho vận động viên của Công an được tham

47

gia các khóa đào tạo, huấn luyện chuyên ngành y học thể dục thể thao do Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức;

Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho phát triển

thể thao thành tích cao là một trong những nội dung quan trọng của quản lý

nhà nước về thể dục thể thao nói chung, thể thao thành tích cao trong lực

lượng công an nhân dân nói riêng, đã được Luật Thể dục thể thao quy định…;

Để quản lý và vận hành bộ máy, hiện tại Trung tâm sử dụng đội ngũ

cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên gồm:

- Biên chế: 43 đồng chí

- Công nhân viên, hợp đồng huấn luyện viên, hợp đồng lao động mùa

vụ: 58 đồng chí

- Trong đó, hợp đồng không xác định thời hạn: 10 đồng chí (đối với

công việc cấp dưỡng, bảo vệ, vệ sinh); hợp đồng có xác định thời hạn (36

tháng đối với công việc huấn luyện): 21 đồng chí; hợp đồng 03 tháng: 24

đồng chí

- Các tổ chức đoàn thể quần chúng: Đoàn Thanh niên cơ sở (60 đoàn

viên); Công đoàn cơ sở (66 đoàn viên); Hội Phụ nữ cơ sở (42 hội viên).

Thực trạng đội ngũ cán bộ, huấn luyện viên, bác sĩ của Trung tâm

Huấn luyện và Thi đấu thể thao Công an nhân dân [26]

Năm

2014 Cán bộ 2012 2013 2015 2016

n % n % n % n % n %

Tổng số 63 65 65 67 66

Cán bộ quản lý 18 28,57 20 30,76 20 30,76 20 29,85 21 31,81

- Ban Giám đốc 03 04,76 05 07,69 05 07,69 05 07,46 05 07,57

15 23,80 15 23,07 15 23,07 15 22,38 16 24,24 - Cán bộ quản lý chuyên môn

48

24 38,09 24 36,92 24 36,92 23 34,32 22 33,33 Huấn luyện viên

21 33,33 21 32,30 21 32,30 24 35,82 23 34,84 Cán bộ phục vụ

- Kế toán 02 03,17 02 03,07 02 03,07 03 04,47 03 04,54

- Cơ sở vật chất 03 04,76 03 04,61 03 04,61 04 05,97 03 04,54

13 20,63 13 20,00 13 20,00 13 19,40 13 19,69 - Phục vụ nuôi dưỡng

03 04,76 03 04,61 03 04,61 04 05,97 04 06,06

- Chăm sóc và phục hồi sức khỏe

56 88,89 56 86,15 58 89,23 58 86,56 58 87,87 Trình độ chuyên môn

- Trên Đại học 02 03,17 02 03,07 03 04,61 04 05,97 04 06,06

- Đại học 40 63,49 40 61,53 40 61,53 39 58,20 38 57,57

14 22,22 14 21,53 15 23,07 15 22,38 16 24,24 - Cao đẳng, trung cấp

(Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện thể thao thành tích cao trong lực

lượng Công an nhân dân của Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND)

Từ kết quả thu được ở bảng 1 cho thấy:

- Số lượng cán bộ làm công tác quản lý thể thao thành tích cao trong

lực lượng Công an nhân dân đã được tuyển dụng và bổ sung tăng từ 18 người

năm 2012 lên 21 người năm 2016, chiếm 31,81% tổng số cán bộ, huấn luyện

viên, bác sĩ, công nhân viên trong Trung tâm. Cán bộ có trình độ trên Đại học,

Cao đẳng và trung cấp cũng được nâng lên rõ rệt. Điều đó chứng tỏ sự quan

tâm của các cấp lãnh đạo, đồng thời thể hiện năng lực, trình độ của Huấn

luyện viên cấp cao ngày càng được nâng cao.

Bên cạnh đó, số lượng cán bộ làm công tác chăm sóc và phục hồi sức

khỏe cũng tăng lên trong những năm gần đây, điều này góp phần nâng cao

49

chất lượng chăm sóc và phục hồi chức năng vận động cho đội ngũ VĐV,

HLV, tác động lớn đến thành tích thi đấu.

- Số lượng cán bộ có trình độ đại học chiếm đa số, năm 2012 chiếm

63,49%, đến năm 2016 là 57,57% tổng số cán bộ, công nhân viên trong Trung

tâm. Tuy nhiên, số lượng đối tượng này hầu như không có sự thay đổi đáng

kể, thậm chí có dấu hiệu giảm qua các năm từ 2012 đến 2016.

- Với số lượng HLV làm công tác huấn luyện là 24 người (chiếm

38,49%) năm 2012, sang năm 2015 là 23 người (chiếm 34,32%), và con số

này tiếp tục giảm còn 22 người (chiếm 33,33%). Có thể thấy, số lượng HLV

so với số lượng cán bộ, công nhân viên, đặc biệt so với tổng số VĐV đang

được tập luyện, thi đấu trong thể thao CAND còn thấp, cần phải có biện pháp

bổ sung kịp thời.

* Chế độ dinh dưỡng cho huấn luyện viên, vận động viên (tính bằng

tiền) với mức như sau:

+ Chế độ dinh dưỡng của HLV, VĐV trong những ngày tập trung

tập luyện [23]

(Đơn vị tính: Đồng/ Người/ Ngày)

MỨC ĂN HÀNG TT CẤP ĐỘI TUYỂN NGÀY

1 Đội tuyển của Bộ 150.000

2 Đội tuyển trẻ của Bộ 120.000

3 Đội tuyển năng khiếu của Bộ 90.000

4 Đội tuyển Công an các đơn vị, địa phương dự 120.000

giải toàn lực lượng Công an nhân dân

5 Huấn luyện viên, vận động viên tham gia hội 90.000

thao do Công an các đơn vị, địa phương tổ chức

(Nguồn: Thông tư 19/2015/TT-BCA, ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ Công an quy định một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên và các hoạt động thể dục, thể thao trong Công an nhân dân)

50

+ Chế độ dinh dưỡng của HLV, VĐV trong những ngày thi đấu thể

thao [23].

(Đơn vị tính: Đồng/ Người/ Ngày)

MỨC ĂN TT CẤP ĐỘI TUYỂN HÀNG NGÀY

1 Đội tuyển của Bộ 200.000

2 Đội tuyển trẻ của Bộ 150.000

3 Đội tuyển năng khiếu của Bộ 120.000

4 Đội tuyển Công an các đơn vị, địa phương dự giải 150.000 toàn lực lượng Công an nhân dân

5 Huấn luyện viên, vận động viên tham gia hội thao do

Công an các đơn vị, địa phương và các giải thi đấu 120.000 thể thao do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương tổ chức

(Nguồn: Thông tư 19/2015/TT-BCA, ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ

Công an quy định một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên và

các hoạt động thể dục, thể thao trong Công an nhân dân)

Trung bình mỗi ngày, một VĐV tiêu thụ 5000 – 6000 cal, trong khi

người bình thường là 1000 cal, vì vậy, VĐV cần lượng dinh dưỡng gấp 5 – 6

lần người bình thường. Với mức ăn hàng ngày từ 90.000 đồng đến cao nhất

200.000 đồng cũng không phải quá thấp so với nhiều địa phương, nó phần

nào thể hiện sự quan tâm, đầu tư cho lĩnh vực thể thao thành tích cao, là

nguồn động viên và giúp các HLV, VĐV nỗ lực phấn đấu hơn nữa để giành

thành tích cao trong thi đấu. Tuy nhiên, có thể thấy, chế độ dinh dưỡng hiện

nay chưa đáp ứng được một nửa yêu cầu, ngoài ra chế độ dinh dưỡng của

VĐV, HLV vẫn còn phụ thuộc hoàn toàn vào cách thực hiện của bếp ăn tại

các Trung tâm huấn luyện thể thao, và chưa có sự kiểm soát từ các chuyên gia

dinh dưỡng, chưa thật sự tìm hiểu xem môn thể thao nào cần thực phẩm dinh

51

dưỡng gì và VĐV cần bổ sung thức ăn ra sao để phát triển cơ hay chỉ thể lực

nói chung nhằm phù hợp với các nội dung thi đấu. Đó là vấn đề cần xem xét

và thực hiện một cách cụ thể, khoa học hơn từ phía các nhà quản lý thể thao

thành tích cao ở Việt Nam nói chung, ở Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND

nói riêng.

* Chế độ đãi ngộ, khen thưởng

Theo Điều 12, Thông tư 19/2015/TT-BCA thì Chế độ thưởng đối với

huấn luyện viên, vận động viên đạt thành tích tại các giải quốc tế, ngoài các

mức tiền thưởng được hưởng theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Quyết định số

32/2011/QĐ-TTg ngày 06/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về một số chế độ

đối với HLV, VĐV thể thao được tập huấn và thi đấu còn được Bộ Công an

thưởng thêm như sau:

(Đơn vị tính: Triệu đồng)

Huy Huy Huy Phá kỷ Thành tích TT chƣơng chƣơng chƣơng lục cộng Tên cuộc thi vàng bạc đồng thêm

I Đại hội, giải thể thao quy mô quốc tế

1 Đại hội Olympic 50 30 20 20

2 Đại hội Olympic trẻ 20 10 8 8

a) Giải vô địch thế giới hoặc

cúp thế giới từng môn của các 30 20 15 15 môn thể thao nhóm I (trong

chương trình thi đấu Olympic) 3 b) Giải vô địch thế giới hoặc

cúp thế giới từng môn của các 20 15 10 10 môn thể thao nhóm II (các môn

thể thao còn lại)

52

II Đại hội, giải thể thao quy mô Châu lục

Đại hội thể thao châu Á 1 25 15 10 10 (ASIAD)

Đại hội thể thao bãi biển châu

Á, Đại hội thể thao Võ thuật - 20 15 10 10

trong nhà châu Á

a) Giải vô địch châu Á hoặc

cúp châu Á từng môn của các

môn thể thao nhóm I (các môn 25 15 10 10 2 thể thao trong chương trình thi

đấu Olympic)

b) Giải vô địch thế giới hoặc

cúp thế giới từng môn của các 20 15 10 10 môn thể thao nhóm II (các môn

thể thao còn lại)

III Đai hội, giải thể thao quy mô khu vực

1 Đại hội thể thao Đông Nam Á 15 10 5 5

a) Giải vô địch Đông Nam Á

từng môn thể thao 3 3 10 5 nhóm I (trong chương trình

Olympic) 2

b) Giải vô địch Đông

Nam Á từng môn thể thao 10 5 3 3

nhóm II (các môn thi còn lại)

(Nguồn: Thông tư 19/2015/TT-BCA, ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ

Công an quy định một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên và

các hoạt động thể dục, thể thao trong Công an nhân dân)

53

Qua số liệu ở bảng trên có thể thấy, ngoài chế độ khen thưởng theo

Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an còn

có chế độ thưởng thêm cho các VĐV, HLV đạt thành tích trong thi đấu. Mức

thưởng khá cao so với nhiều Trung tâm thể thao và địa phương trong cả nước.

Tuy nhiên, kể từ khi Quyết định số 32/QĐ-TTg được ban hành đến nay

đã gần 7 năm, mức lương cơ bản của nhà nước đã có nhiều lần thay đổi nên

mức tiền công cũng như mức thưởng bằng tiền đối với các VĐV, HLV lập

thành tích trong thi đấu cũng cần được điều chỉnh trong thời gian tới để các

VĐV, HLV không bị thiệt thòi. Ngoài ra, việc khen thưởng theo cơ chế cào

bằng, ngang nhau, đôi khi gây bất công bằng trong đội ngũ VĐV, HLV có

thành tích. Làm thế nào để VĐV, HLV thể thao thành tích cao không bị thiệt

thòi, vấn đề đặt ra đối với đội ngũ làm công tác lãnh đạo quản lý, cần có động

thái để kịp thời khuyến khích, ghi nhận xứng tầm với những đóng góp của các

VĐV, HLV đỉnh cao có công đóng góp cho nền thể thao Việt Nam và hình

ảnh đất nước Việt Nam trên thế giới.

2.2.3.3. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, công tác y tế, y

sinh huấn luyện thể dục thể thao

- Bộ Công an: Chỉ đạo các đơn vị Công an liên quan đến lĩnh vực thể dục,

thể thao đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ và y học thể dục,

thể thao trong công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện thể dục thể thao

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao của Bộ

Công an tiếp cận kết quả nghiên cứu đề tài khoa học về các vấn đề lý luận và

thực tiễn trong việc tổ chức, quản lý, cơ chế hoạt động thể dục, thể thao áp

dụng trong Công an nhân dân; tiếp thu nghiên cứu ứng dụng khoa học – công

nghệ phục vụ tiêu chuẩn rèn luyện thể lực cho các đối tượng trong lực lượng

Công an nhân dân; quan tâm công tác thông tin khoa học và chuyển giao công

nghệ thể dục, thể thao

54

Chỉ đạo Viện khoa học Thể dục thể thao, các trường Đại học Thể dục

thể thao, Bệnh viện Thể thao Việt Nam, trung tâm Doping và Y học thể dục

thể thao hỗ trợ các trung tâm huấn luyện, đào tạo thể thao của Công an, ứng

dụng nghiên cứu khoa học, y học thể thao cho công tác huấn luyện kỹ thuật,

tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu về vận động

viên thể thao thành tích cao và vận động viên trẻ kế cận; tăng cường năng lực

chữa trị chấn thương và phòng chống Doping.

Đảm bảo công tác bảo vệ sức khỏe, phục hồi chấn thương cho CBCS,

HLV, VĐV, đã khám, điều trị và phục hồi cho 1425 lượt CBCS, HLV, VĐV

đau ốm, chấn thương, chuyển bệnh viện cho 35 lượt VĐV chấn thương cần

điều trị chuyên sâu. Trực cấp cứu phục vụ hội thao, thi đấu thể thao, giao hữu

võ thuật, kiểm tra đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thể lực với trên 80 lượt; tổ

chức tọa đàm về việc áp dụng các biện pháp Y sinh học trong đánh giá trình

độ luyện tập, phòng tránh chấn thương, mua sắm trang thiết bị phục vụ công

tác y tế, y sinh để ứng dụng trong khoa học huấn luyện VĐV thể thao thành

tích cao.

2.2.3.4. Thực trạng về số lượng các môn thể thao và trình độ chuyên

môn của HLV, VĐV, bác sĩ trong Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND

* Thực trạng về số lượng môn và số lượng HLV, VĐV các môn thể

thao thành tích cao

TT Môn Thể thao Số lƣợng HLV Số lƣợng VĐV

1 Bắn Súng 04 44

2 Bơi 02 20

3 Bóng Bàn 03 27

4 Boxing 03 43

5 Cầu Mây 02 26

6 Cầu Lông 02 23

7 Cờ Tướng 03 25

55

8 Cử Tạ 04 38

9 Điền Kinh 04 37

10 Judo 02 22

11 Karatedo 03 44

12 Muay 02 25

13 Pencak Silat 03 47

14 Taekwondo 03 44

15 Vật dân tộc 02 22

16 Vật tự do 03 38

17 Võ cổ truyền 02 38

18 Vovinam 02 38

19 Wushu 03 47

20 Quần vợt 03 14

21 Dance sports 02 14

22 Bóng Chuyền 02 12

23 Thể Hình 02 14

24 Kiếm 02 13

25 Bóng đá 06 99

Tổng số 63 814

(Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện thể thao thành tích cao

trong lực lượng Công an nhân dân của Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND)

Võ là một trong những môn thể thao trọng điểm, không chỉ nhằm mục

đích thi đấu giành thành tích cao, mà còn góp phần nâng cao bản lĩnh công

tác, lòng dũng cảm, tính kiên trì và rèn lyện khả năng sẵn sàng chiến đấu

trong môi trường thực tế, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ công tác, chiến đấu

của lực lượng Công an nhân dân. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng số lượng

VĐV và số lượng HLV có thể thấy sự mất cân đối, số lượng HLV còn quá ít

so với số lượng đông đảo VĐV đặc biệt ở các môn võ thuật: Võ cổ truyền chỉ

có 2 HLV trong số 38 VĐV, trung bình 1 HLV phải huấn luyện 19 VĐV;

56

Môn Wushu và Pencak Silat, 1 HLV phải huấn luyện 16 VĐV, ngoài ra các

môn Taekwondo, Boxing, Karatedo,... cũng là những môn có số lượng HLV

khiêm tốn so với số lượng VĐV.

* Thực trạng về trình độ chuyên môn của HLV, đẳng cấp VĐV các

môn thể thao thành tích cao

Trình độ Đẳng cấp VĐV Số Đại học Đại học Dự bị TT Môn thể thao lƣợng Kiện ngành ngành Cấp 1 kiện HLV tƣớng HLTT GDTC tƣớng

11 1 Bắn Súng 04 04 04 03

02 2 Bơi 02 02 09 0

3 Bóng Bàn 03 03 02 08

4 Boxing 03 03 0 04

5 Cầu Mây 02 02 12 0

6 Cầu Lông 02 02 05 02

7 Cờ Tướng 03 03 09 0

8 Cử Tạ 04 04 01 02

9 Điền Kinh 04 04 05 05

10 Judo 02 02 01 01

11 Karatedo 03 03 22 17

12 Muay 02 02 03 03

13 PencakSilat 03 03 07 06

14 Taekwondo 03 03 13 05

15 Vật dân tộc 02 02 0 3

16 Vật tự do 03 03 02 03

17 Võ cổ truyền 02 02 09 07

18 Vovinam 02 02 02 03

57

19 Wushu 03 03 04 08

20 Quần vợt 03 03 01 04

21 Dance sports 02 02 0 02

22 Bóng Chuyền 02 02

23 Thể Hình 02 02 0 1

24 Kiếm 02 02

25 Bóng đá 06 06

Tổng số 63 63 111 87 13

(Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện thể thao thành tích cao

trong lực lượng Công an nhân dân của Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND)

Đội ngũ HLV giữ vai trò quan trọng trong công tác đào tạo, huấn luyện,

nhất là với VĐV thể thao thành tích cao. Xác định rõ điều này, Trung tâm

HL&TĐ Thể thao Công an nhân dân thường xuyên quan tâm xây dựng lực

lượng làm công tác huấn luyện đạt chuẩn về chuyên môn, bảo đảm chất lượng

và tính kế thừa.

Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng 100% đội ngũ HLV ở Trung tâm

HL&TĐ Thể thao Công an nhân dân đều tốt nghiệp Đại học chuyên ngành

Huấn luyện thể thao. Nhờ được đào tạo bài bản, phần lớn đội ngũ làm huấn

luyện phát huy được năng lực, kinh nghiệm, sở trường để xây dựng lực lượng

VĐV có chất lượng, đủ khả năng tranh tài trên các đấu trường trong nước,

khu vực và quốc tế.

Về đẳng cấp VĐV: Hầu hết các môn thể thao đều có những VĐV đạt

đẳng cấp Cấp I và đẳng cấp Kiện tướng. Đặc biệt ở một số môn, số lượng

VĐV đạt đẳng cấp Kiện tướng chiếm tỷ lệ khá cao như: Karatedo (17 VĐV);

Bóng bàn (08 VĐV); Wushu (08 VĐV); Võ cổ truyền (07 VĐV); PencatSilat

(06 VĐV);…

58

Có thể thấy, năm 2016 là một năm thành công của thể thao CAND, với

526 huy chương (162 HCV; 162 HCB; 202 HCĐ) ở giải quốc gia, 63 huy

chương (11 HCV; 22 HCB; 30 HCĐ) ở các giải quốc tế, 15 huy chương (08

HCV; 01 HCB; 06 HCĐ) giải khu vực, 12 huy chương (04 HCV; 03 HCB; 05

HCĐ) giải châu lục, và 05 huy chương (03 HCV; 01 HCB; 01 HCĐ) giải thế

giới. Tuy nhiên, so với năm 2012 thì số lượng huy chương còn quá khiêm tốn

ở các giải khu vực và thế giới. Năm 2012 số lượng giải khu vực đạt 42 giải,

trong khi năm 2016 chỉ có 15 giải; số lượng giải thế giới đạt 09 giải năm

2012, đến năm 2016 còn 05 giải. (Phụ lục)

Hiện tại, CAND là một trong những đơn vị đào tạo, huấn luyện số môn

thể thao thành tích cao nhiều nhất nhì cả nước. Tuy nhiên, có 1 thực tế là hiện

dấu ấn của VĐV thể thao CAND chưa được nhiều so với các đơn vị khác

trong cả nước. Những thành tích tại SEA Games, ASIAN Games hay

Olympic của thể thao Việt Nam gần như đã vắng bóng các VĐV của ngành.

Số lượng huy chương cũng giảm cả ở các giải thi đấu quốc gia, quốc tế, châu

lục, khu vực và thế giới. Việc chỉ có 5 VĐV góp mặt trên tổng số hơn 460

VĐV của đoàn thể thao Việt Nam tham dự SEA Games 29 là một thực tế để

lãnh đạo Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND phải tìm cách khắc phục.

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát

Trong những năm gần đây, Bộ Công an đã có những chỉ đạo hoạt động

công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực thể thao thành tích

cao và đạt kết quả nhất định, đó là kiểm tra việc thực hiện các tiêu chuẩn quy

định của một số loại hình cơ sở tập luyện theo quy chế của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch như: tiêu chuẩn hồ bơi, tiêu chuẩn các phòng tập cử tạ - thể

hình, sân tập của đội bóng,… Tổ chức thanh tra, kiểm tra hoạt động tổ chức

các giải thể thao, hoạt động kiểm tra và công nhận trình độ đẳng cấp HLV,

Trọng tài, VĐV của các hội võ thuật,…

59

Đồng thời với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thì hoạt động

tổng kết, đánh giá về thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân

dân cũng là một nội dung rất cần thiết nhằm cung cấp các thông tin thống kê

một cách trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong việc đánh

giá, dự báo tình hình, làm cơ sở để rà soát, điều chỉnh, hoạch định chiến lược,

chính sách, quy hoạch, kế hoạch của thể thao thành tích cao.

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thực tiễn hoạt động

thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn, do văn bản quy phạm pháp luật hướng

dẫn và xử lý các vi phạm trên lĩnh vực thể dục thể thao nói chung, thể thao

thành tích cao nói riêng còn rất thiếu và chưa đồng bộ, chưa theo kịp tốc độ

phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, đội ngũ nhân sự làm công tác thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ.

* Công tác thanh tra tại Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND

Trung tâm Huấn luyện và thi đấu thể thao CAND có nhiệm vụ quản lý,

huấn luyện các đội thể thao thành tích cao trong Công an nhân dân, tham gia

thi đấu thể thao quốc gia và quốc tế; tổ chức đào tạo, huấn luyện các môn thể

thao ứng dụng và các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CAND. Công tác

Thanh tra là nhiệm vụ mới cho đến nay đơn vị đang xây dựng kế hoạch thanh

tra, vì vậy đơn vị không triển khai cuộc thanh tra hành chính và thanh tra

chuyên ngành nào.

* Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

- Tiếp công dân

Thực hiện quy định của Bộ về công tác tiếp công dân, Trung tâm HL &

TĐ thể thao CAND đã bố trí cán bộ đảm nhiệm công tác này. Tuy nhiên,

không có công dân đến đơn vị khiếu nại, tố cáo.

- Tiếp nhận xử lý đơn thư

Từ khi thành lập Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND, đơn vị chưa

nhận được đơn thư tố cáo hay khiếu nại nào.

60

* Công tác phòng chống tham nhũng

Chi ủy, lãnh đạo đơn vị xác định công tác phòng chống tham nhũng là

nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng trong xây dựng đơn vị trong sạch, vững

mạnh. Do vậy, đã quan tâm thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về công

tác phòng chống tham nhũng trong các buổi sinh hoạt chính trị tại đơn vị, sinh

hoạt chi bộ. Đồng thời đã tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng gắn với các

biện pháp quản lý cán bộ, đảng viên, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng,

sinh hoạt chuyên môn, trong công tác cán bộ, thi đua, khen thưởng và thực

hiện chính sách cán bộ, gắn công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng với

việc thực hiện Nghị quyết TW 4 (Khóa XII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng; các

phong trào thi đua trong đơn vị.

Đã triển khai nhiều biện pháp để chủ động phòng ngừa tham nhũng,

tiêu cực. Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định, hướng dẫn của Bộ

Công an, Tổng cục Chính trị CAND về kê khai, công khai, minh bạch tài sản,

thu nhập cá nhân của toàn bộ cán bộ, đảng viên. Việc đề xuất mua sắm tài

sản, trang thiết bị phục vụ trong công tác của đơn vị được tiến hành công khai

đúng quy định, được quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm. Cho đến nay,

chưa phát hiện cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị có hành vi tham nhũng, chưa có

cán bộ vi phạm xử lý kỷ luật.

* Công tác xây dựng lực lượng Thanh tra

Chi ủy, lãnh đạo đơn vị đã và đang chỉ đạo đôn đốc việc xây dựng kế

hoạch thanh tra theo hướng dẫn của thanh tra Bộ và Tổng cục để cán bộ làm

công tác thanh tra nắm vững và chủ động thực hiện: bố trí 01 cán bộ kiêm

nhiệm thực hiện công tác thanh tra, theo dõi việc xử lý và giải quyết đơn thư

của đơn vị. Cán bộ làm công tác thanh tra có tư tưởng vững vàng, tận tâm,

trách nhiệm đối với công việc, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Năm 2017,

cán bộ làm công tác thanh tra đã được cử tham gia lớp tập huấn về công tác

61

thanh tra do Tổng cục Chính trị CAND tổ chức tại Trường Cao đẳng An ninh

nhân dân II…

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về phát triển thể thao

thành tích cao trong lực lƣợng Công an nhân dân

2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân

2.3.1.1. Thành tựu đạt được

- Được sự quan tâm của Bộ Công an, Đảng ủy Tổng cục Chính trị

CAND, sự chỉ đạo chuyên môn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng sự

hỗ trợ phối hợp của các Sở, Ban, Ngành, Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND

luôn luôn giữ vững là một trung tâm lớn đào tạo các vận động viên thể thao

thành tích cao. Hiện nay, Trung tâm đang phát triển 25 môn thể thao khác

nhau, với trên 700 VĐV các tuyến, phục vụ trên 400 VĐV thường xuyên tập

trung, ăn ở, sinh hoạt và học tập tại Trung tâm, tập luyện, tập huấn tham gia

các giải quốc gia và quốc tế.

Thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân đang đi

đúng định hướng của Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam năm

2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, Tổng cục Thể dục thể thao đã chỉ đạo đúng: tập trung phát triển các môn

thể thao trọng điểm, các nội dung trọng điểm và VĐV trọng điểm; Các môn

thể thao thành tích cao đã đảm bảo được thành tích thi đấu trong nước và

quốc tế;

- Các môn thi đấu Olympic và hướng đến Olympic được tập trung đầu

tư trọng điểm đạt thành tích tốt trong SEA Games 29 là: điền kinh, bơi lội,

bắn súng, taekwondo, vật, Judo, boxing,… Các môn thi đấu ASIAD và hướng

tới ASIAD là: bắn cung, cầu lông, cầu mây, karatedo, wushu,… Một số môn

thể thao còn lại tùy theo từng Đại hội. Bên cạnh đó, hoạt động thể thao ứng

dụng được các đơn vị, địa phương Công an toàn quốc đều chú ý phát triển

62

như: võ thuật, bắn súng, bơi, chạy vũ trang… để phục vụ công tác chuyên

môn và nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sỹ;

- Lực lượng vận động viên đã được ổn định, đảm bảo tính kế thừa liên

tục, về cơ bản đã đạt yêu cầu để chuẩn bị tham gia thi đấu trong Đại hội Thể

dục thể thao toàn quốc lần thứ VIII năm 2018 và đóng góp lực lượng VĐV thi

đấu Seagames lần thứ 29 trong năm nay (2017). Chất lượng đào tạo vận động

viên từng bước được cải thiện, nâng cao, đặc biệt là đối với vận động viên

tuyến trẻ, thành tích tiến bộ qua từng năm.

2.3.1.2. Nguyên nhân

- Trong những năm trở lại đây, thể thao thành tích cao trong lực lượng

Công an nhân dân có những bước tiến khá dài. Tại Đại hội thể thao toàn quốc

lần thứ VII – 2014, với hơn 300 VĐV của 19 môn thể thao, tập trung chủ yếu

vào các môn mang tính chất nghiệp vụ của lực lượng CAND như: chạy, bơi,

bắn súng, võ thuật,…, Đoàn Thể thao CAND đã thi đấu xuất sắc, chung cuộc

xếp hạng 9/65 đơn vị trên toàn quốc, giành 88 huy chương các loại, trong đó

đạt 19 HCV, 32 HCB, 37 HCĐ. Các VĐV võ thuật của lực lượng CAND luôn

nằm trong Top 10 đơn vị dẫn đầu cả nước. Để đạt được những kết quả ổn

định và mang tính bền vững như vậy một phần là do công tác đào tạo VĐV

thể thao thành tích cao những năm qua có nhiều đổi mới theo hướng tích cực,

chuyên môn hóa sâu. Hệ thống đào tạo được chia làm 3 tuyến: Tuyến năng

khiếu, tuyến trẻ và tuyến đội tuyển. Trên cả 3 tuyến ấy, các VĐV được huấn

luyện, đào tạo bài bản, đồng thời được sàng lọc kỹ càng trước khi tuyển chọn

lên các tuyến dự tuyển tham gia thi đấu hệ thống giải vô địch quốc gia;

- Trong quá trình huấn luyện, Trung tâm HL & TĐ Thể thao CAND

đều nâng cao yếu tố chất lượng đầu vào, chú trọng đến công tác kiểm tra

chuyên môn theo định kỳ và thường xuyên rà soát, tiến hành phân loại các

VĐV không phát triển về chuyên môn, ý thức sinh hoạt tập luyện kém để thay

63

thế, đồng thời phát hiện những nhân tố có triển vọng để có phương án tập

trung bồi dưỡng, nâng cao trình độ;

- Đội ngũ HLV phần lớn đều có trình độ chuyên môn cao, thường

xuyên tham gia các lớp nâng cao trình độ, chuyên môn do Tổng cục Thể dục

thể thao, các liên đoàn, hiệp hội thể thao trong nước và quốc tế tổ chức,

trong đó nhiều HLV đã từng là VĐV đội tuyển nên có nhiều kinh nghiệm

trong công tác huấn luyện và thi đấu như Phạm Hồng Thắm (VĐV Karatedo

số 1 Việt Nam từ năm 16 tuổi, năm 1994 tham dự ASIAD, năm 1995 giành

HCB Đông Nam Á, và bảo vệ thành công tấm HCV tại 2 kỳ SEA Game 19

và 20; HLV Nguyễn Thu Vân có bề dày thành tích 3 HCV SEA Games…

Bên cạnh đó, Trung tâm HL & TĐ Thể thao CAND đã mạnh dạn đề xuất với

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật tiên tiến vào trong tập luyện như: máy tập luyện đa năng phát triển các

tố chất vận động, đưa thực phẩm chức năng vào trong thành phần dinh

dưỡng của các VĐV,…

2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân

2.3.2.1. Những hạn chế, bất cập

Mặc dù công tác quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong thời

gian qua đạt được một số thành tựu nhất định, mang tính nền tảng. Tuy nhiên,

đối chiếu với định hướng, mục tiêu đề ra thì kết quả thực hiện chưa đáp ứng

được yêu cầu, còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất phát từ công tác quản

lý nhà nước.

- Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao tuy đã có nhiều chuyển

biến, song vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, chưa bắt kịp được tình

hình phát triển kinh tế, xã hội hiện nay và chưa đáp ứng được sự phát triển

nhanh của thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân trong

giai đoạn mới, cụ thể như sau:

64

+ Chưa xây dựng được một chiến lược phát triển thể thao thành tích

cao mang tính toàn diện, tập trung, hiệu quả;

+ Chưa quan tâm đầy đủ đến chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng

cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý đầu ngành về thể thao thành tích cao;

+ Nguồn ngân sách nhà nước và cộng đồng xã hội đầu tư cho phát

triển thể dục thể thao nói chung, thể thao thành tích cao nói riêng còn thấp;

+ Chậm ban hành các quy định pháp lý về việc tham gia thực hiện một

số hoạt động tác nghiệp trong lĩnh vực thể thao thành tích cao đối với các

Hiệp hội, Liên đoàn thể thao dẫn đến việc chưa phát huy được vai trò của các

tổ chức này trong lĩnh vực thể thao thành tích cao. Vì thế, công tác chuyển

giao các hoạt động này cho các tổ chức xã hội còn lúng túng, bị động, thiếu

tính chuyên nghiệp…;

+ Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về thể thao thành tích

cao còn thiếu, trình độ không đồng đều nên vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến tình trạng lẫn lộn giữa công tác

quản lý nhà nước và các hoạt động sự nghiệp;

+ Tình trạng cá cược, dàn xếp tỷ số bất hợp pháp, tiêu cực và tham

nhũng trong thể thao cũng diễn ra ngày càng tinh vi. Đây thực sự trở thành

một vấn đề nóng trong xã hội, đặc biệt trong lực lượng Công an nhân dân,

một ngành được coi là mẫu mực, đi đầu trong công tác phát hiện, đấu tranh,

xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, phòng chống tội phạm.

- Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND là đơn vị mới được thành lập,

nhiệm vụ chính trị được tăng lên nhưng bộ máy tổ chức, nhân sự không có

nhiều thay đổi, cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, nhiều vị trí, đặc biệt

là tiếp cận những công việc mới nên còn thiếu kinh nghiệm; ý thức tự giác, tự

trau dồi kiến thức, tính chủ động, sáng tạo của một bộ phận đội ngũ cán bộ

đảng viên còn có điểm hạn chế, thụ động trong công tác tham mưu và tổ chức

thực hiện. Công tác đề xuất thực hiện chế độ chính sách đối với các hợp đồng

65

lao động làm các công việc: xây dựng, bảo vệ, cấp dưỡng, HLV còn chậm và

thiếu nên công tác chỉ đạo, điều hành còn nhiều bất cập, lúng túng, tổ chức bộ

máy liên tục biến động, chưa hoàn thiện, công tác quản lý ngành còn chậm

đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, thiếu tính động viên trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ; một số hạng mục công trình bị xuống cấp

nghiêm trọng; thiếu nguồn kinh phí để duy tu, bảo dưỡng nên ảnh hưởng

không nhỏ đến quá trình quản lý, sử dụng;

- Thể chế quản lý thể dục thể thao ở nước ta nói chung, thể thao thành

tích cao trong lực lượng Công an nói riêng còn chưa thống nhất, chưa được

Nhà nước phê duyệt, gây ảnh hưởng không thuận lợi tới công tác kế hoạch

hóa trong quản lý nhà nước về thể dục thể thao. Công tác kế hoạch hóa, xây

dựng chiến lược, quy hoạch thể thao dài hạn; xây dựng các chương trình, dự

án đầu tư cho thể thao thành tích cao mang tính quy mô quốc gia còn chưa

được chú trọng, dẫn đến việc đầu tư cho thể thao thành tích cao thiếu tính hệ

thống, thiếu cơ bản và tập trung;

- Thành tích thi đấu của các VĐV thể thao thành tích cao được thể hiện

qua số huy chương tăng lên qua từng năm nhưng chủ yếu ở các giải vô địch trẻ

và cúp các câu lạc bộ. Các công trình phục vụ công tác tập luyện còn chưa đủ

nên một số môn còn phải đi nhờ địa điểm tập luyện bên ngoài như Judo, Cầu

mây, Cờ tướng, Bóng bàn… một số môn võ phải cùng tập chung địa điểm nên

chưa thể đảm bảo chất lượng đào tạo VĐV; Cơ sở vật chất chưa đủ để ứng dụng

khoa học huấn luyện đặc biệt là vai trò của y học hồi phục, chăm sóc và chữa trị

chấn thương trong quá trình đào tạo VĐV thể thao thành tích cao;

- Lực lượng huấn luyện viên, cán bộ chuyên trách làm công tác thể thao

thành tích cao còn thiếu; chế độ chính sách cho huấn luyện viên, vận động

viên tài năng tuy có sự quan tâm nhưng chưa đủ để kích thích, động viên các

đối tượng này tích cực khổ luyện để đạt thành tích cao trong thi đấu.

66

2.3.2.2. Nguyên nhân cơ bản của hạn chế

- Công tác quản lý nhà nước đối với thể thao thành tích cao tuy có

chuyển biến nhưng vẫn còn hạn chế, bất cập ở một số mặt như: Công tác tham

mưu các chế độ đãi ngộ, chính sách đối với lĩnh vực thể thao thành tích cao

cho lãnh đạo các ngành, các cấp; công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch ngắn hạn, dài hạn của toàn ngành và nhất là của từng bộ môn,…;

- Sự phối hợp giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các sở, ban,

ngành, đoàn thể liên quan khá nhịp nhàng và đồng bộ. Tuy nhiên, trong lĩnh

vực quy hoạch đất đai, cơ sở vật chất cho ngành thể thao, thủ tục mua sắm các

trang thiết bị chuyên môn còn chậm, phần nào ảnh hưởng đến quá trình tập

luyện và thi đấu của các bộ môn…

- Do nhận thức của các cấp ủy Đảng, của chính quyền, của ngành về

thể thao thành tích cao còn hạn chế. Từ đó, sự đầu tư của Nhà nước, của

ngành cho thể thao thành tích cao còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển,

chưa thực sự coi đầu tư cho thể thao thành tích cao là đầu tư cho con người,

tăng nguồn nhân lực, tăng vị thế chính trị của dân tộc;

- Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, sự tăng trưởng kinh tế

nước ta bị chậm lại so với những năm trước. Vì vậy, sự đầu tư cho thể thao

thành tích cao từ ngân sách nhà nước và từ nguồn ngoài ngân sách đều sẽ bị

hạn chế, đòi hỏi đổi mới sự đầu tư theo hướng tập trung hơn và hiệu quả hơn.

- Bên cạnh đội ngũ HLV có trình độ chuyên môn cao, thì vẫn còn một

số không ít HLV về cơ bản chưa đủ đáp ứng cho công tác huấn luyện giai

đoạn hoàn thiện thể thao. Về trình độ, thâm niên huấn luyện chỉ đảm bảo

được công tác huấn luyện cơ bản, chưa được đào tạo một cách bài bản,

chuyên sâu; còn hạn chế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, ngại đổi

mới tư duy, ít cập nhật các phương pháp huấn luyện mới; số lượng HLV có

trình độ chuyên môn cao còn chưa đủ. Do vậy, phải thuê chuyên gia nhiều…

ảnh hưởng đến chất lượng huấn luyện, đào tạo lực lượng VĐV. Một số lớp

67

tập huấn do nước ngoài tổ chức nhưng HLV Việt Nam không tham gia được

vì tiếng Anh và vi tính không đáp ứng được yêu cầu. Chất lượng HLV không

đảm bảo. Những HLV từ VĐV chuyển sang thường thiếu kỹ năng sư phạm;

một số giáo viên lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong quá trình thi đấu thể

thao thành tích cao. Việc thu hút nhiều chuyên gia giỏi làm HLV còn khó

khăn do chế độ tiền lương, tiền công thấp; việc ký hợp đồng thuê chuyên gia

nước ngoài làm HLV còn nhiều bất cập. Bởi theo quy định, để ký kết hợp

đồng lao động thì chuyên gia phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm hoặc có bằng

Đại học, trong khi thực tế, nhiều HLV giỏi lại không đáp ứng được tiêu chí

trên và ngược lại.

- Các điều kiện đảm bảo để phục vụ quá trình đào tạo như cơ sở vật

chất, trang thiết bị dụng cụ, và đặc biệt là chế độ chính sách cho huấn luyện

viên, vận động viên còn mang tính cào bẳng, chưa có chế độ đãi ngộ cho

những tài năng đặc biệt.

Năm 2014 cũng đánh dấu sự phát triển trong việc mở rộng quan hệ hợp

tác hữu nghị trên lĩnh thể thao ứng dụng ở cả công tác đào tạo, huấn luyện và

trao đổi chuyên môn. Hiện nay, Thể thao CAND có mối quan hệ thường

xuyên với các nước: Hàn Quốc, Trung Quốc, Liên bang Nga, Thái Lan,

Malaysia, Singapore… Tuy nhiên, do những khó khăn về kinh tế nói chung,

về QLNN đối với thể thao thành tích cao nói riêng, các VĐV trong lực lượng

CAND vẫn chủ yếu tập luyện trên tinh thần vượt khó là chính, đơn cử như

môn bắn súng, bộ môn đòi hỏi được trạng bị đạn, súng theo tiêu chuẩn quốc

tế nhưng hiện nay Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND, các VĐV vẫn sử

dụng súng cũ, thậm chí vẫn phải sử dụng đạn Liên Xô 3, rất cũ, chất lượng

không đảm bảo…

Ngoài ra, khi đào tạo, huấn luyện gian nan lắm mới có được VĐV đạt

thành tích cao, thì việc tuyển chọn, tìm kiếm gương mặt mới cũng gian nan

không kém. Thậm chí, Ban quản lý huấn luyện lặn lội về các tỉnh, các trường,

68

các võ đường…tìm được người, nhưng nhiều gia đình lại kiên quyết không

cho con đi vì sợ ảnh hưởng đến việc học văn hóa. Gần đây, để vừa làm tốt

công tác huấn luyện, vừa đảm bảo cho các VĐV các đội tuyển trẻ học văn

hóa, Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND đã mời giáo viên ở các Trường

ngoài vào dạy theo chương trình giáo dục thường xuyên (từ lớp 8 đến lớp 12)

- Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ để phát triển thể dục

thể thao, đặc biệt là thể thao thành tích cao còn nặng về lý thuyết, nhẹ ứng

dụng, chưa có hiệu quả rõ nét. Công tác triển khai nghiên cứu khoa học TDTT

bị ràng buộc nhiều trong khâu thanh quyết toán. Vai trò của y học hồi phục,

chăm sóc và chữa trị chấn thương trong quá trình đào tạo VĐV còn nhiều bất

cập. Trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, ứng dụng còn thiếu và lạc hậu.

- Chính sách xã hội hóa thể thao được nhà nước chỉ đạo thực hiện bằng

nhiều văn bản, nghị quyết hết sức cụ thể, trong đó vai trò của các tổ chức xã

hội được khuyến khích mở rộng. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay trong bộ máy

điều hành Liên đoàn, Hiệp hội thể thao các chức danh chủ chốt đa phần là cán

bộ ngành TDTT điều động sang, vì vậy không phát huy được tính năng động,

tự chủ của các Liên đoàn. Một số Liên đoàn, Hội thể thao hoạt động phần lớn

vẫn mang tính bao cấp, chưa tự chủ hoàn toàn về kinh phí, nhà nước vẫn phải

hỗ trợ dưới nhiều hình thức. Hiện nay việc chuyển nhượng, sáp nhập hoặc xóa

bỏ các đội bóng, đội tuyển, câu lạc bộ… diễn ra phổ biến, không được kiểm

soát đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, đời sống của VĐV, HLV mà còn

tác động tiêu cực đến sự phát triển của ngành thể thao./.

69

Tiểu kết Chƣơng 2

Bên cạnh những thành tích đã đạt được về công tác tham mưu trên các

lĩnh vực hoạt động thể dục thể thao nói chung, thể thao thành tích cao nói riêng

tại các đơn vị, địa phương, các hoạt động thể thao do Bộ Công an, Bộ Văn hóa –

Thể thao và Du lịch tổ chức. Thể thao thành tích cao của lực lượng Công an

nhân dân trong những năm qua thực sự khởi sắc và đã thu được những thành tựu

rất đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào bảng Vàng thành tích của thể thao

Việt Nam trên đấu trường trong nước, khu vực và thế giới.

Trong bối cảnh khó khăn về kinh tế,xã hội,sự sáp nhập Nghành chưa hoàn

chỉnh, đội ngũ HLV thiếu, hệ thống cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu hoặc

phải đi thuê,… đã có ảnh hưởng nhất định tới công tác thể thao thành tích cao.

Ngoài ra, các chế độ chính sách còn nhiều hạn chế, chưa thực sự lôi cuốn huấn

luyện viên, vận động viên giỏi yên tâm hết lòng cống hiến cho sự nghiệp thể

thao, cuộc sống của họ còn bỏ ngỏ khi kết thúc đời vận động viên. Đây là những

hạn chế, những trăn trở của công tác QLNN về thể dục thể thao nói chung, thể

thao thành tích cao nói riêng và những người làm quản lý thể thao thành tíchcao

trong lực lượng Công an nhân dân. Việc xác định rõ nguyên nhân của những hạn

chế, bất cập này, sẽ góp phần quan trọng đề xuất những giải pháp khắc phục, đưa

thể thao Công an nhân dân ngày càng tiến xa hơn, cao hơn, nâng cao thành tích

thi đấu trong thể thao đỉnh cao. Bởi chỉ có HLV giỏi, nhiệt tình, VĐV có tài

năng và có bản lĩnh mới có thể chiến thắng. Chiến thắng chỉ dành cho những

người dũng cảm, vượt qua chính mình, vượt qua đối thủ và mọi khó khăn.

Bên cạnh đó, cần rút ra các bài học kinh nghiệm ở một vài môn, một

vài người làm thể thao mà quá chú trọng đến lợi ích kinh tế cá nhân, ích kỷ,

bè nhóm cục bộ, hoặc nói giỏi hơn làm. Thể thao nước nhà nên có sự đoàn

kết, gắn bó, có ý thức danh dự, niềm tự hào dân tộc, ý chí, nghị lực vươn lên

và sự quan tâm của nhà nước, của nhân dân thì nhất định sẽ còn vươn cao,

vươn xa hơn nữa./.

70

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƢỚC VỀ THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO TRONG

LỰC LƢỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN

3.1. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ

3.1.1. Phương hướng

* Tổng cục Chính trị CAND và Tổng cục Thể dục thể thao giúp lãnh

đạo Bộ Công an và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện Chương trình

phối hợp về quản lý, chỉ đạo hoạt động thể dục, thể thao trong lực lượng Công

an nhân dân giai đoạn 2016 – 2020. Coi công tác thể dục, thể thao trong lực

lượng CAND là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp thể dục thể thao của

đất nước nhằm tăng cường sức khỏe, thể chất cho cán bộ, chiến sỹ Công an

nhân dân, phát huy nguồn lực con người để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Về thể thao thành tích cao

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quan tâm, giúp đỡ thể thao thành tích

cao của lực lượng Công an nhân dân trong công tác tuyển chọn và đào tạo

VĐV. Tạo điều kiện cho các HLV, VĐV có đủ tiêu chuẩn được triệu tập vào

các đội tuyển thể thao Quốc gia, tham dự các hoạt động thể thao khu vực,

châu lục và thế giới. Được khám, chữa bệnh, phục hồi chấn thương tại Bệnh

viện thể thao Việt Nam (kinh phí do Bộ Công an chi).

- Về nghiên cứu khoa học thể dục thể thao

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà

nước về thể dục thể thao của Bộ Công an tiếp cận kết quả nghiên cứu đề tài

khoa học về các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc tổ chức, quản lý, cơ chế

hoạt động của thể dục thể thao; tiếp thu nghiên cứu, ứng dụng khoa học –

công nghệ phục vụ tiêu chuẩn rèn luyện thể lực cho các đối tượng trong lực

lượng Công an nhân dân.

71

- Về cơ sở vật chất

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các Sở, ngành thể thao, quan

tâm giúp đỡ Công an các đơn vị, địa phương cùng cấp hưởng ưu đãi về cơ sở

vật chất khi sử dụng các hạng mục, công trình thể thao để phục vụ các hoạt

động thể dục thể thao do Công an tỉnh hoặc Bộ Công an tổ chức. Cơ quan

chuyên môn thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia tư vấn cho các

đơn vị Công an trong việc xây dựng các công trình thể dục, thể thao đúng tiêu

chuẩn, kỹ thuật phục vụ thi đấu thể thao có hiệu quả.

- Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể dục thể thao

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác

quản lý thể dục thể thao, huấn luyện viên, vận động viên, trọng tài trong Công

an nhân dân được dự các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức; được tham gia trong thành phần Đoàn cán

bộ thể dục, thể thao đi thăm quan, học tập tại nước ngoài để nâng cao trình độ

và giao lưu quốc tế.

* Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND tiếp tục thực hiện Chỉ thị số

05/CT-BCA của Bộ Công an về tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh;

* Quán triệt Chỉ thị số 02/CT-BCA của Bộ Công an về đổi mới, nâng

cao hiệu quả công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng CAND giai đoạn

2016 – 2020, theo đó, tập trung phát triển các môn thể thao ứng dụng: chạy,

bơi, bắn súng, võ thuật để nâng cao thể lực, tăng cường bản lĩnh của CBCS

trong lực lượng CAND, đặc biệt là các đơn vị trực tiếp chiến đấu;

Tiếp tục phối hợp với Phòng 5, Phòng 6 – X15 phát triển những môn thể

thao có tính ứng dụng chiến đấu; nghiên cứu ứng dụng môn Võ thuật phức hợp

của Liên Bang Nga để xây dựng, phát triển sâu rộng môn Võ thuật ứng dụng

CAND vào công tác huấn luyện nâng cao thể lực và Võ thuật cho một số đơn

72

vị trực tiếp tham gia chiến đấu của Bộ Công an; Tổ chức tập huấn đội tuyển Võ

phức hợp CAND tham dự các giải Vô địch Võ thuật phức hợp quốc tế;

* Tổ chức quản lý cơ sở vật chất phục vụ nhiệm vụ chính trị của

Ngành; phối hợp với các đơn vị Công an địa phương tổ chức các hoạt động

thể thao, thể thao ứng dụng nghiệp vụ, tập huấn võ thuật, bắn súng, điều lệnh

CAND. Tổ chức và phối hợp khai thác cơ sở vật chất có hiệu quả đảm bảo

quy định của Nhà nước và của Ngành Công an.

* Tiếp tục xây dựng lực lượng VĐV tham gia các giải thi đấu quốc gia

và quốc tế để đóng góp lực lượng VĐV đối với quốc gia thi đấu SEA Games

29 năm 2017 và Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc lần thứ VIII năm 2018;

phấn đấu giữ vững vị trí nằm trong 10 đơn vị dẫn đầu toàn quốc.

3.1.2. Nhiệm vụ

Theo định hướng chung của Bộ Công an, Trung tâm HL & TĐ thể thao

CAND không chỉ có nhiệm vụ đào tạo VĐV thể thao thành tích cao, mà còn

là trung tâm huấn luyện đối với thể thao ứng dụng chiến đấu, phục vụ đắc lực

các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai

công việc song song như vậy để đáp ứng nhiệm vụ lấy thành quả thể thao

thành tích cao phát triển thể chất, kỹ năng vận động hay nói một cách cụ thể

là tập trung vào các môn chạy, bơi, bắn, võ để làm sao nâng cao sức chiến đấu

cho lực lượng Công an nhân dân trước mỗi nhiệm vụ chính trị quan trọng. Và

như thế, việc nâng cao sức chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ không thể tách rời

với thể thao thành tích cao. Những VĐV giỏi từng có thành tích tốt trở thành

HLV thì ngoài giờ huấn luyện, các HLV này đều có sự nghiên cứu ra các bài

tập dành cho các lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu của ngành Công an.

- Đổi mới cơ chế, tổ chức và nội dung tuyển chọn và đào tạo tài năng

thể thao thành tích cao theo định hướng chuyên nghiệp. Tăng cường nguồn

nhân lực có trình độ chuyên môn cao cho công tác đào tạo tài năng thể thao

thành tích cao

73

Đẩy mạnh công tác đào tạo, huấn luyện vận động viên thể thao thành

tích cao tham dự các kỳ Đại hội thể thao Olympic 2020; ASIAD 2019; Đại

hội thể thao Olympic trẻ 2018; Đại hội thể thao Đông Nam Á 2017, 2019

Tăng cường giáo dục đạo đức thể thao đối với vận động viên thể thao

thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp

- Ưu tiên đầu tư cho các môn thể thao, vận động viên thể thao trọng điểm.

- Tiến hành chuẩn hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ thi

đấu thể thao quốc gia và quốc tế, tập huấn đội tuyển, đội tuyển trẻ quốc gia,

đào tạo vận động viên cấp cao, vận động viên trẻ và ngành

- Ưu tiên ứng dụng nghiên cứu khoa học, y học thể thao cho công tác

huấn luyện, ứng dụng công nghệ cao trong công tác huấn luyện kỹ thuật, tăng

cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu về vận động viên

thể thao thành tích cao và vận động viên trẻ kế cận

Tăng cường năng lực chữa trị chấn thương và phòng chống Doping;

thực hiện giám định khoa học đối với quá trình huấn luyện 40 – 50 vận động

viên trọng điểm loại 1

Ban hành chế độ dinh dưỡng và áp dụng biện pháp hồi phục sức khỏe

đối với 50 – 60 vận động viên trọng điểm

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thông tin, khoa học, công nghệ và huấn

luyện thể thao đối với các môn thể thao trọng điểm

- Củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

Bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống chính sách đãi ngộ đối với vận động viên

thể thao thành tích cao, các vận động viên trọng điểm loại 1 (lương, thưởng,

bảo hiểm, các danh hiệu vinh dự, chế độ ưu đãi về học tập, việc làm, chữa trị

chấn thương và bệnh tật trong và sau quá trình tập luyện, thi đấu, đào tạo và

chuyển đổi nghề nghiệp…)

Ban hành các quy định về việc chuyển giao một số hoạt động sự nghiệp

về thể thao thành tích cao cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thể thao,

74

khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia hỗ trợ các hoạt động đào tạo, huấn

luyện và thi đấu

3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nƣớc

Thể thao thành tích cao được coi là xương sống nền thể thao của bất kỳ

quốc gia nào. Với Việt Nam, nhắc đến điều này, đồng thời phải nhắc đến

thành tích thi đấu ở các đấu trường Olympic, ASIAD và sân chơi SEA

Games. Tuy nhiên, dù đã có nhiều thay đổi về định hướng phát triển thể thao

nước nhà với một chiến lược lâu dài, nhưng những gì Việt Nam đã và đang

đạt được trong việc nâng tầm thể thao thành tích cao vẫn gần như chưa có gì

nổi bật. Thể thao thành tích cao của Việt Nam cần có sự thay đổi tích cực hơn

thay vì những thành tích chỉ để cho “oai”, nhằm đáp ứng nhất thời kỳ vọng ở

người hâm mộ (nhiều khi là kỳ vọng một cách duy ý chí). Ở phương diện

quản lý nhà nước, có thể thấy những tồn tại, yếu kém trong phát triển thể thao

thành tích cao chính là hậu quả của chiến lược “đi tắt đón đầu” với mục tiêu

có thành tích ở khu vực Đông Nam Á, xong lại chậm trễ xây dựng lộ trình đầu

tư bài bản, trọng điểm cho các môn thể thao trong chương trình Olympic và

ASIAD suốt thời gian qua. Mục tiêu lớn nhất của ngành thể thao hiện nay là

đưa thể thao thành tích cao Việt Nam bước sang khỏi “lằn ranh” của thành

tích “ao làng”, tập trung hướng tới mục tiêu xa hơn mà điều này đòi hỏi nhanh

chóng có sự thay đổi cần thiết và kịp thời, nhất là về QLNN đối với thể dục

thể thao nói chung và thể thao thành tích cao nói riêng.

Chính vì vậy, để tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về thể thao thành

tích cao cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:

3.2.1. Tiếp tục rà soát, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành,

đóng góp sửa đổi Luật Thể dục, thể thao

Luật Thể dục, thể thao được Quốc hội khóa XI chính thức thông qua tại

kỳ họp thứ 10 ngày 29/11/2006 là văn bản pháp lý quan trọng đối với công

75

tác quản lý TDTT trong thời kỳ đổi mới, tạo hành lang pháp lý cho TDTT

Việt Nam phát triển đúng định hướng.

Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện, có thể khẳng định rằng Luật

TDTT đã tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp,

các ngành và trong toàn xã hội về vai trò của TDTT đối với đời sống xã hội,

với sức khỏe nhân dân, góp phần quan trọng vào tăng cường hợp tác và giao

lưu quốc tế. Các quy định của Luật TDTT đã từng bước đi vào cuộc sống làm

thay đổi căn bản diện mạo của hoạt động TDTT đất nước. Tuy nhiên, bên

cạnh những mặt đạt được vẫn còn tồn tại một số bất cập. Những bất cập này

làm cho thành tích thể thao Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng và thiếu

tính ổn định, đặc biệt là các môn thể thao trong chương trình Olympic. Số

lượng VĐV có trình độ cao còn mỏng, trong một số giai đoạn đã xảy ra tình

trạng thiếu hụt lực lượng kế cận ở một số môn; thứ hạng thành tích đạt được

tại đấu trường châu lục và thế giới còn khiêm tốn, không ổn định. Nhằm phát

triển thể thao thành tích cao trong thời gian tiếp theo, cần phải có những giải

pháp bằng Luật hóa:

Thứ nhất, đề nghị Quốc hội sớm sửa đổi, bổ sung Luật TDTT. Trong

đó giải quyết những bất cập đã nêu; trong đó chú trọng xã hội hóa thể thao

thành tích cao phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa; phát triển thể thao thành tích cao theo hướng chuyên nghiệp. Tăng

cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực TDTT nói

chung và thể thao thành tích cao nói riêng, nhất là trong việc xây dựng quy

hoạch, đảm bảo đất đai, cơ sở vật chất cho TDTT; việc phân bổ và sử dụng

kinh phí dành cho sự nghiệp TDTT tại các Bộ, ngành, địa phương

Ngày 29/7/2016, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 22/2016/QH14

về điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2016 và Chương

trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2017, theo đó dự án Luật sửa đổi, bổ

76

sung một số điều của Luật TDTT là 1 trong 6 dự án Luật sẽ trình Quốc hội

cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4 cuối năm 2017. [14; Tr. 15]

Hiện nay, Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật TDTT đã tích cực triển khai công tác xây dựng, chuẩn bị nội

dung dự thảo Luật trên cơ sở một số quan điểm chỉ đạo cơ bản như: Thể chế

hóa đường lối, chủ trương của Đảng về TDTT theo tinh thần Nghị quyết Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ 12, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 1/12/2011 của

Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh

mẽ về TDTT đến năm 2020 và cụ thể hóa một số nội dung Hiến pháp 2013;

Sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan nhằm khắc phục các vướng mắc, bất

cập trong quá trình hơn 10 năm triển khai, thực hiện Luật TDTT hiện hành;

Bảo đảm sự thống nhất pháp luật Việt Nam cũng như các Điều ước quốc tế có

liên quan mà Việt Nam là thành viên, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy

TDTT nước ta phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới; một số nội dung mà

thực tiễn đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong khi Luật chưa có quy định như:

Về thi đấu thể thao thành tích cao và thẩm quyền tổ chức các giải thể thao

thành tích cao; thẩm quyền ban hành và áp dụng luật thi đấu thể thao; thẩm

quyền ban hành điều lệ giải thể thao thành tích cao; việc ký kết hợp đồng

chuyển nhượng VĐV thông qua người trung gian (môi giới)…

Thứ hai, đề nghị Chính phủ và các Bộ, Ngành, chức năng rà soát, sửa đổi

Quyết định 32/2011/QĐ-TTg ngày 6/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ “về một

số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao được tập trung tập

huấn và thi đấu” phù hợp với thực tế và có tính ổn định cao. Ban hành các cơ

chế, chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh xã hội hóa thể dục thể thao. Nâng cao

chất lượng công tác tuyển chọn, đào tạo đội ngũ HLV, VĐV, trong đó coi trọng

phẩm chất đạo đức; có chiến lược để tìm kiếm năng khiếu và nuôi dưỡng VĐV

một cách chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu, ứng

77

dụng khoa học, công nghệ vào tuyển chọn, luyện tập, thi đấu của các VĐV,

HLV gắn với nâng cao thành tích thể thao. [13; Tr. 17]

Thứ ba, Tăng tỷ trọng đầu tư cho ngành thể thao thành tích cao, tiếp tục

đầu tư, nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị luyện tập hiện đại đáp

ứng yêu cầu các giải thi đấu của các khu vực và quốc tế. Chú trọng công tác

duy tu, bảo dưỡng thường xuyên các công trình thể thao nhằm đáp ứng yêu

cầu đào tạo VĐV thành tích cao; có chính sách về đất đai, về thuế, đơn giản

hóa thủ tục để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng cơ sở

vật chất, đào tạo, huấn luyện VĐV thể thao thành tích cao

3.2.2. Tăng cường công tác tham mưu trong hoạt động phát triển thể

thao thành tích cao

Công tác tham mưu nói chung, tham mưu trong lực lượng CAND nói

riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của lực lượng

CAND, nhất là trong hoạt động quản lý điều hành của lãnh đạo. Sự quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an và cấp ủy

lãnh đạo, chỉ huy Công an các cấp là điều kiện tiên quyết quyết định chất

lượng, hiệu quả của công tác tham mưu. Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy,

lãnh đạo, chỉ huy nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò công tác tham

mưu, thực sự quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công

tác tham mưu thì ở đó các mặt công tác đạt chất lượng, hiệu quả cao.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu trong hoạt

động phát triển thể thao thành tích cao của Trung tâm HL&TĐ Thể thao

CAND đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nắm vững đường lối,

chủ trương của Đảng, chín sách, pháp luật của nhà nước, có bản lĩnh chính trị

vững vàng, trung thực, nhạy bén, sáng tạo, khách quan; có tinh thần trách

nhiệm cao, tận tụy, tâm huyết với nghề; có khả năng dự báo và chủ động ứng

phó với những biến động trong điều kiện hội nhập quốc tế. Để nâng cao chất

78

lượng công tác tham mưu trong hoạt động thể thao thành tích cao, Trung tâm

HL&TĐ Thể thao CAND cần làm tốt các công tác sau:

- Tiếp tục phối hợp với các đơn vị Công an tổ chức hoạt động tập

luyện, thi đấu thể thao, tập huấn điều lệnh, quân sự, võ thuật và huấn luyện

ứng dụng chiến đấu trong lực lượng CAND đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ

ngành Công an trong thời kỳ mới; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giao lưu thể

thao và công tác phòng chống tội phạm trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là

trong khối ASEAN

- Tham mưu, đề xuất để kiện toàn về tổ chức bộ máy; đề xuất tuyển

dụng hợp đồng lao động đối với cán bộ làm chuyên môn kỹ thuật, đối với

HLV, VĐV đáp ứng yêu cầu đào tạo thể thao thành tích cao và quản lý vận

hành Trung tâm theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tham mưu đề xuất và

thực hiện chính sách đối với công nhân viên, HLV, hợp đồng lao động theo

quy định của nhà nước và Bộ Công an

- Xây dựng kế hoạch mở lớp võ thuật do chuyên gia Liên bang Nga

giảng dạy; phối hợp với các trường Công an, Trung tâm huấn luyện của Công

an các đơn vị, địa phương và các Sở Phòng cháy chữa cháy mở các lớp tập

huấn bơi, cứu hộ cứu nạn, cứu đuối,…; tiếp tục phối hợp với Phòng Thể dục

thể thao X15 phát triển các môn thể thao có tính ứng dụng cao vào huấn luyện

nâng cao thể lực, sức chiến đấu cho lực lượng CAND; tiến hành ký kết hợp

tác với Hiệp hội Thể thao DYNAMO của Liên bang Nga về công tác phát

triển toàn diện về thể dục thể thao trong những năm tiếp theo [27]

- Tham mưu, đề xuất chương trình, kế hoạch đào tạo VĐV; lập dự trù

kinh phí đảm bảo việc thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo VĐV, mua

sắm trang thiết bị đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra (25 môn thể thao);

từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ và trang thiết bị đảm bảo cho công tác y

tế, y sinh phục vụ công tác huấn luyện VĐV thể thao thành tích cao

79

- Phối hợp với các đơn vị chức năng tiếp tục phát triển các môn thể

thao có tính ứng dụng chiến đấu cao vào công tác huấn luyện, nâng cao thể

lực, bản lĩnh cho lực lượng CAND; tiếp tục hợp tác với Hiệp hội Thể thao

DYNAMO của Liên bang Nga về công tác đào tạo VĐV thể thao thành tích

cao, võ thuật ứng dụng

- Tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện hợp tác, liên doanh khai thác

cơ sở vật chất tại Trung tâm, tận thu trong và ngoài giờ hành chính; tổ chức,

quản lý vận hành cơ sở vật chất của Trung tâm, bảo đảm chỗ làm việc, ăn, ở,

sinh hoạt cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, HLV, và VĐV; phối hợp với

các đơn vị chức năng thực hiện kế hoạch duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa cơ sở

vật chất bị xuống cấp, hư hỏng, đảm bảo công tác vận hành bình thường.

- Tiếp tục tổ chức triển khai một số nội dung hợp tác về đào tạo theo

một số chuyên ngành giữa ngành công an với các nước trong khu vực và quốc

tế như: Hàn Quốc, Liên bang Nga… tổ chức tập huấn cho một số môn thể

thao mũi nhọn tại: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên bang Nga…

3.2.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách thỏa đáng đối

với cán bộ, công chức hoạt động trong lĩnh vực thể thao thành tích cao

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước nói chung, chính sách về phát triển thể thao thành tích cao nói riêng dù

có đúng đắn đến đâu, khả năng hiện thực hóa chúng suy cho cùng phụ thuộc

trước hết vào những con người cụ thể. Trong đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý vừa là người xây dựng, vừa là người tổ chức, triển khai thực hiện

những nội dung cụ thể trong phát triển thể thao thành tích cao. Nếu cán bộ

lãnh đạo, quản lý là người có tri thức, am hiểu điều kiện thực tiễn, có tâm, yêu

nghề, sáng tạo trong công tác thì khả năng triển khai, thực hiện các chương

trình, kế hoạch về thể thao thành tích cao sẽ thành công và đạt kết quả cao

hơn, và ngược lại.

80

Để xây dựng đội ngũ cán bộ công chức vừa có tâm – tài – tầm đáp ứng

yêu cầu quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an

nhân dân cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau:

- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ

đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho thể thao thành tích cao, đồng thời chỉ đạo các

tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp thể thao. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực luôn luôn gắn

kết không thể tách rời với chính sách sử dụng cán bộ, lao động hợp lý, đãi ngộ

và trả công xứng đáng cho từng vị trí công việc được đảm trách. Đây là một

trong những giải pháp quan trọng giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng làm

việc cho đội ngũ này. Đãi ngộ tốt thì không chỉ hấp dẫn được những cán bộ có

trình độ, chuyên môn giỏi mà còn giữ gìn được phẩm chất tốt đẹp của người

cán bộ, ngăn ngừa được tình trạng tham ô, cửa quyền, nhũng nhiễu trong hoạt

động thể thao.

- Đào tạo được nguồn nhân lực cho thể thao thành tích cao có chất

lượng trước hết phải đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ, giảng viên có

trình độ cao thuộc nhiều lĩnh vực làm nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo tại các cơ

sở đào tạo, nghiên cứu trọng điểm của nhà nước, nơi đào tạo ra đội ngũ cán

bộ quản lý, huấn luyện viên, giáo viên, bác sĩ thể thao có trình độ chuyên môn

giỏi. Nhà nước ban hành chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút các nhà

khoa học đầu ngành về làm việc tại các cơ sở đào tạo này.

- Thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho thể thao

thành tích cao, các cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao nói chung,

thể thao thành tích cao nói riêng ở trung ương có trách nhiệm phối hợp với

các Bộ ngành, giúp Chính phủ xây dựng, quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào

tạo cán bộ, huấn luyện viên, giáo viên trong cả nước. Thống nhất chương

trình khung đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về thể thao ở các

cấp độ khác nhau đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động.

81

- Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo

ngoài công lập đào tạo nhân lực cho thể thao trên cơ sở thực hiện quy hoạch

chung thống nhất.

- Liên doanh, liên kết với các cơ sở đào tạo cán bộ thể thao nước ngoài

để hợp tác đào tạo cán bộ khoa học nhất là ở các lĩnh vực mà Việt Nam còn

thiếu hoặc còn yếu.

3.2.4. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách khen thưởng, đãi

ngộ đối với vận động viên, huấn luyện viên trong thể thao thành tích cao

Thể thao thành tích cao là cơ sở để Trung Quốc trở thành cường quốc

thể thao thế giới, là biểu hiện tổng hợp về sức mạnh dân tộc Trung Hoa, là

lĩnh vực được ưu tiên hiện nay của Trung Quốc với “cử quốc thể chế” (tức là

hưởng chế độ đãi ngộ, đầu tư của nhà nước). Trung Quốc xác định nhiệm vụ

tương lai của thể thao thành tích cao là: Tiếp tục duy trì ưu thế hàng đầu của

thể thao Olympic, hoàn thiện cơ chế đào tạo, phát triển, bảo hộ nguồn nhân

lực thể thao thành tích cao lấy vận động viên làm hạt nhân trung tâm. Coi

trọng chế độ đãi ngộ, khen thưởng, tạo động lực thúc đẩy tinh thần quyết đấu

của VĐV, giành thành tích cao trong thể thao.

Công tác tuyển chọn và huấn luyện vận động viên là cả một quá trình

tìm kiếm và sàng lọc để chọn ra những VĐV có khả năng đạt thành tích cao.

Quá trình này được tiến hành thường xuyên từ khâu tuyển chọn ban đầu đến

suốt quá trình đào tạo, nên đòi hỏi người làm HLV phải tâm huyết với nghề,

có con mắt nhìn người, có khả năng phát hiện ra những VĐV có năng khiếu,

đủ tư chất, thể chất, đáp ứng được các yêu cầu chuyên môn trong thi đấu của

thể thao thành tích cao. Để đào tạo nên những VĐV có thành tích cao, người

làm công tác huấn luyện phải có khả năng truyền tải được các kỹ năng từ đơn

giản đến phức tạp, để từ các kỹ năng đó chuyển thành các kỹ xảo với đầy đủ

các yếu tố về thể lực chung, thể lực chuyên môn. Bên cạnh đó, người HLV

cũng cần phải có kỹ thuật, chiến thuật thi đấu bài bản, thể hiện sự phân lượng

82

vận động cùng với sự phân phối sức lực cho phù hợp để tiết kiệm được năng

lượng và đảm bảo thành tích tốt nhất.

Trên thực tế, đào tạo VĐV thành tích cao phải mất khá nhiều thời gian,

có những bộ môn phải tuyển chọn và đào tạo từ lúc còn nhỏ, đến khi trưởng

thành các em có sự thay đổi về tâm sinh lý, thể chất, kéo theo sự khác biệt về

động tác, thể lực. Nên ngoài những điều trên, HLV còn phải nắm bắt được cả

về tâm lý giáo dục, tâm lý lứa tuổi, tâm lý giới tính để từ đó có những điều

chỉnh sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi. Trong

công tác huấn luyện thể thao thành tích cao thì hoạt động thi đấu cuối cùng là

quan trọng nhất, vì đó là khâu đánh giá chất lượng của toàn bộ quá trình tuyển

chọn, đào tạo và huấn luyện VĐV. Như vậy, muốn đạt được kết quả cao nhất

thì VĐV phải thường xuyên rèn luyện bản thân từ thấp đến cao, phải thông qua

thi đấu thường xuyên củng cố, nâng cao các kỹ năng, kỹ xảo để khi vào thi đấu

chính thức không còn bỡ ngỡ, vượt qua được rào cản tâm lý để đạt được kết

quản cao nhất. Đây là giai đoạn rất khó trong công tác huấn luyện vì khi VĐV

tập luyện đến một ngưỡng nhất định sẽ dừng lại, khi đó HLV phải là người

điều chỉnh lượng vận động, tạo ra ngưỡng vận động mới để VĐV phá được rào

cản về thành tích và đạt đến một ngưỡng mới thì thành công trong thi đấu sẽ

ngày càng cao hơn. Công việc này yêu cầu các HLV cần phải nghiên cứu, tìm

tòi, áp dụng các điều kiện khoa học, các kỹ thuật tiên tiến một cách linh hoạt và

sáng tạo vào trong huấn luyện để VĐV đạt được kết quả cao nhất.

Với sự nỗ lực, không quản ngại khó khăn, hy sinh vì “màu cờ sắc áo”

như vậy, phần thưởng xứng đáng cho các VĐV, HLV không chỉ đơn thuần là

tấm huy chương cao quý mang vinh dự về cho Tổ quốc, cho nhân dân. Mà

còn cần sự quan tâm hơn nữa của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý thể thao,

thông qua chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng.

Bên cạnh đó, thể thao thành tích cao là loại hình “cân bằng sinh thái”, một

bộ phận vận động viên vì lớn tuổi hay vì lý do nào đó thôi nghề, phải có vận

83

động viên hậu bị bù vào, tức là luôn phải duy trì trạng thái cân bằng động. Trạng

thái cân bằng này bao gồm 3 bộ phận: bồi dưỡng nhân tài hậu bị; vận động viên

đang huấn luyện và thi đấu; vận động viên thôi nghề. Trong đó, bộ phận vận

động viên thôi nghề cần được tiếp tục giáo dục, tìm nghề mới, hưởng các chính

sách ưu đãi của nhà nước và xã hội để đảm bảo cuộc sống. Đây là vấn đề khó

khăn nhưng rất cần thiết để đảm bảo tính nhân văn của thể thao thành tích cao,

giữ vững tinh thần và ý chí của đội ngũ vận động viên tham gia huấn luyện và thi

đấu; đảm bảo chính sách đối với nhân tài đã từng cống hiến cho quốc gia, cho xã

hội, đồng thời tạo nguồn nhân lực mới cho thể thao thành tích cao (các huấn

luyện viên, nhà quản lý thể thao thành tích cao…).

Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội về thể dục, thể thao của

nhiều quốc gia đều quan tâm giải quyết vấn đề vận động viên thôi nghề. Còn

đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, thường giải quyết

rất bị động vấn đề này, vấn đề hướng nghiệp lần thứ 2 cho vận động viên thôi

nghề ít được quan tâm hơn. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, có thể

áp dụng các biện pháp sau đây để giải quyết vấn đề vận động viên thôi nghề,

đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường:

- Phát huy tác dụng của nhà nước và tổ chức xã hội để thực hiện phương

châm, nguyên tắc, chính sách sớm hướng nghiệp thứ hai cho vận động viên,

ngoài nghề vận động viên. Ở đây có nhiều việc cần nghiên cứu như: tăng cường

chất lượng tuyển chọn vận động viên để giảm bớt tỷ lệ đào thải; tăng cường

chăm sóc sức khỏe vận động viên để giảm bớt tỷ lệ bệnh tật, thương tật phải đào

thải; tăng cường cơ hội quảng cáo vận động viên để hộ tham gia thị trường nhân

tài mới; có chính sách sắp xếp hợp lý và hỗ trợ vận động viên học văn hóa, học

nghề mới ngay trong quá trình huấn luyện và thi đấu…

- Tiếp tục giáo dục, động viên tư tưởng đối với những vận động viên

thôi nghề, chuyển sang nghề mới

84

- Giáo dục thể thao thành tích cao kết hợp thường xuyên với giáo dục

văn hóa, giáo dục nghề mới ngoài nghề vận động viên. Vừa huấn luyện, vừa

thi đấu, vừa học tập nghề nghiệp khác ngoài nghề vận động viên là thói quyen

mà các vận động viên cấp cao, đặc biệt ở các nước phương tây hướng đến

- Tăng cường bảo hiểm nhân tài thể thao cũng là một biện pháp được

thực hiện nhiều ở các quốc gia thông qua các công ty bảo hiểm

- Đảm bảo nguồn kinh phí của nhà nước và xã hội giải quyết các vấn đề

vận động viên thôi nghề:

+ Nguồn tài chính bảo hiểm đối với vận động viên ưu tú các cấp

+ Trích nguồn tài chính từ đặt cược hoặc xổ số thể thao

+ Trích nguồn tài chính từ dịch vụ truyền hình và quảng cáo

+ Trích từ tiền thưởng các loại của vận động viên đưa vào quỹ

+ Trích cơ cấu bảo hiểm thương tật để làm vốn

+ Vốn từ lãi suất bảo hiểm các loại…

3.2.5. Tăng cường quản lý hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật, nghiên

cứu ứng dụng khoa học - công nghệ trong lĩnh vực hoạt động thể thao

thành tích cao

3.2.5.1. Quản lý hiệu quả cơ sở vật chất – kỹ thuật

Quản lý và sử dụng hiệu quả các cơ sở vật chất, kỹ thuật là điều kiện để

nâng cao chất lượng hoạt động và thành tích thi đấu của thể thao thành tích

cao. Bên cạnh đó, việc sử dụng hiệu quả các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn góp

phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, nâng cao tuổi thọ của các công

trình và kéo dài thời gian sử dụng của các trang thiết bị, dụng cụ tập luyện,

một việc làm đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước

nói chung, của ngân sách chi cho thể thao CAND nói riêng còn gặp nhiều khó

khăn như hiện nay.

Các cấp quản lý cần đặc biệt quan tâm tới việc tạo ra những cơ sở vật

chất – kỹ thuật cần thiết cho hoạt động thể thao, đáp ứng nhu cầu tập luyện

85

thể thao của VĐV, HLV. Để làm tốt được điều này đỏi hỏi phải có sự phối

hợp đồng bộ giữa các bộ phận chức năng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch; Bộ Công an và Bộ Xây dựng để đưa ra những tiêu chuẩn và quy định rõ

ràng. Khi xây dựng các công trình thể thao phải có định hướng sử dụng lâu

dài chứ không chỉ nhằm phục vụ mục tiêu trước mắt. Các công trình và cơ sở

vật chất – kỹ thuật thể thao phải phù hợp với các quy định trong điều luật thi

đấu thể thao của các môn thể thao, nếu không chú ý đến điều này sẽ không thể

đảm bảo sử dụng được công trình một cách hiệu quả. Ví dụ: Xây dựng một bể

bơi trong nhà rất hiện đại nhưng kích thước lại không đúng theo quy địn của

các điều luật thì sẽ không thể sử dụng được để tổ chức các giải bơi quốc tế.

Trong quá trình xây dựng và sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật thể thao

phải tận dụng triệt để sự hợp tác và hỗ trợ về chuyên môn của các kiến trúc

sư, và các chuyên gia trong các doanh nghiệp. Cần quan tâm đào tạo, bồi

dưỡng và chuyển giao công nghệ cho những nhà quản lý, huấn luyện viên,

vận động viên,… để họ có thể sử dụng hiệu quả các cơ sở vật chất – kỹ thuật

và trang thiết bị tập luyện hiện đại.

Để có thể quản lý hiệu quả các cơ sở vật chất – kỹ thuật thể thao, ngoài

nhũng yêu cầu trên cần phải có những quy định cụ thể như quy chế, nội quy

sử dụng và quy trình kiểm tra, bảo dưỡng, tu sửa…

“Kết hợp tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại và truyền thống dân tộc

trong xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật thể thao” [31; Tr. 278].

Việc ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào trong mở rộng và phát

triển cơ sở cơ sở vật chất – kỹ thuật có vai trò và ý nghĩa rất lớn:

- Sử dụng các vật liệu mới do khoa học công nghệ tạo ra để xây dựng

và trang bị cho các công trình thể thao là cơ hội để giới thiệu và ứng dụng sản

phẩm vào trong đời sống. Ví dụ khi chất Polyctan được sáng chế thì có thể

dùng nó làm đệm tập luyện và thi đấu thể thao cho rất nhiều môn do khả năng

86

chịu đựng mọi biến đổi của thời tiết, đồng thời độ bền sử dụng lại cao và đảm

bảo vệ sinh khi tập luyện…

- Nhờ có các hệ thống phương tiện chiếu sáng, âm thanh hiện đại mà ta

có thể tạo ra được những phòng tập, khu tập gần giống với điều kiện tự nhiên

mà lại không gây ra những ảnh hưởng tác động tiêu cực đến các khu vực lân

cận hoặc đến khán giả.

- Việc ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật “tiết kiệm nhiệt

lượng” như bơm nhiệt đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tháo và bơm nước

vào các bể bơi trong nhà…

3.2.5.2. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực thể

thao thành tích cao

Quản lý nhà nước về khoa học – công nghệ cần phải đổi mới cho kịp

với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Cần xây dựng một cơ chế, hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật, phân công, phân cấp để điều phối hoạt động

quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ;

Cơ chế, chính sách tài chính cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học –

công nghệ cần được đổi mới theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho khoa học và

công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước và đa dạng hóa nguồn đầu tư

phát triển khoa học, công nghệ;

Việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa

học – công nghệ phải thực sự xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển thể thao nói

chung, thành tích cao nói riêng. Phải phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của

các ngành, các cấp trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ.

Người Mỹ đứng đầu về nghiên cứu phát triển, tự làm và sử dụng khí tài

– công nghệ bổ trợ huấn luyện thể thao. Một khí tài đơn giản như dây, bóng

đặc, tạ đòn, tạ tay,… đều được người Mỹ biên soạn tài liệu thành hàng trăm

bài tập dùng cho từng môn thể thao. Một sự sáng tạo hiếm có trên thế giới để

tận dụng hết tính năng của các khí tài bổ trợ đơn giản.

87

Một loại thiết bị công nghệ có thể dùng cho nhiều môn thể thao như thiết

bị giảm tải huấn luyện chạy, hệ thống giám định huấn luyện GPS dùng vệ tinh

định vị toàn cầu, bể nước nhiều loại huấn luyện kháng trở, rất nhiều loại thiết bị

tổng hợp khác được thiết kế, tự làm và sử dụng để huấn luyện, đặc biệt huấn

luyện sức mạnh. Nhiều calaloge, tài liệu hướng dẫn, tư liệu hình ảnh đồng hành

cùng các khí tài – công nghệ bổ trợ huấn luyện. Đây là vấn đề đặc biệt quan

trọng để nâng cao chất lượng huấn luyện thể thao thành tích cao.

Thực phẩm dinh dưỡng và hồi phục nên được đặc biệt chú trọng trong

huấn luyện thể thao thành tích cao:

- Cung cấp dinh dưỡng đầy đủ cho vận động viên từng nhóm môn thể thao

- Đảm bảo hệ thống vật chất bổ trợ: sinh cơ (giầy, trang phục nhẹ,…;

bổ sung dinh dưỡng (đạm, vitamin, vi khoáng,…); thuốc; sinh lý (kỹ thuật

phục hồi, huyết dịch); tâm lý (phục hồi tâm lý, đảm bảo giấc ngủ,..)

- Đảm bảo cung cấp thích hợp các loại kích tố không bị cấm và được

phép của bác sĩ cho sử dụng (androstennedione, DHEA, HGH, EPO sản xuất

nhờ kỹ thuật DNA, EAA, PC,…)

3.2.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế về thể thao thành tích cao

3.2.6.1. Xã hội hóa hoạt động thể thao thành tích cao

Nghị quyết số 05/2005/NQ của Chính phủ ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh

xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao tiếp tục

khẳng định xã hội hóa nhằm: “phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong

nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, y tế, văn

hóa, thể dục thể thao”. Các nội dung hoạt động chủ yếu gồm: Nhà nước đổi

mới cơ chế chính sách, đổi mới phương thức cơ cấu đầu tư; Chuyển các cơ sở

công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính

bao cấp sang cơ chế tự chủ; Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập với hai

loại hình dân lập và tư nhân; Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra.

88

Hoạt động thể thao là hoạt động mang tính xã hội, vì vậy, điều kiện

thuận lợi nhất để phát triển nó là xã hội hóa thể thao, tức là nó phải được toàn

xã hội quan tâm, đầu tư về người, của và ngay từ đầu nó phải được xã hội

công nhận về ý nghĩa, lợi ích của nó với xã hội. Muốn việc xã hội hóa thể dục

thể thao nói chung, thể thao thành tích cao nói riêng được thực hiện và triển

khai thực hiện một cách đầy đủ, đúng theo tinh thần của “Đề án xã hội hóa thể

dục thể thao” được Chính phủ thông qua thì sự đóng góp của các nguồn tài trợ

cho thể dục thể thao là một công việc hết sức quan trọng. Cần phải hiểu rõ

rằng, xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, giảm

bớt ngân sách nhà nước; trái lại, nhà nước thường xuyên tìm kiếm thêm các

nguồn thu để tăng thêm ngân sách chi cho các hoạt động này, đồng thời quản

lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí đó.

Xã hội hóa thể dục thể thao là một chủ trương lớn của Đảng, nhà nước

nhằm phát huy lợi thế của các nguồn lực xã hội đầu tư cho ngành thể thao nói

chung, thể thao CAND nói riêng. Để xã hội hóa thể thao tốt hơn cần nhận

thức về vị trí, vai trò quan trọng của công tác xã hội hóa thể thao của Thủ

trưởng các cơ quan, lãnh đạo các đơn vị để làm tốt hơn công tác xã hội hóa

thể thao CAND. Tăng thêm nguồn lực, cơ sở vật chất phục vụ tốt hơn công

tác thể thao nói chung, thể thao thành tích cao nói riêng trong lực lượng

CAND. Phối hợp với các Bộ, Ngành, các đơn vị liên quan xây dựng, khắc

phục khó khăn về cơ chế, tháo gỡ một số vấn đề về thủ tục liên doanh, liên kết

với bên ngoài; một số chế độ, chính sách đặc thù; có chính sách thu hút

nguồn lực bên ngoài tham gia vào công tác xã hội hóa thể thao, báo cáo lãnh

đạo Bộ Công an, lãnh đạo Tổng cục Chính trị CAND, Tổng cục thể dục thể

thao xem xét, giải quyết; có chính sách thu hút nguồn nhân lực, khuyến khích

các HLV, VĐV giỏi tham gia xã hội hóa thể thao trong CAND.

Khẳng định thể thao thành tích cao luôn là một trong những lĩnh vực

góp phần quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới nhanh nhất, mạnh nhất

89

nhưng yêu cầu rất cao về kinh phí đầu tư. Tuy nhiên, các quy định về xã hội

hóa hiện nay chưa đủ sức hấp dẫn để nhà đầu tư móc hầu bao chung vai phát

triển thể thao thành tích cao. Nhà nước thiếu các văn bản quy phạm pháp luật

về nghĩa vụ và quyền lợi của tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho thể thao

thành tích cao và hoạt động trong lĩnh vực thể thao thành tích cao. Do đó,

phải thu hút sự đầu tư của tư nhân bằng các chính sách hợp lý, ngoài việc đảm

bảo quyền lợi vật chất, cần tôn vinh những người có nhiều cống hiến trong

lĩnh vực thể thao thành tích cao để họ giữ lửa đam mê. Nhà nước cần ban

hành chính sách, pháp luật ưu đãi nhà đầu tư về thủ tục hành chính, đất đai,

thuế; chính sách ưu đãi đối với VĐV, HLV tài năng; quy định về cá cược thể

thao; tạo điều kiện thuận lợi cho thành lập và hoạt động của các tổ chức xã

hội, nghề nghiệp,… Ngoài ra cần đặc biệt khuyến khích nhà đầu tư vào lĩnh

vực đào tạo VĐV, HLV.

Quản lý nhà nước cần thể chế hóa, ban hành các văn bản pháp quy cụ

thể, tạo ra hành lang pháp lý để phát huy vai trò các tổ chức xã hội về thể dục

thể thao trong việc đẩy mạnh xây dựng mối quan hệ hợp tác với các tổ chức

thể thao quốc tế, xây dựng các mối quan hệ dài hạn, đôi bên cùng có lợi và

tôn trọng lẫn nhau, không làm phương hại đến độc lập, chủ quyền lãnh thổ, an

ninh của mỗi quốc gia,. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội

về thể dục thể thao tham gia trực tiếp vào các tổ chức thể thao quốc tế và thực

hiện tốt vai trò trách nhiệm thành viên, đem lại những thuận lợi để phát triển

thể thao trong nước, quảng bá môn thể thao truyền thống cũng như hình ảnh

Việt Nam trên trường quốc tế.

3.2.6.2. Hợp tác quốc tế về thể thao thành tích cao

Công tác hợp tác quốc tế của thể thao thành tích cao trong lực lượng

CAND phải luôn ghi nhớ trách nhiệm chính của mình là đóng góp giúp thể

thao Việt Nam phát triển đuổi kịp và vượt thành tích thể dục thể thao của nhiều

nước khác trong khu vực, châu lục và trên thế giới mang đầy đủ tính cách dân

90

tộc và hiện đại. Thể thao CAND giao lưu, thi đấu và hội nhập quốc tế không

chỉ mang ý nghĩa chuyên môn về thể thao mà còn nhằm tranh thủ tình cảm, sự

ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thể

thao CAND càng hội nhập quốc tế sâu rộng bao nhiêu thì những VĐV, những

người làm thể thao Việt Nam càng tự hào và yêu tổ quốc mình hơn.

Muốn làm tốt công tác hợp tác quốc tế của Thể thao thành tích cao

CAND trong tương lai thì cần rất nhiều yếu tố đồng bộ kể từ tầm nhìn, tài

lãnh đạo và sự ủng hộ của những người làm công tác lãnh đạo Bộ, ngành

Công an cho đến trình độ chuyên môn của các chuyên viên vụ Hợp tác quốc

tế. Bởi thể thao Việt Nam nói chung, thể thao thành tích cao trong lực lượng

CAND nói riêng hợp tác và hội nhập quốc tế là công tác chung của tất cả các

Liên đoàn, Hiệp hội thể thao, Câu lạc bộ thể thao đỉnh cao cấp quốc gia thuộc

Liên đoàn bóng đá, Liên đoàn bóng chuyền,.. Ngoài ý chí vươn lên của mỗi

người, mỗi bộ môn và toàn ngành phải cố gắng học tập nâng cao trình độ

ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, có thái độ và phương pháp làm việc đúng, làm

việc theo nhóm theo phong cách chuyên nghiệp và hiện đại.

Hoạt động hợp tác quốc tế về thể thao không chỉ góp phần nâng cao

trình độ VĐV, mà còn góp phần nâng cao năng lực tổ chức, điều hành của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, trọng tài, nhân viên y tế,…của Ngành thể dục

thể thao nói chung, ngành Công an nói riêng. Đồng thời, thông qua tổ chức

các sự kiện thể thao, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu hòa bình đã

được quảng bá rộng rãi trên thế giới. Và để làm tốt các vấn đề trên, Thể thao

Việt Nam nói chung, thể thao thành tích cao trong lực lượng CAND nói riêng

cần phải:

- Tích cực chủ động tham gia hội nhập quốc tế về thể thao thành tích

cao theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, đồng thời vẫn chú trọng giữ gìn

bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc; ngăn chặn và loại bỏ những ảnh hưởng

tiêu cực đối với nền thể thao nước nhà;

91

- Củng cố và phát triển đa dạng hơn nữa các nội dung hợp tác với các

quốc gia truyền thống ở Đông Nam Á, Châu Á và quốc tế;

- Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp

vụ của các Bộ, các ngành thể dục thể thao Việt Nam; ngành Công an để đáp

ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và tham gia bộ máy điều hành của các tổ chức

thể thao khu vực, châu lục và thế giới;

- Nghiên cứu, ban hành các văn bản pháp quy, chính sách khuyến khích

các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư, hỗ trợ nguồn lực phát triển

thể thao nước nhà.

3.2.7. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thể thao thành tích cao

Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm

pháp luật là nội dung thường xuyên trong công tác quản lý nhà nước, nhằm

đảm bảo việc thực hiện theo đúng trình tự và quyết định của pháp luật về thể

thao thành tích cao và các văn bản pháp luật có liên quan. Đảm bảo kỷ cương,

trật tự, đảm bảo sự phát triển của thể thao thành tích cao một cách công khai,

minh bạch, dân chủ, cạnh tranh lành mạnh công bằng, bảo đảm quyền lợi cho

người thụ hưởng và cơ sở cung cấp dịch vụ, cũng như tạo được sự đồng thuận

của xã hội.

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn nhằm kịp thời phát

hiện, ngăn chặn những hành vi tiêu cực, móc ngoặc, man trá hồ sơ, gian lận

tuổi, đánh tráo người, lợi dụng để trục lợi và các hành vi vi phạm pháp luật

như hiện tượng cá độ, bán độ, gây hậu quả xấu. Đặc biệt trong lực lượng

Công an nhân dân, hình ảnh được coi là mẫu mực, là lực lượng nòng cốt,

xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã

hội của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời phát hiện,

kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi những quy định, chính sách

không phù hợp.

92

Bên cạnh đó, việc quản lý kinh tế chưa được chặt chẽ, vi phạm nguyên

tắc, thủ tục trong chế độ thu chi tài chính, gây thất thoát tiền và tài sản của

nhà nước. Ở một số đơn vị việc giải quyết khiếu nại chưa tiến hành kịp thời

và dứt điểm từ cơ sở, có trường hợp thiếu tính dân chủ, không đúng nguyên

tắc thủ tục đã làm cho sự việc thêm phức tạp và kéo dài.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý

vi phạm trong thể thao nói chung, thể thao thành tích cao trong lực lượng

CAND nói riêng cần phải:

- Hoàn thiện pháp luật và thường xuyên tuyên truyền phổ biến pháp

luật liên quan đến hoạt động thanh tra, kiểm tra. Việc hoàn thiện pháp luật là

một giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả đối với mọi hoạt động của nhà

nước. Bởi thực tiễn cho thấy, pháp luật không bao giờ đủ để điều chỉnh các

quan hệ xã hội do các quan hệ xã hội rất nhiều, đa dạng, phong phú và luôn

luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, trong quá trình hoạt động và sau mỗi cuộc

thanh tra cụ thể, người có thẩm quyền phải có trách nhiệm xác địn những văn

bản, những quy định pháp luật đã lạc hậu, không còn phù hợp hoặc chồng

chéo, mâu thuẫn để từ đó có những kiến nghị cụ thể đối với cơ quan có thẩm

quyền sửa đổi hoặc bổ sung.

Định kỳ thường xuyên kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của

Đảng, Chính phủ, chế độ chính sách của Nhà nước đối với thể dục thể thao,

các văn bản pháp quy của ngành. Tăng cường kiểm tra thực hiện nhiệm vụ,

chương trình công tác, kế hoạch, chỉ tiêu được giao của đơn vị, nhằm động

viên những mặt làm tốt, kịp thời uốn ắn những thiếu sót, khuyết điểm còn tồn

tại. Đề xuất những chủ trương, giải pháp có kế hoạch thực hiện tốt những

nhiệm vụ được giao.

- Thanh tra trên các hoạt động thể thao thành tích cao trong lực lượng

CAND nhằm ngăn ngừa và xử lý nghiêm túc các hiện tượng tiêu cực như móc

ngoặc, cá độ, mua bán điểm, gian lận hồ sơ, khai man độ tuổi, tráo người

93

trong thi đấu thể thao, lợi dụng móc ngoặc trong tuyển chọn đầu vào,… Xử lý

kịp thời và nghiêm khắc đối với các hành vi phi thể thao, thiếu trung thực

trong các hoạt động thi đấu thể thao thành tích cao.

- Căn cứ vào phân cấp quản lý tài chính của Nhà nước, định kỳ thường

xuyên kiểm tra việc thực hiện Luật ngân sách trong quản lý thu chi ngân sách

và các nguồn tài chính khác của Trung tâm HL & TĐ thể thao CAND, đảm

bảo nguyên tắc chế độ kế toán thống kê;

Trong xây dựng cơ bản, kiểm tra, thanh tra thường xuyên việc thực

hiện Điều lệ, quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phát hiện xử lý kịp thời

những vi phạm, đề xuất và có những giải pháp tích cực chống thất thoát tài

sản, tiền của, chống lãng phí, tham ô, đảm bảo chất lượng công trình.

- Kiểm tra, thanh tra các hoạt động dịch vụ thể dục thể thao đảm bảo

cho các dịch vụ hoạt động đúng mục đích, chống lợi dụng thể dục thể thao

kinh doanh vụ lợi, gây hậu quả xấu đến đạo đức, làm mất đi bản sắc văn hóa

dân tộc; phối hợp với các cơ quan chức năng, kiểm tra, thanh tra việc thực

hiện các chế độ, chính sách và các quy định của nhà nước, của ngành về hoạt

động thể thao thành tích cao.

- Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phổ biến kịp thời

những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước

trong các đối tượng quản lý của ngành. Thực hiện tốt quy chế dân chủ của cơ

quan, đơn vị.

94

KẾT LUẬN

Hoạt động thể thao thành tích cao là loại hình hoạt động đặc thù và

sáng tạo, nơi đó mỗi quá trình và trạng thái tâm lý luôn cuốn hút vào trạng

thái ganh đua thắng cuộc nghiệt ngã. Vì vậy, có thể nói cuộc sống của người

VĐV thể thao thành tích cao là những cuộc hành trình thi đấu liên tục, không

ngừng nghỉ. Trong ba lô hành trang lên đường thi đấu của họ không chỉ có bộ

quần áo thể thao in hình cờ Tổ quốc mà còn ẩn chứa nặng trĩu hoài bão chiến

thắng để đem vinh quang và niềm kiêu hãnh thể thao về cho Tổ quốc và

người hâm mộ.

Để đạt được mục đích trở thành nhà vô địch trên đấu trường khu vực,

châu lục và thế giới, VĐV phải trải nghiệm một cuộc sống lao động nghề

nghiệp thi đấu thể thao với một nghị lực phi thường và đức hy sinh cao cả

“Sinh nghề, tử nghiệp”. Muốn có vị thế cao trong đua tài vận động thể lực,

VĐV thể thao thành tích cao phải được huấn luyện, đào tạo để có năng lực

thi đấu không chỉ để đáp ứng tiêu chí cho phép đến đấu trường mà còn đủ trí

và lực để cạnh tranh giành chiến thắng với đối thủ mạnh đến từ khắp nơi

trên thế giới.

Quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao phải là quá trình tạo ra cơ

chế, chính sách và những điều kiện cần thiết để phát huy tiềm năng các nguồn

lực, huy động toàn xã hội chăm lo, phát triển sự nghiệp thể thao, tạo điều kiện

để toàn xã hội thưởng thức, hưởng thụ các thành quả và bảo đảm sự phát triển

của thể thao thành tích cao một cách nhanh chóng, bền vững. Đồng thời, từng

bước đưa thể thao thành tích cao trở thành một trong những ngành đóng góp

xứng đáng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong khuôn khổ luận văn này, học viên đã cố gắng tìm hiểu từ thực

tiễn, phân tích, đánh giá thực trạng, xác định hạn chế xuất phát từ sự nhận

thức không đầy đủ về công tác thể thao thành tích cao, về chủ trương phát

triển thể thao thành tích cao trong lực lượng CAND là nguyên nhân của việc

95

buông lỏng, xem nhẹ công tác quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao

trong lực lượng CAND trong thời gian qua, dẫn đến kết quản thực thi chính

sách về thể thao thành tích cao còn thấp so với tiềm năng của Ngành, ảnh

hưởng đến thành tích thi đấu, đến sự phát triển của thể thao thành tích cao.

Là một cán bộ làm công tác quản lý thể thao thành tích cao trong lực

lượng CAND, đồng thời là Huấn luyện viên, và cũng từng mang trên mình bộ

đồ thể thao in hình cờ Tổ quốc, trải qua thời kỳ gian khổ tập luyện, khát khao

chiến thắng, mang vinh quang về cho đất nước, cho xã hội, học viên mạnh

dạn đề xuất hệ thống các giải pháp bao gồm những giải pháp tổng thể chung

nhằm đóng góp thêm vào cơ sở lý luận để thực hiện việc cải cách, đổi mới

công tác quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao trong lực lượng CAND

một cách toàn diện hơn. Bên cạnh đó, cũng có những giải pháp mang tính căn

cơ, cụ thể nhằm điều chỉnh ngay những hạn chế, yếu kém trước mắt, góp phần

nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về thể thao thành tích

cao.

Trong quá trình hoàn thiện luận văn, học viên đã cố gắng tìm tòi,

nghiên cứu, trình bày một cách đầy đủ, rõ ràng luận văn Quản lý nhà nước về

thể thao thành tích cao trong lực lượng Công an nhân dân. Tuy nhiên, do đây

là một lĩnh vực còn khá mới, tài liệu tham khảo chưa nhiều, trình độ và khả

năng có hạn nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong quý Thầy, Cô và

quý thành viên trong Hội đồng xét duyệt luận văn cho thêm ý kiến để học

viên rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh luận văn của mình.

Học viên xin chân thành cám ơn quý Thầy, Cô giảng dạy lớp Cao học

21B2, và đặc biệt gửi lời cám ơn chân thành, sâu sắc đến Thầy giáo PGS. TS

Trương Quốc Chính đã chỉ bảo, giúp đỡ nhiệt tình để học viên hoàn thành

luận văn tốt nghiệp này ./.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Lý luận thể thao thành tích cao

(Giáo trình cho đại học và sau đại học thể dục thể thao), Nxb Thể dục thể

thao, 2014.

2. Bùi Thanh Nguyên (2012), "Đề án phát triển thể thao thành tích cao tỉnh

Bạc Liêu giai đoạn 2012 - 2015 định hượng đến năm 2020", Học viện

Hành chính Quốc gia, Lớp bồi dưỡng về QLNN chương trình Chuyên

viên cao cấp, 2012.

3. Cục công tác chính trị, Trung tâm Thể thao CAND (2013), Tài liệu tổng kết

công tác năm 2012 và triển khai công tác năm 2013

4. Cục công tác chính trị, Trung tâm Thể thao CAND (2014), Tài liệu tổng kết

công tác năm 2013 và triển khai công tác năm 2014

5. Cục công tác chính trị, Trung tâm Thể thao CAND (2015), Tài liệu tổng kết

công tác năm 2014 và triển khai công tác năm 2015

6. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ IX, 2001

7. Đào Văn Dũng, Nguyễn Ngân Hà (2014), "Phát triển thể dục thể thao: Yêu cầu

khách quan trong giai đoạn hiện nay", Báo thethaochomoinguoi.com, 2014

8. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị

Quốc gia, 1997

9. Hà Thảo (2016), "Thể thao Hà Nội: Cái gì cũng nhất, chỉ VĐV thua thiệt",

Báo bongda.vn, 2016

10. Học viện Hành chính Quốc gia (2014), Giáo trình thanh tra và giải quyết

khiếu nại hành chính, Nxb Bách khoa Hà Nội, 2014

11. Luật thể dục, thể thao ngày 29 tháng 11 năm 2006

12. Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thể dục, thể thao

97

13. Nguyễn Hồng Kiên (2017), "Những tồn tại của thể thao thành tích cao và

giải pháp", Tạp chí Thể thao, số tháng 6 năm 2017

14. Nguyễn Hồng Minh (2017), "Luật TDTT đã làm thay đổi căn bản diện mạo

hoạt động TDTT của đất nước", Tạp chí Thể thao, số tháng 6 năm 2017

15. Nguyễn Hữu Hải (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà

nước, Nxb Chính trị Quốc gia, 2014

16. Nguyễn Văn Trạch (2012), Lý luận và phương pháp huấn luyện thể thao,

Nxb Thể dục thể thao, 2012

17. Nông Minh Đức (2010), "Quản lý nhà nước về thể dục thể thao ở Việt

Nam hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, 2010

18. Phạm Thanh Cẩm, Lê Hoàng Yến (2017), "Tạo bước đột phá cho thể thao

thành tích cao", Tạp chí Tuyên giáo số 2, Tháng 9 năm 2017

19. Quyết định 67/2008/QĐ-TTg ngày 26/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chế

độ dinh dưỡng đặc thù đối với vận động viên, huấn luyện viên thể thao

20. Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt

Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030

21. Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt

Nam đến năm 2020

22. Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg ngày 06 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng

Chính phủ về một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thể

thao được tập trung tập huấn và thi đấu

23. Thông tư 19/2015/TT-BCA, ngày 11 tháng 5 năm 2015 của Bộ Công an

quy định một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên và các hoạt

động thể dục, thể thao trong Công an nhân dân

24. Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT/BCT-BVHTTDL ngày 07 tháng 11

năm 2011 của liên Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về

98

hướng dẫn thực hiện chế độ dinh dưỡng đặc thù đối với vận động viên,

huấn luyện viên thể thao thành tích cao

25. Thông tư liên tịch số 200/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL, ngày 30/12/2011 của

Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chế độ chi tiêu tài

chính đối với các giải thi đấu thể thao

26. Tổng cục chính trị CAND, Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND (2016),

Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện thể thao thành tích cao trong lực lượng

Công an nhân dân

27. Tổng cục chính trị CAND, Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND (2016),

Tài liệu tổng kết công tác năm 2015 và triển khai công tác năm 2016

28. Tổng cục chính trị CAND, Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND (2017),

Tài liệu tổng kết công tác năm 2016 và triển khai công tác năm 2017

29. Trần Quang Hạ (2015), "Đề án phát triển thể thao thành tích cao thành

phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2025", Học viện Hành chính Quốc gia,

Lớp bồi dưỡng năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp Sở, 2015

30. Trịnh Trung Hiếu, Nguyễn Sĩ Hà (1994), Huấn luyện thể thao (Sách dùng

cho sinh viên Cao đẳng - Đại học và huấn luyện viên, vận động viên Thể

thao), Nxb Thể dục thể thao, 1994

31. Ủy ban Thể dục thể thao, Trường Đại học Thể dục thể thao 1 (2005), Một số

vấn đề cơ bản về quản lý thể dục thể thao (Sách chuyên khảo dùng cho chuyên

ngành quản lý TDTT bậc sau đại học), Nxb Thể dục thể thao, 2005

32. Vũ Trọng Lợi (2013), Thuật ngữ thể dục, thể thao dùng trong các văn bản

quản lý nhà nước, Nxb Thể dục thể thao, 2013

33. Vũ Trọng Lợi (2011), Tìm hiểu một số vấn đề quản lý nhà nước về Thể

dục thể thao, Nxb Thể dục thể thao, 2011

99

PHỤ LỤC

Thực trạng huy chương tại các giải thể thao của Trung tâm HL&TĐ Thể thao CAND

Thựctrạng

Năm

2012

2013

2014

2015

2016

08/2017

Các

giải

V B

Đ

V

B

Đ

V

B

Đ

V

B

Đ

V

B

Đ

V

B

Đ

thểthao

96

93

109

146

149

132

156

150

191

165

159

238

162

162

202

111

106

127

Quốc gia

TS: 298

TS: 427

TS: 497

TS: 562

TS: 526

TS: 344

12

11

6

04

02

06

04

06

02

08

10

08

11

22

30

01

01

01

Quốc tế

TS:29

TS: 12

TS: 12

TS: 26

TS: 63

TS: 03

10

24

8

08

08

23

08

07

06

06

06

08

08

01

06

08

02

08

Khu vực

TS: 42

TS: 39

TS: 21

TS: 20

TS: 15

TS: 18

02

01

03

01

0

0

0

04

03

05

0

02

02

Châu lục

TS: 03

TS: 03

TS: 01

TS: 0

TS: 12

TS: 04

04

02

03

01

03

03

03

05

0

0

2

03

01

01

01

0

0

Thế giới

TS: 09

TS: 04

TS: 11

TS: 02

TS: 05

TS: 01

384

464

542

610

621

370

Tổng