BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

SOULAXAY PHOUTHAVONG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

Hà Nội, năm 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

SOULAXAY PHOUTHAVONG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 8 34 04 03

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Tạ Thị Hƣơng

Hà Nội, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và rõ ràng. Đề tài nghiên cứu một

cách độc lập, không có sự sao chép kết quả của bất cứ đề tài nào đã có trong

lĩnh vực này. Lời cam đoan này của tôi là đúng sự thật và tôi xin hoàn toàn

chịu trách nhiệm.

Ngày tháng năm 2021

Học viên

Soulaxay Phouthavong

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chƣơng trình đào tạo thạc sĩ Quản lý công tại Học viện

Hành chính Quốc gia, bên cạnh sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận đƣợc sự

động viên, hƣớng dẫn, giảng dạy và nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các

Thầy giáo, Cô giáo, gia đình, bạn bè trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu

và hoàn thành luận văn. Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình

tới Ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, các Thầy giáo, Cô giáo

Khoa Sau đại học, các Khoa chuyên môn, quý thầy, cô cơ sở Học viện Hành

chính Quốc gia

Tôi cảm ơn sự giúp đỡ của cơ quan tôi đang công tác, gia đình, bạn bè,

tập thể lớp Cao học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa học và

luận văn.

Đặc biệt tôi trân trọng biết ơn TS. Tạ Thị Hƣơng, giáo viên hƣớng dẫn

đã dành nhiều thời gian và trí lực trực tiếp hƣớng dẫn, tận tình giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn tất luận văn này.

Xin trân trọng cám ơn!

Tác giả luận văn

Soulaxay Phouthavong

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân

FDI Vốn đầu tƣ trực tiếp từ nƣớc ngoài

LĐ và PLXH Lao động và phúc lợi xã hội

LĐNN Lao động nƣớc ngoài

NLĐ Ngƣời lao động

NKLĐ Nhập khẩu lao động

QLLĐ Quản lý lao động

QH Quốc hội

TTLĐ Thị trƣờng lao động

UBND Ủy ban nhân dân

VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật.

VBPL Văn bản pháp luật

XKLĐ Xuất khẩu lao động

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 Quy mô dân số và lực lƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào .......... 45

Bảng 2.2 Số lƣợng lao động xuất khẩu năm 2015 -2020 .............................. 47

Bảng 2.3 Trình độ lao động đi xuất khẩu ...................................................... 48

Bảng 2.4 Số lƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào đi làm việc tại khu vực

Châu Á ......................................................................................... 50

Bảng 2.5 Cơ cấu lao động xuất khẩu năm 2020 ............................................ 50

Bảng 2.6 Thu nhập bình quân hàng tháng của ngƣời lao động tại một số thị

trƣờng ........................................................................................... 53

Bảng 2.7 Cơ cấu nhân lực của Cục QLLĐ .................................................... 77

DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu đồ 2.1 Trình độ học vấn của ngƣời đi XKLĐ ....................................... 48

Biểu đồ 2.2 Cơ cấu xuất khẩu lao động năm 2020 ........................................ 51

MỤC LỤC

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI

VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG ...................................................... 9

1.1. Hoạt động xuất khẩu lao động ............................................................................. 9

1.2.Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động ................................... 19

1.3.Kinh nghiệm QLNN đối với hoạt động XKLĐ của các nƣớc trên thế giới ........ 35

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƢỚC CHDCND LÀO .................................... 44

2.1. Thực trạng lao động, việc làm của nƣớc CHDCND Lào ................................... 44

2.2. Thực trạng xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào trong giai đoạn 2015-

2020 ........................................................................................................................... 46

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động

của nƣớc CHDCND Lào ........................................................................................... 55

2.4. Đánh giá chung .................................................................................................. 78

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƢỚC CHDCND

LÀO ........................................................................................................................... 90

3.1.Quan điểm và định hƣớng của nƣớc CHDCND Lào trong phát triển xuất khẩu

lao động trong thời gian tới ....................................................................................... 90

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất

khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào trong thời gian tới ..................................... 94

3.3. Một số kiến nghị ............................................................................................... 110

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 115

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay ở Việt Nam, hoạt động XKLĐ là hoạt động quan trọng, đƣợc

Đảng và Nhà nƣớc quan tâm chỉ đạo và đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân

ủng hộ. Đảng và Nhà nƣớc ta xác định đây là lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan

trọng, một bộ phận của chính sách giải quyết việc làm. Hơn nữa, XKLĐ ngoài

mục tiêu giải quyết việc làm có thời hạn cho một bộ phận NLĐ, đất nƣớc còn

thu đƣợc một lƣợng ngoại tệ đáng kể cho phát triển cũng nhƣ cải thiện đời

sống gia đình NLĐ. XKLĐ còn góp phần nâng cao trình độ tay nghề, tác

phong làm việc công nghiệp, tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân ta

và nhân dân các nƣớc, hòa nhập trong cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ của

nƣớc CHDCND Lào sang các nƣớc trên thế giới thời gian qua đã bộc lộ

những hạn chế, khó khăn, có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu

cực, rủi ro. Xảy ra hiện tƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào bị phân biệt đối

xử về tiền công, về điều kiện làm việc và sinh hoạt, bị lạm dụng, lao động tự

ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc và cƣ trú bất hợp pháp… Đặc biệt,

số lƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ngày càng

lớn, đến mức các nƣớc này đã nhiều lần lên tiếng sẽ đóng cửa thị trƣờng nếu

nƣớc CHDCND Lào không tìm cách ngăn chặn và giải quyết dứt điểm.

Những vấn đề đó đã tác động tiêu cực tới quan hệ hợp tác lao động của nƣớc

CHDCND Lào với các nƣớc trong khu vực và là nguyên nhân gây ra nguy cơ

bị đóng băng hoặc mất thị trƣờng XKLĐ vào tay các nƣớc XKLĐ khác, làm

phức tạp thêm tình hình, gây khó khăn cho công tác quản lý lao động nƣớc

CHDCND Lào ở các nƣớc này. Hơn nữa, xét về tầm chiến lƣợc, những vấn

đề đó nếu không đƣợc giải quyết triệt để sẽ làm mất uy tín của NLĐ cũng nhƣ

các doanh nghiệp XKLĐ của Việt Nam trên thị trƣờng lao động quốc tế,

1

tạo dƣ luận và tâm lý không tốt trong xã hội đối với hoạt động XKLĐ, ảnh

hƣởng xấu tới mục tiêu và hiệu quả của hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang

khu vực này trong thời gian tới.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu là hoạt động QLNN về XKLĐ

còn nhiều hạn chế và bất cập nhƣ hệ thống chính sách và luật pháp về XKLĐ

chƣa hoàn thiện, chƣa đáp ứng và theo kịp với những biến động của tình hình

thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chƣa đƣợc đồng bộ và chặt

chẽ, công tác tổ chức thực hiện và quản lý XKLĐ còn bị buônglỏng; thiếu

những chiến lƣợc ở tầm quốc gia về XKLĐ, thủ tục cấp phép hoạt động

XKLĐ và công tác khai thác, định hƣớng phát triển thị trƣờng lao động ngoài

nƣớc còn nhiều bất cập. Do vậy, việc đánh giá thực trạng QLNN về XKLĐ

của nƣớc CHDCND Lào và tìm ra nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nhằm

hoàn thiện QLNN về XKLĐ là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hội nhập

kinh tế quốc tế hiện nay.

Tình hình thực tế nêu trên đòi hỏi cần phải nghiên cứu, phân tích đánh

giá quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động ở nƣớc

CHDCND Lào trong thời gian qua nhằm tìm ra những nguyên nhân của

những thành tựu và hạn chế, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cƣờng quản

lý của Nhà nƣớc, tạo điều kiện để Nhà nƣớc thực sự là cơ quan định hƣớng,

điều tiết và tạo điều kiện cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động

xuất khẩu lao động “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cƣờng quản lý

Nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động” [26,tr.5]. Chính vì vậy, em

đã chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động

nước CHDCND Lào” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu

Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực thu hút nhiều độc giả tìm tòi và

nghiên cứu trên phạm vi thế giới và cả một số nƣớc khu vực Đông Nam Á .

Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều quan tâm tập trung theo

2

một góc độ nhất định, giá trị mà các công trình nghiên cứu đó mang lại rất cao

và hƣớng tới sự hoàn thiện tổng thể, trong đó tiêu biểu có những đề tài liên

quan nhƣ sau:

- Nguyễn Thị Thu Hằng “Đào tạo nghề cho người lao động Việt Nam

tham gia xuất khẩu lao động” Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà

Nội, 2005 [13]. Luận văn đã làm rõ các khái niệm liên quan đến đào tạo, đào

tạo nghề, xác định các nhân tố ảnh hƣởng đến đào tạo nghề và phân tích toàn

bộ thực trạng đào tạo nghề cho lao động Việt Nam trƣớc khi đƣa đi làm việc ở

nƣớc ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất giải pháp cải thiện chất lƣợng

đào tạo nghề đối với lao động Việt Nam trƣớc khi đi xuất khẩu lao động.

- Trần Xuân Thọ “Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường

EU”, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị tại Đại học Kinh tế - Đại học Quốc

Gia Hà Nội, 2009 [17]. Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về xuất khẩu

lao động; đƣa ra cái nhìn tổng quan về thị trƣờng lao động EU; quan hệ Việt

Nam –EU; đặc biệt nghiên cứu chủ yếu về thực trạng xuất khẩu lao động của

Việt Nam sang thị trƣờng EU. Đóng góp mới của luận văn là đã đƣa ra những

dự báo về đặc điểm và xu hƣớng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị

trƣờng EU trong thời gian tới cũng nhƣ một số giải pháp có tính khả thi cao.

- Nguyễn Xuân Hƣng “Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động của

Việt Nam”, Luận án tiến sỹ Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2015 [14].

Luận án đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận về XKLĐ, thực trạng QLNN về

XKLĐ và đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và đổi mới hệ thống tổ

chức, cơ chế quản lý hoạt động XKLĐ.

- Đề tài cấp Bộ “Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động đi

làm việc ở nước ngoài” (2010) do tác giả Hoàng Kim Ngọc chủ trì đã triển

khai thực hiện với mục tiêu nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chất lƣợng lao

động đi làm việc ở nƣớc ngoài, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nâng

cao chất lƣợng nguồn lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài và các điều kiện để

3

triển khai, áp dụng trong thực tiễn. Về mặt lý thuyết, giáo dục - đào tạo là một

trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hƣởng đến chất lƣợng nguồn lao

động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Công tác đào tạo cho lao động trƣớc khi đi

làm việc ở nƣớc ngoài cũng đƣợc đƣa vào Luật ngƣời lao động đi làm việc ở

nƣớc ngoài theo hợp đồng, trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ của ngƣời

lao động cũng nhƣ trách nhiệm của các tổ chức đƣa lao động đi làm việc ở

nƣớc ngoài. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trong thực tế việc đào

tạo cho lao động chỉ dừng lại ở việc thực hiện theo Luật mà chƣa nhằm mục

đích góp phần nâng cao chất lƣợng cho lao động Việt Nam đi XKLĐ. Theo

đó, nghiên cứu cũng đề xuất giải pháp tăng cƣờng hơn nữa cơ sở vật chất,

thiết bị dạy nghề, nâng cao chất lƣợng đội ngũ giáo viên, tăng cƣờng quản lý

chất lƣợng… cho công tác đào tạo đối với lao động trƣớc khi đi làm việc ở

nƣớc ngoài [7].

- Tác giả Nguyễn Đình Cử, “Những giải pháp góp phần thực hiện đột

phá: Phát triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và

bền vững ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [11]. Trong bài viết, tác

giả đã phân tích thực trạng chất lƣợng dân số, chất lƣợng nguồn nhân lực

nhằm chỉ ra vì sao cần phát triển nguồn tài nguyên con ngƣời lại đƣợc lựa

chọn là một trong những khâu đột phá ở nƣớc CHDCND Lào. Qua đó, tác giả

đƣa ra một số kết luận về nguyên nhân dẫn đến chất lƣợng nguồn nhân lực

chƣa cao và cuối cùng đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện khâu đột

phá nói trên.

- Viện Khoa học xã hội Quốc gia Lào (2011), Tổng kết 25 năm đổi mới

của nước CHDCND Lào (1986-2010) [60]. Cuốn sách đã làm rõ nhiều nội

dung có liên quan đến các mặt của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc

phòng, đối ngoại của nƣớc CHDCND Lào. Trong đó về nội dung kinh tế cuốn

sách đã nêu bật đƣợc những thành tựu trong quá trình đổi mới kinh tế của đất

nƣớc nhất là minh chứng sự thay đổi về việc làm trong các lĩnh vực kinh tế

4

hƣớng đến phát triển công nghiệp, dịch vụ của đất nƣớc cũng nhƣ sự biến đổi

của lực lƣợng lao động trong các ngành nghề của nƣớc CHDCND Lào sau 25

năm đổi mới cũng nhƣ tổng quan, đánh giá chung về thực trạng lao động

trong và ngoài nƣớc.

- Trung tâm Thống kê Quốc gia Lào (2020), Công tác bồi dưỡng nguồn

lực lao động trong các lĩnh vực kinh tế [58]. Tài liệu đã làm rõ đƣợc nội dung

về bồi dƣỡng nguồn lực lao động tại CHDCND Lào trên lĩnh vực nông

nghiệp, công nghiệp, du lịch và dịch vụ trong giai đoạn 2011 đến 2020. Qua

đó giúp chúng ta nhận thấy sự thay đổi cũng nhƣ xu hƣớng phát triển của các

nguồn lực lao động của nƣớc CHDCND Lào trong nền kinh tế của đất nƣớc

cũng nhƣ nắm đƣợc thực trạng với những thành tựu, nguyên nhân cũng nhƣ

định hƣớng trong công tác bồi dƣỡng nguồn lực lao động của đất nƣớc giai

đoạn hội nhập với Cộng đồng kinh tế ASEAN cũng nhƣ với các nƣớc trên thế

giới trong thời gian sắp tới.

- Trung tâm Thống kê Quốc gia Lào (2020), Giáo dục Nghề nghiệp, giáo

dục đại học đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện nay [59]. Bài tổng kết

giai đoạn 2011-2020 đã giúp tổng kết, đánh giá công tác giáo giáo dục nghề,

giáo dục đại học trên các trƣờng trên cả nƣớc CHDCND Lào trong 10 năm

qua đó cho thấy số lƣợng, cơ cấu cũng nhƣ sự thay đổi của công tác đào đạo

lực lƣợng lao động phổ thông cũng nhƣ lực lƣợng lao động có trình độ ở nƣớc

CHDCND Lào. Bên cạnh đó cũng chỉ ra sự thiếu hụt về lao động đƣợc đào

tạo nghề để đáp ứng với nhu cầu của các doanh nghiệp nƣớc ngoài đầu tƣ vào

nƣớc CHDCND Lào cũng nhƣ nguồn nhân lực có trình độ cao để thu hút các

doanh nghiệp lớn vào trong nƣớc CHDCND Lào.

Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấn đề xuất khẩu lao

động ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó tập trung vào việc phân tích và đánh

giá tình hình hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế. Ở hầu hết các công trình, các tác giả trong khi phân tích, đánh giá

5

thực trạng, đều có bàn đến vai trò quản lý của Nhà nƣớc các cấp nhƣng mới

chỉ dừng lại ở mức độ xem vai trò của Nhà nƣớc nhƣ một giải pháp trong hệ

thống các giải pháp, chƣa tập trung đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn

về quản lý Nhà nƣớc hoạt động xuất khẩu lao động. Do đó, các công trình

nghiên cứu chƣa có điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề đặt ra đối với

quản lý của Nhà nƣớc nhằm tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt

động xuất khẩu lao động Ở nƣớc CHDCND Lào chƣa có công trình nghiên

cứu hoạt động xuất khẩu lao động trên phạm vi cả nƣớc vì vậy việc nghiên

cứu hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào là thực sự cần

thiết trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận QLNN đối với hoạt động XKLĐ và phân

tích thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động của

nƣớc CHDCND Lào, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt

động quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động, góp phần phát

triển hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc các mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện nhiệm

vụ dƣới đây:

- Nghiên cứu, khái quát hóa cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động, quản

lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động.

- Rút ra các giá trị tham khảo cho CHDCND Lào từ nghiên cứu kinh

nghiệm quốc tế trong QLNN đối với hoạt động XKLĐ .

- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động

xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào giai đoạn 2015-2020, rút ra một

số những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nƣớc đối với

hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào.

6

- Đề xuất một số định hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà

nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào.

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc

CHDCND Lào.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu một số nội dung quản lý nhà nƣớc

đối với hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào. Do thị trƣờng

lao động xuất khẩu của nƣớc CHDCND Lào khá rộng nên luận văn nghiên

cứu hình thức xuất khẩu lao động ra nƣớc ngoài (đƣa ngƣời lao động đi làm

việc ở nƣớc ngoài có thời hạn)

- Không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động xuất khẩu

lao động của nƣớc CHDCND Lào sang các nƣớc thuộc khu vực Châu Á.

- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác - Lênin; tƣ tƣởng Cayxỏn Phômvihản , quan điểm của

Đảng nhân dân cách mạng Lào và nhà nƣớc CHDCND Lào về công tác xuất

khẩu lao động.

5.2. Các phương pháp cụ thể

Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: phƣơng pháp nghiên

cứu tài liệu thứ cấp, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp,

phƣơng pháp so sánh và các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng kết hợp và

bổ sung cho nhau một cách linh hoạt để phục vụ nghiên cứu luận văn.

7

6. Đóng góp của đề tài

6.1. Đóng góp về lý luận

- Góp phần bổ sung làm sáng rõ hơn cơ sở lý luận liên quan đến quản

lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động.

6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

- Luận văn đƣa ra bức tranh hiện tại về hoạt động xuất khẩu lao động

của nƣớc CHDCND Lào

- Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch

định chính sách kinh tế - xã hội, nhất là những ngƣời làm công tác xuất khẩu

lao động, các nhà nghiên cứu và độc giả quan tâm.

7. Kết cấu đề tài

Luận văn ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thì

đƣợc thiết kế thành 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nƣớc đối với hoạt

động xuất khẩu lao động

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu

lao động của nƣớc CHDCND Lào

Chƣơng 3: Giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với

hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào.

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

1.1. Hoạt động xuất khẩu lao động

1.1.1 Khái niệm

Ngƣời lao động (NLĐ) đi làm việc ở nƣớc ngoài - thƣờng đƣợc gọi

bằng thuật ngữ "Di cƣ lao động quốc tế" là một hiện tƣợng xã hội đã xuất

hiện từ lâu và gắn liền với lịch sử phát triển của loài ngƣời. Có nhiều nguyên

nhân dẫn đến tình trạng di cƣ lao động quốc tế, nhƣng lý do kinh tế vẫn là lý

do chủ yếu. Di cƣ lao động quốc tế thƣờng đƣợc thể hiện ở hai hình thức là di

cƣ tự do và di cƣ có tổ chức. Điểm mới trong di cƣ lao động quốc tế thời kỳ

hiện đại là hình thức di cƣ có tổ chức, NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, có sự

can thiệp và quản lý của Chính phủ các quốc gia.

Hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài hay chính là hoạt động

XKLĐ là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận

của kinh tế đối ngoại, mà hàng hoá đem xuất khẩu là sức lao động sống của

con ngƣời, còn khách “mua” là chủ sử dụng lao động nƣớc ngoài. Nói cách

khác, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế dƣới dạng dịch vụ cung

ứng lao động cho nƣớc ngoài, mà đối tƣợng của nó là con ngƣời [5, tr.88].

Hoạt động xuất khẩu lao động là một hoạt động tất yếu khách quan của

quá trình chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế giữa các nƣớc trong sản xuất,

nhằm bổ sung nhân lực giữa các quốc gia, khắc phục các mặt khó khăn và

phát huy sức mạnh vốn có của mỗi quốc gia.

Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO, 1991) thì “XKLĐ là hoạt động kinh

tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác

trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất hợp pháp quy định đƣợc

sự thống nhất giữa các quốc gia đƣa và nhận ngƣời lao động” [24, tr.1].

9

Xét theo hƣớng tiếp cận của nội dung nghiên cứu này, khái niệm xuất

khẩu lao động có thể đƣợc khái quát nhƣ sau: Xuất khẩu lao động là hoạt

động đƣa ngƣời lao động đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài. Xuất khẩu lao

động có tổ chức, hợp pháp thông qua các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp

đƣợc cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động.

Xuất khẩu lao động bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhƣ tuyển

chọn lao động; ký kết các hợp đồng liên quan đến việc ngƣời lao động đi làm

việc ở nƣớc ngoài; dạy nghề, ngoại ngữ cho ngƣời lao động; tổ chức bồi

dƣỡng kiến thức cần thiết cho ngƣời lao động trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc

ngoài; quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời lao động đi làm

việc ở nƣớc ngoài; thực hiện các chế độ, chính sách đối với ngƣời lao động đi

làm việc ở nƣớc ngoài;...và các hoạt động khác của tổ chức, cá nhân có liên

quan đến ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài.

1.1.2 Đặc điểm xuất khẩu lao động

Do sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt nên hoạt động XKLĐ có

những đặc điểm riêng biệt, khác với hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông

thƣờng. Có thể khái quát một số đặc điểm của hoạt động XKLĐ nhƣ sau:

Xuất khẩu lao động là một hoạt động đặc thù của kinh tế đối ngoại.

Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thƣơng, đầu tƣ quốc tế và

dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất. Tính

chất đặc thù của hoạt động XKLĐ trƣớc hết đƣợc thể hiện ở chỗ là hoạt động

kinh tế nhƣng mang tính chất xã hội sâu sắc.

Để thu đƣợc những lợi ích kinh tế, các nƣớc xuất khẩu lao động một

mặt phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua việc mở rộng

thị trƣờng, quan tâm đến chất lƣợng và số lƣợng nguồn lao động xuất khẩu.

Mặt khác, phải xử lý hài hòa các mối quan hệ: tiền công cho ngƣời lao động,

lợi nhuận cho doanh nghiệp và lợi ích của nhà nƣớc. Do đó, mọi chủ trƣơng,

chính sách, các biện pháp quản lý và tác động của nhà nƣớc phải xuất phát từ

10

mục tiêu kinh tế mới có thể định hƣớng và đảm bảo cho hoạt động ngày càng

hiệu quả.

Xuất khẩu lao động là một hoạt động xuất khẩu dịch vụ đặc thù. Theo

quan niệm mới, các ngành xuất khẩu dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh

vực, từ du lịch, XKLĐ đến xây dựng, y tế, giáo dục, bảo hiểm, các cung ứng

dịch vụ vận tải, ngân hàng, bƣu chính viễn thông, trong đó XKLĐ đƣợc xem

là hoạt động có tính chất đặc thù. Đặc điểm này do tính chất không thể chia

tách và tính không xác định trong hoạt động XKLĐ quy định.

Tính không thể chia tách của hoạt động XKLĐ thể hiện ở chỗ: cũng nhƣ

các hoạt động dịch vụ khác, XKLĐ có đặc điểm là quá trình tạo giá trị và giá trị

sử dụng thống nhất với quá trình tiêu dùng, thụ hƣởng giá trị và giá trị sử dụng

của sức lao động. Ngoài ra, hoạt động XKLĐ còn có sự khác biệt với các hoạt

động dịch vụ khác ở chỗ, hoạt động XKLĐ không chấm dứt khi đã hoàn thành

thủ tục đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài mà nó là một quá trình gồm

nhiều khâu, nhiều công đoạn liên hoàn, gắn kết chặt chẽ với nhau.

Tính không xác định của hoạt động XKLĐ đƣợc thể hiện ở chỗ: cũng

nhƣ mọi hoạt động dịch vụ khác, hoạt động XKLĐ có đặc điểm là không hiện

hữu dƣới dạng vật thể, khó lƣợng hóa khi quyết định trao đổi, mua bán, sử

dụng. Tính không xác định trong hoạt động XKLĐ đƣợc quy định bởi chất

lƣợng hàng hóa sức lao động. Chất lƣợng của hàng hóa sức lao động đƣợc

phản ánh và phụ thuộc vào thể chất và tinh thần hay sự dẻo dai, bền bỉ, độ

thành thạo và năng lực sáng tạo trong lao động của ngƣời lao động; vào điều

kiện làm việc, nghỉ ngơi và các điều kiện khác cho ngƣời lao động.

Hoạt động XKLĐ xuất phát từ mục đích của các chủ thể tham gia: tiền

công của người lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi ích của nhà nước.

Ngƣời lao động tham gia vào hoạt động XKLĐ với tƣ các vừa là ngƣời

tạo ra hàng hóa xuất khẩu, vừa là ngƣời trực tiếp mang hàng hóa đi bán, mục

đích của họ là các khoản thu nhập hay tiền công lao động ở nƣớc ngoài.

11

Lợi nhuận của các doanh nghiệp XKLĐ thu đƣợc chủ yếu từ việc thu

các loại phí dịch vụ mà ngƣời lao động trả về việc giúp cho ngƣời lao động

đƣợc đi làm việc ở nƣớc ngoài.

Lợi ích của Nhà nƣớc là các khoản ngoại tệ ròng nhận đƣợc thông qua

các khoản tiền của ngƣời lao động gửi về nƣớc, các khoản thuế và phí thu

đƣợc từ các hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp.

Vì lợi ích kinh tế, cả ngƣời lao động và doanh nghiệp XKLĐ rất dễ vi

phạm các quy định của pháp luật, do đó, với tƣ cách là một chủ thể tham gia

vào quá trình này, nhà nƣớc phải xây dựng các khuôn khổ pháp lý cho hoạt

động XKLĐ để đảm bảo các lợi ích các quốc gia, quyền lợi của các tổ chức,

doanh nghiệp, ngƣời lao động và duy trì, phát triển quan hệ hợp tác với các

nƣớc nhập khẩu lao động. Trong những trƣờng hợp cần thiết, nhà nƣớc phải

trực tiếp giải quyết các vấn đề mà bản thân các tổ chức, doanh nghiệp không

thể đảm đƣơng đƣợc nhƣ bảo vệ ngƣời lao động ở nƣớc ngoài, ký kết các điều

ƣớc quốc tế liên quan đến ngƣời lao động và giải quyết các vấn đề tiêu cực

trong hoạt động XKLĐ.

Trong hoạt động XKLĐ, quyền sở hữu không tách rời quyền sử dụng

sức lao động. Trong hoạt động XKLĐ, ngƣời lao động không mất quyền sở

hữu sức lao động, chủ sử dụng sức lao động có thời hạn. Sở dĩ có đặc điểm

này là do sức lao động luôn tồn tại trong cơ thể ngƣời lao động, luôn thuộc

quyền sở hữu của ngƣời lao động. Họ chỉ bán sức lao động của mình và bao

giờ cũng chỉ bán, tức là để cho ngƣời sử dụng sức lao động của mình trong

một thời hạn nhất định, chứ không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động đó. Do

đó, khác với việc xuất khẩu các loại hàng hóa thông thƣờng, XKLĐ không có

sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa sức lao động khi hợp đồng mua bán sức lao

động đƣợc thực hiện.

Hoạt động XKLĐ trong thời đại ngày nay mang tính chất đa phương,

đa dạng và phong phú. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do tác

12

động của phân công lao động quốc tế và quá trình quốc tế hóa dƣới tác động

của sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học và công nghệ, sự đa phƣơng trong

quan hệ hợp tác lao động, đa dạng về thị trƣờng và phong phú về chủng loại

hàng hóa sức lao động đã và đang diễn ra ở tất cả các nƣớc, các khu vực trên

thế giới. Ngày nay, cùng với sự tăng cƣờng xu thế quốc tế hóa đời sống kinh

tế, quy mô XKLĐ ngày càng mở rộng theo hƣớng nƣớc nghèo XKLĐ sang

nƣớc giàu; nƣớc đang phát triển XKLĐ sang nƣớc phát triển; nƣớc đông dân

cƣ XKLĐ sang nƣớc thƣa thớt dân cƣ; có những nƣớc chuyên xuất, có những

nƣớc lại chuyên nhập, lại có những nƣớc lại vừa xuất vừa nhập lao động.

Hoạt động XKLĐ góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa và hợp tác hữu

nghị giữa nước XKLĐ và nước nhập khẩu lao động. Là lĩnh vực liên quan

trực tiếp đến con ngƣời, nhiều quốc gia nhập khẩu lao động có chủ trƣơng

ƣu đãi hơn đối với lao động đến từ các nƣớc tƣơng đồng về văn hóa. Vì văn

hóa là con ngƣời, con ngƣời là văn hóa. Trong mỗi ngƣời lao động đều có tố

chất văn hóa, có thể học vấn cao, nhƣng vẫn lấp lánh vẻ đẹp, mang đậm hồn

cốt nền văn hóa mà họ đƣợc nuôi dƣỡng từ thƣở ấu thơ. Đó là lẽ sống, là lối

sống, là đạo lý, là tình nghĩa, là lòng trắc ẩn, là sự ứng xử,... tóm lại là toàn

bộ cuộc sống tinh thần của ngƣời lao động. Đi XKLĐ là đi làm thuê, xét về

công việc thì vị thế của ngƣời lao động là phục tùng, ngƣời bị quản lý, bị sai

bảo nhƣng về văn hóa, ngƣời lao động hoàn toàn bình đẳng với ngƣời sử

dụng lao động. Ngƣời lao động muốn sống và làm việc ở nƣớc nhập khẩu

lao động buộc phải thích nghi, hòa nhập với phong tục tập quán, truyền

thống văn hóa, pháp luật, thói quen sinh hoạt và tác phong làm việc của

nƣớc sở tại. Quá trình thực hiện hợp đồng lao động giữa chủ sử dụng lao

động và ngƣời lao động là quá trình tiếp xúc, giao lƣu giữa hai nền văn hóa.

Trong quá trình đó, nền văn hóa nào ƣu việt sẽ phát huy tính trội của nó,

cảm hóa, chinh phục, lan tỏa giữa những đối tác. XKLĐ là nhịp cầu giao lƣu

văn hóa và hợp tác hữu nghị giữa các nƣớc.

13

1.1.3 Hình thức xuất khẩu lao động

Có 02 hình thức xuất khẩu lao động:

- XKLĐ ra nƣớc ngoài làm việc: Đƣa ngƣời lao động đi làm việc có

thời hạn ở nƣớc ngoài. Đây chính là hình thức XKLĐ mà đề tài luận văn

nghiên cứu.

- Xuất khẩu lao động tại chỗ (xuất khẩu lao động nội biên): ngƣời lao động

trong nƣớc làm việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức quốc tế.

1.1.4 Vai trò của xuất khẩu lao động

Hoạt động XKLĐ có các tác động, ảnh hƣởng cả trƣớc mắt và lâu dài đối

với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc XKLĐ và nƣớc NKLĐ.

1.1.4.1. Đối với nước xuất khẩu lao động

Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống

của người lao động.

XKLĐ là một biện pháp tốt để góp phần giải quyết một phần lao động

dôi dƣ ở nhiều nƣớc, nhất là các nƣớc đang và chậm phát triển, những nƣớc

đông dân, thiếu việc làm và có mức thu nhập thấp, tỷ lệ thất nghiệp lớn, trong

khi dân số lại tăng nhanh. Đây cũng là mục tiêu quan trọng trong chính sách

XKLĐ của các nƣớc này. Đối với những nƣớc luôn có tỷ lệ thất nghiệp cao,

XKLĐ đƣợc coi là một giải pháp lâu dài, còn đối với những nƣớc xảy ra

khủng hoảng kinh tế thì XKLĐ sẽ là đối sách trƣớc nạn thất nghiệp tạm thời.

Theo ƣớc tính của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội nƣớc CHDCND Lào,

nếu một LĐXK nƣớc CHDCND Lào ở khu vực Châu Á làm việc đúng hợp

đồng ký kết, sau 2 năm làm việc cũng tiết kiệm đƣợc ít nhất 50 triệu kíp [35,

tr.12]. Nguồn thu nhập này đã góp phần cải thiện đƣợc đời sống của ngƣời lao

động trong nƣớc, giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tƣ sản xuất kinh

doanh, giảm đói nghèo. Ngoài ra, từ nguồn thu nhập ở XKLĐ, nhiều lao động

sau khi về nƣớc đã đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh, trở thành các nhà

14

đầu tƣ và các chủ doanh nghiệp, tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận lao

động khác, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

Góp phần vào việc đào tạo tay nghề cho người lao động, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực.

Trong thời gian làm việc ở nƣớc ngoài, bên cạnh việc rèn luyện và

nâng cao trình độ các thao tác, kỹ năng đã đƣợc học trƣớc khi đi XKLĐ,

ngƣời lao động có cơ hội, điều kiện tiếp cận và học tập đƣợc các kiến thức về

kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, vận hành

các dây chuyền sản xuất hiện đại, khi hết hợp đồng về nƣớc, họ sẽ trở thành

đội ngũ lao động có đủ khả năng đáp ứng các công việc trong quá trình đổi

mới, thực hiện CNH, HĐH đất nƣớc. Vì vậy, hoạt động XKLĐ là biện pháp

giúp nƣớc XKLĐ đào tạo tay nghề, trình độ cho ngƣời lao động, tạo điều kiện

nâng cao trình độ, kỹ năng và kỷ luật lao động, đồng thời giảm đƣợc các chi

phí đào tạo, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực.

Đội ngũ lao động đi XKLĐ sau thời gian làm việc ở nƣớc ngoài sẽ có

đƣợc những kinh nghiệm, tác phong lao động công nghiệp, thành thạo về

chuyên môn kỹ thuật. Những ngƣời này sẽ dễ dàng thích ứng với việc tiếp thu

và chuyển giao công nghệ hay đáp ứng đƣợc các nhu cầu lao động của các

công ty nƣớc ngoài hay các xí nghiệp liên doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho

thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. Đây cũng là nguồn lao động đủ khả năng đáp ứng

cho quá trình phát triển kinh tế thời kỳ CNH, HĐH.

Tạo nguồn thu quốc gia, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân.

Lƣợng tiền do ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài tích lũy đƣợc

gửi về nƣớc là nguồn vốn quan trọng cho nhiều quốc gia XKLĐ. Đối với

nhiều nƣớc đang phát triển, lƣợng tiền do ngƣời lao động gửi về ngang với

thu nhập từ xuất khẩu một số loại hàng hóa và là một trong những nguồn thu

ngoại tệ nhiều nhất, giúp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đối phó với tình

trạng nợ nần, nhập siêu. Trong dân chúng, lƣợng tiền này đƣợc dành cho tiêu

15

dùng hàng ngày, mua sắm vật dụng trong gia đình giúp nâng cao chất lƣợng

cuộc sống hoặc có thể đƣợc gửi tiết kiệm hay đầu tƣ nhƣ mua đất đai, công cụ

sản xuất, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó lại tạo ra nguồn

thu mới trong dân chúng, tăng tích lũy vốn trong nền kinh tế. Đây cũng là

nguồn vốn tiềm năng, rất cần thiết và quan trọng có thể huy động đƣợc cho

các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia

Góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước XKLĐ và

nước NKLĐ.

Hoạt động XKLĐ có diễn ra sự giao thoa, hòa nhập của các yếu tố lịch

sử và tinh thần của ngƣời LĐXK với ngƣời bản địa. Do đó, hoạt động XKLĐ

là cầu nối, hình thức để trao đổi, giao lƣu các nền văn hóa, phong tục tập quán

các dân tộc, góp phần tăng cƣờng sự hiểu biết giữa các quốc gia, thúc đẩy

quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nƣớc XKLĐ và NKLĐ. Hơn nữa, hoạt

động XKLĐ tạo ra một đội ngũ lao động có hiểu biết về phong tục tập quán,

đƣợc đào tạo tay nghề và rèn luyện tác phong lao động ở các nƣớc NKLĐ.

Đây là một trong những điều kiện thuận lợi giúp nƣớc XKLĐ thu hút các dự

án đầu tƣ từ các nƣớc NKLĐ, tạo điều kiện duy trì và phát triển các quan hệ

nhiều mặt giữa nƣớc XKLĐ và nƣớc NKLĐ.

Tuy nhiên, hoạt động XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất

định tới sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hoạt động XKLĐ có

khả năng làm giảm bớt một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa,

chuyên môn tƣơng đối cao, do đó có thể làm giảm sức sản xuất của nƣớc

XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể gây biến động về sức mua trong nƣớc

(giảm khi ngƣời lao động đi xuất khẩu, tăng đột ngột khi lao động trở về); ảnh

hƣởng đến an ninh kinh tế quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhƣ: xảy ra tình

trạng chảy máu chất xám, mất bí mật quốc gia (do ngƣời lao động mang đi

bán) nhất là đối với các nƣớc phát triển, ngƣời lao động có thể làm gián điệp

cho nƣớc ngoài, cung cấp thông tin gây thiệt hại cho đất nƣớc, ngƣời lao động

16

cũng có thể mang theo nếp sống không phù hợp, các bệnh xã hội từ nƣớc

ngoài về nƣớc sau thời gian đi XKLĐ. Hoạt động XKLĐ cũng có thể tác động

xấu tới quan hệ quốc tế của nƣớc XKLĐ khi LĐXK có các hành vi vi phạm

pháp luật nghiêm trọng ở nƣớc NKLĐ làm phƣơng hại đến quan hệ hợp tác

giữa nƣớc XKLĐ và nƣớc NKLĐ.

1.1.4.2. Đối với nước nhập khẩu lao động

Giữa hai quốc gia, hoạt động XKLĐ của một nƣớc này sẽ là hoạt động

NKLĐ của nƣớc kia. Do đó, nghiên cứu vai trò của hoạt động XKLĐ đối với

nƣớc NKLĐ là nghiên cứu vai trò của hoạt động NKLĐ đối với nƣớc này.

Bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động trong nước.

Hoạt động NKLĐ cung cấp nguồn nhân lực từ nƣớc ngoài để bù đắp

sự thiếu hụt lao động ở các ngành, lĩnh vực mà lực lƣợng lao động trong nƣớc

không đáp ứng đƣợc. Vai trò này đƣợc thể hiện rất rõ ở nhiều nƣớc phát triển

ở châu Âu, Nhật Bản, những nƣớc đang phải đối mặt với với xu hƣớng già

hóa dân số ngày càng tăng, lực lƣợng lao động đang già đi, tỷ lệ sinh đẻ thấp

không bổ sung kịp lực lƣợng lao động kế cận và một bộ phận trong lực lƣợng

lao động không muốn làm việc. Thông qua việc sử dụng LĐNN, các nƣớc

NKLĐ có điều kiện giải quyết các áp lực về kinh tế - xã hội do tình trạng

thiếu lao động ở nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế gây ra, đảm bảo cho các hoạt

động kinh tế, sản xuất kinh doanh tiếp tục vận hành bình thƣờng, đẩy nhanh

quá trình tái cơ cấu nền kinh theo phân công lao động quốc tế

Góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận và khả năng cạnh

tranh trên thị trường quốc tế.

Ngƣời LĐXK đã đƣợc đào tạo cơ bản về kỹ năng lao động, trình độ tay

nghề, do đó họ có thể tham gia làm việc luôn mà không cần hoặc chỉ mất ít

thời gian và vốn đầu tƣ để đào tạo lại. Hơn nữa, sử dụng LĐNN sẽ giúp nƣớc

NKLĐ tiết kiệm đƣợc một khoản tài chính lớn do ngƣời LĐNN thƣờng chấp

nhận lƣơng thấp hơn rất nhiều so với ngƣời lao động bản xứ ở cùng một công

17

việc. Tại Thái Lan, nguồn LĐNN đã giúp tiết kiệm đƣợc khoảng 38 triệu

bath/ngày công hay gần 14 tỷ bath/năm. Trong số đó, thậm chí ngƣời lao

động Myanma sẵn sàng nhận mức lƣơng 900 bath/tháng cho những công việc

mà ngƣời Thái Lan đòi 3.500 bath. Ngoài ra, ngƣời LĐNN hầu hết làm việc

trong thời hạn ngắn, do đó nƣớc NKLĐ thƣờng không phải chi trả nhiều cho

các khoản chi phí về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đặc biệt là tiền lƣơng

hƣu. Những khoản tiết kiệm từ chi phí thấp trong việc tuyển dụng LĐNN làm

giảm đƣợc chi phí đầu vào, tăng đƣợc lợi nhuận, tạo sức mạnh và lợi thế cạnh

tranh quốc tế.

Tận dụng được nguồn LĐNN trẻ có hiệu suất lao động cao, tạo điều

kiện thực hiện phân công lao động và tái cơ cấu nền kinh tế.

Lao động đi XKLĐ hầu hết là lao động trẻ, đang ở độ tuổi sung mãn về

thể lực và trí lực, đƣợc đảm bảo về sức khỏe. Đây là giai đoạn ngƣời lao động

có khả năng làm việc với hiệu suất cao nhất, tạo ra đƣợc nhiều giá trị thặng dƣ

nhất cho chủ sử dụng, nhất là trong việc sử dụng, khai thác chất xám từ

LĐXK chất lƣợng cao nhƣ các chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên ngành. Đây

là yếu tố thuận lợi để nƣớc NKLĐ tăng năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản

phẩm thặng dƣ và tăng lợi nhuận. Không những thế, NKLĐ sẽ làm tăng sự

cạnh tranh về việc làm trong nƣớc, kích thích tăng năng suất lao động. Số

lƣợng công việc giảm đã tạo sức ép làm cho ngƣời lao động, kể cả LĐNN và

lao động bản địa ở các ngành nghề phải tập trung làm việc để cạnh tranh nhau

về chỗ làm, do đó tạo ra năng suất cao hơn và hiệu quả làm việc tốt hơn cho

ngƣời chủ sử dụng lao động và nền kinh tế.

Hơn nữa, việc sử dụng LĐNN tạo điều kiện cho các nƣớc NKLĐ phân

bổ lại các nguồn lực sản xuất và cơ cấu lại các lĩnh vực, ngành nghề. Đối với

các nƣớc phát triển, các lĩnh vực ngành nghề có mức lƣơng thấp, nặng nhọc

sẽ dần tập trung nhiều cho LĐNN, ngƣời lao động bản địa sẽ tập trung nhiều

vào các ngành, lĩnh vực mới, những ngành có mức lƣơng cao hơn. Do đó,

18

hình thành lên một cơ cấu sử dụng lao động mới tƣơng ứng với quá trình tái

cơ cấu nền kinh tế ở các nƣớc này. Đối với các nƣớc đang và chậm phát triển,

việc sử dụng LĐNN có chất lƣợng cao còn giúp các nƣớc này bù đắp đƣợc sự

thiếu hụt các kỹ thuật viên, chuyên gia làm việc trong các ngành công nghiệp

mới, giúp họ thực hiện việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH

nhanh hơn. Ngoài ra, nƣớc NKLĐ cũng có thể đánh cắp đƣợc bí quyết công

nghệ cần thiết từ các nƣớc khác thông qua LĐNN.

Tuy nhiên, NKLĐ cũng có những tác động tiêu cực nhất định, làm

giảm bớt số lƣợng việc làm ở nƣớc NKLĐ, ngƣời lao động bản địa sẽ phải

chia sẻ việc làm với LĐNN và ít có cơ hội lựa chọn việc làm hơn, phải cạnh

tranh mạnh hơn, làm việc tích cực hơn để giữ chỗ làm, chấp nhận một mức

tiền lƣơng thấp hơn, nhất là đối với các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động phổ

thông. ở khía cạnh này, NKLĐ tác động tới sự phân phối lại thu nhập và phúc

lợi đối với ngƣời lao động của nƣớc NKLĐ, trong đó bộ phận lao động chất

lƣợng thấp bị tác động mạnh nhất. Hơn nữa, việc NKLĐ nƣớc ngoài cũng có

thể gia tăng những vấn đề xã hội, đặc biệt vấn đề lao động bỏ trốn đang trở

thành vấn đề nghiêm trọng. Ngƣời lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp

pháp, không đƣợc bảo vệ, không có sự quản lý của các cơ quan chức năng, do

đó dễ gây nên các vấn đề xã hội nhƣ bị bóc lột sức lao động, cƣỡng bức lao

động, tệ nạn xã hội. Đây là những vấn đề cản trở hoạt động NKLĐ và quản lý

LĐNN cũng nhƣ bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở các nƣớc NKLĐ, gây căng

thẳng trong quan hệ hợp tác giữa nƣớc XKLĐ và nƣớc NKLĐ.

1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất khẩu lao động

1.2.1. Khái niệm và đối tượng quản lý nhà nước đối với hoạt động

xuất khẩu lao động

Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các

cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực

hiện mục tiêu chung của tổ chức.

19

Quản lý là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên

đối tƣợng bị quản lý và khách thể của quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất

các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt đƣợc mục tiêu đặt ra trong điều

kiện biến động của môi trƣờng [16, tr.13].

QLNN là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể QLNN (các

cơ quan QLNN) lên đối tƣợng bị quản lý và khách thể của QLNN nhằm sử

dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt đƣợc

mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trƣờng [14, tr.35].

Quản lý nhà nƣớc về XKLĐ là một dạng quản lý nhà nƣớc, mang tính

quyền lực của Nhà nƣớc và sử dụng pháp luật nhà nƣớc để điều chỉnh hành vi

hoạt động của con ngƣời trong lĩnh vực XKLĐ, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp

pháp của con ngƣời, duy trì sự ổn định và phát triển của hoạt động XKLĐ nói

riêng và của nền kinh tế xã hội nói chung [5, tr 89].

Trên cơ sở phân tích các khía cạnh ở trên, theo tác giả có thể hiểu:

Quản lý nhà nước đối với hoạt động XKLĐ là sự tác động có chủ đích,

có tổ chức của Nhà nước đối với các hoạt động XKLĐ và các cá nhân, tổ

chức liên quan đến hoạt động XKLĐ nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả

nhất nguồn lực trong và ngoài nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước đã đặt ra, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế.

Nhà nƣớc quản lý hoạt động XKLĐ trƣớc hết là xác định mục tiêu

thông qua chiến lƣợc, kế hoạch, chƣơng trình và dự án XKLĐ XKLĐ; quản

lý bằng pháp luật và các chính sách. Nhà nƣớc sử dụng linh hoạt các phƣơng

pháp: hành chính, kinh tế, giáo dục trong triển khai thực hiện QLNN đối với

hoạt động XKLĐ nhằm đạt đƣợc các mục tiêu của XKLĐ nói riêng và phát

triển kinh tế - xã hội nói chung.

Nhà nƣớc vừa là chủ thể quản lý đồng thời cũng là đối tƣợng quản lý

khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua các cơ quan nhà

20

nƣớc nhƣ: cơ quan QLNN về lao động, về xuất nhập cảnh, về tƣ pháp, về tài

chính, tiền tệ, cơ quan ngoại giao ở nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật.

Chủ thể QLNN đối với hoạt động XKLĐ đƣợc nghiên cứu trong luận

văn này là Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, trong đó đơn vị trực tiếp là Cục

Quản lý lao động.

Đối tƣợng của QLNN về XKLĐ là các chủ thể tham gia XKLĐ (gồm

nhà nƣớc, ngƣời lao động, doanh nghiệp) và tổ chức hoạt động XKLĐ cùng

với các quan hệ giữa các chủ thể đó.

Doanh nghiệp XKLĐ là tổ chức đƣợc pháp luật cho phép hoạt động

xuất khẩu nhằm cung ứng dịch vụ tìm việc làm ngoài nƣớc cho ngƣời lao

động. Doanh nghiệp XKLĐ bao gồm hai loại chủ yếu, đó là: các doanh

nghiệp chuyên hoạt động dịch vụ việc làm ngoài nƣớc và doanh nghiệp hoạt

động thƣơng mại dịch vụ ngoài nƣớc.

Tổ chức hoạt động XKLĐ, đó là đơn vị sự nghiệp do nhà nƣớc thành

lập để thực hiện hoạt động XKLĐ, không nhằm mục đích lợi nhuận. Mỗi loại

hình doanh nghiệp và tổ chức có chức năng khác nhau và phƣơng thức hoạt

động XKLĐ khác nhau.

1.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

Nhà nƣớc có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động XKLĐ, đặc

biệt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt nhƣ hiện nay, do đó vai trò

của Nhà nƣớc đối với hoạt động XKLĐ lại càng thể hiện rõ nét. Nhà nƣớc

chính là chủ thể ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp

lý cho hoạt động XKLĐ thực hiện, Nhà nƣớc có bộ máy nhân sự để vận hành

tổ chức quản lý hoạt động XKLĐ. Đồng thời Nhà nƣớc ban hành các chính

sách hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để hoạt động XKLĐ phát triển. Vì

vậy, QLNN về hoạt động XKLĐ là một tất yếu.

21

Hoạt động XKLĐ đem lại hiệu quả lớn trong quá trình phát triển kinh

tế - xã hội của quốc gia: XKLĐ góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập

cho NLĐ. Đồng thời, XKLĐ còn đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất

nƣớc, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế do vậy rút ngắn khoảng

cách giàu - nghèo giữa nƣớc phát triển và nƣớc đang phát triển. Vì vậy, nhà

nƣớc phải quản lý hoạt động XKLĐ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế góp phần

phát triển chung của đất nƣớc.

Về quan hệ đối ngoại: XKLĐ góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, từ

đó quan hệ giữa nƣớc XKLĐ và nƣớc NKLĐ trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau

hơn, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt

động XKLĐ còn nhiều vấn đề nhƣ một bộ phận NLĐ khi hết hạn hợp đồng

vẫn ở lại cƣ trú, làm việc bất hợp phát trên nƣớc bạn; một số thực tập sinh bỏ

trốn khỏi nơi làm việc, vi phạm pháp luật nƣớc sở tại. Vì vậy, Nhà nƣớc phải

sử dụng các công cụ quản lý nhà nƣớc nhằm giảm thiểu những vấn đề tồn tại

nêu trên.

Chất lƣợng nguồn lao động xuất khẩu của nƣớc CHDCND Lào còn

nhiều hạn chế, số lƣợng LĐXK có tay nghề và trình độ cao rất thấp, đa phần

là lao động phổ thông, khả năng giao tiếp của lao động nƣớc CHDCND Lào

kém dẫn đến khó khăn trong việc truyền đạt công việc và đào tạo, ý thức chấp

hành kỷ luật chƣa cao. Vì vậy, Nhà nƣớc cần quản lý để nâng cao chất lƣợng

nguồn lao động đảm bảo đáp ứng nhu cầu lao động trên TTLĐ quốc tế.

1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

1.2.3.1. Quản lý nhà nước đối với hoạt động XKLĐ phải đảm bảo

nguyên tắc gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, đảm bảo định

hướng xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân

Nhà nƣớc thực hiện việc quản lý bằng pháp luật và pháp luật đƣợc xây

dựng phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân.

22

Đối với hoạt động XKLĐ thì Nhà nƣớc thực hiện quản lý bằng hệ thống pháp

luật về XKLĐ và các luật khác có liên quan nhằm mục đích duy trì hoạt động

XKLĐ diễn ra trong trật tự, lành mạnh, đảm bảo mang lại lợi ích chung cho

toàn xã hội. Ngoài chức năng và nhiệm vụ quản lý, Nhà nƣớc còn có chức

năng và nhiệm vụ tổ chức, điều tiết, dẫn dắt hoạt động XKLĐ phát triển ổn

định, bền vững. Để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ QLNN về XKLĐ

nhà nƣớc cần có các công cụ quản lý nhƣ: Chiến lƣợc, quy hoạch, đề án, kế

hoạch phát triển, chính sách tài chính, tín dụng ƣu đãi hỗ trợ cho các chủ thể

tham gia, là các chính sách phân phối lợi ích, hỗ trợ rủi ro, bảo hiểm xã hội.

1.2.3.2. QLNN đối với hoạt động XKLĐ phải tuân thủ các yêu cầu, quy

tắc đã cam kết tham gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế khu vực và

toàn cầu cũng như các thông lệ và chuẩn mực khác trong các quan hệ kinh tế

quốc tế

Ngày nay, xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới với các cấp độ

khu vực hóa và toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ đã đặt ra yêu cầu hội

nhập quốc tế ngày càng sâu sắc trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của

các nƣớc khác trên thế giới. Trong các hoạt động kinh tế quốc tế, XKLĐ

mang lại lợi ích to lớn về xã hội, đóng góp giá trị kinh tế rất lớn để phát triển

đất nƣớc cho nên Nhà nƣớc cần phải đầu tƣ bằng nguồn lực nhà nƣớc để phát

triển XKLĐ. Hiện nay, Lào đã tham gia ký kết nhiều Hiệp định song phƣơng

và đa phƣơng với nhiều nƣớc trên thế giới về các lĩnh vực hợp tác. Điều này,

góp phần mở ra cơ hội cho các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển nhƣng

đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức khi phải tuân thủ các cam kết đảm

bảo thƣơng mại tự do và tự do cạnh tranh.

1.2.3.3. Đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch

trong mọi hoạt động QLNN đối với hoạt động XKLĐ

Nội dung của nguyên tắc này là phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và

tối ƣu giữa tập trung và dân chủ trong QLNN. Tập trung dựa trên cơ sở dân

23

chủ, dân chủ phải đƣợc thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Tập trung đƣợc

biểu hiện thông qua công tác kế hoạch hóa để vạch ra mục tiêu phát triển

XKLĐ, thông qua việc thực thi hệ thống pháp luật về XKLĐ. Trong các cơ

quan, đơn vị thực hiện chế độ một thủ trƣởng, tức là thủ trƣởng đơn vị là

ngƣời đƣa ra quyết định cuối cùng trên cơ sở các ý kiến đóng góp của các đơn

vị, cá nhân liên quan. Biểu hiện của dân chủ là xác định rõ vị trí, trách nhiệm,

quyền hạn của các cấp; hạch toán kinh tế, chấp nhận cạnh trạnh, hội nhập và

mở cửa; giáo dục, bồi dƣỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nhận thức cho

cán bộ các cấp quản lý và quần chúng; kết hợp tốt quản lý theo ngành và quản

lý theo địa phƣơng, vùng lãnh thổ.

Bên cạnh đó, việc xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh

phục vụ nhân dân là mục tiêu nhất quán của Nhà nƣớc CHDCND Lào. Để đạt

đƣợc mục tiêu đó, công khai, minh bạch là một trong những nguyên tắc và

giải pháp cơ bản nhất để hạn chế tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình

QLNN. Nguyên tắc này đã đƣợc quán triệt ngay từ khi xây dựng chính sách,

cơ chế quản lý đến quá trình thực thi chính sách, tổ chức bộ máy và con ngƣời

trong bộ máy QLNN.

1.2.3.4. Đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia

hoạt động xuất khẩu lao động

Hoạt động XKLĐ liên quan đến lợi ích của các bên liên quan nhƣ

Nhà nƣớc, doanh nghiệp hay tổ chức XKLĐ, các cá nhân NLĐ cho nên

QLNN trƣớc hết là quản lý con ngƣời và phải chú ý đến lợi ích của con

ngƣời để tạo động lực, khuyến khích có hiệu quả tính tích cực lao động của

họ. Trong QLNN về XKLĐ phải kết hợp hài hòa các lợi ích của các đối

tƣợng nhƣ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích tập thể, tổ chức, doanh nghiệp XKLĐ

và lợi ích của các cá nhân, NLĐ thì mới đảm bảo sự hoạt động thông suốt

và đem lại hiệu quả cao.

24

1.2.3.5. Đảm bảo nguyên tắc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế

Hoạt động XKLĐ luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc Lào xác định là một

lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, một bộ phận của chính sách giải quyết

việc làm, tạo thu nhập và nâng cao đời sống cho NLĐ, tăng thu ngoại tệ cho

đất nƣớc và tăng cƣờng quan hệ hợp tác quốc tế nên cần phải đảm bảo nguyên

tắc này. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên

tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm

hòa nhập chứ không hòa tan, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trƣờng.

Ngoài ra cần phải đảm bảo một số nguyên tắc khác nhƣ tiết kiệm và

hiệu quả; phân định và kết hợp tốt chức năng QLNN với chức năng quản lý

kinh doanh của các tổ chức doanh nghiệp XKLĐ

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

Hoạt động xuất khẩu lao động rất cần có sự quản lý của nhà nƣớc bởi

QLNN không chỉ đảm bảo quyền lợi cho ngƣời lao động mà còn giúp các

doanh nghiệp xuất khẩu lao động đi đúng hƣớng, đóng góp cho sự tăng

trƣởng kinh tế nƣớc đi xuất khẩu lao động và nƣớc nhận lao động. Các nội

dung QLNN về XKLĐ bao gồm:

1.2.4.1 Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chính

sách về xuất khẩu lao động

Căn cứ vào việc phân tích tình hình kinh tế xã hội cũng nhƣ bối cảnh

trong nƣớc và quốc tế, kết hợp với phân tích và dự báo có căn cứ và khoa học

để đƣa ra các định hƣớng về XKLĐ đúng đắn và phù hợp. Trên cơ sở định

hƣớng về XKLĐ, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội xây dựng và tổ chức thực

hiện chiến lƣợc, kế hoạch cũng nhƣ chính sách XKLĐ từng thời kỳ

25

Chiến lƣợc về XKLĐ là hệ thống các quan điểm, định hƣớng phát triển,

mục tiêu tổng quát và các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện các mục tiêu đề

ra cho hoạt động XKLĐ trong một khoảng thời gian.

Chính chiến lƣợc XKLĐ là căn cứ để hoạch định các chính sách

XKLĐ, kế hoạch, chƣơng trình, dự án trong từng giai đoạn.

Kế hoạch về XKLĐ là việc cụ thể hóa các mục tiêu mà nhà nƣớc đã đề

ra về XKLĐ. Kế hoạch thƣờng là trung hạn (3-5 năm) hoặc kế hoạch hàng

năm. Kế hoạch trung hạn là việc xác định hệ thống mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản

của hoạt động XKLĐ, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chƣơng

trình, dự án về XKLĐ. Nội dung của kế hoạch trung hạn bao gồm: Xác định

nhiệm vụ tổng quát, các mục tiêu, chỉ tiêu XKLĐ nhƣ chỉ tiêu về lao động và

việc làm (quy mô và cơ cấu lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo các hình

thức, ngành nghề, trình độ kỹ năng, thị trƣờng…); chỉ tiêu về tăng trƣởng

kinh tế (thu nhập của lao động làm việc ở nƣớc ngoài, tiền gửi về nƣớc, giá trị

dịch vụ xuất khẩu).

Xác định các chƣơng trình cho XKLĐ nhƣ: Đào tạo nghề cho LĐXK,

xúc tiến thƣơng mại dịch vụ và XKLĐ; hỗ trợ các đối tƣợng chính sách đi

XKLĐ; bảo vệ NLĐ làm việc ở nƣớc ngoài.

Kế hoạch hàng năm về XKLĐ là việc cụ thể hóa kế hoạch trung hạn

nhằm thực hiện kế hoạch trung hạn, là cơ sở để chỉ đạo và điều hành các hoạt

động XKLĐ trong năm. Nội dung của kế hoạch hàng năm bao gồm xác định

các chỉ tiêu về số lƣợng, cơ cấu XKLĐ từng thị trƣờng, từng ngành nghề, dự

toán phân bổ kinh phí, phân công, phân cấp thực hiện. Nghiên cứu nguồn

cung lao động trong nƣớc và nhu cầu tiếp nhận lao động của các nƣớc để xác

định chiến lƣợc, định hƣớng kế hoạch phát triển hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài nói chung và cho từng khu vực, từng nƣớc nói riêng.

Chƣơng trình, kế hoạch về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài là

một bộ phận của chiến lƣợc ổn định và phát triển KTXH, do đó hệ thống

26

chính sách, chƣơng trình kế hoạch hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc

ngoài phải phù hợp với chính sách đầu tƣ, chính sách ƣu đãi về thuế và chính

sách đào tạo.

Để tận dụng nguồn nhân lực có chất lƣợng sau khi tham gia XKLĐ trở

về, cần xây dựng và thực hiện chính sách tái xuất lao động sau khi hết hạn

hợp đồng XKLĐ về nƣớc. Thông qua hoạt động tái XKLĐ vừa giảm bớt đƣợc

gánh nặng việc làm, vừa tăng thêm thu nhập cho ngƣời lao động xuất khẩu

hết hạn hợp đồng về nƣớc Lào vẫn còn khả năng làm việc ở nƣớc ngoài, tiết

kiệm chi phí đào tạo đối với lao động đi xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ

cho đất nƣớc Lào. Đồng thời ngƣời lao động thuận lợi trong việc học hỏi tiếp

thu đƣợc nhiều kinh nghiệm công nghệ hiện đại, phƣơng pháp tiên tiến, tác

phong công nghiệp.

1.2.4.2. Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan

đến xuất khẩu lao động

Trong hoạt động quản lý nhà nƣớc, văn bản pháp lý là công cụ đặc

trƣng, thể hiện tính quyền lực của nhà nƣớc trong việc điều tiết các mối quan

hệ xã hội. Thông qua hệ thống luật pháp, Nhà nƣớc tạo môi trƣờng thuận lợi

cho hoạt động xuất khẩu lao động, bảo hộ các quyền và sở hữu hợp pháp của

ngƣời dân đi lao động và cộng đồng doanh nghiệp tham gia XKLĐ, tạo điều

kiện để nhà nƣớc thể hiện vai trò của ngƣời điều hành nền kinh tế thị trƣờng,

dẫn dắt nền kinh tế theo mục tiêu đã định và khắc phục những hạn chế trong

quá trình thực hiện. Để đƣa lao động ra nƣớc ngoài làm việc đạt hiệu quả cao,

Nhà nƣớc tạo môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển thông

qua nghiên cứu và ban hành hệ thống văn bản qui phạm pháp luật để quản lý,

điều hành nhằm thống nhất hoạt động xuất khẩu lao động, thực hiện QLNN

bằng pháp luật, nhƣ: Bộ Luật Lao động, Thông tƣ hƣớng dẫn tổ chức thực

hiện xuất khẩu lao động Lào đi làm việc tại nƣớc ngoài, Luật xuất nhập cảnh,

Luật Giáo dục.

27

Nội dung của công việc này là việc thể chế hóa đƣờng lối kinh tế thành

pháp luật và thể chế của nhà nƣớc, có tác dụng: Thiết lập khuôn khổ pháp lý

thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật

về hoạt động xuất khẩu lao động, tạo ra môi trƣờng pháp lý cho hoạt động

xuất khẩu lao động. Tạo niềm tin cho công dân, làm cho công dân yên tâm

làm giàu về kinh tế, toàn tâm, toàn ý lập thân, lập nghiệp khi nhà nƣớc đã có

đƣờng lối chính trị - kinh tế rõ ràng.

Cơ quan QLNN có trách nhiệm ban hành hệ thống các văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động XKLĐ nhƣ điều kiện đối với doanh

nghiệp hoạt động XKLĐ, quy trình cấp phép đăng ký hoạt động XKLĐ, mẫu

hợp đồng cung ứng lao động, điều kiện đối với NLĐ. Tuy nhiên, căn cứ quan

điểm, mục tiêu, nhiệm vụ đối với XKLĐ ở từng thời kỳ khác nhau mà Nhà

nƣớc ban hành và thực hiện các chính sách liên quan đến XKLĐ khác nhau.

Tính đến nay hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động xuất khẩu lao

động cơ bản đã đƣợc hoàn thiện và cụ thể hoá, bao gồm: Luật Lao động và

các văn bản dƣới Luật hƣớng dẫn thi hành (02 Nghị định của Chính phủ, 01

Quyết định của Thủ trƣớng CP; 03 Thông tƣ liên Bộ và nhiều quyết định của

Bộ trƣởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội).

1.2.4.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động là hệ thống tổ

chức gồm các cơ quan, bộ phận hợp thành nhằm thực hiện chức năng quản lý

nhà nƣớc về XKLĐ nhƣ: Chính Phủ, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, Bộ An

Ninh, Bộ Kinh tế.

Ngoài ra, Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động còn

là hệ thống tổ chức các cơ quan hành chính nhà nƣớc thực hiện quản lý hoạt

động xuất khẩu lao động. Bộ máy quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động

đƣợc tổ chức từ trung ƣơng đến địa phƣơng và cơ quan quản lý lao động ở

28

nƣớc ngoài. Tùy vào mục tiêu hoạt động xuất khẩu lao động ở từng thời kỳ

khác nhau mà chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy quản lý nhà

nƣớc về xuất khẩu lao động khác nhau.

1.2.4.4. Thanh tra, kiểm tra các hoạt động xuất khẩu lao động

Thanh tra, kiểm tra hoạt động XKLĐ có vai trò rất quan trọng trong

QLNN về XKLĐ, nó giúp cơ quan QLNN đánh giá thực trạng tình hình thực

hiện các quy định của Nhà nƣớc về XKLĐ, trên cơ sở đó có những hƣớng

dẫn, hỗ trợ, điều chỉnh, xử lý, khắc phục kịp thời các vấn đề phát sinh nhằm

đảm bảo thực hiện tốt và hiệu quả mục tiêu của XKLĐ đề ra. Nội dung thanh

tra, kiểm tra hoạt động XKLĐ bao gồm kiểm tra việc thực hiện các quy định

liên quan đến XKLĐ; kiểm tra sự tuân thủ về phân phối lợi ích; sự tuân thủ về

tài chính trong XKLĐ.

Việc thanh tra, kiểm tra đƣợc thực hiện trong phạm vi các doanh

nghiệp đƣợc cấp phép hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, các

đơn vị, tổ chức cung cấp lao động cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá

nhân khác có liên quan và giải quyết đơn thƣ khiếu nại, tố cáo có liên quan

theo hình thức định kỳ, theo chuyên đề, theo vụ việc hoặc thanh kiểm tra

trọng điểm.

Trong quá trình thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện doanh nghiệp có vi

phạm thì doanh nghiệp sẽ bị xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh

cáo và phạt tiền, trƣờng hợp gây hậu quả nghiêm trọng có thể áp dụng biện

pháp phạt bổ sung nhƣ đình chỉ hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài

hoặc thu hồi giấy phép.

Đối với NLĐ làm việc ở nƣớc ngoài, nếu bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn,

cƣ trú bất hợp pháp sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp

khắc phục hậu quả “buộc về nƣớc” và nếu cố tình vi phạm, ở lại nƣớc ngoài

trái phép thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

29

1.2.4.5. Tuyên truyền công tác xuất khẩu lao động

Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải

quyết việc làm cho nhiều lao động và là con đƣờng giúp nhiều ngƣời dân

thoát nghèo, vƣơn lên làm giàu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đƣa ngƣời lao động

đi làm việc ở nƣớc ngoài, một trong những yếu tố để đảm bảo thành công đó

là công tác thông tin, truyền thông, đây luôn là khâu đầu tiên và cần phải đi

trƣớc một bƣớc nhằm ngăn ngừa các hành vi lừa đảo, tiêu cực.

Đƣa ngƣời lao động nƣớc CHDCND Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài là

một chủ trƣơng đúng đắn nhằm mở nhiều hƣớng giải quyết việc làm, nhất là

đối với thanh niên. Để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động, bên

cạnh việc các cơ quan chức năng cần tiếp tục có những biện pháp hiệu quả

nhằm khắc phục kịp thời những điểm yếu của ngƣời lao động của Lào hiện

nay nhƣ trình độ ngoại ngữ kém, lao động có trình độ chuyên môn cao còn

thấp, kỷ luật lao động chƣa cao thì vấn đề quan trọng không kém hiện nay đó

là tăng cƣờng công tác đẩy mạnh tuyên truyền về xuất khẩu lao động.

Nội dung tuyên truyền về xuất khẩu lao động phải phản ánh sinh động

thực tế, hình thức phong phú; có những thông điệp cụ thể cho từng nhóm đối

tƣợng, đầy đủ thông tin về xuất khẩu lao động, về từng thị trƣờng, các địa chỉ

xuất khẩu lao động đáng tin cậy, về văn hóa và phong tục tập quán, luật pháp

của nƣớc sở tại, làm cho một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa chƣa nhận thức đúng về xuất khẩu lao động.

Nếu không có công tác tuyên truyền đúng đắn sẽ dẫn đến tình trạng

một bộ phận ngƣời lao động còn thiếu thông tin, khả năng tự liên hệ trực tiếp

với doanh nghiệp xuất khẩu lao động là khó khăn; có tình trạng doanh nghiệp

cần tuyển ngƣời thì không có trong khi đó ngƣời cần đi xuất khẩu lao động thì

không biết ở đâu có nhu cầu để mà đến tuyển nên đã xảy ra các trƣờng ngƣời

lao động bị kẻ xấu lừa đảo do thiếu thông tin, gây tâm lý hoang mang cho

ngƣời lao động và xã hội.

30

1.2.4.6. Hợp tác quốc tế trong xuất khẩu lao động

Ngày nay trong xu thế hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, xuất khẩu

lao động đã trở thành một lĩnh vực trong kinh tế đối ngoại. Hiện tại đã có luật

pháp, có chính sách và cơ chế điều hành, quản lý tƣơng đối đồng bộ, tạo

thuận lợi lớn cho công việc. Tuy nhiên càng phát triển thị trƣờng, càng mở

rộng quy mô xuất khẩu lao động, càng xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp

thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện luật pháp, chính sách và cơ chế.

Ở giai đoạn hợp tác quốc tế về lao động thƣờng có ba loại văn bản mà

cơ quan quản lý nhà nƣớc đƣợc sự ủy quyền của Chính phủ phải đàm phán ký

kết, đó là: các Hiệp định về hợp tác lao động (có giá trị pháp lý từ 5 đến 10

năm); các Nghị định thƣ đƣợc đàm phán ký kết hàng năm nhằm cụ thể hóa

năm tới sẽ đƣa và tiếp nhận bao nhiêu lao động, cơ cấu lao động đƣa đi cùng

các điều kiện cụ thể để đƣa và tiếp nhận; các Bản ghi nhớ trong các cuộc làm

việc song phƣơng.

Trong giai đoạn xuất khẩu lao động hiện nay, nhìn chung, ít có các

Hiệp định lâu dài 5, 10 năm mà chủ yếu là các hợp đồng lao động cụ thể của

các doanh nghiệp xuất khẩu lao động nƣớc CHDCND Lào ký với các doanh

nghiệp, tổ chức nƣớc ngoài trong thời hạn một vài năm. Cơ quan quản lý nhà

nƣớc chủ yếu chỉ đàm phán, ký kết một số điều ƣớc, thỏa thuận quốc tế. Tuy

nhiên đây là những văn bản pháp lý rất quan trọng của thời kỳ "mở cửa", hội

nhập kinh tế quốc tế.

Vì vậy khi đàm phán, ký kết các văn bản này cần tuyệt đối tuân thủ các

nguyên tắc cơ bản:

Một là, bảo đảm không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng, cùng có lợi (phải hết sức tỉnh táo, không để phía đối tác "cài cắm"

những điều, khoản bất lợi cho quốc gia).

Hai là, phù hợp với Hiến pháp nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào;

phải phù hợp với lợi ích quốc gia, phù hợp với đƣờng lối đối ngoại của Nhà

nƣớc CHDCND Lào.

31

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về xuất khẩu

lao động

1.2.5.1. Những nhân tố chủ quan

a) Môi trường kinh tế, chính trị và xã hội trong nước

Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội tạo nên môi trƣờng vĩ mô ảnh hƣởng

tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, nó cũng quyết định phƣơng thức, tổ

chức bộ máy quản lý của đất nƣớc, trong đó có hoạt động QLNN về XKLĐ.

Mặt khác, XKLĐ liên quan đến nhiều lĩnh vực QLNN thuộc nhiều cơ quan

khác nhau nhƣ Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội; Bộ Ngoại giao, Bộ An

Ninh. Vì vậy, QLNN về XKLĐ chịu ảnh hƣởng từ các mối quan hệ biện

chứng nêu trên.

b) Chủ trương và định hướng mở cửa và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh

tham gia vào quá trình toàn cầu hóa của Đảng và Nhà nước

Với xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đã làm cho sự

phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Ngày

31/12/2015, Lào tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN tạo ra nhiều cơ hội cũng

nhƣ thách thức trong lĩnh vực XKLĐ nói riêng và các lĩnh vực kinh tế - chính

trị - xã hội nói chung. Cùng với đó, thị trƣờng nƣớc CHDCND Lào cũng “mở

cửa” để đón nhận nguồn lao động chất lƣợng cao từ các nƣớc phát triển này

đến làm việc. Việc tự do dịch chuyển lao động này cũng chính là một cuộc

cạnh tranh chất lƣợng lao động của mỗi quốc gia. Lao động của Lào sẽ đối

mặt với việc phải cạnh tranh với lao động của các nƣớc trong khối liên kết

ngay trên sân nhà. Vì thế, chính bản thân lao động của Lào sẽ phải “cạnh

tranh” lẫn nhau. Lúc này, đòi hỏi mỗi lao động phải nâng cao tay nghề, kỹ

năng và tác phong làm việc thật sự chuyên nghiệp [1, tr.23].

c) Chất lượng nguồn lao động trong nước

Trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, chất lƣợng

nguồn lao động là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của đất

32

nƣớc và sự sống còn của các doanh nghiệp. Mặt khác, ở nƣớc Lào hiện nay

chất lƣợng nguồn nhân lực vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức và còn tồn tại

nhiều yếu kém, hạn chế. Ƣu điểm của nguồn lao động nƣớc CHDCND Lào

là: có nguồn lao động dồi dào, cần cù, thông minh, sáng tạo, có kinh nghiệm

sản xuất nông - lâm - ngƣ nghiệp. Tuy nhiên hạn chế là lực lƣợng lao động có

trình độ còn ít trong tổng lao động, thiếu công nhân lành nghề và lao động có

trình độ cao, phân bố lực lƣợng lao động chƣa đều, nhất là lao động có trình

độ. Vì vậy, đặt ra yêu cầu về QLNN phải có những giải pháp để nâng cao

hiệu quả phát triển nguồn lao động trong nƣớc.

d) Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác tổ chức và thực hiện hoạt

động XKLĐ

Các yếu tố ảnh hƣởng đến công tác tổ chức và thực hiện hoạt động

XKLĐ nhƣ Bộ máy QLNN về XKLĐ, đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ

máy QLNN về XKLĐ và hiệu quả thực hiện của bộ máy QLNN. Trong các

yếu tố trên thì yếu tố về con ngƣời (đội ngũ cán bộ, công chức) đóng vai trò

quan trọng nhất vì họ là ngƣời đƣa pháp luật, cơ chế, chính sách vào thực tế.

Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả QLNN thì nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ,

công chức là vấn đề tất yếu cần quan tâm.

e) Chất lượng các doanh nghiệp XKLĐ

Hoạt động XKLĐ có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào năng

lực tổ chức và thực hiện của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp XKLĐ không

chỉ phải có năng lực về vồn đầu tƣ cơ sở vật chất, khai thác, mở rộng thị

trƣờng mà còn phải hiểu rõ pháp luật trong nƣớc và pháp luật quốc tế.

f) Quan hệ chính trị với các nước

Lĩnh vực XKLĐ là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con ngƣời và mỗi

quốc gia khác nhau thì con ngƣời lại chịu ảnh hƣởng của các nét đặc trƣng

văn hóa riêng khác nhau. Vì vậy trong hoạt động XKLĐ và NKLĐ mối quan

hệ chính trị giữa các nƣớc với nhau có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Nếu giữa

33

các nƣớc không có sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau về chính trị, tôn giáo thì

dễ xảy ra bất đồng, mâu thuẫn.

1.2.5.2. Những nhân tố khách quan

a) Bối cảnh kinh tế thế giới

Bối cảnh kinh tế thế giới có sự tác động rất lớn đến hoạt động XKLĐ.

Hiện nay, dịch viêm đƣờng hô hấp cấp do chủng mới virus corona (2019-

nCoV) gây ra đang gây ảnh hƣởng nặng nề đến mọi mặt của nền kinh tế thế

giới và cũng đã ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động XKLĐ của các quốc gia

trên thế giới. Việc XKLĐ trong thời điểm hiện nay là không thể thực hiện

đƣợc dẫn đến một số nƣớc thiếu hụt lao động và một số nƣớc thì không thể

XKLĐ. Lào cũng nằm trong tình hình chung của thế giới, không thể XKLĐ đi

các nƣớc mà phải đón các công dân về nƣớc để bảo vệ công dân trƣớc tình

hình bùng phát của dịch viêm đƣờng hô hấp cấp do chủng mới virus corona

(2019-nCoV)

b) Sự phát triển của khoa học - công nghệ

Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao

động, giảm nhẹ cƣờng độ lao động, giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ

rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm và chu

kỳ sản xuất cũng đƣợc rút ngắn đáng kể. Với sự tác động của tiến bộ khoa học

- công nghệ, chúng ta thấy trên TTLĐ quốc tế tình trạng cung vƣợt cầu ở

phân đoạn lao động phổ thông, trong khi đó diễn ra tình trạng thiếu lao động

trình độ cao.

c) Đặc điểm thể chế chính trị, văn hóa, xã hội, luật pháp, phong tục tập

quán của các nước NKLĐ

XKLĐ không chỉ chịu ảnh hƣởng của quy luật cung cầu mà còn chịu

tác động của nhiều yếu tố khác nhƣ chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo. Nếu

nƣớc NKLĐ và nƣớc XKLĐ có sự tƣơng đồng về văn hóa sẽ thuận lợi trong

quan hệ lao động, khi đó NLĐ sẽ dễ hòa nhập hơn với môi trƣờng làm việc và

34

sinh hoạt. Ngƣợc lại, đối với những quốc gia có quan hệ đối nghịch hay thù

địch về chính trị thƣờng khó khăn trong việc phát triển thị trƣờng XKLĐ. Vì

vậy, QLNN về XKLĐ cần phải hiểu rõ những đặc điểm của nƣớc NKLĐ để

có giải pháp hài hòa mối quan hệ giữa các bên .

d) Các yếu tố không thường xuyên và bất khả kháng khác

Chiến tranh, xung đột giữa các nƣớc, khu vực dù không thƣờng xuyên

xảy ra nhƣng cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động XKLĐ. Nhƣ năm

2020 dịch Covid - 19 bùng nổ, nhiều lao động nƣớc ngoài trở về nƣớc trƣớc

thời hạn vì nhiều công ty, doanh nghiệp đóng cửa sản xuất.

1.3. Kinh nghiệm QLNN đối với hoạt động XKLĐ của các nƣớc

trên thế giới

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của

Philippines

Philippines là một trong những nƣớc có hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Ngƣời Philippines đi

lao động ở khắp nơi trên thế giới, số lao động có mặt ở nƣớc ngoài bình quân

khoảng 7,5 triệu ngƣời và thu nhập trung bình đạt khoảng 5-6 tỷ USD/năm.

[23, tr.1]. Từ lâu Philippines đã coi XKLĐ là một trong những ngành kinh tế

đối ngoại quan trọng của đất nƣớc và có rất nhiều kinh nghiệm để tăng cƣờng

và quản lý tài chính XKLĐ.

Bộ Luật lao động của Philippines ra đời năm 1973 đã đặt cơ sở về việc

làm ngoài nƣớc với quan điểm xúc tiến việc XKLĐ dƣ thừa cho đến khi nền

kinh tế của đất nƣớc phát triển tạo đủ việc làm cho mọi ngƣời trong độ tuổi

lao động. Nhằm đạt đƣợc mục tiêu này, Bộ Luật Lao động đã đề ra quan điểm

quản lý ba bên đối với hoạt động này.

Theo quan điểm này, đã thành lập ba cơ quan riêng biệt, trực thuộc Bộ

Lao động và Việc làm, đó là:

35

- Ban phát triển việc làm ngoài nƣớc, là cơ quan tuyển mộ nhà nƣớc,

chịu trách nhiệm về tuyển mộ và bố trí lao động trên đất liền.

- Hội đồng Thuỷ thủ quốc gia chịu trách nhiệm về quản lý các hoạt

động của các công ty tuyển mộ thủy thủ đi làm việc trên biển.

- Văn phòng Dịch vụ việc làm chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi các tổ

chức tuyển mộ đã đƣợc cấp giấy phép trong việc bố trí việc làm ở nƣớc ngoài

cho tới khi kết thúc hợp đồng. Chính phủ Philippine thực hiện các chức năng

tuyển mộ, bố trí quản lý các khu vực tƣ nhân tham gia vào chƣơng trình

XKLĐ. Các chức năng trên đây do một cơ quan chính phủ duy nhất thực hiện,

đó là Cục Quản lý việc làm ngoài nƣớc (POEA).

Cụ thể một số chính sách liên quan đến quản lý lao động làm việc tại

nước ngoài:

Việc phát triển thị trƣờng và xúc tiến việc làm ngoài nƣớc là một

trong những hoạt động cơ bản của POEA. Chƣơng trình tiếp thị và các

chiến lƣợc tiếp thị do POEA soạn thảo có sự tham gia của Trung tâm lao

động khu vực và các Tuỳ viên lao động. Công tác tiếp thị đƣợc tập trung

vào việc xuất bản các văn bản, các ấn phẩm thông tin để các công ty có thể

sử dụng trong các chƣơng trình Marketing của họ; và định kỳ thông báo

tình hình về thị trƣờng để các công ty có định hƣớng hoạt động; tổ chức

quảng cáo lao động Philippines trong các tạp chí chuyên ngành quốc tế và

thƣơng mại quốc tế [3, tr.30].

Cho phép lập nguồn lao động để XKLĐ. Việc lập nguồn đƣợc đăng

ký bằng máy tính. Khuyến khích các công ty tƣ nhân lập quỹ lao động riêng

của họ và đƣợc phép quảng cáo trên các phƣơng tiện thông tin với điều

kiện khi quảng cáo phải nói rõ là chỉ để lập quỹ lao động và không đƣợc

thu lệ phí của công nhân đến đăng ký. Yêu cầu phải huấn luyện, đào tạo để đi

lao động ở nƣớc ngoài. Căn cứ vào các yêu cầu cụ thể của từng ngành nghề,

mà các chƣơng trình huấn luyện đặc biệt đƣợc áp dụng với sự hỗ trợ của

36

Chính phủ. Không cấm việc xuất khẩu công nhân thuộc các nghề đặc biệt

hoặc có tay nghề cao đặc biệt. Không cho phép các chủ sử dụng lao động

nƣớc ngoài trực tiếp thuê mƣớn công nhân Philippines làm việc. Việc thuê

mƣớn phải thông qua POEA. Mọi cá nhân đều có quyền tìm việc làm ngoài

nƣớc, họ phải xuất trình hợp đồng cá nhân hoặc giấy phép bảo lãnh của chủ

sử dụng thì POEA sẽ cấp giấy phép [3, tr.31].

Các công ty đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài đƣợc phép thu lệ phí

sắp xếp việc làm khi ký hợp đồng lao động, NLĐ giữ gìn tƣ cách và truyền

thống dân tộc, chấp hành và tôn trọng pháp luật, phong tục, tập quán của

nƣớc sở tại, phải trích lƣơng chuyển về nhà giúp đỡ gia đình.

Về quy chế cấp giấy phép cho các công ty: Chỉ có các công nhân

Philippines hoặc các tập đoàn liên doanh có 75% vốn pháp định có quyền

biểu quyết do ngƣời Philippines nắm giữ mới đƣợc quyền kinh doanh tuyển

lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Philippines hiện có ba loại giấy phép:

+ Giấy phép cho các công ty tuyển dụng lao động và bố trí việc làm

trên đất liền.

+ Giấy phép cho các công ty tuyển mộ và bố trí việc làm trên biển.

+ Giấy phép cho các nhà thầu, khoán xây dựng tuyển mộ và bố trí

việc làm cho công nhân trong các công trình nhận thầu ở nƣớc ngoài.

Hàng năm POEA tiến hành đánh giá hoạt động của các công ty đƣợc

cấp giấy phép theo chỉ tiêu sau: số lƣợng lao động gửi đi, số ngoại tệ

chuyển về, việc chấp hành các quy chế, quy định, chất lƣợng quản lý, sự

lành mạnh về tài chính, các hoạt động phúc lợi. Việc đánh giá hoạt động

của các công ty giúp cho việc xem xét quyết định liệu công ty có còn đƣợc

tham gia chƣơng trình đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài hay không.

Những công ty đƣợc đánh giá tốt sẽ tăng cƣờng quyền lực và ƣu thế cạnh

tranh của họ trong lĩnh vực này, đồng thời nâng cao uy tín ở nƣớc ngoài.

Sau khi đƣợc cấp phép, các công ty tiến hành quảng cáo, thu nhận

37

ngƣời xin việc, phỏng vấn, kiểm tra tay nghề, kiếm tra sức khoẻ và ký hợp

đồng lao động [3, tr.32].

Tập huấn trƣớc lúc đi là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các công

nhân đi làm việc ở nƣớc ngoài. Trách nhiệm tổ chức thuộc về các công ty

và các nhà thầu khoán. Nội dung tập huấn do POEA quy định. Các học

viên sau khi kết thúc khoá tập huấn đƣợc cấp chứng chỉ. Công nhân đi

làm việc ở nƣớc ngoài đƣợc cấp loại hộ chiếu có đóng dấu đặc biệt của

Trung tâm dịch vụ lao động thuộc POEA cho phép phân biệt, nhận biết họ

với những hành khách khác. Không một hãng hàng không nào nhận làm

thủ tục và không một công an cửa khẩu nào cho phép lao động ra máy bay

nếu hộ chiếu của ngƣời đó chƣa đóng dấu kiểm tra của Trung tâm dịch vụ

lao động.

1.3.2. Kinh nghiệm quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của Ấn Độ

Là nƣớc có truyền thống lâu đời về xuất khẩu lao động kỹ thuật cao lẫn

lao động phổ thông, Ấn Độ gửi công dân ra nƣớc ngoài làm việc nhiều hơn

bất kỳ quốc gia nào khác. Theo dữ liệu của Liên Hợp Quốc, có khoảng 17

triệu ngƣời Ấn Độ làm việc bên ngoài biên giới quốc gia trong năm 2017. Với

số lƣợng hùng hậu nhƣ vậy, lƣợng kiều hối đƣợc gửi về Ấn Đồ đang giữ vị trí

số 1 thế giới hiện nay [21, tr.1].

Trong số lao động Ấn Độ đang làm việc ở nƣớc ngoài, có khoảng 20%

là lao động có tay nghề và chuyên gia, 80% còn lại chủ yếu là lao động phổ

thông. Thị trƣờng xuất khẩu lao động của Ấn Độ là các quốc vùng Vịnh và

Trung Đông, tiếp theo là các nƣớc thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh

tế (OECD), và các nƣớc Đông Nam Á. Năm 2018, lƣợng kiều hối đƣợc

chuyển về Ấn Độ đạt khoảng 79 tỷ USD, cao nhất thế giới [21, tr.1].

Chúng ta có thể nghiên cứu kinh nghiệm của Ấn Độ với những nội

dung sau:

38

Một là, cơ chế tổ chức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của Ấn Độ:

Luật Di trú năm 1983 của Ấn Độ ra đời, giao cho Bộ Lao động quản lý các

hoạt động liên quan đến XKLĐ, chuyên gia và vấn đề di trú. Luật này đã điều

chỉnh việc lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài trên cơ sở hợp đồng, nhằm bảo

vệ quyền lợi và phúc lợi cho NLĐ. Luật này quy định các tổ chức, hoặc cá

nhân thực hiện dịch vụ tuyển chọn lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài đều

phải có giấy phép do Bộ Lao động cấp. Ngoài ra Luật Di trú còn quy định các

chế tài xử phạt các vi phạm từ mức độ thấp đến cao; Cơ quan có thẩm quyền

có thể tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền ký quỹ của các tổ chức và cá

nhân làm nhiệm vụ cung ứng lao động khi vi phạm các cam kết; Chính phủ có

thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cung ứng LĐXK và cấm đƣa lao động sang một

số nƣớc khác khi cần thiết [21, tr.1].

Hai là, chính sách quản lý hoạt động: Chính phủ đã ban hành một số

chính sách quản lý hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, chẳng hạn,

năm 1978, bắt đầu thực hiện hợp tác quốc tế về nguồn nhân lực ở Bang Kerala.

Một số tổ chức cung ứng LĐXK đã đƣợc thành lập ở Đê-li và Ma-dra để gửi lao

động kỹ thuật đã qua đào tạo đi làm việc ở nƣớc ngoài theo yêu cầu của chủ sử

dụng nƣớc ngoài. Chính phủ cũng bắt đầu tiến hành các thỏa thuận hợp đồng với

các nƣớc Trung đông, Châu Phi, Đông Nam Á trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và

kỹ thuật về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài [21, tr.1].

Ba là, Chính sách phát triển ngành xuất khẩu chủ lực: Ngành Công

nghệ thông tin của Ấn Độ là ngành cung cấp nhiều nhất LĐXK sang các

nƣớc. Trong tổng thu nhập về xuất khẩu là 40 tỷ USD thì thu về xuất khẩu

phần mềm chiếm khoảng 20%, đạt khoảng 9,8 tỷ USD trong 2 năm 2015-

2020, trong đó dịch vụ xuất khẩu chuyên gia chiếm gần 50% [22, tr.1].

Bốn là, chính sách đào tạo nghề cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở

nước ngoài: Sức mạnh và sự thành công của Ấn Độ trong lĩnh vực xuất khẩu

chuyên gia công nghệ thông tin chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực dồi dào, giỏi

39

tiếng Anh, đƣợc đào tạo cơ bản đã đem lại thế mạnh cạnh tranh cho Ấn Độ

khi tham gia TTLĐ quốc tế.

Năm là, các chính sách ưu đãi về thuế và khuyến khích đầu tư trong

nước như: Chính phủ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc đƣa ra các

biện pháp khuyến khích hồi hƣơng, thu hút NLĐ trở về tham gia vào hoạt

động sản xuất trong nƣớc, ứng dụng các kỹ năng tay nghề và chuyên môn

và sử dụng có hiệu quả nguồn tiền tiết kiệm từ hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài.

Sáu là, chính sách huy động kiều hối và huy động nguồn lực tài chính

của ngƣời Ấn Độ định cƣ làm việc ở nƣớc ngoài: Các khoản thu nhập ngoại

tệ, các khoản tiết kiệm của cá nhân ngƣời tham gia và nguồn tiền chuyển về

nƣớc từ hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài đã góp phần cân bằng

cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia thông qua hệ thống Công

trái phát triển của Ấn Độ, và tài khoản tiền gửi dành cho ngƣời hồi hƣơng,

góp phần ổn định nền tài chính, tiền tệ quốc gia [22, tr.1].

1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào

trong quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động

Từ những nghiên cứu kinh nghiệm quản lý của một số nƣớc điển hình

và tình hình thực hiện trong các năm qua, chúng ta có thể thấy:

Thứ nhất, về chủ trương và hành lang pháp lý đối với hoạt động đưa

NLĐ đi làm việc ở nước ngoài

Các nƣớc đều coi hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài là

chiến lƣợc lâu dài, nên đều có chƣơng trình quốc gia về hoạt động đƣa NLĐ đi

làm việc ở nƣớc ngoài, thực hiện xã hội hoá triệt để. Vấn đề hoạt động đƣa NLĐ

đi làm việc ở nƣớc ngoài thƣờng xuyên đƣợc đề cập trong các cuộc trao đổi cấp

cao và đƣợc thể hiện trong các thoả thuận song phƣơng với nƣớc ngoài.

Các cơ quan ngoại giao và kinh tế của Chính phủ thƣờng xuyên theo

dõi, cập nhật tình hình kinh tế - chính trị và nhu cầu của TTLĐ ngoài nƣớc để

40

khai thác và chiếm lĩnh. Họ đã đƣa quan điểm xúc tiến việc làm ngoài nƣớc

và hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài vào Bộ luật Lao động, thực

hiện QLNN từ khâu ký kết hợp đồng, tổ chức tuyển chọn, đƣa đi, trách nhiệm

quản lý NLĐ làm việc ở nƣớc ngoài cho đến khi hết hạn hợp đồng trở về

nƣớc, thực hiện các chế độ bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhà nƣớc, các

công ty cung ứng lao động và NLĐ, các hình thức thƣởng, phạt để xử lý các

vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

Hệ thống pháp luật về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài minh

bạch, chặt chẽ, nhƣng cũng rất thông thoáng tạo sự chủ động cho NLĐ và các

doanh nghiệp tham gia đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

Thứ hai, về cơ chế tổ chức, cấp giấy phép, tuyển chọn và quản lý lao

động làm việc ở nước ngoài

Các nƣớc đều có bộ máy QLNN về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở

nƣớc ngoài hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan QLNN, đại diện của các công ty

chuyên doanh, môi giới về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài tại

nƣớc sở tại. Ngoài ra, một số nƣớc còn có tùy viên lao động ở các cơ quan đại

diện ngoại giao tại nƣớc tiếp nhận lao động.

Chính phủ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động

đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, kể cả các hình thức thăm thân, tự tìm việc

làm ở nƣớc ngoài. Tổng cục Lao động hoặc Cục Quản lý việc làm ngoài nƣớc

là cơ quan đại diện của Chính phủ thực hiện cấp phép hoạt động đƣa NLĐ đi

làm việc ở nƣớc ngoài cho các công ty và cá nhân tham gia TTLĐ ngoài

nƣớc. Bộ máy tuyển dụng của các nƣớc đơn giản, gọn nhẹ, thủ tục thuận tiện,

chi phí đi lao động ở nƣớc ngoài thấp, thời gian thẩm định và cấp giấy phép

ngắn với chi phí thấp cho cả thời kỳ lao động.

Thứ ba, về chính sách thị trường, đa dạng hoá loại hình, xác định ngành

nghề mũi nhọn để đẩy mạnh hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài

41

Nhà nƣớc hỗ trợ các tổ chức kinh tế trong việc tìm kiếm, khai thác thị

trƣờng thông qua các hoạt động chính thức của Chính phủ và các cơ quan

ngoại giao. Các nƣớc đều tìm cách phát huy cao nhất lợi thế so sánh của lao

động nƣớc mình, thể hiện qua sự đa dạng hoá về hình thức và ngành nghề.

Dịch vụ Giúp việc gia đình là thế mạnh của Philippines, nhận thầu công trình

là thế mạnh của Trung Quốc. Trong khi đó Thái Lan lại có chính sách cạnh

tranh khéo léo, giữ uy tín nên lao động Thái Lan luôn đƣợc đánh giá cao.

Thứ tư, về chính sách đối với đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu, hỗ

trợ hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, chính sách thuế, lệ phí

sắp xếp việc làm, điều kiện để cấp giấy phép và khuyến khích chuyển thu

nhập về nước

Các nƣớc đều đẩy mạnh hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài

đã qua đào tạo và thực hiện hỗ trợ đào tạo LĐXK thông qua các Trung tâm

đào tạo, bổ túc nghề, ngoại ngữ, cung cấp thông tin miễn phí. Các nƣớc thực

hiện hỗ trợ các công ty cung ứng lao động và NLĐ bằng việc thành lập các

Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc, không đánh thuế thu nhập đối với lao động

ở nƣớc ngoài, miễn thuế chuyển tiền về nƣớc, áp dụng các biện pháp khuyến

khích chuyển tiền về nƣớc qua hệ thống ngân hàng nội địa, chính sách hỗ trợ

vốn vay đối với lao động trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc ngoài và khi hồi

hƣơng, quy định giới hạn hợp lý về số tiền đặt cọc của NLĐ xuất khẩu (ở

Philippines chỉ khoảng 1.000 USD), lệ phí sắp xếp việc làm, quy định mức

lƣơng tối thiểu của lao động làm việc ở nƣớc ngoài, thành lập Quỹ Phúc lợi

xã hội để hỗ trợ tƣ pháp, trợ giúp vật chất cho NLĐ bị tai nạn, trả tiền vé về

nƣớc, phụ cấp cho gia đình họ khi gặp khó khăn...Việc áp dụng các chính

sách khuyến khích hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài cũng rất linh

hoạt thích ứng với từng hoàn cảnh, điều kiện.

42

Tiểu kết chƣơng 1

Chƣơng 1 tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về khái niệm, đặc

điểm, hình thức, vai trò, lợi ích của XKLĐ; Khái niệm QLNN về XKLĐ, sự

cần thiết phải QLNN về XKLĐ, nguyên tắc QLNN về XKLĐ, nội dung

QLNN về XKLĐ, các nhân tố ảnh hƣởng đến QLNN về XKLĐ. Đồng thời,

trình bày kinh nghiệm QLNN về XKLĐ của một số nƣớc trên thế giới. Trên

cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho nƣớc CHDCND Lào.

Đặc biệt chƣơng 1 là đã chỉ ra một số các nhóm nhân tố ảnh hƣởng đến

QLNN về XKLĐ bao gồm các nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Đây

chính là cơ sở để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về

XKLĐ ở chƣơng 3 của luận văn.

Nhƣ vậy, Chƣơng 1 của Luận văn đã hệ thống hóa toàn diện những cơ

sở khoa học về QLNN về XKLĐ. Các nội dung của chƣơng 1 là cơ sở khoa

học cho việc giải quyết các vấn đề nghiên cứu ở các chƣơng tiếp theo..

43

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

CỦA NƢỚC CHDCND LÀO

2.1. Thực trạng lao động, việc làm của nƣớc CHDCND Lào

Nƣớc Lào nằm trên bán đảo Đông Dƣơng thuộc khu vực Đông Nam

Châu Á, không có biển, bao quanh là lục địa; có đƣờng biên giới tiếp giáp với

Việt Nam ở phía Đông, Campuchia ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây,

Myanma và Trung Quốc ở phía Bắc. Đây là một quốc gia có quy mô dân số

nhỏ nhƣng phát triển nhanh, phân bố không đều và mật độ dân số thấp; chất

lƣợng dân số và nguồn nhân lực tăng lên nhƣng chƣa cao.

Hiện tại nƣớc CHDCND Lào là nƣớc đang phát triển với định hƣớng

đến năm 2024 sẽ ra khỏi danh sách các nƣớc kém phát triển cũng nhƣ đến

năm 2030 sẽ dần đạt đƣợc các tiêu chí của phát triển bền vững. Về dân số tính

đến thời điểm ngày 01/04/2020 nƣớc CHDCND Lào có 7.275.560 ngƣời

(trong đó nữ chiếm tỷ lệ 50,2%, nam chiếm 49,8% và khoảng 35,7% dân cƣ

thành thị). Với số lƣợng dân số này hiện nƣớc CHDCND Lào đứng thứ 105

của thế giới tính theo quy mô dân số [20].

Đồng thời, theo thống kê của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội hiện

nay CHDCND Lào có dân số dƣới 25 tuổi đạt 60% và là một nƣớc đang ở

thời kỳ dân số vàng khi 64% dân số đang trong độ tuổi lao động. Đồng

thời trong những năm qua lực lƣợng lao động nam tăng nhanh hơn lực

lƣợng lao động nữ với tốc độ tăng bình quân hàng năm trong giai đoạn

2015-2019 là 2,91% đối với lao động nam so với 2,15% đối với lao động

nữ. Do vậy hiện nay lao động nam chiếm tỷ lệ 50,75% và lao động nữ

chiếm 49,25% [36, tr.12]. Ngoài ra, theo dự báo tỷ lệ ngƣời trong độ tuổi

lao động sẽ có xu hƣớng tăng nhẹ trong thời gian tới khi cấu trúc tháp dân

44

số của CHDCND Lào sẽ thay đổi trong thập kỷ này với dự kiến tổng dân

số sẽ đạt 8,1 triệu ngƣời vào năm 2030, trong đó dân số trong độ tuổi lao

động của CHDCND Lào sẽ tăng từ 64% năm 2020 lên 69% vào năm 2030

với trung bình hàng năm từ 2021 cho đến năm 2030 sẽ có thêm 80.000 lao

động mới có việc làm trong thị trƣờng lao động trong đó phần lớn sẽ tập

trung nhiều ở các đặc khu kinh tế trong các tỉnh phía bắc và phía nam của

đất nƣớc [36, tr.10].

Từ bảng 2.1 dƣới đây có thể thấy, trình độ học vấn của LĐ nƣớc

CHDCND Lào còn thấp so với một số nƣớc có cùng mức phát triển. Dù ngƣời

Lào cần cù, hiếu học, sáng tạo, tiền công sức LĐ trẻ. Đây là đặc điểm quan

trọng vì học vấn là một trong những điều kiện tiên quyết giúp ngƣời LĐ tiếp

cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp thu các kỹ năng LĐ mới. Vì vậy Nhà

nƣớc cần có chính sách đào tạo lực lƣợng lao động này.

Tỷ lệ ngƣời thất nghiệp rất cao 9,4% trong đó tỷ thất nghiệp ngƣời trẻ

chiếm gần 18,2% số ngƣời thất nghiệp.

Đơn vị tính: Người và %

Bảng 2.1: Quy mô dân số và lực lƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào

Dân số và cơ cấu LĐ

Năm 2016

Năm 2018

2020

Tổng số dân

6.845.846

7.061.507

7.275.560

Lực lƣợng lao động

4.080.124

4.212.232

4.236.233

%

%

%

Chia theo giới tính

Nam

2.060.462 50.5

2.139.814

50,8

2.149.889

50,75

Nữ

2.019.662 49,5

2.072.418

49,2

2.086.344

49,25

Chia theo trình độ

%

%

%

chuyên môn kỹ thuật

Chƣa qua đào tạo

3.448.521 84,52

3.168.019

75,21

2.667.133

62,97

Đã qua đào tạo

631.603

15,48

1.044.213

24,79

1.569.100

37,04

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ LĐ và PLXH)

45

Lực lƣợng lao động theo lĩnh vực nông nghiệp: 64,1% (sản phẩm nông

nghiệp: Khoai lang, rau, ngô, cà phê, mía, thuốc lá, bông, chè, lạc, gạo, trâu

nƣớc, lợn, gia súc, gia cầm).

Lĩnh vực công nghiệp: 12,2% (Công nghiệp Khai thác mỏ đồng, thiếc,

vàng, thạch cao, thủy điện, chế biến nông sản, xây dựng, dệt may, xi măng).

Lĩnh vực dịch vụ: 23,9%.

Có thế thấy lao động của nƣớc CHDCND Lào làm chủ yếu trong lĩnh

vực nông nghiệp nên mức thu nhập của họ chƣa đáp ứng đƣợc với nhu cầu

cuộc sống hiện tại nhất là đối với ngƣời dân ở Thủ đô Viêng Chăn hoặc một

số tỉnh phát triển cao nhƣ: Luang pra bang; Sa văn la khẹt nên xuất khẩu lao

động chính là một trong những phƣơng pháp tăng thu nhập, cải thiện đời sống

của họ.

2.2. Thực trạng xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào trong

giai đoạn 2015 - 2020

2.2.1. Về số lượng và cơ cấu lao động xuất khẩu

Về số lƣợng:

Từ năm 2016 đến năm 2020, nƣớc CHDCND Lào đƣa đƣợc 335.614

lao động đi làm việc tại các quốc gia và vùng lãnh thổ. Số lƣợng nam giới đi

xuất khẩu lao động chiếm 58,2%, nữ giới 41,8%. Tuy nhiên, sự chênh lệch

đó không nhiều. Điều đó cho thấy, nhu cầu đi xuất khẩu lao động sang thị

trƣờng nƣớc ngoài cả nam và nữ ngày càng tăng, không phân biệt giới tính.

Họ đi xuất khẩu lao động với mong muốn kiếm đƣợc nhiều tiền để lo cho

cuộc sống gia đình và lo cho tƣơng lai sau này.

Lao động nƣớc CHDCND Lào đƣợc đƣa đi làm việc tại tất cả các nƣớc

có nhu cầu sử dụng lao động theo cơ chế thị trƣờng nhƣng Thái Lan luôn là

thị trƣờng số 1 cho lao động của nƣớc CHDCND Lào làm việc.

46

Bảng 2.2: Số lƣợng lao động xuất khẩu năm 2015 -2020

Đơn vị tính: người

Năm Số lƣợng lao động xuất khẩu

2016 55.667

2017 49.386

2018 120.360

2019 54.091

Tháng 9/2020 56.110

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Theo báo cáo kết quả của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội: số ngƣời đi

xuất khẩu lao động ở độ tuổi từ 20 - 30 chiếm 59,1%; độ tuổi từ 31 - 40 chiếm

30%. Trong khi đó, ở độ tuổi trên 40 chỉ chiếm 10,9%.

Nhƣ vậy, số lƣợng ngƣời đi xuất khẩu lao động đã trở về, họ đã đi xuất

khẩu cách đây 6 năm trở về trƣớc. Số ngƣời đi xuất khẩu ở độ tuổi từ 20 - 30

chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với độ tuổi từ 31 - 40 và trên 40 tuổi. Điều đó

cho thấy, những ngƣời đi xuất khẩu lao động có tuổi đời rất trẻ, có sức khỏe tốt,

nhanh nhẹn, đáp ứng đƣợc nhu cầu tuyển dụng đối với thị trƣờng xuất khẩu

lao động ở nƣớc ngoài hiện nay.

Về trình độ học vấn đối với những ngƣời đi xuất khẩu lao động đƣợc thể

hiện ở bảng và biểu đồ sau đây:

47

Bảng 2.3: Trình độ lao động đi xuất khẩu

Đơn vị: Người

Trình độ Số lƣợng lao động Năm Tiểu Trung xuất khẩu THCS THPT CĐ/ĐH học cấp

55.667 7.069 12.136 14.696 13.695 8.071 2016

49.386 5.285 10.766 14.025 11.161 8.149 2017

120.360 12.878 26.238 34.183 27.202 19.859 2018

54.091 5.788 11.251 15.361 12.766 8.925 2019

56.110 6.003 11.109 15.375 13.804 9.819 2020

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Biểu đồ 2.1: Trình độ học vấn của ngƣời đi XKLĐ

40000

35000

Tiểu học

30000

THCS

25000

THPT

20000

Trung cấp

15000

10000

CĐ/ĐH

5000

0

2016

2017

2018

2019

2020

Đơn vị: Người

Qua biểu đồ trên, những ngƣời đi xuất khẩu lao động có trình độ học vấn

khác nhau, không chỉ những ngƣời có trình độ ở bậc phổ thông cơ sở đi xuất

48

khẩu lao động, mà ngay cả những ngƣời có trình độ từ trung cấp đến cao

đẳng, đại học cũng có nguyện vọng đi xuất khẩu lao động sang nƣớc ngoài

làm ăn. Những ngƣời có trình độ cao chiếm tỷ lệ khá cao. Điều đó cho thấy,

kể cả những ngƣời đƣợc đào tạo ở trình độ cao khi ra trƣờng không tìm kiếm

đƣợc việc làm nên họ phải lựa chọn con đƣờng đi xuất khẩu lao động sang

nƣớc ngoài để làm những công việc lao động phổ thông kiếm tiền về cho gia

đình và lo cho cuộc sống tƣơng lai của ho. Đó cũng chính là bất cập đối với

chính sách giáo dục của nƣớc nhà.

Công việc hiện tại của họ không đảm bảo đƣợc cuộc sống gia đình nên

họ có nhu cầu đi xuất khẩu lao động để mong muốn thay đổi công việc và

muốn có nguồn thu nhập tốt hơn, nhằm góp phần ổn định, nâng cao cuộc sống

về lâu dài và có vốn về nƣớc làm ăn. Đặc biệt là những ngƣời làm nghề nông

nghiệp và lao động tự do.

Nhìn chung, những ngƣời đi XKLĐ là những ngƣời có hoàn cảnh kinh

tế gia định rất khó khăn và khó khăn. Họ đi XKLĐ với mong muốn giúp gia

đình thoát khỏi cái nghèo và thay đổi cuộc sống của chính bản thân họ trong

tƣơng lai. Tuy nhiên, không chỉ có những gia đình có hoàn cảnh khó khăn đi

XKLĐ, mà những gia đình có điều kiện kinh tế khá cũng có nhu cầu cho con

cái họ đi XKLĐ. Điều đó chứng tỏ, những gia đình có điều kiện cũng muốn

ngƣời thân của mình đi sang nƣớc ngoài làm ăn kinh tế.

Nhìn vào bảng 2.4 cho thấy năm 2020 nền kinh tế thế giới bị suy giảm

mạnh do đại dịch Covid -19 đã tác động đáng kể đến xuất khẩu lao động Lào.

Số lƣợng lao động đƣa đi làm việc ở nƣớc ngoài giảm sút và là năm đầu tiên sau

nhiều năm Lào không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu lao động đề ra. Số lƣợng

lao động xuất khẩu đạt 53.810 ngƣời chiếm 51.58% kế hoạch, việc suy giảm xảy

ra ở hầu hết các thị trƣờng trọng điểm. Tình hình LĐ ở nƣớc ngoài đã phức tạp

lại càng phức tạp thêm, một số lƣợng lớn LĐ khoảng 10 ngàn ngƣời chủ yếu là

49

LĐ phổ thông phải về nƣớc trƣớc hạn đặc biệt là thị trƣờng Thái Lan đã làm ảnh

hƣởng không nhỏ đến phong trào XKLĐ ở các địa phƣơng.

Bảng 2.4: Số lƣợng lao động nƣớc CHDCND Lào đi làm việc tại

khu vực Châu Á

Đơn vị: người

Năm Nƣớc và vùng lãnh thổ tiếp nhận Tổng số

Quatar Singapore

Malaysia

Nhật Thái Bản Lan 2016 26.018 8.739

Hàn Quốc 5.678

2.950 3.228

Trung Quốc 3.562 3.206

53.385

2017 23.083 7.753 5.037 2.617 2.864 3.160 2.844 47.184

2018 56.102 18.896 12.276 6.379 6.980 7.703 6.932 115.426

2019 25.282 8.492 5.517 2.866 3.137 3.461 3.115 51.874

2020 26.225 8.809 5.723 2.973 3.254 3.591 3.231 53.810

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Tuy vậy đây cũng là cơ hội để chúng ta nhìn nhận và đánh giá lại

hƣớng phát triển XKLĐ trong thời gian tới và là năm bản lề để chúng ta thay

đổi cách suy nghĩ, cách làm XKLĐ. Xuất khẩu lao động phải lấy chất lƣợng

lao động trên cơ sở nhu cầu của thị trƣờng lao động nƣớc ngoài, hiệu quả kinh

tế-xã hội, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đặt lên hàng đầu thì mới

mong sự phát triển bền vững.

Bảng 2.5: Cơ cấu lao động xuất khẩu năm 2020

Đơn vị: % Nƣớc tiếp nhận Tỷ lệ (%) TT Nƣớc tiếp nhận Tỷ lệ (%)

TT

1

Thái lan

46,74%

5

Singapore

5,8%

2

Nhật bản

15,7 %

6

Trung Quốc

6,4%

3

Hàn Quốc

10,2

7 Malaysia

5,76%

4

Quatar

5,3%

Tổng cộng

95,9%

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

50

Qua bảng 2.4 và biểu 2.5 có thế nhận thấy thị trƣờng Châu Á thu hút số

lƣợng lao động đảo lao động của nƣớc CHDCND Lào sang làm việc. Đa số lao

động nƣớc CHDCND Lào đƣợc các thị trƣờng Châu Á tiếp nhận và làm việc.

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu xuất khẩu lao động năm 2020

Đơn vị: %

Cơ cấu xuất khẩu lao động năm 2020

5,76

6,4

Thái Lan

5,8

Nhật Bản

5,3

Hàn Quốc

46,74

Quatar

10,2

Singapore

Trung Quốc

Malaysia

15,7

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Qua biểu đồ trên, những thị trƣờng nhƣ Hàn Quốc, Nhật Bản và Thái

Lan là những quốc gia thu hút nhiều lao động sang làm việc tại đây nhất và

đây cũng đƣợc coi là những quốc gia phát triển, văn minh và mang lại nguồn

thu nhập cao cho lao động khi làm việc tại quốc Nhật Bản này. Đặc biệt trong

những năm trở lại đây, thị trƣờng Nhật Bản là thị trƣờng lao động sôi động

nhất, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nhất, và đây cũng là quốc gia có nền kinh tế

hiện đại,văn minh nhất châu Á.

Theo số liệu của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào đƣa ra tại Hội

nghị triển khai biện pháp nâng cao trình độ cho đối tƣợng xuất khẩu lao động

diễn ra ngày 22/03/2020 tại thủ đô Viêng Chăn nƣớc CHDCND Lào hiện tại

tổng số lao động Lào hiện đang làm việc tại nƣớc láng giềng Thái Lan là

278.485 ngƣời theo 3 diện khác nhau đó là: (1) diện lao động theo hiệp định

51

thỏa thuận thuê lao động của Thái Lan là 224.577 ngƣời; (2) diện lao động tự

do đƣợc xác minh danh tính là 53.623 ngƣời và (3) diện lao động sử dụng thị

thực theo Bộ luật ngƣ nghiệp của Thái Lan 285 ngƣời. Trong tổng số các lao

động Lào đang làm việc tại Thái Lan theo 3 diện trên vẫn chủ yếu là lao động

phổ thông khi có tới 278.195 ngƣời (trong đó có 196 ngƣời là ngƣời dân tộc

thiểu số) và chỉ mới có 290 lao động là những ngƣời có tay nghề cao [57,

tr.38].

Thị trƣờng lao động Thái Lan đƣợc xem là điểm đến hấp dẫn đối với lao

động Lào khi nƣớc này có cơ chế đào tạo tay nghề bài bản, cơ sở hạ tầng và lối

sống hiện đại, đồng thời, lao động Lào không gặp quá nhiều khó khăn khi mới

tiếp cận thị trƣờng này do tƣơng đồng nhiều về nét văn hóa và ngôn ngữ.

Từ số liệu trên đây, có thể đánh giá khái quát về số lƣợng và cơ cấu lao

động xuất khẩu giai đoạn 2016 - 2020:

Một là, số lƣợng lao động xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2018

có sự đột biến về số lƣợng lao động xuất khẩu do hiệp định thuê Lao động của

Thái Lan với nƣớc CHDCND Lào đƣợc ký kết.

Hai là, tốc độ tăng trƣởng hàng năm giai đoạn sau thấp hơn giai

đoạn trƣớc.

Ba là, thị trƣờng lao động chủ yếu là Châu Á, tỷ lệ lao động đƣợc đào

tạo nghề hoặc có tay nghề cao chiếm tỷ trọng thấp.

2.2.2 Hiệu quả kinh tế - xã hội của xuất khẩu lao động

Hiệu quả kinh tế của XKLĐ thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế của các

bên tham gia nhƣ: Thu nhập của ngƣời LĐ tích lũy hoặc gửi về cho gia đình;

Doanh số và lợi nhuận mà các DN XNKĐ, các tổ chức đào tạo và giới thiệu

việc làm thu đƣợc khi tham gia chƣơng trình XKLĐ; Kim ngạch XKLĐ, Các

khoản đóng góp của XKLĐ vào ngân sách nhà nƣớc và mức tiết kiệm vốn

đầu tƣ tạo việc làm.

52

Đối với ngƣời lao động

Hiệu quả kinh tế của ngƣời LĐ khi đi làm việc ở nƣớc ngoài phụ thuộc

vào thu nhập bình quân và khả năng tích lũy theo từng thị trƣờng đƣợc thể

hiện theo bảng sau:

Bảng 2.6: Thu nhập bình quân hàng tháng của

Đơn vị tính: USD

ngƣời lao động tại một số thị trƣờng

Tiền lƣơng Tiền Các khoản Tích lũy theo Nƣớc theo hợp thƣởng làm đóng góp tháng đồng thêm

Thái lan 700-900 0 200 500-600

Nhật bản 1200-1300 60-80 400 1000-1100

Hàn Quốc 1200-1400 0 300 1000-1200

Quatar 700-900 0 100 600-700

Singapore 1000-1200 0 200 800-1000

Trung Quốc 800-900 40-60 150 500-600

Malaysia 600-700 30 100 500-550

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Theo bảng trên ta thấy thu nhập ròng bình quân tháng của ngƣời lao

động xuất khẩu cao nhất tại thị trƣờng Hàn Quốc và Nhật Bản từ 1000-1200

USD, kế đến là Singapore và Trung Quốc với mức 800-1000 USD.

Có thể thấy yếu tố mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Lào và Thái Lan

đã tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nƣớc CHDCND Lào sang Thái Lan

làm việc mới mức lƣơng hấp dẫn.

Đối với Nhà nước và xã hội

Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM), tiền

chuyển về nƣớc qua con đƣờng chính thức là lƣợng tiền chuyển qua hệ thống

ngân hàng và các tổ chức tài chính, có thống kê đƣợc, còn tiền chuyển về nƣớc

53

bằng các cách khác nhau đƣợc gọi là không chính thức. Hàng năm,WB công bố

số liệu thống kê chuyển tiền về nƣớc của ngƣời di cƣ trên phạm vi toàn thế giới,

trong đó có thống kê khoản tiền chuyển về nƣớc của ngƣời lao động.

Theo ƣớc tính, Lào hiện có hơn 330.000 lao động đang làm việc trong

ngành công nghiệp khác nhau ở quốc gia và vùng lãnh thổ, bình quân mỗi

năm gửi về nƣớc khoảng 1 tỷ USD. Kết thúc năm 2018, ghi nhận kỷ lục là số

lƣợng lao động Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài vƣợt ngƣỡng 120.000 lao

động/năm vƣợt 30% so với kế hoạch năm (kế hoạch năm 2018 là 90.000

ngƣời), tăng 50% so với năm 2017. Trong đó, thị trƣờng đứng đầu về lƣợng

tiếp nhận có thể kể đến: Thái Lan [36, tr.8].

Nguồn thu nhập từ hoạt động XKLĐ của ngƣời lao động đã góp phần

cải thiện đời sống gia đình và thân nhân họ, giúp nhiều gia đình trở nên khá

giả, nhiều lao động sau khi về nƣớc đã trở thành các nhà đầu tƣ và chủ doanh

nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát

triển và ổn định kinh tế - xã hội.

Năm 2019, XKLĐ tiếp tục đƣợc xác định là kênh giải quyết việc làm

hiệu quả, không chỉ mang lại lợi ích to lớn về kinh tế, mà còn góp phần bảo

đảm an sinh xã hội bền vững. Nhờ có xuất khẩu lao động mà quan hệ kinh tế,

văn hóa, chính trị và xã hội giữa Việt Nam với các nƣớc đƣợc cũng cố và phát

triển, tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau và giao lƣu văn hóa giữa Việt Nam với

các dân tộc, thị trƣờng xuất khẩu hàng hóa đƣợc mở rộng, thúc đẩy đầu tƣ

nƣớc ngoài.

Cùng với việc ổn định và mở thêm những thị trƣờng mới, cần tiếp tục

quan tâm mở rộng những ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề có

nhu cầu lao động chuyên môn kỹ thuật. Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về hoạt động đƣa ngƣời lao động Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài;

thƣờng xuyên cập nhật thông tin về các chính sách, quy định mới của Lào

54

cũng nhƣ các nƣớc tiếp nhận, các thông tin giới thiệu về các chƣơng trình

tuyển dụng mới và nhu cầu của các thị trƣờng.

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động xuất

khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào

2.3.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về xuất khẩu

lao động

Điều 4 của Nghị định số 68/TTg về về khuyến khích xuất khẩu lao động

làm việc tại nước ngoài, ngày 28-05 năm 2002 do Chính phủ nƣớc CHDCND

Lào ban hành quy định chính sách của nhà nƣớc về ngƣời lao động đi làm

việc ở nƣớc ngoài nhƣ sau: “Nhà nƣớc tạo điều kiện và khuyến khích lao

động Lào sang làm việc tại nƣớc ngoài bằng nhiều hình thức: Xây dựng chính

sách, cung cấp thông tin và điều kiện cần thiết nhằm nâng cao tay nghề và đời

sống của công dân Lào” [44, tr.2].

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đƣợc Chính Phủ giao chủ trì và phối

hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban

hành và tổ chức thực hiện một số chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động

XKLĐ, thúc đẩy phát triển chung tất cả các thị trƣờng, cụ thể:

2.3.1.1. Chính sách dạy nghề cho lao động làm việc tại nước ngoài

Dạy nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết cho ngƣời lao động

nhằm tạo nguồn lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài có trình độ kỹ năng nghề,

ngoại ngữ, kiến thức pháp luật và kiến thức cần thiết khác phù hợp với yêu

cầu của thị trƣờng lao động. Giai đoạn 2015-2020 một số đề án cụ thể đã

đƣợc triển khai:

Đề án “Dạy nghề cho lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài đến năm 2020”;

Đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo tăng cƣờng công tác XKLĐ góp phần

giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015-2020”;

Dự án “Hỗ trợ đƣa lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài làm việc tăng thu

nhập tại một số tỉnh của nƣớc CHDCND Lào”;

55

Đề án “Dạy nghề cho lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài đến năm

2020” nhằm phát triển nguồn lao động đáp ứng yêu cầu về số lƣợng, chất

lƣợng, cơ cấu ngành cho TTLĐ nƣớc ngoài, góp phần tạo việc làm, tăng thu

nhập, cải thiện đời sống NLĐ. Đây là Đề án đầu tiên của Nhà nƣớc trực tiếp

đầu tƣ cho công tác đào tạo nguồn lao động dành riêng cho XKLĐ. Đề án đã

đƣa ra một số giải pháp nổi bật nhƣ: đổi mới cơ chế, chính sách để khuyến

khích các doanh nghiệp đầu tƣ cho đào tạo và cung ứng lao động kỹ thuật cho

XKLĐ; xây dựng các chính sách ƣu đãi về thuế sử dụng đất, về tín dụng cho

các cơ sở đào tạo tay nghề cho LĐXK; phát triển mạng lƣới cơ sở đào tạo cho

NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài; Nhà nƣớc dành riêng một số chỉ tiêu đào tạo

nghề đƣợc ngân sách đảm bảo hàng năm để đặt hàng cho các cơ sở dạy nghề

đào tạo XKLĐ… Đề án đã phản ánh sự thay đổi trong nhận thức của các cơ

quan Nhà nƣớc về XKLĐ, đã thực sự coi XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối

ngoại quan trọng cần có chính sách đầu tƣ riêng chứ không chỉ lồng ghép

trong các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội khác. Đặc biệt là giải pháp

cụ thể về việc một số chỉ tiêu dạy nghề đƣợc ngân sách đảm bảo hàng năm

thông qua hình thức đặt hàng phục vụ cho các đơn hàng đã có của các doanh

nghiệp. Vì vậy, lao động đƣợc tập trung vào thực hành kỹ năng theo yêu cầu

của đơn hàng và đƣợc giảm bớt nội dung chƣơng trình học lý thuyết. Việc này

đã phát huy hiệu quả rất cao vì học viên đƣợc đào tạo sát nhu cầu của doanh

nghiệp sử dụng lao động.

Đề án đã cho thấy quyết tâm Nhà nƣớc nâng cao chất lƣợng cho nguồn

lao động nhằm từng bƣớc đáp ứng yêu cầu của thị trƣờng lao động quốc tế.

Đề án đã phản ánh sự thay đổi trong nhận thức của cơ quan Nhà nƣớc về xuất

khẩu lao động, đã thực sự coi xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối

ngoại quan trọng cần có chính sách đầu tƣ riêng chứ không chỉ kết hợp, lồng

ghép trong các chƣơng trình phát triển - kinh tế xã hội khác. Tuy nhiên bên

cạnh nội dung đề án khá đầy đủ và toàn diện thì các giải pháp thực hiện còn

56

mang tính chủ trƣơng, định hƣớng, chƣa có chính sách cụ thể đi kèm. Theo

đền án này, Cục Quản lý lao động đứng ra tổ chức đặt hàng các cơ sở đào tạo

nghề một số chỉ tiêu đƣợc Nhà nƣớc cấp kinh phí theo chƣơng trình đào tạo

riêng nhằm phục vụ cho các đơn hàng đã có các doanh nghiệp (chủ yếu thị

trƣờng Thái Lan). Hiện nay đầu vào của chƣơng trình phần lớn là lao động

chƣa qua đào tạo nghề, sau quá trình đào tạo nhƣ vậy thì kỹ năng nghề họ cơ

bản đạt yêu cầu nhƣng khả năng ngoại ngữ còn hạn chế, chƣa đƣợc rèn luyện

ý thức kỷ luật điều đó đòi hỏi một chƣơng trình xây dựng đƣợc các nền tảng

cơ bản nhất cả kỹ năng và kiến thức để đội ngũ lao động xuất khẩu đáp ứng

yêu cầu của các thị trƣờng khó tính.

Đề án “Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo

bền vững giai đoạn 2015-2020” nhằm mục tiêu tăng cƣờng giải quyết việc

làm thông qua XKLĐ đối với huyện nghèo của cả nƣớc. Các chính sách hỗ

trợ gồm hỗ trợ NLĐ học bổ túc văn hóa, học nghề, ngoại ngữ, bồi dƣỡng kiến

thức cần thiết để tham gia XKLĐ; cho NLĐ vay tín dụng ƣu đãi với lãi suất

bằng 50% lãi suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội áp

dụng cho đối tƣợng chính sách đi XKLĐ; các cơ sở dạy nghề cho XKLĐ

cũng sẽ đƣợc vay vốn tín dụng ƣu đãi để đầu tƣ tăng quy mô đào tạo. Trong

đó, NLĐ thuộc hộ nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số sẽ đƣợc hỗ trợ 100% học phí

học nghề, ngoại ngữ và bồi dƣỡng kiến thức. Còn lại các đối tƣợng khác

thuộc huyện nghèo đƣợc hỗ trợ 50% học phí trên. Bên cạnh đó, nếu NLĐ có

thời gian làm việc thực tế dƣới 12 tháng phải về nƣớc sẽ đƣợc hỗ trợ bằng 1

lƣợt vé máy bay khi gặp một trong các lý do: sức khỏe không phù hợp với yêu

cầu công việc; chủ sử dụng lao động gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh

nên NLĐ bị mất việc làm; chủ sử dụng lao động đơn phƣơng chấm dứt hợp

đồng lao động. Thực tiễn quá trình triển khai do chƣơng trình liên quan tới

nhiều cơ quan (Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, Bộ Giáo dục và đào tạo,

chính quyền địa phƣơng) nên sự phối hợp giữa các cơ quan còn chƣa đƣợc tốt

57

nên phạm vi triển khai chƣa bao phủ hết các huyện nghèo. Mặt khác ngƣời lao

động tại các huyện nghèo thƣờng không quen sống xa nhà, khó thích nghi với

môi trƣờng sống tập trung, cƣờng độ làm việc cao nên nhiều ngƣời sau khi

đào tạo đã bỏ dở gây nên lãng phí đầu tƣ.

Tại hội nghị quản lý lao động thƣờng niên 2015 giữa Lào và Thái Lan

đã diễn ra tại BangKok, Thái Lan trong các ngày 20-22/2/2015, hai bên đã

thống nhất thực hiện các nội dung của biên bản ghi nhớ giai đoạn 2015-2020,

trong đó Thái Lan sẽ tiếp nhận khoảng 10.000 ngƣời lao động Lào bao gồm

cả nhà nƣớc và tƣ nhân. Chuyển đổi lao động Lào có giấy phép chứng minh

danh tính CI làm việc tại Thái Lan đƣợc thay đổi tƣ cách sang dạng lao động

Lào làm việc tại Thái Lan theo phạm vi biên bản ghi nhớ trên đến thời hạn

trƣớc ngày 30/3/2020. Ngay sau đó Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đƣợc

Chính Phủ nƣớc CHDCND Lào giao chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành

liên quan xây dựng đề án xuất khẩu lao động sang Thái Lan giai đoạn 2015-

2020 vì đối với nƣớc CHDCND Lào Thái Lan là nƣớc tiếp nhận nhiều lao

động của Lào sang làm việc. Nội dung cụ thể của đề án đã nêu rõ những điều

kiện lao động khi đi làm việc tại Thái Lan, các quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi

lao động, những điều cấm đối với lao động, chế độ lƣơng, bảo hiểm. Đặc biệt

đề án ƣu tiên cho những lao động có thu nhập thấp, có nhu cầu tham gia xuất

khẩu lao động.

2.3.1.2. Chính sách hỗ trợ về tài chính

NLĐ đƣợc hƣởng các chính sách hỗ trợ về tài chính nhƣ vay vốn để đi

XKLĐ với lãi suất ƣu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội khi đối tƣợng vay

vốn thuộc gia đình chính sách, mức lãi suất vay thấp nhất (từ 0% -

0,6%/năm), mức cho vay tối đa là 10.000 LAK (Kíp Lào) và không phải thế

chấp tài sản.

Đối với ngân hàng thƣơng mại: NLĐ không thuộc diện đối tƣợng chính

sách đƣợc vay vốn tại ngân hàng thƣơng mại theo cơ chế cho vay thông

58

thƣờng. Điều kiện cho vay là NLĐ phải có hợp đồng đi lao động nƣớc ngoài

và đáp ứng các điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng thƣơng mại. Mức vay

vốn thấp nhất bằng 60% chi phí đi làm việc ở nƣớc ngoài, cao nhất là 100%,

trong đó NLĐ phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định của pháp luật.

Một số ngân hàng cho vay không thế chấp tối đa 8.000 LAK (Kíp Lào)

nhằm tạo điều kiện cho những NLĐ khó khăn.

Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ NLĐ tham gia XKLĐ đã góp phần

giúp nhiều lao động nghèo có cơ hội đi XKLĐ, tuy nhiên mức cho vay hiện

nay còn thấp khoảng 8.000 LAK (Kíp Lào) chỉ đủ một phần trong tổng số

kinh phí mà họ phải chi trả nên NLĐ vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

2.3.1.3. Chính sách phát triển thị trường

Để phát triển thị trƣờng XKLĐ, Nhà nƣớc luôn quan tâm đến vấn đề

hợp tác quốc tế, đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế, điều ƣớc quốc tế

song phƣơng và đa phƣơng về vấn đề XKLĐ. Nhà nƣớc hỗ trợ cho các doanh

nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạ tầng của TTLĐ, thực hiện khảo sát

TTLĐ và tăng cƣờng công tác tuyên truyền về các thị trƣờng NKLĐ mới.

Hiện nay, Lào là thành viên của các tổ chức quốc tế sau: Cơ quan Hợp

tác Văn hóa và Kỹ thuật (ACCT), ASEAN, Khu vực thƣơng mại tự do

ASEAN (AFTA), Diễn đàn khu vực ASEAN, Ngân hàng phát triển châu

Á, Kế hoạch Colombo, Ủy ban kinh tế và xã hội châu Á và Thái Bình

Dƣơng (ESCAP), Tổ chức Lƣơng thực và Nông nghiệp (FAO), Nhóm 77,

Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (Ngân hàng Thế giới), Tổ chức

Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), Hiệp hội Phát triển Quốc tế

(IDA), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), Tập đoàn Tài chính

Quốc tế (IFC), Liên đoàn Chữ thập đỏ và Trăng lƣỡi liềm đỏ Quốc tế, Tổ

chức Lao động Quốc tế (ILO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Intelsat (ngƣời

dùng không chuyên trách) và Interpol.

59

Lào cũng là thành viên của Ủy ban Olympic quốc tế (IOC), Liên minh

viễn thông quốc tế (ITU), Tập đoàn Mekong, Phong trào không liên kết

(NAM), Liên minh Thái Bình Dƣơng (với tƣ cách quan sát viên), Tòa án

trọng tài thƣờng trực (PCA), Liên hợp quốc, Công ƣớc Liên hợp quốc về

Thƣơng mại và Phát triển (UNCTAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn

hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp

Quốc (UNIDO), Liên minh Bƣu chính Thế giới (UPU), Liên đoàn Công đoàn

Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

(WIPO), Tổ chức khí tƣợng thế giới (WMO), Tổ chức du lịch thế giới, Tổ

chức thƣơng mại thế giới (quan sát viên).

Ngày 31/12/2015, Lào chính thức tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN

góp phần tạo ra nhiều cơ hội cũng nhƣ thách thức trong lĩnh vực XKLĐ nói

riêng và các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội nói chung. với đó, thị trƣờng

Lào cũng sẽ “mở cửa” để đón nhận nguồn lao động chất lƣợng. Việc tham gia

cộng đồng kinh tế này cũng chính là nền tảng ký kết các hợp đồng đƣa ngƣời

lao động Lào sang các nƣớc trong khu vực ASEAN.

Đặc biệt: Hàn Quốc và Lào đã thiết lập quan hệ ngoại giao lần đầu vào

năm 1974 nhƣng bị gián đoạn vào năm 1975, do Lào thay đổi mô hình nhà nƣớc

theo chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, hai nƣớc đã nối lại quan hệ ngoại giao vào năm

1995. Đây cũng chính là thị trƣờng tiềm năng để đƣa lao động Lào sang làm việc.

Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc

mở rộng và đa dạng hóa thị trƣờng xuất khẩu, tăng cƣờng thu hút đầu tƣ, hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch, đấu tranh chống

những hành động gian lận thƣơng mại, áp đặt các rào cản thƣơng mại làm tổn

hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nhà nƣớc

Hiệp định hợp tác lao động giữa Chính phủ Việt Nam và Lào, Thỏa

thuận hợp tác về lao động và phúc lợi giữa Bộ Lao động và Thƣơng binh Xã

hội Việt Nam với Bộ Lao động và Phúc lợi Xã hội Lào (7/2013).

60

2.3.1.4. Chính sách hỗ trợ rủi ro

Cùng với cơ chế ƣu đãi để khuyến khích lao động ở các huyện nghèo

tham gia xuất khẩu lao động, Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho những

ngƣời lao động gặp rủi ro khi làm việc ở nƣớc ngoài.

Có thể kể hai đợt đƣa ngƣời lao động ở Thái Lan về nƣớc năm 2015 và

2016 do những bất ổn về chính trị tại quốc gia này khiến hơn 5000 nghìn

ngƣời lao động Lào tại nƣớc này trong năm 2015 phải về nƣớc trƣớc thời hạn.

Đồng nghĩa, những khoản tiền mà NLĐ vay để đi XKLĐ khó có nguồn để trả.

Gần đây nhất, trong khủng hoảng do đại dịch Covid-19, NLĐ đang làm việc

tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có dịch Covid-19 đều bị ảnh hƣởng do

doanh nghiệp đóng cửa. Đa số họ đều có nguyện vọng ở lại nƣớc sở tại, chỉ có

gần năm nghìn ngƣời về nƣớc. Cũng nhƣ lao động trong nƣớc, NLĐ Lào đang

làm việc ở nƣớc ngoài cũng bị giãn việc, mất việc.

Đối với NLĐ làm việc ở nƣớc ngoài phải về nƣớc vì những rủi ro,

Chính phủ quy định sẽ hoàn trả các khoản chi phí tiền môi giới, tiền dịch vụ

và hỗ trợ từ nguồn kinh phí Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nƣớc. Theo đó, khi về

nƣớc trƣớc thời hạn vì lý do khách quan, bên môi giới có trách nhiệm hoàn trả

lại cho NLĐ một phần tiền môi giới lao động đã nộp theo nguyên tắc: NLĐ

làm việc chƣa đủ 50% thời gian theo hợp đồng, đƣợc nhận lại 50% tiền môi

giới đã nộp; NLĐ đã làm việc từ 50% thời gian theo hợp đồng trở lên, sẽ

không đƣợc nhận lại tiền môi giới. Trƣờng hợp NLĐ không thể đòi đƣợc của

bên môi giới, DN có trách nhiệm hoàn trả cho NLĐ theo nguyên tắc trên và

đƣợc hạch toán vào chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế theo quy định

của Luật Thuế thu nhập DN. Cơ chế này phần nào tháo gỡ khó khăn về tài

chính cho NLĐ làm việc ở nƣớc ngoài phải về nƣớc trƣớc thời hạn. Tuy

nhiên, mức hỗ trợ để đƣa NLĐ về nƣớc trong trƣờng hợp gặp rủi ro khách

quan hiện nay rất thấp, không đủ chi phí để NLĐ mua vé máy bay về nƣớc.

61

Hiện tại để giải quyết các tác động của Covid-19, Chính Phủ Lào đã

đề ra 10 chính sách để các ngành triển khai thực hiện gồm: (i) miễn thuế thu

nhập cho ngƣời lao động có mức lƣơng dƣới 05 triệu Kíp trở xuống và miễn

thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp nhà nƣớc trong 03 tháng (4, 5 và 6);

(ii) miễn thuế hải quan, các phí đối với hàng hóa trang thiết bị sử dụng trong

việc phòng chống Covid-19; (iii) đƣợc giãn lùi nghĩa vụ thuế đối với các

doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch trong thời gian 03

tháng, tính từ tháng 4/2020; (iv) gia hạn thời gian báo cáo tài chính và hoạt

động thƣờng niên của các doanh nghiệp năm 2019; (v) gia hạn việc thanh

toán phí giao thông; (vi) giảm và gia hạn thanh toán tiền điện, nƣớc; (vii)

giảm giá sử dụng dịch vụ internet và điện thoại; (viii) giảm lãi suất cơ bản của

ngân hàng CHDCND Lào (BOL) và lãi suất tiền gửi bắt buộc đối với ngân

hàng thƣơng mại; (ix) ban hành chính sách tín dụng về việc giãn thời gian trả

gốc và lãi đối với khách vay; (x) đảm bảo nguồn vốn 200 tỷ Kíp, trƣớc mắt

giành 100 tỷ Kíp để hỗ trợ các doanh nghiệp SME thông qua các ngân hàng

thƣơng mại với khung lãi suất là 3%/năm và cho phép các ngân hàng trên giải

ngân cho vay với lãi suất 5,5%/năm để khôi phục các cơ sở sản xuất hàng hóa

và giãn thời hạn thanh toán bảo hiểm xã hội cho doanh nghiệp.

Căn cứ Chỉ thị số 06/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày

29/03/2020 về việc tăng cƣờng biện pháp ngăn chặ, chống lây lan, kiểm soát

và chuẩn bị toàn diện để chống dịch Covid -19; căn cứ báo cáo tổ chức thực

hiện biện pháp phòng chống, kiểm soát, ngăn chặn và giải quyết dịch bệnh

Covid-19 trong giai đoạn qua của Ủy ban đặc trách đối với ngƣời lao động

nƣớc ngoài trở về nƣớc trƣớc thời hạn hợp đồng lao động, Chính Phủ Lào

đang tiến hành thu thập thông tin nhằm hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho họ,

Vụ Lao động và Phát triển kỹ năng thuộc Bộ Lao động và Phúc lợi Xã hội

Lào để triển khai việc lập thông tin dữ liệu về số lao động hiện đang mất việc

làm này, tiến hành phỏng vấn họ về công việc từng làm ở Thái Lan, tìm hiểu

62

việc liệu họ có trở lại Thái Lan làm việc hay không và sẽ thống kê số liệu cụ

thể về số lƣợng lao động Lào không thể trở lại Thái Lan làm việc, sau đó tạo

công ăn việc làm mới cho họ. Chính quyền các địa phƣơng dự kiến sẽ thu xếp

cho số lao động đang thất nghiệp này làm việc tại các khu kinh tế chuyên biệt,

tổ chức các lớp nâng cao kỹ năng cho họ trƣớc khi tiến hành công việc mới.

2.3.1.5. Thực hiện chính sách tái xuất lao động xuất khẩu về nước

Theo thống kê của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, có đến 80% lao

động đi XKLĐ trở về có việc làm bấp bênh hoặc thất nghiệp. Chỉ 20% có việc

làm nhƣng chủ yếu là tự mở cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ theo kiểu gia đình,

ít ngƣời tìm đƣợc công việc ổn định phù hợp với ngành nghề đào tạo khi còn ở

nƣớc ngoài [36, tr.10]. Về việc làm, không đƣợc hỗ trợ việc làm nên làm việc

trái nghề, tạm thời hoặc thu nhập thấp phải bỏ việc. Ngoài ra, không có sự quan

tâm của các cơ quan chức năng tại địa phƣơng về việc tƣ vấn, giúp đỡ họ sử

dụng vốn vay đúng mục đích.

Mà thực tiễn rõ ràng nếu sử dụng số lao động này vào làm việc cho các

công ty, doanh nghiệp sản xuất trong nƣớc sẽ đạt lợi ích không nhỏ, bởi

trƣờng nghề không tốn công đào tạo, doanh nghiệp cũng đỡ tốn tiền đào tạo

lại mà ngƣời lao động phát huy đƣợc tay nghề chuyên môn sau thời gian tiếp

thu công nghệ ở nƣớc ngoài trở về.

Điều quan tâm hiện nay, từ cấp trung ƣơng đến địa phƣơng, chƣa có

một chính sách dành riêng về tái xuất khẩu lao động mà chỉ có điều điều 4 của

Luật Lao động sửa đổi năm 2013 Lào quy định chung trong là khuyến khích

các doanh nghiệp tiếp nhận tuyển dụng lao động về nƣớc vào làm việc và

khuyến khích tạo việc làm. Mặc dù vậy, do chế độ ƣu đãi, lƣơng chƣa phù

hợp nên việc tuyển dụng, sử dụng nhóm lao động này vẫn gặp hạn chế.

Những lao động làm việc tại Nhật Bản, Hàn Quốc sau khi về nƣớc đa

số không đủ điều kiện tái xuất khẩu.

63

Duy nhất vào năm 2016 lực lƣợng lao động hết hạn trở về nƣớc từ Thái

Lan đƣợc quay lại làm việc tại Thái Lan do tinh thần, thái độ làm việc phù hợp

nhƣng số lao động chỉ dừng lại ở mức 158 ngƣời [24, tr.8].

Trong chƣơng trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm cũng chƣa

đặt ra giải pháp cụ thể nào về hỗ trợ giải quyết việc làm cho đối tƣợng

này. Đối với mỗi ngƣời lao động thì điều quan trọng là lựa chọn cho mình

công việc ổn định bền vững để gắn bó lâu dài và đảm bảo nguồn thu nhập tốt

cho bản thân.

2.3.2. Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan

đến xuất khẩu lao động

Nhận thức tầm quan trọng của việc xuất khẩu lao động Chính Phủ đã

ban hành Nghị định về khuyến khích xuất khẩu lao động làm việc tại nước

ngoài số 68/TTg, ngày 28/05/2002; Nghị định về quản lý xuất nhập cảnh của

nước công hóa nhân chủ nhân dân Lào và quản lý người nước ngoài,số

136/TTg, ngày 25/05/2009.

Nghị định đƣa ra những giải pháp tạo động lực thúc đẩy hoạt động xuất

khẩu lao động nƣớc CHDCND Lào. Kể từ đây, hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài không chỉ thực hiện thông qua các hiệp định giữa các

Chính phủ mà cũng đƣợc thực hiện theo hợp đồng cung ứng lao động đƣợc ký

giữa các tổ chức kinh tế Lào và các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ngƣời nƣớc

ngoài. Nhà nƣớc giao quyền chủ động cho các doanh nghiệp XKLĐ tìm kiếm

TTLĐ, ký kết với các đối tác nƣớc ngoài hợp đồng cung ứng lao động, tuyển

chọn, đào tạo, bồi dƣỡng tay nghề và giáo dục định hƣớng cho NLĐ để đáp

ứng yêu cầu của bên sử dụng. Nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng ban hành

chính sách, quản lý, kiểm tra giám sát.

Trƣớc tình hình tỷ lệ NLĐ Lào đi làm ở nƣớc ngoài bỏ hợp đồng ra ngoài

làm ăn cƣ trú bất hợp pháp, ngày 11/11/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 128/2016/NĐ-CP về quản lý lao động Lào ở nƣớc ngoài nhằm xử lý

64

đối với NLĐ phá hợp đồng ở lại nƣớc ngoài làm ăn, cƣ trú bất hợp pháp. Quy

định trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với NLĐ

phá hợp đồng ở lại mức ngoài làm ăn, cƣ trú bất hợp pháp. Quy định trình tự,

thủ tục và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với NLĐ bỏ trốn và nếu

cố tình bỏ trốn thị có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh “ở lại

nƣớc ngoài trái phép”. Để thực hiện Nghị định Bộ Lao động và Phúc lợi xã

hội đã phối với các Bộ ngành liên quan (Ngoại giao, Tƣ pháp, An Ninh, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao) ban hành 03 Thông tƣ

hƣớng dẫn thi hành.

Quốc Hội nước CHDCND Lào thông qua Luật lao động sửa đổi số 43

QH, ngày 24/12/2013 đánh dấu những điểm mới của Luật bảo vệ ngƣời lao

động đi xuất khẩu lao động. Cụ thể đã bổ sung thêm các quyền lợi, nghĩa vụ

của lao động khi đi làm việc ở nƣớc ngoài, các khu vực cấm đối với ngƣời lao

động nƣớc CHDCND Lào.

Từ mục tiêu giải quyết việc làm một số đối tƣợng trên phạm vi cả nƣớc

đến mục tiêu tiêu tăng nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách nhà nƣớc, giải quyết

việc làm, nâng cao tay nghề và tăng thu nhập cho ngƣời lao động quốc tế là

một bƣớc tiến dài trong đổi mới nhận thức về quản lý nhà nƣớc về XKLĐ của

Đảng và Nhà nƣớc CHDCND Lào.

Nếu XKLĐ chỉ bó hẹp theo kế hoạch hóa và sự phân công lao động

trong nội bộ Hội đồng tƣơng trợ kinh tế (SEV), thì lợi thế so sánh về nguồn

lực lao động của nƣớc Lào sẽ không đƣợc sử dụng tối đa và việc chuyển đổi

sang nền kinh tế Lào sẽ gặp khó khăn.

Việc xác định mục tiêu từng bƣớc đƣa thị trƣờng lao động Lào hội

nhập thị trƣờng lao động thế giới là điểm nhấn quan trọng trong chiến lƣợc

phát triển nền kinh tế. Điều đó góp phần hình thành thị trƣờng lao động trong

hệ thống thị trƣờng các yếu tố đầu vào ở Lào, kết nối với thị trƣờng lao động

65

quốc tế; tạo điều kiện cho nền kinh tế Lào hội nhập thành công với nền kinh

tế thế giới.

Nhà nƣớc phải có một tầm nhìn bao quát, tổng thể các vấn đề cần giải

quyết, cân đối đƣợc những yêu cầu về các nguồn lực cần huy động, nắm bắt

đƣợc diễn biến, dự báo đƣợc khả năng của thị trƣờng lao động thế giới và khu

vực trong một tƣơng lai nhất định, từ đó tìm ra những phƣơng pháp tốt nhất

để thực hiện mục tiêu. Nhà nƣớc có điều kiện tập trung sức chú ý vào việc

định hƣớng phát triển XKLĐ thông qua việc hoạch định chính sách; quan tâm

nhiều hơn đến việc tạo môi trƣờng thuận lợi cho ngƣời lao động có nhu cầu

XKLĐ và các doanh nghiệp, tổ chức môi giới XKLĐ.

Nƣớc CHDCND Lào đã từng bƣớc tạo lập môi trƣờng pháp lý bằng

một hệ thống luật pháp về lao động nhƣ ban hành và sửa đổi, bổ sung Bộ Luật

lao động và các Nghị định để hình thành thị trƣờng lao động vận hành theo

đúng quy luật của thị trƣờng; tạo dựng môi trƣờng tƣơng thích với thị trƣờng

lao động quốc tế để ngƣời lao động tự do mua bán sức lao động là sự chuyển

đổi ngoạn mục về tƣ duy lý luận cũng nhƣ thể chế hóa thành pháp luật trong

quản lý XKLĐ ở Lào. Nhờ tạo lập môi trƣờng để XKLĐ vận hành theo đúng

quy luật của kinh tế thị trƣờng; trong những năm qua hoạt động XKLĐ đã

mang lại những kết quả đáng ghi nhận trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội. Đó

là: môi trƣờng trong nƣớc thì ban hành, bổ sung và từng bƣớc hoàn thiện hệ

thống luật pháp và chính sách về lao động, xây dựng và ban hành hệ thống

luật pháp liên quan đến XKLĐ theo hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế; ngoài

nƣớc thì đàm phán và ký kết các Hiệp định hoặc thỏa thuận với các nƣớc có

nhu cầu sử dụng lao động theo nguyên tắc “hội nhập, hợp tác, phát triển” đã

góp phần giải quyết đáng kể việc làm ở Lào tiếp cận với môi trƣờng làm việc

khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng

trƣởng liên tục với tốc độ cao, đời sống của nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt,

66

công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt đƣợc những thành công đƣợc các Tổ chức

quốc tế đánh giá cao.

2.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

Chính phủ thống nhất thực hiện QLNN về hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài và giao nhiệm vụ trực tiếp cho Bộ Lao động và Phúc lợi xã

hội về lĩnh vực hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài trong cả nƣớc.

Bộ Lao động và phúc lợi xã hội chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc

quản lý kiểm tra việc tổ chức xuất khẩu lao động nƣớc CHDCND Lào đi nƣớc

ngoài và tự chủ trong việc phối kết hợp các bộ, ngành và chính quyền địa

phƣơng liên quan.

Ngày 07-7-1992, lần đầu tiên Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số

999/QHTC quy định cơ cấu tổ chức của Chính phủ. Theo đó, Bộ LĐ và

PLXH Lào đƣợc thành lập, là một cơ quan quản lý nhà nƣớc có chức năng

làm tham mƣu cho Chính phủ Lào trong việc đề ra chiến lƣợc, kế hoạch tổ

chức và quản lý nhà nƣớc cấp vĩ mô thống nhất theo ngành dọc từ trung ƣơng

đến địa phƣơng về các công việc liên quan đến lao động, việc làm, chính sách

đối với ngƣời có công với cách mạng Lào, bảo trợ xã hội, phúc lợi

xã hội, hƣu trí, cựu chiến binh, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.

Ngày 11-01-1999 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Nghị định số

87/TTg về tổ chức và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH Lào. Theo đó, Bộ có

chức năng và tổ chức bộ máy nhƣ sau:

Về chức năng:Có chức năng tổ chức thực hiện chủ trƣơng, chính sách

của Đảng và Chính phủ về công tác LĐ và PLXH và quản lý vĩ mô trong việc

tổ chức chỉ đạo kiểm tra công tác LĐ và PLXH trên phạm vi cả nƣớc. Bộ LĐ

và PLXH chịu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và phạm vi

quyền hạn trong quản lý nhà nƣớc theo Luật về Chính phủ CHDCND Lào

[40, tr.1-2].

67

Về tổ chức bộ máy: 1) Văn phòng Bộ; 2) Vụ Tổ chức và Cán bộ; 3) Cục

Lao động; 4) Cục Bảo trợ xã hội; 5) Cục Chính sách hƣu trí và ngƣời cao

tuổi; 6) Cục Cựu chiến binh, Thƣơng binh và Ngƣời tàn tật; 7) Vụ Bảo hiểm

xã hội; 8) Vụ Kiểm tra; 9) Sở LĐ và PLXH tỉnh, thủ đô và đặc khu; 10)

Phòng LĐ và PLXH huyện [40, tr.8-9].

Sau khi bản Hiến pháp sửa đổi năm 2003 đƣợc ban hành, Bộ LĐ và

PLXH Lào đã chỉnh sửa chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy theo Nghị

định số 52/TTg, ngày 22-3-2006 và Nghị định số 138/TTg, ngày 04-5-2007

của Thủ tƣớng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH, với

Bộ máy từ Trung ƣơng đến địa phƣơng nhƣ sau: 1) Văn phòng Bộ; 2) Vụ Tổ

chức và Cán bộ; 3) Vụ Kiểm tra; 4) Cục Quản lý lao động; 5) Cục Phát triển

kỹ năng nghề và việc làm; 6) Cục Hƣu trí, thƣơng binh và tàn tật; 7) Cục Bảo

trợ xã hội; 8) Vụ Bảo hiểm xã hội; 9) Sở Lao động và Phúc lợi xã hội tỉnh và

thành phố; 10) Phòng Lao động và Phúc lợi xã hội huyện và quận.

Với cơ quan chuyên môn là Cục quản lý lao động. Cục quản lý lao

động có các nhiệm vụ chính: thực hiện chiến lƣợc, chƣơng trình, kế hoạch dài

hạn và hàng năm, dự án đề án về đƣa NLĐ Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài theo

hợp đồng, nghiên cứu định hƣớng phát triển về khai thác TTLĐ ngoài nƣớc;

tổ chức quản lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và xử lý những vấn đề liên

quan đến NLĐ; thu, quản lý và sử dụng các nguồn thu từ hoạt động đƣa NLĐ

đi làm việc ở nƣớc ngoài.

Tổ chức quản lý và kiểm tra tổ chức xuất khẩu lao động Lào đi làm

việc tại nƣớc ngoài bao gồm:

1. Bộ Lao động và phúc lợi xã hội - Cục Quản lý Lao động

2. Sở Lao động và phúc lợi xã hội

3. Phòng lao động và phúc lợi xã hội cấp huyện

68

Cục Quản lý lao động có trách nhiệm giúp Bộ trƣởng thực hiện chức

năng quản lý nhà nƣớc về ngƣời lao động nƣớc CHDCND Lào làm việc tại

Lào và đi làm việc ở nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật.

Xét riêng về việc nhiệm vụ quản lý lao động đi làm việc tại nƣớc ngoài:

Cục Quản lý lao động ngoài nắm trọng trách thay mặt Bộ Bộ Lao động

và Phúc lợi xã hội để hợp tác với các quốc gia khác trên thế giới. Điều này có

nghĩa là, Cục Quản lý lao động sẽ có quyền đàm phán, ký kết thỏa thuận với

các nƣớc, khu vực trên thế giới.

Sau đó, Cục quản lý lao động sẽ phân bổ trách nhiệm, quyền lợi cho

các tập đoàn, công ty trong nƣớc. Những công ty này sẽ tuyển dụng lao động

đủ điều kiện để đi lao động nƣớc ngoài. Số lƣợng và chất lƣợng tay nghề của

ngƣời lao động phải đúng theo những thỏa thuận đã đƣợc ký kết.

Để đảm bảo hợp tác lâu dài về xuất khẩu lao động với các quốc gia đã

ký kết, Cục quản lý lao động sẽ giám sát việc xét tuyển của các công ty.

Ngoài ra, điều này còn góp phần đảm bảo quyền lợi ngƣời lao động.

Đôi khi, Cục Quản lý lao động cũng có những biện pháp chế tài, xử

phạt cần thiết nếu ngƣời lao động bỏ trốn hoặc nhập cƣ bất hợp pháp tại các

nƣớc bạn.

Cục quản lý lao động sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc ký kết hợp

đồng với các nƣớc trên thế giới. Sau đó, phân bố lại cho các công ty dịch vụ xuất

lao động để tiến hành tuyển lao động phù hợp theo những thỏa thuận đã ký.

Ngoài ra, Cục quản lý lao động còn góp phần tham mƣu để tối ƣu quá

trình này và bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động.

Cơ cấu nhân lực của Cục QLLĐ:

Về trình độ học vấn của cán bộ trong Cục QLLĐ là tƣơng đối cao với 18

ngƣời, chiếm 64,2% có trình độ đại học và 35,8 thạc sỹ sau đại học. Về độ

tuổi thì tỷ lệ số cán bộ có độ tuổi dƣới 30 tuổi chiếm 39,3%, dƣới 50 tuổi chỉ

69

chiếm 3,5%. Về trình độ ngoại ngữ và tin học thì mới dừng lại ở mức căn bản

là tin học văn phòng và ngoại ngữ A2,A1.

Bảng 2.7: Cơ cấu nhân lực của Cục quản lý lao động

Đơn vị tính: Người

Theo giới tính

Theo độ tuổi

Theo trình độ

Tiêu chí Tổng số Nam Nữ Dƣới 30 30-40 40-50 Trên 50 Trung cấp, cao đẳng cử nhân Thạc sỹ Tiến sỹ

Trình độ ngoại ngữ Sử dụng thành thạo

(Anh, Trung, Nga) Khả năng sử dụng

tin học Sử dụng độc lập B2,B1 C2,C1 Sử dụng căn bản A2,A1 thạo C2, C1 Trình độ A Trình độ B Trình độ C Số ngƣời 28 18 10 11 8 8 1 0 18 10 0 3 12 13 25 3 0 Tỷ lệ (%) 100 64,2 35,8 39,3 28,6 28,6 3,5 0 64,2 35,8 0 10,7 42,8 46,4 89,3 10,7

(Nguồn: Cục quản lý lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội)

Nhƣ vậy, qua bảng trên có thể thấy đội ngũ cán bộ hiện nay của Cục

QLLĐ có chất lƣợng. Tuy nhiên, thực tế thì số lƣợng cán bộ hiện có chƣa thể

đáp ứng yêu cầu công việc vì hầu hết các bộ phận chức năng của Cục đều

chƣa có đủ nhân sự theo định biên cho phép, đặc biệt chƣa có phòng quản lý

lao động nƣớc ngoài mà mới chỉ có phòng quản lý lao động chung bao gồm:

lao động trong nƣớc, lao động nƣớc ngoài làm việc tại Lào và lao động xuất

khẩu đi các nƣớc.Thực tiễn hoạt động xuất khẩu lao động rất cần có đội ngũ

70

công chức chuyên môn để có thể tham mƣu, đề xuất các nhiệm vụ liên quan

hoạt động xuất khẩu lao động.

Phòng Thông tin - Truyền thông vừa thực hiện chức năng phân tích

thông tin thị trƣờng, dự báo phát triển XKLĐ và xây dựng chiến lƣợc, kế

hoạch xúc tiến thị trƣờng đồng thời thực hiện chức năng thẩm định hợp đồng

cung ứng lao động của doanh nghiệp.

Phòng Thanh tra lao động chỉ có 3 cán bộ trong khi định biên cho phép

là 6 ngƣời, trong khi đó chỉ tính riêng đối tƣợng quản lý là doanh nghiệp

XKLĐ đã có tới 80 đơn vị, chƣa kể văn phòng đại diện, đại lý tuyển dụng, cơ

sở đào tạo.

Hệ thống quản lý nội bộ của Cục QLLĐ đƣợc tổ chức tƣơng đối tốt, qui

trình giải quyết các nội dung QLNN đƣợc triển khai qua nhiều bƣớc và nhiều

cấp: Từ cấp chuyên viên, cấp phòng đến cấp Cục và Bộ ra quyết định theo

chức năng và thẩm quyền; tại mỗi bƣớc đều có sự xem xét và đánh giá lại

việc thực hiện của bƣớc trƣớc đó, nếu đạt yêu cầu mới chuyển sang bƣớc sau,

trƣờng hợp không đạt thì chuyển lại để hoàn thiện tiếp. Tuy nhiên, vẫn còn

nhiều trƣờng hợp thời gian giải quyết thủ tục kéo dài do phải yêu cầu bổ sung

hồ sơ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến điều này là do chƣa có sự chuẩn

hóa về các yêu cầu hồ sơ đầu vào; về nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của từng

cấp giải quyết thủ tục nên kết quả giải quyết nhiều khi phụ thuộc vào yếu tố

chủ quan và kinh nghiệm của cán bộ thực hiện.

2.3.4. Thanh tra, kiểm tra các hoạt động xuất khẩu lao động

Điều 22 Luật lao động sửa đổi số 43/QH, ngày 24/12/2013 của Cộng

hòa DCND Lào đã nêu rõ điều nghiêm cấm các tổ chức nƣớc ngoài có những

hành vi sau:

1. Tổ chức xuất khẩu lao động Lào làm việc tại nƣớc ngoài mà chƣa

đƣợc cấp phép

71

2. Cho những đối tƣợng khác sử dụng giấy cấp phép hoạt động kinh

doanh thu xếp việc làm

3. Che dấu các thông tin trong quy trình xuất khẩu lao động Lào đi

làm việc tại nƣớc ngoài

4. Tạo điều kiện gây rủi ro trong tổ chức xuất khẩu lao động Lào đi

làm việc tại nƣớc ngoài

5. Đòi hỏi các phí dịch vụ và các khoản thu không hợp pháp

6. Thu những tiền đặt cọc hoặc cầm các vật chất giá trị nhằm mục đích

tổ chức xuất khẩu lao động

7. Làm các hợp đồng có tính cƣỡng bức hoặc bắt buộc ngƣời lao động

8. Tuyên truyền, quảng cáo không đúng sự thật

9. Có những hành vi khác hoạt động trái pháp luật của các nƣớc lao

động và nƣớc tuyển lao động [56, tr.16].

Hàng năm, các cơ quan chức năng (phòng thanh tra của Cục Quản lý

lao động , Thanh tra của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, Thanh tra của Sở

Lao động và Phúc lợi xã hội sẽ thực hiện thanh kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất

về hoạt động XKLĐ.

Theo quy định thì các doanh nghiệp có trách nhiệm báo cáo về số

lƣợng NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, lao động hoàn thành hợp đồng về nƣớc,

lao động phá hợp đồng hàng tháng; Đồng thời, định kỳ 6 tháng và 1 năm,

doanh nghiệp phải báo cáo về số lƣợng lao động đƣợc tuyển dụng ở các địa

phƣơng. Ngoài ra, Sở Lao động và phúc lợi xã hội các tỉnh, thành phố cũng

phải báo cáo số lƣợng lao động đƣợc tuyển chọn tại địa phƣơng định kỳ 3

tháng/lần và số lƣợng lao động ở địa phƣơng đi nƣớc ngoài làm việc theo hợp

đồng cá nhân 1 năm/lần. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp chƣa chấp

hành nghiêm chỉnh chế độ báo cáo nên các Sở Lao động và phúc lợi xã hội

cũng không thể nắm chính xác số lƣợng lao động của địa phƣơng đƣợc tuyển

72

trên địa bàn. Do đó, số liệu đƣợc tổng hợp chủ yếu lấy từ Cục Quản lý lao

động qua việc tổng hợp các hợp đồng đƣợc đăng ký.

Trong QLNN về XKLĐ cũng đã có biện pháp để quản lý, giám sát hoạt

động doanh nghiệp nhƣ quy định về việc thẩm định hợp đồng, doanh nghiệp

chỉ đƣợc thực hiện hợp đồng cung ứng lao động sau khi có ý kiến chấp thuận

của cơ quan QLNN. Quy định này góp phần hỗ trợ doanh nghiệp đánh giá

tính khả thi của hợp đồng cũng nhƣ năng lực của đối tác.

Trong giai đoạn 2015 đến nay Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã thực

hiện 203 cuộc thanh, kiểm tra đối với các doanh nghiệp XKLĐ, trong đó có

45 doanh nghiệp (chiếm 20% tổng số doanh nghiệp thanh, kiểm tra) bị xử lý

do có những vi phạm quy định về XKLĐ.

Công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện một số vi phạm của doanh

nghiệp nhƣ: Doanh nghiệp giao cho nhiều đơn vị trực thuộc cùng thực hiện

chức năng hoạt động XKLĐ, buông lỏng quản lý để các cơ sở đơn vị trực

thuộc lợi dụng danh nghĩa hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài có

hành vi vi phạm pháp luật nhƣ: thu tiền trái quy định của NLĐ, thông báo

tuyển lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài khi chƣa đƣợc phép của cơ quan có

thẩm quyền; thực hiện chƣa đầy đủ và đúng hạn việc đăng ký hợp đồng tại Bộ

Lao động và Phúc lợi xã hội; bán tƣ cách pháp nhân cho các đơn vị không có

chức năng về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài; không quán triệt

nguyên tắc trực tiếp tuyển chọn lao động, để hiện tƣợng tuyển lao động qua

trung gian, gây tốn kém cho NLĐ; Nội dung, chƣơng trình đào tạo của các

doanh nghiệp, nhìn chung không thống nhất, còn sơ sài, kém chất lƣợng;

không rõ ràng các khoản tài chính NLĐ phải nộp trƣớc khi đi và trong thời

gian làm việc ở nƣớc ngoài; thu mức phí môi giới còn cao, không đảm bảo

quyền lợi hợp pháp cho NLĐ; Công tác quản lý lao động làm việc ở nƣớc

ngoài chƣa thƣờng xuyên, việc nắm bắt thông tin khi có phát sinh đối với

NLĐ thiếu kịp thời, khi lao động phải về nƣớc trƣớc thời hạn không đảm bảo

73

hồ sơ pháp lý để giải quyết thanh lý hợp đồng với NLĐ, gây nên những phát

sinh phức tạp; không thực hiện việc báo cáo đầy đủ và đúng hạn về hoạt động

XKLĐ với cơ quan chức năng.

Lợi dụng nhu cầu tìm kiếm việc làm của ngƣời lao động ở các địa

phƣơng trong các tỉnh của Lào, các đối tƣợng trong và ngoài nƣớc đã móc

nối, liên kết với nhau hình thành các đƣờng dây môi giới, tổ chức đƣa ngƣời

khác trốn đi nƣớc ngoài nhằm thu lợi bất chính. Qua công tác quản lý xuất

nhập cảnh, đã phát hiện những phƣơng thức, thủ đoạn phổ biến sau: Các đối

tƣợng xuất cảnh hợp pháp ra nƣớc ngoài theo diện du lịch sau đó trốn ở lại cƣ

trú, lao động bất hợp pháp; hoặc sử dụng hộ chiếu nƣớc ngoài giả, hộ chiếu

nƣớc ngoài mang tên ngƣời khác để tìm cách nhập cảnh; hợp thức hóa hồ sơ

là nhân viên công ty TNHH để xin thị thực nƣớc ngoài diện thƣơng mại, xin

cấp thẻ doanh nhân APEC để đƣợc nhập cảnh và trốn ở lại lao động bất hợp

pháp. Hình thức liên lạc của ngƣời lao động và các đối tƣợng môi giới chủ

yếu là qua mạng xã hội (zalo, facebook), số điện thoại giả nhằm xoá dấu vết,

tránh bị phát hiện, điều tra, xử lý của cơ quan chức năng.

Với mong muốn tìm kiếm việc làm, tăng thêm thu nhập nhƣng bản thân

những ngƣời xuất nhập cảnh trái phép ra nƣớc ngoài phải đối mặt với

nhiều rủi ro, hiểm nguy trên quãng đƣờng di chuyển và khi làm việc nơi xứ

ngƣời. Họ dễ trở thành nạn nhân của các đối tƣợng, đƣờng dây buôn bán

ngƣời; bị cơ quan chức năng nƣớc ngoài bắt, giam giữ vì vi phạm pháp luật

nƣớc sở tại và phải trả một khoản tiền không nhỏ để nộp phạt trở về nƣớc; bị

mất số tiền rất lớn chi trả cho các đối tƣợng, đƣờng dây môi giới, tổ chức xuất

cảnh trái phép nhƣng không kết quả đạt nhƣ mong muốn. Môi trƣờng làm

việc khắc nghiệt, nguy hiểm, không đƣợc bảo hộ lao động; bị đánh đập, bóc

lột sức lao động, lƣơng làm việc không đúng theo thỏa thuận, thậm chí bị

chiếm đoạt; bị đối xử ngƣợc đãi, bị bán hoặc gả lấy chồng hoặc bị ép làm gái

bán dâm. Đã có những trƣờng hợp bị mất tích, giam giữ, thậm chí có nhiều

74

trƣờng hợp đã thiệt mạng trên con đƣờng di cƣ trái phép. Vụ việc 12 lao động

Lào bị bắt làm nô lệ ở Thái Lan đã chính là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ cho những

ai đã, đang tìm cách xuất cảnh, di cƣ trái phép để lao động.

Đặc biệt vào 1/7/2019 cơ quan chức năng quản lý xuất nhập cảnh tỉnh

Ubonratchathany Thái Lan đã phát hiện 21 ngƣời Lào, bao gồm 15 ngƣời lớn

và 6 trẻ nhỏ định nhập cảnh trái phép vào nƣớc này bằng đƣờng thủy, khi đi

thuyền vƣợt qua sông Mekong ở biên giới Lào-Thái Lan. Những lao động

Lào này cho biết mất 5.400 bath mỗi ngƣời, tức khoảng gần 200 USD cho

ngƣời môi giới để đƣợc đƣa sang Thái Lan làm việc [36, tr.18].

Ngoài ra, tất cả cho biết đều làm nông nghiệp ở quê, nhƣng gặp thời tiết

hạn hán khiến sản xuất khó khăn, những ngƣời này đƣợc đối tƣợng môi giới

là ngƣời Thái Lan đƣa sang nƣớc này làm lao động trái phép mà không biết.

2.3.5. Tuyên truyền công tác xuất khẩu lao động

Để tổ chức và thực hiện các chính sách xuất khẩu lao động đạt đƣợc

hiệu quả cao, trong giai đoạn 2016 đến nay công tác truyền thông về xuất

khẩu lao động đã đƣợc Nhà nƣớc CHDCND Lào xác định là một trong những

nhiệm vụ quan trọng để phát triển công tác xuất khẩu lao động.

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội có nhiệm vụ chỉ đạo tuyên truyền, phổ

biến nội dung và văn bản liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động. UBND

tỉnh có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến chủ trƣơng chính sách, pháp luật của

Nhà nƣớc về ngƣời lao động Lào đi làm việc tại nƣớc ngoài theo hợp đồng.

Trên cơ sở đó, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã tổ chức cuộc hội thảo, hội

nghị về phát triển xuất khẩu lao động, chủ trì và phối hợp với các cơ quan liên

quan tổ chức thông tin, tuyên truyền, tập huấn, hƣớng dẫn, phổ biến thực hiện

Luật và các văn bản hƣớng dẫn của Chính Phủ, Bộ lao động và Phúc lợi xã

hội, các bộ ngành liên quan. Thông qua việc tổ chức 03 hội nghị toàn quốc về

XKLĐ, 90 lớp tập huấn chuyên đề và 15 lớp tập huấn cho cán bộ quản lý hoạt

động đƣa ngƣời lao động đi làm việc tại nƣớc ngoài [36, tr.24].

75

Đặc biệt các Sở Lao động và phúc lợi xã hội tỉnh hàng quý phát hành

bản tin lao động ngoài nƣớc để cung cấp thông tin về thị trƣờng, pháp luật,

các gƣơng điển hình thoát nghèo khi đi xuất khẩu lao động.

Hiện nay, có nhiều báo viết và báo điện tử có chuyên mục về xuất khẩu

lao động nhƣ báo Pa-xa-xôn ; Viengchanmay; Pha-thét Lào. Từ đó ngƣời lao

động có thể thƣờng xuyên nắm bắt đƣợc thông tin về xuất khẩu lao động, tác

dụng và hiệu quả của tạo việc làm ở nƣớc ngoài, những kiến thức cơ bản về

pháp luật đối với xuất khẩu lao động. Báo chí chính là nơi thu hút đƣợc sự

quan tâm của đông đảo ngƣời lao động về cơ hội tìm kiếm việc làm.

Tại các địa phƣơng, UBND tỉnh cũng tích cực tuyên truyền thông qua

hệ thống loa truyền thanh, báo chí địa phƣơng. Các chƣơng trình giải quyết

việc làm, xóa đói, giảm nghèo của các tỉnh đều đƣa giải pháp về XKLĐ.

Hoạt động thông tin, tuyên tuyền về XKLĐ đã triển khai và thực hiện

rộng rãi trong thời gian vừa qua, góp phần mở rộng và phát triển hoạt động

XKLĐ. Tuy nhiên thực trạng có một số tờ báo hay thậm chí đài truyền thanh

có hiện tƣợng đƣa thông tin về XKLĐ thiếu chính xác, thiếu khách quan về

các vụ việc tiêu cực trong xuất khẩu lao động: nhƣ việc lao động Lào bị giam

giữ tại Thái Lan vào năm 2017 nên một phần gây ra tâm lý hoang mang trong

cộng đồng, tác động tiêu cực tới khả năng thu hút nguồn LĐXK và hoạt động

XKLD nói chung.

2.3.6. Hợp tác quốc tế trong xuất khẩu lao động

XKLĐ là một nội dung của hoạt động kinh tế đối ngoại, để mở rộng và

phát triển thị trƣờng XKLĐ hiệu quả, trong công tác QLNN từ cấp Chỉnh phủ

đến các Bộ, ban ngành cần tăng cƣờng và mở rộng quan hệ ngoại giao với các

nƣớc để hỗ trợ công tác phát triển thị trƣờng.

Với chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại theo phƣơng hƣớng đa dạng hóa, đa

phƣơng hóa, ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, nƣớc

76

CHDCND Lào đã là thành viên chính thức cửa WTO, ASEAN và các tổ chức

hợp tác kinh tế khu vực khác cũng nhƣ kí kết nhiều hiệp định với các nƣớc

trên nhiều lĩnh vực.

Tính đến cuối năm 2019, CHDCND Lào thiết lập quan hệ ngoại giao

với 140 nƣớc và vùng lãnh thổ; có quan hệ thƣơng mại với 68 quốc gia và

vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế.

Thực tiễn lao động của nƣớc CHDCND Lào mới có mặt ở 10 - 12 quốc

gia trên thế giới, dù hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia nhƣng chính sách về

hợp tác quốc tế trong xuất khẩu lao động của Lào còn hạn chế.

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành liên

quan để đƣa nội dung hợp tác lao động vào chƣơng trình nghị sự của lãnh đạo

Đảng và Nhà nƣớc, các đoàn cấp cao Nhà nƣớc CHDCND Lào khi tới thăm

và làm việc tại các nƣớc cũng nhƣ khi tiếp đón các đoàn ngoại giao các tại

Lào. Ngoài quan hệ đối ngoại cấp Nhà nƣớc, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội

đã thay mặt Chính phủ tích cực xây dựng quan hệ hợp tác với các hiệp hội, tổ

chức đầu mối tuyển dụng lao động của các nƣớc.

Giai đoạn 2015 đến nay, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội tổ chức đƣợc

một số hoạt động nhƣ tổ chức hội thảo giới thiệu về chính sách và nguồn lao

động Lào ở Thái Lan, tổ chức Ngày lao động Lào ở Thái Lan, tổ chức Hội

nghị hợp tác lao động với Thái Lan [35], còn lại gần nhƣ chƣa có doanh

nghiệp XKLĐ Lào nào đủ khả năng thực hiện các hoạt động marketing lớn

quảng bá ở nƣớc ngoài.

Những năm qua, trong nội dung làm việc của lãnh đạo Đảng và Nhà

nƣớc với các nƣớc đều có nội dung hợp tác về lĩnh vực lao động, Bộ Lao

động và Phúc lợi xã hội đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao nghiên cứu

nhu cầu và pháp luật về nhận lao động của nƣớc ngoài của các quốc gia để

thực hiện các biện pháp mở thị trƣờng lao động.

77

Qua phân tích ở trên, có thể thấy dù đã có rất nhiều cố gắng và nỗ lực

nhằm phát triển thị trƣờng nhƣng kết quả phát triển thị trƣờng trong thời gian

qua vẫn còn không ít hạn chế: phụ thuộc vào một số thị trƣờng có tính truyền

thống; số lƣợng thị trƣờng phát triển mới chƣa đáng kể cũng nhƣ chƣa tạo

đƣợc thị phần ổn định tại các thị trƣờng cao cấp. Nhƣ vậy, có thể thấy các

chính sách cũng nhƣ các hoạt động phát triển thị trƣờng của cơ quan QLNN

đã tỏ ra chƣa hiệu quả. Trong thời gian tới, cần có sự đột phá trong việc khai

thác và phát triển thị trƣờng mới thì mới có thể đạt đƣợc mục tiêu phát triển

mạnh và bền vững hoạt động XKLĐ.

2.4. Đánh giá chung

2.4.1. Những kết quả đạt được

Cùng với sự nỗ lực của Đảng và Nhà nƣớc, hoạt động QLNN về

XKLĐ của nƣớc CHDCND Lào đã đạt đƣợc những kết quả nhất định, góp

phần thúc đẩy công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia:

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng đƣợc hoàn thiện,

phù hợp và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tế: Bộ Lao động và Phúc lợi xã

hội đã trình Quốc Hội, Chính phủ và trực tiếp ban hành hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật thể hiện cụ thể cơ chế, chính sách để thực hiện chủ trƣơng

XKLĐ của Đảng và Nhà nƣớc, góp phần tạo hành lang pháp lý tƣơng đối

hoàn chỉnh và đồng bộ để quản lý và phát triển hoạt động XKLĐ. Đồng thời,

đã phân định đƣợc chức năng QLNN với hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp XKLĐ. Bên cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị

trƣờng XKLĐ, phát huy quyền chủ động của các doanh nghiệp.

Bƣớc đầu tạo lập đƣợc môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho lao động nƣớc

ngoài vào làm việc tại CHDCND Lào. Thông qua việc sửa đổi, bổ sung Luật

Lao động nƣớc CHDCND Lào (2013) và ban hành các văn bản hƣớng dẫn

triển khai thực hiện đã phần nào hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách

đối với việc xuất khẩu lao động Lào đi các quốc gia trên thế giới

78

Cùng với những thay đổi trong hệ thống pháp luật, Nhà nƣớc

CHDCND Lào đang tiến hành những cải cách mạnh mẽ nhằm nâng cao năng

lực quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động; đơn giản hóa các thủ tục hành

chính, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về lao động, đổi mới công tác

thanh tra, kiểm tra lao động.

Tổ chức bộ máy QLNN về XKLĐ đƣợc đổi mới toàn diện, hoàn thiện

hơn, thống nhất quản lý từ trung ƣơng tới địa phƣơng với sự phân công, phân

cấp rõ ràng, cơ bản đồng bộ và khá hoàn chỉnh, nhìn chung đã đảm bảo môi

trƣờng cạnh tranh và hợp tác lành mạnh cho hoạt động của doanh nghiệp.

Đồng thời, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc về hoạt động XKLĐ đƣợc

tăng cƣờng, phối hợp nhịp nhàng và ngày càng hiệu quả.

Chính sách về XKLĐ góp phần khuyến khích và thúc đẩy hoạt động

XKLĐ. Các chính sách về phát triển thị trƣờng, chính sách hỗ trợ rủi ro đối

với NLĐ, chính sách hỗ trợ về tài chính và các chính sách khác liên quan đến

hoạt động XKLĐ đã góp phần khuyến khích và thúc đẩy hoạt động XKLĐ,

đặc biệt là tạo điều kiện cho ngƣời nghèo đi XKLĐ.

Các kế hoạch, đề án về XKLĐ góp phần nhất định về nguồn thu ngoại

tệ cho đất nƣớc và thu nhập cho NLĐ, giải quyết vấn đề xã hội. Sau khi đi

XKLĐ NLĐ thƣờng tiết kiệm gửi tiền về cho gia đình nhằm nâng cao cuộc

sống, xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, NLĐ khi hết hạn hợp đồng về nƣớc

cũng có một số vốn trong tay để kinh doanh, buôn bán chăm lo cho gia đình.

Công tác thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động góp

phần phát hiện vi phạm, kịp thời giải quyết những vƣớng mắc, bất cập trong

công tác quản lý.

2.4.2. Hạn chế

Quản lý nhà nƣớc về XKLĐ trong những năm qua đã đạt đƣợc những

thành tựu đáng trân trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện Lào hội nhập ngày càng

79

sâu vào nền kinh tế toàn cầu thì quản lý nhà nƣớc về XKLĐ ở Lào còn có một

số hạn chế nhƣ sau:

Thứ nhất về tổ chức bộ máy QLNN về XKLĐ ở Trung ương thực hiện

chức năng nghiên cứu, xúc tiến phát triển thị trường của Cục QLLĐ còn có

những hạn chế nhất định, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn của hoạt động

XKLĐ trong thời gian qua nhƣ lực lƣợng cán bộ làm công tác quản lý, nghiên

cứu, xúc tiến thị trƣờng còn thiếu so với yêu cầu thực tế công việc; tổ chức

thực hiện chức năng nghiên cứu, xúc tiến phát triển thị trƣờng bị phân tán ra

nhiều bộ phận nên khó phối hợp thống nhất.

Hiện nay hoạt động quản lý lao động nƣớc ngoài tại nƣớc CHDCND

Lào do Cục quản lý lao động đảm nhiệm. Tuy nhiên, chức năng nhiệm vụ

của Cục quản lý lao động quá lớn không chỉ quản lý lao động nƣớc ngoài mà

còn quản lý lao động bản địa làm việc tại tỉnh, lao động bàn địa làm việc ở

nƣớc ngoài. Chính vì khối lƣợng công việc quá lớn nên dƣờng nhƣ hoạt

động quản lý lao động nƣớc ngoài nhiều khi chƣa tập trung nên một số đề

án, dự án chƣa đƣợc triển khai cụ thể trên địa bàn các tỉnh, huyện. Đây cũng

là một nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc xây dựng chiến lƣợc cho

hoạt động XKLĐ.

Tại các địa phƣơng, hầu hết đều thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh để phối

hợp chỉ đạo công tác quản lý lao động trên địa bàn nhƣng hoạt động còn

mang tính hình thức, chủ yếu chỉ có bộ phận thƣờng trực là hoạt động chính

nên chƣa hiệu quả đặc biệt vẫn chú trọng quản lý lao động trong nƣớc.

Thứ hai, chưa có quy hoạch, kế hoạch và chính sách cụ thể để sử dụng

các nguồn lực, lợi thế do XKLĐ mang lại. Nguồn lực tài chính từ tài khoản

tiền chuyển về nƣớc chƣa có chính sách hƣớng dẫn, tổ chức, huy động và sử

dụng vào đầu tƣ phát triển sản xuất, kinh doanh; do đó, nguồn vốn này bị

phân tán, từng hộ gia đình sử dụng phần lớn vào tiêu dùng cuối cùng; kết quả

là về nƣớc một thời gian, tiêu hết khoản tiền tích lũy đƣợc, ngƣời lao động lại

80

hai bàn tay trắng. Nguồn lao động có tay nghề vững, ngoại ngữ khá, kỷ luật

lao động cao khi về nƣớc chƣa đƣợc bố trí, sắp xếp, sử dụng đúng ngƣời,

đúng việc vào các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nƣớc; đây là lãng

phí lớn nhất - lãng phí nhân lực.

Thứ ba, vi phạm pháp luật liên quan đến XKLĐ ở trong nước còn cao.

Những quy định của pháp luật không cho phép doanh nghiệp có vốn nƣớc

ngoài (cả đầu tƣ trực tiếp và gián tiếp) hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ làm

hạn chế khả năng, lợi thế của loại hình doanh nghiệp này đối với XKLĐ.

Tình trạng lừa đảo trong XKLĐ của các tổ chức và cá nhân không có

chức năng XKLĐ có xu hƣớng gia tăng. Ngoài vấn đề lao động bỏ trốn và cƣ

trú bất hợp pháp tại các nƣớc tiếp nhận lao động, hoạt động XKLĐ sang Nhật

Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trong thời gian qua vẫn có những rủi ro, phát sinh

các tiêu cực nhƣ hoạt động lừa đảo ngƣời lao động đi XKLĐ, lao động phải

về nƣớc sớm, lao động bị lạm dụng, bị phân biệt đối xử. Tình trạng này không

chỉ gây tổn thất về kinh tế cho ngƣời lao động và các doanh nghiệp tham gia

mà còn làm mất niềm tin, gây tâm lý e ngại đối với ngƣời lao động về XKLĐ.

Trong mối quan hệ hợp tác lao động quốc tế, các tiêu cực, rủi ro này còn làm

mất uy tín của Lào trong hoạt động xuất khẩu lao động. Các quy định của

pháp luật nƣớc tiếp nhận lao động về tiền lƣơng, điều kiện làm việc, thời gian

nghỉ ngơi, chế độ bảo hiểm, chi phí môi giới lao động chƣa đƣợc cập nhật,

nghiên cứu kỹ lƣỡng và chuyển tải thƣờng xuyên đến doanh nghiệp, cá nhân

và cơ quan kiểm tra giám sát. Điều đó dẫn tới tình trạng quyền lợi của ngƣời

lao động ở nƣớc ngoài bị vi phạm, lao động đình công ở nƣớc ngoài hoặc phải

về nƣớc trƣớc hạn do tranh chấp tiền lƣơng, điều kiện làm việc, điều kiện sinh

hoạt vẫn xảy ra ở nhiều nƣớc.

Thứ tư, quản lý lao động ở nước ngoài còn nhiều bất cập, yếu kém. Bộ

máy, nhân sự và chi phí hoạt động của các Ban quản lý lao động Lào ở nƣớc

ngoài chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của sự gia tăng nhanh số lao động Lào trên

81

các thị trƣờng, nên thƣờng bị động, lúng túng trong việc giải quyết các vụ

việc của ngƣời lao động ở nƣớc ngoài. Tỷ lệ lao động hoàn thành hợp đồng về

nƣớc không cao. Theo ƣớc tính của Cục Quản lý lao động , tính chung cho tất

cả lao động xuất khẩu tỷ lệ này chỉ đạt 60 - 65%. Lao động Lào ở nƣớc ngoài

chƣa đƣợc tập hợp, sinh hoạt dƣới các hình thức thích hợp để tự tƣơng trợ lẫn

nhau khi gặp khó khăn.

Thứ năm, công tác thanh, kiểm tra chưa thường xuyên, chưa tập trung

vào những lĩnh vực, công việc cụ thể nên dễ phát sinh tiêu cực. Cốt lõi của

công tác thanh tra, kiểm tra là phát hiện và ngăn ngừa các vi phạm về tài

chính. Những năm qua, việc kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm các quy định

về các khoản thu của ngƣời lao động nhƣ; phí môi giới, tiền vé máy bay và

các phí khác của ngƣời lao động; các quyền lợi của ngƣời lao động về mức

lƣơng và điều kiện làm việc của ngƣời lao động chƣa thực hiện thƣờng xuyên

và kiên quyết. Việc xử lý vi phạm của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong

việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động ở nƣớc ngoài

chƣa đủ mạnh, đủ răn đe tiến tới chấm dứt tình trạng vi phạm pháp luật.

Việc tổ chức quản lý trong nƣớc còn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp kiểm

tra, kiểm soát giữa các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan chủ quản nên chƣa

xử lý triệt để các hiện tƣợng cạnh tranh không lành mạnh, tranh giành đối tác

bằng cách phá giá giữa các doanh nghiệp ta đã làm ảnh hƣởng đến quyền lợi

của cá nhân NLĐ, vẫn còn tình trạng NLĐ phải chịu các chi phí cao, không

hợp lý, thậm chí xảy ra các hiện tƣợng lừa đảo chƣa đƣợc xử lý kịp thời. Một

số Bộ, ngành chủ quản chƣa quan tâm đầu tƣ thích đáng cho công tác quản lý

XKLĐ của ngành mình, thiếu kiểm tra, giám sát nên còn một số doanh nghiệp

vi phạm pháp luật. Chƣa có sự phối hợp quản lý giữa các Bộ, ngành; chủ quản

có liên quan nên vẫn còn nhiều cơ sở, nhiều đơn vị làm XKLĐ trong một doanh

nghiệp XKLĐ nhƣng bản thân ngành, địa phƣơng hay doanh nghiệp đó cũng

không quản lý đƣợc, để xảy ra các vi phạm hoặc hoạt động kém hiệu quả.

82

Công tác QLNN về XKLĐ chƣa kịp thời rút ra những kinh nghiệm và

những hạn chế của chính sách và pháp luật về XKLĐ để điều chỉnh cho phù

hợp với tình hình thực tế.

Thứ sáu,công tác nâng cao năng lực cho đội ngũ lao động xuất khẩu

chưa đáp ứng được nhu cầu của chủ sử dụng lao động ở các nước.

Công tác nâng cao năng lực cho đội ngũ lao động xuất khẩu mới chỉ

dừng lại ở việc phổ biến kiến thức cơ bản cho lao động. Tham gia xuất khẩu

lao động thì chất lƣợng lao động thấp là một điểm bất lợi trong cạnh tranh

XKLĐ của Lào, nhất là ở khu vực Châu Á, nơi tập trung nhiều quốc gia

XKLĐ truyền thống trong khu vực. Mặc dù có lợi thế về tính cần cù, chịu khó

siêng năng, nắm bắt kỹ thuật nhanh, nhƣng lao động Lào vẫn còn nhiều điểm

yếu, nhất là trình độ ngoại ngữ kém và chƣa có tác phong lao động công

nghiệp. Trình độ ngoại ngữ kém và thiếu tác phong lao động công nghiệp là

nguyên nhân gây lên bất đồng trong quan hệ chủ thợ, thiếu hiểu biết lẫn nhau,

đồng thời làm giảm khả năng tự tin, tham gia vào các hoạt động của cộng

đồng của ngƣời lao động, từ đó làm giảm hiệu quả lao động, tạo tâm lý e ngại

đối với chủ sử dụng trong việc tuyển dụng lao động Lào. Hiện nay, nhu cầu

lao động kỹ thuật chất lƣợng cao, đặc biệt là kỹ sƣ ngành công nghệ thông tin

ở Nhật Bản và Hàn Quốc rất lớn, nhƣng nguồn lao động Lào lại chƣa đáp ứng

đƣợc, không chỉ thiếu về số lƣợng mà còn yếu về trình độ chuyên môn. Tỷ lệ

LĐXK đƣợc đào tạo nghề ở mức thấp cũng là yếu tố làm giảm chất lƣợng

LĐXK của Lào ở các thị trƣờng này. Trình độ tay nghề thấp, khả năng ngoại

ngữ kém làm cho XKLĐ của Lào chỉ hƣớng phần lớn vào xuất khẩu lao động

phổ thông, làm công việc đơn giản, tại Thái Lan đa số lao động Lào làm việc

trong lĩnh vực ngƣ nghiệp, nông nghiệp.

Thứ bảy, chưa quan tâm đầy đủ các vấn đề "hậu XKLĐ", đặc biệt là

khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của NLĐ gửi về nước và

nguồn lao động sau khi hồi hương. Từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc

83

cũng nhƣ sự tham gia của các đối xã hội khác (doanh nghiệp XKLĐ, hệ thống

dịch vụ việc làm, chính quyền địa phƣơng...) trong việc hỗ trợ NLĐ tái hòa

nhập cộng đồng và thị trƣờng việc làm còn rất thiếu và yếu. NLĐ sau khi về

nƣớc và tìm kiếm việc làm chủ yếu là nhờ tự bản thân chính họ hoặc sự trợ

giúp từ gia đình, ngƣời thân, bạn bè nên tỷ lệ lao động chuyển dịch đƣợc việc

làm còn chƣa thực sự cao, mức độ lãng phí nguồn lực lao động lớn do không

tận dụng đƣợc hết những kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm làm việc mà họ đã

tích lũy đƣợc trong quá trình làm việc ở nƣớc ngoài.

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế

Những hạn chế, yếu kém nêu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ

yếu sau đây:

Một là, trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về hoạt động xuất khẩu

lao động chƣa có Cục quản lý lao động nƣớc ngoài mà hiện tại việc quản lý

lao động nƣớc ngoài do Cục quản lý lao động đảm nhiệm. Khối lƣợng công

việc quá nhiều dẫn đến hiệu quả hoạt động chƣa đƣợc cao, việc tham mƣu xây

dựng chƣơng trình, kế hoạch cho ngƣời đi xuất khẩu còn hạn chế. Tại địa

phƣơng chƣa thực sự chú trọng và còn bị động trong công tác bồi dƣỡng các

lao động xuất khẩu.

Hai là, trình độ, nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức còn một số

hạn chế dẫn đến tình trạng hệ thống luật pháp đƣợc xây dựng chƣa bao quát

đƣợc hết, đôi khi văn bản chƣa có hiệu lực đã phải đính chính, sửa đổi, bổ

sung trong khi luật pháp là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhất của nhà

nƣớc. Khi có một hệ thống luật pháp đầy đủ, việc QLNN sẽ đơn giản và dễ

dàng hơn. Các doanh nghiệp XKLĐ ở nƣớc ta chƣa đủ lực cả về con ngƣời và

vốn để khai thác các thị trƣờng mới mà chủ yếu tập trung vào các thị trƣờng

truyền thống. Các doanh nghiệp XKLĐ chƣa xây dựng kế hoạch tạo nguồn

lao động để đáp ứng đƣợc yêu cầu khác nhau của TTLĐ, chủ yếu dựa vào

84

nguồn lao động sẵn có trên thị trƣờng. Công tác đào tạo và chuẩn bị nguồn

LĐXK nhƣ đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hƣớng còn tự phát, manh mún

chƣa đƣợc coi trọng đầu tƣ đúng mức

Ba là, nhận thức của ngƣời tham gia xuất khẩu lao động còn hạn chế.

LĐXK của Lào phần lớn xuất thân từ nông thôn còn nhiều hạn chế trong việc

nhận thức về hoạt động XKLĐ.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tƣợng lao động

bỏ trốn, cƣ trú bất hợp pháp, phải về nƣớc sớm... Ngƣời lao động tham gia

XKLĐ chƣa nhận thức rõ về bản chất của hoạt động XKLĐ, về quan hệ giữa

ngƣời tiếp nhận lao động và ngƣời LĐXK, quan hệ giữa ngƣời chủ sử dụng

lao động và ngƣời lao động làm thuê trong cơ chế thị trƣờng, nhất là ở các

nƣớc tƣ bản phát triển. Do đó chƣa định hƣớng đƣợc rõ ràng khi tham gia

XKLĐ, tìm cách đi XKLĐ nhằm mục đích kiếm đƣợc nhiều tiền, chỉ chú ý

đến các lợi ích cá nhân, các khoản tiền mà ngƣời chủ sử dụng lao động trả, bất

kể đó là lao động bất hợp pháp, không cân nhắc tới các lợi ích của cộng đồng,

đất nƣớc. Sự nhận thức hạn chế này cùng với tác động của tâm lý sợ về nƣớc

không có việc làm, thu nhập và do ảnh hƣởng của tác phong lao động tự do

của nền sản xuất nông nghiệp, không nắm vững pháp luật của nƣớc sở tại là

nguyên nhân sâu xa của hiện tƣợng lao động Lào tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn

ra ngoài làm việc, cƣ trú bất hợp pháp, ý thức kém trong việc chấp hành kỷ

luật lao động, thiếu ý thức tôn trọng những cam kết với doanh nghiệp, đình

công, đấu tranh đòi tăng lƣơng, vi phạm pháp luật ở nƣớc NKLĐ. Những vấn

đề này đã tác động rất tiêu cực tới hoạt động XKLĐ của Lào, thậm chí ảnh

hƣởng ngay cả tới bản thân ngƣời lao động. Hình ảnh ngƣời lao động bỏ trốn,

cƣ trú bất hợp pháp bị bắt giam trong các trại tập trung, sau song sắt ở các đồn

cảnh sát ở Thái Lan, Trung Quốc không chỉ gây tổn thƣơng đối với bản thân

ngƣời lao động mà còn làm mất uy tín của lao động Lào trên thị trƣờng lao

động quốc tế, ảnh hƣởng tới danh dự của quốc gia Lào.

85

Bên cạnh đó công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về

XKLĐ chƣa đƣợc thực hiện sâu rộng và có hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến

căn bản trong nhận thức của ngƣời dân về XKLĐ; một bộ phận lao động ở

vùng núi thiếu thông tin về tuyển dụng lao động xuất khẩu. Chính sách, pháp

luật về XKLĐ chƣa đƣợc quán triệt bằng những hình thức và phƣơng pháp

thích hợp; các phƣơng tiện thông tin đại chúng chƣa làm rõ ý nghĩa kinh tế -

xã hội to lớn của XKLĐ và nêu gƣơng những doanh nghiệp, cơ quan, địa

phƣơng tích cực làm XKLĐ một cách có hiệu quả mà chỉ quan tâm phê phán

những biểu hiện tiêu cực, yếu kém của doanh nghiệp, chua phản ánh kịp thời

những vi phạm của ngƣời lao động làm việc ở nƣớc ngoài, nhất là lao động tự

phá vỡ hợp đồng bỏ trốn ở nƣớc ngoài. Thiếu các quy định của pháp luật về

việc bắt buộc doanh nghiệp, tổ chức XKLĐ công khai các thông tin tuyển

dụng lao động trên các phƣơng tiện truyền thông.

Bốn là, công tác quản lý, hỗ trợ và bảo vệ ngƣời lao động ở nƣớc ngoài

còn yếu và chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.

Hạn chế này xuất phát từ cả chủ quan và khách quan. Về khách quan là

do sự phân bố không tập trung, bị phân tán nhỏ lẻ của lao động Lào ở nƣớc

ngoài do phải tham gia vào các công việc khác nhau ở những địa điểm khác

nhau; mặt khác, là do hạn chế từ các quy định pháp luật của nƣớc sở tại nhƣ

quy định về nhập cƣ, thời gian lƣu trú (nhƣ thời hạn visa tại Thái Lan chỉ có

14 ngày) đã gây khó khăn cho công tác hỗ trợ ngƣời lao động giải quyết các

vấn đề phát sinh cũng nhƣ bảo vệ họ. Về chủ quan là do công tác này chƣa

đƣợc các cơ quan chức năng và doanh nghiệp XKLĐ Lào đầu tƣ, quan tâm

đúng mức. Số cán bộ quản lý lao động đại diện của Lào ở nƣớc ngoài còn

thiếu, không thể đảm nhiệm hết đƣợc các công việc nhƣ vừa phải giải quyết

các vấn đề phát sinh liên quan đến quyền lợi ngƣời lao động, vừa xúc tiến tìm

kiếm đối tác, mở rộng thị trƣờng. Nhiều doanh nghiệp XKLĐ chƣa thật chú

trọng đến công tác quản lý lao động ở nƣớc ngoài, hoặc chƣa đủ tiềm lực kinh

86

tế cử đại diện thƣờng trực ở nƣớc ngoài để phối hợp với cơ quan đại diện Lào

quản lý, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động, thậm chí có doanh

nghiệp đƣa lao động ra nƣớc ngoài nhƣng không cử đại diện sang nƣớc ngoài,

chỉ quản lý đƣợc lao động đến khi họ sang đến nƣớc NKLĐ. Do đó, không

kiểm soát đƣợc ngƣời lao động trong quá trình lao động tại nƣớc sở tại, không

kịp thời giải quyết dứt điểm các vấn đề phát sinh đối với ngƣời lao động để

tiến triển thành hậu quả xấu. Trên thực tế, đã xảy ra những mâu thuẫn giữa

ngƣời lao động và chủ sử dụng lao động đƣợc cơ quan quản lý và các doanh

nghiệp biết đến và xử lý quá chậm chạp làm trầm trọng thêm vấn đề.

Năm là, sự phối hợp giữa cơ quan chủ quản với các cơ quan bộ ngành,

chính quyền các địa phƣơng trong điều hành quản lý hoạt động XKLĐ chƣa

thật sự chặt chẽ, chậm trễ trong việc phối hợp xây dựng chính sách về XKLĐ.

Quá trình thực hiện công tác XKLĐ đã có nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh nhƣ

lao động bỏ trốn, lừa đảo ngƣời lao động đi XKLĐ nhƣng thiếu các chế tài đủ

mạnh thực sự để xử lý những trƣờng hợp đó. Luật về XKLĐ chƣa đƣợc ban

hành để điều chỉnh toàn diện hoạt động này, các chế tài xử lý các vi phạm

pháp luật trong hoạt động XKLĐ còn nƣơng nhẹ, mang nặng tính hành chính,

giáo dục nên chƣa có tác dụng ngăn ngừa các vi phạm của các tổ chức, cá

nhân và ngƣời lao động; vẫn còn thiếu các văn bản hƣớng dẫn về xét xử các

vụ khiếu kiện liên quan đến tranh chấp trong XKLĐ, thiếu các Hiệp định

tƣơng trợ tƣ pháp với các nƣớc NKLĐ của Lào làm hạn chế việc xử lý lao

động bỏ trốn, cƣ trú bất hợp pháp hay lao động vi phạm pháp luật ở nƣớc sở

tại, hoặc lao động bị phân biệt đối xử lạm dụng, bóc lột. Việc thiếu kịp thời và

chặt chẽ trong phối hợp xây dựng chính sách pháp luật về XKLĐ không chỉ

tạo ra sự lúng túng đối với các doanh nghiệp mà còn gây khó khăn cho các cơ

quan chức năng trong việc xử lý các vi phạm trong hoạt động XKLĐ, đồng

thời không tạo ra đƣợc ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia

vào hoạt động này.

87

Sáu là, công tác giáo dục hƣớng nghiệp và đào tạo tay nghề cho lao

động đi XKLĐ còn nhiều bất cập

Nhìn tổng thể, hoạt động đào tạo nghề ở Lào còn nhỏ yếu, lạc hậu, có

rất ít cơ sở đào tạo đáp ứng đƣợc yêu cầu về trang thiết bị giảng dạy và cơ sở

thực hành để nâng cao chất lƣợng LĐXK, đặc biệt là lao động kỹ thuật

chuyên ngành, lao động làm việc trong các ngành công nghệ mũi nhọn ở các

nƣớc NKLĐ. Trong khi đó Lào cũng còn thiếu một hệ thống chuẩn về trƣờng

đào tạo chuyên nghiệp LĐXK để tạo nguồn cho hoạt động XKLĐ của cả

nƣớc, trong đó có XKLĐ sang các nƣớc khu vực Châu Á là chủ yếu. Các giáo

trình giảng dạy cho lao động Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài chƣa đƣợc chuẩn

hóa, thống nhất. Nhiều trung tâm đào tạo đã mƣợn giáo trình của nƣớc ngoài

về dịch và giảng lại, dẫn tới không thống nhất về nội dung, bài giảng không

phù hợp với đặc thù, trình độ của lao động Lào. Chƣơng trình đào tạo nặng về

lý thuyết, thiếu thực hành vì không có nhà xƣởng và máy móc thiết bị mới,

thiết bị phù hợp với điều kiện làm việc ở các nƣớc NKLĐ. Một thực tế trong

thời gian qua là LĐXK có nghề đã qua đào tạo phần lớn đƣợc cung ứng từ các

xí nghiệp, nhà máy. Sự gia tăng quy mô XKLĐ đang làm cạn kiệt dần nguồn

lao động kỹ thuật. Việc tuyển chọn lao động kỹ thuật không có sẵn nhƣ trƣớc,

đang đứng trƣớc nguy cơ mất cân đối nguồn lao động có kỹ thuật, nếu xuất

khẩu thì các nhà máy trong nƣớc sẽ gặp khó khăn, nếu không tuyển trong các

nhà máy lại không có nguồn cung cấp cho nƣớc ngoài.

88

Tiểu kết chƣơng 2 Chƣơng 2 của luận văn, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích thực

trạng QLNN về XKLĐ của nƣớc CHDCND Lào, trong đó làm rõ các nội

dung: Tình hình XKLĐ của Lào trong thời gian 2016-nay với nhiều biến

động. Đặc biệt, chƣơng 2 đi sâu nghiên cứu Thực trạng QLNN về XKLĐ của

Lào bao gồm các nội dung QLNN: xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến

lƣợc, kế hoạch, chính sách về xuất khẩu lao động; xây dựng và ban hành văn

bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất khẩu lao động; tổ chức bộ máy

quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động; thanh tra, kiểm tra các hoạt động

xuất khẩu lao động; tuyên truyền công tác xuất khẩu lao động; Hợp tác quốc

tế trong xuất khẩu lao động ; thực hiện tái xuất khẩu lao động về nƣớc

Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đã đánh giá thực trạng QLNN, tìm

ra những kết quả đạt đƣợc cụ thể nhƣ: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

ngày càng đƣợc hoàn thiện, phù hợp và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tế,

tổ chức bộ máy QLNN về XKLĐ đang dần hoàn thiện, chính sách về XKLĐ

góp phần khuyến khích và thúc đẩy hoạt động XKLĐ, hoàn thiện hệ thống

chính sách, pháp luật và công tác thanh tra, kiểm tra; Nhà nƣớc đã tạo môi

trƣờng thông thoáng, có tính cạnh tranh để các chủ thể năng động, sáng tạo,

chủ động hội nhập thị trƣờng lao động quốc tế làm cho hiệu quả XKLĐ

không ngừng tăng lên.. Đồng thời cũng phân tích những hạn chế và nguyên

nhân của việc quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động.

Nội dung chƣơng 1 và chƣơng 2 là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc

giải quyết các vấn đề nghiên cứu ở chƣơng 3 của luận văn.

89

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

CỦA NƢỚC CHDCND LÀO

3.1. Quan điểm và định hƣớng của nƣớc CHDCND Lào trong phát

triển xuất khẩu lao động trong thời gian tới

Chiến lƣợc phát triển xuất khẩu lao động cần đƣợc hoạch định trong chiến

lƣợc tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Lào. Việc các chính sách hỗ trợ

xuất khẩu lao động cần đƣợc đặt ở vị trí quan trọng nhƣ nhau trong công tác

hoạch định chính sách, nâng cao thu nhập cho ngƣời dân, giải quyết nhiều vấn

đề bức xúc của xã hội.

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia Lào lần thứ X đã chỉ rõ:

“Phát triển lực lƣợng lao động cả về lƣợng và chất ngang tầm với chất lƣợng

quốc tế, đào tạo lực lƣợng lao động trên nhiều lĩnh vực và nhiều trình độ phù

hợp và gắn với cơ cấu kinh tế, tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, công

nghiệp và dịch vụ nhằm cung cấp theo yêu cầu phát triển đất nƣớc và có năng

lực cạnh tranh với khu vực đặc biệt là các nƣớc thành viên Hiệp hội các quốc

gia Đông Nam Á (ASEAN), đào tạo lực lƣợng lao động có tinh thần tự giác

dân tộc, là công dân tốt, tôn trọng thực hiện nghiêm pháp luật, có kỷ luật kỷ

cƣơng cao và có trách nhiệm công việc, có tinh thần hào hứng với việc phát

triển bản thân và trở thành lực lƣợng lao động mạnh khỏe, có công ăn việc

làm ổn định và trong môi trƣờng tốt, có thu nhập chính đáng phù hợp có sự

đảm bảo quản lý, bảo vệ lợi ích chính đáng đúng pháp luật và nghĩa vụ lao

động” [53, tr.44-45].

Đảng Nhân dân cách mạng Lào xác định:

- Hoạt động XKLĐ phải được thực hiện theo hướng đa dạng hóa thị

trường, thành phần tham gia, hình thức và ngành nghề lao động Đảng và Nhà

90

nƣớc Lào đã xác định: "Xuất khẩu lao động và chuyên gia phải đƣợc mở rộng

và đa dạng hóa hình thức, thị trƣờng xuất khẩu lao động, phù hợp với cơ chế

thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, đáp ứng nhu cầu của nƣớc ngoài về số

lƣợng, trình độ và ngành nghề". Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và phân

công lao động quốc tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng hiện nay,

nhận thức đầy đủ quan điểm này để chuẩn bị nguồn lao động sẵn sàng cung

ứng cho tất cả các thị trƣờng, không phụ thuộc vào thái độ chính trị, tập quán

hay tôn giáo nếu thị trƣờng đó có nhu cầu sử dụng lao động của Lào; mở rộng

và cho phép tất cả các thành phần kinh tế đƣợc tham gia vào hoạt động

XKLĐ trên cơ sở tiềm lực tài chính và con ngƣời theo quy định của pháp luật

để huy động tất cả những ƣu thế của các thành phần kinh tế đối với hoạt động

XKLĐ, tạo một môi trƣờng kinh doanh XKLĐ bình đẳng, hƣớng theo mục

tiêu tự do hóa các hoạt động kinh tế và hội nhập toàn cầu.

Đa dạng hóa thị trƣờng nhằm tránh sự phụ thuộc vào một hoặc một vài

thị trƣờng, khu vực, từ đó chủ động đƣợc đầu ra và hạn chế đƣợc những rủi ro

khi nƣớc tiếp nhận lao động có sự biến động do chiến tranh, dịch bệnh, khủng

hoảng kinh tế,... Đa dạng hóa thị trƣờng XKLĐ để tận dụng thời cơ, tranh thủ

đẩy mạnh XKLĐ bởi nhu cầu lao động là khác nhau ở các nƣớc và luôn có

những thay đổi trong những giai đoạn, thời điểm khác nhau, đồng thời là một

hình thức quảng bá, tuyên truyền về lao động và hoạt động XKLĐ của Lào.

Mở rộng thị trƣờng XKLĐ và ngƣời lao động khẳng định đƣợc khả năng của

mình trên thị trƣờng đó là cách thức để tác động tới ngƣời sử dụng ở nhiều

nƣớc tìm đến tuyển dụng lao động Lào, qua đó đẩy mạnh hoạt động XKLĐ

của Lào. Tuy nhiên, cũng cần phải gắn việc mở rộng, phát triển thị trƣờng

XKLĐ với việc bảo vệ ngƣời lao động, bảo đảm quyền lợi chính đáng của

ngƣời lao động và các lợi ích quốc gia, tránh các thị trƣờng có nhiều rủi ro,

nguy hiểm đến cuộc sống của ngƣời lao động. Đa dạng hóa hình thức XKLĐ

để tận dụng các quan hệ, lợi thế và khả năng của tất cả các thành phần kinh tế

91

cũng nhƣ của ngƣời lao động trong quan hệ hợp tác lao động với nƣớc ngoài

nhằm đƣa đƣợc nhiều lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Đẩy mạnh hoạt

động XKLĐ phải theo nhiều hình thức, cách thức tổ chức thực hiện, từ hình

thức cung ứng dịch vụ lao động theo hợp đồng giữa các doanh nghiệp trong

nƣớc và nƣớc ngoài đến hình thức liên doanh sản xuất, hợp tác song phƣơng,

hình thức hợp đồng cá nhân và theo hình thức nhận thầu, khoán công trình.

Về lâu dài phải có chính sách đầu tƣ phát triển đồng bộ để tăng cƣờng

XKLĐ theo hình thức nhận thầu, khoán hoặc đầu tƣ hợp tác sản xuất liên doanh

ra nƣớc ngoài. Hình thức này không chỉ cung ứng dịch vụ lao động, đƣa ngƣời

lao động ra nƣớc ngoài làm việc mà còn kèm theo cả máy móc, công nghệ,

phƣơng thức quản lý sản xuất, kinh doanh..., do đó thúc đẩy đầu tƣ của Lào ra

nƣớc ngoài, tạo động lực cho các doanh nghiệp Lào phát triển và tăng cƣờng sức

cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế. Đây chính là hình thức XKLĐ đồng bộ, đảm

bảo thu đƣợc lợi ích kinh tế cao nhất, nhƣng ít có những phát sinh tiêu cực tác

động xấu tới quan hệ hợp tác lao động giữa nƣớc Lào với các nƣớc, đồng thời

thúc đẩy đƣợc sự phát triển của các doanh nghiệp Lào.

Đa dạng hóa ngành nghề trong hoạt động XKLĐ để tận dụng đƣợc

nguồn lao động dồi dào ở đây, đồng thời tạo điều kiện để lao động nƣớc Lào

tăng cƣờng hội nhập hơn nữa với thị trƣờng lao động thế giới. Trong đó, về

lâu dài, phải có chiến lƣợc đào tạo LĐXK theo hƣớng đáp ứng các nhu cầu

ngày càng đa dạng và chất chất lƣợng ngày càng cao của các nƣớc NKLĐ,

số lƣợng lao động đƣợc đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật,

lao động có hàm lƣợng chất xám cao phải chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số

lao động đƣa đi nƣớc ngoài làm việc. Mặt khác, việc đa dạng hóa ngành

nghề XKLĐ cũng sẽ góp phần tạo điều kiện để hình thành một lực lƣợng lao

động có chất lƣợng, đa dạng phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã

hội của Lào.

92

-Hoạt động XKLĐ phải đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng và thống nhất

quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, sự thống nhất về quan điểm, chủ trƣơng

của Đảng về XKLĐ có vai trò quan trọng và làm định hƣớng cho việc hoạch

định các chiến lƣợc XKLĐ, làm cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nƣớc điều

tiết hoạt động này một cách có hiệu quả, đạt đƣợc các mục tiêu kinh tế - xã

hội và đảm bảo đƣợc tính định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

XKLĐ. Thống nhất quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động XKLĐ nhằm tạo

khuôn khổ cho hoạt động XKLĐ đi theo đúng đƣờng lối, chủ trƣơng và bảo

đảm thực hiện đƣợc các mục tiêu Đảng đã đề ra. Nhà nƣớc đứng ra quản lý

thống nhất hoạt động XKLĐ để phát huy vai trò sức mạnh của Nhà nƣớc

trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan nhƣ đàm phán ký kết hiệp định,

thỏa thuận hợp tác lao động với nƣớc ngoài, xây dựng pháp luật về XKLĐ,

đảm bảo quyền lợi của ngƣời lao động ở nƣớc ngoài. Đặc biệt, chỉ có Nhà

nƣớc mới có khả năng giải quyết đƣợc các vấn đề tiêu cực phát sinh trong

hoạt động XKLĐ và hậu quả của nó. Sự thống nhất quản lý của Nhà nƣớc về

hoạt động XKLĐ đƣợc thể hiện bằng việc Nhà nƣớc giao cho Bộ Lao động và

Phúc lợi xã hội (trực tiếp là Cục Quản lý lao động thuộc Bộ) quản lý và điều

tiết hoạt động XKLĐ trên cơ sở các chủ trƣơng, quan điểm của Đảng, chịu sự

chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, chịu trách nhiệm phối hợp với các cơ quan,

bộ ngành khác trong việc nghiên cứu, xây dựng và phối hợp triển khai các kế

hoạch, chƣơng trình đầu tƣ phát triển liên quan đến hoạt động XKLĐ của

nƣớc Lào.

- Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo được các mục tiêu kinh tế - xã hội

trong việc phát triển nền kinh tế ở nước CHDCND Lào. XKLĐ là một hoạt

động mang tính kinh tế - xã hội, do đó trong quá trình thực hiện phải đảm bảo

đƣợc các mục tiêu về lợi ích kinh tế, có tác động tích cực tới sự tiến bộ xã hội.

Về phƣơng diện kinh tế, mục tiêu kinh tế ở tầm vĩ mô là thu nhập quốc dân và

thu nhập đầu ngƣời tăng lên, XKLĐ phải đảm bảo đƣợc lợi ích kinh tế của

93

các bên tham gia là nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời lao động. Đó là phải

đảm bảo đƣợc nguồn thu cho ngân sách Nhà nƣớc từ các khoản thuế, phí

trong hoạt động XKLĐ, các khoản phí môi giới dịch vụ XKLĐ cho các doanh

nghiệp và các khoản thu nhập hợp pháp của ngƣời LĐXK. Đặc biệt là phải

chú trọng tới quyền lợi của ngƣời LĐXK, có đảm bảo đƣợc quyền lợi về kinh

tế của ngƣời LĐXK mới bảo đảm đƣợc tính chắc chắn đối với các lợi ích kinh

tế của doanh nghiệp, của Nhà nƣớc. Đảm bảo quyền lợi kinh tế của ngƣời

LĐXK là điều kiện để đảm bảo hoạt động XKLĐ ổn định và phát triển bền

vững, là căn cứ để xác định tính hiệu quả của hoạt động XKLĐ đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội. Các mục tiêu xã hội trong XKLĐ là giải quyết

đƣợc một số lƣợng ngƣời lao động thiếu việc làm, dôi dƣ trong nền kinh tế,

giảm áp lực thất nghiệp tới đời sống xã hội, nâng cao trình độ tay nghề, kỹ

năng lao động cho ngƣời lao động. Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo đƣợc hiệu

quả kinh tế để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ngƣời

lao động, góp phần vào sự phát triển của ngƣời lao động. Ngoài ra, hoạt động

XKLĐ còn phải hình thành đƣợc một đội ngũ lao động có chất lƣợng, linh

hoạt đáp ứng cho nhu cầu đa dạng của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội

trong thời kỳ CNH, HĐH đất nƣớc, là chất xúc tác để tăng cƣờng quan hệ hữu

nghị giữa Lào với các nƣớc.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với

hoạt động xuất khẩu lao động của nƣớc CHDCND Lào trong thời gian tới

3.2.1. Hoàn thiện về tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân lực quản lý nhà

nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động

Thứ nhất là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu

quả và hiệu lực QLNN về XKLĐ, cụ thể sau: hoàn thiện bộ máy và cơ chế

QLNN về XKLĐ. Tập trung chức năng QLNN vào một cơ quan chính phủ là

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phối

hợp với Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội theo chức năng quản lý của mình.

94

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội cần nghiên cứu hoàn thiện theo hƣớng

giảm đầu mối quản lý lao động và việc làm để thống nhất quản lý các hoạt

động này đƣợc thống nhất và xuyên suốt, tạo sự đồng bộ và hiệu quả trong

việc kết hợp QLNN về XKLĐ theo ngành, lãnh thổ trong nƣớc và nƣớc

ngoài. Đồng thời, tích cực triển khai đào tạo toàn diện và bồi dƣỡng cán bộ

quản lý ngang tầm với nhiệm vụ mới, cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

quản lý, pháp luật, kinh tế, chính trị, ngoại ngữ, tin học… để đáp ứng yêu cầu

của ngành trong giai đoạn mới.

Tại Cục Quản lý lao động, thành lập phòng quản lý lao động nƣớc

ngoài để chủ động trong công tác quản lý lao động làm việc ngoài nƣớc. Đây

chính là giải pháp cần đƣợc xem xét và thực hiện sớm vì nếu chỉ có phòng

quản lý lao động quản lý tất cả lao động trong nƣớc, lao động làm việc tại

nƣớc ngoài, lao động từ các quốc gia khác đến thì sẽ không đạt hiệu của công

tác quản lý lao động Lào đang làm việc tại các quốc gia khác.

Thư hai là, về nhân lực: Đây là một trong những yếu tố quan trọng

mang tính quyết định đến hiệu lực và hiệu quả QLNN về XKLĐ, cần tiếp tục

đổi mới và tăng cƣờng đội ngũ cán bộ trong bộ máy QLNN về XKLĐ theo

- Đổi mới và bổ sung theo hƣớng tăng đội ngũ cán bộ nói chung và

hƣớng nhƣ sau:

cán bộ lãnh đạo trẻ, vững vàng về chuyên môn, giỏi ngoại ngữ và tin học. Cụ

thể, cần bổ sung nhân sự cho bộ phận mới thành lập, các ban quản lý lao động

ở nƣớc ngoài cũng nhƣ các phòng chức năng khác của Cục QLLĐ cho đủ

- Thƣờng xuyên tổ chức tập huấn và tập trung đào tạo kiến thức về

định biên để đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tế hoạt động XKLĐ hiện nay.

HNKTQT, ngoại giao, thị trƣờng, marketing, pháp luật về lao động, luật pháp

- Cần tạo điều kiện cho các cán bộ QLNN tham gia các đợt công tác

quốc tế.

nƣớc ngoài để có thêm kinh nghiệm và điều kiện tiếp cận, nắm bắt tình hình

95

thị trƣờng lao động quốc tế cũng nhƣ tình hình lao động Lào ở nƣớc ngoài.

Mặc dù nhiều bộ phận còn thiếu so với định biên, việc tuyển dụng đƣợc

nhân lực đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn hiện nay là rất khó, Cục QLLĐ cần

đề xuất với Nhà nƣớc, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội cần có cơ chế tuyển

dụng riêng để có thể thu hút đƣợc nhân sự đáp ứng đƣợc các yêu cầu trên.

3.2.2. Hoàn thiện thể chế pháp luật đối với hoạt động xuất khẩu

lao động

Một là, ban hành kịp thời các văn bản pháp lý và điều chỉnh các nội

dung của các bộ luật khác có liên quan đến XKLĐ. Hài hòa hóa luật về

XKLĐ của Lào với luật tiếp nhận lao động nƣớc ngoài của các nƣớc nhập

cƣ. Các văn bản hƣớng dẫn dƣới Luật cần phải đƣợc ban hành kịp thời và

phải đƣợc theo dõi, điều chỉnh theo diễn biến của thực tế XKLĐ, phải có sự

tính toán cụ thể để phát huy đƣợc lợi thế nguồn nhân lực và không cản trở

hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ, nhất là các vấn đề liên quan đến

quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia.

Hai là, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng XKLĐ. Cần có một sự

chuyển biến căn bản về nhận thức các loại hợp đồng trong XKLĐ, phân

biệt chức năng mục đích của từng loại hợp đồng, những điều khoản trong

các hợp đồng phải thống nhất nhau, kế thừa nhau, tạo thành bộ hợp đồng

trong XKLĐ.

Các hợp đồng trong XKLĐ phải chứa đựng đầy đủ đặc điểm của một

quan hệ pháp luật, đó là tính ý chí, tính xã hội và tính cƣỡng chế của pháp luật

nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, thuận tiện trong

việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng, tạo điều kiện cho các cơ quan QLNN

theo dõi, đánh giá và hoạch định chiến lƣợc XKLĐ.

Ba là, nâng cao chất lƣợng hoạt động XKLĐ. Bộ Bộ Lao động và Phúc

lợi xã hội cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ: xây dựng những quy định và

điều kiện chặt chẽ đối với đơn vị đƣợc tham gia hoạt động đƣa ngƣời đi làm

96

việc ở nƣớc ngoài; nâng cao chất lƣợng và tiêu chuẩn cấp giấy phép hoạt

động cho doanh nghiệp XKLĐ.

Hoàn thiện luật cho ngƣời lao động Lào làm việc ở nƣớc ngoài. Nhà

nƣớc có thể ban hành luật cho ngƣời lao động Lào làm việc ở nƣớc ngoài theo

hƣớng: Quy định cấp giấy phép có thời hạn 3 – 5 năm, hết thời hạn đó mà

doanh nghiệp không đáp ứng đủ yêu cầu sẽ không đƣợc cấp lại giấy phép; cho

phép tạo nguồn lao động để chuẩn bị cung ứng cho hợp đồng do những quy

định về tuyển chọn lao động có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ hợp đồng do

không có nguồn lao động chất lƣợng cao sẵn có, phù hợp về điều kiện và các

chỉ tiêu về mặt chuyên môn và tay nghề để đối tác tuyển.

3.2.3. Hoàn thiện chính sách về xuất khẩu lao động

Hoàn thiện các chính sách về XKLĐ, đặc biệt là các chính sách liên

quan đến phát triển thị trƣờng XKLĐ; Đồng thời, xây dựng các giải pháp phối

hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc để triển khai thực hiện. Trên cơ sở các chính

sách đƣợc ban hành, tiến hành nghiên cứu và xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ

thể đối với từng thị trƣờng mục tiêu, tiềm năng của từng giai đoạn.

Tăng cƣờng ban hành các chính sách nhằm củng cố và mở rộng thị

phần tại các thị trƣờng truyền thống nhƣ Thái Lan, Nhật Bản là những thị

trƣờng trọng điểm XKLĐ của nƣớc CHDCND Lào trong thời gian qua. Việc

mở rộng thị phần tại các thị trƣờng truyền thống rất thuận lợi và khả thi vì chi

phí đầu tƣ sẽ thấp hơn nhiều so với phát triển thị trƣờng mới.

Tăng cƣờng xây dựng và ban hành các chính sách đối với NLĐ sau

khi đi XKLĐ về nƣớc. Thực tế cho thấy: NLĐ sau khi đi XKLĐ thƣờng tích

lũy đƣợc nguồn tài sản nhất định. Tuy nhiên, khi về nƣớc họ phải đối mặt với

nhiều vấn đề nhƣ tái thất nghiệp, hạnh phúc gia đình bị rạn nứt nên việc

xây dựng và thực hiện tốt các chính sách đối với NLĐ sau khi XKLĐ đóng

vai trò hết sức quan trọng và thực sự hoàn tất một chu trình của hoạt động

XKLĐ. Vì vậy, về phía nhà nƣớc cần thực hiện các giải pháp cơ bản nhƣ sau:

97

+ Trên cơ sở Chƣơng trình việc làm quốc gia, chính sách khuyến

khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các chính sách, biện pháp

khuyến khích, hỗ trợ cho LĐXK hết hợp đồng về nƣớc sử dụng nguồn tài

chính từ XKLĐ để đầu tƣ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân

và ngƣời khác.

+ Chính phủ cần tăng cƣờng đàm phán ký kết các Hiệp định, thỏa thuận

với các nƣớc tiếp nhận lao động Việt Nam về tuyển dụng lại, gia hạn hợp

đồng đối với LĐXK hết hạn hợp đồng nếu đáp ứng đƣợc yêu cầu và có

nguyện vọng tiếp tục ở lại. Đồng thời, khuyến khích và hỗ trợ NLĐ tự tìm

Về chính sách đào tạo nghề gắn với nội dung yêu cầu của thị trường

kiếm hợp đồng mới tại nƣớc ngoài.

lao động:

Phát triển giáo dục và đào tạo là giải pháp có tính chiến lƣợc lâu dài để

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực và giải quyết ngày càng nhiều việc làm

cho ngƣời lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Chuyển đổi phƣơng thức từ đào

tạo theo năng lực của các cơ sở dạy nghề, sang đào tạo theo nhu cầu của

ngƣời học và thị trƣờng lao động. Các cơ sở đào tạo nghề cần thực hiện tốt

phƣơng châm “Đào tạo những gì xã hội cần chứ không phải những gì nhà

trƣờng có”.

Biện pháp tăng cƣờng chất lƣợng giáo dục đào tạo, đầu tƣ cho giáo dục

đào tạo tăng để nâng cao chất lƣợng lao động nói chung, lao động xuất khẩu

nói riêng để thuận lợi cho việc giải quyết việc làm trong giai đoạn hậu XKLĐ.

Giáo dục đào tạo là biện pháp có tính chiến lƣợc lâu dài đối với công tác tạo

việc làm cho lao động nói chung và lao động xuất khẩu về nƣớc nói riêng.

Cần nâng cao chất lƣợng lao động, đặc biệt là trình độ chuyên môn kỹ thuật,

tay nghề lao động để ngƣời lao động có cơ hội việc làm nhiều hơn, tiếp thu

với những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp từ đó khi hết hạn hợp

98

đồng về nƣớc chính là công cụ để ngƣời lao động xuất khẩu hết hạn hợp đồng

về nƣớc có thể trang trải, nâng cao chất lƣợng cuộc sống.

Mở các lớp dạy phƣơng thức làm kinh tế để lao động xuất khẩu sau khi

hết hạn hợp đồng về nƣớc có thể tự tạo việc làm, sử dụng đồng vốn có hiệu quả.

Nguời lao động cần thay đổi nhận thức ngay từ khi học nghề chuẩn bị

đi XKLĐ. Giáo dục định hƣớng cho ngƣời lao động hiểu XKLĐ lao động

không chỉ giúp họ xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho

lao động mà đây chính là một cơ hội tốt để ngƣời lao động có cơ hội học tập,

nâng cao kiến thức, kỹ năng và sự hiểu biết của bản thân để làm hành trang

cho tƣơng lai khi hết hạn hợp đồng về nƣớc có thể cải thiện đời sống bản

thân, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc Lào.

Xây dựng kế hoạch và tự trang bị kiến thức cho bản thân sao cho sử

dụng nguồn vốn mang về một cách có hiệu quả nhất. Lao động xuất khẩu cần

có kế hoạch học tập và trang bị kiến thức cho mình ngay từ khi tham gia các

khoá đào tạo xuất khẩu lao động, chủ động tìm đến kiến thức, tích luỹ kinh

nghiệm đó là con đƣờng ngắn nhất giúp ngƣời lao động xuất khẩu hết hạn hợp

đồng về nƣớc có đƣợc cuộc sống tốt hơn, tránh rơi vào tình trạng nghèo nhƣ

trƣớc khi đi XKLĐ.

Công tác đào tạo nghề phải gắn với nhu cầu thực tế xã hội hiện nay,

không đào tạo tràn lan, mà phải đào tạo phù hợp với nhu cầu của lao động tại

địa phƣơng, có kết nối với chƣơng trình việc làm quốc gia. Xây dựng và triển

khai dự án (hay chƣơng trình) về đào tạo nghề cho những ngƣời sau khi đi

xuất khẩu lao động trở về nƣớc trên địa bàn nƣớc CHDCND Lào để phát triển

công nghiệp và đô thị.

Liên kết các doanh nghiệp và nhà trƣờng để đào tạo nghề. Đây là giải

pháp có tính xã hội hóa, nhằm hƣớng vào những lao động và doanh nghiệp ở

thủ đô có nhu cầu đào tạo nghề cho mình và cho những ngƣời khác. Sự liên

kết giữa họ với các trƣờng dạy nghề sẽ thúc đẩy hình thành mạng lƣới các

99

điểm đào tạo nghề theo hƣớng chính quy và bảo đảm “đầu ra” của công tác

đào tạo. Kết hợp “truyền nghề” với đào tạo chính quy.

Cần có những chính sách hỗ trợ cho những ngƣời thợ lành nghề, mở

các lớp đào tạo theo kiểu truyền nghề; hoặc liên kết với các trƣờng dạy nghề

để đào tạo theo kiểu bán chính quy.

3.2.4. Hoàn thiện chính sách tạo việc làm và sử dụng nguồn lao động

xuất khẩu sau khi về nước

3.2.4.1. Hoàn thiện chính sách tạo việc làm trong nước

XKLĐ là kênh giải quyết việc làm hiệu quả, mỗi năm đem lại nguồn

ngoại tệ rất lớn, góp phần cải thiện đời sống cho hàng nghìn gia đình. Do

không tìm đƣợc việc làm tƣơng ứng với ngành nghề đã làm trƣớc đó nên

nhiều lao động không có cơ hội sử dụng kiến thức, kinh nghiệm tích lũy đƣợc

ở nƣớc ngoài.

Nhƣ vậy, nếu không giải quyết việc làm mới cho những lao động này

sẽ lãng phí nguồn nhân lực chuyên nghiệp. Đa số họ phải tự xoay sở tìm việc

hoặc bỏ vốn đầu tƣ sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ. Một số tiếp tục tìm cơ hội đi

XKLĐ trở lại.

Nhằm phát huy nguồn lực lao động có chất lƣợng, thời gian qua, Các

trung tâm dịch vụ việc làm đã mở phiên giao dịch việc làm dành riêng cho đối

tƣợng lao động xuất khẩu trở về. Mặc dù các đơn vị đã chủ động xây dựng kế

hoạch, khảo sát nhu cầu về vị trí công việc, thời gian, mức lƣơng, chế độ ƣu

đãi của doanh nghiệp để kết nối thông tin với ngƣời lao động. Song số ngƣời

tìm đƣợc việc theo đúng nguyện vọng chƣa nhiều.

Nguyên nhân do phần lớn doanh nghiệp tuyển lao động phổ thông, còn

các vị trí nhƣ: Quản lý, phiên dịch nhu cầu tuyển dụng ít lại yêu cầu lao động

phải qua trƣờng đào tạo, giới hạn độ tuổi. Nhƣ vậy, cung và cầu chƣa gặp nhau

khiến ngƣời lao động khó tìm đƣợc công việc phù hợp năng lực hiện có.

100

Khắc phục sự lãng phí này, nhiều ý kiến cho rằng, ngay khi có kế

hoạch đƣa ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài thì ngành chức năng, doanh nghiệp

xuất khẩu và các địa phƣơng cần phối hợp thiết lập hệ thống dữ liệu quản lý

thông tin về trình độ, nghề nghiệp, thị trƣờng lao động; xây dựng phƣơng án

cung ứng nguồn nhân lực chất lƣợng cho các doanh nghiệp khi ngƣời lao

động hết hạn hợp đồng về nƣớc. Cùng đó, Trung tâm Dịch vụ việc làm tiếp

tục đổi mới hoạt động các phiên giao dịch nhằm kết nối cung - cầu lao động

với doanh nghiệp tích cực, hiệu quả hơn.

Với mục tiêu từng bƣớc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực xuất khẩu

và tạo nhiều cơ hội việc làm cho lao động về nƣớc, ngành lao động, thƣơng

binh và xã hội đang tập trung hƣớng đến những thị trƣờng thu nhập cao, lao

động chủ yếu làm công nhân kỹ thuật, may mặc, cơ khí, xây dựng phù hợp

với nhiều lĩnh vực sản xuất, chế tạo trong tỉnh.

Mặt khác, do trở về nƣớc không có việc làm và không đƣợc chính

quyền, cơ quan chức năng tại địa phƣơng tƣ vấn dùng nguồn vốn làm gì cho

hiệu quả, nên nhiều ngƣời đã trở thành tay trắng sau vài năm về nƣớc. Đây là

một sự lãng phí rất lớn, bởi vì trƣớc yêu cầu phát triển, mở rộng đầu tƣ, nhiều

doanh nghiệp, khu công nghiệp trong nƣớc đều thiếu nguồn nhân lực có trình

độ. Để đào tạo đƣợc một lao động đạt trình độ kỹ thuật, tay nghề cao ở trong

nƣớc, nhà nƣớc và ngƣời lao động phải đầu tƣ một số tiền khá lớn. Thế nhƣng,

nhiều năm qua địa phƣơng hầu nhƣ chƣa quan tâm và có chiến lƣợc tái sử dụng

nguồn nhân lực xuất khẩu trở về. Trừ một số ít lao động tái đăng ký đi nƣớc

ngoài làm việc, số đông còn lại chƣa hội nhập vào thị trƣờng lao động trong

nƣớc để phát huy các kỹ năng mà họ đã học hỏi đƣợc ở nƣớc ngoài.

Chính vì thế, nếu đƣợc chính quyền, các cơ quan chức năng tại địa

phƣơng quan tâm bằng cách tƣ vấn, hoặc giới thiệu việc làm phù hợp với tay

nghề, kỹ thuật, thì lực lƣợng lao động xuất khẩu từ nƣớc ngoài về sẽ đóng góp

không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng.

101

Tận dụng trình độ tay nghề và kỹ năng của lao động đi làm việc ở nƣớc

ngoài trở về là việc làm cần thiết trong bối cảnh thành phố và đất nƣớc đang

đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các cấp, ngành liên quan nên sớm

ban hành chính sách hỗ trợ lao động xuất khẩu sau khi về nƣớc, nhất là chính

sách tạo việc làm bền vững cho lao động, vừa tránh lãng phí nguồn lao động

có trình độ, đồng thời góp phần hạn chế tình trạng cƣ trú bất hợp pháp tại

nƣớc ngoài, khuyến khích lao động về nƣớc ngay sau khi hết hạn hợp đồng.

Trong khi đó, Luật ngƣời lao động Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài hiện

chỉ ghi chung chung là “khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận tuyển dụng

ngƣời lao động về nƣớc vào làm việc và khuyến khích tạo việc làm”. Chính vì

vậy mà cơ quan quản lý từ trung ƣơng tới địa phƣơng chƣa có chính sách cụ

thể hỗ trợ đối với nguồn lao động này. “Vì vậy, để giải quyết tình trạng này,

theo kiến nghị của ngành lao động thƣơng binh và xã hội, Cục quản lý lao

động (Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội) cần xây dựng cơ sở dữ liệu về lao

động xuất khẩu để các địa phƣơng cùng quản lý, khai thác phục vụ công tác

quản lý nhà nƣớc.

Tiếp tục tuyên truyền, vận động doanh nghiệp trong tỉnh quan tâm, ƣu

tiên sử dụng nguồn lao động này. Bên cạnh đó, với những lợi thế về vốn, kỹ

năng, kinh nghiệm làm việc, mỗi lao động nên linh hoạt, chủ động trong tiếp

cận thông tin để phát huy thế mạnh, tạo dựng nghề nghiệp ổn định.

Cụ thể:

Tái tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động sau khi về nước -

Hỗ trợ tái tạo việc làm và phát triển sản xuất kinh doanh

Nguồn kinh phí cho việc hỗ trợ ngƣời lao động lấy từ quỹ Hỗ trợ XKLĐ

và kinh phí của các doanh nghiệp XKLĐ. Ngƣời lao động về nƣớc nằm một

trong hai trƣờng hợp: Hoàn thành hợp đồng về nƣớc đúng hạn và về nƣớc trƣớc

thời hạn. Do đó, việc hỗ trợ cũng đƣợc phân theo đối tƣợng nhƣ sau:

102

a) Về nước trước thời hạn: Ngƣời lao động phải về nƣớc trƣớc thời hạn

thƣờng do nguyên nhân khách quan và do tự ngƣời lao động gây ra.

- Do nguyên nhân khách quan và rủi ro: Nguyên tắc là không để

ngƣời lao động bị thiệt hại về tài chính. Mức hỗ trợ đƣợc xác định bằng

tổng số khoản chi ngƣời lao động đã trả trƣớc khi đi trừ khoản thu nhập

kiếm đƣợc trong thời gian làm việc ở nƣớc ngoài cộng với khoản trợ cấp 3

tháng tìm việc mới.

- Do tự ngƣời lao động gây ra: Mức hỗ trợ tối thiểu đƣợc xác định

bằng tổng số khoản tiền ngƣời lao động đã trả trƣớc khi đi trừ khoản thu nhập

kiếm đƣợc trong thời gian làm việc ở nƣớc ngoài.

b) Hoàn thành hợp đồng về nước: Ngƣời lao động hoàn thành hợp

đồng về nƣớc lợi thế to lơn về thu nhập, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao

động công nghiệp, nắm bắt đƣợc một số bí quyết công nghệ.

Để giúp ngƣời lao động tái tạo việc làm, cần thực thi một số việc sau đây:

- Hỗ trợ tìm kiếm việc làm phù hợp: Thành lập website về thông tin lao

động xuất khẩu về nƣớc. Thông tin chính xác số lƣợng, cơ cấu, trình độ tay

nghề, khả năng cá nhân của từng ngƣời lao động và đƣa vào dữ liệu nguồn

cung lao động trong nƣớc. Dữ liệu này đƣợc cung cấp miễn phí cho các cơ sở

sản xuất kinh doanh trong nƣớc, các giao dịch trên thị trƣờng lao động và cho

các phƣơng tiện thông tin đại chúng.

Thành lập các trung tâm hỗ trợ lao động về nước làm đầu mối hỗ trợ

ngƣời lao động tìm việc làm phù hợp.

- Hướng dẫn phát triển kinh doanh: Ngƣời lao động về nƣớc đã tích

luỹ đƣợc một lƣợng vốn khá với kinh nghiệm và trình độ tay nghề tích luỹ

đƣợc là thế mạnh có thể đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm

cho chính họ và cho xã hội. Để phát huy đƣợc lợi thế này, nhà nƣớc cần định

hƣớng chính sách hỗ trợ họ đầu tƣ phát triển thông qua các chƣơng trình, dự

án; chẳng hạn nhƣ Chương trình phát triển sản xuất kinh doanh: Mục tiêu của

103

Chương trình: Tạo việc làm phù hợp với khả năng cho ngƣời lao động về

nƣớc và tạo việc làm mới cho xã hội.

Bịên pháp thực hịên: Hƣớng dẫn và hỗ trợ ngƣời lao động thành lập các

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân, công ty

cổ phần, hợp tác xã theo quy định của pháp luật. Nhà nƣớc hỗ trợ đào tạo lại

thông qua Chương trình đào tạo định hướng nghề nghiệp; chương trình đào

tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản trị kinh doanh doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà

nƣớc có thể hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn, miễn giảm thuế, cho thuê đất và

mặt bằng sản xuất,... nhằm khuyến khích ngƣời lao động đầu tƣ phát triển sản

xuất kinh doanh theo nhu cầu và khả năng của ngƣời lao động.

- Huy động và sử dụng bí quyết công nghệ mà người lao động mang về

nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho thấy, bằng việc đƣa

lao động có trình độ học vấn khá đến làm việc ở một số ngành, lĩnh vực mà

họ cần công nghệ để phát triển; sau thời gian làm việc ở nƣớc ngoài, số lao

động này đã mang về cho đất nƣớc những bí quyết công nghệ quý báu mà nếu

trong nƣớc đầu tƣ nghiên cứu thì rất tốn kém về thời gian và kinh phí. Những

lao động này, đƣợc Nhà Nƣớc sử dụng vào việc triển khai thực hiện các công

nghệ tại các cơ sở thực nghiệm mà các nƣớc này đã tiến kịp một số nƣớc tiên

tiến trong một số ngành và lĩnh vực. Đối với nƣớc CHDCND Lào, cần sớm có

chính sách và tổ chức thực hiện thí điểm việc đƣa lao động đi khai thác bí

quyết công nghệ và sử dụng họ một cách hiệu quả khi về nƣớc.

3.2.4.2. Hoàn thiện chính sách tái xuất khẩu đối với lao động xuất khẩu

hết hạn hợp đồng về nước

Thông qua hoạt động tái XKLĐ vừa giảm bớt đƣợc gánh nặng việc

làm, vừa tăng thêm thu nhập cho ngƣời lao động xuất khẩu hết hạn hợp

đồng về nƣớc ở vẫn còn khả năng làm việc ở nƣớc ngoài, tiết kiệm chi phí

đào tạo đối với lao động đi xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất

nƣớc Lào. Đồng thời ngƣời lao động thuận lợi trong việc học hỏi tiếp thu

104

đƣợc nhiều kinh nghiệm công nghệ hiện đại, phƣơng pháp tiên tiến, tác

phong công nghiệp.

Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hƣớng

dẫn thi hành Luật đƣa Ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài để Luật này

đƣợc thi hành. Đồng thời cần nhanh chóng hoàn thiện một hành lang pháp lý

về quy trình làm thủ tục xuất cảnh cho ngƣời lao động.

Thứ hai, tiếp tục xúc tiến và mở rộng thị trƣờng. Phối hợp với các bộ,

ngành, tỉnh, thành phố, doanh nghiệp phát triển thị trƣờng xuất khẩu lao động.

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội cần khảo sát, nghiên cứu sâu nhu cầu lao

động tại các thị trƣờng; cần hiểu rõ chính sách, luật pháp xung quanh về vấn

đề xuất khẩu lao động vào các thị trƣờng này. Để thực hiện điều đó, cần phát

huy vai trò của các đại sứ quán Lào ở nƣớc ngoài. Bên cạnh đó, cần đơn giản

hóa thủ tục hành chính, xóa bỏ các loại giấy phép con ở các địa phƣơng để

doanh nghiệp thuận lợi trong công tác tuyển lao động đi xuất khẩu. Một trong

các giải pháp trọng tâm là chỉ đạo việc thí điểm đƣa lao động sang các thị

trƣờng mới, bên cạnh việc mở rộng thị phần tại các thị trƣờng hiện có. Để làm

đƣợc việc này, ngành Lao động và phúc lợi xã hội cần hƣớng dẫn các doanh

nghiệp triển khai đƣa lao động sang các thị trƣờng mới nhƣ Úc, Canada,

Macao, Mỹ; nghiên cứu giải pháp mở lại thị trƣờng Cộng hoà Síp, Cộng hoà

Séc và một số thị trƣờng tiềm năng khác.

Theo đó, Lào cần rà soát, bổ sung đề án xuất khẩu lao động với các nội

dung bao gồm: thông tin, tuyên truyền chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, quy

chế, quy trình xuất khẩu lao động dễ hiểu với các hình thức phù hợp đến tận

thôn, bản, tới ngƣời dân. Song song với đó, cần phải xây dựng lộ trình sắp

xếp, phát triển doanh nghiệp xuất khẩu lao động theo định hƣớng, tiêu chí của

Luật Ngƣời lao động Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, đặc biệt là

đầu tƣ phát triển cơ sở đào tạo của doanh nghiệp để chủ động tạo nguồn lao

động có chất lƣợng theo thị trƣờng, xây dựng thƣơng hiệu, tăng năng lực cạnh

105

tranh của doanh nghiệp. Cần có cơ chế biện pháp cụ thể để hỗ trợ ngƣời lao

động, ngƣời nghèo vay vốn, học nghề, làm thủ tục xuất khẩu lao động. Cụ thể

là cần vận hành Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động từ nguồn ngân sách của thành

phố cùng với nguồn vốn của Trung ƣơng, giúp ngƣời lao động thuộc diện

chính sách xã hội, bộ đội xuất ngũ, lao động gia đình khó khăn... đƣợc vay

vốn không thế chấp bằng tài sản.

3.2.5. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyền truyền hoạt động xuất

khẩu lao động

Công bố công khai, rõ ràng các thông tin về hoạt động XKLĐ là biện

pháp hạn chế các rủi ro phát sinh trong hoạt động XKLĐ. Ngƣời lao động

trên cơ sở các thông tin có sẵn sẽ xác định mục tiêu, định hƣớng đúng đắn khi

tham gia XKLĐ, hạn chế đƣợc hiện tƣợng lừa đảo, bỏ trốn,... Chỉ khi ngƣời

lao động định hƣớng đƣợc nghề nghiệp, tự chuẩn bị cho bản thân các kiến

thức, tay nghề tối thiểu và tự bản thân tự nguyện tham gia, chấp nhận những

điều kiện làm việc mới thì họ mới có ý thức, trách nhiệm với công việc, có ý

thức bảo vệ quyền lợi của chính mình cũng nhƣ lợi ích của cộng đồng, đất

nƣớc trong hoạt động XKLĐ. Vì thế hoạt động thông tin, tuyên truyền không

chỉ góp phần nâng cao nhận thức của ngƣời lao động về hoạt động XKLĐ mà

còn góp phần làm lành mạnh môi trƣờng kinh doanh XKLĐ cũng nhƣ đảm

bảo cho hoạt động XKLĐ ổn định và bền vững.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể nhƣ sau:

Nhà nƣớc và các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

XKLĐ cần tăng cƣờng đầu tƣ tài chính và nhân lực để thông tin, tuyên truyền,

định hƣớng tới mọi gia đình, mọi tổ chức về bản chất của hoạt động XKLĐ

trong cơ chế thị trƣờng, chủ trƣơng chính sách về XKLĐ của Đảng và Nhà

nƣớc, nhất là đối với các vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, miền núi,

những khu vực còn gặp nhiều khó khăn hạn chế về điều kiện giáo dục, đào tạo

và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc.

106

- Kết hợp tuyên truyền về các gƣơng điển hình tốt, mô hình hiệu quả

trong hoạt động XKLĐ với việc khuyến khích ngƣời lao động tham gia phát

hiện, tố giác và ngăn chặn các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong hoạt

động XKLĐ, nhất là hành vi lừa đảo dƣới danh nghĩa XKLĐ của các tổ chức,

cá nhân không có chức năng XKLĐ.

- Công bố công khai, thƣờng xuyên, đầy đủ trên các phƣơng tiện thông

tin đại chúng về chƣơng trình XKLĐ của nhà nƣớc, các văn bản pháp lý, các

quy định, những thay đổi trong chủ trƣơng chính sách về XKLĐ của Đảng và

Nhà nƣớc, nhất là ở các khu vực có đông lao động tham gia XKLĐ, các vùng

sâu, vùng xa, nông thôn, miền núi. Công bố đầy đủ các thông tin về cơ hội

việc làm ở nƣớc ngoài, đối tƣợng tuyển dụng, điều kiện làm việc, thu nhập,

điều kiện sinh hoạt, đặc biệt là các thủ tục đi XKLĐ và các khoản tài chính

phải nộp… để ngƣời lao động định hƣớng đƣợc nghề nghiệp tƣơng ứng với

khả năng của họ.

Tuyên truyền, vận động và khuyến khích ngƣời lao động sau khi về

nƣớc sử dụng thu nhập từ nƣớc ngoài đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh, tạo mở

việc làm cho bản thân và cho những ngƣời khác nhƣ hỗ trợ cho vay thêm vốn

ƣu đãi, miễn giảm thuế đầu tƣ sản xuất kinh doanh... Xây dựng và công bố

đầy đủ về chính sách định hƣớng việc làm, các biện pháp hỗ trợ tái hội nhập

cộng đồng cho LĐXK sau khi hết hợp đồng trở về nƣớc.

- Đẩy mạnh việc quảng bá, tuyên truyền ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài

Loan về lao động Lào để giúp chủ sử dụng ở các nƣớc này hiểu và nắm rõ về

tiềm năng LĐXK Lào, tạo điều kiện cho việc xúc tiến tìm kiếm đối tác, mở

rộng và phát triển thị trƣờng XKLĐ ở khu vực này.

107

3.2.6. Cải cách thủ tục hành chính liên quan hoạt động xuất khẩu

lao động

Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nƣớc, các

ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nƣớc liên quan

đến hoạt động XKLĐ.

- Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình

thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá

nhân, tổ chức phải bỏ ra khi tham gia hoạt động XKLĐ.

- Cải tiến quy trình thực hiện đăng ký hợp đồng cung ứng lao động của

các doanh nghiệp để tăng hiệu quả và rút ngắn thời gian thẩm định. - Nâng cao

năng lực đội ngũ công chức thực hiện thủ tục hành chính liên quan đến XKLĐ.

- Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong việc

thực hiện các thủ tục trong XKLĐ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ

quan QLNN, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và NLĐ tham gia vào XKLĐ, ví

dụ nhƣ giải quyết thủ tục hành chính qua hệ thống mạng, công khai tiến trình

giải quyết thủ tục hành chính trên mạng…

3.2.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất khẩu

lao động

Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài của các doanh nghiệp, phát huy những yếu tố tích cực

trong hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài; đồng thời có biện pháp

xử lý đối với những doanh nghiệp có hành vi vi phạm. Tập trung thanh tra,

kiểm tra những doanh nghiệp có nhiều phát sinh, sai phạm. Tăng cƣờng

thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề, ví dụ nhƣ: Chuyên đề đào tạo, chuyên

đề tuyển chọn lao động, chuyên đề tài chính liên quan đến hoạt động đƣa

NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài để có điều kiện thanh, kiểm tra đƣợc sâu

hơn, cụ thể hơn, đồng thời qua công tác thanh tra, kiểm tra kết hợp với việc

108

phổ biến, hƣớng dẫn chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động đƣa

NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

- Từng Bộ, ngành, địa phƣơng cần sắp xếp các doanh nghiệp XKLĐ do

mình quản lý, đồng thời có biện pháp, cơ chế quản lý, xử lý doanh nghiệp vi

phạm, chọn lựa, bổ sung cán bộ tốt cho doanh nghiệp. Tăng cƣờng quản lý,

kiểm tra, thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ trực thuộc trong

việc ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng và việc chấp hành pháp luật, quy định

về hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài để kịp thời uốn nắn hoặc xử

lý vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích của NLĐ.

- Đổi mới phƣơng thức thanh tra, kiểm tra bằng hình thức gửi phiếu tự

kiểm tra đối với các doanh nghiệp XKLĐ nhằm nâng cao trách nhiệm tự kiểm

tra, rà soát và chấn chỉnh hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài của

chính doanh nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả QLNN về hoạt động đƣa NLĐ

đi làm việc ở nƣớc ngoài.

- Tăng cƣờng tập huấn chuyên môn về nghiệp vụ đƣa NLĐ đi làm việc

ở nƣớc ngoài nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ thanh tra của Bộ, Sở, thanh

tra viên hiểu biết sâu về chuyên môn nhƣng phải có kỹ năng và phƣơng pháp

thanh tra tốt. Cán bộ, thanh tra viên phải có phẩm chất chính trị vững vàng, có

ý thức trách nhiệm cao, trung thực, khách quan, nắm vững chính sách, chế độ,

pháp luật của nhà nƣớc thuộc phạm vi QLNN về hoạt động đƣa NLĐ đi làm

việc ở nƣớc ngoài.

- Đi kèm với thanh tra, kiểm tra cần có những chế tài xử lý sai phạm

một cách nghiêm khắc. Các chế tài cần đƣợc cụ thể hóa trong các Nghị định

hƣớng dẫn Luật NLĐ Lào đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, cần kết

hợp giữa xử phạt hành chính và phạt tiền bởi vì trong cơ chế thị trƣờng, lợi

ích kinh tế là sát sƣờn nhất. Khi bị ảnh hƣởng có hại về lợi ích kinh tế, các

doanh nghiệp sẽ buộc phải điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh của mình. Bên

109

cạnh đó, cần kịp thời giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến

hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

Đồng thời, qua các đợt thanh tra, kiểm tra cần tổ chức tổng kết, đánh

giá nhằm nắm bắt đƣợc tình hình thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đƣa NLĐ

đi làm việc ở nƣớc ngoài và các kiến nghị của doanh nghiệp và địa phƣơng để

kịp thời điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu

cầu thực tế của công tác quản lý

3.3. Một số kiến nghị

Để đảm bảo thực hiện các giải pháp hoàn thiện QLNN về XKLĐ

của nƣớc CHDCND Lào cần phải có lộ trình và vạch rõ mục tiêu cụ

thể cho từng giai đoạn, tác giả xin nêu một số kiến nghị cụ thể nhƣ sau:

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

- Tiếp tục hoàn thiện các chế độ chính sách nhằm mở rộng TTLĐ ngoài

nƣớc, tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc làm cho

mỗi công dân, khuyến khích NLĐ học tập, đào tạo và tự kiếm việc làm, bồi

dƣỡng cán bộ làm nghiệp vụ XKLĐ.

- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tập trung nguồn lực tham gia

đào tạo nghề và XKLĐ. Đẩy mạnh XKLĐ đặc biệt là lao động đã qua đào tạo.

- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới doanh nghiệp XKLĐ. Chính

phủ đề ra các chính sách đầu tƣ ban đầu cho doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh

nghiệp trong việc đấu thầu, tìm kiếm thị trƣờng, ký kết, tổ chức thực hiện hợp

đồng cung ứng lao động và dịch vụ nhằm đảm bảo chỉ những doanh nghiệp

có đủ tiềm lực tài chính, đội ngũ cán bộ chuyên trách có đủ năng lực chuyên

môn nghiệp vụ và ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức, và chấp hành nghiêm chỉnh

luật pháp của Nhà nƣớc ta và nƣớc sử dụng lao động Việt Nam mới đƣợc

tham gia hoạt động cung ứng lao động xuất khẩu.

110

- Ban hành các chính sách khuyến khích NLĐ sử dụng thu nhập, kỹ

năng nghề và chuyên môn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh thu đƣợc từ

hoạt động XKLĐ để đầu tƣ vào sản xuất, tạo việc làm trong nƣớc.

- Tăng cƣờng các hoạt động hợp tác với các nƣớc tiếp nhận lao động

trong việc bảo vệ quyền con ngƣời của tất cả LĐXK, về trao đổi thông tin và

tiếp cận TTLĐ, đơn giản hoá các thủ tục gửi và tiếp nhận lao động, xây dựng

các chính sách và hình thức để tăng cƣờng chuyển tiền kiều hối qua các kênh

chính thức, cung cấp các khóa đào tạo kỹ thuật và phát triển tay nghề, ngăn

chặn sự di cƣ và tuyển dụng lao động bất hợp pháp.

- Xây dựng các chƣơng trình kế hoạch tái xuất khẩu ngƣời lao động khi trở về

nƣớc vì họ đã có sẵn nền tảng kiến thức, kỹ năng khi đi làm việc tại nƣớc ngoài.

3.3.2. Kiến nghị với các cấp chính quyền ở địa phương

- Tăng cƣờng công tác tuyên truyền sâu rộng trên các phƣơng tiện

thông tin đại chúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác XKLĐ, quyền lợi

và nghĩa vụ của NLĐ khi tham gia XKLĐ.

- Thông báo công khai về TTLĐ, số lƣợng, tiêu chuẩn tuyển chọn,

điều kiện làm việc, các khoản chi phí mà NLĐ phải đóng góp, các chính

sách ƣu đãi hỗ trợ của tỉnh về đào tạo - bồi dƣỡng kiến thức cần thiết, các

chính sách cho vay để trang trải chi phí ban đầu của NLĐ...để ngăn chặn

các thông tin không đúng về XKLĐ, giảm thiểu các chi phí thất thiệt cho

ngƣời tham gia XKLĐ.

- Hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức cần thiết cho ngƣời tham

gia XKLĐ; thực hiện các chính sách ƣu đãi đối với các đối tƣợng chính sách

trong việc giải quyết việc làm trong và ngoài nƣớc.

111

Tiểu kết chƣơng 3

Qua nghiên cứu về cơ sở khoa học và thực trạng QLNN về XKLĐ ở

nƣớc CHDCND Lào, chƣơng 3 của luận văn, tác giả đã nêu ra những giải

pháp nhằm hoàn thiện QLNN về XKLĐ ở nƣớc CHDCND Lào: hoàn thiện

tổ chức bộ mày và thể chế về xuất khẩu lao động; đẩy mạnh công tác thông

tin tuyền truyền hoạt động xuất khẩu lao động; cải cách thủ tục hành chính

liên quan hoạt động xuất khẩu lao động; tăng cƣờng công tác thanh tra,

kiểm tra hoạt động xuất khẩu lao động; hoàn thiện kế hoạch tạo việc làm và

sử dụng nguồn lao động sau khi về nƣớc; chính sách đào tạo nghề gắn với

nhu cầu xã hội; thực hiện tái xuất khẩu đối với lao động xuất khẩu hết hạn

hợp đồng về nƣớc.

Ngoài ra, tác giả cũng đƣa ra một số kiến nghị với: Chính phủ, các cấp

chính quyền địa phƣơng, để đảm bảo thực hiện các giải pháp.

112

KẾT LUẬN

Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, có thể nói XKLĐ là

điều tất yếu của mọi quốc gia chứ không chỉ có nƣớc CHDCND Lào. Nó

mang lại lợi ích không chỉ cho nƣớc nhận LĐXK mà còn mang lại lợi ích cho

cả nƣớc XKLĐ. XKLĐ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nƣớc

CHDCND Lào.

XKLĐ là một bộ phận của chƣơng trình mục tiêu giải quyết việc làm -

một trong những chƣơng trình kinh tế - xã hội trọng điểm của quốc gia. Đây

là hoạt động mang tính chất kinh tế - xã hội sâu sắc thông qua việc phát triển

nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay

nghề cho ngƣời lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nƣớc. Bên cạnh đó,

là một bộ phận của hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động XKLĐ góp phần

củng cố và thắt chặt mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Lào với các nƣớc tiếp

nhận lao động.

Đề tài luận văn đã tập trung nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:

1. Hệ thống hóa toàn diện những lý luận cơ bản về hoạt động đƣa NLĐ

đi làm việc ở nƣớc ngoài và những nội dung QLNN nhƣ: khái niệm về

QLNN, QLNN đối với hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

2. Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về XKLĐ của nƣớc CHDCND

Lào. Trong đó đã nêu bật những thành tựu đã đạt đƣợc, chỉ ra những hạn chế

tồn tại về xây dựng hệ thống văn bản pháp luật để làm hành lang pháp lý cho

hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài, về tổ chức thực hiện trong

công tác QLNN, về xây dựng và thực hiện chính sách, về công tác thanh tra,

kiểm tra. Từ đó tác giả đã phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ

quan khiến hiệu quả của hoạt động này chƣa cao, nhà nƣớc chƣa kiểm soát

toàn diện đƣợc hoạt động đƣa NLĐ đi làm việc ở nƣớc ngoài.

113

3. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện QLNN về XKLĐ của nƣớc

CHDCND Lào.

Mặc dù đã có cố gắng thu thập tài liệu, điều tra, phân tích. Tuy nhiên

do hạn chế về thời gian và nguồn lực chắc chắn đề tài còn có khiếm khuyết,

rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà quản lý nhằm

nâng cao hơn nữa tính lý luận và thực tiễn.

114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt:

1. Đỗ Đức Bình, Ngô Thị Tuyết Mai (2012), Giáo trình Kinh tế quốc tế,

Nhà xuất bản Lao động xã hội.

2. Nguyễn Đình Cử (2010), “Những giải pháp góp phần thực hiện đột

phá: Phát triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển

nhanh và bền vững ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, báo

Kinh tế và đời sống, ngày 18 tháng 9.

3. Nguyễn Duy Dũng (chủ biên) (2008), Đào tạo và Quản lý nhân lực (kinh

nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam), NXB Từ

điển bách khoa, Hà Nội.

4. Emma R. Allen (2016), Báo cáo “Phân tích xu hướng và thánh thức đối

với thị trường lao động Philippines”, Ngân hàng phát triển Châu Á,

tháng 5/2016.

5. Vũ Thị Thanh Hà (2016), Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu

lao động Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản, Luận văn thạc sĩ, Đại học

Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Thu Hằng (2005) “Đào tạo nghề cho người lao động Việt

Nam tham gia xuất khẩu lao động” Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Đại học

Quốc Gia Hà Nội.

7. Học viện Hành chính Quốc gia (2006 ), Giáo trình nguồn nhân lực xã

hội, Nxb Giáo dục Hà Nội.

8. Lê Hồng Huyên (2010), Quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt

Nam ra làm việc ở nước ngoài, Luận án tiến sĩ kinh tế

9. Doãn Thị Mai Hƣơng (2017), Khảo sát kinh nghiệm xuất khẩu lao động

của các nước Asean, Đề tài cấp trƣờng của Đại học Lao động – xã hội,

Hà Nội

115

10. Lƣu Văn Hƣng (2005), Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị

trường khu vực Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ

kinh tế chính trị. 101

11. Nguyễn Xuân Hƣng (2015), Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động

của Việt Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Hoàng Lan (2013), Xuất khẩu lao động của Việt Nam trước

và sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, Luận án tiến sĩ kinh tế,

trƣờng Đại học Ngoại thƣơng.

13. Hoàng Kim Ngọc (2010) “Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao

động đi làm việc ở nước ngoài”- Đề tài cấp Bộ.

14. Nguyễn Đình Thiện (2000), Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.

15. Trần Xuân Thọ (2009)“Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị

trường EU”, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị tại Đại học Kinh tế - Đại

học Quốc Gia Hà Nội.

16. Đỗ Hoàng Toàn (2002), Giáo trình quản lý kinh tế, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

17. Vũ Đình Toàn (2006), Nội dung chủ yếu và những điểm mới của Luật

Ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng, Tạp

chí Việc làm ngoài nƣớc số 6 năm 2006, trang 6.

18. Bùi Sỹ Tuấn (2011), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp

ứng nhu cầu xuất khẩu lao động của Việt Nam đến năm 2020, Luận án

tiến sĩ kinh tế, trƣờng Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

19. http://kpl.gov.la/detail.aspx?id=54872, truy cập ngày 01/09/2020

20. https://tonkinvn.com/luong-nguoi-xuat-khau-sang-an-do-tang-manh.htm

truy cập ngày 05/08/2020

21. https://congthuong.vn/xuat-khau-sang-thi-truong-an-do-kinh-nghiem-tu-

nguoi-trong-cuoc-137712.html truy cập ngày 05/08/2020

116

22. http://nguoibaovequyenloi.com/user/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=36

20205548822536&MaMT=25 truy cập ngày 01/09/2020

23. https://www.ilo.org/global/publications/WCMS_098255/lang--

en/index.htm truy cập ngày 01/08/2020

Tài liệu tiếng Lào

24. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2019), Niên giám thống kê 2019, Nxb Quốc gia,

Viêng Chăn.

25. Bộ LĐ và PLXH Lào (2007), Chiến lược phát triển ngành LĐ và PLXH

từ năm 2008 - 2020, Viêng Chăn.

26. Bộ LĐ và PLXH Lào (2007), Quyết định số 2504/LĐPLXH về tổ chức

và hoạt động của Cục Quản lý lao động, ngày 29-6, Viêng Chăn.

27. Bộ LĐ và PLXH Lào (2007), Quyết định số 4890/LĐPLXH về tổ chức và

hoạt động của Sở LĐ và PLXH tỉnh và thành phố, ngày 18-10, Viêng Chăn.

28. Bộ LĐ và PLXH Lào (2007), Quyết định số 4891/LĐPLXH về tổ chức

và hoạt động của Phòng LĐ và PLXH huyện và thủ đô, ngày 18-10,

Viêng Chăn.

29. Bộ LĐ và PLXH Lào (2013), Quyết định số 3188/LĐPLXH về tổ chức

và hoạt động của Trung tâm Dịch vụ việc làm, ngày 09-9, Viêng Chăn.

30. Bộ LĐ và PLXH Lào (2014), Quyết định số 1779/LĐPLXH về tổ chức và

hoạt động của Vụ Kiểm tra (sửa đổi, bổ sung), ngày 23-5, Viêng Chăn.

31. Bộ LĐ và PLXH Lào (2010), Chiến lược phát triển lao động giai đoạn

2011- 2020, Viêng Chăn.

32. Bộ LĐ và PLXH Lào (2016), Tổng kết tổ chức thực hiện công tác LĐ và

PLXH năm 2015 - 2016 và kế hoạch năm 2016 - 2017, Viêng Chăn.

33. Bộ LĐ và PLXH Lào (2017), Tổng kết tổ chức thực hiện công tác LĐ và

PLXH năm 2016 – 2017 và kế hoạch năm 2017- 2018, Viêng Chăn.

34. Bộ LĐ và PLXH Lào (2018), Tổng kết tổ chức thực hiện công tác LĐ và

PLXH năm 2017 – 2018 và kế hoạch năm 2018- 2019, Viêng Chăn.

117

35. Bộ LĐ và PLXH Lào (2019), Tổng kết tổ chức thực hiện công tác LĐ và

PLXH năm 2018 - 2019 và kế hoạch năm 2019 - 2020, Viêng Chăn.

36. Búa Hống Khăm Há (2014), Phát triển kỹ năng nghề lao động Lào trong

điều kiện hội nhập Hiệp hội kinh tế ASEAN, Luận văn thạc sĩ chuyên

ngành Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào,

Viêng Chăn.

37. Cayxỏn PHÔMVIHẢN (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb CHDCND Lào,

Viêng Chăn.

38. Cayxỏn PHÔMVIHẢN (1987), Tuyển tập, tập 2, Nxb Nxb CHDCND

Lào, Viêng Chăn.

39. Cayxỏn PHÔMVIHẢN (1997), Tuyển tập, tập 3, Nxb Học viện Chính trị

và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.

40. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (1993), Nghị định số 04/TTg về tổ chức

và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH Lào, ngày 22-01, Viêng Chăn.

41. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (1999), Nghị định số 87/TTg về tổ chức

và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH Lào, ngày 11-01, Viêng Chăn.

42. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (2007), Nghị định số 52/TTg về tổ chức

và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH Lào, ngày 22-3, Viêng Chăn.

43. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (2007), Nghị định số 138/TTg về tổ chức

và hoạt động của Bộ LĐ và PLXH Lào, ngày 04-5, Viêng Chăn.

44. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (2002), Nghị định số 68/TTg về về

khuyến khích xuất khẩu lao động làm việc tại nước ngoài, ngày 28- 05,

Viêng Chăn

45. Chính phủ nƣớc CHDCND Lào (2009), Nghị định số 136/TTg về quản lý

xuất nhập cảnh của nước công hòa nhân chủ nhân dân Lào và quản lý

người nước ngoài, ngày 25- 05, Viêng Chăn.

118

46. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2018), Chiến lƣợc cán bộ thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nƣớc Lào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb

Quốc gia, Viêng Chăn.

47. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực

hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HĐH nước Lào xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc (2010), Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

48. Đảng NDCM Lào (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IV, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

49. Đảng NDCM Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

50. Đảng NDCM Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

51. Đảng NDCM Lào (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

52. Đảng NDCM Lào (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

53. Đảng NDCM Lào (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

54. Quốc hội nƣớc CHDCND Lào (2003), Hiến pháp nước CHDCND Lào,

Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

55. Quốc hội nƣớc CHDCND Lào (2007), Luật Lao động, Nxb Nhà nƣớc,

Viêng Chăn.

56. Quốc hội nƣớc CHDCND Lào (2013) Luật lao động sửa đổi số 43 QH,

ngày 24/12/2013 Nxb Nhà nƣớc, Viêng Chăn.

57. Thành ủy Viêng Chăn (2020), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến

lƣợc cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nƣớc Lào xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

119

58. Trung tâm Thống kê Quốc gia Lào (2020), Công tác bồi dưỡng nguồn

lực lao động trong các lĩnh vực kinh tế, Viêng Chăn.

59. Trung tâm Thống kê Quốc gia Lào (2020), Giáo dục Nghề nghiệp, giáo

dục đại học đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện nay, Viêng Chăn.

60. Viện Khoa học xã hội Quốc gia Lào (2011), Tổng kết 25 năm đổi mới

của nước CHDCND Lào (1986-2010), Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.

120