BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ HOÀNG LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG,

HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC

THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ- NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

LỜI CAM ĐOAN

…………/………… ……/……

dung dẫn chứng và số liệu được lấy từ các nguồn tin cậy và hợp pháp!

Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu này do chính tôi thực hiện, các nội HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 4 năm 2017

HỌC VIÊN

LÊ HOÀNG LINH

Lê Hoàng Linh

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG,

HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC

THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành:

Quản lý công

Mã số:

60340403

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG ĐÌNH THANH

LỜI CÁM ƠN

Tôi xin chân thành cám ơn quý thầy, cô công tác tại Học viện hành chính Quốc gia; các cơ quan, đơn vị và giảng viên hướng dẫn đã quan tâm giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài luận văn này!

Thừa Thiên Huế, ngày 28 tháng 4 năm 2017

HỌC VIÊN

Lê Hoàng Linh

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Hệ số bù cƣớc vận chuyển

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài luận văn .......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .......................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................................................... 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ................................. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .................................................................. 7 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT .................................................................................................................. 9 1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ............ 9 1.1.1. Một số khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ..................... 9 1.1.2. Vận dụng lý thuyết địa tô và quy luật giá trị vào việc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ............................................ 12 1.1.3. Đường lối, chủ trương của Đảng về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ............................................................................................................... 18 1.2. Quy định của các cơ quan nhà nước ở Trung ương về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................. 21 1.2.1. Các quy định về bồi thường đất, tài sản trên đất bị thu hồi ............. 22 1.2.2. Các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 24 1.2.3. Chính sách về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ...................... 29 1.4. Kết luận chương 1 ................................................................................................... 31 Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .................................................................................................... 32 2.1. Việc cụ thể hóa các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế ...................................................................................................... 32 2.1.1. Các quy định cụ thể bồi thường đất, tài sản trên đất bị thu hồi ............... 32 2.1.2. Các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 42 2.1.3. Chính sách về tái định cư ............................................................... 53 2.2. Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Thừa Thiên Huế .......................................................................................... 55

2.2.1. Khái quát tình hình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế ............................................................... 55 2.2.2. Tình hình thực hiện chính sách bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất ................................................................................................ 56 2.2.2.1. Thực hiện chính sách bồi thường về đất ...................................... 56 2.2.2.2. Thực hiện chính sách bồi thường tài sản gắn liền với đất .................... 60 2.2.3. Thực hiện chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất .................. 65 2.2.3.1. Thực hiện chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất 65 2.2.3.2. Về thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm ............................................................................................. 70 2.2.3.3. Về thực hiện chính sách hỗ trợ tái định cư .................................. 72 2.2.3.4. Về thực hiện các chính sách hỗ trợ khác ..................................... 74 2.2.4. Thực hiện chính sách bố trí tái định cư ............................................................. 77 2.3. Kết luận chương 2 ................................................................................................... 80 Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT ..................................... 83 3.1. Phương hướng, quan điểm chung để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........ 83 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định tại tỉnh Thừa Thiên Huế .............................................. 84 3.2.1. Các giải pháp về mặt thể chế .......................................................... 85 3.2.2. Các giải pháp về tổ chức bộ máy, nhân lực ................................... 85 3.2.3. Các giải pháp về cơ chế, chính sách .............................................. 86 3.3.4. Các giải pháp về tài chính .............................................................. 87 3.3.5. Các giải pháp về tổ chức thực hiện chính sách .............................. 88 3.4. Kết luận chương 3 ................................................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94 PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Đất đai là tài nguyên quý giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt,

là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố

các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc

phòng.

Trong quá trình phát triển Đất nước ta theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, việc thu hồi đất của người đang sử dụng để phục vụ cho an ninh

quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội là

một quá trình tất yếu khách quan. Hiện nay, vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của người dân cả

nước. Người bị thu hồi đất sẽ bị ảnh hưởng rất lớn về kinh tế, việc làm, đời

sống, kể cả tập quán sinh hoạt. Để bù đắp một phần thiệt thòi đó cho họ, Nhà

nước ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho

người bị thu hồi đất và từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày

càng tốt hơn cho người có đất bị thu hồi sớm ổn định đời sống và sản xuất.

Tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc vùng duyên hải Miền trung Việt Nam bao

gồm phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa Biển Đông. Phần đất

liền Thừa Thiên Huế rộng hơn 5.033 ki-lô-mét vuông, có chung ranh giới đất

liền với tỉnh Quảng Trị, tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng, nước Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào và giáp Biển Đông. Trong những năm gần đây, để phục

vụ mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND

các huyện, thị xã, thành phố Huế (gọi chung là cấp huyện) đã thu hồi hàng

chục ngàn hecta đất các loại, hàng chục ngàn người dân bị ảnh hưởng. Việc

thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

1

đất đã được đa số nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần rất lớn vào việc đẩy

nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng, an ninh, phát triển

kinh tế -xã hội.

Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế địa phương, tính phức tạp, nhạy cảm

của vấn đề đất đai, công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời

gian qua vẫn còn một số hạn chế, tồn tại mà dư luận phản ánh nhiều liên quan

đến giá đất, giá nhà... một số vụ việc khiếu kiện đông người, kéo dài đã và

đang diễn ra làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.

Để làm rõ những mặt đạt được, những hạn chế, tồn tại trong việc thực

hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện

chính sách pháp luật có liên quan và tăng cường hiệu quả triển khai thực hiện

chính sách này trên thực tế, góp phần tạo quỹ đất sạch cho đầu tư xây dựng hạ

tầng quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng, việc chọn và nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Thừa Thiên

Huế” là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất là đề tài được nghiên cứu khá rộng rãi ở cấp toàn quốc lẫn từng địa

phương cụ thể. Tuy nhiên, các đề tài về lĩnh vực này có sau ngày 01/7/2014

(ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực) thì rất ít, có thể kể đến như: Luận

văn thạc sĩ của Nguyễn Đình Phụng, 2014, Quản lý nhà nước về giải phóng

mặt bằng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng; Lành Hồng Mạnh, 2014, Bồi

thường giải phóng mặt bằng ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Hoàng

2

Thị Hà Tuyên, 2014, Quản lý nhà nước về tái định cư thuộc dự án Thủy điện

Sơn La, tỉnh Sơn La; Huỳnh Hạnh, 2015, Quản lý nhà nước về giải phóng mặt

bằng trên địa bàn quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng; Nguyễn Đắc Vui, 2016,

Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế...

Qua nghiên cứu, nội dung các đề tài trên cơ bản đã làm rõ được cơ sở

lý luận cũng như đã hệ thống hóa lại tương đối đầy đủ các quy định pháp luật,

các chính sách có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Một số đề tài có tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này như luận

văn thạc sĩ của Nguyễn Đình Phụng, 2014, Quản lý nhà nước về giải phóng

mặt bằng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng; luận văn thạc sĩ Nguyễn Đắc Vui,

2016, Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Các đề tài trên cũng đã đánh giá

thực trạng của công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định khi

Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn nghiên cứu. Từ đó, các đề tài cũng đã đề xuất

một số giải pháp về hoàn thiện một số chính sách pháp luật liên quan, đề nghị

sửa đổi một số chế độ hỗ trợ để hoàn thiện chính sách, pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư. Ngoài ra, các đề tài trên còn đưa ra một số giải

pháp về nâng cao năng lực của bộ máy chính quyền các cấp, tăng cường công

tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này

trên phạm vi cả nước và tại địa bàn nghiên cứu.

Tuy nhiên, hiện tại Chính phủ giao quyền cho UBND tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương quy định chi tiết một số chính sách về bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư cho phù hợp với điều kiện, đặc thù từng địa phương. Do đó,

các đề tài trên chỉ tìm hiểu, đánh giá công tác này tại mỗi một địa phương cụ

thể và trong từng giai đoạn cụ thể. Đa số các giải pháp mà các đề tài trên đưa

ra thường phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của địa phương đó và

3

trong từng giai đoạn nhất định, khó áp dụng cho địa phương khác, giai đoạn

khác.

Tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ khi Luật Đất đai năm 2013 có

hiệu lực đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu, đánh giá toàn diện các

mặt của công tác triển khai thực hiện trên thực tế các chính sách bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó đề tài “Thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Thừa

Thiên Huế” mà người viết đang chọn không trùng lặp với đề tài khác trong

cũng lĩnh vực.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm có cái nhìn khách quan, toàn

diện và đầy đủ tình hình cụ thể hóa các văn bản pháp luật của các cơ quan

Trung ương về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và

tình hình triển khai thực hiện chúng tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong

thời gian 03 năm trở lại đây. Dự kiến, kết quả của đề tài sẽ đưa ra được các đề

xuất, kiến nghị những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài để dần hoàn thiện

thể chế, chính sách, trao đổi những kinh nghiệm, cách làm hay nhằm đưa

công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, trên phạm vi cả nước nói chung ngày càng

hiệu quả hơn; đáp ứng nhu cầu đất đai để phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo

quốc phòng- an ninh đồng thời bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người

bị thu hồi đất.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu các văn bản pháp luật của Hội đồng nhân dân, UBND

tỉnh Thừa Thiên Huế quy định chi tiết các chính sách của các cơ quan nhà

4

nước Trung ương liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất phục vụ quốc phòng- an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng và phát triển kinh tế- xã hội;

- Nghiên cứu quá trình triển khai thực hiện các chính sách bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có liên

quan trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong 03 năm 2014, 2015 và 2016;

- Ðánh giá tính hợp pháp, hợp lý của nội dung các văn bản pháp luật

liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Trung ương và

của cấp tỉnh;

- Đánh giá những mặt làm được, hạn chế, tồn tại của công tác triển khai

thực hiện các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên thực tế tại các

dự án có thu hồi đất từ đó tìm ra nguyên nhân những tồn tại, hạn chế;

- Đề xuất các giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan và

đề ra các giải pháp để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư trong thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng,

trên phạm vi cả nước nói chung.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề mang tính lý luận và

thực tiễn có liên quan đến việc xây dựng, hoàn thiện chính sách và quá trình

triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, thời

gian nghiên cứu là ba năm 2014, 2015 và 2016, tập trung điều tra, nghiên cứu

một số dự án trọng điểm có ảnh hưởng nhiều đến đời sống người dân trong

vùng triển khai dự án.

5

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

*) Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa

Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử Mác – Lênin.

*) Phương pháp nghiên cứu: Đề tài này sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể như sau:

- Đọc và đối chiếu các văn bản về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của

cấp tỉnh với các văn bản cấp trên và các tỉnh khác để đánh giá về tính hợp

pháp, hợp lý của nội dung các văn bản.

- Điều tra thu thập tài liệu, số liệu bao gồm:

+ Nhóm phương pháp nội nghiệp như thu thập các tài liệu, số liệu tại

các cơ quan như Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi

trường cấp huyện, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh và cấp huyện, các Hội

đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư...;

+ Nhóm phương pháp ngoại nghiệp như phỏng vấn các hộ gia đình, cá

nhân có đất bị thu hồi tại các dự án, phỏng vấn cán bộ, công chức, viên chức

có liên quan, kiểm tra tiến độ và tình hình thực tế tại khu vực thu hồi đất và

khu vực tái định cư các dự án quan trọng.

- Phương pháp xử lý số liệu điều tra gồm:

+ Thống kê, tổng hợp, so sánh những số liệu đã thu thập được thông

qua điều tra nội nghiệp, ngoại nghiệp;

+ Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để có cái nhìn tổng quát nhất

về thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ tại địa phương.

- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan

đến vấn đề cần nghiên cứu như cán bộ, công chức, viên chức của Sở Tài

6

nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Trung tâm Phát

triển quỹ đất, các chuyên gia định giá, chuyên gia xây dựng...

- Phương pháp kế thừa, tham khảo các tài liệu có sẵn như các văn bản pháp

luật liên quan, các hồ sơ giải phóng mặt bằng, các hồ sơ giải quyết khiếu kiện liên

quan, các bài viết, đề tài nghiên cứu của người khác trong cùng lĩnh vực.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về lý luận: Luận văn này sẽ góp phần hiện thực hóa những vấn đề lý

luận liên quan đến quy luật giá trị trong công tác bồi thường đất đai, tài sản,

chính sách hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; làm rõ các cơ sở lý

luận của việc quy định chi tiết các chế độ, chính sách về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Về thực tiễn: Luận văn sẽ góp phần để các tổ chức, cá nhân liên quan

có cái nhìn khách quan hơn đối với công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và trên cả nước nói chung. Từ đó, có cơ sở

để áp dụng những giải pháp, thực hiện những kiến nghị mà đưa ra để phát huy

những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế, tồn tại nhằm thực hiện

công tác này ngày càng hiệu quả hơn, góp phần quan trọng cho sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kết cấu phần nội dung chính của

luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Chƣơng 2: Tình hình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Thừa Thiên Huế

7

Chƣơng 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

8

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ và tái

định cƣ

1.1.1. Một số khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

*) Khái niệm chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất: Nói đến chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất tức là đề cập đến chính sách công do các cơ quan nhà nước

ban hành có liên quan đến lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất trong một giai đoạn nhất định. Trong đó, nó bao gồm cả

quan điểm, đường lối, mục tiêu, nguyên tắc và các quy định cụ thể của Nhà

nước về thực hiện hoặc không thực hiện các công việc nhất định khi Nhà

nước thu hồi đất của người đang sử dụng đất để phục vụ vào các mục đích

quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.

Theo cách hiểu thông thường, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất là tập hợp các quy định của Nhà nước để điều

chỉnh các quan hệ giữa cơ quan, đơn vị, tổ chức với người bị ảnh hưởng bởi

quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước khi thực hiện các công việc bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư.

*) Khái niệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất: Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu theo nghĩa chung nhất là quá trình triển

khai các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

trên thực tế. Đây là một quá trình thực tiễn gồm xây dựng kế hoạch thu hồi

đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định; thông báo, phổ biến kế hoạch; chuẩn bị các

điều kiện để xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như kiểm

9

đếm, đo đạc, xác định điều kiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; lấy ý kiến

phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; thẩm định, phê duyệt phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư; chi trả tiền, di dời nhà cửa; kiểm tra, giám sát... cho

đến tổng kết rút kinh nghiệm. Hiệu lực của việc thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được phát sinh, đảm bảo

bằng các quyết định hành chính nhà nước của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền

theo trình tự, thủ tục quy định.

Tóm lại, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất là quá trình thực tiễn làm cho các quy định về bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư có hiệu lực, hiệu quả trên thực tế bằng các quyết định

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định.

*) Khái niệm thu hồi đất: Điều 53 của Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,

vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,

quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở

hữu và thống nhất quản lý” [10]. Nhà nước đại diện cho toàn dân thực hiện

các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đặc biệt là đất đai, trong đó bao gồm

các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với đất đai. Trong thực tế,

Nhà nước thường giao quyền sử dụng đất đai cho các chủ thể khác trong xã

hội như cá nhân, tổ chức, hộ gia đình… (gọi tắt là người sử dụng đất) bằng

các quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Khi

cần thiết phải chấm dứt việc sử dụng đất của người này để trao quyền sử dụng

đất đó cho người khác hoặc vì lý do người đang sử dụng đất vi phạm pháp Luật

Đất đai hoặc tự nguyện trả lại đất đang sử dụng, Nhà nước buộc người đang sử

dụng đất phải chấm dứt quyền sử dụng đất của mình bằng việc thu hồi đất đó.

10

Tóm lại, “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại

quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu

lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” [11].

*) Khái niệm bồi thường về đất: Vấn đề bồi thường đặt ra khi một bên

gây thiệt hại đến bên kia và bên gây thiệt hại phải trả lại giá trị mà bên bị thiệt

hại phải gánh chịu. Việc bồi thường xuất phát từ cơ sở Nhà nước xem quyền

sử dụng đất là một thứ tài sản của công dân. Điều này đã được thể hiện trong

nội dung Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật

Dân sự năm 2005 thì đất đai được xác định là tài sản, cụ thể là bất động sản.

Bên cạnh đó, theo Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm

vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Từ đó có thể khẳng định quyền

sử dụng đất là một loại tài sản. Do đó, khi Nhà nước thu hồi đất tức là đã tước

mất tài sản của người sử dụng đất do đó phải đặt ra vấn đề bồi thường. Tuy

nhiên, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ đặt ra khi việc sử dụng

đất đó là hợp pháp. Tức là khi người sử dụng dụng đất đó có giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất nhưng chưa cấp.

Tóm lại, “bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử

dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất” [11]. Ngoài bồi

thường về đất, khi thu hồi đất nếu gây thiệt hại về tài sản gắn liền với đất thì

Nhà nước cũng phải xem xét bồi thường cho người sử dụng đất theo quy định.

*) Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: Khi Nhà nước thu hồi đất,

ngoài phần bồi thường được xác định trên nguyên tắc ngang giá thì Nhà nước

còn trợ giúp cho người bị thu hồi đất một khoản tiền hoặc tài sản khác để giúp

người có đất sớm ổn định đời sống, sản xuất và có cơ hội phát triển kinh tế,

góp phần ổn định xã hội. Các khoản hỗ trợ được phân thành hỗ trợ về đất, hỗ

11

trợ tài sản trên đất, hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tạo việc làm, hỗ trợ tái định cư và các khoản hỗ trợ khác.

Tóm lại, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất “là việc Nhà nước trợ giúp cho

người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển” [11].

1.1.2. Vận dụng lý thuyết địa tô và quy luật giá trị vào việc xây

dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

1.1.2.1. Vận dụng lý thuyết địa tô

Theo Các Mác, trong quá trình sản xuất, nhà tư bản kinh doanh nông

nghiệp phải thuê, mướn ruộng đất của địa chủ và thuê công nhân để tiến hành

sản xuất. Theo hợp đồng thuê mướn, nhà tư bản phải trích một phần giá trị

thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho chủ đất dưới hình thức địa tô. Nhưng

giai cấp tư sản vẫn bóc lột người công nhân để tạo ra giá trị thặng dư, một

phần sẽ nộp cho địa chủ và phần còn lại, nhà tư bản chiếm không.

Giá cả ruộng đất là biểu hiện của hình thức địa tô tư bản hoá. Bởi ruộng

đất đem lại địa tô, tức là đem lại một thu nhập ổn định bằng tiền nên nó được

xem như một loại tư bản đặc biệt, còn địa tô chính là lợi tức của tư bản đó. Do

đó giá cả ruộng đất là giá mua địa tô do ruộng đất mang lại theo tỷ suất lợi tức

hiện hành. Nó tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức tư bản

gửi vào tổ chức tín dụng.

Để cụ thể hóa lý thuyết này, tại Khoản 1 Điều 112 của Luật Đất đai

năm 2013 đã quy định: Việc định giá đất phải bảo đảm phù hợp với giá đất

phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển

nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá

quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất.

Theo Điều 114 của Luật Đất đai năm 2013 thì căn cứ vào bảng giá đất

của UBND tỉnh ban hành năm năm một lần, các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

12

tham mưu Hội đồng thẩm định giá đất của cấp tỉnh thẩm định trình UBND

cấp tỉnh quyết định phục vụ cho việc tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công

nhận quyền sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá

quyền sử dụng đất, tính tiền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp và tính

tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Về phương pháp xác định giá đất để bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất, tại Điều 4 của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm

2014 quy định về giá đất đã quy định năm (5) phương pháp để định giá đất

gồm phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu

nhập, phương pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất.

Trong các phương pháp này thì phương pháp thu nhập và phương pháp

thặng dư là biểu hiện rõ nhất của sự vận dụng triệt để lý thuyết địa tô vào việc

xác định giá đất phục vụ cho việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

- Phương pháp thu nhập là phương pháp định giá đất tính bằng thương

số giữa mức thu nhập ròng thu được bình quân một năm trên một đơn vị diện

tích đất so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân một năm tính đến thời

điểm định giá đất của loại tiền gửi đồng Việt Nam (VNĐ) kỳ hạn 12 tháng tại

ngân hàng thương mại nhà nước có mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao nhất

trên địa bàn cấp tỉnh [6]. Phương pháp này được áp dụng để định giá đối với

thửa đất xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất đó.

- Phương pháp thặng dư là phương pháp định giá đất đối với thửa đất có

tiềm năng phát triển theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc

được phép chuyển mục đích sử dụng đất để sử dụng cao nhất và tốt nhất bằng

cách loại trừ tổng chi phí ước tính ra khỏi tổng doanh thu phát triển giả định

của bất động sản [6]. Phương pháp này được áp dụng để định giá đối với thửa

đất có tiềm năng phát triển do thay đổi quy hoạch hoặc chuyển mục đích sử

13

dụng đất khi xác định được tổng doanh thu phát triển giả định và tổng chi phí

ước tính đầu tư vào thửa đất đó.

Lý thuyết địa tô tư bản không chỉ vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn làm cơ sở để Nhà nước ta vận

dụng trong xây dựng chính sách pháp luật đất đai, sản xuất nông nghiệp nhất

là vận dụng để xây dựng khung giá đất và bảng giá đất làm cơ sở để thu tiền

thuê đất, bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc

phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.

1.1.2.2. Vận dụng quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa,

quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác

của sản xuất hàng hóa. Nội dung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao

đổi hàng hóa trên thị trường tự do dựa trên cơ sở giá trị của hàng hóa, tức là

dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.

Trong sản xuất hàng hóa, tác động của quy luật giá trị buộc người sản

xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với

mức hao phí lao động xã hội cần thiết, có như vậy họ mới có thể tồn tại được.

Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Tức

là hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động

như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng

hoặc xoay quanh “trục” giá trị.

Việc vận dụng quy luật giá trị thể hiện rất rõ trong việc xây dựng chính

sách bồi thường đối với chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi thường về đất khi

thu hồi đất ở, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, bồi thường tài sản gắn

liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

14

*) Đối với chính sách bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại

Theo Khoản 1 Điều 76 Luật Đất đai 2013 có sáu (06) trường hợp(1)

người bị thu hồi đất không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường

chi phí đầu tư vào đất còn lại. Đối với sáu trường hợp trên, để đảm bảo người

sử dụng đất thu hồi được vốn đầu tư, Nhà nước có chính sách bồi thường chi

phí đầu tư vào đất còn lại. Theo Điều 3 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP

ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất thì: Chi phí đầu tư vào đất còn lại được tính phải phù hợp với

giá thị trường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất và được xác định theo

công thức sau:

Trong đó:

P: Chi phí đầu tư vào đất còn lại;

P1: Chi phí san lấp mặt bằng;

P2: Chi phí cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất, thau chua rửa mặn,

chống xói mòn, xâm thực đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông

nghiệp;

P3: Chi phí gia cố khả năng chịu lực chống rung, sụt lún đất đối với đất

(1) Sáu trường hợp bị thu hồi đất không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54 của Luật Đất đai; đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất; đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; đất nhận khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.

làm mặt bằng sản xuất kinh doanh;

15

P4: Chi phí khác liên quan đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử

dụng đất;

T1: Thời hạn sử dụng đất;

T2: Thời hạn sử dụng đất còn lại.

Đối với trường hợp thời điểm đầu tư vào đất sau thời điểm được Nhà

nước giao đất, cho thuê đất thì thời hạn sử dụng đất (T1) được tính từ thời

điểm đầu tư vào đất.

Việc xác định các khoản chi phí phải có hồ sơ, chứng từ chứng minh đã

đầu tư vào đất. Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ,

chứng từ chứng minh thì UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa

phương quy định việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại. Khi không có

hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư vào đất nhưng thực tế có cơ sở xác định

người sử dụng đất đã đầu tư vào đất để sản xuất, kinh doanh thì cơ quan nhà

nước phải vận dụng các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị và các

phương pháp tính hợp lý để xác định mức bồi thường cụ thể cho người sử dụng

đất đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, xã hội và người bị thu hồi đất.

*)Đối với chính sách bồi thường về đất

Theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì về điều kiện

chung, người sử dụng đất (không phải là đất thuê trả tiền hàng năm hoặc tiền

thuê đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước) có Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng

đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản

khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) thì được bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển

kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

16

Về nguyên tắc, việc bồi thường đất khi Nhà nước thu hồi được thực hiện

bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không

có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại

đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

Để thực hiện nguyên tắc bồi thường bằng đất hoặc bằng tiền như trên, tổ

chức làm nhiệm vụ bồi thường phải xác định được giá trị quyền sử dụng đất

của thửa đất bị thu hồi để tính thành tiền bằng các phương pháp định giá đất

đã quy định tại Nghị định số 44/2014/NĐ-CP. Bên cạnh đó, cơ quan làm

nhiệm vụ bồi thường cũng phải xác định được giá trị quyền sử dụng đất của

thửa đất dự kiến giao cho người bị thu hồi đất (nếu bồi thường bằng đất) để

đảm bảo nguyên tắc ngang giá trong bồi thường.

*)Đối với chính sách bồi thường tài sản gắn liền với đất

Nguyên tắc bồi thường tài sản gắn liền với đất là khi Nhà nước thu hồi

đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì

được bồi thường.

Theo quy định tại Điều 89 của Luật Đất đai năm 2013 thì: “Đối với nhà

ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ gia đình, cá nhân,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất phải tháo dỡ

toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật

theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi

thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật

tương đương” [11].

Đối với các công trình xây dựng khác, cây trồng, vật nuôi, chi phí di

chuyển… thì pháp luật về đất đai quy định được bồi thường ngang giá và

UBND cấp tỉnh là cơ quan có trách nhiệm xây dựng đơn giá để bồi thường

17

trên cơ sở tính toán, xác định đúng giá trị thiệt hại đối với tài sản hợp pháp

của người sử dụng đất.

1.1.3. Đường lối, chủ trương của Đảng về bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư

Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã

thông qua Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới

chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc

đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại.

Đây là văn bản quan trọng nhất của Đảng định hướng cho việc sửa đổi

nội dung chế định về đất đai trong Hiến pháp năm 2013 và làm nền tảng, kim

chỉ nam cho việc xây dựng và ban hành Luật Đất đai năm 2013 và các văn

bản hướng dẫn thi hành. Nội dung Nghị quyết số 19-NQ/TW đã đề cập đến

đường lối, chủ trương chủ yếu của Đảng về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất.

Về quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là

một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu,

được xác định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức

giao đất, cho thuê đất. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua

việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích

sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định

chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng

đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích

quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án

phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp luật.” [2]. Khi Nhà nước thu

hồi đất thì tuỳ theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất mà người sử dụng

18

đất được bồi thường theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất có nghĩa

vụ phải trả lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất.

Nội dung đường lối, chính sách của Đảng đối với công tác thu hồi đất,

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thể hiện ở những điểm sau:

- Thứ nhất, Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất

hàng năm đã được xét duyệt. Đây là điểm mới nổi bật so với Nghị quyết số

26-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban chấp hành Trung ương đảng

khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện Nghị quyết số 19-

NQ/TW, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung quy định về lập kế hoạch sử dụng

đất hàng năm và đăng ký danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất, chuyển

mục đích sử dụng đất để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc này đảm

bảo cho việc sử dụng đất đai ngày càng hiệu quả hơn, tránh thu hồi đất nhưng

không thực hiện dự án gây lãng phí tài nguyên đất.

- Thứ hai, Nghị quyết số 19-NQ/TW yêu cầu Nhà nước phải quy định

rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để

sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi

ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với các dự án sản

xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân

đang sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng

đất với nhà đầu tư để thực hiện dự án. Theo nội dung này thì cơ quan nhà

nước không thể tùy tiện thu hồi đất của người sử dụng khi chưa có căn cứ rõ

ràng. Việc thu hồi đất chỉ thực hiện để xây dựng các công trình, dự án quan

trọng. Đối với các công trình, dự án phát triển kinh tế phải nằm trong danh

mục quy định và phải được phê duyệt kế hoạch từ đầu năm mới được thu hồi

đất. Nếu công trình, dự án ngoài danh mục quy định thì chủ đầu tư phải thỏa

thuận để nhận chuyển quyền sử dụng đất của người đang sử dụng đất.

19

- Thứ ba, việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc trách

nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính

trị. Kiện toàn, nâng cao năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất

để bảo đảm thực thi nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền

sử dụng đất. Theo nội dung này, đã có chủ trương phân cấp rất lớn đối thẩm

quyền thu hồi đất. Chính phủ chỉ quản lý chung và quyết định những vấn đề

quan trọng đối vơi đất đai, không trực tiếp thu hồi đất mà giao nhiệm vụ này

cho UBND các cấp, cụ thể là cấp tỉnh và cấp huyện. Với chủ trương như trên

đòi hỏi công tác thu hồi đất phải thực sự công khai, minh bạch và phải có sự

tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị, đoàn thể trong việc vận động nhân dân,

giám sát, phản biện đối với c ơquan thu hồi đất.

- Thứ tư, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy

định của pháp luật. Người sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đất

đang sử dụng hợp pháp. Chủ trương này cũng đã tạo tiền đề cho việc xây

dựng chính sách bồi thường về đất bằng việc quy định khi Nhà nước thu hồi

đất loại nào thì được giao loại đất khác có cùng mục đích, nếu không có đất

để giao mới bồi thường bằng tiền.

- Thứ năm, tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo

việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có

đất bị thu hồi. Nghiên cứu phương thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo

đảm ổn định đời sống lâu dài cho người có đất bị thu hồi. Chủ trương này thể

hiện rõ tính chất nhân đạo xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta. Vì ngoài nguyên

tắc bồi thường ngang giá khi thu hồi đất, Nhà nước còn có chính sách để đào

tạo chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ mọi mặt cho người bị thu hồi đất nhằm

sớm ổn định cuộc sống lâu dài.

20

- Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây

dựng các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ

ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư

được xây dựng phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng,

miền. Chủ trương này đã làm cơ sở cho việc xây dựng chế độ và trình tự, thủ

tục giải quyết việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Theo đó, Nhà

nước chỉ buộc người sử dụng đất phải giao lại đất đang sử dụng bị thu hồi khi

họ đã có chỗ ở mới phù hợp.

Tóm lại, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 tiếp tục khẳng định

quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu,

Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng và thu hồi khi thật sự

cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng

và phát triển kinh tế, xã hội. Ngoài ra, so với Nghị quyết số số 26-NQ/TW

ngày 12 tháng 3 năm 2003 thì nội dung Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày

31/10/2012 còn có một số điểm mới nổi bật là yêu cầu Nhà nước quy định các

điều kiện thu hồi đất chặt chẽ hơn, có chính sách tốt hơn cho người bị thu hồi

đất để sớm ổn định chỗ ở mới và ổn định đời sống, ổn định sản xuất lâu dài.

1.2. Quy định của các cơ quan nhà nƣớc ở Trung ƣơng về bồi

thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai

năm 2013. Để cụ thể hóa các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013, ngày 15/5/2014, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Ngày 10/12/2015, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg quy định về chính sách hỗ

trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.

21

Ngày 30/6/2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số

37/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

1.2.1. Các quy định về bồi thường đất, tài sản trên đất bị thu hồi

*) So với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã tách

nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản,

ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt

(Điều 74 và Điều 88). Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường

về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi

Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn

cứ vào đó thống nhất thực hiện. Theo đó, Luật bổ sung thêm hai trường hợp

được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 75, cụ thể:

- Bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền

thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa người

sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với

người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như

nhau).

- Bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân

cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có

Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy

định của Luật này mà chưa được cấp (Luật Đất đai 2003 chưa quy

định việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng

vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh

phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải là đất do được

Nhà nước giao mà có nguồn gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp

22

pháp hoặc khai hoang trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 nên gây vướng mắc

trong thực hiện tại các địa phương).

*) Luật Đất đai năm 2013 còn thể chế hóa cơ chế, chính sách bồi

thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại thông qua các quy định chi tiết

đối với từng loại đất, gồm: đất nông nghiệp, đất ở, đất phi nông nghiệp không

phải đất ở và theo từng loại đối tượng sử dụng đất (từ Điều 77 đến Điều 81

của Luật Đất đai).

Trong đó, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, việc xác định mức

bồi thường cho người có đất thu hồi đối với đất sử dụng có thời hạn không chỉ

căn cứ loại đất, đối tượng sử dụng đất mà còn phải căn cứ thời hạn sử dụng

đất còn lại của người sử dụng đất đối với đất đó.

*) Luật Đất đai năm 2013 quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư

vào đất còn lại (Điều 76), cho một số trường hợp không được bồi thường về

đất. Những trường hợp được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi

Nhà nước thu hồi đất, bao gồm:

- Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp

đất nông nghiệpđược Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại

Khoản 1 Điều 54;

- Đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử

dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất;

+ Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả

tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ

trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối

với người có công với cách mạng;

- Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn;

23

- Đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy

sản, làm muối.

*) Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định về việc bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư đối với các dự án đặc biệt (Điều 87) theo hướng:

- Bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi

trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người, đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt

lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con

người thì người có đất thu hồi được bồi thường, hỗ trợ và tái định cưđể ổn

định đời sống, sản xuất theo quy định của Chính phủ;

- Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ

tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng

đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền

thống văn hóa của cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định

khung chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài

mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư thì thực hiện theo khung chính sách đó.

1.2.2. Các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Một số quy định mới được bổ sung trong Luật Đất đai năm 2013 so với

Luật Đất đai năm 2003:

*) Quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (Khoản 1

Điều 83 Luật Đất đai năm 2013):

- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi

thường theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;

24

- Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai

và đúng quy định của pháp luật.

*) Quy định về chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất

(Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP):

- Về đối tượng hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất được chia làm

hai loại:

+ Đối tượng bị ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp gồm:

hộ gia đình, cá nhân từng được Nhà nước giao đất nông nghiệp qua các thời

kỳ, nhân khẩu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc trong các gia đình đó sinh sau

thời điểm giao đất; hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện được giao đất nông

nghiệp theo quy định nhưng chưa được giao đất nông nghiệp và đang sử dụng

đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho, khai

hoang theo quy định của pháp luật, được UBND cấp xã nơi có đất thu hồi xác

nhận là đang trực tiếp sản xuất trên đất nông nghiệp đó; hộ gia đình, cá nhân

đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng

thủy sản (không bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) của các nông,

lâm trường quốc doanh khi Nhà nước thu hồi mà thuộc đối tượng là cán bộ,

công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh đang làm việc hoặc đã nghỉ

hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp đang trực tiếp sản

xuất nông, lâm nghiệp; hộ gia đình, cá nhân nhận khoán đang trực tiếp sản

xuất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên

đất đó;

+ Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà

nước thu hồi đất.

- Về điều kiện để được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất gồm:

25

+ Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài đang sử dụng đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất hoặc đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai;

+ Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán

đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản

(không bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) của các nông trường, lâm

trường thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.

- Chính sách hỗ trợ ổn định đời sống như sau:

+ Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì

được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong

thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến

các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -

xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng;

+ Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ

trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời

gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các

địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã

hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng.

Diện tích đất thu hồi quy định nêu trên được xác định theo từng quyết

định thu hồi đất của UBND cấp có thẩm quyền. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu

nêu trên được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời

giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.

- Chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất như sau:

+ Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được

hỗ trợ ổn định sản xuất, bao gồm: Hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho

26

sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ

thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với

sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp;

+ Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được hỗ trợ ổn định sản xuất bằng

tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo mức thu

nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó.

Thu nhập sau thuế được xác định căn cứ vào báo cáo tài chính đã được

kiểm toán hoặc được cơ quan thuế chấp thuận; trường hợp chưa được kiểm toán

hoặc chưa được cơ quan thuế chấp thuận thì việc xác định thu nhập sau thuế

được căn cứ vào thu nhập sau thuế do đơn vị kê khai tại báo cáo tài chính, báo

cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế.

+ Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán

đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản của

các nông, lâm trường quốc doanh thuộc đối tượng được hỗ trợ ổn định đời

sống và sản xuất thì được hỗ trợ bằng tiền.

+ Người lao động do tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất,

kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng hỗ trợ ổn

định sản xuất mà thuê lao động theo hợp đồng lao động thì được áp dụng chế

độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về lao động nhưng thời

gian trợ cấp không quá 06 tháng.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, định

kỳ chi trả tiền hỗ trợ cho phù hợp với thực tế tại địa phương.

*) Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm

cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi

27

đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường (Khoản 1 Điều

84 Luật Đất đai):

Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài

việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm

kiếm việc làm.

Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc

làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo nghề thì được nhận vào

các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm, vay vốn tín

dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh.

*) Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà

nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ khi Nhà nước thu hồi

đất ở mà phải di chuyển chỗ ở (Khoản 2 Điều 84 Luật Đất đai):

Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch

vụ mà nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi Nhà

nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để

phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi còn trong độ

tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

*) Để cụ thể hóa Điều 84 của Luật Đất đai năm 2013, Chính phủ đã quy

định tại các điều 20 và 21 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP cụ thể như sau:

- Giao UBND cấp tỉnh quy định cụ thể mức hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp nhưng không quá năm (05) lần giá đất bị thu hồi và trong

hạn mức giao đất;

- Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các

Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ chế, chính sách

28

giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người thu hồi đất nông nghiệp, đất ở

kết hợp kinh doanh, dịch vụ;

- Giao UBND cấp tỉnh căn cứ cơ chế, chính sách do Chính phủ quy

định để quy định chi tiết cho phù hợp với tình hình địa phương, lập phương

án, phê duyệt và tổ chức thực hiện.

*) Để cụ thể hóa nhiệm vụ mà Chính phủ giao tại các điều 20 và 21 của

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 10/12/2015, theo đề nghị của Bộ lao

động – Thương binh và Xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

số 63/2015/QĐ-TTg quy định về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết

việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Nội dung Quyết định số

63/2015/QĐ-TTg quy định cụ thể điều kiện hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, hỗ trợ đào

tạo nghề, giải quyết việc làm trong nước và hỗ trợ đi làm việc nước ngoài

theo hợp đồng.

1.2.3. Chính sách về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Nhằm khắc phục tình trạng một số khu tái định cư chất lượng còn thấp,

không đồng bộ về hạ tầng, chưa đảm bảo có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt

hơn nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án

tại địa bàn nên nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở,

thậm chí có những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà ở nhiều

năm mà vẫn chưa được bố trí vào khu tái định cư. Luật Đất đai năm 2013 đã

có những quy định mới như sau:

*) Bổ sung quy định cụ thể về lập và thực hiện dự án tái định cư (Điều

85) theo hướng: UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức

lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Quy định khu tái định

cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy

chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng,

29

miền. Luật Đất đai năm 2013 quy định việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện

sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư.

*) Sửa đổi và bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị thu

hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở (Điều 86):

+ Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực

thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị

trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu

hồi là người có công với cách mạng.

+ Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán nhà

ở tái định cư do UBND cấp tỉnh quyết định.

+ Quy định trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà

tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì

được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Chính

phủ quy định cụ thể suất tái định cư tối thiểu phù hợp với điều kiện từng

vùng, miền và địa phương.

Thực hiện nhiệm vụ Luật Đất đai giao, Chính phủ đã quy định về suất

tái định cư tối thiểu tại Điều 27 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP như sau:

- Suất tái định cư tối thiểu quy định tại Khoản 4 Điều 86 của Luật Đất

đai được quy định bằng đất ở, nhà ở hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền để phù

hợp với việc lựa chọn của người được bố trí tái định cư;

- Trường hợp suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở

thì diện tích đất ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích tối thiểu được phép

tách thửa tại địa phương và diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện

tích căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở;

30

- Trường hợp suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng nhà ở thì

diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích căn hộ tối thiểu theo quy

định của pháp luật về nhà ở;

- Trường hợp suất tái định cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản

tiền cho suất tái định cư tối thiểu tương đương với giá trị một suất tái định cư

tối thiểu bằng đất ở, nhà ở tại nơi bố trí tái định cư;

- Giao UBND cấp tỉnh quy định suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở

nhà ở, bằng nhà ở và bằng tiền.

1.4. Kết luận chƣơng 1

Nội dung cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã tìm hiểu một số khái niệm liên quan, tìm hiểu quá trình vận dụng lý thuyết địa tô và quy luật giá trị của Chủ nghĩa Mác vào việc xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; làm rõ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương liên quan đến lĩnh vực này.

Nhìn chung, các văn bản pháp luật của Trung ương đã quy định rất cụ thể về nguyên tắc, các chế độ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Ngoài ra, Quốc hội, Chính phủ còn giao cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định chi tiết một số chính sách cụ thể cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và khả năng nguồn lực của địa phương.

31

Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

2.1. Việc cụ thể hóa các văn bản pháp luật về bồi thƣờng, hỗ trợ và

tái định cƣ tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Để cụ thể hóa Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP,

Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT, ngày 05/8/2014, UBND tỉnh Thừa Thiên

Huế đã có Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ban hành Quy định về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế. Ngày 22/12/2015, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Quyết

định số 67/2015/QĐ-UBND quy định về đơn giá cây trồng vật nuôi làm cơ sở

xác định giá trị bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa

Thiên Huế và Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND ban hành đơn giá nhà, công

trình, vật kiến trúc và các loại mồ mả làm căn cứ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

Dưới đây là một số nội dung chính cụ thể hóa các quy định về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã được giao

tại Nghị định số 47/2014/NĐ-CP và Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT.

2.1.1. Các quy định cụ thể bồi thường đất, tài sản trên đất bị thu hồi

2.1.1.1. Về quy định cụ thể cách xác định chi phí đầu tư

vào đất còn lại trong trường hợp không có hồ sơ, chứng từ để chứng minh

Tại Điểm a Khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy

định: “Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ, chứng từ

chứng minh thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là

UBND cấp tỉnh) căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định việc xác

định chi phí đầu tư vào đất còn lại” [8]. Để cụ thể hóa quy định này, tại

Khoản 5 Điều 6 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND

32

đã quy định trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ, chứng

từ chứng minh thì được bồi thường 50% chi phí quy định theo khối lượng

thực tế đã đầu tư do Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

kiểm đếm.

Quy định như trên tạo thuận lợi cho công tác kiểm đếm lập phương án

bồi thường, hỗ trợ vì trên thực tế đa số các trường hợp đã đầu tư vào đất

không có hồ sơ, chứng từ để chứng minh. Tuy nhiên, việc quy định chỉ được

bồi thường 50% chi phí theo khối lượng thực tế làm ảnh hưởng đến lợi ích

của người bị thu hồi đất.

Ví dụ, một người thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm đã đầu tư nhiều lần qua thời gian dài để san lấp mặt bằng, khi đo đếm được khoảng 100m3

đất. Người sử dụng đất nếu không có hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư san lấp thì chỉ được bồi thường 50m3 đất san lấp.

Mặt khác, việc UBND tỉnh chỉ giao cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi

thường, giải phóng mặt bằng kiểm đếm, xác định giá trị đầu tư còn lại vào đất

mà không có cơ quan, đơn vị hay tổ chức nào giám sát, phối hợp sẽ tạo ra sự

tùy tiện trong kiểm đếm và dễ phát sinh tiêu cực.

2.1.1.2. Về quy định cụ thể bồi thường về đất khi Nhà nước

thu hồi đất ở

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định nguyên tắc chung bồi thường

về đất khi nhà nước thu hồi đất ở và UBND tỉnh quy định chi tiết về xử lý

diện tích còn lại sau thu hồi đất mà không ở được; quy định bồi thường trong

trường hợp đã có đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn; quy

định giải quyết trường hợp trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng

chung sống trên một thửa đất ở thu hồi, cụ thể như sau:

33

- Điểm b Khoản 1 Điều 9 của Quy định kèm theo Quyết định số

46/2014/QĐ-UBND quy định trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện

tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định mà hộ gia

đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có

đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện

về quỹ đất ở, UBND cấp huyện có thể xem xét quyết định bồi thường bằng

việc giao đất ở theo đề nghị của hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi. Việc quy

định hộ gia đình, cá nhân đã có đất ở, nhà ở khác trong phạm vi xã, phường,

thị trấn nơi có đất bị thu hồi nếu địa phương có quỹ đất và hộ gia đình, cá

nhân đó có đề nghị thì được xem xét bồi thường bằng việc giao đất mới là

đảm bảo nguyên tắc thu hồi đất nào (nếu đủ điều kiện bồi thường) thì bồi

thường bằng việc giao đất đất mới có cùng mục đích (thường gọi là nguyên

tắc đất đổi đất) đã được quy định tại Khoản 2 Điều 74 của Luật Đất đai. Tuy

nhiên, hiện nay việc định giá đất để bồi thường mặc dù có thay đổi nhưng vẫn

chưa đảm bảo sát với giá thị trường nên đa số các trường hợp bị thu hồi đất ở

đều đề nghị được bồi thường bằng đất thay vì bồi thường bằng tiền. Nếu địa

phương có quá ít về quỹ đất ở thì sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng

phương án bồi thường về đất.

- Điểm c Khoản 1 Điều 9 của Quy định kèm theo Quyết định số

46/2014/QĐ-UBND quy định phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không

đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND tỉnh thì Nhà nước thu hồi và bồi

thường theo quy định. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉnh

trang các khu dân cư đô thị và khu dân cư nông thôn đảm bảo không còn

những thửa đất quá hẹp, diện tích quá nhỏ, giải quyết tình trạng xây nhà

mỏng, méo mó làm mất mỹ quan đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, có nhiều ý

kiến cho rằng việc định như trên ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thu

hồi đất, vì giá bồi thường về đất đa số không theo kịp giá thị trường, mặt khác

34

việc sử dụng phần đất còn lại sau thu hồi như làm cửa hàng kinh doanh, cho

thuê... có thể đem lại lợi ích rất lớn cho hộ gia đình, cá nhân đó.

- Tại Khoản 2 Điều 9 của Quy định kèm theo Quyết định số

46/2014/QĐ-UBND quy định: Trường hợp hộ gia đình bị thu hồi đất đủ điều

kiện bồi thường về đất mà trong hộ đó có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng

cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành

từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ

gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở bị thu hồi nếu có nhu

cầu về chỗ ở thì UBND cấp huyện căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư và

tình hình thực tế tại địa phương quyết định bán thêm căn hộ tái định cư hoặc

giao thêm đất ở có thu tiền sử dụng đất cho từng hộ gia đình theo đề nghị của

tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Quy định này tạo

điều kiện tối đa cho các hộ gia đình, cá nhân có nơi ở mới và tạo điều kiện

thuận lợi cho UBND cấp huyện và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải

phóng mặt bằng trong việc lập phương án bồi thường nhưng sẽ tạo cơ hội cho

nhiều hộ gia đình, cá nhân đối phó để được giao thêm đất ở, mua thêm nhà ở

tái định cư mà thường có giá rẽ hơn giá thị trường. Vì theo quy định tại Điểm

a Khoản 1 Điều 27 của Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) thì

điều kiện tách hộ khẩu rất đơn giản, những người có cùng một chỗ ở hợp

pháp có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có nhu cầu tách sổ hộ khẩu thì

được tách sổ hộ khẩu.

2.1.1.3. Về quy định cụ thể bồi thường đối với hộ gia đình,

cá nhân đang thuê đất phi nông nghiệp

Các khoản 2 và 3 Điều 10 của Quy định kèm theo Quyết định số

46/2014/QĐ-UBND quy định hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phi nông

nghiệp không phải là đất ở được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng

năm; cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được

35

miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp được miễn giảm do thực hiện chế độ người

có công với cách mạng thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi

thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Hộ gia đình, cá nhân đang sử

dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà nước cho thuê đất thu

tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất do

thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng đang trực tiếp sử

dụng đất thì được bồi thường về đất; việc bồi thường được thực hiện bằng cho

thuê đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại.

Quy định này thể hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với hộ gia đình, cá

nhân có công với cách mạng. Tuy nhiên, Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND

vẫn chưa quy định rõ nếu được bồi thường bằng việc cho thuê đất mới có

cùng mục đích với thời hạn bao lâu, có bằng với thời hạn còn lại của hợp

đồng thuê hay không nên gây khó khăn cho việc thực hiện trên thực tế.

2.1.1.4. Về quy định bồi thường tài sản gắn liền với đất

Về nguyên tắc chung, tài sản gắn liền với đất là tài sản được tạo lập

hợp pháp thì được bồi thường. Tài sản gắn liền với đất được chia làm hai

nhóm chính là nhà ở, công trình xây dựng trên đất và cây trồng, vật nuôi là

thủy sản. Trong đó, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt và mồ mả thì

được bồi thường theo giá xây dựng mới; các công trình xây dựng khác thì bồi

thường theo giá trị còn lại hiện có; cây trồng được bồi thường bằng giá trị sản

lượng cao nhất của 03 năm liền trước đối với cây hàng năm, giá trị hiện có

đối với cây lâu năm, cây chưa thu hoạch có thể di chuyển thì bồi thường chi

phí di chuyển; vật nuôi là thủy sản thì được bồi thường thiệt hại do thu hoạch

sớm, chi phí di chuyển.

Luật Đất đai và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP giao UBND cấp tỉnh quy

định chi tiết việc xác định giá trị bồi thường, đơn giá bồi thường. UBND tỉnh

36

Thừa Thiên Huế đã quy định chi tiết việc bồi thường tài sản trên đất tại các

điều 28 và 29 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND và

đã ban hành hai (02) văn bản là Quyết định số 67/2015/QD-UBND quy định

về đơn giá cây trồng vật nuôi và Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND quy định

về đơn giá nhà, công trình, vật kiến trúc và các loại mồ mả làm căn

cứ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế.

*) Về quy định chi tiết bồi thường thiệt hại về nhà (không phải là nhà

ở), công trình xây dựng khác gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất

Khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định mức bồi

thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt

hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công

trình đó và giao cho UBND cấp tỉnh quy định chi tiết khoản tiền tính bằng tỷ

lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình. Tuy nhiên, trong nội

dung Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND không quy định cụ thể “khoản tiền

tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình” là bao nhiêu

nên đến nay việc xác định giá trị bồi thường đối với nhà và công trình xây

dựng khác gặp khó khăn.

*) Về quy định bồi thường đối với nhà, công trình xây dựng không theo

tiêu chuẩn của Bộ quản lý chuyên ngành

Khoản 4 Điều 9 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định đối với

nhà, công trình xây dựng không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Bộ

quản lý chuyên ngành ban hành thì UBND cấp tỉnh quy định mức bồi thường

cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Trên cơ sở quy định

này, UBND tỉnh đã ban hành Quy định đơn giá nhà, công trình, vật kiến trúc

và các loại mồ mả làm căn cứ để bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

37

để ban hành kèm theo Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND. Kèm theo Quy

dịnh này là ba (03) phụ lục gồm đơn giá nhà, đơn giá công trình, vật kiến trúc,

đơn giá các loại mồ mả. Nội dung Quy định này còn quy định cụ thể xử lý các

trường hợp nhà, công trình, vật kiến trúc, mồ mả không có trong danh mục,

có đặc điểm cá biệt, chuyên dụng và quy định hệ số bù cước vận chuyển đối

với các vùng miền khác nhau trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể như

sau:

- Đối với tài sản không đủ điều kiện bồi thường theo quy định của pháp

luật thì tùy theo từng trường hợp cụ thể mà Tổ chức thực hiện bồi thường giải

phóng mặt bằng (gọi chung là Tổ chức bồi thường) trình cấp có thẩm quyền

xem xét hỗ trợ theo quy định;

- Đối với các loại nhà, công trình, vật kiến trúc và các loại mồ mả không

có trong danh mục của Quy định này thì Tổ chức bồi thường tính toán mức giá

bồi thường, hỗ trợ cho từng tài sản cụ thể (đối với những tài sản có tính đa dạng

phức tạp trong xác định giá thì có thể thuê đơn vị tư vấn, chi phí thuê tư vấn

được hoạch toán vào chi phí bồi thường hỗ trợ) gửi Sở quản lý công trình xây

dựng chuyên ngành thẩm định, trình UBND tỉnh phê duyệt.

- Đối với những công trình kiến trúc đặc thù như: đình, chùa, miếu, nhà

rường… có những điêu khắc, hoa văn, chạm, trổ phức tạp thì giá bồi thường hoặc

hỗ trợ được xác định cho từng tài sản cụ thể, trên cơ sở dự toán thực tế do chủ dự

án lập hoặc thuê đơn vị tư vấn lập gửi Sở quản lý công trình xây dựng chuyên

ngành thẩm định và trình UBND tỉnh quyết định giá bồi thường, hỗ trợ.

- Ngoài những quy định nêu trên, đối với nhà, công trình, vật kiến trúc

và các loại mồ mả chưa có quy định trong bảng giá này thì tùy từng trường

hợp cụ thể về tính chất, quy mô, chất liệu, thông số kỹ thuật tương tự để áp

giá tương đương hoặc tiến hành khảo sát, xác định khối lượng thực tế làm cơ

38

sở lập dự toán theo các quy định hiện hành để xác định giá trị bồi thường, báo

cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

*) Đối với các địa phương sau đây, đơn giá nhà, công trình, vật kiến

trúc và các loại mồ mả được nhân với hệ số bù cước vận chuyển như sau:

Bảng 1.1. Hệ số bù cước vận chuyển

(Nguồn: Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 05/8/2014 của

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế)

STT Địa phƣơng Hệ số K

1 Thành phố Huế K = 1,00

Thị xã Hương Trà:

2 - Các vùng ven biển thuộc các xã ngoài đầm phá; K = 1,08

- Các vùng còn lại. K = 1,03

3 Thị xã Hương Thủy K = 1,03

Huyện Phú Vang:

4 - Các vùng ven biển thuộc các xã ngoài đầm phá; K = 1,08

- Các vùng còn lại. K = 1,03

Huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền:

5 - Các vùng ven biển thuộc các xã ngoài đầm phá; K = 1,08

K = 1,05 - Các vùng còn lại.

K = 1,08 6 Huyện Phú Lộc

K = 1,15 7 Huyện Nam Đông, huyện A Lưới

39

Nội dung Quy định kèm theo Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND tạo

điều kiện thuận lợi cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư thuận lợi trong việc kiểm kê, áp giá để xây dựng phương án bồi thường, hỗ

trợ. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ nội dung Quy định này chúng ta sẽ thấy

một số bất cập như:

- Đơn giá nhà, công trình chưa sát với giá thị trường (chỉ bằng khoảng

75-80%) giá xây dựng mới nhưng không có quy định về hệ số trượt giá theo

diễn biến thị trường từng thời kỳ.

- Đối với nhà ở quy định được bồi thường bằng giá xây mới nên các hộ

gia đình, cá nhân đang sử dụng nhà cũ có lợi hơn các hộ gia đình, cá nhân

đang sở hữu nhà mới xây, mới sửa chữa. Quy định khi bồi thường xong, chủ

sở hữu nhà, công trình được tháo dỡ sử dụng lại sẽ gây thiệt hại rất lớn cho

Nhà nước khi bồi thường nhà, công trình lắp ghép, nhà rường... có đơn giá rất

cao nhưng chủ nhà chỉ mất công tháo dỡ, xây lắp lại, giá trị ngôi nhà, công

trình bị thiệt hại rất ít.

- Quy định các loại nhà, công trình, mồ mả có điêu khắc, hoa văn,

chạm, trổ phức tạp thì có cách xác định đơn giá riêng và thường giá trị bồi

thường cao hơn loại nhà, công trình, mồ mả bình thường khác. Quy định này

còn mang tính chung chung khó áp dụng vì không có ranh giới rõ ràng để

phân biệt giữa hoa văn, chạm, trổ phức tạp và không phức tạp, ít phức tạp.

*) Quy định bồi thường cây trồng, vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất:

Để cụ thể hóa Điều 90 của Luật Đất đai năm 2013, ngày 22/12/2015,

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quy định đơn giá cây trồng, vật

nuôi làm căn cứ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế (kèm theo Quyết định số 67/2015/QĐ-UBND). Nội dung

Quy định này quy định cụ thể đơn giá các loại: cây hoa màu ngắn ngày, cây

40

hoa màu dài ngày, cây ăn quả dài ngày và cây công nghiệp lâu năm, cây công

nghiệp trồng lấy gỗ và củi, cây lâm nghiệp khác, các loại cây trồng khác (cây

cảnh và cây lấy củi khác) và vật nuôi (thủy sản). Các bảng giá này được xây

dựng trên nguyên tắc nếu vườn cây chưa thu hoạch thì được bồi thường chi

phí đầu tư, thu hoạch (hoặc chặt hạ), di chuyển trừ đi giá trị tận thu (nếu có);

đối với cây trồng đã đến kỳ thu hoạch thì chỉ được bồi thường chi phí thu

hoạch; đối với cây cảnh thì được bồi thường chi phí di chuyển; đối với thủy

sản chưa đến kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế, nếu đến kỳ

thu hoạch thì được bồi thường chi phí thu hoạch, di chuyển.

Nhìn chung, việc quy định đơn giá bồi thường cây trồng, vật nuôi như

Quy định kèm theo Quyết định số 67/2015/QĐ-UBND đã đáp ứng được yêu

cầu của công tác kiểm đếm, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, đảm bảo

lợi ích của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên, Quy định kèm theo Quyết định số

67/2015/QĐ-UBND còn bộc lộ một số bất cập như:

- Đối với đơn giá cây ăn quả dài ngày và cây công nghiệp lâu năm, cây

lâm nghiệp, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế chưa quy định cụ thể trường hợp

nào thì gọi là cây trồng phân tán và trường hợp nào là cây trồng tập trung và

trường hợp nào thì áp dụng đơn giá theo diện tích và trường hợp nào thì áp

dụng đơn giá theo số lượng cây. Về nguyên tắc trên một diện tích đất bị thu

hồi, việc tính đơn giá theo diện tích và đơn giá theo số lượng phải có giá trị

bồi thường tương đương nhau nếu việc trồng cây đảm bảo theo đúng mật độ

tiêu chuẩn của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế làm công tác bồi

thường, hỗ trợ cho thấy rất ít trường hợp cây trồng theo đúng mật độ tiêu

chuẩn của ngành nông nghiệp, mặt khác có nhiều loại cây hiện nay chưa có

tiêu chuẩn về mật độ trồng. Đây là kẻ hở để người sử dụng đất tăng mật độ

cây trồng nhằm trục lợi khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

41

- Chi phí hỗ trợ di dời các loại cây cảnh rất thấp từ 10.000 đồng đến

1.000.000 đồng/cây tùy vào đường kính trung bình của cây [18]. Chi phí này

thường không đủ để thuê người và phương tiện di dời, mặt khác đơn giá này

còn chưa tính đến mức độ rủi ro khi di dời cây cảnh khi cây chết (giá trị cây

cảnh thường rất lớn).

- Đơn giá các loài thủy sản khác ngoài cá và tôm là rất thấp chỉ từ 286 đồng đến 572 đồng/m2. Đơn giá này khó áp dụng khi thu hồi đất nuôi trồng thủy

sản có các loài thủy sản có giá trị như ba ba, cá cảnh, cá giống, cua, nghêu...

2.1.2. Các chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

2.1.2.1. Về chính sách hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất

khi Nhà nước thu hồi đất

Việc hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất quy

định tại Điểm a Khoản 2 Điều 83 của Luật Đất đai, Điều 19 của Nghị định số

47/2014/NĐ-CP và hướng dẫn tại Điều 5 của Thông tư số 37/2014/TT-

BTNMT. Điều 19 của Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND quy định chi tiết

chính sách này để áp dụng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế bao gồm:

- Hỗ trợ ổn định đời sống cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất

nông nghiệp, đang sử dụng đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc

đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ có hợp đồng giao

khoán đất của nông, lâm trường và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất

nông nghiệp trên đất đó, nhân khẩu phụ thuộc vào các hộ trên và bị thu hồi

đất nông nghiệp ít nhất 30% diện tích đang sử dụng. Diện tích đất thu hồi

được xác định theo từng quyết định thu hồi đất.

Chế độ hỗ trợ ổn định đời sống được UBND tỉnh Thừa Thiên Huế quy

định cụ thể như sau:

42

“Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì

được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong

thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến

các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -

xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 24 tháng.

Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử

dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở

và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di

chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ là 36 tháng. Mức hỗ trợ

cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng

theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.” [15].

Quy định hỗ trợ ổn định đời sống ngoài các chế độ bồi thường, hỗ trợ

về đất khi thu hồi đất nông nghiệp thể hiện sự ưu việt của Nhà nước ta đối với

những người bị thu hồi đất là nông dân, người sống phụ thuộc đảm bảo cho

người bị thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống về mọi mặt. Tuy nhiên, quy định

tỷ lệ diện tích đất thu hồi so với tổng diện tích đất đang sử dụng xác định theo

từng quyết định thu hồi đất còn bất cập khi dự án được phân chia làm nhiều

giai đoạn thu hồi đất mà các giai đoạn đều có đất của một hộ gia đình, cá nhân

bị thu hồi thì hộ này sẽ được hỗ trợ nhiều lần, nếu dự án thu hồi đất một lần

thì hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất chỉ được hỗ trợ một lần.

- Hỗ trợ ổn định sản xuất áp dụng cho hộ gia đình, cá nhân được bồi

thường bằng đất nông nghiệp và tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản

xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất có

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất.

43

“Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được

hỗ trợ ổn định sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất nông

nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y,

kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh

doanh dịch vụ công thương nghiệp.”

Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều

này thì được hỗ trợ ổn định sản xuất bằng tiền với mức bằng 30% một năm thu

nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó.” [15]

Số ngày thực tế ngừng sản xuất, kinh doanh do tổ chức làm nhiệm vụ

bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với các cơ quan liên quan và

UBND cấp xã xác định.

Ngoài ra, các khoản 5 và 6 Điều 19 của Quy định kèm theo Quyết định

số 46/2014/QĐ-UBND còn quy định chế độ hỗ trợ ổn định đời sống và ổn

định sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao khoán

đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản của

các nông, lâm trường quốc doanh bằng tiền và quy định trợ cấp ngừng việc

cho các lao động hợp đồng với những đối tượng được hỗ trợ ổn định sản xuất

nêu trên bằng tiền không quá 06 tháng.

Việc quy định chế độ hỗ trợ ổn định sản xuất giúp người bị thu hồi đất

nhanh phục hồi và phát triển sản xuất nhằm ổn định cuộc sống nhưng trên

thực tế, quy định này thường chỉ được thực hiện thông qua chi trả bằng tiền

mặt, việc hỗ trợ về giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp,

các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật

trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch

vụ công thương nghiệp rất khó thực hiện vì không phải chuyên môn của các

44

tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Mặt khác, hiện nay sự

phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất

trong ổn định và phát triển sản xuất còn rất hạn chế.

2.1.2.2. Về chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và

tìm kiếm việc làm

*) Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực

tiếp sản xuất nông nghiệp:

Điều 20 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định hỗ trợ bằng tiền

không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa

phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi nhưng không vượt

quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương và giao cho UBND cấp tỉnh

quy định mức hỗ trợ cụ thể. Chính phủ còn giao UBND cấp tỉnh lập và tổ

chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho

người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất nông nghiệp để phê duyệt cùng với

phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Cụ thể hóa Điều 20 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, tại Khoản 1

Điều 20 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND quy định

hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bằng tiền tính theo

giá đất cùng loại (trong bảng giá đất UBND tỉnh) như sau: ba (3) lần đối với

đất trồng lúa nước, hai (2) lần đối với đất trồng lúa nương, đất trồng cây hàng

năm khác, đất nuôi trồng thủy sản, một phẩy năm (1,5) lần đối với đất trồng

cây lâu năm và một (01) lần đối với đất rừng sản xuất.

*) Khi Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ của hộ gia

đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở:

45

Điều 21 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định hộ gia đình, cá

nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà phải di

chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm;

giao UBND cấp tỉnh căn cứ chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề đã

được Thủ tướng Chính phủ quyết định và điều kiện thực tế tại địa phương quy

định mức hỗ trợ cụ thể cho phù hợp đối với từng loại hộ gia đình, cá nhân có

đất thu hồi. Cụ thể hóa Điều 21 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, tại Khoản

2 Điều 20 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND quy

định đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch

vụ mà nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi Nhà

nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để

phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi còn trong độ

tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

Tại Khoản 3 Điều 20 của Quy định kèm theo Quyết định số

46/2014/QĐ-UBND, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế giao UBND cấp huyện

phối hợp Sở Lao động – Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ lập, tổ chức thực

hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người có

đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ; trình

UBND tỉnh quy định mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm phù hợp với từng loại hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi.

Các quy định chi tiết về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm

việc làm như trên của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã tạo điều kiện thuận lợi

cho các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,

cơ bản phù hợp với thực tế địa phương, dễ áp dụng, tạo sự chủ động cho cấp

huyện. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các các quy định này, chúng ta nhận thấy

một số hạn chế như sau:

46

- UBND tỉnh Thừa Thiên Huế chưa cụ thể hóa định mức hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo các khung đã được quy định tại

Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg để áp dụng thống nhất tại tỉnh Thừa Thiên

Huế mà giao nhiệm vụ này cho UBND cấp huyện nên sẽ tạo ra sự không

thống nhất trong triển khai thực hiện chính sách này giữa các đơn vị cấp

huyện trong cùng một tỉnh;

- Việc quy định các mức hỗ trợ tại Khoản 1 Điều 20 của Quy định kèm

theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND theo hướng đất có giá đất càng cao

thì được hỗ trợ càng nhiều tạo ra sự mất công bằng đối với những người bị

thu hồi đất trong cùng dự án có sử dụng đất nông nghiệp khác nhau. Điều này

còn dẫn đến hiện tượng tự ý chuyển mục đích từ loại đất có đơn giá hỗ trợ

thấp sang loại đất có đơn giá hỗ trợ cao để trục lợi và đối phó với cơ quan

quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ.

2.1.2.3. Về chính sách hỗ trợ tái định cư

Để triển khai thực hiện chế độ hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải

di chuyển chỗ ở thì theo Điều 22 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, UBND

cấp tỉnh phải quy định chi tiết về suất tái định cư tối thiểu và mức hỗ trợ tái

định cư khi các đối tượng nêu trên tự lo chỗ ở. Cụ thể hóa quy định trên,

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã quy định chi tiết tại các điều 21 và 27 của

Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND như sau:

- Suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở hoặc bằng

tiền để phù hợp với việc lựa chọn của người được bố trí tái định cư. Suất tái

định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở được chia ra theo địa bàn: các phường thuộc thành phố Huế: diện tích đất 60m2; thị trấn thuộc huyện, phường thuộc thị xã: diện tích đất 100m2; xã thuộc huyện và thị xã: diện tích

47

đất 200m2; chung cư: diện tích 30m2. Suất tái định cư tối thiểu tính bằng tiền:

phường thuộc thành phố Huế: 120.000.000 đồng; thị trấn thuộc huyện,

phường thuộc thị xã: 80.000.000 đồng; xã thuộc huyện và thị xã: 60.000.000

đồng (Điều 27 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND);

- Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài bị thu hồi đất ở tự lo chỗ ở thì ngoài việc được bồi thường về đất còn được nhận khoản tiền hỗ trợ tái định cư: thu hồi dưới 200m2 thì hỗ trợ một phần tư (1/4) suất tái định cư tối thiểu; thu hồi từ 200m2 đến dưới 400m2 thì hỗ trợ một phần hai (1/2) suất tái định cư tối thiểu; thu hồi từ 400m2 đến dưới 600m2 thì hỗ trợ ba phần tư (3/4) suất tái định cư tối thiểu; thu hồi từ trên 600m2 thì hỗ trợ một (01) suất tái định cư tối thiểu. Trong hộ gia đình có hơn

04 (bốn) nhân khẩu (có tên trong hộ khẩu tại thời điểm thông báo thu hồi đất)

thì được hỗ trợ 2.000.000 đồng cho mỗi nhân khẩu tăng thêm (Khoản 2 Điều

21 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND).

Việc UBND tỉnh Thừa Thiên Huế quy định về suất tái định cư tối thiểu

theo hai loại bằng đất ở, nhà ở và bằng tiền; chia làm nhiều mức khác nhau

tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của các vùng miền tạo điều kiện thuận

lợi cho việc xây dựng phương án hỗ trợ, đảm bảo sự công bằng hơn cho

những người bị thu hồi đất ở các địa bàn và điều kiện cư trú khác nhau. Việc

quy định các định mức hỗ trợ tái định cư khi người bị thu hồi đất tự lo chỗ ở

theo diện tích bị thu hồi và theo số lượng nhân khẩu trong hộ gia đình đã đảm

bảo được sự hài hòa, phù hợp vừa mang tính nhân văn của chính sách này, tạo

điều kiện cho người bị thu hồi đất sớm tạo dựng nơi ở mới và ổn định cuộc

sống.

Tuy nhiên, việc quy định các suất tái định cư bằng đất và suất tái định

cư bằng tiền trong cùng một loại đơn vị hành chính chưa tương đương với

nhau và chưa phù hợp với giá đất ở trung bình trong loại đơn vị hành chính

48

đó. Nếu tính theo Bảng giá đất 05 năm (2016-2020) (ban hành kèm theo

Quyết định số Quyết định số 75/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế) thì giá đất ở trung bình tại khu vực thành phố là 780.000 đồng/m2, tại các phường thuộc thị xã và thị trấn là 300.000 đồng/m2 và tại các xã là 168.000 đồng/m2 thấp hơn nhiều so với giá đất ở tính theo suất

tái định cư tối thiểu bằng tiền quy định ở trên (thành phố là 120.000.000 đồng/60m2 = 2.000.000 đồng/m2; phường thuộc thị xã và thị trấn là 80.000.000 đồng/100m2 = 800.000 đồng/m2 và xã là 60.000.000 đồng/200m2 = 300.000 đồng/m2) [15]. Quy định này chưa phù hợp với Khoản 2 Điều 27

của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP.

Khoản 2 Điều 27 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định: “Trường

hợp suất tái định cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản tiền cho suất tái

định cư tối thiểu tương đương với giá trị một suất tái định cư tối thiểu bằng đất

ở, nhà ở tại nơi bố trí tái định cư” [8]. Điều này gây mất công bằng giữa người

hưởng suất tái định cư bằng đất ở và người hưởng suất tái định cư bằng tiền.

2.1.2.4. Về chính sách hỗ trợ người đang thuê nhà ở không

thuộc sở hữu Nhà nước

Theo Điều 23 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, Chính phủ giao cho

UBND cấp tỉnh quy định mức hỗ trợ chi phí di chuyển tài sản cho hộ gia

đình, cá nhân đang thuê nhà ở không phải là nhà ở thuộc sở hữu nhà nước khi

Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế

đã quy định cụ thể vấn đề này tại Điều 22 và Điểm c Khoản 2 Điều 30 của

Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND như sau: “Di chuyển

chỗ ở dưới năm ki-lô-mét: 3.000.000 đồng; di chuyển chỗ ở từ năm đến mười

ki-lô-mét: 5.000.000 đồng và di chuyển chỗ ở trên mười ki-lô-mét: 6.000.000

đồng” [15].

49

Các mức hỗ trợ này cơ bản phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội tại địa

phương nhưng đối với khoảng cách di chuyển trên mười (10) ki-lô-mét cần

quy định cụ thể thêm các mức hỗ trợ lớn hơn tùy theo khoảng cách di chuyển

để hỗ trợ cho phù hợp với từng loại đối tượng.

2.1.2.5. Về chính sách hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của

xã, phường, thị trấn

Theo quy định tại Điều 24 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì khi thu

hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn thì được xã, phường, thị trấn đó hỗ trợ

một khoản tiền do UBND cấp tỉnh quy định để nộp vào ngân sách nhà nước và

chỉ được sử dụng để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, sử dụng vào mục

đích công ích của xã, phường, thị trấn. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế quy định tại

Điều 23 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND mức hỗ trợ

này bằng 75% mức bồi thường về đất cùng loại.

Quy định nêu trên cơ bản đáp ứng yêu cầu giải quyết sự hài hòa lợi ích giữa

nhà đầu tư và nhu cầu đầu tư xây dựng hạ tầng ở địa phương. Tuy nhiên, cả Nghị

định số 47/2014/NĐ-CP và Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND chưa nêu rõ

trong trường hợp nào thì ngân sách nhà cấp xã được hỗ trợ khi thu hồi đất công

ích. Vì theo quy định tại các điều 61 và 62 của Luật Đất đai năm 2013 thì Nhà

nước thu hồi đất khi thực hiện các công trình, dự án vì các mục đích mục đích

quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Ngoài các dự án phát triển kinh tế - xã hội có lợi nhuận thì khi thu hồi

đất thực hiện các dự án quốc phòng, an ninh vì lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng như xây dựng công trình quốc phòng, sân bay quân sự, đường giao

thông, trụ sở cơ quan nhà nước... và các công trình do UBND cấp xã quyết

định đầu tư hoặc được giao làm chủ đầu tư mà phải hỗ trợ bằng 75% tiền bồi

thường về đất cho ngân sách cấp xã là không hợp lý.

50

2.1.2.6. Về chính sách hỗ trợ khác đối với người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất

Theo Điều 25 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì ngoài các chế độ

hỗ trợ nêu trên, tùy theo tình hình thực tế địa phương, Chủ tịch UBND cấp

tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác; trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực

tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ

điều kiện bồi thường thì UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ; trường hợp đặc biệt

trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quy định cụ thể các chế độ hỗ

trợ khác tại Điều 24 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-

UBND như sau:

- Hỗ trợ cho hộ gia đình có người đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội

(nội dung bao gồm người có công cách mạng và các đối tượng nhận trợ cấp

xã hội) của Nhà nước phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi đất một lần từ

2.400.000 đồng đến 8.000.000 đồng; trường hợp một hộ gia đình thuộc nhiều

tiêu chuẩn được hỗ trợ thì chỉ được xét hưởng ở một mức hỗ trợ cao nhất;

- Hỗ trợ người có đất bị thu hồi bàn giao mặt bằng đúng hoặc sớm hơn

tiến độ theo yêu cầu của tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt

bằng thì được hỗ trợ từ 3.000.000 đồng 5.000.000 đồng tùy thời gian sớm hơn;

- Hỗ trợ diện tích đất bị thu hồi là đất vườn ao gắn liền với đất ở bằng

50% giá đất ở của thửa đất đó theo Bảng giá đất do UBND tỉnh quy định; diện

tích được hỗ trợ bằng diện tích đất vườn, ao gắn liền với nhà ở bị thu hồi

nhưng không quá hạn mức giao đất ở tại địa phương;

- Hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề

và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường.

51

Các chính sách hỗ trợ khác do UBND tỉnh Thừa Thiên Huế quy định

rất đa dạng, góp phần thực hiện tốt chính sách đối với người có công, người

yếu thế trong xã hội; khuyến khích người bị thu hồi đất bàn giao mặt bằng

sớm để thực hiện công trình, dự án; đảm bảo sự công bằng trong thực hiện

chế độ bồi thường đối với người bị thu hồi đất vườn; tạo điều kiện cho người

trực tiếp sản xuất nông nghiệp sớm ổn định đời sống, ổn định sản xuất, có

việc làm mới.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu các chế độ hỗ trợ khác nêu trên chúng ta

vẫn nhận thấy một số bất cập như:

- Việc sử dụng cụm từ “trợ cấp xã hội” để chỉ những người được nhận

trợ cấp, phụ cấp có công cách mạng và cả trợ cấp xã hội đối với người nghèo,

trẻ em mồ côi, người neo đơn, người khuyết tật là không phù hợp. Vì đối với

người có công cách mạng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách

mạng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì người có công cách mạng

được chia ra là nhiều loại và ngoài hưởng trợ cấp còn có một số đối tượng

được hưởng phụ cấp cả hàng tháng và một lần. Đối với người hưởng trợ xã

hội theo pháp luật trợ cấp xã hội rất rộng và có cả chế độ trợ cấp hàng tháng

và một lần. Do đó, việc quy định hỗ trợ như trên vừa không rõ ràng và rất

rộng, khó áp dụng trong thực tế.

- Quy định hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản

xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều

kiện được bồi thường. Nếu áp dụng theo quy định này thì người trực tiếp sản

xuất nông nghiệp lấn chiếm khi đã có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc

đã có thông báo thu hồi đất vẫn được hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản

xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm với giá trị nhiều

52

hơn tiền bồi thường về đất là không hợp lý, tạo điều kiện để người dân lấn

chiếm, vi phạm về đất đai nhằm trục lợi từ việc hỗ trợ.

2.1.3. Chính sách về tái định cư

Về nguyên tắc chung của Nhà nước đối với chính sách tái định cư là

khu tái định cư phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy

chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng,

miền; việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà

ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư. Nhà nước tạo điều kiện tối đa cho

người bị thu hồi đất kể cả được bồi thường và không được bồi thường về đất

đều có nơi ở mới để ổn định mọi mặt về cuộc sống.

2.1.3.1. Về lập và thực hiện dự án tái định cư

Ngoài các quy định về trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái

định cư; quy định về bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan

nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất; lập dự án tái định cư, lựa

chọn chủ đầu tư; yêu cầu, tiêu chuẩn của khu tái định cư; kinh phí để thực

hiện dự án tái định cư... thì UBND tỉnh Thừa Thiên Huế còn quy định tại

Điều 25 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND: “Trường

hợp khu tái định cư là đất ở phân lô phải có thiết kế nhà mẫu hoặc thiết kế đô

thị, bản đồ địa chính thửa đất để phục vụ giao đất, cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất” [15]. Quy định mới này nhằm tạo mỹ quan đô thị và nông

thôn trong xây dựng, giúp người tái định cư dễ dàng trong thiết kế, xây dựng

nhà ở và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý đất đai, xây dựng của

chính quyền địa phương.

2.1.3.2. Về bố trí tái định cư cho người có đất ở thu hồi mà

phải di chuyển chỗ ở

53

Để đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng trong bố trí tái định cư

cho người sử dụng đất, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã quy định một số yêu

cầu trong việc xây, công khai phương án tái định cư, ưu tiên trong bố trí tái

định cư tại Điều 26 của Quy định kèm theo Quyết định số 46/2014/QĐ-

UBND như sau:

- Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phải thông

báo bằng văn bản cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển

chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là

15 ngày tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi

có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi trình phê duyệt. Sau khi được

phê duyệt, phương án tái định cư tiếp tục được niêm yết công khai như trên.

Nội dung thông báo gồm địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định cư, thiết

kế đô thị, diện tích từng lô đất, căn hộ, giá đất, giá nhà tái định cư; dự kiến bố

trí tái định cư cho người có đất thu hồi.

- Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực

thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị

trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu

hồi là người có công với cách mạng.

Quy định này đảm bảo sự minh bạch trong việc bố trí tái định cư,

khuyến khích người bị thu hồi đất sớm bàn giao mặt bằng để có vị trí tái định

cư thuận lợi và góp phần thực hiện chính sách ưu đãi người có công cách

mạng. Tuy nhiên, quy định này chưa nêu cụ thể cơ chế tiếp nhận, xử lý ý kiến

của những người có đất bị thu hồi và cộng đồng dân cư nơi công khai phương

án tái định cư. Trong thứ tự ưu tiên tái định cư, chưa ưu tiên cho những người

có vị trí nhà đất thuận lợi tại nơi ở cũ đã bị thu hồi.

54

2.2. Thực hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi Nhà

nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Thừa Thiên Huế

2.2.1. Khái quát tình hình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế

Theo báo cáo tổng hợp của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa

Thiên Huế, từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016, trên địa bàn toàn tỉnh

Thừa Thiên Huế đã thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định để thực

hiện tất cả 350 công trình, dự án (trong đó có một số dự án chuyển tiếp theo

Luật Đất đai năm 2003 sang Luật Đất đai năm 2013). UBND tỉnh Thừa Thiên

Huế và UBND cấp huyện đã thu hồi tổng cộng 61.709 ha đất các loại, trong

đó đất nông nghiệp là 53.678 ha, đất phi nông nghiệp là 7.976 ha và đất chưa

sử dụng là 54,20 ha. Phân theo đối tượng bị thu hồi là 883 lượt tổ chức tương

ứng 152,10 ha và 9.278 lượt hộ gia đình, cá nhân tương ứng với diện tích

61.557 ha. Kết quả bồi thường, hỗ trợ như sau:

- Bồi thường bằng việc giao hoặc cho thuê đất mới: 156 lượt đối tượng

tương ứng 552 ha; bằng tiền 9.049 lượt đối tượng tương ứng 9.085,41 tỷ

đồng; bồi thường tài sản gắn liền với đất 19.936.274 tỷ đồng.

- Hỗ trợ (tất cả các chế độ theo quy định) 5.640 lượt đối tượng với số

tiền: 1.676,72 tỷ đồng. Trong đó, hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất

458,36 tỷ đồng; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm 431,21

tỷ đồng; hỗ trợ tái định cư 553 tỷ đồng và hỗ trợ khác 232 tỷ đồng.

- Đã bố trí tái định cư cho 1.081 hộ phải bố trí.

- Số lượng đơn thư khiếu nại, kiến nghị của người bị thu hồi đất là 23

đơn, đã giải quyết xong 16 đơn, tỷ lệ 70%.

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

55

2.2.2. Tình hình thực hiện chính sách bồi thường về đất và tài

sản gắn liền với đất

2.2.2.1. Thực hiện chính sách bồi thường về đất

Tính từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016, các cơ quan có thẩm

quyền trên địa bàn toàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã bồi thường bằng việc giao

đất mới cho người bị thu hồi đất là 552 ha đất các loại, trong đó bồi thường

bằng giao đất ở mới là 49 ha, giao đất nông nghiệp mới là 488 ha và giao đất

phi nông nghiệp (không phải đất ở) là 15 ha. Ngoài ra, các cơ quan có thẩm

quyền còn thực hiện bồi thường về đất bằng tiền tổng cộng 9.085,41 tỷ đồng,

trong đó tiền bồi thường đối với đất ở là 7.311,91 tỷ đồng, tiền bồi thường đối

với đất nông nghiệp là 1.509,34 tỷ đồng, tiền bồi thường đối với đất phi nông

nghiệp (không phải là đất ở) là 264,16 tỷ đồng.

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

*) Về mặt tích cực

Công tác bồi thường về đất cơ bản đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của

người bị thu hồi đất, thể hiện là trong 9.205 lượt người được bồi thường về

đất thì chỉ có 23 người có đơn khiếu nại hoặc kiến nghị [21]. Trong quy trình

xây dựng phương án bồi thường về đất, UBND tỉnh quy định trước khi tổ

chức làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng (ở tỉnh Thừa Thiên Huế chỉ có Trung

tâm Phát triển quỹ đất cấp huyện) xây dựng dự thảo phương án bồi thường về

đất phải trình cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp thẩm định điều kiện

bồi thường về đất trước để loại trừ các trường hợp không được bồi thường về

đất. Quy định này nhằm tránh phát sinh trường hợp người sử dụng đất đã

nhận và đồng ý với phương án bồi thường về đất nhưng sau khi trình cơ quan

tài nguyên và môi trường cùng cấp thẩm định thì phát hiện họ không đủ điều

kiện được bồi thường về đất và sẽ không được UBND cùng cấp phê duyệt bồi

56

thường nên dẫn đến bức xúc, khiếu kiện và dẫn đến thường không chịu bàn

giao mặt bằng.

Trong thời gian gần đây, một số địa phương như huyện A Lưới, huyện

Phong Điền đã chủ động tạo quỹ đất ở, đất nông nghiệp, phi nông nghiệp để

bồi thường bằng việc giao đất mới cho người dân bị thu hồi nhằm giảm số

tiền ứng trước để chi trả cho chủ đầu tư, tiết kiệm ngân sách nhà nước và tạo

điều kiện để người dân sớm có nơi ở mới, sớm có đất sản xuất mới, điển hình

như dự án thủy điện Hương Điền, dự án nhà máy xi măng Đồng Lâm...

*) Về hạn chế, tồn tại

- Công tác bồi thường về đất chủ yếu là bồi thường bằng tiền, chưa chú

trọng bồi thường bằng việc giao, cho thuê đất mới. Việc chưa chú trọng đến

việc bồi thường bằng việc giao đất mới dẫn đến nhiều thiệt thòi cho người sử

dụng đất vì giá đất bồi thường (nhất là đất ở) đa số vẫn còn thấp hơn giá thị

trường. Mặt khác, do bồi thường bằng tiền nên cuộc sống và nghề nghiệp của

người bị thu hồi đất bị ảnh hưởng lớn và Nhà nước phải hỗ trợ rất nhiều kinh

phí để cho người bị thu hồi đất ổn định đời sống, ổn định sản xuất, đào tạo

nghề, tìm kiếm việc làm mới... (nếu bồi thường bằng giao đất mới thì những

khoản này rất ít).

- Việc xác định điều kiện bồi thường, nhất là đất ở vẫn còn nhiều bất

cập, sai sót phải điều chỉnh, bổ sung gây bức xúc trong dư luận. Điển hình là

giải phóng mặt bằng để thực hiện Dự án Mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua các

huyện Phong Điền, thị xã Hương Trà, thị xã Hương Thủy và huyện Phú Lộc

do quy định không thống nhất về thời điểm công bố, cắm mốc hành lang an

toàn Quốc lộ 1A.

- Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong một thời gian

dài chưa thực hiện tốt gây ảnh hưởng đến tiến độ thẩm định điều kiện bồi

57

thường về đất. Mặc dù tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế tính đến nay đã đạt khoảng 98% (nguồn số liệu báo

cáo năm 2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường). Tuy nhiên, quá trình lập hồ

sơ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây có nhiều sai sót, bất cập

cộng với việc lưu trữ hồ sơ không tốt nên trong quá trình thẩm định điều kiện

bồi thường về đất, cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường phát hiện nhiều

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sai điều kiện, sai diện tích, ranh

giới... nên phải yêu cầu cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra lại để đề xuất thu

hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng đến tiến độ lập

phương án bồi thường. Điển hình trong tình trạng này là các dự án dọc các

tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, những khu vực đông dân cư...

- Một số dự án do trục trặc trong khâu bố trí vốn như dự án Xây dựng

hồ chứa nước Tả Trạch tại thị xã Hương Thủy, dự án đường Cứu hộ, cứu nạn

tại huyện Phong Điền... kéo dài nhiều năm nên phải thay đổi phương án bồi

thường về đất do có thay đổi trong chính sách bồi thường đất đai qua nhiều

thời kỳ gây bức xúc trong nhân dân và khó khăn cho các cơ quan, tổ chức làm

nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

- Hiện tại theo Bảng giá đất do UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành

kèm theo Quyết định 75/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 thì trong cùng

một khu vực, vị trí giá các loại đất nông nghiệp có sự chênh lệch rất lớn. Nếu

khi thu hồi đất, áp dụng thêm hệ số điều chỉnh và cộng các khoản bồi thường,

hỗ trợ thì càng làm gia tăng sự chênh lệch. Mặt khác, việc xác định loại đất

đối với đất không có giấy tờ để bồi thường vẫn còn nhiều bất cập. Điển hình

của bất cập này là các dự án có thu hồi nhiều đất nông nghiệp như Khu công

nghiệp Phong Điền, Đường Cao tốc Cam Lộ- Túy Loan (đoạn qua hai huyện

Phú Lộc, Nam Đông)...

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

58

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác thực hiện bồi thường về đất

khi giải phóng mặt bằng ở nhiều dự án chưa quyết liệt, chưa nhất quán. Trong

thời gian dài (đến trước năm 2015) việc giải phóng mặt bằng các dự án tại

tỉnh Thừa Thiên Huế chủ yếu giao cho các cơ quan, tổ chức của ngành quản

lý đất đai, tài chính và chủ đầu tư, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy và

chính quyền còn chưa phát huy.

+ Do công tác quản lý đất đai của chính quyền các cấp không tốt, để

xảy ra tình trạng lấn chiếm, giao đất sai thẩm quyền đến khi thẩm định không

đủ điều kiện bồi thường nên các hộ dân không chấp hành, nếu hỗ trợ thì Nhà

nước không đủ kinh phí dẫn đến kéo dài công tác giải phóng mặt bằng.

+ Do một số công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước và ở tổ chức

làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa thực hiện nghiêm túc quy

trình, thủ tục trong lập dự án, bố trí vốn giải phóng mặt bằng, thẩm định điều

kiện bồi thường về đất... dẫn đến những sai sót, vi phạm.

- Nguyên nhân khách quan:

+ Do pháp luật đất đai nói chung và các quy định pháp luật về thu hồi,

bồi thường về đất nói riêng thường xuyên thay đổi và còn nhiều bất cập, nhất

là các quy định về điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quy định

hạn mức giao đất ở, quy định nghĩa vụ tài chính về đất...

+ Do quá trình lịch sử quản lý đất đai trước đây có nhiều vấn đề bất cập

(nhất là sai phạm trong giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất),

thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai trong một thời gian dài

không được xử lý dứt điểm (điển hình là Dự án Làng Đại học Huế ở thành

phố Huế) cộng với tình trạng lưu trữ hồ sơ (chủ yếu dạng giấy) không thực

59

hiện tốt gây khó khăn rất lớn cho quá trình xác định nguồn gốc, thời điểm sử

dụng, điều kiện bồi thường.

+ Kết quả áp dụng pháp luật đất đai để thực hiện việc bồi thường về đất

phát sinh hiện tượng tiêu cực là nếu người nào chấp hành tốt pháp luật đất đai

trong quá khứ thì sẽ thiệt thòi khi bồi thường so với người không chấp hành

tốt dẫn đến so bì, khiếu kiện. Ví dụ, nếu 01 hộ gia đình trước ngày 15 tháng

10 năm 1993 có đơn xin giao đất tại vùng nông thôn của tỉnh Thừa Thiên Huế thì được giao 200m2 đất ở (hạn mức giao đất ở tại thời kỳ này trên địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế) và nếu hộ này chấp hành tốt thì họ nộp tiền và sau

đó được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, bị thu hồi đất hộ này được bồi thường 200m2 đất ở. Ngược lại, nếu có một hộ gia đình lấn

chiếm đất công cũng tại địa bàn nông thôn trước năm 1993 và đến nay vẫn

chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì khi cùng bị thu hồi họ sẽ được bồi thường 400m2 đất ở cộng với nếu trong hộ gia đình có từ nhân khẩu thứ 5 trở lên họ được bồi thường thêm 100m2 đất ở (nếu diện tích thửa

đất bị thu hồi còn diện tích).

2.2.2.2. Thực hiện chính sách bồi thường tài sản gắn liền với đất

Tính từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016, các cơ quan có thẩm

quyền trên địa bàn toàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã phê duyệt bồi thường đối với

tài sản trên đất bị thu hồi là 10.850,86 tỷ đồng, trong đó số tiền bồi thường đối

với nhà ở và công trình xây dựng là 7.594,98 tỷ đồng, bồi thường tài sản khác

là 892,63 tỷ đồng (Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên

Huế, 2016).

Việc bồi thường bằng cách bán nhà ở tái định cư hầu như không thực

hiện và cơ quan nhà nước cũng không có thống kê báo cáo cụ thể.

*) Về mặt tích cực

60

Sau khi có Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế

đã xây dựng và ban hành các quyết định số 67/2015/QĐ-UBND và số

68/2015/QĐ-UBND để quy định đơn giá bồi thường các loại tài sản trên đất

và được triển khai áp dụng trên thực tế. Việc bồi thường đối với nhà ở riêng lẻ

của người dân cơ bản đáp ứng với nguyện vọng của người thu hồi đất. Công

tác kiểm đếm được tổ chức thực hiện công khai, có sự phối hợp tốt giữa người

bị thu hồi, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, chính quyền địa phương và có

sự giám sát của các đoàn thể chính trị ở cơ sở nên giảm tình trạng khiếu kiện

về kết quả đo đếm, xác định giá trị thiệt hại. Tác giả đã khảo sát 102 hộ dân bị

ảnh hưởng bởi dự án Mở rộng Quốc lộ 1A (đoạn qua huyện Phong Điền có

885 hộ bị ảnh hưởng) cho thấy có đến 95 hộ dân (tỷ lệ 93,1%) cho rằng việc

đo đếm tài sản trên đất là công khai, chính xác và có sự giám sát của chính

quyền địa phương, đoàn thể nơi cư trú, các hộ còn lại cho rằng có sự không

công bằng trong đo đếm với hộ khác bị ảnh hưởng tương tự, không có hộ nào

cho rằng việc đo đếm bị thiếu hoặc không rõ ràng.

Việc bồi thường đối với nhà ở cấp IV, công trình xây dựng khác, bồi

thường chi phí di dời công trình công cộng cơ bản đáp ứng đủ chi phí cho

việc xây dựng mới, di dời đến nơi mới. Đối với việc bồi thường các công

trình lắp ghép, nhà gỗ... còn cao hơn chi phí xây lắp mới.

Đối với việc bồi thường tài sản là cây trồng, vật nuôi (là thủy sản) cơ

bản đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, đảm bảo thu nhập cho người bị thu hồi đất.

Việc xây dựng các đơn giá cây trồng, vật nuôi theo hướng: đối với cây hàng

năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch tính

theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính

tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất; đối với cây lâu năm

thì mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa

phương tại thời điểm thu hồi đất; cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di

61

chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại

thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại; đối với cây rừng trồng bằng nguồn

vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực

tế của vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc,

bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.

Khi xây dựng đơn giá bồi thường cây trồng lâu năm, cây lâm nghiệp,

vật nuôi là thủy sản thì giá trị bồi thường không bao gồm giá trị tận thu cây

cối là cơ bản sát với tình hình thực tế và giảm gánh nặng rất nhiều cho chi phí

bồi thường của Nhà nước.

Việc triển khai kiểm đếm, đo đạc xác định sản lượng cây trồng, vật

nuôi làm cơ sở xác định thiệt hại để bồi thường hầu hết đều có sự tham gia

của các cơ quan chuyên ngành nông nghiệp, thủy sản nên đảm bảo sự công

bằng, thuyết phục được người bị ảnh hưởng.

*) Về hạn chế, tồn tại

- Hiện tại, theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 Luật Đất đai thì khi Nhà

nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại

về tài sản thì được bồi thường. Trong các văn bản hướng dẫn của Chính phủ,

các bộ và UBND tỉnh Thừa Thiên Huế không hướng dẫn cụ thể thế nào là chủ

sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất và ai là cơ quan xác định tài sản bị

ảnh hưởng là tài sản hợp pháp. Trường hợp pháp luật quy định phải đăng ký

tài sản gắn liền với đất nhưng chủ sở hữu không đăng ký thì có được công

nhận và có được bồi thường khi thu hồi đất hay không đều chưa có hướng dẫn

cụ thể gây khó khăn cho cơ quan làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ. Trên thực

tế triển khai thực hiện ở các địa phương thì hầu hết các trường hợp được bồi

thường về đất đều được bồi thường tài sản gắn liền với đất, chỉ có các trường

62

hợp tạo dựng tài sản sau khi có thông báo thu hồi đất mà bị lập biên bản vi

phạm như xây dựng nhà, công trình mới, trồng cây để chờ bồi thường... mới

không được bồi thường. Do quy định không chặt chẽ nên trong rất nhiều dự

án trên địa bàn, người dân tạo lập ra tài sản khi mới có thông tin về quy

hoạch, chủ trương đầu tư dự án để đón nhận bồi thường. Điển hình như các

dự án Khu Công nghiệp Phong Điền, dự án Khu kinh tế Chân Mây – Lăng

Cô, dự án Mở rộng Quốc lộ 1A, dự án Làng Đại học Huế...

- Đơn giá về nhà ở và công trình xây dựng phục vụ sinh hoạt riêng lẻ

chưa sát với giá thị trường. Về nguyên tắc, đối với nhà ở và công trình sinh

hoạt của hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo

giá trị xây dựng mới. Đối với nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt cũ,

xuống cấp khi được bồi thường theo giá xây mới rất được người bị thu hồi

ủng hộ. Ngược lại, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt mới xây dựng

khi được bồi thường không đủ để tạo dựng lại nhà, công trình mới nên có sự

so bì, ít đồng thuận khi công khai phương án bồi thường. Các đơn giá xây

dựng này thường được ban hành một lần và sử dụng cho nhiều năm nên càng

về lâu càng lạc hậu và không còn sát với giá thị trường nếu không điều chỉnh

kịp thời.

- Cơ cấu đơn giá nhà ở trong Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND ngày

22 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh còn rất chung chung, khó áp dụng

trong thực tế. Qua quá trình triển khai thực hiện, có nhiều loại nhà ở, công

trình xây dựng không có đơn giá tương ứng để áp dụng. Điều này gây ra sự

tùy tiện trong việc xây dựng phương án bồi thường của người làm công tác

bồi thường, hỗ trợ. Ví dụ điển hình là vụ khiếu kiện kéo dài tại dự án Đường

vào khu quy hoạch Bàu Vá (thành phố Huế) của hai hộ dân liên quan đến lựa

chọn đơn giá nhà ở để bồi thường do có thay đổi đơn giá cũ và mới.

63

- Việc đo đạc, xác định diện tích nhà ở, công trình xây dựng có một số

địa phương thực hiện chưa nghiêm túc, thiếu sự giám sát của chính quyền cấp

xã và đoàn thể địa phương dẫn đến thắc mắc, khiếu kiện phải điều chỉnh

nhiều lần như dự án Mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Đối với bồi thường cây trồng, việc triển khai thực hiện còn nhiều bất

cập, một số trường hợp tùy tiện. Theo bảng đơn giá kèm theo Quyết định số

67/2015/QĐ-UBND ngày 22 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh thì chưa có

quy định phân biệt cụ thể khi nào được áp giá theo diện tích, khi nào được áp

giá theo số cây. Về nguyên tắc khi xây dựng đơn giá theo diện tích phải bằng

đơn giá tính theo số cây nếu việc trồng cây theo đúng quy chuẩn của ngành

nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế công tác kiểm đếm cho thấy đa số người

nông dân trồng trọt không tuân theo tiêu chuẩn của ngành mà theo tập quán

địa phương. Mặt khác, rất nhiều loại cây hiện nay chưa có quy chuẩn về trồng

trọt của ngành nông nghiệp nên việc áp dụng rất khó. Liên quan đến việc áp

dụng đơn giá cây trồng để bồi thường theo diện tích hay theo số lượng cây đã

xảy ra nhiều vụ khiếu kiện phức tạp như ở các dự án Lòng hồ thủy điện

Hương Điền, dự án Nhà máy Xi măng Đồng Lâm, Khu công nghiệp Phong

Điền...

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

+ Do công tác khảo sát, xây dựng chính sách bồi thường, bảng giá, đơn

giá bồi thường tài sản trên đất của các cơ quan nhà nước chưa thực hiện tốt

dẫn đến những bất cập trong việc thực hiện chính sách bồi thường tài sản gắn

liền với đất vẫn tiếp diễn và chậm được khắc phục.

+ Do trình độ, năng lực pháp lý, năng lực thực tiễn và cả phẩm chất của

một số công chức, viên chức làm công tác đo đếm, áp giá bồi thường... về tài

64

sản gắn liền với đất chưa đáp ứng yêu cầu công tác này vì đội ngũ này đa số

là nhận viên hợp đồng và rất nhiều người không có chuyên môn liên quan đến

công việc phải làm hàng ngày.

- Nguyên nhân khách quan

+ Do tính đa dạng, phức tạp và thường xuyên biến động về chủng loại, giá

trị của tài sản trên đất như nhà ở, công trình xây dựng, các loại cây cối, vật nuôi

nên khó có một bảng đơn giá cụ thể, chính xác và phù hợp theo từng thời kỳ.

+ Do chưa có một cơ chế để cập nhật giá cả thị trường của các tài sản trên

đất theo từng thời kỳ nhằm chủ động điều chỉnh bảng giá tài sản cho hợp lý.

+ Do đa số tài sản gắn liền với đất hiện nay tại địa phương chưa được

đăng ký theo quy định nên việc xác định nguồn gốc, giá trị và tính hợp pháp

của tài sản gặp khó khăn. Tình trạng xây dựng nhà ở, công trình tại địa

phương không có phép hoặc sai phép, lấn chiếm đất đai làm nhà ở, trồng cây

diễn ra khá phổ biến trong thời gian dài; một số người dân có thông tin về

việc giải phóng mặt bằng đã chủ động tạo dựng tài sản để đón bồi thường, hỗ

trợ dẫn đến việc xác định điều kiện bồi thường tài sản gắn liền với đất rất khó

khăn và thường phải kéo dài.

2.2.3. Thực hiện chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

2.2.3.1. Thực hiện chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, ổn

định sản xuất

Tính từ ngày 01/7/2014 đến 30/6/2016, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế đã tiến hành hỗ trợ ổn định đời sống cho 6.712 lượt đối tượng với giá trị

219,34 tỷ đồng và hỗ trợ ổn định sản xuất cho 6.389 lượt đối tượng với giá trị

238,98 tỷ đồng (trong đó đa số các hộ hưởng được cả hai chế độ hỗ trợ).

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

65

*) Về mặt tích cực

Nhìn chung kể từ khi triển khai thực hiện Luật Đất đai năm 2013 đến

nay, việc thực hiện chế độ hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất cho các

đối tượng bị ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất được triển khai khá tốt, đáp

ứng được cơ bản nguyện vọng của người dân nhằm ổn định đời sống, ổn định

sản xuất khi họ bị mất đi tư liệu sản xuất chủ yếu.

Công việc công khai, tuyên truyền, giải thích các chế độ hỗ trợ; phối

hợp giữa UBND cấp xã, Văn phòng Đăng ký đất đai và Trung tâm Phát triển

quỹ đất cấp huyện trong việc xác định diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng

hợp pháp nhằm tính tỷ lệ đất bị thu hồi thực hiện dự án phục vụ cho việc xây

dựng phương án hỗ trợ ổn định đời sống được thực hiện công khai và cơ bản

đúng trình tự, thủ tục quy định. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

chế độ hỗ trợ ổn định đời sống tại các dự án trên địa bàn cho thấy đa số thực

hiện đảm bảo quy định.

Việc thực hiện chế độ hỗ trợ ổn định sản xuất đối với người bị thu hồi

đất nông nghiệp, đất nhận khoán của các nông lâm trường quốc doanh, các

công ty nông, lâm nghiệp đa số thực hiện bằng chi trả tiền mặt kịp thời cho

các đối tượng bị thu hồi đất. Việc hỗ trợ ổn định sản xuất đối với tổ chức kinh

tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài bị thu hồi đất thực hiện khá nghiêm túc, kịp thời đảm bảo điều

kiện để họ tái ổn định sản xuất trước khi bàn giao đất bị thu hồi cho chủ đầu

tư dự án.

Sự phối hợp giữa Trung tâm Phát triển quỹ đất với các cơ quan, đơn vị

như Chi cục thuế địa phương, cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường,

UBND cấp xã nơi có đất thu hồi, nơi người bị thu hồi đất cư trú, các đơn vị

giao khoán đất nông nghiệp, lâm nghiệp, người sử dụng lao động để xác định

66

và thẩm định thu nhập sau thuế, thời gian ngưng sản xuất, kinh doanh, thông

tin người lao động làm thuê, hợp đồng giao khoán đất đai... bước đầu thực

hiện khá tốt, đảm bảo có thông tin chính xác để xây dựng và phê duyệt

phương án hỗ trợ ổn định sản xuất đúng đối tượng, đúng thời hạn.

Việc xác định giá gạo để tính tiền hỗ trợ ổn định đời sống cho người bị

thu hồi đất, mặc dù chưa có quy định cụ thể nhưng UBND cấp huyện trên địa

bàn đều căn cứ vào giá gạo trung bình của thị trường hàng tháng do cơ quan

Tài chính – Kế hoạch cung cấp để tính giá trị hỗ trợ và việc hỗ trợ thường

được chi trả một lần.

*) Về hạn chế, tồn tại

- Theo Điều 5 của Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT khi xác định tỷ lệ

diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi (30% đến 70%) để tính hỗ trợ ổn định đời

sống trên thực tế gặp nhiều vướng mắc. Cụ thể tại Khoản 1 Điều 5 của Thông

tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định: “Diện tích đất nông nghiệp thu hồi để

tính hỗ trợ ổn định đời sống quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 19 của Nghị

định số 47/2014/NĐ-CP được xác định theo từng quyết định thu hồi đất của

UBND cấp có thẩm quyền, không cộng dồn diện tích đất nông nghiệp đã thu

hồi của các quyết định thu hồi đất trước đó” [4]. Trong thực tế có nhiều dự án

do áp lực bàn giao mặt bằng và vướng mắc trong xác định điều kiện bồi

thường, hỗ trợ nên cơ quan thu hồi đất phải chia nhỏ ra từng giai đoạn riêng

để thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ. Do đó, có nhiều hộ

gia đình được tính hỗ trợ ổn định đời sống nhiều lần trong cùng một dự án

nếu có đất bị thu hồi thuộc nhiều giai đoạn khác nhau dẫn đến so bì, kiến

nghị, khiếu nại của các hộ khác. Tình trạng này làm cho cơ quan thu hồi đất

lúng túng trong tổ chức thực hiện và phải giải thích nhiều lần làm ảnh hưởng

đến tiến độ bàn giao mặt bằng mà vẫn không thuyết phục được người bị thu

hồi đất vì họ chỉ so sánh tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ trên cùng một đơn vị

67

diện tích đất bị thu hồi, không quan tâm đến việc Nhà nước tính toán theo cơ

sở quy định nào.

- Việc xác định tổng diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng để tính tỷ

lệ đất bị thu hồi phục vụ xây dựng phương án hỗ trợ ổn định đời sống tại một

số dự án còn khó khăn kéo dài do cần có thời gian để cơ quan quản lý đất đai,

UBND cấp xã xác định đất đang sử dụng là đất khai hoang hay đất lấn chiếm,

hộ gia đình bị thu hồi đất có phải là hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp hay

không (nhất là trường hợp trong hộ gia đình có một số nhân khẩu trực tiếp sản

xuất nông nghiệp, một số nhân khẩu sản xuất phi nông nghiệp). Thực tế, khi

thực hiện các dự án có thu hồi diện tích đất nông nghiệp lớn, việc xác định

các điều kiện trên rất phức tạp và có nhiều sai sót do quá trình quản lý đất đai,

nhân hộ khẩu không tốt cộng với quy định tiêu chí “hộ trực tiếp sản xuất nông

nghiệp” không rõ ràng. Ví dụ như các dự án: Khu công nghiệp Phong Điền,

Nhà máy Xi măng Đồng Lâm, Mở rộng Quốc lộ 1A, Cao tốc Cam Lộ- Túy

Loan (đoạn La Sơn- Tuý Loan qua các huyện Phú Lộc, Nam Đông)...

- Tại Khoản 3 Điều 5 của Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định

nếu hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp dưới 30% diện tích đang

sử dụng nhưng có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất thì tùy theo trường hợp

mà UBND cấp tỉnh quyết định hỗ trợ khác để ổn định đời sống. Tuy nhiên,

qua tìm hiểu thì kể từ ngày 01/7/2014 đến nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế chưa áp dụng quy định này để hỗ trợ khác cho bất cứ ai.

- Việc hỗ trợ ổn định sản xuất bằng giống cây trồng, giống vật nuôi, các

dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật

trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch

vụ công thương nghiệp có thực hiện nhưng chưa thống nhất, chưa đồng đều

giữa các địa phương. Đến nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế chưa có

thống kê báo cáo liên quan đến hình thức hỗ trợ này cho người bị thu hồi đất.

68

- Việc hỗ trợ chế độ trợ cấp ngừng việc theo quy định của pháp luật về

lao động cho người lao động làm việc theo hợp đồng trong chức kinh tế, hộ

gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài khi Nhà nước thu hồi đất chưa được thực hiện trên địa bàn mặc dù đã

có quy định tại Khoản 6 Điều 19 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP và Khoản

6 Điều 19 của Quy định kèm theo Quyết định 46/2014/QĐ-UBND ngày

05/8/2014 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế.

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

+ Do trình độ năng lực cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính

sách của tỉnh Thừa Thiên Huế chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác cụ thể

hóa chế độ, chính sách cấp trên vào tình hình thực tiễn địa phương. Ví dụ như

hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về chế độ hỗ trợ ổn định sản xuất bằng

giống cây trồng, giống vật nuôi, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch

vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ

đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp để áp dụng thống

nhất trên địa bàn toàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

+ Đội ngũ công chức, viên chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ chưa

nắm hết các quy định pháp luật liên quan nên một số chế độ, chính sách hỗ trợ

đã được quy định trong các văn bản pháp luật nhưng chậm triển khai áp dụng

trong thực tế như: chế độ hỗ trợ ngưng việc của người lao động theo hợp đồng,

hỗ trợ khác khi thu hồi dưới 30% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng.

- Nguyên nhân khách quan

+ Công tác xác định các thông tin, điều kiện để thực hiện các chế độ hỗ

trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất rất phức tạp, cần sự phối hợp nhiều cơ

quan, tổ chức và nhiều thời gian. Tuy nhiên, do áp lực thời gian phải phê

69

duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi trả để bàn giao mặt bằng sớm nên

ảnh hưởng đến tính đầy đủ của các chế độ, chính sách trong phương án hỗ trợ

dẫn đến thiệt thòi quyền lợi cho người bị thu hồi đất.

+ Một số quy định liên quan đến các khoản hỗ trợ ổn định đời sống, ổn

định sản xuất còn chung chung khó áp dụng và khó khả thi nên công chức,

viên chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ bỏ qua, không áp dụng và người bị

thu hồi đất cũng không kiến nghị, khiếu nại do không nắm kỹ quy định của

Nhà nước.

2.2.3.2. Về thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển

đổi nghề và tìm kiếm việc làm

Tính từ ngày 01/7/2014 đến 30/6/2016, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế đã tiến hành hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho

4.641 lượt đối tượng với giá trị 431,21 tỷ đồng. Địa phương thực hiện hỗ trợ

nhiều nhất là thành phố Huế với 218,60 tỷ đồng; địa phương hỗ trợ ít nhất là

huyện Phú Vang với 1,40 tỷ đồng.

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

*) Về mặt tích cực

- Việc thực hiện chế độ hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm

việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu

hồi đất nông nghiệp dễ xác đối tượng, điều kiện, được thực hiện bằng tiền và

chi trả ngay sau khi phương án được phê duyệt, giá trị hỗ trợ lớn (nhất là khi

thu hồi đất chuyên trồng lúa nước) nên được người bị thu hồi đất cơ bản đồng

tình, ít khiếu nại, kiến nghị.

- Chế độ hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh

doanh đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch

vụ mà nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh dịch vụ bước đầu đã

70

triển khai thực hiện và đem lại hiệu quả tích cực được người bị thu hồi đất

ủng hộ, nhất là các dự án mới thu hồi đất những năm gần đây như Mở rộng

Quốc lộ 1A, Mở rộng đường vào khu tái định cư Bàu Vá...

*) Về hạn chế, tồn tại

- Trong quá trình lập và tổ chức thực hiện phương án hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người bị thu hồi đất nông nghiệp

còn nhiều vướng mắc, bất cập do định mức hỗ trợ tính theo giá đất bị thu hồi

dẫn đến có sự chênh lệch lớn đối với những người bị thu hồi diện tích đất như

nhau nhưng mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, hai hộ cùng bị thu hồi 01 ha

đất, nhưng hộ bị thu hồi đất lúa được hỗ trợ 03 lần giá đất bị thu hồi, trong khi

đó người khác bị thu hồi 01 ha đất trồng cây hàng năm khác (đất màu) thì chỉ

được hỗ trợ 02 lần giá đất trồng cây hàng năm khác nhưng theo quy định Luật

Đất đai hiện hành việc chuyển mục đích giữa hai loại đất này không cần phải

xin phép. Do đó, một số trường hợp tự chuyển mục đích sử dụng đất để trục

lợi hỗ trợ.

- Công tác phối hợp giữa UBND cấp huyện với Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội để lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi

nghề và tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi chưa thực hiện tốt, nhất là

khâu lấy ý kiến người bị thu hồi đất dẫn đến việc tổ chức thực hiện mang tính

áp đặt, hiệu quả không cao.

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

Ngoài các nguyên nhân do công tác lãnh, chỉ đạo của các cấp chính

quyền, trình độ năng lực của cán bộ, công chức nêu trên còn có nguyên nhân

nội tại khác là do tính chủ quan của cơ quan làm thủ tục thu hồi đất, sự phối

hợp không tốt giữa cơ quan thu hồi đất là UBND cấp huyện và Sở Lao động -

71

Thương binh và Xã hội để lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi theo đúng

trình tự, thủ tục, đảm bảo quyền lợi cơ bản của người bị thu hồi đất.

- Nguyên nhân khách quan

+ Do quy định chế độ hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi đất

nông nghiệp tính theo số lần giá đất bị thu hồi có sự chênh lệch quá lớn giữa

các loại đất, tạo ra sự so bì và đối phó của người bị thu hồi đất nên khó có sự

đồng thuận của những người cùng bị thu hồi đất trong cùng dự án lớn thu hồi

nhiều loại đất nông nghiệp khác nhau.

+ Quy định việc lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển

đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi còn quá phức tạp, qua

nhiều khâu, trong khi yêu cầu của công tác giải phóng mặt bằng của các dự án

thường rất cấp bách, mặt khác người bị thu hồi đất thường quan tâm đến giá

trị được nhận trước mắt mà ít quan tâm đến lợi ích của việc được đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm lâu dài nên cơ quan thu hồi đất thường

bỏ qua chế độ này mà không bị khiếu nại, kiến nghị.

2.2.3.3. Về thực hiện chính sách hỗ trợ tái định cư

Tính từ ngày 01/7/2014 đến 30/6/2016, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế đã tiến hành hỗ trợ tái định cư cho 1.081 lượt đối tượng với giá trị 553,00

tỷ đồng. Địa phương thực hiện hỗ trợ nhiều nhất là thành phố Huế với 450

lượt đối tượng tương ứng 544,36 tỷ đồng; địa phương hỗ trợ ít nhất là huyện

Phong Điền với 05 lượt đối tượng với giá trị 0,015 tỷ đồng.

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

*) Về mặt tích cực

72

Quá trình triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ tái định cư trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế, các cơ quan, đơn vị làm công tác giải phóng mặt bằng

đã cơ bản tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật liên quan, đảm bảo hộ gia

đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài bị thu hồi đất ở nếu đủ

điều kiện đều được hỗ trợ tái định cư theo quy định. Qua thống kê các đơn thư

khiếu nại, kiến nghị cho thấy hầu như không có nội dung đơn đề cập đến việc

các cơ quan, đơn vị làm công tác giải phóng mặt bằng xác định và thẩm định

sai dẫn đến bỏ sót đối tượng được hỗ trợ hoặc hỗ trợ sai đối tượng.

*) Về hạn chế, tồn tại

Do quy định các suất tái định cư bằng đất và suất tái định cư bằng tiền

trong cùng một loại đơn vị hành chính chưa tương đương với nhau và chưa

phù hợp với giá đất ở trung bình trong loại đơn vị hành chính đó nên việc áp

dụng trên thực tế gặp một số khó khăn như: ở vùng đô thị thì người thuộc diện

hỗ trợ chỉ yêu cầu được nhận đất ở tái định cư thay vì tự lo chỗ ở và nhận

khoản hỗ trợ tái định cư, gây áp lực cho Nhà nước phải đầu tư xây dựng các

khu tái định cư trong khi quỹ đất ở đô thị ít, ngân sách hạn hẹp.

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

Ngoài các nguyên nhân chủ quan tương tự như các chế độ hỗ trợ nêu

trên, còn có nguyên nhân do công tác khảo sát giá đất ở ngoài thị trường chưa

tốt và không có cơ chế cập nhật giá đất thường xuyên để điều chỉnh quy định

về suất tái định cư tối thiểu cho phù hợp với từng thời kỳ, từng đặc điểm của

dự án cần giải phóng mặt bằng.

- Nguyên nhân khách quan

73

+ Do thị trường bất động sản ở tỉnh Thừa Thiên Huế chưa sôi động nên

có ít cơ hội cho người bị thu hồi đất tự lo chỗ ở mới mà không phải vào các

khu tái định cư.

+ Quỹ đất ở để bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất và ngân sách

Tỉnh dành cho các khoản hỗ trợ tái định cư còn hạn hẹp dẫn đến quy định suất

hỗ trợ cho người tự lo chỗ ở mới còn thấp chưa khuyến khích người bị thu hồi

đất chủ động tạo dựng nơi ở mới.

2.2.3.4. Về thực hiện các chính sách hỗ trợ khác

Từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016, UBND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Thừa Thiên Huế đã thực hiện các chính sách hỗ trợ khác khi Nhà nước

thu hồi đất tổng cộng là 231,13 tỷ đồng bao gồm hỗ trợ khi thu hồi đất công

ích, hỗ trợ cho người có công cách mạng, hỗ trợ cho người thuộc diện bảo trợ

xã hội, hỗ trợ đất vườn ao...

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

*) Về mặt tích cực

- Công tác hỗ trợ cho các hộ gia đình có người có công với cách mạng

phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi đất được thực hiện tương đối đầy đủ, kịp

thời, đều tính toán, chi trả bằng tiền mặt. Ngoài ra, hộ gia đình có người có

công với cách mạng khi bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở còn được ưu

tiên bố trí tại vị trí tái định cư thuận lợi, được các tổ chức, đoàn thể hỗ trợ

thêm kinh phí để xây dựng nhà mới, ổn định sản xuất và đời sống về mọi mặt.

Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý về lao động, thương binh và xã hội với tổ

chức làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng để xác định đối tượng, xác nhận hồ

sơ được thực hiện khá tốt và chưa có khiếu kiện liên quan.

- Việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất phá dỡ công trình và bàn giao

mặt bằng đúng tiến độ cho tổ chức làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng thực

74

hiện khá tốt. Mức hỗ trợ như quy định tại Khoản 2 Điều 24 của Quy định kèm

theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 05/8/2014 của UBND tỉnh Thừa

Thiên Huế là hợp lý, đã khuyến khích được người dân hưởng ứng bàn giao

mặt bằng sớm nhất để có được khoản hỗ trợ cao nhất.

*) Về hạn chế, tồn tại

- Trong thực tế quá trình thực hiện phương án di dời, tái định cư đối với

các dự án chỉnh trang khu dân cư đô thị, chỉnh trang khu dân cư nông thôn đã

gặp phải bất cập như nơi bố trí tái định cư của người này là nơi có nhà đất bị

thu hồi của người khác. Việc bàn giao mặt bằng của người này ảnh hưởng đến

tiến độ xây nhà mới của người khác và ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt

bằng của toàn bộ dự án. Mặt khác, việc nhiều hộ trong vùng dự án cùng thuê

nhà tạm để bàn giao mặt bằng cho dự án đúng tiến độ là rất khó khăn và chi

phí khá lớn. Do đó, việc thực hiện chính sách hỗ trợ bàn giao mặt bằng đúng

tiến độ khó thực hiện, gây ra sự so bì vì mỗi hộ gia đình đều có lý do khách

quan riêng.

- Việc thực hiện chế độ hỗ trợ đối với đất vườn, ao gắn liền với nhà ở

còn nhiều bất cập và không được đa số người bị thu hồi đất với diện tích lớn

đồng tình với lý do: Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 5 của Nghị định

số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử

dụng đất thì khi chuyển mục đích đất vườn, ao trong cùng thửa đất có đất ở,

nhà ở (hoặc có nguồn gốc được tách ra từ thửa đất có đất ở, nhà ở) thì chỉ phải

nộp 50% phần chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp đang sử dụng

(không phân biệt trong hay ngoài hạn mức công nhận đất ở). Nhưng đất vườn,

ao bị thu hồi thì ngoài khoản bồi thường theo giá đất nông nghiệp chỉ được hỗ

trợ 50% giá đất ở liền kề trong một (01) lần hạn mức công nhận đất ở.

75

- Việc thực hiện chế độ hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất, hỗ

trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân

trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà

không đủ điều kiện được bồi thường còn nhiều bất cập, thực hiện không thống

nhất giữa các địa phương và có nhiều khiếu kiện, thắc mắc. Lý do chủ yếu là

trong Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND không giới hạn những trường hợp sử

dụng đất nông nghiệp nào không đủ điều kiện bồi thường thì được hỗ trợ. Do

đó, người dân thường nghe thông tin quy hoạch, dự án là đến để lấn, chiếm

đất nhằm trục lợi các khoản hỗ trợ khi bị thu hồi, các khoản hỗ trợ này thường

rất lớn so với giá trị bồi thường về đất. Mặt khác, công tác quản lý đất đai của

địa phương còn lỏng lẽo nhất là ở vùng sâu, vùng xa nên dẫn tạo điều kiện, kẻ

hở và khuyến khích cho người dân vi phạm pháp luật đất đai.

- Việc thực hiện các chế độ hỗ trợ khác ngoài các chế độ trên (còn gọi

là hỗ trợ đặc biệt) để ổn định, đời sống, ổn định sản xuất cho người bị thu hồi

đất rất ít khi được thực hiện vì nguồn lực địa phương hạn chế và cơ chế xin

cho, đề nghị, phải có sự tham gia nhiều cơ quan, ban ngành nên khó thực hiện

trên thực tế.

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

+ Do cơ quan tham mưu xây dựng chính sách chưa nghiên cứu kỹ các

chế độ, chính sách có liên quan như chính sách thu tiền sử dụng đất; chủ

trương và quy định xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai; thực tiễn

quá trình thực hiện các dự án, tình hình đời sống địa phương nên đã tham

mưu UBND tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng một số chính sách hỗ trợ khác

chưa phù hợp như đã nêu trên.

76

+ Công chức, viên chức làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng

chưa đề xuất vận dụng các chế độ hỗ trợ một cách hợp lý, phù hợp với tình

hình địa phương như việc thực hiện chính sách hỗ trợ bàn giao mặt bằng sớm,

hỗ trợ đất nông nghiệp không đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ đặc biệt...

- Nguyên nhân khách quan

+ Do thực tế quá trình quản lý đất đai trước đây còn nhiều bất cập, yếu

kém để xảy ra tình trạng lấn chiếm đất nông nghiệp nên khó khăn trong việc

phân loại để thực hiện chế độ hỗ trợ nếu không được bồi thường.

+ Do thực tế đời sống dân cư tại các khu vực giải phóng mặt bằng có

mật độ dân số lớn có nhiều yếu tố phức tạp và yêu cầu của công tác giải

phóng mặt bằng là phải tạo điều kiện tốt nhất để người bị thu hồi đất ổn định

cuộc sống mới nên việc xác định đối tượng, thực hiện chính sách hỗ trợ di dời

sớm theo yêu cầu tiến độ còn khó khăn và gặp phải sự thắc mắc, so bì giữa

những người cùng bị thu hồi đất trong cùng dự án và so sánh với dự án khác

tương tự.

2.2.4. Thực hiện chính sách bố trí tái định cư

Tính từ ngày 01/7/2014 đến 30/6/2016, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế đã tiến hành bố trí tái định cư cho 1.081 hộ gia đình, cá nhân với quỹ đất

ở là 49,30 ha. Địa phương thực hiện bố trí tái định cư nhiều đối tượng nhất là

thành phố Huế với 450 hộ với quỹ đất tái định cư gần 26 ha (gồm đất ở, đất

giao thông và đất hạ tầng cơ bản khác). Huyện Phú Lộc có diện tích các khu

tái định cư được xây dựng lớn với 10,19 ha nhưng mới chỉ bố trí tái định cư được 291 hộ gia đình. Diện tích đất ở trung bình bố trí tái định cư là 274m2/hộ

gia đình, mật độ đất ở tại các khu tái định cư đạt 60%, còn lại 40% đất khác.

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016)

*) Về mặt tích cực

77

Việc thực hiện chính sách bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất để

thực hiện các công trình, dự án trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế theo quy

định của Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm tiến bộ, cơ bản đáp ứng yêu

cầu, nguyện vọng của người bị thu hồi đất thể hiện ở những điểm sau:

- Các địa phương có quỹ đất ở đã đầu tư hạ tầng lớn như các thị xã

Hương Trà, Hương Thủy, huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền... đã thực

hiện tốt nguyên tắc bồi thường bằng giao đất ở mới, hạn chế bồi thường bằng

tiền mặt nên đã phần nào đã đáp ứng nguyện vọng, giảm ảnh hưởng đến đời

sống của người có đất bị thu hồi và tiết kiệm nguồn ngân sách nhà nước cho

bồi thường, hỗ trợ.

- Công tác giao đất ở cho các hộ gia đình bị thu hồi đất mà không được

bồi thường hoặc không bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở do đang ở trên

đất của người khác mà người đó bị thu hồi đất (ví dụ như con làm nhà trên đất

bố mẹ, cán bộ, công chức, viên chức, công nhân... thuê hoặc ở nhờ nhà thuộc

sở hữu nhà nước, nhà của các tổ chức, doanh nghiệp...) cũng được các cơ

quan làm công tác giải phóng mặt bằng quan tâm giải quyết, đảm bảo không

để người dân bị ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất mà không có chỗ ở.

- Công tác đầu tư xây dựng hạ tầng các khu tái định cư tập trung được

quan tâm thực hiện, cơ bản đáp ứng kịp thời được nhu cầu bố trí tại định của

các dự án cần di dời số lượng lớn nhà cửa trên địa bàn tỉnh như các dự án Mở

rộng Quốc lộ 1A, Mở rộng cửa ngõ phía Bắc thành phố Huế, Khu Công

nghiệp Phong Điền...

- Do quỹ đất tại địa phương còn nhiều, giá đất vùng nông thôn khá thấp

nên diện tích đất ở tái định cư trung bình tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế khá rộng (đô thị khoảng 100m2, nông thôn khoảng 250m2, miền núi, vùng sâu, vùng xa trên 300m2) (Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên

78

Huế, 2016). Việc phân lô đất ở tái định cư được chia làm nhiều mức diện tích

cho nhiều loại đối tượng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở và sinh

hoạt, phù hợp với điều kiện tài chính của người bị thu hồi đất.

- Các cơ quan làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng đã công khai thông

tin và phối hợp với cơ quan thuế thực hiện chế độ ghi nợ tiền sử dụng đất

trong thời hạn 05 năm cho những hộ được giao đất tái định cư mà có khó

khăn về tài chính đã tạo điều kiện tối đa cho người tái định cư sớm xây dựng

nhà ở mới, ổn định đời sống về mọi mặt.

*) Về hạn chế, tồn tại

- Tại một số dự án do bố trí vốn không hợp lý nên công tác đầu tư, xây

dựng hạ tầng thiết yếu như điện, đường, nước sạch... tại khu tái định còn

chậm, không đồng bộ dẫn đến chậm trễ và gây khó khăn cho người tái định

cư khi xây dựng nhà mới và sử dụng đất hoặc sinh hoạt tại nơi tái định cư như

dự án Đường Cứu hộ, cứu nạn Phong Điền, dự án Mở rộng Quốc lộ 1A đoạn

qua huyện Phú Lộc...

- Việc sắp xếp vị trí tái định cư tại một số dự án chưa quan tâm ưu tiên

cho các hộ có vị trí thuận lợi tại nơi có đất bị thu hồi. Một số địa phương chưa

xây dựng được nguyên tắc, phương pháp bố trí nơi ở mới để công khai, lấy ý

kiến người dân mà tự sắp xếp bố trí theo chủ quan hoặc bốc thăm may rủi dẫn

đến nhiều hộ thắc mắc, kiến nghị và không nhận đất tái định cư cũng như

không bàn giao đất bị thu hồi.

- Tại một số dự án còn có hiện tượng tách, chuyển hoặc nhập hộ khẩu

để lợi dụng chính sách giao đất ở mới cho người không được bồi thường về

đất nhằm trục lợi từ chính sách bố trí tái định cư của Nhà nước.

*) Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại

- Nguyên nhân chủ quan

79

Ngoài các nguyên nhân chủ quan như các chính sách hỗ trợ nêu trên thì

việc những tồn tại, hạn chế trong việc bố trí tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất còn có các nguyên nhân:

+ Năng lực cán bộ, công chức làm công tác kế hoạch, đầu tư chưa làm

tốt nhiệm vụ của mình, còn tình trạng xin cho dự án khi không đủ điều kiện,

nguồn lực đối ứng quy định, hoặc bố trí vốn công trình dàn trãi dẫn đến nhiều

dự án không có, chậm hoặc thiếu vốn đầu tư hạ tầng các khu tái định cư.

+ Công tác dự báo nhu cầu tái định cư khi khảo sát, lập dự án đầu tư

còn hạn chế, dẫn đến nhiều dự án phải đầu tư xây dựng khu tái định lớn

nhưng sau đó số người tái định cư ít, quỹ đất còn lại phải chuyển sang đấu

giá, giao đất hoặc làm việc khác như tại các khu tái định cư của dự án Mở

rộng Quốc lộ 1A.

- Nguyên nhân khách quan

Do các quy định pháp luật về tách, nhập, chuyển hộ khẩu thường trú

còn nhiều sơ hở dẫn đến sự đối phó, lợi dụng chính sách tái định cư để nhận

đất tái định cư với giá rẻ sau đó chuyển nhượng lại với giá cao để trục lợi, dẫn

đến việc xác định đối tượng được giao đất tái định cư rất khó khăn và có

nhiều trường hợp khiếu kiện kéo dài.

2.3. Kết luận chƣơng 2

Việc thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà nước

thu hồi đất là một công việc rất phức tạp, vì quyền sử dụng đất là tài sản đặc

biệt, khó định giá, khó quản lý. Khi thu hồi đất sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống

mọi mặt của người dân và tác động đến xã hội. Do đó, khi thực hiện công tác

này ngoài việc phải quán triệt các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, Luật Đất

đai và các văn bản hướng dẫn để quá trình thực hiện được công khai, minh

bạch, công bằng và đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

80

người bị thu hồi đất vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và nguồn

lực của địa phương.

Thời gian gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu

lực, cùng với sự thay đổi trong chính sách pháp luật đất đai, sự quan tâm vào

cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo và sự phối hợp

vận động, tuyên truyền, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa

phương, nhìn chung, tình hình thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại

tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều chuyển biến tích cực như: Hội đồng nhân dân,

UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa các quy định của các cơ

quan nhà nước Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Các

nguyên tắc bồi thường về đất, tài sản trên đất được tuân thủ nghiêm túc. Các

chính sách hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất được thực hiện công khai, kịp

thời và cơ bản đáp ứng nguyện vọng của người bị thu hồi đất. Việc xét điều

kiện tái định cư, xây dựng khu tái định cư và bố trí tái định cư được thực hiện

công khai, đúng pháp luật, đảm bảo người bị thu hồi đất có nơi ở mới trước

khi bàn giao mặt bằng đất bị thu hồi cho Nhà nước. Kết quả này góp phần rất

lớn trong thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh, quốc

phòng của địa phương từ cấp tỉnh đến cơ sở.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác thực hiện các chính

sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Thừa Thiên Huế trong

thời gian gần đây còn nhiều bất cập, tồn tại, hạn chế và cả những vướng mắc

như: Một số chính sách bồi thường, hỗ trợ của cấp trên chưa được cụ thể hóa

tại địa phương để áp dụng hoặc việc quy định cụ thể các chính sách của cấp

trên còn chưa cụ thể, thiếu khả thi, khó áp dụng. Năng lực đội ngũ làm công

tác lập kế hoạch, dự án đầu tư, quản lý đất đai, nhất là đội ngũ công chức, viên

chức trực tiếp làm công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Việc áp dụng pháp luật để giải quyết một số khó khăn, vướng mắc trong bồi

81

thường, hỗ trợ còn chưa thống nhất giữa các địa phương cấp huyện. Còn tình

trạng bỏ sót chế độ hỗ trợ, hỗ trợ không đúng đối tượng, lợi dụng kẻ hở pháp

luật để trục lợi từ chính sách bồi thường, hỗ trợ. Công tác đầu tư xây dựng một

số khu tái định còn chậm do thiếu vốn. Đời sống của đa số người bị thu hồi

đất tại nơi tái định cư còn nhiều khó khăn. Việc giải quyết khiếu kiện liên

quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn nhiều vụ chưa giải

quyết dứt điểm. Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ bàn

giao mặt bằng để thi công các công trình, dự án trên bàn, kéo chậm tốc độ

phát triển kinh tế, xã hội địa phương, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự

trên địa bàn.

Những hạn chế trong công tác này chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên

nhân như: Quá trình quản lý đất đai trước đây còn nhiều tồn tại, bất cập kéo

dài; chính sách pháp luật đất đai thường xuyên thay đổi. Thực tiễn sử dụng

đất đai ở địa phương phức tạp. Năng lực hoạch định chính sách, xây dựng kế

hoạch và quản lý đầu tư còn nhiều hạn chế. Quản lý, điều hành, phối hợp thực

hiện chính sách đất đai (nhất là lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất) của bộ máy hành chính nhà nước tại địa phương chưa

đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Từ thực tế tình hình trên, tỉnh Thừa Thiên Huế cần có nhiều giải pháp

đồng bộ về lâu dài để phát huy kết quả đạt được, hạn chế thấp nhất những tồn

tại, giải quyết các vướng mắc trong công tác thực hiện chính sách bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để trong thời gian tới, công tác

này đáp ứng được yêu cầu về quỹ đất cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội,

an ninh, quốc phòng của địa phương.

82

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu việc cụ thể hóa các chính sách và tình

hình triển khai thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, để góp phần hoàn thiện

chính sách và nâng cao hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất ở Thừa Thiên Huế nói riêng và trên cả nước nói chung,

tác giả đưa ra phương hướng, quan điểm, các giải pháp cần thực hiện cũng

như một số kiến nghị cụ thể như sau:

3.1. Phƣơng hƣớng, quan điểm chung để hoàn thiện và nâng cao

hiệu quả thực hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc

thu hồi đất

Phải khẳng định nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình thực hiện chính

sách pháp Luật Đất đai nói chung và trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng là: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân

do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là

một loại tài sản đặc biệt vì ngoài chức năng là tài sản thông thường, đất đai

còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người.

Với vai trò là tư liệu sản xuất thì đất đai cũng là một loại tư liệu sản xuất đặc

biệt, càng sử dụng nhiều thì giá trị của nó ngày càng gia tăng. Nhà nước trao

quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an

ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh

tế, xã hội theo quy định của pháp luật. Khi Nhà nước thu hồi đất thì tuỳ theo

từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất mà người sử dụng đất được bồi

83

thường theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất có nghĩa vụ phải trả

lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất.

Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc trách nhiệm

của Uỷ ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị

(trong đó chú trọng sự vào cuộc của các tổ chức chính trị- xã hội có người bị

thu hồi đất tham gia). Công tác thu hồi đất phải thực sự công khai, minh bạch

và phải có sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị, đoàn thể trong việc vận

động nhân dân, giám sát, phản biện đối với cơ quan, đơn vị thực hiện công tác

thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Việc thực hiện bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đúng quy định của pháp luật,

bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, công bằng. Người sử dụng đất được

bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng hợp pháp.

Khi bồi thường về đất, ngoài nguyên tắc tuân thủ theo cơ chế thị trường

còn phải chú trọng đến sự thiệt hại về lâu dài của người sử dụng đất khi bị

mất đi vĩnh viễn tư liệu sản xuất đặc biệt. Do đó, Nhà nước phải tổ chức thực

hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và

bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Nhà nước từng

bước hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất các loại (quỹ đất ở, đất sản xuất kinh

doanh, đất thương mại dịch vụ và cả đất nông nghiệp), huy động các nguồn

vốn xây dựng các khu dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để

bố trí chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa.

Nhà nước chỉ buộc người sử dụng đất phải giao lại đất đang sử dụng bị thu

hồi khi họ đã có chỗ ở mới phù hợp, có đất mới để tiếp tục sản xuất.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định tại tỉnh Thừa Thiên Huế

84

Trong thời gian tới, để từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định khi Nhà nước thu hồi đất, Đảng bộ và

chính quyền các cấp trong tỉnh Thừa Thiên Huế cần thực hiện đồng bộ các

giải pháp sau:

3.2.1. Các giải pháp về mặt thể chế

Chính phủ cần đề xuất Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai và các văn bản

hướng dẫn thi hành để tránh tình trạng như hiện nay là người vi phạm pháp

luật đất đai thường có lợi hơn người chấp hành tốt pháp luật đất đai khi Nhà

nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; sửa đổi chính sách bồi thường để

đảm bảo giá trị bồi thường về đất, tài sản trên đất theo cơ chế thị trường phù

hợp với nguyên tắc ngang giá; tách riêng chế độ hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống

ổn định, lâu dài cho người bị thu hồi đất và chỉ nên hỗ trợ đối với những

trường hợp không đủ điều kiện bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất, hộ

gia đình chính sách, khó khăn.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có hướng dẫn cụ thể hơn nữa những

vướng mắc trong việc xác định hộ gia đình, cá nhân “trực tiếp sản xuất nông

nghiệp”, điều kiện hỗ trợ đối với đất nông nghiệp không được bồi thường để

tránh tình trạng lấn chiếm đất đai để hưởng chế độ hỗ trợ khi bị thu hồi;

hướng dẫn, tập huấn về phương pháp xác định giá đất thị trường để bồi

thường, nhất là giá đất nông nghiệp trong các khu dân cư đô thị, khu dân cư

nông thôn cho hợp lý.

3.2.2. Các giải pháp về tổ chức bộ máy, nhân lực

- Cần có cơ chế để khuyến khích các tổ chức khác tham gia làm nhiệm

vụ giải phóng mặt bằng để có sự cạnh tranh nhằm từng bước xã hội hóa công

tác này và giảm gánh nặng cho Nhà nước.

85

- Sớm chuyển các Trung tâm Phát triển quỹ đất các huyện thành chi

nhánh của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi

trường để hoạt động theo . Đồng thời phải kiện toàn lại nhân sự của Trung

tâm Phát triển quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu của công tác bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư cũng như phát triển quỹ đất để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế,

xã hội trong thời gian tới.

3.2.3. Các giải pháp về cơ chế, chính sách

- UBND các cấp cần thực hiện nghiêm túc chế độ định kỳ rà soát, điều

chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành để kịp thời loại bỏ

các dự án không khả thi, chậm triển khai do thiếu vốn... nhằm giải phóng

nguồn lực đất đai, khuyến khích các chủ đầu tư dự án nhận chuyển quyền sử

dụng đất (chuyển nhượng, góp vốn, thuê đất...) của người sử dụng đất để thực

hiện dự án đầu tư thay vì chủ yếu Nhà nước phải thu hồi đất để giao hoặc cho

nhà đầu tư thuê như hiện nay.

- Cần xã hội hóa công tác định giá đất phục vụ bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất; có kênh thông tin để thường xuyên cập nhật giá đất trên

thị trường; định kỳ cần rà soát, điều chỉnh bảng giá đất của Tỉnh sao cho phù

hợp với biên độ 20% quanh giá thị trường như yêu cầu tại Điều 14 của Nghị

định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất.

- UBND Tỉnh phải chỉ đạo thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung bảng

giá nhà ở, công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi cho sát với giá thị trường

tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để đảm bảo nguyên tắc

ngang giá, tránh thiệt hại cho người bị thu hồi đất và tránh thất thoát ngân

sách nhà nước.

- UBND Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích và quy định bắt buộc UBND

cấp huyện phải tạo quỹ nhà và quỹ đất các loại để chủ động thực hiện việc bồi

86

thường bằng giao đất mới, bán nhà ở mới cho người bị thu hồi đất thay vì chỉ

chú trọng đến bồi thường bằng tiền mặt như hiện nay nhằm giảm chi phí bồi

thường bằng tiền mặt của Nhà nước và đáp ứng yêu cầu có ngay đất để ở và

sản xuất của người bị thu hồi.

- UBND Tỉnh cần có quy định khi công khai phương án bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư, nếu có tỷ lệ bao nhiêu phần trăm người dân bị thu hồi đất

đồng ý thì được triển khai thực hiện và những người không đồng ý sẽ được

tiếp tục vận động đến cuối cùng là phải cưỡng chế; nếu không đủ số lượng

người bị thu hồi đất đồng ý theo phương án bồi thường, hỗ trợ thì phải xem

xét lại phương án bồi thường, hỗ trợ hoặc điều chỉnh, thay đổi dự án có thu

hồi đất.

3.3.4. Các giải pháp về tài chính

- UBND Tỉnh cần có giải pháp tăng cường năng lực của Quỹ phát triển

đất và Quỹ phát triển nhà ở của Tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư, nhận

chuyển nhượng nhà, đất tạo nguồn để bồi thường bằng việc bán nhà mới, giao

đất mới cho người bị thu hồi đất để họ sớm ổn định cuộc sống.

- UBND Tỉnh cần phải dành ít nhất 10% số tiền thu từ cấp quyền sử

dụng đất để đầu tư hiện đại hóa công tác quản lý đất đai theo hướng xây dựng

mô hình quản lý dữ liệu đất đai tập trung phục vụ cho công tác quản lý đất đai

nói chung và công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói riêng.

- UBND Tỉnh cần có chính sách khuyến khích đối với bộ máy công

chức, viên chức trực tiếp thực hiện công tác thu hồi đất, xây dựng phương án

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn để họ yên tâm công tác, tận tâm

với công việc và quản lý chặt chẽ việc sử dụng chi phí giải phóng mặt bằng

theo quy định.

87

3.3.5. Các giải pháp về tổ chức thực hiện chính sách

- Trong thời gian tới, tập trung chỉ đạo các ban ngành liên quan, chủ

đầu tư phải xây dựng kế hoạch thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư cho từng công trình, dự án cụ thể để làm cơ sở để kiểm tra, quản lý và

giám sát tiến độ thực hiện, kịp thời chỉ đạo giải quyết vướng mắc.

- Các cấp chính quyền phải có trách nhiệm thông tin kịp thời về những

nội dung dự án đầu tư ngay từ khâu quy hoạch, quyết định chủ trương đầu tư

và cả quá trình thu hồi đất, xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư đến các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị trên địa bàn và từng người dân bị

ảnh hưởng để phối hợp chỉ đạo tuyên truyền, vận động người dân bị thu hồi

đất hiểu rõ mục đích, yêu cầu của Nhà nước và quyền lợi, trách nhiệm của

mình theo đúng quy định pháp luật.

- Cần có cơ chế tạo quỹ đất ở tại các khu quy hoạch dân cư mới, đầu tư

hạ tầng hoàn chỉnh để chủ động đáp ứng yêu cầu bố trí tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất, tránh trường hợp đã thu hồi đất nhưng chưa có chỗ tái định

cư do thiếu đất, thiếu vốn xây dựng hạ tầng khu tái định cư.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện công tác thu

hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm kịp thời phát hiện, bổ sung và

điều chỉnh các cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tiễn; phát huy dân chủ

ở cơ sở để huy động toàn dân tham gia giám sát, phản biện đối với công tác

thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực có thể nảy sinh.

- Cần có cơ chế khuyến khích người chấp hành tốt quyết định thu hồi

đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của

Nhà nước, khuyến khích các hộ di chuyển chỗ ở, tài sản sớm và cương quyết

88

xử lý, cưỡng chế những người không chấp hành quyết định thu hồi đất của

Nhà nước.

- Các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết đúng quy định pháp luật,

kịp thời, dứt điểm và thỏa đáng những thắc mắc, kiến nghị, khiếu kiện, tố cáo

của người dân trong quá trình thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư.

- Cơ quan có thẩm quyền cần mạnh tay thu hồi các dự án chậm triển

khai đầu tư, chậm đưa đất vào sử dụng, thu hồi đất bỏ hoang để tạo quỹ đất

thu hút nhà đầu khác hoặc sử dụng để bồi thường cho người bị thu hồi đất tại

dự án khác.

- Cần định kỳ rà soát, lấy ý kiến các cấp, các ngành và cộng đồng dân

cư để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư đảm bảo đúng pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế và khả

năng nguồn lực của địa phương.

3.4. Kết luận chƣơng 3

Để từng bước hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, luận văn đã đề xuất

các giải pháp về các mặt liên quan đến công tác này gồm: về thể chế, về tổ

chức bộ máy và nhân lực, về cơ chế, chính sách, về nguồn lực tài chính và về

tổ chức thực hiện chính sách. Trong đó chú trọng các giải pháp cụ thể về công

khai thông tin, chủ động tạo quỹ đất thích hợp để bồi thường, bố trí tái định

cư; tăng cường kiểm tra, giám sát; có cơ chế khuyến khính người chấp hành

tốt pháp luật đất đai; giải quyết kịp thời các khiếu nại, kiến nghị của người

dân và tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

đảm bảo đúng pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế và khả năng nguồn

lực của địa phương.

89

Qua đây, kiến nghị các cơ quan nhà nước ở Trung ương và Đảng bộ,

chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế cần sớm hoàn thiện về thể chế, sắp xếp tổ

chức lại bộ máy quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư; hỗ trợ nguồn lực để hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về đất

đai nói chung cũng như công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

90

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu quá trình cụ thể hóa các quy định của Trung ương,

công tác triển khai thực hiện các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn đã

đạt được một số kết quả cụ thể về mặt lý luận và thực tiễn. Luận văn cũng đã

đưa ra được một số kiến nghị, đề xuất để góp phần hoàn thiện pháp luật, cơ

chế, chính sách về đất đai nói chung, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói

riêng. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp cơ bản để công

tác triển khai thực hiện chính sách này trong thời gian tới tốt hơn, góp phần

vào phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh trật tự, đảm bảo quốc phòng

của địa phương.

Về mặt lý luận, luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói

chung; nghiên cứu các văn bản pháp luật như Hiếp pháp, Luật Đất đai và các

văn bản hướng dẫn thi hành của Trung ương, chính quyền tỉnh Thừa Thiên

Huế. Nội dung luận văn cũng đã đánh giá được những mặt tích cực, hạn chế

của những quy định cụ thể liên quan đến chính sách này đặt trong điều kiện

kinh tế- xã hội cụ thể của tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. Kết

quả cho thấy, kể từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực, chính quyền tỉnh

Thừa Thiên Huế đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa các chính sách về

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh

theo yêu cầu của cấp trên và tình hình thực tế địa phương một cách tương đối

đầy đủ và kịp thời, cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, mang tính khả

thi cao. Tuy nhiên qua nghiên cứu, chúng ta thấy các chính sách về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất hiện hành nói chung và

91

trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn còn một số hạn chế, bất cập như một số

quy định còn lỏng lẻo, dễ bị lợi dụng để trục lợi, một số quy định khó áp dụng

và chưa phù hợp với thực tế địa phương cần phải sửa đổi, bổ sung.

Về mặt thực tiễn, luận văn đánh giá khái quát được những kết quả đạt

được, những mặt còn hạn chế, tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế và tìm ra

nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, tồn tại. Kết quả cho

thấy, kể từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực, cùng với sự thay đổi trong

chính sách pháp luật đất đai, sự quan tâm vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính

quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo và sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã

hội ở địa phương, nhìn chung, tình hình thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư tại tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều chuyển biến tích cực. Các nguyên

tắc bồi thường được tuân thủ nghiêm túc; các chính sách hỗ trợ được thực

hiện công khai, minh bạch và cơ bản đáp ứng nguyện vọng nhân dân; việc

xây dựng và bố trí tái định cư được thực hiện công khai, đúng pháp luật, đảm

bảo người bị thu hồi đất có nơi ở mới trước khi bàn giao mặt bằng đất bị thu

hồi cho Nhà nước. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác triển khai thực hiện

các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn Tỉnh hiện nay

còn nhiều bất cập, tồn tại, hạn chế và cả những vướng mắc. Một số chính sách

bồi thường, hỗ trợ của cấp trên chưa được cụ thể hóa tại địa phương để áp

dụng hoặc việc quy định cụ thể các chính sách của cấp trên còn chưa cụ thể,

thiếu khả thi, khó áp dụng. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng

yêu cầu của xã hội và tính chất công việc; việc áp dụng pháp luật để giải quyết

vướng mắc chưa thống nhất giữa các địa phương; công tác đầu tư xây dựng

một số khu tái định còn chậm do thiếu vốn; đời sống của đa số người bị thu

hồi đất tại nơi tái định cư còn nhiều khó khăn; việc giải quyết khiếu kiện liên

92

quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn nhiều vụ chưa giải

quyết dứt điểm.

Những hạn chế trong công tác này chủ yếu bắt nguồn từ các nguyên

nhân khách quan như: do lịch sử quản lý đất đai để lại; chính sách pháp luật

đất đai thường xuyên thay đổi và thực tiễn sử dụng đất đai ở địa phương phức

tạp. Ngoài ra, những hạn chế này còn do các nguyên nhân chủ quan như: năng

lực hoạch định chính sách, xây dựng kế hoạch và quản lý đầu tư còn nhiều

hạn chế; quản lý, điều hành, phối hợp thực hiện chính sách đất đai (nhất là

lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất) của bộ

máy hành chính nhà nước tại địa phương chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình

mới.

Từ thực tế tình hình trên, luận văn cũng đã kiến nghị một số giải pháp

về công khai thông tin cho người dân về dự án đầu tư, quá trình giải phóng

mặt bằng; về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trên

địa bàn Tỉnh; về công tác kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện; có

cơ chế khuyến khính người chấp hành tốt pháp luật đất đai; về vấn đề giải

quyết kịp các khiếu nại, kiến nghị của người dân và tiếp tục hoàn thiện cơ

chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo đúng pháp luật và

phù hợp với tình hình thực tế và khả năng nguồn lực của địa phương.

Qua đây, luận văn cũng kiến nghị các cơ quan Trung ương và Đảng bộ,

chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế cần sớm hoàn thiện về thể chế, sắp xếp, tổ

chức lại bộ máy quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư; hỗ trợ nguồn lực để hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước về đất

đai nói chung cũng như công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

nói riêng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế và trong cả nước.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, 2003, Nghị quyết số 26-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

2. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, 2012, Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính, 2015, Thông tư số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04/04/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Trung tâm phát triển quỹ đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường;

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014, Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

5. Chính phủ, 2014, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;

6. Chính phủ, 2014, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá đất;

7. Chính phủ, 2014, Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về thu tiền sử dụng đất;

8. Chính phủ, 2014, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

9. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2006, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lê nin;

10. Quốc hội, 2013, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

11. Quốc hội, 2013, Luật Ðất đai;

12. Quốc hội, 2006, Luật Cư trú;

94

13. Quốc hội, 2013, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú;

14. Thủ tướng Chính phủ, 2015, Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 quy định về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất;

15. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2014, Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 05/8/2014 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

16. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2014, Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND ngày 25/9/2014 ban hành quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.

17. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2011, Quyết định số 369/QĐ-UBND ngày 30/01/2011 ban hành đơn giá cây trồng, vật nuôi; đơn giá nhà ở, công trình kiến trúc làm cơ sở xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế;

18. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2015, Quyết định số 67/2015/QĐ-UBND ngày 22/12/2015 quy định về đơn giá cây trồng vật nuôi làm cơ sở xác định giá trị bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế;

19. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2015, Quyết định số 68/2015/QĐ-UBND ngày 22/12/2015 ban hành đơn giá nhà, công trình, vật kiến trúc và các loại mồ mả làm căn cứ;

20. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2014, Quyết định số 75/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 ban hành Bảng giá đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế áp dụng trong thời gian 5 năm (2015 - 2019);

21. Sở Tài nguyên và Môi trường Thừa Thiên Huế, 2016, Báo cáo số 133/BC- STNMT ngày 03/8/2016 về tình hình thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

95

Phụ lục 1: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

(Tính từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016)

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016

Thu hồi đất (ha)

Trong đó:

TT

Đơn vị

Số lƣợng dự án

Số lƣợt đối tƣợng bị ảnh hƣởng

Tổng diện tích đất bị thu hồi

Đất phi nông nghiệp Đất nông nghiệp

1 Huyện A Lưới

864

411,96 2,23

409,73

21

2 Huyện Nam Đông

565

654,30 1,78

652,52

14

3 Huyện Phú Lộc

43

3.496

181,06 69,61

111,45

4 Thị xã Hương Thủy

929

46.354,00

6.781,00

39.573,00

45

5 Huyện Phú Vang

82,06 43,22

38,84

71

6 Thành phố Huế

92

2.186

150,00 88,00

62,00

7 Thị xã Hương Trà

439

13.736,00

1.027,00

12.709,00

16

8 Huyện Quảng Điền

670

22,04 11,70

10,34

14

9 Huyện Phong Điền

34

1.012

117,30 6,00

111,30

Cộng

350 10.161

61.708,72

8.030,54

53.678,18

1

Phụ lục 2: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH BỒI THƢỜNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ (Tính từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016)

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016

Bồi thƣờng về đất

Bồi thƣờng tài sản trên đất (triệu đồng)

Bồi thƣờng bằng tiền (triệu đồng)

Bồi thƣờng bằng giao, cho thuê đất mới (ha)

Trong đó:

Trong đó:

TT

Đơn vị

Tổng tiền bồi thƣờng

Trong đó nhà ở và công trình xây dựng

Tổng tiền bồi thƣờng

Tiền bồi thường đất ở

Bồi thường đất ở

Tiền bồi thường đất nông nghiệp

Tổng diện tích bồi thƣờng bằng đất

Bồi thường đất nông nghiệp

Bồi thường đất phi nông nghiệp (không phải đất ở)

Tiền bồi thường đất phi nông nghiệp (không phải đất ở)

402,90 1,58 400,78 0,54

4.530

2.728

1.453

349

1 Huyện A Lưới

720.567

504.397

103,20 1,33 87,64 14,23

33.066

21.442

7.342

4.282

2 Huyện Nam Đông

736.160

515.312

10,19 10,19 - - 171.497

97.956

71.032

2.509

3 Huyện Phú Lộc

903.443

632.410

7,17 7,17 - -

25.337

17.584

6.751

1.002

4 Thị xã Hương Thủy

737.432

516.202

0,12 0,12 - -

5.785

3.196

1.966

623

5 Huyện Phú Vang

717.957

502.570

26,00 26,00 - - 500.013

416.000

72.000

12.013

6 Thành phố Huế

4.834.443

3.383.488

1,45 1,45 - - 8.312.442

6.747.390

1.321.736

243.316

7 Thị xã Hương Trà

723.135

506.195

1,35 1,35 - -

7.574

4.948

2.556

70

8 Huyện Quảng Điền

751.014

525.710

0,11 0,11 - -

25.170

670

24.500

0

9 Huyện Phong Điền

726.709

508.696

552,49 49,30 488,42 14,77 9.085.414

7.311.914

1.509.336

264.164

Cộng

10.850.860

7.594.980

2

Phụ lục 3: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ (Tính từ ngày 01/7/2014 đến ngày 30/6/2016) Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế, 2016

Hỗ trợ đất thu hồi (triệu đồng)

Hỗ trợ bằng tiền

TT

Đơn vị

Trong đó:

Số hộ đƣợc bố trí tái định cƣ

Hỗ trợ tái định cƣ

Hỗ trợ khác

Tổng tiền hỗ trợ

Hỗ trợ ổn định đời sống, ổn đinh sản xuất

Hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm

21.580

-

10.740

-

1 Huyện A Lưới

17.991

3.589

57.229

-

2 Huyện Nam Đông

52.301

4.302

4.928

192.333

3 Huyện Phú Lộc

94.883

1.195

291

97.450

41.061

4 Thị xã Hương Thủy

21.137

519

239

18.949

5 Huyện Phú Vang

4.053

1.396

1.439 1.734 456 104

917

2.657

3

543.034

544.325 210.104

6 Thành phố Huế

450

324.434

218.600

7 Thị xã Hương Trà

8.102

4.226

2.545

48

3.876

8 Huyện Quảng Điền

4.392

1.960

45

176

2.432

20.848

3.607 1.294 15

2135

9 Huyện Phong Điền

18.713

631

5

892.632

552.959 231.129

Cộng

458.315

431.207

1.081

3