BỘ NỘI VỤ -----/-----
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ----------/----------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYẾN CHIẾN THẮNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CỦA CÁC TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - 2021
BỘ NỘI VỤ -----/-----
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ----------/----------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYẾN CHIẾN THẮNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CỦA CÁC TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã ssố: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ VÂN HÀ
HÀ NỘI - 2021
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị
Vân Hà. Các số liệu, những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Nguyễn Chiến Thắng
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ cảm ơn sâu sắc đến giáo viên hướng
dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Vân Hà đã tận tình hướng dẫn và đóng góp
nhiều ý kiến khoa học trong thời gian tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc
gia, Ban Quản lý đào tạo Sau Đại học, cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã
nhiệt tình giảng dạy, trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời
gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, các cấp Lãnh đạo cơ quan Tổng
cục Thuế đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
và quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả gia đình, bạn bè
và đồng nghiệp luôn là nguồn động viên quý báu cho tôi hoàn thành luận văn.
Trân trọng!
Học viên
Nguyễn Chiến Thắng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CỦA TỔ
CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM .................................................. 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................ 9
1.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam ........................................................................................... 22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam ................................................................ 29
1.4. Kinh nghiệm một số nước trong quản lý thuế giá trị gia tăng đối
với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam .................................................................................................. 34
Chương 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CUNG CẤP CỦA TỔ
CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM ................................................ 36
2.1. Khái quát chung về hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam ............................................................ 36
2.2. Pháp luật về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế đối với hoạt
động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam 38
2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam ........................................................................................... 44
2.4. Đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam ........................................................................................... 56
2.5. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật
số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.................................................. 63
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ
CỦA TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM ................................ 68
3.1. Quan điểm tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam ................................................................ 68
3.2. Giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam ................................................................ 72
KẾT LUẬN ........................................................................................ 87
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 91
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
CNTT Công nghệ thông tin
DV KTS Dịch vụ kỹ thuật số
GTGT Giá trị gia tăng
Danh mục các bảng
Bảng 2.1. Kết quả kê khai thuế nhà thầu đối với dịch vụ quảng cáo số…...50
Bảng 2.2: Tỷ lệ người dùng và tốc độ internet ở Việt Nam từ năm 2015 đến
năm 2018…….………………………………………………………………64
Danh mục các hình vẽ
Hình 1.1: Phân loại đối tượng kinh doanh trong thương mại điện
tử………………………………………………………………………..……..9
Hình 2.2: Cơ cấu tổ chức cơ quan Tổng cục Thuế……………………….….45
Hình 2.3: Hệ thống ứng dụng CNTT ngành thuế……...…………………….55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Để hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, việc tổ
chức thực hiện pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, Nhà nước
có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội một cách
hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, bản thân Nhà nước cũng phải tuyệt đối tuân thủ
các quy định pháp luật trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật trong đời
sống xã hội.
Tại Việt Nam, Dịch vụ kỹ thuật số thường biết đến như: các phần mềm,
trò chơi được cung cấp trên các chợ điện tử của APP store, CH Play,…; xem
trực tuyến trên các ứng dụng Netflix, Apple TV, HBO, iQIYI TV…được cài
đặt trong các thiết bị điện tử thông minh như Smart TV, Smart phone, Tablet.
Nhờ vào sự phát triển của công nghệ thông tin, trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0, người tiêu dùng Việt dùng có thể tìm kiếm được nhiều loại
hình giải trí để thỏa mãn cho các nhu cầu cá nhân của mình. Trong thời gian
các loại hình cung cấp DV KTS được biết đến với hiện tượng “Doanh thu ở
Việt Nam vài ngàn tỷ, Facebook, Google vẫn không đóng thuế”[21]. Điều
này đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu ngân sách quốc gia và
gây mất bình đẳng trong hoạt động kinh doanh với các doanh nghiệp sản xuất
và cung cấp nội dung số trong nước.
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam trong
những năm qua đang tập trung vào mô hình cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài cho các DN vào Việt Nam nên công tác tác tổ chức thực hiện
pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài cho cá nhân tại Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ nên dẫn dến hiện
1
tượng nêu trên. Sở dĩ có tình hình trên, trước hết là do tính pháp lý của các
quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT và quản lý thuế tại Việt Nam
chưa có tính đồng bộ về đối tượng quản lý, việc phối hợp giữa các cơ quan
quan lý nhà nước trong quản lý đối với DV KTS xuyên biên giới vào Việt
Nam gặp nhiều khó khăn trong phương thức và cách thức tổ chức thực hiện;
công tác tuyên truyền còn gặp nhiều bất cập do tổ chức nước ngoài không
hiện diện tại Việt Nam; các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam
không hỗ trợ được nhiều trong việc thu thuế và trao đổi thông tin giữa hai
nước;... Chính vì vậy, việc tổ chức thực hiện pháp luật đối với hoạt động này
đã và đang gặp rất nhiều khó khăn với nhiều lý do cả khách quan và chủ quan.
Xuất phát từ thực tế đó, là công chức hiện đang công tác tại Ban Cải
cách và Hiện đại hóa thuộc Tổng cục Thuế và được giao phụ trách công việc
chuyên môn về nghiên cứu các nghiệp vụ quản lý thuế mới, trong đó có
thương mại điện tử, tôi nhận thấy: vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật về quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động này vẫn còn những hạn chế, bất cấp nên tôi
lựa chọn đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng
đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam” cho Luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Bên cạnh giáo trình cơ bản về thương mại điện tử mang tính lý thuyết
chung [15], một số nghiên cứu sau có liên quan:
- Đề tài nghiên cứu khoa học có: “Quản lý thuế đối với hoạt động kinh
doanh thương mại điện tử” (2016), đề tài cấp Bộ do Nguyễn Quang Tiến làm
chủ nhiệm; “Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử – Kinh
nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam” (2012), đề tài cấp Tổng cục
Thuế do Nguyễn Chí Dũng làm chủ nhiệm; “Quản lý hoạt động sản xuất, kinh
2
doanh và khai thác Game: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”,
(2017), đề tài cấp Tổng cục Thuế do Nguyễn Hoàng làm chủ nhiệm; “Thực
trạng quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam và đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế giai đoạn 2016-2020”
(2017) , đề tài cấp Tổng cục Thuế do Nguyễn Xuân Tú làm chủ nhiệm đề tài.
Qua nghiên cứu các tài liệu trên, có thể thấy những nội dung trọng tâm,
cơ bản được nhiều tác giả quan tâm và đã giải quyết như: tác giả Nguyễn Chí
Dũng (2012) đã đi sâu phân tích một số vấn đề phát sinh trong thực thi chính
sách thuế đối với hoạt động thương mại điện tử gồm: xác định loại thu nhập
trong các giao dịch thương mại điện tử liên quan đến sản phẩm số, việc xác
định địa điểm kinh doanh trong môi trường toàn cầu để thực hiện quyền đánh
thuế của mỗi quốc gia,… [6]. Nghiên cứu của Tác giả Nguyễn Xuân Tú
(2017), Nguyễn Hoàng (2017) đã có những đóng góp những phân tích về mô
hình kinh doanh trò chơi trực tuyến nuôi web “đen”, trốn thuế của các doanh
nghiệp nước ngoài cung cấp cho người dùng Việt Nam [11], [16]. Theo
Nguyễn Quang Tiến (2017) đã chỉ ra những nguyên nhân tác động đến hiệu
quả chính sách thuế và quản lý thuế đối với thương mại điện tử [13].
- Bài báo khoa học: “Thuế GTGT với xuất, nhập khẩu dịch vụ: Xu
hướng quốc tế và quá trình phát triển ở Việt Nam” (2012) của tác giả Phan
Đức Huy; “Quản lý thuế thương mại điện tử tại một số nước và kinh nghiệm
cho Việt Nam” (2018) của Lê Quang Thuận, Trần Thị Hà
Bên cạnh đó, tác giả Phan Đức Huy (2012) đưa ra nhận định đối với
dịch vụ do nước ngoài cung cấp cho cá nhân tiêu dùng ở Việt Nam, tuy rằng
phải chịu thuế GTGT theo Luật, song trên thực tế rất khó khả thi, do chưa có
cơ chế ràng buộc người tiêu dùng phải báo với cơ quan thuế giống như DN
phải khai báo, nộp thay thuế GTGT, trong khi việc thanh toán được thực hiện
3
qua mạng interner, nhất là đối với các sản phẩm âm nhạc, phim ảnh, sách điện
tử, phần mềm máy tính… [20]. Từ thực tiễn của Việt Nam, các tác giả Lê
Quang Thuận, Trần Thị Hà (2018) đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam như: cần sớm hoàn thiện khung pháp lý về thương mại điện tử và
sửa đổi Luật Quản lý thuế hướng tới mục tiêu tạo khung pháp lý để áp dụng
phổ biến quản lý thuế điện tử; hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thuế
(nhất là đối với thương mại điện tử); áp dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động
quản lý thuế thương mại điện tử; Cơ quan thuế tăng cường phối hợp với các
bộ ngành liên quan trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại
điện tử [22].
Có thể thấy, ở những công công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả đã
nghiên cứu một cách tổng thể chung về quản lý thuế đối với hoạt động thương
mại điện tử trên thế giới và ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào đi
sâu nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam –
một loại dịch vụ cụ thể trong thương mại điện tử. Do đó, đề tài “Tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung
cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam” không trùng
lắp với các công trình nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đề xuất những giải pháp để tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
4
i) Nghiên cứu, làm rõ lý luận công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam.
ii) Đánh giá thực tiễn công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế GTGT đối với DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
iii) Đề xuất những giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: luận văn nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài cho cá nhân tại Việt Nam (luận văn không đề cập đến tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV
KTS của tổ chức nước ngoài cho các khách hàng là doanh nghiệp và tổ chức
tại Việt Nam).
- Về không gian: luận văn nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam tại Tổng cục Thuế.
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài cho các cá nhân tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2015 – 2019,
5
đây là giai đoạn tương ứng với các chính sách về thuế GTGT đang còn hiệu lực.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng;
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: luận văn thu thập các tài
liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp như các văn bản quy phạm pháp luật, các văn
bản hành chính của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế trả lời cho các vướng mắc
thực tiễn trong thời gian qua; các bài báo khoa học, các bài báo thời sự trong
nước và nước ngoài... có liên quan đến vấn đề này. Các tài liệu này được xử
lý thông tin để:
+ Tìm kiếm các căn cứ khoa học và số liệu minh chứng làm cơ sở cho
việc hình thành các luận điểm, luận cứ, luận chứng cả về mặt lý thuyết và
thực tiễn.
+ Đưa ra kết luận.
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích các số liệu liên
quan đến công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam để thấy
những bất cập, vướng mắc trong công tác này.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam với các quy định của một số quốc gia khác
về pháp luật thuế GTGT và quản lý thuế đối với DV KTS cung cấp xuyên
biên giới và các vấn đề khác liên quan, từ đó xem xét thực trạng của Việt
Nam và nêu đề xuất riêng.
6
- Phương pháp chuyên gia đựợc sử dụng để phỏng vấn một số chuyên
gia, nhà khoa học, cán bộ quản lý, viên chức ngành thuế, để hỏi ý kiến, nhận
xét và hỗ trợ cho luận văn trong quá trình thu thập tài liệu, nghiên cứu, xử lý
thông tin, viết báo cáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận, luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam – một vấn đề còn mới và chưa
được nghiên cứu một cách có hệ thống ở Việt Nam.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Những nhận định mang tính khái quát về thực
trạng công tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài cho các cá nhân tại Việt Nam
của Tổng cục Thuế và những giải pháp mà tác giả đề xuất có giá trị tham
khảo đối với thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài cho các cá nhân tại
Việt Nam của Tổng cục Thuế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số
của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá
trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam.
7
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ
thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CỦA TỔ CHỨC NƯỚC
NGOÀI VÀO VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Dịch vụ kỹ thuật số và hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số
của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
1.1.1.1. Dịch vụ kỹ thuật số
Thuật ngữ “Dịch vụ kỹ thuật số” xuất hiện phổ biến trong thời gian
gần đây gắn liền với sự phát triển của của cách mạng công nghiệp 4.0 và đi
cùng với thời đại kinh tế số. Kể từ đó, trong lĩnh vực thương mại điện tử,
dịch vụ được phân chia thành 02 nhóm như được nêu trong Hình 1.1 gồm:
Hàng hóa
TMĐT
Dịch vụ KTS
Dịch vụ
Dịch vụ khác
DV KTS và dịch vụ khác:
Hình 1.1: Phân loại đối tượng kinh doanh trong thương mại điện tử
(Nguồn: tác giả)
Hiện tại, chưa có khái niệm thống nhất hay tiêu chí chuẩn mực để xác
định một dịch vụ trong thương mại điện tử là DV KTS. Do đó, khái niệm và
9
phạm vi của DV KTS có sự thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia
. Chẳng hạn, trong Luật thuế hàng hóa, DV KTS của Mỹ có nêu [28]: “Các
sản phẩm kỹ thuật số, hàng hóa hoặc DV KTS, được định nghĩa là hàng hóa,
dịch vụ vô hình (phi vật lý) tồn tại ở định dạng điện tử hoặc kỹ thuật số.
Chúng được gửi đến khách hàng đầu cuối bằng điện tử, chẳng hạn như qua
email hoặc tải xuống trực tuyến”. Theo khái niệm này thì phạm vi DV KTS
của Mỹ bao gồm:
(i) Dịch vụ xử lý dữ liệu trực tuyến.
(ii) Tải về phần mềm.
(iii) Tải sách điện tử.
(iv) Tải nhạc, tệp âm thanh kỹ thuật số.
(v) Tải phim hoặc video kỹ thuật số.
(vi) Tải về các hàng hóa kỹ thuật số khác.
Theo hướng dẫn về thuế GTGT của Liên minh Châu Âu về thu thuế
DV KTS quy định các tiêu chí tạo nên một DV KTS [25]:“Một dịch vụ - trái
ngược với hàng hóa vật lý: (i) Dựa trên CNTT; (ii) Được cung cấp điện tử -
thông qua internet, cáp đồng hoặc cáp quang và vệ tinh; (iii) Việc cung cấp
hoàn toàn tự động – chỉ có sự can thiệp tối thiểu của con người” Theo đó,
DV KTS theo quy định của Liên minh Châu Âu được chia thành 5 loại như:
(i) Cung cấp video, âm nhạc, trò chơi, xổ số và các trò chơi may rủi
khác: Tải phim hoặc chương trình xuống máy tính để bàn, máy tính xách tay
và điện thoại; Chơi trực tuyến hoặc tải xuống các trò chơi, bao gồm cả người
chơi từ xa; Cung cấp âm nhạc, phim ảnh, cá cược, phát sóng; Nhạc chung,
nhạc chờ và âm nhạc.
10
(ii) Dịch vụ trang web: Dịch vụ trang Web hỗ trợ tự động; Bảo trì và hỗ
trợ tự động của các trang Web; Lưu trữ các Website; Các nhà cung cấp dịch
vụ Internet; Dịch vụ lưu trữ dữ liệu và thông tin trực tuyến.
(iii) Dịch vụ phần mềm:Các dịch vụ phần mềm được cung cấp qua
internet thông qua các bản tải xuống trên bản phân phối dựa trên đám mây;
Tải về trình điều khiển thiết bị ngoại vi như máy in, máy scan; Tải xuống
phần mềm phòng chống virus, bộ lọc tường lửa cho máy tính; Tải xuống các
gói phần mềm kế toán.
(iv) Cung cấp chương trình đào tạo từ xa: Chương trình học từ xa qua
mạng; Giáo trình bài tập của sinh viên học trực tuyến.
(v) Cung cấp văn bản, hình ảnh và cơ sở dữ liệu: Tải về các thiết kế;
Sách điện tử; Quảng cáo trực tuyến; Đăng ký vào các blog, tạp chí hoặc báo
trực tuyến; Phí thành viên cho các câu lạc bộ trực tuyến, tạp chí hoặc các
trang Web hẹn hò; Sàn giao dịch trực tuyến cho hàng hóa và dịch vụ; Tải
xuống các báo cáo, phân tích tài chính hoặc dữ liệu thị trường và các hướng
dẫn; Thao tác tính toán dữ liệu qua mạng Internet hoặc các mạng điện tử
khác.
Ở Malaysia, Luật thuế dịch vụ sửa đổi năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 1
tháng 1 năm 2020) [27], DV KTS được Malaysia xác định là “là bất kỳ dịch
vụ nào được cung cấp hoặc đăng ký qua internet hoặc mạng điện tử khác và
không thể có được nếu không sử dụng CNTT và việc cung cấp dịch vụ về cơ
bản là tự động”. Phạm vi của DV KTS bao gồm:
(i) Bản quyền phần mềm trực tuyến.
(ii) Tường lửa.
(iii) Ứng dụng cho điện thoại và video game.
11
(iv) Công cụ tìm kiếm và mạng xã hội.
(v) Dịch vụ điện toán đám mây và dịch vụ lưu trữ web (website
hosting).
(vi) Quảng cáo trực tuyến.
(vi) Viễn thông trên nền tảng internet.
(vii) Dịch vụ đào tạo trực tuyến.
Như vậy, hiện nay giữa các nhà lập pháp của các nước trong phạm vi
xây dựng chính sách thuế vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống
nhất về phạm vi của DV KTS. Tuy nhiên, có thể thấy rằng khái niệm và phạm
vi các DV KTS cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chúng
đều có đặc điểm là tính vô hình, mọi hoạt động mua bán được thực hiện trên
môi trường mạng.
Từ các khái niệm như trên, theo tác giả, về nghĩa rộng, DV KTS được
hiểu là hoạt động cung cấp các sản phẩm phi vật lý từ các nhà cung cấp đến
NTD bằng phương thức điện tử trong môi trường mạng. Các bước tiến hành
giao dịch: đăng ký, thanh toán, giao hàng, dự trữ các sản phẩm phi vật lý đều
được thực hiện hoàn toàn tự động và chỉ có sự can thiệp tối thiểu của con
người.
Theo nghĩa hẹp, DV KTS là hoạt động cung cấp những sản phẩm nội
dung số trên môi trường mạng, được thực hiện hoàn toàn tự động – chỉ có sự
tham gia tối thiểu của con người.
Từ những cách hiểu như trên, trong phạm vi luận văn này, DV KTS được
hiểu là dịch vụ cung cấp tự động trên môi trường mạng và không thể thiếu nếu
không sử dụng CNTT, chỉ có sự can thiệp tối thiểu hoặc không có sự tham gia
của con người vào quá trình cung cấp dịch vụ .
12
Bên cạnh những đặc điểm chung với dịch vụ khác như: tính vô hình (sự
khác biệt so với hàng hóa); và tính không thể chuyển quyền sở hữu, DV KTS
có những đặc điểm riêng biệt là cơ sở để phân định nó với các dịch vụ khác
trong thương mại điện tử:
- Tính tách rời giữa quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ. Các DV
KTS là các dịch vụ được tạo ra dựa trên việc ứng dụng CNTT nhằm phục vụ
cho các nhu cầu nghe, nhìn, trao đổi thông tin ở hình thức kỹ thuật số. Việc
cung cấp các sản phẩm nội dung số. Do đó, quá trình cung cấp và sử dụng các
dịch vụ này hoàn toàn là độc lập.
- Tính đồng đều về chất lượng. Khác biệt với các dịch vụ khác, các DV
KTS thường được cung cấp cùng mức tiêu chuẩn cho người tiêu dùng. Chẳng
hạn, tất cả người tiêu dùng cùng xem trực tuyến 1 chương trình truyền hình
hay cùng nghe 1 bản nhạc thì chất lượng bản nhạc hay bộ phim đó đều như
nhau.
- Tính dự trữ được. Đặc điểm này xuất phát từ đặc tính tách rời giữa
cung cấp và sử dụng dịch vụ. Sau khi, người tiêu dùng mua các DV KTS đi
kèm với các sản phẩm nội dung số như file nhạc, file phim số, hay tài liệu thì
các sản phẩm nội dung này có thể được lưu trữ trong những bị điện tử như
máy tính, điện thoại hay ổ USB.
Xuất phát từ những đặc điểm đặc thù của DVKTS nên hoạt động cung
cấp DVKTS, đặc biệt là hoạt động cung cấp DVKTS của tổ chức nước ngoài
vào một quốc gia khác cũng có những điểm đặc thù đáng quan tâm.
1.1.1.2. Hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
DV KTS có thể được cung cấp bởi các doanh nghiệp trong nước hoặc
các tổ chức nước ngoài hay con gọi là DV KTS xuyên biên giới. Trong đó,
13
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được hiểu
là “hoạt động cung ứng dịch vụ của tổ chức nước ngoài được thành lập và
hiện diện tại quốc gia/vùng lãnh thổ khác cho khách hàng cư trú tại Việt
Nam”. Khách hàng tại Việt Nam có thể là các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp, cá nhân kinh doanh, cá nhân tiêu dùng cư trú tại Việt Nam. Trong
luận văn này, tác giả tìm hiểu về hoạt động cung cấp DVKTS của tổ chức
nước ngoài cho cá nhân kinh doanh và cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam.
Hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam có
các đặc trưng sau:
- 100% thanh toán trong các giao dịch mua DV KTS là thanh toán
không dùng tiền mặt. Trong giao dịch mua DV KTS xuyên biên giới, các bên
tham gia vào giao dịch không phải gặp gỡ nhau trực tiếp để đàm phán ký kết,
không phát sinh quá trình vận chuyển qua công ty logistics hay quá trình cung
cấp dịch vụ từ bên thứ ba nên không thể áp dụng hình thức thanh toán tiền
COD (Cash on Delivery: thu tiền khi giao hành) để ủy quyền cho bên thứ 3
thu hộ tiền khi giao hàng hay hoàn thành việc cung cấp dịch vụ.
- Tính chắc chắn thu được tiền ngay sau khi hoàn thành việc cung cấp
DV KTS. Trong kinh doanh thương mại điện tử, hoạt động cung cấp hàng hóa
hay dịch vụ khác thường gặp không ít những khó khăn trong việc thu tiền khi
hàng hóa đã chuyển quyền sở hữu hay quyền sử dụng hàng hóa cho người
mua; hay việc cung cấp dịch vụ khác đã hoàn thành cho người mua. Nhưng
đối với hoạt động cung cấp DV KTS, nguyên tắc “tiền trao – cháo múc” được
áp dụng nên chỉ khi người bán nhận được thông báo chắc chắn đã thu được
tiền từ người mua thì khi đó người bán mới tiền hành cung cấp DV KTS cho
người mua.
- Tính không hoàn trả và không bồi hoàn. Phần lớn các DV KTS sau
khi mua từ người bán thì người mua không thể hoàn trả lại dịch vụ và nhận lại
14
tiền khi bạn cho rằng dịch vụ kỹ thuật đó số không đúng như quảng cáo giới
thiệu hoặc không còn muốn sử dụng DV KTS đó hoặc trẻ con ấn linh tinh
mua nhầm game. Chỉ có 1 số ít nhà cung cấp dịch vụ số cho phép hoàn trả
nhưng chỉ trong thời gian ngắn tính từ thời hạn thanh toán nhưng thủ tục và
thời hạn giải quyết rất phức tạp (chẳng hạn như Google store chỉ cho phép
hoàn trả sau 2g tính từ thời hạn thanh toán). Khi DV KTS được cung cấp bị
lỗi về nội dung hay không thể hoạt động sau một thời gian sử dụng, người
tiêu dùng chỉ có thể phản ánh đến nhà cung cấp hoặc nhà phát triển dịch vụ số
để chờ nhận được bản nâng cấp sửa lỗi hoặc nhận được những phản hồi về
cách khắc phục do lỗi từ thiết bị của người tiêu dùng gây ra.
- Người bán thường không xác định trách nhiệm phải thu các khoản
thuế và phí (không phải thuế thu nhập): Thường trong các điều khoản cung
cấp DV KTS trên ứng dụng (hay Chợ ứng dụng hay website cung cấp DV
KTS) của Nhà cung cấp, Người tiêu dùng phải có trách nhiệm tuân thủ các
Luật thuế hiện hành của Quốc gia nơi người tiêu dùng cư trú. Nghĩa là trách
nhiệm chịu và phải trả các khoản thuế và phí (không phải thuế thu nhập) đối
với các giao dịch mua DV KTS được xác định cho Người tiêu dùng. Tuy
nhiên, trong các điều khoản cung cấp DV KTS nói trên không ràng buộc trách
nhiệm phải thu của Nhà cung cấp
- Các tổ chức nước ngoài cung ứng DV KTS không thành lập và hiện
diện tại Việt Nam. Các hoạt động cung ứng DV KTS diễn ra trong môi trường
mạng hay diễn ra trong môi trường phi biên giới nên các chủ thể khi tham gia
vào giao dịch cung ứng DV KTS không cần phải di chuyển tới bất kỳ địa
điểm nào mà vẫn có thể tiến hành giao dịch điện tử. Do đó, các tổ chức nước
ngoài cung ứng DV KTS không thành lập và hiện diện tại Việt Nam mà vẫn
có thể kinh doanh và phát sinh thu nhập từ các tổ chức, cá nhận tại Việt Nam.
Như vậy, những đặc điểm của hoạt động cung cấp DVKTS của tổ chức
15
nước ngoài vào Việt Nam cho cá nhân tiêu dùng đặt ra những khó khăn đối
với tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và tổ chức thực hiện pháp luật quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động này nói riêng.
1.1.2. Thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế
1.1.2.1. Thuế giá trị gia tăng
Theo quy định tại Điều 2, Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03
tháng 6 năm 2008 định nghĩa “thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng”[17].
Giáo trình Thuế - Học viện tài chính (NXB Tài chính – Năm 2014) đẫ
đưa ra một số đặc điểm cơ bản của thuế GTGT như sau:
- Thuế GTGT là sắc thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn không trùng lắp.
Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh
nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Tổng số thuế thu
được của tất cả các giai doạn đúng bằng số thuế tính trên giá bán cho người
tiêu dùng cuối cùng.
GTGT là phần giá trị mới tạo ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Đại lượng này có thể được xác định bằng phương pháp cộng hoặc phương
pháp khấu trừ. Theo phương pháp cộng, GTGT là trị giá các yếu tố cấu thành
giá trị tăng thêm bao gồm tiền công và lợi nhuận. Theo phương pháp khấu trừ,
GTGT chính là khoản chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và tiêu thụ trừ đi
tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng. Tổng GTGT ở tất cả các
giai đoạn luân chuyển đúng bằng giá bán sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng. Do
vậy, việc thu thuế trên GTGT ở từng giai đoạn tương đương với số thuế tính
trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
- Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế. Thuế GTGT không phải là yếu
16
tố chi phí mà đơn thuần là yếu tộ cộng thêm ngoài giá bán của người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ. Thuế GTGT không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi kết quả kinh
doanh của người nộp thuế, bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình
kinh tế; sản phẩm được luân chuyển qua nhiều hay ít giai đoạn thì tổng số
thuế GTGT phải nộp của tất cả các giai đoạn không thay đổi.
- Thuế GTGT là một sắc thuế thuộc loại thuế gián thu. Đối tượng nộp
thuế GTGT là người cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người chịu thuế là người
tiêu dùng cuối cùng. Thuế GTGT là một khoản tiền được cộng vào giá bán
hàng hóa, dịch vụ mà người mua phải trả khi mua hàng.
- Thuế GTGT có tính chất lũy thoái so với thu nhập. Thuế GTGT đánh
vào hàng hóa, dịch vụ là người phải trả khoản thuế đó, không phân biệt thu
nhập cao hay thấp đều phải trả số thuế như nhau. Như vậy, nếu so sánh giữa
số thuế phải trả so với thu nhập thì người nào có thu nhập cao hơn thì tỷ lệ
này thấp hơn và ngược lại.
- Thuế GTGT có tính lãnh thổ. Đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Những đặc điểm trên của thuế GTGT khiến cho hoạt động quản lý nhà
nước đối với loại thuế này có những điểm đặc thù nhất định.
1.1.2.2. Quản lý thuế
“Quản lý thuế có thể được hiểu là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế
của Nhà nước, tức là, quản lý thuế được hiểu là hoạt động tác động và điều
hành họat động đóng thuế của người nộp thuế” [8, tr9].
Theo Giáo trình Quản lý thuế - Học viện tài chính (NXB Tài chính –
Năm 2010), quản lý thuế bao gồm các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, chủ thể của quản lý thuế là Nhà nước, bao gồm cơ quan lập
pháp với vai trò là người nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật thuế; cơ
17
quan hành pháp với tư cách là người điều hành trực tiếp công tác thu và nộp
thuế; hệ thống các cơ quan chuyên môn giúp việc cho cơ quan hành pháp (cơ
quan thuế, cơ quan hải quan) thay mặt cho Nhà nước tổ chức và thực hiện thu
thuế.
- Thứ hai, đối tượng quản lý thuế là các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ
nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
- Thứ ba, mục tiêu của quản lý thuế là huy động nguồn lực tài chính
tính từ các tổ chức và cá nhân trong xã hội cho Nhà nước thông qua việc ban
hành và tổ chức thi hành pháp luật thuế.
- Thứ tư, quản lý thuế là một hệ thống thống nhất giữa các CQQLNN
với nhau và giữa xây dựng chính sách thuế và tổ chức hành thu.
- Thứ năm, quá trình tác động, điều hành thu thuế gắn với quá trình
thực hiện các chức năng quản lý của Nhà nước và quá trình này phải tuân thủ
các quy luật khách quan.
Nội dung của quản lý thuế bao gồm: [18]:
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế;
- Hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế;
- Khoanh tiền thuế nợ, xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; miễn
tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần
tiền thuế nợ.
- Quản lý thông tin người nộp thuế;
- Quản lý hóa đơn, chứng từ;
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp phòng, chống,
ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế;
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế;
18
- Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế;
- Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuê.
1.1.3. Thực hiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
1.1.3.1. Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là giai đoạn sau khi tiến hành xây dựng pháp luật
là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bởi
pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong
việc điểu chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội
phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc
sống. Do vậy, vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành nhiều luật mà thực
hiện pháp luật như thế nào trong thực tế
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể
pháp luật khác khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự
liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử
sự chung mà Nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể thông qua hành vi
thực tế hợp pháp của mình, nói cách khác những đòi hỏi, cấm đoán hay cho
phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các
hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân, mọi tổ
chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Đối
với Nhà nước thì thực hiện pháp luật là một trong những hình thực để thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội, còn đối
với các tổ chức phi Nhà nước hoặc các cá nhân thì thực hiện pháp luật là hoạt
động sử dụng các quyền, tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý mà
pháp luật quy định cho họ.
19
Thực hiện pháp luật là quá trình các thành viên trong xã hội thực hiện
các hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật dưới những hình thức và tính
chất thực hiện khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện, tăng cường pháp chế trong đời sống trong nhà nước
[7.tr318].
1.1.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật
Khái niệm về tổ chức thực hiện pháp luật chưa được định nghĩa một
cách chính xác, cụ thể ngay cả đối với các từ điển chuyên ngành Luật, từ điển
giải thích thuật ngữ Luật. Do đó, cần hiểu khái niệm vể tổ chức thực hiện
pháp luật dưới hai phương diện sau:
- Phương diện thứ nhất là pháp luật trong trạng thái” tĩnh” hay pháp
luật trong các trang công báo. Pháp luật theo phương diện này còn được gọi là
pháp luật thực định. Theo Hiến pháp năm 2013, đây là các quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc
Hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Lệnh, Quyết định của Chủ
tịch nước; các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ; Bộ trưởng, thủ
trưởng cơ quan nganh bộ và chính quyền địa phương các cấp. Đây là pháp
luật được hình thành chủ yếu do hoạt động lập pháp của Quốc Hội và hoạt
động lập quy của hệ thống các quan hành pháp.
- Phương diện thứ hai của pháp luật là pháp luật trong trạng thái “động”
hay gọi là pháp luật trong hành động, pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật
theo phương diện nay là sự tuân theo pháp luật của các chủ thể trong đời sống
Nhà nước và đời sống xã hội, được hình thành bằng hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Giống như
phương diện thứ nhất, phương diện của pháp luật cũng được Hiến pháp quy
định. Theo đó, tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu để
20
pháp luật chuyển từ trạng thái “tĩnh” sang trạng thái “động” làm cho pháp luật
không còn nằm trong các trang công báo mà đi vào cuộc sống.
Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm tổ chức thực hiện pháp
luật là thẩm quyền hiến định có tính độc lập, chuyên trách của hệ thống các
cơ quan hành chính nhà nước.
Nội dung của tổ chức thực hiện pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt
động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là
điều kiện tiên quyết định cho hoạt động sau. Nội dung tổ chức thực hiện pháp
luật bao gồm các hoạt động sau:
- Trước hết, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện, xây dựng chương
trình và kế hoạch thực hiện văn bản quy phạm pháp luật;
- Hai là, phổ biến chương trình, kế hoạch thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật và tuyên truyền, phổ biến nội dung và tinh thần cơ bản của văn bản
quy phạm pháp luật đến các đối tượng trực tiếp phải thi hành. Việc phổ biến
tinh thân và nội dung của văn bản quy phạm pháp luật bằng tài liệu được biên
soạn, bằng các phương tiện thông tin đại chúng, bằng việc phổ biến trực tiếp;
- Ba là, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện
pháp luật đang tổ chức thực hiện để kịp thời xử lý những vi phạm và phát hiện
những lỗ hổng, những quy định pháp luật không phù hợp,…;
- Bốn là, sau một thời gian thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiến
hành công tác sơ kết, tổng kết việc tổ chức văn bản quy phạm pháp luật đó;
- Năm là, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, phải theo dõi việc
thực hiện pháp luật để kịp thời phát hiện những khó khăn, bất hợp lý của việc
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
sửa, đổi, bổ sung;
21
- Sáu là, tổ chức thực hiện pháp luật tốt phải xây dựng lực lượng và cơ
sở vật chất vững mạnh để đảo bảo cho việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra được khái niệm về tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS
của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam như sau: Tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DVKTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam là hoạt động sắp xếp, định hướng một cách có tổ chức,
có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và thường xuyên do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện làm cho pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được triển khai
trong thực tiễn.
1.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
1.2.1. Bộ máy tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam
Tổ chức thực hiện pháp luật và quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam là hoạt động có sự
tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tác động tới hoạt
động này nhằm đạt được mục đích thu đúng, thu đủ số thuế GTGT vào ngân
sách nhà nước. Do vậy, có thể nói tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này có định hướng, có chủ đích của các cơ quan
quản lý nhà nước như Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) và Bộ Công Thương, Bộ
Thông tin Truyền thông và các Bộ, ngành có liên quan khác.
Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì giúp Chính phủ thống nhất quản lý
22
nhà nước về quản lý thuế: [18]
- Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế;
- Tổ chức việc thực hiện quản lý thuế theo quy định của Luật Quản lý
thuế và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thuế và quy
định của pháp luật có liên quan;
- Xử lý vi phạm pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cao liên quan đến
việc thực hiện pháp luật về thuế có thẩm quyền;
- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về thuế;
Tổng cục Thuế
Tổng cục Thuế là đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính, được tổ chức theo hệ
thống dọc từ trung ương đến địa phương (gồm Cơ quan Tổng cục Thuế và 63
Cục Thuế địa phương), là cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về các
khoản thu nội địa trong phạm vi cả nước, bao gồm: thuế, phí, lệ phí các khoản
thu khác của ngân sách nhà nước; tổ chức quản lý thuế theo quy định của
pháp luật. Tổng cục Thuế có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau [12]:
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình cấp có thẩm quyền xem xét các
dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật (như luật, dự thảo nghị quyết
của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự thảo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về Quản lý thuế);
- Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, quy trình nghiệp vụ;
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của
Tổng cục Thuế.
23
- Tổ chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật gồm: Hướng dẫn,
giải thích chính sách thuế của Nhà nước; tổ chức công tác hỗ trợ người nộp
thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật; Hướng dẫn, chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện quy trình nghiệp vụ về đăng ký
thuế, cấp mã số thuế, kê khai thuế, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, khấu
trừ thuế, miễn thuế, xóa nợ tiền thuế, tiền phạt và các nghiệp vụ khác có liên
quan;…
- Được áp dụng các biện pháp hành chính để đảm bảo thực thi pháp luật
về thuế:
- Yêu cầu người nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ và hồ
sơ tài liệu khác có liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế; yêu cầu tổ chức tín
dụng, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan cung cấp tài liệu và phối hợp
với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế;
- Ấn định thuế, truy thu thuế; thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vi phạm hành
chính thuế.
- Lập hồ sơ kiến nghị khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về
thuế; thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các trường
hợp vi phạm pháp luật thuế.
- Thanh tra chuyên ngành thuế; kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế; phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài
sản, kinh phí được giao theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về lĩnh vực thuế theo phân công,
phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.
24
Bộ Công Thương [18]:
- Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng trong việc kết nối, cung
cấp thông tin liên quan để phối hợp với Bộ Tài chính trong quản lý thuế đối
với các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại điện tử, nhượng quyền thương
mại và các hoạt động liên quan;
- Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng phối hợp với cơ quan
quản lý thuế thực hiện quy định của pháp luật về kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ thương mại trên thị trường và lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật.
Bộ Thông tin và Truyền thông [18]
- Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng phối hợp với cơ quan
Quản lý thuế để quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng;
- Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng trong việc kết nối, cung
cấp thông tin liên quan với cơ quan quản lý thuế đối với tổ chức, cá nhân trực
tiếp tham gia hoặc có liên quan đến việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [18]
- Chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong việc kết nối, cung cấp
thông tin với cơ quan quản lý thuế liên quan đến giao dịch qua ngân hàng của
tổ chức, cá nhân và phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực hiện biện pháp
cưỡng chế theo quy định của Luật Quản lý thuế;
- Xây dựng và phát triển hệ thống thanh toán thương mại điện tử quốc
gia, các tiện ích tích hợp thanh toán điện tử để sử dụng rộng rãi cho các mô
hình thương mại điện tử;
- Thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán hỗ trợ
công tác quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới
trong thương mại điện tử;.
25
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về Quản lý thuế
theo quy định của Chính phủ.
1.2.2. Xây dựng và ban hành các văn bản quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam
Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo trong tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV
KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam là khâu đầu tiên trong để đưa các
quy định pháp luật trên các trang giấy vào thực tiễn cuộc sống. Công tác này
được xác định là vai trò và trách nhiệm của cơ quan chủ trì đã được Chính
phủ giao là Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế như đã nêu tại mục 1.2.1 và các cơ
quan thuế địa phương trong phạm vi quản lý của địa phương. Công tác này
nhằm triển khai thống nhất trong xử lý và chỉ đạo quyết liệt trong toàn ngành
thuế về tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
này, đồng thời thể hiện vai trò đứng đầu và trách nhiệm của cơ quan cấp trên
là Bộ Tài chính hay Tổng cục Thuế, cũng như cơ quan thuế địa phương.
1.2.3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý thuế giá
trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên trong việc nâng
cao kiến thức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Do đó, công tác này luôn
phải được quan tâm và đẩy mạnh thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng và đồng bộ và phù hợp với đối tượng quản lý là các tổ chức nước ngoài.
26
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý thuế GTGT
không chỉ nâng cao nghiệp vụ cho công chức làm công tác quản lý thuế
GTGT đối với các hoạt động này, mà còn nâng cao ý thức tuân thủ của của tổ
chức nước ngoài trong việc chấp hành tuân thủ pháp luật của Việt Nam và
bảo đảm nhận thức chung của xã hội trong việc bảo vệ nguồn thu của quốc
gia khi các tổ chức nước ngoài có ý định trốn tránh thuế đối với khoản thu
nhập phát sinh tại Việt Nam
1.2.4. Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ
thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Thanh tra, kiếm tra được xác định là công cụ để bảo đảm hiệu lực hiệu
quả trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Công tác
thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch hàng
năm hoặc trong những trường hợp đột xuất theo phản ánh của báo chí, đơn
thư tố cáo hoặc yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trên. Qua đó, công tác thanh
tra, kiểm tra một mặt giúp cho chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật phát hiện
và xử lý kịp thời những những sai phạm, gian lận, trốn thuế trong quá trình
thực hiện pháp luật về thuế GTGT của người nộp thuế, mặt khác phát hiện
những khó khăn, bất hợp lý của việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này để kiến nghị sửa đổi hoặc
bổ sung pháp luật có liên quan.
1.2.5. Hợp tác quốc tế trong quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt
động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Hợp tác quốc tế trong quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện trên cơ sở các
điều khoản trong Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các
27
quốc gia/vùng lãnh thổ. Trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối
với hoạt động này, cơ quan thuế Việt Nam thường tiến hành trao đổi với cơ
quan thuế các quốc gia/vùng lãnh thổ trong việc xác thực sự hiện diện và
thành lập tổ chức nước ngoài tại các quốc gia/vùng lãnh thổ, xác minh các
khoản thu nhập phát sinh của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam và phối hợp hỗ
trợ thu thuế đối với các khoản nợ thuế của tổ chức nước ngoài đối với thu
nhập phát sinh tại Việt Nam.
1.2.6. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam
Bảo đảm cơ sở hạ tầng CNTT phục vụ quản lý thuế giá trị gia tăng đối
với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam đáp ứng theo các yêu cầu phát triển của Chính phủ điện tử trong thời đại
cách mamgj công nghiệp 4.0. Hoạt động này nhằm hỗ trợ, giúp cho người nộp
thuế, đặc biệt là các tổ chức nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam được
tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 để tăng khả năng tự nguyện tuân
thủ của các tổ chức nước ngoài khi phát sinh thu nhập tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT bên trong nội bộ cơ quan thuế để nâng cao
năng lực quản lý đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam trong việc truy lần, rà soát các giao dịch cung cấp DV KTS của
tổ chức nước ngoài bởi hoạt động này chủ yếu diễn ra trong môi trường mạng,
cũng như đáp ứng về khả năng kết nối, trao đổi thông tin giữa các bộ ngành
trong công tác phối hợp về quản lý thuế đối với hoạt động này.
28
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về quản
lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
1.3.1. Pháp luật về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế đối với hoạt
động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Mức độ hoàn thiện của pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam là yếu tố đầu
tiên và cũng là yếu tố tác động rất lớn đến quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này. Bởi các quy định pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này là cơ sở pháp lý, là tiền đề giúp
cho Tổng cục Thuế và các công chức thuế tuân thủ trong quá trình tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này. Khi pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này chưa được hoàn thiện
không chỉ khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật mà còn ảnh
hưởng đến lòng tin của người nộp thuế vào pháp luật về thuế của Nhà nước.
Mặc khác, pháp luật mang tính phổ biến nên trong một số trường hợp có sự
thay đổi không kịp thời cùng với sự phát triển của các loại hình kinh doanh
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra phát triển mạnh mẽ.
Chẳng hạn như: pháp luật về thuế GTGT chỉ quy định về tiêu dùng ở Việt
Nam nghĩa là mọi hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong lãnh thổ Việt Nam thuộc
đối tượng chịu thuế GTGT nhưng trong môi trường không gian mạng không
có ranh giới phân biệt giữa các quốc gia nên cần phải có những quy định như
thế nào về tiêu dùng tại Việt Nam trong môi trường không gian mạng.
Muốn vậy, để tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này thì trong hoạt động xây dựng pháp luật về quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động này cần xác định mục tiêu nhất định như:
Mở rộng cơ sở thuế; bảo đảm số thu ngân sách nhà nước và tạo thuận lợi
29
trong thủ tục hành chính về thuế đối với người nộp thuế. Do đó, hệ thống
pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này phải thật sự minh
bạch, đơn giản, dễ hiểu để người nộp thuế là các tổ chức nước ngoài có thể dễ
dàng tiếp cận, tìm hiểu được các quy định pháp luật và tự giác chấp hành
nghĩa vụ về thuế GTGT đối với hoạt động này. Tức là, từng quy định trong
pháp luật về thuế GTGT đối với hoạt động này phải rõ ràng, không mơ hồ,
không làm cho người nộp thuế là các tổ chức nước ngoài muốn hiểu thế nào
cũng được. Mỗi quy định phải được diễn đạt sao cho chỉ có thể được hiểu
theo một cách mà thôi. Các quy định về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
này chỉ nên chứa đựng trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế, tránh tình
trạng muốn thực hiện một quy định trong pháp luật về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động này phải tham chiếu quá nhiều văn bản pháp luật khác nhau và
các văn bản quản lý hành chính khác. Đồng thời, pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này cần quy định đầy đủ về các điều kiện để bảo
đảm tổ chức thực thi trên thực tế và tôn trọng quyền con người.
Vì vậy, mức độ hoàn thiện của pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam ảnh
hưởng trực tiếp đến việc đạt được những mục đích xã hội mà vì chúng mà
Nhà nước phải ban hành pháp luật. Bên cạnh đó, quy định pháp luật về quản
lý thuế GTGT có chất lượng cao cho phép các chủ thể tổ chức thực hiện pháp
luật xem xét, đánh giá, xác định những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp
luật thực định để từ đó có thể đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả tổ
chức thực hiện pháp luật, cũng như sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thuế hiện hành nhằm bảo đảm sự công bằng trong kinh doanh,
bảo đảm số thu ngân sách nhà nước và tạo thuận lợi trong thủ tục hành chính
về thuế đối với người nộp thuế là các tổ chức nước ngoài có hoạt động cung
cấp DV KTS vào Việt Nam.
30
1.3.2. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của các chủ thể có thẩm
quyền
Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan có thẩm quyền có thể
coi là yếu tố quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế GTGT đối với hoạt động này. Năng lực thực thi công vụ không chỉ bao
gồm các yếu tố như trình độ, kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành vi ứng xử
mà còn bao hàm cả khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố đó trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể nhằm đặt được hiệu quả cao nhất.
Nếu như chủ thể có thẩm quyền có năng lực tổ chức thực hiện pháp luật
thì PL về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này được tuyên tuyền, phổ
biến rộng rãi tới người nộp thuế để nâng cao ý thức trách nhiệm tự khai, tự
nộp về thuế khi phát sinh nghĩa vụ. Đồng thời, nếu chủ thể có thẩm quyền có
năng lực theo dõi và đánh giá tốt tình hình tổ chức thực hiện pháp luật thì sẽ
cho ra được những thông số có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng
luật điều chỉnh kịp thời các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Ngược lại nếu như năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này của chủ thể quản lý nhà nước kém thì pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với lĩnh vực này chỉ ở trên trang giấy, là lời nói
suông; nguy cơ các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động này sẽ diễn ra thường xuyên hơn hoặc sẽ không được xử lý, không
kịp thời phòng ngừa và ngăn chặn. Hoặc năng lực của chủ thế quản lý nhà
nước kém cũng có thể dẫn đến việc đánh giá không kịp thời các văn bản pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với lĩnh vực này dẫn đến việc các văn bản đó
trở nên lỗi thời, không hợp lý hoặc chồng chéo, mâu thuẫn không được phản
ánh với các cơ quan có thẩm quyền để được sửa đổi kịp thời làm giảm hiệu
lực, hiệu quả của pháp luật, thậm chí còn làm biến dạng pháp luật trong quá
trình tổ chức thực hiện.
31
Như vậy, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của các chủ thể quản lý
nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này.
1.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý thuế giá
trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam
Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu lực, hiệu quả tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Ứng dụng triệt để CNTT
trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế sẽ nâng cao hiệu suất công tác,
giảm thiểu chi phí quản lý hành chính nhà nước và doanh nghiệp – nhất là các
tổ chức nước ngoài không thành lập và hiện diện tại Việt Nam, đồng thời tạo
thuận lợi phát triển Chính phủ điện tử.
Bên cạnh đó, bản chất DV KTS là những sản phẩm có đặc tính vô hình
và hoạt động kinh doanh dịch vụ KTS của các tổ chức nước ngoài có thể giao
dịch tại bất kỳ đâu trên thế giới và tại bất kỳ thời điểm nào, miễn làcó mạng
với các thiết bị đầu cuối (như máy tính bảng, điện thoại thông minh, máy tính
xách tay). Do đó, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật của CNTT vào
hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT trong hoạt động
này giúp chủ thể có thẩm quyền có thể truy lần, kiểm tra, giám sát đối chiếu
giữa nghĩa vụ kê khai, nộp thuế và thực tế phát sinh của tổ chức nước ngoài
cung cấp DV KTS vào Việt Nam, hoặc phát hiện những hoạt động kinh doanh
DV KTS vào Việt Nam không đăng ký, kê khai..
1.3.4. Ý thức thực hiện pháp luật của tổ chức nước ngoài cung cấp
dịch vụ kỹ thuật số vào Việt Nam
Ý thức pháp luật là nhân tố không thể thiếu trong đời sống pháp luật
32
của xã hội ở tất cả các giai đoạn phát triển của nó, nhất là từ khi xuất hiện nhà
nước pháp quyền. Ý thức pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; đồng thời quyết định hiệu quả của
việc tổ chức thực hiện pháp luật, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.
Ý thức pháp luật thể hiện ở trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp
luật, tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá
về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người,
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội
dưới môi trường điều chỉnh của pháp luật. Qua đó, có thể thấy rằng ý thức
pháp luật là cơ sở, nền tảng, định hướng và điều tiết hoạt động thực hiện pháp
luật của các chủ thể; đồng thời là tiền đề để hình thành thói quen “sống và làm
việc theo pháp luật” trong xã hội.
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động
này, do đặc điểm tổ chức nước ngoài không thành lập và hiện diện tại Việt
Nam, hiệu quả của tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt
động này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tuân thủ tổ chức nước ngoài. Nếu
mức độ tuân thủ của tổ chức nước ngoài cao, việc yêu cầu nhà cung cấp đăng
ký, kê khai và nộp thuế đối với thu nhập phát sinh tại Việt Nam sẽ mang lại
hiệu quả thiết thực, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Nếu mức độ tuân thủ
của tổ chức nước ngoài không cao, khi đó, cần phải có những biện pháp thay
thế như quy định về trách nhiệm khấu trừ và nộp thay của các tổ chức trong
nước chi trả tiền mua DV KTS như các ngân hàng thương mại hoặc các tổ
chức trung gian thanh toán.
33
1.3.5. Cơ chế phối hợp trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam giữa cơ quan hành chính nhà nước
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, không chỉ có
hệ thống cơ quan thuế làm “chủ đạo” mà còn có sự “sát cánh” của các cơ
quan chức năng khác, đặc biệt là các Bộ và cơ quan ngang Bộ như: Bộ Thông
tin Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước… Các cơ quan này đều có chức năng,
nhiệm vụ riêng của mình và thông qua thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó,
các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ cho cơ quan thuế trong việc truy vết các
giao dịch DV KTS trong môi trường mạng; truy lần, xác định nguồn thu nhập
và ngăn chặn các giao dịch DV KTS trong trường hợp không tuân thủ nghĩa
vụ về thuế tại Việt Nam. Trong trường hợp, nếu như chỉ một mình cơ quan
thuế hoặc sự phối hợp không tốt giữa các cơ quan quản lý nhà nước thì cơ
quan thuế không thể có đủ nguồn lực, điều kiện và thẩm quyền để kiểm soát
các hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
34
Tiểu kết chương 1
Tại Chương 1, luận văn đã tập trung làm rõ một số khái niệm cơ bản
như DV KTS; hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam; thuế GTGT và quản lý thuế GTGT; thực hiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Đồng
thời, tác giả đã phân tích các đặc điểm đặc thù của DVKTS, của hoạt động
cung cấp DVKTS của tổ chức nước ngoài vào VN, để trên cơ sở đó, phân tích
các luận cứ khoa học về các yếu tố tác động tới tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế đối với hoạt động này. Những nội dung tổng quan tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam là cơ sở để tác giả phân tích thực trạng và đánh giá công
tác tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này
tại Chương 2 của luận văn.
.
35
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH
VỤ KỸ THUẬT SỐ CUNG CẤP CỦA TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI VÀO
VIỆT NAM
2.1. Khái quát chung về hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ
thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Mặc dù chưa có nghiên cứu chính xác về sự hình thành và phát triển
của hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam nhưng
có thể thấy hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
được hình thành và từ khi internet vào Việt Nam từ năm 1997. Ban đầu là các
sản phẩm sách, tài liệu dưới dạng số, người tiêu dùng Việt Nam có thể đăng
ký tài khoản truy cập, tìm kiếm, đặt mua và download tài liệu tại một trang
web nước ngoài. Các sản phẩm phần mềm, trò chơi điện tử trước đây được
lưu trữ trong ổ đĩa CD mua nhập khẩu về từ nước ngoài để cài đặt cho máy
tính, nay người tiêu dùng Việt Nam có thể tìm kiếm và mua trên mạng để
download và cài đặt trực tiếp vào máy tính. Đến khi chiếc điện thoại thông
mình đầu tiên xuất hiện vào năm 2007 của hãng công nghệ Apple, ứng dụng
App Store đã tiếp tục hình thành lên thị trường ứng dụng cho sản phẩm di
động như: trò chơi điện tử, ứng dụng nghe nhạc, xem phim, quảng cáo số..
Đến nay, hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam với nhiều phương thức kinh doanh, sản phẩm kinh doanh đa dạng đến từ
nhiều tổ chức nước ngoài được thành lập tại các quốc gia khác nhau đã đem
lại nhiều tiện ích hơn cho người tiêu dùng Việt Nam.
36
2.1.2. Một số loại dịch vụ kỹ thuật số phổ biến của tổ chức nước
ngoài cung cấp vào Việt Nam trong thời gian qua
Dịch vụ truyền hình xuyên biên giới cung cấp qua nền tảng Internet
(OTT) xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2016, nổi bật lên trong những nhà cung
cấp dịch vụ truyền hình xuyên biên giới OTT là Công ty Netflix, với ứng
dụng xem trực tuyến được cài đặt sẵn vào các smart tivi thế hệ mới. Netflix
cung cấp dịch vụ vào Việt Nam từ 2016 tới nay, hiện có khoảng 300.000 thuê
bao ở Việt Nam. Netflix thu mỗi thuê bao ít nhất 120 USD/năm, như vậy
doanh thu của Netflix ở Việt Nam mỗi năm cũng lên đến 30 triệu USD [24].
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến một nhà cung cấp dịch vụ truyền hình xuyên
biên giới OTT như HBO Now, Iflix của Mỹ và We TV và IQIYI. Gần đây
tiếp tục xuất hiện những ứng dung Apple+ và Disney+….
Đối với thị trường game Việt Nam, từ năm 2015, Việt Nam được đánh
giá là thị trường game lớn nhất Đông Nam Á. Các cửa hàng game trực tuyến
xuyên biên giới trên PC như Steam, Origin, Ubisoft Store, Epic Game hay
trên di động như Apple Store, Google Play. Theo khảo sát sơ bộ của Cục phát
thanh truyền hình và thông tin điện tử trong năm 2020 thì doanh thu từ các
game phát hành xuyên biên giới được phát hành thông qua các cửa hàng game
trực tuyến nêu trên chiếm 30% doanh thu toàn thị trường game Việt Nam.
Tức là, nếu doanh thu chỉ riêng ngạch game mobile Việt Nam năm 2020 đạt
91 triệu USD thì doanh thu game xuyên biên giới sẽ chiếm hơn 30 triệu
USD[23]. Doanh thu này có được là nhờ nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
hợp tác làm trung gian thanh toán cho các trò chơi không phép này.
Đối với thị trường nhạc số, phải kể đến Spotify, một Công ty được
thành lập năm 2008 và có trụ sở tại Thụy Điển và vào Việt Nam từ năm 2017.
Với lợi thế là ứng dụng được cài mặc định trong các thiết bị di động của nền
37
tảng Android, lợi thế về người dùng trên khắp thế giới, cũng như kho bài hát
có bản quyền đồ sộ lên đến trục triệu bài, Spotify cũng đang chiếm dần ưu thế
trong thị trường nhạc số tại Việt Nam.
2.2. Pháp luật về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế đối với hoạt
động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Hệ thống văn bản pháp luật quy định cụ thể về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam bao
gồm:
- Luật thuế giá trị gia tăng năm 2013;
- Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/08/2014 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước
ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam;
- Văn bản hợp nhất số 18/VBHN-BTC ngày 19/6/2018 của Bộ Tài
chính hướng dẫn hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế và Nghị định
số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ;
- Luật Quản lý thuế năm 2019;
- Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý Thuế.
Nội dung căn bản của thuế GTGT và quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được quy định
trong các văn bản trên như sau:
2.2.1. Về thuế giá trị gia tăng
Phạm vi/đối tượng áp dụng [1]
Phạm vi/đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh
38
tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam gồm các đối tượng sau :
- Tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam
hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh
là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam
(sau đây gọi chung là nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài) kinh
doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân
Việt Nam hoặc giữa nhà thầu nước ngoài với nhà thầu phụ nước ngoài để thực
hiện một phần công việc của hợp đồng nhà thầu.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt
động kinh doanh phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ tại Việt Nam trong đó
tổ chức, cá nhân nước ngoài vẫn là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho tổ
chức Việt Nam hoặc chịu trách nhiệm về chi phí phân phối, quảng cáo, tiếp
thị, chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hóa giao cho tổ chức Việt Nam hoặc
ấn định giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ; bao gồm cả trường hợp
uỷ quyền hoặc thuê một số tổ chức Việt Nam thực hiện một phần dịch vụ
phân phối, dịch vụ khác
Phạm vi/đối tượng không áp dụng [1]
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài có thu nhập từ dịch vụ được cung cấp và
tiêu dùng ngoài Việt Nam;
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện cung cấp dịch vụ dưới đây cho
tổ chức, cá nhân Việt Nam mà các dịch vụ được thực hiện ở nước ngoài:
+ Sửa chữa phương tiện vận tải (tàu bay, động cơ tàu bay, phụ tùng tàu
bay, tàu biển), máy móc, thiết bị (kể cả đường cáp biển, thiết bị truyền dẫn),
có bao gồm hoặc không bao gồm vật tư, thiết bị thay thế kèm theo;
+ Quảng cáo, tiếp thị (trừ quảng cáo, tiếp thị trên internet);
39
+ Xúc tiến đầu tư và thương mại;
+ Môi giới: bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ ra nước ngoài;
+ Đào tạo (trừ đào tạo trực tuyến);
+ Chia cước (cước thanh toán) dịch vụ, viễn thông quốc tế giữa Việt
Nam với nước ngoài mà các dịch vụ này được thực hiện ở ngoài Việt Nam,
dịch vụ thuê đường truyền dẫn và băng tần vệ tinh của nước ngoài theo quy
định của Luật Viễn thông; Chia cước (cước thanh toán) dịch vụ bưu chính
quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài theo quy định của Luật Bưu chính, các
điều ước quốc tế về bưu chính mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tham gia ký kết mà các dịch vụ này được thực hiện ở ngoài Việt Nam.
Người nộp thuế [1]
Là tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam, tổ chức
đăng ký hoạt động theo pháp luật Việt Nam, tổ chức khác các cá nhân sản
xuất kinh doanh mua dịch vụ hoặc trả thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ
sở hợp nhà thầu hoặc hợp đồng nhà thầu phụ, bao gồm:
Các tổ chức kinh doanh được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư và Luật Hợp tác xã;
- Các tổ chức kinh tế của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang, tổ chức sự
nghiệp và các tổ chức khác;
- Nhà thầu dầu khí hoạt động theo Luật Dầu khí;
- Chi nhánh của công ty nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam;
- Tổ chức nước ngoài hoặc đại diện của tổ chức nước ngoài được phép
hoạt động tại Việt Nam;
- Văn phòng bán vé, đại lý tại Việt Nam của hãng hàng không nước
40
ngoài có quyền vận chuyển đi, đến Việt Nam, trực tiếp vận chuyển hoặc liên
danh;
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ vận tải biển của hãng vận tải
biển nước ngoài; đại lý tại Việt Nam của hãng giao nhận kho vận, hãng
chuyển phát nước ngoài;
- Công ty chứng khoán, tổ chức phát hành chứng khoán, công ty quản
lý quỹ, ngân hàng thương mại nơi quỹ đầu tư chứng khoán hoặc tổ chức nước
ngoài mở tài khoản đầu tư chứng khoán;
- Các tổ chức khác ở Việt Nam;
- Các cá nhân sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
Người nộp thuế có trách nhiệm khấu trừ số thuế giá trị gia tăng, thuế
thu nhập doanh nghiệp trước khi thanh toán cho Nhà thầu nước ngoài, Nhà
thầu phụ nước ngoài.
Phương pháp tính thuế [1]
Phương pháp tính thuế là phương pháp tỷ lệ tính trực tiếp trên GTGT.
Theo đó số thuế phải nộp được xác định bằng doanh thu tính thuế GTGT và
tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu.
= x Số thuế GTGT phải nộp Doanh thu tính thuế GTG Tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu
Trong đó:
- Doanh thu tính thuế GTGT là toàn bộ doanh thu do cung cấp dịch vụ,
dịch vụ gắn với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mà Nhà thầu nước
ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài nhận được, chưa trừ các khoản thuế phải nộp,
kể cả các khoản chi phí do Bên Việt Nam trả thay Nhà thầu nước ngoài, Nhà
thầu phụ nước ngoài (nếu có).
41
- Tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu đối với ngành dịch vụ là
5%.
2.2.2. Về quản lý thuế
Đăng ký thuế:
Đối tượng đăng ký thuế đối với trường hợp mua DV KTS của tổ chức
nước ngoài gồm 3 nhóm đối tượng sau [5]:
- Nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam
có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký;
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh ở Việt Nam mua dịch vụ của nhà cung
cấp ở nước ngoài.
- Ngân hàng thương mại;
Các đối tượng phải đăng ký thuế nộp hồ sơ đăng ký thuế tại Cơ quan
thuế nơi tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đó có trụ sở hoặc tại Cơ
quan thuế quản lý trực tiếp tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ và nộp
thuế thay bằng phương thức nộp trực tiếp tại Cơ quan thuế hoặc gửi qua
đường bưu chính hoặc qua cổng giao dịch điện tử của ngành thuế.
Kê khai thuế:
Khai thuế nhà thầu đối với trường hợp nộp thuế GTGT theo phương
pháp tính trực tiếp có thể khai theo lần phát sinh thanh toán tiền cho nhà thầu
nước ngoài (thời hạn kê khai chậm nhất là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh
nghĩa vụ thuế) hoặc khai theo tháng trong trường hợp bên Việt Nam thanh
toán cho nhà thầu nước ngoài nhiều lần trong tháng (thời hạn kê khai chậm
nhất là ngày thứ 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế). Người
nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế tại Cơ quan thuế quản lý trực tiếp bằng phương
thức nộp trực tiếp tại Cơ quan thuế hoặc qua đường bưu chính hoặc qua cổng
42
giao dịch điện tử của ngành thuế [5].
Nộp thuế:
Người nộp thuế có thể nộp thuế thông qua ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng khác và tổ chức dịch vụ trung gian thanh toán với thời hạn nộp
thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế [5].
Có thể thấy, trong pháp luật về thuế GTGT các quy định nêu trên mới
chỉ quy định đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam cho bên mua DV KTS là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh
doanh. Theo đó, bên mua là người nộp thuế sẽ phải kê khai nộp thuế thay cho
tổ chức nước ngoài cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Đối với hoạt động cung
cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho bên mua DV KTS là
cá nhân tiêu dùng, pháp luật về thuế GTGT chưa có quy định cụ thể. Trong
khi đó, pháp luật về quản lý thuế đã quy định tổ chức nước ngoài không thành
lập và hiện diện tại Việt Nam phát sinh thu nhập và kinh doanh tại Việt Nam
có nghĩa vụ đăng ký, kê khai và nộp thuế.
Thanh tra thuế, kiểm tra thuế
Cơ quan thuế thực hiện kiểm tra thuế tại trụ sở Cơ quan thuế đối với
các hồ sơ kê khai thuế nhằm đánh giá tính đầy đỉ, chính xác các thông tin,
chứng từ trong hồ sơ thuế và sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp
thuế. Bên cạnh đó Cơ quan thuế được thực hiện thanh tra kiểm tra thuế theo
kế hoạch hoặc theo kiến nghị của các cơ quan quản lý nhà nước hoặc khi phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
43
2.3. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị
gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
2.3.1. Về bộ máy tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị
gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
2.3.1.1. Về tổ chức bộ máy Tổng cục Thuế
Trên cơ sở nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng cục Thuế nêu trên, cơ cấu
tổ chức hiện tại của Tổng cục Thuế được nêu trong Hình 2.2 bao gồm 21 đơn
vị thuộc và trực thuộc. Trong đó: 15 đơn vị là các tổ chức hành chính giúp
Tổng cục Trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và công tác quản trị
nội bộ của Tổng cục Thuế và 02 đơn vị sự nghiệp và 04 đơn vị là các tổ chức
hành chính được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính để
giúp Tổng cục Trưởng làm đầu mối triển khai thực hiện một số nhiệm vụ
quản lý khác trong toàn ngành.
44
Ban lãnh đạo Tổng cục Thuế
Vụ Tuyên truyền - Hỗ trợ NNT
Vụ Quản lý Kê khai và KTT
Vụ Thanh tra Kiểm tra Thuế
Vụ Quản lý nợ và CC nợ thuế
Văn phòng
Vụ Kiểm tra nội bộ
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Tài vụ Quản trị
Vụ Chinh sách
Vụ Pháp chế
Vụ Quản lý doanh nghiệp lớn
Vụ Quản lý thuế DNNVV và HKD, CN cá nhân
Cục Công nghệ thông tin
Vụ Dự toán thu thuế
Vụ Hợp tác Quốc tế
Tạp chí Thuế
Trường nghiệp vụ Thuế
Ban Cải cách và Hiện đại hóa
Ban Quản lý rủi ro về thuế
Ban Quản lý dự án Hỗ trợ hiện đại hóa hệ thống thuế
Ban Quản lý DAĐT xây dựng chuyên ngành
Hình 2.2: Cơ cấu tổ chức Cơ quan Tổng cục Thuế
(website Tổng cục Thuế: www:gdt.gov.vn)
Theo đó, hiện nay, một số bộ phận tham mưu thuộc Tổng cục Thuế
phụ trách về công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thuế quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam như:
- Vụ Chính sách chủ trì tham mưu cho Tổng cục Thuế về những văn
bản hướng dẫn, chỉ đạo, trong toàn ngành về pháp luật về quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động này;
- Vụ Quản lý thuế Doanh nghiệp nhỏ và vừa và Hộ kinh doanh chủ trì
tham mưu cho Tổng cục Thuế về những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, trong
toàn ngành về công tác quản lý thuế đối với những giao dịch thương mại điện
45
tử xuyên biên giới liên quan đến cá nhân là người cung cấp dịch vụ;
- Vụ Kê khai và Kế toán Thuế thực hiện công tác về quản lý nhà nước
trong đăng ký thuế, kê khai thuế và theo dõi tình hình thu nộp của người nộp
thuế phát sinh nghĩa vụ thuế;
- Vụ Thanh tra Kiểm tra Thuế thực hiện công tác thanh tra trên các lĩnh
vực được phân công quản lý của Tổng cục Thuế;
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động này được phân công, phân cấp rõ ràng theo chức năng và đối tượng
quản lý. Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động này các vụ/đơn vị thuộc Tổng cục Thuế thường xuyên phối
hợp theo chức năng nhiệm vụ được giao để tham mưu cho Tổng cục Thuế
hướng dẫn chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động này trong toàn ngành.
2.3.1.2. Về phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước khác
Trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thuế Quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài, công tác phối
hợp với các cơ quan quản lý nhà nước khác được thực hiện khi phát sinh
những vụ việc có tính chất phức tạp trên cơ sở quy định pháp luật về trao đổi
thông tin được quy định tại các thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính với các
cơ quan quản lý nhà nước khác như:
- Thông tư liên tịch số 198/2009/TTLT/BTC-BCT-BKH
ngày 09/10/2009 giữa Bộ Tài chính - Công Thương - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
về việc hướng dẫn trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến người nộp thuế
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thuế, hải quan, đầu tư, thương mại và
công nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 235/2009/TTLT/BTC-BGTVT-BTTTT ngày
46
14/12/2009 giữa Bộ Tài chính - Bộ Giao thông Vận tải - Bộ Thông tin Truyền
thông về việc hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông tin hải quan, thông tin
về người nộp thuế trong lĩnh vực hải quan, thuế, giao thông, vận tải, thông tin
và truyền thông.
- Thông tư liên tịch số 239/2009/TTLT-BTC-VKSNDTC-TANDTC
ngày 21/12/2009 giữa Bộ Tài chính – Viện Kiểm soát nhân dân tối cao – Tòa
Án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan đến người phạm tội, cá nhân và tổ chức vi phạm.
- Thông tư liên tịch số 98/2010/TTLT-BTC-BNNPTNT-BYT ngày
08/07/2010 giữa Bộ Tài chính – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn –
Bộ Y Tế hướng dẫn thực hiện cung cấp, trao đổi thông tin liên quan đến
người nộp thuế, quản lý nhà nước về hải quan, nông nghiệp và y tế.
- Thông tư liên tịch số 102/2010/TTLT-BTC-NHNN ngày 14/07/2010
giữa Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn về việc trao đổi,
cung cấp thông tin giữa cơ quan quản lý thuế và các tổ chức tín dụng.
- Thông tư liên tịch số 146/2010/TTLT/BTC-BCA-BQP ngày
23/9/2010 giữa Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng về việc hướng
dẫn việc trao đổi, cung cấp thông tin hải quan, thông tin về người nộp thuế.
Vai trò, trách nhiệm của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và các cơ quan
quản lý nhà nước khác trong tổ chức thực hiện pháp luật về Quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này đã được pháp luật quy định rõ ràng và cụ thể để
bảo đảm tính hiệu lực hiệu quả hơn trong tổ chức thực hiện pháp luật về Quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động này. Các Thông tư liên tịch nêu trên bước
đầu đã tạo khung pháp lý cần thiết cho cơ quan thuế phối hợp với các cơ quan
chức năng phục vụ cho tổ chức thực hiện pháp luật về Quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động này và có một số kết quả nhất định như: Để thu thập nguồn
thu nhập của Netflix, Apple TV tại Việt Nam, Tổng cục Thuế có phối hợp với
47
Thanh tra giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước đề nghị cung cấp
thông tin dữ liệu liên quan đền tài khoản của cá nhân, tổ chức tại Việt Nam
thực hiện chuyển tiền cho các tổ chức nước ngoài như Netflix, Apple TV
[14]; để nắm bắt thông tin về công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh
doanh game của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, Tổng cục Thuế có công
văn gửi Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao của Bộ
Công An để trao đổi nắm bắt các thông tin về các tổ chức nước ngoài kinh
doanh tại Việt Nam,... Nhìn chung, các cơ quan quản lý nhà nước đã phối hợp
chặt chẽ với Tổng cục Thuế trong tổ chức thực hiện pháp luật về thuế quản lý
thuế GTGT đối với hoạt động. Tuy nhiên, việc tiếp nhận, giải quyết, cung cấp
các thông tin này đôi khi chưa kịp thời, chưa thực sự thông thoáng, chưa
thường xuyên, chưa phối hợp chặt chẽ, nhiều lúc còn thụ động, thiếu linh
hoạt, còn mang nặng tính chất hành chính. Vì vậy đã làm cho công tác phối
hợp giải quyết một số vụ việc bị chậm tiến độ, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng
yều cầu quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này.
2.3.2. Về xây dựng và ban hành các văn bản quản lý trong việc tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động
cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Sau khi Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 22/09/2014 của Bộ Tài
chính được ban hành, Tổng cục Thuế có những văn bản chỉ đạo, điều hành
liên quan đến một số mô hình kinh doanh cung cấp DV KTS vào Việt Nam
của tổ chức nước ngoài không thành lập tại Việt Nam, gồm:
- Đối với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ vận tải, Tổng cục Thuế đã tham
mưu trình Bộ Tài chính đã ban hành công văn số 11828/BTC-CST ngày
24/8/2016 hướng dẫn về chính sách thuế và quản lý thuế liên quan đến hoạt
động kinh doanh của Công ty TNHH Uber B.V Hà Lan tại Việt Nam;
48
- Công văn số 384/TCT-TNCN của Tổng cục Thuế hướng dẫn về chính
sách thuế đối với các hoạt động hợp tác kinh doanh của Công ty Grab taxi;
- Đối với lĩnh vực thương mại điện tử; nói chung: Tổng cục Thuế đã
ban hành công văn số 2623/TCT-CS ngày 16/06/2017 gửi Cục trưởng Cục
Thuế các tỉnh , thành phố đề nghị: (i) đẩy mạnh tuyên truyển, phổ biến chính
sách thuế, kê khai nộp thuế đến tất cả người nộp thuế có hoạt động thương
mại điện tử; (ii) rà soát, đôn đốc người nộp thuế có hoạt động thương mại
điện tử; phải kể khai, nộp thuế theo quy định phù hợp với phân cấp quản lý
người nộp thuế tại địa phương; (iii) thực hiện thanh tra, kiểm tra theo quy
định đối với các doanh nghiệp có kinh doanh thương mại điện tử; nhằm đưa
công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử; vào nề nếp;
- Đối với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ khách sạn: Tổng cục Thuế đã
tham mưu trình Bộ Tài chính ban hành Công văn số 848/BTC-TCT ngày
18/01/2017 hướng dẫn các Cục Thuế về chính sách thuế và quản lý thuế liên
quan đến hoạt động kinh doanh của dịch vụ đặt phòng trực tuyến. Theo đó,
đối với Công ty có trụ sở tại nước ngoài (NTNN) kinh doanh đặt phòng trực
tuyến tại Việt Nam theo hình thức trực tuyến và phát sinh thu nhập tại Việt
Nam sẽ áp dụng thuế theo tỷ lệ sau:
+ Tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu được hưởng là 5%;
+ Tỷ lệ % để tính thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu được
hưởng là 5%.
Có thể thấy, công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
đã được Tổng cục Thuế triển khai quyết liệt, trách nhiệm và thường xuyên
thông qua việc ban hành đầy đủ các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với DV KTS của tổ chức
49
nước ngoài vào Việt Nam trong toàn ngành và đạt được kết quả như sau:
Trong giai đoạn 2016 – 2019, số thuế nhà thầu (GTGT, thu nhập doanh
nghiệp) thu được của ngành thuế đối với hoạt động quảng cáo số của tổ chức
nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức tại Việt Nam là 1.299,11
tỷ đồng Việt Nam với số thu cụ thể trong giai đoạn 2016-2019 được nêu trong
Bảng 2.2 như sau:
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Thuế nhà thầu thuế Tổng số Thuế nhà thầu Năm thu nhập doanh thuế thuế GTGT nghiệp
2016 46,86 25,28 21,58
2017 90,48 50,87 39,61
2018 151,77 85,98 65,79
2019 1.010 535 475
Bảng 2.1: Kết quả kê khai thuế nhà thầu đối với dịch vụ quảng cáo số
(Nguồn: Báo cáo Công tác quản lý thuế của ngành thuế đối với hoạt
động kinh doanh thương mại điện tử [14])
Bên cạnh đó, trên cơ sở tham mưu của Tổng cục Thuế trình Bộ Tài
chính đã ban hành công văn số 11828/BTC-CST ngày 24/8/2016 hướng dẫn
về chính sách thuế và quản lý thuế liên quan đến hoạt động kinh doanh của
Công ty TNHH Uber B.V Hà Lan tại Việt Nam, Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh
đã thực hiện truy thu của Công ty TNHH Uber B.V Hà Lan là 66,68 tỷ đồng
Việt Nam [14], trong đó truy thu về thuế là 51,48 tỷ đồng Việt Nam (gồm
thuế GTGT là 26,38 tỷ đồng Việt Nam, thuế thu nhập cá nhân là 14,6 tỷ đồng
Việt Nam và thuế thu nhập doanh nghiệp là 10,5 tỷ đồng Việt Nam); phạt về
50
hành vi kê khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp là 10,3 tỷ đồng Việt
Nam và tiền chậm nộp là 4,9 tỷ đồng Việt Nam.
Tuy nhiên, ngoài kết quả truy thu của Công ty TNHH Uber B.V Hà
Lan là kết quả truy thu duy nhất đến thời điểm hiện nay thu được từ hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho các cá nhân tiêu
dùng. Các kết quả thu còn lại của Tổng cục Thuế là thu từ hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho các doanh nghiệp tổ
chức. Hiện nay, thu từ hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam cho cá nhân tiêu dùng và cá nhân hộ kinh doanh là chưa thu và
quản lý được vì những lý do sau: (i) đối với hoạt động cung cấp DV KTS của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho cá nhân tiêu dùng chưa có quy định
như đã nêu tại mục 2.2.1; (ii) đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam, mặc dù đã có quy định nhưng do các cá nhân
kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán, không thực hiện quyết toán
cuối năm nên không có cơ sở rà soát yêu cầu các cá nhân kê khai và nộp thuế
thay cho nhà thầu nước ngoài.
2.3.3. Về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc quản
lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam
Đây là nội dung quan trọng giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam đạt được chất lượng và hiệu quả. Sau khi, Bộ Tài chính
ban hành Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 22/09/2014, Tổng cục Thuế
ban hành Công văn số 4280/TCT-CS ngày 02/10/2014 để đề nghị các Cục
Thuế phổ biến thông báo cho cán bộ thuế và tuyên truyền tới người nộp thuế
trên địa bàn quản lý các nội dung mới của Thông tư số 103/2014/TT-BTC về
51
thuế nhà thầu. Đồng thời, Tổng cục Thuế đưa thông tin về Thông tư số
103/2014/TT-BTC ngày 22/09/2014 của Bộ Tài chính và Công văn số
4280/TCT-CS ngày 02/10/2014 lên trang thông tin điện tử ngành thuế để
người nộp thuế kịp thời nắm bắt các nội dung sửa đổi, bổ sung mới trong việc
tuân thủ pháp luật về thuế.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật quản lý thuế GTGT
đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
được quan tâm chú trọng thông qua việc thực hiện lồng ghép với các đợt tập
huấn pháp luật, chính sách khác mới ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung giới
thiệu; trong các lần tổ chức đối thoại hàng năm giữa Tổng cục Thuế với các
doanh nghiệp hoặc trong các bản tin thuế và cuộc sống được phát thứ hai
hàng tuần lúc 20g trên kênh truyền hình VTV1. Những hoạt động này trong
thời gian qua đã góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức nước ngoài không
hiện diện và thành lập tại Việt Nam phát sinh thu nhập hoặc hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam.
Tuy nhiên, cách thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn
chưa phù hợp và gắn với đặc điểm của tổ chức nước ngoài không hiện diện,
thành lập tại Việt Nam để tham dự các đợt phổ biến, tuyên truyền pháp luật
hoặc hội nghị đối thoại tại Việt Nam hay các chương trình tuyên truyền phát
sóng bằng tiếng Việt Nam cũng rất khó cho tổ chức nước ngoài này hiểu được
nội dung của những vấn đề phổ biến, tuyên truyền pháp luật.
Tóm lại, các phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
truyền thống như hiện nay chỉ phù hợp đối với người nộp thuế thành lập và
hoạt động tại Việt Nam, đối với tổ chức nước ngoài này cần phải có những
cách thức triển khai mới để có thể nâng cao tính tuân thủ và nhận thức của tổ
chức nước ngoài này.
52
2.3.4. Về thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ
thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế được thực hiện theo các quy định
pháp luật về Quản lý thuế và thanh tra. Cơ quan thuế có thể tiến hành thanh
tra thuế, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế hoặc kiểm tra hồ sơ kê khai
thuế tại Cơ quan thuế. Nhưng đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam có đặc điểm là tổ chức nước ngoài không hiện
diện và thành lập tại Việt Nam nên các biện pháp thực thi pháp luật này
không thể tác động đến tổ chức nước ngoài. Do đó, việc phát hiện, xử lý các
vi phạm về thuế như các hành vi không đăng ký, kê khai thuế trong thời gian
qua thường được thu thập thông qua các thông tin nghiệp vụ từ các nguồn:
phản ánh của phương tiện thông tin truyền thông; rà soát của công chức thuế
và phối hợp trao đổi thông tin với các cơ quan quản lý nhà nước như đã nêu
tại mục 2.3.1.
2.3.5. Vê hợp tác quốc tế trong quản lý thuế giá trị gia tăng đối với
hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam.
Hiện Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với
hơn 80 quốc gia/vùng lãnh thổ. Tuy nhiên các Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần
liên quan đến giải quyết các tranh chấp về nghĩa vụ thuế đối với các khoản
thuế thu nhập trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế thu nhập cá
nhân của một người nộp thuế cư trú tại một quốc gia/vùng lãnh thổ nhưng
phát sinh và thuộc thẩm quyền đánh thuế theo nội luật của mỗi quốc gia/vũng
lãnh thổ hoặc của Việt Nam. Do đó, trong hợp tác quốc tế về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này thường bị từ chối cung cấp trao đổi thông tin
giữa cơ quan thuế Việt Nam và cơ quan thuế các quốc gia/vùng lãnh thổ vì
53
thuế GTGT không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định tránh đánh thuế 2
lần được ký kết giữa Việt Nam và các quốc gia/vũng lãnh thổ. Bởi vậy, cơ sở
để hợp tác quốc tế trong quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này đang thiếu
những quy định, thảo thận pháp lý chung.
2.3.6. Về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ cho quản lý thuế
giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam
Hệ thống ứng dụng CNTT của ngành thuế được nêu trong Hình 2.3
gồm 4 nhóm chính, trong đó có 3 nhóm phục vụ cho hoạt động quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam như:
- Hệ thống ứng dụng hỗ trợ người nộp thuế Cổng thông tin Tổng cục
Thuế gồm các: Hệ thống khai/nộp Thuế online; Tra cứu thông tin hóa đơn; Hệ
thống phần mềm hỗ trợ kê khai; Các dịch vụ điện tử : Đăng ký thuế điện tử,
kê khai qua mạng, nộp thuế qua mạng, dịch vụ thuế điện tử;
- Hệ thống các ứng dụng hỗ trợ công tác quản lý thuế: được thiết kế
phục vụ theo các chức năng quản lý thuế cơ bản là: Tuyên truyền Hỗ trợ
người nộp thuế; Quản lý Kê khai và Kế toán Thuế; Quản lý thu nợ và cưỡng
chế nợ thuế; Thanh tra – Kiểm tra thuế;
- Hệ thống trao đổi thông tin với Cơ quan thuế: Hiện nay, ngành Thuế
là ngành có đầy đủ thông tin về doanh nghiệp và hộ kinh doanh đầy đủ và
được cập nhật kịp thời nhất trong số các Bộ, ngành. Các thông tin được chia
sẻ, kết nối với các Bộ, ngành như: Kết nối trao đổi thông tin Đăng ký doanh
nghiệp và truyền dữ liệu Báo cáo tài chính doanh nghiệp cho Bộ KH&ĐT;
Kết nối trao đổi thông tin doanh nghiệp cho Tổng cục Thống kê hỗ trợ công
tác điều tra thống kê; Kết nối, trao đổi thông tin với Bảo hiểm xã hội Việt
54
Nam hỗ trợ kiểm soát và phát triển thêm đối tượng phải đóng BHXH;…
Hình 2.3: Hệ thống ứng dụng CNTT ngành thuế
(website Tổng cục Thuế: www:gdt.gov.vn)
Hệ thống ứng dụng CNTT của ngành thuế như hiện nay đã phát huy tác
dụng trong việc giảm các thủ tục hành chính, thời gian xử lý các thủ tục hành
chính về thuế cho người nộp thuế và phát triển Chính phủ điện tử. Người nộp
thuế cho dù là tại Việt Nam hay tại nước ngoài, với máy tính kết nối mạng có
thể thực hiện được các thủ tục về đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế
24/24h. Bên cạnh đó, với hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung toàn ngành và hệ
thống trao đổi thông tin thường xuyên của cơ quan quản lý nhà nước khác với
cơ quan thuế đã giúp cho công tác điều hành, chỉ đạo của Tổng cục Thuế
trong quản lý thuế đối với hoạt động này được kịp thời, sát sao. Tuy nhiên, hệ
thống ứng dụng CNTT mới chỉ dừng lại kết nối từ các dữ liệu mang tính chủ
động từ người nộp thuế kê khai, đăng ký theo quy định hoặc các thông tin kết
nối từ các cơ quan quản lý nhà nước khác nắm được thường xuyên trên cơ sở
đối tượng quản lý khai báo, còn những thông tin rà soát để phát hiện ra những
tổ chức nước ngoài không thành lập và hiện diện tại Việt Nam phát sinh thu
55
nhập hoặc hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thì gần như chưa có, các thông
tin này chủ yếu được thu thập qua phản ánh từ các thông tin báo chí truyền
thông.
2.4. Đánh giá tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
2.4.1.1. Những kết quả đạt được
Có thể nói, trong những năm qua, công tác tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS vào Việt Nam đã
được triển khai, thực hiện khá đồng bộ và đạt được kết quả tích cực góp phần
tăng số thu và chống thất thu ngân sách nhà nước. Những kết quả đạt được
trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
này, bao gồm:
Một là, các văn bản chỉ đạo điều hành ban hành kịp thời
Tổng cục Thuế đã chủ động, kịp thời bàn hành các văn bản chỉ đạo,
triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam trong toàn
ngành. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho cơ quan thuế các địa phương chủ
động trong công tác quản lý thuế cũng như phối hợp triển khai thực hiện các
nhiệm vụ được giao đạt hiệu quả. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá quá trình tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS
của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua, Tổng cục Thuế đã
kịp thời tham mưu cho Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông
qua Luật Quản lý thuế năm 2019. Theo đó, Luật Quản lý thuế đã kịp thời bổ
sung quy định tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh thương mại điện tử,
56
kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác có nghĩa vụ đăng ký
thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam. Đề xuất tham mưu này của Tổng cục
Thuế có tác dụng tích cực trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh
doanh thương mại điện tử nói chung và hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam nói riêng để bảo vệ lợi ích và quyền đánh thuế
của Việt Nam; giải quyết những thách thức trong kinh tế số và bảo đảm công
bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp trong nước và
tổ chức nước ngoài trong bối cảnh phát triển hiện nay. Bên cạnh đó, việc
Tổng cục Thuế tham mưu quy định trong Luật Quản lý thuế năm 2019 về việc
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về thủ tục hành chính tại cấp Thông tư giúp
cho Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế trong chủ động quản lý Nhà nước về hoạt
động kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi
nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được triển khai hiệu
quả
Công tác truyền thông, phổ biến pháp luật về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động này được triển khai đa dạng, đồng bộ bằng nhiều hình thức; các
cơ quan truyền thông và đơn vị chủ trì được giao nhiệm vụ truyền thông (Vụ
Tuyên truyền – Hỗ trợ người nộp thuế) đã tích cực vào cuộc. Qua đó, nhận
thức pháp luật về thuế của của công chức thuế và người nộp thuế được nâng
cao; tính tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế trong việc thực hiện pháp
luật về thuế đối với hoạt động này đã có sự chuyển biến tích cực. Chẳng hạn,
có nhiều tổ chức nước ngoài xin làm việc với Tổng cục Thuế để hỏi nghĩa vụ
kê khai thuế tại Việt Nam trong thời gian như Uber, Netfilix, Amazon,..;
Ba là, hệ thống cơ sở hạ tầng CNTT đã đem lại hiệu quả trong công tác
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam
57
Trong những năm qua, ứng dụng CNTT đóng vai trò quan trọng trong
công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam nói riêng. Tổng cục
Thuế đã triển khai việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung tại Tổng
cục Thuế để hỗ trợ cho việc khai thác, tra cứu các thông tin của người nộp
thuế và làm cơ sở để kết nối trao đổi thông tin với các đơn vị/ban ngành khác,
các tổ chức quốc tế, thu thập thông tin từ mạng xã hội, sử dụng công nghệ trí
tuệ nhân tạo trong việc xử lý thông tin để đưa ra các cảnh báo rủi ro, thông tin
về mức độ tuân thủ của người nộp thuế, nhất là người nộp thuế có những hoạt
động kinh doanh xuyên biên giới. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế cũng đã đẩy
mạnh việc triển khai các ứng dụng CNTT hỗ trợ người nộp thuế trong hoạt
động giao dịch điện tử với Cơ quan thuế về đăng ký thuế, khai thuế và nộp
thuế.
2.4.1.2. Bài học rút ra
Từ những kết quả trên, bài học rút ra trong công tác tổ chức thực hiện
pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam như sau:
- Rất cần sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, kịp thời, quyết liệt của các cấp
Lãnh đạo; Sự đoàn kết nhất trí và quyết tâm, nỗ lực cố gắng của tập thể lãnh
đạo và cán bộ công chức toàn ngành Thuế để luôn bám sát các chủ trương,
chính sách cũng như các giải pháp quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này
trong việc bảo vệ và chống thất thu ngân sách nhà nước;
- Công chức trong Tổng cục Thuế nói riêng và toàn ngành thuế nói
chung luôn luôn có tinh thần nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, ý
thức thực hiện pháp luật để nhạy bén hơn trong công tác, xử lý triệt để những
đối tượng có hành vi gian lận thuế, trốn thuế. Việc tăng cường về số lượng
58
cũng như nâng cao về chất lượng luôn là một trong những vấn đề quan tâm
hàng đầu của cơ quan Tổng cục thuế;
- Hệ thống cơ sở dữ liệu và ứng dụng CNTT phục vụ công tác quản lý
thuế nói chung và quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này nói riêng luôn
luôn phải được quan tâm, đầu tư thích đáng để phát huy tác dụng trong việc
giảm các thủ tục, thời gian xử lý các thủ tục hành chính về thuế cho người
nộp thuế, cũng như trong công tác quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế
- Mặc dù, Tổng cục Thuế đã chủ động ban hành các văn bản hướng dẫn
chỉ đạo toàn ngành phạm vi thuộc thẩm quyền của mình và pháp luật về quản
lý thuế đã quy định trách nhiệm của tổ chức nước ngoài về nghĩa vụ đăng ký
thuế, khai thuế, nộp thuế nhưng pháp luật nhưng pháp luật về thuế GTGT và
Quản lý thuế vẫn còn những hạn chế sau:
+ Về xác định Người nộp thuế: trong hoạt động cung cấp DV KTS của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho cá nhân, hiện pháp luật về thuế GTGT
hiện chưa có quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ nộp thuế đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài cho cá nhân tiêu dùng tại Việt
Nam.
+ Đăng ký, kê khai, nộp thuế: Trong mô hình cung cấp DV KTS giữa
tổ chức nước ngoài với cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam, khi xác định người
nộp thuế là tổ chức nước ngoài cung cấp DV KTS cho người tiêu dùng tại
Việt Nam thì vướng mắc về xác định cơ quan quản lý trực tiếp để tổ chức
nước ngoài có thể thực hiện các thủ tục đăng ký thuế và kê khai thuế vì các tổ
chức nước ngoài không có trụ sở tại Việt Nam.
- Thứ hai, công tác điều hành chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật về
59
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này hiện đang phân tán cho 1 số
Vụ/đơn vị thực hiện. Chẳng hạn: Việc hướng dẫn về chính sách như hiện nay
được giao Vụ Chính sách hay Vụ Doanh nghiệp vừa và nhỏ và Hộ kinh doanh
thực hiện. Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với hoạt động
này được giao cho Vụ Thanh tra Kiểm tra Thuế thực hiện. Điều này nảy sinh
những khó khăn trong quá trình phối hợp tổ chức thực hiện pháp luật từ ngay
trong nội bộ cơ quan Tổng cục Thuế.
- Thứ ba, đội ngũ nhân lực làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này chưa đáp ứng được yêu cầu công
việc do hiện nay làm việc theo hình thức kiêm nhiệm.
- Thứ tư, công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về quản
lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam còn hạn chế, đặc biệt trong việc chia sẻ kịp thời, đầy đủ các thông tin do
các quy định về bảo mật thông tin trong các văn bản pháp luật chuyên ngành
khác như Luật tổ chức tín dụng, Luật an ninh mạng hoặc nhiều lúc còn thụ
động, thiếu linh hoạt, còn mang nặng tính chất hành chính hoặc do hệ thống
cơ sở hạ tầng CNTT để kết nối thông tin của mỗi bên là khác nhau nên việc
trao đổi thông tin phải thực hiện thủ công.
- Thứ năm, Mặc dù từ năm 2015, ngành Thuế đã triển khai hệ thống
quản lý thuế tích hợp (TMS) thay thế toàn bộ 16 ứng dụng hỗ trợ công tác
quản lý thuế đang triển khai tại Cục Thuế và các chi cục thuế cho phép quản
lý và lưu trữ tập trung thông tin quản lý tất cả các sắc thuế trên phạm vi toàn
quốc để đáp ứng các nghiệp vụ quản lý thuế tập trung như: đăng ký thuế, quản
lý hồ sơ, quản lý và xử lý kê khai/quyết toán thuế, kế toán thuế nội địa, quản
lý nợ, sổ sách, báo cáo phân tích, đánh giá. Tuy nhiên, đây mới chỉ là dữ liệu
“tĩnh” tại một thời điểm.
2.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
60
* Nguyên nhân khách quan:
- Trong thực tế, do một số hoạt động này có đặc thù riêng và có tính
đan xen giữa các ngành. Chẳng hạn như: Trong dịch vụ kết nối vận tải của
ứng dụng Uber, khi Uber là một Công ty có trụ sở tại nước ngoài, hoạt động
kết nối vận tải giữa lái xe và cá nhân tại Việt Nam là hoạt động cung cấp DV
KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Dịch vụ này vừa mang bóng dáng
của hoạt động dịch vụ thương mại điện tử, vừa mang bóng dáng của hoạt
động vận tải nên và mỗi hoạt động ngành kinh tế có tỷ lệ thuế suất khác nhau
(nếu theo dịch vụ thì tỷ lệ % để tính thuế GTGT là 5%; nếu theo vận tải thì thì
tỷ lệ % để tính thuế GTGT là 3%). Do đó, ngành thuế gặp khó khăn trong việc
phân loại thu nhập khi xác định nghĩa vụ thuế của tổ chức nước ngoài cung
cấp DV KTS vào Việt Nam.
- Do các hình thức thanh toán đa dạng, phương thức hoạt động kinh
doanh được thực hiện trên mạng nên rất khó khăn cho cơ quan thuế trong việc
xác định tính chính xác doanh thu của tổ chức nước ngoài để nộp thuế, do các
giao dịch của họ chủ yếu thực hiện dựa trên văn bản điện tử. Do đó, việc quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự tuân thủ của tổ chức nước ngoài.
- Rất khó kiểm tra, giám sát, thu thuế và áp dụng chế tài xử phạt vi
phạm hành chính đối với các tổ chức nước ngoài cung cấp DV KTS vào Việt
Nam do tổ chức nước ngoài không phải đặt văn phòng, chi nhánh tại Việt
Nam.
* Nguyên nhân chủ quan
- Pháp luật về thuế GTGT và quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam chưa đồng bộ, chưa theo kịp
với sự thay đổi của các mô hình kinh doanh. Thiếu tính đồng bộ giữa 2 quy
61
định pháp luật này dẫn đến việc tổ chức nước ngoài và cơ quan thuế lúng túng
khi gặp phải những vấn đề mới phát sinh từ thực tế vừa qua. Chẳng hạn như
Netflix muốn kê khai nghĩa vụ thuế GTGT tại Việt Nam khi họ thu tiền thuê
bao của người tiêu dùng tại Việt Nam, pháp luật về quản lý thuế đã quy định
việc họ có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế, khai thuế và nộp
thuế nhưng pháp luật về thuế GTGT chưa xác định Netflix là người nộp thuế.
- Chưa có đơn vị chuyên trách để quản lý thuế đối với hoạt động này,
mặc dù, quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS vào Việt Nam có
mức độ phức tạp (ví dụ như quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá) và
theo thông lệ quốc tế thì nhiều nước đều thành lập các đơn vị/phòng chức
năng để quản lý thuế đối với các hoạt động này. Nhưng đến thời điểm hiện
nay, ngành Thuế vẫn chưa có bộ phận chuyên trách để quản lý thuế đối với
hoạt động thương mại điện tử nói chung và quản lý thuế đối với hoạt động
cung cấp DV KTS nói riêng.
- Đội ngũ công chức thuế phụ trách về quản lý thuế đối với hoạt động
cung cấp DV KTS vào Việt Nam chưa được đào tạo các kỹ năng, nghiệp vụ
chuyên sâu. Việc quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS vào Việt
Nam chỉ được thực hiện dưới hình thức kiêm nhiệm nên kết quả công tác quản
lý thuế đối với hoạt động này đang còn bỏ ngỏ.
- Công tác phối hợp với các Bộ, các ngành chức năng chưa theo kịp yêu
cầu quản lý thuế đối với hoạt động này của Cơ quan thuế. Ngành thuế chưa
xây dựng được quy chế phối hợp cụ thể giữa các đơn vị thuộc các các Bộ,
ngành chức năng quản lý trực tiếp các thông tin cần trao đổi trong quản lý
thuế đối với hoạt động này.
- Hệ thống ứng dụng CNTT của ngành Thuế trong công tác tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động này chưa được đầu tư
nâng cấp kịp thời và đồng bộ, tương xứng với các mô hình hoạt động kinh
62
mới trong sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Do các hoạt động kinh tế luôn thay đổi việc triển khai tổ chức thực hiện
pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS đối với tổ chức
nước ngoài trong thực tiễn sẽ khó tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn
trong thực tiễn triển khai. Với những vướng mắc nêu trên, trong Chương 3
luận văn đề xuất những giải pháp để giải quyết đối với những vướng mắc này.
2.5. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ
thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Qua một số loại hình dịch vụ KTS của tổ chức nước ngoài cung cấp
vào Việt Nam nêu trên tại Việt Nam, cho thấy thị trường cung cấp DV KTS ở
Việt Nam có cơ hội rất lớn bởi dân số trẻ với tổng dân số xấp xỉ 95 triệu dân
trong đó có hơn 60% dân số dưới 35 tuổi [3] và thu nhập bình quân đang tăng
trưởng nhanh nên số lượng người dân dễ dàng sở hữu và sử dụng các thiết bị
thông minh (smart divices: - bao gồm: Smart phone, table, phablet, Smart TV)
có kết nối được internet ngày càng tăng. Bên cạnh đó, thế hệ trẻ Việt Nam
cũng là những người yêu công nghệ, việc sử dụng điện thoại và internet như
là một chuẩn mực đời sống hàng ngày của họ nên nhu cầu nội dung số là rất
lớn và không ngừng tăng trưởng. Số người dùng interner và hạ tầng mạng
ngày càng phát triển trong những năm vừa qua theo số liệu minh chứng tại
Bảng 2.1:
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 Đơn vị tính
lệ người sử % 54 54,19 58,14 70 Tỷ dụng Internet
% 27,3 47 Tỷ lệ hộ gia đình có kết nối internet
63
Mbit/s 1.677.775 3.716.027 6.500.965 7.796.531 Tổng băng thông kết nối Internet
Bit/s 35.694 79.659 122.235 122.458
Nguồn: Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông năm 2019 [4]
Tổng bang thông kết nối internet quốc tế/người sử dụng
Bảng 2.2: Tỷ lệ người dùng và tốc độ internet ở Việt Nam từ năm
2015 đến năm 2018
Cùng với đó là việc tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế làm
cho giao thương hàng hóa càng trở nên phong phú. Điều này giúp cho Việt
Nam là một thị trường tiềm năng về cung cấp DV KTS cho các tổ chức nước
ngoài hoạt động theo mô hình không hiện diện tại Việt Nam và cho các tổ
chức, doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam.
Trước những cơ hội phát triển của thị trường DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam nêu trên đang đạt ra những thách thức trong công
tác tổ chức thực hiện pháp luật đối với hoạt động này nói chung như sau:
- Cơ chế quản lý nhà nước không theo kip nhịp phát triển nhanh của
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam cho các
cá nhân. Chẳng hạn như đối với loại hình dịch vụ kết nối vận tải của Uber
trong thời gian, khi Uber là một Công ty có trụ sở tại nước ngoài, hoạt động
kết nối vận tải giữa lái xe và cá nhân tại Việt Nam vừa mang hình thức là hoạt
động dịch vụ thương mại điện tử, vừa mang hình thức là hoạt động vận tải
nên đã tạo ra không ít những tranh luận trong việc xác định cơ quan quản lý
nhà nước nào sẽ quản lý đối với hoạt động này và điều này cũng sẽ ảnh hưởng
đến việc xác định nghĩa vụ thuế suất thuế GTGT của tổ chức nước ngoài phải
nộp tại Việt Nam (nếu theo dịch vụ thì tỷ lệ % để tính thuế GTGT là 5%; nếu
theo vận tải thì thì tỷ lệ % để tính thuế GTGT là 3%).
64
cơ quan quản lý nhà nước khó áp đặt các quy định pháp lý như đối với các
- Tổ chức nước ngoài không thành lập, hiện diện tại Việt Nam nên các
doanh nghiệp trong nước để bắt các tổ chức nước ngoài thực hiện như: quy
định về quản lý mạng xã hội trong nước, quy định về biên tập, biên dịch và
quản lý nội dung đối với các chương trình truyền hình trực tuyến và các trò
chơi trực tuyến; quy định về lưu trữ và bảo mật dữ liệu,…
- Hoạt động cung cấp DV KTS diễn ra 24/24, trong môi trường không
gian mạng, sử dụng CNTT với rất nhiều hoạt động diễn ra trong ngày và khi
tổ chức nước ngoài không tự giác không tuân thủ các quy định tại Việt Nam
thì các cơ quan quản lý nhà nước rất khó chủ động và phối hợp trong việc phát
hiện các hoạt động kinh tế mới phát sinh để đưa vào diện quản lý. Trong khi
đó, người tiêu dùng rất ít quan tâm đến việc tổ chức nước ngoài này đã thực
hiện tuân thủ các quy định của Việt Nam hay chưa trước khi mua DV KTS.
65
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng công tác tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Trên cơ sở hệ thống hóa quy
định pháp luật về quản lý thuế GTGTđối với hoạt động cung cấp DV KTS của
tổ chức nước ngoài vào Việt Nam và những quy định pháp luật về thẩm
quyền của chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, tác giả phân
tích thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam trên 04 nội
dung chính là: (i) Bộ máy tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với
hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam; (ii) Xây
dựng và ban hành các văn bản quản lý trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam; (iii) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong
việc quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam; (iv) Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động cung
cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam; (v) Về hợp tác quốc tế
trong quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam; (vi) Cơ sở hạ tầng CNTT phục vụ cho quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam;
Từ việc phân tích thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam, tác giả đã đánh giá những kết quả đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân
của những kết quả đạt được và những hạn chế. Trong đó, tác giả tập trung
phân tích làm rõ 03 nhóm hạn chế chính về thể chế chính sách; năng lực tổ
66
chức và ứng dụng CNTT, chỉ ra nguyên nhân chủ quan, khách quan của
những hạn chế. Đây là cơ sở để tác giả đề xuất các giải pháp bảo đảm tổ chức
thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV
KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam tai Chương 3 của luận văn.
67
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ KỸ THUẬT SỐ CỦA TỔ CHỨC
NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
3.1. Quan điểm tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam
Như đã phân tích, hoạt động cung cấp DV KTS là một hoạt động kinh
tế phổ biến trong kinh tế số và trong sự phát triển cuộc cách mạng công nghệ
4.0. Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam là một nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp đối với mọi quốc gia. Do vậy, các cơ quan nhà nước Việt
Nam, không chỉ Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế là chủ thể chính được Chính
phủ giao quản lý nhà nước về quản lý thuế, mà các cơ quan quản lý Nhà nước
khác có trách nhiệm phối hợp thực hiện trong công tác này như Bộ Truyền
thông Thông tin, Bộ Công an, Bộ Công thương,… cần nhận thức đúng tính
phức tạp, khó khăn và thống nhất quan điểm trong quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động này. Một mặt, đây là nhiệm vụ cần thực hiện nhằm đảm bảo quyền
đánh thuế hợp pháp của Việt Nam, thực hiện mục tiêu về nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, duy trì môi trường kinh doanh công bằng và lành mạnh giữa
các doanh nghiệp. Mặt khác, việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này không được ảnh hưởng đến môi trường đầu tư,
ảnh hưởng đến các Hiệp định thương mại song phương/đa phương đã ký kết
hoặc những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập. Việc tổ chức thực hiện
pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động này cần được xem là một nhiệm
68
vụ thường xuyên, lâu dài; cần được đầu tư nguồn lực một cách xứng đáng,
trên cơ sở phối hợp đồng bộ nhiều giải pháp, nhiều lực lượng, bao gồm cả sự
phối hợp quốc tế cũng như sự cộng tác của chính các doanh nghiệp Việt Nam
trong hoạt động này. Do đó, quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam, cần thống nhất quan điểm sau:
3.1.1. Các văn bản quy phạm pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng, đảm
bảo tính hệ thống
Các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, rõ ràng, bảo đảm tính hệ
thống là nền tảng của tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam. Do
đó, pháp luật về thuế GTGT và quản lý thuế cần phải bảo đảm các nguyên tắc
về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật về
thuế GTGT và quản lý thuế đối với hoạt động này và hệ thống pháp luật
chuyên ngành đồng bộ và hoàn chỉnh có tác dụng: (i) tạo điều kiện cho tổ
chức nước ngoài được đơn giản hóa các thủ tục về thuế để bảo đảm chấp
hành tốt và tự nguyện tuân thủ pháp luật về thuế, song hành cung với các
nghĩa vụ khác trong pháp luật về chuyên ngành; (ii) làm gia tăng lợi ích chính
đáng của tổ chức nước ngoài, có thể làm giảm thiểu một cách tương đối động
cơ trốn/tránh thuế thông qua việc cung cấp lậu các DV KTS vào Việt Nam
như một kênh quan trọng của việc tối đa hóa lợi nhuận đối với tổ chức nước
ngoài; (iii) tạo ra hành lang thể chế, pháp lý lành mạnh cho giải pháp quản lý
thuế GTGT đối với hoạt động này.
3.1.2. Đáp ứng sự hài hòa giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích của nhà
cung cấp nước ngoài và lợi ích người tiêu dùng Việt Nam
Đứng trên góc độ tổ chức nước ngoài, tiềm năng về quy mô và phát
69
triển về thị trường DV KTS tại Việt Nam luôn là mối quan tâm của các tổ
chức nước ngoài và mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận khiến các tổ chức nước
ngoài có thể tìm mọi cách để đạt được mục tiêu ấy thông qua việc khai báo
không đầy đủ hoặc không khai báo doanh thu DV KTS cung cấp tại Việt
Nam. Đứng trên góc độ quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này, bên cạnh
xây dựng một chính sách thuế hợp lý, hấp dẫn, công khai và minh bạch thì hệ
thống các giải pháp về quản lý thuế đó phải có tác dụng làm suy giảm động cơ
trốn, tránh thuế và không tự nguyện tuân thủ của các tổ chức nước ngoài.
Đứng trên góc độ người tiêu dùng Việt Nam, họ được tiếp cận với các DV
KTS có đầy đủ tính năng, có bản quyền và đa dạng để có nhiều lựa chọn trong
tiên dùng, cũng như luôn muốn số thuế GTGT trả cho các DV KTS qua tổ
chức nước ngoài này phải được nộp tại Việt Nam. Như vậy, vấn đề đặt ra ở
đây là các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động này phải được quy định như thế nào để không làm suy giảm
thông thương trong cung giao dịch DV KTS, phát sinh những DV KTS cung
cấp lậu vào Việt Nam và làm sao để cả tổ chức nước ngoài, Nhà nước và
người tiêu dùng Việt Nam đều có lợi thông qua việc đạt được mục tiêu của
mỗi bên. Vì vậy, việc xác lập và thực thi các tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này phải đặt trên quan điểm giải quyết
hài hòa các lợi ích nêu trên.
3.1.3. Rất cần sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước
Bởi tính chất và đặc điểm của hoạt động kinh doanh DVKTS xuyên
biên giới, quy định sửa đổi, bổ sung về chính sách thuế GTGT trong hoạt
động không đơn giản chỉ là vấn đề xác định quyền đánh thuế mà còn được
xem là một biện pháp bảo về bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước và tổ chức nước ngoài. Tổ chức thực hiện pháp luật về
70
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ
quan thuế mà còn là nhiệm vụ chung của nhiều cơ quan quản lý nhà nước liên
quan, kể cả người tiêu dùng Việt Nam – những người nộp thuế và được
hưởng thụ từ nguồn thuế quốc gia. Hiện nay, chưa có một nước nào trên thế
giới có thể kiểm soát tuyệt đối các DV KTS cung cấp xuyên biên giới mà chỉ
có thể hạn chế vấn đề này bằng việc hoàn thiện pháp luật và các biện pháp
quản lý trong phạm vi quốc gia của mình. Do vậy, tổ chức thực hiện pháp luật
về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này là một nhiệm vụ chính trị lâu
dài, bền bỉ trên cơ sở pháp lý và bằng chứng thuyết phục; việc phối hợp giữa
cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan thuế trong quản lý thuế GTGT đối hoạt
động này là rất cần thiết, đảm bảo hài hòa, cân đối lợi ích quốc gia, lợi ích
doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng.
3.1.4. Phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với điều
kiện thực tiễn và khả năng của Việt Nam
Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tỏ chức nước ngoài vào Việt Nam vừa phù hợp với
chuẩn mực và thông lệ quốc tế đồng thời phải vừa phù hợp với điều kiện thực
tiễn và khả năng của Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế số và cách mạng
công nghiệp 4.0 đang trở thành xu hướng phổ biến trên toàn cầu, là mối quan
tâm và thách thức hầu hết của Chính phủ trên thế giới. Nhìn chung, hiện nay
nguyên tắc quyền đánh thuế trong các giao dịch KTS thuộc về quốc gia nơi
người tiêu dùng cư trú và hiện diện được hầu hết các quốc gia chấp nhận.
Trên cơ sở đó, việc xây dựng pháp luật về thuế GTGT và Quản lý thuế đối
với hoạt động này cần tuân thủ 05 nguyên tắc khung về thuế đối với thương
mại điện tử [26], gồm:
71
+ Nguyên tắc trung lập: Chính sách thuế GTGT nên đảm bảo tính trung
lập và công bằng giữa các hình thức thương mại điện tử, và giữa thương mại
truyền thống với thương mại điện tử. Các quyết định kinh doanh nên được
thúc đẩy bởi kinh tế hơn là những đánh giá về thuế. Người nộp thuế trong
cùng tình huống tương tự tiến hành các giao dịch tương tự phải chịu cùng
mức thuế tương tự
+ Nguyên tắc hiệu quả: Chi phí tuân thủ đối với doanh nghiệp và chi
phí quản lý hành chính cho cơ quan thuế phải được giảm thiểu ở mức thấp
nhất có thể.
+ Nguyên tắc chắc chắn và đơn giản: Các quy định về thuế GTGT cần
phải rõ ràng và đơn giản dễ hiểu để người nộp thuế có thể lường trước các
công việc về thuế trước khi thực hiện giao dịch như nộp thuế ở đâu, khi nào
và tính thuế như thế nào.
+ Nguyên tắc hiệu lực và công bằng: Các quy định về thuế phải cho
xác định đúng số thuế ở đúng thời điểm. Khả năng tránh và trốn thuế nên
được giảm thiểu trong khi trong khi vẫn thực hiện các biện pháp quản lý thích
thích hợp tương tứng với mức độ rủi ro có liên quan.
+ Nguyên tắc linh hoạt: Các quy định về thuế GTGT đối với hoạt động
này phải linh hoạt và năng động để đảm bảo song hành với các thành tựu
công nghệ và thương mại.
3.2. Giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý
thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam
Để tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam có hiệu lực,
hiệu quả cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về thể chế, con người và công
72
nghệ,… Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đề xuất một số giải
pháp cơ bản sau:
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế
đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam
Đề khắc phục những hạn chế về pháp luật thuế GTGT và quản lý thuế,
một số nội dung cần tính đến khi hoàn thiện pháp luật về thuế GTGT và quản
lý thuế của Việt Nam đối với DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam,
là:
3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng
- Quy định về phạm vi các dịch vụ KTS chịu thuế được cung cấp từ tổ
chức nước ngoài cho cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam:
Pháp luật về thuế GTGT cần phải xác định phạm vi DV KTS thuộc
diện chịu thuế, không chịu thuế (được miễn thuế). Hiện nay, Luật thuế GTGT
chưa định nghĩa thế nào là DV KTS, đồng thời cũng chưa có danh mục riêng,
cụ thể phân loại DV KTS thuộc đối tượng chịu thuế. Vì vậy sẽ khó khăn trong
việc xác định nghĩa vụ thuế của các tổ chức nước ngoài cũng như khó khăn
trong việc xác định trách nhiệm của các bên có liên quan trong giao dịch cung
cấp DV KTS xuyên biên giới. Do đó cần có giải thích chung về thuật ngữ DV
KTS trong phạm vi pháp luật về thuế GTGT. Như đã nêu tại Chương I, DV
KTS có thể được hiểu là “dịch vụ cung cấp tự động trên môi trường mạng và
không thể thiếu nếu không sử dụng CNTT, chỉ có sự can thiệp tối thiểu hoặc
không có sự tham gia của con người vào quá trình cung cấp dịch vụ”.
Về phạm vi DV KTS thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thuế
GTGT, trên cơ sở đó, pháp luật về thuế GTGT quy định danh mục hay phạm
vi các DV KTS bị điều chỉnh theo nguyên tắc “chọn - bỏ”. Chẳng hạn như:
73
Các DV không thuộc phạm vi điểu chỉnh của DV KTS như:
+ Sản phẩm phần mềm theo pháp luật về người nộp thuế.
+ Dịch vụ khám chữa bệnh từ xa.
+ Dịch vụ kết nối vận chuyển hay dịch vụ đặt phòng.
+ Dịch vụ tài chính của các các ngân hàng nước ngoài thu phí của
khách hàng là cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam.
…
Theo đó, Các DV không thuộc phạm vi điểu chỉnh của DV KTS này sẽ
được giao cho Bộ Tài chính phối hợp Bộ Thông tin truyền thông xác định
trong từng giai đoạn cụ thể.
- Quy định về nơi tiêu thụ thuộc phạm vi đánh thuế của Việt Nam theo
nguyên lý đánh thuế GTGT theo nguyên tắc điểm đến
Một vấn đề quan trọng khác cần phải được xem xét khi hoàn thiện pháp
luật về thuế GTGT đối với hoạt động này đó là việc xác định được “nơi tiêu
thụ” để xác định thẩm quyền đánh thuế của quốc gia/vùng lãnh thổ tiêu thụ
hàng hóa/dịch vụ đó. Nếu như trong DV KTS được cung cấp từ tổ chức nước
ngoài cho các doanh nghiệp, thẩm quyền đánh thuế của quốc gia/vùng lãnh
thổ được xem xét dựa vào địa điểm thành lập và hiện diện của doanh nghiệp.
Trong DV DV KTS được cung cấp từ tổ chức nước ngoài cho các cá nhân,
khi sự di chuyển của người tiêu dùng có thể tăng lên trong tương lai và nhất là
các DV KTS diễn ra trong môi trường mạng, Người tiêu thụ có thể thực hiện
mua các DV KTS từ các tổ chức nước ngoài trên một con tàu, trong xe hơi,
trên các phương tiện như điện thoại di động, máy tính bảng hoặc trong khi đi
nghỉ ở một khu vực pháp lý khác với nơi mà người tiêu thụ cư trú, điều này
dẫn đến, việc xác định “nơi tiêu thụ” trở nên hết sức khó khăn. Một cách tin
74
cậy nhất trong xác định “nơi tiêu thụ” trong DV KTS được cung cấp từ tổ
chức nước ngoài cho các cá nhân dựa vào vị trí của người mua (cá nhân) tại
thời điểm thực hiện mua DV KTS như: thông tin về địa chỉ cá nhân truy cập
trên môi trường mạng hay thông tin liên quan đến việc thanh toán…. Do đó,
chính sách thuế GTGT đối với hoạt động này cần phải quy định rõ “nơi tiêu
thụ” thuộc phạm vi pháp lý của Việt Nam để bảo vệ quyền đánh thuế của
mình trong DV KTS cung cấp xuyên biên giới theo mô hình doanh nghiệp
đến cá nhân. Các thông tin cơ bản có thể xác định nơi tiêu tiêu thụ tại Việt
Nam như: thanh toán được thực hiện thông qua ngân hàng/trung gian thanh
toán đặt tại Việt Nam; cá nhân đã sử dụng một địa chỉ IP của Việt Nam để
mua DV KTS; hoặc cá nhân đã sử dụng số điện thoại của Việt Nam để mua
DV KTS.
- Quy định về người nộp thuế là nhà cung cấp nước ngoài
Pháp luật thuế GTGT mới chỉ quy định trường hợp tổ chức nước ngoài
cung cấp DV KTS cho người mua tại Việt Nam thì bên mua (bao gồm các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh) phải thực hiện khấu trừ nộp thay thuế cho
nhà cung cấp nước ngoài. Tuy nhiên, đối với hoạt động cung cấp DV KTS
của tổ chức nước ngoài cho cá nhân tại Việt Nam thì chưa có quy định về việc
ai sẽ là người nộp thuế. Một giải pháp mà các quốc gia trên thế giới gần đây
đang áp dụng là yêu cầu các tổ chức nước ngoài thu và nộp thuế đối với phần
thu nhập từ cung cấp DV KTS xuyên biên giới. Giải pháp phù hợp hiện nay
mà Việt Nam có thể áp dụng đối với hoạt động này, đó là cần phải quy định
bổ sung tổ chức nước ngoài không thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam sẽ là
người kê khai và nộp thuế đối với doanh thu mà tổ chức nước ngoài thu được
từ cung cấp DV KTS cho cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam.
- Quy định về cơ sở tính thuế và phương pháp tính thuế GTGT.
75
Do nhà cung cấp nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam nên phương
pháp tính thuế GTGT phù hợp là phương pháp tỷ lệ % tính thuế GTGT trên
doanh thu, trong đó doanh thu tính thuế là doanh thu chưa trừ các khoản thuế
thu được từ cung cấp DV KTS cho cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam đối với
từng loại DV KTS chịu thuế GTGT.
3.2.1.2. Hoàn thiện nội dung pháp luật về quản lý thuế
- Về đăng ký thuế:
Ngoài việc ủy quyền cho bên thứ ba đăng ký kê khai nộp thuế như quy
định tại Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14, Cơ quan thuế cần tạo chức năng
đăng ký trực tuyến tại trang web của ngành thuế để tổ chức nước ngoài có thể
tự đăng ký kê khai nộp thuế với những thông tin đơn giản, không quá nhiều
thông tin bắt buộc. Chẳng hạn như:
+ Tên doanh nghiệp, bao gồm cả tên thương mại.
+ Tên và thông tin liên hệ của người có trách nhiệm làm việc với các cơ
quan quản lý thuế.
+ Mã bưu chính hoặc địa chỉ đăng ký và người liên hệ.
+ Số điện thoại của người liên hệ.
+ Địa chỉ điện tử của người liên hệ.
+ Trang web của các nhà cung cấp không liên kết mà thông qua đó các
doanh nghiệp được tiến hành các thẩm quyền về thuế.
+ Mã số thuế của nhà cung cấp tại quốc gia/vùng lãnh thổ thành lập và
hiện diện.
- Về kỳ kê khai thuế GTGT:
76
Tổ chức nước ngoài có thể kê khai theo quý, đối với những nhà cung
cấp phát sinh doanh thu lớn thì có thể đăng ký kê khai theo tháng.
- Vể tờ khai thuế GTGT
Tờ khai thuế GTGT cần đơn giản, dễ khai, dễ hiểu, giảm gánh nặng
tuân thủ cho các nhà cung cấp không cư trú ít thông tin hơn so với Nhà cung
cấp tại Việt Nam và áp dụng song ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Các thông tin
trên tờ khai dành cho nhà cung cấp không cư trú có thể được giới hạn trong
những thông tin như sau:
+ Mã số đăng ký thuế và tên của nhà cung cấp.
+ Kỳ tính thuế.
+ Loại tiền tệ và tỷ giá hối đoái nếu cần thiết.
+ Giá trị đóng thuế chịu mức thuế tiêu chuẩn.
+ Giá trị đóng thuế chịu mức thuế giảm trừ (nếu có).
+ Tổng số tiền thuế phải nộp.
- Về phương thức kê khai thuế:
Tổ chức nước ngoài có thể thực hiện hình thức kê khai thuế điện tử trên
trang thông tin điện tử của cơ quan thuế.
- Về phương thức nộp thuế:
Tổ chức nước ngoài có thể nộp thuế theo phương thức thanh toán điện
tử và xác định khoản thu nộp về Ngân sách Trung ương;
- Về hóa đơn:
Tổ chức nước ngoài có thể xem xét không áp dụng các quy định về hóa
đơn khi cung cấp DV KTS cho cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam, vì thực tế là
các cá nhân tiêu dùng sẽ không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã trả. Nếu
yêu cầu về hóa đơn, có thể xem xét cho phép hóa đơn được xuất dựa theo
77
quy định của các cơ quan có thẩm quyền nơi Nhà cung cấp cư trú, hoặc chấp
nhận các tài liệu thương mại được phát hành theo những mục đích như hóa
đơn điện tử.
- Về đồng tiền nộp thuế:
Tổ chức nước ngoài có thể nộp thuế bằng đồng Việt Nam hoặc bằng
đồng đôla Mỹ ;
Đây là giải pháp tiền đề cho việc tổ chức nước ngoài về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao đạo đức kinh
doanh của các tổ chức nước ngoài phát sinh thu nhập từ cung cấp dịch vụ
kỹ thuật số cho cá nhân tiêu dùng tại Việt Nam
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh
của các tổ chức nước ngoài phát sinh thu nhập từ cung cấp DV KTS cho cá
nhân tiêu dùng tại Việt Nam, giúp cho chính bản thân các doanh nghiệp nhận
thức đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế của mình cũng như hiểu rõ nội
dung của các quy định pháp luật về thuế nói chung và về cách xác định doanh
thu tại Việt Nam nói riêng một cách cập nhật. Mặt khác, thông qua công tác
tuyên truyền, việc sử dụng sức mạnh của công luận một cách đúng đắn và hợp
lý cũng có tác dụng ngăn chặn hay giảm thiểu các hành vi trốn thuế của các tổ
chức nước ngoài kinh doanh phát sinh thu nhập tại Việt Nam nhưng không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, nhất là những doanh nghiệp coi trọng việc giữ
gìn hình ảnh và uy tín của mình trước công chúng. Để thực hiện việc này,
ngoài các kênh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, Tổng
cục Thuế nên sớm lập một trang thông tin điện tử riêng về chống gian lận
thương mại trong cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới để tuyên truyền về hoạt
78
động này, đồng thời để mọi người có thể công khai chia sẻ, tìm hiểu khai thác
hoặc thông báo các nền tảng ứng dụng, website của các tổ chức nước ngoài
chưa thực hiện nghĩa vụ kê khai và đăng ký thuế tại Việt Nam… Biện pháp
truyền thông này là sử dụng áp lực từ trực tiếp người tiêu dùng trong việc
cùng đấu tranh bảo vệ lợi ích số thu của quốc gia.
3.2.3. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức
nước ngoài cho cá nhân tiêu dung tại Việt Nam của Tổng cục Thuế
Như đã phân tích hiện nay, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam đang giao cho nhiều đầu mối thực hiện. Bên cạnh đó,
pháp luật về quản lý thuế cũng đã quy định bổ sung thêm nhiều biện pháp áp
dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế. Tuy
nhiên, cần phải có sự đầu tư nhiều hơn về hoàn thiện tổ chức bộ máy, cũng
như bổ sung về chức năng nhiệm vụ và đầu tư về nhân lực để đáp ứng yêu cầu
quản lý thực tiễn. Cụ thể là:
- Bổ sung chức năng điều tra thuế trong quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực về thuế:
Trong bối cảnh kinh tế- xã hội hiện nay, cùng với sự phát triển của cách
mang công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ số và tài nguyên số, nhiều
nhiều phương thức hoạt động kinh doanh mới dựa trên nền tảng CNTT ra đời
với nhiều đặc thù như: dữ liệu giao dịch từ đặt hàng đến thanh toán được thực
hiện trong môi trường mạng; tính an ninh bảo mật cao,… Do đó, các đối
tượng phạm tội về thuế dễ dàng xoá dấu vết, thay đổi các phương thức kết
nối, thay đổi địa chỉ kinh doanh thuận tiện. Bên cạnh đó, chính sách và cơ chế
quản lý về thuế cũng sẽ ngày càng được cải thiện cho phù hợp với môi trường
79
kinh doanh khởi nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể pháp luật
tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh như vậy, không có chức năng
điều tra thì cơ quan thuế rất khó có những biện pháp thu thập được những dữ
liệu điện tử, dữ liệu cá nhân làm chứng cứ để chứng minh cho các hành vi
phạm tội.
Thực tiễn hiện nay, các biện pháp này chỉ được thực hiện khi chuyển
sang cơ quan công tra điều tra. Với thời gian và trình tự thủ tục như hiện nay
thì các đối tượng dễ dàng xoá bỏ dấu tích của hành vi phạm tội trong môi
trường mạng. Do vậy, ngành thuế rất cần thiết được giao bổ sung chức năng
điều tra cho cơ quan thuế để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cho hoạt động của cơ
quan tổ chức thực hiện.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng chuyên môn cao tập trung tại
bộ phận quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam nói riêng và quản lý thuế đối với thương mại điện
tử nói chung
Hiện nay, do nhiệm vụ quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV
KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được phân công cho nhiều vụ đơn
vị chức năng thuộc Tổng cục Thuế thực hiện nên tính chuyên môn chưa cao
và gặp khó khăn trong công tác phối hợp trong triển khai. Bên cạnh việc xem
xét báo cáo Bộ Tài chính trình Chính phủ kiện toàn bộ máy của Vụ Thanh tra
Kiểm tra Thuế theo hướng chuyển đổi từ Vụ Thanh tra Kiểm tra Thuế sang
Thanh tra kiểm tra Tổng cục thuế theo mô hình Cục, trong đó có các phòng
chuyên môn về nghiệp vụ thì Tổng cục Thuế xem xét báo cáo Bộ Tài chính
giao công tác quản lý thuế đối với hoạt động này cho Thanh tra Tổng cục
Thuế thực hiện, đồng thời có thành lập phòng Quản lý thuế đối với thương
mại điện tử, cùng với một số phòng chức năng khác thuộc Thanh tra Tổng cục
Thuế. Thành lập bộ phận Quản lý thuế đối với thương mại điện tử nhằm giúp
80
nâng cao năng lực công tác quản lý theo hướng chuyên sâu và thu gọn đầu
mối trong công tác quản lý thuế đối với thương mại điện tử nói chung và quản
lý thuế đối với DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam nói riêng.
- Nâng cao năng lực công chức trong công tác quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Ngoài những hiểu biết kiến thức chung về pháp luật thuế và kiến thức
về quản lý Nhà nước, các công chức làm nhiệm vụ quản lý thuế GTGT đối
với hoạt động này phải am hiểu về CNTT, tiếng Anh để sử dụng và vận hành
thành thạo các kỹ năng này trong công việc được giao. Vì vậy, một trong
những giải pháp nhằm bào đảm năng lực tổ chức nước ngoài về quản lý thuế
đối với hoạt động này, cần phải nâng cao trình độ, chuyên môn, đạo đức nghề
nghệ cho đội ngũ công chức trong hoạt động này. Cụ thể:
+ Thường xuyên tập huấn nghiệp vụ và triển khai phổ biến các văn bản
mới liên quan đến lĩnh vực quản lý được giao;
+ Tổ chức các khóa học tập kinh nghiệm quản lý thuế GTGT đối với
hoạt động này tại các Hội thảo quốc tế do các tổ chức quốc tế chủ trì hoặc tại
một số cơ quan thuế trên thế giới có điều kiện tương đồng thông qua các quan
hệ hợp tác song phương, đa phương;
+ Mời các chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm trong quản lý thuế đối
với đối với hoạt động này vào Việt Nam để trao đổi kinh nghiệm, triển khai
hợp tác trong một số lịch vực thanh tra kinh doanh xuyên quốc gia;
+ Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần đề cao
tinh thần và ý thức trách nhiệm của mỗi công chức trong việc bảo vệ cơ sở
thuế của quốc gia.
81
3.2.4. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa các Bộ, ngành trong
việc tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt
động cung cấp dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Quản lý thuế trong hoạt động này là một hoạt động quản lý phức tạp
cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước. Để đảm bảo công tác
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở pháp
luật quản lý thuế đã quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà
nước trong việc cung cấp thông tin phục vụ quản lý thuế, Tổng cục Thuế (Bộ
Tài chính) cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành để bảo đảm công tác quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động này có hiệu lực, hiệu quả. Do đó, trên cơ sở
các thông tư liên tịch như hiện nay, Tổng cục Thuế cần xây dựng quy chế
phối hợp trao đổi thông tin với các đơn vị thuộc các Bộ, ngành liên quan
nhằm xác định các thông tin định danh cần trao đổi, phương thức, đầu mối
trao đổi, qua đó bảo đảm tính kịp thời trong công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này. Cụ thể như sau:
- Xây dựng quy chế phối hợp cung cấp và trao đổi thông tin với Bộ
Công thương (đầu mối là Cục quản lý Thương mại Điện tử và Kinh tế số)
trong việc nắm bắt được các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử nói chung và kinh doanh DV KTS nói riêng; các sàn giao dịch
thương mại điện tử theo quy định pháp luật về thương mại điện tử mà các tổ
chức, cá nhân này phải khai báo đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước.
- Xây dựng quy chế phối hợp cung cấp và trao đổi thông tin với Bộ
Thông tin và Truyền thông (đầu mối là Cục Phát thanh truyền hình và thông
tin điện tử) về hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên
mạng, trò chơi điện tử trên mạng;
- Xây dựng quy chế phối hợp cung cấp trao đổi thông tin với Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (đầu mối là Thanh tra giám sát Ngân hàng) để chỉ
82
đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong việc phối hợp với cơ quan quản
lý thuế thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về
quản lý thuế; Xây dựng và phát triển hệ thống thanh toán thương mại điện tử
quốc gia, các tiện ích tích hợp thanh toán điện tử để sử dụng rộng rãi cho các
mô hình thương mại điện tử; Thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch
thanh toán hỗ trợ công tác quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp dịch vụ
xuyên biên giới;
- Xây dựng quy chế phối hợp cung cấp trao đổi thông tin với ngân hàng
thương mại về việc cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế
của người nộp thuế khi mở tài khoản; Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải
nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có
hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.
- Xây dựng quy chế phối hợp cung cấp trao đổi thông tin với Bộ Công
an (đầu mối là Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao) để tăng cường đấu tranh, ngăn chặn, xử lý vi phạm trong kinh
doanh cung cấp DV KTS cung cấp cấp từ các tổ chức nước ngoài vào Việt
Nam không kê khai nghĩa vụ nộp thuế.
3.2.5. Mở rộng hợp tác quốc tế với cơ quan thuế các quốc gia/vùng
lãnh thổ hỗ trợ các biện pháp hành chính
Trong khi việc đơn giản hóa là yếu tố quan trọng để tăng cường sự
tuân thủ cho cơ chế đăng ký và tuân thủ đối với các tổ chức nước ngoài cung
cấp DV KTS tại Việt Nam. Bên cạnh những giải pháp hoàn thiện pháp luật,
tăng cường năng lực thực thi thuế cho các cơ quan thuế và công chức, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý thuế là giải pháp bảo đảm gián
tiếp và thực sự cần thiết trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này.
83
Tăng cường hợp tác quốc tế có thể tập trung vào việc trao đổi thông tin
và hỗ trợ thu thuế thông qua Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với từng quốc
gia/vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Việt Nam sớm ra nhập Hiệp định đa phương
về Hỗ trợ hành chính chung về thuế (hay còn gọi là MAC) đây sẽ là điều kiện
để hỗ trợ quản lý là một biện pháp quan trọng để bảo đảm sự tuân thủ nghĩa
vụ kê khai và nộp thuế của các NCCNN nhằm khắc phục những hạn chế trong
quy định về trao đội thông tin theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa
Việt Nam với từng quốc gia/vùng lãnh thổ. Biện pháp này cũng sẽ rất hữu ích
trong việc xác định các nhà cung cấp, xác nhận tình trạng của khách hàng,
theo dõi khối lượng cung cấp, và đảm bảo số lượng thuế thu được là chính
xác.
3.2.6 Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin phục vụ tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cung cấp
dịch vụ kỹ thuật số của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam
Đây là điều kiện vật chất không thể thiếu cho hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động này. Do đó, trong quá trình
thực hiện, hệ thống CNTT luôn luôn phải đáp ứng và bảo đảm để công tác tổ
chức thực hiện pháp luật mới có thể triển khai hiệu quả trên thực tế và bắt kịp
với xu hướng phá triển trên thế giới. Trước tiên, hệ thống ứng dụng CNTT
của ngành Thuế đòi hỏi phải tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện trên cơ sở tích hợp
CSDL từ các Bộ ngành khác như NHNN (quản lý các giao dịch thanh toán
không dùng tiền mặt), Bộ Công An (cơ quan quản lý an ninh thông tin trên
không gian mạng) , Bộ Thông tin truyền thông (cơ quan quản lý tên miền).
Bên cạnh đó, để đáp ứng mục tiêu tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế
GTGT đối với hoạt động này trong thời gian tới, Tổng cục Thuế cần kho dữ
liệu lớn (Big Data) và áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo về người nộp thuế.
84
Do đó, Tổng cục Thuế cần bố trí kinh phí hàng năm để đầu tư mới hoặc nâng
cấp các thiết bị, ứng dụng hệ thống CNTT gắn liền với nền tảng trí tuệ nhân
tạo và dữ liệu lớn (Bigdata) để thu thập, phân tích cơ sở dữ liệu điện toán, sử
dụng phương pháp điều tra tội phạm kỹ thuật số; phục hồi các tệp tin bị xóa
trong máy tính công, đọc các file đặt mã, ... . Bảo đảm hạ tầng CNTT hiện đại
cho tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này
sẽ góp phần xây dựng nền tảng để thực thi chính sách thuế chặt chẽ, công
bằng và minh bạch và phòng ngừa trốn thuế hiệu quả.
85
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam tại cơ quan Tổng cục Thuế, tại Chương 3, tác giả đưa ra
một số giải pháp cơ bản sau: về hoàn thiện chính sách thuế GTGT và Quản lý
thuế cần bổ sung quy định về người nộp thuế là tổ chức nước ngoài, bổ sung
quy định về xác định phạm vi tiêu thụ tại Việt Nam, bổ sung quy định tỷ lệ
tính thuế trong phương pháp tính thuế theo phương pháp trực tiếp và đơn giản
hóa các thủ tục đăng ký, kê khai, nộp thuế; giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh của tổ chức nước ngoài; nâng cao
năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động này
của Tổng cục Thuế; tăng cường công tác phối hợp quản lý giữa các Bộ, ngành
trong việc quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ
chức nước ngoài vào Việt Nam; tăng cường hợp tác quốc tế với cơ quan thuế
các quốc gia/vùng lãnh thổ và đầu tư hệ thống CNTT phục vụ công tác quản
lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài
vào Việt Nam.
86
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động
cung cấp DV KTS của các tổ chức nước ngoài vào Việt Nam đang ngày càng
đa dạng về hình thức, đa dạng về sản phẩm cung cấp. Tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này có hiệu quả, hiệu lực để xác
định chính xác nghĩa vụ thuế của các tổ chức nước ngoài, đảm bảo môi
trường kinh doanh bình đẳng, cũng như bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền đánh
thuế đối với các sản phẩm được tiêu dùng trên lãnh thổ của quốc gia là yêu
cầu đặt ra đối với cơ quan thuế Việt Nam.
Với mục tiêu nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng tổ chức thực hiện pháp
luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của công tác này, trước hết, trong Chương 1 của luận văn,
tác giả đã hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam. Trên cơ sở những vấn đề tổng quan, tại Chương 2 của
luận văn, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức
nước ngoài vào Việt Nam. Cụ thể, trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật
về thuế GTGT, quản lý thuế, về trách nhiệm của các chủ thể tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động này và tình thực tiễn
thực hiện các quy định đó trên 4 nội dung, tác giả chỉ ra những kết quả đạt
được và bài học rút ra; những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
Các hạn chế tập trung vào vào các nội dung trong quy định pháp luật thuế
GTGT, quản lý thuế, trong tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, phối hợp tổ chức
và hạ tầng CNTT. Các hạn chế được chỉ ra xuất phát từ những nguyên nhân,
87
bao gồm sự thiếu đồng bộ trong pháp luật về thuế GTGT và quản lý thuế;
thiếu tập trung nguồn lực và công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước
chưa linh hoạt mang nặng thủ tục hành chính; hệ thống CNTT chưa đáp ứng
yêu cầu quản lý.
Xuất phát từ những hạn chế trong về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam , tại Chương 3
của luận văn, tác giả nêu quan điểm và đưa ra (6) giải pháp tổ chức thực hiện
pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với đối với hoạt động cung cấp DV KTS
của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, cụ thể là: (i) Hoàn thiện pháp luật về
quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước
ngoài vào Việt Nam; (ii) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao đạo
đức kinh doanh của các Tổ chức nước ngoài phát sinh thu nhập từ cá nhân
tiêu dùng tại Việt Nam; (iii) Nâng cao năng lực tổ chức của cơ quan Tổng cục
Thuế trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam; (iv) Xây dựng
cơ chế phối hợp công tác phối hợp quản lý giữa các Bộ, ngành trong việc tổ
chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt động cung cấp
DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam; (v) Mở rộng hợp tác quốc tế
với cơ quan thuế các quốc gia/vùng lãnh thổ hỗ trợ các biện pháp hành chính
(vi) Đầu tư hệ thống CNTT phục vụ công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam .
Với việc phân tích một cách có hệ thống về công tác tổ chức thực hiện
pháp luật tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế GTGT đối với hoạt
động cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, luận văn về
cơ bản đã đạt mục tiêu nghiên cứu đề ra. Tuy nhiên, một số vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu, làm rõ sau nghiên cứu này là: Về xác định tỷ lệ % thuế GTGT
88
trên doanh thu trong phương pháp tính trực tiếp áp dụng đối với hoạt động
cung cấp DV KTS của tổ chức nước ngoài vào Việt Nam để bảo đảm công
bằng giữa các nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp trong nước; Xác định cơ
chế khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế GTGT của tổ chức nước ngoài khi đối với
dịch vụ mua vào được sử dụng tại Việt Nam của tổ chức nước ngoài phục vụ
cho hoạt động cung cấp DV KTS vào Việt Nam./.
89
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Chiến Thắng – Nguyễn Tiến Kiên (2020), Hoàn thiện quy
định pháp luật về thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ kỹ thuật số cung cấp từ
tổ chức nước ngoài, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 301, trang 78 – 82.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Tài liệu từ các văn bản quy phạm pháp luật, Báo cáo, Đề tài NCKH, Giáo
trình:
1. Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/08/2014 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với
tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu
nhập tại Việt Nam, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2019), Văn bản hợp nhất số 67/VBHN-BTC ngày
19/12/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế giá trị
gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm
2013 của Chính phỉ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều Luật thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
3. Bộ Thông tin và truyền thông (2018), Báo cáo phân tích hiện trạng ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam, Hà Nội.
4. Bộ Thông tin và truyền thông (2020), Sách trắng Công nghệ thông tin và
truyền thông, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
5. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Nghị định
số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý Thuế, Hà Nội.
6. Nguyễn Chí Dũng (2012), Quản lý thuế đối với hoạt động Thương mại
điện tử – Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam”, Đề
tài NCKH cấp Tổng cục Thuế, Hà Nội.
7. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Những vấn đề cơ bản về
hệ thống chính trị - Hành chính, Nhà xuất bản chính trị - Hành
91
chính, Hà Nội, tr 318
8. Học viện tài chính (2010), Giáo trình Quản lý thuế, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
9. Học viện tài chính (2014), Giáo trình Thuế, Nhà xuất bản Tài chính, Hà
Nội.
10. Học viện tài chính (2014), Giáo trình Thuế tiêu dùng, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
11. Nguyễn Hoàng (2017), Quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và khai
thác Game: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục Thuế, Hà Nội.
12. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày
25/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế thuộc Bộ Tài
chính.
13. Nguyễn Quang Tiến (2016), Giải pháp giải pháp hoàn thiện chính sách
và quản lý thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ Tài chính, Hà Nội.
14. Tổng cục Thuế (2020), Báo cáo Công tác quản lý thuế của ngành thuế đối
với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, Hà Nội.
15. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2015), Giáo trình thương mại điện tử
cơ bản, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
16. Nguyễn Xuân Tú (2017), Thực trạng quản lý thuế đối với hoạt động
thương mại điện tử tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý thuế giai đoạn 2016-2020, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Tổng cục Thuế, Hà Nội.
92
17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 14 (2019),
Luật số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019 về Quản lý
Thuế, Hà Nội.
18. Văn phòng Quốc hội (2016), Văn bản hợp hợp số 01/VBHN-VPQG ngày
28/4/2016 của Văn phòng Quốc hội về Luật thuế giá trị gia tăng,
Hà Nội.
Tài liệu trên các tạp chí, báo điện tử:
19. Trịnh Hoàng – Lê Dung (2019), Quản lý thương mại điện tử xuyên biên
giới: Hãy học hỏi kinh nghiệm từ Quốc tế, Thời báo Kinh tế tế Sài
gòn Online, từ trang www.thesaigontimes.vn/293950/quan-ly-
thuong-mai-dien-tu-xuyen-bien-gioi-hay-hoc-hoi-kinh-nghiem-tu-
quoc-te.html, truy cập lúc 11g20 ngày 01/10/2020.
20. Phan Đức Huy (2012), Thuế GTGT với xuất, nhập khẩu dịch vụ: Xu
hướng quốc tế và quá trình phát triển ở Việt Nam, Tạp chí tài
chính điện tử, từ trang www.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-
doi/trao-doi-binh-luan/thue-gtgt-voi-xuat-nhap-khau-dich-vu-xu-
huong-quoc-te-va-qua-trinh-phat-trien-o-Viet-Nam, truy cập lúc
9g00 ngày 15/11/2020.
21. Thế Lâm (2019), Doanh thu ở Việt Nam vài ngàn tỉ, Facebook, Google
vẫn không đóng thuế, Báo Lao động điện tử , truy cập từ trang
https://laodong.vn/kinh-te/doanh-thu-o-viet-nam-vai-ngan-ti-
facebook-google-van-khong-dong-thue-741390.ldo, truy cập lúc
16g00 ngày 17/11/2020.
22. Lê Quang Thuận, Trần Thị Hà (2018), Quản lý thuế thương mại điện tử
tại một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí tài chính
điện tử, từ trang www.tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-
93
doi/nghien-cuu-dieu-tra/quan-ly-thue-thuong-mai-dien-tu-tai-mot-
so-nuoc-va-kinh-nghiem-cho-Viet-Nam-145776.html, truy cập lúc
16g00 ngày 20/12/202.
23. Hữu Tuấn (2020), Game lậu sắp hết thời hoành hành, Báo đầu tư điện tử,
https://baodautu.vn/game-lau-sap-het-thoi-hoanh-hanh-
d129618.html) truy cập lúc 17g ngày 16/12/2020.
24. Thanh xuân, Mai Phương (2020), Doanh thu hàng tỷ USD nhưng nộp thuế
nhỏ giọt, từ trang https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-
doanh/doanh-thu-hang-ty-USD-nhung-nop-thue-nho-giot-
1296852.html, truy cập lúc 11g ngày 18/12/2020.
Tiếng Anh
25. European Commission (2018), Proposal for a Council Directive on the
commom system of a digital services tax on revenues resulting
from the provision of certaim digital services.
26. Organization for Economic Cooperation and Development - OECD
(2017), International VAT/GST Guidelines.
27. Royal Malaysia Customs Department (2019), Service Tax (Digital
Services) (Amendment) Regulations 2019.
28. Us Congres (2011), The digital goods and services Tax Fairness Act.
94