ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

QU¶N Lý THUÕ TµI NGUY£N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

QU¶N Lý THUÕ TµI NGUY£N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Huyền Trang

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI

NGUYÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN ....... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên ............................ 7

1.1.1. Khái niệm quản lý thuế tài nguyên ....................................................... 7

1.1.2. Nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên .................................................... 11

1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của quản lý thuế tài nguyên ...................................... 13

1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế tài nguyên ........ 15

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ......... 15

1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............. 18

1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............................. 20

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ....... 22

Kết luận chương 1 ......................................................................................... 25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI

NGUYÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM ........... 26

2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ..... 26

2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể quản lý thuế tài nguyên .................... 26

2.1.2. Thực trạng quy định về nguyên tắc và nội dung quản lý thuế tài nguyên .... 35

2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên .......... 41

2.1.4. Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp

luật trong quản lý thuế tài nguyên ....................................................... 44

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở

Việt Nam hiện nay ............................................................................ 49

2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về

quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ................................................... 49

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong quá trình

thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ............... 59

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc

trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............. 78

Kết luận chương 2 ......................................................................................... 80

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ

THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM ............................................. 81

3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ....... 81

3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài

nguyên ở Việt Nam .............................................................................. 86

3.2.1. Cải cách thủ tục hành chính về quản lý thuế tài nguyên ..................... 86

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý thu thuế

tài nguyên ........................................................................................... 89

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong quản

lý thuế tài nguyên ................................................................................ 91

3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính sách

thuế tài nguyên cho đối tượng nộp thuế .............................................. 94

Kết luận chương 3 ......................................................................................... 96

KẾT LUẬN .................................................................................................... 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NNT: Người nộp thuế

NSNN: Ngân sách nhà nước

QLT: Quản lý thuế

TNTN: Tài nguyên thiên nhiên

UBND: Uỷ ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Tên bảng Số hiệu

49

Bảng 2.1 Kết quả thu NSNN từ thuế tài nguyên ở Việt Nam

Bảng 2.2 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu do

50

ngành thuế quản lý (%)

Bảng 2.3 Tỷ lệ thu thuế tài nguyên so với GDP và tổng thu

50

NSNN giai đoạn 2016-2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) là tài sản quý giá và có vai trò đặc biệt

quan trọng đối với cuộc sống của loài người. Sự phát triển mạnh mẽ của nền

kinh tế kéo theo sự gia tăng mạnh mẽ về nhu cầu khai thác và sử dụng tài

nguyên. Việc khai thác tài nguyên ngày càng tăng trở thành vấn đề cấp thiết

buộc các quốc gia phải quan tâm, đặc biệt là đối với các loại tài nguyên quý

hiếm hay các loại tài nguyên không có khả năng tái tạo như dầu khí, than…Vì

thế, việc quản lý sử dụng tiết kiệm có hiệu quả TNTN là vấn đề quan trọng

của tất cả các nước, trong đó có công cụ thuế. Trong số các loại thuế có vai

trò trực tiếp tác động đến việc quản lý, khai thác tài nguyên, thuế tài nguyên

là một trong những giải pháp chủ yếu hiện nay các nước đang sử dụng trong

quản lý việc khai thác TNTN.

Trong thời gian qua, chính sách thuế tài nguyên của Việt Nam đã từng

bước được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hướng đến

mục tiêu khuyến khích phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi đôi

với sử dụng hiệu quả nguồn TNTN, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong quá

trình áp dụng, chính sách thuế tài nguyên của Việt Nam đã bộc lộ một số

điểm hạn chế và bất cập, chưa thực sự khuyến khích việc khai thác và sử dụng

tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả. Chính sách thuế tài nguyên cũng chưa phát huy

hiệu quả đối với việc giải quyết các vấn đề về bảo vệ môi trường, quản lý khai

thác TNTN dẫn đến thực trạng thất thu về sản lượng, về giá… còn phổ biến.

Thực tế cho thấy, việc khai thác tài nguyên trong thời gian qua đã đóng

góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) và có tăng trưởng hàng năm,

nhưng cũng đã phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường,

1

công tác quản lý khai thác, sử dụng, quản lý thu NSNN. Thu từ thuế tài

nguyên, phí cấp quyền khai thác và các khoản thu khác liên quan đến việc

khai thác khoáng sản chiếm khoảng 17% tổng thu NSNN. Tuy nhiên, việc

quản lý các khoản thu này còn nhiều bất cập về mặt chính sách cũng như cơ

chế quản lý. Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước cần phải sớm có

nghiên cứu, đánh giá toàn diện để có giải pháp hoàn thiện công tác quản lý

khai thác, sử dụng và thu NSNN trong hoạt động khai thác tài nguyên phù

hợp với quy định của pháp luật và tình hình thực tế. Trong đó, việc hoàn thiện

chính sách và công tác quản lý thu NSNN về thuế tài nguyên là rất cần thiết

và có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với số thu NSNN mà còn đối với

việc điều chỉnh hành vi của người khai thác tài nguyên.

Xuất phát từ tầm quan trọng của chính sách thuế tài nguyên và thực tế

việc quản lý thu thuế tài nguyên nên đề tài “Quản lý thuế tài nguyên theo

pháp luật Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và

thực tiễn về quản lý thuế tài nguyên và pháp luật quản lý thuế tài nguyên; trên

cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài

nguyên ở Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề từ góc độ

lý thuyết về quản lý thuế tài nguyên và pháp luật về quản lý thuế tài nguyên;

phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

trong thời gian qua; đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể góp phần

hoàn thiện công tác quản lý thuế tài nguyên.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, lý thuyết về quản

lý thuế (QLT) nói chung và QLT tài nguyên nói riêng; lý thuyết về điều chỉnh

pháp luật đối với hoạt động QLT tài nguyên; các quy định pháp luật về QLT

2

tài nguyên; thực tiễn thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề lý thuyết và

thực tiễn pháp lý về QLT tài nguyên ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2016

cho đến năm 2019.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng phối hợp

các phương pháp nghiên cứu phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như

phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, khảo sát thực

tế nhằm đưa ra các luận cứ làm nổi bật những tồn tại, hạn chế trong công tác

QLT tài nguyên.

Các phương pháp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với

nhau nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn mà đề tài đặt ra. Trong

quá trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng các thông tin, tài liệu, số liệu thống

kê của Tổng cục Thuế cũng như tham khảo các bài viết, đề tài nghiên cứu của

một số tác giả trong và ngoài nước.

5. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề về hiệu quả

công tác QLT tài nguyên, bổ sung thêm lý luận trong nghiên cứu về thuế tài

nguyên, các loại thuế và phí khác liên quan đến việc khai thác tài nguyên ở

Việt Nam;

Thứ hai, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm, các khuyến nghị

và đề xuất giải pháp có tính khả thi về chính sách và công tác quản lý nhằm

nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên tại Việt Nam trong tương lai;

Thứ ba, luận văn đưa ra các kiến nghị hữu ích cho việc ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động khai thác tài nguyên cũng như cải

tiến công tác quản lý thu thuế, sửa đổi quy trình quản lý thu thuế tài nguyên

3

góp phần tăng cường công tác quản lý thu NSNN đối với hoạt động khai thác

tài nguyên, góp phần tăng thu NSNN, ngăn chặn tình trạng trốn thuế, gian lận

thuế đối với các hoạt động này.

6. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đến nay, những nghiên cứu chuyên sâu về thuế tài nguyên và quản lý

thuế tài nguyên chưa nhiều, đặc biệt là vấn đề điều chỉnh bằng pháp luật đối

với hoạt động quản lý thuế tài nguyên. Tuy vậy, thực tế cho thấy đã có khá

nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến lĩnh vực thuế, quản lý

thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng. Khái quát lại, có thể đề

cập đến một số công trình tiêu biểu sau đây:

- Luận án tiến sĩ của Vũ Văn Cương (2012) bảo vệ tại Trường Đại học

luật Hà Nội với đề tài “Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường

ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận án luận bàn

và phân tích những vấn đề chung về việc quản lý thuế, nghiên cứu những vấn

đề lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật QLT trong nền kinh tế thị trường.

Nghiên cứu chỉ rõ những hạn chế của cơ chế chính sách thuế hiện nay đối với

nền kinh tế thị trường và đưa ra những giải pháp khắc phục, tuy nhiên chưa đi

sâu nghiên cứu tác động của thuế tài nguyên.

- Luận án tiến sĩ của Tạ Văn Nam bảo vệ năm 2016 tại Học viện chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh với đề tài “Thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở

tỉnh Vĩnh Phúc trong hội nhập quốc tế”. Luận án nghiên cứu các vấn đề lý

luận chung về thuế cũng như vai trò của thuế, trong đó có thuế tài nguyên đối

với phát triển kinh tế xã hội ở địa phương tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề về thuế tài

nguyên chưa được tác giả nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt; đồng thời, tác

giả cũng chưa đưa ra những đánh giá về tác động của thuế tài nguyên lên việc

khai thác tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả và tăng số thu cho NSNN.

- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Phương năm 2017, tại Trường

4

Đại học kinh tế quốc dân với đề tài “Tác động của thuế tài nguyên đối với

khai thác tài nguyên thiên nhiên – Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình”.

Luận án nghiên cứu và phân tích tác động của thuế tài nguyên đối với khai

thác TNTN. Tác giả đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao tác động của

thuế tài nguyên, đảm bảo khai thác tài nguyên một cách tiết kiệm và tăng

nguồn thu NSNN.

- Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Thùy Linh năm 2013, tại Khoa

Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật về

quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên đá trên địa bản tỉnh Hà

Nam”. Luận văn nghiên cứu các vấn đề về QLT đối với khai thác tài nguyên

đá, phân tích những hạn chế và đưa ra những giải pháp trong quá trình áp

dụng pháp luật QLT đối với hoạt động khai thác đá.

- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hoài An năm 2017, tại Đại

học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng với đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý thuế

tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Đắk Lắk”. Luận văn nghiên cứu thực trạng và

đưa ra những giải pháp tăng cường QLT tài nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu các đơn vị do Văn phòng Cục

thuế quản lý nên chưa mang tính bao quát.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu những

vấn đề chung nhất về các loại thuế (trong đó có thuế tài nguyên), về tác động

của thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản cũng

như nghiên cứu các giải pháp để hoàn thiện công tác QLT tại địa bàn một số

tỉnh. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa xem xét một cách toàn diện về cơ

sở lý luận của hoạt động quản thuế tài nguyên để từ đó đưa ra các giải pháp

nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên theo pháp luật Việt Nam trong phạm vi cả

nước. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện chính sách

QLT tài nguyên và hiệu quả QLT tài nguyên tại Việt Nam mang ý nghĩa lý

5

luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần chống thất thu NSNN.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận văn

được kết cấu gồm 03 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên và pháp

luật về quản lý thuế tài nguyên.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên và thực tiễn

thực hiện ở Việt Nam.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài nguyên ở

6

Việt Nam.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN

VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN

1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên

1.1.1. Khái niệm quản lý thuế tài nguyên

Để có cách hiểu đúng về bản chất của hoạt động quản lý thuế tài

nguyên, trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm và đặc điểm của thuế

tài nguyên.

Tài nguyên bao gồm toàn bộ các dạng vật chất, tri thức được con người

sử dụng để tạo ra của cải vật chất hay giá trị sử dụng mới. Trong số các loại

tài nguyên thì tài nguyên thiên nhiên vốn dĩ có đặc tính cơ bản là ngày càng

trở nên khan hiếm do sự khai thác, sử dụng của con người. Để quản lý hiệu

quả nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm tránh nguy cơ cạn kiệt nguồn tài

nguyên, việc áp dụng công cụ thuế nói chung và thuế tài nguyên nói riêng

được xem là nội dung quan trọng.

Từ khía cạnh lý thuyết, thuế tài nguyên có thể định nghĩa là loại thuế

gián thu, áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác tài

nguyên trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của việc đánh thuế tài nguyên là

hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng, khuyến

khích các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có

hiệu quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, đồng thời bảo đảm nguồn thu

cho NSNN để bảo vệ, tái tạo tài nguyên và điều hòa quyền lợi của các tổ

chức, cá nhân sử dụng tài nguyên.

Với định nghĩa trên, thuế tài nguyên được biết đến với những đặc trưng

cơ bản như: a) có bản chất là thuế gián thu; b) đối tượng chịu thuế là tài

7

nguyên thiên nhiên được tổ chức, cá nhân khai thác dưới mọi hình thức; c)

mục đích nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết, quản lý

hiệu quả hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu

quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, bảo đảm cho NSNN có nguồn thu

để bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên.

Xét về bản chất, thuế tài nguyên là sắc thuế đánh vào hoạt động khai

thác tài nguyên và tài nguyên nguyên khai thực tế khai thác. Thuế tài nguyên

là sự cưỡng chế một khoản tài chính từ tổ chức, cá nhân khai thác do Nhà

nước thực hiện với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên.

Thuế tài nguyên có các chức năng cơ bản sau đây: (i) Thuế tài nguyên

là công cụ tạo nguồn thu cho NSNN, phân phối lại để chi cho việc cải tạo môi

trường và đầu tư cơ sở hạ tầng nơi khai thác tài nguyên (thuế tài nguyên - trừ

dầu thô là khoản thu để lại 100% cho ngân sách địa phương); (ii) Thuế tài

nguyên góp phần điều tiết kinh tế thông qua việc thúc đẩy tổ chức, cá nhân

đổi mới công nghệ trong khai thác, sản xuất, chế biến tài nguyên do được xác

định là là khoản chi phí đầu vào của quá trình khai thác, chế biến tài nguyên,

đồng thời tác động tới khuynh hướng tiêu dùng trong xã hội.

Trong quá trình áp dụng thuế tài nguyên ở bất cứ quốc gia nào, việc

quản lý thuế tài nguyên cũng luôn là vấn đề quan trọng được đặt ra nhằm tối

ưu hóa vai trò của thuế tài nguyên đối với chính phủ các nước.

Về phương diện lý thuyết, quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam lâu nay

vẫn được tiếp cận như là một hoạt động của các cơ quan nhà nước chuyên

trách (cơ quan quản lý thuế). Tuy nhiên, để hiểu đúng về bản chất của quản lý

thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng, cần bắt đầu từ việc làm

rõ khái niệm “quản lý”.

Theo từ điển Tiếng Việt:

Quản lý là trông coi và điều khiển các hoạt động nào đó theo những

8

yêu cầu nhất định.

Còn theo cuốn Giải thích thuật ngữ pháp lý Việt Nam thì:

Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị

quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức. Nó nhằm chỉ

một tập hợp các hoạt động cần thiết phải thực hiện nhằm đạt được

những mục tiêu chung [10].

Quản lý còn được hiểu là:

Một phạm trù để chỉ các những mối quan hệ giữa các chủ thể quản lý

và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong

điều kiện có sự biến đổi của môi trường [17, tr.6]. Hay, Quản lý là sự

tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã

hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích đúng

ý chí và phù hợp với quy luật khách quan [15, tr.61].

Như vậy, dù được định nghĩa theo cách nào thì quản lý đều được dùng

để nói tới hoạt động của con người nhằm thực hiện những mục tiêu đã định

thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp, kiểm soát

và thúc đẩy hoạt động của những thành viên trong tổ chức đó.

Từ cách định nghĩa nói trên về thuật ngữ “quản lý”, có thể cho rằng

quản lý thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng là một nhánh

quan trọng của quản lý tài chính công. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về

khái niệm QLT với phạm vi và mục đích khác nhau.

Trong giáo trình “Tài chính công” của Trường Đại học Kinh tế thành

phố Hồ Chí Minh (2005) có định nghĩa: “Quản lý thuế là những biện pháp

nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu NSNN thực hiện”…”Đó là những

hoạt động thường xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm

đảm bảo thu thuế kịp thời, đầy đủ và đúng luật định”. Theo cách định nghĩa

này, QLT là quản lý thu thuế, bao gồm xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ chức

9

các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế.

Theo Giáo trình Quản lý tài chính nhà nước của Trường đại học Tài

chính (2000), quản lý thuế được coi là hoạt động quản lý thuế bằng các biện

pháp hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trong pháp luật thực định, Luật Quản lý thuế Trung Quốc đưa ra

khái niệm: “Quản lý thuế là một chuỗi các hoạt động bảo đảm mục tiêu thu

NSNN bao gồm: quản lý đăng ký thuế, quản lý sổ sách chứng từ, quản lý

khai báo nộp thuế, truy thu tiền thuế, kiểm tra thuế và đảm bảo trách nhiệm

pháp luật về thuế” [8, tr.18].

Như vậy, dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng các

cách tiếp cận đều thống nhất cho rằng QLT là một lĩnh vực quản lý chuyên

ngành tài chính công, được thực hiện bởi những chủ thể có thẩm quyền nhằm

hướng tới mục đích đảm bảo việc tuân thủ pháp luật thuế và phát huy các vai

trò của thuế trong tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước, điều tiết kinh tế

và hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội.

Từ kết quả phân tích, bàn luận trên đây về khái niệm quản lý thuế, tác

giả luận văn cho rằng khái niệm quản lý thuế tài nguyên cũng được hiểu

tương tự như khái niệm quản lý thuế nói chung, không có nhiều sự khác biệt,

ngoại trừ phạm vi quản lý thuế tài nguyên chỉ liên quan đến lĩnh vực hẹp là

thuế tài nguyên. Xuất phát từ quan điểm nhận thức như vậy, tác giả cho rằng

có thể định nghĩa về quản lý thuế tài nguyên như sau:

Quản lý thuế tài nguyên là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,

theo đó các chủ thể này sử dụng phối hợp các công cụ và các phương pháp

khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế tài nguyên.

Bản chất của QLT tài nguyên là sự tác động có ý thức bằng quyền lực

và theo quy trình của chủ thể QLT tài nguyên tới đối tượng quản lý thuế tài

nguyên để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của QLT tài

10

nguyên. Đây là quá trình mà Nhà nước hoạch định và xây dựng chính sách.

Các công cụ chủ yếu được sử dụng trong quản lý thuế tài nguyên gồm pháp

luật, kế hoạch và chính sách. Trong đó, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong

việc định hướng và điều tiết các quan hệ kinh tế cũng như tạo cơ chế pháp lý

đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ thuế giữa các chủ thể. Quản lý

thuế tài nguyên sử dụng các phương pháp gồm hành chính, kinh tế và giáo

dục. Trong đó, phương pháp hành chính giữ vai trò cốt lõi, buộc đối tượng

quản lý thuế tài nguyên phải tuân thủ. Nhà nước sử dụng các công cụ và

phương pháp này để đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời số thu cho NSNN, giảm

chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài nguyên, đồng thời nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật về thuế của các tổ chức, cá nhân.

1.1.2. Nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên

TNTN là tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước

làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Việc quản lý, khai thác tài

nguyên một cách hiệu quả ở mỗi nước, đặc biệt là ở các nước có nguồn

TNTN phong phú sẽ tạo ra nguồn lợi ổn định và lâu dài cho sự phát triển đất

nước. Trái lại, nếu việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng

phí sẽ gây ra các tác động tiêu cực cho nền kinh tế, đồng thời làm ảnh hướng

xấu đến môi trường sống của quốc gia đó. Trong các công cụ và biện pháp

quản lý khác nhau, công cụ tài chính được xem là một trong những công cụ

quan trọng để quản lý tài nguyên, mà điển hình trong công cụ tài chính đó là

việc thu thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên – gọi là thuế tài nguyên.

Bên cạnh thuế tài nguyên, còn một khoản thu nữa đối với hoạt động khai thác

TNTN là phí bảo vệ môi trường hay thuế bảo vệ môi trường.

Nhà nước, với tư cách là đại diện chủ sở hữu (toàn dân) đối với tài

nguyên thiên nhiên, đồng thời là chủ thể quản lý đối với tài nguyên thông qua

việc ban hành pháp luật, chính sách… sẽ chỉ định cơ quan thuế đại diện cho

11

mình để thực hiện chức năng thu thuế tài nguyên và quản lý thuế tài nguyên,

đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể khai thác tài nguyên và giữa các chủ

thể kinh doanh khác theo quy định.

Xét về phương diện lý thuyết, việc QLT tài nguyên phải dựa trên các

nguyên tắc QLT nói chung. Cụ thể như sau:

Một là, hoạt động của các bên trong quan hệ QLT tài nguyên phải đảm

bảo tính tuân thủ pháp luật. Theo đó, pháp luật quy định trách nhiệm, quyền

hạn của các cơ quan quản lý cũng như quyền và nghĩa vụ của NNT. Các bên

được phép lựa chọn để thực hiện các hoạt động nhất định nhưng phải đảm bảo

trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Đồng thời, cần thúc đẩy ý thức tuân

thủ, nâng cao tính tự giác của NNT cũng với việc tạo điều kiện cho NNT lựa

chọn cách thức khai thuế và nộp thuế một các chủ động sao cho phù hợp với

hoạt động kinh doanh.

Hai là, việc QLT tài nguyên phải đảm bảo công khai, minh bạch, bình

đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NNT. Có thể nói đây là nguyên

tắc quan trọng nhất trong QLT nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói

riêng. Nó đòi hỏi mọi quy định về QLT, các quy trình, thủ tục thu nộp thuế

phải được quy định rõ ràng và phải được công bố công khai cho NNT và các

chủ thể có liên quan biết. Các quy định đó phải đơn giản, dễ hiểu và được

diễn đạt để có thể hiểu một cách nhất quán, tránh tình trạng cùng một quy

định lại hiểu theo nhiều cách khác nhau gây hoang mang cho NNT cũng như

cơ quan QLT. Trong quá trình QLT, phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các đối

tượng nộp thuế, tăng cường sự tham gia giám sát của người dân, cơ quan, tổ

chức có liên quan để phòng chống tham nhũng, thái độ quan liêu, cửa quyền

của cán bộ thuế, đảm bảo cho hoạt động QLT được thực hiện một cách có

hiệu quản và đúng pháp luật.

Ba là, phải thường xuyên thực hiện cải các thủ tục hành chính và ứng

12

dụng công nghệ thông tin hiện đại trong QLT. Trong đó, đảm bảo cắt giảm

và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính, tăng cường sử dụng các ứng

dụng công nghệ thông tin đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của

NNT, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành

chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh

hội nhập kinh tế quốc tế.

Bốn là, QLT tài nguyên phải đảm bảo nguyên tắc quản lý lý rủi ro

trong QLT. Theo đó, thường xuyên đánh giá tình hình đối tượng nộp thuế để

phát hiện các trường hợp có khả năng xảy ra rủi ro trong quá trình QLT, từ đó

đưa vào danh sách các đối tượng cần được tiến hành thanh tra, kiểm tra nhằm

tránh thất thu thuế.

Năm là, QLT tài nguyên phải tuân thủ, phù hợp với các chuẩn mực

và thông lệ quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia cần có

những thay đổi cơ bản về quản lý sao cho phù hợp với các thông lệ và cam

kết quốc tế. Việc tuân thủ các cam kết và thông lệ quốc tế sẽ khuyến khích

hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, đem lại những lợi ích về

kinh tế cho quốc gia.

1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của quản lý thuế tài nguyên

Tài nguyên được phân bố rộng khắp ở các quốc gia và vùng lãnh thổ.

Mỗi quốc gia đều có quyền sở hữu, khai thác và sử dụng đối với các loại tài

nguyên thuộc phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.

TNTN tạo ra những lợi ích rất to lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Sự

phát triển của kinh tế xã hội kéo theo sự gia tăng nhu cầu về tài nguyên, dẫn

đến nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên, môi trường bị ô nhiễm. Do đó, đối

với các nguồn tài nguyên sẵn có phải đảm bảo khai thác và sử dụng hiệu quả;

đối với các nguồn tài nguyên tái sinh cần phải được nuôi dưỡng và bảo vệ

nghiêm ngặt. Cùng với đó, cần kết hợp với hoạt động khảo sát đối với các loại

13

tài nguyên mới cũng như thực hiện nghiên cứu, sáng tạo ra các nguồn tài

nguyên nhân tạo góp phần duy trì sự phát triển cân đối, bền vững và ổn định.

Để làm được điều đó, cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh, mà dường như chỉ

có Nhà nước với vai trò của mình mới có thể giải quyết được. Theo đó, Nhà

nước quy định thuế tài nguyên, sử dụng như một công cụ hiệu quả được và

làm căn cứ pháp lý để thống nhất việc tổ chức quản lý thu thuế tài nguyên trên

cả nước, đồng thời góp phần chống lãng phí và huỷ hoại các nguồn tài nguyên.

Từ các vấn đề trên, có thể cho rằng hoạt động quản lý thuế tài nguyên

có vai trò chủ yếu như sau:

Thứ nhất, QLT tài nguyên là một hệ thống pháp luật có tính thống nhất

giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa việc xây dựng chính sách thuế với tổ

chức hành thu nhằm đảm bảo thống nhất nguồn thu cho NSNN trong cả nước.

Các văn bản pháp luật về thuế tài nguyên phải được ban hành gắn liền với việc

đưa chúng vào thực tế, và phải có sự phối kết hợp giữa các cơ quan có liên quan

nhằm duy trì ổn định nguồn thu cho NSNN và quyền lợi của NNT.

Thứ hai, QLT tài nguyên được thực hiện bằng pháp luật và các biện

pháp nghiệp vụ,trong đó pháp luật được xem là công cụ chủ yếu và là cơ sở

pháp lý mang tính bắt buộc đối với các đối tượng điều chỉnh của luật QLT.

Thứ ba, QLT tài nguyên góp phần đảm bảo tính hiệu quả trong thực

hiện công cụ kinh tế - thuế tài nguyên - để điều tiết và góp phần bảo vệ, khai

thác, sử dụng tài nguyên được tiết kiệm, hiệu quả. Thuế tài nguyên với vai trò là

một trong những công cụ tài chính để nhà nước thực hiện chức năng quản lý tài

nguyên của quốc gia nói chung và thông qua đó cũng góp phần giải quyết những

vấn đề có liên quan đến môi trường. Chức năng quản lý tài nguyên của nhà nước

được thể hiện rõ trong các quy định của chính sách thuế tài nguyên về đối tượng

chịu thuế, NNT, căn cứ tính thuế và kê khai thuế.

Căn cứ nội dung kê khai, nộp thuế tài nguyên, cơ quan quản lý thuế và

14

các cơ quan nhà nước có liên quan có thể giám sát được hoạt động khai thác,

sử dụng TNTN. Từ đó, giúp địa phương tăng cường công tác quản lý và cấp

phép khai thác tài nguyên và có chính sách khuyến khích đầu tư để chế biến

sâu nhằm nâng cao giá trị tài nguyên.

Thứ tư, việc QLT tài nguyên có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào

nhiều yếu tố khác như ý thức pháp luật của người dân, trình độ của công chức

thuế, cơ sở vật chất của ngành thuế… Vì vậy, việc cải cách hệ thống thuế phải

được tiến hành một cách đồng bộ và phải tạo ra được chiến lược mang tính

tổng quát, tránh lối cải cách chắp vá.

1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế tài nguyên

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Trước sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, cùng với mục tiêu phát triển

kinh tế Việt Nam theo hướng tăng trưởng bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã

phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm

nhìn đến năm 2050. Nội dung chủ đạo của chiến lược này bao hàm việc thúc đẩy

quá trình tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế hướng tới sử dụng TNTN hiệu quả

hơn, đồng thời nâng cao sự cạnh tranh kinh tế qua việc thúc dẩy đầu tư nhằm đổi

mới công nghệ; góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo phát triển kinh

tế bền vững. Thực hiện chiến lược đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy

phạm pháp luật, trong đó phải kể đến một số văn bản pháp luật điển hình như:

Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 của Quốc hội ngày 25/11/2009, Luật

Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17/11/2010, Luật Tài nguyên nước số

17/2012/QH13 ngày 21/6/2012, Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày

23/6/2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này.

Trong khoa học pháp lý, pháp luật QLT được xác định là một bộ phận

cấu thành quan trọng của hệ thống pháp luật về thuế ở mỗi quốc gia. Nó là

công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng trong công tác QLT. Hiện nay, trên

15

thế giới pháp luật về thuế được ban hành theo hai xu hướng phổ biến: (i) quy

định gộp các sắc thuế trong một bộ luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ;

(ii) ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế. Cho dù xây dựng pháp

luật thuế theo cách thức nào thì pháp luật QLT bao giờ cũng có vai trò quan

trọng trong việc quản lý, điều hành chính sách thuế. Hay nói cách khác, luật

QLT là luật tổ chức thực hiện các luật thuế - các đạo luật thuế là pháp luật nội

dung còn luật QLT là pháp luật thủ tục.

Ở Việt Nam, các nhà làm luật đã lựa chọn cách tiếp cận thứ hai, tức là

ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế và đồng thời cũng ban hành

một đạo luật riêng về quản lý thuế - gọi là Luật QLT. Đạo luật này có nhiệm

vụ quy định về trình tự, thủ tục thực hiện công tác QLT như đăng ký thuế, cấp

mã số thuế, thủ tục mua bán hóa đơn, chứng từ, kê khai thuế, hoàn thuế, miễn

giảm thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, giải

quyết khiếu nại, tố cáo.

Về phương diện học thuật, việc đưa ra khái niệm pháp luật QLT nhằm

xác định ranh giới giữa các nhóm quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi luật nội

dung và luật thủ tục, từ đó lựa chọn áp dụng quy phạm pháp luật phù hợp, đạt

được hiệu quả điều chỉnh cao. Tuy nhiên, ranh giới này lại không hoàn toàn

rạch ròi trong cách thể hiện. Nó phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và

sự lựa chọn của các nhà làm luật. Chẳng hạn, các quy định quản lý có tính

chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các văn bản pháp luật

nội dung của sắc thuế đó, còn các quy định mang tính chất chung sẽ được đưa

vào luật QLT. Điều này không phá vỡ nguyên tắc chung, đồng thời đạt được

hiệu quả cao trong quản lý thuế [20].

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật QLT và

pháp luật QLT tài nguyên như sau:

Pháp luật quản lý thuế tài nguyên là một bộ phận quan trọng của pháp

16

luật quản lý thuế nói chung, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do

Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt

động quản lý thuế tài nguyên của Nhà nước, nhằm đảm bảo tập trung thu

đúng, đủ và đúng hạn số thuế, hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước và

đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước.

Cũng giống như pháp luật QLT nói chung, pháp luật QLT tài nguyên

mang những đặc điểm sau đây:

Một là, pháp luật QLT tài nguyên do Nhà nước ban hành và bảo đảm

thực hiện. Pháp luật QLT tài nguyên do cơ quan QLT xây dựng, trình cấp có

thẩm quyền ban hành. Quá trình xây dựng pháp luật luôn có sự tham gia của

rất nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân theo những trình tự và thủ

tục chặt chẽ để đảm bảo tính khoa học, chính xác và khả thi trong điều chỉnh

các quan hệ xã hội trong lĩnh vực QLT tài nguyên nói riêng. Pháp luật QLT

tài nguyên được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp, đặc biệt

là các biện pháp cưỡng chế như phạt tiền, phạt tù. Từ đó, pháp luật luôn được

các tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện. Có như vậy, pháp

luật QLT tài nguyên mới thực sự đi sâu vào đời sống xã hội và có cơ hội để

phát huy hiệu quả.

Hai là, pháp luật QLT tài nguyên có tính quy phạm phổ biến, gồm

những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Pháp luật QLT tài nguyên

bao gồm các quy tắc xử sự chung trong quan hệ thuế tài nguyên, được thể

hiện dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật, có tính chặt chẽ cao và được

xây dựng trên cơ sở khái quát hóa những trường hợp phổ biến, điển hình

trong xã hội. Pháp luật QLT tài nguyên được Nhà nước xây dựng cho tất cả

các chủ thể có liên quan và mang tính bắt buộc chung.

Ba là, pháp luật QLT tài nguyên có tính xác định chặt chẽ về hình thức

và có tính hệ thống. Điều này thể hiện ở chỗ, những quy định pháp luật luôn

17

được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị định,

thông tư… Ngoài ra, pháp luật QLT tài nguyên được thể hiện trong hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ

trung ương đến địa phương ban hành với giá trị pháp lý và phạm vi điều chỉnh

khác nhau. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật QLT tài nguyên phải đảm bảo

tính thống nhất trong chính nội tại của nó. Tính hệ thống đặt ra yêu cầu phải

loại bỏ ra khỏi hệ thống những quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không còn

phù hợp; các quy định trong hệ thống pháp luật QLT tài nguyên phải có sự

thống nhất với nhau và phải phù hợp với thực tiễn.

Tóm lại, pháp luật QLT tài nguyên có bản chất là pháp luật hình thức, quy

định về trình tự, thủ tục thực hiện luật thuế tài nguyên, còn pháp luật thuế tài

nguyên là pháp luật nội dung, quy định về chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế,

căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và chế độ miễn giảm thuế, hoàn thuế…

1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Điều chỉnh pháp luật nói chung và việc điều chỉnh pháp luật đối với

hoạt động quản lý thuế tài nguyên cần được xem là một vấn đề mang tính chất

kỹ thuật, đồng thời là nghệ thuật. Chính vì thế, việc điều chỉnh pháp luật đối

với thuế tài nguyên cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây:

Thứ nhất, việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quản lý

thuế tài nguyên phải đảm bảo mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả nguồn tài

nguyên thiên nhiên của đất nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn

định xã hội. Để đảm bảo nguyên tắc này, việc đánh thuế tài nguyên phải dựa

trên căn cứ tính thuế là giá trị nguồn tài nguyên nguyên khai, chứ không phải

là giá trị tài nguyên đã qua sử dụng hoặc chế biến.

Tài nguyên nguyên khai là tài nguyên vẫn ở trạng thái như nó vốn có

trước khi khai thác, khi vừa khai thác, hoặc mới chỉ làm sạch mà chưa thay

đổi tính chất lý, hóa của tài nguyên. Bản chất và mục đích của thuế tài nguyên

18

là đánh vào sản phẩm của tự nhiên – tài nguyên nguyên khai có được qua việc

khai thác nhằm đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể khai thác khi mà điều

kiện và chi phí tài nguyên là khác nhau. Theo nguyên tắc này, việc đánh thuế

tài nguyên cần đảm bảo sản lượng tính thuế là sản lượng tài nguyên nguyên

khai thực tế khai thác; giá tính thuế tài nguyên là giá trị tài nguyên tại nơi khai

thác, không bao gồm các chi phí khai thác, phân loại, sàng tuyển, vận chuyển.

Thứ hai, việc đánh thuế tài nguyên cần phải căn cứ vào các yếu tố gồm

tính chất, đặc điểm, điều kiện khai thác của từng loại tài nguyên.

Mặc dù đều do tự nhiên sinh ra nhưng mỗi loại tài nguyên lại có tính

chất, đặc điểm khác nhau như giá trị tài nguyên, tiềm năng khai thác, khả

năng tái tạo, điều kiện khai thác, chi phí khai thác… Hơn nữa, cần quản lý

điều tiết đối với việc khai thác từng loại tài nguyên và đảm bảo công bằng

giữa các chủ thể khai thác tài nguyên.

Để việc khai thác tài nguyên có hiệu quả thì mức thuế suất thuế tài

nguyên cần được nghiên cứu cho từng nhóm, từng loại tài nguyên trên cơ sở

những đặc điểm đó. Thí dụ, đánh thuế suất tháp hơn đối với những loại tài

nguyên có khả năng tái tạo nhanh so với những loại tài nguyên tái tạo lâu

hoặc chỉ khai thác được một lần; điều kiện khai thác càng khó khăn thì mức

thuế tài nguyên càng thấp…

Thứ ba, việc xây dựng mức thuế suất thuế tài nguyên cần phải dựa trên

lợi thế so sánh giữa tài nguyên thiên nhiên khai thác, sử dụng với các nguồn

vật liệu có sẵn khác.

TNTN là được xem là một yếu tố đầu vào của sản suất, được sử dụng

thay thế cho các nguyên liệu đầu vào khác như nguyên liệu nhập khẩu,

nguyên liệu nhân tạo…trong một số trường hợp. Theo đó, mức thuế suất thuế

tài nguyên phải được tính toán nhằm đảm bảo sau khi chịu thuế, chi phí sử

dụng tài nguyên phải tương đương với các nguyên liệu khác. Đảm bảo cho

các nguồn lực xã hội được phân phối công bằng, đảm bảo tính khả thi của

19

thuế tài nguyên cũng như thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Thứ tư, chính sách thuế tài nguyên được thiết lập gắn chặt với yêu cầu

bảo vệ môi trường sinh thái.

TNTN không phải là vô hạn và việc khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi

không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi

trường sinh thái. Để bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước và bảo vệ môi trường

sinh thái, chính sách thuế tài nguyên phải được thiết lập theo hướng gắn chặt với

yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, coi thuế tài nguyên là một biện pháp tài

chính quản lý khai thác tài nguyên, nhằm bảo vệ môi trường. Thuế tài nguyên

phải bao quát và quản lý được các hoạt động khai thác TNTN. Cần nghiện cứu

xây dựng thuế suất thuế tài nguyên nhằm điều tiết và định hướng hoạt động, khai

thác tài nguyên, chẳng hạn, tài nguyên khi khai thác có thể gây nguy hại cho môi

trường thì phải đánh thuế cao hơn và ngược lại.

1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Quản lý thuế tài nguyên là một bộ phận của QLT, do đó cấu trúc của

pháp luật về QLT tài nguyên cơ bản cũng bao hàm những nội dung được quy

định tại Điều 3 Luật Quản lý thuế. Nói đến cấu trúc của pháp luật QLT tài

nguyên là nói đến các bộ phận cấu thành của pháp luật QLT tài nguyên. Về

mặt lý thuyết, cấu trúc này bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

(i) Nhóm quy định về chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên

Nhóm quy phạm pháp luật này có nhiệm vụ quy định về thành phần

chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên (bao gồm các cơ quan quản lý thuế,

các cơ quan nhà nước khác và tổ chức, cá nhân khác tham gia quản lý thuế tài

nguyên). Mặt khác, nhóm quy phạm pháp luật này cũng quy định nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích của các chủ thể trong quá trình tham gia

quản lý thuế tài nguyên.

(ii) Nhóm quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên

20

Các quy phạm pháp luật này có nhiệm vụ quy định trình tự, thủ tục

hành thu thuế tài nguyên và QLT tài nguyên, bao gồm quy định về đăng ký,

kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, truy thu và hoàn thuế tài nguyên.

Đây là những hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng QLT

tài nguyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu như trước đây, các

hoạt động này thường được thực hiện bằng các quyết định hoặc hành vi hành

chính đơn phương của Nhà nước và bất chấp thái độ của NNT thì hiện nay

quy trình này về cơ bản đã được thay đổi theo hướng dành quyền chủ động tối

đa cho NNT trong việc tự đăng ký thuế, tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế

cho cơ quan quản lý thuế, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên

của các cơ quan QLT.

(iii) Nhóm quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế tài nguyên

Đây là những quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lý hành

chính của Nhà nước đối với xã hội nói chung và đối với NNT nói riêng.

Trước đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế thường được tiến hành trước

khi NNT thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi là cơ chế “tiền kiểm”. Tuy nhiên,

gần đây, những nỗ lực trong quá trình cải cách hành chính thuế đã dẫn đến

việc chuyển đổi từ cơ chế “tiền kiểm” sang cơ chế “hậu kiểm”, theo đó cơ

quan QLT chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra sau khi NNT đã tự thực hiện các

thủ tục chính yếu của quá trình QLT như đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế

và nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế hay xin miễn giảm thuế. Dựa trên cơ

sở kết quả thanh tra và kiểm tra, cơ quan thuế có quyền áp dụng các chế tài xử

lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế. Việc quy định theo hướng

này không những làm giảm gánh nặng công việc cho cơ quan QLT, đảm bảo

tính hợp lý của quá trình QLT mà còn tạo điều kiện để cơ quan thuế nâng cao

tính chuyên nghiệp trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế – với tư cách là

21

những công cụ QLT hiệu quả nhất [36].

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Pháp luật nói chung và pháp luật về quản lý thuế tài nguyên nói riêng

luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó phải kể đến một

số yếu tố cơ bản sau đây:

1.2.4.1. Yếu tố chính trị

Về phương diện lý thuyết, vai trò tác động của yếu tố chính trị đối với

pháp luật nói chung và pháp luật quản lý thuế tài nguyên nói riêng được thể

hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tác động của yếu tố chính trị thể hiện ở chỗ, đảng cầm quyền

sẽ đề ra đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính

sách thuế. Trên cơ sở các chủ trương, đường lối chính trị của Đảng cầm

quyền, Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa bằng pháp luật để quản lý, điều

hành đất nước, trong đó có lĩnh vực quản lý thuế tài nguyên.

Thứ hai, sự tác động của yếu tố chính trị đối với pháp luật về quản lý

thuế tài nguyên thể hiện ở chỗ, thể chế chính trị của mỗi quốc gia có tầm ảnh

hưởng nhất định đến hệ thống thuế nói chung và thuế tài nguyên nói riêng ở

quốc gia đó. Tùy thuộc và mô hình thể chế chính trị ở mỗi nước mà chính

sách thuế nói chung và chính sách quản lý thuế tài nguyên nói riêng sẽ có

những quy định đặc thù riêng, phù hợp với mô hình thể chế chính trị của mỗi

nước. Suy cho cùng, chính sách thuế ở mỗi quốc gia chỉ là một trong số các

công cụ để bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong xã hội (chính quyền, người

dân, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư) và bảo vệ thể chế chính trị.

Thứ ba, sự tác động của yếu tố chính trị đối với pháp luật về quản lý

thuế tài nguyên còn được thể hiện ở chỗ, xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu thu

NSNN trong từng thời kỳ mà chính sách thuế nói chung và chính sách thuế tài

nguyên nói riêng cần phải được điều chỉnh nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu

22

thu ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ

yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân và thuế tài nguyên là một

trong số những loại thuế giữ vai trò này. Thuế tài nguyên được sử dụng như

công cụ nhằm giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, giúp ổn định kinh tế -

xã hội, phát triển đất nước lâu dài.

1.2.4.2. Yếu tố kinh tế

Không thể phủ nhận rằng thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội

ở mỗi quốc gia cũng là một yếu tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến chính

sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật thuế tài nguyên nói riêng.

Sự tác động này thể hiện ở chỗ, trình độ phát triển của nền kinh tế không chỉ

đặt ra nhu cầu sử dụng thuế như là một công cụ để điều tiết nền kinh tế, điều

tiết hoạt động kinh doanh và hình thành cơ chế phân phối thu nhập trong xã

hội, mà còn quyết định đến trình độ phát triển, cấu trúc của hệ thống chính

sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia.

Một trong những yếu tố kinh tế quan trọng nhất thường tác động trực

tiếp đến hệ thống thuế và chính sách, pháp luật thuế, đó là mức độ tăng trưởng

của nền kinh tế quốc dân. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng tốt, hàng hóa

tiêu thụ tốt thì tổng thu nhập từ thuế tăng cao và ngược lại. Cơ cấu kinh tế

cũng ảnh hưởng đến thuế suất, các nước có định hướng phát triển tăng tỷ

trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế thường có chính sách ủng hộ phát

triển nông nghiệp, thủy sản. Ngoài ra, các yếu tố kinh tế khác cũng có ảnh

hưởng rất nhiều đến chính sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia như thu nhập

bình quân đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường…

1.2.4.3. Yếu tố xã hội

Bên cạnh các yếu tố chính trị, kinh tế thì yếu tố xã hội cũng có những

ảnh hưởng nhất định đến chính sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia. Điều này

thể hiện ở chỗ, chính sách thuế nói chung và chính sách thuế tài nguyên nói

riêng chỉ có thể được thực thi bởi các cơ quan quản lý từ cấp trung ương đến

23

cấp địa phương. Mỗi hệ thống thuế để thi hành đều cần một hệ thống quản lý

thuế tương ứng, trong đó vai trò của người thu thuế và người nộp thuế có ảnh

hưởng rất lớn đến tính hiệu quả của công tác quản lý thuế.

Các yếu tố xã hội tác động đến việc xây dựng, hoạch định chính sách

thuế và QLT được thể hiện ở chỗ, Nhà nước không thể xây dựng một chính

sách quản lý hiện đại, tiên tiến vượt xa cơ sở hạ tầng quản lý thuế. Ngoài ra,

hệ thống thuế vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng cũng phải phù

hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, trong đó phong tục, tập

quán, trình độ văn hoá, xã hội, trình độ dân trí, truyền thống dân tộc, kết cấu

giai cấp trong xã hội, tập quán, tâm lý người tiêu dùng sẽ có tác động, ảnh

hưởng rất lớn đến chính sách thuế của mỗi quốc gia. Thực tế đã chứng minh

rằng mức độ hiệu quả trong thực thi pháp luật phụ thuộc rất lớn vào yếu tố

tâm lý, tập quán người tiêu dùng như thói quen dùng tiền mặt hay thói quen

không sử dụng hóa đơn khi mua hàng… Chính điều này đặt ra yêu cầu, đòi

24

hỏi chính sách thuế phải có những quy định phù hợp để mang lại hiệu quả.

Kết luận chương 1

1. Quản lý thuế tài nguyên là hoạt động của nhà nước với tư cách là đại

diện chủ sở hữu toàn dân về tài nguyên nhằm đảm bảo nguồn thu cho NSNN

và đảm bảo công bằng xã hội cũng như đảm bảo khai thác tài nguyên tiết

kiệm và hiệu quả. Nghiên cứu lý luận về QLT tài nguyên và pháp luật QLT

tài nguyên nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, vai trò của

QLT tài nguyên cũng như khái niệm, đặc điểm và các yếu tố ảnh hướng tới

pháp luật QLT tài nguyên.

2. Pháp luật QLT tài nguyên được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác

nhau gồm nhóm các quy định về chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên,

nhóm các quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên và nhóm các

quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế tài nguyên. Để

phát huy vai trò của pháp luật thuế tài nguyên và thực hiện QLT tài nguyên có

hiệu quả cần phải chú trọng tới các nhân tố ảnh hưởng, nhất là về thuế suất và

giá tính thuế tài nguyên.

3. Pháp luật thuế tài nguyên là một bộ phận của hệ thống pháp luật

QLT. Trong đó, pháp luật QLT được biết đến với bản chất là pháp luật hình

thức có nhiệm vụ quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các luật thuế, còn

pháp luật thuế tài nguyên là pháp luật nội dung, có nhiệm vụ quy định về chủ

thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và

25

chế độ miễn giảm thuế, hoàn thuế.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ

THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam

2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể quản lý thuế tài nguyên

2.1.1.1. Chủ thể là cơ quan thuế tham gia quản lý thuế tài nguyên

Theo quy định hiện hành của Luật quản lý thuế, chủ thể chủ yếu tham

gia vào công tác quản lý thuế chính là cơ quan quản lý thuế. Cơ quan này

được nhà làm luật xác định bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan, trong

đó nhiệm vụ quản lý thuế tài nguyên thuộc về cơ quan thuế các cấp (bao gồm:

Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế).

Trong pháp luật quản lý thuế, tại Điều 18 Luật quản lý thuế 2019, nhà

làm luật quy định khi thực hiện chức năng quản lý thuế nói chung và quản lý

thuế tài nguyên nói riêng, cơ quan thuế có nhiệm vụ:

- Tổ chức thực hiện quản lý thu thuế và các khoản thu khác thuộc

ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế và quy

định khác của pháp luật có liên quan.

- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế; công khai

các thủ tục về thuế tại trụ sở, trang thông tin điện tử của cơ quan

quản lý thuế và trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ

thuế cho người nộp thuế; cơ quan thuế có trách nhiệm công khai mức

thuế phải nộp của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn xã,

phường, thị trấn.

- Bảo mật thông tin của người nộp thuế, trừ các thông tin cung cấp

cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin được công bố công khai

26

theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện việc miễn thuế; giảm thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm

nộp, tiền phạt; miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm

nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ; khoanh tiền thuế nợ,

không thu thuế; xử lý tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa;

hoàn thuế theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp

luật có liên quan.

- Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có

đề nghị theo quy định của pháp luật.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật

về thuế theo thẩm quyền.

- Giao biên bản, kết luận, quyết định xử lý về thuế sau kiểm tra

thuế, thanh tra thuế cho người nộp thuế và giải thích khi có yêu cầu.

- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp

luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

- Giám định để xác định số tiền thuế phải nộp của người nộp thuế

theo trưng cầu, yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Xây dựng, tổ chức hệ thống thông tin điện tử và ứng dụng công

nghệ thông tin để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.

Cơ quan thuế với tư cách là đại diện Nhà nước thực hiện công tác quản

lý thuế tài nguyên giữ vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý thuế tài

nguyên. Đóng vai trò là chủ thể chính trong quản lý thuế tài nguyên, cơ quan

thuế được giao nhiều nhiệm vụ để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan

hệ thuế tài nguyên. Nhận thức được tầm ảnh hưởng của cơ quan quản lý thuế,

Luật Quản lý thuế 2019 so với Luật Quản lý thuế cũ đã quy định rõ các nhiệm

vụ cụ thể của cơ quan quản lý thuế tại một Điều riêng biệt. Điều này góp phần

tránh sự mập mờ trong việc xác định nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế,

đồng thời cũng ràng buộc cơ quan quản lý thuế khi thực hiện chức năng,

27

nhiệm vụ của mình.

Ngoài ra, tại Điều 19 Luật quản lý thuế 2019, nhà làm luật cũng quy

định cơ quan thuế có các quyền hạn sau:

- Yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến

việc xác định nghĩa vụ thuế, bao gồm cả thông tin về giá trị đầu tư;

số hiệu, nội dung giao dịch của các tài khoản được mở tại ngân

hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và giải thích việc tính thuế,

khai thuế, nộp thuế.

- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu

liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế và phối hợp với cơ quan

quản lý thuế để thực hiện pháp luật về thuế.

- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế theo quy định của pháp luật.

- Ấn định thuế.

- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế.

- Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thẩm quyền;

công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi

phạm pháp luật về thuế.

- Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử phạt vi phạm

hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật.

- Ủy nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế theo

quy định của Chính phủ.

- Cơ quan thuế áp dụng cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp

xác định giá tính thuế với người nộp thuế, với cơ quan thuế nước

ngoài, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký hiệp định tránh đánh thuế

hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế thu nhập.

- Mua thông tin, tài liệu, dữ liệu của các đơn vị cung cấp trong nước

và ngoài nước để phục vụ công tác quản lý thuế; chi trả chi phí ủy

nhiệm thu thuế từ tiền thuế thu được hoặc từ nguồn kinh phí của cơ

28

quan quản lý thuế theo quy định của Chính phủ.

Như vậy, cùng với việc giao cho cơ quan thuế rất nhiều nhiệm vụ, pháp

luật quản lý thuế cũng trao cho cơ quan quản lý thuế những quyền hạn tương

ứng. Các quyền hạn này về cơ bản tương ứng với các quyền hạn đã được quy

định tại Luật Quản lý thuế 2006 và các văn bản sửa đổi, bổ sung; chỉ bổ sung

thêm một quyền hạn liên quan đến việc mua thông tin, tài liệu hay dữ liệu của

các đơn vị cung cấp và chi trả chi phí ủy nhiệm thu thuế.

Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong công tác quản lý thuế nói

chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng, pháp luật hiện hành không chỉ

quy định về cơ cấu tổ chức của các cơ quan thuế mà còn quy định rõ nhiệm

vụ của từng cơ quan này trong bộ máy quản lý thuế tài nguyên. Cụ thể là:

Thứ nhất, Tổng cục Thuế là cơ quan thuế chuyên trách, chịu trách

nhiệm chỉ đạo chung về công tác quản lý thuế ở Việt Nam, trong đó có việc

quản lý thuế tài nguyên. Cơ quan này thành lập các đơn vị trực thuộc nhằm

tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo tổng cục thuế trong công tác quản lý thuế trên

toàn quốc, bao gồm: Vụ Chính sách; Vụ Kê khai và Kế toán thuế; Vụ Thanh

tra – Kiểm tra; Vụ Dự toán thu thuế; Vụ quản lý thuế doanh nghiệp lớn. Mỗi

cơ quan này thuộc Tổng cục Thuế có những nhiệm vụ khác nhau, phù hợp với

chức năng tham mưu của đơn vị cho lãnh đạo Tổng cục Thuế.

Tại cơ quan Tổng cục Thuế, các Vụ chức năng gồm Vụ Chính sách, Vụ

Kê khai và Kế toán thuế, Vụ Dự toán thu thuế, Vụ QLT doanh nghiệp lớn là

bộ phận thực hiện trình Tổng cục Thuế trình Bộ Tài chính trình Chính phủ dự

án Luật QLT, các dự án nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội; dự toán

thu thuế tài nguyên hàng năm theo quy định của Luật NSNN; trình Bộ trưởng

Bộ Tài chính xem xét, quyết định dự thảo Thông tư và các văn bản khác về

chính sách thuế tài nguyên; ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến

thuế tài nguyên.

Thứ hai, Cục Thuế các tỉnh là cơ quan thuế có chức năng chuyên trách

29

quản lý thuế ở địa phương nơi đặt trụ sở. Cơ quan này cũng thành lập các đơn

vị trực thuộc như: Phòng Nghiệp vụ - Dự toán – Pháp chế; Phòng Thanh tra –

Kiểm tra; Phòng Kê khai & kế toán thuế. Về nguyên tắc, các đơn vị này chịu

trách nhiệm tham mưu, tư vấn cho Cục trưởng về công tác quản lý thuế trên

địa bàn nhằm giúp Cục Thuế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao

trong công tác quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn đặt trụ sở.

Thứ ba, Chi cục Thuế là cơ quan thuế cấp huyện, chịu trách nhiệm

quản lý thuế ở địa bàn cấp huyện nơi đóng trụ sở. Cơ quan này cũng thành lập

các đơn vị trực thuộc như Đội Kê khai – Kế toán thuế - Tin học, Đội Kiểm tra

thuế. Các đơn vị này chịu trách nhiệm tham mưu cho Chi cục trưởng về công

tác quản lý thuế trên địa bàn nhằm giúp Chi cục Thuế thực hiện tốt chức năng,

nhiệm vụ được giao trong công tác quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn đặt

trụ sở. Tại các Cục Thuế, Chi cục Thuế, các cơ quan này thực hiện tuyên

truyền, hướng dẫn người nộp thuế thực hiện đúng theo quy định pháp luật;

thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện quy định của pháp

luật về thuế tài nguyên.

2.1.1.2. Chủ thể khác tham gia quản lý thuế tài nguyên

Theo pháp luật hiện hành, việc tham gia quản lý thuế tài nguyên không

chỉ có cơ quan thuế mà còn bao gồm các chủ thể khác như: Hội đồng nhân

dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Nhà nước,

cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các cơ quan truyền

thông, ngân hàng thương mại, Hội đồng tư vấn thuế xã phường, các tổ chức,

cá nhân khác…

Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong công tác quản lý thuế, nhà

làm luật cũng đã quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này

trong Luật quản lý thuế. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, các

30

chủ thể này có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Hội đồng nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, quyết định nhiệm vụ thu ngân sách hằng năm và giám sát việc thực

hiện pháp luật về thuế tại địa phương.

- Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo các cơ quan có liên quan tại địa phương phối hợp với cơ

quan quản lý thuế lập dự toán và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu thuế, các

khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn;

b) Phối hợp với Bộ Tài chính, cơ quan quản lý thuế và cơ quan khác có

thẩm quyền trong việc quản lý, thực hiện pháp luật về thuế;

c) Xử phạt vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan

đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền.

Thứ hai, đối với cơ quan Kiểm toán Nhà nước, chủ thể này có những

nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Thực hiện kiểm toán hoạt động đối với cơ quan quản lý thuế theo quy

định của pháp luật về kiểm toán nhà nước, pháp luật về thuế và quy định khác

của pháp luật có liên quan.

- Đối với kiến nghị của Kiểm toán nhà nước liên quan đến việc thực

hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế được quy định như sau:

a) Trường hợp Kiểm toán nhà nước trực tiếp kiểm toán người nộp thuế

theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước có nội dung kiến nghị về nghĩa

vụ nộp ngân sách nhà nước thì Kiểm toán nhà nước phải gửi biên bản hoặc

báo cáo kiểm toán cho người nộp thuế và người nộp thuế có trách nhiệm thực

hiện kiến nghị theo báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Trường hợp

người nộp thuế không đồng ý với kiến nghị của Kiểm toán nhà nước thì người

31

nộp thuế có quyền khiếu nại kiến nghị của Kiểm toán nhà nước;

b) Trường hợp Kiểm toán nhà nước không trực tiếp kiểm toán đối với

người nộp thuế mà thực hiện kiểm toán tại cơ quan quản lý thuế có nội dung

kiến nghị nêu trong báo cáo kiểm toán liên quan đến nghĩa vụ thuế của

người nộp thuế thì Kiểm toán nhà nước gửi bản trích sao có kiến nghị liên

quan đến nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế để thực hiện. Cơ quan quản lý

thuế có trách nhiệm tổ chức thực hiện kiến nghị của Kiểm toán nhà nước.

Trường hợp người nộp thuế không đồng ý với nghĩa vụ thuế phải nộp thì

người nộp thuế có văn bản đề nghị cơ quan quản lý thuế, Kiểm toán nhà

nước xem xét lại nghĩa vụ thuế phải nộp. Căn cứ đề nghị của người nộp

thuế, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực

hiện việc xác định chính xác nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và chịu trách

nhiệm theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, đối với cơ quan Thanh tra nhà nước, chủ thể này có những

nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Thực hiện thanh tra hoạt động của cơ quan quản lý thuế theo quy định

của pháp luật về thanh tra, pháp luật về thuế và quy định khác của pháp luật

có liên quan.

- Đối với kết luận của Thanh tra nhà nước liên quan đến nghĩa vụ thuế

phải nộp của người nộp thuế được quy định như sau:

a) Trường hợp Thanh tra nhà nước trực tiếp thanh tra người nộp thuế

theo quy định của Luật Thanh tra có nội dung kết luận về nghĩa vụ nộp ngân

sách nhà nước thì Thanh tra nhà nước phải gửi biên bản hoặc kết luận cho

người nộp thuế và người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện kết luận của Thanh

tra. Trường hợp người nộp thuế không đồng ý với kết luận của Thanh tra nhà

nước thì người nộp thuế có quyền khiếu nại kết luận của Thanh tra nhà nước;

b) Trường hợp Thanh tra nhà nước không trực tiếp thanh tra đối với

32

người nộp thuế mà thực hiện thanh tra tại cơ quan quản lý thuế có nội dung

kiến nghị nêu trong kết luận thanh tra liên quan đến nghĩa vụ thuế của người

nộp thuế thì Thanh tra nhà nước gửi bản trích sao có kết luận liên quan đến

nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế để thực hiện. Cơ quan quản lý thuế có trách

nhiệm tổ chức thực hiện kết luận của Thanh tra nhà nước. Trường hợp người

nộp thuế không đồng ý với nghĩa vụ thuế phải nộp thì người nộp thuế có văn

bản đề nghị cơ quan quản lý thuế, Thanh tra nhà nước xem xét lại nghĩa vụ

thuế phải nộp. Căn cứ đề nghị của người nộp thuế, Thanh tra nhà nước chủ trì,

phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực hiện việc xác định chính xác nghĩa vụ

thuế của người nộp thuế và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án, các chủ thể này có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

Đối với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, trong phạm vi nhiệm

vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, giải quyết tin báo, tố

giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,

nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực thuế theo quy định của pháp luật và

thông báo kết quả xử lý cho cơ quan quản lý thuế.

Thứ năm, đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan này có nhiệm

vụ tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp

luật về thuế; đồng thời thực hiện giám sát, phản biện xã hội về thuế; phản ánh,

kiến nghị với cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết các vấn đề về thuế theo

quy định của pháp luật.

Thứ sáu, đối với các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Điều 25 Luật quản lý thuế quy định các chủ

thể này có nhiệm vụ, quyền hạn phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế đến các hội viên. Ngoài ra,

các chủ thể này còn có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc

33

cung cấp thông tin liên quan đến việc quản lý thuế.

Thứ bảy, đối với các cơ quan thông tin, báo chí, tại Điều 26 Luật quản

lý thuế, nhà làm luật quy định các chủ thể này có nhiệm vụ, quyền hạn tuyên

truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thuế, nêu gương tổ chức, cá nhân

thực hiện tốt pháp luật về thuế, phản ánh và phê phán các hành vi vi phạm

pháp luật về thuế. Ngoài ra, cơ quan thông tin, báo chí cũng có trách nhiệm

phối hợp với các cơ quan quản lý thuế trong việc đăng tải, cung cấp thông tin

theo quy định của pháp luật.

Thứ tám, đối với các chủ thể là ngân hàng thương mại, chủ thể này có

nhiệm vụ, quyền hạn phối hợp với cơ quan quản lý thuế, Kho bạc Nhà nước

trong việc thực hiện nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử cho người nộp thuế;

xử lý, đối soát dữ liệu về nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử; truyền, nhận

thông tin chứng từ nộp thuế điện tử, chuyển tiền thanh toán các khoản thu

ngân sách nhà nước cho Kho bạc Nhà nước đầy đủ, chính xác, kịp thời theo

đúng quy định của pháp luật; hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình thực hiện

nộp thuế điện tử; bảo mật thông tin của người nộp thuế, người khai hải quan

theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cũng có

trách nhiệm cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của

người nộp thuế khi mở tài khoản; khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp

theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt

động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam; trích

tiền để nộp thuế từ tài khoản của người nộp thuế, phong tỏa tài khoản của

người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế

theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế. Trường hợp người nộp thuế có bảo

lãnh về tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác thuộc ngân

sách nhà nước theo quy định của Luật quản lý thuế nhưng người nộp thuế

không nộp đúng thời hạn thì ngân hàng bảo lãnh phải chịu trách nhiệm nộp

tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà

34

nước thay cho người nộp thuế trong phạm vi bảo lãnh.

Thứ chín, đối với Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn, chủ thể

này có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về doanh thu, mức thuế của các hộ

kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán trên địa

bàn và phối hợp với cơ quan thuế đôn đốc các hộ kinh doanh, cá nhân kinh

doanh thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Kinh phí hoạt

động của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn do cơ quan thuế chi từ

nguồn ngân sách nhà nước cấp cho ngành thuế.

Thứ mười, đối với các tổ chức, cá nhân khác, những chủ thể này có

nhiệm vụ, quyền hạn cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ

thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế; phối hợp với cơ quan quản lý

thuế trong việc thực hiện các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản

lý thuế; tố giác hành vi vi phạm pháp luật về thuế đến cơ quan quản lý thuế

hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; yêu cầu người bán hàng, người cung

cấp dịch vụ phải giao hóa đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ đúng số lượng,

chủng loại, giá trị thực thanh toán khi mua hàng hóa, dịch vụ.

Như vậy, so với Luât quản lý thuế 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung) thì

Luật quản lý thuế 2019 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà

nước và Thanh tra nhà nước. Đồng thời, đưa ra cách thức giải quyết đối với

kết luận của kiểm toán nhà nước hoặc thanh tra nhà nước, góp phần hướng

dẫn xử lý thống nhất trên phạm vi cả nước, tránh tình trạng mỗi khi có sự

tham gia của Kiểm toán nhà nước hay Thanh tra nhà nước thì các địa phương

lại lúng túng không biết quy trình thực hiện kết luận như thế nào.

2.1.2. Thực trạng quy định về nguyên tắc và nội dung quản lý thuế

tài nguyên

2.1.2.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên

Đối với hoạt động QLT nói chung và hoạt động QLT tài nguyên nói

35

riêng để đạt được các mục tiêu đã đề ra cần phải xác định rõ các nguyên tắc

hoạt động cụ thể. Nguyên tắc QLT tài nguyên được xây dựng dựa trên nguyên

tắc chung của QLT, xem đó là yêu cầu bắt buộc trong hoạt động của các chủ

thể. Nguyên tắc của QLT được Luật QLT quy định cụ thể tại Điều 4 với

những nội dung như sau:

Thứ nhất, mọi tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân có nghĩa vụ

nộp thuế theo quy định của luật.

Thứ hai, cơ quan QLT, các cơ quan khác của Nhà nước được giao

nhiệm vụ quản lý thu thực hiện việc QLT theo quy định của luật QLT và quy

định khác của pháp luật có liên quan, bảo đảm công khai, minh bạch, bình

đẳng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của NNT.

Thứ ba, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia QLT theo

quy định của pháp luật.

Thứ tư, thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ

thông tin hiện đại trong QLT; áp dụng các nguyên tắc QLT theo thông lệ quốc

tế, trong đó có nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ

thuế, nguyên tắc quản lý rủi ro trong QLT và các nguyên tắc khác phù hợp

với điều kiện của Việt Nam.

Thứ năm, áp dụng biện pháp ưu tiên khi thực hiện các thủ tục về thuế

đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật về hải

quan và quy định của Chính phủ.

Như vậy, về bản chất, nhìn chung các nguyên tắc QLT quy định tại

Luật QLT 2019 là tương đồng với các nguyên tắc QLT tại Luật QLT 2006 và

Luật QLT sửa đổi, bổ sung năm 2012 và năm 2016. Các nguyên tắc này

không những chỉ rõ vai trò quan trọng của thuế là nguồn thu chủ yếu của

NSNN mà còn xác định rõ phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong quá trình QLT, quy định trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện các luật

36

thuế nói chung.

2.1.2.2. Thực trạng quy định nội dung quản lý thuế tài nguyên

QLT tài nguyên là một bộ phận của QLT. Do đó, nội dung QLT tài

nguyên được quy định rõ trong luật QLT nói chung và luật thuế tài nguyên

nói riêng. Về cơ bản, QLT tài nguyên bao gồm các nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.

Nếu như tại Luật quản lý thuế 2006 (sửa đổi, bổ sung) cho phép NNT

được đăng ký thuế trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày được cấp

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt động, bắt đầu kinh

doanh... thì theo Luật quản lý thuế 2019, NNT phải đăng ký thuế khi phát sinh

nghĩa vụ thuế với cơ quan đăng ký kinh doanh nếu là đăng ký thuế lần đầu

hoặc với cơ quan thuế địa phương. Khi đã đăng ký thuế và có nghĩa vụ thuế

thì người nộp thuế phải kê khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ theo mẫu

và nộp thuế đúng quy định, đúng thời hạn. Khai thuế là trách nhiệm của người

nộp thuế nhưng nếu trong một thời gian nhất định, người nộp thuế không

hoàn thành việc khai thuế thì cơ quan thuế có quyền ấn định thuế.

Thứ hai, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế tài nguyên.

Người nộp thuế tài nguyên nếu có số thuế đã nộp nhiều hơn so với số

thuế phải nộp thì được hoàn lại số thuế đã nộp thừa. Người nộp thuế tài nguyên

được miễn thuế, giảm thuế trong các trường hợp quy định tại Điều 9 Luật thuế

tài nguyên năm 2009. Tuy nhiên, thực tế quy định về miễn thuế tài nguyên

cũng gặp phải một số vướng mắc trong quá trình thực hiện. Chẳng hạn, pháp

luật quy định miễn thuế đối với đất khai thác sử dụng tại chỗ trên diện tích đất

được giao, được thuê. Vậy trong trường hợp, các cá nhân, hộ gia đình được

thuê đất phi nông nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh tiến hành đào đắp, san

lấp nhưng có lượng đất dư thừa phải mang đi đổ tại nơi khác thì có phải nộp

thuế tài nguyên hay không. Hay việc tính thuế tài nguyên đối với đất đào lên

37

san lấp đối với các công trình theo dự án BT thì tính thuế như thế nào.

Thứ ba, khoanh nợ tiền thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt;

miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế;

nộp dần tiền thuế nợ.

Khoanh tiền thuế nợ áp dụng đối với các trường hợp sau: Người nộp

thuế đang làm thủ tục giải thể, phá sản, không còn hoạt động kinh doanh tại

địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh, bị cơ quan

quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi hoặc đã bị cơ

quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng

nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy phép

thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.

Việc xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt được quy định trong các

trường hợp sau: NNT bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán

theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế,

tiền chậm nộp, tiền phạt; NNT là cá nhân đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã

chết, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được

thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ; Các khoản nợ tiền

thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy

định trên mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại

điểm g khoản 1 Điều 125 của Luật QLT 2019 và các khoản nợ tiền thuế, tiền

chậm nộp, tiền phạt này đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng

không có khả năng thu hồi; NNT là cá nhân, cá nhân kinh doanh, chủ hộ gia

đình, chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu

hạn một thành viên đã được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt quy định

tại khoản này trước khi quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản

xuất, kinh doanh mới thì phải hoàn trả cho Nhà nước khoản nợ tiền thuế, tiền

chậm nộp, tiền phạt đã được xóa; Tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với

38

các trường hợp bị ảnh hưởng do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có phạm vi rộng

đã được xem xét miễn tiền chậm nộp theo quy định tại khoản 8 Điều 59 của

Luật QLT 2019 và đã được gia hạn nộp thuế theo quy định tại điểm a khoản 1

Điều 62 của Luật QLT 2019 mà vẫn còn thiệt hại, không có khả năng phục hồi

được sản xuất, kinh doanh và không có khả năng nộp tiền thuế, tiền chậm nộp,

tiền phạt; Chính phủ quy định việc phối hợp giữa cơ quan quản lý thuế và cơ

quan đăng ký kinh doanh, chính quyền địa phương bảo đảm các khoản tiền

thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xóa phải được hoàn trả vào ngân sách

nhà nước theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Luật quản lý thuế 2019 trước khi

cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp; quy định chi tiết khoản 4 Điều này.

Việc xóa nợ tiền thuế so với quy định cũ đã mở rộng thêm một số đối

tượng như hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán

theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế,

tiền chậm nộp, tiền phạt; cá nhân đã chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết,

mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được

thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ. Quy định về khoanh

nợ tiền thuế cũng được bổ sung góp phần làm giảm số nợ ảo, chi phí quản lý,

chi phí nhân lực của cơ quan QLT. Thí dụ, doanh nghiệp tuyên bố phá sản

muốn xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải lập văn bản đề nghị xóa

nợ kèm theo các tài liệu có liên quan.

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn phát sinh nhiều trường hợp mà tiền

chậm nộp, tiền phạt còn cao hơn rất nhiều lần so với số tiền thuế phải nộp.

Việc xử lý các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn do chưa có biện pháp

thích hợp để vừa đảm bảo thu được thuế vừa đảm bảo cho doanh nghiệp còn

khả năng hoạt động.

Thứ tư, quản lý thông tin NNT, quản lý hóa đơn, chứng từ: Thông tin

39

của NNT phải được quản lý chặt chẽ, các thông tin cần bảo mật hay công khai

phải thực hiện theo quy định tại Điều 99 và Điều 100 Luật Quản lý thuế 2019.

Việc quản lý hóa đơn, chứng từ được thực hiện theo quy định của luật quản lý

thuế và pháp luật về kế toán.

Thứ năm, kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp phòng,

chống, ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế.

Trong quá trình kiểm tra, thanh tra thuế, cơ quan thuế sẽ phát hiện và

xử phạt vi phạm hành chính về QLT. Các hành vi vi phạm hành chính về thuế

gồm hành vi vi phạm thủ tục thuế; hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế

phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu; hành vi

trốn thuế; hành vi vi phạm của ngân hàng thương mại, người bảo lãnh nộp

tiền thuế trong lĩnh vực quản lý thuế; hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân có

liên quan trong lĩnh vực quản lý thuế.

Các quy định về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế cũng gặp không ít

vướng mắc. Ví dụ: khi xử lý vi phạm về hành vi khai sai phí bảo vệ môi trường

thì áp dụng theo quy định tại văn bản nào, áp dụng theo Nghị định số

129/2013/NĐ-CP về lĩnh vực thuế hay áp dụng theo Nghị định số 109/2013/NĐ-

CP (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 49/2016/NĐ-CP) hay Nghị định số

155/2016/NĐ-CP về lĩnh vực bảo vệ môi trường khi mà tại các văn bản này có

quy định khác nhau về mức xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ sáu, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về QLT.

Đây là việc áp dụng biện pháp theo quy định của Luật quản lý thuế và

quy định khác của pháp luật có liên quan buộc người nộp thuế phải hoàn

thành nghĩa vụ nộp thuế. Nội dung này được quy định cụ thể tại Chương XIV

Luật quản lý thuế 2019 về các trường hợp cưỡng chế, biện pháp cưỡng chế,

thẩm quyền quyết định cưỡng chế, quyết định cưỡng chế, trách nhiệm tổ chức

thi hành quyết định cưỡng chế.

Thứ bảy, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế, hợp tác quốc tế về thuế và

40

tuyên truyền hỗ trợ NNT.

Về nguyên tắc, NNT, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan

có thẩm quyền đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan

quản lý thuế, công chức quản lý thuế khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc

hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo

quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Như vậy, nội dung quản lý thuế là trách nhiệm công việc của các cơ

quan thuế và của các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ kê khai thuế. Các nội dung

quản lý thuế có quan hệ mật thiết với nhau, thông thường nội dung quản lý

thuế này là tiền đề và kết quả cho các nội dung khác. Nhìn chung, bên cạnh

việc kế thừa các nội dung đã được quy định tại Luật quản lý thuế cũ và các văn

bản sửa đổi, bổ sung cũng như các văn bản hướng dẫn, Luật quản lý thuế 2019

quy định thêm một số nội dung quản lý thuế mới như quản lý hóa đơn, chứng

từ; hợp tác quốc tế về thuế; tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế. Theo đó, mở

rộng trách nhiệm trong hợp tác quốc tế với việc quy định các biện pháp hỗ trợ

thu thuế theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: NNT có nghĩa

vụ thuế mà chưa nộp trong nước, khi ra nước ngoài sẽ bị cơ quan quản lý thuế

hoặc cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài thực hiện hỗ trợ thu thuế và ngược

lại. Ngoài ra, các quy định về hóa đơn và chứng từ điện tử cũng được luật hóa

để tương ứng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh

doanh thương mại điện tử: trường hợp bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử

thì phải lập hóa đơn điện tử để giao cho người mua theo đúng định dạng và ghi

đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật có liên quan.

2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên

Thứ nhất, đăng ký thuế: NNT thực hiện khai báo về sự hiện diện của

mình và nghĩa vụ phải nộp thuế với cơ quan QLT. NNT kê khai những thông

41

tin theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan QLT.

Thứ hai, kê khai, nộp thuế tài nguyên. NNT tự xác định số thuế tài

nguyên phải nộp phát sinh trong kỳ kê khai thuế theo quy định của pháp luật

QLT và pháp luật thuế tài nguyên. NNT sử dụng hồ sơ khai thuế và chịu trách

nhiệm về tính chính xác của số liệu trong hồ sơ khai thuế. NNT phải khai chính

xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu và nộp đầy đủ

các loại tài liệu, chứng từ quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan QLT.

Việc khai thuế, nộp thuế tài nguyên được thực hiện theo cơ chế tự khai,

tự nộp. Cơ chế này được thực hiện dựa trên sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ

thuế của NNT. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, NNT xác định nghĩa vụ

thuế của mình, tự kê khai thuế và nộp khai thuế, nộp thuế theo số thuế đã xác

định vào NSNN; đồng thời, lưu giữ các chứng từ, sổ sách theo quy định để

phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan QLT. Theo cơ chế này,

NNT được xem là trung tâm, cơ quan thuế sẽ hỗ trợ, hướng dẫn NNT các quy

định của pháp luật và giám sát việc tuân thủ của NNT thông qua nghiệp vụ

thanh tra, kiểm tra thuế theo nguyên tắc quản lý rủi ro về thuế.

Thứ ba, miễn, giảm thuế tài nguyên. Quyết định miễn thuế, giảm thuế

là việc cơ quan QLT quyết định cho NNT được hưởng những ưu đãi về thuế

theo quy định của pháp luật thuế. Miễn thuế là ưu đãi cho NNT được miễn trừ

nghĩa vụ nộp tiền thuế còn giảm thuế là ưu đãi cho NNT được miễn trừ một

phần nghĩa vụ nộp tiền thuế. Đây là những quy định thể hiện sự chia sẻ của

Nhà nước đối với NNT khi NNT gặp khó khăn và trong một số trường hợp

được quy định cụ thể tại Điều 9 Luật thuế tài nguyên bao gồm:

(a) NNT tài nguyên gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn

thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét miễn, giảm

thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế

thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên

42

phải nộp của kỳ sau.

(b) Miễn thuế đối với hải sản tự nhiên.

(c) Miễn thuế đối với cành, ngọn, củi, tre, trúc, nứa, mai, giang,

tranh, vầu, lồ ô do cá nhân được phép khai thác phục vụ sinh hoạt.

(d) Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện

của hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất phục vụ sinh hoạt.

(đ) Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; nước thiên nhiên do hộ gia đình,

cá nhân khai thác phục vụ sinh hoạt.

(e) Miễn thuế đối với đất khai thác và sử dụng tại chỗ trên diện tích

đất được giao, được thuê; đất khai thác để san lấp, xây dựng công

trình an ninh, quân sự, đê điều.

(g) Trường hợp khác được miễn, giảm thuế do Ủy ban thường vụ

Quốc hội quy định.

Thứ tư, quyết toán thuế tài nguyên. Quyết toán thuế là một hoạt động

quan trọng trong việc QLT tài nguyên. Khai quyết toán thuế là việc xác định

số tiền thuế phải nộp của năm tính thuế hoặc thời gian từ đầu năm tính thuế

đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế hoặc thời gian từ khi phát

sinh đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định của

pháp luật. Hồ sơ khai quyết toán thuế khi kết thúc năm gồm tờ khai quyết

toán thuế năm, báo cáo tài chính năm, tờ khai giao dịch liên kết; các tài liệu

khác có liên quan đến quyết toán thuế. Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế

năm chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 3 kể từ ngày kết thúc năm

dương lịch hoặc năm tài chính. Việc nộp hồ sơ khai quyết toán thuế có thể

được gia hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải nộp hồ sơ khai thuế.

Thứ năm, hoàn thuế tài nguyên. Hoàn thuế là cơ quan QLT thực hiện

hoàn thuế đối với tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp được hoàn thuế theo quy

43

định của pháp luật về thuế hoặc hoàn trả tiền nộp thừa đối với trường hợp

NNT có số tiền thuế đã nộp NSNN lớn hơn số thuế phải nộp NSNN sau khi

đã bù trừ theo quy định.

Như vậy, về cơ bản trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên cũng tương

tự với trình tự, thủ tục quản lý thuế nói chung. Việc thực hiện các quy định

này phải đảm bảo theo nội dung của Luật Quản lý thuế 2019. Với nguyên tắc

tự khai, tự tính, tự nộp thuế tài nguyên khi thực thi pháp luật thuế tài nguyên

gặp không ít khó khăn. Chẳng hạn, theo nguyên tắc tự khai, NNT có nghĩa vụ

khai đầy đủ nội dung theo mẫu của cơ quan thuế, trong đó giá tính thuế không

được thấp hơn hay cao hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định. Điều này dẫn

đến việc NNT thường không kê khai đúng giá tính thuế tài nguyên thực tế mà

chỉ căn cứ vào bảng giá của UBND cấp tỉnh để tìm lợi ích cho mình. Ngoài

ra, việc quy định căn cứ theo bảng giá do UBND cấp tỉnh quy định cũng gặp

nhiều tranh cãi do Luật thuế tài nguyên không định.

2.1.4. Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

pháp luật trong quản lý thuế tài nguyên

Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan QLT đối với

các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình

thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm phát

hiện, ngăn ngừa và xử lý vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy cá nhân, tổ

chức hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình, hoàn thiện cơ chế quản lý, đảm bảo

pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế – xã hội.

Kiểm tra thuế là công việc có tính thường xuyên, là trách nhiệm của cơ

quan QLT. Kiểm tra thuế có thể được thực hiện tại trụ sở của cơ quan QLT

hoặc trụ sở của NNT:

Kiểm tra thuế tài nguyên tại trụ sở của cơ quan thuế được thực hiện trên cơ

sở hồ sơ thuế của NNT nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác các thông tin, chứng

44

từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của NNT [30, Điều 109].

Kiểm tra thuế tài nguyên tại trụ sở của NNT được thực hiện trong các

trường hợp sau đây: (i) Trường hợp hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước hoàn

thuế; kiểm tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước; (ii)

Trường hợp hồ sơ thuế có nội dung cần làm rõ liên quan đến số tiền thuế phải

nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế còn được

khấu trừ chuyển kỳ sau, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không thu mà hết

thời hạn theo thông báo của cơ quan QLT, NNT không giải trình, bổ sung

thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế hoặc giải trình, khai bổ

sung hồ sơ thuế không đúng thì thủ trưởng cơ quan QLT ra quyết định kiểm

tra thuế tại trụ sở của NNT; (iii) Trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật;

(iv) Trường hợp được lựa chọn theo kế hoạch, chuyên đề; (v) Trường hợp

theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước, cơ quan khác có

thẩm quyền; (vi) Trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại

hình doanh nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần hóa, chấm dứt hiệu

lực mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột

xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường hợp giải thể,

chấm dứt hoạt động mà cơ quan thuế không phải thực hiện quyết toán thuế

theo quy định của pháp luật. Thời hạn kiểm tra thuế tại trụ sở NNT là không

quá 10 ngày làm việc, trường hợp phạm vi kiểm tra lớn, nội dung phức tạp thì

có thể gia hạn 01 lần nhưng không quá 10 ngày làm việc.

Thanh tra thuế là một dạng thanh tra chuyên ngành. Theo Luật Thanh

tra 2010, thanh tra chuyên ngành được định nghĩa là “hoạt động thanh tra của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về

chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”. Như vậy,

thanh tra thuế là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những

hoạt động mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ đối với các đối tượng nộp

45

thuế và các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực thuế nhằm phát hiện, xử lý vi

phạm trong việc tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng đó. Thanh tra

thuế xét cho cùng là kiểm tra thuế ở mức độ cao hơn và toàn diện hơn.

Thanh tra thuế nói chung và thanh tra thuế tài nguyên nói riêng được

thực hiện trong các trường hợp sau: (i) Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về

thuế; (ii) Để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc thực hiện các biện pháp phòng,

chống tham nhũng; (iii) Theo yêu cầu của công tác QLT trên cơ sở kết quả

phân loại rủi ro trong QLT; (iv) Theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, kết

luận của Thanh tra nhà nước và cơ quan khác có thẩm quyền.

Thời hạn thanh tra thuế được thực hiện theo quy định của Luật thanh

tra. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra thuế gia hạn

thời hạn thanh tra thuế theo quy định của Luật Thanh tra. Cụ thể như sau: (i)

Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc Bộ tiến

hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng

không quá 70 ngày; (ii) Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra sở, Chi

cục thuộc Sở tiến hành không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo

dài hơn, nhưng không quá 45 ngày.

Xử lý vi phạm pháp luật trong QLT tài nguyên: Xử lý vi phạm pháp

luật thuế là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định

pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các chế tài xử lý phù hợp với hành vi

vi phạm pháp luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp

luật về thuế.

Vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về

thuế được thực hiện một các cố ý hoặc vô ý bổi các tổ chức, cá nhân mà gây

thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó.

Các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong thực tiễn diễn ra rất đa dạng, tinh vi

và phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau. Nhìn chung, vi phạm pháp luật về

46

thuế được chia thành hai loại sau đây:

(i) Vi phạm hành chính về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp

luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách

cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ

nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính. Các

hành vi này bao gồm: hành vi vi phạm thủ tục thuế (thời hạn đăng ký thuế,

thời hạn nộp hồ sơ khai thuế trong 90 ngày, khai sai, khai không đầy đủ các

nội dung trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp

hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu thuế, cung cấp thông

tin liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế, về chấp hành quyết định kiểm tra

thuế, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về QLT); hành

vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được

miễn, giảm, hoàn, không thu; hành vi trốn thuế; hành vi vi phạm của ngân

hàng thương mại, người bảo lãnh nộp tiền thuế trong lĩnh vực QLT; hành vi

vi phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực QLT; xử phạt vi

phạm hành chính về phí, lệ phí, hóa đơn trong lĩnh vực QLT.

(ii) Vi phạm hình sự về thuế là hành vi trái pháp luật hình sự, do người

có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi

ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, trường

hợp hành vi vi phạm pháp luật thuế được xác định là nghiêm trọng mà thỏa

mãn dấu hiệu của tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự thì không xử

phạt hành chính mà phải chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý

hình sự. Theo đó, ngoài tội trốn thuế (Điều 200 BLHS năm 2015), còn có 2

tội danh liên quan đến tài chính – kế toán (thực chất là các hoạt động hỗ trợ

việc gian lận thuế), đó là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng

từ thu nộp NSNN (Điều 203 BLHS năm 2015) và Tội vi phạm quy định về bảo

quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN (Điều 204 BLHS năm 2015).

Trên thực tế, khi xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm, ngành

47

Thuế đã chủ động rà soát với kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Thanh tra Chính

phủ, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan nhà nước khác tuy nhiên vẫn phát

sinh sự trùng lặp, chồng chéo với các cơ quan này. Để khắc phục điều đó, Tổng

cục Thuế đã thực hiện nhiều biện pháp, trong đó, phải kể đến việc nghiêm túc

thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 9179/BTC-TTr ngày 11/7/2017 của

Bộ Tài chính về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh

nghiệp theo Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, chỉ đạo toàn ngành tập trung xây dựng kế hoạch thanh tra,

kiểm tra dựa trên nguyên tắc quản lý rủi ro về thuế; Kế hoạch thanh tra, kiểm

tra của cơ quan Thuế cấp dưới phải phù hợp với kế hoạch thanh tra, kiểm tra

của cơ quan Thuế cấp trên và các cơ quan có liên quan thông qua việc lấy ý

kiến của các cơ quan, đơn vị.

Việc thanh tra phải được tiến hành theo đúng định hướng, kế hoạch đã

được phê duyệt với nội dung nằm trong giới hạn phạm vi quản lý nhà nước

được giao; chỉ chủ động kiểm tra, thanh tra khi cần thiết; việc điều chỉnh kế

hoạch thanh tra phải đảm bảo không làm tăng số cuộc thanh tra; kết luận

thanh tra phải được ban hành đúng thời hạn theo quy định.

Trường hợp thanh tra, kiểm tra đột xuất thì chỉ ban hành quyết định

thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng và phải xác định rõ tính

chất, mức độ vi phạm.

Trước khi tiến hành thanh tranh, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế, cần

chuẩn bị và lựa chọn các nội dung trọng tâm, yêu cầu cung cấp thông tin qua

phương thức điện tử để giảm thiểu thời gian và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó,

đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật thuế cho NNT nhằm tháo gỡ vướng

mắc phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách về thuế; tăng cường kiểm

soát tuân thủ trong công tác thanh tra, kiểm tra.

Thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính

phủ nghiêm túc thông qua các văn bản chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra hàng

48

năm, công tác thanh tra, kiểm tra thuế của ngành Thuế đã đạt được những kết

quả nhất định như: Khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch không để trường hợp 01

doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm; chất lượng cuộc thanh

tra, kiểm tra nâng lên thể hiện qua số tiền thuế xử lý qua thanh tra, kiểm tra năm

sau tăng hơn so với năm trước (số cuộc thanh tra, kiểm tra giảm nhưng tổng số

xử lý qua thanh tra, kiểm tra năm sau cao hơn năm trước) góp phần thực hiện

hoàn thành vượt mức dự toán thu thuế hàng năm của ngành Thuế; Việc xử lý

qua thanh tra, kiểm tra đảm bảo đúng quy định, chính sách, pháp luật và giảm

thiểu các cuộc thanh tra, kiểm tra bị khiếu nại, khiếu kiện.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở

Việt Nam hiện nay

2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về

quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam

Sau gần ba mươi năm thực hiện, pháp luật thuế tài nguyên đã góp phần

ổn định nguồn thu cho NSNN. Số thu thuế tài nguyên hàng năm có xu hướng

tăng lên và gia tăng tỷ trọng số thu thuế tài nguyên trong tổng thu NSNN. Số

thuế tài nguyên thu được hàng năm đạt khoảng 10% tổng thu NSNN. Kết quả

cụ thể như sau:

Thứ nhất, đảm bảo nguồn thu cho NSNN ngày càng tăng.

Bảng 2.1. Kết quả thu NSNN từ thuế tài nguyên ở Việt Nam

ĐVT: triệu đồng

Năm

2016

2017

2018

2019

Thu từ dầu thô, condensate

12.326.151 14.250.774 16.755.866 14.352.987

11.312.543 14.033.321 15.513.920 16.917.095

Thu từ khu vực doanh nghiệp do Nhà nước giữ vai trò chủ đạo

433.398

507.958

510.084

385.460

Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

3.009.070

4.924.902

5.948.220

5.741.566

Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

27.081.162 33.716.955 38.628.090 37.397.108

Tổng

(Nguồn: Tổng cục Thuế)

49

Bảng 2.2. Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu do

ngành thuế quản lý (%)

ĐVT: triệu đồng

TT

Chỉ tiêu

2016

2017

2018

2019

27.081.162 33.716.955 38.628.090

37.397.108

1 Số thu thuế tài nguyên

2 Số thu thuế tài nguyên (trừ

14.755.011 19.466.181 21.872.224

23.044.121

dầu thô)

3 Số thu do ngành thuế quản lý 886.090.973 984.264.902 1.120.707.713 1.204.822.402

3,05

3,42

3,45

3,10

4 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu ngành

thuế quản lý (%)

1,67

1,98

1,95

1,91

5 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên (trừ dầu thô) so với số thu

ngành thuế quản lý (%)

(Nguồn: Tổng cục Thuế)

Bảng 2.3. Tỷ lệ thu thuế tài nguyên so với GDP và tổng thu NSNN

giai đoạn 2016-2019

Đơn vị tính: tỷ đồng

TT

Chỉ tiêu

2016

2017

2018

2019

1

4.502.000 5.000.900 5.535.300 6.042.500

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP theo giá hiện hành)

2 Tổng thu cân đối NSNN

1.101.377 1.212.180 1.420.000 1.539.322

3 Tổng thu thuế tài nguyên

27.081

33.717

38.628

37.397

Thu từ dầu thô

12.326

14.251

16.756

14.353

Thu khác

14.755

19.466

21.872

23.044

4 % so với GDP

0,6

0,7

0,7

0,6

5 % so với tổng thu cân đối NSNN

2,5

2,8

2,7

2,4

(Nguồn: Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới)

50

Nghiên cứu kết quả thu ngân sách nhà nuớc về thuế tài nguyên qua so

sánh với tổng số thu do ngành thuế quản lý, so sánh với tổng GDP và so sánh

với tổng số thu NSNN cho thấy những năm gần đây thuế tài nguyên đã động

viên hợp lý đóng góp của tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên tạo thêm

nguồn thu ổn định cho NSNN với số thu tuyệt đối và tỷ trọng tăng đều qua

các năm. Kết quả nghiên cứu tại các doanh nghiệp cho thấy, khối lượng tài

nguyên khai thác hàng năm có xu hướng giảm do chủ trương tiết kiệm tài

nguyên của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên các năm đều có số thu thuế tài

nguyên tăng so với năm trước (mặc dù có sự giảm nhẹ vào năm 2019 do

những bất ổn của tình kình kinh tế thế giới cũng như trong nước) là do việc

điều chỉnh giá tính thuế các loại tài nguyên một các hợp lý của UBND cấp

tỉnh cũng như việc tăng thuế suất đối với một số loại tài nguyên.

Việc phân bổ nguồn thu được thực hiện theo quy định tại Luật NSNN

và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó nguồn thu thuế tài nguyên (trừ

dầu khí) thuộc ngân sách địa phương, đảm bảo nguồn kinh phí cho việc cải

tạo môi trường, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tại địa

phương quanh khu vực khai thác (xây dựng điện, đường, trường, trạm...),

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người dân, phát triển kinh tế xã hội địa

phương và tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của

tài nguyên quốc gia. TNTN thường có tại các địa phương có điều kiện kinh

tế - xã hội khó khăn, tạo công ăn việc làm, giảm chênh lệch về giàu nghèo.

Việc quy định để lại 100% số thu từ thuế tài nguyên (trừ dầu khí) cho ngân

sách địa phương và việc giao UBND cấp tỉnh quy định giá tính thuế đối với

một số loại tài nguyên góp phần tăng cường công tác quản lý hoạt động khai

thác tài nguyên của cơ quan quản lý địa phương, hạn chế việc khai thác trái

51

phép gây lãng phí tài nguyên và ảnh hướng xấu đến môi trường.

Thứ hai, pháp luật thuế tài nguyên những năm qua đã góp phần thể chế

hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện

chính sách tài chính đối với tài nguyên thiên nhiên. Điều này thể hiện ở chỗ:

Một là, được ban hành phù hợp với quy định tại Hiến pháp năm 1992:

“Các cơ quan Nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, các đoàn thể

xã hội và tất cả các cá nhân phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về việc

sử dụng hợp lý các TNTN, và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động

làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường” (Điều 29);

Hai là, được ban hành để đáp ứng và phù hợp với yêu cầu cải cách,

cũng như hoàn thiện khung chính sách về thuế tài nguyên theo Chiến lược

cải cách hệ thống thuế (ban hành kèm theo Quyết định số 732/QĐ-TTg

ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ):

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng thuế tài nguyên là công cụ

hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ và thúc đẩy việc sử dụng hiệu

quả tài nguyên quốc gia, nhất là đối với tài nguyên không tái tạo;

thúc đẩy khai thác tài nguyên gắn liền với chế biến sâu và góp phần

hạn chế tối đa xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến; sửa đổi, bổ

sung quy định về giá tính thuế, thuế suất và thực hiện phương pháp

quản lý thu cho phù hợp với thực tiễn hoạt động khai thác tài

nguyên theo từng giai đoạn.

Theo đó, pháp luật thuế tài nguyên được ban hành đồng bộ cùng với

các Luật thuế như Luật QLT, Luật thuế Giá trị gia tăng, thuế thu nhập

doanh nghiệp... góp phần đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống thuế đồng

bộ, mang tính thống nhất và tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng.

Các quy định về thuế tài nguyên trong hệ thống pháp luật thuế tài nguyên

và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan hợp thành một hệ thống

52

pháp luật hoàn thiện về chính sách thu đối với tài nguyên, đáp ứng mục

tiêu gắn phát triển kinh tế bền vững đi liền với giảm ô nhiễm môi trường,

đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội về vai trò của tài

nguyên với sự phát triển của đất nước.

Thứ ba, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tài

nguyên thiên nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên

trong những năm gần đây đã làm phong phú thêm nguồn nguyên liệu đầu vào

cho các ngành sản xuất, ổn định sản xuất trong nước, giảm sự phụ thuộc vào

nguyên vật liệu nhập khẩu, tạo ra việc làm và thu nhập cho người dân. Với vai

trò là công cụ tài chính hữu hiệu giúp Nhà nước thể hiện vai trò sở hữu và

thực hiện chức năng quản lý đối với hoạt động khai thác và sử dụng tài

nguyên thiên nhiên (thể hiện trong các quy định về tượng chịu thuế, NNT, căn

cứ tính thuế và kê khai thuế…). Cơ quan quản lý nhà nước theo dõi, giám sát

và tăng cường công tác cấp phép, quản lý khai thác tài nguyên và có chính

sách khuyến khích đầu tư phù hợp để nâng cao giá trị tài nguyên thông qua

việc kê khai, nộp thuế tài nguyên của NNT.

Bên cạnh đó, cùng với quy định giao UBND cấp tỉnh quy định giá tính

thuế tài nguyên thì sự điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên trong thời

gian qua cũng đã thể hiện sự tăng cường hoạt động quản lý, giảm giát quá

trình hoạt động khai thác tài nguyên của Nhà nước. Nhờ đó mà tài nguyên

ngày càng được quản lý theo hướng chặt chẽ hơn, tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn

nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Thứ tư, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp khai thác tài nguyên.

Thuế tài nguyên với mức thuế suất được áp dụng đồng bộ, thống nhất

không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp

53

trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo môi trường đầu

tư ổn định, thu hút vốn đầu tư vào ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản.

Thêm vào đó, sự điều hành của nhà nước trong chính sách thuế tài nguyên

thông qua việc điều chỉnh tăng dần mức thuế suất thuế tài nguyên trong thời

gian qua là nhằm mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới dây

chuyển công nghệ trong khai thác, phục vụ chế biến sâu. Do thuế tài nguyên

là một trong các yếu tố cấu thành trong giá bán sản phẩm nên để đảm bảo lợi

nhuận, doanh nghiệp phải định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh theo

hướng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất; khai thác, chế biến sâu tài

nguyên, nâng cao giá trị sản phẩm. Từ đó, đảm bảo hiệu quả khai thác tài

nguyên cũng như đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp.

Thứ năm, nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát

triển kinh tế đất nước để có giải pháp quản lý tốt, sử dụng có hiệu quả nguồn

tài nguyên thiên nhiên.

Khi mà các nguồn lực để phát triển kinh tế còn chưa đủ mạnh thì tài

nguyên là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế đất nước, đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước. Nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên để phục vụ phát triển

kinh tế tăng rõ rệt trước sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và sự gia tăng hội nhập

quốc tế gần đây. Công tác quản lý thuế tài nguyên dường như chưa thể được

thực hiện một cách triệt để trước hoạt động khai thác tràn lan, khai thác không

phép, vượt phép hay xuất khẩu tài nguyên thô vẫn còn xảy ra tại một số địa

phương gây thất thoát tài nguyên, thất thu cho NSNN, kèm theo đó là mất ổn

định xã hội và ô nhiễm môi trường nơi khai thác.

Trong thời gian vừa, Nhà nước cũng thể hiện tầm quan trọng của tài

nguyên đối với sự phát triển kinh tế bền vững thông qua việc điều tiết thuế

suất thuế tài nguyên.

Kết quả của việc nâng nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên là

54

buộc các địa phương phải cân nhắc để đưa ra sự lựa chọn hợp lý phương thức

đầu tư khai thác, chế biến tài nguyên và đường lối phát triển kinh tế - xã hội

đảm bảo phù hợp với điều kiện của địa phương. Cùng với đó là sự gia tăng

trong công tác quản lý và cấp phép khai thác tài nguyên, lựa chọn nhà đầu tư

hội tụ đủ điều kiện và tiềm lực để khai thác, chế biến tài nguyên hiệu quả; xây

dựng chính sách khuyến khích đầu tư thúc đẩy việc chế biến sâu nâng cao giá

trị tài nguyên. Từ đó, tài nguyên ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng

tiết kiệm, hiệu quả hơn, kết hợp với việc bảo vệ môi trường nơi có tài nguyên.

Thứ sáu, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đảm bảo tính minh bạch,

rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện mang lại hiệu quả trong công tác quản lý.

Luật thuế tài nguyên có bố cục rõ ràng với những quy định cụ thể về

phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, NNT, căn cứ tính thuế, sản lượng tài

nguyên tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, kê khai, nộp thuế, miễn giảm thuế

và hiệu lực thi hành. Việc quy định rõ ràng, minh bạch, phù hợp và đồng bộ

với các văn bản pháp luật khác có liên quan sẽ hạn chế các quy định chồng

chéo lẫn nhau. Chính sách thuế rõ ràng tạo điều kiện để NNT cũng như cơ

quan QLT tổ chức thực hiện một cách thống nhất; hạn chế những khó khăn,

vướng mắc, khiếu nại của NNT.

Thứ bảy, góp phần khuyến khích việc khai thác, sử dụng hợp lý tài

nguyên và bảo vệ môi trường.

TNTN khai thác hiện nay hầu hết là tài nguyên không tái tạo được. Vì

vậy, việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên cần phải hợp lý, tiệt kiệm,

hiệu quả để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước song

song với sự phát triển kinh tế bền vững. Với tinh thần đó, trong những năm

qua, UBND cấp tỉnh đã phối hợp cùng với cơ quan thuế và cơ quan tài

nguyên – môi trường trong công tác quản lý tài nguyên thông qua việc ban

hành các văn bản chỉ đạo tới các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên và các

cơ quan có liên quan, hoặc thành lập đoàn liên ngành để kiểm tra các đơn vị

55

khai thác tài nguyên tại địa bàn.

Trong tình hình đó, thuế tài nguyên giúp tập trung nguồn thu cho NSNN

để điều tiết lại toàn bộ cho địa phương nơi khai thác với một phần để đầu tư

cơ sở hạ tầng, một phần để đầu tư cải tạo môi trường nơi khai thác và các khu

vực xung quanh nơi khai thác.

Thứ tám, pháp luật thuế tài nguyên ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính

đồng bộ với các pháp luật thuế khác.

Hiện nay, mức thu thuế tài nguyên đã đảm bảo sự đồng bộ với các sắc

thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu và các khoản thu trực tiếp

khác từ hoạt động khai thác tài nguyên như thu tiền cấp quyền khai thác

khoáng sản theo Luật Khoáng sản, phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng

sản theo Luật Phí, lệ phí, tiền dịch vụ môi trường rừng theo Luật Bảo vệ và

Phát triển rừng… Đối với tổ chức, cá nhân quản lý kinh doanh tốt, có năng

lực tài chính, công nghệ, quản lý khai thác đạt tiêu chuẩn được cấp phép khai

thác các loại khoáng sản quý hiếm, quy mô trữ lượng lớn, tổ chức hạch toán

kế toán đầy đủ theo quy định đã thực hiện tốt việc khai, nộp thuế tài nguyên

theo sổ sách kế toán và thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp với các quy định

đăng ký thuế, kê khai, quyết toán, thu, nộp thuế theo quy định của Luật QLT.

Đối với tổ chức, cá nhân hạn chế về năng lực khai thác, quản lý kinh

doanh ở trình độ thấp thì chỉ được cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản ở

quy mô nhỏ, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường thực hiện quản

lý thu thuế theo phương pháp khoán theo quy định. Các cơ chế chính sách

quản lý tài nguyên khoáng sản đã đảm bảo huy động, thu hút các nguồn lực

trong nền kinh tế phục vụ cho sản xuất kinh doanh và điều tiết ngân sách.

Cùng với việc điều chỉnh tăng dần mức thuế suất thuế tài nguyên, quy

định đối tượng không chịu thuế tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên hợp lý

hơn trong thời gian qua đã phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, có tác dụng

56

khuyến khích doanh nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên đầu tư đổi mới

dây chuyền công nghệ trong khai thác, phục vụ chế biến sâu, nâng cao giá trị

sản phẩm. Một số ví dụ về việc hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên, đáp

ứng nhu cầu thực tiễn cụ thể như sau:

- Về việc thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên

Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên đã sửa

đổi về đối tượng chịu thuế tài nguyên để giải quyết vướng mắc trong quan hệ

thương mại quốc tế khi một số nước đã cho rằng việc miễn thuế tài nguyên

đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp là một hình

thức trợ giá; đồng thời, để đảm bảo ổn định đời sống người nông dân và

khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, Quốc hội đã

thông qua Luật sửa đổi, bổ sung các Luật về thuế, trong đó đã chuyển nước

thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp từ đối tượng miễn thuế

sang đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Ngoài ra, trong quá trình hoạt

động của các nhà máy nhiệt điện cho thấy: Nước biển được sử dụng nhiều

trong công nghiệp chủ yếu để làm mát hệ thống thiết bị và việc sử dụng nước

biển để làm mát máy vừa đảm bảo đủ nguồn cho hoạt động của nhà máy, vừa

tiết kiệm nước ngọt. Chi phí đầu tư cho nhà máy nhiệt điện làm mát bằng

nước biển thường đắt hơn so với nhà máy nhiệt điện làm mát bằng nước ngọt,

do phải sử dụng các vật liệu chịu được độ ăn mòn cao. Đồng thời, khi sử dụng

công nghệ làm mát bằng nước biển phải đầu tư thêm hệ thống xử lý nước mặn

thành nước lợ với giá thành cao. Theo đó, nếu thu thuế tài nguyên đối với

nước biển sẽ làm tăng giá thành sản xuất, ảnh hưởng đến giá bán điện.

Để khuyến khích các nhà máy nhiệt điện sử dụng nước biển để làm mát

máy, tiết kiệm nguồn nước ngọt, đồng thời đảm bảo không ảnh hưởng đến giá

bán điện, tại Nghị định số 12/2015/NĐ- CP đã đưa nước biển làm mát máy

vào đối tượng không chịu thuế tài nguyên (nước biển làm mát máy phải đảm

57

bảo các yêu cầu về môi trường, về hiệu quả sử dụng nước tuần hoàn và điều

kiện kinh tế kỹ thuật chuyên ngành) và giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với

các Bộ liên quan hướng dẫn cụ thể. Tại Thông tư số 152/2015/TT-BTC đã

hướng dẫn việc xác định nước biển làm mát máy đảm bảo các yêu cầu nêu

trên do Bộ chuyên ngành xác nhận. Nếu sử dụng nước biển nhưng gây ô

nhiễm và không đạt các tiêu chuẩn về môi trường thì bị xử lý theo quy định

tại Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ.

- Về việc thu thuế tài nguyên đối với yến sào thiên nhiên

Trên thực tế, nhiều địa phương có vướng mắc trong việc thu thuế tài

nguyên đối với yến sào thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà nuôi chim

yến để dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác. Theo quy định của

Luật thuế tài nguyên thì thu thuế tài nguyên đối với TNTN, không thu đối với

sản phẩm nuôi trồng nói chung và yến sào do nuôi và khai thác nói riêng. Theo

đó, yến sào do tổ chức, cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để

dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác sẽ không phải nộp thuế tài

nguyên. Vì vậy, để đảm bảo cơ sở pháp lý và thống nhất trong quá trình thực

hiện, tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP đã bổ sung quy định "yến sào do tổ

chức, cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để dẫn dụ chim yến

tự nhiên về nuôi và khai thác” không thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên.

- Về giá tính thuế tài nguyên

Thông tư số 152/2015/TT-BTC cũng sửa đổi quy định về giá tính thuế

tài nguyên trong một số trường hợp, trong đó cho phép loại trừ khỏi giá tính

thuế tài nguyên chi phí vận chuyển nếu tài nguyên được vận chuyển đi tiêu

thụ và chi phí vận chuyển được ghi nhận riêng trên hóa đơn (trước đây không

được giảm trừ); Đối với tài nguyên xuất khẩu, giá tính thuế tài nguyên là giá

bán tài nguyên tại cửa khẩu xuất không bao gồm thuế xuất khẩu (trước đây

không được giảm trừ). Quy định cụ thể hơn giá tính thuế tài nguyên đối với

58

trường hợp tài nguyên không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán

ra (bán sản phẩm công nghiệp: giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm

công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản

phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính

thuế do UBND cấp tỉnh quy định. Chi phí này được xác định căn cứ vào công

nghệ chế biến của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt (không bao

gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng).

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong quá

trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam

Việc khai thác tài nguyên thường đem lại lợi nhuận kinh tế cao, do đó

thu thuế đối với hoạt động khai thác TNTN luôn gặp nhiều khó khăn, phức

tạp do nhiều nguyên nhân như địa bàn quản lý rộng lại có địa hình phức tạp;

đối tượng khai thác nhỏ, lẻ, khai thác trái phép khó quản lý, hệ thống chính

sách còn nhiều vướng mắc, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan

quản lý nhà nước trong hoạt động QLT tài nguyên. Vì vậy, bên cạnh những

kết quả đạt được nêu trên, quá trình thực hiện pháp luật QLT tài nguyên còn

có những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, thuế tài nguyên vẫn chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu

của Nhà nước trong công tác quản lý khai thác tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.

Mặc dù pháp luật QLT tài nguyên từng bước được hoàn thiện, Luật

thuế tài nguyên được ban hành năm 2009 cũng đã có nhiều sửa đổi, bổ sung

so với pháp lệnh thuế tài nguyên trước đó, đáp ứng điều kiện phát triển kinh tế

của đất nước, song việc khai thác bừa bãi tài nguyên, khai thác tài nguyên

ngoài sự quản lý của cơ quan nhà nước vẫn còn diễn ra. Trong đó phải kể đến

hoạt động khai thác, chặt phá rừng tự nhiên, vô tổ chức làm ảnh hướng xấu

đến môi trường cũng như cuộc sống con người hay nạn khai thác than nhỏ, lẻ

ngoài sự quản lý làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hoặc việc chia nhỏ dự án khai

59

thác mỏ quặng để tránh việc thẩm định, trốn tránh sự kiểm soát về sản lượng

để thu lợi riêng … Từ đó làm thất thu thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường,

ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế bền vững.

Thứ hai, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên hiện nay còn bộc lộ một

số hạn chế, vướng mắc.

Thời gian qua chính sách thu thuế tài nguyên đã đạt được nhiều kết quả

và mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình đưa vào thực hiện ở các địa

phương, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đã nảy ra những vấn đề còn tồn

tại, vướng mắc sau đây:

Một là, vướng mắc trong xác định đối tượng chịu thuế, sản phẩm tính

thuế tài nguyên. Trong quá trình thực thi quy định của pháp luật thuế tài

nguyên, NNT cũng như cơ quan thuế gặp một số khó khăn, vướng mắc liên

quan đến việc xác định đối tượng chịu thuế và sản phẩm tính thuế tài nguyên

dẫn tới sự chậm trễ trong việc kê khai, nộp thuế tài nguyên. Một số dẫn chứng

cụ thể như sau:

- Tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế

tài nguyên quy định đối tượng chịu thuế, trong đó có “sản phẩm của rừng tự

nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự

nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do NNT trồng tại khu vực

rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ”. Thực tế cho thấy, các sản

phẩm này khi mang ra khỏi rừng để tiêu thụ thì khó có thể phân biệt đâu là

sản phẩm của rừng tự nhiên, đâu là sản phẩm nuôi trồng. Hơn nữa, việc kiểm

soát khai thác có ở trong khu khoanh nuôi trồng hay không là bất khả thi.

Chưa kể đến việc một số loại cây ví dụ như sa nhân thì luôn tự mọc hoặc

được trồng dưới tán của cây rừng tự nhiên nên không thể xác định được khu

nào mọc tự nhiên, khu nào là rừng trồng. Dẫn tới việc phân biệt để xác định

60

đối tượng chịu thuế đối với các sản phẩm này thực sự khó khăn.

- Trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên hiện đang sử

dụng những cụm từ, thuật ngữ không thống nhất, khó xác định để chỉ sản

phẩm được chế biến từ tài nguyên khai thác mà không có định nghĩa hay giải

thích cụ thể nên rất vướng mắc trong xác định đối tượng cũng như phương

pháp tính thuế tài nguyên. Thí dụ như, cụm từ “sản phẩm khác” được quy

định tại Khoản 3 Điều 5 Luật thuế tài nguyên và cụm từ “sản phẩm công

nghiệp” tại Khoản 3 Điều 5 Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về

thuế tài nguyên. Tuy nhiên, trong luật và các văn bản hướng dẫn đều không

có giải thích khái niệm “sản phẩm khác” và “sản phẩm công nghiệp” là gì?

“Sản phẩm công nghiệp” hướng dẫn tại Thông tư có phải là “sản phẩm khác”

theo quy đinh của Luật không? Hầu hết TNTN khai thác đều phải qua sản

xuất, chế biến. Qua mỗi khâu sản xuất thì hàm lượng, thành phần của tài

nguyên đều có sự thay đổi. Do đó, việc xác định tài nguyên đã qua chế biến

thành sản phẩm khác là vấn đề rất phức tạp. Các quy định nêu trên thực tế đã

làm cho cho cơ quan thuế cũng như NNT khó khăn trong quá trình áp dụng

tính thuế tài nguyên của các sản phẩm liên quan, thậm chí dẫn đến những

tranh cãi, kiện cáo xung quanh vấn đề xác định đối tượng và phương pháp

tính thuế cho những sản phẩm này. Mặc dù Thông tư số 152/2015/TT-BTC có

quy định việc xác định sản phẩm bán ra sau quá trình sản xuất, chế biến là sản

phẩm công nghiệp hay không phải sản phẩm công nghiệp sẽ do Bộ quản lý

chuyên ngành xác nhận theo thẩm quyền nhưng lại không quy định rõ Bộ

chuyên ngành là Bộ nào nên không biết chính xác Bộ nào xác định thì mới là

đúng chức năng thẩm quyền để có giá trị về pháp lý, tăng thủ tục hành chính

cho NNT. Mặt khác, mỗi lần phải chờ Bộ quản lý chuyên ngành xác định tài

nguyên sau quá trình sản xuất, chế biến có phải là sản phẩm công nghiệp hay

không là khoảng thời gian dài gây ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất

61

kinh doanh của doanh nghiệp và thuế cũng phải xác định lại khi có trả lời

chính thức với hai phương pháp tính thuế cũng như số liệu thuế phải nộp rất

khác nhau dẫn đến khó khăn cho cơ quan thuế và NNT trong quá trình triển

khai thực hiện. Về khái niệm “sản phẩm công nghiệp”: Bộ Công Thương cho

rằng Thông tư số 152/2015/TT-BTC quy định khái niệm “sản phẩm công

nghiệp” có tính chung chung, do bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất, chế

biến bằng quá trình công nghiệp cũng được gọi là sản phẩm công nghiệp.

Khai khoáng là ngành công nghiệp nên sản phẩm của khai thác khoáng sản

đều có thể coi là sản phẩm công nghiệp. Yêu cầu xác nhận này là gây phiền

hà và làm khó cho các Bộ. Nếu xác nhận theo danh mục này thì số lượng các

sản phẩm tài nguyên là sản phẩm công nghiệp được trừ chi phí rất lớn.

- Tại các văn bản luật thuế tài nguyên quy định về thuế suất và giá tính

thuế đối với loại tài nguyên felspat và fenspat không thống nhất với nhau.

Chẳng hạn, tại Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 quy định biểu mức thuế

suất thuế tài nguyên chỉ quy định thuế suất cụ thể đối với tài nguyên fenspat;

tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC hướng dẫn thuế tài nguyên lại quy định

khung giá tính thuế đối với cả felspat và fenspat; tuy nhiên tại Thông tư số

05/2020/TT-BTC sửa đổi Thông tư số 44/2017/TT-BTC nói trên lại chỉ quy

định khung giá tính thuế đối với fenspat, chuyển fenspat từ nhóm tài nguyên

mã II23 sang nhóm tài nguyên mã II1103 (như theo quy định tại Thông tư số

44/2017/TT-BTC) đồng thời bỏ quy định đối với felspat tại nhóm tài nguyên

mã II1103. Việc quy định lẫn lộn giữa felspat và fenspat giữa các văn bản luật

dẫn đến việc lúng túng khi áp dụng để tính thuế tài nguyên.

Hai là, vướng mắc trong quy định về người nộp thuế tài nguyên

Về quy định NNT trong pháp luật thuế tài nguyên cũng gây ra nhiều

bất cập trên thực tế, cụ thể như sau:

- Quy định về NNT trong trường hợp khai thác nhỏ, lẻ của Luật thuế tài

62

nguyên là bất cập và chưa phù hợp với quy định của Luật Khoáng sản. Để

được phép khai thác khoáng sản theo quy định của Luật khoáng sản thì tổ

chức, cá nhân, hộ gia đình phải đáp ứng được các điều kiện khắt khe tại

Khoản 2 và Khoản 3 Điều 53 Luật này. Các điều kiện này nghiêm ngặt đến

mức mà dường như chỉ có tổ chức mới có đủ khả năng để được cấp phép khai

thác khoáng sản. Trong khi đó, các hoạt động khai thác khoáng sản nhỏ lẻ

trên thực tế hầu hết là khai thác trái phép các loại khoáng sản có giá trị (vàng,

than đá, đá quý...) mà không được cơ quan nhà nước cấp phép khai thác. Do

đó, quy định của Luật thuế Tài nguyên về việc “tổ chức, cá nhân khai thác

nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân

làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc khai nộp thuế

tài nguyên cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu

mua là NNT” là không phù hợp với Luật Khoáng sản và sẽ vô tình hợp thức

hóa các nguồn tài nguyên khai thác trái phép.

Thêm vào đó, tại Thông tư số 152/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính

hướng dẫn về thuế tài nguyên cũng chỉ hướng dẫn về NNT trong trường hợp

được cấp phép khai thác khoáng sản mà bỏ qua NNT trong trường hợp khai

thác nhỏ, lẻ nói trên. Việc quy định thiếu sót và không thống nhất này đã gây

ra rất nhiều khó khăn, vướng mắc cho cơ quan thuế khi xử lý các trường hợp

cụ thể. Ngoài ra, việc quy định về NNT thay trong trường hợp tài nguyên khai

thác nhỏ, lẻ nhưng không có qui định điều kiện ràng buộc nộp thuế hay chế

tài cụ thể đối với trường hợp không chứng minh được nguồn gốc tài nguyên

thu mua đã được đã nộp thuế tài nguyên nên thiếu tính khả thi, khó khăn cho

cơ quan thuế. Thậm chí quy định này còn có thể gây ra tình trạng lợi dụng

trốn thuế tài nguyên làm thất thu NSNN thông qua việc tuồn tài nguyên khai

thác qua các tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua chỉ lập bảng kê thu mua

nhưng không cam kết nộp thay hoặc không có hóa đơn chứng minh nguồn

63

gốc tài nguyên thu mua đã được nộp thuế tài nguyên.

Còn việc bỏ đối tượng này tại Thông tư số 152 lại làm bỏ sót NNT vì khi

tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC

được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 96/2015/TT-BTC thì việc mua đất, đá,

cát, sỏi của hộ gia đình, cá nhân tự khai thác trực tiếp bán ra vẫn được tính là

chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nếu NNT lập bảng kê

01/TNDN theo quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC.

- Quy định về NNT trong trường hợp khai thác nước với quy mô nhỏ

phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa được hướng dẫn rõ ràng gây

khó khăn trong công tác quản lý thu thuế. Như đã đề cập ở trên, Thông tư số

152/2015/TT-BTC chỉ hướng dẫn về NNT trong trường hợp được cấp phép

khai thác khoáng sản. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 44 của Luật tài

nguyên nước và Điều 16 Nghị định số 201/2013/NĐ-CP thì còn các trường

hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước với quy mô nhỏ cho sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ không phải đăng ký, không phải xin phép. Như vậy, còn tồn

tại những trường hợp được khai thác tài nguyên hợp pháp mà không cần cấp

giấy phép khai thác tài nguyên nhưng văn bản quy phạm pháp luật lại chưa có

hướng dẫn về NNT gây cách hiểu và cách làm khác nhau trong quá trình thực

hiện như: một số địa phương cho rằng không có căn cứ để yêu cầu người khai

kê khai nộp thuế nên buông lỏng quản lý gây thất thu NSNN và lãng phí tài

nguyên, có địa phương lại cho rằng khai thác tài nguyên là phải được cho

phép nên yêu cầu phải có xác nhận về việc được phép khai thác, dẫn tới gây

phiền hà cho NNT.

Ba là, vướng mắc về cách xác định sản lượng tính thuế tài nguyên

Theo quy định của pháp luật về thuế tài nguyên thì sản lượng tài

nguyên tính thuế có thể là: (i) Số lượng, khối lượng, trọng lượng tài nguyên

thực tế khai thác trong kỳ (ii) Khối lượng của từng chất thu được sau khi sàng

64

tuyển, phân loại, làm giầu (iii) Sản lượng sản phẩm công nghiệp sản xuất

trong kỳ và định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm (iv)

đối với quặng đa kim được xác định sản lượng và tính thuế tài nguyên theo

từng chất căn cứ sản lượng quặng thực tế khai thác và tỷ lệ từng chất có trong

tài nguyên khai thác. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện đã phát sinh một số

vướng mắc lớn như sau:

- Do hướng dẫn xác định sản lượng chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến có

trường hợp doanh nghiệp vẫn áp dụng cách xác định sản lượng từ Thông tư số

105/2010/TT-BTC (quy đổi về sản lượng nguyên khai) hoặc tự xác định theo

cách hiểu của doanh nghiệp. Tình trạng này thường gặp đối với hoạt động

khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Ví dụ: Cùng trên địa bàn Bình Thuận,

cùng thực hiện hoạt động tương tự như nhau: khai thác đá theo phương pháp

nổ mìn, sau đó đưa vào nghiền thành đá dăm các ly khác nhau và bán. Nhưng

Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Bình Thuận thì kê khai sản

lượng tính thuế tài nguyên theo sản lượng từng loại đá dăm ly xuất bán và giá

tính thuế là giá bán trên hoá đơn chưa có thuế GTGT; Còn Công ty cổ phần

Tà Zôn thì lại tính sản lượng tài nguyên tính thuế là tổng sản lượng các loại

dăm ly quy về đá hộc trong kỳ tính thuế, và sử dụng giá tính thuế là giá trong

Bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND tỉnh ban hành có hiệu lực trong kỳ

tính thuế. Dẫn tới, cùng một trữ lượng đá khai thác cho hai kết quả về sản

lượng và giá tính thuế khác nhau.

- Tại khoản 1 Điều 5 Thông tư 152/2015/TT-BTC hướng dẫn thuế tài

nguyên về sản lượng tài nguyên tính thuế:

Đối với loại tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng

lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số

lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác

trong kỳ tính thuế. Trường hợp tài nguyên khai thác thu được sản

phẩm tài nguyên có nhiều cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại

65

khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo sản

lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất lượng, giá trị

thương mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có

sản lượng bán ra lớn nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính

thuế cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong kỳ.

Ví dụ 1: Doanh nghiệp A khai thác đá sau nổ mìn, khai thác thu được

đá hộc, đá dăm các ly khác nhau thì được phân loại theo từng cấp độ,

chất lượng từng loại đá thu được để xác định sản lượng đá tính thuế

của mỗi loại. Trường hợp, doanh nghiệp A có bán một phần sản lượng

đá hộc, số đá hộc, đá dăm còn lại được đưa vào đập, nghiền thành các

loại đá dăm có các cỡ (ly) khác nhau thì sản lượng tính thuế được xác

định bằng cách quy từ sản lượng đá các cỡ (ly) ra sản lượng đá có sản

lượng bán ra lớn nhất để xác định sản lượng đá thực tế khai thác để

tính thuế tài nguyên. Doanh nghiệp A thực hiện khai, nộp thuế đối với

sản lượng đá khai thác theo giá bán tương ứng.

Quy định trên đã làm nảy sinh một số vấn đề như sau:

(i) Cùng một trữ lượng khoáng sản khai thác thì có rất nhiều loại giá,

nhiều loại sản lượng tính thuế khác nhau dẫn đến số thuế tài nguyên phải nộp

của mỗi doanh nghiệp hoặc mỗi phương pháp khai thác khác nhau là khác nhau.

(ii) Bộ xây dựng và Sở xây dựng thì chỉ xây dựng tỷ lệ quy đổi từ đá

nguyên khai (đá khối) ra các đá kích thước dăm ly khác nhau, chứ không quy

định tỷ lệ quy đổi giữa các loại đá. Nhưng trong Thông tư của Bộ Tài chính

không có quy định về xác định tỷ lệ quy đổi như thế nào hay cơ quan nào có

thẩm quyền xác định tỷ lệ quy đổi giữa các sản lượng khoáng sản này nên

không biết thực hiện thế nào là đúng?

(iii) Thuế tài nguyên là loại kê khai theo tháng, quyết toán theo năm

nên việc quy định như trên đối với người khai thác sau đó đưa vào chế biến

66

thành các loại đá có kích thước khác nhau rồi mới bán sẽ dẫn tới hàng tháng

NNT sẽ phải quy đổi ra sản lượng của loại đá bán ra lớn nhất của từng tháng,

tính thuế tài nguyên theo giá của loại đó từng tháng; cuối năm lại phải tính

tổng lại xem loại nào bán ra sản lượng lớn nhất trong năm rồi lại phải tính lại

thuế theo giá của loại đó để điều chỉnh. Cách tính này quá phức tạp, không rõ

đạo lý, gây phiền hà cho NNT và cơ quan thuế khó kiểm soát.

- Chưa có hướng dẫn đối với sản lượng tài nguyên (than) nguyên khai

tồn kho chưa xác định được phần nào bán cho công ty tuyển than để thực hiện

sàng tuyển, chế biến. Quy định tại Thông tư số 152 đối với trường hợp tài

nguyên khai thác phải qua sàng tuyển, phân loại mới bán ra chỉ áp dụng được

với các doanh nghiệp khai thác trực tiếp sàng tuyển để bán ra. Chưa có quy

định sản lượng tài nguyên tính thuế đối với trường hợp tài nguyên được khai

thác, chế biến, sàng tuyển, phân loại rồi mới bán ra nhưng quy trình khai thác,

sàng tuyển, phân loại, chế biến do nhiều đơn vị trong Tập đoàn, Tổng công ty

thực hiện như trường hợp của Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam (TKV).

Hiện nay, TKV là đơn vị khai thác tài nguyên lớn nhất cả nước, là đơn vị

được giao quản lý tài nguyên khoáng sản với mô hình khai thác, sàng tuyển,

chế biến, tiêu thụ được thực hiện bởi nhiều đơn vị qua nhiều khâu, nhiều công

đoạn như sau: Khâu khai thác do các mỏ (các công ty khai thác) thực hiện;

khâu sàng tuyển, chế biến do các công ty tuyển than hoặc các công ty khai

thác thực hiện; khâu tiêu thụ do các công ty kho vận thực hiện. Một phần than

nguyên khai khai thác sẽ được tổ chức sàng tuyển, chế biến tại mỏ, phần còn

lại (phần lớn) thực hiện sơ tuyển tại mỏ và giao cho các nhà máy tuyển thực

hiện sàng tuyển, chế biến. Trường hợp này, sản lượng than tính thuế là sản

lượng than sạch đã qua sàng tuyển, phân loại nhưng NNT tài nguyên là đơn vị

khai thác lại không thực hiện sàng tuyển.

- Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định 12/2015/NĐ-CP thì giá

67

tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng

tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó. Trường hợp điển hình của Cty

TNHH khai thác mỏ Núi Pháo như sau:

Quặng Wonfram mỏ Núi Pháo là loại quặng đa kim quý hiếm, qua một

khối lượng quặng đưa vào dây chuyền sản xuất sẽ cho ra 4 sản phẩm công

nghiệp khác nhau đều đã được Bộ Công Thương xác nhận là sản phẩm công

nghiệp khác, gồm: Đồng, Busmuth, Wonfram, Fluorite.

Nghiên cứu quy trình sản xuất của Công ty TNHH mỏ Núi Pháo:

Về mặt sản lượng thì với một khối lượng quặng mỏ Núi Pháo qua sàng,

đập, nghiền đưa vào dây chuyền sản xuất: công đoạn 1 làm đặc quặng nghiền

và tuyển nổi thu được tinh quặng đồng ở cuối công đoạn 1; đuôi quặng sau

công đoạn 1 tiếp tục được đưa vào dây chuyền chế biến công đoạn 2, dùng

hoá chất, công nghệ tuyển nổi, lọc thu được sản phẩm Busmuth ở cuối công

đoạn 2; đuôi quặng sau công đoạn 2 tiếp tục được đưa vào dây chuyền chế

biến công đoạn 3, qua tuyển trọng lực, tuyển nổi tách và thu được sản phẩm

Wonfram ở công đoạn 3; phần đuôi quặng còn lại sau công đoạn 3 tiếp tục

được đưa vào dây chuyền chế biến công đoạn 4 dùng trọng lực, công nghệ

tuyển nổi thu được sản phẩm Fluorite. Phần đuôi quặng còn lại thải ra đập

chứa đuôi quặng có ngăn ôxit để tránh ô nhiễm môi trường.

Trên toàn thế giới, không có giá bán quặng Wonfram vì đây là khoáng

sản quý hiếm chỉ có vài nước có nên các nước hoặc không cho khai thác để

dành cho con cháu hoặc khai thác thì đều qua chế biến ra sản phẩm có giá trị

kinh tế cao rồi mới bán, do đó, thuế tài nguyên sẽ tính theo từng chất. Tuy

nhiên, phát sinh vướng mắc các chất thu được đều là sản phẩm công nghiệp

khác, không phải là sản phẩm tài nguyên vậy thì sản lượng tài nguyên để tính

tương ứng với khâu xác định giá tính thuế tài nguyên xác định thế nào chưa

có hướng dẫn cụ thể, và không thể xác định được giá tính thuế tài nguyên của

68

quặng Wonfram. Như vậy, quy định về tính sản lượng nêu trên phát sinh

vướng mắc trong trường hợp dây chuyền sản xuất liên hoàn cho ra các sản

phẩm công nghiệp khác ở các khâu khác nhau của dây chuyền. Trên cùng một

khối lượng nguyên liệu tài nguyên khai thác thô là quặng đa kim sản xuất theo

dây chuyền công nghệ khép kín cho ra nhiều sản phẩm công nghiệp khác

nhau ở từng công đoạn khác nhau, và do mỏ khoáng sản hình thành tự nhiên

nên tỷ lệ các chất có trong quặng ở từng vỉa khai thác có sự khác nhau lớn nên

khó có cơ sở để xác định được mức sử dụng tài nguyên của từng sản phẩm

(từng chất có trong quặng tài nguyên) để làm căn cứ chuyển đổi từ sản phẩm

cuối cùng thành khoáng sản nguyên khai. Khó xác định “điểm dừng” nào thì

sản phẩm vẫn còn là tài nguyên chưa thành sản phẩm khác để xác định giá và

sản lượng tương ứng.

- Cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc xác định sản lượng tài nguyên

thực tế mà doanh nghiệp khai thác. Theo quy định của pháp luật khoáng sản

thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có trách nhiệm thống kê, kiểm kê

sản lượng khoáng sản đã khai thác thông qua việc lập sổ sách chứng từ làm cơ

sở xác định sản lượng thực tế, báo cáo cơ quan thuế và chịu trách nhiệm về số

liệu thống kê. Sản lượng tài nguyên thực tế khai thác do các doanh nghiệp kê

khai, báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước theo cơ chế tự khai, tự nộp.

Việc giám sát của cơ quan quản lý đối với kê khai tính thuế tài nguyên của

doanh nghiệp, đặc biệt là tài nguyên có giá trị kinh tế cao như: chì, kẽm, vàng,

đồng, đá quý, đất hiếm… gặp rất nhiều khó khăn vì các mỏ được cấp phép

đều nằm ở vùng sâu, vùng xa, loại quặng này thường được vận chuyển lên

biên giới để xuất tiểu ngạch. Do đó cơ quan quản lý gặp rủi ro lớn trong việc

thất thoát thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường… Mặt khác, thuế tài nguyên

tính trên sản lượng thực tế khai thác do người khai thác khai báo cho nên chưa

khuyến khích tận dụng hết tài nguyên trong khai thác chế biến. Thậm chí, vẫn

còn khá phổ biến việc nhiều tài nguyên có giá trị thấp bị các doanh nghiệp bỏ

69

lại nơi khai thác, chẳng hạn như khai thác đá hoa trắng thu hồi đạt dưới 10%

trữ lượng khai thác đối với loại đá BLOK để xẻ tấm và tiêu thụ nguyên khối,

doanh nghiệp chỉ cần bán số sản phẩm này cũng đã thu về lợi nhuận tới 50%

tổng doanh thu (giá bán đá hoa trắng BLOK xẻ tấm là 35-40 triệu đồng/m3,

còn nguyên khối là gần 20 triệu đồng/m3); theo đó, doanh nghiệp không cần

tận dụng số sản phẩm chất lượng thấp mà bỏ tại bãi để không phải đóng thuế

tài nguyên và phí bảo vệ môi trường.

Tóm lại, theo cơ chế QLT tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm về số

liệu kê khai thì cơ quan thuế không có chức năng và không có chuyên môn để

xác định tại hiện trường đối với sản lượng thực tế doanh nghiệp đã khai thác

để so sánh, đối chiếu với sản lượng doanh nghiệp kê khai tính, nộp thuế tài

nguyên trong khi cơ quan tài nguyên và môi trường địa phương cũng không

có biện pháp kiểm tra số liệu sản lượng mà doanh nghiệp thực tế khai thác.

Việc bỏ ngỏ quản lý sản lượng tài nguyên thực tế khai thác dẫn đến rủi ro về

thất thu NSNN do chưa có cơ chế kiểm tra, kiểm soát và quản lý chặt chẽ về

sản lượng tài nguyên thực tế khai thác.

Bốn là, vướng mắc về giá, khung giá tính thuế tài nguyên

Về việc xác định giá tính thuế tài nguyên đối với trường hợp tài nguyên

khai thác lên phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra: Mặc dù tại Thông tư số

152/2015/TT-BTC đã quy định cụ thể cách xác định giá tính thuế đối với tài

nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra

(bán trong nước hoặc xuất khẩu), cụ thể là: (i) giá bán đơn vị sản phẩm tài

nguyên hoặc trị giá hải quan của sản phẩm tài nguyên trong trường hợp sản

phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên (chưa phải là sản phẩm công nghiệp); (ii)

là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công

đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp trong

trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, về bản chất

70

tài nguyên khai thác đưa vào sản xuất, chế biến thành sản phẩm tài nguyên

(chưa phải là sản phẩm công nghiệp) hay sản phẩm công nghiệp đều phải qua

quy trình luyện, làm giàu và chế biến (ở các mức độ khác nhau), trong đó đã

bao gồm phần giá trị gia tăng được tạo ra từ phần vốn đầu tư của doanh

nghiệp. Ngoài ra, ranh giới giữa sản phẩm tài nguyên và sản phẩm công

nghiệp là không nhiều, ví dụ đối với quặng sắt nguyên khai khi khai thác lên

thì hàm lượng sắt có thể chỉ chiếm từ 17% -20%, tuy nhiên sau quá trình sàng

tuyển, làm giàu (với chi phí cao) có thể thu được tinh quặng sắt có hàm lượng

đạt tới 60% -70%, nhưng vẫn chưa thành sản phẩm khác; tuy nhiên đối với

quặng nikel, từ quặng thô qua công đoạn 1 (khai thác, đập, nghiền, tuyển) cho

ra quặng có hàm lượng 1,94%Ni; qua công đoạn 2 (chế biến, luyện, tách sản

phẩm) cho ra sản phẩm: tinh quặng Nikel hàm lượng Ni≥9,5% thì đã được

xác định là tài nguyên, khoáng sản đã qua chế biến thành sản phẩm khác. Do

đó, trường hợp công nghệ càng tiên tiến, chi phí đầu tư vào khâu sản xuất, chế

biến càng lớn thì giá tính thuế tài nguyên càng cao. Nếu chỉ cho trừ chi phí

chế biến từ công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công

nghiệp trong trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp thì sẽ chưa

khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất, chế

biến để nâng cao giá trị sản phẩm tài nguyên. Đồng thời chưa phản ánh đúng

bản chất của thuế tài nguyên là đánh vào tài nguyên khai thác.

Về giá tính thuế tài nguyên đối với trường hợp tài nguyên khai thác đã

được chế biến thành sản phẩm công nghiệp khác rồi mới bán ra được xác định

trên cơ sở lấy giá bán trừ chi phí chế biến. Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 6

Thông tư 152/2015/TT-BTC thì đối với tài nguyên đã qua chế biến thành sản

phẩm khác (sản phẩm công nghiệp) thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản

phẩm công nghiệp trừ chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ

sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp căn cứ công nghệ chế biến

71

của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt nhưng không bao gồm chi

phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng, như vậy: Cùng một loại tài

nguyên khai thác, chế biến nhưng hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp

cùng ngành nghề khác nhau, phụ thuộc vào trình độ quản lý kinh doanh và

công nghệ chế biến, dẫn tới hệ quả là nếu doanh nghiệp tự xác định mức chi

phí khâu chế biến sản phẩm công nghiệp thì mỗi doanh nghiệp có mức chi phí

khác nhau, giá tính thuế tài nguyên không đồng nhất, dẫn đến số thuế tài

nguyên phải nộp khác nhau dẫn đến không bình đẳng về nghĩa vụ thuế, doanh

nghiệp quản lý chi phí sản xuất chế biến kém thì chi phí được trừ nhiều hơn,

giá tính thuế thấp, số thuế phải nộp ít hơn doanh nghiệp quản lý tốt chi phí.

Nếu quy định một mức chi phí khâu chế biến sản phẩm công nghiệp dẫn đến

không khuyến khích doanh nghiệp nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công

nghệ để chế biến tài nguyên hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, quy định giá bán trừ

chi phí chế biến nhưng không bao gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm

giàu hàm lượng thì theo đó: (i) Sản xuất sản phẩm công nghiệp thì việc khai

thác, đập nghiền, sàng, tuyển chỉ để phục vụ cho khâu chế biến tiếp theo. (ii)

Dây chuyền chế biến là dây chuyền khép kín từ khâu đập nghiền đến tuyển

quặng và tách sản phẩm thương mại. (iii) Giá tính thuế tài nguyên là giá bán

đơn vị sản phẩm, có độ lệch rất lớn so với giá trị khai thác khoáng sản theo

khối địa chất đã duyệt. Hướng dẫn này không phù hợp với nguyên tắc “sản

lượng nào giá tính thuế đó” theo Nghị định số 12/2015/NĐ-CP.

Về giá tính thuế được trừ đối với chi phí vận chuyển.

Hiện tại Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC quy định giá tính thuế

tài nguyên là giá bán chưa có thuế GTGT ghi trên hoá đơn, đối với trường

hợp trên hóa đơn bán hàng có tách bạch được chí phí vận chuyển riêng thì sẽ

được trừ chí phí vận chuyển. Thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng thuê

phương tiện vận chuyển hay xác định riêng giá vận chuyển vì doanh nghiệp

72

khai thác khoáng sản thường không đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải. Do

đó, nhiều doanh nghiệp khai thác chế biến tài nguyên bán hàng theo phương

thức giao hàng đến tận người mua, giá bán bao gồm cả chi phí vận chuyển.

Chi phí vận chuyển này tuy doanh nghiệp không ghi trên hoá đơn bán hàng

(do không phải là đơn vị kinh doanh vận tải) nhưng doanh nghiệp có đầy đủ

chứng từ chứng minh và hạch toán riêng, rõ ràng trong chi phí sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, thế nhưng lại bị cộng vào giá tính thuế tài nguyên

dẫn tới không công bằng và không đúng đạo lý trong xác định giá tính thuế

của cùng một loại tài nguyên nhưng có hợp đồng bán liên quan đến phương

thức chuyên chở, giao hàng khác nhau.

Về khung giá tính thuế tài nguyên đối với các loại tài nguyên có cùng

tính chất lý, hoá giống nhau.

Theo Thông tư số 44/2017/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số

05/2020/TT-BTC) quy định khung giá tính thuế đối với các loại tài nguyên có

tính chất lý, hoá giống nhau có tác dụng làm “kim chỉ nam” cho các địa

phương có căn cứ ban hành Bảng giá tính thuế áp dụng cụ thể tại địa phương.

Tuy nhiên, trong phân loại của Khung giá còn nhiều bất cập khi áp dụng do

nhiều nguyên nhân, cụ thể:

- Một số loại tài nguyên hàm lượng, chủng loại quy định không phù

hợp với sản phẩm thực tế của các địa phương khác nhau nên giá không phù

hợp, hoặc còn thiếu chủng loại nên chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Khung

nghiên cứu giá: Khung giá đá hoa trắng quy định trên cơ sở giá đá của Yên

Bái. Thực tế, đá hoa trắng ở Quỳ Hợp Nghệ An và đá hoa trắng ở Yên Bái

cùng một khung. Tuy nhiên, do niên đại hình thành và điều kiện kiến tạo khác

nhau nên chất lượng đá của hai tỉnh này hoàn toàn khác nhau, việc quy định

cùng một khung giá dẫn tới vướng mắc trong thực hiện.

Đối với giá tính thuế quặng Apatit tại Lào Cai. Tại Khung giá kèm theo

73

Thông tư 44/2017/TT-BTC, quy định: Apatit loại I, khung giá từ 1.400.000 –

1.700.000 đ/tấn; Apatit loại II, khung giá từ 850.000 – 1.100.000 đ/tấn; Apatit

loại III, khung giá từ 350.000 – 500.000 đ/tấn; Apatit loại tuyển, khung giá từ

1.100.000 – 1.400.000 đ/tấn; không quy định quặng bột hay quặng cục.

Tại Quyết định số 525/QĐ-UBND, quy định: Quặng Apatit loại I, giá

tính thuế tài nguyên là 1.400.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại II, giá tính thuế

tài nguyên là 850.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại tuyển, giá tính thuế tài

nguyên là 1.100.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại III, giá tính thuế tài nguyên

là 350.000 đồng/tấn; không quy định cụ thể quặng cục hay quặng bột.

Thực tế trên địa bàn tỉnh Lào Cai, hiện nay phát sinh quặng bột, quặng

cục khác nhau, tương ứng với giá khác nhau: (i) Công ty TNHH MTV Apatit

Việt Nam: giá bán bình quân 06 tháng năm 2017: Quặng 1 bột là 868.369

đồng/tấn; Quặng 1 cục là 1.503.320 đồng/tấn; Quặng loại 2 là 803.175

đồng/tấn; Quặng tuyển là 954.740 đồng/tấn; Qua khảo sát doanh thu đối với

quặng loại 3 là không phát sinh, quặng loại 3 không có giao dịch trên thị

trường. (ii) Công ty cổ phần Vạn Thắng: giá bán bình quân 06 tháng năm

2017: Quặng 1 bột là 792.573 đồng/tấn; Quặng 1 cục là 1.303.028 đồng/tấn;

Quặng loại 2 là 550.000 đồng/tấn; Quặng loại 3 có hàm lượng P2O5 thấp nên

không có khách mua, hiện tại Công ty còn tồn kho hơn 145.000 tấn quặng 3

và từ khi đi vào khai thác đến nay chưa bán được tấn nào. (iii) Công ty CP ĐT

Apatit Tam Đỉnh Lào Cai: Khai thác quặng Apatit Tam Đỉnh – Làng Phúng

đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh từ tháng 9/2016. Giá bán bình quân 06

tháng đầu năm 2017 đối với quặng 1 cục là 1.082.472 đồng/tấn, quặng 1 bột

là 674.759 đồng/tấn.

Từ những phân tích như trên, giá quặng Apatit trên địa bàn tỉnh Lào

Cai được phân ra cụ thể từng loại bột hay cục và có giá chênh lệch là lớn.

Như vậy, đối chiếu với quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC thì

74

Khung giá tính thuế tài nguyên còn một số mức giá quy định không phù hợp,

thiếu quy định cho một số loại tài nguyên mới như quặng loại 1 dạng cục, giá

tính thuế tài nguyên là 1.550.000 đ/tấn (bình quân khung giá) và quặng loại 1

dạng bột, giá tính thuế tài nguyên là 850.000 đồng/tấn; Quặng loại 2 là

850.000đ/tấn, Quặng loại 3 là 350.000đ/tấn, Quặng tuyển là 1.100.000đ/tấn.

- Một số loại lại được quy định ở nhiều dòng khung khác nhau với mức

giá chênh lệch lớn nên không thống nhất trong áp dụng.

Ví dụ: Theo quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC, quy định, tại

cấp 3 V102: Nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, trong đó cấp 4

V10201 (nước thiên nhiên tinh lọc, đóng chai, đóng hộp) và V10202 (nước

thiên nhiên tinh lọc, đóng chai, đóng hộp) có tên nhóm, loại giống nhau,

khung giá lại quy định khác nhau.

- Khung tối thiểu còn chưa phù hợp, trong một số trường hợp là quá

cao so với thực tế, nhất là đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng như đất,

đá, cát, sỏi

Ví dụ: Cát vàng (Cát vàng đổ bê tông).

Theo quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC, có quy định, đối với

Cát vàng, khung giá là 245.000-350.000 đồng/m3. Tuy nhiên Cát vàng hiện

nay trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giá giao dịch bình quân được Công bố giá

VLXD quý III/2017 là 92.000 đ/m3 (thấp hơn 62% so với mức giá tối thiểu tại

Thông tư số 44/2017/TT-BTC). Tại Hậu Giang giá cũng rơi vào khoảng

85.000 đ/m3.

- Đối với tài nguyên đã chế biến thành sản phẩm công nghiệp thì tại

Khung giá ban hành kèm theo Thông tư 44/2017/TT-BTC không quy định

khung giá cho các loại sản phẩm này. Do đó dẫn đến tính không khả thi khi

thực hiện hướng dẫn về xác định giá tính thuế đối với loại tài nguyên không

bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến thành sản phẩm công nghiệp mới bán ra

75

(giá đã trừ đi chi phí chế biến theo quy định) vì không có căn cứ để thực hiện.

Năm là, vướng mắc về thuế suất thuế tài nguyên.

Nhà nước thể hiện mức độ điều tiết thông qua thuế suất thuế tài nguyên

đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên. Trong giai đoạn 2010 - 2013,

mức thuế suất thuế tài nguyên đã được sửa đổi một lần nhằm thực hiện mục

tiêu tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tài nguyên gắn với tình

hình thực tế. Tuy vậy, đến nay mức thuế suất thuế tài nguyên hiện hành còn

hạn chế trong việc góp phần bảo vệ, khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả

nguồn tài nguyên đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Về nguyên tắc,

việc xây dựng thuế suất thuế tài nguyên dựa trên cơ sở sau: Trần thuế suất cao

đối với tài nguyên không có khả năng tái tạo và ngược lại. Theo quy định hiện

hành đang áp dụng thì khung thuế suất các nhóm tài nguyên như sau:

- Nhóm khoáng sản kim loại: từ 7-25%

- Nhóm khoáng sản không kim loại: từ 3-30%

- Dầu thô: từ 6-40%

- Khí thiên nhiên, khí than: 1-30%

- Sản phẩm rừng tự nhiên: 1-35%

- Hải sản tự nhiên: 1-10%

- Nước thiên nhiên: 1-10%

- Yến sào thiên nhiên: 10-20%

- Tài nguyên khác: 1-20%

Nhìn vào khung thuế suất hiện hành có thể thấy rõ, khung thuế suất

hiện hành còn một số khiếm khuyết sau: a) Sản phẩm rừng tự nhiên là tài

nguyên có khả năng tái tạo nhưng hiện đang có mức trần khung thuế suất cao

hơn cả những loại tài nguyên không có khả năng tái tạo như nhóm khoáng sản

kim loại, nhóm khoáng sản không kim loại; b) Cùng là tài nguyên không tái

tạo nhưng khung thuế suất là khác nhau giữa nhóm khoáng sản kim loại và

76

nhóm khoáng sản không kim loại và khung thuế suất còn thấp hơn sản phẩm

rừng tự nhiên điều này dẫn đến không đạt được mục đích điều tiết và việc

khai thác một số khoáng sản kim loại vẫn chưa hiệu quả, gây lãng phí tài

nguyên, đa số các khoáng sản kim loại chưa được chế biến sâu; c) Nước thiên

nhiên là loại tài nguyên đang ngày càng khan hiếm thì khung thuế suất hiện

hành còn quá thấp.

Sáu là, vướng mắc trong hướng dẫn về quyết toán thuế tài nguyên

Theo quy định tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP thì về nguyên tắc giá

tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng

tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại

Thông tư số 152/2015/TT-BTC thì NNT phải khai thuế hàng tháng đối với

toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong tháng kể cả tồn kho và đang chế

biến. Khi quyết toán thuế thì NNT phải kê khai sản lượng tài nguyên tính thuế

là tổng sản lượng tài nguyên khai thác trong năm không phân biệt tồn kho hay

đang chế biến hoặc vận chuyển; giá tính thuế là giá bán bình quân một đơn vị

sản phẩm tài nguyên được xác định bằng cách lấy tổng doanh thu bán tài

nguyên chia cho tổng sản lượng tài nguyên bán ra tương ứng trong năm.

Như vậy, đối với doanh nghiệp khai thác loại tài nguyên phải qua sàng

tuyển rồi mới bán ra thì hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC như trên

sẽ dẫn tới một số vấn đề như sau:

- NNT nếu không khai thuế đối với sản phẩm đã khai thác nhưng chưa

qua sàng tuyển là vi phạm pháp luật, nhưng nếu kê khai thì chưa có sản lượng

tính thuế và chưa có giá tính thuế để kê khai theo quy định cụ thể về sản

lượng và giá của Thông tư đã hướng dẫn.

- Nếu NNT kê khai theo giá bán ra của doanh nghiệp cho sản phẩm đã

qua sàng tuyển với sản lượng đã khai thác tồn kho chưa sàng tuyển thì không

đúng với quy định tại Nghị định 12/2015/NĐ-CP.

77

Ngoài ra, hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC về phương

pháp xác định sản lượng tính thuế quy ra sản lượng tài nguyên khâu khai

thác, nhưng giá tính thuế lại là giá tại khâu bán ra. Như vậy là chưa đúng

với nguyên tắc “giá khâu nào, sản lượng tính ở khâu đó” quy định tại Nghị

định 12/2015/NĐ-CP.

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng

mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Mặc dù chính sách và pháp luật thuế tài nguyên đã đạt được những kết

quả nhất định nhưng song song với đó vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng

mắc xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:

Thứ nhất, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đang bị mâu thuẫn vì

theo đuổi nhiều mục tiêu, trong đó mục tiêu tăng trưởng xanh, bảo vệ môi

trường chưa thực sự được coi trọng. Điều đó dẫn đến những mâu thuẫn trong

việc xây dựng chính sách thuế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh.

Thứ hai, việc minh bạch thông tin về việc khai thác, sử dụng, và giá

bán thực tế của tài nguyên còn hạn chế gây thất thu cho NSNN, đồng thời khó

khăn cho công tác QLT với các hiện tượng kê khai giảm khối lượng tài

nguyên khai thác, chuyển giá, khai thác tài nguyên lãng phí…

Thứ ba, cơ quan QLT gặp khó khăn trong việc QLT tài nguyên nếu tính

thuế tài nguyên trên sản lượng tài nguyên nguyên khai, và giá tính thuế của tài

nguyên nguyên khai vì cơ quan thuế chưa có cơ chế kiểm soát hiệu quả chi

phí khai thác, chế biến tài nguyên của doanh nghiệp.

Thứ tư, tỷ lệ điều tiết khoản thu từ thuế tài nguyên chi đầu tư lại cho vào

việc cải tạo lại môi trường nơi khai thác và người dân địa phương không được

quy định rõ ràng nên không khuyến khích người dân phát hiện sai trái để giúp

cơ quan nhà nước quản lý tài nguyên và thu thuế đối với khai thác tài nguyên.

Thứ năm, chưa có bộ máy chuyên trách, đủ điều kiện trang thiết bị và

nhân lực có trình độ đồng bộ để tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động khai

78

thác khoáng sản; để kịp thời rà soát, chấn chỉnh việc cấp Giấy phép khai thác

tài nguyên, khoáng sản. Chưa có biện pháp giám sát, xử lý nghiêm, kịp thời

các trường hợp vi phạm về khai thác tài nguyên và nghĩa vụ nộp ngân sách,

khôi phục môi trường. Ngoài ra, tại một số địa phương không có cơ chế trao

đổi thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp khai khoáng giữa cơ

quan tài nguyên môi trường và cơ quan thuế. Điều này dẫn đến doanh nghiệp

có thể vi phạm cả pháp luật về thuế và pháp luật về tài nguyên môi trường

nhưng chỉ bị cơ quan kiểm tra, thanh tra phạt hành chính.

Tóm lại, những năm qua chính sách và pháp luật thuế tài nguyên đã đạt

được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên qua nghiên cứu thực tế tại các địa

phương, các đơn vị điển hình, phân tích chính sách, pháp luật, áp dụng chính

sách, pháp luật và công tác QLT, công tác triển khai thu thuế đã cho thấy thuế

tài nguyên hiện hành còn tồn tại nhiều vướng mắc từ xác định đối tượng chịu

thuế, căn cứ tính thuế đến cách hiểu để áp dụng, công tác triển khai thực

hiện… Để việc quản lý thu thuế tài nguyên đạt hiệu quả cao hơn nữa cần có

79

những giải pháp cụ thể sửa đổi, khắc phục những vấn đề nêu trên.

Kết luận chương 2

Chương 2 của luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn

thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên ở Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu

này có thể rút ra một số kết luận sau đây:

1. Thực trạng pháp luật về QLT tài nguyên được nghiên cứu theo bốn

phương diện gồm chủ thể; nguyên tắc và nội dung; trình tự, thủ tục; thanh

tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật. QLT tài nguyên là một phần của

QLT nói chung, vì vậy pháp luật QLT tài nguyên về cơ bản là đồng nhất

với pháp luật QLT.

2. Thuế tài nguyên có ảnh hưởng rõ rệt đến việc tăng nguồn thu NSNN,

góp phần điều tiết lượng tài nguyên khai thác và tăng hiệu quả khai thác TNTN.

Thuế tài nguyên thu được tăng tỷ lệ thuận với mức tăng của thuế suất và giá

tính thuế tài nguyên. Nhìn chung số thu từ thuế tài nguyên tăng đều qua các

năm, năm 2019 có sự chững nhẹ do bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có

những biến động. Số thu thuế tài nguyên từ dầu khí có xu hướng giảm so với

tổng số thu thuế tài nguyên trong các năm gần đây chủ yếu do tác động của

việc giảm giá bán dầu thô trên thị trường thế giới.

3. Luật QLT nói chung tuy đã được ban hành và sửa đổi nhiều lần nhưng

vẫn còn nhiều quy định chưa cụ thể, chưa phù hợp cũng như chưa theo kịp thực

tế phát sinh và sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Điều này làm cho hiệu quả

QLT vẫn chưa cao, công tác QLT còn chưa thật sự chặt chẽ, gây thất thoát

nguồn thu cho NSNN. QLT tài nguyên cũng không nằm ngoài phạm vi đó, thể

hiện ở những vướng mắc, tồn tại trong chính pháp luật về QLT tài nguyên như

vướng mắc về đối tượng chịu thuế, NNT, sản lượng tính thuế, giá và khung giá

tính thuế, thuế suất, quyết toán thuế. Để khắc phục những tồn tại đó, cần thiết

phải tìm ra các giải pháp để hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật QLT nhằm

80

nâng cao hiệu quả QLT và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ

TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM

3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

Xuất phát từ những hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc đã phân tích

tại Chương 2, để đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế tài

nguyên điều tiên quyết là cần phải có giải pháp để khắc phục chúng. Việc

hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên giữ vai trò hết sức quan trọng. Trong

đó, nguyên tắc chung để hoàn thiện chính sách bao gồm: (i) Tiếp tục xây

dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đảm bảo sự đơn giản, rõ

ràng, minh bạch, thống nhất tạo thuận lợi cho NNT để NNT có thể dễ dàng

tiếp cận, nắm bắt và hiểu biết các quy định của pháp luật thuế cũng như thực

hiện các hành vi tuân thủ thuế; (ii) Việc rà soát lại các quy định của pháp luật

thuế và pháp luật liên quan cần được thực hiện thường xuyên, liên tục căn cứ

vào quá trình QLT cũng như phản ánh của NNT, nhanh chóng điều chỉnh, bổ

sung để đảm bảo sự chính xác, minh bạch của các quy định đó.

Trong hệ thống chính sách thuế tài nguyên thì trước mắt cần sửa đổi

Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn thuế tài nguyên với các nội dung

cụ thể như sau:

Thứ nhất, về xác định đối tượng chịu thuế, sản phẩm tính thuế tài nguyên

Để thực hiện mục tiêu kiểm soát hoạt động khai thác TNTN có hiệu

quả, tránh lãng phí nguồn tài nguyên thiên, cũng như đảm bảo nguồn thu

cho NSNN cũng như đảm bảo cho chính sách thuế tài nguyên phù hợp với

thông lệ quốc tế, trong thời gian tới cần nghiên cứu mở rộng thêm một số

đối tượng khai thác loại tài nguyên quý hiếm, có giá trị thương mại cao

như: san hô đỏ, khoáng sản có lợi nhuận siêu ngạch như khai thác lộ thiên,

81

lợi nhuận thu được lớn.

Cần thống nhất trong việc sử dụng các cụm từ, thuật ngữ được dùng

trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên để tránh những

vướng mắc khi áp dụng, chẳng hạn phải thống nhất khái niệm về tài

nguyên khai thác phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra là “tài nguyên đã

qua chế biến” thay cho khái niệm “sản phẩm công nghiệp” tại Thông tư số

152/2015/TT-BTC, đảm bảo theo tên gọi theo quy định tại khoản 4, Điều 4

Nghị định số 12/2015/NĐ-CP:

Trường hợp tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản

xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì

giá tính thuế tài nguyên khai thác được xác định căn cứ vào trị giá

hải quan của sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến xuất khẩu hoặc

giá bán sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến trừ thuế xuất khẩu (nếu

có) và các chi phí có liên quan từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu

xuất khẩu hoặc từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu bán tại thị

trường trong nước.

Thí dụ, có thể bổ sung Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 152/2015/TT-BTC

về đối tượng chịu thuế tài nguyên là sản phẩm của rừng tự nhiên trừ một số

sản phẩm được cho phép trồng tại khu vực rừng tự nhiên như sau: Cơ quan

thuế địa phương chủ trì xây dựng và báo cáo UBND cấp tỉnh ban hành cơ

chế phối hợp với các cơ quan có liên quan nơi có rừng bao gồm UBND cấp

xã, Hạt Kiểm lâm hoặc Chi cục Kiểm lâm để tăng cường quản lý hoạt động

khai thác tài nguyên rừng tự nhiên theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, về người nộp thuế tài nguyên

Thực tế công tác quản lý thu thuế cho thấy các tổ chức, cá nhân làm

đầu mối thu mua chỉ lập bảng kê thu mua mà không cam kết nộp thay hoặc

không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc tài nguyên thu mua đã nộp thuế tài

82

nguyên. Trong khi đó, việc yêu cầu các tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ, lẻ

khai, nộp thuế tài nguyên là rất khó khăn, nhất là các trường hợp cá nhân khai

thác thủ công, khai thác ở vùng sâu, vùng xa... Ngoài ra, các trường hợp khai

thác nhỏ lẻ đều không được cấp giấy phép khai thác tài nguyên theo quy định

của Luật khoáng sản.

Do đó, để không hợp thức hóa cho các trường hợp này, đề nghị bỏ quy

định về đối tượng nộp thuế đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ

cho phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, bản chất của thuế tài nguyên là đánh vào

hoạt động khai thác tài nguyên chịu thuế nhằm đảm bảo quản lý và sử dụng hiệu

quả tài nguyên cũng như bảo vệ môi trường mà không xét đến việc khai thác đó

là có phép hay không có phép. Do đó, pháp luật thuế tài nguyên vẫn phải quy

định về NNT tài nguyên đối với tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ. Theo đó, nên

quy định tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua có trách nhiệm nộp thuế thay

cho tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ để tránh thất thu NSNN.

Theo đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về NNT tài nguyên trong

trường hợp có Giấy phép khai thác và không có giấy phép khai thác tài

nguyên tại Điều 3 Thông tư số 152/2015/TT-BTC như sau:

Tổ chức, cá nhân thực hiện khai thác loại tài nguyên thuộc đối

tượng chịu thuế tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên. Trường hợp tổ

chức, cá nhân khai thác nhỏ, lẻ bán cho tổ chức cá nhân làm đầu

mối thu mua thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu phải mua cam kết

chấp thuận bằng văn bản về việc khai nộp thay thuế tài nguyên.

Thứ ba, về sản lượng tài nguyên tính thuế tài nguyên

Để đảm bảo thuận tiện trong quá trình thu thuế tài nguyên và đảm bảo

thuận tiện cho NNT trong quá trình nộp thuế tài nguyên, đảm bảo tính rõ

ràng, minh bạch, cần quy định cụ thể giá tính thuế tài nguyên đối với từng

trường hợp sau: a) Trường hợp tài nguyên khai thác lên bán ra ngay; b)

Trường hợp tài nguyên khai thác lên phải qua quá trình sàng tuyển, phân loại

83

mới bán ra; c) Trường hợp tài nguyên phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra.

Trong từng trường hợp nói trên cần xác định cụ thể sản lượng tài

nguyên tính thuế đối với một số trường hợp vẫn còn khó khăn trong cách xác

định như: trường hợp tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau

nhưng không qua sàng, tuyển, phân loại và trường hợp không xác định được

sản lượng từng chất khi bán ra. Theo đó:

- Nghiên cứu xây dựng nguyên tắc quy đổi sản lượng tính thuế theo tỷ

lệ để xác định sản lượng theo nhóm tài nguyên khai thác có cùng đặc điểm

tính chất lý hóa để thống nhất áp dụng.

- Xác định rõ cách thức xác định sản lượng tính thuế tài nguyên như:

phương pháp quy đổi sản lượng tính thuế cần phù hợp với các phương pháp

quy đổi của cơ quan chức năng có liên quan quy định (Bộ Xây dựng, Bộ

Công thương); xây dựng phương pháp xác định sản lượng tính thuế đối với

quặng đa kim.

- Có văn bản pháp quy hướng dẫn trách nhiệm của cơ quan quản lý tài

nguyên môi trường và các cơ quan khác trong việc triển khai thực thi xác định

sản lượng tài nguyên thực tế khai thác và số kê khai nộp thuế tài nguyên.

Thứ tư, về giá tính thuế tài nguyên

Đề nghị nghiên cứu giá tính thuế là giá bán tài nguyên tại nơi khai thác

để hạn chế việc đánh trùng thuế đối với tài nguyên vận chuyển đi tiêu thụ và

chi phí khác, không công bằng trong xác định giá tính thuế, nhất là đối với

xuất khẩu tài nguyên.

Quy định chi phí được trừ đối với sản phẩm công nghiệp; chi phí vận

chuyển được trừ đối với sản phẩm xuất khẩu cần hướng dẫn rõ hơn để đảm

bảo rõ ràng, minh bạch, thuận lợi trong thực hiện.

Mặt khác, để khuyến khích tính tự chủ hạch toán kinh doanh của doanh

nghiệp, cho phép doanh nghiệp tự hạch toán giá thành và chi phí ở khâu chế

84

biến sản phẩm tài nguyên, được trừ vào giá bán sản phẩm tài nguyên đã qua

chế biến khi xác định giá tính thuế tài nguyên. Ngoài ra, để tạo sự bình đẳng

về nghĩa vụ thuế và khuyến khích doanh nghiệp khai thác chế biến sâu tài

nguyên, nâng cao giá trị gia tăng, cần giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi quy

định Bảng giá tính thuế tài nguyên phải kết hợp xây dựng phương án xác định

mức chi phí bình quân ở khâu chế biến sản phẩm tài nguyên, làm căn cứ tính

trừ khi xây dựng mức giá tính thuế tài nguyên.

Xây dựng đầy đủ khung giá tài nguyên (bao gồm cả quặng đa kim) làm

cơ sở cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng Bảng giá tính thuế tài nguyên

để xác định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên.

Xây dựng giá tính thuế tài nguyên phù hợp với giá thị trường và giá

tính thuế tài nguyên đối với sản phẩm công nghiệp để UBND cấp tỉnh áp

dụng xây dựng Bảng giá tính thuế tài nguyên phù hợp.

Đồng thời để khuyến khích doanh nghiệp khai thác khoáng sản chế

biến sâu, khuyến khích áp dụng công nghệ cao cần nghiên cứu hoàn thiện

khắc phục hạn chế từ việc cho trừ chi phí được trừ khỏi giá tính thuế để tránh

tình trạng doanh nghiệp quản lý tốt ứng dụng công nghệ cao, giảm chi phí thì

chi phí được trừ thấp, nộp thuế cao còn doanh nghiệp sử dụng công nghệ

kém, lãng phí nhiều thì được trừ chi phí nhiều, nộp thuế ít.

Thứ năm, về khung giá tính thuế tài nguyên

Khung giá tính thuế tài nguyên hiện nay được quy định tại Thông tư số

44/2017/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 05/2020/TT-BTC)

góp phần tạo cơ sở để tính thuế tài nguyên, tuy nhiên cần có sự tính toán về

mức giá ở các địa phương khác nhau để đảm bảo tính công bằng và phù hợp

với thực tế. Ngoài ra, cần xem xét việc quy định mức trần và mức sàn theo giá

do UBND cấp tỉnh ban hành như hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC

85

vì tại Luật thuế tài nguyên không có quy định này.

Thứ sáu, về thuế suất thuế tài nguyên

Đề nghị xem xét điều chỉnh giảm thuế suất thuế tài nguyên đối với một

số loại khoáng sản đặc biệt đã áp dụng thu tiền cấp quyền khai thác khoáng

sản, để phù hợp với chính sách điều tiết thu đối với tài nguyên khoáng sản.

Tuy nhiên, đối với các tài nguyên khoáng sản có tính chất dự trữ hoặc

doanh nghiệp chưa đủ trình độ công nghệ để đáp ứng yêu cầu khai thác và sử

dụng tiết kiệm, hiệu quả nhất nguồn tài nguyên đất nước thì vẫn duy trì mức

thuế suất như hiện hành.

3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên

ở Việt Nam

3.2.1. Cải cách thủ tục hành chính về quản lý thuế tài nguyên

Thực tế cho thấy, để đạt được kết quả mong muốn thì bên cạnh một hệ

thống pháp luật thuế tốt cần phải có phương tiện tổ chức thực hiện tốt. Vì vậy,

để có thể thực hiện thành công việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế thì

điều kiện tiên quyết là phải có một hệ thống hành thu phù hợp và hiệu quả.

Bốn yếu tố cơ bản có mối quan hệ biện chứng phụ thuộc lẫn nhau được sử

dụng để đánh giá hệ thống hành thu tốt hay không gồm: (a) tính phù hợp của

quy trình tổ chức hành thu; (b) tính hiệu quả của tổ chức bộ máy hành th; (c)

tính tinh thông của tổ chức nhân lực; và (d) tính hiện đại của cơ sở vật chất,

kỹ thuật. Công tác cải cách thủ tục hành chính về QLT tài nguyên phải đảm

bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện một số quy trình QLT đáp ứng yêu cầu

QLT tập trung đang được triển khai tại các cơ quan thuế từ Trung ương tới

địa phương. Phần mềm QLT tập trung tại các cơ quan thuế hiện nay đòi hỏi

sự thay đổi toàn diện, đồng bộ quy trình QLT, từ đó thay đổi hành vi của công

chức thuế và hành vi của NNT trong quá trình đảm bảo thu thuế vào NSNN.

86

Trong thời gian vừa qua, một số quy trình mới đã được ban hành để đáp ứng

yêu cầu QLT, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục bổ sung, sửa đổi các quy trình còn

lại, nhằm tạo đột phá trong QLT như tuyên truyền, hỗ trợ NNT; quản lý hóa

đơn, chứng từ; trao đổi thông tin giữa các bộ phận của cơ quan thuế.

Thứ hai, cần có quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bộ

phận và mối quan hệ giữa các bộ phận với nhau trong sử dụng phần mềm

quản lý và khai thác thông tin có liên quan. Phần mềm QLT tập trung đòi hỏi

sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận của cơ quan thuế trong khai thác

thông tin về NNT để thực hiện chức năng quản lý của mình. Khác với cách

quản lý trước đây, mỗi bộ phận của cơ quan thuế sử dụng một phần mềm

quản lý riêng theo chức năng, từng bộ phận quản lý sẽ tự cập nhật thông tin

về NNT và cung cấp thông tin cho các bộ phận khác khi có yêu cầu. Để có thể

khai thác thông tin trong hệ thống phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ QLT, đòi

hỏi công chức thuế phải có kỹ năng sử dụng máy tính, nắm vững pháp luật

thuế, cẩn thận và trung thực.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong QLT, cụ thể

nâng cao hiệu quả và ứng dụng của TMS bằng việc hiện đại hóa các chức

năng xử lý kê khai thuế (phải hỗ trợ chuyển đổi sang các nghiệp vụ QLT dựa

trên hệ thống thông tin minh bạch hay nói cách khác thực hiện tái thiết kế quy

trình nghiệp vụ một cách có hệ thống cho toàn bộ các chức năng thuế để hỗ

trợ thực hiện TMS; hỗ trợ xây dựng và triển khai hệ thống quản lý cơ sở dữ

liệu trên cơ sở đánh giá năng lực kho dữ liệu hiện có và thiết kế một mạng

lưới các kho cơ sở dữ liệu của TMS) và hiện đại hóa các chức năng sau xử lý

kê khai, (xây dựng các chức năng và hệ thống thanh tra, kiểm tra dựa trên

quản lý rủi ro nhằm giảm chi phí tuân thủ và nâng cao mức độ tuân thủ tự

nguyện thông qua hệ thống thanh tra, kiểm tra hiệu quả và minh bạch…).

Thứ tư, thực hiện cải tổ bộ máy QLT, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân

87

lực về QLT bằng việc đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ QLT theo

kịp với các cải cách đang diễn ra cũng như bối cảnh gia tăng đáng kể số lượng

các giao dịch đa quốc gia và các diễn biến phức tạp và đa dạng của các hành

vi gian lận thuế quốc tế. Nâng cao năng lực và kỹ năng của cán bộ thuế về

điều hành và QLT quốc tế; Nâng cao kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ

thuế về quản lý hiệu quả việc thu nợ thuế; Tăng cường kỹ năng của cán bộ

thuế trong việc giải quyết các tranh chấp và khiếu nại về thuế.

Thứ năm, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT trong việc khai

thuế và nộp thuế. Trong thời gian tới, việc kê khai thuế qua mạng và nộp thuế

điện tử cần được triển khai tới tất cả các chủ thể nộp thuế, từ các doanh

nghiệp đến các hộ gia đình và cá nhân nộp thuế ở tất cả các vùng miền. Công

việc này có thể được thực hiện cùng với quá trình thực hiện hóa đơn điện tử

trong giao dịch mua bán nêu trên. Khi đó, bên cạnh nền tảng cơ sở hạ tầng

công nghệ thông tin đã được xây dựng, việc mở rộng và phát triển các hình

thức thanh toán cùng với sự tham gia của nhiều chủ thể như ngân hàng

thương mại, công ty cung cấp dịch vụ internet và đường truyền cùng với hệ

thống QLT tập trung của cơ quan thuế thì rõ ràng việc thực hiện khai thuế,

nộp thuế của NNT sẽ được nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả công tác quản

lý của cơ quan thuế cũng được nâng lên rõ rệt.

Thứ sáu, cải thiện các dịch vụ hỗ trợ NNT để đảm bảo quyền của NNT,

đặc biệt cần đơn giản hóa các yêu cầu về thủ tục thuế đối với doanh nghiệp

nhỏ và hộ kinh doanh. Vì vậy cần (i) sửa đổi các nguyên tắc QLT đối với hộ

gia đình kinh doanh; (ii) xem xét và sửa đổi các yêu cầu kế toán đối với hộ

gia đình kinh doanh và doanh nghiệp dưới ngưỡng đăng ký thuế GTGT; (iii)

xem xét nghiên cứu ban hành các chuẩn mực kế toán, tổ chức công tác kế

toán áp dụng riêng cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; (iv) cần nghiên cứu chính

sách thuế, cơ chế QLT riêng đối với doanh nghiệp nhỏ; (v) nghiên cứu, đề

xuất phương thức nộp thuế đơn giản cho đối tượng nộp thuế qui mô nhỏ, tiếp

88

tục cải cách liên quan đến nộp thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh

doanh. Có thể nghiên cứu để xây dựng thí điểm hệ thống nộp thuế qua điện

thoại di động cho các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, tạo điều kiện hỗ trợ tương tác và

phản hồi tích cực giữa cơ quan thuế và NNT, đặc biệt là các hộ kinh doanh

nhỏ. Thực tế QLT cho thấy, hiện nay, các hộ kinh doanh nhỏ chiếm khoảng

70% số doanh nghiệp nộp thuế do các Cục thuế cấp tỉnh quản lý. Với đặc thù

các hộ kinh doanh nhỏ có sự hiểu biết về hệ thống thuế còn hạn chế, do vậy

họ cần phải được cung cấp dịch vụ hỗ trợ nộp thuế thuận tiện và nộp thuế đơn

giản để nâng cao tỷ lệ tuân thủ tự nguyện và giảm chi phí tuân thủ cho các hộ

kinh doanh nhỏ.

Thứ bảy, kiểm soát, đánh giá kết quả QLT thông qua các khảo sát về

phản hồi của NNT (đánh giá sự hài lòng của NNT). Khảo sát về phản hồi của

NNT là một công cụ thiết yếu để đo lường những đánh giá của NNT đối với

những dịch vụ công của cơ quan thuế. Các khảo sát này sẽ giúp giám sát và

đánh giá tác động của chương trình cải cách QLT, thể hiện qua các phản hồi

tốt hay xấu của NNT. Tăng cường đối thoại với NNT để tìm ra giải pháp giúp

NNT tuân thủ tốt pháp luật thuế và tiết kiệm nguồn lực cho cơ quan thuế.

Thứ tám, tăng cường việc đẩy mạnh phát triển mở rộng hệ thống đại lý

thuế theo hướng đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động hỗ trợ NNT. Thông qua

đó tăng dần số lượng đại lý thuế, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp bởi

đại lý thuế và đa dạng hoá dịch vụ của đại lý thuế. Song song đó là làm cho hệ

thống đại lý thuế thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan thuế và NNT trong

việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật thuế, góp phần

làm giảm chi phí (thời gian và nhân lực) cho cơ quan thuế và NNT. Theo đó,

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLT.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý thu thuế

tài nguyên

89

Hiện nay, cơ quan thuế đang quản lý thu thuế theo cơ chế tự khai, tự

nộp. Bên cạnh ưu điểm là tiết kiệm được thời gian, công sức, chi phí quản lý

hành chính về thuế; đồng thời, nâng cao trách nhiệm pháp lý của NNT, việc

áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế cũng còn tồn tại những hạn chế nếu

không đáp ứng được những điều kiện nhất định. Cụ thể như sau:

(i) Nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp QLT phù hợp sẽ

xảy ra nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn;

(ii) Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp (công tác kiểm tra không kịp

thời, việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục, hướng dẫn các đối tượng nộp thuế

không đầy đủ, chu đáo…) có thể dẫn đến các tình trạng NNT cố tình kê khai sai

nhằm trốn thuế thông qua lợi dụng việc không kiểm tra tính toán lại số thu

thường kỳ của cơ quan thuế. Ngoài ra, do sự hiểu biết của NNT còn hạn chế, ý

thức tự giác và tuân thủ pháp luật còn chưa cao cùng với sự hướng dẫn chưa hiệu

quả của cơ quan thuế vô tình dẫn đến tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp làm

tăng nguy cơ thất thoát thuế tài nguyên.

Cơ quan thuế đã tiến hành cải cách các quy trình QLT nhằm đáp ứng

yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp theo hướng hiện đại hóa với sự hỗ trợ của

công nghệ thông tin. Các quy trình QLT được nghiên cứu xây dựng, đảm bảo

phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình chức năng và thể hiện nguyên tắc

quản lý theo rủi ro. Cụ thể:

- Trong nghiệp vụ hỗ trợ cơ sở kinh doanh: cơ quan thuế chủ động sử

dụng những hình thức phù hợp để tổ chức tuyên truyền, hỗ trợ NNT theo

nhóm đối tượng nộp thuế. Chỉ khi nắm chắc được nhu cầu của khách hàng, cơ

quan thuế sẽ cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của NNT.

- Trong nghiệp vụ xử lý tờ khai thuế: cơ quan thuế theo dõi một cách

hệ thống tờ khai thuế của NNT (tờ khai đầu tiên, tờ khai điều chỉnh, tờ khai

cuối cùng) để tổng hợp các lỗi mà NNT đã mắc, nghiên cứu để có biện pháp

90

xử lý phù hợp như hướng dẫn NNT kê khai nếu lỗi là do sự hạn chế trong

hiểu biết của NNT hay sửa đổi mẫu tờ khai nếu chưa phù hợp, hoặc lựa chọn

các trường hợp để thanh tra nếu các lỗi bị lăp lại nhiều lần do cố ý.

- Trong nghiệp vụ đôn đốc và thu nợ thuế: cơ quan thuế đẩy mạnh công

tác đôn đốc và thu nợ thuế thông qua việc sử dụng các ứng dụng công nghệ

thông tin để theo dõi nghiêm ngặt đối với các trường hợp chậm nộp tờ khai,

chậm nộp thuế hay phát hành các thông báo nhắc nhở, thông báo phạt đối với

NNT không nộp tờ khai, không nộp thuế. Thông qua việc theo dõi số thuế

nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn đọng theo từng loại thuế, cơ

quan thuế có thể xác định được tính chất, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ

thuế để có biện pháp thu nợ phù hợp nhằm giảm cả khoản nợ có mức nợ và

tuổi nợ cao.

- Trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra: việc kiểm tra, thanh tra được tiến

hành theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, nghi ngờ có gian lận trốn thuế trên cơ

sơ thu thập đầy đủ thông tin quan trọng cần thiết về NNT qua tờ khai, báo cáo

tài chính và các nguồn thông tin khác. Theo đó, cơ quan thuế có thể lựa chọn

các trường hợp để kiểm tra, thanh tra thuế và tiến hành chuẩn bị nội dung,

cách thức thanh tra phù hợp.

Quy định về vấn đề kiện toàn tổ chức bộ máy cho công tác quản lý thu

thuế tài nguyên cần rõ ràng, cụ thể mỗi Chi cục thuế có từ hai đến bốn cán bộ

làm công tác quản lý thu thuế tài nguyên và có tính đến mô hình tổ chức bộ

máy khi thành lập các Chi cục thuế vùng để đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn

thu gắn với phân cấp nguồn thu đối với địa bàn nơi có mỏ khai thác.

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong

quản lý thuế tài nguyên

Đối với cơ quan tài nguyên môi trường

Cần có giải pháp cụ thể để quản lý tốt sản lượng tài nguyên khai thác,

91

tránh thất thu về sản lượng thông qua các giải pháp về kỹ thuật như phương

pháp đo lường hoặc đo đạc để xác định sản lượng tài nguyên thực tế khai thác

trong kỳ, thay vì chỉ dựa trên số liệu kê khai của doanh nghiệp như hiện nay.

Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

Cần phát huy vai trò quản lý nhà nước để tạo sự bình đẳng về môi

trường pháp lý, đảm bảo hoạt động khai thác, chế biến, kinh doanh tài

nguyên, khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thúc đẩy nền sản xuất phát

triển lành mạnh, tăng thu ngân sách, công tác quản lý của Uỷ ban nhân dân

cấp tỉnh và hướng dẫn chuyên môn của các cơ quan chuyên ngành, vừa quản

lý, định hướng hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên và quản lý thu nghĩa

vụ ngân sách một cách thường xuyên liên tục. Ở địa phương, việc UBND cấp

tỉnh vừa cấp phép, quản lý và nắm bắt hiện trạng việc khai thác chế biến tài

nguyên sẽ thuận lợi trong việc xây dựng giá tính thuế tài nguyên gắn với hiệu

quả kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo xác định chi phí được trừ khi xây

dựng giá tính thuế tài nguyên sát thực tế ở địa phương.

Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành ở địa phương

với UBND các cấp địa phương để giám sát sản lượng tài nguyên từ khâu thăm

dò, thẩm định cấp phép, quá trình khai thác và tiêu thụ tài nguyên.

UBND cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng để xây dựng ban hành bảng

giá tính thuế tài nguyên phù hợp với thực tế phát sinh: theo đúng sản phẩm tài

nguyên mà doanh nghiệp sản xuất, theo giá tính thuế mua bán trên thị trường.

Và đặc biệt quy định giá tính thuế tài nguyên đối với khoáng sản nguyên khai

để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

Việc quản lý hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản cũng như

công tác thu thuế tài nguyên cần được UBND cấp tỉnh chỉ đạo sát sao để có

sự phối hợp chặt chẽ hiệu quả giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành. Trong

92

đó, chú trọng nâng cao vai trò của người đứng đầu các cơ quan, các cấp trong

công tác quản lý. Cụ thể hoá công việc phối hợp giữa các cơ quan theo chức

năng, nhiệm vụ của ngành từ khâu duyệt cấp quyền khai thác, đến tổ chức

khai thác. Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì thẩm định hồ sơ xin cấp phép

khai thác, kết hợp tính thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, nâng cao

quản lý nhà nước về hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản…

Trong quá trình quản lý hoạt động khai thác có sự phối hợp với các Sở,

ngành, Cục Thuế kiểm tra thực địa về việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động

khai thác tài nguyên khoáng sản, đối chiếu quản lý sản lượng khai thác giữa

cơ quan tài nguyên và môi trường và cơ quan thuế để quản lý thu ngân sách

về thuế tài nguyên và các khoản thu khác từ hoạt động khai thác khoáng sản

đạt kết quả tốt.

Thông qua cơ chế phối hợp kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu quả

quản lý tài nguyên, tránh khai thác bừa bãi, không có giấy phép, chống thất

thoát, lãng phí tài nguyên, đảm bảo nộp ngân sách về thuế, phí, lệ phí. Việc

quản lý hoạt động khai thác thông qua bản đồ hiện trạng khai thác theo báo

cáo của đơn vị khai thác hoặc kết quả kiểm tra, hậu kiểm của cơ quan chức

năng, thống kê cung cấp thông tin về sản lượng tài nguyên khai thác hàng

năm của mỏ. Đối với sản lượng khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường

không đảm bảo nguồn gốc hợp pháp, hợp lý thì Sở Tài nguyên và Môi trường

xử lý theo chức năng và báo cáo UBND cấp tỉnh cung cấp thông tin cho cơ

quan thuế để xử lý về thuế như truy thu thuế tài nguyên, phí hoặc loại khỏi chi

phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

Về tổ chức quản lý thu thuế

Công tác tổ chức QLT các đơn vị khai thác tài nguyên, khoáng sản luôn

được giám sát thường xuyên. Cục Thuế chỉ đạo các Phòng thanh tra, Kiểm

tra, các Đội kiểm tra thuế thuộc Chi cục Thuế rà soát, kiểm tra việc đăng ký

93

thuế, kê khai nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và các loại thuế khác

đối với đơn vị khai thác tài nguyên. Đồng thời chỉ đạo các đơn vị phối hợp

với chính quyền địa phương kiểm tra, QLT tài nguyên như sau:

- Đối với các đơn vị kinh doanh khoáng sản thu gom, việc cam kết thoả

thuận nộp thay thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và các loại thuế khác

cho các đơn vị khai thác nhỏ, lẻ, phân tán, nhằm quản lý hiệu quả, bảo vệ môi

trường theo quy định của pháp luật; ngăn ngừa việc khai thác không đúng quy

hoạch và ổn định cuộc sống cho các hộ dân khai thác nhỏ, lẻ tài nguyên.

- Tổ chức công bố công khai quy hoạch khai thác để quản lý theo quy

hoạch. Thường xuyên điều tra, cập nhật số liệu, đánh giá biến động trữ lượng

cát sông phục vụ quản lý khai thác và đánh giá tác động đến bờ sông, công

trình thủy lợi, môi trường.

- Một số địa phương đã được UBND cấp tỉnh chỉ đạo phối hợp các

ngành chức năng bao gồm Cục Thuế, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi

trường, Sở Công Thương, Quản lý thị trường và UBND các cấp kiểm tra,

giám sát thu thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng sản đạt

kết quả cao. Thông qua các đoàn kiểm tra, liên ngành kịp thời phát hiện truy

thu thuế đối với các trường hợp khai thác các chủ đầu tư, nhà thầu, nhưng

không có hoá đơn, chứng từ, chưa khai nộp thuế tài nguyên.

3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính

sách thuế tài nguyên cho đối tượng nộp thuế

Một trong những xu hướng xuyên suốt định hướng hoàn thiện cải cách

chính sách, pháp luật thuế nói chung và chính sách, pháp luật thuế tài nguyên

nói riêng trong giai đoạn tới là mở rộng diện chịu thuế đối với tất cả các loại

thuế tiêu dùng, thu nhập, tài sản. Theo định hướng đó, sẽ có một bộ phận đối

tượng trước đây chưa nằm trong diện chịu thuế nay được đưa vào diện chịu

thuế. Nếu công tác tuyên truyền, giải thích không được thực hiện tốt rất có thể

94

có những sai lệch trong nhận thức cho rằng gánh nặng thuế khoá ngày càng đè

nặng lên vai các tầng lớp dân chúng. Vì vậy, để thực hiện chương trình hoàn

thiện hệ thống chính sách thuế có hiệu quả, lộ trình cải cách hoặc thay đổi bổ

sung nên được công bố công khai để các đối tượng nộp thuế có thể yên tâm

trong việc hoạch định chiến lược hoạt động của họ trong từng giai đoạn. Vấn

đề công bố trước lộ trình thay đổi chính sách thuế thực tế đã được nhiều nước

áp dụng và đã có ảnh hưởng tích cực về mặt tâm lý đối với các đối tượng nộp

thuế. Vì vậy, một trong những điều kiện quan trọng góp phần tạo ra sự thành

công trong việc hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam trong giai đoạn sau

chính là công tác tuyên truyền và định hướng cải cách chính sách thuế.

Việc tuyên truyền, hướng dẫn về chính sách thuế một cách kịp thời đến

các doanh nghiệp, các nhà đầu tư là rất quan trọng. Qua đó giúp các nhà đầu

tư, các doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách thuế giúp họ thực hiện theo đúng

pháp luật. Khi nào chính sách thuế tài nguyên được các doanh nghiệp nắm rõ

và nghiêm túc chấp hành thì khi đó chính sách thuế tài nguyên đó mới đi vào

cuộc sống và việc hoạch định chính sách mới thực sự có hiệu quả. Mọi người

dân cần phải được phổ biến chính sách thuế tài nguyên, giúp họ nhận ra được

nghĩa vụ thuế mà mình phải chấp hành. Đồng thời, tổ chức một cách thường

xuyên các hội thảo về chính sách thuế cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó,

việc sửa đổi, bổ sung thuế tài nguyên phải trên cơ sở đảm bảo tính hệ thống,

logic của pháp luật thuế, không làm thay đổi gánh nặng thuế khóa, gây bất ổn

tâm lý cho các tổ chức, cá nhân. Do đó, để đảm bảo tính hiệu quả cho chương

trình cải cách cần phải công khai lộ trình cải cách để các doanh nghiệp có

95

điều kiện xây dựng chiến lược hoạt động phù hợp.

Kết luận chương 3

Chương 3 của luận văn đề xuất ra các phương hướng, giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên, đảm bảo khai thác hiệu quả TNTN và

tăng thu cho NSNN. Các giải pháp này được xây dựng dựa trên những tồn tại,

hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác QLT tài nguyên đã được nghiên

cứu ở Chương 2.

Các giải pháp được đề xuất gồm hai nhóm bao gồm nhóm giải pháp

hoàn thiện chính sách pháp luật về QLT tài nguyên và nhóm giải pháp tổ chức

thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên. Trong đó nhóm giải pháp về chính sách

thuế tài nguyên cần phải được tập trung hoàn thiện để sớm khắc phục những

96

khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý thu thuế tài nguyên hiện nay.

KẾT LUẬN

Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn TNTN rất phong

phú và đa dạng. Tuy nhiên, nếu việc quản lý khai thác tài nguyên không tốt

sẽ dẫn đến việc cạn kiệt nguồn TNTN, làm ảnh hưởng đến môi trường cũng

như chất lượng cuộc sống của người dân. Để việc khai thác tài nguyên tiết

kiệm và có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp khác nhau,

trong đó thuế tài nguyên được coi là một công cụ kinh tế quan trọng góp

phần điều tiết khai thác TNTN.

Mặc dù, việc triển khai thực hiện pháp luật thuế tài nguyên đã phát huy

nhiều tác động tích cực, làm tăng nguồn thu cho NSNN nhưng vẫn còn bộc lộ

những hạn chế, thiếu sót gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác quản lý thu

thuế của cơ quan thuế. Những khó khăn, vướng mắc này nằm chính trong nội

tại các quy định của pháp luật thuế tài nguyên (như các quy định về người nộp

thuế, quy định về các căn cứ tính thuế…) và trong công tác thực tế quản lý

trước sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau (như việc khó kiểm tra, giám sát

hoạt động khai thác tài nguyên ở các vùng sâu vùng xa hay việc khó kiểm

soát đối với các cá nhân nhỏ, lẻ…). Công tác quản lý thu thuế tài nguyên vì

vậy mà vẫn còn chưa thực sự đạt được hiệu quả cao.

Trước những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế đó đòi hỏi cần

phải có những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý thuế tài

nguyên, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế tài nguyên; đồng thời tạo

điều kiện thuận lợi để pháp luật quản lý thuế tài nguyên có thể phát huy được

vai trò và mục tiêu của mình. Các giải pháp được đưa ra từ hai khía cạnh về

chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật quản lý thuế tài nguyên.

Thông qua việc phân bổ và luận giải các nội dung ở từng chương, luận

văn đã góp phần hệ thống hóa một cách khái quát những vấn đề cơ bản về

97

QLT tài nguyên gồm: Những vấn đề lý luận về QLT tài nguyên và pháp luật

về QLT tài nguyên tại Chương 1; Thực trạng pháp luật về pháp luật QLT tài

nguyên và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam tại Chương 2; và đề xuất các giải

pháp nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên ở Việt Nam tại Chương 3.

Luận văn với đề tài “Quản lý thuế tài nguyên theo pháp luật Việt Nam”

có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng, trong khi thời gian nghiên cứu có hạn

và sự hạn chế về trình độ lý luận và thực tiễn nên không thể tránh khỏi những

khiếm khuyết. Vì vậy, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của các

thầy cô giáo cũng những người quan tâm đến đề tài này để luận văn có thể

98

được hoàn thiện và có tính khả thi hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nguyễn Thị Hoài An (2017), Hoàn thiện công tác quản lý thuế tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế - ĐH Đà Nẵng.

2.

Bộ Tài chính (2011), Chiến lược cải cách hệ thống thuế 2011-2020 và kế hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2015, Nxb Tài chính.

3.

Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 12/2016/TT-BTC ngày 20/01/2016 và Thông tư số 174/2016/ TT-BTC ngày 28/10/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên, Hà Nội.

4.

Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 44/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017 của Bộ Tài chính quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau, Hà Nội.

5.

Bộ Tài chính (2018), Quyết định số 2156/2018/QĐ-BTC ngày 15/11/2018 Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Vụ và Văn phòng thuộc Tổng cục Thuế, Hà Nội.

6.

Chính phủ (2010), Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 hướng dẫn thuế tài nguyên (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ), Hà Nội.

7.

Vũ Văn Cương (2012), Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học.

8.

Đặng Tiến Dũng (2003), “Tìm hiểu khái niệm quản lý và quản lý thuế”, Tạp chí thuế nhà nước.

9.

Vũ Cao Đàm (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.

10. Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb TP

99

Hồ Chí Minh.

11. Hoàng Thị Giang, Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012), Chính sách thuế trực thu nhằm mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

12. Vũ Ngọc Hà, Vũ Văn Cương (2009), “Pháp luật về kiểm tra, thanh tra

thuế ở Việt Nam”, Tạp chí luật học, (4).

13. Nguyễn Thị Minh Hằng (2016), Chính sách thuế với mục tiêu tăng

trưởng xanh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện.

14. Nguyễn Văn Hiệu (2002), Cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam, Luận án

tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.

15. Học viện hành chính quốc gia (1998), Giáo trình Quản lý hành chính

nhà nước, Hà Nội.

16. Học viện tài chính (2010), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb Tài chính.

17. Nguyễn Ngọc Hùng, Giáo trình Quản lý NSNN, Đại học Kinh tế TP Hồ

Chí Minh

18. Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Về bảo vệ quyền củ người nộp thuế trong Luật quản lý thuế”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, (1), tr. 42-50.

19. Đào Văn Khiêm, Bùi Thị Thu Hòa (2008), “Phân tích về đánh thuế tài nguyên thiên nhiên”, Tạp chí Khoa học Kĩ thuật Thủy lợi & Môi trường, (22).

20. Lê Anh Khoa, Trần Phương Liên (1998), Những kiến thức cơ bản về

thuế, quản lý thuế, Nxb Thống kê.

21. Trần Trọng Khoái (2008), Thuế nhà nước, Nxb Thống kê.

22. Bùi Thị Thùy Linh (2013), Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên đá trên địa bản tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – ĐHQGHN.

100

23. Thanh Mai (2010), “Nâng cao chất lượng kiểm tra nội bộ ngành, ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu”, Tạp chí thuế nhà nước, kỳ 2, tháng 11, tr.6.

24. Nhật Minh (2017), Các nước quản lý thuế tài nguyên như thế nào, Thời

báo tài chính Việt Nam Online.

25. Tạ Văn Nam (2016), Thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc trong hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

26. Nguyễn Văn Phương (2017), Tác động của thuế tài nguyên đối với khai thác tài nguyên thiên nhiên – Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình, Luận án tiến sĩ kinh tế.

27. Quốc hội (2006), Luật Quản lý thuế số 78/20006/QH11 ngày 29/11/2006 (sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016, Hà Nội.

28. Quốc hội (2009), Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009

(sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014), Hà Nội.

29. Quốc hội (2010), Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17/11/2010,

Hà Nội.

30. Quốc hội (2019), Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019,

Hà Nội.

31. Tổng cục Thuế (2018), Báo cáo theo dõi thi hành pháp luật năm 2018,

Hà Nội.

32. Tổng cục Thuế (2019), Quyết định số 211/QĐ-TCT ngày 12/3/2019 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Phòng và Văn phòng thuộc Cục thuế, Hà Nội.

33. Tổng cục Thuế (2019), Quyết định số 245/QĐ-TCT ngày 25/3/2019 về việc

quy định chức năng, nhiệm vụ của các Đội thuộc Chi cục Thuế, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình thuế Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân.

101

35. Trường nghiệp vụ thuế, Giáo trình thuế tài nguyên, Hà Nội.

36. Nguyễn Văn Tuyến (2008), Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế và mô hình cấu trúc của pháp luật thuế, Thông tin pháp luật dân sự.

37. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2013), Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13

ngày 16/12/2013 về việc ban hành mức thuế suất thuế tài nguyên, Hà Nội.

38. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 của Ủy ban thường vụ quốc hội về biểu mức thuế suất thuế tài nguyên, Hà Nội.

39. Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (2015), Tăng trưởng xanh ở

102

Việt Nam: Chính sách tài chính và định hướng giải pháp.