ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
QU¶N Lý THUÕ TµI NGUY£N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
QU¶N Lý THUÕ TµI NGUY£N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI
NGUYÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN ....... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên ............................ 7
1.1.1. Khái niệm quản lý thuế tài nguyên ....................................................... 7
1.1.2. Nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên .................................................... 11
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của quản lý thuế tài nguyên ...................................... 13
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế tài nguyên ........ 15
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ......... 15
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............. 18
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............................. 20
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ....... 22
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI
NGUYÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM ........... 26
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ..... 26
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể quản lý thuế tài nguyên .................... 26
2.1.2. Thực trạng quy định về nguyên tắc và nội dung quản lý thuế tài nguyên .... 35
2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên .......... 41
2.1.4. Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật trong quản lý thuế tài nguyên ....................................................... 44
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 49
2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về
quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ................................................... 49
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam ............... 59
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ............. 78
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 80
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM ............................................. 81
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ....... 81
3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài
nguyên ở Việt Nam .............................................................................. 86
3.2.1. Cải cách thủ tục hành chính về quản lý thuế tài nguyên ..................... 86
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý thu thuế
tài nguyên ........................................................................................... 89
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong quản
lý thuế tài nguyên ................................................................................ 91
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính sách
thuế tài nguyên cho đối tượng nộp thuế .............................................. 94
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NNT: Người nộp thuế
NSNN: Ngân sách nhà nước
QLT: Quản lý thuế
TNTN: Tài nguyên thiên nhiên
UBND: Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang Tên bảng Số hiệu
49
Bảng 2.1 Kết quả thu NSNN từ thuế tài nguyên ở Việt Nam
Bảng 2.2 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu do
50
ngành thuế quản lý (%)
Bảng 2.3 Tỷ lệ thu thuế tài nguyên so với GDP và tổng thu
50
NSNN giai đoạn 2016-2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) là tài sản quý giá và có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với cuộc sống của loài người. Sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế kéo theo sự gia tăng mạnh mẽ về nhu cầu khai thác và sử dụng tài
nguyên. Việc khai thác tài nguyên ngày càng tăng trở thành vấn đề cấp thiết
buộc các quốc gia phải quan tâm, đặc biệt là đối với các loại tài nguyên quý
hiếm hay các loại tài nguyên không có khả năng tái tạo như dầu khí, than…Vì
thế, việc quản lý sử dụng tiết kiệm có hiệu quả TNTN là vấn đề quan trọng
của tất cả các nước, trong đó có công cụ thuế. Trong số các loại thuế có vai
trò trực tiếp tác động đến việc quản lý, khai thác tài nguyên, thuế tài nguyên
là một trong những giải pháp chủ yếu hiện nay các nước đang sử dụng trong
quản lý việc khai thác TNTN.
Trong thời gian qua, chính sách thuế tài nguyên của Việt Nam đã từng
bước được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hướng đến
mục tiêu khuyến khích phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi đôi
với sử dụng hiệu quả nguồn TNTN, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng, chính sách thuế tài nguyên của Việt Nam đã bộc lộ một số
điểm hạn chế và bất cập, chưa thực sự khuyến khích việc khai thác và sử dụng
tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả. Chính sách thuế tài nguyên cũng chưa phát huy
hiệu quả đối với việc giải quyết các vấn đề về bảo vệ môi trường, quản lý khai
thác TNTN dẫn đến thực trạng thất thu về sản lượng, về giá… còn phổ biến.
Thực tế cho thấy, việc khai thác tài nguyên trong thời gian qua đã đóng
góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) và có tăng trưởng hàng năm,
nhưng cũng đã phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường,
1
công tác quản lý khai thác, sử dụng, quản lý thu NSNN. Thu từ thuế tài
nguyên, phí cấp quyền khai thác và các khoản thu khác liên quan đến việc
khai thác khoáng sản chiếm khoảng 17% tổng thu NSNN. Tuy nhiên, việc
quản lý các khoản thu này còn nhiều bất cập về mặt chính sách cũng như cơ
chế quản lý. Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước cần phải sớm có
nghiên cứu, đánh giá toàn diện để có giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
khai thác, sử dụng và thu NSNN trong hoạt động khai thác tài nguyên phù
hợp với quy định của pháp luật và tình hình thực tế. Trong đó, việc hoàn thiện
chính sách và công tác quản lý thu NSNN về thuế tài nguyên là rất cần thiết
và có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với số thu NSNN mà còn đối với
việc điều chỉnh hành vi của người khai thác tài nguyên.
Xuất phát từ tầm quan trọng của chính sách thuế tài nguyên và thực tế
việc quản lý thu thuế tài nguyên nên đề tài “Quản lý thuế tài nguyên theo
pháp luật Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn về quản lý thuế tài nguyên và pháp luật quản lý thuế tài nguyên; trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài
nguyên ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề từ góc độ
lý thuyết về quản lý thuế tài nguyên và pháp luật về quản lý thuế tài nguyên;
phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
trong thời gian qua; đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể góp phần
hoàn thiện công tác quản lý thuế tài nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, lý thuyết về quản
lý thuế (QLT) nói chung và QLT tài nguyên nói riêng; lý thuyết về điều chỉnh
pháp luật đối với hoạt động QLT tài nguyên; các quy định pháp luật về QLT
2
tài nguyên; thực tiễn thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề lý thuyết và
thực tiễn pháp lý về QLT tài nguyên ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2016
cho đến năm 2019.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng phối hợp
các phương pháp nghiên cứu phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, khảo sát thực
tế nhằm đưa ra các luận cứ làm nổi bật những tồn tại, hạn chế trong công tác
QLT tài nguyên.
Các phương pháp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với
nhau nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn mà đề tài đặt ra. Trong
quá trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng các thông tin, tài liệu, số liệu thống
kê của Tổng cục Thuế cũng như tham khảo các bài viết, đề tài nghiên cứu của
một số tác giả trong và ngoài nước.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề về hiệu quả
công tác QLT tài nguyên, bổ sung thêm lý luận trong nghiên cứu về thuế tài
nguyên, các loại thuế và phí khác liên quan đến việc khai thác tài nguyên ở
Việt Nam;
Thứ hai, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm, các khuyến nghị
và đề xuất giải pháp có tính khả thi về chính sách và công tác quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên tại Việt Nam trong tương lai;
Thứ ba, luận văn đưa ra các kiến nghị hữu ích cho việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động khai thác tài nguyên cũng như cải
tiến công tác quản lý thu thuế, sửa đổi quy trình quản lý thu thuế tài nguyên
3
góp phần tăng cường công tác quản lý thu NSNN đối với hoạt động khai thác
tài nguyên, góp phần tăng thu NSNN, ngăn chặn tình trạng trốn thuế, gian lận
thuế đối với các hoạt động này.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, những nghiên cứu chuyên sâu về thuế tài nguyên và quản lý
thuế tài nguyên chưa nhiều, đặc biệt là vấn đề điều chỉnh bằng pháp luật đối
với hoạt động quản lý thuế tài nguyên. Tuy vậy, thực tế cho thấy đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến lĩnh vực thuế, quản lý
thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng. Khái quát lại, có thể đề
cập đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Luận án tiến sĩ của Vũ Văn Cương (2012) bảo vệ tại Trường Đại học
luật Hà Nội với đề tài “Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận án luận bàn
và phân tích những vấn đề chung về việc quản lý thuế, nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn thực thi pháp luật QLT trong nền kinh tế thị trường.
Nghiên cứu chỉ rõ những hạn chế của cơ chế chính sách thuế hiện nay đối với
nền kinh tế thị trường và đưa ra những giải pháp khắc phục, tuy nhiên chưa đi
sâu nghiên cứu tác động của thuế tài nguyên.
- Luận án tiến sĩ của Tạ Văn Nam bảo vệ năm 2016 tại Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh với đề tài “Thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Vĩnh Phúc trong hội nhập quốc tế”. Luận án nghiên cứu các vấn đề lý
luận chung về thuế cũng như vai trò của thuế, trong đó có thuế tài nguyên đối
với phát triển kinh tế xã hội ở địa phương tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề về thuế tài
nguyên chưa được tác giả nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt; đồng thời, tác
giả cũng chưa đưa ra những đánh giá về tác động của thuế tài nguyên lên việc
khai thác tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả và tăng số thu cho NSNN.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Phương năm 2017, tại Trường
4
Đại học kinh tế quốc dân với đề tài “Tác động của thuế tài nguyên đối với
khai thác tài nguyên thiên nhiên – Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình”.
Luận án nghiên cứu và phân tích tác động của thuế tài nguyên đối với khai
thác TNTN. Tác giả đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao tác động của
thuế tài nguyên, đảm bảo khai thác tài nguyên một cách tiết kiệm và tăng
nguồn thu NSNN.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Thùy Linh năm 2013, tại Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật về
quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên đá trên địa bản tỉnh Hà
Nam”. Luận văn nghiên cứu các vấn đề về QLT đối với khai thác tài nguyên
đá, phân tích những hạn chế và đưa ra những giải pháp trong quá trình áp
dụng pháp luật QLT đối với hoạt động khai thác đá.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hoài An năm 2017, tại Đại
học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng với đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý thuế
tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Đắk Lắk”. Luận văn nghiên cứu thực trạng và
đưa ra những giải pháp tăng cường QLT tài nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu các đơn vị do Văn phòng Cục
thuế quản lý nên chưa mang tính bao quát.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu những
vấn đề chung nhất về các loại thuế (trong đó có thuế tài nguyên), về tác động
của thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản cũng
như nghiên cứu các giải pháp để hoàn thiện công tác QLT tại địa bàn một số
tỉnh. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa xem xét một cách toàn diện về cơ
sở lý luận của hoạt động quản thuế tài nguyên để từ đó đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên theo pháp luật Việt Nam trong phạm vi cả
nước. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện chính sách
QLT tài nguyên và hiệu quả QLT tài nguyên tại Việt Nam mang ý nghĩa lý
5
luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần chống thất thu NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận văn
được kết cấu gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên và pháp
luật về quản lý thuế tài nguyên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên và thực tiễn
thực hiện ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài nguyên ở
6
Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế tài nguyên
1.1.1. Khái niệm quản lý thuế tài nguyên
Để có cách hiểu đúng về bản chất của hoạt động quản lý thuế tài
nguyên, trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm và đặc điểm của thuế
tài nguyên.
Tài nguyên bao gồm toàn bộ các dạng vật chất, tri thức được con người
sử dụng để tạo ra của cải vật chất hay giá trị sử dụng mới. Trong số các loại
tài nguyên thì tài nguyên thiên nhiên vốn dĩ có đặc tính cơ bản là ngày càng
trở nên khan hiếm do sự khai thác, sử dụng của con người. Để quản lý hiệu
quả nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm tránh nguy cơ cạn kiệt nguồn tài
nguyên, việc áp dụng công cụ thuế nói chung và thuế tài nguyên nói riêng
được xem là nội dung quan trọng.
Từ khía cạnh lý thuyết, thuế tài nguyên có thể định nghĩa là loại thuế
gián thu, áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác tài
nguyên trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của việc đánh thuế tài nguyên là
hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có
hiệu quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, đồng thời bảo đảm nguồn thu
cho NSNN để bảo vệ, tái tạo tài nguyên và điều hòa quyền lợi của các tổ
chức, cá nhân sử dụng tài nguyên.
Với định nghĩa trên, thuế tài nguyên được biết đến với những đặc trưng
cơ bản như: a) có bản chất là thuế gián thu; b) đối tượng chịu thuế là tài
7
nguyên thiên nhiên được tổ chức, cá nhân khai thác dưới mọi hình thức; c)
mục đích nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết, quản lý
hiệu quả hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu
quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, bảo đảm cho NSNN có nguồn thu
để bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên.
Xét về bản chất, thuế tài nguyên là sắc thuế đánh vào hoạt động khai
thác tài nguyên và tài nguyên nguyên khai thực tế khai thác. Thuế tài nguyên
là sự cưỡng chế một khoản tài chính từ tổ chức, cá nhân khai thác do Nhà
nước thực hiện với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với tài nguyên.
Thuế tài nguyên có các chức năng cơ bản sau đây: (i) Thuế tài nguyên
là công cụ tạo nguồn thu cho NSNN, phân phối lại để chi cho việc cải tạo môi
trường và đầu tư cơ sở hạ tầng nơi khai thác tài nguyên (thuế tài nguyên - trừ
dầu thô là khoản thu để lại 100% cho ngân sách địa phương); (ii) Thuế tài
nguyên góp phần điều tiết kinh tế thông qua việc thúc đẩy tổ chức, cá nhân
đổi mới công nghệ trong khai thác, sản xuất, chế biến tài nguyên do được xác
định là là khoản chi phí đầu vào của quá trình khai thác, chế biến tài nguyên,
đồng thời tác động tới khuynh hướng tiêu dùng trong xã hội.
Trong quá trình áp dụng thuế tài nguyên ở bất cứ quốc gia nào, việc
quản lý thuế tài nguyên cũng luôn là vấn đề quan trọng được đặt ra nhằm tối
ưu hóa vai trò của thuế tài nguyên đối với chính phủ các nước.
Về phương diện lý thuyết, quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam lâu nay
vẫn được tiếp cận như là một hoạt động của các cơ quan nhà nước chuyên
trách (cơ quan quản lý thuế). Tuy nhiên, để hiểu đúng về bản chất của quản lý
thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng, cần bắt đầu từ việc làm
rõ khái niệm “quản lý”.
Theo từ điển Tiếng Việt:
Quản lý là trông coi và điều khiển các hoạt động nào đó theo những
8
yêu cầu nhất định.
Còn theo cuốn Giải thích thuật ngữ pháp lý Việt Nam thì:
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng bị
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức. Nó nhằm chỉ
một tập hợp các hoạt động cần thiết phải thực hiện nhằm đạt được
những mục tiêu chung [10].
Quản lý còn được hiểu là:
Một phạm trù để chỉ các những mối quan hệ giữa các chủ thể quản lý
và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong
điều kiện có sự biến đổi của môi trường [17, tr.6]. Hay, Quản lý là sự
tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích đúng
ý chí và phù hợp với quy luật khách quan [15, tr.61].
Như vậy, dù được định nghĩa theo cách nào thì quản lý đều được dùng
để nói tới hoạt động của con người nhằm thực hiện những mục tiêu đã định
thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp, kiểm soát
và thúc đẩy hoạt động của những thành viên trong tổ chức đó.
Từ cách định nghĩa nói trên về thuật ngữ “quản lý”, có thể cho rằng
quản lý thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng là một nhánh
quan trọng của quản lý tài chính công. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm QLT với phạm vi và mục đích khác nhau.
Trong giáo trình “Tài chính công” của Trường Đại học Kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh (2005) có định nghĩa: “Quản lý thuế là những biện pháp
nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu NSNN thực hiện”…”Đó là những
hoạt động thường xuyên của cơ quan thu hướng về phía đối tượng nộp nhằm
đảm bảo thu thuế kịp thời, đầy đủ và đúng luật định”. Theo cách định nghĩa
này, QLT là quản lý thu thuế, bao gồm xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ chức
9
các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế.
Theo Giáo trình Quản lý tài chính nhà nước của Trường đại học Tài
chính (2000), quản lý thuế được coi là hoạt động quản lý thuế bằng các biện
pháp hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong pháp luật thực định, Luật Quản lý thuế Trung Quốc đưa ra
khái niệm: “Quản lý thuế là một chuỗi các hoạt động bảo đảm mục tiêu thu
NSNN bao gồm: quản lý đăng ký thuế, quản lý sổ sách chứng từ, quản lý
khai báo nộp thuế, truy thu tiền thuế, kiểm tra thuế và đảm bảo trách nhiệm
pháp luật về thuế” [8, tr.18].
Như vậy, dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng các
cách tiếp cận đều thống nhất cho rằng QLT là một lĩnh vực quản lý chuyên
ngành tài chính công, được thực hiện bởi những chủ thể có thẩm quyền nhằm
hướng tới mục đích đảm bảo việc tuân thủ pháp luật thuế và phát huy các vai
trò của thuế trong tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước, điều tiết kinh tế
và hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội.
Từ kết quả phân tích, bàn luận trên đây về khái niệm quản lý thuế, tác
giả luận văn cho rằng khái niệm quản lý thuế tài nguyên cũng được hiểu
tương tự như khái niệm quản lý thuế nói chung, không có nhiều sự khác biệt,
ngoại trừ phạm vi quản lý thuế tài nguyên chỉ liên quan đến lĩnh vực hẹp là
thuế tài nguyên. Xuất phát từ quan điểm nhận thức như vậy, tác giả cho rằng
có thể định nghĩa về quản lý thuế tài nguyên như sau:
Quản lý thuế tài nguyên là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
theo đó các chủ thể này sử dụng phối hợp các công cụ và các phương pháp
khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế tài nguyên.
Bản chất của QLT tài nguyên là sự tác động có ý thức bằng quyền lực
và theo quy trình của chủ thể QLT tài nguyên tới đối tượng quản lý thuế tài
nguyên để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của QLT tài
10
nguyên. Đây là quá trình mà Nhà nước hoạch định và xây dựng chính sách.
Các công cụ chủ yếu được sử dụng trong quản lý thuế tài nguyên gồm pháp
luật, kế hoạch và chính sách. Trong đó, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong
việc định hướng và điều tiết các quan hệ kinh tế cũng như tạo cơ chế pháp lý
đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ thuế giữa các chủ thể. Quản lý
thuế tài nguyên sử dụng các phương pháp gồm hành chính, kinh tế và giáo
dục. Trong đó, phương pháp hành chính giữ vai trò cốt lõi, buộc đối tượng
quản lý thuế tài nguyên phải tuân thủ. Nhà nước sử dụng các công cụ và
phương pháp này để đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời số thu cho NSNN, giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả quản lý thuế tài nguyên, đồng thời nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật về thuế của các tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên
TNTN là tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước
làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Việc quản lý, khai thác tài
nguyên một cách hiệu quả ở mỗi nước, đặc biệt là ở các nước có nguồn
TNTN phong phú sẽ tạo ra nguồn lợi ổn định và lâu dài cho sự phát triển đất
nước. Trái lại, nếu việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng
phí sẽ gây ra các tác động tiêu cực cho nền kinh tế, đồng thời làm ảnh hướng
xấu đến môi trường sống của quốc gia đó. Trong các công cụ và biện pháp
quản lý khác nhau, công cụ tài chính được xem là một trong những công cụ
quan trọng để quản lý tài nguyên, mà điển hình trong công cụ tài chính đó là
việc thu thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên – gọi là thuế tài nguyên.
Bên cạnh thuế tài nguyên, còn một khoản thu nữa đối với hoạt động khai thác
TNTN là phí bảo vệ môi trường hay thuế bảo vệ môi trường.
Nhà nước, với tư cách là đại diện chủ sở hữu (toàn dân) đối với tài
nguyên thiên nhiên, đồng thời là chủ thể quản lý đối với tài nguyên thông qua
việc ban hành pháp luật, chính sách… sẽ chỉ định cơ quan thuế đại diện cho
11
mình để thực hiện chức năng thu thuế tài nguyên và quản lý thuế tài nguyên,
đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể khai thác tài nguyên và giữa các chủ
thể kinh doanh khác theo quy định.
Xét về phương diện lý thuyết, việc QLT tài nguyên phải dựa trên các
nguyên tắc QLT nói chung. Cụ thể như sau:
Một là, hoạt động của các bên trong quan hệ QLT tài nguyên phải đảm
bảo tính tuân thủ pháp luật. Theo đó, pháp luật quy định trách nhiệm, quyền
hạn của các cơ quan quản lý cũng như quyền và nghĩa vụ của NNT. Các bên
được phép lựa chọn để thực hiện các hoạt động nhất định nhưng phải đảm bảo
trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Đồng thời, cần thúc đẩy ý thức tuân
thủ, nâng cao tính tự giác của NNT cũng với việc tạo điều kiện cho NNT lựa
chọn cách thức khai thuế và nộp thuế một các chủ động sao cho phù hợp với
hoạt động kinh doanh.
Hai là, việc QLT tài nguyên phải đảm bảo công khai, minh bạch, bình
đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NNT. Có thể nói đây là nguyên
tắc quan trọng nhất trong QLT nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói
riêng. Nó đòi hỏi mọi quy định về QLT, các quy trình, thủ tục thu nộp thuế
phải được quy định rõ ràng và phải được công bố công khai cho NNT và các
chủ thể có liên quan biết. Các quy định đó phải đơn giản, dễ hiểu và được
diễn đạt để có thể hiểu một cách nhất quán, tránh tình trạng cùng một quy
định lại hiểu theo nhiều cách khác nhau gây hoang mang cho NNT cũng như
cơ quan QLT. Trong quá trình QLT, phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các đối
tượng nộp thuế, tăng cường sự tham gia giám sát của người dân, cơ quan, tổ
chức có liên quan để phòng chống tham nhũng, thái độ quan liêu, cửa quyền
của cán bộ thuế, đảm bảo cho hoạt động QLT được thực hiện một cách có
hiệu quản và đúng pháp luật.
Ba là, phải thường xuyên thực hiện cải các thủ tục hành chính và ứng
12
dụng công nghệ thông tin hiện đại trong QLT. Trong đó, đảm bảo cắt giảm
và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính, tăng cường sử dụng các ứng
dụng công nghệ thông tin đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của
NNT, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, QLT tài nguyên phải đảm bảo nguyên tắc quản lý lý rủi ro
trong QLT. Theo đó, thường xuyên đánh giá tình hình đối tượng nộp thuế để
phát hiện các trường hợp có khả năng xảy ra rủi ro trong quá trình QLT, từ đó
đưa vào danh sách các đối tượng cần được tiến hành thanh tra, kiểm tra nhằm
tránh thất thu thuế.
Năm là, QLT tài nguyên phải tuân thủ, phù hợp với các chuẩn mực
và thông lệ quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia cần có
những thay đổi cơ bản về quản lý sao cho phù hợp với các thông lệ và cam
kết quốc tế. Việc tuân thủ các cam kết và thông lệ quốc tế sẽ khuyến khích
hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, đem lại những lợi ích về
kinh tế cho quốc gia.
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của quản lý thuế tài nguyên
Tài nguyên được phân bố rộng khắp ở các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Mỗi quốc gia đều có quyền sở hữu, khai thác và sử dụng đối với các loại tài
nguyên thuộc phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.
TNTN tạo ra những lợi ích rất to lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Sự
phát triển của kinh tế xã hội kéo theo sự gia tăng nhu cầu về tài nguyên, dẫn
đến nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên, môi trường bị ô nhiễm. Do đó, đối
với các nguồn tài nguyên sẵn có phải đảm bảo khai thác và sử dụng hiệu quả;
đối với các nguồn tài nguyên tái sinh cần phải được nuôi dưỡng và bảo vệ
nghiêm ngặt. Cùng với đó, cần kết hợp với hoạt động khảo sát đối với các loại
13
tài nguyên mới cũng như thực hiện nghiên cứu, sáng tạo ra các nguồn tài
nguyên nhân tạo góp phần duy trì sự phát triển cân đối, bền vững và ổn định.
Để làm được điều đó, cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh, mà dường như chỉ
có Nhà nước với vai trò của mình mới có thể giải quyết được. Theo đó, Nhà
nước quy định thuế tài nguyên, sử dụng như một công cụ hiệu quả được và
làm căn cứ pháp lý để thống nhất việc tổ chức quản lý thu thuế tài nguyên trên
cả nước, đồng thời góp phần chống lãng phí và huỷ hoại các nguồn tài nguyên.
Từ các vấn đề trên, có thể cho rằng hoạt động quản lý thuế tài nguyên
có vai trò chủ yếu như sau:
Thứ nhất, QLT tài nguyên là một hệ thống pháp luật có tính thống nhất
giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa việc xây dựng chính sách thuế với tổ
chức hành thu nhằm đảm bảo thống nhất nguồn thu cho NSNN trong cả nước.
Các văn bản pháp luật về thuế tài nguyên phải được ban hành gắn liền với việc
đưa chúng vào thực tế, và phải có sự phối kết hợp giữa các cơ quan có liên quan
nhằm duy trì ổn định nguồn thu cho NSNN và quyền lợi của NNT.
Thứ hai, QLT tài nguyên được thực hiện bằng pháp luật và các biện
pháp nghiệp vụ,trong đó pháp luật được xem là công cụ chủ yếu và là cơ sở
pháp lý mang tính bắt buộc đối với các đối tượng điều chỉnh của luật QLT.
Thứ ba, QLT tài nguyên góp phần đảm bảo tính hiệu quả trong thực
hiện công cụ kinh tế - thuế tài nguyên - để điều tiết và góp phần bảo vệ, khai
thác, sử dụng tài nguyên được tiết kiệm, hiệu quả. Thuế tài nguyên với vai trò là
một trong những công cụ tài chính để nhà nước thực hiện chức năng quản lý tài
nguyên của quốc gia nói chung và thông qua đó cũng góp phần giải quyết những
vấn đề có liên quan đến môi trường. Chức năng quản lý tài nguyên của nhà nước
được thể hiện rõ trong các quy định của chính sách thuế tài nguyên về đối tượng
chịu thuế, NNT, căn cứ tính thuế và kê khai thuế.
Căn cứ nội dung kê khai, nộp thuế tài nguyên, cơ quan quản lý thuế và
14
các cơ quan nhà nước có liên quan có thể giám sát được hoạt động khai thác,
sử dụng TNTN. Từ đó, giúp địa phương tăng cường công tác quản lý và cấp
phép khai thác tài nguyên và có chính sách khuyến khích đầu tư để chế biến
sâu nhằm nâng cao giá trị tài nguyên.
Thứ tư, việc QLT tài nguyên có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như ý thức pháp luật của người dân, trình độ của công chức
thuế, cơ sở vật chất của ngành thuế… Vì vậy, việc cải cách hệ thống thuế phải
được tiến hành một cách đồng bộ và phải tạo ra được chiến lược mang tính
tổng quát, tránh lối cải cách chắp vá.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế tài nguyên
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Trước sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, cùng với mục tiêu phát triển
kinh tế Việt Nam theo hướng tăng trưởng bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm
nhìn đến năm 2050. Nội dung chủ đạo của chiến lược này bao hàm việc thúc đẩy
quá trình tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế hướng tới sử dụng TNTN hiệu quả
hơn, đồng thời nâng cao sự cạnh tranh kinh tế qua việc thúc dẩy đầu tư nhằm đổi
mới công nghệ; góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo phát triển kinh
tế bền vững. Thực hiện chiến lược đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó phải kể đến một số văn bản pháp luật điển hình như:
Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 của Quốc hội ngày 25/11/2009, Luật
Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17/11/2010, Luật Tài nguyên nước số
17/2012/QH13 ngày 21/6/2012, Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày
23/6/2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật QLT được xác định là một bộ phận
cấu thành quan trọng của hệ thống pháp luật về thuế ở mỗi quốc gia. Nó là
công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng trong công tác QLT. Hiện nay, trên
15
thế giới pháp luật về thuế được ban hành theo hai xu hướng phổ biến: (i) quy
định gộp các sắc thuế trong một bộ luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ;
(ii) ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế. Cho dù xây dựng pháp
luật thuế theo cách thức nào thì pháp luật QLT bao giờ cũng có vai trò quan
trọng trong việc quản lý, điều hành chính sách thuế. Hay nói cách khác, luật
QLT là luật tổ chức thực hiện các luật thuế - các đạo luật thuế là pháp luật nội
dung còn luật QLT là pháp luật thủ tục.
Ở Việt Nam, các nhà làm luật đã lựa chọn cách tiếp cận thứ hai, tức là
ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế và đồng thời cũng ban hành
một đạo luật riêng về quản lý thuế - gọi là Luật QLT. Đạo luật này có nhiệm
vụ quy định về trình tự, thủ tục thực hiện công tác QLT như đăng ký thuế, cấp
mã số thuế, thủ tục mua bán hóa đơn, chứng từ, kê khai thuế, hoàn thuế, miễn
giảm thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Về phương diện học thuật, việc đưa ra khái niệm pháp luật QLT nhằm
xác định ranh giới giữa các nhóm quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi luật nội
dung và luật thủ tục, từ đó lựa chọn áp dụng quy phạm pháp luật phù hợp, đạt
được hiệu quả điều chỉnh cao. Tuy nhiên, ranh giới này lại không hoàn toàn
rạch ròi trong cách thể hiện. Nó phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và
sự lựa chọn của các nhà làm luật. Chẳng hạn, các quy định quản lý có tính
chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các văn bản pháp luật
nội dung của sắc thuế đó, còn các quy định mang tính chất chung sẽ được đưa
vào luật QLT. Điều này không phá vỡ nguyên tắc chung, đồng thời đạt được
hiệu quả cao trong quản lý thuế [20].
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật QLT và
pháp luật QLT tài nguyên như sau:
Pháp luật quản lý thuế tài nguyên là một bộ phận quan trọng của pháp
16
luật quản lý thuế nói chung, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động quản lý thuế tài nguyên của Nhà nước, nhằm đảm bảo tập trung thu
đúng, đủ và đúng hạn số thuế, hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước và
đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước.
Cũng giống như pháp luật QLT nói chung, pháp luật QLT tài nguyên
mang những đặc điểm sau đây:
Một là, pháp luật QLT tài nguyên do Nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện. Pháp luật QLT tài nguyên do cơ quan QLT xây dựng, trình cấp có
thẩm quyền ban hành. Quá trình xây dựng pháp luật luôn có sự tham gia của
rất nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân theo những trình tự và thủ
tục chặt chẽ để đảm bảo tính khoa học, chính xác và khả thi trong điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong lĩnh vực QLT tài nguyên nói riêng. Pháp luật QLT
tài nguyên được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp, đặc biệt
là các biện pháp cưỡng chế như phạt tiền, phạt tù. Từ đó, pháp luật luôn được
các tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện. Có như vậy, pháp
luật QLT tài nguyên mới thực sự đi sâu vào đời sống xã hội và có cơ hội để
phát huy hiệu quả.
Hai là, pháp luật QLT tài nguyên có tính quy phạm phổ biến, gồm
những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Pháp luật QLT tài nguyên
bao gồm các quy tắc xử sự chung trong quan hệ thuế tài nguyên, được thể
hiện dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật, có tính chặt chẽ cao và được
xây dựng trên cơ sở khái quát hóa những trường hợp phổ biến, điển hình
trong xã hội. Pháp luật QLT tài nguyên được Nhà nước xây dựng cho tất cả
các chủ thể có liên quan và mang tính bắt buộc chung.
Ba là, pháp luật QLT tài nguyên có tính xác định chặt chẽ về hình thức
và có tính hệ thống. Điều này thể hiện ở chỗ, những quy định pháp luật luôn
17
được chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật như luật, nghị định,
thông tư… Ngoài ra, pháp luật QLT tài nguyên được thể hiện trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ
trung ương đến địa phương ban hành với giá trị pháp lý và phạm vi điều chỉnh
khác nhau. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật QLT tài nguyên phải đảm bảo
tính thống nhất trong chính nội tại của nó. Tính hệ thống đặt ra yêu cầu phải
loại bỏ ra khỏi hệ thống những quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không còn
phù hợp; các quy định trong hệ thống pháp luật QLT tài nguyên phải có sự
thống nhất với nhau và phải phù hợp với thực tiễn.
Tóm lại, pháp luật QLT tài nguyên có bản chất là pháp luật hình thức, quy
định về trình tự, thủ tục thực hiện luật thuế tài nguyên, còn pháp luật thuế tài
nguyên là pháp luật nội dung, quy định về chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế,
căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và chế độ miễn giảm thuế, hoàn thuế…
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Điều chỉnh pháp luật nói chung và việc điều chỉnh pháp luật đối với
hoạt động quản lý thuế tài nguyên cần được xem là một vấn đề mang tính chất
kỹ thuật, đồng thời là nghệ thuật. Chính vì thế, việc điều chỉnh pháp luật đối
với thuế tài nguyên cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quản lý
thuế tài nguyên phải đảm bảo mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đất nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn
định xã hội. Để đảm bảo nguyên tắc này, việc đánh thuế tài nguyên phải dựa
trên căn cứ tính thuế là giá trị nguồn tài nguyên nguyên khai, chứ không phải
là giá trị tài nguyên đã qua sử dụng hoặc chế biến.
Tài nguyên nguyên khai là tài nguyên vẫn ở trạng thái như nó vốn có
trước khi khai thác, khi vừa khai thác, hoặc mới chỉ làm sạch mà chưa thay
đổi tính chất lý, hóa của tài nguyên. Bản chất và mục đích của thuế tài nguyên
18
là đánh vào sản phẩm của tự nhiên – tài nguyên nguyên khai có được qua việc
khai thác nhằm đảm bảo sự công bằng cho các chủ thể khai thác khi mà điều
kiện và chi phí tài nguyên là khác nhau. Theo nguyên tắc này, việc đánh thuế
tài nguyên cần đảm bảo sản lượng tính thuế là sản lượng tài nguyên nguyên
khai thực tế khai thác; giá tính thuế tài nguyên là giá trị tài nguyên tại nơi khai
thác, không bao gồm các chi phí khai thác, phân loại, sàng tuyển, vận chuyển.
Thứ hai, việc đánh thuế tài nguyên cần phải căn cứ vào các yếu tố gồm
tính chất, đặc điểm, điều kiện khai thác của từng loại tài nguyên.
Mặc dù đều do tự nhiên sinh ra nhưng mỗi loại tài nguyên lại có tính
chất, đặc điểm khác nhau như giá trị tài nguyên, tiềm năng khai thác, khả
năng tái tạo, điều kiện khai thác, chi phí khai thác… Hơn nữa, cần quản lý
điều tiết đối với việc khai thác từng loại tài nguyên và đảm bảo công bằng
giữa các chủ thể khai thác tài nguyên.
Để việc khai thác tài nguyên có hiệu quả thì mức thuế suất thuế tài
nguyên cần được nghiên cứu cho từng nhóm, từng loại tài nguyên trên cơ sở
những đặc điểm đó. Thí dụ, đánh thuế suất tháp hơn đối với những loại tài
nguyên có khả năng tái tạo nhanh so với những loại tài nguyên tái tạo lâu
hoặc chỉ khai thác được một lần; điều kiện khai thác càng khó khăn thì mức
thuế tài nguyên càng thấp…
Thứ ba, việc xây dựng mức thuế suất thuế tài nguyên cần phải dựa trên
lợi thế so sánh giữa tài nguyên thiên nhiên khai thác, sử dụng với các nguồn
vật liệu có sẵn khác.
TNTN là được xem là một yếu tố đầu vào của sản suất, được sử dụng
thay thế cho các nguyên liệu đầu vào khác như nguyên liệu nhập khẩu,
nguyên liệu nhân tạo…trong một số trường hợp. Theo đó, mức thuế suất thuế
tài nguyên phải được tính toán nhằm đảm bảo sau khi chịu thuế, chi phí sử
dụng tài nguyên phải tương đương với các nguyên liệu khác. Đảm bảo cho
các nguồn lực xã hội được phân phối công bằng, đảm bảo tính khả thi của
19
thuế tài nguyên cũng như thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả tài nguyên.
Thứ tư, chính sách thuế tài nguyên được thiết lập gắn chặt với yêu cầu
bảo vệ môi trường sinh thái.
TNTN không phải là vô hạn và việc khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi
không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường sinh thái. Để bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước và bảo vệ môi trường
sinh thái, chính sách thuế tài nguyên phải được thiết lập theo hướng gắn chặt với
yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, coi thuế tài nguyên là một biện pháp tài
chính quản lý khai thác tài nguyên, nhằm bảo vệ môi trường. Thuế tài nguyên
phải bao quát và quản lý được các hoạt động khai thác TNTN. Cần nghiện cứu
xây dựng thuế suất thuế tài nguyên nhằm điều tiết và định hướng hoạt động, khai
thác tài nguyên, chẳng hạn, tài nguyên khi khai thác có thể gây nguy hại cho môi
trường thì phải đánh thuế cao hơn và ngược lại.
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Quản lý thuế tài nguyên là một bộ phận của QLT, do đó cấu trúc của
pháp luật về QLT tài nguyên cơ bản cũng bao hàm những nội dung được quy
định tại Điều 3 Luật Quản lý thuế. Nói đến cấu trúc của pháp luật QLT tài
nguyên là nói đến các bộ phận cấu thành của pháp luật QLT tài nguyên. Về
mặt lý thuyết, cấu trúc này bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
(i) Nhóm quy định về chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên
Nhóm quy phạm pháp luật này có nhiệm vụ quy định về thành phần
chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên (bao gồm các cơ quan quản lý thuế,
các cơ quan nhà nước khác và tổ chức, cá nhân khác tham gia quản lý thuế tài
nguyên). Mặt khác, nhóm quy phạm pháp luật này cũng quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích của các chủ thể trong quá trình tham gia
quản lý thuế tài nguyên.
(ii) Nhóm quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên
20
Các quy phạm pháp luật này có nhiệm vụ quy định trình tự, thủ tục
hành thu thuế tài nguyên và QLT tài nguyên, bao gồm quy định về đăng ký,
kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, truy thu và hoàn thuế tài nguyên.
Đây là những hoạt động quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng QLT
tài nguyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu như trước đây, các
hoạt động này thường được thực hiện bằng các quyết định hoặc hành vi hành
chính đơn phương của Nhà nước và bất chấp thái độ của NNT thì hiện nay
quy trình này về cơ bản đã được thay đổi theo hướng dành quyền chủ động tối
đa cho NNT trong việc tự đăng ký thuế, tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế
cho cơ quan quản lý thuế, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên
của các cơ quan QLT.
(iii) Nhóm quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
thuế tài nguyên
Đây là những quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lý hành
chính của Nhà nước đối với xã hội nói chung và đối với NNT nói riêng.
Trước đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế thường được tiến hành trước
khi NNT thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi là cơ chế “tiền kiểm”. Tuy nhiên,
gần đây, những nỗ lực trong quá trình cải cách hành chính thuế đã dẫn đến
việc chuyển đổi từ cơ chế “tiền kiểm” sang cơ chế “hậu kiểm”, theo đó cơ
quan QLT chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra sau khi NNT đã tự thực hiện các
thủ tục chính yếu của quá trình QLT như đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế
và nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế hay xin miễn giảm thuế. Dựa trên cơ
sở kết quả thanh tra và kiểm tra, cơ quan thuế có quyền áp dụng các chế tài xử
lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế. Việc quy định theo hướng
này không những làm giảm gánh nặng công việc cho cơ quan QLT, đảm bảo
tính hợp lý của quá trình QLT mà còn tạo điều kiện để cơ quan thuế nâng cao
tính chuyên nghiệp trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế – với tư cách là
21
những công cụ QLT hiệu quả nhất [36].
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Pháp luật nói chung và pháp luật về quản lý thuế tài nguyên nói riêng
luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó phải kể đến một
số yếu tố cơ bản sau đây:
1.2.4.1. Yếu tố chính trị
Về phương diện lý thuyết, vai trò tác động của yếu tố chính trị đối với
pháp luật nói chung và pháp luật quản lý thuế tài nguyên nói riêng được thể
hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tác động của yếu tố chính trị thể hiện ở chỗ, đảng cầm quyền
sẽ đề ra đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính
sách thuế. Trên cơ sở các chủ trương, đường lối chính trị của Đảng cầm
quyền, Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa bằng pháp luật để quản lý, điều
hành đất nước, trong đó có lĩnh vực quản lý thuế tài nguyên.
Thứ hai, sự tác động của yếu tố chính trị đối với pháp luật về quản lý
thuế tài nguyên thể hiện ở chỗ, thể chế chính trị của mỗi quốc gia có tầm ảnh
hưởng nhất định đến hệ thống thuế nói chung và thuế tài nguyên nói riêng ở
quốc gia đó. Tùy thuộc và mô hình thể chế chính trị ở mỗi nước mà chính
sách thuế nói chung và chính sách quản lý thuế tài nguyên nói riêng sẽ có
những quy định đặc thù riêng, phù hợp với mô hình thể chế chính trị của mỗi
nước. Suy cho cùng, chính sách thuế ở mỗi quốc gia chỉ là một trong số các
công cụ để bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong xã hội (chính quyền, người
dân, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư) và bảo vệ thể chế chính trị.
Thứ ba, sự tác động của yếu tố chính trị đối với pháp luật về quản lý
thuế tài nguyên còn được thể hiện ở chỗ, xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu thu
NSNN trong từng thời kỳ mà chính sách thuế nói chung và chính sách thuế tài
nguyên nói riêng cần phải được điều chỉnh nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
22
thu ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ
yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân và thuế tài nguyên là một
trong số những loại thuế giữ vai trò này. Thuế tài nguyên được sử dụng như
công cụ nhằm giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, giúp ổn định kinh tế -
xã hội, phát triển đất nước lâu dài.
1.2.4.2. Yếu tố kinh tế
Không thể phủ nhận rằng thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội
ở mỗi quốc gia cũng là một yếu tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến chính
sách, pháp luật nói chung và chính sách, pháp luật thuế tài nguyên nói riêng.
Sự tác động này thể hiện ở chỗ, trình độ phát triển của nền kinh tế không chỉ
đặt ra nhu cầu sử dụng thuế như là một công cụ để điều tiết nền kinh tế, điều
tiết hoạt động kinh doanh và hình thành cơ chế phân phối thu nhập trong xã
hội, mà còn quyết định đến trình độ phát triển, cấu trúc của hệ thống chính
sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia.
Một trong những yếu tố kinh tế quan trọng nhất thường tác động trực
tiếp đến hệ thống thuế và chính sách, pháp luật thuế, đó là mức độ tăng trưởng
của nền kinh tế quốc dân. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng tốt, hàng hóa
tiêu thụ tốt thì tổng thu nhập từ thuế tăng cao và ngược lại. Cơ cấu kinh tế
cũng ảnh hưởng đến thuế suất, các nước có định hướng phát triển tăng tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế thường có chính sách ủng hộ phát
triển nông nghiệp, thủy sản. Ngoài ra, các yếu tố kinh tế khác cũng có ảnh
hưởng rất nhiều đến chính sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia như thu nhập
bình quân đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường…
1.2.4.3. Yếu tố xã hội
Bên cạnh các yếu tố chính trị, kinh tế thì yếu tố xã hội cũng có những
ảnh hưởng nhất định đến chính sách, pháp luật thuế ở mỗi quốc gia. Điều này
thể hiện ở chỗ, chính sách thuế nói chung và chính sách thuế tài nguyên nói
riêng chỉ có thể được thực thi bởi các cơ quan quản lý từ cấp trung ương đến
23
cấp địa phương. Mỗi hệ thống thuế để thi hành đều cần một hệ thống quản lý
thuế tương ứng, trong đó vai trò của người thu thuế và người nộp thuế có ảnh
hưởng rất lớn đến tính hiệu quả của công tác quản lý thuế.
Các yếu tố xã hội tác động đến việc xây dựng, hoạch định chính sách
thuế và QLT được thể hiện ở chỗ, Nhà nước không thể xây dựng một chính
sách quản lý hiện đại, tiên tiến vượt xa cơ sở hạ tầng quản lý thuế. Ngoài ra,
hệ thống thuế vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng cũng phải phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, trong đó phong tục, tập
quán, trình độ văn hoá, xã hội, trình độ dân trí, truyền thống dân tộc, kết cấu
giai cấp trong xã hội, tập quán, tâm lý người tiêu dùng sẽ có tác động, ảnh
hưởng rất lớn đến chính sách thuế của mỗi quốc gia. Thực tế đã chứng minh
rằng mức độ hiệu quả trong thực thi pháp luật phụ thuộc rất lớn vào yếu tố
tâm lý, tập quán người tiêu dùng như thói quen dùng tiền mặt hay thói quen
không sử dụng hóa đơn khi mua hàng… Chính điều này đặt ra yêu cầu, đòi
24
hỏi chính sách thuế phải có những quy định phù hợp để mang lại hiệu quả.
Kết luận chương 1
1. Quản lý thuế tài nguyên là hoạt động của nhà nước với tư cách là đại
diện chủ sở hữu toàn dân về tài nguyên nhằm đảm bảo nguồn thu cho NSNN
và đảm bảo công bằng xã hội cũng như đảm bảo khai thác tài nguyên tiết
kiệm và hiệu quả. Nghiên cứu lý luận về QLT tài nguyên và pháp luật QLT
tài nguyên nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, vai trò của
QLT tài nguyên cũng như khái niệm, đặc điểm và các yếu tố ảnh hướng tới
pháp luật QLT tài nguyên.
2. Pháp luật QLT tài nguyên được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác
nhau gồm nhóm các quy định về chủ thể tham gia quản lý thuế tài nguyên,
nhóm các quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên và nhóm các
quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế tài nguyên. Để
phát huy vai trò của pháp luật thuế tài nguyên và thực hiện QLT tài nguyên có
hiệu quả cần phải chú trọng tới các nhân tố ảnh hưởng, nhất là về thuế suất và
giá tính thuế tài nguyên.
3. Pháp luật thuế tài nguyên là một bộ phận của hệ thống pháp luật
QLT. Trong đó, pháp luật QLT được biết đến với bản chất là pháp luật hình
thức có nhiệm vụ quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các luật thuế, còn
pháp luật thuế tài nguyên là pháp luật nội dung, có nhiệm vụ quy định về chủ
thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và
25
chế độ miễn giảm thuế, hoàn thuế.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể quản lý thuế tài nguyên
2.1.1.1. Chủ thể là cơ quan thuế tham gia quản lý thuế tài nguyên
Theo quy định hiện hành của Luật quản lý thuế, chủ thể chủ yếu tham
gia vào công tác quản lý thuế chính là cơ quan quản lý thuế. Cơ quan này
được nhà làm luật xác định bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan, trong
đó nhiệm vụ quản lý thuế tài nguyên thuộc về cơ quan thuế các cấp (bao gồm:
Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế).
Trong pháp luật quản lý thuế, tại Điều 18 Luật quản lý thuế 2019, nhà
làm luật quy định khi thực hiện chức năng quản lý thuế nói chung và quản lý
thuế tài nguyên nói riêng, cơ quan thuế có nhiệm vụ:
- Tổ chức thực hiện quản lý thu thuế và các khoản thu khác thuộc
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế và quy
định khác của pháp luật có liên quan.
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế; công khai
các thủ tục về thuế tại trụ sở, trang thông tin điện tử của cơ quan
quản lý thuế và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
thuế cho người nộp thuế; cơ quan thuế có trách nhiệm công khai mức
thuế phải nộp của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn xã,
phường, thị trấn.
- Bảo mật thông tin của người nộp thuế, trừ các thông tin cung cấp
cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin được công bố công khai
26
theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện việc miễn thuế; giảm thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm
nộp, tiền phạt; miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm
nộp; gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ; khoanh tiền thuế nợ,
không thu thuế; xử lý tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa;
hoàn thuế theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp
luật có liên quan.
- Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có
đề nghị theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật
về thuế theo thẩm quyền.
- Giao biên bản, kết luận, quyết định xử lý về thuế sau kiểm tra
thuế, thanh tra thuế cho người nộp thuế và giải thích khi có yêu cầu.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Giám định để xác định số tiền thuế phải nộp của người nộp thuế
theo trưng cầu, yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Xây dựng, tổ chức hệ thống thông tin điện tử và ứng dụng công
nghệ thông tin để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.
Cơ quan thuế với tư cách là đại diện Nhà nước thực hiện công tác quản
lý thuế tài nguyên giữ vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý thuế tài
nguyên. Đóng vai trò là chủ thể chính trong quản lý thuế tài nguyên, cơ quan
thuế được giao nhiều nhiệm vụ để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan
hệ thuế tài nguyên. Nhận thức được tầm ảnh hưởng của cơ quan quản lý thuế,
Luật Quản lý thuế 2019 so với Luật Quản lý thuế cũ đã quy định rõ các nhiệm
vụ cụ thể của cơ quan quản lý thuế tại một Điều riêng biệt. Điều này góp phần
tránh sự mập mờ trong việc xác định nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế,
đồng thời cũng ràng buộc cơ quan quản lý thuế khi thực hiện chức năng,
27
nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, tại Điều 19 Luật quản lý thuế 2019, nhà làm luật cũng quy
định cơ quan thuế có các quyền hạn sau:
- Yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
việc xác định nghĩa vụ thuế, bao gồm cả thông tin về giá trị đầu tư;
số hiệu, nội dung giao dịch của các tài khoản được mở tại ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và giải thích việc tính thuế,
khai thuế, nộp thuế.
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu
liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế và phối hợp với cơ quan
quản lý thuế để thực hiện pháp luật về thuế.
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế theo quy định của pháp luật.
- Ấn định thuế.
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế.
- Xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thẩm quyền;
công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi
phạm pháp luật về thuế.
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử phạt vi phạm
hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật.
- Ủy nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế theo
quy định của Chính phủ.
- Cơ quan thuế áp dụng cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp
xác định giá tính thuế với người nộp thuế, với cơ quan thuế nước
ngoài, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký hiệp định tránh đánh thuế
hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế thu nhập.
- Mua thông tin, tài liệu, dữ liệu của các đơn vị cung cấp trong nước
và ngoài nước để phục vụ công tác quản lý thuế; chi trả chi phí ủy
nhiệm thu thuế từ tiền thuế thu được hoặc từ nguồn kinh phí của cơ
28
quan quản lý thuế theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, cùng với việc giao cho cơ quan thuế rất nhiều nhiệm vụ, pháp
luật quản lý thuế cũng trao cho cơ quan quản lý thuế những quyền hạn tương
ứng. Các quyền hạn này về cơ bản tương ứng với các quyền hạn đã được quy
định tại Luật Quản lý thuế 2006 và các văn bản sửa đổi, bổ sung; chỉ bổ sung
thêm một quyền hạn liên quan đến việc mua thông tin, tài liệu hay dữ liệu của
các đơn vị cung cấp và chi trả chi phí ủy nhiệm thu thuế.
Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong công tác quản lý thuế nói
chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng, pháp luật hiện hành không chỉ
quy định về cơ cấu tổ chức của các cơ quan thuế mà còn quy định rõ nhiệm
vụ của từng cơ quan này trong bộ máy quản lý thuế tài nguyên. Cụ thể là:
Thứ nhất, Tổng cục Thuế là cơ quan thuế chuyên trách, chịu trách
nhiệm chỉ đạo chung về công tác quản lý thuế ở Việt Nam, trong đó có việc
quản lý thuế tài nguyên. Cơ quan này thành lập các đơn vị trực thuộc nhằm
tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo tổng cục thuế trong công tác quản lý thuế trên
toàn quốc, bao gồm: Vụ Chính sách; Vụ Kê khai và Kế toán thuế; Vụ Thanh
tra – Kiểm tra; Vụ Dự toán thu thuế; Vụ quản lý thuế doanh nghiệp lớn. Mỗi
cơ quan này thuộc Tổng cục Thuế có những nhiệm vụ khác nhau, phù hợp với
chức năng tham mưu của đơn vị cho lãnh đạo Tổng cục Thuế.
Tại cơ quan Tổng cục Thuế, các Vụ chức năng gồm Vụ Chính sách, Vụ
Kê khai và Kế toán thuế, Vụ Dự toán thu thuế, Vụ QLT doanh nghiệp lớn là
bộ phận thực hiện trình Tổng cục Thuế trình Bộ Tài chính trình Chính phủ dự
án Luật QLT, các dự án nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội; dự toán
thu thuế tài nguyên hàng năm theo quy định của Luật NSNN; trình Bộ trưởng
Bộ Tài chính xem xét, quyết định dự thảo Thông tư và các văn bản khác về
chính sách thuế tài nguyên; ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến
thuế tài nguyên.
Thứ hai, Cục Thuế các tỉnh là cơ quan thuế có chức năng chuyên trách
29
quản lý thuế ở địa phương nơi đặt trụ sở. Cơ quan này cũng thành lập các đơn
vị trực thuộc như: Phòng Nghiệp vụ - Dự toán – Pháp chế; Phòng Thanh tra –
Kiểm tra; Phòng Kê khai & kế toán thuế. Về nguyên tắc, các đơn vị này chịu
trách nhiệm tham mưu, tư vấn cho Cục trưởng về công tác quản lý thuế trên
địa bàn nhằm giúp Cục Thuế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
trong công tác quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn đặt trụ sở.
Thứ ba, Chi cục Thuế là cơ quan thuế cấp huyện, chịu trách nhiệm
quản lý thuế ở địa bàn cấp huyện nơi đóng trụ sở. Cơ quan này cũng thành lập
các đơn vị trực thuộc như Đội Kê khai – Kế toán thuế - Tin học, Đội Kiểm tra
thuế. Các đơn vị này chịu trách nhiệm tham mưu cho Chi cục trưởng về công
tác quản lý thuế trên địa bàn nhằm giúp Chi cục Thuế thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao trong công tác quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn đặt
trụ sở. Tại các Cục Thuế, Chi cục Thuế, các cơ quan này thực hiện tuyên
truyền, hướng dẫn người nộp thuế thực hiện đúng theo quy định pháp luật;
thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện quy định của pháp
luật về thuế tài nguyên.
2.1.1.2. Chủ thể khác tham gia quản lý thuế tài nguyên
Theo pháp luật hiện hành, việc tham gia quản lý thuế tài nguyên không
chỉ có cơ quan thuế mà còn bao gồm các chủ thể khác như: Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Nhà nước,
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các cơ quan truyền
thông, ngân hàng thương mại, Hội đồng tư vấn thuế xã phường, các tổ chức,
cá nhân khác…
Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong công tác quản lý thuế, nhà
làm luật cũng đã quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này
trong Luật quản lý thuế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, các
30
chủ thể này có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Hội đồng nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, quyết định nhiệm vụ thu ngân sách hằng năm và giám sát việc thực
hiện pháp luật về thuế tại địa phương.
- Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có trách nhiệm:
a) Chỉ đạo các cơ quan có liên quan tại địa phương phối hợp với cơ
quan quản lý thuế lập dự toán và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu thuế, các
khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn;
b) Phối hợp với Bộ Tài chính, cơ quan quản lý thuế và cơ quan khác có
thẩm quyền trong việc quản lý, thực hiện pháp luật về thuế;
c) Xử phạt vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền.
Thứ hai, đối với cơ quan Kiểm toán Nhà nước, chủ thể này có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thực hiện kiểm toán hoạt động đối với cơ quan quản lý thuế theo quy
định của pháp luật về kiểm toán nhà nước, pháp luật về thuế và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
- Đối với kiến nghị của Kiểm toán nhà nước liên quan đến việc thực
hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế được quy định như sau:
a) Trường hợp Kiểm toán nhà nước trực tiếp kiểm toán người nộp thuế
theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước có nội dung kiến nghị về nghĩa
vụ nộp ngân sách nhà nước thì Kiểm toán nhà nước phải gửi biên bản hoặc
báo cáo kiểm toán cho người nộp thuế và người nộp thuế có trách nhiệm thực
hiện kiến nghị theo báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Trường hợp
người nộp thuế không đồng ý với kiến nghị của Kiểm toán nhà nước thì người
31
nộp thuế có quyền khiếu nại kiến nghị của Kiểm toán nhà nước;
b) Trường hợp Kiểm toán nhà nước không trực tiếp kiểm toán đối với
người nộp thuế mà thực hiện kiểm toán tại cơ quan quản lý thuế có nội dung
kiến nghị nêu trong báo cáo kiểm toán liên quan đến nghĩa vụ thuế của
người nộp thuế thì Kiểm toán nhà nước gửi bản trích sao có kiến nghị liên
quan đến nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế để thực hiện. Cơ quan quản lý
thuế có trách nhiệm tổ chức thực hiện kiến nghị của Kiểm toán nhà nước.
Trường hợp người nộp thuế không đồng ý với nghĩa vụ thuế phải nộp thì
người nộp thuế có văn bản đề nghị cơ quan quản lý thuế, Kiểm toán nhà
nước xem xét lại nghĩa vụ thuế phải nộp. Căn cứ đề nghị của người nộp
thuế, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực
hiện việc xác định chính xác nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và chịu trách
nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, đối với cơ quan Thanh tra nhà nước, chủ thể này có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thực hiện thanh tra hoạt động của cơ quan quản lý thuế theo quy định
của pháp luật về thanh tra, pháp luật về thuế và quy định khác của pháp luật
có liên quan.
- Đối với kết luận của Thanh tra nhà nước liên quan đến nghĩa vụ thuế
phải nộp của người nộp thuế được quy định như sau:
a) Trường hợp Thanh tra nhà nước trực tiếp thanh tra người nộp thuế
theo quy định của Luật Thanh tra có nội dung kết luận về nghĩa vụ nộp ngân
sách nhà nước thì Thanh tra nhà nước phải gửi biên bản hoặc kết luận cho
người nộp thuế và người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện kết luận của Thanh
tra. Trường hợp người nộp thuế không đồng ý với kết luận của Thanh tra nhà
nước thì người nộp thuế có quyền khiếu nại kết luận của Thanh tra nhà nước;
b) Trường hợp Thanh tra nhà nước không trực tiếp thanh tra đối với
32
người nộp thuế mà thực hiện thanh tra tại cơ quan quản lý thuế có nội dung
kiến nghị nêu trong kết luận thanh tra liên quan đến nghĩa vụ thuế của người
nộp thuế thì Thanh tra nhà nước gửi bản trích sao có kết luận liên quan đến
nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế để thực hiện. Cơ quan quản lý thuế có trách
nhiệm tổ chức thực hiện kết luận của Thanh tra nhà nước. Trường hợp người
nộp thuế không đồng ý với nghĩa vụ thuế phải nộp thì người nộp thuế có văn
bản đề nghị cơ quan quản lý thuế, Thanh tra nhà nước xem xét lại nghĩa vụ
thuế phải nộp. Căn cứ đề nghị của người nộp thuế, Thanh tra nhà nước chủ trì,
phối hợp với cơ quan quản lý thuế thực hiện việc xác định chính xác nghĩa vụ
thuế của người nộp thuế và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, các chủ thể này có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Đối với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực thuế theo quy định của pháp luật và
thông báo kết quả xử lý cho cơ quan quản lý thuế.
Thứ năm, đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan này có nhiệm
vụ tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp
luật về thuế; đồng thời thực hiện giám sát, phản biện xã hội về thuế; phản ánh,
kiến nghị với cơ quan nhà nước xem xét, giải quyết các vấn đề về thuế theo
quy định của pháp luật.
Thứ sáu, đối với các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Điều 25 Luật quản lý thuế quy định các chủ
thể này có nhiệm vụ, quyền hạn phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế đến các hội viên. Ngoài ra,
các chủ thể này còn có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc
33
cung cấp thông tin liên quan đến việc quản lý thuế.
Thứ bảy, đối với các cơ quan thông tin, báo chí, tại Điều 26 Luật quản
lý thuế, nhà làm luật quy định các chủ thể này có nhiệm vụ, quyền hạn tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thuế, nêu gương tổ chức, cá nhân
thực hiện tốt pháp luật về thuế, phản ánh và phê phán các hành vi vi phạm
pháp luật về thuế. Ngoài ra, cơ quan thông tin, báo chí cũng có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan quản lý thuế trong việc đăng tải, cung cấp thông tin
theo quy định của pháp luật.
Thứ tám, đối với các chủ thể là ngân hàng thương mại, chủ thể này có
nhiệm vụ, quyền hạn phối hợp với cơ quan quản lý thuế, Kho bạc Nhà nước
trong việc thực hiện nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử cho người nộp thuế;
xử lý, đối soát dữ liệu về nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử; truyền, nhận
thông tin chứng từ nộp thuế điện tử, chuyển tiền thanh toán các khoản thu
ngân sách nhà nước cho Kho bạc Nhà nước đầy đủ, chính xác, kịp thời theo
đúng quy định của pháp luật; hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình thực hiện
nộp thuế điện tử; bảo mật thông tin của người nộp thuế, người khai hải quan
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cũng có
trách nhiệm cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của
người nộp thuế khi mở tài khoản; khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp
theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt
động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam; trích
tiền để nộp thuế từ tài khoản của người nộp thuế, phong tỏa tài khoản của
người nộp thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế
theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế. Trường hợp người nộp thuế có bảo
lãnh về tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác thuộc ngân
sách nhà nước theo quy định của Luật quản lý thuế nhưng người nộp thuế
không nộp đúng thời hạn thì ngân hàng bảo lãnh phải chịu trách nhiệm nộp
tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà
34
nước thay cho người nộp thuế trong phạm vi bảo lãnh.
Thứ chín, đối với Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn, chủ thể
này có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về doanh thu, mức thuế của các hộ
kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán trên địa
bàn và phối hợp với cơ quan thuế đôn đốc các hộ kinh doanh, cá nhân kinh
doanh thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Kinh phí hoạt
động của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn do cơ quan thuế chi từ
nguồn ngân sách nhà nước cấp cho ngành thuế.
Thứ mười, đối với các tổ chức, cá nhân khác, những chủ thể này có
nhiệm vụ, quyền hạn cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế; phối hợp với cơ quan quản lý
thuế trong việc thực hiện các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản
lý thuế; tố giác hành vi vi phạm pháp luật về thuế đến cơ quan quản lý thuế
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; yêu cầu người bán hàng, người cung
cấp dịch vụ phải giao hóa đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ đúng số lượng,
chủng loại, giá trị thực thanh toán khi mua hàng hóa, dịch vụ.
Như vậy, so với Luât quản lý thuế 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung) thì
Luật quản lý thuế 2019 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà
nước và Thanh tra nhà nước. Đồng thời, đưa ra cách thức giải quyết đối với
kết luận của kiểm toán nhà nước hoặc thanh tra nhà nước, góp phần hướng
dẫn xử lý thống nhất trên phạm vi cả nước, tránh tình trạng mỗi khi có sự
tham gia của Kiểm toán nhà nước hay Thanh tra nhà nước thì các địa phương
lại lúng túng không biết quy trình thực hiện kết luận như thế nào.
2.1.2. Thực trạng quy định về nguyên tắc và nội dung quản lý thuế
tài nguyên
2.1.2.1. Thực trạng quy định về nguyên tắc quản lý thuế tài nguyên
Đối với hoạt động QLT nói chung và hoạt động QLT tài nguyên nói
35
riêng để đạt được các mục tiêu đã đề ra cần phải xác định rõ các nguyên tắc
hoạt động cụ thể. Nguyên tắc QLT tài nguyên được xây dựng dựa trên nguyên
tắc chung của QLT, xem đó là yêu cầu bắt buộc trong hoạt động của các chủ
thể. Nguyên tắc của QLT được Luật QLT quy định cụ thể tại Điều 4 với
những nội dung như sau:
Thứ nhất, mọi tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân có nghĩa vụ
nộp thuế theo quy định của luật.
Thứ hai, cơ quan QLT, các cơ quan khác của Nhà nước được giao
nhiệm vụ quản lý thu thực hiện việc QLT theo quy định của luật QLT và quy
định khác của pháp luật có liên quan, bảo đảm công khai, minh bạch, bình
đẳng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của NNT.
Thứ ba, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia QLT theo
quy định của pháp luật.
Thứ tư, thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ
thông tin hiện đại trong QLT; áp dụng các nguyên tắc QLT theo thông lệ quốc
tế, trong đó có nguyên tắc bản chất hoạt động, giao dịch quyết định nghĩa vụ
thuế, nguyên tắc quản lý rủi ro trong QLT và các nguyên tắc khác phù hợp
với điều kiện của Việt Nam.
Thứ năm, áp dụng biện pháp ưu tiên khi thực hiện các thủ tục về thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật về hải
quan và quy định của Chính phủ.
Như vậy, về bản chất, nhìn chung các nguyên tắc QLT quy định tại
Luật QLT 2019 là tương đồng với các nguyên tắc QLT tại Luật QLT 2006 và
Luật QLT sửa đổi, bổ sung năm 2012 và năm 2016. Các nguyên tắc này
không những chỉ rõ vai trò quan trọng của thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN mà còn xác định rõ phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình QLT, quy định trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện các luật
36
thuế nói chung.
2.1.2.2. Thực trạng quy định nội dung quản lý thuế tài nguyên
QLT tài nguyên là một bộ phận của QLT. Do đó, nội dung QLT tài
nguyên được quy định rõ trong luật QLT nói chung và luật thuế tài nguyên
nói riêng. Về cơ bản, QLT tài nguyên bao gồm các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
Nếu như tại Luật quản lý thuế 2006 (sửa đổi, bổ sung) cho phép NNT
được đăng ký thuế trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt động, bắt đầu kinh
doanh... thì theo Luật quản lý thuế 2019, NNT phải đăng ký thuế khi phát sinh
nghĩa vụ thuế với cơ quan đăng ký kinh doanh nếu là đăng ký thuế lần đầu
hoặc với cơ quan thuế địa phương. Khi đã đăng ký thuế và có nghĩa vụ thuế
thì người nộp thuế phải kê khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ theo mẫu
và nộp thuế đúng quy định, đúng thời hạn. Khai thuế là trách nhiệm của người
nộp thuế nhưng nếu trong một thời gian nhất định, người nộp thuế không
hoàn thành việc khai thuế thì cơ quan thuế có quyền ấn định thuế.
Thứ hai, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế tài nguyên.
Người nộp thuế tài nguyên nếu có số thuế đã nộp nhiều hơn so với số
thuế phải nộp thì được hoàn lại số thuế đã nộp thừa. Người nộp thuế tài nguyên
được miễn thuế, giảm thuế trong các trường hợp quy định tại Điều 9 Luật thuế
tài nguyên năm 2009. Tuy nhiên, thực tế quy định về miễn thuế tài nguyên
cũng gặp phải một số vướng mắc trong quá trình thực hiện. Chẳng hạn, pháp
luật quy định miễn thuế đối với đất khai thác sử dụng tại chỗ trên diện tích đất
được giao, được thuê. Vậy trong trường hợp, các cá nhân, hộ gia đình được
thuê đất phi nông nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh tiến hành đào đắp, san
lấp nhưng có lượng đất dư thừa phải mang đi đổ tại nơi khác thì có phải nộp
thuế tài nguyên hay không. Hay việc tính thuế tài nguyên đối với đất đào lên
37
san lấp đối với các công trình theo dự án BT thì tính thuế như thế nào.
Thứ ba, khoanh nợ tiền thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt;
miễn tiền chậm nộp, tiền phạt; không tính tiền chậm nộp; gia hạn nộp thuế;
nộp dần tiền thuế nợ.
Khoanh tiền thuế nợ áp dụng đối với các trường hợp sau: Người nộp
thuế đang làm thủ tục giải thể, phá sản, không còn hoạt động kinh doanh tại
địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh, bị cơ quan
quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi hoặc đã bị cơ
quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy phép
thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Việc xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt được quy định trong các
trường hợp sau: NNT bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán
theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế,
tiền chậm nộp, tiền phạt; NNT là cá nhân đã chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được
thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ; Các khoản nợ tiền
thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy
định trên mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại
điểm g khoản 1 Điều 125 của Luật QLT 2019 và các khoản nợ tiền thuế, tiền
chậm nộp, tiền phạt này đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng
không có khả năng thu hồi; NNT là cá nhân, cá nhân kinh doanh, chủ hộ gia
đình, chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên đã được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt quy định
tại khoản này trước khi quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh mới thì phải hoàn trả cho Nhà nước khoản nợ tiền thuế, tiền
chậm nộp, tiền phạt đã được xóa; Tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với
38
các trường hợp bị ảnh hưởng do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh có phạm vi rộng
đã được xem xét miễn tiền chậm nộp theo quy định tại khoản 8 Điều 59 của
Luật QLT 2019 và đã được gia hạn nộp thuế theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 62 của Luật QLT 2019 mà vẫn còn thiệt hại, không có khả năng phục hồi
được sản xuất, kinh doanh và không có khả năng nộp tiền thuế, tiền chậm nộp,
tiền phạt; Chính phủ quy định việc phối hợp giữa cơ quan quản lý thuế và cơ
quan đăng ký kinh doanh, chính quyền địa phương bảo đảm các khoản tiền
thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã được xóa phải được hoàn trả vào ngân sách
nhà nước theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Luật quản lý thuế 2019 trước khi
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp; quy định chi tiết khoản 4 Điều này.
Việc xóa nợ tiền thuế so với quy định cũ đã mở rộng thêm một số đối
tượng như hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán
theo quy định của pháp luật về phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế,
tiền chậm nộp, tiền phạt; cá nhân đã chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết,
mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản, bao gồm cả tài sản được
thừa kế để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ. Quy định về khoanh
nợ tiền thuế cũng được bổ sung góp phần làm giảm số nợ ảo, chi phí quản lý,
chi phí nhân lực của cơ quan QLT. Thí dụ, doanh nghiệp tuyên bố phá sản
muốn xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải lập văn bản đề nghị xóa
nợ kèm theo các tài liệu có liên quan.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn phát sinh nhiều trường hợp mà tiền
chậm nộp, tiền phạt còn cao hơn rất nhiều lần so với số tiền thuế phải nộp.
Việc xử lý các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn do chưa có biện pháp
thích hợp để vừa đảm bảo thu được thuế vừa đảm bảo cho doanh nghiệp còn
khả năng hoạt động.
Thứ tư, quản lý thông tin NNT, quản lý hóa đơn, chứng từ: Thông tin
39
của NNT phải được quản lý chặt chẽ, các thông tin cần bảo mật hay công khai
phải thực hiện theo quy định tại Điều 99 và Điều 100 Luật Quản lý thuế 2019.
Việc quản lý hóa đơn, chứng từ được thực hiện theo quy định của luật quản lý
thuế và pháp luật về kế toán.
Thứ năm, kiểm tra thuế, thanh tra thuế và thực hiện biện pháp phòng,
chống, ngăn chặn vi phạm pháp luật về thuế.
Trong quá trình kiểm tra, thanh tra thuế, cơ quan thuế sẽ phát hiện và
xử phạt vi phạm hành chính về QLT. Các hành vi vi phạm hành chính về thuế
gồm hành vi vi phạm thủ tục thuế; hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu; hành vi
trốn thuế; hành vi vi phạm của ngân hàng thương mại, người bảo lãnh nộp
tiền thuế trong lĩnh vực quản lý thuế; hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân có
liên quan trong lĩnh vực quản lý thuế.
Các quy định về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế cũng gặp không ít
vướng mắc. Ví dụ: khi xử lý vi phạm về hành vi khai sai phí bảo vệ môi trường
thì áp dụng theo quy định tại văn bản nào, áp dụng theo Nghị định số
129/2013/NĐ-CP về lĩnh vực thuế hay áp dụng theo Nghị định số 109/2013/NĐ-
CP (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 49/2016/NĐ-CP) hay Nghị định số
155/2016/NĐ-CP về lĩnh vực bảo vệ môi trường khi mà tại các văn bản này có
quy định khác nhau về mức xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ sáu, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về QLT.
Đây là việc áp dụng biện pháp theo quy định của Luật quản lý thuế và
quy định khác của pháp luật có liên quan buộc người nộp thuế phải hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế. Nội dung này được quy định cụ thể tại Chương XIV
Luật quản lý thuế 2019 về các trường hợp cưỡng chế, biện pháp cưỡng chế,
thẩm quyền quyết định cưỡng chế, quyết định cưỡng chế, trách nhiệm tổ chức
thi hành quyết định cưỡng chế.
Thứ bảy, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế, hợp tác quốc tế về thuế và
40
tuyên truyền hỗ trợ NNT.
Về nguyên tắc, NNT, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan
có thẩm quyền đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
quản lý thuế, công chức quản lý thuế khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, nội dung quản lý thuế là trách nhiệm công việc của các cơ
quan thuế và của các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ kê khai thuế. Các nội dung
quản lý thuế có quan hệ mật thiết với nhau, thông thường nội dung quản lý
thuế này là tiền đề và kết quả cho các nội dung khác. Nhìn chung, bên cạnh
việc kế thừa các nội dung đã được quy định tại Luật quản lý thuế cũ và các văn
bản sửa đổi, bổ sung cũng như các văn bản hướng dẫn, Luật quản lý thuế 2019
quy định thêm một số nội dung quản lý thuế mới như quản lý hóa đơn, chứng
từ; hợp tác quốc tế về thuế; tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế. Theo đó, mở
rộng trách nhiệm trong hợp tác quốc tế với việc quy định các biện pháp hỗ trợ
thu thuế theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: NNT có nghĩa
vụ thuế mà chưa nộp trong nước, khi ra nước ngoài sẽ bị cơ quan quản lý thuế
hoặc cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài thực hiện hỗ trợ thu thuế và ngược
lại. Ngoài ra, các quy định về hóa đơn và chứng từ điện tử cũng được luật hóa
để tương ứng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh
doanh thương mại điện tử: trường hợp bắt buộc phải sử dụng hóa đơn điện tử
thì phải lập hóa đơn điện tử để giao cho người mua theo đúng định dạng và ghi
đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật có liên quan.
2.1.3. Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên
Thứ nhất, đăng ký thuế: NNT thực hiện khai báo về sự hiện diện của
mình và nghĩa vụ phải nộp thuế với cơ quan QLT. NNT kê khai những thông
41
tin theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan QLT.
Thứ hai, kê khai, nộp thuế tài nguyên. NNT tự xác định số thuế tài
nguyên phải nộp phát sinh trong kỳ kê khai thuế theo quy định của pháp luật
QLT và pháp luật thuế tài nguyên. NNT sử dụng hồ sơ khai thuế và chịu trách
nhiệm về tính chính xác của số liệu trong hồ sơ khai thuế. NNT phải khai chính
xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu và nộp đầy đủ
các loại tài liệu, chứng từ quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan QLT.
Việc khai thuế, nộp thuế tài nguyên được thực hiện theo cơ chế tự khai,
tự nộp. Cơ chế này được thực hiện dựa trên sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ
thuế của NNT. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, NNT xác định nghĩa vụ
thuế của mình, tự kê khai thuế và nộp khai thuế, nộp thuế theo số thuế đã xác
định vào NSNN; đồng thời, lưu giữ các chứng từ, sổ sách theo quy định để
phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan QLT. Theo cơ chế này,
NNT được xem là trung tâm, cơ quan thuế sẽ hỗ trợ, hướng dẫn NNT các quy
định của pháp luật và giám sát việc tuân thủ của NNT thông qua nghiệp vụ
thanh tra, kiểm tra thuế theo nguyên tắc quản lý rủi ro về thuế.
Thứ ba, miễn, giảm thuế tài nguyên. Quyết định miễn thuế, giảm thuế
là việc cơ quan QLT quyết định cho NNT được hưởng những ưu đãi về thuế
theo quy định của pháp luật thuế. Miễn thuế là ưu đãi cho NNT được miễn trừ
nghĩa vụ nộp tiền thuế còn giảm thuế là ưu đãi cho NNT được miễn trừ một
phần nghĩa vụ nộp tiền thuế. Đây là những quy định thể hiện sự chia sẻ của
Nhà nước đối với NNT khi NNT gặp khó khăn và trong một số trường hợp
được quy định cụ thể tại Điều 9 Luật thuế tài nguyên bao gồm:
(a) NNT tài nguyên gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn
thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét miễn, giảm
thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế
thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên
42
phải nộp của kỳ sau.
(b) Miễn thuế đối với hải sản tự nhiên.
(c) Miễn thuế đối với cành, ngọn, củi, tre, trúc, nứa, mai, giang,
tranh, vầu, lồ ô do cá nhân được phép khai thác phục vụ sinh hoạt.
(d) Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện
của hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất phục vụ sinh hoạt.
(đ) Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; nước thiên nhiên do hộ gia đình,
cá nhân khai thác phục vụ sinh hoạt.
(e) Miễn thuế đối với đất khai thác và sử dụng tại chỗ trên diện tích
đất được giao, được thuê; đất khai thác để san lấp, xây dựng công
trình an ninh, quân sự, đê điều.
(g) Trường hợp khác được miễn, giảm thuế do Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định.
Thứ tư, quyết toán thuế tài nguyên. Quyết toán thuế là một hoạt động
quan trọng trong việc QLT tài nguyên. Khai quyết toán thuế là việc xác định
số tiền thuế phải nộp của năm tính thuế hoặc thời gian từ đầu năm tính thuế
đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế hoặc thời gian từ khi phát
sinh đến khi chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định của
pháp luật. Hồ sơ khai quyết toán thuế khi kết thúc năm gồm tờ khai quyết
toán thuế năm, báo cáo tài chính năm, tờ khai giao dịch liên kết; các tài liệu
khác có liên quan đến quyết toán thuế. Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế
năm chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 3 kể từ ngày kết thúc năm
dương lịch hoặc năm tài chính. Việc nộp hồ sơ khai quyết toán thuế có thể
được gia hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải nộp hồ sơ khai thuế.
Thứ năm, hoàn thuế tài nguyên. Hoàn thuế là cơ quan QLT thực hiện
hoàn thuế đối với tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp được hoàn thuế theo quy
43
định của pháp luật về thuế hoặc hoàn trả tiền nộp thừa đối với trường hợp
NNT có số tiền thuế đã nộp NSNN lớn hơn số thuế phải nộp NSNN sau khi
đã bù trừ theo quy định.
Như vậy, về cơ bản trình tự, thủ tục quản lý thuế tài nguyên cũng tương
tự với trình tự, thủ tục quản lý thuế nói chung. Việc thực hiện các quy định
này phải đảm bảo theo nội dung của Luật Quản lý thuế 2019. Với nguyên tắc
tự khai, tự tính, tự nộp thuế tài nguyên khi thực thi pháp luật thuế tài nguyên
gặp không ít khó khăn. Chẳng hạn, theo nguyên tắc tự khai, NNT có nghĩa vụ
khai đầy đủ nội dung theo mẫu của cơ quan thuế, trong đó giá tính thuế không
được thấp hơn hay cao hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định. Điều này dẫn
đến việc NNT thường không kê khai đúng giá tính thuế tài nguyên thực tế mà
chỉ căn cứ vào bảng giá của UBND cấp tỉnh để tìm lợi ích cho mình. Ngoài
ra, việc quy định căn cứ theo bảng giá do UBND cấp tỉnh quy định cũng gặp
nhiều tranh cãi do Luật thuế tài nguyên không định.
2.1.4. Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật trong quản lý thuế tài nguyên
Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan QLT đối với
các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình
thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm phát
hiện, ngăn ngừa và xử lý vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy cá nhân, tổ
chức hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình, hoàn thiện cơ chế quản lý, đảm bảo
pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế – xã hội.
Kiểm tra thuế là công việc có tính thường xuyên, là trách nhiệm của cơ
quan QLT. Kiểm tra thuế có thể được thực hiện tại trụ sở của cơ quan QLT
hoặc trụ sở của NNT:
Kiểm tra thuế tài nguyên tại trụ sở của cơ quan thuế được thực hiện trên cơ
sở hồ sơ thuế của NNT nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác các thông tin, chứng
44
từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của NNT [30, Điều 109].
Kiểm tra thuế tài nguyên tại trụ sở của NNT được thực hiện trong các
trường hợp sau đây: (i) Trường hợp hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước hoàn
thuế; kiểm tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước; (ii)
Trường hợp hồ sơ thuế có nội dung cần làm rõ liên quan đến số tiền thuế phải
nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế còn được
khấu trừ chuyển kỳ sau, số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế không thu mà hết
thời hạn theo thông báo của cơ quan QLT, NNT không giải trình, bổ sung
thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế hoặc giải trình, khai bổ
sung hồ sơ thuế không đúng thì thủ trưởng cơ quan QLT ra quyết định kiểm
tra thuế tại trụ sở của NNT; (iii) Trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
(iv) Trường hợp được lựa chọn theo kế hoạch, chuyên đề; (v) Trường hợp
theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước, cơ quan khác có
thẩm quyền; (vi) Trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần hóa, chấm dứt hiệu
lực mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột
xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường hợp giải thể,
chấm dứt hoạt động mà cơ quan thuế không phải thực hiện quyết toán thuế
theo quy định của pháp luật. Thời hạn kiểm tra thuế tại trụ sở NNT là không
quá 10 ngày làm việc, trường hợp phạm vi kiểm tra lớn, nội dung phức tạp thì
có thể gia hạn 01 lần nhưng không quá 10 ngày làm việc.
Thanh tra thuế là một dạng thanh tra chuyên ngành. Theo Luật Thanh
tra 2010, thanh tra chuyên ngành được định nghĩa là “hoạt động thanh tra của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”. Như vậy,
thanh tra thuế là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những
hoạt động mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ đối với các đối tượng nộp
45
thuế và các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực thuế nhằm phát hiện, xử lý vi
phạm trong việc tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng đó. Thanh tra
thuế xét cho cùng là kiểm tra thuế ở mức độ cao hơn và toàn diện hơn.
Thanh tra thuế nói chung và thanh tra thuế tài nguyên nói riêng được
thực hiện trong các trường hợp sau: (i) Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về
thuế; (ii) Để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc thực hiện các biện pháp phòng,
chống tham nhũng; (iii) Theo yêu cầu của công tác QLT trên cơ sở kết quả
phân loại rủi ro trong QLT; (iv) Theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, kết
luận của Thanh tra nhà nước và cơ quan khác có thẩm quyền.
Thời hạn thanh tra thuế được thực hiện theo quy định của Luật thanh
tra. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra thuế gia hạn
thời hạn thanh tra thuế theo quy định của Luật Thanh tra. Cụ thể như sau: (i)
Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc Bộ tiến
hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng
không quá 70 ngày; (ii) Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra sở, Chi
cục thuộc Sở tiến hành không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo
dài hơn, nhưng không quá 45 ngày.
Xử lý vi phạm pháp luật trong QLT tài nguyên: Xử lý vi phạm pháp
luật thuế là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định
pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các chế tài xử lý phù hợp với hành vi
vi phạm pháp luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về thuế.
Vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về
thuế được thực hiện một các cố ý hoặc vô ý bổi các tổ chức, cá nhân mà gây
thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó.
Các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong thực tiễn diễn ra rất đa dạng, tinh vi
và phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau. Nhìn chung, vi phạm pháp luật về
46
thuế được chia thành hai loại sau đây:
(i) Vi phạm hành chính về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp
luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ
nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính. Các
hành vi này bao gồm: hành vi vi phạm thủ tục thuế (thời hạn đăng ký thuế,
thời hạn nộp hồ sơ khai thuế trong 90 ngày, khai sai, khai không đầy đủ các
nội dung trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu thuế, cung cấp thông
tin liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế, về chấp hành quyết định kiểm tra
thuế, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về QLT); hành
vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được
miễn, giảm, hoàn, không thu; hành vi trốn thuế; hành vi vi phạm của ngân
hàng thương mại, người bảo lãnh nộp tiền thuế trong lĩnh vực QLT; hành vi
vi phạm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực QLT; xử phạt vi
phạm hành chính về phí, lệ phí, hóa đơn trong lĩnh vực QLT.
(ii) Vi phạm hình sự về thuế là hành vi trái pháp luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi
ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, trường
hợp hành vi vi phạm pháp luật thuế được xác định là nghiêm trọng mà thỏa
mãn dấu hiệu của tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự thì không xử
phạt hành chính mà phải chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý
hình sự. Theo đó, ngoài tội trốn thuế (Điều 200 BLHS năm 2015), còn có 2
tội danh liên quan đến tài chính – kế toán (thực chất là các hoạt động hỗ trợ
việc gian lận thuế), đó là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng
từ thu nộp NSNN (Điều 203 BLHS năm 2015) và Tội vi phạm quy định về bảo
quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp NSNN (Điều 204 BLHS năm 2015).
Trên thực tế, khi xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm, ngành
47
Thuế đã chủ động rà soát với kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Thanh tra Chính
phủ, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan nhà nước khác tuy nhiên vẫn phát
sinh sự trùng lặp, chồng chéo với các cơ quan này. Để khắc phục điều đó, Tổng
cục Thuế đã thực hiện nhiều biện pháp, trong đó, phải kể đến việc nghiêm túc
thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 9179/BTC-TTr ngày 11/7/2017 của
Bộ Tài chính về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh
nghiệp theo Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, chỉ đạo toàn ngành tập trung xây dựng kế hoạch thanh tra,
kiểm tra dựa trên nguyên tắc quản lý rủi ro về thuế; Kế hoạch thanh tra, kiểm
tra của cơ quan Thuế cấp dưới phải phù hợp với kế hoạch thanh tra, kiểm tra
của cơ quan Thuế cấp trên và các cơ quan có liên quan thông qua việc lấy ý
kiến của các cơ quan, đơn vị.
Việc thanh tra phải được tiến hành theo đúng định hướng, kế hoạch đã
được phê duyệt với nội dung nằm trong giới hạn phạm vi quản lý nhà nước
được giao; chỉ chủ động kiểm tra, thanh tra khi cần thiết; việc điều chỉnh kế
hoạch thanh tra phải đảm bảo không làm tăng số cuộc thanh tra; kết luận
thanh tra phải được ban hành đúng thời hạn theo quy định.
Trường hợp thanh tra, kiểm tra đột xuất thì chỉ ban hành quyết định
thanh tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng và phải xác định rõ tính
chất, mức độ vi phạm.
Trước khi tiến hành thanh tranh, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế, cần
chuẩn bị và lựa chọn các nội dung trọng tâm, yêu cầu cung cấp thông tin qua
phương thức điện tử để giảm thiểu thời gian và đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật thuế cho NNT nhằm tháo gỡ vướng
mắc phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách về thuế; tăng cường kiểm
soát tuân thủ trong công tác thanh tra, kiểm tra.
Thực hiện Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng Chính
phủ nghiêm túc thông qua các văn bản chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra hàng
48
năm, công tác thanh tra, kiểm tra thuế của ngành Thuế đã đạt được những kết
quả nhất định như: Khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch không để trường hợp 01
doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm; chất lượng cuộc thanh
tra, kiểm tra nâng lên thể hiện qua số tiền thuế xử lý qua thanh tra, kiểm tra năm
sau tăng hơn so với năm trước (số cuộc thanh tra, kiểm tra giảm nhưng tổng số
xử lý qua thanh tra, kiểm tra năm sau cao hơn năm trước) góp phần thực hiện
hoàn thành vượt mức dự toán thu thuế hàng năm của ngành Thuế; Việc xử lý
qua thanh tra, kiểm tra đảm bảo đúng quy định, chính sách, pháp luật và giảm
thiểu các cuộc thanh tra, kiểm tra bị khiếu nại, khiếu kiện.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở
Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về
quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam
Sau gần ba mươi năm thực hiện, pháp luật thuế tài nguyên đã góp phần
ổn định nguồn thu cho NSNN. Số thu thuế tài nguyên hàng năm có xu hướng
tăng lên và gia tăng tỷ trọng số thu thuế tài nguyên trong tổng thu NSNN. Số
thuế tài nguyên thu được hàng năm đạt khoảng 10% tổng thu NSNN. Kết quả
cụ thể như sau:
Thứ nhất, đảm bảo nguồn thu cho NSNN ngày càng tăng.
Bảng 2.1. Kết quả thu NSNN từ thuế tài nguyên ở Việt Nam
ĐVT: triệu đồng
Năm
2016
2017
2018
2019
Thu từ dầu thô, condensate
12.326.151 14.250.774 16.755.866 14.352.987
11.312.543 14.033.321 15.513.920 16.917.095
Thu từ khu vực doanh nghiệp do Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
433.398
507.958
510.084
385.460
Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
3.009.070
4.924.902
5.948.220
5.741.566
Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
27.081.162 33.716.955 38.628.090 37.397.108
Tổng
(Nguồn: Tổng cục Thuế)
49
Bảng 2.2. Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu do
ngành thuế quản lý (%)
ĐVT: triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
2016
2017
2018
2019
27.081.162 33.716.955 38.628.090
37.397.108
1 Số thu thuế tài nguyên
2 Số thu thuế tài nguyên (trừ
14.755.011 19.466.181 21.872.224
23.044.121
dầu thô)
3 Số thu do ngành thuế quản lý 886.090.973 984.264.902 1.120.707.713 1.204.822.402
3,05
3,42
3,45
3,10
4 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên so với số thu ngành
thuế quản lý (%)
1,67
1,98
1,95
1,91
5 Tỷ trọng số thu thuế tài nguyên (trừ dầu thô) so với số thu
ngành thuế quản lý (%)
(Nguồn: Tổng cục Thuế)
Bảng 2.3. Tỷ lệ thu thuế tài nguyên so với GDP và tổng thu NSNN
giai đoạn 2016-2019
Đơn vị tính: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2016
2017
2018
2019
1
4.502.000 5.000.900 5.535.300 6.042.500
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP theo giá hiện hành)
2 Tổng thu cân đối NSNN
1.101.377 1.212.180 1.420.000 1.539.322
3 Tổng thu thuế tài nguyên
27.081
33.717
38.628
37.397
Thu từ dầu thô
12.326
14.251
16.756
14.353
Thu khác
14.755
19.466
21.872
23.044
4 % so với GDP
0,6
0,7
0,7
0,6
5 % so với tổng thu cân đối NSNN
2,5
2,8
2,7
2,4
(Nguồn: Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới)
50
Nghiên cứu kết quả thu ngân sách nhà nuớc về thuế tài nguyên qua so
sánh với tổng số thu do ngành thuế quản lý, so sánh với tổng GDP và so sánh
với tổng số thu NSNN cho thấy những năm gần đây thuế tài nguyên đã động
viên hợp lý đóng góp của tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên tạo thêm
nguồn thu ổn định cho NSNN với số thu tuyệt đối và tỷ trọng tăng đều qua
các năm. Kết quả nghiên cứu tại các doanh nghiệp cho thấy, khối lượng tài
nguyên khai thác hàng năm có xu hướng giảm do chủ trương tiết kiệm tài
nguyên của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên các năm đều có số thu thuế tài
nguyên tăng so với năm trước (mặc dù có sự giảm nhẹ vào năm 2019 do
những bất ổn của tình kình kinh tế thế giới cũng như trong nước) là do việc
điều chỉnh giá tính thuế các loại tài nguyên một các hợp lý của UBND cấp
tỉnh cũng như việc tăng thuế suất đối với một số loại tài nguyên.
Việc phân bổ nguồn thu được thực hiện theo quy định tại Luật NSNN
và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó nguồn thu thuế tài nguyên (trừ
dầu khí) thuộc ngân sách địa phương, đảm bảo nguồn kinh phí cho việc cải
tạo môi trường, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tại địa
phương quanh khu vực khai thác (xây dựng điện, đường, trường, trạm...),
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người dân, phát triển kinh tế xã hội địa
phương và tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của
tài nguyên quốc gia. TNTN thường có tại các địa phương có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn, tạo công ăn việc làm, giảm chênh lệch về giàu nghèo.
Việc quy định để lại 100% số thu từ thuế tài nguyên (trừ dầu khí) cho ngân
sách địa phương và việc giao UBND cấp tỉnh quy định giá tính thuế đối với
một số loại tài nguyên góp phần tăng cường công tác quản lý hoạt động khai
thác tài nguyên của cơ quan quản lý địa phương, hạn chế việc khai thác trái
51
phép gây lãng phí tài nguyên và ảnh hướng xấu đến môi trường.
Thứ hai, pháp luật thuế tài nguyên những năm qua đã góp phần thể chế
hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện
chính sách tài chính đối với tài nguyên thiên nhiên. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, được ban hành phù hợp với quy định tại Hiến pháp năm 1992:
“Các cơ quan Nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, các đoàn thể
xã hội và tất cả các cá nhân phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về việc
sử dụng hợp lý các TNTN, và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động
làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường” (Điều 29);
Hai là, được ban hành để đáp ứng và phù hợp với yêu cầu cải cách,
cũng như hoàn thiện khung chính sách về thuế tài nguyên theo Chiến lược
cải cách hệ thống thuế (ban hành kèm theo Quyết định số 732/QĐ-TTg
ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ):
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng thuế tài nguyên là công cụ
hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ và thúc đẩy việc sử dụng hiệu
quả tài nguyên quốc gia, nhất là đối với tài nguyên không tái tạo;
thúc đẩy khai thác tài nguyên gắn liền với chế biến sâu và góp phần
hạn chế tối đa xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến; sửa đổi, bổ
sung quy định về giá tính thuế, thuế suất và thực hiện phương pháp
quản lý thu cho phù hợp với thực tiễn hoạt động khai thác tài
nguyên theo từng giai đoạn.
Theo đó, pháp luật thuế tài nguyên được ban hành đồng bộ cùng với
các Luật thuế như Luật QLT, Luật thuế Giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp... góp phần đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống thuế đồng
bộ, mang tính thống nhất và tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng.
Các quy định về thuế tài nguyên trong hệ thống pháp luật thuế tài nguyên
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan hợp thành một hệ thống
52
pháp luật hoàn thiện về chính sách thu đối với tài nguyên, đáp ứng mục
tiêu gắn phát triển kinh tế bền vững đi liền với giảm ô nhiễm môi trường,
đồng thời nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội về vai trò của tài
nguyên với sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên
trong những năm gần đây đã làm phong phú thêm nguồn nguyên liệu đầu vào
cho các ngành sản xuất, ổn định sản xuất trong nước, giảm sự phụ thuộc vào
nguyên vật liệu nhập khẩu, tạo ra việc làm và thu nhập cho người dân. Với vai
trò là công cụ tài chính hữu hiệu giúp Nhà nước thể hiện vai trò sở hữu và
thực hiện chức năng quản lý đối với hoạt động khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên (thể hiện trong các quy định về tượng chịu thuế, NNT, căn
cứ tính thuế và kê khai thuế…). Cơ quan quản lý nhà nước theo dõi, giám sát
và tăng cường công tác cấp phép, quản lý khai thác tài nguyên và có chính
sách khuyến khích đầu tư phù hợp để nâng cao giá trị tài nguyên thông qua
việc kê khai, nộp thuế tài nguyên của NNT.
Bên cạnh đó, cùng với quy định giao UBND cấp tỉnh quy định giá tính
thuế tài nguyên thì sự điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên trong thời
gian qua cũng đã thể hiện sự tăng cường hoạt động quản lý, giảm giát quá
trình hoạt động khai thác tài nguyên của Nhà nước. Nhờ đó mà tài nguyên
ngày càng được quản lý theo hướng chặt chẽ hơn, tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn
nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Thứ tư, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp khai thác tài nguyên.
Thuế tài nguyên với mức thuế suất được áp dụng đồng bộ, thống nhất
không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp
53
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo môi trường đầu
tư ổn định, thu hút vốn đầu tư vào ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản.
Thêm vào đó, sự điều hành của nhà nước trong chính sách thuế tài nguyên
thông qua việc điều chỉnh tăng dần mức thuế suất thuế tài nguyên trong thời
gian qua là nhằm mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới dây
chuyển công nghệ trong khai thác, phục vụ chế biến sâu. Do thuế tài nguyên
là một trong các yếu tố cấu thành trong giá bán sản phẩm nên để đảm bảo lợi
nhuận, doanh nghiệp phải định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh theo
hướng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất; khai thác, chế biến sâu tài
nguyên, nâng cao giá trị sản phẩm. Từ đó, đảm bảo hiệu quả khai thác tài
nguyên cũng như đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp.
Thứ năm, nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát
triển kinh tế đất nước để có giải pháp quản lý tốt, sử dụng có hiệu quả nguồn
tài nguyên thiên nhiên.
Khi mà các nguồn lực để phát triển kinh tế còn chưa đủ mạnh thì tài
nguyên là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế đất nước, đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên để phục vụ phát triển
kinh tế tăng rõ rệt trước sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và sự gia tăng hội nhập
quốc tế gần đây. Công tác quản lý thuế tài nguyên dường như chưa thể được
thực hiện một cách triệt để trước hoạt động khai thác tràn lan, khai thác không
phép, vượt phép hay xuất khẩu tài nguyên thô vẫn còn xảy ra tại một số địa
phương gây thất thoát tài nguyên, thất thu cho NSNN, kèm theo đó là mất ổn
định xã hội và ô nhiễm môi trường nơi khai thác.
Trong thời gian vừa, Nhà nước cũng thể hiện tầm quan trọng của tài
nguyên đối với sự phát triển kinh tế bền vững thông qua việc điều tiết thuế
suất thuế tài nguyên.
Kết quả của việc nâng nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên là
54
buộc các địa phương phải cân nhắc để đưa ra sự lựa chọn hợp lý phương thức
đầu tư khai thác, chế biến tài nguyên và đường lối phát triển kinh tế - xã hội
đảm bảo phù hợp với điều kiện của địa phương. Cùng với đó là sự gia tăng
trong công tác quản lý và cấp phép khai thác tài nguyên, lựa chọn nhà đầu tư
hội tụ đủ điều kiện và tiềm lực để khai thác, chế biến tài nguyên hiệu quả; xây
dựng chính sách khuyến khích đầu tư thúc đẩy việc chế biến sâu nâng cao giá
trị tài nguyên. Từ đó, tài nguyên ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả hơn, kết hợp với việc bảo vệ môi trường nơi có tài nguyên.
Thứ sáu, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đảm bảo tính minh bạch,
rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện mang lại hiệu quả trong công tác quản lý.
Luật thuế tài nguyên có bố cục rõ ràng với những quy định cụ thể về
phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, NNT, căn cứ tính thuế, sản lượng tài
nguyên tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, kê khai, nộp thuế, miễn giảm thuế
và hiệu lực thi hành. Việc quy định rõ ràng, minh bạch, phù hợp và đồng bộ
với các văn bản pháp luật khác có liên quan sẽ hạn chế các quy định chồng
chéo lẫn nhau. Chính sách thuế rõ ràng tạo điều kiện để NNT cũng như cơ
quan QLT tổ chức thực hiện một cách thống nhất; hạn chế những khó khăn,
vướng mắc, khiếu nại của NNT.
Thứ bảy, góp phần khuyến khích việc khai thác, sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
TNTN khai thác hiện nay hầu hết là tài nguyên không tái tạo được. Vì
vậy, việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên cần phải hợp lý, tiệt kiệm,
hiệu quả để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước song
song với sự phát triển kinh tế bền vững. Với tinh thần đó, trong những năm
qua, UBND cấp tỉnh đã phối hợp cùng với cơ quan thuế và cơ quan tài
nguyên – môi trường trong công tác quản lý tài nguyên thông qua việc ban
hành các văn bản chỉ đạo tới các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên và các
cơ quan có liên quan, hoặc thành lập đoàn liên ngành để kiểm tra các đơn vị
55
khai thác tài nguyên tại địa bàn.
Trong tình hình đó, thuế tài nguyên giúp tập trung nguồn thu cho NSNN
để điều tiết lại toàn bộ cho địa phương nơi khai thác với một phần để đầu tư
cơ sở hạ tầng, một phần để đầu tư cải tạo môi trường nơi khai thác và các khu
vực xung quanh nơi khai thác.
Thứ tám, pháp luật thuế tài nguyên ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính
đồng bộ với các pháp luật thuế khác.
Hiện nay, mức thu thuế tài nguyên đã đảm bảo sự đồng bộ với các sắc
thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu và các khoản thu trực tiếp
khác từ hoạt động khai thác tài nguyên như thu tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản theo Luật Khoáng sản, phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng
sản theo Luật Phí, lệ phí, tiền dịch vụ môi trường rừng theo Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng… Đối với tổ chức, cá nhân quản lý kinh doanh tốt, có năng
lực tài chính, công nghệ, quản lý khai thác đạt tiêu chuẩn được cấp phép khai
thác các loại khoáng sản quý hiếm, quy mô trữ lượng lớn, tổ chức hạch toán
kế toán đầy đủ theo quy định đã thực hiện tốt việc khai, nộp thuế tài nguyên
theo sổ sách kế toán và thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp với các quy định
đăng ký thuế, kê khai, quyết toán, thu, nộp thuế theo quy định của Luật QLT.
Đối với tổ chức, cá nhân hạn chế về năng lực khai thác, quản lý kinh
doanh ở trình độ thấp thì chỉ được cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản ở
quy mô nhỏ, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường thực hiện quản
lý thu thuế theo phương pháp khoán theo quy định. Các cơ chế chính sách
quản lý tài nguyên khoáng sản đã đảm bảo huy động, thu hút các nguồn lực
trong nền kinh tế phục vụ cho sản xuất kinh doanh và điều tiết ngân sách.
Cùng với việc điều chỉnh tăng dần mức thuế suất thuế tài nguyên, quy
định đối tượng không chịu thuế tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên hợp lý
hơn trong thời gian qua đã phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, có tác dụng
56
khuyến khích doanh nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên đầu tư đổi mới
dây chuyền công nghệ trong khai thác, phục vụ chế biến sâu, nâng cao giá trị
sản phẩm. Một số ví dụ về việc hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên, đáp
ứng nhu cầu thực tiễn cụ thể như sau:
- Về việc thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên
Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế tài nguyên đã sửa
đổi về đối tượng chịu thuế tài nguyên để giải quyết vướng mắc trong quan hệ
thương mại quốc tế khi một số nước đã cho rằng việc miễn thuế tài nguyên
đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp là một hình
thức trợ giá; đồng thời, để đảm bảo ổn định đời sống người nông dân và
khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung các Luật về thuế, trong đó đã chuyển nước
thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp từ đối tượng miễn thuế
sang đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Ngoài ra, trong quá trình hoạt
động của các nhà máy nhiệt điện cho thấy: Nước biển được sử dụng nhiều
trong công nghiệp chủ yếu để làm mát hệ thống thiết bị và việc sử dụng nước
biển để làm mát máy vừa đảm bảo đủ nguồn cho hoạt động của nhà máy, vừa
tiết kiệm nước ngọt. Chi phí đầu tư cho nhà máy nhiệt điện làm mát bằng
nước biển thường đắt hơn so với nhà máy nhiệt điện làm mát bằng nước ngọt,
do phải sử dụng các vật liệu chịu được độ ăn mòn cao. Đồng thời, khi sử dụng
công nghệ làm mát bằng nước biển phải đầu tư thêm hệ thống xử lý nước mặn
thành nước lợ với giá thành cao. Theo đó, nếu thu thuế tài nguyên đối với
nước biển sẽ làm tăng giá thành sản xuất, ảnh hưởng đến giá bán điện.
Để khuyến khích các nhà máy nhiệt điện sử dụng nước biển để làm mát
máy, tiết kiệm nguồn nước ngọt, đồng thời đảm bảo không ảnh hưởng đến giá
bán điện, tại Nghị định số 12/2015/NĐ- CP đã đưa nước biển làm mát máy
vào đối tượng không chịu thuế tài nguyên (nước biển làm mát máy phải đảm
57
bảo các yêu cầu về môi trường, về hiệu quả sử dụng nước tuần hoàn và điều
kiện kinh tế kỹ thuật chuyên ngành) và giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với
các Bộ liên quan hướng dẫn cụ thể. Tại Thông tư số 152/2015/TT-BTC đã
hướng dẫn việc xác định nước biển làm mát máy đảm bảo các yêu cầu nêu
trên do Bộ chuyên ngành xác nhận. Nếu sử dụng nước biển nhưng gây ô
nhiễm và không đạt các tiêu chuẩn về môi trường thì bị xử lý theo quy định
tại Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ.
- Về việc thu thuế tài nguyên đối với yến sào thiên nhiên
Trên thực tế, nhiều địa phương có vướng mắc trong việc thu thuế tài
nguyên đối với yến sào thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà nuôi chim
yến để dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác. Theo quy định của
Luật thuế tài nguyên thì thu thuế tài nguyên đối với TNTN, không thu đối với
sản phẩm nuôi trồng nói chung và yến sào do nuôi và khai thác nói riêng. Theo
đó, yến sào do tổ chức, cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để
dẫn dụ chim yến tự nhiên về nuôi và khai thác sẽ không phải nộp thuế tài
nguyên. Vì vậy, để đảm bảo cơ sở pháp lý và thống nhất trong quá trình thực
hiện, tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP đã bổ sung quy định "yến sào do tổ
chức, cá nhân thu được từ hoạt động đầu tư xây dựng nhà để dẫn dụ chim yến
tự nhiên về nuôi và khai thác” không thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên.
- Về giá tính thuế tài nguyên
Thông tư số 152/2015/TT-BTC cũng sửa đổi quy định về giá tính thuế
tài nguyên trong một số trường hợp, trong đó cho phép loại trừ khỏi giá tính
thuế tài nguyên chi phí vận chuyển nếu tài nguyên được vận chuyển đi tiêu
thụ và chi phí vận chuyển được ghi nhận riêng trên hóa đơn (trước đây không
được giảm trừ); Đối với tài nguyên xuất khẩu, giá tính thuế tài nguyên là giá
bán tài nguyên tại cửa khẩu xuất không bao gồm thuế xuất khẩu (trước đây
không được giảm trừ). Quy định cụ thể hơn giá tính thuế tài nguyên đối với
58
trường hợp tài nguyên không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán
ra (bán sản phẩm công nghiệp: giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm
công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ sản
phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp nhưng không thấp hơn giá tính
thuế do UBND cấp tỉnh quy định. Chi phí này được xác định căn cứ vào công
nghệ chế biến của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt (không bao
gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng).
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam
Việc khai thác tài nguyên thường đem lại lợi nhuận kinh tế cao, do đó
thu thuế đối với hoạt động khai thác TNTN luôn gặp nhiều khó khăn, phức
tạp do nhiều nguyên nhân như địa bàn quản lý rộng lại có địa hình phức tạp;
đối tượng khai thác nhỏ, lẻ, khai thác trái phép khó quản lý, hệ thống chính
sách còn nhiều vướng mắc, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan
quản lý nhà nước trong hoạt động QLT tài nguyên. Vì vậy, bên cạnh những
kết quả đạt được nêu trên, quá trình thực hiện pháp luật QLT tài nguyên còn
có những tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thuế tài nguyên vẫn chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu
của Nhà nước trong công tác quản lý khai thác tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
Mặc dù pháp luật QLT tài nguyên từng bước được hoàn thiện, Luật
thuế tài nguyên được ban hành năm 2009 cũng đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
so với pháp lệnh thuế tài nguyên trước đó, đáp ứng điều kiện phát triển kinh tế
của đất nước, song việc khai thác bừa bãi tài nguyên, khai thác tài nguyên
ngoài sự quản lý của cơ quan nhà nước vẫn còn diễn ra. Trong đó phải kể đến
hoạt động khai thác, chặt phá rừng tự nhiên, vô tổ chức làm ảnh hướng xấu
đến môi trường cũng như cuộc sống con người hay nạn khai thác than nhỏ, lẻ
ngoài sự quản lý làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hoặc việc chia nhỏ dự án khai
59
thác mỏ quặng để tránh việc thẩm định, trốn tránh sự kiểm soát về sản lượng
để thu lợi riêng … Từ đó làm thất thu thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường,
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên hiện nay còn bộc lộ một
số hạn chế, vướng mắc.
Thời gian qua chính sách thu thuế tài nguyên đã đạt được nhiều kết quả
và mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình đưa vào thực hiện ở các địa
phương, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đã nảy ra những vấn đề còn tồn
tại, vướng mắc sau đây:
Một là, vướng mắc trong xác định đối tượng chịu thuế, sản phẩm tính
thuế tài nguyên. Trong quá trình thực thi quy định của pháp luật thuế tài
nguyên, NNT cũng như cơ quan thuế gặp một số khó khăn, vướng mắc liên
quan đến việc xác định đối tượng chịu thuế và sản phẩm tính thuế tài nguyên
dẫn tới sự chậm trễ trong việc kê khai, nộp thuế tài nguyên. Một số dẫn chứng
cụ thể như sau:
- Tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế
tài nguyên quy định đối tượng chịu thuế, trong đó có “sản phẩm của rừng tự
nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự
nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do NNT trồng tại khu vực
rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ”. Thực tế cho thấy, các sản
phẩm này khi mang ra khỏi rừng để tiêu thụ thì khó có thể phân biệt đâu là
sản phẩm của rừng tự nhiên, đâu là sản phẩm nuôi trồng. Hơn nữa, việc kiểm
soát khai thác có ở trong khu khoanh nuôi trồng hay không là bất khả thi.
Chưa kể đến việc một số loại cây ví dụ như sa nhân thì luôn tự mọc hoặc
được trồng dưới tán của cây rừng tự nhiên nên không thể xác định được khu
nào mọc tự nhiên, khu nào là rừng trồng. Dẫn tới việc phân biệt để xác định
60
đối tượng chịu thuế đối với các sản phẩm này thực sự khó khăn.
- Trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên hiện đang sử
dụng những cụm từ, thuật ngữ không thống nhất, khó xác định để chỉ sản
phẩm được chế biến từ tài nguyên khai thác mà không có định nghĩa hay giải
thích cụ thể nên rất vướng mắc trong xác định đối tượng cũng như phương
pháp tính thuế tài nguyên. Thí dụ như, cụm từ “sản phẩm khác” được quy
định tại Khoản 3 Điều 5 Luật thuế tài nguyên và cụm từ “sản phẩm công
nghiệp” tại Khoản 3 Điều 5 Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn về
thuế tài nguyên. Tuy nhiên, trong luật và các văn bản hướng dẫn đều không
có giải thích khái niệm “sản phẩm khác” và “sản phẩm công nghiệp” là gì?
“Sản phẩm công nghiệp” hướng dẫn tại Thông tư có phải là “sản phẩm khác”
theo quy đinh của Luật không? Hầu hết TNTN khai thác đều phải qua sản
xuất, chế biến. Qua mỗi khâu sản xuất thì hàm lượng, thành phần của tài
nguyên đều có sự thay đổi. Do đó, việc xác định tài nguyên đã qua chế biến
thành sản phẩm khác là vấn đề rất phức tạp. Các quy định nêu trên thực tế đã
làm cho cho cơ quan thuế cũng như NNT khó khăn trong quá trình áp dụng
tính thuế tài nguyên của các sản phẩm liên quan, thậm chí dẫn đến những
tranh cãi, kiện cáo xung quanh vấn đề xác định đối tượng và phương pháp
tính thuế cho những sản phẩm này. Mặc dù Thông tư số 152/2015/TT-BTC có
quy định việc xác định sản phẩm bán ra sau quá trình sản xuất, chế biến là sản
phẩm công nghiệp hay không phải sản phẩm công nghiệp sẽ do Bộ quản lý
chuyên ngành xác nhận theo thẩm quyền nhưng lại không quy định rõ Bộ
chuyên ngành là Bộ nào nên không biết chính xác Bộ nào xác định thì mới là
đúng chức năng thẩm quyền để có giá trị về pháp lý, tăng thủ tục hành chính
cho NNT. Mặt khác, mỗi lần phải chờ Bộ quản lý chuyên ngành xác định tài
nguyên sau quá trình sản xuất, chế biến có phải là sản phẩm công nghiệp hay
không là khoảng thời gian dài gây ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất
61
kinh doanh của doanh nghiệp và thuế cũng phải xác định lại khi có trả lời
chính thức với hai phương pháp tính thuế cũng như số liệu thuế phải nộp rất
khác nhau dẫn đến khó khăn cho cơ quan thuế và NNT trong quá trình triển
khai thực hiện. Về khái niệm “sản phẩm công nghiệp”: Bộ Công Thương cho
rằng Thông tư số 152/2015/TT-BTC quy định khái niệm “sản phẩm công
nghiệp” có tính chung chung, do bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất, chế
biến bằng quá trình công nghiệp cũng được gọi là sản phẩm công nghiệp.
Khai khoáng là ngành công nghiệp nên sản phẩm của khai thác khoáng sản
đều có thể coi là sản phẩm công nghiệp. Yêu cầu xác nhận này là gây phiền
hà và làm khó cho các Bộ. Nếu xác nhận theo danh mục này thì số lượng các
sản phẩm tài nguyên là sản phẩm công nghiệp được trừ chi phí rất lớn.
- Tại các văn bản luật thuế tài nguyên quy định về thuế suất và giá tính
thuế đối với loại tài nguyên felspat và fenspat không thống nhất với nhau.
Chẳng hạn, tại Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 quy định biểu mức thuế
suất thuế tài nguyên chỉ quy định thuế suất cụ thể đối với tài nguyên fenspat;
tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC hướng dẫn thuế tài nguyên lại quy định
khung giá tính thuế đối với cả felspat và fenspat; tuy nhiên tại Thông tư số
05/2020/TT-BTC sửa đổi Thông tư số 44/2017/TT-BTC nói trên lại chỉ quy
định khung giá tính thuế đối với fenspat, chuyển fenspat từ nhóm tài nguyên
mã II23 sang nhóm tài nguyên mã II1103 (như theo quy định tại Thông tư số
44/2017/TT-BTC) đồng thời bỏ quy định đối với felspat tại nhóm tài nguyên
mã II1103. Việc quy định lẫn lộn giữa felspat và fenspat giữa các văn bản luật
dẫn đến việc lúng túng khi áp dụng để tính thuế tài nguyên.
Hai là, vướng mắc trong quy định về người nộp thuế tài nguyên
Về quy định NNT trong pháp luật thuế tài nguyên cũng gây ra nhiều
bất cập trên thực tế, cụ thể như sau:
- Quy định về NNT trong trường hợp khai thác nhỏ, lẻ của Luật thuế tài
62
nguyên là bất cập và chưa phù hợp với quy định của Luật Khoáng sản. Để
được phép khai thác khoáng sản theo quy định của Luật khoáng sản thì tổ
chức, cá nhân, hộ gia đình phải đáp ứng được các điều kiện khắt khe tại
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 53 Luật này. Các điều kiện này nghiêm ngặt đến
mức mà dường như chỉ có tổ chức mới có đủ khả năng để được cấp phép khai
thác khoáng sản. Trong khi đó, các hoạt động khai thác khoáng sản nhỏ lẻ
trên thực tế hầu hết là khai thác trái phép các loại khoáng sản có giá trị (vàng,
than đá, đá quý...) mà không được cơ quan nhà nước cấp phép khai thác. Do
đó, quy định của Luật thuế Tài nguyên về việc “tổ chức, cá nhân khai thác
nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ chức, cá nhân
làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc khai nộp thuế
tài nguyên cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu
mua là NNT” là không phù hợp với Luật Khoáng sản và sẽ vô tình hợp thức
hóa các nguồn tài nguyên khai thác trái phép.
Thêm vào đó, tại Thông tư số 152/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính
hướng dẫn về thuế tài nguyên cũng chỉ hướng dẫn về NNT trong trường hợp
được cấp phép khai thác khoáng sản mà bỏ qua NNT trong trường hợp khai
thác nhỏ, lẻ nói trên. Việc quy định thiếu sót và không thống nhất này đã gây
ra rất nhiều khó khăn, vướng mắc cho cơ quan thuế khi xử lý các trường hợp
cụ thể. Ngoài ra, việc quy định về NNT thay trong trường hợp tài nguyên khai
thác nhỏ, lẻ nhưng không có qui định điều kiện ràng buộc nộp thuế hay chế
tài cụ thể đối với trường hợp không chứng minh được nguồn gốc tài nguyên
thu mua đã được đã nộp thuế tài nguyên nên thiếu tính khả thi, khó khăn cho
cơ quan thuế. Thậm chí quy định này còn có thể gây ra tình trạng lợi dụng
trốn thuế tài nguyên làm thất thu NSNN thông qua việc tuồn tài nguyên khai
thác qua các tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua chỉ lập bảng kê thu mua
nhưng không cam kết nộp thay hoặc không có hóa đơn chứng minh nguồn
63
gốc tài nguyên thu mua đã được nộp thuế tài nguyên.
Còn việc bỏ đối tượng này tại Thông tư số 152 lại làm bỏ sót NNT vì khi
tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC
được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 96/2015/TT-BTC thì việc mua đất, đá,
cát, sỏi của hộ gia đình, cá nhân tự khai thác trực tiếp bán ra vẫn được tính là
chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nếu NNT lập bảng kê
01/TNDN theo quy định tại Thông tư số 78/2014/TT-BTC.
- Quy định về NNT trong trường hợp khai thác nước với quy mô nhỏ
phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa được hướng dẫn rõ ràng gây
khó khăn trong công tác quản lý thu thuế. Như đã đề cập ở trên, Thông tư số
152/2015/TT-BTC chỉ hướng dẫn về NNT trong trường hợp được cấp phép
khai thác khoáng sản. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 44 của Luật tài
nguyên nước và Điều 16 Nghị định số 201/2013/NĐ-CP thì còn các trường
hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước với quy mô nhỏ cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ không phải đăng ký, không phải xin phép. Như vậy, còn tồn
tại những trường hợp được khai thác tài nguyên hợp pháp mà không cần cấp
giấy phép khai thác tài nguyên nhưng văn bản quy phạm pháp luật lại chưa có
hướng dẫn về NNT gây cách hiểu và cách làm khác nhau trong quá trình thực
hiện như: một số địa phương cho rằng không có căn cứ để yêu cầu người khai
kê khai nộp thuế nên buông lỏng quản lý gây thất thu NSNN và lãng phí tài
nguyên, có địa phương lại cho rằng khai thác tài nguyên là phải được cho
phép nên yêu cầu phải có xác nhận về việc được phép khai thác, dẫn tới gây
phiền hà cho NNT.
Ba là, vướng mắc về cách xác định sản lượng tính thuế tài nguyên
Theo quy định của pháp luật về thuế tài nguyên thì sản lượng tài
nguyên tính thuế có thể là: (i) Số lượng, khối lượng, trọng lượng tài nguyên
thực tế khai thác trong kỳ (ii) Khối lượng của từng chất thu được sau khi sàng
64
tuyển, phân loại, làm giầu (iii) Sản lượng sản phẩm công nghiệp sản xuất
trong kỳ và định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm (iv)
đối với quặng đa kim được xác định sản lượng và tính thuế tài nguyên theo
từng chất căn cứ sản lượng quặng thực tế khai thác và tỷ lệ từng chất có trong
tài nguyên khai thác. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện đã phát sinh một số
vướng mắc lớn như sau:
- Do hướng dẫn xác định sản lượng chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến có
trường hợp doanh nghiệp vẫn áp dụng cách xác định sản lượng từ Thông tư số
105/2010/TT-BTC (quy đổi về sản lượng nguyên khai) hoặc tự xác định theo
cách hiểu của doanh nghiệp. Tình trạng này thường gặp đối với hoạt động
khai thác đá làm vật liệu xây dựng. Ví dụ: Cùng trên địa bàn Bình Thuận,
cùng thực hiện hoạt động tương tự như nhau: khai thác đá theo phương pháp
nổ mìn, sau đó đưa vào nghiền thành đá dăm các ly khác nhau và bán. Nhưng
Công ty cổ phần khoáng sản và vật liệu xây dựng Bình Thuận thì kê khai sản
lượng tính thuế tài nguyên theo sản lượng từng loại đá dăm ly xuất bán và giá
tính thuế là giá bán trên hoá đơn chưa có thuế GTGT; Còn Công ty cổ phần
Tà Zôn thì lại tính sản lượng tài nguyên tính thuế là tổng sản lượng các loại
dăm ly quy về đá hộc trong kỳ tính thuế, và sử dụng giá tính thuế là giá trong
Bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND tỉnh ban hành có hiệu lực trong kỳ
tính thuế. Dẫn tới, cùng một trữ lượng đá khai thác cho hai kết quả về sản
lượng và giá tính thuế khác nhau.
- Tại khoản 1 Điều 5 Thông tư 152/2015/TT-BTC hướng dẫn thuế tài
nguyên về sản lượng tài nguyên tính thuế:
Đối với loại tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng
lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số
lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác
trong kỳ tính thuế. Trường hợp tài nguyên khai thác thu được sản
phẩm tài nguyên có nhiều cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại
65
khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo sản
lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất lượng, giá trị
thương mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có
sản lượng bán ra lớn nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính
thuế cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong kỳ.
Ví dụ 1: Doanh nghiệp A khai thác đá sau nổ mìn, khai thác thu được
đá hộc, đá dăm các ly khác nhau thì được phân loại theo từng cấp độ,
chất lượng từng loại đá thu được để xác định sản lượng đá tính thuế
của mỗi loại. Trường hợp, doanh nghiệp A có bán một phần sản lượng
đá hộc, số đá hộc, đá dăm còn lại được đưa vào đập, nghiền thành các
loại đá dăm có các cỡ (ly) khác nhau thì sản lượng tính thuế được xác
định bằng cách quy từ sản lượng đá các cỡ (ly) ra sản lượng đá có sản
lượng bán ra lớn nhất để xác định sản lượng đá thực tế khai thác để
tính thuế tài nguyên. Doanh nghiệp A thực hiện khai, nộp thuế đối với
sản lượng đá khai thác theo giá bán tương ứng.
Quy định trên đã làm nảy sinh một số vấn đề như sau:
(i) Cùng một trữ lượng khoáng sản khai thác thì có rất nhiều loại giá,
nhiều loại sản lượng tính thuế khác nhau dẫn đến số thuế tài nguyên phải nộp
của mỗi doanh nghiệp hoặc mỗi phương pháp khai thác khác nhau là khác nhau.
(ii) Bộ xây dựng và Sở xây dựng thì chỉ xây dựng tỷ lệ quy đổi từ đá
nguyên khai (đá khối) ra các đá kích thước dăm ly khác nhau, chứ không quy
định tỷ lệ quy đổi giữa các loại đá. Nhưng trong Thông tư của Bộ Tài chính
không có quy định về xác định tỷ lệ quy đổi như thế nào hay cơ quan nào có
thẩm quyền xác định tỷ lệ quy đổi giữa các sản lượng khoáng sản này nên
không biết thực hiện thế nào là đúng?
(iii) Thuế tài nguyên là loại kê khai theo tháng, quyết toán theo năm
nên việc quy định như trên đối với người khai thác sau đó đưa vào chế biến
66
thành các loại đá có kích thước khác nhau rồi mới bán sẽ dẫn tới hàng tháng
NNT sẽ phải quy đổi ra sản lượng của loại đá bán ra lớn nhất của từng tháng,
tính thuế tài nguyên theo giá của loại đó từng tháng; cuối năm lại phải tính
tổng lại xem loại nào bán ra sản lượng lớn nhất trong năm rồi lại phải tính lại
thuế theo giá của loại đó để điều chỉnh. Cách tính này quá phức tạp, không rõ
đạo lý, gây phiền hà cho NNT và cơ quan thuế khó kiểm soát.
- Chưa có hướng dẫn đối với sản lượng tài nguyên (than) nguyên khai
tồn kho chưa xác định được phần nào bán cho công ty tuyển than để thực hiện
sàng tuyển, chế biến. Quy định tại Thông tư số 152 đối với trường hợp tài
nguyên khai thác phải qua sàng tuyển, phân loại mới bán ra chỉ áp dụng được
với các doanh nghiệp khai thác trực tiếp sàng tuyển để bán ra. Chưa có quy
định sản lượng tài nguyên tính thuế đối với trường hợp tài nguyên được khai
thác, chế biến, sàng tuyển, phân loại rồi mới bán ra nhưng quy trình khai thác,
sàng tuyển, phân loại, chế biến do nhiều đơn vị trong Tập đoàn, Tổng công ty
thực hiện như trường hợp của Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam (TKV).
Hiện nay, TKV là đơn vị khai thác tài nguyên lớn nhất cả nước, là đơn vị
được giao quản lý tài nguyên khoáng sản với mô hình khai thác, sàng tuyển,
chế biến, tiêu thụ được thực hiện bởi nhiều đơn vị qua nhiều khâu, nhiều công
đoạn như sau: Khâu khai thác do các mỏ (các công ty khai thác) thực hiện;
khâu sàng tuyển, chế biến do các công ty tuyển than hoặc các công ty khai
thác thực hiện; khâu tiêu thụ do các công ty kho vận thực hiện. Một phần than
nguyên khai khai thác sẽ được tổ chức sàng tuyển, chế biến tại mỏ, phần còn
lại (phần lớn) thực hiện sơ tuyển tại mỏ và giao cho các nhà máy tuyển thực
hiện sàng tuyển, chế biến. Trường hợp này, sản lượng than tính thuế là sản
lượng than sạch đã qua sàng tuyển, phân loại nhưng NNT tài nguyên là đơn vị
khai thác lại không thực hiện sàng tuyển.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định 12/2015/NĐ-CP thì giá
67
tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng
tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó. Trường hợp điển hình của Cty
TNHH khai thác mỏ Núi Pháo như sau:
Quặng Wonfram mỏ Núi Pháo là loại quặng đa kim quý hiếm, qua một
khối lượng quặng đưa vào dây chuyền sản xuất sẽ cho ra 4 sản phẩm công
nghiệp khác nhau đều đã được Bộ Công Thương xác nhận là sản phẩm công
nghiệp khác, gồm: Đồng, Busmuth, Wonfram, Fluorite.
Nghiên cứu quy trình sản xuất của Công ty TNHH mỏ Núi Pháo:
Về mặt sản lượng thì với một khối lượng quặng mỏ Núi Pháo qua sàng,
đập, nghiền đưa vào dây chuyền sản xuất: công đoạn 1 làm đặc quặng nghiền
và tuyển nổi thu được tinh quặng đồng ở cuối công đoạn 1; đuôi quặng sau
công đoạn 1 tiếp tục được đưa vào dây chuyền chế biến công đoạn 2, dùng
hoá chất, công nghệ tuyển nổi, lọc thu được sản phẩm Busmuth ở cuối công
đoạn 2; đuôi quặng sau công đoạn 2 tiếp tục được đưa vào dây chuyền chế
biến công đoạn 3, qua tuyển trọng lực, tuyển nổi tách và thu được sản phẩm
Wonfram ở công đoạn 3; phần đuôi quặng còn lại sau công đoạn 3 tiếp tục
được đưa vào dây chuyền chế biến công đoạn 4 dùng trọng lực, công nghệ
tuyển nổi thu được sản phẩm Fluorite. Phần đuôi quặng còn lại thải ra đập
chứa đuôi quặng có ngăn ôxit để tránh ô nhiễm môi trường.
Trên toàn thế giới, không có giá bán quặng Wonfram vì đây là khoáng
sản quý hiếm chỉ có vài nước có nên các nước hoặc không cho khai thác để
dành cho con cháu hoặc khai thác thì đều qua chế biến ra sản phẩm có giá trị
kinh tế cao rồi mới bán, do đó, thuế tài nguyên sẽ tính theo từng chất. Tuy
nhiên, phát sinh vướng mắc các chất thu được đều là sản phẩm công nghiệp
khác, không phải là sản phẩm tài nguyên vậy thì sản lượng tài nguyên để tính
tương ứng với khâu xác định giá tính thuế tài nguyên xác định thế nào chưa
có hướng dẫn cụ thể, và không thể xác định được giá tính thuế tài nguyên của
68
quặng Wonfram. Như vậy, quy định về tính sản lượng nêu trên phát sinh
vướng mắc trong trường hợp dây chuyền sản xuất liên hoàn cho ra các sản
phẩm công nghiệp khác ở các khâu khác nhau của dây chuyền. Trên cùng một
khối lượng nguyên liệu tài nguyên khai thác thô là quặng đa kim sản xuất theo
dây chuyền công nghệ khép kín cho ra nhiều sản phẩm công nghiệp khác
nhau ở từng công đoạn khác nhau, và do mỏ khoáng sản hình thành tự nhiên
nên tỷ lệ các chất có trong quặng ở từng vỉa khai thác có sự khác nhau lớn nên
khó có cơ sở để xác định được mức sử dụng tài nguyên của từng sản phẩm
(từng chất có trong quặng tài nguyên) để làm căn cứ chuyển đổi từ sản phẩm
cuối cùng thành khoáng sản nguyên khai. Khó xác định “điểm dừng” nào thì
sản phẩm vẫn còn là tài nguyên chưa thành sản phẩm khác để xác định giá và
sản lượng tương ứng.
- Cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc xác định sản lượng tài nguyên
thực tế mà doanh nghiệp khai thác. Theo quy định của pháp luật khoáng sản
thì tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có trách nhiệm thống kê, kiểm kê
sản lượng khoáng sản đã khai thác thông qua việc lập sổ sách chứng từ làm cơ
sở xác định sản lượng thực tế, báo cáo cơ quan thuế và chịu trách nhiệm về số
liệu thống kê. Sản lượng tài nguyên thực tế khai thác do các doanh nghiệp kê
khai, báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước theo cơ chế tự khai, tự nộp.
Việc giám sát của cơ quan quản lý đối với kê khai tính thuế tài nguyên của
doanh nghiệp, đặc biệt là tài nguyên có giá trị kinh tế cao như: chì, kẽm, vàng,
đồng, đá quý, đất hiếm… gặp rất nhiều khó khăn vì các mỏ được cấp phép
đều nằm ở vùng sâu, vùng xa, loại quặng này thường được vận chuyển lên
biên giới để xuất tiểu ngạch. Do đó cơ quan quản lý gặp rủi ro lớn trong việc
thất thoát thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường… Mặt khác, thuế tài nguyên
tính trên sản lượng thực tế khai thác do người khai thác khai báo cho nên chưa
khuyến khích tận dụng hết tài nguyên trong khai thác chế biến. Thậm chí, vẫn
còn khá phổ biến việc nhiều tài nguyên có giá trị thấp bị các doanh nghiệp bỏ
69
lại nơi khai thác, chẳng hạn như khai thác đá hoa trắng thu hồi đạt dưới 10%
trữ lượng khai thác đối với loại đá BLOK để xẻ tấm và tiêu thụ nguyên khối,
doanh nghiệp chỉ cần bán số sản phẩm này cũng đã thu về lợi nhuận tới 50%
tổng doanh thu (giá bán đá hoa trắng BLOK xẻ tấm là 35-40 triệu đồng/m3,
còn nguyên khối là gần 20 triệu đồng/m3); theo đó, doanh nghiệp không cần
tận dụng số sản phẩm chất lượng thấp mà bỏ tại bãi để không phải đóng thuế
tài nguyên và phí bảo vệ môi trường.
Tóm lại, theo cơ chế QLT tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm về số
liệu kê khai thì cơ quan thuế không có chức năng và không có chuyên môn để
xác định tại hiện trường đối với sản lượng thực tế doanh nghiệp đã khai thác
để so sánh, đối chiếu với sản lượng doanh nghiệp kê khai tính, nộp thuế tài
nguyên trong khi cơ quan tài nguyên và môi trường địa phương cũng không
có biện pháp kiểm tra số liệu sản lượng mà doanh nghiệp thực tế khai thác.
Việc bỏ ngỏ quản lý sản lượng tài nguyên thực tế khai thác dẫn đến rủi ro về
thất thu NSNN do chưa có cơ chế kiểm tra, kiểm soát và quản lý chặt chẽ về
sản lượng tài nguyên thực tế khai thác.
Bốn là, vướng mắc về giá, khung giá tính thuế tài nguyên
Về việc xác định giá tính thuế tài nguyên đối với trường hợp tài nguyên
khai thác lên phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra: Mặc dù tại Thông tư số
152/2015/TT-BTC đã quy định cụ thể cách xác định giá tính thuế đối với tài
nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra
(bán trong nước hoặc xuất khẩu), cụ thể là: (i) giá bán đơn vị sản phẩm tài
nguyên hoặc trị giá hải quan của sản phẩm tài nguyên trong trường hợp sản
phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên (chưa phải là sản phẩm công nghiệp); (ii)
là giá bán sản phẩm công nghiệp trừ đi chi phí chế biến phát sinh của công
đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp trong
trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp. Tuy nhiên, về bản chất
70
tài nguyên khai thác đưa vào sản xuất, chế biến thành sản phẩm tài nguyên
(chưa phải là sản phẩm công nghiệp) hay sản phẩm công nghiệp đều phải qua
quy trình luyện, làm giàu và chế biến (ở các mức độ khác nhau), trong đó đã
bao gồm phần giá trị gia tăng được tạo ra từ phần vốn đầu tư của doanh
nghiệp. Ngoài ra, ranh giới giữa sản phẩm tài nguyên và sản phẩm công
nghiệp là không nhiều, ví dụ đối với quặng sắt nguyên khai khi khai thác lên
thì hàm lượng sắt có thể chỉ chiếm từ 17% -20%, tuy nhiên sau quá trình sàng
tuyển, làm giàu (với chi phí cao) có thể thu được tinh quặng sắt có hàm lượng
đạt tới 60% -70%, nhưng vẫn chưa thành sản phẩm khác; tuy nhiên đối với
quặng nikel, từ quặng thô qua công đoạn 1 (khai thác, đập, nghiền, tuyển) cho
ra quặng có hàm lượng 1,94%Ni; qua công đoạn 2 (chế biến, luyện, tách sản
phẩm) cho ra sản phẩm: tinh quặng Nikel hàm lượng Ni≥9,5% thì đã được
xác định là tài nguyên, khoáng sản đã qua chế biến thành sản phẩm khác. Do
đó, trường hợp công nghệ càng tiên tiến, chi phí đầu tư vào khâu sản xuất, chế
biến càng lớn thì giá tính thuế tài nguyên càng cao. Nếu chỉ cho trừ chi phí
chế biến từ công đoạn chế biến từ sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công
nghiệp trong trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm công nghiệp thì sẽ chưa
khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất, chế
biến để nâng cao giá trị sản phẩm tài nguyên. Đồng thời chưa phản ánh đúng
bản chất của thuế tài nguyên là đánh vào tài nguyên khai thác.
Về giá tính thuế tài nguyên đối với trường hợp tài nguyên khai thác đã
được chế biến thành sản phẩm công nghiệp khác rồi mới bán ra được xác định
trên cơ sở lấy giá bán trừ chi phí chế biến. Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 6
Thông tư 152/2015/TT-BTC thì đối với tài nguyên đã qua chế biến thành sản
phẩm khác (sản phẩm công nghiệp) thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản
phẩm công nghiệp trừ chi phí chế biến phát sinh của công đoạn chế biến từ
sản phẩm tài nguyên thành sản phẩm công nghiệp căn cứ công nghệ chế biến
71
của doanh nghiệp theo Dự án đã được phê duyệt nhưng không bao gồm chi
phí khai thác, sàng, tuyển, làm giàu hàm lượng, như vậy: Cùng một loại tài
nguyên khai thác, chế biến nhưng hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp
cùng ngành nghề khác nhau, phụ thuộc vào trình độ quản lý kinh doanh và
công nghệ chế biến, dẫn tới hệ quả là nếu doanh nghiệp tự xác định mức chi
phí khâu chế biến sản phẩm công nghiệp thì mỗi doanh nghiệp có mức chi phí
khác nhau, giá tính thuế tài nguyên không đồng nhất, dẫn đến số thuế tài
nguyên phải nộp khác nhau dẫn đến không bình đẳng về nghĩa vụ thuế, doanh
nghiệp quản lý chi phí sản xuất chế biến kém thì chi phí được trừ nhiều hơn,
giá tính thuế thấp, số thuế phải nộp ít hơn doanh nghiệp quản lý tốt chi phí.
Nếu quy định một mức chi phí khâu chế biến sản phẩm công nghiệp dẫn đến
không khuyến khích doanh nghiệp nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công
nghệ để chế biến tài nguyên hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, quy định giá bán trừ
chi phí chế biến nhưng không bao gồm chi phí khai thác, sàng, tuyển, làm
giàu hàm lượng thì theo đó: (i) Sản xuất sản phẩm công nghiệp thì việc khai
thác, đập nghiền, sàng, tuyển chỉ để phục vụ cho khâu chế biến tiếp theo. (ii)
Dây chuyền chế biến là dây chuyền khép kín từ khâu đập nghiền đến tuyển
quặng và tách sản phẩm thương mại. (iii) Giá tính thuế tài nguyên là giá bán
đơn vị sản phẩm, có độ lệch rất lớn so với giá trị khai thác khoáng sản theo
khối địa chất đã duyệt. Hướng dẫn này không phù hợp với nguyên tắc “sản
lượng nào giá tính thuế đó” theo Nghị định số 12/2015/NĐ-CP.
Về giá tính thuế được trừ đối với chi phí vận chuyển.
Hiện tại Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC quy định giá tính thuế
tài nguyên là giá bán chưa có thuế GTGT ghi trên hoá đơn, đối với trường
hợp trên hóa đơn bán hàng có tách bạch được chí phí vận chuyển riêng thì sẽ
được trừ chí phí vận chuyển. Thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng thuê
phương tiện vận chuyển hay xác định riêng giá vận chuyển vì doanh nghiệp
72
khai thác khoáng sản thường không đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải. Do
đó, nhiều doanh nghiệp khai thác chế biến tài nguyên bán hàng theo phương
thức giao hàng đến tận người mua, giá bán bao gồm cả chi phí vận chuyển.
Chi phí vận chuyển này tuy doanh nghiệp không ghi trên hoá đơn bán hàng
(do không phải là đơn vị kinh doanh vận tải) nhưng doanh nghiệp có đầy đủ
chứng từ chứng minh và hạch toán riêng, rõ ràng trong chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, thế nhưng lại bị cộng vào giá tính thuế tài nguyên
dẫn tới không công bằng và không đúng đạo lý trong xác định giá tính thuế
của cùng một loại tài nguyên nhưng có hợp đồng bán liên quan đến phương
thức chuyên chở, giao hàng khác nhau.
Về khung giá tính thuế tài nguyên đối với các loại tài nguyên có cùng
tính chất lý, hoá giống nhau.
Theo Thông tư số 44/2017/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số
05/2020/TT-BTC) quy định khung giá tính thuế đối với các loại tài nguyên có
tính chất lý, hoá giống nhau có tác dụng làm “kim chỉ nam” cho các địa
phương có căn cứ ban hành Bảng giá tính thuế áp dụng cụ thể tại địa phương.
Tuy nhiên, trong phân loại của Khung giá còn nhiều bất cập khi áp dụng do
nhiều nguyên nhân, cụ thể:
- Một số loại tài nguyên hàm lượng, chủng loại quy định không phù
hợp với sản phẩm thực tế của các địa phương khác nhau nên giá không phù
hợp, hoặc còn thiếu chủng loại nên chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Khung
nghiên cứu giá: Khung giá đá hoa trắng quy định trên cơ sở giá đá của Yên
Bái. Thực tế, đá hoa trắng ở Quỳ Hợp Nghệ An và đá hoa trắng ở Yên Bái
cùng một khung. Tuy nhiên, do niên đại hình thành và điều kiện kiến tạo khác
nhau nên chất lượng đá của hai tỉnh này hoàn toàn khác nhau, việc quy định
cùng một khung giá dẫn tới vướng mắc trong thực hiện.
Đối với giá tính thuế quặng Apatit tại Lào Cai. Tại Khung giá kèm theo
73
Thông tư 44/2017/TT-BTC, quy định: Apatit loại I, khung giá từ 1.400.000 –
1.700.000 đ/tấn; Apatit loại II, khung giá từ 850.000 – 1.100.000 đ/tấn; Apatit
loại III, khung giá từ 350.000 – 500.000 đ/tấn; Apatit loại tuyển, khung giá từ
1.100.000 – 1.400.000 đ/tấn; không quy định quặng bột hay quặng cục.
Tại Quyết định số 525/QĐ-UBND, quy định: Quặng Apatit loại I, giá
tính thuế tài nguyên là 1.400.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại II, giá tính thuế
tài nguyên là 850.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại tuyển, giá tính thuế tài
nguyên là 1.100.000 đồng/tấn; Quặng Apatit loại III, giá tính thuế tài nguyên
là 350.000 đồng/tấn; không quy định cụ thể quặng cục hay quặng bột.
Thực tế trên địa bàn tỉnh Lào Cai, hiện nay phát sinh quặng bột, quặng
cục khác nhau, tương ứng với giá khác nhau: (i) Công ty TNHH MTV Apatit
Việt Nam: giá bán bình quân 06 tháng năm 2017: Quặng 1 bột là 868.369
đồng/tấn; Quặng 1 cục là 1.503.320 đồng/tấn; Quặng loại 2 là 803.175
đồng/tấn; Quặng tuyển là 954.740 đồng/tấn; Qua khảo sát doanh thu đối với
quặng loại 3 là không phát sinh, quặng loại 3 không có giao dịch trên thị
trường. (ii) Công ty cổ phần Vạn Thắng: giá bán bình quân 06 tháng năm
2017: Quặng 1 bột là 792.573 đồng/tấn; Quặng 1 cục là 1.303.028 đồng/tấn;
Quặng loại 2 là 550.000 đồng/tấn; Quặng loại 3 có hàm lượng P2O5 thấp nên
không có khách mua, hiện tại Công ty còn tồn kho hơn 145.000 tấn quặng 3
và từ khi đi vào khai thác đến nay chưa bán được tấn nào. (iii) Công ty CP ĐT
Apatit Tam Đỉnh Lào Cai: Khai thác quặng Apatit Tam Đỉnh – Làng Phúng
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh từ tháng 9/2016. Giá bán bình quân 06
tháng đầu năm 2017 đối với quặng 1 cục là 1.082.472 đồng/tấn, quặng 1 bột
là 674.759 đồng/tấn.
Từ những phân tích như trên, giá quặng Apatit trên địa bàn tỉnh Lào
Cai được phân ra cụ thể từng loại bột hay cục và có giá chênh lệch là lớn.
Như vậy, đối chiếu với quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC thì
74
Khung giá tính thuế tài nguyên còn một số mức giá quy định không phù hợp,
thiếu quy định cho một số loại tài nguyên mới như quặng loại 1 dạng cục, giá
tính thuế tài nguyên là 1.550.000 đ/tấn (bình quân khung giá) và quặng loại 1
dạng bột, giá tính thuế tài nguyên là 850.000 đồng/tấn; Quặng loại 2 là
850.000đ/tấn, Quặng loại 3 là 350.000đ/tấn, Quặng tuyển là 1.100.000đ/tấn.
- Một số loại lại được quy định ở nhiều dòng khung khác nhau với mức
giá chênh lệch lớn nên không thống nhất trong áp dụng.
Ví dụ: Theo quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC, quy định, tại
cấp 3 V102: Nước thiên nhiên tinh lọc đóng chai, đóng hộp, trong đó cấp 4
V10201 (nước thiên nhiên tinh lọc, đóng chai, đóng hộp) và V10202 (nước
thiên nhiên tinh lọc, đóng chai, đóng hộp) có tên nhóm, loại giống nhau,
khung giá lại quy định khác nhau.
- Khung tối thiểu còn chưa phù hợp, trong một số trường hợp là quá
cao so với thực tế, nhất là đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng như đất,
đá, cát, sỏi
Ví dụ: Cát vàng (Cát vàng đổ bê tông).
Theo quy định tại Thông tư số 44/2017/TT-BTC, có quy định, đối với
Cát vàng, khung giá là 245.000-350.000 đồng/m3. Tuy nhiên Cát vàng hiện
nay trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giá giao dịch bình quân được Công bố giá
VLXD quý III/2017 là 92.000 đ/m3 (thấp hơn 62% so với mức giá tối thiểu tại
Thông tư số 44/2017/TT-BTC). Tại Hậu Giang giá cũng rơi vào khoảng
85.000 đ/m3.
- Đối với tài nguyên đã chế biến thành sản phẩm công nghiệp thì tại
Khung giá ban hành kèm theo Thông tư 44/2017/TT-BTC không quy định
khung giá cho các loại sản phẩm này. Do đó dẫn đến tính không khả thi khi
thực hiện hướng dẫn về xác định giá tính thuế đối với loại tài nguyên không
bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến thành sản phẩm công nghiệp mới bán ra
75
(giá đã trừ đi chi phí chế biến theo quy định) vì không có căn cứ để thực hiện.
Năm là, vướng mắc về thuế suất thuế tài nguyên.
Nhà nước thể hiện mức độ điều tiết thông qua thuế suất thuế tài nguyên
đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên. Trong giai đoạn 2010 - 2013,
mức thuế suất thuế tài nguyên đã được sửa đổi một lần nhằm thực hiện mục
tiêu tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tài nguyên gắn với tình
hình thực tế. Tuy vậy, đến nay mức thuế suất thuế tài nguyên hiện hành còn
hạn chế trong việc góp phần bảo vệ, khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả
nguồn tài nguyên đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Về nguyên tắc,
việc xây dựng thuế suất thuế tài nguyên dựa trên cơ sở sau: Trần thuế suất cao
đối với tài nguyên không có khả năng tái tạo và ngược lại. Theo quy định hiện
hành đang áp dụng thì khung thuế suất các nhóm tài nguyên như sau:
- Nhóm khoáng sản kim loại: từ 7-25%
- Nhóm khoáng sản không kim loại: từ 3-30%
- Dầu thô: từ 6-40%
- Khí thiên nhiên, khí than: 1-30%
- Sản phẩm rừng tự nhiên: 1-35%
- Hải sản tự nhiên: 1-10%
- Nước thiên nhiên: 1-10%
- Yến sào thiên nhiên: 10-20%
- Tài nguyên khác: 1-20%
Nhìn vào khung thuế suất hiện hành có thể thấy rõ, khung thuế suất
hiện hành còn một số khiếm khuyết sau: a) Sản phẩm rừng tự nhiên là tài
nguyên có khả năng tái tạo nhưng hiện đang có mức trần khung thuế suất cao
hơn cả những loại tài nguyên không có khả năng tái tạo như nhóm khoáng sản
kim loại, nhóm khoáng sản không kim loại; b) Cùng là tài nguyên không tái
tạo nhưng khung thuế suất là khác nhau giữa nhóm khoáng sản kim loại và
76
nhóm khoáng sản không kim loại và khung thuế suất còn thấp hơn sản phẩm
rừng tự nhiên điều này dẫn đến không đạt được mục đích điều tiết và việc
khai thác một số khoáng sản kim loại vẫn chưa hiệu quả, gây lãng phí tài
nguyên, đa số các khoáng sản kim loại chưa được chế biến sâu; c) Nước thiên
nhiên là loại tài nguyên đang ngày càng khan hiếm thì khung thuế suất hiện
hành còn quá thấp.
Sáu là, vướng mắc trong hướng dẫn về quyết toán thuế tài nguyên
Theo quy định tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP thì về nguyên tắc giá
tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng
tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại
Thông tư số 152/2015/TT-BTC thì NNT phải khai thuế hàng tháng đối với
toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong tháng kể cả tồn kho và đang chế
biến. Khi quyết toán thuế thì NNT phải kê khai sản lượng tài nguyên tính thuế
là tổng sản lượng tài nguyên khai thác trong năm không phân biệt tồn kho hay
đang chế biến hoặc vận chuyển; giá tính thuế là giá bán bình quân một đơn vị
sản phẩm tài nguyên được xác định bằng cách lấy tổng doanh thu bán tài
nguyên chia cho tổng sản lượng tài nguyên bán ra tương ứng trong năm.
Như vậy, đối với doanh nghiệp khai thác loại tài nguyên phải qua sàng
tuyển rồi mới bán ra thì hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC như trên
sẽ dẫn tới một số vấn đề như sau:
- NNT nếu không khai thuế đối với sản phẩm đã khai thác nhưng chưa
qua sàng tuyển là vi phạm pháp luật, nhưng nếu kê khai thì chưa có sản lượng
tính thuế và chưa có giá tính thuế để kê khai theo quy định cụ thể về sản
lượng và giá của Thông tư đã hướng dẫn.
- Nếu NNT kê khai theo giá bán ra của doanh nghiệp cho sản phẩm đã
qua sàng tuyển với sản lượng đã khai thác tồn kho chưa sàng tuyển thì không
đúng với quy định tại Nghị định 12/2015/NĐ-CP.
77
Ngoài ra, hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC về phương
pháp xác định sản lượng tính thuế quy ra sản lượng tài nguyên khâu khai
thác, nhưng giá tính thuế lại là giá tại khâu bán ra. Như vậy là chưa đúng
với nguyên tắc “giá khâu nào, sản lượng tính ở khâu đó” quy định tại Nghị
định 12/2015/NĐ-CP.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Mặc dù chính sách và pháp luật thuế tài nguyên đã đạt được những kết
quả nhất định nhưng song song với đó vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng
mắc xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chính sách, pháp luật thuế tài nguyên đang bị mâu thuẫn vì
theo đuổi nhiều mục tiêu, trong đó mục tiêu tăng trưởng xanh, bảo vệ môi
trường chưa thực sự được coi trọng. Điều đó dẫn đến những mâu thuẫn trong
việc xây dựng chính sách thuế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh.
Thứ hai, việc minh bạch thông tin về việc khai thác, sử dụng, và giá
bán thực tế của tài nguyên còn hạn chế gây thất thu cho NSNN, đồng thời khó
khăn cho công tác QLT với các hiện tượng kê khai giảm khối lượng tài
nguyên khai thác, chuyển giá, khai thác tài nguyên lãng phí…
Thứ ba, cơ quan QLT gặp khó khăn trong việc QLT tài nguyên nếu tính
thuế tài nguyên trên sản lượng tài nguyên nguyên khai, và giá tính thuế của tài
nguyên nguyên khai vì cơ quan thuế chưa có cơ chế kiểm soát hiệu quả chi
phí khai thác, chế biến tài nguyên của doanh nghiệp.
Thứ tư, tỷ lệ điều tiết khoản thu từ thuế tài nguyên chi đầu tư lại cho vào
việc cải tạo lại môi trường nơi khai thác và người dân địa phương không được
quy định rõ ràng nên không khuyến khích người dân phát hiện sai trái để giúp
cơ quan nhà nước quản lý tài nguyên và thu thuế đối với khai thác tài nguyên.
Thứ năm, chưa có bộ máy chuyên trách, đủ điều kiện trang thiết bị và
nhân lực có trình độ đồng bộ để tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động khai
78
thác khoáng sản; để kịp thời rà soát, chấn chỉnh việc cấp Giấy phép khai thác
tài nguyên, khoáng sản. Chưa có biện pháp giám sát, xử lý nghiêm, kịp thời
các trường hợp vi phạm về khai thác tài nguyên và nghĩa vụ nộp ngân sách,
khôi phục môi trường. Ngoài ra, tại một số địa phương không có cơ chế trao
đổi thông tin về kết quả kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp khai khoáng giữa cơ
quan tài nguyên môi trường và cơ quan thuế. Điều này dẫn đến doanh nghiệp
có thể vi phạm cả pháp luật về thuế và pháp luật về tài nguyên môi trường
nhưng chỉ bị cơ quan kiểm tra, thanh tra phạt hành chính.
Tóm lại, những năm qua chính sách và pháp luật thuế tài nguyên đã đạt
được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên qua nghiên cứu thực tế tại các địa
phương, các đơn vị điển hình, phân tích chính sách, pháp luật, áp dụng chính
sách, pháp luật và công tác QLT, công tác triển khai thu thuế đã cho thấy thuế
tài nguyên hiện hành còn tồn tại nhiều vướng mắc từ xác định đối tượng chịu
thuế, căn cứ tính thuế đến cách hiểu để áp dụng, công tác triển khai thực
hiện… Để việc quản lý thu thuế tài nguyên đạt hiệu quả cao hơn nữa cần có
79
những giải pháp cụ thể sửa đổi, khắc phục những vấn đề nêu trên.
Kết luận chương 2
Chương 2 của luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên ở Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu
này có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Thực trạng pháp luật về QLT tài nguyên được nghiên cứu theo bốn
phương diện gồm chủ thể; nguyên tắc và nội dung; trình tự, thủ tục; thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật. QLT tài nguyên là một phần của
QLT nói chung, vì vậy pháp luật QLT tài nguyên về cơ bản là đồng nhất
với pháp luật QLT.
2. Thuế tài nguyên có ảnh hưởng rõ rệt đến việc tăng nguồn thu NSNN,
góp phần điều tiết lượng tài nguyên khai thác và tăng hiệu quả khai thác TNTN.
Thuế tài nguyên thu được tăng tỷ lệ thuận với mức tăng của thuế suất và giá
tính thuế tài nguyên. Nhìn chung số thu từ thuế tài nguyên tăng đều qua các
năm, năm 2019 có sự chững nhẹ do bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có
những biến động. Số thu thuế tài nguyên từ dầu khí có xu hướng giảm so với
tổng số thu thuế tài nguyên trong các năm gần đây chủ yếu do tác động của
việc giảm giá bán dầu thô trên thị trường thế giới.
3. Luật QLT nói chung tuy đã được ban hành và sửa đổi nhiều lần nhưng
vẫn còn nhiều quy định chưa cụ thể, chưa phù hợp cũng như chưa theo kịp thực
tế phát sinh và sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Điều này làm cho hiệu quả
QLT vẫn chưa cao, công tác QLT còn chưa thật sự chặt chẽ, gây thất thoát
nguồn thu cho NSNN. QLT tài nguyên cũng không nằm ngoài phạm vi đó, thể
hiện ở những vướng mắc, tồn tại trong chính pháp luật về QLT tài nguyên như
vướng mắc về đối tượng chịu thuế, NNT, sản lượng tính thuế, giá và khung giá
tính thuế, thuế suất, quyết toán thuế. Để khắc phục những tồn tại đó, cần thiết
phải tìm ra các giải pháp để hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật QLT nhằm
80
nâng cao hiệu quả QLT và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ
TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
Xuất phát từ những hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc đã phân tích
tại Chương 2, để đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế tài
nguyên điều tiên quyết là cần phải có giải pháp để khắc phục chúng. Việc
hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên giữ vai trò hết sức quan trọng. Trong
đó, nguyên tắc chung để hoàn thiện chính sách bao gồm: (i) Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đảm bảo sự đơn giản, rõ
ràng, minh bạch, thống nhất tạo thuận lợi cho NNT để NNT có thể dễ dàng
tiếp cận, nắm bắt và hiểu biết các quy định của pháp luật thuế cũng như thực
hiện các hành vi tuân thủ thuế; (ii) Việc rà soát lại các quy định của pháp luật
thuế và pháp luật liên quan cần được thực hiện thường xuyên, liên tục căn cứ
vào quá trình QLT cũng như phản ánh của NNT, nhanh chóng điều chỉnh, bổ
sung để đảm bảo sự chính xác, minh bạch của các quy định đó.
Trong hệ thống chính sách thuế tài nguyên thì trước mắt cần sửa đổi
Thông tư số 152/2015/TT-BTC hướng dẫn thuế tài nguyên với các nội dung
cụ thể như sau:
Thứ nhất, về xác định đối tượng chịu thuế, sản phẩm tính thuế tài nguyên
Để thực hiện mục tiêu kiểm soát hoạt động khai thác TNTN có hiệu
quả, tránh lãng phí nguồn tài nguyên thiên, cũng như đảm bảo nguồn thu
cho NSNN cũng như đảm bảo cho chính sách thuế tài nguyên phù hợp với
thông lệ quốc tế, trong thời gian tới cần nghiên cứu mở rộng thêm một số
đối tượng khai thác loại tài nguyên quý hiếm, có giá trị thương mại cao
như: san hô đỏ, khoáng sản có lợi nhuận siêu ngạch như khai thác lộ thiên,
81
lợi nhuận thu được lớn.
Cần thống nhất trong việc sử dụng các cụm từ, thuật ngữ được dùng
trong văn bản quy phạm pháp luật về thuế tài nguyên để tránh những
vướng mắc khi áp dụng, chẳng hạn phải thống nhất khái niệm về tài
nguyên khai thác phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra là “tài nguyên đã
qua chế biến” thay cho khái niệm “sản phẩm công nghiệp” tại Thông tư số
152/2015/TT-BTC, đảm bảo theo tên gọi theo quy định tại khoản 4, Điều 4
Nghị định số 12/2015/NĐ-CP:
Trường hợp tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản
xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì
giá tính thuế tài nguyên khai thác được xác định căn cứ vào trị giá
hải quan của sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến xuất khẩu hoặc
giá bán sản phẩm đã qua sản xuất, chế biến trừ thuế xuất khẩu (nếu
có) và các chi phí có liên quan từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu
xuất khẩu hoặc từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu bán tại thị
trường trong nước.
Thí dụ, có thể bổ sung Khoản 3 Điều 2 Thông tư số 152/2015/TT-BTC
về đối tượng chịu thuế tài nguyên là sản phẩm của rừng tự nhiên trừ một số
sản phẩm được cho phép trồng tại khu vực rừng tự nhiên như sau: Cơ quan
thuế địa phương chủ trì xây dựng và báo cáo UBND cấp tỉnh ban hành cơ
chế phối hợp với các cơ quan có liên quan nơi có rừng bao gồm UBND cấp
xã, Hạt Kiểm lâm hoặc Chi cục Kiểm lâm để tăng cường quản lý hoạt động
khai thác tài nguyên rừng tự nhiên theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về người nộp thuế tài nguyên
Thực tế công tác quản lý thu thuế cho thấy các tổ chức, cá nhân làm
đầu mối thu mua chỉ lập bảng kê thu mua mà không cam kết nộp thay hoặc
không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc tài nguyên thu mua đã nộp thuế tài
82
nguyên. Trong khi đó, việc yêu cầu các tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ, lẻ
khai, nộp thuế tài nguyên là rất khó khăn, nhất là các trường hợp cá nhân khai
thác thủ công, khai thác ở vùng sâu, vùng xa... Ngoài ra, các trường hợp khai
thác nhỏ lẻ đều không được cấp giấy phép khai thác tài nguyên theo quy định
của Luật khoáng sản.
Do đó, để không hợp thức hóa cho các trường hợp này, đề nghị bỏ quy
định về đối tượng nộp thuế đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ
cho phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, bản chất của thuế tài nguyên là đánh vào
hoạt động khai thác tài nguyên chịu thuế nhằm đảm bảo quản lý và sử dụng hiệu
quả tài nguyên cũng như bảo vệ môi trường mà không xét đến việc khai thác đó
là có phép hay không có phép. Do đó, pháp luật thuế tài nguyên vẫn phải quy
định về NNT tài nguyên đối với tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ. Theo đó, nên
quy định tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua có trách nhiệm nộp thuế thay
cho tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ để tránh thất thu NSNN.
Theo đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về NNT tài nguyên trong
trường hợp có Giấy phép khai thác và không có giấy phép khai thác tài
nguyên tại Điều 3 Thông tư số 152/2015/TT-BTC như sau:
Tổ chức, cá nhân thực hiện khai thác loại tài nguyên thuộc đối
tượng chịu thuế tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên. Trường hợp tổ
chức, cá nhân khai thác nhỏ, lẻ bán cho tổ chức cá nhân làm đầu
mối thu mua thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu phải mua cam kết
chấp thuận bằng văn bản về việc khai nộp thay thuế tài nguyên.
Thứ ba, về sản lượng tài nguyên tính thuế tài nguyên
Để đảm bảo thuận tiện trong quá trình thu thuế tài nguyên và đảm bảo
thuận tiện cho NNT trong quá trình nộp thuế tài nguyên, đảm bảo tính rõ
ràng, minh bạch, cần quy định cụ thể giá tính thuế tài nguyên đối với từng
trường hợp sau: a) Trường hợp tài nguyên khai thác lên bán ra ngay; b)
Trường hợp tài nguyên khai thác lên phải qua quá trình sàng tuyển, phân loại
83
mới bán ra; c) Trường hợp tài nguyên phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra.
Trong từng trường hợp nói trên cần xác định cụ thể sản lượng tài
nguyên tính thuế đối với một số trường hợp vẫn còn khó khăn trong cách xác
định như: trường hợp tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau
nhưng không qua sàng, tuyển, phân loại và trường hợp không xác định được
sản lượng từng chất khi bán ra. Theo đó:
- Nghiên cứu xây dựng nguyên tắc quy đổi sản lượng tính thuế theo tỷ
lệ để xác định sản lượng theo nhóm tài nguyên khai thác có cùng đặc điểm
tính chất lý hóa để thống nhất áp dụng.
- Xác định rõ cách thức xác định sản lượng tính thuế tài nguyên như:
phương pháp quy đổi sản lượng tính thuế cần phù hợp với các phương pháp
quy đổi của cơ quan chức năng có liên quan quy định (Bộ Xây dựng, Bộ
Công thương); xây dựng phương pháp xác định sản lượng tính thuế đối với
quặng đa kim.
- Có văn bản pháp quy hướng dẫn trách nhiệm của cơ quan quản lý tài
nguyên môi trường và các cơ quan khác trong việc triển khai thực thi xác định
sản lượng tài nguyên thực tế khai thác và số kê khai nộp thuế tài nguyên.
Thứ tư, về giá tính thuế tài nguyên
Đề nghị nghiên cứu giá tính thuế là giá bán tài nguyên tại nơi khai thác
để hạn chế việc đánh trùng thuế đối với tài nguyên vận chuyển đi tiêu thụ và
chi phí khác, không công bằng trong xác định giá tính thuế, nhất là đối với
xuất khẩu tài nguyên.
Quy định chi phí được trừ đối với sản phẩm công nghiệp; chi phí vận
chuyển được trừ đối với sản phẩm xuất khẩu cần hướng dẫn rõ hơn để đảm
bảo rõ ràng, minh bạch, thuận lợi trong thực hiện.
Mặt khác, để khuyến khích tính tự chủ hạch toán kinh doanh của doanh
nghiệp, cho phép doanh nghiệp tự hạch toán giá thành và chi phí ở khâu chế
84
biến sản phẩm tài nguyên, được trừ vào giá bán sản phẩm tài nguyên đã qua
chế biến khi xác định giá tính thuế tài nguyên. Ngoài ra, để tạo sự bình đẳng
về nghĩa vụ thuế và khuyến khích doanh nghiệp khai thác chế biến sâu tài
nguyên, nâng cao giá trị gia tăng, cần giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi quy
định Bảng giá tính thuế tài nguyên phải kết hợp xây dựng phương án xác định
mức chi phí bình quân ở khâu chế biến sản phẩm tài nguyên, làm căn cứ tính
trừ khi xây dựng mức giá tính thuế tài nguyên.
Xây dựng đầy đủ khung giá tài nguyên (bao gồm cả quặng đa kim) làm
cơ sở cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng Bảng giá tính thuế tài nguyên
để xác định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên.
Xây dựng giá tính thuế tài nguyên phù hợp với giá thị trường và giá
tính thuế tài nguyên đối với sản phẩm công nghiệp để UBND cấp tỉnh áp
dụng xây dựng Bảng giá tính thuế tài nguyên phù hợp.
Đồng thời để khuyến khích doanh nghiệp khai thác khoáng sản chế
biến sâu, khuyến khích áp dụng công nghệ cao cần nghiên cứu hoàn thiện
khắc phục hạn chế từ việc cho trừ chi phí được trừ khỏi giá tính thuế để tránh
tình trạng doanh nghiệp quản lý tốt ứng dụng công nghệ cao, giảm chi phí thì
chi phí được trừ thấp, nộp thuế cao còn doanh nghiệp sử dụng công nghệ
kém, lãng phí nhiều thì được trừ chi phí nhiều, nộp thuế ít.
Thứ năm, về khung giá tính thuế tài nguyên
Khung giá tính thuế tài nguyên hiện nay được quy định tại Thông tư số
44/2017/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 05/2020/TT-BTC)
góp phần tạo cơ sở để tính thuế tài nguyên, tuy nhiên cần có sự tính toán về
mức giá ở các địa phương khác nhau để đảm bảo tính công bằng và phù hợp
với thực tế. Ngoài ra, cần xem xét việc quy định mức trần và mức sàn theo giá
do UBND cấp tỉnh ban hành như hướng dẫn tại Thông tư 152/2015/TT-BTC
85
vì tại Luật thuế tài nguyên không có quy định này.
Thứ sáu, về thuế suất thuế tài nguyên
Đề nghị xem xét điều chỉnh giảm thuế suất thuế tài nguyên đối với một
số loại khoáng sản đặc biệt đã áp dụng thu tiền cấp quyền khai thác khoáng
sản, để phù hợp với chính sách điều tiết thu đối với tài nguyên khoáng sản.
Tuy nhiên, đối với các tài nguyên khoáng sản có tính chất dự trữ hoặc
doanh nghiệp chưa đủ trình độ công nghệ để đáp ứng yêu cầu khai thác và sử
dụng tiết kiệm, hiệu quả nhất nguồn tài nguyên đất nước thì vẫn duy trì mức
thuế suất như hiện hành.
3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý thuế tài nguyên
ở Việt Nam
3.2.1. Cải cách thủ tục hành chính về quản lý thuế tài nguyên
Thực tế cho thấy, để đạt được kết quả mong muốn thì bên cạnh một hệ
thống pháp luật thuế tốt cần phải có phương tiện tổ chức thực hiện tốt. Vì vậy,
để có thể thực hiện thành công việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế thì
điều kiện tiên quyết là phải có một hệ thống hành thu phù hợp và hiệu quả.
Bốn yếu tố cơ bản có mối quan hệ biện chứng phụ thuộc lẫn nhau được sử
dụng để đánh giá hệ thống hành thu tốt hay không gồm: (a) tính phù hợp của
quy trình tổ chức hành thu; (b) tính hiệu quả của tổ chức bộ máy hành th; (c)
tính tinh thông của tổ chức nhân lực; và (d) tính hiện đại của cơ sở vật chất,
kỹ thuật. Công tác cải cách thủ tục hành chính về QLT tài nguyên phải đảm
bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện một số quy trình QLT đáp ứng yêu cầu
QLT tập trung đang được triển khai tại các cơ quan thuế từ Trung ương tới
địa phương. Phần mềm QLT tập trung tại các cơ quan thuế hiện nay đòi hỏi
sự thay đổi toàn diện, đồng bộ quy trình QLT, từ đó thay đổi hành vi của công
chức thuế và hành vi của NNT trong quá trình đảm bảo thu thuế vào NSNN.
86
Trong thời gian vừa qua, một số quy trình mới đã được ban hành để đáp ứng
yêu cầu QLT, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục bổ sung, sửa đổi các quy trình còn
lại, nhằm tạo đột phá trong QLT như tuyên truyền, hỗ trợ NNT; quản lý hóa
đơn, chứng từ; trao đổi thông tin giữa các bộ phận của cơ quan thuế.
Thứ hai, cần có quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bộ
phận và mối quan hệ giữa các bộ phận với nhau trong sử dụng phần mềm
quản lý và khai thác thông tin có liên quan. Phần mềm QLT tập trung đòi hỏi
sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận của cơ quan thuế trong khai thác
thông tin về NNT để thực hiện chức năng quản lý của mình. Khác với cách
quản lý trước đây, mỗi bộ phận của cơ quan thuế sử dụng một phần mềm
quản lý riêng theo chức năng, từng bộ phận quản lý sẽ tự cập nhật thông tin
về NNT và cung cấp thông tin cho các bộ phận khác khi có yêu cầu. Để có thể
khai thác thông tin trong hệ thống phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ QLT, đòi
hỏi công chức thuế phải có kỹ năng sử dụng máy tính, nắm vững pháp luật
thuế, cẩn thận và trung thực.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong QLT, cụ thể
nâng cao hiệu quả và ứng dụng của TMS bằng việc hiện đại hóa các chức
năng xử lý kê khai thuế (phải hỗ trợ chuyển đổi sang các nghiệp vụ QLT dựa
trên hệ thống thông tin minh bạch hay nói cách khác thực hiện tái thiết kế quy
trình nghiệp vụ một cách có hệ thống cho toàn bộ các chức năng thuế để hỗ
trợ thực hiện TMS; hỗ trợ xây dựng và triển khai hệ thống quản lý cơ sở dữ
liệu trên cơ sở đánh giá năng lực kho dữ liệu hiện có và thiết kế một mạng
lưới các kho cơ sở dữ liệu của TMS) và hiện đại hóa các chức năng sau xử lý
kê khai, (xây dựng các chức năng và hệ thống thanh tra, kiểm tra dựa trên
quản lý rủi ro nhằm giảm chi phí tuân thủ và nâng cao mức độ tuân thủ tự
nguyện thông qua hệ thống thanh tra, kiểm tra hiệu quả và minh bạch…).
Thứ tư, thực hiện cải tổ bộ máy QLT, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
87
lực về QLT bằng việc đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ QLT theo
kịp với các cải cách đang diễn ra cũng như bối cảnh gia tăng đáng kể số lượng
các giao dịch đa quốc gia và các diễn biến phức tạp và đa dạng của các hành
vi gian lận thuế quốc tế. Nâng cao năng lực và kỹ năng của cán bộ thuế về
điều hành và QLT quốc tế; Nâng cao kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ
thuế về quản lý hiệu quả việc thu nợ thuế; Tăng cường kỹ năng của cán bộ
thuế trong việc giải quyết các tranh chấp và khiếu nại về thuế.
Thứ năm, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT trong việc khai
thuế và nộp thuế. Trong thời gian tới, việc kê khai thuế qua mạng và nộp thuế
điện tử cần được triển khai tới tất cả các chủ thể nộp thuế, từ các doanh
nghiệp đến các hộ gia đình và cá nhân nộp thuế ở tất cả các vùng miền. Công
việc này có thể được thực hiện cùng với quá trình thực hiện hóa đơn điện tử
trong giao dịch mua bán nêu trên. Khi đó, bên cạnh nền tảng cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin đã được xây dựng, việc mở rộng và phát triển các hình
thức thanh toán cùng với sự tham gia của nhiều chủ thể như ngân hàng
thương mại, công ty cung cấp dịch vụ internet và đường truyền cùng với hệ
thống QLT tập trung của cơ quan thuế thì rõ ràng việc thực hiện khai thuế,
nộp thuế của NNT sẽ được nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả công tác quản
lý của cơ quan thuế cũng được nâng lên rõ rệt.
Thứ sáu, cải thiện các dịch vụ hỗ trợ NNT để đảm bảo quyền của NNT,
đặc biệt cần đơn giản hóa các yêu cầu về thủ tục thuế đối với doanh nghiệp
nhỏ và hộ kinh doanh. Vì vậy cần (i) sửa đổi các nguyên tắc QLT đối với hộ
gia đình kinh doanh; (ii) xem xét và sửa đổi các yêu cầu kế toán đối với hộ
gia đình kinh doanh và doanh nghiệp dưới ngưỡng đăng ký thuế GTGT; (iii)
xem xét nghiên cứu ban hành các chuẩn mực kế toán, tổ chức công tác kế
toán áp dụng riêng cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; (iv) cần nghiên cứu chính
sách thuế, cơ chế QLT riêng đối với doanh nghiệp nhỏ; (v) nghiên cứu, đề
xuất phương thức nộp thuế đơn giản cho đối tượng nộp thuế qui mô nhỏ, tiếp
88
tục cải cách liên quan đến nộp thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh
doanh. Có thể nghiên cứu để xây dựng thí điểm hệ thống nộp thuế qua điện
thoại di động cho các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, tạo điều kiện hỗ trợ tương tác và
phản hồi tích cực giữa cơ quan thuế và NNT, đặc biệt là các hộ kinh doanh
nhỏ. Thực tế QLT cho thấy, hiện nay, các hộ kinh doanh nhỏ chiếm khoảng
70% số doanh nghiệp nộp thuế do các Cục thuế cấp tỉnh quản lý. Với đặc thù
các hộ kinh doanh nhỏ có sự hiểu biết về hệ thống thuế còn hạn chế, do vậy
họ cần phải được cung cấp dịch vụ hỗ trợ nộp thuế thuận tiện và nộp thuế đơn
giản để nâng cao tỷ lệ tuân thủ tự nguyện và giảm chi phí tuân thủ cho các hộ
kinh doanh nhỏ.
Thứ bảy, kiểm soát, đánh giá kết quả QLT thông qua các khảo sát về
phản hồi của NNT (đánh giá sự hài lòng của NNT). Khảo sát về phản hồi của
NNT là một công cụ thiết yếu để đo lường những đánh giá của NNT đối với
những dịch vụ công của cơ quan thuế. Các khảo sát này sẽ giúp giám sát và
đánh giá tác động của chương trình cải cách QLT, thể hiện qua các phản hồi
tốt hay xấu của NNT. Tăng cường đối thoại với NNT để tìm ra giải pháp giúp
NNT tuân thủ tốt pháp luật thuế và tiết kiệm nguồn lực cho cơ quan thuế.
Thứ tám, tăng cường việc đẩy mạnh phát triển mở rộng hệ thống đại lý
thuế theo hướng đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động hỗ trợ NNT. Thông qua
đó tăng dần số lượng đại lý thuế, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp bởi
đại lý thuế và đa dạng hoá dịch vụ của đại lý thuế. Song song đó là làm cho hệ
thống đại lý thuế thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan thuế và NNT trong
việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật thuế, góp phần
làm giảm chi phí (thời gian và nhân lực) cho cơ quan thuế và NNT. Theo đó,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLT.
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý thu thuế
tài nguyên
89
Hiện nay, cơ quan thuế đang quản lý thu thuế theo cơ chế tự khai, tự
nộp. Bên cạnh ưu điểm là tiết kiệm được thời gian, công sức, chi phí quản lý
hành chính về thuế; đồng thời, nâng cao trách nhiệm pháp lý của NNT, việc
áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế cũng còn tồn tại những hạn chế nếu
không đáp ứng được những điều kiện nhất định. Cụ thể như sau:
(i) Nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp QLT phù hợp sẽ
xảy ra nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn;
(ii) Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp (công tác kiểm tra không kịp
thời, việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục, hướng dẫn các đối tượng nộp thuế
không đầy đủ, chu đáo…) có thể dẫn đến các tình trạng NNT cố tình kê khai sai
nhằm trốn thuế thông qua lợi dụng việc không kiểm tra tính toán lại số thu
thường kỳ của cơ quan thuế. Ngoài ra, do sự hiểu biết của NNT còn hạn chế, ý
thức tự giác và tuân thủ pháp luật còn chưa cao cùng với sự hướng dẫn chưa hiệu
quả của cơ quan thuế vô tình dẫn đến tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp làm
tăng nguy cơ thất thoát thuế tài nguyên.
Cơ quan thuế đã tiến hành cải cách các quy trình QLT nhằm đáp ứng
yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp theo hướng hiện đại hóa với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin. Các quy trình QLT được nghiên cứu xây dựng, đảm bảo
phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình chức năng và thể hiện nguyên tắc
quản lý theo rủi ro. Cụ thể:
- Trong nghiệp vụ hỗ trợ cơ sở kinh doanh: cơ quan thuế chủ động sử
dụng những hình thức phù hợp để tổ chức tuyên truyền, hỗ trợ NNT theo
nhóm đối tượng nộp thuế. Chỉ khi nắm chắc được nhu cầu của khách hàng, cơ
quan thuế sẽ cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của NNT.
- Trong nghiệp vụ xử lý tờ khai thuế: cơ quan thuế theo dõi một cách
hệ thống tờ khai thuế của NNT (tờ khai đầu tiên, tờ khai điều chỉnh, tờ khai
cuối cùng) để tổng hợp các lỗi mà NNT đã mắc, nghiên cứu để có biện pháp
90
xử lý phù hợp như hướng dẫn NNT kê khai nếu lỗi là do sự hạn chế trong
hiểu biết của NNT hay sửa đổi mẫu tờ khai nếu chưa phù hợp, hoặc lựa chọn
các trường hợp để thanh tra nếu các lỗi bị lăp lại nhiều lần do cố ý.
- Trong nghiệp vụ đôn đốc và thu nợ thuế: cơ quan thuế đẩy mạnh công
tác đôn đốc và thu nợ thuế thông qua việc sử dụng các ứng dụng công nghệ
thông tin để theo dõi nghiêm ngặt đối với các trường hợp chậm nộp tờ khai,
chậm nộp thuế hay phát hành các thông báo nhắc nhở, thông báo phạt đối với
NNT không nộp tờ khai, không nộp thuế. Thông qua việc theo dõi số thuế
nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn đọng theo từng loại thuế, cơ
quan thuế có thể xác định được tính chất, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ
thuế để có biện pháp thu nợ phù hợp nhằm giảm cả khoản nợ có mức nợ và
tuổi nợ cao.
- Trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra: việc kiểm tra, thanh tra được tiến
hành theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, nghi ngờ có gian lận trốn thuế trên cơ
sơ thu thập đầy đủ thông tin quan trọng cần thiết về NNT qua tờ khai, báo cáo
tài chính và các nguồn thông tin khác. Theo đó, cơ quan thuế có thể lựa chọn
các trường hợp để kiểm tra, thanh tra thuế và tiến hành chuẩn bị nội dung,
cách thức thanh tra phù hợp.
Quy định về vấn đề kiện toàn tổ chức bộ máy cho công tác quản lý thu
thuế tài nguyên cần rõ ràng, cụ thể mỗi Chi cục thuế có từ hai đến bốn cán bộ
làm công tác quản lý thu thuế tài nguyên và có tính đến mô hình tổ chức bộ
máy khi thành lập các Chi cục thuế vùng để đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn
thu gắn với phân cấp nguồn thu đối với địa bàn nơi có mỏ khai thác.
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong
quản lý thuế tài nguyên
Đối với cơ quan tài nguyên môi trường
Cần có giải pháp cụ thể để quản lý tốt sản lượng tài nguyên khai thác,
91
tránh thất thu về sản lượng thông qua các giải pháp về kỹ thuật như phương
pháp đo lường hoặc đo đạc để xác định sản lượng tài nguyên thực tế khai thác
trong kỳ, thay vì chỉ dựa trên số liệu kê khai của doanh nghiệp như hiện nay.
Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Cần phát huy vai trò quản lý nhà nước để tạo sự bình đẳng về môi
trường pháp lý, đảm bảo hoạt động khai thác, chế biến, kinh doanh tài
nguyên, khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả, góp phần thúc đẩy nền sản xuất phát
triển lành mạnh, tăng thu ngân sách, công tác quản lý của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh và hướng dẫn chuyên môn của các cơ quan chuyên ngành, vừa quản
lý, định hướng hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên và quản lý thu nghĩa
vụ ngân sách một cách thường xuyên liên tục. Ở địa phương, việc UBND cấp
tỉnh vừa cấp phép, quản lý và nắm bắt hiện trạng việc khai thác chế biến tài
nguyên sẽ thuận lợi trong việc xây dựng giá tính thuế tài nguyên gắn với hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo xác định chi phí được trừ khi xây
dựng giá tính thuế tài nguyên sát thực tế ở địa phương.
Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành ở địa phương
với UBND các cấp địa phương để giám sát sản lượng tài nguyên từ khâu thăm
dò, thẩm định cấp phép, quá trình khai thác và tiêu thụ tài nguyên.
UBND cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan chức năng để xây dựng ban hành bảng
giá tính thuế tài nguyên phù hợp với thực tế phát sinh: theo đúng sản phẩm tài
nguyên mà doanh nghiệp sản xuất, theo giá tính thuế mua bán trên thị trường.
Và đặc biệt quy định giá tính thuế tài nguyên đối với khoáng sản nguyên khai
để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
Việc quản lý hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản cũng như
công tác thu thuế tài nguyên cần được UBND cấp tỉnh chỉ đạo sát sao để có
sự phối hợp chặt chẽ hiệu quả giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành. Trong
92
đó, chú trọng nâng cao vai trò của người đứng đầu các cơ quan, các cấp trong
công tác quản lý. Cụ thể hoá công việc phối hợp giữa các cơ quan theo chức
năng, nhiệm vụ của ngành từ khâu duyệt cấp quyền khai thác, đến tổ chức
khai thác. Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì thẩm định hồ sơ xin cấp phép
khai thác, kết hợp tính thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, nâng cao
quản lý nhà nước về hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản…
Trong quá trình quản lý hoạt động khai thác có sự phối hợp với các Sở,
ngành, Cục Thuế kiểm tra thực địa về việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
khai thác tài nguyên khoáng sản, đối chiếu quản lý sản lượng khai thác giữa
cơ quan tài nguyên và môi trường và cơ quan thuế để quản lý thu ngân sách
về thuế tài nguyên và các khoản thu khác từ hoạt động khai thác khoáng sản
đạt kết quả tốt.
Thông qua cơ chế phối hợp kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu quả
quản lý tài nguyên, tránh khai thác bừa bãi, không có giấy phép, chống thất
thoát, lãng phí tài nguyên, đảm bảo nộp ngân sách về thuế, phí, lệ phí. Việc
quản lý hoạt động khai thác thông qua bản đồ hiện trạng khai thác theo báo
cáo của đơn vị khai thác hoặc kết quả kiểm tra, hậu kiểm của cơ quan chức
năng, thống kê cung cấp thông tin về sản lượng tài nguyên khai thác hàng
năm của mỏ. Đối với sản lượng khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường
không đảm bảo nguồn gốc hợp pháp, hợp lý thì Sở Tài nguyên và Môi trường
xử lý theo chức năng và báo cáo UBND cấp tỉnh cung cấp thông tin cho cơ
quan thuế để xử lý về thuế như truy thu thuế tài nguyên, phí hoặc loại khỏi chi
phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về tổ chức quản lý thu thuế
Công tác tổ chức QLT các đơn vị khai thác tài nguyên, khoáng sản luôn
được giám sát thường xuyên. Cục Thuế chỉ đạo các Phòng thanh tra, Kiểm
tra, các Đội kiểm tra thuế thuộc Chi cục Thuế rà soát, kiểm tra việc đăng ký
93
thuế, kê khai nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và các loại thuế khác
đối với đơn vị khai thác tài nguyên. Đồng thời chỉ đạo các đơn vị phối hợp
với chính quyền địa phương kiểm tra, QLT tài nguyên như sau:
- Đối với các đơn vị kinh doanh khoáng sản thu gom, việc cam kết thoả
thuận nộp thay thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và các loại thuế khác
cho các đơn vị khai thác nhỏ, lẻ, phân tán, nhằm quản lý hiệu quả, bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật; ngăn ngừa việc khai thác không đúng quy
hoạch và ổn định cuộc sống cho các hộ dân khai thác nhỏ, lẻ tài nguyên.
- Tổ chức công bố công khai quy hoạch khai thác để quản lý theo quy
hoạch. Thường xuyên điều tra, cập nhật số liệu, đánh giá biến động trữ lượng
cát sông phục vụ quản lý khai thác và đánh giá tác động đến bờ sông, công
trình thủy lợi, môi trường.
- Một số địa phương đã được UBND cấp tỉnh chỉ đạo phối hợp các
ngành chức năng bao gồm Cục Thuế, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Công Thương, Quản lý thị trường và UBND các cấp kiểm tra,
giám sát thu thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng sản đạt
kết quả cao. Thông qua các đoàn kiểm tra, liên ngành kịp thời phát hiện truy
thu thuế đối với các trường hợp khai thác các chủ đầu tư, nhà thầu, nhưng
không có hoá đơn, chứng từ, chưa khai nộp thuế tài nguyên.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính
sách thuế tài nguyên cho đối tượng nộp thuế
Một trong những xu hướng xuyên suốt định hướng hoàn thiện cải cách
chính sách, pháp luật thuế nói chung và chính sách, pháp luật thuế tài nguyên
nói riêng trong giai đoạn tới là mở rộng diện chịu thuế đối với tất cả các loại
thuế tiêu dùng, thu nhập, tài sản. Theo định hướng đó, sẽ có một bộ phận đối
tượng trước đây chưa nằm trong diện chịu thuế nay được đưa vào diện chịu
thuế. Nếu công tác tuyên truyền, giải thích không được thực hiện tốt rất có thể
94
có những sai lệch trong nhận thức cho rằng gánh nặng thuế khoá ngày càng đè
nặng lên vai các tầng lớp dân chúng. Vì vậy, để thực hiện chương trình hoàn
thiện hệ thống chính sách thuế có hiệu quả, lộ trình cải cách hoặc thay đổi bổ
sung nên được công bố công khai để các đối tượng nộp thuế có thể yên tâm
trong việc hoạch định chiến lược hoạt động của họ trong từng giai đoạn. Vấn
đề công bố trước lộ trình thay đổi chính sách thuế thực tế đã được nhiều nước
áp dụng và đã có ảnh hưởng tích cực về mặt tâm lý đối với các đối tượng nộp
thuế. Vì vậy, một trong những điều kiện quan trọng góp phần tạo ra sự thành
công trong việc hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt Nam trong giai đoạn sau
chính là công tác tuyên truyền và định hướng cải cách chính sách thuế.
Việc tuyên truyền, hướng dẫn về chính sách thuế một cách kịp thời đến
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư là rất quan trọng. Qua đó giúp các nhà đầu
tư, các doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách thuế giúp họ thực hiện theo đúng
pháp luật. Khi nào chính sách thuế tài nguyên được các doanh nghiệp nắm rõ
và nghiêm túc chấp hành thì khi đó chính sách thuế tài nguyên đó mới đi vào
cuộc sống và việc hoạch định chính sách mới thực sự có hiệu quả. Mọi người
dân cần phải được phổ biến chính sách thuế tài nguyên, giúp họ nhận ra được
nghĩa vụ thuế mà mình phải chấp hành. Đồng thời, tổ chức một cách thường
xuyên các hội thảo về chính sách thuế cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
việc sửa đổi, bổ sung thuế tài nguyên phải trên cơ sở đảm bảo tính hệ thống,
logic của pháp luật thuế, không làm thay đổi gánh nặng thuế khóa, gây bất ổn
tâm lý cho các tổ chức, cá nhân. Do đó, để đảm bảo tính hiệu quả cho chương
trình cải cách cần phải công khai lộ trình cải cách để các doanh nghiệp có
95
điều kiện xây dựng chiến lược hoạt động phù hợp.
Kết luận chương 3
Chương 3 của luận văn đề xuất ra các phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên, đảm bảo khai thác hiệu quả TNTN và
tăng thu cho NSNN. Các giải pháp này được xây dựng dựa trên những tồn tại,
hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong công tác QLT tài nguyên đã được nghiên
cứu ở Chương 2.
Các giải pháp được đề xuất gồm hai nhóm bao gồm nhóm giải pháp
hoàn thiện chính sách pháp luật về QLT tài nguyên và nhóm giải pháp tổ chức
thực hiện pháp luật về QLT tài nguyên. Trong đó nhóm giải pháp về chính sách
thuế tài nguyên cần phải được tập trung hoàn thiện để sớm khắc phục những
96
khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý thu thuế tài nguyên hiện nay.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn TNTN rất phong
phú và đa dạng. Tuy nhiên, nếu việc quản lý khai thác tài nguyên không tốt
sẽ dẫn đến việc cạn kiệt nguồn TNTN, làm ảnh hưởng đến môi trường cũng
như chất lượng cuộc sống của người dân. Để việc khai thác tài nguyên tiết
kiệm và có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp khác nhau,
trong đó thuế tài nguyên được coi là một công cụ kinh tế quan trọng góp
phần điều tiết khai thác TNTN.
Mặc dù, việc triển khai thực hiện pháp luật thuế tài nguyên đã phát huy
nhiều tác động tích cực, làm tăng nguồn thu cho NSNN nhưng vẫn còn bộc lộ
những hạn chế, thiếu sót gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác quản lý thu
thuế của cơ quan thuế. Những khó khăn, vướng mắc này nằm chính trong nội
tại các quy định của pháp luật thuế tài nguyên (như các quy định về người nộp
thuế, quy định về các căn cứ tính thuế…) và trong công tác thực tế quản lý
trước sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau (như việc khó kiểm tra, giám sát
hoạt động khai thác tài nguyên ở các vùng sâu vùng xa hay việc khó kiểm
soát đối với các cá nhân nhỏ, lẻ…). Công tác quản lý thu thuế tài nguyên vì
vậy mà vẫn còn chưa thực sự đạt được hiệu quả cao.
Trước những khó khăn, vướng mắc và tồn tại, hạn chế đó đòi hỏi cần
phải có những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý thuế tài
nguyên, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế tài nguyên; đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi để pháp luật quản lý thuế tài nguyên có thể phát huy được
vai trò và mục tiêu của mình. Các giải pháp được đưa ra từ hai khía cạnh về
chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật quản lý thuế tài nguyên.
Thông qua việc phân bổ và luận giải các nội dung ở từng chương, luận
văn đã góp phần hệ thống hóa một cách khái quát những vấn đề cơ bản về
97
QLT tài nguyên gồm: Những vấn đề lý luận về QLT tài nguyên và pháp luật
về QLT tài nguyên tại Chương 1; Thực trạng pháp luật về pháp luật QLT tài
nguyên và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam tại Chương 2; và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả QLT tài nguyên ở Việt Nam tại Chương 3.
Luận văn với đề tài “Quản lý thuế tài nguyên theo pháp luật Việt Nam”
có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng, trong khi thời gian nghiên cứu có hạn
và sự hạn chế về trình độ lý luận và thực tiễn nên không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết. Vì vậy, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo cũng những người quan tâm đến đề tài này để luận văn có thể
98
được hoàn thiện và có tính khả thi hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Thị Hoài An (2017), Hoàn thiện công tác quản lý thuế tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế - ĐH Đà Nẵng.
2.
Bộ Tài chính (2011), Chiến lược cải cách hệ thống thuế 2011-2020 và kế hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2015, Nxb Tài chính.
3.
Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 12/2016/TT-BTC ngày 20/01/2016 và Thông tư số 174/2016/ TT-BTC ngày 28/10/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên, Hà Nội.
4.
Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 44/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017 của Bộ Tài chính quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau, Hà Nội.
5.
Bộ Tài chính (2018), Quyết định số 2156/2018/QĐ-BTC ngày 15/11/2018 Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Vụ và Văn phòng thuộc Tổng cục Thuế, Hà Nội.
6.
Chính phủ (2010), Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 hướng dẫn thuế tài nguyên (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ), Hà Nội.
7.
Vũ Văn Cương (2012), Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học.
8.
Đặng Tiến Dũng (2003), “Tìm hiểu khái niệm quản lý và quản lý thuế”, Tạp chí thuế nhà nước.
9.
Vũ Cao Đàm (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb TP
99
Hồ Chí Minh.
11. Hoàng Thị Giang, Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012), Chính sách thuế trực thu nhằm mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
12. Vũ Ngọc Hà, Vũ Văn Cương (2009), “Pháp luật về kiểm tra, thanh tra
thuế ở Việt Nam”, Tạp chí luật học, (4).
13. Nguyễn Thị Minh Hằng (2016), Chính sách thuế với mục tiêu tăng
trưởng xanh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện.
14. Nguyễn Văn Hiệu (2002), Cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam, Luận án
tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
15. Học viện hành chính quốc gia (1998), Giáo trình Quản lý hành chính
nhà nước, Hà Nội.
16. Học viện tài chính (2010), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb Tài chính.
17. Nguyễn Ngọc Hùng, Giáo trình Quản lý NSNN, Đại học Kinh tế TP Hồ
Chí Minh
18. Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Về bảo vệ quyền củ người nộp thuế trong Luật quản lý thuế”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, (1), tr. 42-50.
19. Đào Văn Khiêm, Bùi Thị Thu Hòa (2008), “Phân tích về đánh thuế tài nguyên thiên nhiên”, Tạp chí Khoa học Kĩ thuật Thủy lợi & Môi trường, (22).
20. Lê Anh Khoa, Trần Phương Liên (1998), Những kiến thức cơ bản về
thuế, quản lý thuế, Nxb Thống kê.
21. Trần Trọng Khoái (2008), Thuế nhà nước, Nxb Thống kê.
22. Bùi Thị Thùy Linh (2013), Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên đá trên địa bản tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – ĐHQGHN.
100
23. Thanh Mai (2010), “Nâng cao chất lượng kiểm tra nội bộ ngành, ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu”, Tạp chí thuế nhà nước, kỳ 2, tháng 11, tr.6.
24. Nhật Minh (2017), Các nước quản lý thuế tài nguyên như thế nào, Thời
báo tài chính Việt Nam Online.
25. Tạ Văn Nam (2016), Thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc trong hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
26. Nguyễn Văn Phương (2017), Tác động của thuế tài nguyên đối với khai thác tài nguyên thiên nhiên – Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình, Luận án tiến sĩ kinh tế.
27. Quốc hội (2006), Luật Quản lý thuế số 78/20006/QH11 ngày 29/11/2006 (sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016, Hà Nội.
28. Quốc hội (2009), Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009
(sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014), Hà Nội.
29. Quốc hội (2010), Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17/11/2010,
Hà Nội.
30. Quốc hội (2019), Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019,
Hà Nội.
31. Tổng cục Thuế (2018), Báo cáo theo dõi thi hành pháp luật năm 2018,
Hà Nội.
32. Tổng cục Thuế (2019), Quyết định số 211/QĐ-TCT ngày 12/3/2019 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Phòng và Văn phòng thuộc Cục thuế, Hà Nội.
33. Tổng cục Thuế (2019), Quyết định số 245/QĐ-TCT ngày 25/3/2019 về việc
quy định chức năng, nhiệm vụ của các Đội thuộc Chi cục Thuế, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình thuế Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân.
101
35. Trường nghiệp vụ thuế, Giáo trình thuế tài nguyên, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Tuyến (2008), Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế và mô hình cấu trúc của pháp luật thuế, Thông tin pháp luật dân sự.
37. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2013), Nghị quyết số 712/2013/UBTVQH13
ngày 16/12/2013 về việc ban hành mức thuế suất thuế tài nguyên, Hà Nội.
38. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 của Ủy ban thường vụ quốc hội về biểu mức thuế suất thuế tài nguyên, Hà Nội.
39. Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (2015), Tăng trưởng xanh ở
102
Việt Nam: Chính sách tài chính và định hướng giải pháp.