ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HƯƠNG LY
QU¶N Lý THUÕ THU NHËP C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM QUA THùC TIÔN THµNH PHè B¾C K¹N, TØNH B¾C K¹N
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ HƯƠNG LY
QU¶N Lý THUÕ THU NHËP C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM QUA THùC TIÔN THµNH PHè B¾C K¹N, TØNH B¾C K¹N
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRƯƠNG THỊ KIM DUNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hương Ly
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ........................................................................................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế TNCN ........................................... 8
1.1.1. Vài nét về thuế TNCN ................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế TNCN ................................................................... 13
1.1.3. Mục tiêu của hoạt động quản lý thuế TNCN .............................................. 14
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế TNCN ......................... 16
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý thuế TNCN ....................... 19
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý thuế TNCN ............................................... 19
1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý thuế TNCN .............................................. 20
1.2.3. Các bộ phận hợp thành pháp luật về quản lý thuế TNCN........................... 21
1.2.4. Pháp luật về quản lý thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới và
kinh nghiệm với Việt Nam .......................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN ................................. 34
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam .................... 34
2.1.1. Về quản lý đối tượng nộp thuế TNCN ........................................................ 34
2.1.2. Về quản lý đăng ký thuế, mã số thuế TNCN .............................................. 37
2.1.3. Về quản lý kê khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế TNCN ............................. 41
2.1.4. Về quản lý quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN ............................................ 45
2.1.5. Về quản lý miễn thuế, giảm thuế TNCN, giảm trừ gia cảnh ...................... 47
2.1.6. Về kiểm tra thuế, thanh tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN ........ 54
2.1.7. Về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế TNCN ........ 61
2.1.8. Về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế TNCN ..................... 63
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN tại Thành
phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn ...................................................................... 65
2.2.1. Khái quát về Thành phố Bắc Kạn và Chi cục thuế Thành phố Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn ....................................................................................... 65
2.2.2. Thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN tại Chi cục thuế
Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn .............................................................. 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 78
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM .......................................................... 79
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN ............................. 79
3.1.1. Phát triển, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế
năm 2019 theo hướng rõ ràng, cụ thể, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn ..... 79
3.1.2. Xây dựng các quy định mới trong Luật thuế TNCN có sự thống nhất,
đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan ........................ 80
3.1.3. Bổ sung quy định về quản lý thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản ................................................................................... 82
3.1.4. Xây dựng cơ chế quản lý theo hướng thắt chặt kiểm soát, tăng cường
giám sát về nguồn gốc, lượng thu nhập nhận được trên thực tế đối với
các nguồn thu .............................................................................................. 83
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính từ đó đưa ra chế
tài xử phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng có hành vi vi phạm
pháp luật thuế .............................................................................................. 83
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quản lý thuế TNCN ....... 84
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế TNCN đối với
NNT và cán bộ quản lý thuế TNCN ............................................................ 84
3.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý thuế và hoàn
thiện các quy định của pháp luật về dịch vụ thuế điện tử ........................... 86
3.2.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
về thuế TNCN ............................................................................................. 87
3.2.4. Thúc đẩy hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho công chức quản lý thuế TNCN ............................................ 89
3.2.5. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý thuế TNCN ........ 91
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
quản lý thuế TNCN tại Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn, tỉnh
Bắc Kạn ...................................................................................................... 92
3.3.1. Đối với UBND Thành phố Bắc Kạn ........................................................... 92
3.3.2. Đối với Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn .................................................. 93
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 97
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCT: Chi cục Thuế
CNTT: Công nghệ thông tin
CQNN: Cơ quan nhà nước
CQT: Cơ quan thuế
MST: Mã số thuế
NNT: Người nộp thuế
NSNN: Ngân sách nhà nước
TNCN: Thu nhập cá nhân
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang Tên bảng Số hiệu
Bảng thể hiện tỉ trọng thuế TNCN thực thu trên tổng số Bảng 2.1 thu giai đoạn 2016-2019 trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn 67
Bảng thống kê tổng số MST được cấp mới trên địa bàn Bảng 2.2 thành phố Bắc Kạn từ năm 2017 đến nay 69
Bảng 2.3 Bảng tổng hợp số hồ sơ khai thuế TNCN trên địa bàn thành phố Bắc Kạn giai đoạn 2017 - 2019 71
Bảng tổng hợp lượng hồ sơ hoàn thuế TNCN trên địa bàn Bảng 2.4 thành phố Bắc Kạn từ năm 2018 đến nửa đầu năm 2020 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là công cụ quan trọng để tạo ra nguồn thu vào NSNN, đáp ứng nhu cầu
chi tiêu cho bộ máy nhà nước trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, khu vực hành
chính công. Trong đó, thuế TNCN là một trong những loại thuế trực thu có tác động
lớn nhất, trực tiếp nhất đến đời sống xã hội. Nó thể hiện rõ nét mối quan hệ trách
nhiệm giữa nhà nước, công dân và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong
quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Luật Thuế TNCN được chính thức ban hành ngày 21/11/2007 thay thế
Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã thực sự đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng, góp phần làm tăng nguồn thu cho NSNN. Sau nhiều năm
thực hiện và hai lần sửa đổi, bổ sung, Luật Thuế TNCN đã cho thấy vai trò quan
trọng của mình; tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn, có thể thấy được không ít những
vướng mắc, hạn chế nhất định dẫn đến tình trạng gian lận, trốn thuế, không đảm
bảo công bằng xã hội do cào bằng mức thu trong khi điều kiện sống ở mỗi vùng,
mỗi địa phương là khác nhau… Hơn nữa, pháp luật về quản lý thuế khá phức
tạp, có những nội dung quy định vẫn còn lỗ hổng nhưng có nội dung lại quy định
quá chồng chéo dẫn tới khó thực hiện, quản lý, kiểm tra và giám sát.
Để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện các chính sách tài
chính trong đó có hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế TNCN nói riêng là việc
hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải
quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với
công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, chính sách thuế phải phù
hợp với tình hình thực tế của đất nước, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
từng thời kỳ và phù hợp với thu nhập bình quân của mỗi người dân trong xã hội.
Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn có đặc điểm tự nhiên thuận lợi, lại là
1
trung tâm hành chính – kinh tế của tỉnh nên ngày càng thu hút, tập trung đông dân
cư đổ về làm ăn, sinh sống. Vì vậy, tỷ trọng nguồn thu từ thuế TNCN của Thành
phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn là khá lớn so với tổng nguồn thu từ thuế TNCN của
toàn tỉnh Bắc Kạn; cùng với sự phát triển nguồn thu đó thì việc thực hiện pháp luật
về quản lý thuế TNCN trên địa bàn này cũng phát sinh nhiều vấn đề trên thực tiễn
hơn so với những đơn vị hành chính cấp huyện khác của tỉnh, do có nhiều hơn về số
lượng và đa dạng nhóm đối tượng nộp thuế. Trước thực tiễn đó, Chi Cục thuế
Thành phố Bắc Kạn đã có biện pháp tích cực để tổ chức, triển khai thực hiện luật
thuế TNCN; song một bộ phận NNT vẫn chưa có nhận thức đầy đủ, các văn bản
hướng dẫn thi hành còn thiếu tính đồng bộ, bộ máy quản lý thuế còn có hạn chế
nhất định… đã dẫn đến những bất cập trong công tác quản lý thuế TNCN trên địa
bàn thành phố.
Với mong muốn tìm hiểu cụ thể hơn về công tác quản lý thuế TNCN và hệ
thống pháp luật điều chỉnh nó thông qua thực tiễn thi hành tại Chi Cục thuế Thành
phố Bắc Kạn, góp phần nghiên cứu và tìm ra các giải pháp hoàn thiện nhằm đáp
ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại trong quá trình hội nhập hiện nay. Chính vì thế,
tôi đã chọn đề tài “Quản lý thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam qua
thực tiễn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài nghiên
cứu, thời gian qua lĩnh vực này đã được các tác giả quan tâm nghiên cứu trong
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau, từ giáo trình, sách
chuyên khảo, báo, tạp chí chuyên ngành, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ...
Nhìn chung, nội dung được nghiên cứu trong các giáo trình như: Giáo trình
Quản lý thuế của TS. Nguyễn Thị Bất – TS. Vũ Huy Hào, Nhà xuất bản Thống kê
(2002); Giáo trình Quản lý thuế của Học viện Tài chính (2016); Giáo trình Luật
thuế Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân
(2018)… chủ yếu về những vấn đề lý luận bao gồm: khái niệm, đặc điểm, nguyên
2
tắc, vai trò của quản lý thuế và pháp luật về quản lý thuế nói chung. Khái niệm quản
lý thuế được phân tích theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, từ đó các tác giả đưa ra
những đặc điểm riêng của quản lý thuế so với các hoạt động quản lý hành chính
khác của Nhà nước; bên cạnh đó làm rõ nguyên tắc, nội dung và vai trò của quản lý
thuế làm cơ sở cho những nghiên cứu liên quan sau này. Tuy nhiên, quản lý thuế
TNCN và pháp luật về quản lý thuế TNCN mới chỉ là một phần nhỏ chưa được đi
sâu nghiên cứu, trong số những nội dung được đề cập trong những giáo trình này.
Ngoài ra, một số công trình cấp độ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng
nghiên cứu về nội dung này. Có thể chia thành hai nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất là những luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đi sâu phân tích,
làm rõ những quy định của pháp luật quản lý thuế cũng như luật thuế TNCN từ năm
2018 trở về trước, đây khoảng thời gian Luật Quản lý thuế năm 2019 chưa có hiệu
lực thi hành và Luật thuế TNCN chưa được sửa đổi, bổ sung một số quy định mới
như hiện nay. Kể từ năm 2018 đến nay, cả pháp luật thực định và thực tiễn thi hành
công tác quản lý thuế TNCN đã có nhiều điểm mới hơn so với trước kia. Tuy nhiên,
đây vẫn là những nguồn tài liệu hữu ích cung cấp cơ sở lý luận nền tảng cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo về nội dung pháp luật quản lý thuế TNCN trong
tương lai, đồng thời kiến nghị được nhiều giải pháp hiệu quả áp dụng trong xây
dựng pháp luật và công tác quản lý thuế. Nhóm công trình này bao gồm: Chung
Phương Anh (2014), So sánh pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam với một số
nước trên thế giới, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; Trần Thị Thu Huyền (2015), Pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội; Nguyễn Hải Ninh (2016), Kiểm soát thu nhập của NNT trong quá trình
thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội; Nguyễn Thị Mai Dung (2018), Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội...
- Nhóm thứ hai là những luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thu hẹp phạm vi
3
nghiên cứu bằng cách nghiên cứu quy định của pháp luật gắn liền với thực tiễn thi
hành công tác quản lý thuế TNCN ở một địa phương, cụ thể ở cấp huyện hoặc cấp
tỉnh. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu thông qua thực tiễn ở Thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Cụ thể: Nguyễn Thị Hường (2015), Pháp luật về quản lý
thuế TNCN qua thực tiễn thi hành tại Chi cục thuế quận Kiến An, Thành phố Hải
Phòng, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn
Thị Thu (2016), Pháp luật về thuế TNCN từ thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc
sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội…
Ngoài ra, nhiều bài viết trên tạp chí khoa học chuyên ngành, báo điện tử
cũng đề cập đến nội dung về pháp luật quản lý thuế TNCN với hệ thống các quy
định liên quan; song các bài viết này chỉ đề cập đến từng khía cạnh nhỏ trong tổng
thể của vấn đề, không còn mang tính cập nhật ở thời điểm hiện nay. Có thể kể ra
một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành và báo điện tử của cơ quan chuyên
môn trong lĩnh vực thuế nói về thực tiễn thi hành pháp luật quản lý thuế TNCN và
đưa ra hướng cải cách, hoàn thiện như: Lê Thị Thu Thủy (2009), Những vấn đề đặt
ra khi thực hiện Luật Thuế TNCN ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 4; Nguyễn Thị
Mai Dung (2015), Kinh nghiệm quản lý thuế TNCN của một số nước trên thế giới
và bài học đối với Việt Nam, Tạp chí Thanh tra số 11/2015, trang 71-73; Trương Bá
Tuấn (2017), Cải cách chính sách thuế TNCN của Việt Nam hướng tới mục tiêu tái
cấu trúc ngân sách nhà nước, Cổng thông tin điện tử Viện Chiến lược và Chính
sách tài chính - Bộ Tài chính;... Một vài bài viết đề cập đến hạn chế, vướng mắc về
giảm trừ gia cảnh trong thực tiễn như: Nguyễn Thị Mai Dung (2017), Một số vấn đề
giảm trừ gia cảnh và kê khai giảm trừ gia cảnh trong pháp luật thuế TNCN ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2017, trang 11-15; Việt Dũng (2019),
Tổng cục Thuế thông tin về mức giảm trừ gia cảnh tính thuế TNCN, Tạp chí tài
chính – Bộ Tài chính...
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về quản lý thuế
TNCN ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Có công trình, bài báo nghiên cứu phân
tích, bình luận một số khía cạnh pháp lý về quản lý thuế TNCN; cũng có những luận
4
văn, luận án kết hợp đánh giá hệ thống pháp luật quản lý thuế TNCN trên cơ sở thực
tiễn thi hành tại địa phương; một số công trình khác nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi
rộng về chính sách thuế, trong đó có quản lý thuế TNCN. Về cơ bản, các công trình
nghiên cứu nêu trên phần nào đã chỉ ra tầm quan trọng của hệ thống pháp luật về
quản lý thuế TNCN; tuy nhiên, nhiều nội dung không còn mang tính cập nhật, không
phản ánh được những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn hiện nay. Hệ thống pháp luật
về quản lý thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế TNCN nói riêng đã có những
thay đổi để phù hợp với tình hình đất nước. Cho đến nay chưa có luận văn thạc sĩ nào
nghiên cứu hệ thống pháp luật về quản lý thuế TNCN trong bối cảnh Luật Quản lý
thuế năm 2019 bắt đầu có hiệu lực thi hành, bên cạnh đó, cũng chưa có luận văn nào
nghiên cứu về vấn đề này thông qua thực tiễn thi hành tại địa bàn Thành phố Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
Chính vì thế, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu làm mới thêm về hệ thống pháp
luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam kết hợp đánh giá thông qua thực tiễn thi hành
pháp luật trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở kế thừa và phát
huy những đóng góp của các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến pháp
luật quản lý thuế TNCN.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu hệ thống pháp luật hiện hành về
quản lý thuế TNCN và thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam,
được minh chứng bởi một địa phương cụ thể là Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
Luận văn làm rõ được cơ sở lý luận của pháp luật quản lý thuế TNCN hiện nay; tìm
hiểu, đánh giá thực trạng của các quy định và quá trình thực hiện pháp luật quản lý
thuế TNCN trên địa bàn nghiên cứu; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp giúp cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN có hiệu quả hơn.
Mục tiêu cụ thể
- Tìm đọc, tham khảo các tài liệu chuyên ngành về quản lý thuế TNCN để
làm rõ cơ sở lý luận, những vấn đề liên quan đến công tác quản lý thuế TNCN nói
chung và đặc biệt là về pháp luật về quản lý thuế TNCN suốt thời gian qua. Trong
5
đó chú trọng đến các quy định của Luật thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung và
Luật quản lý thuế năm 2019 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật
được ban hành đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra cũng có sự so sánh các quy định
mới và cũ nhằm thấy được sự tiến bộ của pháp luật, đánh giá sự ảnh hưởng của Luật
quản lý thuế năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01/07/2020.
- Khảo sát, thu thập những dữ liệu, thông tin có liên quan đến nội dung
nghiên cứu tại Chi Cục thuế Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Trên cơ sở phân
tích thực trạng quy định về quản lý thuế TNCN đang có vướng mắc gì, ở khâu nào?
Gắn với việc nghiên cứu pháp luật về quản lý thuế TNCN trên địa bàn Thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn là nghiên cứu khả năng thực hiện pháp luật ở mọi mặt để chỉ
ra ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Trên cơ sở những đánh giá trên, luận văn đề xuất, kiến nghị các giải pháp
hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý thuế TNCN, nâng cao
trách nhiệm của CQT cũng như trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc
thực hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN sao cho phù hợp với thực tế khách quan,
nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực thi quản lý thuế TNCN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề về thuế và pháp luật
đối với quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật thuế về quản lý thuế thu
nhập cá nhân và thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân tại
thành phố Bắc Kạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó,
luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương
pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp đánh giá, phương pháp thống kê... Những phương pháp này sẽ được lồng
ghép sử dụng sao cho phù hợp với từng nội dung nghiên cứu nhằm đạt được mục
6
tiêu đã đề ra, cụ thể như sau:
- Phương pháp thống kê, thu thập thông tin được sử dụng trong chương 1 và
chương 2 để thu thập dữ liệu từ các tài liệu, công trình nghiên cứu, dự án khoa học,
báo cáo tổng kết đã công bố nhằm đưa ra nhận định khách quan về nội dung nghiên
cứu. Những vấn đề đã được nghiên cứu trước đây được tác giả tiếp tục kế thừa; với
các nội dung mới, vẫn còn bị bỏ ngỏ hay chưa được đào sâu sẽ được tác giả tiếp tục
nghiên cứu thêm.
- Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 để đối chiếu các
quy định cũ và mới của pháp luật về quản lý thuế TNCN nhằm tìm ra điểm bất cập,
chưa thống nhất; sự tiến bộ trong hệ thống pháp luật về quản lý thuế TNCN sau khi
được sửa đổi, bổ sung; điểm chưa phù hợp giữa quy định pháp luật với thực tiễn
thực hiện; những vướng mắc khi đưa pháp luật áp dụng vào thực tế.
- Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong
chương 2 và chương 3. Phương pháp này giúp nghiên cứu thực trạng quy định của
pháp luật về quản lý thuế TNCN và thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN
trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn từ những dữ liệu, thông tin thu thập
được trước đó. Trên cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế TNCN.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế thành 3 chương như sau:
• Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế TNCN và pháp luật về
quản lý thuế TNCN.
• Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam và thực
tiễn thực hiện tại Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.
• Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế TNCN nhằm
7
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế TNCN
1.1.1. Vài nét về thuế TNCN
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế TNCN
Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN là sắc thuế có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ biến ở các
quốc gia trên thế giới, mặc dù vậy chính sách thuế TNCN của mỗi quốc gia lại có
những điểm đặc thù riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên giải thích danh từ
thu nhập là “các khoản thu nhập được trong một khoảng thời gian nhất định tính
theo tháng năm”, khái niệm này được đưa ra khá chung chung, chưa đề cập đến các
chi phí, khoản không tính vào thu nhập nhận được cuối cùng. Bên cạnh đó, cũng
trong cuốn Từ điển này động từ thu nhập có nghĩa là “nhận được tiền bạc, của cải
vật chất từ một hoạt động nào đó” [38, tr.984], định nghĩa này tuy đã chỉ ra rõ hơn
nhưng vẫn chưa thực sự bao quát được đầy đủ tất cả các trường hợp vì có những loại
thu nhập phát sinh không phải do họ thực hiện “một hoạt động nào đó” mà được
người khác biếu, tặng hoặc được thừa kế, trúng thưởng. Những khoản thu nhập này
tuy không mang tính chất thường xuyên nhưng cũng có ý nghĩa rất quan trọng.
Theo Paul.A.Samuelson - Nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: “Thu nhập là
tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất định”.
Đây là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hay hiện vật được tính thành tiền, nó bao
gồm cả phần sản xuất để tự tiêu dùng, nhận được từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, từ lao động hoặc không từ lao động, từ quyền sở hữu về tài sản mà
có hoặc tiêu dùng các dịch vụ không phải thanh toán [11, tr.33].
Với cách tiếp cận của hai nhà kinh tế người Anh là R.M.Hais và H.C.
8
Simons đưa ra từ đầu thế kỷ XX thì: Thu nhập của một cá nhân được xem là sự gia
tăng về sức mua ròng của cá nhân đó trong một giai đoạn nhất định. Nói cách khác,
đó là “tổng chi cho tiêu dùng” cộng với “sự gia tăng ròng về mức độ giàu có” của
một cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định. Ở đây TNCN được gọi là “thu
nhập toàn diện” và thường bao quát tất cả các loại hình thu nhập mà một cá nhân
nhận được dưới nhiều hình thức khác nhau. Khái niệm này thể hiện được bản chất
của thu nhập, đó là phần giá trị tăng thêm thực tế của từng cá nhân trong một
khoảng thời gian nhất định [50].
Từ những nhận định trên có thể thấy rằng, thu nhập của cá nhân có thể phát
sinh từ rất nhiều nguồn khác nhau như: kinh doanh, tiền lương, đầu tư, chuyển
nhượng, trúng thưởng, nhận quà biếu, nhận thừa kế... Tuy nhiên, không phải tất cả
thu nhập từ các nguồn của cá nhân đều là thu nhập tính thuế, thu nhập tính thuế
được xác định trên cơ sở thu nhập chịu thuế nhận được sau đó trừ đi những chi phí
hợp lý và các khoản được giảm trừ. Ngoài ra, do nguồn phát sinh của TNCN rất đa
dạng nên chủ thể nhận được thu nhập cũng vô cùng phong phú bao gồm: cá nhân
kinh doanh; người lao động; các nhà đầu tư; người được nhận thừa kế, quà tặng; cá
nhân trúng thưởng…
Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Liên và PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệu thì thuế
TNCN được hiểu là sắc thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của cá nhân phát
sinh trong kỳ tính thuế [16, tr.221].
Trong cuốn Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt
Nam, tác giả Lê Văn Ái nhận định: Thuế TNCN là khoản thu bắt buộc đánh trên thu
nhập chịu thuế của cá nhân trong kỳ tính thuế theo quy định của pháp luật [17, tr.12].
Tác giả Huỳnh Văn Diện cho rằng thuế TNCN là một loại thuế đánh vào thu
nhập của cá nhân do Nhà nước ban hành thành luật và được bảo đảm thi hành bằng
sức mạnh của Nhà nước” [11, tr. 33-34].
Theo quan điểm của nhóm tác giả Giáo trình Luật thuế Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu
đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc
9
từng lần [34, tr.214].
Trong tất cả những quan điểm, nhận định nêu trên, tác giả đồng ý với quan
điểm của các nhà khoa học pháp lý đưa ra trong Giáo trình Luật thuế Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội, bởi nó chỉ rõ đặc điểm thuế TNCN là thuế trực thu,
đối tượng nộp thuế TNCN là ai, đối tượng phải chịu loại thuế này là gì và trong
những kì tính thuế nào. Có thể thấy, nhận định về thuế TNCN này tương đối ngắn
gọn, cụ thể nhưng vẫn có sự bao quát và đề cập đầy đủ các nội dung có liên quan.
Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập thực
nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần.
Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là loại thuế trực thu, vì có đối tượng nộp thuế đồng thời là đối
tượng chịu thuế. Tâm lý người dân ít bị tác động đối với khoản thuế mình phải chịu
nếu đó là các loại thuế gián thu khác, bởi nó đã được tính sẵn trong giá thanh toán
các loại hình sản phẩm, dịch vụ (như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt...).
Còn thuế trực thu thường tạo ra phản ứng mạnh mẽ trong cộng đồng nếu có sự thay
đổi về chính sách thuế suất, phạm vi đối tượng được miễn giảm; bởi thuế TNCN
được trừ trực tiếp từ thu nhập từ tiền lương, tiền công theo tháng hoặc từng lần phát
sinh thu nhập của mỗi cá nhân. Phản ứng như thế nào phụ thuộc vào ý thức của các
đối tượng nộp thuế và cơ cấu nền kinh tế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, diện đánh thuế được xác định dựa
trên căn cứ nguồn gốc phát sinh của khoản thu nhập và đặc điểm cư trú của cá nhân.
Thứ nhất, thu nhập chịu thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân
thuộc diện đánh thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không bao gồm
thu nhập miễn thuế. Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ
những người có thu nhập, bao gồm cả cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú.
- Thuế TNCN thường là loại thuế có tính lũy tiến vì nó đóng vai trò trực tiếp
đảm bảo công bằng xã hội. Các quốc gia thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến có
nhiều bậc, mỗi bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì mức thuế suất biên càng cao.
Càng là những người có thu nhập cao thì càng phải đóng góp nhiều hơn so với
những người có mức thu nhập thấp. Điều này làm giảm dần mâu thuẫn và áp lực
10
mất ổn định của đa số người nghèo, người có thu nhập thấp.
- Thuế TNCN luôn gắn liền với chính sách xã hội của mỗi quốc gia [34, tr.214],
là công cụ điều tiết thu nhập dân cư. Việc điều tiết thu nhập được tiến hành thông
qua những quy định của pháp luật về mức thuế suất, các khoản thu nhập chịu thuế,
bậc tính thuế... Từ đó, có căn cứ xác định nghĩa vụ nộp thuế của mỗi cá nhân.
1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thuế TNCN
Đối tượng nộp thuế TNCN
Yếu tố này là cơ sở để xác định rõ cá nhân nào có nghĩa vụ phải kê khai và
nộp thuế TNCN theo quy định của pháp luật. Đối tượng nộp thuế TNCN theo quy
định là thể nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm nộp thuế TNCN cho Nhà nước.
Nhiều trường hợp người có trách nhiệm nộp thuế chính là người chịu thuế, nhưng
cũng có trường hợp NNT không phải là người chịu thuế, ví dụ như trường hợp cá
nhân, cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ và nộp thay cho người chịu
thuế khi được ủy quyền. Gắn liền với yếu tố NNT là đặc điểm cư trú. Cá nhân cư
trú nộp thuế đối với thu nhập toàn cầu còn cá nhân không cư trú nộp thuế trên thu
nhập có nguồn gốc phát sinh tại quốc gia, vùng lãnh thổ sở tại.
Thu nhập chịu thuế TNCN
Thu nhập chịu thuế TNCN là tổng số các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền
công và các khoản thu nhập chịu thuế khác có tính chất tiền lương, tiền công mà cơ
quan chi trả cho cá nhân (bao gồm cả các khoản tiền lương, tiền công nhận được do
làm việc tại khu kinh tế). Không bao gồm: tiền ăn giữa ca, tiền ăn trưa; tiền phụ cấp
điện thoại, phụ cấp trang phục; tiền công tác phí; thu nhập từ phần tiền lương, tiền
công làm việc ban đêm, làm thêm giờ.
Các khoản giảm trừ đối với cá nhân cư trú
Giảm trừ gia cảnh bao gồm giảm trừ bản thân và giảm trừ người phụ thuộc, là
số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh
doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú [25, Điều 19].
Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học đóng
góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa; đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ
11
nhân đạo, quỹ khuyến học [36, Điều 20]
Giảm trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số
ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc.
Mức thuế suất TNCN
Đây là yếu tố quan trọng nhất của mỗi một sắc thuế, nó phản ánh chính sách
điều chỉnh kinh tế - xã hội của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu
của mỗi NNT. Việc xác định thuế suất trong một loại thuế vừa phải hướng đến coi
trọng lợi ích quốc gia, vừa cần chú ý đến lợi ích chính đáng của NNT. Thuế TNCN
có các loại mức thuế, thuế suất sau đây:
- Mức thuế cụ thể (tuyệt đối) được ấn định bằng một mức tuyệt đối dựa trên
cơ sở thuế.
- Thuế suất nhất định là thuế suất được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cụ
thể trên thu nhập chịu thuế, không bị thay đổi theo quy mô của thu nhập chịu
thuế. Ví dụ, thuế suất thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh phân phối, cung
cấp hàng hóa là 0,5% trên thu nhập chịu thuế; đối với cá nhân kinh doanh hoạt
động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp là 5%
trên thu nhập chịu thuế…
- Biểu thuế suất lũy tiến là bảng tổng hợp các thuế suất hoặc mức thuế nhất
định trong một sắc thuế. Thuế suất lũy tiến là thuế suất tăng dần theo sự tăng lên
của phần thu nhập tính thuế, gồm thuế suất lũy tiến từng phần và thuế suất lũy tiến
toàn phần, cụ thể như sau:
+ Biểu thuế lũy tiến từng phần là biểu thuế gồm nhiều bậc, ứng với mỗi bậc
là một mức thuế suất tương ứng, thuế suất tăng dần theo từng bậc thuế. Thuế được
tính từng phần theo bậc thuế và mức thuế suất tương ứng của từng bậc, số thuế phải
nộp là tổng số thuế tính cho từng bậc. Theo Luật thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ
sung, biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tiền lương, tiền công.
+ Biểu thuế lũy tiến toàn phần cũng là biểu thuế gồm nhiều bậc với mỗi mức
tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một mức thuế
12
suất chung tương ứng. Khác với biểu thuế lũy tiến từng phần, số thuế phải nộp được
tính bằng cách lấy toàn bộ thu nhập tính thuế để áp dụng vào mức thuế suất tương
ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số thuế phải nộp khá đơn giản
và nhanh chóng.
- Thuế suất luỹ thoái: là loại thuế suất có tính chất ngược lại với thuế suất luỹ
tiến, tức là mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại tăng dần. Đây là
loại thuế suất không được áp dụng phổ biến.
Chính sách miễn, giảm thuế TNCN
Miễn, giảm thuế được áp dụng với những trường hợp ngoại lệ nên thường
được viết thành một chương hoặc những điều luật riêng biệt. Trong đó quy định cụ
thể những khoản thu nhập được loại trừ nghĩa vụ nộp thuế và các trường hợp đối
tượng nộp thuế được giảm bớt số tiền thuế TNCN phải nộp so với thông thường (vì
các lý do khách quan dẫn đến việc nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai
nạn, bệnh hiểm nghèo). Ngoài ra còn bao gồm cả các quy định về điều kiện, thủ tục,
hồ sơ xét miễn, giảm thuế TNCN.
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế TNCN
Quản lý thuế là một nội dung của quản lý nhà nước về kinh tế và cũng là một
nhánh quan trọng của quản lý tài chính công.
Theo nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý trong Giáo trình
Quản lý thuế của Học viện Tài chính thì quản lý thuế là việc tổ chức thực thi pháp
luật thuế của nhà nước, tức là, quản lý thuế được hiểu là hoạt động tác động và điều
hành của nhà nước đối với hoạt động thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT [17, tr.8].
Trong Giáo trình Quản lý chi tiêu công do tác giả Dương Thị Bình Minh chủ
biên thì quản lý thuế lại là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu
NSNN thực hiện. Đặt ra thuế là đặc quyền thuộc Nhà nước. Lập kế hoạch thu, tổ
chức thu thuế, kiểm tra, thanh tra và xử phạt thuế đương nhiên là những nghiệp vụ
nội hàm đặc quyền đó [23, tr.139].
Theo cuốn tài liệu về Chiến lược Quản lý thuế của Tổng Cục thuế Latvia:
Quản lý thuế là một hệ thống những quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm
13
mục tiêu đảm bảo thu thuế đúng, đủ và công bằng trên cơ sở quy định của pháp luật
thuế, bao gồm các hoạt động thu nhận hồ sơ khai thuế, tính toán số thuế phải nộp,
đôn đốc thu nộp thuế và cung ứng dịch vụ tư vấn cho NNT [17, tr.8].
Tác giả Nguyễn Thị Mai Dung đưa ra nhận định quản lý thuế trong Luận án
Tiến sĩ Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay là quá trình
tác động của cơ quan quản lý thuế từ trung ương tới địa phương đến NNT nhằm
đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế, phát huy vai trò của thuế [12, tr.28].
Trên cơ sở những nghiên cứu, nhận định trên có thể nhận thấy rằng: Quản lý
thuế là sự tác động có chủ đích của Nhà nước đến quá trình tổ chức quản lý thuế của
cơ quan thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế nhằm đảm bảo sự tuân
thủ pháp luật thuế và ổn định nguồn thu cho NSNN.
Như vậy, quản lý thuế TNCN được hiểu là sự tác động có chủ đích đến quá
trình tổ chức quản lý thuế TNCN của CQT và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế TNCN
của mỗi đối tượng nộp thuế nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật thuế TNCN, phát
triển nguồn thu cho NSNN.
1.1.3. Mục tiêu của hoạt động quản lý thuế TNCN
1.1.3.1. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần tăng nguồn thu cho NSNN
để phát triển đất nước và đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững
Nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người
dần tăng lên mà trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, nhu cầu chi
tiêu ngân sách phục vụ các vấn đề an ninh – quốc phòng, an sinh xã hội, điều hành
đất nước… ngày một nhiều hơn. Bên cạnh đó là hàng loạt các loại thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương mại dần được miễn giảm để thu hút
nguồn lợi kinh tế từ nước ngoài, nên không thể phủ nhận rằng thuế TNCN là một
nguồn thu quan trọng đối với NSNN ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Vì thế,
công tác quản lý thuế TNCN giúp Nhà nước ổn định nguồn thu, tránh thất thoát cho
ngân sách và đảm bảo nền tài chính vững mạnh.
1.1.3.2. Hoạt động quản lý thuế TNCN nhằm đảm bảo việc thực hiện thuế
TNCN một cách nghiêm minh
14
Vì thuế TNCN là loại thuế trực thu, điều tiết vào thu nhập của các cá nhân
nên rất dễ tác động đến phản ứng của NNT hoặc làm phát sinh tình trạng trốn thuế,
lậu thuế nếu mức thuế suất họ phải chịu quá cao. Bên cạnh đó, thuế TNCN là sắc
thuế có diện đánh thuế rộng và phân tán cho nên việc theo dõi, tính và thu thuế
trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Nếu không có biện pháp hiệu quả, phù hợp
thì hoạt động quản lý thuế TNCN của Nhà nước không thể đảm bảo được tính
nghiêm chỉnh, chính xác và đúng pháp luật.
1.1.3.3. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần tăng cường ý thức chấp hành
pháp luật của người dân và tạo điều kiện cho NNT thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế
Để nâng cao tính chủ động, tự giác của NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ
thuế thì Luật Quản lý thuế đã được Nhà nước xây dựng và ban hành nhằm quy định
rõ thẩm quyền, trách nhiệm hỗ trợ cũng như giám sát, ngăn chặn hành vi vi phạm
của CQT, song song với đó NNT có cần phải tự giác tuân thủ các quy định, phối
hợp với cơ quan chức năng xuyên suốt quy trình quản lý. Để hệ thống quy định trên
đạt hiệu quả thì không thể không nhắc đến việc đưa pháp luật vào thực tiễn thông
qua hoạt động quản lý thuế TNCN. Nhờ có hoạt động quản lý thuế mà cơ quan thuế
vừa có thể giúp đỡ NNT trong quá trình thực hiện thủ tục thuế, vừa có cơ chế giám
sát, kiểm soát NNT nhằm giảm thiểu vi phạm; từ đó, nâng cao đáng kể ý thức chấp
hành pháp luật của người dân, khuyến khích họ tự giác thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
thuế với Nhà nước.
1.1.3.4. Hoạt động quản lý thuế TNCN góp phần kiểm soát thu nhập của các
cá nhân và hạn chế tham nhũng
Hiện nay, tham nhũng là một “căn bệnh” của xã hội, không phân biệt khu
vực công hay tư. Hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước không khác gì khu
vực công, thậm chí thủ đoạn ngày một tinh vi và kín kẽ hơn trước. Đồng thời, do
chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của các đối tượng khác trong xã hội nên việc
dịch chuyển tài sản nhằm tránh sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền phòng,
chống tham nhũng cũng gây khó khăn cho việc xác định tính trung thực trong kê
khai tài sản, thu nhập. Bởi vì, trong thực tiễn những tài sản có giá trị lớn do tham
15
nhũng mà có của người có chức vụ, quyền hạn thường được đứng tên người thân
thích hoặc những người khác có quan hệ thân thiết với họ [27]. Vì vậy, việc tăng
cường công tác quản lý thuế TNCN là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm kiểm soát
được thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn kể cả trong khu vực Nhà nước và
khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu ban hành pháp luật về thuế tài sản
theo thông lệ quốc tế, đây là loại thuế sớm muộn nên được ban hành nhằm bổ sung
cho thuế TNCN để hạn chế tham nhũng, vì thu nhập thì có thể dễ để che giấu nhưng
tài sản thì không [24, tr.25].
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý thuế TNCN
1.1.4.1. Yếu tố cơ chế, chính sách pháp luật của nhà nước về quản lý thuế TNCN
Hoạt động quản lý thuế TNCN có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc trực tiếp
vào hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý thuế TNCN. Từ
khi Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành nhiều
văn bản sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện và kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách
quản lý thuế TNCN sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam và thông
lệ quốc tế tùy từng giai đoạn.
Cơ chế, chính sách pháp luật là một hình thức thể hiện quan điểm của giai
cấp thống trị. Quan điểm của giai cấp này tác động trực tiếp đến việc xây dựng cơ
chế, chính sách thuế; những cơ chế, chính sách đó lại tiếp tục không tạo ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện công tác quản lý thuế. Mỗi chính sách ra đời ứng với quan
điểm khác nhau sẽ tạo ra luồng tác động khác nhau đến các hoạt động quản lý hành
chính. Một hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật hoàn chỉnh, chặt chẽ, có tính đồng
bộ cao, phù hợp, dễ thực hiện sẽ tăng tính hiệu quả của hoạt động quản lý thuế
TNCN trong thực tiễn. Vì nó là căn cứ để NNT thực hiện nghĩa vụ, bên cạnh đó,
cũng là cơ sở để cơ quan thuế tiến hành quy trình quản lý, kiểm tra, xử phạt vi phạm
trong trường hợp cần thiết. Trái lại, hệ thống cơ chế, chính sách bao gồm những nội
dung quá phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn; đồng thời, quy định không
rõ ràng, nhất quán mà thủ tục hành chính lại rườm rà sẽ gây khó khăn cho cả cơ
quan quản lý thuế và NNT sẽ làm tăng chi phí hành chính, lãng phí thời gian, giảm
16
hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN.
1.1.4.2. Yếu tố về ý thức chấp hành pháp luật của người nộp thuế TNCN
Thông qua công cụ pháp luật Nhà nước tạo ra tác động đến đời sống kinh tế -
xã hội của người dân cũng như các hoạt động quản lý hành chính của CQNN, cụ thể
trong luận văn này là hoạt động quản lý thuế TNCN. Ý thức chấp hành pháp luật
thuế của NNT là một trong những yếu tố quan trọng có tác động phần nào tới hoạt
động quản lý thuế TNCN của cơ quan chức năng, nó là hệ quả hành vi xuất phát từ
trình độ hiểu biết của mỗi người. Một xã hội có NNT với ý thức tuân thủ tốt là một
xã hội có cộng đồng dân cư có dân trí cao, nhận thức sâu sắc nghĩa vụ của mình đối
với Nhà nước và trách nhiệm của bản thân đối với cộng đồng. Thực tế, khi mỗi
công dân nhận thức đúng đắn về quyền lợi an sinh xã hội và dịch vụ công cộng mà
họ được thụ hưởng là do nhà nước cung cấp, họ sẽ thấy rằng nghĩa vụ đóng thuế
vào NSNN là điều nên làm. Mỗi công dân có ý thức tự nguyện chấp hành pháp luật
thuế TNCN sẽ khiến cho quy trình quản lý thu thuế được thực hiện hiệu quả, thuận
lợi. Từ đó, ngày càng giảm thiểu hành vi trốn thuế, đồng thời, quá trình làm việc
cũng được giải quyết một cách nhanh gọn, chính xác, kịp thời. Ngược lại, nếu ý
thức chấp hành pháp luật của NNT kém sẽ dẫn đến tình trạng khai thuế, nộp thuế,
quyết toán thuế, thanh tra, kiểm tra thuế bị trì trệ, làm giảm hiệu suất giải quyết hồ
sơ của CQT, gây khó khăn cho CQT trong việc thực hiện công tác quản lý thuế
TNCN. Hậu quả khó tránh khỏi là nguồn thu thuế bị thất thoát, không đảm bảo công
bằng giữa những NNT.
Ý thức chấp hành pháp luật của NNT có thể từng bước cải thiện khi được cơ
quan chức năng trong lĩnh vực quản lý thuế tiến hành tuyên truyền, giáo dục đầy đủ
định kì. Một khi người dân thực sự am hiểu pháp luật về thuế, có ý thức tự giác
hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của bản thân thì hiệu quả của công tác quản lý thuế
không những sẽ rất cao, mà còn phát huy được tối đa chức năng của thuế TNCN.
1.1.4.3. Yếu tố về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý
thuế TNCN và cơ sở vật chất của cơ quan quản lý thuế
Về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý thuế TNCN
17
Trình độ, năng lực là một dạng khả năng chuyên biệt của cá nhân nhưng lại
có quan hệ mật thiết với quá trình thực hiện hành vi. Việc thực thi pháp luật về quản
lý thuế TNCN chịu ảnh hưởng từ trình độ, năng lực quản lý của CQT, công chức
thuế. Bởi toàn bộ quy trình của hoạt động quản lý thuế đều do đội ngũ này vận
hành, từ ban hành văn bản, tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện quy định của pháp
luật đến thanh tra, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm. Các định hướng, chính sách
muốn hoạt động hiệu quả, có tính thực tiễn cao, phù hợp với hoàn cảnh của đất
nước thì cơ quan thuế, công chức thuế phải là tổ chức, cá nhân có năng lực, trình độ
nhất định. Cho nên mỗi cá thể trong đội ngũ công chức thuế ít nhất đều phải nắm
chắc kiến thức nghiệp vụ cơ bản và không ngừng bồi dưỡng kỹ năng thực tế liên
quan đến hoạt động quản lý thuế TNCN. Đặc biệt đội ngũ lãnh đạo cần phải có kinh
nghiệm dày dặn trong việc xử lý tình huống thực tế, có chuyên môn, nghiệp vụ sâu
và rộng trong mảng công việc do mình quản lý, để dẫn dắt cơ quan, đơn vị công tác
thực hiện hiệu quả hoạt động quản lý thuế TNCN.
Bên cạnh yếu tố về năng lực, trình độ thì phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ,
công chức thuế cũng tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý thuế TNCN. Để có
được một đội ngũ thực sự có chất lượng thì mỗi cán bộ, công chức phải là người có
nhân cách tốt, luôn nhiệt huyết và có trách nhiệm với công việc được giao. Ngoài ra,
nên giải quyết công việc một cách mềm dẻo, linh hoạt, không cửa quyền, hách dịch
nhưng cũng không được đi ngược lại với các quy định của chính sách pháp luật. Có
như vậy thì hoạt động quản lý thuế TNCN mới đạt được hiệu quả cao trên thực tế.
Về cơ sở vật chất của cơ quan quản lý thuế
Quản lý thuế TNCN là một chuỗi công việc bao gồm tiếp nhận tờ khai đăng
kí MST, cấp MST; nhận, nhập, kiểm tra tờ khai thuế; liên hệ, trao đổi thông tin với
các cơ quan, phòng, ban có liên quan; tuyên truyền, phổ biến pháp luật... Những
công việc này đòi hỏi sự tỉ mỉ, tính chính xác cao nhưng vẫn phải đảm bảo hoàn
thành đầy đủ, kịp thời để tránh thất thoát nguồn thu. Chính vì thế, muốn hoạt động
quản lý thuế TNCN được diễn ra vừa nhanh chóng, hiệu quả vừa an toàn, tiết kiệm
thời gian, công sức thì cơ sở vật chất của cơ quan quản lý thuế phải đáp ứng được
18
đòi hỏi của công việc. Đảm bảo cơ sở vật chất tốt phục vụ hoạt động của CQT là
điều hết sức cần thiết để công tác quản lý thuế TNCN trơn tru hơn; đồng thời, phải
phát triển hơn nữa hệ thống cơ sở dữ liệu dành riêng cho ngành thuế, ứng dụng
CNTT trong hoạt động quản lý thuế nhằm mục đích kiểm soát tốt thông tin và tra
cứu nhanh khi có nhu cầu tìm kiếm.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý thuế TNCN
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý thuế TNCN
Pháp luật quản lý thuế TNCN là công cụ hữu hiệu giúp điều tiết tất cả các
khoản thu nhập thuộc sở hữu cá nhân, không phân biệt nguồn gốc phát sinh thu
nhập vì vậy các quan hệ xã hội hình thành nên những khoản thu nhập này rất đa
dạng: quan hệ kinh doanh, quan hệ lao động, quan hệ chuyển nhượng các quyền,
quan hệ tín dụng... Tùy theo đặc thù kinh tế - xã hội của từng nước mà việc xây
dựng hệ thống pháp luật quản lý thuế TNCN là khác nhau. Đây là hàng rào pháp lý
được pháp luật quản lý thuế TNCN thiết lập để giúp các chủ thể tham gia vào quan
hệ này biết được đâu là giới hạn và khi vượt qua giới hạn đó họ sẽ phải gánh chịu
những hậu quả như thế nào. Hệ thống pháp luật quản lý thuế TNCN nói chung đều
được cấu thành bởi hai bộ phận chính là các quy định về nội dung và các quy định
về hình thức. Trong đó, pháp luật nội dung phản ánh chính sách thuế TNCN, còn
pháp luật hình thức quy định các thủ tục hành chính liên quan đến vấn đề quản lý
thuế TNCN. Việt Nam xây dựng hệ thống pháp luật về quản lý thuế TNCN theo
hướng ban hành Luật Thuế TNCN riêng biệt với Luật Quản lý thuế. Khác với một
số nước quy định tất cả các sắc thuế chung trong bộ luật thuế vụ, bộ luật này vừa
quy định về nội dung điều chỉnh của mỗi sắc thuế vừa quy định hồ sơ, thủ tục và cơ
chế quản lý thuế [41].
Như vậy, pháp luật quản lý thuế TNCN là tổng thể các quy phạm pháp
luật do CQNN có thẩm quyền ban hành tạo cơ sở pháp lý cho sự tác động có chủ
đích của Nhà nước, điều chỉnh quan hệ xã hội giữa Nhà nước với đối tượng nộp
thuế và các chủ thể khác có liên quan phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý
thuế TNCN của CQT và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của NNT để đảm bảo tuân
19
thủ pháp luật thuế TNCN, phát triển nguồn thu vào NSNN.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý thuế TNCN
1.2.2.1. Đối với Nhà nước
Thứ nhất, pháp luật về quản lý thuế TNCN tạo cơ sở pháp lý quan trọng
trong việc điều hành chính sách thuế và tổ chức thực hiện Luật thuế TNCN nhằm
phát triển nguồn thu vào ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Nói
cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật về quản lý thuế TNCN như một công cụ
hữu hiệu để thực hiện hoạt động quản lý thuế, thông qua việc quy định trình tự, thủ
tục hành chính đối với nghiệp vụ quản lý thuế TNCN. Hệ thống quy trình quản lý
thuế nếu được quy định đầy đủ, thống nhất và minh bạch sẽ góp phần hạn chế tiêu
cực trong công tác quản lý thuế; ngược lại, một quy trình quản lý không phù hợp
khiến các mục tiêu mà chính sách thuế đặt ra khó có thể đạt được. Có thể thấy, Luật
Quản lý thuế có vai trò quan trọng, tạo ra tác động không nhỏ đến hiệu quả thực
hiện luật thuế TNCN, bởi pháp luật về thuế TNCN là pháp luật nội dung còn pháp
luật về quản lý thuế TNCN là pháp luật thủ tục.
Thứ hai, pháp luật về quản lý thuế TNCN giúp nâng cao trách nhiệm của
CQNN, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động quản lý thuế TNCN. Những cơ
quan có thẩm quyền có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật thuế của tổ
chức, cá nhân đúng theo quy trình, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm theo quy
định của pháp luật tùy từng trường hợp cụ thể. Đối với một số cơ quan, tổ chức có
liên quan, pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm tích cực phối hợp với cơ quan quản
lý thuế trong trường hợp cần thiết như: cung cấp thông tin khi được yêu cầu, nộp
báo cáo quyết toán thuế, hợp tác với cơ quan thuế trong việc xác định số thuế
TNCN phải nộp (thông qua việc xác định nguồn phát sinh thu nhập, tập hợp các văn
bản hợp pháp có liên quan…).
Thứ ba, pháp luật về quản lý thuế TNCN góp phần thực hiện kiểm soát thu
nhập của NNT. Áp dụng luật thuế TNCN sẽ đảm bảo tính hợp lý, hiệu quả của hệ
thống chính sách thuế trong việc hỗ trợ Nhà nước nắm được thông tin về thu nhập
20
của mỗi cá nhân góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
1.2.2.2. Đối với xã hội
Thứ nhất, pháp luật về quản lý thuế TNCN là công cụ góp phần đảm bảo sự
bình đẳng và công bằng xã hội. Luật thuế TNCN ra đời góp phần thu hẹp khoảng
cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, nhờ các quy định về giảm trừ gia cảnh và
biểu thuế lũy tiến đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công. Người có thu nhập thấp
hơn mức giảm trừ gia cảnh thì chưa phải nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải
nộp thuế theo mức thuế suất tương ứng với khoản thu nhập kiếm được. Bên cạnh
đó, những người có thu nhập tương đương nhưng hoàn cảnh sống khác nhau thì
mức nộp thuế cũng có sự khác biệt. Vì thế, nguyên tắc công bằng giữa các tầng lớp
dân cư được đảm bảo và khoảng cách thu nhập được điều tiết hiệu quả.
Thứ hai, pháp luật về quản lý thuế TNCN có vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo ý thức tuân thủ pháp luật của NNT và cả lợi ích của các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật quản lý thuế TNCN. Về cơ bản mặt bằng dân trí sẽ được
nâng cao nếu được tuyên truyền, phổ biến đầy đủ, thường xuyên và đúng cách
những nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQT cũng như
quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của NNT. Khi mức độ hiểu biết của nhân
dân đã được cải thiện thì Nhà nước cũng sẽ không tiêu tốn nhiều nguồn lực trong
việc ổn định xã hội.
Thứ ba, pháp luật về quản lý thuế TNCN nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập
quốc tế. Để đảm bảo phát triển xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính
sách thuế là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng
thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng
trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
1.2.3. Các bộ phận hợp thành pháp luật về quản lý thuế TNCN
Pháp luật về quản lý thuế TNCN được cấu thành bởi các bộ phận pháp luật
chủ yếu sau đây:
- Pháp luật quản lý thuế đối với đối tượng nộp thuế TNCN;
21
- Pháp luật quản lý thuế đối với việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế TNCN;
- Pháp luật quản lý thuế đối với việc kê khai, nộp thuế, ấn định thuế TNCN;
- Pháp luật quản lý thuế đối với công tác quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN;
- Pháp luật quản lý thuế đối với việc miễn thuế, giảm thuế TNCN và giảm
trừ gia cảnh;
- Pháp luật quản lý thuế đối với công tác kiểm tra, thanh tra thuế và xử lý vi
phạm pháp luật về thuế TNCN
- Pháp luật quản lý thuế đối với cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về
quản lý thuế TNCN;
- Pháp luật quản lý thuế đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý thuế TNCN.
1.2.3.1. Pháp luật về quản lý thuế đối với đối tượng nộp thuế TNCN
Vì là thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế TNCN đồng thời là đối tượng nộp
thuế. Việc xác định đối tượng nộp thuế dựa trên quy định tại Điều 2 Luật Thuế
TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung. Việc quản lý đối tượng nộp thuế chủ yếu dựa
trên thông tin NNT, bao gồm thông tin về NNT và thông tin liên quan đến nghĩa vụ
của NNT. Cơ quan thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin NNT; đồng thời, NNT
cũng có trách nhiệm cung cấp những thông tin có liên quan đến việc thực hiện nghĩa
vụ thuế của mình. Quản lý đối tượng nộp thuế TNCN là cơ sở chủ đạo giúp CQT
xác định nhân thân NNT, nguồn phát sinh thu nhập có thể có của NNT hoặc tình
trạng thực hiện nghĩa vụ nộp thuế TNCN của NNT đối với Nhà nước.
1.2.3.2. Pháp luật quản lý thuế đối với đăng ký thuế, cấp mã số thuế TNCN
Đăng ký thuế TNCN là việc NNT thực hiện các thủ tục cần thiết để được cơ
quan quản lý thuế cấp một mã số, từ đó cá nhân bắt đầu thực hiện nghĩa vụ thuế với
Nhà nước thông qua MST của mình. Đây là bước đầu tiên giúp cơ quan quản lý xác
định các đối tượng có nghĩa vụ phải nộp thuế nhưng cũng là bước đặc biệt quan
trọng với hoạt động quản lý thuế TNCN, thông tin của NNT cung cấp trong tờ khai
thuế giúp Nhà nước dễ dàng kiểm soát được thu nhập của người lao động góp phần
tối đa hóa nguồn thu NSNN.
22
Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế đã ứng dụng giao dịch điện tử vào quy trình
quản lý thuế nhằm giảm thiểu tiêu cực, thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành
chính. Điều này đã và đang tạo ra những thay đổi tích cực đối với công tác quản lý
trên toàn hệ thống cơ quan thuế, được Nhà nước khuyến khích áp dụng. Hiện tại
NNT có thể đăng ký thuế bằng hai phương pháp là đăng ký thuế trực tiếp và đăng
ký thuế điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.
1.2.3.3. Pháp luật quản lý thuế đối với kê khai, nộp thuế, ấn định thuế TNCN
Về kê khai thuế TNCN
Khi phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN, NNT bắt buộc phải kê khai thuế theo
quy định của pháp luật. Kê khai thuế TNCN là việc NNT tự xác định số thuế phải
nộp phát sinh trong kỳ kê khai thuế trừ trường hợp có quy định khác. Bên cạnh đó,
họ phải tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu được khai trong hồ sơ,
cũng như đảm bảo đã kê khai trung thực các nội dung của tờ khai và nộp đủ các loại
chứng từ, tài liệu có liên quan cho cơ quan quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế
thông qua việc kê khai thuế mà thu thập được thông tin NNT, kiểm soát được thu
nhập của các đối tượng nộp thuế theo chu kì nhất định. Có thể coi đây là khâu có
vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình quyết toán thuế TNCN.
Về nộp thuế TNCN
Nộp thuế TNCN là việc NNT đưa số tiền thuế TNCN phải nộp cho cơ quan
quản lý thuế, sau đó các cơ quan kho bạc hoặc ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ tiền thu
được vào NSNN. Thuế TNCN được nộp thông qua các hình thức: tiền mặt, chuyển
khoản, bù trừ với số tiền thuế đã nộp thừa... Đây là bước tiếp theo NNT phải thực
hiện sau khi kê khai thuế nhằm hoàn thành nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước.
Nhằm mục đích giảm phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT khi thực hiện các
thủ tục hành chính về thuế, khi xây dựng pháp luật các nhà làm luật đã gắn liền thời
hạn nộp thuế với thời hạn nộp hồ sơ khai thuế với nhau. Vì thế, nội dung quy định
pháp luật về nộp thuế và kê khai thuế không tách rời mà luôn đi liền với nhau.
Về ấn định thuế TNCN
Pháp luật quản lý thuế TNCN chỉ liệt kê các trường hợp bị ấn định thuế được
23
quy định trong Chương V của Luật Quản lý thuế năm 2019. Nhưng có thể hiểu, ấn
định thuế là việc cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ thuế theo một con số nhất định mà
CQT đưa ra. Khi NNT theo phương pháp kê khai vi phạm pháp luật thuế thì CQT
có quyền ấn định số thuế phải nộp hoặc xác định mức thuế đối với cá nhân kinh
doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế. Việc ấn định thuế TNCN được CQT
thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu CQT thu thập được, tài liệu và kết quả thanh tra,
kiểm tra còn hiệu lực và căn cứ vào những thông tin khác có liên quan. Sau đó CQT
mới ra thông báo nộp thuế theo nguyên tắc: khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
1.2.3.4. Pháp luật quản lý thuế đối với việc quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN
Về quyết toán thuế TNCN
Sau khi kết thúc một năm dương lịch mỗi NNT phải thực hiện hoạt động
quyết toán thuế để xác định nghĩa vụ thuế TNCN trong năm của mình, việc quyết
toán thuế được xác định theo nơi nhận thu nhập và mức độ thường xuyên của thu
nhập. Theo quy định, các đối tượng phải thực hiện quyết toán thuế TNCN bao gồm:
Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập (doanh nghiệp) và cá nhân có thu nhập (người lao
động). Cá nhân có trách nhiệm tự quyết toán hoặc có thể ủy quyền cho doanh
nghiệp quyết toán thuế thay cho mình nếu đủ điều kiện được ủy quyền theo quy
định của pháp luật. NNT có thể chọn 1 trong 2 cách quyết toán là trực tiếp trên
website thuế điện tử hoặc sử dụng phần mềm HTKK.
Về hoàn thuế TNCN
Căn cứ theo quy định của Luật thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung và
các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể hiểu: Hoàn thuế TNCN là việc cá nhân được
Nhà nước hoàn lại phần tiền thuế đã nộp hoặc tạm nộp trong các trưởng hợp pháp
luật quy định. Hoàn thuế là phương thức quản lý thuế theo nguyên tắc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của NNT.
1.2.3.5. Pháp luật quản lý thuế đối với việc miễn thuế, giảm thuế TNCN và
giảm trừ gia cảnh
Về miễn thuế, giảm thuế TNCN
Bên cạnh việc quy định cụ thể các loại thu nhập chịu thuế, Luật thuế TNCN
24
còn quy định các khoản thu nhập được miễn, giảm thuế TNCN trong những điều
luật riêng biệt nhằm mục đích nhân đạo, hướng tới hỗ trợ đời sống nhân dân, giảm
bớt khó khăn cho NNT. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, việc miễn, giảm
thuế là biện pháp ưu đãi, khuyến khích phát triển sản xuất trong nước khi các rào
cản thuế quan bị bãi bỏ. Tuy nhiên, thực hiện việc miễn, giảm thuế cũng có tính hai
mặt, nó chứa đựng những yếu tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội của Nhà nước nhưng cũng chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm
méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập chính sách thuế, không phù hợp với
những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại.
Về giảm trừ gia cảnh
Hầu hết các nước đều có quy định về giảm trừ gia cảnh, biểu hiện rõ nét nhất
của tính công bằng theo chiều ngang trong điều tiết thu nhập. Cùng thu nhập như
nhau nhưng người có hoàn cảnh khó khăn hơn (ví dụ có nhiều người phải nuôi
dưỡng, bị tàn tật...) cần được giảm trừ nhiều hơn người có điều kiện thuận lợi. Kinh
nghiệm rút ra từ các nước trên thế giới có thể theo 2 cách: giảm trừ cá nhân và giảm
trừ tiêu chuẩn. Là một nước đang phát triển, Việt Nam lựa chọn áp dụng hình thức
giảm trừ tiêu chuẩn để đảm bảo việc tính toán được đơn giản nhất căn cứ vào cơ cấu
thu nhập và chi tiêu của dân cư. Pháp luật quy định mức giảm trừ gia cảnh khoán
bằng một số tiền nhất định với mỗi đối tượng nộp thuế và từng người phụ thuộc.
1.2.3.6. Pháp luật quản lý thuế đối với việc kiểm tra thuế, thanh tra thuế và
xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN
Về thanh tra, kiếm tra thuế TNCN
Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận quan trọng của pháp luật
quản lý thuế. Trong tổng thể công tác quản lý thu thuế TNCN thì việc thanh tra,
kiểm tra thuế TNCN là vô cùng quan trọng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
TNCN được hiểu là hoạt động giám sát của CQT đối với các giao dịch liên quan
đến nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ thuế, tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế,
việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của mỗi cá nhân. Thanh tra, kiểm tra thuế TNCN
nhằm mục đích đánh giá tính đầy đủ, chính xác, trung thực của các chứng từ, hồ sơ
25
mà NNT đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan quản lý thuế; đồng thời, đánh giá mức
độ tuân thủ pháp luật về thuế của NNT và cả của công chức thuế, phát hiện những
hành vi vi phạm. Từ đó, đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế TNCN đạt hiệu quả,
ngăn chặn hành vi trái pháp luật của các đối tượng nộp thuế TNCN.
Về xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN
Xử lý vi phạm về thuế là một khâu trong quy trình quản lý thuế nói chung và
thuế TNCN nói riêng. Xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN có thể được hiểu là việc
chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng các chế tài xử lý phù hợp với các tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thuế TNCN căn cứ vào các quy định
pháp luật hiện hành. Mọi hành vi vi phạm pháp luật thuế đều phải được phát hiện và
xử lý nghiêm khắc. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà mỗi NNT sẽ
bị áp dụng những cách thức xử phạt khác nhau để đảm bảo pháp luật thuế được thực
hiện một cách triệt để, công bằng.
1.2.3.7. Pháp luật quản lý thuế đối với việc cưỡng chế thi hành quyết định
hành chính về quản lý thuế TNCN
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khâu cuối cùng trong quy trình
quản lý thuế nói chung và quy trình quản lý thuế TNCN nói riêng, thể hiện quyền
lực của nhà nước qua cơ chế cưỡng chế thi hành và bắt buộc tuân thủ. Các biện
pháp cưỡng chế hành chính về thuế được áp dụng đối với những hành vi chưa đến
mức bị xử lý bằng biện pháp hình sự, trong trường hợp đã bị truy tố về tội trốn thuế
thì không bị áp dụng cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế nữa, việc truy
thu số tiền trốn thuế sẽ do tòa án quyết định trong bản án. Nếu cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế kịp thời và xử lý đúng đối tượng, sẽ giúp đảm bảo được
nguồn thu ổn định vào NSNN.
1.2.3.8. Pháp luật quản lý thuế về ứng dụng CNTT trong quản lý thuế TNCN
Trong khi số lượng NNT ngày càng nhiều, nguồn phát sinh thu nhập chịu
thuế đa dạng mà đội ngũ nhân lực của ngành chỉ có hạn thì việc ứng dụng CNTT
vào công tác quản lý thuế TNCN trong những năm gần đây đã thể hiện rõ ưu điểm
của nó. Nhờ việc ứng dụng rộng rãi dịch vụ điện tử trong tất cả các khâu nên thủ
26
tục hành chính thuế đã được đơn giản hóa hơn trước rất nhiều, giảm thiểu chi phí
không cần thiết cho NNT, tối ưu hóa quy trình quản lý. Hiện nay, NNT có thể truy
cập vào Cổng dịch vụ công quốc gia để thực hiện thủ tục nộp thuế điện tử và tiến
hành đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế trên Cổng thông tin điện tử của
Tổng cục Thuế. Ngoài ra, ngành thuế cũng triển khai Hệ thống quản lý thuế tập
trung (TMS) hỗ trợ 63 cục thuế và các chi cục thuế trong công tác quản lý. Tuy
nhiên, việc quản lý nguồn dữ liệu có dung lượng lớn cũng là thách thức đối với
ngành thuế khi các chính sách pháp luật thay đổi liên tục mà việc nâng cấp ứng
dụng tương đối mất thời gian.
1.2.4. Pháp luật về quản lý thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới và
kinh nghiệm với Việt Nam
1.2.4.1. Pháp luật về quản lý thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới
Trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà nội dung các quy định về pháp
luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế TNCN nói riêng ở mỗi quốc gia lại có
sự khác biệt thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Về quản lý đối tượng nộp thuế TNCN
Thuế TNCN của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay xác định đối tượng
nộp thuế TNCN dựa trên hai nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc đánh thuế theo cư trú (hay gọi tắt là nguyên tắc cư trú): Một số
nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc quy định đối tượng cư trú là người có
nhà ở hoặc có thời gian cư trú từ một năm trở lên, đối tượng không cư trú chỉ có mặt
ở nước sở tại dưới một năm. Còn các nước như Malaysia, Thái Lan, Singapore,
Indonesia… quy định chung đối tượng cư trú là những người có thời gian sinh sống ở
nước sở tại từ 182 hoặc 183 ngày trở lên trong năm tính thuế hoặc 12 tháng liên tục,
nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì không được coi là cá nhân cư trú [20, tr.20].
- Nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập: Công dân cư trú phải
chịu thuế với thu nhập phát sinh ở nước sở tại và thu nhập có nguồn gốc từ nước
ngoài, trong khi đó cá nhân không cư trú chỉ phải nộp thuế TNCN đối với các khoản
thu nhập phát sinh ở nước sở tại. Riêng Hồng Kông quy định cả cá nhân cư trú và
27
không cư trú đều chỉ phải chịu thuế với các khoản thu nhập phát sinh tại Hồng
Kông, do ở đây thu hút nhiều người nước ngoài đến làm việc, đầu tư trong khi công
dân trong nước thường ít khi xuất ngoại để làm ăn, sinh sống [20, tr.21].
Về xác định thu nhập chịu thuế TNCN
Đa số các nước đều xác định thu nhập chịu thuế và phân loại chúng theo
nguồn hình thành: Thu nhập từ lao động; từ sản xuất kinh doanh; thu nhập từ tài sản
như cho thuê, chuyển nhượng tài sản, thừa kế, quà tặng, quà biếu; thu nhập từ đầu
tư gián tiếp như tiền lãi, cổ tức, thu nhập được chia từ các hoạt động góp vốn; thu
nhập khác... [1, tr.74]
Có hai cách xác định thu nhập chịu thuế gồm: thu nhập đã nhận (thu nhập gộp)
hay thu nhập đã nhận được trừ một số khoản chi phí tạo ra thu nhập (thu nhập ròng).
- Xác định thu nhập chịu thuế trên thu nhập gộp: Trường hợp này thu nhập
tính thuế là toàn bộ số tiền mà NNT đã nhận, không phân biệt đã bỏ ra ít hay nhiều
chi phí để tạo ra thu nhập tính thuế. Cách này đơn giản nhưng không đảm bảo được
sự công bằng. Trước đây, nước ta đã áp dụng phương pháp xác định này trong Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao [20, tr.21].
- Xác định thu nhập chịu thuế trên thu nhập ròng: Hầu hết các nước hiện nay
(Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Thái Lan,...) đều xác định thu nhập chịu thuế là
tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản được giảm trừ của đối tượng đó trong kỳ tính
thuế, không bao gồm các khoản được miễn thuế. Tổng các khoản được giảm trừ là
tổng chi phí phát sinh trong kỳ tính thuế và các khoản được phép trừ khác theo quy
định như bảo hiểm bắt buộc, giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế... [20, tr.22]
Về chính sách miễn, giảm thuế TNCN
Tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tình hình chính trị của từng quốc
gia mà chính sách miễn, giảm thuế ở mỗi nước là khác nhau. Chính sách này gắn
liền với chế độ an sinh xã hội, thể hiện tính nhân đạo, giúp người dân giảm bớt gánh
nặng về thuế. Vì chính sách miễn giảm thuế ảnh hưởng trực tiếp đến số thu vào
NSNN của mỗi quốc gia cho nên để xác đúng đối tượng được miễn, giảm các nước
thường phải quy định chặt chẽ các điều kiện kèm theo và công khai đầy đủ quy
28
trình, thủ tục xin xét miễn, giảm thuế thu nhập.
Phạm vi các khoản thu nhập được miễn thuế cũng có sự khác biệt giữa các
nước. Ngoài việc cho phép miễn thuế đối với những khoản thu nhập cơ bản, Trung
Quốc còn cho phép miễn thuế đối với trợ cấp thôi việc đối với người lao động hay
trợ cấp xuất ngũ đối với quân nhân, trợ cấp định cư đối với cán bộ, công chức nhà
nước… Ngoài ra, một số quốc gia còn có quy định thêm những khoản thu nhập
được miễn thuế có tính chất đặc thù để thu hút đầu tư tùy thuộc vào định hướng
chính sách của mỗi nước, ví dụ cho phép miễn thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn
(Nam Phi, Argentina), thu nhập từ các chương trình tiết kiệm nhà ở dài hạn, thu
nhập của hộ gia đình sản xuất nông nghiệp trong phạm vi nhất định được miễn
thuế (Hàn Quốc) [45].
Về các khoản giảm trừ gia cảnh
- Giảm trừ cho cá nhân NNT: Đây là khoản được loại trừ ra khỏi thu nhập tính
thuế, không xem xét đến “hành vi” sử dụng thu nhập của cá nhân NNT. Lý do áp
dụng khoản giảm trừ chung xuất phát từ lập luận cho rằng mỗi cá nhân cần phải có
một mức thu nhập nhất định nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
- Giảm trừ cho người phụ thuộc: Áp dụng cho những người mà đối tượng
nộp thuế phải nuôi dưỡng; tuy nhiên, phạm vi người phụ thuộc của các nước có sự
khác biệt và được xác định dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể, mức giảm trừ
quy định cho người phụ thuộc ở một số nước thấp hơn so với mức giảm trừ cho cá
nhân NNT giống với Việt Nam, trong khi đó Anh, Mỹ lại quy định mức giảm trừ cá
nhân cho NNT tương đương với người phụ thuộc. Ngoài ra, nhiều nước khống chế
số lượng người phụ thuộc được tính giảm trừ gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia
nhưng có nước không khống chế như Mỹ, Anh. Hay như Trung Quốc không quy
định riêng mức giảm trừ cho người phụ thuộc và cho cá nhân NNT mà quy định
một mức chung [1, tr.56].
- Các khoản giảm trừ có tính chất đặc thù: Đây là khoản giảm trừ mà đối
tượng nộp thuế được hưởng khi đáp ứng được một số tiêu chí nhất định, ví dụ chi
tiêu cho các khoản mục mà nhà nước khuyến khích như y tế, giáo dục… Khi xây
29
dựng khoản giảm trừ đặc thù, các nước đều khống chế mức tối đa cho từng loại
giảm trừ và muốn được hưởng các khoản giảm trừ này NNT phải xuất trình được
các chứng từ liên quan.
Về đăng ký thuế TNCN
Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Singapore, Thái Lan, Mỹ, Anh,
Pháp đã thay đổi quan điểm về vị trí NNT trong hệ thống thuế để đảm bảo nguồn
thu cho NSNN, tạo tâm lý tốt cho NNT thu nhập cá nhân. Từ quan niệm NNT trong
hệ thống quản lý thuế là đối tượng bị quản lý sang vị trí khách hàng, đồng thời
chuyển từ mô hình Nhà nước quản lý sang Nhà nước phục vụ [20, tr.55]. Chiến
lược này thực sự có hiệu quả, tạo động lực cho NNT hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ
thuế của mình với Nhà nước cho nên Việt Nam đang từng bước học hỏi và áp dụng
quan điểm này nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế TNCN.
Về kê khai thuế TNCN
Hiện nay trên thế giới có hai cách quản lý kê khai thuế TNCN như sau:
- Kê khai toàn bộ được áp dụng ở Úc, Canada, Mỹ và Singapore… Theo đó,
cá nhân có thu nhập đạt tới một mức nào đó (mức tối thiểu – gọi là ngưỡng kê khai)
mới phải nộp tờ khai thuế. Nguyên tắc này dùng cho cả những cá nhân có thu nhập
duy nhất từ tiền lương do người sử dụng lao động trả [32], [33].
- Kê khai hạn chế được áp dụng ở Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Anh… Cụ thể,
nhiều cá nhân không phải nộp tờ khai thuế mà bị đánh thuế từ việc khấu trừ tại
nguồn thông qua hệ thống khấu trừ tiền lương nhằm làm giảm sức ép từ yêu cầu kê
khai đối với các cá nhân có nhiều nguồn thu nhập [31].
Về kiểm tra, thanh tra NNT
Nhìn chung, Luật Quản lý thuế các quốc gia đều quy định: thẩm quyền của
CQT; các nội dung về thanh tra, kiểm tra thuế; trách nhiệm cung cấp sổ sách, tài
liệu có liên quan của NNT và bên thứ ba phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra
thuế… để đảm bảo minh bạch, hiệu quả trong công tác quản lý.
Bên cạnh các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế thì một số
nước sử dụng thêm tài liệu, công cụ hỗ trợ khác nhằm nâng cao chất lượng quản lý:
30
Sổ tay nghiệp vụ thanh tra thuế được phát hành và tái bản nhiều lần tại Hà
Lan, trở thành công cụ đắc lực cho CQT hoàn thành nhiệm vụ [13]. Sổ tay hỗ trợ,
hướng dẫn các đơn vị thuộc quyền quản lý của CQT xây dựng kế hoạch thanh tra
hàng năm với một phương án khả thi nhất về cách thức, biện pháp, thời gian điều
tra căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ hàng năm và năng lực của CQT. Bên cạnh đó, Sổ tay
đưa ra những quy định về tổ chức nhân sự và một số điều cấm; phải giữ lời hứa và
các cam kết, không đánh mất sự tin tưởng của NNT.
Tại Australia, pháp luật quy định hệ thống thuế được quản lý công khai và
cân đối giữa chức năng giáo dục và cưỡng chế. Các ngành có độ rủi ro cao khi sử
dụng biện pháp thanh toán tiền mặt sẽ phải chịu nhiều đợt thanh tra, kiểm tra. Đặc
biệt là loại hình kinh doanh dịch vụ khách sạn, câu lạc bộ, xây dựng, bán lẻ phương
tiện gắn máy, vải và dệt [32]. Quy định kết hợp công tác hỗ trợ NNT tự giác khai
nộp thuế, một số lĩnh vực cụ thể đã được CQT đặt trọng tâm kiểm tra theo từng
phân khúc thị trường, mỗi nhóm NNT sẽ có các biện pháp, kỹ năng nghiệp vụ trọng
tâm tương ứng. Sử dụng chương trình tuân thủ đối với các doanh nghiệp lớn giúp
CQT dự báo được số thu, xác định và xử lý những rủi ro lớn về thuế.
1.2.4.2. Kinh nghiệm với Việt Nam
Mặc dù nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng trình độ quản lý
ở nước ta chỉ mới đạt mức trung bình so với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Vì thế cần liên tục học hỏi tiếp thu tinh hoa từ kinh nghiệm quốc tế về quản lý
thuế TNCN, trên cơ sở đó tiến hành chọn lọc những nội dung đơn giản, phù hợp,
khả thi, dễ áp dụng với đại đa số NNT. Mỗi quy định được ban hành đều có sự tác
động nhất định đến công tác quản lý thuế cho nên các nhà làm luật vẫn cần phải cân
nhắc cẩn thận, kỹ lưỡng nếu có ý định thay đổi theo xu thế chung.
Nước ta nên học hỏi phương pháp quản lý thuế trực thu theo hướng ổn định,
cảnh báo kịp thời biến động và gia tăng đều nguồn thu NSNN trong bối cảnh số thu
từ thuế gián thu đang được điều chỉnh giảm dần như hiện nay. Đồng thời đẩy mạnh
áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro vào toàn bộ quy trình quản lý thuế TNCN để
có thể giám sát, kiểm soát hiệu quả những đối tượng có mức độ rủi ro cao.
31
Tiếp cận xu hướng quan điểm coi NNT là khách hàng chứ không phải đối
tượng bị quản lý để khuyến khích NNT tự nguyện tuân thủ quy định về thực hiện
nghĩa vụ thuế TNCN. Cơ chế này hoạt động dựa trên tính tự giác, đề cao sự tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế giúp CQT giảm bớt gánh nặng trong
công tác quản lý.
Pháp luật Việt Nam hiện nay xác định mức giảm trừ căn cứ vào cơ cấu thu
nhập, chi tiêu của dân cư, trên cơ sở đó khoán từng khoản giảm trừ phù hợp áp dụng
với mỗi đối tượng. Bài học từ kinh nghiệm quản lý thuế TNCN về giảm trừ gia cảnh
là muốn xác định chính xác người phụ thuộc thì phải có sự kết hợp, trao đổi thông
tin thường xuyên với cơ quan có chức năng quản lý về hộ tịch, bảo hiểm xã hội.
Việt Nam nên áp dụng phương pháp kê khai hạn chế để loại bỏ yêu cầu phải
nộp tờ khai thuế đối với tất cả các đối tượng chịu thuế. Thay vì phải xử lý số lượng
lớn tờ khai thuế gây tốn kém nguồn lực thì kê khai hạn chế giúp CQT tập trung
nguồn lực quản lý vào việc kiểm soát những đối tượng có rủi ro cao như các cơ sở
kinh doanh nhỏ, cá nhân hành nghề tự do, đối tượng có nhiều nguồn thu nhập…
nhờ đó giảm thiểu một phần chi phí tuân thủ với những đối tượng này.
Trong giai đoạn hội nhập sâu rộng như hiện nay, việc nỗ lực điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách pháp luật theo các nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật
quốc tế mà vẫn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước là cần thiết để đảm
bảo có đủ cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế đã kí kết. Một hệ
thống pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế TNCN nói riêng có
chất lượng tốt sẽ tạo ra sức hút hấp dẫn nguồn vốn đầu tư và lao động có trình độ
32
cao từ nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý thuế TNCN
và pháp luật quản lý thuế TNCN xung quanh nội dung: khái niệm, đặc điểm, các yếu
tố cấu thành thuế TNCN; khái niệm, mục tiêu, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý thuế TNCN; khái niệm, vai trò, các bộ phận hợp thành pháp luật về quản lý
thuế TNCN. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu pháp luật về quản lý thuế TNCN của
một số quốc gia trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trên cơ sở nêu lên các quan điểm lý luận về quản lý thuế TNCN và pháp luật
về quản lý thuế TNCN, Luận văn đã phân tích, tổng hợp những hệ thống quan điểm
khác nhau của các nhà nghiên cứu khoa học có khảo cứu pháp luật của một số nước
trên thế giới, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm quan trọng đối với Việt Nam. Đây
là kiến thức nền quan trọng để luận văn đi sâu vào việc giải quyết những nội dung
33
được đặt ra ở các chương tiếp theo của luận văn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam
2.1.1. Về quản lý đối tượng nộp thuế TNCN
Luật thuế TNCN có phạm vi ảnh hưởng rộng, tác động đến đa dạng đối
tượng thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Muốn quản lý nguồn thuế TNCN hiệu
quả thì cần có biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế TNCN phù hợp.
2.1.1.1. Quy định về việc xác định đối tượng nộp thuế TNCN
Vì là thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế TNCN đồng thời là đối tượng nộp
thuế. Việc xác định đúng và đủ đối tượng nộp thuế TNCN là thật sự cần thiết nhằm
quản lý hiệu quả các nguồn thu nhập, tránh thất thu thuế cho NSNN, đảm bảo mục
tiêu công bằng xã hội.
Việc xác định đối tượng nộp thuế được thực hiện theo quy định tại Khoản 1
Điều 2 Luật thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung, cụ thể: “Đối tượng nộp thuế
TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ
Việt Nam, cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt
Nam”. Có thể thấy, Luật thuế TNCN xác định đối tượng nộp thuế dựa trên nguyên
tắc nơi cư trú kết hợp với nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Một
cá nhân được coi là đối tượng cư trú ở Việt Nam phải chịu thuế TNCN đối với toàn
bộ thu nhập nhận được, không phân biệt nguồn gốc phát sinh trong hay ngoài nước.
Còn đối tượng không cư trú chỉ phải chịu nghĩa vụ thuế đối với phần thu nhập có
nguồn gốc từ trong lãnh thổ Việt Nam.
Cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú được phân biệt căn cứ vào việc cá
nhân đó có đáp ứng được một trong hai điều kiện [36, Điều 2]:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch
34
hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt ở Việt Nam;
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú
hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
Về cơ bản, quy định này đã bao quát được hầu hết cá nhân cư trú có thu
nhập, bao gồm cả người Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt
Nam, khi họ đáp ứng đủ một trong những điều kiện quy định đều phải nộp thuế
TNCN. Bên cạnh đó, việc đánh thuế đối với các cá nhân không cư trú góp phần gia
tăng đáng kể nguồn thu NSNN, những cá nhân này thường là chuyên gia, người lao
động có chuyên môn cao vì thu nhập của họ cao hơn hẳn so với mặt bằng chung nên
khoản đóng góp nghĩa vụ thuế cũng lớn hơn.
2.1.1.2. Quy định về quản lý thông tin người nộp thuế TNCN
Việc quản lý đối tượng nộp thuế chủ yếu dựa trên thông tin NNT, những
thông tin này sẽ do NNT, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp hoặc do cơ quan thuế
thu thập được trong quá trình quản lý thuế.
Thông tin NNT là thông tin về NNT và thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế
của người nộp thuế do người nộp thuế cung cấp, do cơ quan quản lý thuế thu thập
được trong quá trình quản lý thuế (Khoản 19 Điều 3 Luật Quản lý thuế năm 2019).
Như vậy, thông tin NNT theo quy định trên mới chỉ đề cập đến giới hạn phạm vi
thông tin NNT là những thông tin, tài liệu liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT chứ
chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào làm rõ được thông tin, tài liệu thế nào mới
được coi là có liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế của NNT. Điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến trách nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể theo quy định của pháp luật
về quản lý thuế, bởi không có tiêu chí cụ thể để xác định đâu là thông tin liên quan
đến nghĩa vụ của NNT dẫn đến việc yêu cầu cung cấp thông tin khá cảm tính, khi
chủ thể này coi đó là thông tin cần thiết còn chủ thể khác thì không. Thế nên người
có thông tin về NNT có quyền từ chối cung cấp thông tin mà họ biết cho CQT khi
thấy rằng thông tin đó không liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT.
Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định cụ thể nội dung về thông tin NNT ở
Chương XI, từ Điều 95 đến Điều 100. Đây là khung pháp lý giúp các chủ thể nhận
35
thức được giới hạn quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân trong vấn đề cung
cấp thông tin. Quy định về thông tin NNT trong những năm gần đây đang dần được
bổ sung, hoàn thiện, hỗ trợ đáng kể cho CQT trong việc thắt chặt công tác quản lý.
Cụ thể như sau:
Tại Điều 95 Luật Quản lý thuế năm 2019 đã quy định rõ hơn về hệ thống
thông tin NNT là tập hợp thông tin, dữ liệu về NNT được thu thập, sắp xếp, lưu trữ,
khai thác và sử dụng theo quy định của Luật này chứ không chỉ bao gồm những
thông tin, tài liệu liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT theo quy định tại Điều 69
Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung. Điều này nhằm tối ưu hóa việc quản
lý hệ thống cơ sở dữ liệu, đảm bảo khả năng bảo mật thông tin NNT, nâng cao trách
nhiệm của CQT và các cơ quan phối hợp cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, Điều 95
Luật Quản lý thuế 2019 cũng mở rộng vai trò của thông tin NNT khi được đưa vào
ứng dụng trên thực tiễn, đây không chỉ là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh giá
mức độ chấp hành pháp luật của NNT, ngăn ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật về
thuế; mà còn là cơ sở để đánh giá dự báo tình hình, xây dựng chính sách về thuế. Có
thể thấy, thông tin NNT là nguồn dữ liệu có giá trị giúp các CQT ở địa phương nắm
được thông tin cơ bản về NNT (như hoàn cảnh, thu nhập), kịp thời phát hiện, ngăn
ngừa hành vi vi phạm pháp luật cũng như giải quyết hiệu quả hồ sơ liên quan đến
thuế TNCN; đồng thời, giúp cơ quan trung ương phân tích, đánh giá hành vi, mức
độ tuân thủ của NNT, chỉ ra đặc trưng của từng nhóm đối tượng nộp thuế, xác định
vướng mắc bất cập thường xảy ra trên thực tiễn liên quan đến thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế... trên cơ sở đó đưa ra chính sách thuế phù hợp với từng giai đoạn, từng
đối tượng cụ thể.
Theo Khoản 2 Điều 97 Luật Quản lý thuế năm 2019, NNT có thể cung cấp
thông tin bằng văn bản hoặc thông qua kết nối mạng với các hệ thống thông tin của
cơ quan quản lý thuế theo yêu cầu. Như vậy, NNT sẽ có hai phương thức thực hiện
trách nhiệm cung cấp thông tin để lựa chọn bao gồm: cung cấp thông tin bằng văn
bản và cung cấp thông tin điện tử. Điều khoản này chưa từng được quy định trong
Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung mà mới chỉ bắt đầu được đưa vào
36
Luật Quản lý thuế năm 2019, cho thấy nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng CNTT áp dụng
vào từng khía cạnh nhỏ trong công tác quản lý của Nhà nước. Mặc dù, cung cấp
thông tin là trách nhiệm NNT phải thực hiện nhưng Nhà nước vẫn tạo điều kiện
thuận lợi nhất để NNT hoàn thành trách nhiệm đó một cách đầy đủ, kịp thời giúp
CQT quản lý hiệu quả nguồn thu từ thuế TNCN vào NSNN.
Ngoài ra, Luật Quản lý thuế năm 2019 cũng đã quy định nhiệm vụ phối hợp
của ngân hàng thương mại với CQT trong việc cung cấp thông tin số hiệu tài khoản
theo MST của NNT khi mở tài khoản để CQT dễ dàng quản lý việc thu thuế từ các
chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế thông qua thu nhập phát sinh trong tài khoản ngân
hàng [28, Điều 27], trên cơ sở đó tăng cường kiểm soát, quản lý thông tin các đối
tượng nộp thuế.
Nói tóm lại, các quy định về quản lý thông tin người nộp thuế trong Luật
Quản lý thuế năm 2019 đã có sự bao quát hơn hẳn so với Luật Quản lý thuế năm
2016 sửa đổi, bổ sung; đồng thời, đáp ứng được thực tiễn nhu cầu quản lý và đồng
bộ với hệ thống pháp luật nội dung về thuế TNCN.
2.1.2. Về quản lý đăng ký thuế, mã số thuế TNCN
2.1.2.1. Quy định về đăng ký thuế TNCN
Đăng ký thuế TNCN là bước đầu tiên giúp cơ quan quản lý thuế xác định các
đối tượng có nghĩa vụ phải nộp thuế TNCN cũng là bước đặc biệt quan trọng với
hoạt động quản lý thuế TNCN, thông tin của NNT cung cấp trong tờ khai thuế giúp
Nhà nước dễ dàng kiểm soát các nguồn thu nhập chịu thuế góp phần tối đa hóa
nguồn thu NSNN. Nhìn tổng thể hệ thống quy định tại Luật Quản lý thuế năm 2019
đã chú trọng đến việc quản lý hoạt động đăng ký thuế hơn hẳn so với Luật Quản lý
thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung, vì đây là bước đầu tiên nhưng lại là bước nền tảng
nếu muốn quy trình quản lý thuế đạt hiệu quả tối đa. Cụ thể ở những nội dung sau:
Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung quy định đối tượng đăng ký
thuế tại Điều 21 bao gồm: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh; Cá nhân có
thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN; Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ
và nộp thuế thay; Tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật về thuế. Quy
37
định này dẫn tới thực trạng không kiểm soát được triệt để các đối tượng nộp thuế
khi tách rời đăng ký thuế với đăng ký kinh doanh, đồng thời đặt gánh nặng cho
CQT trong công tác quản lý ở khâu đăng ký thuế. Khoản 1 Điều 30 Luật Quản lý
thuế năm 2019 đã khắc phục được những hạn chế này khi đã bắt đầu cho phép
NNT là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân được tích hợp thực hiện thủ tục đăng ký
thuế theo cơ chế một cửa liên thông song song với thủ tục đăng ký doanh nghiệp,
đăng ký hợp tác xã, đăng ký kinh doanh tại các Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương
kể từ 01/07/2020; những đối tượng còn lại thì sẽ tiếp tục thực hiện đăng ký thuế
trực tiếp với CQT. Như vậy, số lượng hồ sơ thủ tục đăng ký thuế trực tiếp tại trụ
sở CQT sẽ được giảm tải đáng kể giúp CQT tập trung nguồn lực quản lý vào
những khâu cần thiết khác.
Xuyên suốt các quy định về đăng ký thuế có thể thấy Luật Quản lý thuế năm
2019 tạo điều kiện tối đa cho NNT là cá nhân thực hiện nghĩa vụ của mình bằng
cách tăng cường việc liên thông giải quyết hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế
TNCN giữa CQT và chủ thể chi trả thu nhập. Ví dụ như tại Điều 33 tổ chức, cá
nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm đăng ký thuế thay cho cá nhân có thu nhập
trong trường hợp cá nhân chưa có MST; đăng ký thuế thay cho người phụ thuộc của
NNT kể từ ngày NNT đăng ký giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật trong
trường hợp người phụ thuộc chưa có MST. Bên cạnh đó, cá nhân cũng được phép
ủy quyền cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập đăng ký thuế thay cho bản thân và
người phụ thuộc theo Khoản 3 Điều 32 và ủy quyền thay đổi thông tin đăng ký thuế
cho cá nhân và người phụ thuộc căn cứ Khoản 3 Điều 36. Như vậy, Luật Quản lý
thuế năm 2019 đã cho phép người nộp thuế TNCN lựa chọn một trong hai phương
thức đăng ký thuế là ủy quyền cho chủ thể chi trả thu nhập hoặc tự đăng ký trực
tiếp. Nếu cá nhân chọn ủy quyền thì thủ tục tiến hành sẽ gọn gàng và nhanh chóng
hơn vì người có trách nhiệm thực hiện cách thủ tục về thuế cho cá nhân, tổ chức chi
trả thu nhập thường là những người có nghiệp vụ thuế tương đối chắc nên họ biết rõ
để hoàn thành một thủ tục thì cần những gì và các bước tiến hành ra sao. Nhờ đó
NNT tiết kiệm được một khoảng thời gian đáng kể, thay vì phải tự mình tìm hiểu
38
quy trình và tiến hành thực hiện các thủ tục hành chính liên quan.
2.1.2.2. Quy định về mã số thuế cá nhân
Vấn đề cấp, sử dụng, chấm dứt mã số thuế TNCN theo pháp luật quản lý
thuế hiện hành được quy định theo hướng cụ thể hóa và bổ sung thêm nhiều điểm
mới để dễ dàng đưa vào áp dụng trong thực tiễn.
Điều 21 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung quy định đối tượng
đăng ký thuế gồm:
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh.
2. Cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN.
3. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay.
4. Tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật về thuế.
Hiện nay, thay vì chỉ quy định đối tượng đăng ký thuế gồm 4 nhóm đối
tượng như trên thì việc xác định đối tượng đăng ký thuế TNCN gắn liền với hoạt
động cấp MST, điều này được thể hiện ngay trong tên Điều 30 Luật Quản lý thuế
năm 2019 là “đối tượng đăng ký thuế và cấp MST”. Đăng ký thuế để được cấp
MST, cấp MST để hỗ trợ quản lý thông tin ở bước đăng ký thuế cho nên đây là hai
hoạt động có quan hệ mật thiết không thể tách rời.
Nguyên tắc để được cấp MST với từng loại đối tượng cũng được ấn định rõ
tại Khoản 3 Điều 30 Luật Quản lý thuế năm 2019. Theo đó, cá nhân thuộc diện nộp
thuế TNCN thực hiện các thủ tục và hồ sơ đăng ký thuế để “được cấp một MST duy
nhất sử dụng suốt cuộc đời cá nhân đó”, MST đã cấp không được sử dụng lại để
cấp cho NNT khác. Việc quy định cụ thể về vấn đề cấp, quản lý, sử dụng MST cho
người nộp thuế TNCN và những người phụ thuộc có hiệu quả tích cực đối với công
tác quản lý thuế, chỉ khi CQT cấp đầy đủ MST cho các đối tượng này thì pháp luật
về quản lý thuế TNCN mới có giá trị thực tiễn. Chính bản thân NNT sẽ là người
chịu thiệt trước tiên nếu chưa được cấp MST, vì họ sẽ phải tự mình quyết toán thuế,
không được hưởng giảm trừ người phụ thuộc, không được hoàn thuế đối với số thuế
nộp thừa, bị trích số tiền thuế TNCN nhiều hơn... Bên cạnh đó, việc CQT không
cung cấp MST cho người phụ thuộc của NNT như các quy định trước đây dẫn đến
39
tình trạng gian lận khi kê khai người phụ thuộc gây thất thu thuế TNCN, do kê khai
giảm trừ gia cảnh chủ yếu là dựa vào ý thức của mỗi cá nhân nộp thuế, tuy nhiên
pháp luật hiện hành đã khắc phục được bất cập này.
Điều 35 Luật Quản lý thuế năm 2019 cũng bổ sung thêm một vài trường hợp
sử dụng MST nhằm tăng tính chặt chẽ, bao quát của hệ thống quy phạm pháp luật
quy định về vấn đề này, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý MST cá nhân.
Ví dụ như, Khoản 7 được đưa vào luật nhằm dự liệu tình huống có thể xảy ra trong
tương lai để điều chỉnh kịp thời “khi mã số định danh cá nhân được cấp cho toàn
bộ dân cư thì sử dụng mã số định danh cá nhân thay cho MST”. Cùng với đó, buộc
NNT phải cung cấp MST cho cơ quan, tổ chức có liên quan hoặc ghi MST trên hồ
sơ khi thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông với cơ quan
quản lý thuế; hay yêu cầu tổ chức, cá nhân khác trong việc tham gia quản lý thuế sử
dụng MST đã được cấp của NNT khi cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định
nghĩa vụ thuế. Như vậy, NNT phải cung cấp MST cho CQT khi thực hiện thủ tục
hành chính và cung cấp cho cơ quan tổ chức, có liên quan trong bất cứ giao dịch
nào yêu cầu có MST. Những quy định này được đưa ra ngoài mục đích tăng cường
quản lý các nguồn thu nhập còn giúp NNT sử dụng hiệu quả, đúng cách MST của
mình để đảm bảo lợi ích khi thực hiện nghĩa vụ khai, nộp thuế.
Điều 29 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung quy định MST chấm
dứt hiệu lực trong các trường hợp: tổ chức, cá nhân kinh doanh chấm dứt hoạt động;
cá nhân chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật. Khác
với quy định mới ở Khoản 1, 2 Điều 39 Luật Quản lý thuế năm 2019 chỉ rõ với mỗi
nhóm đối tượng cụ thể sẽ chấm dứt hiệu lực MST khi thuộc một trong các trường
hợp dưới đây:
- NNT đăng ký thuế cùng với đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã,
đăng ký kinh doanh thì thực hiện chấm dứt hiệu lực MST khi thuộc một trong các
trường hợp: Chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc giải thể, phá sản; Cá nhân chết,
mất tích, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; Bị chia, bị sáp
nhập, bị hợp nhất.
40
- NNT đăng ký thuế trực tiếp với CQT thì thực hiện chấm dứt hiệu lực MST
khi thuộc trường hợp: Chấm dứt hoạt động kinh doanh, không còn phát sinh nghĩa
vụ thuế đối với tổ chức không kinh doanh; Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc giấy phép tương đương; Bị chia, bị sáp nhập, bị hợp nhất; Bị CQT ra
thông báo NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; Cá nhân chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; Nhà thầu nước ngoài khi kết
thúc hợp đồng; Nhà thầu, nhà đầu tư tham gia hợp đồng dầu khí khi kết thúc hợp
đồng hoặc chuyển nhượng toàn bộ quyền lợi tham gia hợp đồng dầu khí.
Nhìn chung, nội dung về quản lý MST trong Luật Quản lý thuế năm 2019
được đưa vào những quy định hoàn toàn mới nhưng khá chặt chẽ, dễ áp dụng mang
lại hiệu quả tích cực cho công tác quản lý thuế TNCN. Những quy định hiện nay
cộng với việc ứng dụng CNTT trong cấp, quản lý, sử dụng MST sẽ giúp ngành thuế
tăng hiệu suất quản lý lên gấp nhiều lần và cũng giảm bớt đáng kể lượng thời gian
giành cho hoạt động này so với trước đây.
2.1.3. Về quản lý kê khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế TNCN
2.1.3.1. Quy định về kê khai và nộp thuế TNCN
Đối với hoạt động kê khai thuế TNCN
Điều 42 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định chi tiết sáu nguyên tắc khai
thuế và tính thuế trong đó có nguyên tắc liên quan đến hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử là hoàn toàn mới. Mặc dù nguyên tắc này chỉ mang tính chất định
hướng, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế hiện đại, tiếp
cận tới những chuẩn mực, thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho cả NNT và
cơ quan quản lý thuế; tích cực phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể như sau:
4. Đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên
nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước
ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước
ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai
thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Trước đây, theo tinh thần của Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung
41
tại Điều 32 quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế TNCN “chậm nhất là ngày thứ ba
mươi của quý tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ thuế đối với trường hợp khai và nộp
theo quý”. Như vậy, Luật Quản lý thuế năm 2019 đã có sự điều chỉnh đối với NNT
nộp hồ sơ khai thuế TNCN theo quý, Khoản 1 Điều 44 quy định thời hạn nộp
“chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng đầu quý tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ
thuế” để thuận tiện cho NNT và CQT trong việc xác định ngày cuối cùng được nộp
hồ sơ khai thuế TNCN.
Luật Quản lý thuế năm 2019 có hiệu lực ngày từ 01/07/2020 nhưng cho đến
nay Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành đối với
các quy định liên quan đến nội dung mới về hoạt động quản lý kê khai thuế. Mặc dù
vậy, những quy định này vẫn tương đối phù hợp với bối cảnh thực tiễn, tạm thời
không gây ra mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định khác hiện đang có hiệu lực
pháp luật nên CQT vẫn có thể áp dụng trong thời gian chờ đợi hệ thống Nghị định,
Thông tư hướng dẫn mới được ban hành.
Ngoài ra, vấn đề kê khai giá chuyển nhượng bất động sản vẫn còn vướng
mắc khi giá chuyển nhượng thực tế thường có sự chênh lệch khá lớn so với giá kê
khai tính thuế TNCN. Nguyên nhân của bất cập này chủ yếu xuất phát từ quy định
bảng giá đất của UBND quá thấp, mà CQT không có quyền xác minh tính chính xác
về thông tin NNT kê khai. Nếu một mảnh đất giá thực tế chuyển nhượng là 1 tỷ
đồng, nhưng áp vào bảng giá đất của UBND mảnh đất đó chỉ có giá 500 triệu đồng
thì NNT nghiễm nhiên lựa chọn mức giá 500 triệu đồng để kê khai, tính nộp thuế
TNCN, điều này không hề trái với quy định của pháp luật. Có thể thấy trong trường
hợp này, thực trạng UBND xác định giá thuế không sát với thực tế cùng với việc
CQT bị giới hạn quyền lực làm giảm đáng kể hiệu quả quản lý việc kê khai đối với
tài sản là bất động sản.
Đối với hoạt động nộp thuế TNCN
Luật Quản lý thuế năm 2019 tạo ra hành lang pháp lý giúp NNT chủ động, tự
giác trong việc tính thuế và nộp thuế, đẩy mạnh ứng dụng CNTT bằng cách khuyến
khích thực hiện nộp thuế TNCN điện tử trên toàn quốc. Cơ chế này đề cao trách
42
nhiệm của NNT trong việc chủ động xác định đúng số thuế phải nộp, các khoản
giảm trừ được hưởng và tiến hành nộp thuế đầy đủ, đúng hạn; CQT không can thiệp
vào quá trình kê khai, tự tính và nộp thuế của NNT. Đây chính là nguyên nhân chủ
yếu khiến CQT chưa kiểm soát được một cách chính xác đối tượng có nhiều nguồn
thu nhập khác nhau.
Về cơ bản, không có sự thay đổi trong quy trình liên quan đến hoạt động nộp
thuế TNCN bởi hầu hết các quy định này vẫn đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, đảm
bảo được tính khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
hiện nay. Luật chỉ bổ sung thêm một vài nội dung cần thiết phù hợp với tình hình
thực tiễn như sau:
Khoản 2 Điều 56 Luật Quản lý thuế năm 2019 nâng cao trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thu thuế bằng cách quy định: “Kho bạc Nhà nước,
ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và tổ chức dịch vụ theo quy định của
pháp luật có trách nhiệm bố trí địa điểm, phương tiện, công chức, nhân viên thu
tiền thuế bảo đảm thuận lợi cho người nộp thuế nộp tiền thuế kịp thời vào NSNN”.
Như vậy, những đơn vị này phải sắp xếp, tạo điều kiện phù hợp để phục vụ công tác
quản lý thu thuế hiệu quả, nhanh gọn khiến NNT cảm thấy hài lòng, xây dựng tâm
lý thoải mái về sau mỗi khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, từ đó hoạt động thu nộp
thuế được thực hiện một cách thuận tiện hơn.
2.1.3.2. Quy định về ấn định thuế TNCN
Việc ấn định thuế TNCN được CQT thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu CQT
thu thập được từ việc kiểm soát doanh thu, hoạt động thanh tra, kiểm tra và căn cứ
vào những thông tin khác có liên quan. Vấn đề về ấn định thuế được bổ sung thêm
một số nội dung hoàn toàn mới trong Luật Quản lý thuế năm 2019 nhằm mục tiêu
loại bỏ các kẽ hở bị NNT lợi dụng, chống thất thu nguồn thuế từ TNCN vào NSNN.
Nguyên tắc ấn định thuế TNCN không còn được quy định một cách “hời
hợt” như Điều 36 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung: “việc ấn định thuế
phải đảm bảo khách quan, công bằng, tuân thủ đúng quy định của pháp luật về
thuế”. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế năm 2019 ghi nhận việc CQT khi tiến hành ấn
43
định thuế TNCN phải dựa trên các tiêu chí cụ thể như nguyên tắc quản lý thuế, căn
cứ tính thuế, phương pháp tính thuế theo quy định pháp luật về thuế; bên cạnh đó,
cơ quan quản lý thuế ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố, căn cứ
tính thuế để xác định số tiền thuế phải nộp. Điều này giúp cho CQT có cơ sở pháp
lý chắc chắn để xác định được một cách nhanh chóng, chính xác số thuế TNCN
phải nộp trong trường hợp buộc phải ấn định thuế dựa trên những tiêu chí rõ ràng;
chứ không phải chỉ ấn định theo nguyên tắc chung chung khó áp dụng trên thực tế.
Từ đó, làm giảm thiểu tình trạng thông đồng giữa cán bộ quản lý thuế với NNT gian
lận số thuế TNCN phải nộp nhằm mục đích trục lợi; đồng thời, tăng sự tín nhiệm
của NNT đối với CQT.
Luật Quản lý thuế năm 2019 bổ sung thêm bốn trường hợp NNT sẽ bị ấn
định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số tiền thuế TNCN phải nộp theo quy
định tại Khoản 3 Điều 50 với mục đích quản lý rủi ro, chống gian lận, hạn chế tình
trạng thất thu khi xét thấy NNT có dấu hiệu không trung thực hoặc CQT không thể
xác định được căn cứ tính số thuế TNCN phải nộp. Cụ thể như sau:
- Qua kiểm tra hồ sơ khai thuế, CQT có căn cứ cho rằng NNT khai chưa đầy
đủ, chính xác các yếu tố làm cơ sở xác định số tiền thuế phải nộp, đã yêu cầu NNT
khai bổ sung nhưng NNT không khai bổ sung theo yêu cầu của CQT;
- Qua kiểm tra sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ liên quan đến việc xác định số
tiền thuế phải nộp, CQT có cơ sở chứng minh NNT hạch toán không chính xác,
không trung thực các yếu tố liên quan đến xác định số tiền thuế phải nộp;
- Hạch toán giá bán hàng hóa, dịch vụ không đúng với giá thực tế thanh
toán làm giảm doanh thu tính thuế hoặc hạch toán giá mua hàng hóa, nguyên vật
liệu phục vụ cho sản xuất, kinh doanh không theo giá thực tế thanh toán phù hợp
với thị trường làm tăng chi phí, tăng thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, giảm
nghĩa vụ thuế phải nộp;
- NNT nộp hồ sơ khai thuế nhưng không xác định được các yếu tố làm cơ sở
xác định căn cứ tính thuế hoặc có xác định được các yếu tố làm cơ sở xác định căn
cứ tính thuế nhưng không tự tính được số tiền thuế phải nộp.
44
Đối với việc xác định mức thuế của cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương
pháp khoán Luật Quản lý thuế năm 2019 cho phép CQT xác định số tiền thuế phải
nộp theo mức thuế khoán trong trường hợp cá nhân kinh doanh không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ. Mức thuế khoán
được tính theo năm dương lịch hoặc theo tháng đối với trường hợp kinh doanh theo
thời vụ nhằm hỗ trợ tối đa NNT nhưng không làm mất đi nguồn thu vào ngân sách.
2.1.4. Về quản lý quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN
2.1.4.1. Quy định về quyết toán thuế TNCN
Sau khi kết thúc một năm dương lịch mỗi NNT phải thực hiện hoạt động
quyết toán thuế để xác định nghĩa vụ thuế TNCN trong năm của mình, việc quyết
toán thuế được xác định theo nơi nhận thu nhập và mức độ thường xuyên của thu
nhập. Nội dung quy định về quyết toán thuế nằm rải rác trong Luật Quản lý thuế
năm 2019, thực trạng các quy định về quyết toán thuế hiện nay là tương đối đồng
bộ, phù hợp và khả thi trong quá trình thực hiện.
Theo Điều 21 Thông tư 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày
15/06/2015 về Hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân
đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh, người phải quyết toán thuế TNCN
bao gồm: tổ chức, cá nhân trả thu nhập (người sử dụng lao động) và cá nhân có thu
nhập chịu thuế. Tổ chức, cá nhân trả thu nhập phải quyết toán phần thu nhập đã trả
cho nhân viên trong năm, việc quyết toán phải do người lao động ủy quyền. Cá
nhân có thu nhập chịu thuế có thể lựa chọn tự quyết toán đối với phần thu nhập
mình nhận được trong năm hoặc ủy quyền cho doanh nghiệp quyết toán thay nếu đủ
điều kiện ủy quyền.
Theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 32 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa
đổi, bổ sung thì ngày 31/03 hàng năm là thời hạn chậm nhất để cá nhân hoàn thành
hồ sơ quyết toán thuế TNCN năm liền kề trước đó, trùng với thời hạn quyết toán
thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định thời
hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN đối với cá nhân trực tiếp quyết toán thuế theo
điểm b Khoản 2 Điều 44 “chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 4 kể từ ngày
45
kết thúc năm dương lịch”. Theo đó, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm đối với
cá nhân chậm nhất là ngày thứ 120 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài
chính, tức là sẽ được kéo dài thêm 1 tháng so với thời hạn quyết toán của doanh
nghiệp [48]. Việc lùi thời hạn quyết toán thuế TNCN về sau thời hạn quyết toán
thuế thu nhập doanh nghiệp thể hiện những ưu điểm sau:
Thứ nhất, làm giảm áp lực cho NNT khi vào mùa quyết toán, tạo điều kiện
cho NNT được chủ động hơn về mặt thời gian (do nghỉ Tết vào tháng 2 dương lịch
– thông thường mất khoảng 10 ngày kể cả thứ bảy và chủ nhật, việc này vô hình đã
giảm quỹ thời gian để NNT có thể đi làm thủ tục quyết toán thuế).
Thứ hai, CQT giảm thiểu được lượng công việc trong giai đoạn này, tập
trung giải quyết hồ sơ quyết toán với từng loại thuế ở mỗi giai đoạn, tăng hiệu quả
và năng suất làm việc của đội ngũ công chức trong thời điểm này.
Thứ ba, ngành thuế đang thay đổi theo hướng dịch vụ hóa khi mà có thể thấy
rõ NNT ngày càng được tôn trọng hơn, được CQT tạo điều kiện thuận lợi nhất để
thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
2.1.4.2. Quy định về hoàn thuế TNCN
Hoàn thuế TNCN là việc cá nhân được Nhà nước hoàn lại phần tiền thuế đã
nộp hoặc tạm nộp. Khoản 2 Điều 8 Luật Thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung
quy định cá nhân được hoàn thuế TNCN trong các trường hợp sau:
a) Số tiền thuế đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp;
b) Cá nhân đã nộp thuế nhưng thu nhập tính thuế chưa đến mức phải
nộp thuế
c) Các trường hợp khác theo quyết định của CQNN có thẩm quyền.
Cá nhân được xem xét hoàn thuế TNCN sau khi nộp hồ sơ hoàn thuế gửi
đến CQT. Cơ quan thuế sẽ ra quyết định hoàn thuế hoặc thông báo lý do không
hoàn thuế sau khi nhận hồ sơ. Xử lý hoàn thuế tiêu tốn nguồn lực đáng kể của
CQT trong việc tiếp nhận, phân loại hồ sơ nhưng nhờ có hệ thống xử lý dữ liệu
điện tử như hiện nay nên công tác xử lý, kiểm tra hồ sơ được thực hiện nhanh
chóng, kịp thời hơn.
46
Điều 60 tại Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung gộp chung nội
dung quy định về phân loại hồ sơ hoàn thuế và thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế
vào cùng một điều luật. Nhưng Luật Quản lý thuế 2019 đã tách hai nội dung này ra
thành hai điều luật riêng biệt tại Điều 74, Điều 75, điều này giúp cho việc tra cứu
pháp luật và tìm hiểu thông tin được nhanh chóng, dễ chiếu nội dung điều luật áp
vào từng trường hợp.
Đặc biệt, Luật Quản lý thuế năm 2019 bổ sung thêm quy định mức phạt CQT
phải chịu do chậm ban hành quyết định hoàn thuế TNCN tại Khoản 3 Điều 75 là
nếu việc chậm ban hành quyết định hoàn thuế do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì
ngoài số tiền thuế phải hoàn trả, cơ quan quản lý thuế còn phải trả tiền lãi với mức
0,03%/ngày tính trên số tiền phải hoàn trả và số ngày chậm hoàn trả. Như vậy,
ngoài số tiền thuế TNCN phải hoàn lại, luật bổ sung mức tiền lãi cụ thể mà CQT
phải trả cho NNT nếu chậm ban hành quyết định hoàn thuế là 0,03%/ngày dựa trên
số tiền phải hoàn trả và số ngày chậm hoàn trả. Quy định này nhằm tăng cường
trách nhiệm giải quyết hồ sơ hoàn thuế của CQT, đồng thời đảm bảo công bằng
trong cả hai trường hợp: NNT nộp chậm và CQT giải quyết hồ sơ hoàn chậm.
Luật Quản lý thuế năm 2019 ấn định rõ thẩm quyền quyết định hoàn thuế của
lãnh đạo cơ quan quản lý thuế tại Điều 76 để bảo đảm minh bạch về thẩm quyền,
tăng tính trách nhiệm của thủ trưởng CQT các cấp trong công tác giải quyết hồ sơ
hoàn thuế và đề cao việc thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế đối với hồ sơ thuộc diện
hoàn thuế trước theo nguyên tắc rủi ro trong quản lý thuế tại Điều 77.
2.1.5. Về quản lý miễn thuế, giảm thuế TNCN, giảm trừ gia cảnh
2.1.5.1. Quy định về miễn thuế, giảm thuế TNCN
Tùy theo đặc thù phát triển kinh tế - xã hội, tình hình chính trị của mỗi quốc
gia mà chính sách miễn, giảm thuế sẽ được quy định khác nhau. Các khoản thu
nhập được miễn, giảm thuế TNCN thường được quy định trong những điều luật
riêng biệt nhằm mục đích nhân văn hướng tới hỗ trợ đời sống nhân dân, giảm bớt
khó khăn cho NNT.
Đối với quy định về miễn thuế TNCN
47
Luật Thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung quy định về các khoản TNCN
được miễn thuế tại Điều 4, sau một khoảng thời gian dài áp dụng xảy ra nhiều
vướng mắc thì có thể rút ra một số vấn đề cần được xem xét như sau:
Một là, các khoản thu nhập miễn thuế mang tính đãi ngộ, hỗ trợ và thực hiện
chính sách xã hội, điển hình trong trường hợp này là quy định miễn thuế với “thu
nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở
của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất” tại Khoản
2 Điều 4 Luật thuế TNCN. Cá nhân có nhà ở, đất ở chuyển nhượng phải tự kê khai,
cam kết và chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác với thông tin mà mình kê
khai. Có nghĩa là, tính xác thực của việc chứng minh tài sản duy nhất này dựa trên
sự chủ động của cá nhân NNT là chủ yếu. Theo hướng dẫn của Bộ Tài chính thì
người chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất khi chuyển nhượng sẽ phải làm bản cam kết
về việc chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất. Tờ khai cam kết này phải chữ ký của
người khai và nộp cho CCT nơi có bất động sản sau khi hai bên đã ký kết hợp đồng
chuyển nhượng. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền phát hiện kê khai sai thì
đối tượng nộp thuế sẽ không được miễn thuế và bị xử lý bằng cách truy thu thuế, xử
phạt đối với hành vi gian lận thuế theo quy định của pháp luật quản lý thuế. Ngoài
ra, trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan quản lý nhà nước
đang trong quá trình hoàn thiện chưa đáp ứng được tối đa nhu cầu kiểm soát thông
tin; công tác kiểm tra, đối chiếu mất nhiều thời gian dẫn đến việc cơ quan chức
năng rất khó kiểm soát được mỗi cá nhân có bao nhiêu nhà ở, đất ở trên phạm vi
toàn quốc. Đây là kẽ hở để không ít người sở hữu từ hai nhà ở, đất ở ở nhiều địa
phương sẵn sàng kê khai tài sản duy nhất để không phải nộp thuế khi chuyển
nhượng. Thực tế này diễn ra khá phổ biến, gây thất thu tương đối cho NSNN.
Hai là, miễn thuế cho các khoản thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, tặng
cho tài sản giữa các cá nhân trong gia đình theo Khoản 1, 4 Điều 4 Luật thuế TNCN
cũng gây thất thu cho ngân sách do quy định chưa chặt chẽ, chưa đưa ra được biện
pháp quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu tình trạng chuyển nhượng bắc cầu.
- Khoản 1 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định thu nhập từ chuyển nhượng bất
48
động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con
nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội
với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau thì được
miễn thuế TNCN. Nhiều cá nhân đã lợi dụng sơ hở của quy định này, sử dụng mối
quan hệ bắc cầu để gian lận trốn thuế.
Ví dụ: Bà Nguyễn Như A và bà Trần Ngọc B là chị em dâu, có nhu cầu
chuyển nhượng bất động sản cho nhau. Theo quy định của pháp luật thì khi thực
hiện việc chuyển nhượng bất động sản, bà A và bà B phải chịu thuế TNCN căn cứ
Khoản 5 Điều 3 Luật thuế TNCN. Tuy nhiên, để lách luật và tránh không phải đóng
thuế, bà A làm thủ tục chuyển nhượng bất động sản sang cho mẹ chồng. Sau đó, mẹ
chồng lại tiếp tục chuyển nhượng cho bà B cũng là con dâu mình. Như vậy, trên
thực tế đã diễn ra 2 lần chuyển nhượng bất động sản, nhưng cả 2 lần đều được miễn
thuế. Theo đó, người chuyển nhượng bất động sản không phải thực hiện nghĩa vụ
thuế, còn Nhà nước thì thất thu.
- Khoản 4, Điều 4 của Luật Thuế TNCN quy định như sau:
Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng;
cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ
chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu
nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau cũng
được miễn thuế TNCN.
Cũng tương tự như với quy định tại Khoản 1, đối tượng nộp thuế tiếp lục
thực hiện tặng cho bắc cầu thông qua một người thứ ba để không làm phát sinh
nghĩa vụ thuế TNCN với Nhà nước.
Ba là, các khoản thu nhập được miễn thuế là kiều hối. Trong những năm gần
đây, thu nhập từ kiều hối ở Việt Nam tăng lên chóng mặt, đưa Việt Nam vào danh
sách một trong những quốc gia nhận được nhiều kiều hối nhất thế giới. Kiều hối là
khoản tiền mà cá nhân là người Việt Nam định cư, lao động, công tác, học tập tại
nước ngoài gửi về cho thân nhân ở trong nước. Lượng kiều hối được chuyển về chủ
yếu từ các quốc gia: Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản… chiếm tỉ trọng lớn
49
trên tổng số TNCN từ tất cả các nguồn [19, tr.65]. Như vậy, việc đánh thuế với
khoản thu nhập này sẽ mang lại một nguồn thu không nhỏ cho NSNN. Tuy nhiên
theo quy định của Luật thuế TNCN thì khoản thu nhập từ kiều hối nằm trong những
trường hợp được miễn thuế nhằm khuyến khích xuất khẩu lao động, cải thiện đời
sống cũng như góp phần phát triển đất nước trong giai đoạn bấy giờ. Điều này
không còn đảm bảo được sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế TNCN trong
bối cảnh hiện nay nữa.
Bốn là, phần thu nhập từ tiền gửi tiết kiệm, từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
vẫn là thu nhập được miễn thuế theo quy định pháp luật. Tại thời điểm Luật thuế
TNCN năm 2007 bắt đầu có hiệu lực thì số thuế phát sinh từ nguồn này là chưa
nhiều và số tiền thu được nếu có cũng không đáng kể, đồng thời để phù hợp hơn với
hoàn cảnh của đại bộ phận dân cư nước ta giai đoạn đó thì Luật thuế TNCN quy
định khoản thu nhập này được đưa vào diện miễn thuế. Tuy nhiên, hiện nay nếu
những cá nhân có tiền lãi nhận từ các tổ chức tín dụng, lãi từ bảo hiểm nhân thọ vẫn
được miễn thuế sẽ không còn phù hợp. Theo thông lệ quốc tế, thu nhập từ lãi tiền
gửi và lãi từ bảo hiểm nhân thọ phải nộp thuế TNCN. Xét trên các nguyên tắc của
hệ thống thuế TNCN, sắc thuế đánh vào thu nhập từ lãi tiền gửi tiết kiệm là phù hợp
trong tương lai: khả năng thu cao, tương đối ổn định và bảo đảm nguồn thu cho
ngân sách. Vậy nên, để tăng tính công bằng cần thay đổi quy định thu nhập của các
cá nhân từ tiền lãi tại các tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thành
thu nhập thuộc diện chịu thuế TNCN trong Luật thuế TNCN mới.
Đối với quy định về giảm thuế TNCN
Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm
nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức
độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp (Điều 5 Luật thuế TNCN năm
2014 sửa đổi, bổ sung).
Quy định về giảm thuế thể hiện tính nhân văn của Nhà nước trong việc giảm
bớt gánh nặng về nghĩa vụ thuế, tạo điều kiện cho NNT yên tâm chữa bệnh hoặc
khôi phục sau thiệt hại để ổn định cuộc sống. Cách xác định số thuế được giảm
50
tương đối đơn giản, NNT cũng có thể tự tính số thuế TNCN được giảm của mình.
Để được xét giảm thuế thì NNT phải làm hồ sơ đề nghị xét giảm nộp cho
CQT theo quy định tại Điều 46 Thông tư 156/2013/TT-BTC; về cơ bản, yêu cầu về
trình tự thủ tục, giấy tờ cần thiết có liên quan khá chặt chẽ. CQT có thể căn cứ vào
hồ sơ để xác định tổng số thuế TNCN mà NNT phải nộp trong năm tính thuế từ đó
tính số thuế được giảm bao gồm: số thuế đã nộp hoặc đã khấu trừ theo biểu luỹ tiến
toàn phần, số thuế TNCN phải nộp đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương tiền
công, mức độ thiệt hại thực tế, các khoản bồi thường nhận được (nếu có).
2.1.5.2. Quy định về giảm trừ gia cảnh
Mức giảm trừ gia cảnh
Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm
luật có hiệu lực thi hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất
thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh
quy định tại khoản này phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính
thuế tiếp theo (Khoản 1 Điều 19 Luật Thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung).
Trên cơ sở đó, vừa qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
954/2020/UBTVQH14 về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2020 và áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2020. Các
trường hợp đã tạm nộp thuế theo mức giảm trừ gia cảnh cũ được quy định tại khoản 1
Điều 19 Luật Thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung được xác định lại số thuế TNCN
phải nộp theo mức giảm trừ gia cảnh quy định tại Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14
khi quyết toán thuế TNCN năm 2020.
Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh như sau:
- Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế tăng từ 9 triệu đồng/tháng lên 11
triệu đồng/tháng (tức 132 triệu đồng/năm);
- Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc tăng từ 3,6 triệu đồng/tháng lên
4,4 triệu đồng/tháng.
Với mức giảm trừ mới, mốc thu nhập chưa phải nộp thuế sẽ nâng lên là 11
triệu đồng/tháng (không có người phụ thuộc); 15,4 triệu đồng/tháng (nếu có 1 người
51
phụ thuộc) và 19,8 triệu đồng/tháng (nếu có 2 người phụ thuộc). Những người có
thu nhập 20 triệu đồng/tháng nếu có 2 người phụ thuộc thì số thuế TNCN phải nộp
hàng tháng chỉ chiếm khoảng 0,05% thu nhập (10 nghìn đồng/tháng), những người
có thu nhập dưới 15 triệu đồng/tháng có người phụ thuộc sẽ không phải nộp thuế.
Như vậy, một bộ phận lớn những người đang nộp thuế TNCN ở bậc 1 (chiếm tỉ lệ
cao trong số người nộp thuế TNCN) sẽ chuyển sang diện không phải nộp thuế. Tóm
lại, số thuế TNCN phải nộp sẽ được giảm cho mọi đối tượng nộp thuế, trong đó
mức độ giảm số thuế phải nộp của nhóm NNT ở bậc thuế thấp sẽ cao hơn so với
những NNT ở bậc thuế cao [43].
Việc áp dụng mức giảm trừ mới cho kỳ quyết toán thuế TNCN năm 2020 sẽ
vừa đảm bảo tính cập nhật của chính sách, vừa kịp thời giảm bớt gánh nặng nghĩa
vụ thuế cho NNT trong bối cảnh giá cả, lạm phát tăng cao. Qua đó, góp phần nâng
cao đời sống của NNT, tạo động lực khuyến khích lao động, kích thích tăng mức
chi tiêu hộ gia đình, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc nâng mức giảm trừ gia cảnh
là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội như hiện nay, đảm bảo hài hòa lợi ích của
Nhà nước và NNT mặc dù trước đó nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra khi Chính
phủ tổ chức lấy ý kiến công khai.
Tuy nhiên, cho đến nay việc đưa ra quy định về mức giảm trừ gia cảnh vẫn
tồn tại điểm chưa hợp lý vì chỉ có một mức giảm trừ duy nhất áp dụng như nhau cho
mọi đối tượng trên phạm vi toàn quốc, không phân biệt khu vực nông thôn hay
thành thị, đồng bằng hay miền núi. Trên thực tế ở những thành phố lớn mức tiêu
dùng cho sinh hoạt hàng ngày chênh lệch rất lớn so với các khu vực khác, từ giá
thuê nhà đến chi phí ăn uống, đi lại, vui chơi... đều sẽ đắt đỏ hơn nhiều so với khu
vực nông thôn, miền núi.
Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh
Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 19 Luật
thuế TNCN năm 2014 sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính
thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là
52
cá nhân cư trú.
- Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện
theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối
tượng nộp thuế.
Như vậy, giảm trừ gia cảnh chỉ được áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ
tiền lương, tiền công, mà không áp dụng đối với những người có thu nhập từ đầu tư
vốn, chuyển nhượng vốn, từ chuyển nhượng bất động sản, từ trúng thưởng, từ bản
quyền, nhượng quyền thương mại, từ nhận thừa kế, quà tặng. Đồng thời, khi đăng
ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thì CQT sẽ cấp MST cho người phụ
thuộc để tránh tình trạng gian lận và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể
từ ngày đăng ký. Đây là nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng trong việc áp dụng chế
độ giảm trừ, giúp CQT quản lý việc giảm trừ gia cảnh một cách hiệu quả, hạn chế
tình trạng một cá nhân phụ thuộc được tính giảm trừ nhiều lần với nhiều đối tượng
nộp thuế khác nhau; đồng thời, hoạt động cấp MST cho người phụ thuộc góp phần
nâng cao khả năng kiểm soát, hạn chế hành vi gian lận của NNT làm thất thoát
nguồn thu thuế TNCN vào NSNN.
Xác định người phụ thuộc
Việc xác định đối tượng phụ thuộc cần phải dựa trên mối quan hệ gắn bó
trong gia đình để Luật thuế TNCN tương thích với các luật điều chỉnh những quan hệ
xã hội khác có liên quan, bao gồm: quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng đang tồn
tại, quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời. Để được giảm trừ người phụ thuộc thì
NNT phải có đầy đủ hồ sơ chứng minh người phụ thuộc theo quy định tại Điều 9
Thông tư 04/VBHN-BTC của Bộ Tài chính hợp nhất các văn bản hướng dẫn thực
hiện luật thuế TNCN gồm Thông tư 111/2013/TT-BTC, Thông tư số 119/2014/TT-
BTC, Thông tư số 151/2014/TT-BTC.
- Đối với người phụ thuộc là con, bố mẹ, vợ/chồng: Trên thực tế, thủ tục đăng
ký giảm trừ gia cảnh cho đối tượng này đơn giản, dễ thực hiện và diễn ra khá phổ biến.
Họ là những người có quan hệ gần gũi hơn cả, xuất phát từ truyền thống văn hóa gia
đình Việt Nam vì thế nghĩa vụ nuôi dưỡng là đương nhiên nên hồ sơ, giấy tờ cần thiết
53
để thực hiện đăng ký giảm trừ luôn dễ dàng được thu thập đầy đủ, nhanh chóng. Tuy
nhiên, theo quy định thì những người phụ thuộc là con đang học đại học, trung cấp
chuyên nghiệp… không bị giới hạn về độ tuổi, tương tự những bệnh nào người lao
động mắc phải làm mất khả năng lao động cũng không được nhắc đến cụ thể trong bất
cứ văn bản nào mà chỉ nói chung chung. Điều đó cho thấy đối tượng được coi là người
phụ thuộc có giới hạn phạm vi khá rộng, đây có thể là cơ sở làm phát sinh kẽ hở để
lách luật, tạo ra sự bất công giữa các đối tượng nộp thuế.
- Đối với người phụ thuộc là cá nhân không nơi nương tựa mà NNT đang
phải trực tiếp nuôi dưỡng bao gồm: anh ruột, chị ruột, em ruột của NNT; ông nội,
bà nội; ông ngoại, bà ngoại; cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của NNT;
cháu ruột của NNT (con của anh ruột, chị ruột, em ruột); người phải trực tiếp nuôi
dưỡng khác theo quy định của pháp luật. Việc đăng ký giảm trừ vẫn còn gặp khó
khăn do pháp luật quy định theo hướng mở gây ra vướng mắc ở điều kiện xác định
những đối tượng nào là “cá nhân khác không nơi nương tựa mà NNT phải trực tiếp
nuôi dưỡng”. Cụm từ này cho thấy sự mơ hồ mà vấn đề này cũng chưa được quy
định cụ thể trong bất cứ văn bản nào, điều đó không những dẫn đến việc khó áp
dụng trên thực tế mà còn tạo điều kiện cho những công chức thuế phẩm chất đạo
đức kém có hành động sách nhiễu đối với NNT. Quy định này chỉ đảm bảo công
bằng trong trường hợp NNT có ý thức, trung thực, trách nhiệm và công tác kiểm tra,
giám sát hiệu quả. Hơn nữa, NNT cũng sẽ mất nhiều thời gian hơn để xin xác nhận
chứng minh quan hệ cũng như các điều kiện cần khác (thông tin về thu nhập, không
có ai khác nuôi dưỡng) đối với nhóm người phụ thuộc này.
2.1.6. Về kiểm tra thuế, thanh tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế TNCN nhằm mục tiêu đánh giá mức độ
tuân thủ pháp luật của NNT, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế, xử lý
kịp thời, ngăn ngừa các đối tượng có ý đích gian lận, trốn thuế, đảm bảo công bằng
xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý thuế TNCN. Chính vì vậy, thanh tra, kiểm tra
thuế TNCN có mối liên hệ mật thiết với vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế
TNCN. Nếu công tác thanh tra, kiểm tra thuế không được coi trọng sẽ khiến việc xử
lý vi phạm pháp luật thuế kém hiệu quả dẫn tới làm thất thu NSNN, không bảo đảm
54
được sự bình đẳng giữa đối tượng vi phạm với người chấp hành tốt nghĩa vụ thuế.
2.1.6.1. Quy định về thanh tra, kiểm tra thuế TNCN
Bên cạnh kết quả đã đạt được thì trên thực tế khi thi hành các quy định về
hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế còn gặp khá nhiều khó khăn, hệ thống quy định
chưa đảm bảo được sự đồng bộ, thống nhất mà vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng
chéo, không những thế nhiều chỗ còn thể hiện rõ tính chắp vá. Vì vậy, Luật Quản lý
thuế năm 2019 ra đời là hệ quả tất yếu. Trên cơ sở những quy định sẵn có, nhà làm
luật tiếp tục kế thừa và phát huy những quy định đạt hiệu quả cao trong quy trình
quản lý; bên cạnh đó, bổ sung những nội dung mới giúp hệ thống quy định chặt chẽ
hơn, thích nghi với sự biến đổi của nền kinh tế hiện nay; đồng thời loại bỏ những
quy định không còn phù hợp với thực tiễn. Cụ thể như sau:
Một là, nhóm quy định chung về kiểm tra thuế, thanh tra thuế. Nội dung này
vẫn được đặt trong một mục riêng tương tự như Luật quản lý thuế năm 2016 sửa
đổi, bổ sung, ấn định quy tắc cơ bản cho cả hoạt động kiểm tra thuế và thanh tra
thuế nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hơn nữa việc thanh, kiểm tra trong bối
cảnh hành vi gian lận ngày một tinh vi hơn như hiện nay. Cụ thể:
- Nguyên tắc kiểm tra thuế, thanh tra thuế theo Điều 107 Luật Quản lý thuế
năm 2019 được bổ sung thêm một số nguyên tắc mới so với Luật quản lý thuế năm
2016 sửa đổi, bổ sung. Đó là: phải áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế và ứng
dụng CNTT trong kiểm tra thuế, thanh tra thuế; hoặc khi kiểm tra thuế, thanh tra
thuế tại trụ sở của NNT, thủ trưởng cơ quan quản lý thuế phải ban hành quyết định
kiểm tra, thanh tra; hay việc kiểm tra thuế, thanh tra thuế nhằm đánh giá tính đầy
đủ, chính xác, trung thực nội dung các chứng từ, thông tin, hồ sơ mà NNT đã khai,
nộp, xuất trình với cơ quan quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật về thuế và
quy định khác của pháp luật có liên quan của NNT để xử lý về thuế theo quy định
của pháp luật và không những phải tuân thủ các quy định của pháp luật mà còn cả
mẫu biểu thanh tra, kiểm tra, trình tự, thủ tục, hồ sơ kiểm tra thuế theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Tài chính. Những quy định mới về nguyên tắc nêu trên được thêm
vào vừa nhằm hạn chế rủi ro trong công tác quản lý thuế, vừa thúc đẩy việc ứng
55
dụng điện tử trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thích nghi với thực tế hiện nay;
đồng thời cũng đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong
suốt quá trình thanh tra, kiểm tra thuế.
- Về việc xử lý kết quả kiểm tra thuế, thanh tra thuế căn cứ quy định của
Điều 108 Luật Quản lý thuế năm 2019. Pháp luật bổ sung thêm cách thức xử lý kết
quả kiểm tra, thanh tra bằng việc thu hồi số tiền thuế đã hoàn không đúng quy định
của pháp luật nhằm hạn chế tối đa tình trạng NNT kê khai sai nhằm chiếm đoạt tiền
thuế của nhà nước, đồng thời khắc phục hậu quả trong trường hợp xảy ra sai sót, từ
đó giảm thiểu tổn thất cho Nhà nước. Ngoài ra, việc Luật Quản lý thuế giữ nguyên
quy định về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan quản lý thuế với cơ quan điều tra
trong thực hiện điều tra tội phạm về thuế là hợp lý. Bởi vì, trên thực tế thời gian qua
cho thấy có nhiều vụ vi phạm pháp luật thuế nghiêm trọng phải truy cứu trách
nhiệm hình sự, nhưng việc điều tra, truy tố, xét xử chưa thực sự kịp thời. Cho nên
pháp luật quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện điều tra tội phạm
về thuế là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên.
Hai là, nhóm nội dung điều chỉnh đối với hoạt động kiểm tra thuế. Pháp luật
quản lý thuế quy định rõ về nội dung của công tác kiểm tra thuế gồm: kiểm tra thuế
tại trụ sở CQT và trụ sở của NNT, quyền và nghĩa vụ của NNT khi kiểm tra tại trụ
sở của NNT, nhiệm vụ và quyền hạn của người có thẩm quyền trong việc kiểm tra
thuế. Nhìn chung, nhóm quy định này không có sự thay đổi nhiều so với Luật Quản
lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung.
Đối với quy định tại Điều 109 Luật Quản lý thuế năm 2019 về kiểm tra tại
trụ sở của cơ quan quản lý thuế, được bổ sung thêm một số nội dung mới theo
hướng cụ thể hóa để thắt chặt các quy định, lấp lỗ hổng của pháp luật. Trong đó,
phân định rõ sự khác biệt giữa thực hiện hoạt động kiểm tra thuế ở CQT và hoạt
động kiểm tra thuế ở cơ quan hải quan; đặc biệt, khi tiến hành kiểm tra tại trụ sở
CQT thì công chức thuế được giao nhiệm vụ kiểm tra phải căn cứ vào mức độ rủi ro
về thuế của hồ sơ thuế để phân tích đưa ra kế hoạch kiểm tra, quy định này nhằm
mục đích quản lý rủi ro trong quản lý thuế từ đó phân bổ nguồn lực hợp lý và lựa
56
chọn áp dụng biện pháp xử lý hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, Điều 110 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định thêm các
trường hợp được tiến hành kiểm tra tại trụ sở của NNT như:
- Trường hợp Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước, cơ quan khác có
thẩm quyền kiến nghị;
- Trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần hóa, chấm dứt hiệu lực
MST, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột xuất,
kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường hợp giải thể,
chấm dứt hoạt động mà CQT không phải thực hiện quyết toán thuế theo
quy định pháp luật.
Quy định này thể hiện rõ việc mở rộng hơn hẳn phạm vi thẩm quyền kiểm tra
thuế tại trụ sở của NNT trong các trường hợp cần thiết từ nhu cầu thực tiễn, giúp
cho cơ quan quản lý thuế không bỏ sót sai phạm do thiếu thẩm quyền như trước
đây. Ngoài ra, thời hạn kiểm tra thuế và thời gian gia hạn kiểm tra thuế cũng được
kéo dài hơn, từ “không quá 05 ngày làm việc” theo điểm c Khoản 3 Điều 78 Luật
Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung lên “không quá 10 ngày làm việc” quy
định tại điểm c Khoản 4 Điều 110 Luật Quản lý thuế năm 2019, việc kéo dài thời
gian vừa giúp cải thiện hiệu quả công tác rà soát, thu thập tài liệu, thông tin lại vừa
nhằm nâng cao chất lượng kết quả kiểm tra thuế.
Ba là, nhóm nội dung điều chỉnh đối với hoạt động thanh tra thuế. Pháp luật
quản lý thuế quy định khá chi tiết về những nội dung liên quan đến công tác thanh
tra thuế như: các trường hợp thanh tra thuế, quyết định, thời hạn và kết luận thanh
tra thuế, nhiệm vụ, quyền hạn của những người có thẩm quyền thanh tra thuế, quyền
và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra thuế. Với mục đích thúc đẩy công tác thanh tra
thuế đạt hiệu quả tối ưu cũng như bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, Luật Quản lý thuế năm 2019 không những bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn tăng
trách nhiệm cho các chủ thể có thẩm quyền thanh tra tại Điều 116 và 117, mà còn
mở rộng thêm các quyền và giảm bớt một số nghĩa vụ cho đối tượng thanh tra thuế
57
tại Điều 118. Tương tự quy định về kiểm tra thuế, các trường hợp được tiến hành
thanh tra thuế tại Điều 113 cũng đa dạng hơn trước, có thể thanh tra theo cả yêu cầu
của công tác quản lý thuế trên cơ sở kết quả phân loại rủi ro trong quản lý thuế hoặc
theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, kết luận của Thanh tra nhà nước và cơ quan
khác có thẩm quyền. Thời hạn thanh tra thuế không còn bị giới hạn trong vòng 30
ngày như quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật Quản lý thuế 2016 sửa đổi, bổ sung
mà được tính là thời gian thực hiện thanh tra tại trụ sở của NNT kể từ ngày công bố
quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra theo Điều 115 Luật Quản lý
thuế năm 2019.
Có thể thấy, các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế trong Luật Quản lý thuế
năm 2019 có nhiều điểm khá tiến bộ, phù hợp với thực tiễn vì đã hướng đến những
yêu cầu thiết yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm: công khai, minh
bạch, chặt chẽ và toàn diện. Tuy nhiên, hồ sơ, trình tự, thủ tục cần thiết trong thanh
tra, kiểm tra thuế vẫn đang thực hiện theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung, do luật mới chỉ mới được ban hành và có
hiệu lực trong thời gian gần đây nên cơ quan có thẩm quyền chưa kịp xây dựng văn
bản dưới luật thay thế phù hợp với hệ thống quy định hiện hành.
2.1.6.2. Quy định về xử phạt vi phạm pháp luật về thuế TNCN
Nội dung xử phạt vi phạm pháp luật thuế TNCN được quy định trong Luật
Quản lý thuế năm 2019; Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung;
Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính quy định chi tiết
về xử phạt vi phạm hành chính về thuế…
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2020
đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý thuế TNCN theo hướng mở rộng phạm vi, mô tả chi tiết những hành vi vi
phạm bị xử lý đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế tại Điều 141; hành vi khai sai
dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn,
58
không thu tại Điều 142; hành vi trốn thuế tại Điều 143. Sự thay đổi đầy tính tiến bộ
này vừa dự liệu đầy đủ tất cả tình huống có thể xảy ra, vừa tăng tính giáo dục, răn
đe, giảm thiểu tối đa sai phạm trong việc tính thuế TNCN, kê khai, nộp thuế và làm
hồ sơ xin miễn, giảm, hoàn thuế TNCN, vừa hạn chế gian lận, trốn thuế.
Nội dung hoàn toàn mới quy định về hình thức xử phạt, mức phạt tiền và
biện pháp khắc phục hậu quả được đưa vào Luật Quản lý thuế năm 2019, từ đây cơ
quan có thẩm quyền có thể trực tiếp áp dụng điều luật này khi phát hiện đối tượng
có hành vi vi phạm về thuế mà không cần đối chiếu qua Luật Xử lý vi phạm hành
chính nữa. Cụ thể Điều 138 quy định những nội dung sau:
1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền
2. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế được
quy định như sau:
a) Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi quy định tại Điều 141 của Luật
này thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
b) Phạt 10% tính trên số tiền thuế khai thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc số
tiền thuế khai tăng trong trường hợp được miễn, giảm, hoàn, không thu
thuế đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 142 của Luật này;
c) Phạt 20% tính trên số tiền thuế khai thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc
số tiền thuế khai tăng trong trường hợp được miễn, giảm, hoàn, không
thu thuế đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và các Điểm b, c Khoản 2
Điều 142 Luật này
d) Phạt từ 01 lần đến 03 lần số tiền thuế trốn đối với hành vi quy định tại
Điều 143 của Luật này.
3. Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính về
quản lý thuế bao gồm:
a) Buộc nộp đủ số tiền thuế trốn, thiếu;
59
b) Buộc nộp đủ số tiền đã miễn, giảm, hoàn, không thu thuế không đúng.
Trước đây theo quy định tại Điều 104 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi,
bổ sung thì nguyên tắc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đồng thời là hệ thống
nguyên tắc áp dụng chung cho các hành vi vi phạm hành chính khác. Việc thay đổi
cách thức quy định hệ thống các nguyên tắc xử phạt nhằm hỗ trợ CQT xác định
được NNT khi thực hiện nhóm hành vi này sẽ bị xử phạt tương ứng như thế nào.
Một số nguyên tắc được quy định bổ sung ở Điều 136 Luật Quản lý thuế năm 2019,
ví dụ như: với vi phạm hành chính về sử dụng hóa đơn không hợp pháp, sử dụng
không hợp pháp hóa đơn hoặc sử dụng hóa đơn không đúng quy định dẫn đến thiếu
thuế, trốn thuế thì không xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn mà bị xử phạt vi
phạm hành chính về quản lý thuế; mức phạt tiền tối đa đối với hành vi khai sai dẫn
đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không
thu, hành vi trốn thuế thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế; hoặc người có
thẩm quyền đang thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm hành chính về quản lý
thuế có trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định. Trường hợp
người nộp thuế đăng ký thuế, nộp hồ sơ khai thuế, quyết toán thuế điện tử nếu thông
báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ khai thuế, hồ sơ quyết toán thuế bằng
phương thức điện tử xác định rõ hành vi vi phạm hành chính về quản lý thuế của
người nộp thuế thì thông báo này là biên bản vi phạm hành chính làm căn cứ ban
hành quyết định xử phạt.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung quy định về các
hình thức xử phạt cũng như biện pháp khắc phục hậu quả sau vi phạm có hiệu quả
nhất định giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm hành chính về thuế. Tuy nhiên, nhiều
quy định không còn phù hợp để áp dụng, nhiều mức xử phạt không còn tương xứng
với thiệt hại do hành vi vi phạm thực tế gây ra. Phần lớn các Nghị định, Thông tư
chỉ “chép lại” luật mà không có sự cụ thể hóa cần thiết với các vấn đề được quy
định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Hơn thế, mức phạt tiền với các hành vi
vi phạm hiện nay thật sự chỉ mang tính chất tượng trưng cho nên các nhà làm luật
đang có xu hướng nâng cao mức phạt tiền để tăng tính răn đe, giảm thiểu hành vi vi
60
phạm hành chính về thuế. Trong khi các vi phạm hành chính về thuế TNCN thường
là những vi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao nhưng lại bị phạt
tiền ở mức rất cao sẽ gây ra sự bất hợp lý về cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Ngoài ra,
Chương III Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung vẫn chưa có
quy phạm điều chỉnh một số vấn đề phát sinh trên thực tế như khi đối tượng bị xử
phạt đã chết hoặc bị giải thể, việc miễn giảm tiền phạt đối với đối tượng không có
điều kiện để nộp phạt…
2.1.7. Về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế TNCN
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khâu cuối cùng trong quy trình
quản lý thuế nói chung và quy trình quản lý thuế TNCN nói riêng, thể hiện quyền
lực của nhà nước qua cơ chế cưỡng chế thi hành và bắt buộc tuân thủ. Nếu CQT lựa
chọn được biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế phù hợp, áp
dụng kịp thời và xử lý đúng đối tượng thì nguồn thu vào NSNN sẽ phần nào được
đảm bảo.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nói
chung theo Luật Quản lý thuế năm 2019 bao gồm:
- Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng khác; phong tỏa tài khoản;
- Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập;
- Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Ngừng sử dụng hóa đơn;
- Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật;
- Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ;
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Đây là bảy biện pháp cưỡng chế có tính độc lập tương đối, không phải các
61
bước thực hiện một quy trình mà là những phương pháp khác nhau nhưng pháp luật
lại buộc cán bộ quản lý thuế phải thực hiện tuần tự từng biện pháp khiến quá trình
thực hiện gặp nhiều khó khăn. Cụ thể theo Điều 5 Thông tư 215/2013/TT-BTC
hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quy định các biện
pháp cưỡng chế hành chính thuế được áp dụng lần lượt theo thứ tự từng biện pháp
một. Biện pháp cưỡng chế sau chỉ được thực hiện khi không áp dụng các biện pháp
cưỡng chế trước đó hoặc đã áp dụng nhưng chưa thu đủ tiền thuế, tiền phạt theo
quyết định hành chính thuế. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 125 Luật Quản lý thuế năm
2019 đã cho phép CQT áp dụng linh hoạt biện pháp cưỡng chế trích tiền từ tài
khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế
tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài
khoản và khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập căn cứ vào tình hình thực tế
phần nào khắc phục được tình trạng trên. Nhưng với các biện pháp cưỡng chế còn
lại, CQT vẫn phải thực hiện nguyên tắc áp dụng lần lượt, không áp dụng được biện
pháp cưỡng chế trước thì mới chuyển sang áp dụng biện pháp cưỡng chế sau. Điều
này cho thấy, các nhà làm luật đã có sự chuyển biến rõ rệt về tư duy khi cho phép
cán bộ, CQT chủ động, sáng tạo lựa chọn áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp tùy
thuộc vào hoàn cảnh thực tế mà không bắt buộc họ đi theo một khuôn mẫu nguyên
tắc sẵn có nữa. Sự thay đổi này là cần thiết nhằm nâng cao khả năng thu hồi nợ
thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thuế dễ dàng đưa các quy định vào thực thi.
Trên thực tế, các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khá
nghiêm khắc vì một khi được áp dụng nó ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản, hoạt động
kinh doanh của đối tượng bị cưỡng chế nhưng khi phân tích kĩ các quy định này có
thể thấy một số vướng mắc như sau:
Một là biện pháp trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản chỉ thực sự có ý nghĩa khi số dư
trong tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế đủ để thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ
thuế TNCN và NNT có tinh thần tự giác, trung thực, tích cực phối hợp giảm bớt tổn
thất nguồn thu ngân sách do mình gây ra.
62
Hai là biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập khi đưa vào
triển khai tương đối hiệu quả đối với những NNT đang làm việc theo biên chế hoặc
hợp đồng từ 06 tháng trở lên hoặc đang được hưởng trợ cấp hưu trí, mất sức là
người làm công ăn lương, người có thu nhập từ nguồn mà CQT kiểm soát được
[19]. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cá nhân nợ thuế chuyển chỗ làm, nơi sinh sống,
khiến CQT rất khó kiểm soát để thu nợ và áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Ba là biện pháp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép
hành nghề. Người có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý thuế không được trực tiếp
thực hiện việc thu hồi mà phải yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
thu hồi theo quy định. Thực tế cho thấy, đây là biện pháp cưỡng chế mạnh nhất
với mỗi NNT, vì giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay giấy phép hành nghề là
“cần câu” tạo ra thu nhập. Nếu lựa chọn áp dụng biện pháp này thì sẽ tước đi
nguồn tạo ra thu nhập của NNT nên nó ít khi được sử dụng, bởi mục đích của việc
cưỡng chế sẽ phần nào đó khó để đạt được hiệu quả triệt để, vừa thu được nợ thuế
mà vẫn răn đe được NNT [46].
Nhìn chung, cưỡng chế nợ thuế được quy định khá đầy đủ, chi tiết trong Luật
Quản lý thuế năm 2019. Các quy định về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
về thuế không có nhiều sự thay đổi so với Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ
sung, chi tiết nội dung các biện pháp cưỡng chế hầu như được giữ nguyên chỉ có sự
thay đổi về nguyên tắc áp dụng. Mỗi biện pháp cưỡng chế nêu trên dù vẫn còn một
vài điểm vướng mắc nhỏ trên thực tiễn nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt khi được cơ quan
quản lý thuế áp dụng linh hoạt, kịp thời với đúng nhóm đối tượng phù hợp.
2.1.8. Về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế TNCN
Một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Quản lý thuế năm 2019
là việc bổ sung riêng một điều luật quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế
nói chung tại Điều 8 và áp dụng với cả quản lý thuế TNCN nói riêng. Theo đó, giao
dịch điện tử đối với thuế TNCN là nghĩa vụ bắt buộc đối với NNT đủ điều kiện.
Đồng thời, khẳng định nguyên tắc đã giao dịch điện tử thì không phải thực hiện các
hình thức giao dịch khác; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong tổ
63
chức hệ thống thông tin điện tử; bổ sung quy định thời hạn nộp hồ sơ thuế trong
trường hợp gặp sự cố kỹ thuật… Quy định mới này giúp tận dụng tối đa thành tựu
CNTT hiện đại vào việc thực hiện các hồ sơ, thủ tục hành chính thuế, từ đó, giúp
giảm chi phí in ấn hồ sơ, giấy tờ...
Nhiều quy định hiện nay khuyến khích và cho phép các chủ thể sử dụng
phương thức điện tử bên cạnh các phương thức truyền thống, điển hình như: NNT
có quyền được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng
thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế và được sử dụng chứng từ điện tử trong
giao dịch với cơ quan quản lý thuế và cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định
tại Điều 16. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc kết nối thông tin giữa cơ quan quản lý nhà
nước và cơ quan thuế để nhận hồ sơ đăng ký thuế và cấp MST theo cơ chế một cửa
liên thông qua cổng thông tin điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật có
liên quan theo Khoản 4 Điều 31. Ngoài ra cơ quan quản lý thuế phải xây dựng hệ
thống CNTT đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý thuế, tiêu chuẩn kỹ
thuật, định dạng dữ liệu về hóa đơn, chứng từ điện tử, hồ sơ thuế để thực hiện giao
dịch điện tử giữa người nộp thuế với cơ quan quản lý thuế và giữa cơ quan quản lý
thuế với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Khoản 3 Điều 100.
Tuy dịch vụ điện tử được triển khai tạo ra nhiều lợi ích cho cả NNT và CQT
nhưng một số quy định về triển khai ứng dụng CNTT trong lĩnh vực thuế vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Bởi ứng dụng nộp thuế điện tử còn chưa được hoàn
thiện, thường xuyên phải tạm ngừng để bảo trì hệ thống, trong khi công nghệ phát
triển từng ngày mà thời gian để xây dựng dự án nâng cấp ứng dụng sao cho phù hợp
lại tiêu tốn khá nhiều thời gian. Điều này tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến việc áp
dụng CNTT ngành thuế nói chung, vì khi một ứng dụng được pháp luật thông qua
cũng là lúc nó trở nên lỗi thời. Pháp luật cũng chưa có quy định với trường hợp nếu
cổng thông tin của cơ quan nhà nước gặp sự cố trong ngày cuối của thời hạn nộp hồ
sơ thuế TNCN hay nộp thuế TNCN khiến NNT không thể hoàn thành thủ tục đúng
hạn, thì thời điểm hồ sơ được phản hồi xác nhận đã nộp có được coi là đúng thời
hạn hay không. Cho nên cần quy định rõ cách thức xử lý trong trường hợp này để
64
xác lập trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên, hạn chế tranh chấp có thể xảy ra.
Như vậy, nhiều quy định hiện nay khuyến khích và cho phép các chủ thể sử
dụng phương thức điện tử bên cạnh các phương thức truyền thống, cho thấy CNTT
được Nhà nước ứng dụng triệt để trong công tác quản lý thuế vừa để hỗ trợ NNT
vừa giúp CQT đơn giản hóa việc quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số quy định
về triển khai ứng dụng CNTT trong lĩnh vực thuế vẫn chưa đáp ứng được các yêu
cầu thực tiễn, hệ thống CNTT chưa được tối ưu phù hợp.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN tại Thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
2.2.1. Khái quát về Thành phố Bắc Kạn và Chi cục thuế Thành phố Bắc
Kạn, tỉnh Bắc Kạn
2.2.1.1. Vài nét về Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh thuộc vùng núi Đông Bắc, phía Nam giáp Thái Nguyên, phía
Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Lạng Sơn, phía Tây giáp Tuyên Quang. Bắc
Kạn là một tỉnh miền núi vùng cao, nằm sâu trong nội địa. Địa hình đa dạng, phức
tạp, chủ yếu là đồi và núi cao, bị chi phối bởi những dãy núi vòng cung quay lưng
về phía đông xen lẫn với những thung lũng.
Thành phố Bắc Kạn là trung tâm hành chính – kinh tế của tỉnh Bắc Kạn
nên được Trung ương và tỉnh quan tâm đầu tư cũng như tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển toàn diện. Ngoài ra, Bắc Kạn còn sở hữu nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú với quần thể di tích lịch sử - văn hóa và nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp, cùng những lễ hội văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào các dân
tộc như hội “Lồng tồng”, các làn điệu hát truyền thống của người Tày; lễ hội cầu
mùa… Hiện nay thành phố Bắc Kạn đang khuyến khích phát triển hệ thống
khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ có liên quan trên địa bàn để phục vụ
ngành du lịch nhằm thu hút được nhiều khách du lịch đến với nơi đây [51].
Thành phố Bắc Kạn có đặc điểm tự nhiên thuận lợi, lại là trung tâm của tỉnh
nên ngày càng thu hút tập trung đông dân cư, doanh nghiệp đổ về đầu tư, làm ăn,
sinh sống. Vì vậy, nguồn thu từ thuế TNCN của Thành phố Bắc Kạn là khá lớn so
65
với tổng số thu thuế TNCN của toàn tỉnh; kéo theo đó việc thực hiện pháp luật về
quản lý thuế TNCN trên địa bàn này cũng phát sinh nhiều vấn đề trên thực tiễn hơn
so với những đơn vị hành chính cấp huyện khác của tỉnh.
2.2.1.2. Tổ chức bộ máy của Chi cục Thuế Thành phố Bắc Kạn
Ngày 21/12/1996, CCT Thị xã Bắc Kạn được thành lập theo quyết định số
315/TC/QĐ-TCCB của Bộ Tài Chính. Đây là tổ chức trực thuộc Cục Thuế tỉnh Bắc
Kạn, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác quản lý thuế, phí, lệ phí và các khoản
thu khác của NSNN thuộc phạm vi nhiệm vụ của ngành thuế trên địa bàn Thành
phố Bắc Kạn theo quy định của pháp luật, quy trình của ngành thuế và các quy định
pháp luật khác có liên quan. Thành phố Bắc Kạn được thành lập theo Quyết định
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội công bố ngày 16/05/2015, từ đó CCT Thị xã Bắc
Kạn đổi tên thành CCT Thành phố Bắc Kạn. Sau một thời gian xây dựng và phát
triển, CCT Thành phố Bắc Kạn cùng với CCT huyện Bạch Thông và CCT huyện
Chợ Mới được sáp nhập thành CCT khu vực Bắc Kạn - Bạch Thông - Chợ Mới theo
Quyết định số 918/QĐ-BTC ngày 04/06/2019 của Bộ Tài Chính. Như vậy, CCT
thành phố Bắc Kạn hiện nay là một đơn vị cấu thành của CCT khu vực Bắc Kạn -
Bạch Thông - Chợ Mới, đồng thời là địa điểm đặt trụ sở chính của CCT khu vực.
Cơ cấu tổ chức của CCT Thành phố Bắc Kạn gồm 6 đội trực thuộc. Các đội
thuế có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau [4]. Cụ thể như sau:
- Đội Hành chính - Nhân sự - Tài vụ - Quản trị - Ấn chỉ giúp Chi cục trưởng
CCT thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ; công tác quản lý nhân sự;
quản lý tài chính, quản trị; quản lý ấn chỉ trong nội bộ CCT quản lý.
- Đội Nghiệp vụ Quản lý thuế (Tuyên truyền - Hỗ trợ - Nghiệp vụ - Dự toán -
Kê khai - Kế toán thuế - Tin học - Trước bạ và thu khác) giúp Chi cục trưởng CCT
thực hiện công tác quản lý, đăng ký thuế, khai thuế, kế toán thuế, thống kê thuế;
quản lý và vận hành hệ thống trang thiết bị tin học; hướng dẫn về nghiệp vụ quản lý
thuế, chính sách, pháp luật thuế cho công chức thuế trong CCT; xây dựng và tổ
chức thực hiện dự toán thu NSNN được giao của CCT; quản lý thu lệ phí trước bạ,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, các khoản đấu giá về đất, tài sản, tiền thuê đất, phí,
66
lệ phí và các khoản thu phát sinh trên địa bàn thuộc phạm vi CCT quản lý.
- Đội Kiểm tra thuế (bao gồm thực hiện nhiệm vụ Quản lý nợ và Cưỡng chế
nợ thuế) giúp Chi cục trưởng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát kê khai thuế; giải
quyết tố cáo liên quan đến NNT; thực hiện dự toán thu; quản lý nợ thuế, cưỡng chế
thu tiền thuế nợ, tiền phạt đối với NNT thuộc phạm vi quản lý của Chi cục Thuế.
- 3 Đội Quản lý thuế xã, phường/liên xã phường có nhiệm vụ giúp Chi cục
trưởng CCT quản lý thu thuế các tổ chức, cá nhân trên địa bàn xã, phường được
phân công (bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ, kể
cả hộ nộp thuế TNCN; thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...).
2.2.2. Thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN tại Chi cục thuế
Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
2.2.2.1. Một số vấn đề trong thực tiễn
Tại CCT Thành phố Bắc Kạn, thuế TNCN thực thu mặc dù chỉ chiếm 6-8%
mỗi năm nhưng đây luôn là một trong bốn khoản thu chiếm tỉ trọng cao trên tổng số
thu vào NSNN bên cạnh thuế giá trị gia tăng, tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ. Số
thu ngân sách từ thuế TNCN trên địa bàn thành phố qua các năm ngày càng tăng là
nhờ sử dụng hợp lý các biện pháp tăng cường và đẩy mạnh hoạt động quản lý thuế
TNCN. Một phần thu nhập của NNT được chuyển vào ngân sách, mà Nhà nước có
thể sử dụng khoản đóng góp này vào mục đích phát triển chung của xã hội.
Bảng 2.1. Bảng thể hiện tỉ trọng thuế TNCN thực thu trên tổng số thu
giai đoạn 2016-2019 trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm
Kế Hoạch Giao 2016 96.000 2017 99.500 2018 106.350 2019 114.000
106.761 104.503 108.875 135.585 Tổng thu
Thực Thu Đạt Kế Hoạch (%)
Kế Hoạch Giao 111% 8.100 105% 8.900 102% 10.800 119% 12.700
7.227 7.504 9.642 10.706 Thuế TNCN Thực Thu Đạt Kế Hoạch (%) 90% 82% 89,30% 84%
6,77% 7,18% 8,86% 7,90% Tỉ trọng Thuế TNCN thực thu (%)
67
(Nguồn: Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn)
Việc thực hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN tại CCT Thành phố Bắc Kạn
được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Về quản lý đối tượng nộp thuế TNCN
Hàng năm, CCT thành phố Bắc Kạn tiến hành lựa chọn những cơ quan chi
trả, cá nhân NNT có số thuế thực nộp ngân sách lớn để lập danh sách dự toán cũng
như tiện theo dõi việc kê khai thu nộp theo kế hoạch năm tiếp theo trên cơ sở số
thuế TNCN thực thu. Thông qua biện pháp truy xuất số liệu trên ứng dụng quản lý
thuế, CQT có thể đối chiếu, rà soát thu nhập mà NNT kê khai qua các năm. Từ đó,
có cơ sở yêu cầu NNT giải trình và kê khai, nộp bổ sung các khoản thuế còn thiếu
vào ngân sách nếu có dấu hiệu thất thoát. Biện pháp này vừa nhằm mục đích cảnh
báo NNT rằng tất cả thu nhập phát sinh trên toàn quốc của mỗi cá nhân đều được
CQT quản lý chặt chẽ trên phần mềm hệ thống, vừa hạn chế được hành vi “giấu thu
nhập”, vừa có căn cứ để áp dụng các biện pháp xử phạt đối với NNT.
CCT cũng chú trọng công tác quản lý hộ kinh doanh khoán thuế, vì đây là
công việc khá phức tạp, đụng chạm đến nhiều người trong khi tính tuân thủ pháp
luật của NNT còn có nhiều hạn chế. Để đảm bảo hiệu quả công việc, CCT đã tăng
cường chỉ đạo các đội thuế phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, hội đồng tư
vấn thuế để đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của NNT,
đồng thời thường xuyên bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình kinh doanh, trên cơ sở
đó xác định được mức thuế khoán và thực hiện đúng quy trình quản lý. Thực tiễn
chứng minh khi mức thuế khoán phù hợp và được thông báo công khai, CQT kịp
thời kiểm tra, xác minh, điều chỉnh khi có những ý kiến đóng góp chính đáng của
các cá nhân sẽ tạo dựng sự đồng tình, tin tưởng ở NNT với CQT. Chính sự đồng
thuận xã hội này là điều kiện cơ bản để CCT hoàn thành chỉ tiêu thu tốt trong thời
gian qua, tỷ lệ tăng thu qua các năm đều đảm bảo yêu cầu, nợ thuế ngày càng giảm.
Ngoài ra, lãnh đạo CCT cũng phân công cán bộ chuyên trách thường xuyên
theo dõi danh sách cá nhân có nhiều nguồn thu nhập. Căn cứ vào thông tin trên ứng
dụng quản lý thuế, công chức quản lý tiến hành đối chiếu số thuế đã nộp năm liền
68
kề trước đó với số tiền thuế quyết toán trong năm báo cáo, cùng với đó dựa vào nội
dung chính sách thuế TNCN để đánh giá mức độ rủi ro về thuế của từng cá nhân
được theo dõi. Lãnh đạo CCT chịu trách nhiệm đối với mảng thuế TNCN phải được
báo cáo định kì về nội dung này để có thể phân công kiểm tra quyết toán kịp thời
dựa trên mức độ rủi ro hoặc đưa ra biện pháp cưỡng chế thu phù hợp.
Mọi thông tin cơ bản, gia cảnh của NNT đều được lưu giữ làm cơ sở đối
chiếu, kiểm tra việc kê khai giảm trừ gia cảnh, phát hiện các trường hợp khai trùng,
khai thiếu hồ sơ... Nhưng hệ thống phần mềm và dung lượng máy chủ của ngành
thuế hiện chưa đáp ứng được nhu cầu lưu trữ thông tin NNT và quản lý các đối
tượng nộp thuế TNCN.
Về quản lý đăng ký thuế, cấp MST
Việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ đăng ký thuế, cấp MST cho NNT tại CCT
thành phố Bắc Kạn được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng, đúng pháp luật. MST
được cấp chủ yếu cho đối tượng nộp thuế là cá nhân, hộ kinh doanh và cá nhân có
thu nhập từ tiền lương, tiền công. Kết quả cấp MST được thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 2.2. Bảng thống kê tổng số MST được cấp mới
trên địa bàn thành phố Bắc Kạn từ năm 2017 đến nay
06 tháng đầu Năm 2017 2018 2019 năm 2020
Tổng số MST 387 456 872 430 được cấp mới
(Nguồn: Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn)
Theo số liệu bảng trên, có thể thấy từ năm 2017 đến nay số lượng MST được
cấp tăng lên nhanh chóng theo từng năm. Đặc biệt, hồ sơ đăng ký cấp MST năm
2019 trên địa bàn tăng gần gấp đôi so với năm trước đó, đây là hệ quả của việc ứng
dụng CNTT vào công tác đăng ký, cấp MST trực tuyến mà không cần đến trụ sở
CQT, áp dụng đối với doanh nghiệp. Cụ thể, các cá nhân ủy quyền cho cơ quan chi
trả thu nhập đăng ký MST cho bản thân và người phụ thuộc có thể nộp hồ sơ qua hệ
thống trên, MST sẽ được cấp ngay sau một khoảng thời gian nhất định. Doanh
69
nghiệp là đối tượng trước hết được ưu tiên ứng dụng CNTT với các thủ tục thuế,
việc đăng ký, khấu trừ, quyết toán thuế TNCN đều do doanh nghiệp thực hiện trong
trường hợp cá nhân ủy quyền. Vì sự thuận tiện, đơn giản đó mà cả những đối tượng
có thu nhập chưa đến mức phải nộp thuế lẫn đối tượng chưa có thu nhập trong cơ
quan chi trả thu nhập đều tự nguyện đăng ký để được cấp MST và khấu trừ thuế
theo mức thuế suất thấp hơn. Cùng với đó, CCT cũng hỗ trợ cả những cá nhân có
thu nhập ở nhiều nơi, họ có thể liên hệ để được cấp MST chỉ cần có bản sao chứng
minh thư nhân dân, điền một số thông tin vào mẫu đơn có sẵn tại CQT. Trong
trường hợp NNT tạm ngừng, nghỉ kinh doanh đều đã được CCT giải quyết chấm
dứt hiệu lực MST, trường hợp tiếp tục kinh doanh trở lại cũng được khôi phục MST
kịp thời, ra thông báo và cập nhật đầy đủ trên ứng dụng quản lý thuế theo quy định.
Về quản lý kê khai thuế, nộp thuế TNCN
Trong những năm gần đây, CCT thành phố Bắc Kạn tích cực triển khai công
tác kê khai thuế qua mạng Internet và nộp thuế điện tử. Theo sự chỉ đạo của Tổng
cục Thuế, CCT thành phố Bắc Kạn đã cài đặt thiết bị phần mềm cần thiết để phục
vụ quản lý kê khai, nộp thuế TNCN và tổ chức tập huấn cho cán bộ thuế cũng như
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau một thời gian áp dụng,
có thể thấy việc nộp hồ sơ khai thuế qua mạng và nộp thuế điện tử đã đem lại lợi ích
cho cả CCT và doanh nghiệp trên địa bàn. Bởi thủ tục đơn giản, nhanh gọn, hiệu
quả cao và an toàn, không bị giới hạn về không gian, tiết kiệm thời gian, chi phí cho
doanh nghiệp, đồng thời CQT cũng xử lý tờ khai nhanh, chính xác hơn, thuận lợi
cho việc lưu trữ hồ sơ và tra cứu dữ liệu, đáp ứng được nhu cầu số thu và số lượng
NNT ngày càng tăng. Việc nộp thuế thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước và các
ngân hàng thương mại đã tập trung nguồn thu cho NSNN một cách nhanh chóng,
giảm dần tình trạng cán bộ thuế chiếm dụng tiền thuế, tiết kiệm thời gian và chi phí
đi lại của từng cá nhân, ổn định về mặt tổ chức, giúp cán bộ thuế dễ dàng quản lý.
Nhìn chung, việc hướng dẫn, giám sát kê khai thuế, ban hành thông báo thuế
đúng thời hạn, không tồn đọng, các trường hợp phát sinh nghĩa vụ tài chính được
thu nộp kịp thời. Gần đây tổng số lượng hồ sơ khai thuế TNCN tăng lên mỗi năm,
70
bên cạnh đó chất lượng kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân cũng được nâng lên
đáng kể nhờ việc sử dụng phần mềm hỗ trợ kê khai thuế của ngành. Số hồ sơ khai
thuế đã nộp luôn đạt trên 90%, những hồ sơ chưa nộp thường là của những cá nhân
bỏ kinh doanh nhưng không thực hiện hoàn thành nốt các thủ tục cần thiết theo quy
định. Cụ thể được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp số hồ sơ khai thuế TNCN
trên địa bàn thành phố Bắc Kạn giai đoạn 2017 - 2019
Tổng số hồ sơ khai Số hồ sơ khai thuế Đạt (%) Năm thuế TNCN phải nộp TNCN đã nộp
1.269 1.199 94,5% 2017
1.453 1.386 95% 2018
1.924 1.901 98,8% 2019
(Nguồn: Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn)
Ngoài ra, các trường hợp chậm nộp tờ khai cũng đã được xử lý theo đúng
quy định để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của NNT. Mỗi năm CCT thành phố
Bắc Kạn đều tiến hành rà soát và xử lý vi phạm về kê khai thuế, chủ yếu xử phạt
bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền. Với những tờ khai sai, lỗi không hạch toán
được còn tồn trên hệ thống CQT đã phối hợp hướng dẫn NNT điều chỉnh kịp thời.
Đồng thời tiến hành rà soát thông tin kê khai, điều chỉnh số liệu ảo như nộp thừa, nợ
ảo để chuẩn hóa dữ liệu. Vẫn còn nhiều trường hợp CQT vẫn chưa kiểm soát được
tính chân thực trong kê khai, tính thuế do hoạt động này được đơn vị chi trả thu
nhập thực hiện hoặc NNT tự kê khai. CQT chỉ nhận bản kê khai và kiểm tra việc
tính thuế có chính xác không rồi căn cứ vào tờ khai để tiến hành thu thuế.
Về miễn, giảm thuế TNCN
Những đối tượng thuộc diện được miễn, giảm thuế hồ sơ thủ tục được kiểm
soát chặt chẽ theo quy định sau đó lại được kiểm tra nội bộ, thanh tra định kì mỗi
năm tránh tình trạng NNT cấu kết với cán bộ thuế để trốn tránh nghĩa vụ thuế.
Trong giai đoạn 06 tháng đầu năm 2020, hồ sơ miễn, giảm thuế được xét duyệt chủ
71
yếu đối với các cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa các thành
viên trong gia đình, chuyển nhượng nhà ở đất ở duy nhất, chuyển đổi đất nông
nghiệp và cá nhân kinh doanh xin tạm nghỉ kinh doanh theo tháng thực hiện các
chính sách của Nhà nước về phòng chống dịch bệnh. Trong giai đoạn này, số cá
nhân tạm nghỉ kinh doanh tăng cao, chủ yếu thuộc lĩnh vực kinh doanh lưu trú,
karaoke, ăn uống… CCT thành phố Bắc Kạn đã ban hành 892 quyết định với riêng
nhóm đối tượng này, tổng số tiền thuế miễn, giảm là 538 tỷ đồng.
Về quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN
Việc hoàn thuế TNCN chỉ áp dụng đối với những cá nhân đã có MST tại thời
điểm đề nghị hoàn thuế. Công tác tiếp nhận hồ sơ, giải quyết hoàn thuế cho NNT
được thực hiện đúng thời hạn, đúng quy định. Tại CCT thành phố Bắc Kạn số lượt
hồ sơ hoàn thuế TNCN không đáng kể, số lượng hồ sơ hoàn thuế năm sau tăng cao
hơn năm trước. Điều này cho thấy ý thức tự giác tạm nộp thuế TNCN theo quý và
theo từng lần phát sinh của NNT và tổ chức chi trả thu nhập đã được cải thiện,
người dân dần nâng cao nhận thức về Luật Thuế TNCN.
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp lượng hồ sơ hoàn thuế TNCN trên địa bàn
thành phố Bắc Kạn từ năm 2018 đến nửa đầu năm 2020
Tổng số tiền được hoàn Tổng số hồ sơ hoàn thuế Năm (triệu đồng)
230 37 2018
279 57 2019
318 71 06 tháng đầu năm 2020
(Nguồn: Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn)
Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế TNCN
Những năm gần đây dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Thuế, Cục thuế tỉnh Bắc
Kạn, các đội kiểm tra, đội thuế TNCN của Chi cục thuế thành phố Bắc Kạn đã liên
tục rà soát cá nhân có thu nhập từ hai nơi trở lên từ tiền lương, tiền công qua ứng
dụng TMS, qua đó phát hiện ra còn rất nhiều trường hợp cá nhân có thu nhập từ tiền
72
lương, tiền công từ hai nơi trở lên theo dữ liệu phản ánh trên ứng dụng TMS có số
thuế phải nộp thêm thuộc diện phải thực hiện quyết toán thuế tại cơ quan thuế
nhưng chưa thực hiện quyết toán. Bên cạnh đó, cũng thành lập Tổ kiểm tra điện tử
để kiểm tra Hồ sơ khai thuế TNCN bằng phương thức điện tử, để cung cấp danh
sách cá nhân có nhiều nguồn thu nhập cho các đoàn kiểm tra tương ứng với các đơn
vị chi trả thu nhập để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra. Qua đó phát hiện các
đoàn kiểm tra thực hiện kiểm tra thuế TNCN từ tiền lương, tiền công, yêu cầu các
đơn vị giải trình chứng minh nguồn thu nhập của các lao động.
CCT thành phố Bắc Kạn đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra hồ sơ khai
thuế tại CQT. Công tác kiểm tra, giám sát hồ sơ khai thuế tại CQT đối với các
doanh nghiệp tại CCT đã giảm thiểu rất lớn các trường hợp kê khai sai và có dấu
hiệu gian lận liên quan đến thuế TNCN của các doanh nghiệp, góp phần chống thất
thu NSNN qua việc kê khai thuế; ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường hợp vi
phạm về thuế, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp; nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp
luật thuế của các doanh nghiệp. Hàng năm 100% số hồ sơ khai quyết toán thuế đều
được kiểm tra tại trụ sở CQT do số lượng hồ sơ khai quyết toán thuế TNCN trên địa
bàn không nhiều.
Về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế TNCN
Công tác cưỡng chế nợ thuế TNCN cũng là một trong những công tác được
lãnh đạo CCT đặc biệt quan tâm nhằm đảm bảo số thu vào ngân sách đúng thời hạn,
công tác này được thực hiện theo Quy trình quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế.
CCT đã xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu thu nợ thuế đến các đội thuế, chỉ đạo các
cán bộ quản lý thuế tăng cường áp dụng các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế
nợ thuế. Bên cạnh đó, thực hiện việc phân loại và phân tích nguyên nhân nợ để có
biện pháp xử lý phù hợp và kịp thời theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở số liệu
nợ thuế đã được xác nhận, bộ phận thu nợ và cưỡng chế nợ thuế tiến hành mời NNT
lên làm việc, thông báo nợ thuế, thuyết phục NNT đăng ký thời hạn nộp, xử phạt
chậm nộp, báo cáo UBND để chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp đôn đốc, thu
73
hồi nợ đọng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế...
Việc theo dõi nợ được thực hiện đầy đủ, tuy nhiên công tác phối hợp rà soát,
đối chiếu số liệu, điều chỉnh số nợ ảo, phân loại các khoản nợ, đề nghị xóa nợ còn
chưa triệt để. Nợ thuế TNCN chủ yếu là của cá nhân kinh doanh, nhóm đối tượng
này chưa có ý thức tự giác chấp hành các quy định của pháp luật thuế, chây ỳ nợ
thuế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ tiêu giảm nợ thuế; đồng thời, vẫn có một
số khoản nợ ảo, nợ quá thời hạn chưa được đối chiếu, xử lý được kịp thời.
2.2.2.2. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về
quản lý thuế TNCN tại Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn và nguyên
nhân của những hạn chế
Một số hạn chế, bất cập
Một là số thuế TNCN thực thu hàng năm đều chưa đạt mức dự toán là không
tương xứng với khả năng và điều kiện phát triển kinh tế của thành phố do chưa có
biện pháp hiệu quả khai thác nguồn thu. Ở một số lĩnh vực, ngành nghề như: ăn
uống, vận tải... vẫn còn xảy ra tình trạng gian lận cả về doanh thu lẫn tiền thuế; các
doanh nghiệp chưa khai đúng số tiền lương, tiền công trả cho người lao động dẫn
đến thất thu thuế TNCN.
Hai là việc xác định doanh thu tính thuế đối với cá nhân kinh doanh trong
một số trường hợp còn chưa sát với thực tế phát sinh. Hơn nữa, việc quản lý thu
nhập đối với đối tượng có nhiều nguồn thu nhập ở trên địa bàn chưa thực sự triệt để
vì nhiều trường hợp CQT không nắm được thu nhập thực sự của họ là bao nhiêu.
Thu nhập từ dự hội nghị, nhận biếu xén đối với các cán bộ thuộc khu vực Nhà nước,
thu nhập của các cá nhân hành nghề tự do không thuộc diện điều tiết của thuế thu
nhập doanh nghiệp, thu nhập của những người hoạt động nghệ thuật, thu nhập từ
các hoạt động giảng dạy, luyện thi … vẫn chưa có biện pháp kiểm soát. Do tính chất
các khoản thu nhập không đều đặn, cùng với sự buông lỏng của các cơ quan chi trả
thu nhập đối với việc khấu trừ trước khi chi trả đã tạo điều kiện cho các khoản thu
nhập này trên thực tế nằm ngoài diện phải nộp thuế. Bản thân CQT cũng chưa kiểm
tra sát sao việc khấu trừ thuế của các đơn vị chi trả thu nhập, do vậy càng khuyến
74
khích các đơn vị chi trả thu nhập lãng quên nhiệm vụ của mình.
Ba là đối với quản lý thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, hầu như CQT
chưa kiểm soát được tính chân thực trong kê khai, tính thuế đối với hoạt động này
do NNT tự kê khai. CQT chỉ nhận bản kê khai và kiểm tra việc tính thuế có chính
xác không rồi căn cứ vào tờ khai để tiến hành thu thuế. Bảng giá đất theo quy định
của UBND mỗi tỉnh hiện có sự chênh lệch rất lớn với thực tế dẫn đến việc kê khai
giá chuyển nhượng bất động sản hoàn toàn không chính xác làm thất thu một phần
tiền thuế. Bên cạnh đó, việc áp dụng hai mức thuế suất khác nhau là 2% và 25% để
tính thuế với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tạo sự chênh lệch quá lớn và
không phù hợp. Điều này cho thấy chính sách pháp luật thuế đối với hoạt động
chuyển nhượng bất động sản hiện nay chưa cụ thể, rõ ràng trong căn cứ tính thuế
làm ảnh hướng đến NNT, gây lung túng cho CQT khi thực hiện; đồng thời dễ làm
phát sinh tình trạng tiêu cực, sách nhiễu.
Bốn là về công tác xét miễn, giảm thuế TNCN, mặc dù những hồ sơ thủ tục
liên quan đến miễn, giảm thuế TNCN luôn được cán bộ quản lý kiểm soát chặt chẽ
theo quy định sau đó lại được kiểm tra nội bộ, thanh tra định kì mỗi năm tránh tình
trạng NNT cấu kết với cán bộ thuế để trốn tránh nghĩa vụ thuế. Nhưng vẫn còn tổn
tại nhiều trường hợp NNT kê khai, cam kết không đúng sự thật do luật không quy
định chặt chẽ mà CQT, cán bộ quản lý thuế không thể và cũng không được trao
quyền xác minh thông tin được cung cấp có đúng hay không. Hệ thống thông tin
quản lý của ngành thuế còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, điển hình trường
hợp cam kết một nhà ở đất ở, duy nhất, cả cán bộ quản lý thuế và cơ quan tài
nguyên – môi trường đều không thể tra cứu được tính chính xác do hệ thống quản lý
điện tử mỗi ngành hiện nay chỉ có thể tìm kiếm dữ liệu trong phạm vi tỉnh mà
không thể tra cứu trên phạm vi toàn quốc. Đây chính là kẽ hở trong quy định của
pháp luật nhiều người lợi dụng để không phải nộp thuế TNCN.
Năm là công tác phối hợp rà soát, đối chiếu số liệu, điều chỉnh số nợ ảo,
phân loại các khoản nợ, đề nghị xóa nợ còn chưa triệt để. Nợ thuế TNCN chủ yếu là
của cá nhân kinh doanh, nhóm đối tượng này chưa có ý thức tự giác chấp hành các
75
quy định của pháp luật thuế, chây ỳ nợ thuế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ
tiêu giảm nợ thuế; đồng thời, vẫn có một số khoản nợ ảo, nợ quá thời hạn chưa
được đối chiếu, xử lý được kịp thời.
Sáu là việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số Đội thuế có
lúc, có nơi chưa nghiêm. Một vài công chức thuế còn hạn chế về chuyên môn, năng
lực tiếp cận, sử dụng CNTT, phương pháp quản lý thuế mới tiên tiến, hiện đại; xử lý
công việc còn lúng túng; kỹ năng giao tiếp, ứng xử với NNT trong một số trường
hợp còn nóng vội, chưa linh hoạt, chưa cải tiến được tác phong làm việc; hỗ trợ,
hướng dẫn NNT chưa tận tình tạo cảm giác đang gây khó khăn, phiền hà khiến
NNT hiểu nhầm, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ.
Bảy là ứng dụng CNTT mặc dù đã tạo ra nhiều thuận lợi cho công tác quản
lý thuế TNCN nhưng hệ thống phần mềm và dung lượng máy chủ của ngành thuế
hiện chưa liên kết được thông tin để kiểm soát trên phạm vi toàn quốc, không đáp
ứng được nhu cầu lưu trữ thông tin NNT và công tác quản lý các đối tượng nộp thuế
TNCN. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản lý thuế trên địa bàn.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, chính sách quản lý thuế TNCN có nhiều sự thay đổi theo hướng
hiện đại hóa trong những năm gần đây nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa kịp
xây dựng đầy đủ các văn bản hướng dẫn đồng bộ. Những nội dung đã được đưa vào
triển khai thì thời gian tập huấn triển khai rất gấp gáp trong khi nội dung rộng, bao
quát nhiều vấn đề khiến cho chính sách pháp luật mới chỉ được phổ biến ở bề nổi
mà chưa đi sâu được vào bản chất.
Thứ hai, nhận thức và ý thức của người dân về nghĩa vụ nộp thuế TNCN
chưa cao, trình độ hiểu biết về thuế, quyền lợi, nghĩa vụ của một bộ phận NNT chưa
thực sự toàn diện. Bản thân một số cá nhân có hiểu biết vẫn cố tình làm sai và
không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngay cả các cơ quan chi trả thu nhập cũng gian
lận với khoản thuế TNCN nộp thay người lao động để được giảm tiền thuế TNDN.
Thứ ba, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ thuế còn hạn chế,
chưa cập nhật đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm mới để theo kịp sự phát triển của nền
76
kinh tế, dẫn tới sai phạm trong quá trình quản lý thu thuế, tính thuế, quyết toán thuế...
Thủ đoạn trốn thuế hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp nếu không tự trau dồi kiến
thức và kĩ năng thường xuyên thì các cán bộ thuế khó có thể phát hiện ra sai phạm
của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra khiến nguồn thu ngân sách thất thoát lớn. Bên
cạnh đó, phẩm chất đạo đức của một số người khi thực hiện công việc còn kém, công
tác thi hành hời hợt, đôi khi vẫn có biểu hiện lạm quyền, hạch sách với nhân dân.
Thứ tư, công tác kiểm tra, kiểm soát khấu trừ thuế tại nguồn còn chưa
nghiêm, nhất là đối với những người hành nghề tự do, có thu nhập từ nhiều nơi,
kinh doanh đa vùng miền, bán hàng qua mạng internet… dẫn đến việc khai nộp thuế
của nhóm đối tượng này thiếu trung thực, thiếu nghiêm túc và không đầy đủ làm
thất thu một khoản thuế không nhỏ vào NSNN.
Thứ năm, ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài đã làm ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh và kết quả thu NSNN do số hộ xin tạm nghỉ kinh doanh tăng cao, thời
77
gian tạm ngừng kinh doanh kéo dài, đặc biệt là từ ngày 01/04/2020.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của Luận văn tập trung chỉ ra sự tiến bộ của các quy định pháp
luật mới, phân tích, so sánh các quy định pháp luật đã hết hiệu lực và mới có hiệu
lực về quản lý thuế TNCN từ nền tảng lý luận được nghiên cứu ở Chương 1. Trên
cơ sở đó đưa ra nhận định, bình luận về thực trạng của mỗi nhóm quy định lần lượt
theo từng khâu quản lý bao gồm: quản lý đối tượng nộp thuế TNCN; quản lý đăng
ký và cấp MST; quản lý kê khai, nộp thuế, ấn định thuế TNCN; quản lý quyết toán
thuế, hoàn thuế TNCN; quản lý miễn thuế, giảm thuế, giảm trừ gia cảnh; kiểm tra,
thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN; cưỡng chế thi hành quyết định
hành chính về quản lý thuế TNCN và quản lý việc ứng dụng CNTT trong quản lý
thuế TNCN. Bên cạnh đó, sau khi giới thiệu sơ qua về địa bàn nghiên cứu là Thành
phố Bắc Kạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Thuế Thành phố Bắc Kạn; luận văn tiếp
tục dựa trên những số liệu, báo cáo tổng kết quá trình thực hiện thu thập được tiến
hành nhận xét, đánh giá thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN trên địa
bàn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã đạt được những thành tựu gì, vẫn tồn tại
những vướng mắc như thế nào và phân tích nguyên nhân những tồn tại đó.
Việc đi sâu làm rõ thực trạng pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam
và thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn
là cơ sở quan trọng để xác định và đưa ra những giải pháp phù hợp giúp hoàn thiện
78
pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện công tác quản lý thuế TNCN ở Chương 3.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN
Chính sách quản lý thuế thời gian qua đã có những thay đổi tích cực để thích
nghi với tình hình thực tiễn góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, điển hình
là sự ra đời của Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14. Mặc dù vậy nhiều quy định
trong luật thuế TNCN của Việt Nam thực sự đã trở nên lạc hậu, xuất hiện nhiều lỗ
hổng dẫn tới thất thu ngân sách. Vì thế, muốn pháp luật về quản lý thuế TNCN đạt
hiệu quả khi đưa vào thực thi trên thực tế thì cần thiết phải có sự thay đổi thông qua
một số giải pháp sau:
3.1.1. Phát triển, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý
thuế năm 2019 theo hướng rõ ràng, cụ thể, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
Có thể thấy, nhiều quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý thuế TNCN hiện hành chưa đi sâu quy định chi tiết những nội dung cần
thiết mà mới chỉ đề cập đến bề mặt của vấn đề, có những nội dung chỉ được nhắc
đến một cách chung chung trong đạo luật mà chưa có hệ thống văn bản hướng dẫn
chi tiết. Ví dụ như, hiện nay, quy định về khái niệm thông tin NNT trong phần giải
thích từ ngữ của Luật Quản lý thuế năm 2019 chỉ mang tính chất liệt kê, giới hạn
phạm vi nguồn thông tin chứ chưa đủ cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau với
mỗi đối tượng trong khi đó Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực thi hành nên cơ quan
có thẩm quyền chưa kịp ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật làm rõ các tiêu
chí xác định đâu là “thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT”. Vì thế, việc
yêu cầu cung cấp thông tin đôi khi không đủ căn cứ pháp lý với một số loại thông
tin không biểu hiện rõ sự liên quan đối với nghĩa vụ nộp thuế của NNT.
Như vậy, giải pháp cần thiết để chính sách pháp luật quản lý thuế thực sự đạt
79
hiệu quả là cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng nghiên cứu ban hành hệ thống
Nghị định, Thông tư, Quyết định hướng dẫn quy trình các bước quản lý thuế phù
hợp với sự thay đổi của Luật Quản lý thuế năm 2019 nhằm tăng cường hiệu quả
thực thi công tác quản lý thuế trên thực tế. Việc nghiên cứu phát triển các quy định
hướng dẫn thi hành trên cơ sở quy định sẵn có phải đảm bảo rõ ràng, cụ thể, phù
hợp, khả thi với nhu cầu quản lý thực tiễn nhưng vẫn phải đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất giữa các quy định với nhau. Muốn đạt được mục tiêu đó thì khi xây
dựng pháp luật cần tăng cường việc thu thập ý kiến đóng góp của tất cả các chủ
thể có liên quan, phân tích những vướng mắc đang tồn tại (nguyên nhân phát sinh
do đâu, vướng mắc này có tác động đến đối tượng nào, mức độ thiệt hại đối với
NSNN ra sao…). Bên cạnh đó nên tham khảo pháp luật các nước quy định về vấn
đề đó để rút ra bài học kinh nghiệm, chắt lọc, lựa chọn điểm phù hợp áp dụng cho
pháp luật nước mình. Một hệ thống pháp luật quản lý thuế TNCN có pháp luật nội
dung đầy đủ, chặt chẽ; cùng với đó pháp luật về thủ tục phù hợp, sử dụng hiệu quả
trong thực tiễn sẽ khiến việc thực hiện hoạt động quản lý thuế TNCN trở nên dễ
dàng, thuận lợi hơn rất nhiều mà hiện tượng gian lận nghĩa vụ nộp thuế của NNT
cũng được giảm thiểu.
3.1.2. Xây dựng các quy định mới trong Luật thuế TNCN có sự thống
nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
Sau một thời gian dài thực hiện, nhiều quy định trong Luật thuế TNCN đã
xuất hiện những lỗ hổng dẫn đến phát sinh một số vướng mắc trên thực tế; đồng
thời phạm vi điều chỉnh của Luật không còn bao quát được toàn diện như trước, một
số quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ví dụ, quy định về vấn đề xác định người phụ thuộc đối với cá nhân không
có thu nhập, thu nhập không vượt quá mức quy định là con thành niên đang học từ
bậc đại học trở xuống cũng chưa thực sự rõ ràng. Thực tế hồ sơ chứng minh người
phụ thuộc cho nhóm đối tượng này chỉ phải nộp một lần, bao gồm giấy báo nhập
học hoặc thẻ sinh viên bên cạnh những loại giấy tờ cơ bản khác. Pháp luật không
quy định giới hạn về độ tuổi với những đối tượng này và cán bộ quản lý thuế
80
TNCN cũng không có quyền xác minh hàng năm rằng người phụ thuộc liệu có
đang học đại học, cao đẳng, học nghề nữa hay không hay đã bỏ học, kết thúc việc
học. Cho nên, phải quy định chặt chẽ các thủ tục, điều kiện cần có liên quan đến
việc xác định người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế nhằm giới hạn những
trường hợp được hưởng số tiền giảm trừ người phụ thuộc, khắc phục tình trạng
thất thu ngân sách khiến việc thực hiện công tác quản lý nhẹ nhàng hơn mà vẫn
đảm bảo tính công bằng.
Khi xây dựng Luật Thuế TNCN 2007, thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín
dụng tại Khoản 7 Điều 4 và thu nhập từ kiều hối tại Khoản 8 Điều 4 được Nhà nước
quy định là thu nhập miễn thuế. Trước đây, hình thức gửi tiền vào tổ chức tín dụng
không bị đánh thuế TNCN để khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm, vừa được
đảm bảo an toàn vừa có thể sinh lời. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn những người có
tiền gửi ngân hàng đều là đối tượng có thu nhập khá trở lên, nhiều người có thu
nhập cao cũng lựa chọn hình thức đầu tư này dù lãi suất thấp nhưng số lãi phát sinh
lại không phải nộp thuế. Còn kiều hối là thu nhập từ lao động làm việc ở nước ngoài
gửi về Việt Nam, thời điểm đó mặt bằng thu nhập của người dân rất thấp, đa phần
chỉ đủ trang trải cuộc sống nên khoản thu nhập này được Nhà nước quy định miễn
thuế để thúc đẩy công dân xuất khẩu lao động gửi tiền về kinh doanh, đầu tư, gia
tăng dòng tiền. Nhưng sau gần 20 năm xây dựng và phát triển đất nước ta đã có sự
thay đổi vượt bậc so với thời điểm những năm 2000 nên việc tiếp tục để kiều hối và
lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng là khoản thu nhập được miễn thuế là không còn
phù hợp, đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải loại bỏ hai khoản thu
nhập này ra khỏi diện được miễn thuế để bổ sung nguồn thu vào NSNN, khuyến
khích đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, nên mở rộng phạm vi các khoản thu nhập chịu thuế chưa từng
được quy định trước đây như khoản thu nhập của cá nhân kinh doanh liên quan đến
lĩnh vực thương mại điện tử, kinh doanh online, các dịch vụ liên quan đến mạng xã
hội… Việc bổ sung nguồn phát sinh thu nhập chịu thuế giúp CQT bao quát được
toàn bộ các loại thu nhập chịu thuế để không bỏ sót bất cứ nguồn thu mới phát sinh
81
nào có đặc trưng thuộc diện chịu thuế, cũng như đảm bảo công bằng giữa đối tượng
nộp thuế kiếm được thu nhập theo phương thức truyền thống với đối tượng kiếm
được thu nhập theo phương thức điện tử trong bối cảnh thương mại điện tử phát
triển như hiện nay.
3.1.3. Bổ sung quy định về quản lý thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là một trong số những nguồn thu
lớn trong tổng số nguồn thu từ thuế TNCN, tuy nhiên khoản thu nhập này cũng là
khoản thu thường bị gian lận nhất. Theo quy định của pháp luật về thuế và pháp luật
về đất đai, cán bộ quản lý thuế chỉ có quyền tiếp nhận tờ khai thuế và hồ sơ xét
miễn thuế mà không có quyền xác minh tính chính xác của thông tin được kê khai
trong những giấy tờ này. Điều này dẫn đến thực trạng NNT kê khai giá tính thuế đối
với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản rẻ hơn gấp nhiều lần so với thực tế
hoặc cam kết chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất tại địa phương này nhưng vẫn có
nhiều bất động sản ở địa phương khác. Tình trạng chuyển nhượng, nhận thừa kế,
quà tặng là bất động sản nhiều lần giữa các thành viên trong gia đình để được miễn
thuế TNCN cũng diễn ra khá phổ biến.
Như vậy, muốn quản lý hiệu quả thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản,
trước hết UBND cấp tỉnh cần có trách nhiệm xây dựng, ban hành bảng giá nhà, đất
sát với giá trị chuyển nhượng thực tế trên thị trường và cập nhật thường xuyên theo
chu kỳ để đảm bảo tính chính xác nhưng vẫn phải phù hợp với quy định của Luật
Đất đai. Đây là giải pháp chủ chốt nhằm mục đích hạn chế tình trạng kê khai giá
chuyển nhượng thấp hơn so với giá thực tế. Ngoài ra, bổ sung quyền tra cứu, xác
minh thông tin cho cán bộ quản lý thuế cũng như cán bộ ngành tài nguyên – môi
trường để tăng khả năng kiểm soát tránh thất thoát nguồn thu tài chính từ đất; cùng
với đó, cần nâng cấp hệ thống thông tin điện tử quản lý nội bộ giữa CQT và cơ quan
tài nguyên – môi trường để có thể tra cứu thông tin NNT trên phạm vi toàn quốc
chứ không chỉ trong phạm vi cấp tỉnh như hiện nay. Điều này giúp loại bỏ việc khai
82
man nhà ở, đất ở duy nhất để được miễn thuế TNCN.
3.1.4. Xây dựng cơ chế quản lý theo hướng thắt chặt kiểm soát, tăng
cường giám sát về nguồn gốc, lượng thu nhập nhận được trên thực tế đối với các
nguồn thu
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp đối tượng nộp thuế có thu nhập từ nhiều
nguồn khác nhau mà pháp luật không thể kiểm soát được hết, ví dụ như ca sĩ, diễn
viên, cá nhân kinh doanh online, người dẫn chương trình, những người có tầm ảnh
hưởng trên mạng xã hội… Nguyên nhân phát sinh tình trạng này là do Luật thuế
TNCN đã lỗi thời, không còn bao quát được hết các khoản thu nhập phải chịu thuế
TNCN, nhiều khoản thu nhập chưa được quy định; đồng thời, Luật quản lý thuế chưa
có cơ chế quản lý chặt chẽ, hiệu quả với nhóm đối tượng có nhiều nguồn thu nhập.
Vì thế, ngoài việc bổ sung những khoản thu nhập chưa được quy định vào
diện chịu thuế, cá nhân kinh doanh online phải đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế
tương tự cá nhân kinh doanh theo phương thức truyền thống. Tiếp tục thực hiện cơ
chế khấu trừ tại nguồn nhằm kiểm soát hiệu quả ngay từ khi phát sinh thu nhập đối
với những đối tượng có nhiều nguồn thu khác nhau thông qua biện pháp: bắt buộc
khai báo tình hình chi trả thu nhập, bắt buộc thanh toán qua ngân hàng trong một số
điều kiện, kiểm tra sổ sách kế toán và các hoạt động kinh doanh tại chỗ…
Ngoài ra, nên bổ sung quy định cho phép CQT thành lập đội giám sát, rà soát
định kì, phối hợp với cơ quan liên quan khi cần thiết để nắm được lượng doanh thu,
thu nhập cơ bản những cá nhân này nhận được từ đó giúp giảm thiểu hành vi không
khai báo hoặc khai báo không đúng của NNT. Nhóm giải pháp này vừa giúp CQT
tăng cường kiểm soát tài sản định kỳ, thắt chặt giám sát từ nguồn phát sinh thu nhập
cho đến bước kê khai, tính nộp thuế; vừa thúc đẩy công tác quản lý thuế TNCN, vừa
hỗ trợ chiến dịch phòng, chống tham nhũng.
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính từ đó đưa ra chế
tài xử phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật thuế
Hiện nay, tình trạng cố tình khai man thu nhập hoặc giấu thu nhập để giảm
bớt khoản thuế TNCN phải nộp diễn ra khá phổ biến, đa dạng dưới nhiều hình thức
83
nhưng hệ thống chế tài hiện tại ở Việt Nam chưa bao quát được hết các trường hợp
cần xử phạt, nếu có quy định thì mức phạt cũng chưa đủ sức răn đe. Trong khi đó,
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung đã xuất hiện những lỗ
hổng mà Luật quản lý thuế năm 2019 lại mới có hiệu lực từ ngày 01/07/2020 chưa
được ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì thế, cần nhanh chóng
đưa ra văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết vấn đề xử phạt vi phạm về
thuế, các quy định xử phạt cần phải phù hợp với từng hành vi nhưng vẫn có “sức
nặng” vừa đủ, dự liệu được càng nhiều hành vi vi phạm có thể phát sinh càng tốt.
Đặc biệt, việc bổ sung các quy định xử phạt đối với vi phạm về thuế liên
quan đến giao dịch thương mại điện tử là vô cùng quan trọng trong thời đại công
nghệ như hiện nay. Đối với các trường hợp có dấu hiệu tội phạm nghiêm trọng cần
chuyển ngay hồ sơ cho công an, đề nghị phối hợp xử lý. Một cơ chế xử phạt hiệu
quả sẽ vừa có khả năng giáo dục, nâng cao nhận thức NNT, vừa xử phạt được đúng
người đúng tội giúp nâng cao mức độ tuân thủ của NNT trong tương lai.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quản lý thuế TNCN
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế TNCN đối với
NNT và cán bộ quản lý thuế TNCN
Đối với các cán bộ quản lý thuế TNCN
Tổng cục Thuế cần liên tục trao đổi, cập nhật thông tin, tuyên truyền các
chính sách quản lý thuế TNCN nói riêng và các quy định về quản lý thuế nói chung
mới được sửa đổi, bổ sung với các CQT cấp dưới; nếu cần thiết, có thể tổ chức tập
huấn định kì đối với những cán bộ có trách nhiệm quản lý trực tiếp mảng thuế
TNCN để không ngừng tiếp thu thêm kiến thức mới phục vụ cho công việc. Tất cả
những hoạt động này có thể thông qua phương thức trực tuyến trên phạm vi toàn
quốc. Do đội ngũ cán bộ công chức thuế là lực lượng nòng cốt, có hiểu biết sâu nhất
về nghiệp vụ thuế TNCN nên việc phổ biến pháp luật về quản lý thuế với đối tượng
này là vô cùng quan trọng và cần thiết.
CQT mỗi địa phương cần đổi mới, phát triển đa dạng phương thức tuyên
truyền ở tất cả các khâu, các bộ phận như: công khai tại trụ sở CQT các cấp, đăng
84
tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cập nhật thông báo trên trang thông
tin điện tử ngành thuế, gửi tin nhắn tuyên truyền đến số điện thoại cá nhân, sáng tác
bài hát tuyên truyền... Trên cơ sở đó, các Cục Thuế có trách nhiệm phân công rõ
nhiệm vụ tăng cường phổ cập Luật Thuế TNCN và Luật Quản lý thuế thường xuyên
phù hợp với đặc thù từng địa phương, để mỗi cá nhân đều hiểu được ý nghĩa, vai trò
của thuế TNCN đối với sự phát triển của xã hội và coi việc nộp thuế là trách nhiệm,
nghĩa vụ của một công dân yêu nước.
Đối với người nộp thuế TNCN
Cũng như các chính sách kinh tế – xã hội khác, chính sách quản lý thuế
TNCN muốn áp dụng thành công cần phải được đông đảo các tầng lớp dân cư trong
xã hội thừa nhận, ủng hộ và nhận thức đúng về bản chất. Do đó, cần tiếp tục phổ
biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nhìn nhận và nhận thức của
nhân dân đối với pháp luật về thuế TNCN. Nếu hiểu được thái độ của người dân đối
với thuế TNCN là gì, họ hiểu và tiếp cận sắc thuế này như thế nào, thuế TNCN có
vai trò gì trong cuộc sống của họ... thì khi thực hiện công tác tuyên truyền cán bộ
thuế sẽ biết cần phân tích ý nghĩa trọng tâm ở nội dung nào, phải lựa chọn cách thức
biểu đạt gì để giao tiếp với NNT đạt hiệu quả nhất.
Khuyến khích nhân dân tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các dự án luật
trong lĩnh vực thuế nói chung và với quản lý thuế TNCN nói riêng, bởi việc này có
tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục rất hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến trong
quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật, Nhà nước vừa nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của người dân, vừa tác động đến việc thực hiện hành vi pháp lý
của họ trong đời sống thường nhật. Thái độ chấp hành hay không chấp hành của
người dân đối với pháp luật là hệ quả phát sinh từ mức độ am hiểu pháp luật của
mỗi cá nhân. Con người chỉ chấp hành pháp luật tự giác và nghiêm chỉnh khi họ có
nhận thức đúng đắn đối với quy định của pháp luật.
Các CQT nên phối hợp với cơ quan truyền thông của địa phương tổ chức
tuyên truyền, thực hiện quy định pháp luật thuế, xử lý vi phạm pháp luật kết hợp với
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Ví dụ như nêu gương các tổ chức, cá nhân
85
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, đồng thời công khai thông tin các doanh nghiệp
chây ì, dây dưa nợ thuế. Điều đó phần nào giúp cho đối tượng vi phạm hiểu rõ nội
dung, ý nghĩa của các quy định được áp dụng cũng như ý thức sâu sắc về quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình, từ đó tự nguyện chấp hành nghiêm túc pháp luật, hình
thành niềm tin pháp luật.
3.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý thuế và hoàn
thiện các quy định của pháp luật về dịch vụ thuế điện tử
Ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý thuế
Ngành thuế cần phát triển các ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu triển khai
các quy trình, chính sách mới và kế hoạch sắp xếp, sáp nhập các CCT cấp huyện
thành chi cục thuế khu vực. Triển khai hạ tầng kỹ thuật CNTT để đảm bảo CCT khu
vực đi vào hoạt động ổn định.
Không ngừng đầu tư, cải thiện các phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ sẵn có cũng
như tiếp tục ứng dụng công nghệ trong quá trình quản lý thuế nói chung và quản lý
thuế TNCN nói riêng nhằm cải cách hành chính các thủ tục về thuế, tạo điều kiện
thuận lợi cho NNT, tăng tính minh bạch trong công tác quản lý giám sát của ngành,
giảm tiếp xúc trực tiếp giữa NNT và cán bộ thuế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả
phòng, chống tiêu cực trong công tác quản lý thuế.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT một cách toàn diện trong công tác quản lý, cung
cấp dịch vụ công trực tuyến như kê khai, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử, hóa
đơn điện tử, trước bạ điện tử ở từng địa phương; phối hợp với các cơ quan, ban
ngành để liên thông, kết nối cơ sở dữ liệu nhằm rút ngắn thời gian giải quyết thủ
tục hành chính cho NNT. Nhưng vẫn phải liên tục giám sát an toàn thông tin mạng
của hệ thống CNTT để đảm bảo duy trì hoạt động các dịch vụ công trực tuyến
thuộc thẩm quyền quản lý và tổ chức thực hiện của Tổng cục Thuế. Những cảnh
báo về lỗ hổng bảo mật, các dấu hiệu tấn công mạng trên hệ thống cần được theo
dõi, phân tích liên tục để có phương án xử lý kịp thời nhằm ngăn chặn nguy cơ tấn
công ngay từ đầu.
Hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về các dịch vụ thuế điện tử
Dịch vụ thuế điện tử muốn triển khai có hiệu quả cần phải có một khuôn khổ
86
pháp luật tương ứng. Khung pháp lý này phải bao gồm hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn về quy trình, thủ tục trong áp dụng dịch vụ
thuế điện tử. Hệ thống pháp luật hỗ trợ dịch vụ thuế điện tử phải được soạn thảo,
ban hành kịp thời, đầy đủ, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, ổn định, rõ ràng, minh
bạch, khả thi; phải kết hợp vận dụng các tiêu chuẩn chung đã được thừa nhận trên
phạm vi quốc tế, giữa luật với các văn bản hướng dẫn thi hành luật phải nhất quán.
Đặc biệt, việc áp dụng dịch vụ thuế điện tử có liên quan đến hệ thống trao đổi dữ
liệu điện tử, do đó khung pháp lý cũng phải đưa ra những quy định về việc bảo mật
thông tin, không chỉ đối với nhà cung cấp mạng mà cả đối với chính CQT và NNT.
3.2.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật về thuế TNCN
Đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
Việc thanh tra, kiểm tra không chỉ góp phần nâng cao ý thức NNT, đảm bảo
không để xảy ra tình trạng chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp, mà còn giúp
CQT kịp thời chấn chỉnh, xử lý những trường hợp NNT kê khai chưa đúng quy
định, kê khai không đầy đủ nội dung cần thiết. Để hoàn thành nhiệm vụ đề ra,
ngành Thuế tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác thanh tra, kiểm tra,
đặc biệt trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp có giao dịch liên kết;
ghi nhật ký thanh tra, kiểm tra của các đoàn thanh tra, kiểm tra và phân tích, xác
định đối tượng cần kiểm tra chống thất thu ngân sách.
Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát kê khai thuế TNCN của NNT ngay từ đầu năm
bằng cách tập trung kiểm tra các tờ khai có sự mâu thuẫn, những nguồn thu nhập có
dấu hiệu tiềm ẩn kê khai không đủ thuế, rà soát tình hình tạm nộp thuế TNCN để
chủ động đôn đốc NNT nộp đúng với thực tế phát sinh, kiên quyết xử phạt đối với
các trường hợp vi phạm quy định về kê khai thuế, thực hiện ấn định thuế đối với
NNT vi phạm pháp luật về thuế TNCN theo đúng quy định của Luật Quản lý thuế.
Đồng thời, tăng cường công tác quản lý hoàn thuế ngay từ đầu năm, đảm bảo việc
hoàn thuế đúng đối tượng, theo đúng chính sách thuế của Nhà nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho NNT. Kiểm soát chặt chẽ số chi hoàn thuế TNCN, đảm bảo thực hiện
87
chi hoàn thuế TNCN theo đúng quy định của pháp luật.
Tăng cường giám sát hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế vừa đánh giá được thực
trạng thanh, kiểm tra và ý thức của các thanh tra viên, kiểm tra viên, vừa hạn chế tình
trạng lạm quyền để trục lợi khi thi hành công vụ. Vì thanh tra, kiểm tra là hoạt động có
tính quyền lực nên có thể có những cá nhân phẩm chất đạo đức kém lợi dụng điều này
để hạch sách, đe dọa NNT nhằm mục đích thu lợi về cho bản thân.
Đối với hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về quản lý thuế TNCN
Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế là hệ quả của công tác thanh tra, kiểm
tra thuế. Vì thế để có thể xử lý hiệu quả các vi phạm thì trước hết cần chú trọng phân
loại đối tượng, thu thập thông tin và giám sát thường xuyên với các đối tượng thuộc
diện phải thanh tra, kiểm tra để có thể phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm.
Trên thực tế, các vụ việc vi phạm pháp luật về thuế ngày một nhiều và ngày
càng tinh vi trong khi số lượng được phát hiện và xử lý vẫn còn khá khiêm tốn, mà
CQT lại chưa có thẩm quyền đủ mạnh để xử lý triệt để các vi phạm. Vì thế, cần
thiết phải mở rộng thêm quyền điều tra, xử lý cho cơ quan quản lý thuế để phát hiện
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế nhằm đưa ra biện pháp xử lý nghiêm
minh với người vi phạm và đủ tính răn đe đối với những NNT khác. Đồng thời cũng
nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác đấu tranh, ngăn chặn các hành vi có dấu
hiệu hình sự.
Cần xử phạt nghiêm với từng vụ việc vi phạm mới có thể tối ưu hóa tác dụng
giáo dục, răn đe với cộng đồng NNT nhưng cũng nên cân nhắc mức xử phạt phù
hợp để đảm bảo mục đích chính là giáo dục. Nếu xử phạt quá nhẹ thì không đảm
bảo được tính răn đe dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật nhưng xử phạt quá
nặng lại khuyến khích việc che giấu vi phạm hay tuân thủ pháp luật một cách chống
đối, cũng như nạn tham nhũng.
Không thể có được một quy trình xử lý vi phạm cho từng trường hợp nên
việc ấn định mức phạt tất cả là dựa trên ý chí chủ quan của người có thẩm quyền, để
hạn chế điều này thì việc lựa chọn người có phẩm chất đạo đức giải quyết công việc
là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, phải có biện pháp khống chế được quyền lực của
88
những cá nhân, cơ quan có trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, bởi đây là những
chủ thể có khả năng nhũng nhiều, hách dịch, lạm quyền cao nhất. Cho nên, bên
cạnh những quy phạm điều chỉnh hành vi của NNT, Nhà nước cũng cần đưa ra cơ
chế siết chặt trách nhiệm buộc CQNN và những người có thẩm quyền nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật.
3.2.4. Thúc đẩy hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho công chức quản lý thuế TNCN
Việc thúc đẩy hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức nghiệp vụ
quản lý cho đội ngũ cán bộ, công chức thuế là hết sức thiết thực, để đáp ứng được
yêu cầu quản lý, góp phần cùng ngành Thuế cả nước hoàn thành toàn diện nhiệm vụ
chính trị được giao.
Tăng cường đào tạo trong quá trình làm việc
Tiến hành phân công đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc đối với công chức
đang trong giai đoạn tập sự, công chức mới vào ngành chưa lâu. Người học sẽ được
những công chức có thâm niên và nghiệp vụ dày dặn “cầm tay chỉ việc” cũng như
hướng dẫn cặn kẽ giúp tiếp thu các kiến thức, kỹ năng cần thiết trong công việc hay
cách sử dụng phần mềm hệ thống cơ sở dữ liệu ngành được cách dễ dàng, nhanh và
hiệu quả hơn. Biện pháp này khiến cho người mới nắm chắc nghiệp vụ, hiểu cách
vận hành công việc bình thường của nơi mình công tác; đồng thời, người hướng dẫn
cũng tích lũy được kinh nghiệm đào tạo nhân sự mới, kiến thức chuyên môn được
củng cố, nâng cao.
Điều động, luân chuyển cán bộ, công chức
Hoạt động điều động, luân chuyển nhằm mục đích tạo điều kiện rèn luyện,
bồi dưỡng, thử thách, nhất là với công chức có triển vọng, giúp họ trưởng thành
nhanh hơn để đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ trước mắt và lâu dài của các cấp, các
ngành, xóa bỏ khuynh hướng cục bộ, khép kín trong từng đơn vị, địa phương. Điều
này giúp thúc đẩy sự phát triển toàn diện kiến thức chuyên môn cũng như năng lực
quản lý, lãnh đạo của cán bộ, công chức bởi nó phát huy được tính năng động, sáng
tạo hơn hẳn so với việc giữ nguyên chức vụ trong một đơn vị nào đó quá lâu. Bên
89
cạnh đó, việc điều động, luân chuyển cán bộ nếu biết kết hợp chặt chẽ với việc thay
thế những cán bộ trình độ hạn chế, năng lực yếu thì sẽ đạt được hiệu quả về nhiều
mặt: vừa có môi trường để đào tạo, thử thách cán bộ vừa nâng cao chất lượng đội
ngũ sở tại; khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Nâng cao ý thức tự học, tự cập nhật kiến thức của cán bộ, công chức
Vai trò của giảng viên trong quá trình dạy – học là quan trọng nhưng ý thức
tự học, tự cập nhật kiến thức của học viên cũng quan trọng không kém trong việc
hoàn thành mục tiêu của quá trình đó. Mỗi cán bộ, công chức cần nhận thức được
việc thường xuyên tự giác nghiên cứu, học tập, trao đổi nghiệp vụ, kỹ năng quản lý
góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhận thức toàn diện hơn về hoạt động
của ngành Thuế, của đơn vị mình công tác; đồng thời biết được những nội dung
nghiệp vụ, lĩnh vực quản lý mà bản thân còn chưa nắm chắc để tiếp tục nghiên cứu,
tìm hiểu tự hoàn thiện.
Cần thiết phải xây dựng một ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm về tất cả các loại
thuế phục vụ cho việc tổ chức kiểm tra kiến thức định kì với đội ngũ công chức thuế
trên máy tính. Mỗi Cục Thuế địa phương cần tiến hành kiểm tra ít nhất 3 lần/năm,
có thể nhiều hơn tùy theo kế hoạch cụ thể của mỗi cục, kết quả bài kiểm tra sẽ là
một trong những tiêu chí đánh giá công chức. Hoạt động này nhằm mục đích củng
cố kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cũng như các quy định của pháp luật liên quan
đến quản lý thuế, trên hết là đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ công chức quản lý
thuế TNCN có còn đáp ứng được nhu cầu công việc tại thời điểm đó hay không.
Việc áp dụng giải pháp này sẽ giúp cho mỗi cá nhân không những phải không
ngừng trau dồi kiến thức để duy trì hiệu quả công việc mà còn cần nắm chắc kiến
thức liên quan đến lĩnh vực mà mình công tác.
Cải thiện công tác đánh giá thành tính công chức quản lý thuế TNCN
Hiện nay, ở hầu hết các CQNN nói chung và hệ thống CQT nói riêng chỉ tập
trung vào hành vi thực hiện công việc, một số dựa vào kết quả thực hiện công việc
cuối cùng mà không đề cao yếu tố năng lực thực hiện công việc trong cả quá trình.
90
Về cơ bản thì các tiêu chí và phương pháp đánh giá thành tích cán bộ, công chức
còn cứng nhắc, chưa linh hoạt, mang nặng tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu
cầu cung cấp thông tin phản hồi trong công tác quản lý nguồn nhân lực. Chính vì
thế nên đa số công chức trong quá trình làm việc vẫn còn mang nặng tính rập
khuôn, thủ tục và làm theo tư duy lối mòn, khiến năng lực thực hiện công việc của
mỗi người chưa thực sự được quan tâm. Cho nên công tác đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức hiện nay là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với
kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc
định kiến. Từ thực tiễn đó, cần phải xác định được một cách rõ ràng việc đánh giá
thành tích hướng tới mục đích gì; đồng thời hoàn thiện danh sách các tiêu chí và
phương pháp đánh giá thành tích tùy thuộc từng mục tiêu đang hướng đến để công
tác đánh giá thành tích được thực hiện tối ưu nhất.
3.2.5. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý thuế TNCN
Cục Thuế, CCT mỗi địa phương chủ động đưa ra kế hoạch phối hợp quản lý
thuế với các Sở, Ban, Ngành có liên quan trên địa bàn
Trước hết, CQT cần làm tốt công tác phân tích, dự báo nguồn thu, đặc biệt
phân tích nguyên nhân tác động làm giảm nguồn thu địa bàn, từng lĩnh vực, khoản
thu. Theo dõi chặt chẽ tiến độ thu từng khoản thu trên mỗi địa bàn.
Tích cực chủ động tham mưu cho UBND cùng cấp về công tác thu NSNN
đối với nguồn thu từ thuế TNCN trên địa bàn; kịp thời tháo gỡ, giải quyết các khó
khăn, vướng mắc về thuế TNCN trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hộ
kinh doanh; đồng thời rà soát, nắm chắc các nguồn thu phát sinh, những mảng còn
nguồn thu tiềm năng, các khoản thuế còn thất thu để kịp thời đề xuất, kiến nghị, báo
cáo với UBND.
Các Đội Thuế xã, phường chủ động tham mưu với Hội đồng tư vấn thuế
thường xuyên rà soát các hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, nắm rõ các hộ kinh
doanh thường xuyên, không thường xuyên như: hộ có nhà cho thuê, cá nhân kinh
doanh truyền thống, cá nhân kinh doanh online… Quản lý tốt từ khâu khảo sát
doanh số, tổ chức thu và không để tồn nợ. Xây dựng kế hoạch kiểm tra tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân kinh doanh có sử dụng hóa đơn để
91
đảm bảo thu kịp thời, có hiệu quả.
Nâng cao vai trò trách nhiệm của các cá nhân, các cấp cơ quan liên quan
trong thực thi nhiệm vụ quản lý thuế TNCN
Cần tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức của các cấp cơ quan liên quan,
nhất là người đứng đầu về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của sự phối hợp trong
thực thi nhiệm vụ quản lý thuế TNCN để tạo sự chuyển biến rõ nét từ nhận thức đến
hành động. Đưa ra biện pháp phù hợp trong chủ động phối hợp triển khai thực hiện,
đảm bảo hoàn thành công việc hiệu quả, đúng thời hạn. Cũng nên xem xét, đánh giá
mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của người đứng đầu cơ quan bằng cách xác
định kết quả thực hiện nhiệm vụ và tinh thần chủ động hợp tác trong mỗi lần phối hợp.
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan đầu mối trong việc theo dõi, tham
mưu thực hiện công tác phối hợp quản lý trong lĩnh vực thuế. Các đầu mối có trách
nhiệm cập nhật, tổng hợp thường xuyên những thông tin, tài liệu có liên quan đến
hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Mặt khác, mỗi đơn vị cần quan tâm cử cán bộ có
năng lực, kinh nghiệm tham gia phối hợp theo chuyên đề và trong giải quyết các vụ
việc cụ thể. Song song với đó thủ trưởng các cơ quan cùng nhau bàn bạc đưa ra chỉ
đạo phân công rõ ràng vị trí, công việc, phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá
nhân trong từng trường hợp cụ thể. Việc này làm hạn chế tình trạng nhiều cá nhân
cùng giải quyết một vấn đề gây lãng phí nguồn nhân lực và khắc phục việc đùn đẩy
trách nhiệm dẫn đến khó để đưa ra biện pháp xử lý trong tình huống có thiếu sót
trong phối hợp công tác dẫn tới hậu quả nghiêm trọng.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật quản
lý thuế TNCN tại Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
3.3.1. Đối với UBND Thành phố Bắc Kạn
UBND Thành phố Bắc Kạn theo dõi, chỉ đạo các ban, ngành, cấp ủy, chính
quyền các phường, xã, thị trấn trực thuộc tại địa phương tăng cường phối hợp chặt
chẽ với CQT trong công tác quản lý thuế nhằm phát hiện, đưa vào quản lý kịp thời
các nguồn thu mới phát sinh. Cụ thể như sau:
- Phòng Tài nguyên – Môi trường phối hợp trong công tác xác định nghĩa vụ
92
tài chỉnh đối với các khoản thu liên quan đến đất đai.
- Phòng Lao động - Thương binh – Xã hội phối hợp trong việc cung cấp
thông tin người lao động trong trường hợp cần thiết.
- Phòng Tài chính - Kế hoạch phối hợp trong cung cấp thông tin về việc cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt động...
- Cơ quan Công an phối hợp để điều tra, xử lý kịp thời các vụ án có liên quan
đến công tác quản lý thuế TNCN, xử lý vi phạm về thuế...
- Trung tâm Truyền thông Văn hóa thành phố phối hợp trong công tác tuyên
truyền chính sách, pháp luật thuế.
- Ngân hàng thương mại phối hợp trong công tác cung cấp thông tin tài khoản
của NNT, khi CQT áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi nợ trích tiền từ tài khoản.
- Bưu điện Thành phố Bắc Kạn phối hợp trong công tác ủy nhiệm thu thuế
đối với cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán.
- UBND các xã, phường phối hợp trong công tác quản lý thu nộp thuế
TNCN, quản lý hộ cá nhân kinh doanh...
Quyết định nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm linh hoạt, phù hợp với tiềm
năng kinh tế và tình hình thực tế của Thành phố; giám sát, yêu cầu báo cáo thường
xuyên về công tác quản lý thuế trên địa bàn. Trong trường hợp cần thiết, thành lập
Ban Chỉ đạo, Đoàn kiểm tra chống thất thu ngân sách và thu hồi nợ thuế, tập trung
vào các ngành kinh doanh trọng điểm như: kinh doanh dịch vụ, vận tải; các khoản
thu từ đất; các khoản nợ đọng...
Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm liên quan đến việc
thực hiện pháp luật về thuế một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân dân.
3.3.2. Đối với Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn
CCT thực hiện tốt việc rà soát các văn bản pháp luật về quản lý thuế, trên cơ
sở đó kiến nghị xóa bỏ các quy định không còn phù hợp, bổ sung, sửa đổi những
điểm bất hợp lý làm giảm hiệu lực của văn bản pháp luật và gây khó khăn cho
người thực hiện.
Định kỳ kiểm tra các hộ kinh doanh nợ thuế TNCN nhằm xác minh liệu
93
những đối tượng này có thật sự đang kinh doanh không hiệu quả dẫn đến không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ thuế hay không. Trong trường hợp những đối tượng
này kê khai quyết toán không đúng với thực tế thì CQT thực hiện truy thu kịp thời
để đảm bảo nguồn thu, giảm nợ đọng hàng năm.
Tăng cường phối hợp với cơ quan Tài nguyên - Môi trường, Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký kinh doanh, UBND các xã, phường nhằm
tạo điều kiện cho NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Tổ chức tuyên dương NNT thực hiện tốt chính sách pháp luật về thuế, đồng
thời công khai các trường hợp nợ thuế, vi phạm nghiêm trọng hoặc cố tình vi phạm
các quy định của pháp luật về thuế nhằm mục đích khuyến khích, răn đe góp phần
nâng cao ý thức của NNT ở địa phương đối với việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý thuế hiệu lực, hiệu quả; môi trường làm
việc thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, chuyên nghiệp. Phân
công công việc cho công chức dựa vào năng lực thực tế của mỗi người. Thường
xuyên kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực, đạo đức cán bộ thuế trong toàn đơn vị
để làm căn cứ sắp xếp cán bộ thuế theo chức năng quản lý. Có chế độ khen thưởng
thích đáng các sáng kiến trong việc góp phần giảm chi phí, thời gian và công sức
cho cả CQT và NNT, không hạn chế số lượng khen thưởng khi có nhiều cán bộ
hoàn thành tốt nội dung thi đua đề ra.
Đề xuất Cục Thuế trang bị hệ thống máy móc thiết bị một cách đồng bộ, nâng
cấp và triển khai các phần mềm ứng dụng quản lý thuế kịp thời theo chức năng.
Mỗi NNT cần chủ động, tự giác, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu chính sách
pháp luật quản lý thuế và luật thuế TNCN để nâng cao nhận thức cũng như ý thức
trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Tích cực, năng động tham gia đóng góp ý
kiến cho các dự thảo Luật, Nghị định, Thông tư. Bên cạnh đó, NNT nên đề nghị
được giải đáp, hướng dẫn khi có thắc mắc về các quy định pháp luật, đồng thời có
thái độ hợp tác khi cung cấp hồ sơ, tài liệu mà CQT yêu cầu. Hầu hết các thủ tục về
thuế hiện nay là giao dịch điện tử được thực hiện qua Cổng Dịch vụ công quốc
gia, vì vậy NNT cần liên tục cập nhật và thực hiện nghĩa vụ thuế trực tuyến, vừa
đảm bảo nhanh chóng, chính xác, kịp thời, tiết kiệm thời gian, công sức, vừa góp
94
phần giúp CQT nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế TNCN.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 của Luận văn trực tiếp đề xuất hai nhóm giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quản lý thuế TNCN gồm: nhóm giải pháp về xây dựng chính sách pháp luật
quản lý thuế TNCN và nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
quản lý thuế TNCN. Nhóm giải pháp thứ nhất tạo khung pháp lý vững chắc để Nhà
nước dùng chính sách pháp luật làm công cụ quản lý thuế TNCN. Nhóm giải pháp
thứ hai đề xuất sử dụng linh hoạt các giải pháp về tuyên truyền, ứng dụng CNTT,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… và chú trọng việc liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ
chức có liên quan. Mỗi giải pháp được đề xuất đều bám sát thực trạng những vướng
mắc, hạn chế về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam được đề cập trong nội dung nghiên
cứu ở Chương 2. Trong chương này, tác giả cũng kiến nghị một số giải pháp hỗ trợ
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý thuế TNCN trên địa bàn Thành phố
Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đối với UBND Thành phố và bản thân Chi cục thuế Thành
phố Bắc Kạn. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, kiến nghị trên sẽ giúp CQT
quản lý, kiểm soát tốt nguồn thu từ thuế TNCN và ngày một hoàn thiện hệ thống
95
quy định pháp luật về quản lý thuế TNCN.
KẾT LUẬN
Thuế TNCN ở nước ta mới chỉ được đưa ra từ khi Nhà nước chuyển đổi mô
hình từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế TNCN vừa mang vai trò của thuế
nói chung, vừa có những đặc thù mà các loại thuế khác không có. Pháp luật quản
lý thuế TNCN là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để thực hiện công tác
quản lý thuế TNCN, thời gian qua nó đã phát huy được vai trò của mình. Nhưng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đất nước biến đổi không ngừng, điều kiện kinh tế
- xã hội phát triển thì các quy định của pháp luật dần bộc lộ những hạn chế trong
quá trình thực thi, có những bất cập không phải mới chỉ tồn tại ngày một ngày hai.
Việc nghiên cứu, xác lập định hướng, hoàn thiện nội dung pháp luật về thuế
TNCN cũng như pháp luật về quản lý thuế để tạo dựng một hành lang pháp lý
chắc chắn là vô cùng cần thiết.
Nhìn chung, quản lý thuế TNCN là vấn đề lớn và phức tạp, liên quan đến
nhiều lĩnh vực nên không thể tránh khỏi việc luận văn sẽ có những thiếu sót nhất
định về nội dung. Song những vấn đề nghiên cứu được đưa ra trong đề tài đã phần
nào phản ánh được nội dung sau:
1. Một số vấn đề lý luận về quản lý thuế TNCN và pháp luật quản lý thuế
TNCN xung quanh khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành...;
2. Thực trạng các quy định của pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam
và giới thiệu vài nét về địa bàn Thành phố Bắc Kạn cũng như trình bày những kết
quả đạt được, những hạn chế bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý
thuế TNCN trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn;
3. Một số giải pháp được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp
luật và thực tiễn thực hiện trên thực tế nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách pháp
luật về quản lý thuế TNCN và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác quản lý thuế
96
TNCN trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
Chung Phương Anh (2014), So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá
1.
nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bộ Tài chính (2017), Tờ trình Đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi),
2.
Hà Nội.
Bộ Tài chính (2018), Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) ngày 27/7/2018
3.
kèm theo Văn bản số 8991/BTC-TCT, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2019), Quyết định 110/QĐ-BTC ngày 14/01/2019 quy định
4.
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục thuế quận,
huyện, thị xã, thành phố và Chi cục thuế khu vực trực thuộc Cục Thuế tỉnh,
thành phố, Hà Nội.
Chi cục thuế khu vực Bắc Kạn – Chợ Mới – Bạch Thông (2020), Báo cáo
5.
Tổng kết công tác thuế năm 2019; Nhiệm vụ và giải pháp công tác thuế năm
2020, Bắc Kạn.
Chi cục thuế khu vực Bắc Kạn – Chợ Mới – Bạch Thông (2020), Báo cáo Sơ
6.
kết công tác thuế 6 tháng đầu năm 2020; Nhiệm vụ và giải pháp công tác
thuế 6 tháng cuối năm 2020, Bắc Kạn.
Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn (2017), Báo cáo Tổng kết công tác thuế
7.
năm 2016; Nhiệm vụ và giải pháp công tác thuế năm 2017, Bắc Kạn.
Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn (2018), Báo cáo Tổng kết công tác thuế
8.
năm 2017; Nhiệm vụ và giải pháp công tác thuế năm 2018, Bắc Kạn.
Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn (2019), Báo cáo Tổng kết công tác thuế
9.
năm 2018; Nhiệm vụ và giải pháp công tác thuế năm 2019, Bắc Kạn.
10. Chính phủ (2013), Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định
97
về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội.
11. Huỳnh Văn Diện (2016), Pháp luật thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn Thành
phố Cần Thơ, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội – Viện
Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
12. Nguyễn Thị Mai Dung (2018), Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội –
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
13. Nguyễn Thúc Hương Giang và Đào Thanh Bình (2014), “Đánh giá rủi ro
trong thanh tra, kiểm tra thuế và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
(5), tr.20.
14. Vũ Huy Hào và Nguyễn Thị Bất (2002), Giáo trình quản lý thuế, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
15. Hoàng Trần Hậu (2018), “Huy động nguồn lực vào ngân sách từ kinh tế hộ
sản xuất kinh doanh”, Tạp chí Tài chính, (694), tr.13.
16. Học viện Tài chính (2009), Giáo trình Nghiệp vụ thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội.
17. Học viện Tài chính (2016), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb Tài chính, Hà Nội.
18. Hội đồng Nhà nước (1991), Pháp lệnh thuế thu nhập với người có thu nhập cao.
19. Nguyễn Thị Hường (2015), Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân qua
thực tiễn thi hành tại Chi cục thuế quận Kiến An, thành phố Hải Phòng,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Trần Thị Thu Huyền (2015), Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật
– Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Đỗ Đức Minh và Nguyễn Việt Cường (2010), Giáo trình lý thuyết thuế, Nxb
Tài chính, Hà Nội.
22. Đỗ Đức Minh và Lê Văn Ái (2002), Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và
định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội.
23. Dương Thị Bình Minh (2005), Quản lý chi tiêu công ở Việt Nam: thực trạng
98
và giải pháp, Nxb Tài chính, Hà Nội.
24.
Phan Hữu Nghị (2018), “Chính sách thuế với bền vững ngân sách nhà nước”, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp (10), tr.25.
25. Nguyễn Đức Nghĩa (2018), “Quản lý thuế TNCN giới nghệ sĩ”, Tạp chí Thuế
nhà nước, (49), tr.7.
26. Trương Thị Như Ngọc (2018), Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Cục Thuế tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế - Đại học Huế.
27. Nguyễn Hải Ninh (2016), Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
28. Quốc hội (2019), Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, Hà Nội.
29. Vũ Thị Bích Quỳnh (2019), Quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
30. Nguyễn Thị Thu (2016), Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
31. Tổng Cục thuế (2005), Báo cáo khảo sát cải cách thuế ở Anh, Hà Nội.
32. Tổng Cục thuế (2005), Báo cáo khảo sát cải cách thuế ở Australia, Hà Nội.
33. Tổng Cục thuế (2005), Báo cáo khảo sát cải cách thuế ở Singapore, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Tuyến (2009), “Bản chất của thuế - sự tiếp cận từ các học
thuyết thuế cổ điển và hiện đại”, Tạp chí Luật học, (04), tr.1-11.
36. Văn phòng Quốc hội (2014), Luật Thuế thu nhập cá nhân hợp nhất số
15/VBHN-VPQH, Hà Nội.
37. Văn phòng Quốc hội (2019), Luật Cán bộ, công chức hợp nhất số 25/VBHN-
VPQH, Hà Nội.
38. Viện nghiên cứu từ điển (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
99
II. Tài liệu Website
39. Lê Huỳnh Phương Chinh (2018), “Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế thu
nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền công, tiền lương và một số giải pháp
hoàn thiện”, Tạp chí Công thương, website: http://tapchicongthuong.vn/bai-
viet/thuc-tien-thuc-hien-phap-luat-thue-thu-nhap-ca-nhan-doi-voi-thu-nhap-
tu-tien-cong-tien-luong-va-mot-so-giai-phap-hoan-thien-53501.htm, (truy
cập lúc 19:58 ngày 11/07/2020).
40. Bùi Dương (2020), “Bộ Tài chính đề xuất miễn, giảm thuế và các loại phí, lệ
phí hỗ trợ người dân và doanh nghiệp”, Tạp chí Tài chính điện tử, website:
http://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/bo-tai-chinh-de-xuat-mien-giam-
thue-va-cac-loai-phi-le-phi-ho-tro-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-321656.html,
(truy cập lúc 19:12 ngày 12/07/2020).
41. Ánh Hồng (2019), “Người nổi tiếng quên nộp thuế”, Báo tuổi trẻ online,
website: https://tuoitre.vn/nguoi-noi-tieng-quen-nop-thue-
20191011083152306.htm (truy cập lúc 9:20 ngày 17/07/2020).
42. Lưu Đức Huy, “Quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh qua mạng xã
hội”, Tạp chí Tài chính điện tử, website: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-
trao-doi/quan-ly-thue-doi-voi-hoat-dong-kinh-doanh-qua-mang-xa-hoi-
145773.html (truy cập lúc 23:48 ngày 10/07/2020).
43. Trần Huyền (2020), “Chính thức nâng mức giảm trừ gia cảnh lên 11 triệu
đồng/tháng từ ngày 1/7/2020”, Tạp chí Tài chính điện tử, website:
http://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/chinh-thuc-nang-muc-giam-tru-gia-
canh-len-11-trieu-dongthang-tu-ngay-172020-323923.html, (truy cập lúc
19:20 ngày 15/07/2020).
44. Minh Khôi (2019), “Cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ một phần tiền lương
hoặc thu nhập như thế nào?”, Tạp chí Tài chính điện tử, website:
http://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/cuong-che-bang-bien-phap-khau-
tru-mot-phan-tien-luong-hoac-thu-nhap-nhu-the-nao-316760.html, (truy cập
100
lúc 23:11 ngày 18/07/2020).
45. Thúy Nga (2019), “Ưu đãi thuế thu hút đầu tư nước ngoài lựa chọn theo đặc
thù mỗi quốc gia”, Tạp chí Tài chính điện tử, website: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/uu-dai-thue-thu-hut-dau-tu- nuoc-ngoai-lua-chon-theo-dac-thu-moi-quoc-gia-303970.html, (truy cập lúc 23:15 ngày 27/09/2020).
46. Nguyễn Thị Minh Phương (2019), “Xử phạt vi phạm hành chính, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, website: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2483, (truy cập lúc 20:59 ngày 18/07/2020).
47. Lê Thị Thu Thủy (2012), “Luật thuế thu nhập cá nhân: những bất cập và
hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, website: http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207925, (truy cập lúc 21:24 ngày 11/07/2020).
48. Quỳnh Trang (2020), “Ngày 01/07/2020, Luật Quản lý thuế năm 2019 chính
thức có hiệu lực”, Tạp chí Tài chính điện tử, website: http://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/tu-ngay-172020-luat-quan-ly- thue-2019-chinh-thuc-co-hieu-luc-324998.html, (truy cập lúc 23:01 ngày 15/07/2020).
(truy cập
49. Trần Việt Tuấn và Nguyễn Ánh Nguyệt (2016), “Một số bất cập trong công tác quản lý và cưỡng chế nợ thuế”, Tạp chí Tài chính điện tử, website: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/mot-so-bat- cap-trong-cong-tac-quan-ly-va-cuong-che-no-thue-108890.html, lúc 21:55 ngày 15/07/2020).
50. Trương Bá Tuấn (2017), “Cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam hướng tới mục tiêu tái cấu trúc ngân sách nhà nước”, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính – Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, website: https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ncvtd/ncvtd_chitiet?d DocName=MOFUCM114640&dID=119562&_afrLoop=96459509230000# %40%3FdID%3D119562%26_afrLoop%3D96459509230000%26dDocNam e%3DMOFUCM114640%26_adf.ctrl-state%3D1c8eu7fxgs_4 (truy cập lúc 20:21 ngày 10/07/2020).
51. UBND Thành phố Bắc Kạn (2012), Tổng quan Thành phố Bắc Kạn, Cổng
101
Thông tin điện tử Thành phố Bắc Kạn, website: https://tpbackan.backan.gov.vn/, (truy cập lúc 20:56 ngày 11/09/2020).