ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THỊ LƢƠNG THANH

MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY

ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Chƣơng trình định hƣớng thực hành

Hà Nội - 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THỊ LƢƠNG THANH

MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

Mã số: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN TRÚC LÊ

XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CHẤM LUẬN VĂN

PGS.TS NGUYỄN TRÚC LÊ

PGS.TS PHẠM VĂN DŨNG

Hà Nội - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dƣới sự

hƣớng dẫn của thầy giáo hƣớng dẫn khoa học. Các số liệu và trích dẫn đƣợc sử

dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn là trung thực và đáng tin cậy. Tôi cũng

xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn

và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chƣơng trình đào tạo thạc sỹ Quản lý kinh tế tại trƣờng Đại

học kinh tế, đƣợc sự đồng ý của Khoa Kinh tế chính trị, Trƣờng Đại học kinh tế và

sự nhất trí của giảng viên hƣớng dẫn PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, tôi đã tiến hành thực

hiện luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế với đề tài: “Mô hình quản lý vốn của Tổng

công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”.

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự

hƣớng dẫn, giúp đỡ quý báu của các quý thầy cô, Lãnh đạo và các đồng nghiệp

trong SCIC, các anh chị trong tập thể lớp. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi

xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:

Ban giám hiệu trƣờng Đại học kinh tế - ĐHQGHN, Khoa kinh tế chính trị và

các thầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập

và hoàn thành luận văn;

PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, ngƣời thầy đã hết lòng giúp đỡ, hƣớng dẫn và tạo

mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này;

Xin gửi lời cảm ơn tới những ý kiến đóng góp và sự động viên của gia

đình, Lãnh đạo và các đồng nghiệp trong SCIC,các anh/chị trong lớp cao học

QLKT3-K23 trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn thạc sỹ;

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho tôi

những đóng góp quý báu để hoàn thiện bài luận văn này.

Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các tác giả của những cuốn

sách, bài viết, công trình nghiên cứu và website hữu ích đƣợc đề cập trong danh

mục tài liệu tham khảo của luận văn này.

Hà Nội, tháng 02 năm 2017

Nguyễn Thị Lƣơng Thanh

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. i

DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... ii

DANH MỤC HÌNH .......................................................................................... ii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Về tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1

2. Mục tiêu và ý nghĩa thực tiễn .................................................................... 3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4

4. Kết cấu của Luận văn ................................................................................ 4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ

MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠICÁC DOANH NGHIỆP ....... 6

1.1. Tổng quan nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại DN ......... 6

1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu ................................................................. 6

1.1.2. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp .................... 8

1.1.3. Kinh nghiệm tại một số nước và bài học đối với Việt Nam .......... 13

1.2. Mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp .......................... 19

1.2.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của Việt Nam.. 19

1.2.2. Yêu cầu hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh

nghiệp ...................................................................................................... 21

1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các

doanh nghiệp Việt Nam .............................................................................. 28

1.3.1. Nhân tố kinh tế .............................................................................. 28

1.3.2. Nhân tố chính trị- pháp lý ............................................................. 29

1.3.3. Hệ thống quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ........................ 30

1.3.4. Nhân tố khoa học- công nghệ và con người ................................. 32

1.3.5. Các cam kết hội nhập khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại

Quốc tế ..................................................................................................... 32

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .............................. 35

2.1. Phƣơng pháp thu thập tài liệu .............................................................. 35

2.1.1. Nguồn tài liệu sơ cấp .................................................................... 35

2.1.2. Nguồn tài liệu thứ cấp ................................................................... 35

2.1.3. Thu thập và xử lý tài liệu .............................................................. 36

2.2. Phƣơng pháp xử lý tài liệu, dữ liệu ...................................................... 37

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG

CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC ..................... 39

3.1. Tổng quan về Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc (SCIC) 39

3.1.1. Cơ sở pháp lý và mục tiêu thành lập SCIC ................................... 39

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ của SCIC.............. 43

3.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý điều hành của SCIC ................... 46

3.1.4. Nguồn nhân lực ............................................................................. 47

3.1.5. Tài chính của SCIC ....................................................................... 47

3.2. Phân tích về mô hình quản lý vốn của SCIC ....................................... 48

3.2.1. Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của SCIC .... 48

3.2.2. Hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn của SCIC ........................... 56

3.2.3. Tình hình tài chính của SCIC qua các năm .................................. 59

3.2.4 Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ..... 60

3.2.5 Nguồn nhân lực và công nghệ quản trị doanh nghiệp ................... 62

3.2.6 Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý vốn của SCIC ............. 63

3.2.7 Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước tại doanh nhiệp và sắp xếp cổ phần

hóa các Công ty TNHH nhà nước MTV và hội nhập hợp tác quốc tế .... 65

3.3. Đánh giá kết quả hoạt động và mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC . 66

3.3.1. Các mặt đạt được và bài học kinh nghiệm.................................... 66

3.3.2. Một số khó khăn, vướng mắc cơ bản và nguyên nhân .................. 69

CHƢƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN

CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC ..... 70

4.1. Bối cảnh thực hiện phân công của Chính phủ về thực hiện quyền đại diện

chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp hiện nay ..................................... 70

4.2.Đề xuất về mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở

Việt Nam thông qua thực tiễn hoạt động của SCIC .................................... 72

4.2.1. Lựa chọn mô hình.......................................................................... 72

4.2.2. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh

nghiệp ...................................................................................................... 75

4.3. Đề xuất giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty

đầu tƣ và kinh doanh vồn Nhà nƣớc trong thời gian tới ............................. 79

4.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụcủa Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn

Nhà nước .................................................................................................. 79

4.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn

nhà nước ................................................................................................. 80

4.3.3 Các giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của SCIC trong thời

gian tới .................................................................................................... 81

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 95

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Từ đầy đủ

1. CTCP Công ty Cổ phần

2. CSH Chủ sở hữu

3. DN Doanh nghiệp

4. DNNN Doanh nghiệp Nhà nƣớc

5. Khazanah Khazanah National Berhad

6. NN Nhà nƣớc

7. SASAC Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản Trung Quốc

8. SCIC Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn Nhà nƣớc

9. SDIC Tập đoàn Đầu tƣ và Phát triển Nhà nƣớc của

Trung Quốc

10. Temasak Temasak Holding

11. TNHH Trách nhiệm hữu hạn

12. UBND Ủy ban nhân dân

i

DANH MỤC BẢNG

Số TT Tên bảng Trang

59 1. Bảng 3.2: Báo cáo tổng kết hoạt động 10 năm 2006-2015

của SCIC

DANH MỤC HÌNH

Số TT Tên hình Trang

46 1. Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành SCIC

54 2. Hình 3.2: Biểu đồ Bán vốn nhà nước qua các năm

78 3. Hình 4.1: Sơ đồ mô hình thực hiện chức năng đại diện

chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam trong

thời gian tới

78 4. Hình 4.2: Sơ đồ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu

ii

nhà nước tại doanh nghiệp của SCIC

MỞ ĐẦU

1. Về t nh c p thiết của đề tài

Quản lý và đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc hiệu quả đóng vai trò quan trọng

đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã thực

hiện nhiều chủ trƣơng, biện pháp tích cực nhằm hoàn thiện mô hình quản lý doanh

nghiệp nhà nƣớc; đã vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, có sự đổi mới đúng

hƣớng, với bƣớc đi thích hợp.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đất nƣớc đƣợc đổi mới toàn diện và

mạnh mẽ, các DNNN đƣợc chuyển đổi, sắp xếp, cổ phần hóa, cơ cấu lại một cách

triệt để, hoạt động của các doanh nghiệp đƣợc thay đổi một cách mạnh mẽ theo cơ

chế thị trƣờng…để đáp ứng phát triển bền vững và hội nhập thành công, thì mô hình

quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp theo phƣơng thức can thiệp hành

chính nhƣ những năm trƣớc đây không còn phù hợp nữa

Một tồn tại lâu nay trong phƣơng thức quản trị doanh nghiệp có vốn nhà

nƣớc ở Việt Nam đó là sự phân tán chức năng và quyền hạn quản trị vốn nhà nƣớc

đầu tƣ vào doanh nghiệp (DN) cho rất nhiều cấp, bộ, ngành, địa phƣơng. Những cơ

quan quản lý nhà nƣớc (NN) này kiêm nhiệm cả chức năng đại diện vốn chủ sở hữu

(CSH), khiến hoạt động quản trị vốn NN không minh bạch trong khi hoạt động

quản lý NN bị quá tải. Nhận diện đƣợc vấn đề này, chính phủ Việt Nam chủ trƣơng

cải cách quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN) bằng định hƣớng phân tách hai

chức năng trên. Chủ trƣơng này đƣợc ghi nhận tại hội nghị Ban chấp hành Trung

ƣơng khóa X (2008): “tách bạch vai trò của nhà nước với tư cách là bộ máy công

quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà

nước” ; văn kiện Đại hội đảng X (2006): “thu hẹp và tiến tới không còn chức năng

đại diện chủ sở hữu của các bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đối với DNNN” và

văn kiện Đại hội đảng XI (2001): “nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu

tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của nhà nước; khắc phục tình

1

trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh

thông qua mệnh lệnh hành chính”.

Năm 2005,Chính phủ Việt Nam chính thức ban hành Quyết định số

151/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà

nƣớc (SCIC) nhƣ một mô hình thí điểm về thực hiện đại diện vốn CSH chuyên

nghiệp, một mô hình tiên phong trong việc tách rời chức năng quản lý NN và chức

năng đại diện CSH vốn NN. SCIC chính thức đi vào hoạt động năm 2006, gồm các

hoạt động nhƣ nhận chuyển giao phần vốn NN, cổ phần hóa các DNNN, thoái vốn

NN, quản trị DN, thực hiện vai trò của cổ đông NN và thực hiện đầu tƣ hiện hữu,

đầu tƣ mới phần vốn NN theo quy định tại Nghị định số 99/2012/NĐ-CP. Tổng

công ty này đƣợc kỳ vọng sẽ trở thành tập đoàn tài chính quy mô lớn trong khu vực,

phụ trách các hoạt động đầu tƣ chiến lƣợc của quốc gia trong và ngoài nƣớc, đặc

biệt với những lĩnh vực then chốt NN cần nắm giữ vốn.

Qua 10 năm hoạt động, mô hình đã đạt đƣợc một số thành công nhất định,

tuy nhiên cũng đã bộc lộ một số khó khăn hạn chế nhất định trong quá trình hoạt

động, cần có sự phân tích, đánh giá để có những giải pháp, điều chỉnh cho phù hợp.

So với các nƣớc cùng khu vực, trong khi các mô hình quản lý vốn NN tiên

phong nhƣ tập đoàn Temasek Holdings (Temasek), Ủy ban Quản lý và giám sát tài

sản Trung Quốc (SASAC), Khazanah National Berhad (Khazanah) đều đã đạt đƣợc

những thành tựu nhất định thì SCIC vẫn còn nhiều tồn tại, hoạt động chậm chạp và

chƣa tƣơng xứng với kỳ vọng, kế hoạch mà Chính phủ đề ra. Từ khi SCIC ra đời

đến nay, Chính phủ Việt Nam vẫn chƣa có một bƣớc tiến nào trong việc xây dựng

một mô hình quản lý vốn tập trung ở quy mô lớn cho vốn đầu tƣ tại các doanh

nghiệp nhà nƣớc. Do đó, việc tìm hiểu những tồn tại, vƣớng mắc của SCIC là vấn

đề cần thiết để đề xuất giải pháp chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của SCIC

nói riêng và đối với việc hình thành một cơ quan quản lý vốn NN hiệu quả ở Việt Nam.

Để tìm hiểu rõ hơn hoạt động của SCIC, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn

2

thiện mô hình SCIC, tác giả đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu Luận văn là: “Mô

hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các

doanh nghiệp”.

- Câu hỏi nghiên cứu của học viên đối với vấn đề nghiên cứu:

Từ phân tích thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân những hạn chế của mô hình

quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp, cần có những giải pháp gì để hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công

ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thời gian tới?

2. Mục tiêu và ý nghĩa thực tiễn

 Mục tiêu của đề tài

Đề tài nghiên cứu thực trạng mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của Tổng công

ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC) tại các doanh nghiệp. Từ đó đƣa ra

kiến nghị giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC tại các

doanh nghiệp. Để đạt đƣợc mục tiêu trên, luận văn sẽ lần lƣợt giải quyết các nhiệm

vụ sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc và thực tiễn

mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp của Việt Nam;

- Phân tích thực trạng của mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của Tổng công ty

Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc;

- Đánh giá những mặt đạt đƣợc, hạn chế và nguyên nhân;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nƣớc

của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc.

 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đề tài nhằm đƣa ra góc nhìn về bƣớc đầu thực hiện phân tách chức năng

CSH vốn NN khỏi chức năng quản lý NN ở Việt Nam, xem xét SCIC nhƣ một ví dụ

thực tiễn về việc thành lập và xây dựng mô hình đại diện CSH nhà nƣớc độc lập cho

3

một nhóm doanh nghiệp. Đề tài kế thừa những nghiên cứu đã có, cập nhật số liệu

mới nhất và tình hình hiện tại, đƣa ra những khía cạnh sâu sát và cụ thể về SCIC,

đóng góp vào nhóm dữ liệu các bài nghiên cứu trƣớc về phân tách chức năng nhƣ

đã trình bày.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là mô hình quản lý vốn của Tổng công ty

Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, mối quan hệ của tổng

công ty này với các cơ quan quản lý NN, các văn bản pháp lý và cơ chế đại diện chủ

sở hữu vốn nhà nƣớc hiện hành tại Việt Nam.

 Phạm vi nghiên cứu

- Mô hình hoạt động quản lý vốn, chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt động

của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thực hiện tách bạch

chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở hữu của Nhà nƣớc; đẩy

nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay.

- Đồng thời đề tài phân tích một số mô hình kinh doanh vốn NN thành công

trên thế giới nhƣ Temasek của Singapore, SASAC và Tập đoàn đầu tƣ và phát triển

nhà nƣớc(SDIC) của Trung Quốc, quỹ đầu tƣ Khazanal của Malaysia.

4. Kết c u của Lu n văn

Đề tài nghiên cứu Luận văn là: “Mô hình quản lý vốn của Tổng công ty

Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”

Đề tài gồm 4 phần:

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ

HÌNH QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

4

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA

TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

CHƢƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNHQUẢN LÝ VỐN

5

CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH

QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại DN

1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu

Thời gian qua, về mô hình hoạt động của cơ quan quản lý vốn nhà nƣớc tại

DN đã đƣợc một số tổ chức quốc tế nhƣ OECD, WB... nghiên cứu.

Nghiên cứu của OECD (2012) đã chỉ ra rằng, việc thiết lập mô hình cơ quan

chuyên trách chịu ảnh hƣởng của các yếu tố thuộc phạm trù lịch sử. Một ví dụ điển

hình là trƣờng hợp Indonesia. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm

1997, các DNNN Indonesia đối mặt với hàng loạt nguy cơ nhƣ nợ xấu tăng nhanh,

hoạt động kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân chính là mô hình song

trùng đang áp dụng có những tác động tiêu cực đến hoạt động quản lý và quản trị

các DNNN. Do vậy, năm 1998 Indonesia đã lựa chọn mô hình một bộ chuyên trách

(Bộ Đầu tƣ và phát triển doanh nghiệp) thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu

nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do biến động về chính trị trong giai đoạn

từ năm 2000-2001 nên cơ quan này đƣợc chuyển về Bộ Tài chính và hoạt động với

tƣ cách là Tổng cục Phát triển doanh nghiệp. Đến năm 2001, Bộ Đầu tƣ và phát

triển DNNN đƣợc khôi phục và năm 2004 đƣợc đổi tên thành Bộ DNNN. Do năng

lực thể chế, mục tiêu hoạt động và quy mô DNNN, vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp

có sự khác biệt nên có một số quốc gia lựa chọn mô hình công ty đầu tƣ hoặc công

ty nắm vốn hoặc mô hình cơ quan chuyên trách hay mô hình phân tán để thực hiện

chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc (OECD, 2012). Hoặc, do các quốc gia có

thể chế, hoàn cảnh khác nhau nên không thể có một mô hình chung.

Trƣờng hợp của Trung Quốc, do quy mô vốn và số lƣợng DNNN còn rất lớn,

đƣợc giao các mục tiêu khác nhau và chịu ảnh hƣởng của Nho giáo (xã hội dựa trên

6

các cách thức quản lý khác nhau giữa lòng tin và trách nhiệm và chia sẻ kinh

nghiệm) dẫn tới phƣơng thức quản trị khác và khó áp dụng phƣơng thức, mô hình

của các nƣớc phƣơng Tây; do vậy Trung Quốc đã thành lập hệ thống SASAC.

Đồng thời thực tế cho thấy, các DNNN hoạt động thƣơng mại thuần túy

thƣờng đƣợc giao cho một cơ quan/tổ chức chuyên trách thực hiện chức năng đại

diện chủ sở hữu nhà nƣớc. Các DNNN hoạt động phi thƣơng mại vẫn do một bộ

phận chuyên trách thuộc bộ quản lý ngành quản lý trực tiếp thực hiện chức năng đại

diện chủ sở hữu nhà nƣớc. Ví dụ, tại Thụy Điển, Bộ Y tế và Các vấn đề xã hội có

một vụ chuyên trách giúp Bộ trƣởng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà

nƣớc đối với các DNNN, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có mục tiêu liên

quan đến chính trị - y tế, xã hội. Tƣơng tự nhƣ vậy, Bộ Văn hoá có một vụ chuyên

trách giúp Bộ trƣởng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với các

DNNN, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có mục tiêu liên quan đến chính trị

- văn hoá; Bộ Môi trƣờng có một vụ chuyên trách chuyên trách giúp Bộ trƣởng thực

hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp có mục tiêu liên quan về môi trƣờng.

Trong trƣờng hợp khu vực DNNN có quy mô không quá lớn, số lƣợng không

nhiều, hoạt động tập trung trong một số ngành lĩnh vực thì việc thiết lập mô hình

một cơ quan, tổ chức chuyên trách thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở

hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN sẽ không quá phức tạp. Ví dụ trƣờng

hợp của Indonesia, việc thành lập và giao cho Bộ DNNN thực hiện chức năng đại

diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN đƣợc cho là thành công

khi số lƣợng DNNN giảm từ 557 doanh nghiệp (1960) xuống còn khoảng 140

doanh nghiệp trong giai đoạn 2004 -2012 (BUMN, 2014).

Trong trƣờng hợp khu vực DNNN có quy mô còn lớn và đa dạng về ngành

nghề, lĩnh vực hoạt động thì việc thiết lập mô hình một cơ quan thực hiện chức

năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN sẽ khá phức tạp.

Ví dụ Trung Quốc, khi số lƣợng DNNN giảm mạnh từ 262.000 (1997) xuống còn

7

116.000 (2004), tạo tiền đề thành lập Uỷ ban Giám sát, quản lý tài sản nhà nƣớc -

SASAC (Naughton, 2010);. Tuy nhiên, do số lƣợng DNNN vẫn còn rất lớn và mục

tiêu, quy mô, phạm vi hoạt động tại các vùng miền khác nhau nên Trung Quốc phải

thiết lập hệ thống SASAC, bao gồm 01 SASAC ở cấp Trung ƣơng, 31 SASAC ở

cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ƣơng và 331 SASAC ở các cấp thấp hơn. Trong

đó, SASAC Trung ƣơng quản lý DNNN, phần vốn và tài sản nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp thuộc cấp Trung ƣơng; tƣơng tự nhƣ vậy đối SASAC cấp tỉnh/thành phố

trực thuộc trung ƣơng và SASAC ở cấp địa khu, huyện.

Trƣờng hợp của Nam Phi cho thấy, với quy mô 662 DNNN nhƣng chỉ có một

cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc của Nam

Phi nên đã dẫn đến quá tải và thất bại trong quản lý. Kinh nghiệm cho thấy, mô hình

một cơ quan chuyên trách chỉ phù hợp với quy mô khoảng 100 DNNN. Đối với

những quốc gia có số lƣợng DNNN lớn, cần phải phân chia theo vùng miền hay một

phƣơng thức khác để đảm bảo hiệu quả quản lý.

1.1.2. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Cho đến nay, có một số mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu

nhà nƣớc chủ yếu sau đã đƣợc các quốc gia lựa chọn và vận hành: (i) mô hình phi

tập trung (decentralized model) đƣợc áp dụng ở Braxin, Hàn Quốc,…; (ii) mô hình

song trùng (dual model) đƣợc áp dụng ở Cộng hòa Séc, Mexico,… (iii) mô hình tập

trung (centralized model) đƣợc áp dụng ở Trung Quốc, Indonesia, Singapore, một

số nƣớc ở Bắc Âu,...

Các mô hình trên đều có những ƣu điểm và hạn chế về tổ chức và trong hoạt

động. Vì vậy, tùy theo các điều kiện, bối cảnh lịch sử, thể chế; mục tiêu, tính chất

hoặc động của các DNNN; quy mô, số lƣợng các DNNN trong nền kinh tế của mỗi

quốc gia nhƣ đã nêu ở trên mà các mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu

nhà nƣớc khác nhau đƣợc lựa chọn. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển và từ kinh

nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà

nƣớc đang dần trở thành xu thế, ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có

8

nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình

khác. Mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc có thể

đƣợc tổ chức dƣới hình thức tổ chức, cơ quan nhà nƣớc hoặc doanh nghiệp.

Trên thực tế, mô hình tập trung thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà

nƣớc đối với các DNNN và phần vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp có thể

đƣợc tổ chức dƣới 2 hình thức chủ yếu sau: (i) một tổ chức, cơ quan nhà nƣớc

(trƣờng hợp Bộ DNNN ở Indonesia hoặc SASAC ở Trung Quốc và trƣờng hợp

cục/vụ thuộc bộ ở các nƣớc Bắc Âu, Đức,…); hoặc (ii) dƣới hình thức một doanh

nghiệp (trƣờng hợp Temasek ở Singapore hoặc Khazanah ở Malaysia,…).

1.1.2.1. Mô hình tổ chức dưới hình thức tổ chức, cơ quan Nhà nước.

Mô hình cơ quan chuyên trách chủ sở hữu nhà nƣớc có thể đƣợc tổ chức

dƣới hình thức tổ chức, cơ quan nhà nƣớc và bao gồm hai hình thức chủ yếu sau: (i)

bộ hoặc cơ quan cấp bộ; và (ii) đơn vị thuộc Bộ.

(i). Mô hình bộ hoặc cơ quan cấp bộ

Qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập

trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc vào một tổ chức đầu tƣ kinh doanh

vốn nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế,

ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn

về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.

(ii). Mô hình đơn vị thuộc bộ

Hình thức một đơn vị chuyên trách thuộc bộ đƣợc sử dụng phổ biến hơn là

thiết lập một bộ hoặc một cơ quan hoặc hệ thống cơ quan mới. Theo đó, một đơn vị

thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc các Bộ quản lý ngành đƣợc thành lập để thực hiện

chức năng đại diện chủ sở hữu - hình thức này đƣợc áp dụng tại một số nƣớc Bắc

Âu (Thụy Điển, Na uy), Đức, Nam Phi,…

Trƣớc thời điểm áp dụng mô hình này (năm 1998 đối với Thụy Điển và 2001

đối với Nauy), các nƣớc này đều áp dụng mô hình phân tán thực hiện chức năng chủ

9

sở hữu nhà nƣớc. Ở mô hình do một đơn vị chuyên trách thuộc bộ thực hiện chức

năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN, Quốc hội phê chuẩn cơ chế thực hiện

quyền quyết định đầu tƣ thành lập và thay đổi cơ cấu sở hữu do Chính phủ trình (cơ

quan đại diện chuẩn bị); Hội đồng quản trị thực hiện quyền quyết định các hoạt

động quản lý của doanh nghiệp, chủ sở hữu không có quyền can thiệp vào các hoạt

động của doanh nghiệp nhƣng có quyền quyết định cơ chế hoạt động của Hội đồng

quản trị. Việc quyết định cơ chế hoạt động của Hội đồng quản trị đƣợc thể hiện

bằng một bản thoả thuận dài hạn. Nội dung của Bản thoả thuận quy định rõ: Mục

tiêu hoạt động của doanh nghiệp (bao gồm cả các mục tiêu tài chính) và mục đích

của các hoạt động đó mà Hội đồng quản trị phải tuân thủ trong quá trình quản lý;

nghĩa vụ của Hội đồng quản trị và từng thành viên của Hội đồng quản trị nhằm quản

lý vốn do Chính phủ và những ngƣời đóng thuế đã đầu tƣ vào công ty; những vấn

đề quan trọng của doanh nghiệp mà Hội đồng quản trị phải xin ý kiến cơ quan đại

diện chủ sở hữu nhà nƣớc - Cục Quản lý DNNN trƣớc khi quyết định. Hàng năm,

Cục Quản lý DNNN sẽ tiến hành đánh giá hoạt động của Hội đồng quản trị của

DNNN thuộc Bộ trên một số khía cạnh nhƣ: cống hiến của từng thành viên cho hoạt

động của Hội đồng quản trị; kết quả quản lý của toàn bộ Hội đồng quản trị so với

mục tiêu đầu năm; kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp so với mục tiêu

đầu năm;... Kết quả đánh giá đƣợc trình lên Bộ trƣởng làm căn cứ để tái bổ nhiệm

hoặc miễn nhiệm. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành các văn bản quy định về chế

độ báo cáo, thống kê đối với các loại hình DNNN cũng nhƣ yêu cầu Bộ trƣởng phải

xây dựng Báo cáo sở hữu nhà nƣớc.

Khu vực DNNN tại các nƣớc Bắc Âu vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn. Ví dụ, năm

2001, cổ phần của Chính phủ Thụy Điển tại khu vực kinh doanh chiếm tới khoảng

25% tổng số cổ phần tại các doanh nghiệp. Năm 2010, Thụy Điển có 60 DNNN;

trong đó, Chính phủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ tại 46 doanh nghiệp và nắm phần

vốn chi phối tại 14 doanh nghiệp với tổng giá trị tài sản khoảng 236 tỷ USD, doanh

thu khoảng 56,5 tỷ USD, lợi nhuận trƣớc thuế khoảng 9,97 tỷ USD và khoảng

190.000 lao động (chiếm khoảng 4% tổng số lao động), cổ tức trả cho Nhà nƣớc là

10

hơn 5,76 tỷ USD.

Tuy nhiên, việc các bộ thực hiện chuyên trách chức năng đại diện chủ sở

hữu, cổ đông, thành viên nhà nƣớc tại doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc hoạt động

trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý đã bộc lộ nhiều bất cập. Vì vậy, Chính

phủ Thụy Điển có xu hƣớng chuyển dần việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở

hữu, cổ đông, thành viên nhà nƣớc tại các doanh nghiệp hoạt động thƣơng mại về

một cơ quan nhà nƣớc (dự kiến là Bộ Tài chính). Đây là những doanh nghiệp hoạt

động đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động trong môi trƣờng thị trƣờng cạnh

tranh đƣợc mở cửa hoàn toàn với sự tham gia của các doanh nghiệp tƣ nhân, các

doanh nghiệp nƣớc ngoài. Những doanh nghiệp đƣợc giao thực hiện mục tiêu chính

trị - xã hội, thực hiện chính sách ngành và thị trƣờng chƣa mở cửa hoàn toàn sẽ tiếp

tục do các Bộ Công nghiệp, Năng lƣợng và Truyền thông, Bộ Y tế và Các vấn đề xã

hội, Bộ Văn hóa thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc.

1.1.2.2. Mô hình tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp

Mô hình tập trung dƣới hình thức doanh nghiệp cũng đƣợc một số nƣớc thiết

lập để giám sát và quản lý DNNN. Những doanh nghiệp này có tƣ cách pháp lý độc

lập và có bộ máy quản trị riêng.

Hình thức này có hai biến thể là công ty nắm vốn (holding company) và công

ty đầu tƣ (investment company). Trong đó, hình thức công ty nắm vốn thƣờng đƣợc

giao chịu trách nhiệm quản lý tài sản trong danh mục đầu tƣ (hình thức này đƣợc áp

dụng tại một số nƣớc nhƣ Hungary, Mozambique, Peru, Bhutan,…). Hình thức công

ty đầu tƣ đƣợc các nƣớc mới nổi và một số nƣớc phát triển có năng lực thể chế khá

tốt và hoàn chỉnh áp dụng nhƣ trƣờng hợp của Tập đoàn Temasek (Singapore) và

Tập đoàn Khazanah (Malaysia).

- Trƣờng hợp Temasek (Singapore): Temasek là tổ chức kinh doanh vốn đầu

tƣ nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp. Temasek, bên cạnh Tổng công

ty Đầu tƣ vốn của Chính phủ (CIIC), đƣợc Chính phủ Singapore cấp vốn để đầu tƣ

vào các doanh nghiệp khác. Việc cấp vốn cho hai doanh nghiệp này đƣợc thực hiện

11

thông qua Bộ Tài chính trên cơ sở dự toán đầu tƣ vốn đã đƣợc Quốc hội phê chuẩn.

Ví dụ năm 2008 Temasek đã đƣợc cấp 10 tỷ đô la Singapore từ Bộ Tài chính. Ngoài

đặc điểm là tập đoàn do Nhà nƣớc đầu tƣ vốn, Temasek hoạt động nhƣ một tập

đoàn tƣ nhân và đƣợc khẳng định là một nhà đầu tƣ và một cổ đông năng động.

Tổng danh mục vốn đầu tƣ của Temasek đến 31/3/2014 là 223 tỷ đô la Singapore,

tăng hơn 2 lần so với năm 2004 (90 tỷ S$). 31% số vốn đƣợc đầu tƣ tại Singapore,

41% tại các nƣớc Châu Á (riêng Trung Quốc là 25%) và 28% là tại các khu vực

khác trên toàn thế giới. Vốn chủ sở hữu (shareholder equity) đạt 187 tỷ đô la

Singapore năm 2014, tăng gần 3 lần so với năm 2004 (65 tỷ S$).

- Trƣờng hợp Khzanah, Malaysia: Khzanah là tổ chức đầu tƣ vốn nhà nƣớc

có cơ cấu gồm công ty mẹ (Khazanah Nasional Berhad), các công ty con và các

công ty có cổ phần, vốn góp của công ty mẹ. Khazanah Nasional Berhad đƣợc giao

thực hiện các chức năng, nhiệm vụ: (i) quản lý các khoản vốn đầu tƣ do Chính phủ

Malaysia giao; (ii) thực hiện các khoản đầu tƣ mới trong các ngành, lĩnh vực mang

tính chiến lƣợc, lĩnh vực công nghệ cao và tìm kiếm các khoản đầu tƣ chiến lƣợc ở

nƣớc ngoài; (iii) quản lý có hiệu quả vốn, tài sản của Chính phủ Malaysia tại các

doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp khác (trừ Tập đoàn Petronas và một số

DNNN do Chính phủ trực tiếp quản lý). Khazanah Nasional Berhad có cơ cấu gồm

Hội đồng quản trị, Ban kiểm toán, Ban Điều hành, Tổng giám đốc và các ban

chuyên môn: Tài chính và Quản trị, Đầu tƣ và giám sát và Phòng thƣ ký và pháp

chế. Công ty mẹ thực hiện các quyền và nghĩa vụ cổ đông tại các công ty quy định

tại Luật Công ty.

Hiện nay, Khazanah Nasional Berhad là cổ đông chi phối của 9 công ty chiến

lƣợc quốc gia: Tenaga Nasional, Telekom Malaysia, Proton, Tập đoàn UEM, Plus,

Ngân hàng RHB, Malaysia Airports, PMB và Malaysia Airlines. Khazanah cũng là

nhà đầu tƣ chủ yếu trong các ngành, lĩnh vực chiến lƣợc nhƣ: cơ sở hạ tầng, dịch vụ

công cộng, dịch vụ tài chính, hàng không, công nghệ và truyền thông. Các tài sản

do Công ty quản lý có giá trị khoảng trên 50 tỷ Ringit (tƣơng đƣơng khoảng 12 tỷ

USD). Các công ty mà Khazanah Nasional Berhad là cổ đông đa số có nguồn vốn

12

trên 200 tỷ Ringit, chiếm 1/3 thị trƣờng vốn của Malaysia.

Qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập

trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc vào một tổ chức đầu tƣ kinh doanh

vốn nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế,

ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn

về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.

1.1.3. Kinh nghiệm tại một số nước và bài học đối với Việt Nam

1.1.3.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước thông qua Cơ quan hành chính tại Trung

Quốc và bài học đối với Việt Nam

Uỷ ban Giám sát và Quản lý Tài sản Nhà nƣớc (SASAC) đƣợc Trung quốc

thành lập năm 2003 để trực tiếp quản lý 198 DNNN lớn thuộc lĩnh vực phi tài

chính. Bên cạnh việc thành lập SASAC ở Trung ƣơng, Chính phủ Trung quốc còn

cho phép thành lập các tổ chức tƣơng tự SASAC trực thuộc chính quyền địa phƣơng

để quản lý tới 1030 DNNN lớn của địa phƣơng. Đến nay số lƣợng doanh nghiệp do

SASAC quản lý đã đƣợc thu gọn từ 198 xuống còn 148 doanh nghiệp.

SASAC là một cơ quan ngang bộ với chủ tịch SASAC là do Chính phủ bổ

nhiệm. Chủ tịch SASAC đƣợc tham dự các buổi họp Chính phủ nhƣng không đƣợc

phát biểu tại các buổi họp này.

Mục tiêu của SASAC là định hƣớng và thúc đẩy quá trình cải cách DNNN và

tăng cƣờng việc quản lý tài sản Nhà nƣớc.

- Với vị thế là cơ quản quản lý hành chính Nhà nƣớc, SASAC có chức năng

soạn thảo văn bản pháp quy về cải cách và quản lý tài sản nhà nƣớc; chỉ đạo công

tác quản lý tài sản nhà nƣớc tại địa phƣơng.

- Với vị thế là cơ quan quản lý và giám sát doanh nghiệp, SASAC thực hiện

bổ nhiệm và miễn nhiệm các lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp, đánh giá hoạt

động của các cán bộ này theo thủ tục pháp lý và thƣởng/phạt đối với lãnh đạo doanh

nghiệp; và gần đây là thiết lập hệ thống lựa chọn giám đốc điều hành doanh nghiệp

13

theo yêu cầu của hệ thống kinh tế thị trƣờng XHCN và hệ thống doanh nghiệp hiện đại.

Giám sát và quản lý việc bản toàn và gia tăng giá trị tài sản nhà nƣớc thuộc

sự giám sát của SASAC thông qua hoạt động thống kê và kiểm toán. Cử các tổ/ban

giám sát đến một số doanh nghiệp lớn để thay mặt nhà nƣớc thực hiện việc giám sát

hoạt động của doanh nghiệp.

- Với vị thế là một nhà đầu tƣ của Chính phủ, SASAC thực hiện các chính

sách đầu tƣ của mình vào doanh nghiệp và thông qua chính sách cải cách doanh

nghiệp của mình. Các SASAC địa phƣơng cũng đƣợc trao quyền sử dụng lợi từ

DNNN địa phƣơng để thực hiện những dự án đầu tƣ của địa phƣơng

Nhƣ vậy, có thể thấy mô hình SASAC giống nhƣ một “siêu bộ”, quản lý các

DNNN về mọi mặt (hoạt động, nhân sự và vốn).

Sau khi thành lập SASAC, vị thế độc quyền của DNNN ở Trung Quốc

tăng lên rõ rệt. Trong khi DNNN trung ƣơng nắm giữ độc quyền ở một số ngành

có thể lý giải từ mục tiêu chiến lƣợc quốc gia thì các DNNN địa phƣơng cũng trở

nên độc quyền hơn và nắm giữ chủ yếu đối với các lĩnh vực về khai thác tài

nguyên của địa phƣơng.

Việc SASAC quản lý quá nhiều mặt đối với doanh nghiệp có thể đã không

tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong quá trình hoạt động của mình. Do

vậy, để tăng cƣờng hiệu quả quản lý DNNN, hiện nay SASAC cũng đang đi theo

hƣớng thông lệ quốc tế qua việc hình thành các hội đồng quản trị của các doanh

nghiệp. Một phần định hƣớng đổi mới của SASAC là căn cứ trên định hƣớng mô

hình nhƣ Temasek của Singapore. Có thể đánh giá về mặt này Việt Nam đã đi trƣớc

Trung quốc.

1.1.3.2. Mô hình Tập đoàn đầu tư vốn Nhà nước tại Temasek (Singapore),

Khazanah (Malaysia) và bài học đối với Việt Nam

Tại Malaysia có mô hình Công ty Khazanah, Singapore có mô hình Công ty

Temasek. Hai Công ty này là các Công ty có chức năng là nhà đầu tƣ nhà nƣớc tại

14

doanh nghiệp. Temasek và Khazanah không can thiệp vào hoạt động của doanh

nghiệp mà chỉ đóng vai trò nhƣ một cổ đông tại doanh nghiệp đó, bình đẳng với các

cổ đông khác và thực hiện quyền cổ đông của mình theo các quy định của pháp luật.

Mục tiêu Chiến lƣợc của Khazanah là trở thành một “Nhà đầu tư chiến lược

hàng đầu tạo ra được giá trị bền vững cho một quốc gia Malaysia có năng lực cạnh

tranh quốc tế”. Trọng tâm hoạt động của Khazanah vẫn là nhiệm vụ cơ cấu lại các

doanh nghiệp Nhà nƣớc. Từ năm 2006 có thêm việc đầu tƣ phát triển đặc khu kinh

tế Iskanda (phía Nam Malaysia giáp với Singapore). Trong chuyển đổi DNNN,

Khazanah tập trung vào quản trị “vốn nhân lực”, bộ máy lãnh đạo quản trị, điều

hành năng động. Khazanah đóng vai trò tiên phong cho việc thúc đẩy quá trình cổ

phần hóa các công ty nhà nƣớc thành các doanh nghiệp hiệu quả cao, qua đó tại ra

sự chuẩn bị tốt hơn cho việc mở rộng tự do hóa môi trƣờng kinh doanh.

Chƣơng trình chuyển đổi công ty nhà nƣớc là một phần trong nỗ lực mà

chính phủ Malaysia đang thực hiện nhằm định hƣớng cho sự phát triển và tăng

trƣởng của nền kinh tế quốc gia (chƣơng trình đƣợc bắt đầu từ năm 2004 và dự kiến

hoàn thành vào năm 2015).

Trong khi đó mục tiêu chiến lƣợc của Temasek hiện nay đƣợc đặt ra là “Tạo

ra và tối đa hóa thu nhập bền vững dành cho cổ đông với vai trò là một nhà đầu tư

và cổ đông năng động tại các doanh nghiệp thành công” (SCIC, 2010).

Vào những năm 80, Temasek cũng tập trung vào tƣ nhân hóa và thoái vốn

nhà nƣớc nhƣng hiện nay đã hoàn thành nhiệm vụ này và hoạt động hoàn toàn trên

cơ sở thƣơng mại và tập trung vào việc tạo ra giá trị trong dài hạn. Đầu tƣ của

Temasek hiện vẫn đang tập trung vào đầu tƣ trong khu vực và đạt mục tiêu sẽ phát

triển thành tập đoàn toàn cầu với trọng tâm là Châu Á.

Trọng tâm chiến lƣợc của Temasek đƣợc thực hiện thông qua việc xây dựng

các “doanh nghiệp thành công”. Phát triển tập trung vào sự quản trị và đầu tƣ năng

động hiệu quả tại các Công ty mà Temasek có cổ phần. Mục tiêu của Temasek

15

nhằm khuyến khích các Công ty thành viên kinh doanh thành công và tạo tiếng

vang trên phạm vi quốc tế. Temasek tiến hành cải tổ, thoái đầu tƣ hay đầu tƣ vào

các công ty nếu nhƣ thấy đƣợc cơ hội phát triển hay thực hiện tăng giá trị.

Cả Temasek và Khazanah hiện nay đều có cổ phần tại các doanh nghiệp lớn,

có tỷ trọng vốn nhà nƣớc lớn. Ví dụ: Temasek quản lý công ty viễn thông Singtel,

hãng hàng không Singapore Airlines, … Các công ty này áp dụng các công nghệ

quản trị tiên tiến để thực hiện chức năng tƣ vấn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

nhà nƣớc. Ngoài ra, các công ty này còn mở rộng đầu tƣ ra thị trƣờng nƣớc ngoài,

đặc biệt là Temasek. Hiện nay, Temasek, Khazanah đang đƣợc coi là mô hình quản

lý vốn nhà nƣớc thành công nhất ở Châu Á.

1.1.3.3. Công ty Kinh doanh tài sản nhà nước (SDIC) tại Trung Quốc

Nhằm mục tiêu tách chức năng quản lý kinh tế - xã hội và quyền sở hữu tài

sản nhà nƣớc, Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung quốc đã thành lập SDIC vào năm

1995 với mục tiêu chuyển đổi phƣơng thức quản lý tài sản nhà nƣớc từ các cơ quan

chủ quản sang hình thức công ty kinh doanh tài sản. Đây là loại hình công ty Nhà

nƣớc đặc biệt do Trung Quốc thành lập, SDIC thực hiện chức năng đại diện chủ sở

hữu Nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.

Theo yêu cầu của các chiến lƣợc kinh tế quốc gia, các chính sách phát triển

ngành và các kế hoạch phát triển vùng, SDIC có nhiệm vụ tham gia góp vốn, đầu tƣ

vào lĩnh vực cơ bản là công nghiệp, dịch vụ tài chính và công nghệ.

SDIC hoạt động theo mô hình tập đoàn mẹ và các công ty con. Chủ tịch

SDIC kiêm tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trực tiếp trƣớc Thủ tƣớng.

Hiện nay đầu tƣ vào công nghiệp của SDIC chủ yếu tập trung vào các ngành

điện, than, cảng, tàu biển, phân bón hóa học và các lĩnh vực cơ bản hoặc các lĩnh

vực dựa vào tài nguyên cũng nhƣ các ngành công nghệ cao. Trong lĩnh vực tài

chính, SDIC đã tiếp cận các công ty tín thác và đầu tƣ, các công ty chứng khoán,

các công ty quản lý quỹ và các ngân hàng mà SDIC có cổ phần hoặc cổ phần kiểm

16

soát. Các dịch vụ tƣ vấn chủ yếu liên quan đến lĩnh vực đầu tƣ, cơ khí, quản lý và

giám sát. Quản lý tài sản của SDIC đang chủ động hƣớng đến việc hợp nhất hoặc tái

cơ cấu các doanh nghiệp trung ƣơng.

1.1.3.4. Bài học cơ bản rút ra đối với Việt Nam

Bài học cơ bản thứ nhất có thể rut ra đối với Việt Nam là cần thiết phải tách

DNNN khỏi những ảnh hƣởng chính trị và hành chính không đúng để DNNN có thể

tập trung vào mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của cổ đông. Sự phân biệt rõ ràng

giữa quyền sở hữu nhà nƣớc với các quyền kinh tế khác (ví dụ quyền quản lý) là hết

sức cần thiết. Biện pháp nhằm tách chức năng sở hữu nhàc nƣớc khỏi các chức

năng khác là thành lập một cơ quan nhà nƣớc duy nhất chuyên thực hiện quyền sở

hữu nhà nƣớc (Cơ quan sở hữu). Đặc biệt, nhà nƣớc cần trao cho Cơ quan sở hữu

những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể nhằm giải quyết tình trạng phân tán về

quyền hạn và manh mún về trách nhiệm trong việc quản lý DNNN.

Bài học thứ hai là cơ quản chủ sở hữu phải mang tính thƣơng mại và chuyên

nghiệp. Trách nhiệm của Cơ quan sở hữu chỉ nên giới hạn trong phạm vi những

DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu cơ quan sở hữu phải chịu trách nhiệm

đối với cả tài sản của tổ chức phi lợi nhuận, tài sản nhà nƣớc nằm ở cơ quan chính

phủ và “các đơn vị dịch vụ công cộng” thì sẽ không thể thực hiện đƣợc mục tiêu

quản lý hữu hiệu đối với DNNN. Các hoạt động phi lợi nhuận mà doanh nghiệp

phải thực hiện nếu có phải đƣợc nhà nƣớc bù đắp cho các tổn thất phát sinh.

Bài học thứ ba là quyền lợi của cổ đông nhà nƣớc tại các doanh nghiệp cần

đƣợc thực hiện thông qua cơ chế thông thƣờng, đó là tổ chức đại hội cổ đông hàng

năm và cử đại diện tham gia HĐQT của DNNN. Các quyền lợi khác của nhà nƣớc

không liên quan tới cổ đông cần đƣợc thực hiện thông qua các kênh pháp luật hành

chính hoặc thƣơng mại thích hợp. Quá trình thực hiện quyền chủ sở hữu đòi hỏi Cơ

quan sở hữu phải cử đại diện đủ tiêu chuẩn tham gia HĐQT của DNNN và giám sát

việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.

Bài học thứ tƣ là việc cần tập trung vào việc cải cách quản trị doanh nghiệp

17

đối với công ty quản lý tài sản Nhà nƣớc và các công ty thành viên. Khazanah thành

lập từ năm 1993 nhƣng đến năm 2004, họ đã phải đặt lại vấn đề quản trị doanh

nghiệp và xây dựng một chiến lƣợc tăng cƣờng quản trị doanh nghiệp thông qua

việc xây dựng và ứng dụng một loạt các sổ tay về quản trị tại các công ty thành

viên. Temasek cũng khuyến khích các công ty thành viên áp dụng Chuẩn quản trị

doanh nghiệp đƣợc Chính phủ thông qua (3/2001). Sau khi chuẩn hóa đƣợc khung

quản trị, thì các doanh nghiệp chủ động và tự chủ hoạt động theo khung quản trị đó,

Temasek (cũng nhƣ Khazanah) không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp

mà chỉ đóng vài trò nhƣ một cổ đông tại doanh nghiệp đó bình đẳng với các cổ đông

khác và thực hiện quyền cổ đông của mình theo các quy định của pháp luật.

Cơ quan sở hữu cần đƣợc tổ chức một cách gọn nhẹ, giảm thiểu số lƣợng

nhân viên để tránh trở thành một tổ chức hành chính quan liêu cồng kềnh. Ngoài ra,

Cơ quan sở hữu cũng cần nhấn mạnh việc thƣơng mại hóa các hoạt động của mình,

ký hợp đồng với bên ngoài càng nhiều càng tốt để thực hiện chức năng giám sát và

tƣ vấn cho DNNN.

Để phù hợp với việc Nhà nƣớc chỉ nắm giữ những doanh nghiệp then chốt,

quy mô danh mục các công ty do Nhà nƣớc nắm giữ không nên quá lớn.

Về chế độ đãi ngộ, để cơ quan sở hữu mang tính thƣơng mại và chuyên

nghiệp, nhân viên làm việc cho Cơ quan sở hữu phải là những nhân viên chuyên

nghiệp làm việc chuyên trách, đƣợc hƣởng chế độ đãi ngộ theo cơ chế thị trƣờng.

Tóm lại: mỗi mô hình quản lý đƣợc xây dựng từ đặc thù riêng của từng quốc

gia nên khó có thể đánh giá mô hình này tốt hơn mô hình kia. Tuy nhiên, qua thực

tế hoạt động của hai mô hình quản lý và các bài học rút ra từ việc thực tế triển khai

các mô hình của các nƣớc trên Thế giới nêu trên có thể thấy mô hình giao cho

doanh nghiệp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc sẽ tách bạch rõ

hơn vai trò hoạch định chính sách kinh tế của Chính phủ ra khỏi vai trò sở hữu tài

sản của Nhà nƣớc, các doan nghiệp có vốn nhà nƣớc sẽ hoạt động với hiệu quả hoạt

động cao hơn và việc kiểm soát cũng rõ ràng, minh bạch hơn. Trên cơ sở thực tế

18

này, Việt Nam đã lựa chọn chuyển đổi từ mô hình cơ quan hành chính bộ ngành

sang mô hình doanh nghiệp là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua việc

thành lập SCIC.

1.2. Mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp

1.2.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của Việt Nam

Hiện nay ở nhiều nƣớc trên thế giới nhà nƣớc vẫn đầu tƣ vào kinh doanh,

vẫn còn tồn tại doanh nghiệp nhà nƣớc. Tuy nhiên mô hình quản lý doanh nghiệp

nhà nƣớc, quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào kinh doanh của các nƣớc lại không đồng

nhất. Tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế, trình độ quản lý nền kinh tế, quản

lý xã hội; lịch sử hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc; số lƣợng doanh

nghiệp nhà nƣớc... mà mỗi nƣớc có mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc, quản

lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào kinh doanh khác nhau. Có thể nói không nƣớc nào

giống nƣớc nào. Qua nghiên cứu, hiện nay Việt Nam có hai mô hình quản lý doanh

nghiệp nhà nƣớc phổ biến nhƣ sau:

1.2.1.1. Mô hình quản lý vốn phân tán

Mô hình quản lý phân tán là mô hình phân cấp quản lý vốn nhà nƣớc từ Thủ

tƣớng Chính phủ, các Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh. Mô hình quản lý này có

đặc điểm nhƣ sau:

Thứ nhất, cơ chế cơ quan chủ quản là các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh không

cho phép tách bạch giữa chức năng quản lý Nhà nƣớc và chức năng quản lý kinh

doanh. Đây là vấn đề đã đƣợc nêu trong rất nhiều nghị quyết, hội nghị, hội thảo.

Nhƣng đến nay chƣa có hƣớng giải quyết và sẽ không giải quyết đƣợc nếu vẫn giữ

mô hình hiện tại.

Thứ hai, cơ chế chủ quản nhƣ hiện nay đã biến các DNNN thành "cánh tay

nối dài" của các cơ quan hành chính gồm các Bộ và UBND cấp tỉnh. Từ đó, yêu cầu

công khai, minh bạch sẽ chỉ là quy định trên giấy. Không ngẫu nhiên mà một số tổ

19

chức tài chính quốc tế nhƣ WB, ADB...khi cho Việt Nam vay vốn thực hiện dự án

đã đặt điều kiện: Những DN thuộc sự quản lý của chủ đầu tƣ (là các Bộ, Ngành,

UBND cấp tỉnh) không đƣợc tham gia đấu thầu.

Thứ ba, cơ chế chủ quản hiện nay đã tạo ra những "doanh nhân bất đắc dĩ"

khi giao cho Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm đại

diện vốn Nhà nƣớc tại DN. Đó là những quan chức, những chính khách không thể

đủ điều kiện để trở thành doanh nhân ít nhất là về mặt thời gian.

Thứ tƣ, do có những "doanh nhân bất đắc dĩ" là các quan chức, công tác

kiểm tra, thanh tra đối với các DNNN mà họ làm "đại diện chủ sở hữu" hầu nhƣ

không có kết quả. Việc rất nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với

Vinashin, Vinalies nhƣng không phát hiện ra điều gì lớn là bằng chứng cụ thể và

sinh động.

Mô hình này khá phổ biến ở nhiều nƣớc, chủ yếu là những nƣớc thuộc hệ

thống xã hội chủ nghĩa trƣớc đây và một số nƣớc nhƣ Thụy Điển, Phần Lan... Việt

Nam hiện nay cũng đang áp dụng mô hình này. Đặc điểm của mô hình này là các cơ

quan quản lý nhà nƣớc đƣợc phân công, phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu

đối với doanh nghiệp nhà nƣớc gồm cả cơ quan lập pháp (Quốc hội) cơ quan hành

pháp (Chính phủ). Tuy nhiên ở mỗi nƣớc chức năng của mỗi cơ quan khác nhau. Ở

một số nƣớc Quốc hội quyết định thành lập, quy định tỷ lệ vốn nhà nƣớc trong

doanh nghiệp giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Nhƣng phần lớn các nƣớc

Quốc hội chỉ giữ vai trò giám sát. Cơ quan hành pháp phân công, phân cấp thực

hiện các quyền của chủ sở hữu. Mỗi cơ quan có thể thực hiện một số quyền chủ sở

hữu đối với một doanh nghiệp nhƣ Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập

doanh nghiệp, bổ nhiệm ngƣời quản lý, điều hành doanh nghiệp; bộ Tài chính cấp

vốn, giấm sát về tài chính đối với doanh nghiệp; bộ quản lý ngành quyết định ngành

nghề kinh doanh, giám sát thực hiện hoạt động của doanh nghiệp. Cũng có thể một

cơ quan thực hiện toàn bộ các quyền của chủ sở hữu (bộ chủ quản).

Ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý

20

vốn và tài sản nhà nƣớc tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực

thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về tài chính đối với doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà

nƣớc đã đầu tƣ vào doanh nghiệp.

Dƣới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng

có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh

nghiệp quản lý trực tiếp các doanh nghiệp nhà nƣớc trung ƣơng. Các doanh nghiệp

nhà nƣớc địa phƣơng chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp

thuộc Sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố (Vũ Xuân Tiền, 2014).

1.2.1.2. Mô hình quản lý vốn tập trung

Mô hình quản lý tập trung là mô hình giao trách nhiệm đại diện quản lý vốn

nhà nƣớc tại doanh nghiệp về một cơ quan của Chính phủ.

Tổ chức này thực hiện các chức năng của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp

đƣợc giao quản lý, bao gồm cả doanh nghiệp có100% vốn nhà nƣớc và doanh

nghiệp có một phần vốn nhà nƣớc. Đối với doanh nghiệp có 100% vốn nhà nƣớc tổ

chức này là chủ sở hữu, có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu theo pháp luật quy

định. Đối với doanh nghiệp có một phần vốn nhà nƣớc tổ chức này là cổ đông,

ngƣời góp vốn, thực hiện các quyền của cổ đông, ngƣời góp vốn theo quy định của

pháp luật và điều lệ doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, ngày 20/6/2005 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định

số 151/2005/QĐ-TTg thành lập SCIC và Quyết định số 152/2005/QĐ-TTg về phê

duyệt điều lệ và tổ chức hoạt động của SCIC. Theo đó, SCIC là một tổ chức tài

chính đặc biệt của Nhà nƣớc, đƣợc thành lập để quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn

Nhà nƣớc tại doanh nghiệp và thực hiện chức năng đại diện chru sở hữu vốn Nhà

nƣớc tại doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của nhà nƣớc.

1.2.2. Yêu cầu hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

Đứng ở giác độ Nhà nƣớc, hội nhập là khai thác các khả năng của đối tác

21

nhằm tạo điều kiện để phát triển kinh tế của nƣớc mình; ở giác độ doanh nghiệp,

thông qua hội nhập quốc tế mà có thêm thị trƣờng để tiêu thụ sản phẩm, để tiếp thu

công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý khoa học của các đối tác

kinh doanh; ở giác độ ngƣời tiêu dùng, nhờ có hội nhập mà họ đƣợc đáp ứng tiêu

dùng tốt hơn, hàng hoá ngày càng đẹp hơn, chất lƣợng tốt hơn và giá rẻ hơn.

Quá trình hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực phải thoả mãn các nguyên

tắc sau:

- Công bằng, tức là không phân biệt đối xử giữa các nƣớc thành viên theo

quy chế tối huệ quốc (MFN). Nếu thành viên A đƣợc hƣởng các ƣu đãi này thì các

thành viên B, C, D… cũng đƣợc hƣởng những ƣu đãi đó nếu họ đều nằm trong tổ

chức thƣơng mại thế giới (WTO). Ngoài ra, cần phải đối xử công bằng giữa hàng

hoá sản xuất trong nƣớc với hàng nhập khẩu (đối xử quốc gia - National treatment)

- Tự do hoá liên tục, tức là mỗi nƣớc chỉ đƣợc sử dụng công cụ bảo hộ chủ

yếu cho sản xuất trong nƣớc của mình là thuế, mà thuế cũng phải giảm dần. Còn các

biện pháp phi thuế nhƣ giấy phép, quota,… đều không đƣợc sử dụng.Bên cạnh đó,

vấn đề tự do hoá phải đƣợc tiến hành một cách liên tục, tức là mức thuế chỉ có giảm

mà không có tăng.

- Minh bạch, tức là hệ thống luật pháp phải rõ ràng, các chính sách liên

quan đến thƣơng mại phải đƣợc công khai hoá cho mọi ngƣời đều biết, luật lệ làm

ăn phải phù hợp với thông lệ quốc tế,…

- Có đi có lại, bình đẳng và có đi có lại là thông lệ chung trong quan hệ

kinh tế quốc tế đã có từ lâu, nhƣng điều đáng nói ở đây là quyền đƣợc “tự vệ”, đƣợc

“trả đũa” của một nƣớc khi nƣớc đó bị hàng nhập khẩu của một nƣớc khác đe doạ

thái quá hoặc bị các biện pháp phân biệt đối xử gây tổn hại.

Nhƣ vậy, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hƣớng tất

yếu. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều không thể là ngƣời đứng

ngoài cuộc. Trong đó, hơn ai hết, doanh nghiệp mà đứng đầu là các DNNN chính là

chủ thể để thực hiện quá trình hội nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt

22

góp phần quyết định sự thành công của quá trình này (Hoàng Thị Chỉnh, 2010).

Vì vậy, mô hình quản lý vốn nhà nƣớc cũng cần phải hoàn thiện hơn để phù

hợp với quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Qua nghiên cứu các bài

viết về kinh nghiệm quốc tế cũng nhƣ các bài viết của các học giả về mô hình quản

lý vốn nhà nƣớc, thì Việt Nam cần thực hiện một số việc sau đây để dần hoàn thiện

mô hình quản lý vốn nhà nƣớc:

1.2.2.1. Từ bỏ mô hình quản lý phân tán hướng tới mô hình quản lý tập trung

Qua ngiên cứu kinh nghiệm quốc tế, có thể thấy phƣơng thức quản lý vốn

nhà nƣớc ở Việt Nam giao cho một cơ quan do Chính phủ thành lập đại diện chủ sở

hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp là đúng hƣớng, phù hợp với xu thế về quản

lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp trên thế giới. Việc xoá bỏ sự can thiệp của cơ

quan hành chính vào hoạt động doanh nghiệp là phù hợp với các cam kết hội nhập

khi Việt Nam tham gia các tổ chức thƣơng mại quốc tế, nhằm tập trung việc quản lý

và kinh doanh vốn nhà nƣớc và tạo ra tổ chức tài chính tầm quốc gia, có năng lực

cạnh tranh quốc tế nhƣ nhiều nƣớc đã làm thời gian qua.

1.2.2.2. Cần tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý của chủ

sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước

Từ 1/7/2010, toàn bộ các DNNN Việt Nam phải chuyển thành công ty cổ

phần, công ty TNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. DNNN phải cạnh tranh

bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi chủ sở hữu nhà nƣớc phải

hoạt động nhƣ những chủ sở hữu đích thực và chuyên nghiệp tƣơng tự nhƣ các chủ

sở hữu khác, tạo điều kiện cho DNNN hoạt động một cách tự chủ theo quy định của

pháp luật, có hiệu quả cao và phù hợp với các yêu cầu của các cam kết hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam trong đó có các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thƣơng

mại thế giới (WTO).

Hơn nữa, nhiều đối tác quốc tế vẫn chƣa công nhận Việt Nam có nền kinh tế

thị trƣờng đầy đủ. Một trong những lý do đó là vấn đề liên quan đến khu vực

DNNN. Mặc dù đã có những bƣớc cải cách, đổi mới không ngừng về khung pháp lý

23

và cơ chế, chính sách đối với các DNNN trong nhiều năm qua và điều chỉnh vai trò

của Nhà nƣớc trong nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các cơ quan quản l‎ý nhà nƣớc

Việt Nam (Chính phủ, các bộ, UBND cấp tỉnh) vẫn đồng thời làm đại diện chủ sở

hữu DNNN. Điều này dẫn đến lẫn lộn giữa vai trò quản lý hành chính với vai trò

chủ sở hữu của nhiều cơ quan nhà nƣớc. Hậu quả là quản lý nhà nƣớc đối với

DNNN bị méo mó, tạo ra sự phân biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài

nhà nƣớc. Bộ máy và cán bộ quản lý nhà nƣớc không chuyên nghiệp, vừa không

đáp ứng mục tiêu thiết lập một nền hành chính chuyên nghiệp, vừa không hiệu quả

trong quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh của DNNN.

Với cơ chế hiện nay, chƣa cho thấy sự phân biệt và làm rõ đâu là quyền hạn của

cơ quan quản lý nhà nƣớc, đâu là quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Từ khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, bắt đầu xuất hiện

ngày càng nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp này,

đƣơng nhiên các cơ quan nhà nƣớc chỉ quản lý về mặt hành chính nhà nƣớc, trong

khi đó, với tƣ cách chủ quản, vẫn quản lý hoạt động kinh doanh đối với các doanh

nghiệp nhà nƣớc trực thuộc. Hệ quả khó tránh là xuất hiện tình trạng phân biệt đối

xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trƣờng và hội

nhập quốc tế, chức năng quản lý nhà nƣớc và quản lý kinh doanh ngày càng trở nên

phức tạp, đòi hỏi các cơ quan quản lý phải chuyên nghiệp hơn. Do đó, việc tách

chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nƣớc với chức năng quản lý hành chính

nhà nƣớc nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng và thực hiện cam kết WTO là

thực sự cần thiết đối với Việt Nam (Thời báo kinh tế Sài Gòn, 2012).

1.2.2.3. Xóa bỏ sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của

doanh nghiệp.

Hiện nay cơ chế quản lý của chủ quản đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam

đã có sự đổi mới và trên thực tế đạt đƣợc một số kết quả nhất định, góp phần nâng

cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Tuy nhiên, với yêu cầu của sự nghiệp đổ mới, cơ

24

chế quản lý của chủ sở hữu hiện nay đối với doanh nghiệp ở các Bộ, các tỉnh, vẫn

còn nhiều hạn chế, đặc biệt cơ chế chủ quản đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của

các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào các quyết định

của chủ sở hữu, nhất là những quy định quản lý hành chính phiền hà, chậm trễ vừa làm

mất thời cơ vừa làm chậm thời gian gia nhập thị trƣờng của doanh nghiệp. Điều đó hạn

chế tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám chịu rủi

ro và dám mạo hiểm của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh và hội nhập kinh tế

thế giới. Hơn thế nữa, nó còn là mảnh đất sản sinh ra tệ nạn tham nhũng và nạn tiêu cực

mà biểu hiện rõ nét là thông qua cơ chế “xin - cho”, cơ chế điều hành trực tiếp đối với

các doanh nghiệp. Vấn đề này đã đƣợc Nghị quyết của Đại hội Đảng X đề cập, phân

tích hậu quả của việc tồn tại cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp và nêu lên quan

điểm phải tiếp tục xóa bỏ đƣợc cơ chế này và phân biệt rạch ròi giữa quản lý nhà nƣớc

và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Không những thế, cơ chế quản lý này còn làm nảy sinh tƣ tƣởng cho doanh

nghiệp vừa ỷ lại, dựa dẫm, vừa phụ thuộc vào cơ quan chủ quản. Cơ quan chủ quản

lại bị ảnh hƣởng bởi tác phong quan liêu, cửa quyền do cơ chế này đem lại. Điều

này vô hình chung làm sa sút năng lực, phẩm chất của bộ phận cán bộ của doanh

nghiệp và cán bộ của các cơ quan chủ quản. Vì lợi ích của ngành mình, tỉnh mình

làm cho các cơ quan chủ quản có nhiều lúc thiếu khách quan trong việc tổ chức,

thực hiện và ban hành các quyết định có liên quan về cơ chế, chính sách, pháp luật

đối với doanh nghiệp trực thuộc.

Hiện nay nền kinh tế nƣớc ta đang chuyển vào chiều sâu, chiều rộng của quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, thế nhƣng hàng

ngày có biết bao nhiêu công việc trƣớc, trong và sau khi kinh doanh của doanh

nghiệp bắt buộc phải có phê duyệt, quyết định của cơ quan chủ quản và làm cho các

cơ quan này phải hao tổn vào những công việc có tính chất hành chính, sự vụn vặt

làm cho thời gian dành vào việc thực hiện các chức năng quản lý còn hạn chế, đặc

biệt là chức năng tổ chức, xây dựng, hƣớng dẫn thực hiện chiến lƣợc, chính sách, pháp

25

luật để tạo môi trƣờng cho doanh nghiệp còn rất hạn chế (Nguyễn Thế Tràm, 2014).

1.2.2.4. Công khai, minh bạch hóa tối đa các hoạt động của doanh nghiệp

Đây đƣợc xem là một cơ hội quan trọng nhằm tăng cƣờng sự minh bạch về

tình hình hoạt động và tài chính của DNNN, khối doanh nghiệp đang chiếm tới 1/3

GDP của VN.

Trong những năm gần đây, VN đã đạt đƣợc nhiều tiến triển trong việc cung

cấp thông tin đƣợc công khai và trực tuyến. Một ấn phẩm gần đây của Tổ chức

Arachnys Open Data Compass cho thấy VN đã là “một trong những nƣớc đi đầu

trong khu vực”, xếp thứ hai trong nhóm các quốc gia ASEAN xét về mức độ sẵn có

của thông tin về doanh nghiệp trên mạng.

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc công khai thông tin của

DNNN, cùng với các cuộc cải cách khác, có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động của các doanh nghiệp này. Công khai thông tin, bao gồm thông tin tài chính và

phi tài chính, và có thể là công khai nội bộ hay bên ngoài (công bố ra công chúng).

Tuy nhiên nhìn chung thông tin công bố của phần lớn DNNN là chƣa đầy đủ

về chất lƣợng, thiếu độ chính xác và tính kịp thời, nên khả năng giám sát của các cơ

quan chính phủ đối với hoạt động của DNNN còn nhiều hạn chế. Nghị định 61

(tháng 6-2013) là một bƣớc tiến trong việc công khai thông tin, nhƣng vẫn còn

nhiều việc phải làm.

Các quy định hiện nay chƣa đủ để đƣa ra một khung pháp lý hiệu quả trong

việc công bố thông tin. Đã có một số quy định về nghĩa vụ công khai thông tin tài

chính và phi tài chính của DNNN, nhƣng hƣớng dẫn còn chƣa đồng bộ và khó thực

hiện. Cũng còn nhiều vấn đề về việc thực thi, giám sát và mức độ chi tiết của yêu

cầu, vì vậy trong thực tế nhiều DNNN công khai thông tin chủ yếu trên cơ sở tự giác.

Trong năm 2013, qua tìm kiếm trên mạng thấy 89 DNNN của VN có trang

web, trong đó có 11 tập đoàn và 12 tổng công ty. Mặc dù đã có nhiều DNNN công

26

khai thông tin hữu ích, song vẫn còn phải cải thiện chất lƣợng thông tin.

Chúng tôi thấy chỉ có 9% cung cấp thông tin tài chính tổng hợp và chỉ 16%

công bố báo cáo thƣờng niên, báo cáo tài chính hoặc báo cáo kiểm toán. Kết quả

nghiên cứu cho thấy dù có thể trên mạng không có thông tin nhƣng các DNNN đều

có thông tin cho mục đích nội bộ. Những thông tin này cần đƣợc chia sẻ rộng rãi, và

hơn thế nữa phải cải thiện chất lƣợng thông tin để phục vụ mục đích giám sát và

đánh giá. Năm nay chúng tôi dự định thực hiện hoạt động này một lần nữa để xem

tình hình có đƣợc cải thiện không.

Một nghiên cứu do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ƣơng (CIEM)

thực hiện năm 2010, trong đó cho thấy gần nhƣ tất cả DNNN cung cấp báo cáo cho

các bộ và cơ quan chủ quản, nhƣng chỉ có 7% DNNN công khai lƣu hành các báo cáo

và chỉ 9% trong số 290 DNNN đƣợc nghiên cứu - sử dụng truyền thông đại chúng.

Điều thú vị là các DNNN cổ phần hóa công khai nhiều hơn với 32% sử dụng

phƣơng tiện truyền thông đại chúng vào thời điểm nghiên cứu.

Điều này cho thấy DNNN cổ phần hóa công bố thông tin nhiều hơn, dù gần

đây quá trình thoái vốn nhà nƣớc đã chậm hơn dự kiến. Những DNNN đã cổ phần

hóa nhƣ Vinamilk, Tập đoàn Bảo Việt, Ngân hàng Công thƣơng, Vinaconex... là

những ví dụ cho thấy có sự minh bạch hơn nhiều trong việc công bố thông tin từ sau

cổ phần hóa.

Thực hiện việc công khai minh bạch hóa tình hình tài chính của doanh

nghiệp do nhà nƣớc làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nhằm tăng

tính trách nhiệm của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp do nhà nƣớc là chủ sở

hữu nói riêng; đánh giá đúng thực trạng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, kịp

thời giúp doanh nghiệp khắc phục tồn tại, hoàn thành mục tiêu, kế hoạch kinh

doanh, nhiệm vụ công ích, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khả năng

cạnh tranh.

Ngoài ra, đây cũng là quy định góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh

nghiệp trong việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quản lý và sử dụng

27

vốn, tài sản nhà nƣớc. Giúp nhà nƣớc, chủ sở hữu vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp

khác, cơ quan quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp kịp thời phát hiện các

yếu kém trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để có cảnh báo và

đề ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời.

1.2.2.5. Dần xóa bỏ các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào

Việt Nam

Việc tiếp tục hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh là điều mà cộng đồng

DN trong và ngoài nƣớc mong muốn. Trong đó, việc giải quyết chính xác và

nhanh chóng thủ tục hành chính đăng ký thành lập và thay đổi nội dung đăng ký

kinh doanh là điều mà Việt Nam cần ƣu tiên hàng đầu trong quá trình cải thiện

môi trƣờng đầu tƣ của mình, nhất là trong bối cảnh hội nhập ngày một sâu rộng

hiện nay.

Đối với vấn đề phân biệt đối xử giữa các DN có nguồn vốn đầu tƣ trong và

ngoài nƣớc, hƣớng sửa đổi đƣợc đề nghị là cần bỏ những quy định tạo nên sự phân

biệt về thủ tục thực hiện giữa DN có hay không có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, vốn đầu

tƣ nƣớc ngoài chiếm dƣới hay từ 51% vốn điều lệ của DN. Tiến đến xóa bỏ sự phân

biệt giữa DN Việt Nam, DN liên doanh, DN 100% vốn đầu tƣ trong nƣớc, DN có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài…, mà chỉ còn một thuật ngữ DN Việt Nam thành lập và hoạt

động tuân thủ theo pháp luật Việt Nam.

Theo đánh giá của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),

việc dần dần xóa bỏ những rào cản và những phân biệt đối xử trong chính sách giữa

các thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc sẽ tạo lập một môi

trƣờng cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, phù hợp với các quy luật của kinh tế thị

trƣờng, thông lệ quốc tế, tăng sức cạnh tranh của DN và đáp ứng các yêu cầu của

hội nhập kinh tế quốc tế.

1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp Việt Nam

28

1.3.1. Nhân tố kinh tế

Các nhân tố về kinh tế thể hiện các đặc trƣng cơ bản của hệ thống kinh tế mà

trong đó doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nói riêng tiến

hành hoạt động kinh doanh. Môi trƣờng kinh doanh với các yếu tố nhƣ: tăng trƣởng

kinh tế, chu kỳ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, tình trạng lạm phát, tỷ lệ lãi

suất, tỷ giá hối đoái...có tác động lớn đến các quyết định kinh doanh (quản lý vốn)

cũng nhƣ kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Chu kỳ phát triển của nền kinh tế tác động mạnh mẽ đến việc quản lý vốn.

Khi nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trƣởng cao thì nhu cầu đầu tƣ của xã hội

tăng mạnh, nhà quản trị vốn lúc này phải nắm bắt đƣợc cơ hội để đầu tƣ vốn mở

rộng sản xuất kinh doanh doanh, từ đó tạo ra đƣợc nhiều lợi nhuận. Ngƣợc lại, khi

nền kinh tế lâm vào suy thoái hay khủng hoảng, cơ hội kinh doanh bị thu hẹp, việc

huy động vốn cũng trở nên khó khăn, những quyết định quản lý vốn của nhà quản

trị doanh nghiệp phải thích ứng với tình hình kinh tế để bảo toàn vốn.

1.3.2. Nhân tố chính trị- pháp lý

Môi trƣờng pháp lý chính là hệ thống các chủ trƣơng, chính sách, hệ thống

pháp luật tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu

tƣ nhà nƣớc.

Hệ thống pháp luật quy định rõ ràng về lĩnh vực hoạt động của từng loại hình

doanh nghiệp, những lĩnh vực đƣợc Nhà nƣớc khuyến khích hay hạn chế hoạt động,

quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng đƣợc pháp luật quy định cụ thể. Các

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc là công cụ để qua đó Nhà nƣớc thực hiện mục

tiêu kinh tế- chính trị- xã hội nên hệ thống pháp luật quy định đối với doanh nghiệp

có vốn nhà nƣớc cụ thể, nhƣ: quy định về tỷ lệ sở hữu tối thiểu cần thiết của vốn

nhà nƣớc tại các doanh nghiệp hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt,...Tuy

nhiên các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc nói riêng là một thực thể của nền

kinh tế, do đó nó phải vận hành trong môi trƣờng pháp lý chung và bình đẳng với

mọi thành phần kinh tế khác. Môi trƣờng pháp lý này thuận lợi sẽ tạo đƣợc hậu

29

thuẫn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh khả năng nâng cao lợi nhuận,

góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc. Trái lại, nếu môi trƣờng pháp

lý không thuận lợi hay chậm trễ so với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp sẽ khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, do đó việc quản lý vốn cũng nhƣ

hiệu quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc cũng sẽ bị hạn chế.

Chính sách lãi suất: Lãi suất là một công cụ để Nhà nƣớc điều tiết lƣợng

cung cầu tiền tệ, nó ảnh hƣởng trực tiếp đến việc quản lý vốn và hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc đặc biệt chịu

ảnh hƣởng trực tiếp từ chính sách lãi suất của Nhà nƣớc. Khi lãi suất tăng làm chi

phí vốn tăng, với mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn nhà nƣớc, nhiệm vụ của quản

lý vốn nhà nƣớc là xây dựng cơ cấu vốn hợp lý. Mặt khác, với chính sách lãi suất ƣu

đãi khi đầu tƣ vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của xã hội, các doanh nghiệp có

vốn nhà nƣớc có điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chính trị- xã hội mà Chính phủ giao.

Chính sách thuế: Thuế là công cụ quan trọng của Nhà nƣớc để điều tiết kinh tế

nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Chính sách thuế hấp

dẫn là động lực để các doanh nghiệp mở rộng đầu tƣ, phát triển sản xuất kinh doanh.

Sự ổn định về chính trị, nhất quán trong chủ trƣơng đƣờng lối của Nhà nƣớc

là nhân tố quan trọng trong việc quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Chủ

trƣơng đƣờng đối của Nhà nƣớc ta hiện nay là thành phần kinh tế nhà nƣớc giữ vai

trò chủ đạo sẽ chi phối các quyết định quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.

1.3.3. Hệ thống quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của nhà nƣớc

đƣợc thông qua các cơ quan, tổ chức và cán bộ đại diện chủ sở hữu Nhà nƣớc thực

hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của chủ sở hữu đối với vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp.

Trên thế giới, để thực hiện các quyền của mình đối với doanh nghiệp có phần

vốn nhà nƣớc, các Nhà nƣớc có thể giao cho một hoặc một số cơ quan làm đại diện

chủ sở hữu và quản lý thông qua việc quyết định những vấn đề quan trọng nhƣ đầu

tƣ, tài chính, bổ nhiệm các chức danh quản lý trong các doanh nghiệp có vốn nhà 30

nƣớc,..Tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, các cơ quan đƣợc giao

trách nhiệm này có thể là cơ quan hành chính nhà nƣớc, tổ chức/cơ quan khác hoặc

một công ty. Việc lựa chọn hệ thống quản lý vốn nhà nƣớc (cơ quan hành chính nhà

nƣớc hoặc công ty đầu tƣ vốn) là yếu tố quyết định đến phƣơng thức quản lý vốn

nhà nƣớc.

Ở Việt Nam, giai đoạn trƣớc năm 2006, quản lý vốn nhà nƣớc thông qua hệ

thống các cơ quan hành chính là Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, do đó cơ chế

quản lý vốn nhà nƣớc sẽ thực hiện đồng thời 3 chức năng: quản lý nhà nƣớc về kinh

tế, chủ quản cấp trên đối với doanh nghiệp và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc còn nhiều đầu mối nhƣ giai đoạn

này, hiệu quả sử dụng vốn nhà nƣớc không cao. Theo Tiến sỹ Trần Tiến Cƣờng-

Trƣởng Ban Nghiên cứu chính sách phát triển doanh nghiệp, Viện nghiên cứu quản

lý kinh tế trung ƣơng thì thực trạng sử dụng vốn nhà nƣớc giai đoạn qua chƣa hiệu

quả là do bộ máy quản lý nhà nƣớc đồng thời là bộ máy thực hiện quyền sở hữu nhà

nƣớc. Cùng một lức có nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng chủ sở

hữu nhà nƣớc và đều đƣợc coi là chủ sở hữu nhà nƣớc. Hệ quả là không rõ cơ quan

nào đại diện chính; có sự “lấn sân” từ quản lý nhà nƣớc sang quản lý của chủ sở hữu

nhà nƣớc và ngƣợc lại. Bộ máy và cán bộ quản lý không chuyên nghiệp và chuyên

tâm vào một mục đích nhất quán giữa công việc hành chính và kinh doanh, sinh lời

của doanh nghiệp. Việc quản lý chồng chế cũng dẫn đến khó phân xử trách nhiệm

đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Giai đoạn từ 2006 đến nay, Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà

nƣớc đƣợc thành lập và hoạt động nhƣ một đầu mối đầu tƣ vốn nhà nƣớc vào doanh

nghiệp và thực hiện thống nhất, có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà

nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp. Theo đó, phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc của

Chính phủ Việt Nam đƣợc thay đổi căn bản: tách quản lý hành chính ra khỏi quản

lý kinh doanh. Nhà nƣớc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp

mà quản lý thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp, thông qua ngƣời

31

đại diện tham gia quản trị doanh nghiệp theo đúng luật doanh nghiệp và các quy tắc

của thị trƣờng. TS Vũ Thành Anh, Phó Giám đốc phụ trách nghiên cứu Chƣơng

trình dạy Kinh tế Fullbright (thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng: “Phải tách quản lý

hành chính nhà nƣớc ra khỏi quản lý kinh doanh doanh nghiệp. Các quyết định kinh

doanh phải do những ngƣời kinh doanh đƣa ra.”.

1.3.4. Nhân tố khoa học- công nghệ và con người

Con ngƣời- nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quản lý

vốn nhà nƣớc. Cán bộ chuyên nghiệp, đƣợc đào tạo trang bị kiến thức và có kinh

nghiệm về quản trị doanh nghiệp, đầu tƣ vốn sẽ đƣa ra những quyết định đúng đắn

về quản lý vốn. Ngƣợc lại, nhân lực kém, không đƣợc đào tạo chuyên sâu sẽ ảnh

hƣởng trực tiếp đến việc ra quyết định quản lý vốn, đem lại những bất lợi cho hiệu

quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc. Thực tế ở Việt Nam luôn cho thấy nguồn nhân lực

đóng vai trò quan trọng và là vấn đề đặt ra cần giải quyết. Giai đoạn trƣớc năm

2006, nguồn nhân lực quản lý vốn nhà nƣớc là những cán bộ của các cơ quan hành

chính, vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nƣớc, vừa thực hiện nhiệm

vụ đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, không

đƣợc đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu nên hiệu quả quản lý vốn nhà nƣớc giai đoạn

này thấp.

Khoa học- công nghệ là nhân tố hỗ trợ cho hoạt động quản lý vốn. Áp dụng

tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động quản lý mang lại năng suất cao, góp phần

nâng cao hiệu quả vốn đầu tƣ.

1.3.5. Các cam kết hội nhập khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại Quốc tế

Trong quá trình gia nhập WTO, các Thành viên của Ban công tácWTO đã

tập trung nhiều chú ý vào sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp do Nhà

nƣớc sở hữu hoặc kiểm soát tại Việt Nam. Các Thành viên đã đề nghị Việt Nam

cung cấp thông tin về các văn bản pháp luật liên quan cũng nhƣ hoạt động thực tiễn

của các doanh nghiệp này và vai trò của chúng trong nền kinh tế quốc dân.

WTO không có các quy tắc về sở hữu trong các đơn vị kinh doanh. WTO

không ngăn cản các Thành viên thành lập và phát triển các doanh nghiệp do Nhà 32

nƣớc sở hữu (SOEs), tuy nhiên WTO có các điều kiện cụ thể đối với các hoạt động

xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc (STEs). Cụ thể, Điều

XVII của Hiệp định GATT 1994 đề ra hai điều kiện cơ bản cho hoạt động của các

doanh nghiệp này (i) tất cả các hoạt động mua bán chỉ thực hiện theo các căn cứ

thương mại, phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử chung; và (ii) các hoạt

động xuất nhập khẩu phải minh bạch.

Các Thành viên WTO rất quan tâm tới hoạt động của các doanh nghiệp do

Nhà nƣớc sở hữu nói chung và các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng vì

hai lý do chính. Thứ nhất, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền

kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế định hƣớng thị trƣờng và trong quá

trình này, nhƣ một số Thành viên đã nêu lên, Việt Nam tiếp tục dành một số ƣu đãi

cụ thể cho các doanh nghiệp nhà nƣớc. Thứ hai, theo cách hiểu của một số Thành

viên WTO thì các doanh nghiệp nhà nƣớc tại Việt Nam không chỉ chiếm số lƣợng

lớn, tỷ trọng đóng góp vào GDP cao cũng nhƣ có tổng số vốn rất lớn mà còn có

nhiều lợi thế về năng lực sản xuất, cung cấp dịch vụ vụ và xuất nhập khẩu một số

mặt hàng chủ chốt (gồm xăng dầu, khoáng sản, dịch vụ viễn thông, ngân hàng và bảo

hiểm, v.v…). Các Thành viên WTO thể hiện lo ngại về khả năng Chính phủ sẽ can

thiệp vào thị trƣờng thông qua các doanh nghiệp nhà nƣớc, do đó có thể bóp méo thị

trƣờng và thậm chí vô hiệu hóa các cam kết về mở cửa thị trƣờng của Việt Nam. Đây

chính là lý do tại sao các Thành viên WTO yêu cầu Việt Nam đƣa ra các cam kết toàn

diện về doanh nghiệp nhà nƣớc, kể cả doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc.

Trƣớc lo ngại của các Thành viên, đại diện của Việt Nam thông báo rằng các

cơ quan quản lý của Việt Nam đã công bố, minh bạch hóa đầy đủ các thông tin về

chính sách và khuôn khổ pháp luật chung liên quan tới việc thành lập, tổ chức và

quản lý hoạt động của các doanh nghiệp nhà nƣớc nói chung và các doanh nghiệp

thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng. Việt Nam cũng xác nhận rằng Việt Nam đang thực

hiện một chính sách dài hạn, nhất quán về nền kinh tế đa thành phần trong đó cả

khu vực nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân, bao gồm cả các nhà đầu tƣ trong và ngoài

33

nƣớc, đƣợc khuyến khích tham gia cạnh tranh bình đẳng. Việt Nam đã xác nhận

rằng khu vực tƣ nhân, kể cả ngƣời nƣớc ngoài, đƣợc phép cung cấp sản phẩm và

dịch vụ cho các doanh nghiệp nhà nƣớc thông qua thông qua đấu thầu hoặc thông

qua đơn hàng của Nhà nƣớc hay phân bổ định hƣớng (trừ các sản phẩm và dịch vụ

công liên quan tới quốc phòng và an ninh quốc gia).

Cải cách, sắp xếp lại và cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp

nhà nƣớc nói chung và các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng là một

chính sách nhất quán, một bộ phận của tiến trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam

trong vòng 20 năm qua. Chính sách này đã đƣợc khẳng định trong nhiều kế hoạch

hành động của Chính phủ nhƣ một giải pháp để xây dựng và phát triển kinh tế thị

trƣờng tại Việt Nam.

Trong bối cảnh đó và ngay cả khi không có các cam kết gia nhập WTO liên

quan tới vấn đề này thì vẫn có thể xác nhận rằng việc thực thi các cam kết nói trên

là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà Việt Nam quyết tâm hoàn thành để đổi mới

và tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nƣớc và đảm bảo các doanh

nghiệp này có năng lực để vận hành hiệu quả trong một môi trƣờng khá cạnh tranh.

Do đó cần cải tiến cơ chế quản lý để đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà

nƣớc hoạt động theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trƣờng và Nhà nƣớc sẽ

không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quyết định thƣơng mại của những

doanh nghiệp này. Cụ thể, có thể xem xét các biện pháp sau đây: (i) điều chỉnh các

điều khoản tƣơng ứng về quyền đƣa ra quyết định của Nhà nƣớc liên quan tới các

dự án đầu tƣ, mua bán, thanh khoản, chuyển giao tài sản, tiêu dùng của các doanh

nghiệp nhà nƣớc thông qua việc dành các quyền này cho các doanh nghiệp; và (ii)

Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân các tỉnh sẽ không trực tiếp thực thi

quyền sở hữu mà sẽ chuyển quyền này cho Tổng Công ty Kinh doanh và Quản lý

vốn nhà nƣớc và các tập đoàn khác; hoặc trong trƣờng hợp không thực hiện đƣợc

việc này, Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân các tỉnh nên thực thi các

quyền này theo cách giống nhƣ các cổ đông của doanh nghiệp (Trần Hữu Bƣu và

34

cộng sự, 2008).

CHƢƠNG 2

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

2.1. Phƣơng pháp thu th p tài liệu

Để thực hiện đề tài, tác giả đã tìm hiểu, thu thập các nguồn tài liệu khác nhau

từ các đề tài nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc ở một số nƣớc, văn bản

pháp luật của Nhà nƣớc liên quan tới quản lý sử dụng vốn, tài sản của Nhà nƣớc và

văn bản quy phạm quy định cho SCIC và các báo cáo hàng năm của SCIC.

2.1.1. Nguồn tài liệu sơ cấp

Tài liệu sơ cấp là loại tài liệu mà nhà nghiên cứu tự thu thập, hoặc nguồn tài

liệu cơ bản, còn ít hoặc chƣa đƣợc chú giải. Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài

liệu, vì vậy cần phải điều tra để tìm và khám phá ra các nguồn tài liệu chƣa đƣợc

biết. Ngƣời nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập phƣơng pháp để ghi chép, thu

thập số liệu.

Để bổ sung thêm thông tin phân tích trong luận văn, tác giả tiến hành phỏng

vấn một số trƣởng Ban từ Ban Kế hoạch tổng hợp đến ban chuyên môn về quản lý

vốn tại doanh nghiệp: thực trạng tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc

tại doanh nghiệp về SCIC, tình hình thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp. Mọi

thông tin thu thập đƣợc đã đƣợc tác giả tổng hợp kết hợp lý luận với thực tiễn phân

tích và đánh giá.

2.1.2. Nguồn tài liệu thứ cấp

Tài liệu thứ cấp là tài liệu có nguồn gốc từ tài liệu sơ cấp đã đƣợc phân tích,

giải thích và thảo luận, diễn giải. Các nguồn tài liệu thứ cấp chủ yếu gồm: công

trình nghiên cứu, bài báo, tập san chuyên đề, tạp chí, báo cáo khoa học, sách tham

35

khảo, luận án, luân văn, thông tin thống kê, tài liệu văn thƣ, Internet...

Luận cứ khoa học, khái niệm, quy luật, định luật có thể thu thập đƣợc từ các sách

nhƣ: giáo trình pháp luật doanh nghiệp - NXB ĐHQG Hà Nội; Các chế độ mới về quản

lý tài chính doanh nghiệp nhà nƣớc - NXB Tài chính 1998 ...

Báo cáo công bố của các chuyên gia kinh tế trên internet và một số tạp chí

kinh tế tài chính, tham khảo một số luận văn Thạc sỹ của Trƣờng ĐH Kinh tế Quốc

dân về quản lý vốn nhà nƣớc của một số tác giả trong nƣớc.

Số liệu thống kê đƣợc thu thập từ các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh

các năm (2006-2015), báo cáo tài chính, báo cáo nhân sự của SCIC.

Tài liệu, hồ sơ lƣu trữ, các văn bản về luật, chính sách…thu thập từ các cơ

quan quản lý Nhà nƣớc, nhƣ: Nghị quyết Hội nghị của BCH Trung Ƣơng Đảng, đề

án tái cơ cấu SCIC của Bộ Tài chính trình TTCP.

Thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, internet…

2.1.3. Thu thập và xử lý tài liệu

Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết cho tất

cả các hoạt động nghiên cứu khoa học. Tác giả đã đọc và nghiên cứu các cơ chế,

chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến quản lý vốn của nhà nƣớc tại doanh

nghiệp một số sách, báo, luận văn thạc sỹ đã công bố, tra cứu các trang website để

làm nền tảng và tăng sự hiểu biết cho nghiên cứu khoa học của mình. Những kiến

thức thu thập đƣợc trên các trang website, các tạp chí về kinh tế... là nguồn kiến

thức quý giá đƣợc tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài.

Có hai dạng thông tin đề tài thu nhập từ nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê

gồm: thông tin định tính và thông tin định lƣợng. Do đó, đề tài có hai hƣớng xử lý

thông tin nhƣ sau: (1) Xử lý logic đối với thông tin định tính. Đây là việc đƣa ra

những phân tích về bản chất của vấn đề; và (2) Xử lý thống kê đối với các thông tin

định lƣợng.

Xử lý thông tin định tính

Quy trình thực hiện xử lý thông tin định tính của đề tài đƣợc thực hiện bắt

36

đầu từ việc thu thập thông tin đã có, nhận biết thông tin cho tƣơng lai qua các

phƣơng pháp quan sát, phỏng vấn, thảo luận, nghiên cứu tài liệu từ nhiều nguồn

khác nhau: từ các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc liên quan đến quyền

đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc, các báo cáo chuyên đề của các chuyên gia kinh

tế và các báo cáo nội bộ của SCIC... nhằm có thông tin chính xác kịp thời để có thể

xây dựng giả thuyết và chứng minh cho giả thuyết đó từ những sự kiện, thông tin

rời rạc đã thu thập đƣợc. Bƣớc tiếp theo là xử lý logic đối với các thông tin định

tính về lƣợng thông tin, độ tin cậy, tính thời sự, tính mới. Đặc biệt thông tin sử dụng

cần khách quan. Tiếp đến cần thăm dò nội dung thông tin về nguồn, lựa chọn nội

dung; mô tả tài liệu sơ cấp hay thứ cấp; Mục tiêu của thông tin đó phục vụ cấp quản

lý nào, mang tính ngắn hạn hay dài hạn... và tức là việc đƣa ra những phán đoán về

bản chất các sự kiện, đối chiếu, chọn lọc, chỉnh lý thông tintheo mục đích yêu cầu

đã xác định đồng thời thể hiện những logic của các sự kiện thông tin, các phân hệ

trong hệ thống các sự kiện đƣợc xem xét.

Xử lý thông tin định lượng

Thông tin định lƣợng thu thập đƣợc từ các tài liệu thống kê sau đó sắp xếp

chúng lại để làm bộc lộ ra các mối liên hệ và xu thế của sự việc. Các số liệu có thể

đƣợc trình bày dƣới nhiều dạngBảng số liệu; Biểu đồ;

Tóm lại, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài chủ có sử dụng xử lí thông

tin định tính là chủ yếu, xử lí thông tin định lƣợng bổ sung, hỗ trợ.

Các kết quả tác giả thu thập đƣợc từ các nguồn tài liệu sơ cấp và thứ cấp

đƣợc xử lý, phân loại và đƣợc tổng hợp sử dụng trong quá trình phân tích tài liệu về

công tác quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp của SCIC.

2.2. Phƣơng pháp xử lý tài liệu, dữ liệu

Thực hiện đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nhƣ:

(i) Sử dụng căn cứ của OECD về các hình thái quản lý vốn chủ sở hữu nhà

nƣớc, các nguyên tắc quản trị công ty.

(ii) Nghiên cứu các văn bản luật và dƣới luật quy định quyền và trách nhiệm đại

37

diện chủ sở hữu vốn NN, các văn bản luật, điều lệ liên quan đến hoạt động của

SCIC. Tìm hiểu những ràng buộc về pháp lý trong hoạt động của SCIC với các cơ

quan quản lý NN trung ƣơng và địa phƣơng.

(iii) Phƣơng pháp so sánh, cụ thể là so sánh hoạt động của SCIC với một số mô

hình đầu tƣ kinh doanh, quản lý vốn NN thành công trên thế giới, đặt trong bối cảnh

cụ thể, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong hoạt động đại diện chủ sở hữu vốn

38

NN của SCIC.

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA

TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

3.1. Tổng quan về Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc (SCIC)

3.1.1. Cơ sở pháp lý và mục tiêu thành lập SCIC

3.1.1.1. Cơ sở pháp lý

Song song với quá trình sắp xếp, đổi mới hoạt động của DNNN, ngay từ

những năm đầu cải cách, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có chủ trƣơng đổi mới chính sách

quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và phát triển mô

hình đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc để thay thế chính sách quản lý vốn nhà

nƣớc tại doanh nghiệp theo hình thức mệnh lệnh hành chính sang hình thức đầu tƣ

kinh doanh.

Hội Nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII (12/1997) đã

đề ra chủ trƣơng phải nghiên cứu để chuyển đổi phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc

tại các doanh nghiệp hiện nay sang một phƣơng thức mới, phù hợp, hiệu quả. Nghị

quyết hội nghị nêu rõ “nghiên cứu cơ chế quản lý vốn theo phương thức hành chính

sang cơ chế công ty tài chính” (BCH Trung ƣơng Đảng khóa VIII).

Nghị quyết hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX

(8/2001): “phải đẩy mạnh sắp xếp, nâng cao hiệu quả DNNN, kiên quyết chấm dứt

tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp, cụ thể vào hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản lý hành chính kinh

tế của Nhà nước và quản ý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” (BCH Trung

Ƣơng Đảng khóa IX).

Qua nghiên cứu mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại một số nƣớc có điều kiện

tƣơng đồng với Việt Nam nhƣ Trung Quốc, Singapore, Malaysia... và thực tiễn đổi

mới, sắp xếp doanh nghiệp ở Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng lựa chọn

39

chuyển đổi từ mô hình cơ quan hành chính bộ ngành sang mô hình doanh nghiệp là

đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc. Nghị quyết hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành

Trung ƣơng Đảng khóa IX đã chỉ rõ “cần khẩn trƣơng việc thành lập Công ty đầu tƣ

tài chính nhà nƣớc để làm đầu mối đầu tƣ vốn nhà nƣớc vào doanh nghiệp và thực

hiện thống nhất, có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại

doanh nghiệp” (BCH Trung Ƣơng Đảng khóa IX).

Căn cứ các cơ sở trên ngày 20/6/2005, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành

Quyết định 151/2005/QĐ-TTg và Quyết định 152/2005/QĐ-TTg về việc thành lập

và ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của SCIC. Trong đó quy định rõ: SCIC là

một tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nƣớc, hoạt động theo Luật DNNN và các luật

khác có liên quan, đƣợc thành lập để thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu, đầu tƣ và

kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp và các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế

theo quy định của pháp luật. SCIC đƣợc thành lập để đáp ứng yêu cầu khách quan

của quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà

nƣớc(DNNN). Việc ra đời của SCIC có ý nghĩa quan trọng, góp phần đổi mới

phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp từ cơ chế hành chính sang cơ

chế đầu tƣ, kinh doanh vốn mà trong đó, Nhà nƣớc đóng vai trò là cổ đông thông

qua một tổ chức kinh tế đặc biệt là SCIC.

Nguyên tắc xuyên suốt của quá trình chuyển đổi phƣơng thức quản lý vốn và

đầu tƣ vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua SCIC là Chính phủ thay mặt Nhà

nƣớc thống nhất tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối

với phần vốn của nhà nƣớc tại doanh nghiệp và quản lý việc đầu tƣ vốn nhà nƣớc

vào doanh nghiệp. Căn cứ vào yêu cầu đổi mới quản lý, trình độ và năng lực của

SCIC, Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu

vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp cho SCIC phù hợp với lộ trình sắp xếp cổ

phần hóa DNNN.

Từ năm 2006 đến nay, mặc dù còn một số tồn tại nhất định nhƣng SCIC đã

hoàn thành tốt nhiệm vụ Nhà nƣớc giao và đạt đƣợc kết quả bƣớc đầu tích cực về:

40

tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc; tái cơ cấu và bán vốn nhà nƣớc

tại DN; thực hiện đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế trên

nguyên tắc hiệu quả…Quy mô vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, các chỉ tiêu về doanh

thu, lợi nhuận của Tổng công ty đều đạt mức tăng trƣởng khá qua các năm

Sau 04 năm hoạt động, năm 2010, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt đƣợc và

những khó khăn vƣớng mắc đối với mô hình SCIC, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã

báo cáo và đƣợc Bộ Chính trị phê duyệt Đề án “Tiếp tục củng cố, phát huy vai trò

của SCIC” (Kết luận số 78-KL/TW ngày 26/7/2010). Theo đó, Bộ Chính trị đã chỉ

đạo tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trƣờng pháp lý thuận

lợi cho SCIC hoạt động có hiệu quả, làm rõ địa vị pháp lý và định hƣớng hoạt động

của SCIC.

- Ngày 15/11/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2012/NĐ-CP về

phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà

nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Về

thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh

nghiệp đƣợc phân công cho các Bộ, ngành, Địa phƣơng và SCIC (quy định tại Mục

2, Điều 4, Nghị định 99). Theo đó, Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn nhà

nƣớc là doanh nghiệp do Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập, đƣợc Nhà

nƣớc đầu tƣ vốn điều lệ và quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp do các Bộ,

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chuyển giao.

- Ngày 01/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2013/NĐ-CP

về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC. Trên cơ sở những kinh

nghiệm đúc rút qua quá trình hoạt động của SCIC, Nghị định này đã quy định các

cơ chế riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đặc thù của SCIC. Ngày

16/6/2014,Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2014/NĐ-CP về Điều lệ và tổ

chức hoạt động của SCIC. Triển khai Đề án tái cơ cấu DNNN theo Quyết định số

929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012, ngày 02/12/2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã có Quyết

41

định số 2344/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tái cơ cấu SCIC giai đoạn đến năm 2015.

Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP và Nghị định số 57/2014/NĐ-CP của

Chính phủ, chức năng, nhiệm vụ của SCIC gồm:

- Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các Công ty

cổ phần,Công ty TNHH 1 TV và 2 TV trở lên, Công ty liên doanh có vốn góp nhà

nước do các Bộ, ngành, địa phương làm đại diện chủ sở hữu; Tập đoàn kinh tế,

Tổng công ty sau cổ phần hóa theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

- Tiếp tục thực hiện các hoạt động sắp xếp, cổ phần hóa, bán vốn nhà nước

đầu tư tại doanh nghiệp được chuyển giao theo quy định hiện hành;

- Đầu tư vốn vào các tập đoàn, tổng công ty, hoặc công ty mẹ hoạt động

trong lĩnh vực, ngành nghề nhà nước nắm giữ quyền chi phối. Đầu tư vốn vào

các dự án theo chỉ định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đầu tư và kinh

doanh vốn vào ngành, lĩnh vực, dự án đem lại hiệu quả kinh tế theo quy định của

pháp luật;

- Cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư, tài chính, cổ phần hóa, quản trị doanh

nghiệp… theo quy định của pháp luật;

- Thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và Phát triển

doanh nghiệp (HTSX& PTDN) theo quy định và các nhiệm vụ khác theo quyết định

của Thủ tướng Chính phủ.

- Để tiếp tục hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh

nghiệp, Nghị quyết Hội nghị TW 6 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá XI

nêu rõ: “Nghiên cứu hình thành tổ chức thực hiện thống nhất chức năng đại diện

chủ sở hữu đối với DNNN”.

3.1.1.2. Mục tiêu thành lập SCIC

Việc thành lập SCIC là yêu cầu khách quan của quá trình sắp xếp, đổi mới,

nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và Nghị quyết của Đảng, Nhà nƣớc nhằm

42

đạt đƣợc mục tiêu cụ thể sau:

- Đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại các doanh nghiệp phù hợp

với cơ chế thị trƣờng có định hƣớng nhằm tách dần chức năng quản lý nhà nƣớc về

kinh tế và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh

cải cách hành chính trong công tác quản lý doanh nghiệp, xóa bỏ sự can thiệp hành

chính của cơ quan nhà nƣớc vào hoạt động của doanh nghiệp, giảm bớt gánh nặng

xử lý sự vụ về doanh nghiệp của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ, UBND

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.

- Từng bƣớc thực hiện việc chuyển đổi cơ chế cấp vốn trực tiếp từ NSNN

cho doanh nghiệp sang hình thức đầu tƣ vốn vào doanh nghiệp thông qua SCIC theo

nguyên tắc thị trƣờng dƣới các hình thức góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp,

tiến tới xóa bỏ việc cấp vốn trực tiếp từ NSNN đối với DNNN không cần nắm giữ

100% vốn.

- Từng bƣớc quản lý thống nhất các nguồn vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh

nghiệp: sau khi quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN hoàn thành, cùng với

việc triển khai cổ phần hóa các Tổng công ty nhà nƣớc, vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại các

doanh nghiệp sẽ đƣợc giao dần cho SCIC quản lý và thực hiện đầu tƣ, hoặc tiếp tục

cơ cấu lại vốn nhà nƣớc đầu tƣ ở các doanh nghiệp này để giảm bớt số lƣợng doanh

nghiệp mà nhà nƣớc không cần đầu tƣ vốn, nhằm tích tục, tập trung vốn để đầu tƣ

vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo định hƣớng của nhà nƣớc.

- SCIC còn là công cụ quan trọng để đẩy nhanh quá trình sắp xếp DNNN

theo định hƣớng của Nhà nƣớc và thúc đẩy thị trƣờng vốn và thị trƣờng chứng

khoán phát triển.

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ của SCIC

Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 và Nghị định số

57/2014/ NĐ-CP ngày 16/6/2014 và của Thủ tƣớng Chính phủ về chức năng nhiệm

vụ, cơ chế hoạt độngvà phê duyệt điều lệ tổ chức, hoạt động của SCIC, SCIC có các

43

chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ nhƣ sau:

3.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ

- Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại một số

đối tƣợng doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và quyết định của Thủ tƣớng

Chính phủ. Tham gia quản trị doanh nghiệp theo phƣơng thức mới, với tƣ cách là cổ

đông góp vốn, xóa bỏ sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp.

- Thực hiện cơ cấu lại vốn ở các doanh nghiệp đã tiếp nhận, đẩy nhanh việc

bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ, tỷ trọng vốn nhà nƣớc thấp,

thuộc lĩnh vực Nhà nƣớc không cần nắm giữ theo Đề án đã đƣợc Thủ tƣớng Chính

phủ phê duyệt; thực hiện tích tục, tập trung vốn nhà nƣớc để đầu tƣ vào các dự án

có hiệu quả, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

- Thực hiện đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu, then chốt mà

Nhà nƣớc cần nắm giữ, cần đầu tƣ theo định hƣớng của Chính phủ (bao gồm cả lĩnh

vực hạn tầng, kinh tế, xã hội mà các thành phần kinh tế khác không làm) để tăng

cƣờng vai trò chủ đạo, vai trò định hƣớng của nền kinh tế nhà nƣớc trong nền kinh

tế quốc dân.

- Tiếp tục phân loại, sắp xếp các doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc chuyển giao

về SCIC, thực hiện sáp nhập, giao khoán, bán, cho thuê hoặc giải thể, phá sản các

doanh nghiệp mà nhà nƣớc không cần nắm giữ, tiến hành cổ phần hóa các Công ty

TNHH nhà nƣớc 1 thành viên.

- Thực hiện quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ƣơng (nay là

Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp) theo Quyết định số 113/2008/QĐ-

TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 18/8/2008 về việc thành lập và ban hành Quy

chế quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ƣơng.

- Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nƣớc để bổ sung vốn kinh

doanh thông qua việc vay vốn, phát hành trái phiếu Công ty, trái phiếu công trình,

44

lập quỹ tín thác đầu tƣ theo quy định của pháp luật đối với công ty nhà nƣớc.

- Cung cấp các dịch vụ tài chính, các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Tƣ vấn

đầu tƣ; tƣ vấn tài chính; tƣ vấn cổ phần hóa; tƣ vấn chuyển đổi chủ sở hữu doanh

nghiệp; bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu; nhận ủy thác các nguồn vốn đầu tƣ

từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc.

- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tƣ kinh doanh vốn.

- Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.

3.1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của SCIC

SCIC có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Luật DNNN (từ 1/7/2014)

theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, ngoài ra còn cáo các quyền và

nghĩa vụ nhƣ sau:

- Đại diện chủ sở hữu vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nƣớc giao cho SCIC

quản lý và đầu tƣ.

- Đƣợc chủ động lựa chọn và quyết định lĩnh vực đầu tƣ và kinh doanh vốn

theo nguyên tắc thị trƣờng, đảm bảo hiệu quả và khả năng sinh lời trong tƣơng lai.

- Đƣợc quyền điều chỉnh tăng, giảm vốn của SCIC đã đầu tƣ tại các doanh

nghiệp theo quy định của pháp luật, điều lệ của các doanh nghiệp.

- Đƣợc quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động, thuê các chức danh quản lý

phần vốn góp của SCIC tại doanh nghiệp khác theo quy định của Điều lệ Công ty có

vốn góp và Luật doanh nghiệp.

- Đƣợc mời một số chuyên gia tƣ vấn, cố vấn trong nƣớc và nƣớc ngoài.

- Đƣợc huy động vốn để kinh doanh dƣới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ

phiếu; vay vốn của tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác theo quy định của

pháp luật và tự chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này.

- Có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nƣớc giao và chịu trách nhiệm

45

vê việc thất thoát vốn nhà nƣớc theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện báo cáo công khai, minh bạch về hoạt động kinh doanh và tài

chính của SCIC với các cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

3.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý điều hành của SCIC

Theo quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tƣớng Chính

phủ, SCIC đƣợc thành lập và tổ chức theo mô hình Tổng công ty nhà nƣớc có Hội

đồng quản trị. Từ ngày 1/7/2010, theo Quyết định số 992/QĐ-TTg ngày 30/6/2010

của Thủ tƣớng Chính phủ, SCIC chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty

KIỂM SOÁT VIÊN

HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN

BAN GIÁM ĐỐC

Văn phòng điều hành

Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 1

Ban Kế hoạch tổng hợp

Chi nhánh phía Nam

Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 2

Ban Tin học thống kê

Ban Tài chính – Kế toán

Chi nhánh miền Trung

Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 3

Ban Tổ chức cán bộ

Ban Quản lý rủi ro

Ban Quản lý vốn đầu tƣ tạiDN 4

Công ty TNHH 1TV đầu tƣ kinh doanh

Ban Pháp chế

Văn phòng đảng đoàn

TNHH nhà nƣớc một thành viên có Hội đồng thành viên.

Ban Đầu tư kinh doanh

46

Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành SCIC

3.1.4. Nguồn nhân lực

Lực lƣợng nhân sự của SCIC vào thời điểm thành lập là 30 cán bộ, trong đó

8 cán bộ, nhân viên đƣợc điều động từ các đơn vị thuộc Bộ Tài chính sang và 22

nhân viên tuyển dụng mới. Đến 30/6/2016 tổng số cán bộ, nhân viên của SCIC đã

tăng lên là 253 ngƣời.

Cán bộ của SCIC phần lớn đƣợc đào tạo cơ bản ở nƣớc ngoài hoặc từ các

trƣờng đào tạo kinh tế lớn ở trong nƣớc nhƣ Đại học Ngoại thƣơng, Học viện tài

chính, Đại học Kinh tế quốc dân... Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của SCIC chủ yếu

đƣợc điều động và tuyển dụng từ các Bộ, ngành nhƣ Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà

nƣớc; Bộ Kế hoạch và đầu tƣ... hoặc từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế lớn nhƣ:

Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam, Công ty kiểm toán Vaco; Quỹ đầu tƣ

Manulife... Các chuyên viên của SCIC đều có kiến thức cơ bản vê tài chính doanh

nghiệp, đầu tƣ tài chính và ký năng ngoại ngữ tốt.

Ngoài đội ngũ lãnh đạo chủ chốt, còn lại các cán bộ, chuyên viên trong SCIC

có tuổi đời rất trẻ, tuổi bình quân của cán bộ nhân viên SCIC là 31 tuổi. Đây là một

lợi thế của SCIC, các cán bộ trẻ có tinh thần nhiệt huyết, hăng say, cần cù, không

ngại khó và có độ nhạy bén cao trong công việc... Tuy nhiên đây cũng là một trong

những hạn chế của SCIC do các cán bộ này chƣa đủ độ “chín” trong công việc, gặp

nhiều khó khăn khi phải xử lý những công việc đòi hỏi kinh nghiệm thực tế...

3.1.5. Tài chính của SCIC

SCIC là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính thực

hiện chế độ hạch toán kế toán tập trung. Chế độ kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo

tài chính, báo cáo thống kê theo quy định hiện hành. SCIC có trách nhiệm thực hiện

các nghĩa vụ về thuế và đƣợc hƣởng các chính sách ƣu đãi về thuế theo quy định

của pháp luật.

Tính đến thời điểm 31/12/2015, tổng tài sản của SCIC là 72.92 tỷ đồng và

47

tổng nguồn vốn chủ sở hữu của SCIC là 34.755 tỷ đồng

3.2. Phân t ch về mô hình quản lý vốn của SCIC

3.2.1. Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của SCIC

3.2.1.1. Tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp

a/ Căn cứ tiếp nh n

- Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP và Nghị định số 57/2014/NĐ-CP của

Chính phủ, đối tƣợng tiếp nhận SCIC gồm: Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện

chủ sở hữu nhà nước tại các Công ty cổ phần,Công ty TNHH 1 TV và2 TV trở lên,

Công ty liên doanh có vốn góp nhà nước do các Bộ, ngành, địa phương làm đại

diện chủ sở hữu; Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty sau cổ phần hóa theo quyết định

của Thủ tướng Chính phủ;

- Thông tƣ số 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn

trình tự, thủ tục chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nƣớc về SCIC.

b/ Kết quả tiếp nh n

- Lũy kế tính đến ngày 31/12/2015, Tổng công ty đã tiếp nhận quyền đại diện

chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại 996 doanh nghiệp với tổng giá trị vốn nhà nƣớc theo sổ

sách kế toán là 9.100 tỷ đồng (SCIC, 2015). Trong đó có 936 Công ty cổ phần (bao

gồm: Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt nam (Vinaconex),

Tổng công ty cổ phần Đầu tƣ Xây dựng và Thƣơng mại (Constrexim), Tổng công ty

cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam (VEIC), Tổng công ty cổ phần Thƣơng mại

và Xây dựng (Vietracimex), Tổng công ty Đƣờng sông miền Nam) và 30 Công ty

TNHH nhà nƣớc 1 thành viên.

Các doanh nghiệp có vốn bàn giao về SCIC thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh

vực kinh doanh khác nhau, quy mô hoạt động và trình độ quản trị khác nhau. Đa số

các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn điều lệ bình quân dƣới 10 tỷ đồng (khoảng

75% doanh nghiệp đã nhận bàn giao vốn), chỉ có khoảng 5% số doanh nghiệp SCIC

48

tiếp nhận vốn có vốn trên 100 tỷ đồng. Trong đó:

- Có 38% số doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc giữ chi phối (trên 50% vốn điều

lệ). Nhiều doanh nghiệp khi cổ phần hóa thuộc diện Nhà nƣớc không cần giữ vốn

nhƣng do không bán đƣợc cổ phần nên số vốn còn lại lớn. 36% DNNN nắm giữ

dƣới 30% vốn điều lệ;

- Các doanh nghiệp có quy mô lớn trên 100 tỷ đồng đa số kinh doanh hiệu

quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ bình quân trên 12%. Tuy nhiên, các doanh

nghiệp còn lại hiệu quả chƣa cao (45% doanh nghiệp hoạt động có tỷ suất lợi nhuận

thấp hơn 1% và gần 7% doanh nghiệp đang thua lỗ) (SCIC, 2015).

Về cơ bản, việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các

doanh nghiệp thuộc Bộ, địa phƣơng trong thời gian qua đƣợc thực hiện thận trọng,

đúng pháp luật, không làm ảnh hƣởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

3.2.1.2. Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

a/ Phân loại danh mục đầu tƣ

Để thực hiện việc sắp xếp lại doanh nghiệp tại Tổng công ty, Tổng công ty

đã xây dựng cơ sở dữ liệu theo dõi toàn bộ vốn đầu tƣ tại các doanh nghiệp, phân

tích, phân loại các doanh nghiệp theo nhóm để có các biện pháp khác nhau áp

dụng đối với từng nhóm nhằm quản lý hiệu quả, khoa học phần vốn nhà nƣớc

tại doanh nghiệp.

Tính đến thời điểm 31/12/2015, sau khi đã bán vốn, danh mục đầu tƣ của

Tổng công ty (còn lại sau khi bán vốn nhà nƣớc và chuyển giao lại một số doanh

nghiệp công ích cho địa phƣơng) bao gồm 230 khoản đầu tƣ với giá trị sổ sách là

17.000 tỷ đồng. Số doanh nghiệp thuộc nhóm A (nhóm đầu tư chiến lược) chiếm

4,7% số lƣợng doanh nghiệp, chiếm 70% giá trị danh mục đầu tƣ; số doanh nghiệp

nhóm B (nhóm đầu tư linh hoạt) chiếm 22,2% số lƣợng doanh nghiệp và 19% giá trị

danh mục đầu tƣ; số doanh nghiệp nhóm C (nhóm thoái đầu tư) chiếm 73,1% số

49

lƣợng doanh nghiệp và 11% giá trị danh mục đầu tƣ (SCIC, 2015)

b/ Kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện.

- Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của Ngƣời đại diện đối với việc bảo toàn

và phát triển phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp, Tổng công ty đã đặc biệt chú

trọng công tác kiện toàn, phối hợp với Ngƣời đại diện.

- Tổng công ty đã ban hành các Quy chế liên quan đến Ngƣời đại diện vốn

của Tổng công ty tại doanh nghiệp và thƣờng xuyên sửa đổi, hoàn thiện các Quy

chế này nhằm đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật và phù hợp với đặc thù của

Tổng công ty, cụ thể Quy chế Ngƣời đại diện đƣợc ban hành lần đầu tại Quyết định

số 08 QĐ/HĐQT ngày 15/01/2007 đƣợc sửa đổi bổ sung bởi các Quyết định số

71/QĐ-HĐQT ngày 19/4/2007, Quyết định số 20/QĐ-ĐTKDV.HĐQT ngày

09/6/2009 của Hội đồng quản trị, Quyết định số 06/QĐ-ĐTKDV.HĐTV ngày

06/02/2013 và Quyết định đang có hiệu lực số 22/QĐ-ĐTKDV.HĐQT ngày

01/10/2014 ban hành Quy chế Ngƣời đại diện vốn của SCIC. Quy chế Ngƣời đại

diện đã quy định rõ tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm, chế độ đãi ngộ và quan hệ

giữa Tổng công ty và Ngƣời đại diện; thay thế, chấm dứt uỷ quyền đối với Ngƣời

đại diện không hoàn thành trách nhiệm đại diện…

- SCIC tiếp tục thực hiện kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện: Căn cứ vào tình

hình thực tế của doanh nghiệp, SCIC đã tiếp tục kiện toàn nhân sự ngƣời đại diện

tại một số doanh nghiệp theo hƣớng:

+ Tiếp tục kế thừa những Ngƣời đại diện đã đƣợc Bộ, ngành, địa phƣơng cử;

+Trực tiếp cử ngƣời của SCIC tham gia quản lý tại các doanh nghiệp lớn

(VD: Bảo Minh, Vinare, Vinamilk, Vinaconex, Traphaco, Dƣợc Hậu Giang,

Domesco, Nhựa Bình Minh…) và các doanh nghiệp có vấn đề phức tạp

(Constrexim, Nhựa Tiền Phong…).

+ Giảm số lƣợng ngƣời đại diện vốn tại các doanh nghiệp theo hƣớng ủy

quyền cho ngƣời đứng đầu doanh nghiệp để tăng cƣờng và xác định rõ trách nhiệm

50

của ngƣời đại diện. Chấm dứt ủy quyền đối với Ngƣời đại diện không hoàn thành

trách nhiệm đại diện vốn. Giảm dần số lƣợng ngƣời đại diện là cán bộ các Sở, ban

ngành kiêm nhiệm.

+ Tiếp tục lựa chọn và ủy quyền cho Ngƣời đại diện thực hiện một số quyền

của cổ đông nhà nƣớc. Với tƣ cách là cổ đông có tiếng nói quan trọng tại doanh

nghiệp, SCIC tiếp tục ủng hộ và đề cử Ngƣời đại diện xứng đáng vào nắm giữ các

chức vụ quản lý, điều hành, qua đó Ngƣời đại diện tiếp tục hƣởng các chế độ tƣơng

ứng với các vị trí lãnh đạo doanh nghiệp.

Kết quả, tính đến ngày 31/12/2/15, SCIC còn 267 Ngƣời đại diện, trong đó:

18% do SCIC cử kiêm nhiệm, biệt phái là ngƣời đại diện; 2% số ngƣời là cán bộ,

công chức kiêm nhiệm là ngƣời đại diện tại doanh nghiệp; 80% ngƣời đại diện đang

trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp (là chủ tịch, giám đốc doanh nghiệp…) (SCIC, 2015).

- Xây dựng cơ chế về trả thù lao, phụ cấp, khen thƣởng Ngƣời đại diện:

Trong Quy chế Ngƣời đại diện (ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-

ĐTKDV.HĐQT ngày 01/10/2014), SCIC đã quy định nguyên tắc đãi ngộ cho

Ngƣời đại diện; đồng thời, quy định chi tiết hơn về các tiêu chí đánh giá, khen

thƣởng ngƣời đại diện…

- Tăng cƣờng tính chủ động của Ngƣời đại diện, gắn liền với quyền hạn và

trách nhiệm và quy định rõ trong Hợp đồng ủy quyền đại diện.

- Cung cấp thông tin, tạo diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm, kết nối các doanh

nghiệp. Ngoài ra SCIC cũng tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho Ngƣời đại diện.

c/ Thực hiện biện pháp quản trị doanh nghiệp thông qua vai trò cổ đông.

- Thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp, Tổng công ty đã chủ động

phát huy vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp theo qui

định của pháp luật. Tổng công ty đã chủ động phƣơng án tham gia các Đại hội cổ

đông; nghiên cứu, góp ý và biểu quyết các quyết định, các phƣơng án kinh doanh

của doanh nghiệp; thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin và vai trò cổ đông

51

nhà nƣớc doanh nghiệp; tham gia mua cổ phần phát hành thêm cho cổ đông hiện

hữu tại các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả có tiềm năng tạo ra giá trị gia tăng

cho vốn nhà nƣớc.

- Thực hiện vai trò cổ đông năng động, Tổng công ty đã chủ động triển khai

các hoạt động tái cơ cấu đối với một số doanh nghiệp nhƣ: Vinaconex, Constrexim,

Nhựa Tiền phong, VEIC, Bảo Minh, Công ty cổ phần du lịch Kim Liên,

Traphaco…; giúp doanh nghiệp tìm kiếm cổ đông chiến lƣợc (Domesco; Bảo Minh;

Vinare; Muối Ninh Thuận); hỗ trợ doanh nghiệp xử lý các khó khăn về quản trị, tài

chính, đặc biệt là việc xử lý các khoản nợ xấu của doanh nghiệp nhƣ Vinaconex,

Xuất nhập khẩu Tổng hợp II.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ tại Quyết định 94/QĐ-TTg ngày

16/01/2012, Tổng công ty đã triển khai các thủ tục đàm phán 3 bên giữa Tổng công

ty, Qantas và Vietnam Airlines để chuyển giao phần vốn nhà nƣớc tại CTCP Hàng

không Jestar Pacific từ Tổng công ty sang Vietnam Airlines. Việc chuyển giao thực

hiện theo đúng chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ.

- Đối với các doanh nghiệp có nhiều tồn tại, Tổng công ty đã thực hiện giám

sát đặc biệt thông qua Ngƣời đại diện, Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát của doanh

nghiệp. Đối với một số doanh nghiệp lớn hoặc một số trƣờng hợp đặc biệt, Tổng

công ty cử cán bộ trực tiếp ứng cử tham gia Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát để

thực hiện giám sát (XNK Hƣng Yên, Đầu tƣ Việt Nam-Oman, Vinaconex,

Constrexim, VEIC, Công ty cổ phần du lịch Kim Liên, Đầu tƣ XNK Da giầy Hà

Nội, SXKD XNK Prosimex…); phối hợp với các cổ đông lớn tại doanh nghiệp để

có giải pháp tái cơ cấu, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh (XNK Vĩnh Lợi, Thực

phẩm & Dịch vụ Sài Gòn...).

Đồng thời, đối với các doanh nghiệp thuộc diện này, Tổng công ty cũng chủ

động phối hợp với địa phƣơng theo Quy chế phối hợp đã ký kết để chia sẻ thông tin,

trao đổi thảo luận, thƣờng xuyên phối hợp với UBND, Sở Tài chính, cơ quan Đảng

tại địa phƣơng (điển hình là các tỉnh Đồng Tháp, Hƣng Yên, Hải Phòng, Bắc Giang,

52

Lạng Sơn, Đắk Lắk,…) trong quá trình xử lý các tồn tại của doanh nghiệp.

- Tuy nhiên về đánh giá chung, việc quản lý vốn của Tổng công ty vẫn còn

gặp nhiều khó khăn, thách thức do các tồn tại phát sinh trƣớc thời điểm cổ phần hóa

chƣa giải quyết dứt điểm; nhiều vấn đề phức tạp phát sinh tại doanh nghiệp nhƣ

kiện cáo kéo dài, nhiều bất cập, tồn tại về tài chính, quản trị doanh nghiệp; các

doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau (đa ngành) nên đòi hỏi kiến

thức tổng hợp, chuyên sâu của các cán bộ quản lý doanh nghiệp...

d/ Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành và ch nh quyền địa phƣơng để

quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Tổng công ty đã chủ động làm việc với UBND các tỉnh thành phố, các bộ

ngành và các Tập đoàn, Tổng công ty lớn để phối hợp giải quyết những vấn đề về

nhân sự đối với ngƣời đại diện, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, hỗ trợ

doanh nghiệp trong quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và

khai thông quan hệ với các địa phƣơng trong việc quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh

nghiệp, phối hợp trong việc triển khai các cơ hội đầu tƣ phát triển trong lĩnh vực và

địa bàn do bộ, địa phƣơng quản lý và xây dựng kế hoạch hợp tác với tổng công ty.

Cụ thể, Tổng công ty đã ký kết 53 Quy chế phối hợp với các địa phƣơng; ký

kết Quy chế phối hợp với Tổng cục Cảnh sát và Tổng cục An ninh (Bộ Công an)

trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm lợi ích Nhà nƣớc tại doanh

nghiệp; ký bản thỏa thuận hợp tác với UBND tỉnh Hà Tĩnh, Bắc Giang…

3.2.1.3. Tiếp tục sắp xếp, cổ phần hóa và bán bớt phần vốn nhà nước, tích tụ, tập

trung vốn vào các ngành, lĩnh vực quan trọng

a/Cơ c u lại doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện quá trình cổ phần hóa

DNNN thông qua việc bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp mà nhà nƣớc

không cần đầu tƣ vốn.

Lũy kế từ khi thành lập đến nay, SCIC đã bán vốn tại 900 DN (trong đó bán

hết vốn tại 821 DN, bán một phần vốn tại 79 DN) và bán quyền mua tại 19DN với

53

giá vốn là 5.724 tỷ đồng và thu về 14.109 tỷ đồng gấp 2,5 lần giá vốn (SCIC, 2015).

- Tính đến nay, danh mục vốn tiếp nhận và đầu tƣ SCIC đang quản lý còn

khoảng 230 khoản với tổng giá vốn theo sổ sách kế toán khoảng 17.000 tỷ đồng

(không bao gồm đầu tƣ theo chỉ định của Thủ tƣớng Chính phủ), giá thị trƣờng ƣớc

đạt gần 78.000 tỷ đồng, gấp hơn 4,7 lần so với giá vốn sổ sách kế toán; Vốn chủ sở

hữu của SCIC đạt khoảng 35.000 tỷ đồng.

Việc bán vốn đƣợc thực hiện theo đúng quy định của nhà nƣớc và quy trình,

quy chế đã đƣợc Hội đồng thành viên phê duyệt; bảo toàn và tăng thặng dƣ vốn với

việc lựa chọn doanh nghiệp để bán vốn, lựa chọn thời điểm để bán; đồng thời, thực

hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp trong từng trƣờng hợp nhằm gia tăng giá trị vốn

để thực hiện bán vốn.

Đối với các doanh nghiệp, hoạt động bán vốn của Tổng công ty còn tạo điều

kiện giúp doanh nghiệp có nhà đầu tƣ chiến lƣợc, tăng tỷ lệ sở hữu vốn cho ngƣời

lao động để doanh nghiệp ổn định và phát triển.

- Trong số doanh nghiệp đã tiếp nhận đến nay có đến 80% các doanh nghiệp

quy mô nhỏ, nằm rải rác ở nhiều địa phƣơng, không thuộc diện Nhà nƣớc cần nắm

giữ vốn nhƣng quá trình cổ phần hoá không bán hết hoặc không bán đƣợc cổ phần,

buộc phải giữ vốn Nhà nƣớc và bàn giao sang Tổng công ty. Việc Tổng công ty

phải thực hiện xử lý các vấn đề tồn tại đối với quá nhiều doanh nghiệp nhỏ, kinh

doanh kém hiệu quả đã là một cản trở lớn trong việc tập trung thực hiện các nhiệm

vụ chiến lƣợc đề ra.

Bán vốn nhà nƣớc qua các năm từ 2008 - 2015

250

219

200

148

150

98

97

88

84

100

53

34

50

19

14

11

11

9

7

5

3

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Số DN bán bớt vốn

Số DN bán hết vốn

54

Hình 3.2: Biểu đồ bán vốn Nhà nước qua các năm từ 2008 - 2015

Thông qua việc bán vốn tại doanh nghiệp mà Nhà nƣớc không cần đầu tƣ

vốn, SCIC đã và đang thực hiện dịch chuyển dần vốn nhà nƣớc ra khỏi lĩnh vực

không cần thiết đầu tƣ vốn của nhà nƣớc. Mục tiêu đến năm 2015, SCIC chỉ nắm

giữ vốn tại không quá 100 doanh nghiệp(Chính phủ, 2013).

Mặc dù đã có chuyển biến tích cực nhƣng công tác bán vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp của SCIC chƣa hoàn thành về số lƣợng doanh nghiệp theo Đề án Tái

cơ cấu SCIC. Theo Quyết định 2344, SCIC phải bán vốn để đến cuối năm 2015,

danh mục đầu tƣ còn khoảng 100 doanh nghiệp. Thực tế hiện nay còn 197 doanh

nghiệp do có hơn 90 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nhiều năm, một số doanh

nghiệp đang tiến hành phá sản hoặc thuộc diện giám sát đặc biệt, không có nhà đầu

tƣ quan tâm nên không bán đƣợc vốn hoặc rất khó bán vốn; nhiều doanh nghiệp đã

triển khai bán vốn nhiều lần nhƣng không thành công.

b/ Triển khai, sắp xếp, cổ phần hóa các Công ty TNHH nhà nƣớc 1

thành viên đã tiếp nh n

Cùng với việc quản lý phần vốn tại các DNNN đã cổ phần hóa, Tổng công ty

đã tiếp nhận và quản lý một số các công ty TNHH1TV. Tính đến 31/12/2013, Tổng

công ty đã tiếp nhận 30 Công ty TNHH1TV với giá trị sổ sách phần vốn nhà nƣớc

là 324 tỷ đồng. Ngay sau khi tiếp nhận, Tổng công ty đã xây dựng kế hoạch sắp xếp

cổ phần hóa trình Thủ tƣớng chính phủ phê duyệt. Qua gần 6 năm triển khai đã sắp

xếp, cổ phần hóa và bán đƣợc 27 doanh nghiệp (đạt 90%). Hiện nay, SCIC đang cổ

phần hóa 01 doanh nghiệp; tiếp tục củng cố 02 doanh nghiệp trong diện không cổ

phần hóa.Về cơ bản việc triển khai sắp xếp và cổ phần hóa các công ty TNHH1TV

tại Tổng công ty đạt kết quả tốt, quá trình cổ phần hóa đƣợc tiến hành đúng quy

định của pháp luật, phƣơng án sắp xếp và cổ phần hóa đƣợc sự đồng thuận cao của

cán bộ, công nhân viên các doanh nghiệp cũng nhƣ của chính quyền địa phƣơng.

Các doanh nghiệp sau sắp xếp, cổ phần hóa đều hoạt động ổn định và có sự tăng

55

trƣởng tốt.

3.2.1.4. Thu hồi công nợ, các nguồn thu từ cổ phần hóa và thu cổ tức.

Thực hiện Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp

Trung ƣơng (nay là Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp) ban hành kèm

theo Quyết định số 113/2008/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ, SCIC đã thực

hiện có hiệu quả công tác quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.

Cụ thể:

- Đôn đôc thu Quỹ đến thời điểm 30/9/2015 đạt hơn 100.000 tỷ đồng, gấp

gần 7 lần so với số nhận bàn giao tháng 9/2008 (SCIC, 2015), trong đó bao gồm thu

từ cổ phần hóa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nƣớc; thu từ Quỹ các địa phƣơng; thu

từ lợi nhuận, cổ tức đƣợc chia thuộc phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp chƣa

chuyển giao về Tổng công ty và các khoản thu khác.

3.2.2. Hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn của SCIC

3.2.2.1. Về hoạt động đầu tư mới vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo chỉ đạo

của Chính phủ

SCIC đã triển khai thành công bƣớc đầu hoạt động đầu tƣ, kinh doanh vốn

nhà nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đã giải ngân đến thời điểm hiện nay là trên 24.336 tỷ

đồng (trong đó: Đầu tƣ thành lập DN, DN dự án: 844 tỷ đồng; Đầu tƣ cổ phiếu:

4.459 tỷ đồng; Đầu tƣ trái phiếu: 6.250 tỷ đồng; Đầu tƣ hiện hữu: 10.224 tỷ đồng;

Đầu tƣ chỉ định: 2.519 tỷ đồng). Đầu tƣ của SCIC đã tập trung vào các ngành, lĩnh

vực then chốt của nền kinh tế, gắn với thị trƣờng và đạt hiệu quả khá cao. SCIC đã

và đang trở thành đầu mối tích tụ vốn, từ đó giúp cho Chính phủ thực hiện các

khoản đầu tƣ chỉ định, đồng thời là công cụ giúp Chính phủ trong tổng thể triển khai

các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc.

Theo Đề án tái cơ cấu, mục tiêu nhiệm vụ của SCIC là đẩy mạnh đầu tƣ vào

các ngành nghề, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; chủ động nghiên cứu và tham

gia thực hiện tái cơ cấu các Tập đoàn, Tổng công ty khác với vai trò là nhà đầu tƣ

56

tài chính. Triển khai nhiệm vụ tại Đề án Tái cơ cấu SCIC theo Quyết định 2344,

Tổng công ty tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn. Trong giai đoạn

2014 - 2015, Tổng công ty đã giải ngân đầu tƣ gần 8.500 tỷ đồng.

Thời gian qua, hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn của SCIC đã có những

chuyển biến tích cực: vốn giải ngân tăng, hoạt động đầu tƣ tài chính đƣợc mở rộng

có hiệu quả, một số dự án qui mô lớn đã đi vào triển khai sau một thời gian chuẩn bị

Các hình thức đầu tƣ đã đƣợc Tổng công ty thực hiện:

- Thực hiện đầu tư vốn vào các Tập đoàn, Tổng công ty lớn: Trong lĩnh vực

năng lƣợng, Tổng công ty đã hợp tác cùng Tập đoàn Điện lực (EVN) đầu tƣ các dự

án điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thác Bà, Hải Phòng và Quảng Ninh với số vốn trên

2.500 tỷ đồng; đã ký kết Thoả thuận hợp tác toàn diện để đầu tƣ vào các dự án của

Tập đoàn Dầu khí (PVN); nghiên cứu dự án nhà máy điện Nhơn Trạch, cơ hội đầu

tƣ thăm dò và khai thác dầu khí tại nƣớc ngoài…

- Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng: Dự án 29 Liễu Giai, Dự án Tháp truyền hình,

Dự án Tháp tài chính, Dự án hợp tác đầu tƣ xây dựng nhà máy sản xuất thuốc điều

trị ung thƣ tại Việt Nam, Dự án sản xuất Vắc xin quy mô công nghiệp, Dự án hợp

tác với Bệnh viện Nhi Trung ƣơng (TW), Dự án nhà máy nƣớc sông Đà 2, Đầu tƣ

theo chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ vào dự án mở rộng sản xuất giai đoạn II của

CTCP Gang thép Thái nguyên (TISCO).

- Thành lập doanh nghiệp để triển khai dự án: tại 3 doanh nghiệp, trong đó

có CT TNHH Đầu tƣ Bảo Việt - SCIC và CTCP Đầu tƣ và dịch vụ Thăng Long.

- Đầu tư thực hiện quyền mua cổ phiếu, trái phiếu phát hành tăng vốn của

doanh nghiệp cho cổ đông hiện hữu, cổ tức bằng cổ phiếu: tại 264 doanh nghiệp với

tổng vốn đầu tƣ hơn 4.036 tỷ đồng.

- Đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp:Đầu tƣ mua cổ phần trở thành cổ động

chiến lƣợc của Ngân hàng TMCP Quân đội (MB); Đầu tƣ trái phiếu (Trái phiếu

57

Chính phủ 5.000 tỷ, Trái phiếu Ngân hàng TMCP Kỹ thƣơng Việt Nam 450 tỷ).

3.2.2.2. Đầu tư vốn vào doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường.

Căn cứ trên đánh giá phân loại doanh nghiệp theo hạng mục chiến lƣợc, đánh

giá phân tích tình hình tài chính cũng nhƣ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

SCIC đã lựa chọn những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả có tiềm năng tạo ra

giá trị tăng cho vốn nhà nƣớc để thực hiện đầu tƣ thêm vốn vào các doanh nghiệp đó.

Bên cạnh các khoản đầu tƣ dài hạn vào các doanh nghiệp chiến lƣợc (nhóm

A), SCIC thực hiện đầu tƣ vào các doanh nghiệp nhóm B nhằm mục tiêu cơ cấu lại

vốn và gia tăng giá trị doanh nghiệp trƣớc khi thoái vốn.

Thông qua việc đầu tƣ linh hoạt vào doanh nghiệp, vốn nhà nƣớc đƣợc bảo

toàn và phát triển tránh đƣợc tình trạng trƣớc đây do ngân sách không bố trí đƣợc

nguồn nên khi một doanh nghiệp tốt phát hành cổ phiếu tăng vốn, Nhà nƣớc không

thực hiện đầu tƣ vốn dẫn tới tình trạng vốn nhà nƣớc bị pha loãng.

Quá trình xem xét, đầu tƣ vốn đƣợc thực hiện công khai theo nguyên tắc dự

án có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn cao, xóa bỏ hình thức cấp vốn trực tiếp

mang tính bao cấp.

Việc bàn giao tập trung quyền đại diện chủ sở hữu vốn về SCIC đã giảm đầu

mối quyết định đầu tƣ tại các doanh nghiệp, tránh tình trạng cùng một lĩnh vực, một

ngành nghề nhƣng cả trung ƣơng và địa phƣơng cùng đầu tƣ, việc đầu tƣ mang tính

phong trào, hình thức, hiệu quả không cao.

3.2.2.3. Về hợp tác trong lĩnh vực đầu tư vốn:

Trong thời gian qua, bên cạnh việc tìm kiếm triển khai các hoạt động đầu tƣ

trong nƣớc, SCIC cũng đã chú trọng công tác tìm kiếm, hợp tác với các đối tác, tổ

chức kinh tế, tài chính quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển

Châu Á (ADB) trong khuôn khổ trợ giúp cho ngành Tài chính và tƣ vấn cải cách

khu vực doanh nghiệp; phối hợp với một số đối tác làm việc với các Bộ, ngành liên

quan để triển khai nghiên cứu thế chế pháp lý cho việc khuyến khích sự tham gia

58

của khu vực tƣ nhân vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, SCIC cũng đã quan hệ

trao đổi với các đối tác quốc tế nhƣ Temasek (Singapore), Khazanah (Malaysia),

SDIC (Trung Quốc), QIA (Quatar), và thỏa thuận với gần 20 đối tác quốc tế là các

quỹ đầu tƣ Chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế, Công ty quản lý quỹ...về tìm kiếm

cơ hội hợp tác đầu tƣ.

3.2.3. Tình hình tài chính của SCIC qua các năm

- Sau 10 năm, hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn của SCIC đạt đƣợc kết quả

khả quan,bảo toàn và phát triển vốn, các chỉ tiêu tăng trƣởng liên tục, năm sau cao

hơn năm trƣớc. Tổng lợi nhuận sau thuế lũy kế trên 30.000 tỷ đồng. So với thời

điểm thành lập: Doanh thu tăng gấp 65,4 lần; Vốn chủ sở hữu tăng gấp 9,5 lần;

Tổng tài sản tăng gấp 13,8 lần; Lợi nhuận sau thuế tăng gấp 61 lần; Nộp ngân sách

nhà nƣớc tăng 41 lần; Tỷ suất lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân

13%/năm; Tỷ suất lợi nhuận/Tổng tài sản (ROA) bình quân 6%/năm (Giai đoạn

2006-2010, ROE đạt bình quân 9,6%/năm, giai đoạn 2011-2015 bình quân

15,6%/năm)

(Nguồn: Báo cáo tài chính kiểm toán hàng năm của SCIC)

59

Bảng 3.2: Báo cáo tổng kết hoạt động 10 năm 2006-2015 của SCIC

3.2.4 Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc theo hƣớng xóa bỏ sự can thiệp

hành chính của cơ quan quản lý nhà nƣớc, chuyển đổi theo phƣơng thức đầu tƣ kinh

doanh vốn.

Thực tế hoạt động của SCIC đã bƣớc đầu khẳng định tính đúng đắn của chủ

trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp.

Với phƣơng thức quản lý vốn theo cơ chế SCIC là đại diện chủ sở hữu đã

dần thực hiện đƣợc việc tách bạch chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc với

quyền tự chủ của doanh nghiệp, xóa bỏ dần sự can thiệp hành chính của cơ quan

quản lý nhà nƣớc vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, chuyển

hình thức quản lý vốn nhà nƣớc sang hình thức đầu tƣ, kinh doanh vốn qua đó nâng

cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng nhƣ hiệu quả đầu tƣ của nhà nƣớc.

Nhà nƣớc, thông qua SCIC đã thực sự là cổ đông của doanh nghiệp, với chủ

trƣơng không can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, SCIC đã thực

hiện tốt vai trò của mình trong việc giúp đỡ doanh nghiệp xử lý kịp thời những vấn

đề phát sinh, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp trong việc áp dụng các tiêu chí quản

trị kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực, xử lý nhanh chóng những vấn đề phát sinh

thuộc thẩm quyền theo đề nghị của doanh nghiệp nhƣ: thay thế ngƣời đại diện phần

vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp, sửa đổi, bổ sung vốn điều lệ, thay đổi cơ cấu vốn

đầu tƣ, phê duyệt phƣơng án sản xuất kinh doanh, đầu tƣ thêm hoặc bán bớt cổ phần

nhà nƣớc, thực hiện thu nợ tiền án cổ phần, thu cổ tức đối với phần vốn nhà nƣớc…

Lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của cổ đông trong đó có cổ đông nhà nƣớc và lợi

ích của ngƣời lao động đƣợc giải quyết hài hòa.

Song song với việc thực hiện tốt vai trò cổ đông nhà nƣớc tại doanh nghiệp,

SCIC đã và đang thực hiện tốt vai trò của nhà đầu tƣ thông qua việc phân tích, đánh

giá lại tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp để có biện

60

pháp xử lý thích hợp nhƣ: cơ cấu về vốn, tƣ vấn hỗ trợ doanh nghiệp, giới thiệu cơ

hội, đối tác đầu tƣ cho doanh nghiệp, cử cán bộ trực tiếp, ủy quyền, thuê ngƣời đại

diện quyền sở hữu vốn của SCIC tại doanh nghiệp phù hợp với hoạt động đặc thù

của doanh nghiệp.

Thông qua việc tƣ vấn, hỗ trợ, đôn đốc niêm yết, đấu giá một số lƣợng lớn

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của SCIC trên thị trƣờng chứng khoán trong nƣớc và

nƣớc ngoài đã góp phần sinh lời và phát triển quy mô vốn nhà nƣớc do SCIC làm

đại diện chủ sở hữu tại các doanh nghiệp này.

Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, sau khi quyền đại diện chủ sở hữu

phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đƣợc chuyển giao về SCIC đã có những thay

đổi đáng kể (nhƣ đã nêu ở phần trên).

Từ nguồn thu bán vốn nhà nƣớc, cổ tức và lợi nhuận để lại, Tổng công ty

thực hiện đầu tƣ vào các Tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nƣớc thông qua mua

cổ phần và góp vốn vào dự án; tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu của

nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ. Kết quả đầu tƣ của Tổng công ty cho thấy

thành công bƣớc đầu của việc đổi mới cơ chế đầu tƣ vốn của nhà nƣớc vào doanh

nghiệp từ phƣơng thức cấp vốn và quản lý vốn trực tiếp từ ngân sách chuyển sang

đầu tƣ và kinh doanh vốn, lấy tiêu chí hiệu quả làm thƣớc đo. Các dự án đầu tƣ

đƣợc lựa chọn đúng định hƣớng và trọng điểm về lĩnh vực cần đầu tƣ, có hiệu quả

hơn và đƣợc giám sát tốt hơn.

SCIC đã thực hiện tốt vai trò là công cụ để cơ cấu lại vốn đầu tƣ của nhà

nƣớc tại các DNNN.

- Thực hiện vai trò cổ đông năng động, sau khi tiếp nhận doanh nghiệp Tổng

công ty đã chủ động thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp theo qui định

của pháp luật; triển khai các hoạt động tái cơ cấu, xử lý các tồn tại về quản trị, tài

chính; kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện… qua đó góp phần nâng cao hiệu quả

doanh nghiệp.

- Thực hiện tái cấu trúc vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua việc bán

phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nhà 61

nƣớc không cần nắm giữ; đầu tƣ thêm vào doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu

quả; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tƣ đồng thời thu

hồi vốn, tập trung vốn có hiệu quả cho Nhà nƣớc.

- Bƣớc đầu tách biệt chức năng quản lý nhà nƣớc với vai trò đại diện chủ sở

hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc.

3.2.5. Nguồn nhân lực và công nghệ quản trị doanh nghiệp

Doanh nghiệp thuộc đối tƣợng nhận bàn giao vốn có số lƣợng lớn, quy mô

nhỏ, phân bổ trên địa bàn rộng, còn nhiều tồn tại về tài chính chƣa đƣợc xử lý trong

quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.

Số lƣợng doanh nghiệp SCIC đã tiếp nhận lên đến gần 1000 doanh nghiệp

nhƣng chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô nhỏ (75% doanh nghiệp có vốn điều lệ

dƣới 10 tỷ đồng) lại nằm rải rác ở hầu hết các địa bàn trên cả nƣớc. Quá nhiều

doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nƣớc cần nắm giữ vốn hoặc giữ cổ phần chi

phối nhƣng do các doanh nghiệp này trƣớc khi cổ phần hóa do hiệu quả hoạt động

không cao, có nhiều tồn tại về tài chính chƣa đƣợc xử lý dứt điểm hoặc kinh doanh

trong lĩnh vực không hấp dẫn… nên không thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ, do vậy quá

trình cổ phần hóa không bán hết hoặc không bán đƣợc cổ phần, buộc phải giữ vốn

Nhà nƣớc và bàn giao sang SCIC.

Với đặc thù nhƣ vậy nên phần lớn các doanh nghiệp SCIC tiếp nhận hoạt

động rất kém hiệu quả, có nhiều tồn tại khó khăn nhƣng khi cổ phần hóa không

đƣợc giải quyết dứt điểm nên sau khi nhiều doanh nghiệp càng rơi vào tình trạng

khó khăn trầm trọng hơn. Cơ cấu tổ chức bộ máy kém hiệu quả, trình độ và năng

lực của ngƣời quản lý còn nhiều hạn chế, chƣa thích nghi với cơ chế thị trƣờng.

Máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu, nhiều bất cập và chƣa đổi mới để phù hợp với

sự phát triển chung. Nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, thiếu chiến lƣợc,

không tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, không đủ sức cạnh tranh trên

thƣơng trƣờng và trong môi trƣờng quốc tế nên thị phần thấp, có doanh nghiệp

62

trong tình trạng thua lỗ.

Hiện tại, SCIC SCIC đang áp dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp CPMS

tổng hợp toàn bộ dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, ngƣời đại diện, tình hình tài

chính và tình hình quản trị của SCIC tại doanh nghiệp

Số lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc do SCIC tiếp nhận nhiều, nằm rải

khắp cả nƣớc nên số lƣợng Ngƣời đại diện lớn, trình độ và năng lực của Ngƣời đại

diện nhìn chung không đều, tính chất công tác của Ngƣời đại diện là cán bộ tại các

cơ quan quản lý nhà nƣớc nhƣ Bộ, UBND, Sở ban ngành…làm kiêm nhiệm. Ngoài

ra, các doanh nghiệp có quy mô, ngành nghề, trình độ phát triển và văn hóa doanh

nghiệp khác nhau nên cách thức quản trị và công tác phối hợp với SCIC cũng khác nhau.

SCIC mới đƣợc thành lập, thời gian hoạt động chƣa lâu, chiến lƣợc hoạt

động cũng nhƣ cơ cấu tổ chức bộ máy đang trong quá trình xây dựng, số lƣợng và

chất lƣợng của cán bộ nhân viên còn hạn chế.

Với số lƣợng doanh nghiệp nhiều, lực lƣợng cán bộ còn mỏng nên đối với

một số trƣờng hợp, SCIC chƣa cử cán bộ tới toàn bộ doanh nghiệp để tìm hiểu về

hoạt động thực tế của doanh nghiệp trợ giúp, tƣ vấn cho doanh nghiệp trong các vấn

đề cụ thể nhƣ xu hƣớng phát triển ngành nghề, chiến lƣợc kinh doanh, thị trƣờng

tiêu thụ sản phẩm, làm cầu nối các doanh nghiệp, tòa đàm cung cấp thông tin, tiêu

thụ sản phẩm…

Đội ngũ cán bộ của SCIC trẻ, có trình độ nhƣng kinh nghiệm chƣa nhiều,

nhiều vụ việc phức tạp đòi hỏi kiến thức chuyên ngành để xử lý một cách thấu đáo

và thỏa đáng chƣa đáp ứng đƣợc. Do vậy, nhiều vấn đề phát sinh của doanh nghiệp

chƣa đƣợc giải quyết kịp thời và đạt hiệu quả cao.

Việc trả lƣơng cho cán bộ, nhân viên SCIC nhƣ hành chính thì các chuyên

viên khó có thể tận tâm tận lực, sáng kiến, chịu trách nhiệm cá nhân.

3.2.6. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý vốn của SCIC

SCIC là mô hình hoạt động mới với những đặc thù riêng trong tổ chức, hoạt

63

động, cơ chế tài chính... Thực tế, các văn bản pháp quy ở cấp cao hơn nhƣ Luật,

Nghị định khác liên quan đến hoạt động của SCIC nhƣ cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc

tại doanh nghiệp, đầu tƣ, thoái vốn, cơ chế đại diện chủ sở hữu, cơ chế tài

chính...phần lớn đƣợc ban hành trƣớc khi SCIC đƣợc thành lập, do vậy có nhiều

điểm chƣa phù hợp đã làm hạn chế hoạt động của SCIC trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ của chủ sở hữu vốn nhà nƣớc cũng nhƣ quá trình cơ cấu lại danh mục vốn

nhà nƣớc và thực hiện các dự án đầu tƣ mới tại SCIC. Mặt khác do mô hình SCIC

mới và đặc thù nên hệ thống văn bản pháp quy chƣa quy định, điều chỉnh hết những

hoạt động của SCIC, và nếu có thực hiện bổ sung, sửa đổi thì cũng cần phải có thời

gian nghiên cứu, thậm chí phải thí điểm triển khai, trên cơ sở đó hoàn thiện thì mới

đảm bảo phù hợp.

Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ về phân công,

phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với DNNN và

vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp, giúp quá trình quản lý doanh nghiệp đƣợc

thực hiện minh bạch và rõ ràng. Quyền, trách nhiệm của SCIC đƣợc quy định riêng

tại Khoản 2/Điều 4 Nghị định 99 đã tạo hành lang pháp lý cho SCIC, thực tế đã

đƣợc triển khai áp dụng, đƣa vào quy định tại Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày

1/11/2013 về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC.

Quy định về ngƣời đại diện tại Nghị định 99 đã đƣợc cụ thể hóa trong Quy

chế Ngƣời đại diện của SCIC. Trên cơ sở đó, Tổng công ty đã từng bƣớc kiện toàn

đƣợc hệ thống ngƣời đại diện. Cơ bản việc phối hợp giữa Tổng công ty và ngƣời đại

diện là chặt chẽ theo Quy chế ngƣời đại diện. Thông qua đó, Tổng công ty đã thực

hiện tốt vai trò là cổ đông Nhà nƣớc tại doanh nghiệp với các quyền và nghĩa vụ

theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, phân công về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc

tại doanh nghiệp theo Nghị định 99 còn một số tồn tại, hạn chế:

Phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phƣơng thực hiện các quyền,

trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc nên chƣa tách bạch chức năng

64

chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc và điều tiết thị trƣờng của

các cơ quan hành chính nhà nƣớc; dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu

đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp

gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các ngành, lĩnh vực quan trọng,

củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc thông qua mô hình SCIC.

Quyền, trách nhiệm chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng

lặp làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát đối với DNNN.

Chƣa tách bạch rõ về mục tiêu, công cụ, phƣơng pháp cũng nhƣ tổ chức bộ

máy và cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở

hữu nhà nƣớc làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chủ sở hữu nhà nƣớc cũng

nhƣ quản lý nhà nƣớc.

Về việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua ủy

quyền ngƣời đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm, quyền

lợi của Ngƣời đại diện không rõ ràng; một số ngƣời đại diện chƣa tuân thủ đầy đủ

quy định về báo cáo, lấy ý kiến của SCIC; chế độ tiền lƣơng, thù lao, tiền thƣởng

đối với Ngƣời đại diện còn bất cập, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.

3.2.7 Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước tại doanh nhiệp và sắp xếp cổ phần hóa các

Công ty TNHH nhà nước MTV và hội nhập hợp tác quốc tế

Việc bán vốn nhà nƣớc và cổ phần hóa các Công ty TNHH MTV thuộc SCIC

nhằm tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới

đang đƣợc triển khai tích cực nhƣng vẫn cần đƣợc đẩy mạnh hơn nữa để đạt đƣợc

mục tiêu đề ra (theo thống kê sơ bộ đến thời điểm 31/12/2015 SCIC đã hoàn thành

việc bán vốn tại hơn 900 doanh nghiệp, đạt khoảng 80% số doanh nghiệp nhận bàn

giao và hoàn thành sắp xếp lại và cổ phần hóa đƣợc 27/30 Công ty TNHH MTV,

đạt khoảng 90% so với kế hoạch đặt ra). Tuy nhiên tiến độ tiếp nhận các doanh

nghiệp đã cổ phần hóa và các công ty TNHH MTV từ các bộ, địa phƣơng còn chậm

do một số rào cản về chính sách và ý chí thực hiện của các cơ quan liên quan. Với

tiến độ này thì mục tiêu bán hết vốn tại các doanh nghiệp không cần nắm giữ vốn đã

65

và sẽ tiếp nhận phải mất thêm nhiều năm, ảnh hƣởng đến tốc độ hội nhập của Việt

Nam, ảnh hƣởng đến việc cơ cấu lại danh mục đầu tƣ để tập trung nguồn tài chính cho

mục tiêu đầu tƣ vào các lĩnh vực quan trọng theo định hƣớng của Nhà nƣớc.

Việc bán vốn tại các DNNN trong thời gian qua chƣa thực sự đạt đƣợc kết

quả nhƣ mong muốn một phần do tình hình thị trƣờng không thuận lợi, ảnh hƣởng

của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trƣờng tài chính và thị trƣờng vốn sụt giảm,

sức mua cổ phần hạn chế, dẫn đến một số cuộc đấu giá cổ phần của SCIC không

thành công… Ngoài ra phần lớn do quá trình triển khai bán vốn của SCIC còn gặp

rất nhiều khó khăn vƣớng mắc do phần lớn các doanh nghiệp thuộc đối tƣợng bán

vốn nhà nƣớc có quy mô nhỏ, tình hình kinh tế khó khăn, có nhiều tồn tại về tài

chính…, do vậy khó thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ tham gia mua lại phần vốn nhà

nƣớc tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định nội bộ của doanh nghiệp ban

hành trƣớc khi SCIC tiếp nhận về nhƣ tại nhiều Công ty, Điều lệ tổ chức và hoạt

động của doanh nghiệp quy định nhiều nội dung hạn chế chuyển nhƣợng vốn của

nhà nƣớc, phải bán cho ngƣời lao động khi nhà nƣớc bán vốn... cũng làm chậm tiến

độ thoái vốn.

3.3. Đánh giá kết quả hoạt động và mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC

3.3.1. Các mặt đạt được và bài học kinh nghiệm

Trong 10 năm qua, vƣợt qua nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu hình thành

và phát triển, đƣợc sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Bộ Tài

chính, sự phối hợp, giúp đỡ của các Bộ, Ngành, địa phƣơng, các đối tác cả trong

nƣớc và quốc tế, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể lãnh đạo, cán bộ, nhân

viên Tổng công ty, mô hình SCIC đã đạt đƣợc một số thành tựu đáng ghi nhận:

Thứ nhất, đã hình thành 1 tổ chức kinh tế đặc thù dƣới mô hình 1 tổng công

ty xếp hạng đặc biệt của Chính phủ để triển khai một trong những chủ trƣơng quan

trọng của Đảng về đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc từ cơ chế hành chính

sang phƣơng thức đầu tƣ, kinh doanh vốn tiên tiến, góp phần đẩy nhanh tiến trình

sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Mô hình hoạt động quản lý vốn

của SCIC theo hƣớng mô hình quản lý vốn tập trung nên đã phát huy hết hiệu quả

66

của mô hình này với phƣơng thức quản lý, đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc tiên

tiến, tránh tình trạng hành chính hóa. Kết quả hoạt động của Tổng công ty tiếp tục

khẳng định chủ trƣơng lớn, đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc về đổi mới phƣơng

thức quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp.

Thứ hai, trong 10 năm qua, SCIC đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đại

diện chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc đối với các công ty cổ phần sau cổ phần hóa. Cơ chế

ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc triển khai tại tất cả các doanh nghiệp đƣợc kết

hợp chặt chẽ với sự giám sát và chỉ đạo trực tiếp của chủ sở hữu đã giúp SCIC bảo

toàn và phát triển phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Trong quá trình đại diện

chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, mô hình SCIC đã bƣớc đầu thể hiện

những thế mạnh so với cơ chế chủ quản hành chính trƣớc đây ở chỗ:

Thứ nhất, trong quản trị doanh nghiệp, SCIC có cơ chế và nguồn lực để sẵn

sàng đầu tƣ tăng vốn giúp cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp hiệu quả. Với bộ máy

chuyên nghiệp, qui trình đầu tƣ, thẩm định, quản trị khoa học thông qua vai trò cổ

đông đại diện cho Nhà nƣớc, SCIC không đơn thuần đóng vai trò quản lý vốn mà

còn thực hiện chức năng kinh doanh vốn, làm cho phần vốn Nhà nƣớc tại doanh

nghiệp không chỉ bảo toàn mà còn gia tăng giá trị.

Thứ hai, công tác quản trị doanh nghiệp và tái cơ cấu đƣợc SCIC thực hiện

một cách chuyên nghiệp, bộ máy gọn nhẹ nhƣng tính chuyên môn cao. Thông qua

hệ thống ngƣời đại diện, kết hợp với trực tiếp quản trị danh mục, tình hình doanh

nghiệp, đặc biệt là tình hình tài chính, hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp đƣợc SCIC

giám sát chặt chẽ, khoa học, trên cơ sở đó chủ sở hữu có các quyết định kịp thời.

Thứ ba, trong việc triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc,

SCIC đƣợc xem là một trong những Tổng công ty đi đầu với kết quả thoái vốn tại

các doanh nghiệp trong danh mục Nhà nƣớc không cần nắm giữ hoặc chi phối đạt

hiệu quả cao. Trên thực tế, SCIC là Tổng công ty đầu tiên thực hiện việc thoái vốn

với quá trình chuyên nghiệp, từ định giá đến tổ chức đấu giá, khớp lệnh, giao dịch

ngoài sàn, thỏa thuận, chào bán cạnh tranh, bán cả lô...

Thứ tƣ, SCIC đã triển khai thành công bƣớc đầu mô hình vừa đại diện chủ sở

67

hữu, vừa thực hiện đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đã giải

ngân đến thời điểm hiện nay là trên 17.900 tỷ đồng, tập trung vào các ngành, lĩnh

vực then chốt của nền kinh tế, gắn với thị trƣờng và đạt hiệu quả khá cao. SCIC đã

và đang trở thành đầu mối tích tụ vốn, từ đó giúp cho Chính phủ thực hiện các

khoản đầu tƣ chỉ định, đồng thời là công cụ giúp Chính phủ trong tổng thể triển khai

các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc.

Thứ năm, từ chỗ là mô hình mới, sau 10 năm, hành lang pháp lý cho hoạt

động của SCIC đã tƣơng đối đầy đủ với nhiều văn bản pháp lý do Chính phủ, Thủ

tƣớng Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành đã giúp SCIC vận hành có hiệu quả mô

hình và hoàn thành các nhiệm vụ mà Chính phủ giao phó. Trong nội bộ SCIC cũng

đã xây dựng đƣợc hệ thống quy trình đầy đủ, bao quát tất cả các hoạt động nghiệp

vụ của Tổng công ty. Đặc biệt, nhiều cơ chế pháp lý SCIC tìm tòi, đề xuất xây dựng

và triển khai trong nội bộ SCIC đã đƣợc nhân rộng và áp dụng chung nhƣ quy chế

ngƣời đại diện, cơ chế bán đấu giá cả lô, cơ chế bán cho ngƣời lao động...

Thứ sáu, về xây dựng năng lực bộ máy, trong vòng 10 năm, từ vài chục cán

bộ lúc mới thành lập, SCIC đã xây dựng đội ngũ trên 250 cán bộ đƣợc đào tạo bài

bản, chuyên môn cao. Các phòng, ban chức năng hình thành ngày càng chuyên môn

hóa. SCIC cũng hình thành các Chi nhánh khu vực ở miền Nam, miền Trung giúp

cho việc quản trị các doanh nghiệp tại các địa phƣơng sâu sát hơn. Đặc thù của

SCIC là đội ngũ cán bộ làm trực tiếp không nhiều nhƣng có hệ thống ngƣời đại diện

chuyên trách tại các doanh nghiệp để quản lý chặt chẽ phần vốn Nhà nƣớc tại các

công ty cổ phần.

Thứ bảy, trong phát triển quan hệ đối tác, SCIC đã xây dựng đƣợc mối quan

hệ chặt chẽ với nhiều tổ chức tài chính quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới (World

Bank), Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), các Quỹ đầu tƣ Chính phủ các nƣớc, các

Ngân hàng, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán... cả trong nƣớc và quốc tế.

Nhờ các mối quan hệ hợp tác này, SCIC đã học hỏi và tiếp thu nhiều kinh nghiệm

quý báu trong quá trình phát triển giúp cho hoạt động đầu tƣ, quản trị doanh nghiệp,

68

thoái vốn của SCIC thu hút đƣợc nhiều đối tác từ đó đem lại hiệu quả cao.

3.3.2. Một số khó khăn, vướng mắc cơ bản và nguyên nhân

Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc, trong quá trình hình thành và phát triển 10

năm qua, SCIC cũng đối mặt với một số khó khăn:

- Thứ nhất, việc tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh

nghiệp còn chậm, qui mô hạn chế: qua gần 10 năm hoạt động, vốn nhà nƣớc do

SCIC quản lý mới bằng khoảng 3% tổng số vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp nên hạn

chế việc thực hiện mục tiêu đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn

nhà nƣớc tại doanh nghiệp gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các

ngành, lĩnh vực quan trọng, củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà

nƣớc thông qua mô hình SCIC. Nguyên nhân chính của việc này là do chƣa có sự

thống nhất về mô hình quản lý vốn tập trung của Chính phủ dẫn đến nhận thức của

các bộ ngành, địa phƣơng vẫn còn tâm lý bảo vệ lợi ích nhóm, không muốn bàn

giao doanh nghiệp về cho SCIC.

- Thứ hai, việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước thông qua

ủy quyền người đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm,

quyền lợi của Ngƣời đại diện còn bất cập; Chế độ lƣơng, thƣởng, thù lao đối với

Ngƣời đại diện còn chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.

- Thứ ba,về quản trị doanh nghiệp thông qua vai trò cổ đông: SCIC vẫn còn

gặp nhiều vƣớng mắc do các tồn tại phát sinh tại thời điểm cổ phần hóa, trƣớc khi

bàn giao về SCIC chƣa giải quyết dứt điểm; nhiều vấn đề phức tạp tại doanh nghiệp

nhƣ kiện cáo kéo dài, tồn tại về tài chính, quản trị doanh nghiệp; Các doanh nghiệp

hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau (đa ngành) nên đòi hỏi kiến thức tổng

hợp, chuyên sâu của các cán bộ quản lý doanh nghiệp...

- Thứ tư, về công tác đầu tư: kết quả chƣa cao do một số quy định về trình tự,

thủ tục đầu tƣ còn nhiều vƣớng mắc làm kéo dài quá trình triển khai các dự án;

đồng thời tình hình thị trƣờng những năm gần đây hết sức khó khăn dẫn đến lựa

69

chọn danh mục đầu tƣ, định hƣớng đầu tƣ bị hạn chế...

CHƢƠNG 4

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA

TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

4.1. Bối cảnh thực hiện phân công của Ch nh phủ về thực hiện quyền đại diện chủ

sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp hiện nay

Hiện nay, phân công của Chính phủ về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu

vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đƣợc thực hiện theo Nghị định số 99/2012/NĐ-CP

ngày 15/11/012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách

nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn

nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Nghị định 99 ban hành đã:

- Phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ chủ sở hữu

nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng đổi mới phù hợp hơn với yêu

cầu của kinh tế thị trƣờng và quy định cụ thể hơn về quyền, trách nhiệm của từng

chủ thể đại diện chủ sở hữu nên đã tạo thuận lợi hơn cho tổ chức thực hiện các

quyền của chủ sở hữu nhà nƣớc và doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ hơn trong

hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Nghị định 99 quy định rõ ràng cụ thể quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu,

giúp quá trình quản lý doanh nghiệp đƣợc thực hiện minh bạch và rõ ràng. Quyền,

trách nhiệm của SCIC đƣợc quy định riêng tại Khoản 2/Điều 4 Nghị định 99 đã tạo

hành lang pháp lý cho SCIC, thực tế đã đƣợc triển khai áp dụng, đƣa vào quy định

tại Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013 về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế

hoạt động của SCIC.

- Quy định về ngƣời đại diện tại Nghị định 99 đã đƣợc cụ thể hóa trong Quy

chế Ngƣời đại diện của SCIC. Trên cơ sở đó, Tổng công ty đã từng bƣớc kiện toàn

đƣợc hệ thống ngƣời đại diện. Cơ bản việc phối hợp giữa Tổng công ty và ngƣời đại

70

diện là chặt chẽ theo Quy chế ngƣời đại diện. Thông qua đó, Tổng công ty đã thực

hiện tốt vai trò là cổ đông Nhà nƣớc tại doanh nghiệp với các quyền và nghĩa vụ

theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, phân công về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc

tại doanh nghiệp theo Nghị định 99 còn một số tồn tại, hạn chế:

- Phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phƣơng thực hiện các quyền,

trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc nên chƣa tách bạch chức năng

chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc và điều tiết thị trƣờng của

các cơ quan hành chính nhà nƣớc; dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu

đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp

gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các ngành, lĩnh vực quan trọng,

củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc thông qua mô hình SCIC.

- Quyền, trách nhiệm chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng

lặp làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát đối với DNNN.

- Chƣa tách bạch rõ về mục tiêu, công cụ, phƣơng pháp cũng nhƣ tổ chức bộ

máy và cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở

hữu nhà nƣớc làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chủ sở hữu nhà nƣớc cũng

nhƣ quản lý nhà nƣớc.

- Về việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua ủy

quyền ngƣời đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm, quyền

lợi của Ngƣời đại diện không rõ ràng; một số ngƣời đại diện chƣa tuân thủ đầy đủ

quy định về báo cáo, lấy ý kiến của SCIC; chế độ tiền lƣơng, thù lao, tiền thƣởng

đối với Ngƣời đại diện còn bất cập, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.

- Về quản trị doanh nghiệp: Ngoài việc thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa

vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc sở hữu 100% vốn điều

lệ cơ bản thuận lợi thì việc quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp khác

theo quy định tại Nghị định 99 vẫn còn gặp khó khăn, do hoạt động quản trị đối với

các loại hình doanh nghiệp đa sở hữu vốn điều lệ nhƣ công ty TNHH2TV trở lên,

công ty cổ phần đều chịu sự chi phối bởi Luật Doanh nghiệp, Điều lệ Công ty và hệ 71

thống các quy chế quản trị nội bộ nên việc thực hiện Nghị định 99 về quản trị vốn

nhà nƣớc đầu tƣ tại các doanh nghiệp này còn gặp phải khó khăn.

Những bất cập nêu trên của mô hinh thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu

vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đã gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tiến trình đổi mới,

sắp xếp DNNN; hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp.

4.2. Đề xu t về mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở Việt

Nam thông qua thực tiễn hoạt động của SCIC

4.2.1. Lựa chọn mô hình

Hiện nay, triển khai thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về việc tiếp

tục hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc; từ kinh

nghiệm quốc tế và qua đánh giá thực tế Việt Nam, một số cơ quan quản lý nhà nƣớc

đã xây dựng đề án và đề xuất về mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ

sở hữu nhà nƣớc; có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nhƣng tập trung vào

3 mô hình:

- Mô hình 1: Một đơn vị thuộc Bộ, UBND cấp tỉnh thực hiện chuyên trách

chức năng đại diện chủ sở hữu là mô hình có nhiều bất cập nhất vì (i) Mô hình này

cơ bản nhƣ đang thực hiện và đƣợc quy định trong Nghị định 99/2012/NĐ-CP về

phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với

doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp; (ii) Mô hình này

không tách bạch đƣợc chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà

nƣớc, điều tiết thị trƣờng; vẫn phân tán, thiếu thống nhất vì giao cho 18 Bộ và 63

Tỉnh, Thành phố thực hiện.

- Mô hình 2: Cơ quan nhà nƣớc độc lập thực hiện chức năng đại diện chủ sở

hữu nhƣng không thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, điều tiết thị trƣờng là mô

hình đƣợc Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng)

đề xuất lựa chọn trong báo cáo nghiên cứu “Thành lập cơ quan độc lập chuyên trách

thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp”. Mô

hình này mới đạt đƣợc yêu cầu quản lý, còn yêu cầu về hoạt động đầu tƣ kinh doanh 72

vốn của mô hình này khó có thể triển khai đƣợc. Cách thức quản lý chƣa thoát khỏi

phƣơng thức quản lý hành chính... Mô hình này đƣợc nghiên cứu, thiết kế chủ yếu

theo mô hình SASAC của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính quốc tế

đánh giá mô hình SASAC chƣa hiệu quả vì đặc điểm hành chính Nhà nƣớc của cơ

quan này. Hiện nay, mô hình SASAC đã không phù hợp và đáp ứng đƣợc yêu cầu

cải cách DNNN ở Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã có kế hoạch cải tổ cơ

quan này theo hƣớng chỉ tập trung vào chức năng quản lý nhà nƣớc và thành lập tổ

chức quản lý đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc theo mô hình Temasek của Singapore.

Hiện nay, ở nƣớc ta một số cơ quan có xu hƣớng đề xuất hình thành một cơ

quan theo mô hình SASAC của Trung Quốc. Vừa qua, Bộ KHĐT đã triển khai xây

dựng dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định 99; trong đó trọng tâm là qui định về chức

năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Cơ quan chuyên trách về đại diện chủ sở

hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp - “Ủy ban Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp” theo mô hình SASAC của Trung Quốc.

Mô hình hoạt động của Ủy ban này mới đạt đƣợc yêu cầu quản lý chặt chẽ,

còn yêu cầu về hiệu quả đầu tƣ, kinh doanh của doanh nghiệp thì chƣa rõ. Mô hình

này, có nhiều vấn đề cần nghiên cứu giải quyết:

Một là: cách thức quản lý phải thoát khỏi phƣơng thức quản lý hành chính,

quan liêu, nhiều thủ tục phiền hà, mất nhiều thời gian dẫn đến làm mất cơ hội kinh

doanh của doanh nghiệp. Theo báo cáo, nhân sự của Uỷ ban này chủ yếu đƣợc

chuyển từ các cơ quan hành chính nhà nƣớc sang vì vậy không tránh khỏi việc này.

Hai là, xác định rõ cách đầu tƣ nhƣ thế nào. Uỷ ban là cơ quan quản lý hay là

tổ chức đầu tƣ. Để đảm bảo hiệu quả đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc thì phải

chuyển hình thức cấp vốn hiện nay sang hình thức đầu tƣ vốn; để đầu tƣ thì phải có

nguồn vốn đầu tƣ và có các chuyên gia có trình độ chuyên môn làm đầu tƣ (cả đầu

tƣ dự án, đầu tƣ tài chính và đầu tƣ mua cổ phần phát hành thêm của doanh nghiệp).

73

Tại SCIC việc đầu tƣ vốn đƣợc thực hiện khá hiệu quả, thể hiện ở kết quả sau:

+ Nguồn vốn đầu tƣ: Từ nguồn thu bán vốn nhà nƣớc, cổ tức và lợi nhuận để

lại, SCIC thực hiện đầu tƣ vào các tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nƣớc thông

qua mua cổ phần và góp vốn vào dự án; đầu tƣ góp vốn thành lập doanh nghiệp mới;

đầu tƣ vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính

phủ với tổng vốn đầu tƣ là trên 24.000 tỷ đồng.

+ Với vai trò cổ đông nhà nƣớc, đặc biệt là đối với những DN lớn có vốn chi

phối, SCIC đã chủ động triển khai thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp, tái

cơ cấu, xử lý tồn tại, ổn định tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Ví dụ điển hình là Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và Xây dựng VN

(Vinaconex). Năm 2012, doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh

doanh và mất cân đối tài chính, SCIC đã đầu tƣ hơn 1.000 tỷ đồng mua cổ phần theo

quyền mua của cổ đông hiện hữu, hỗ trợ việc phát hành tăng vốn của DN đảm bảo

theo đúng lộ trình. Bên cạnh đó, thông qua việc áp dụng các chính sách hiệu quả về

quản lý dòng tiền, quản lý bảo lãnh, thu hồi công nợ đã giúp cho tình hình tài chính

của DN lành mạnh và ổn định, kết quả: Vinaconex tránh khỏi nguy cơ phá sản, năm

2013-2014 kinh doanh có lãi, trả cổ tức 6%, giá cổ phiếu tăng từ 8.000 đồng/cổ phần

(năm 2012) lên 14.000 đồng/cổ phần (năm 2015).

Ba là, chế độ lƣơng, đãi ngộ để thu hút, giữ chân ngƣời tài. Nếu là Ủy ban

(một cơ quản quản lý) có chế độ lƣơng, chế độ đãi ngộ nhƣ cơ quan hành chính nhà

nƣớc thì không giải quyết đƣợc việc này.

Bốn là, Về đối tƣợng quản lý của Ủy ban dự kiến là khoảng trên 30 doanh

nghiệp, tuy nhiên trong khoảng 30 doanh nghiệp này, có nhiều doanh nghiệp không

thuộc diện nhà nƣớc phải nắm giữ chi phối theo Quyết định 37/2014/QĐ-TTg ngày

18/6/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại

doanh nghiệp nhà nƣớc. Nhƣ vậy, đối tƣợng quản lý chủ yếu chỉ dƣới 30 doanh

nghiệp nhà nƣớc thì không cần phải thành lập Cơ quan thực hiện chức năng đại diện

74

chủ sở hữu nhà nƣớc theo lộ trình 02 giai doạn nhƣ đã nêu trong báo cáo nghiên cứu.

Năm là, Với mô hình hoạt động của Ủy ban Đại diện chủ sở hữu vốn nhà

nƣớc tại doanh nghiệp, việc giám sát, đánh giá đối với kết quả hoạt động, đặc biệt là

đánh giá về các chỉ tiêu hiệu quả tài chính rất khó thực hiện.

Sáu là, Mô hình Ủy ban đƣợc nghiên cứu, thiết kế chủ yếu theo mô hình

SASAC của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính quốc tế đánh giá mô

hình SASAC chƣa hiệu quả vì đặc điểm hành chính Nhà nƣớc của cơ quan này.

Bảy là, chƣa khắc phục đƣợc hạn chế của Nghị định 99 là quyền, trách nhiệm

chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng lặp làm giảm hiệu lực, hiệu

quả quản lý, giám sát đối với DNNN. Theo dự thảo Nghị định, ngoài Ủy ban là cơ

quan đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp và phần vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp quy mô lớn (dự kiến khoảng 30 tập đoàn, tổng công ty); còn có Bộ quản lý

ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công An là cơ quan đại diện

chủ sở hữu đối với doanh nghiệp công ích, quốc phòng, an ninh; Ngân hàng Nhà

nƣớc là cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nƣớc tại các ngân hàng

thƣơng mại và tổ chức tín dụng và Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn nhà

nƣớc.

- Mô hình 3: Mô hình công ty đầu tƣ và quản lý giám sát DNNN là mô hình

tổ chức kinh tế đặc biệt hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trƣờng, mô hình

này đổi mới triệt để, toàn diện, hiệu quả hơn vì không phải thành lập thêm cơ quan

hành chính và cơ bản giải quyết đƣợc những hạn chế nêu trên của mô hình 2. Ngoài

chức năng giám sát DNNN, về cơ bản đây chính là mô hình hoạt động của SCIC

hiện nay.

4.2.2. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII có nêu chủ trƣơng: “Thành lập

một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà

nước”. Với chủ trƣơng trên của Đảng, qua thực tiễn gần 10 năm tiếp nhận và thực

hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại gần 1.000 doanh nghiệp của SCIC

75

và kinh nghiệm thế giới về lựa chọn mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc; để đáp

ứng yêu cầu của tiến trình tái cơ cấu, đổi mới, sắp xếp DNNN và mục tiêu nâng cao

hiệu quả; việc đề xuất hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh

nghiệp trong thời gian tới với hai định hƣớng lớn nhƣ sau:

- Một là, tiếp tục củng cố mô hình hoạt động của SCIC với mô hình hoạt

động là Tổ chức kinh tế đặc biệt có vai trò thực hiện thống nhất quyền và nghĩa vụ

chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nƣớc

đã cổ phần hóa và các công ty TNHH một thành viên và hai thành viên trở lên

100% vốn nhà nƣớc không hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công ích, an ninh

quốc phòng. Mô hình này đã trải nghiệm qua gần 10 năm hoạt động với những lợi

thế về: quản trị doanh nghiệp, tái cơ cấu, tập trung và tích lũy vốn để đầu tƣ kinh

doanh, tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc và quản lý hành

chính nhà nƣớc… Hoạt động của SCIC tập trung vào một số nhiệm vụ chính sau:

(1) Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các Tập

đoàn kinh tế, Tổng công ty; công ty cổ phần, công ty TNHH 1 TV và 2 TV trở lên,

có vốn góp nhà nƣớc do các Bộ, ngành, địa phƣơng làm đại diện chủ sở hữu (các

doanh nghiệp công ích, an ninh quốc phòng tiếp tục do các Bộ, địa phƣơng tiếp tục

làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc);

(2) Tiếp tục thực hiện các hoạt động sắp xếp, cổ phần hóa, bán vốn nhà nƣớc

đầu tƣ tại doanh nghiệp đƣợc chuyển giao theo quy định hiện hành;

(3) Đầu tƣ vốn vào các tập đoàn, tổng công ty, hoặc công ty mẹ hoạt động

trong lĩnh vực, ngành nghề nhà nƣớc nắm giữ quyền chi phối. Đầu tƣ vốn vào các

dự án theo chỉ định của Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ. Đầu tƣ và kinh doanh vốn

vào ngành, lĩnh vực, dự án đem lại hiệu quả kinh tế theo quy định của pháp luật;

Về mối quan hệ giữa SCIC với các Bộ, địa phƣơng trong việc thực hiện

quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp sau khi tiếp nh n.

- Tính đến nay, SCIC đã chủ động ký và triển khai thực hiện Quy chế phối

hợp với 51 tỉnh/thành phố với nội dung phối hợp toàn diện trong thực hiện quyền

đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp trên địa bàn do tỉnh/thành 76

phố làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc trƣớc khi bàn giao cho SCIC. Nội dung

Quy chế phối hơp quy định cụ thể trách nhiệm của SCIC và các tỉnh/thành phố

trong phối hợp từ khâu thực hiện cổ phần hóa và chuyển giao vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp về SCIC đến quản lý doanh nghiệp sau khi chuyển giao về SCIC, tập

trung vào trao đổi thông tin và phối hợp trong xử lý các vấn đề liên quan đến doanh

nghiệp trên địa bàn; về quản lý ngƣời đại diện...

- Trong thời gian tới, để tăng cƣờng phối hợp với các Bộ, địa phƣơng trong

việc chuyển giao và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh

nghiệp; SCIC cần tiếp tục ký Quy chế phối với các Bộ, đặc biệt là các Bộ có nhiều

DN thuộc đối tƣợng chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc về SCIC.

Đồng thời, có thể đề xuất với các cơ quan quản lý nhà nƣớc thể chế hóa những quy

định về phối hợp giữa các Bộ, địa phƣơng với SCIC chuyển giao và thực hiện

quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp.

- Hai là, thành lập Tổng cục Giám sát vốn nhà nước tại doanh nghiệp với

mô hình hoạt động tƣơng tự nhƣ Tổng cục Quản lý vốn và tài sản nhà nƣớc tại

doanh nghiệp trƣớc đây (Đề án thành lập Tổng cục trên cơ sở Cục Tài chính DN đã

đƣợc Bộ Tài chính trình Chính phủ). Tổng cục có vai trò thực hiện quản lý nhà

nƣớc về tài chính doanh nghiệp và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp có vốn

nhà nƣớc.

Với định hƣớng hoàn thiện nêu trên, mô hình tổng thể về thực hiện quyền đại

diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở nƣớc ta trong thời gian tới có thể

77

khái quát bằng sơ đồ sau:

Ch nh phủ (Thủ tƣớng Ch nh phủ)

Bộ, Địa phƣơng

Tổng cục Giám sát vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp (Bộ Tài ch nh)

Tổng công ty Đầu tƣ và k nh doanh vốn nhà nƣớc

DN công ích, An ninh QP

Tập đoàn KT, TCT nhà nƣớc

Quản lý nhà nƣớc vế tài chính doanh ngiệp

Giám sát tài chính các tập đoàn, tổng công ty và DN có vốn nhà nƣớc

Cty CP, TNHH 1, 2 TV có vốn NN độc lập do các Bộ, ĐP chuyển giao

Hình 4.1: Sơ đồ mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước

tại doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới

Mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh

nghiệp của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thới gian tới có

thể khái quát bừng sơ đồ sau:

Ch nh phủ (Thủ tƣớng Ch nh phủ)

Tổng công ty Đầu tƣ và k nh doanh vốn nhà nƣớc

T p đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nƣớc

Cty CP, TNHH 1, 2 TV có vốn NN độc l p do các Bộ, ĐP chuyển giao

Hình 4.2: Sơ đồ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước

78

tại doanh nghiệp của SCIC

4.3. Đề xu t giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty đầu tƣ

và kinh doanh vồn Nhà nƣớc trong thời gian tới

4.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước

4.3.1.1. Vị trí, chức năng

Tổng công ty Đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc là tổ chức kinh tế đặc biệt có

vai trò quan trọng trong việc thực hiện thống nhất quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu

vốn nhà nƣớc tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nƣớc và công ty cổ

phần có vốn nhà nƣớc; Góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, sắp xếp

đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nƣớc; đẩy mạnh đổi mới phƣơng

thức đầu tƣ vốn nhà nƣớc.

Tập trung đầu tƣ kinh doanh vốn vào một số ngành lĩnh vực then chốt, trọng

yếu nhà nƣớc cần nắm giữ chi phối, góp phần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế

Nhà nƣớc; đồng thời phải đảm bảo hiệu quả theo nguyên tắc thị trƣờng.

4.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể

* Tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Tổng công ty thực hiện tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các

loại hình doanh nghiệp thuộc diện bàn giao cho SCIC theo Nghị định số

151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013; Thông tƣ số 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014

về việc hƣớng dẫn việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

SCIC và các văn bản chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ; bao gồm cả các tập đoàn kinh

tế, tổng công ty, ngân hàng thƣơng mại theo quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.

* Quản trị và tái cơ cấu danh mục đầu tư

- Quản trị vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp: SCIC sẽ áp dụng các chuẩn

mực quản trị doanh nghiệp tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế nhƣ tham gia Đại hội cổ

đông; quyền của cổ đông, thực hiện quyền yêu cầu minh bạch và công bố thông tin,

trách nhiệm của Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp... gắn với từng loại hình

79

doanh nghiệp căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nƣớc

đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định 151/2013/NĐ-CP, và

Quyết định 2344/QĐ-TTg, bao gồm: doanh nghiệp là Công ty TNHH1TV, Công ty

TNHH2TV và Công ty cổ phần.

* Đầu tư kinh doanh vốn

Theo Nghị định 151/2013/NĐ-CP, Tổng công ty sẽ tham gia đầu tƣ vào

những ngành lĩnh vực quan trọng: Đầu tƣ vốn vào các dự án, tập đoàn, tổng công ty

hoặc công ty mẹ hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà nƣớc

cần nắm giữ quyền chi phối; Đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu theo nhiệm vụ

của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao bằng nguồn vốn của Chính phủ hoặc

nguồn vốn do Tổng công ty tự cân đối; Đầu tƣ bổ sung vốn vào các doanh nghiệp

có vốn của SCIC.

Sau khi hoàn thành thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp tiếp nhận, bên

cạnh các doanh nghiệp qui mô lớn, tập đoàn, tổng công ty thuộc danh mục nắm giữ

lâu dài; SCIC thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và đầu tƣ tài chính để nắm

giữ thêm một số doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có

hiệu quả cao.

* Hoạt động tư vấn

Trong thời gian tới, hoạt động tƣ vấn của SCIC tập trung vào hoạt động tƣ

vấn quản trị doanh nghiệp và tƣ vấn đầu tƣ: tƣ vấn tìm kiếm đối tác và thẩm định dự

án đầu tƣ; tƣ vấn tài chính: tái cấu trúc vốn, tái cơ cấu nợ; tƣ vấn cơ cấu quản trị của

các doanh nghiệp; tƣ vấn cổ phần hóa cho các công ty TNHH một thành viên; tƣ

vấn xây dựng chiến lƣợc kinh doanh…

* Quản lý Qũy Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp trung ương

4.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước

Để triển khai thành công chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Tổng

80

công ty hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức nhƣ sau:

(i) Hội đồng thành viên: có 07 thành viên, gồm có: Chủ tịch và thành viên

hoạt động chế độ chuyên trách và chế độ tập thể lãnh đạo, phân công cho từng cá

nhân phụ trách từng mảng vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên.

Thành lập một số các ủy ban chuyên môn giúp việc cho Hội đồng thành viên nhằm

nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của Hội đồng thành viên.

(ii) Ban Kiểm soát: có 3 thành viên, gồm có: Trƣởng ban kiểm soát và 02

thành viên;

(iii) Ban Tổng giám đốc:có 07 thành viên, gồm có: Tổng giám đốc (kiêm

thành viên Hội đồng thành viên) và 06 Phó Tổng giám đốc;

(iv) Các đơn vị quản lý vốn đầu tư: Các Ban Quản lý vốn đầu tƣ theo ngành

và Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại các tập đoàn, tổng công ty:

(vi) Các đơn vi đầu tư kinh doanh vốn: Ban Đầu tƣ dự án, Ban Đầu tƣ tài chính

(vi) Các đơn vị tổng hợp, chức năng gồm: Ban Tài chính - Kế toán, Ban Kế

hoạch - Tổng hợp, Ban Pháp chế, Ban Tổ chức - Cán bộ - Lao động - Tiền lƣơng,

Văn phòng Điều hành, Ban Tin học - Thống kê, Ban Quản lý rủi ro; Ban Kiểm tra

nội bộ… thực hiện nhiệm vụ tham mƣu theo lĩnh vực đƣợc phân công;

(vii) Các đơn vị trực thuộc:hai chi nhánh ở miền Trung và phía Nam, các văn

phòng đại diện của tổng công ty tại nƣớc ngoài (khi đủ điều kiện hình thành).

(viii) Các công ty thành viên: Công ty Đầu tƣ SCIC

4.3.3. Các giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của SCIC trong thời gian tới

4.3.3.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách

Nhà nƣớc không can thiệp hành chính đối với SCIC. SCIC tự xây dựng một

định hƣớng kế hoạch, Nhà nƣớc sẽ duyệt định hƣớng kế hoạch này và trao cho

SCIC quyền đƣợc thực hiện định hƣớng kế hoạch đó tùy theo tình hình thị trƣờng.

Nếu việc gì SCIC cũng phải xin phép thì doanh nghiệp sẽ ỷ lại, không tự chịu trách

81

nhiệm và có thể để cơ hội đầu tƣ, kinh doanh trôi qua.

Tiếp tiếp tục đẩy mạnh quán triệt và triển khai thực hiện chủ trƣơng hoàn

thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp theo hƣớng tách bạch

chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc trong các văn

bản hƣớng dẫn triển khai thực hiện Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII và Nghị

quyết Hội nghị Trung ƣơng chuyên đề về tái cơ cấu DNNN.

Tiến hành đánh giá về kết quả triển khai Kết luận số 78-KL/TW ngày

26/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án “Tiếp tục củng cố, phát huy vai trò của SCIC”,

qua đó khẳng định tính đúng đắn và ban hành văn bản về chủ trƣơng tiếp tục củng

cố mô hình SCIC trong thời gian tới.

Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về thực hiện quyền đại diện chủ sở

hữu vốn nhà nƣớc. Tiến hành đánh giá, nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định số

99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện

các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với DNNN và vốn

nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định

151, Nghị định 57 phù hợp một số luật mới đƣợc ban hành, đồng thời tiếp tục có

một số cơ chế đặc thù tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn

của SCIC.

4.3.3.2. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp DNNN, chỉ đạo quyết liệt công tác

bàn giao đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Đề nghị các Bộ, ngành, UBND địa phƣơng tổ chức triển khai cổ phần hóa

dứt điểm, triệt để các công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên theo đúng quy định

tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển giao doanh

nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành CTCP trƣớc khi chuyển giao về SCIC. Thúc đẩy

nhanh quá trình cổ phần hóa nhằm thực hiện 1 phần cam kết của Chính phủ Việt

Nam khi hội nhập quốc tế.

Công tác chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp về SCIC triển khai rất chậm trong thời gian qua một phần do các quy định

82

về cổ phần hóa quy định nhiều quy định phức tạp, việc xử lý các tồn tại về tài chính

tại nhiều doanh nghiệp cũng chậm. Tuy nhiên một phần cũng do nhiều địa phƣơng

còn muốn trì hoãn, chƣa quyết liệt trong việc chỉ đạo công tác chuyển giao.

Để đẩy nhanh việc này, đồng thời với việc tiếp tục xây dựng kế hoạch sắp

xếp, cổ phần hóa giai đoạn từ nay đến năm 2017, Nhà nƣớc cần chỉ đạo quyết liệt

hơn nữa công tác bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh

nghiệp về SCIC, cần thiết có thể ban hành chế tài về việc hƣớng dẫn chuyển giao

quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp về SCIC, quy định

rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của các Bộ, Ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trong

việc thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc về SCIC. Về

phía SCIC cũng cần phối hợp hỗ trợ tích cực các Bộ, ngành, địa phƣơng trong quá

trình xử lý các tồn tại tại doanh nghiệp.

Cần nâng cao chất lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc chuyển giao về

SCIC, kiên quyết không tiếp nhận đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của Nhà

nƣớc làm ăn kém hiệu quả, có nhiều tồn tại về tài chính. Yêu cầu các Bộ, Ngành,

địa phƣơng thực hiện sáp nhập, thậm chí giải thể, phá sản… không bàn giao về SCIC.

Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phƣơng: (i) Đẩy nhanh tiến

độ, thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ về chuyển giao quyền

đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, Tập đoàn, Tổng công ty

cho SCIC: (ii) Tạo điều kiện cho SCIC thực hiện đầu tƣ vào các lĩnh vực then chốt

của nền kinh tế, các dự án đem lại hiệu quả; đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu

theo nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao.

Căn cứ Nghị định số 151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013; Thông tƣ số

118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 về việc hƣớng dẫn việc chuyển giao quyền đại

diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại SCIC và các văn bản chỉ đạo của Thủ tƣớng

Chính phủ; định hƣớng, mục tiêu tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu, Tổng công

ty sẽ tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc:

- Tiếp tục thực hiện việc tiếp nhận tại Công ty TNHH 1 TV, công ty TNHH

83

có 2 thành viên trở lên đƣợc chuyển đổi từ công ty nhà nƣớc độc lập trực thuộc các

Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố hoặc mới thành lập;

Công ty cổ phần đƣợc chuyển đổi từ các doanh nghiệp độc lập 100% vốn nhà nƣớc

trực thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh hoặc mới thành lập;

Công ty liên doanh có vốn góp nhà nƣớc do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban

nhân dân tỉnh làm đại diện chủ sở hữu;

- Tiếp nhận một số Tập đoàn, tổng công ty đã cổ phần hóa theo phê duyệt

của Thủ tƣớng Chính phủ. Tiếp nhận tại các Tập đoàn, Tổng công ty thuộc các Bộ,

cơ quan ngang Bộ, ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc đã cổ phần hóa, công ty đầu tƣ

tài chính nhà nƣớc tại địa phƣơng theo quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.

4.3.3.3. Củng cố hoạt động quản lý vốn đầu tư tại doanh nghiệp

* Quản trị và tái cơ cấu danh mục đầu tư:

- Quản trị vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp: SCIC sẽ áp dụng các chuẩn

mực quản trị doanh nghiệp tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế nhƣ tham gia Đại hội cổ

đông; quyền của cổ đông, thực hiện quyền yêu cầu minh bạch và công bố thông tin,

trách nhiệm của Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp... gắn với từng loại hình

doanh nghiệp căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nƣớc

đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định 151/2013/NĐ-CP, và

Quyết định 2344/QĐ-TTg, bao gồm: doanh nghiệp là Công ty TNHH1TV, Công ty

TNHH2TV và Công ty cổ phần.

- Về tái cơ cấu danh mục đầu tƣ, SCIC xây dựng phƣơng án tái cơ cấu các DN:

+ Tiếp tục đẩy mạnh thoái vốn các doanh nghiệp Nhà nƣớc không cần nắm

giữ vốn theo lộ trình của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ. Tổng công ty duy trì

vốn tại một số doanh nghiệp quy mô lớn, quan trọng thuộc các ngành nghề lĩnh vực

hiệu quả cao, Nhà nƣớc cần chi phối.

+ Tập trung đầu tƣ, nắm giữ vốn tại một số doanh nghiệp, tập đoàn, tổng

công ty quy mô lớn, quan trọng thuộc một số ngành, lĩnh vực then chốt mà Nhà

84

nƣớc cần nắm giữ chi phối và thuộc diện đầu tƣ, nắm giữ lâu dài của SCIC.

Thực hiện quản trị doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp:

- Đối với các tập đoàn, tổng công ty:

+ Bên cạnh để cử cán bộ tham gia trực tiếp vào các vị trí quan trọng trong

doanh nghiệp nhƣ: Thành viên Hội đồng thành viên, Ban điều hành, Ban Kiểm soát;

Tổng công ty sẽ lựa chọn và mời các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động

của doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện (theo Luật Doanh nghiệp năm

2014) tham gia làm thành viên hội đồng quản trị độc lập không điều hành và thành

viên Ban Kiểm soát của các công ty mẹ của tập đoàn, tổng công ty tiếp nhận từ các Bộ.

+ Thành lập 01 Ban Quản lý vốn đầu tƣ (bao gồm các cán bộ, chuyên viên có

trình độ, kinh nghiệm) đảm nhận nhiệm vụ tiếp nhận và quản lý vốn tại các tập

đoàn, tổng công ty.

+ Sửa đổi, bổ sung Quy chế quản trị vốn nhà nƣớc tại công ty TNHH MTV

và công ty TNHH 2 TV phù hợp, đáp ứng yêu cầu quản trị vốn nhà nƣớc tại các tập

đoàn, tổng công ty.

- Đối với các công ty TNHH 1 TV do Tổng công ty thành lập và nhận chuyển

giao từ các địa phương: Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo trực tiếp, ngoài ngƣời đại diện

tại doanh nghiệp là lãnh đạo doanh nghiệp, Tổng công ty xem xét để cử thêm cán

bộ tham gia trực tiếp vào các vị trí quan trọng trong doanh nghiệp nhƣ: Thành viên

Hội đồng thành viên, Ban điều hành, Ban Kiểm soát. Về quản trị doanh nghiệp thực

hiện có hiệu quả các quyền chủ sở hữu theo qui định. Triển khai thực hiện sắp xếp,

cổ phần hóa một số công ty TNHH 1 thành viên.

- Đối với phần vốn góp của doanh nghiệp tại công ty cổ phần, công ty TNHH

2 TV trở lên:

+ Đối với các doanh nghiệp thuộc diện đầu tƣ nắm giữ lâu dài: Củng cố ban

lãnh đạo doanh nghiệp, cử ngƣời đại diện có năng lực có trách nhiệm; tăng cƣờng

cử cán bộ Tổng công ty tham gia HĐQT và Ban giám đốc của doanh nghiệp. Về

85

quản trị doanh nghiệp, thực hiện thông qua quyền cổ đông cho phối theo Luật DN.

+ Đối với các doanh nghiệp không thuộc diện đầu tƣ nắm giữ lâu dài: Tổng

công ty sẽ đẩy mạnh triển khai bán vốn tại các doanh nghiệp thuộc nhóm này. Tổng

công ty chủ yếu quản lý điều hành thông qua ngƣời đại diện tại doanh nghiệp. Tuy

nhiên, tại một số doanh nghiệp phát sinh các vấn đề phức tạp, Tổng công ty cử cán

bộ tham gia Hội đồng quản trị, làm Giám đốc tài chính, tham gia Ban kiểm soát.

Nâng cao hiệu quả quản trị trên cơ sở phân loại doanh nghiệp đầu tư.

- Với mục tiêu ƣu tiên đẩy nhanh quá trình bán vốn, tích tụ tập trung vốn và

xác định nhóm doanh nghiệp chiến lƣợc giữ lại lâu dài nhằm đẩy mạnh việc quản trị

doanh nghiệp, SCIC đã phân loại các doanh nghiệp SCIC quản lý thành 02 nhóm: A

(giữ lại) và B (linh hoạt) để đƣa ra các biện pháp quản trị.

+ Nhóm A là nhóm các doanh nghiệp nằm trong chiến lƣợc nắm giữ, đầu tƣ

dài hạn của Tổng công ty và các doanh nghiệp tạm thời phải nắm giữ vốn theo quy

định của Thủ tƣớng Chính phủ. SCIC sẽ tiến hành cử ngƣời trực tiếp tham gia vào

Ban quản lý, Ban điều hành của doanh nghiệp.

+ Nhóm B mà SCIC sẽ đẩy mạnh thực hiện thoái vốn theo định hƣớng của

Chính phủ đối với những ngành, lĩnh vực không nằm trong danh mục Nhà nƣớc cần

nắm giữ, chi phối.

- Sau khi hoàn thành cơ bản thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp; công tác

quản trị doanh nghiệp của SCIC sẽ tập trung vào thực hiện vai trò của cổ đông trong

việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn, tập đoàn,

tổng công ty thuộc diện SCIC đầu tƣ nắm giữ lâu dài.

* Đầu tư kinh doanh vốn.

- Theo Nghị định 151/2013/NĐ-CP, Tổng công ty sẽ tham gia đầu tƣ vào

những ngành lĩnh vực quan trọng: Đầu tƣ vốn vào các dự án, tập đoàn, tổng công ty

hoặc công ty mẹ hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà nƣớc

cần nắm giữ quyền chi phối; Đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu theo nhiệm vụ

86

của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao bằng nguồn vốn của Chính phủ hoặc

nguồn vốn do Tổng công ty tự cân đối; Đầu tƣ bổ sung vốn vào các doanh nghiệp

có vốn của SCIC.

- Đầu tƣ và kinh doanh vốn vào dự án, ngành, lĩnh vực đem lại hiệu quả kinh

tế: Đầu tƣ góp vốn thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tƣ

mua một phần tài sản hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác; Đầu tƣ thông qua việc mua,

bán cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác; Đầu tƣ liên kết hoặc ủy thác

cho các tổ chức tài chính và quỹ đầu tƣ; Đầu tƣ trực tiếp hoặc gián tiếp ra nƣớc

ngoài; Các hình thức đầu tƣ khác theo quy định của pháp luật.

- Đối với danh mục hiện hữu, TCT sẽ nắm giữ lâu dài 5 ngành, lĩnh vực có

hiệu quả: Thực phẩm - đồ uống, Viễn thông, Dƣợc, Nhựa, Ngân hàng - Bảo hiểm.

- Tham gia với vai trò là nhà đầu tƣ tài chính đối với các khoản đầu tƣ ngoài

ngành của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nƣớc và tham gia tái cơ cấu để

chuyển sang công ty cổ phần đối với các DNNN thuộc diện cổ phần hóa nhƣng

chƣa có điều kiện IPO theo Nghị quyết 15/2014/NQ-CP và Quyết định

51/2014/QĐ-TTg; Tham gia cổ phần hóa các tập đoàn, Tổng công ty nhà nƣớc theo

Nghị định 151/2013/NĐ-CP và mục tiêu của Chính phủ.

- Bên cạnh việc triển khai tiếp nhận vốn nhà nƣớc, tiến hành tái cơ cấu và

thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp về cơ bản đã hoàn thành; Tổng công ty sẽ

chuyển sang tập trung đẩy mạnh hơn chức năng đầu tƣ kinh doanh vốn:

+ Tập trung đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà

nƣớc cần nắm giữ quyền chi phối; các doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty

thuộc diện SCIC nắm giữ lâu dài.

+ Đầu tƣ vào một số dự án có quy mô lớn trong các lĩnh vực trọng yếu và có

triển vọng lâu dài;

+ Triển khai hoạt động đầu tƣ tài chính;

87

+ Đẩy mạnh mua bán sáp nhập doanh nghiệp;

+ Triển khai hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài (SCIC trực tiếp đầu tƣ và đầu tƣ

thông qua các doanh nghiệp có vốn cùa SCIC).

- Đối với các doanh nghiệp giữ lại, Tổng công ty sẽ tiếp tục tiến hành đầu tƣ

để phát triển doanh nghiệp này. Đồng thời, tiến hành tìm kiếm các nhà đầu tƣ chiến

lƣợc có công nghệ và kinh nghiệm cùng đầu tƣ góp vốn. Thực hiện sáp nhập (hoặc

hoán đổi, mua lại cổ phiếu) một số doanh nghiệp cùng ngành, lĩnh vực nghề tạo

thành doanh nghiệp chủ đạo của lĩnh vực ngành nghề đó.

- Bên cạnh việc tiếp nhận mới các Tổng công ty thuộc các Bộ, cơ quan ngang

Bộ, ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc đã cổ phần hóa theo quyết định của Thủ tƣớng

Chính phủ; Tổng công ty sẽ đánh giá xây dựng phƣơng án tái cơ cấu giai đoạn 2016

- 2020 trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định, theo đó chỉ duy trì một số có quy mô

lớn, quan trọng giữ vị trí đứng đầu trong ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

- Sau khi hoàn thành thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp tiếp nhận, bên

cạnh các doanh nghiệp qui mô lớn, tập đoàn, tổng công ty thuộc danh mục nắm giữ

lâu dài; SCIC thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và đầu tƣ tài chính để nắm

giữ thêm một số doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có

hiệu quả cao.

* Về hoạt động tư vấn

Trong thời gian tới, hoạt động tƣ vấn của SCIC tập trung vào hoạt động tƣ

vấn quản trị doanh nghiệp và tƣ vấn đầu tƣ: tƣ vấn tìm kiếm đối tác và thẩm định dự

án đầu tƣ; tƣ vấn tài chính: tái cấu trúc vốn, tái cơ cấu nợ; tƣ vấn cơ cấu quản trị của

các doanh nghiệp; tƣ vấn cổ phần hóa cho các công ty TNHH một thành viên; tƣ

vấn xây dựng chiến lƣợc kinh doanh…

Sau khi đội ngũ tƣ vấn của SCIC đã tích lũy đƣợc quy mô và kinh nghiệm

tác nghiệp, sẽ phát triển thêm một số hoạt động tƣ vấn sau: tƣ vấn đầu tƣ vào các tài

sản tài chính; tƣ vấn đầu tƣ dự án trong và ngoài nƣớc; tƣ vấn huy động vốn thông

88

qua thị trƣờng tài chính; tƣ vấn công nghệ quản trị cho các doanh nghiệp; tƣ vấn

mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp thuộc các ngành SCIC

có định hƣớng nắm giữ lâu dài)….

* Về quản lý Qũy Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp trung ương

Trong khuôn khổ nhiệm vụ SCIC đƣợc giao liên quan đến quản lý Quỹ,

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ, SCIC tập trung tăng cƣờng một số công tác sau:

- Tăng cƣờng phối hợp với các cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp nộp tiền

về Quỹ theo quy định.

- Thực hiện chi xuất quỹ kịp thời, đúng quy định theo quyết định của Thủ

tƣớng Chính phủ và Bộ Tài chính.

- Mở sổ kế toán, hạch toán rõ ràng, đầy đủ các khoản thu, chi phát sinh; tổ

chức việc lƣu trữ hồ sơ, chứng từ theo quy định của pháp luật.

- Đối với việc đầu tƣ các dự án quan trọng và các doanh nghiệp thuộc diện

nhà nƣớc tiếp tục duy trì tỷ lệ vốn góp theo phƣơng án đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ

phê duyệt: SCIC sẽ tăng cƣờng trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan

trong việc: rà soát kế hoạch triển khai và khả năng cân đối nguồn vốn của Quỹ và

các dự án trong từng giai đoạn; tổng hợp và xây dựng kế hoạch nguồn vốn đầu tƣ từ

Quỹ báo cáo Bộ Tài chính để thẩm định; giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện dự

án đầu tƣ và tình hình quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tƣ đúng mục đích, đúng đối tƣợng.

- Thực hiện tổng hợp các khó khăn, vƣớng mắc trong công tác quản lý Quỹ

và đề xuất các biện pháp tăng cƣờng công tác quản lý nguồn thu của Quỹ.

4.3.3.4. Đẩy nhanh việc bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà nhà nước

không cần nắm giữ cổ phần, tập trung quản trị các doanh nghiệp nòng cốt và tập

trung vốn để triển khai đầu tư các dự án mới.

SCIC ngay từ khi nghiên cứu đề thành lập đã cố gắng hƣớng theo mô hình

Teamaseck của Singapore. Temasek quản lý và đầu tƣ vốn ít hơn nhiều so với SCIC

89

(khoảng 50-100 doanh nghiệp). Với số lƣợng doanh nghiệp không quá lớn thì mô

hình Temaseck có thể phát huy đƣợc tác dụng. Đây là những định hƣớng chiến lƣợc

của Temaseck mà SCIC nên học tập.

Để phù hợp với việc Nhà nƣớc chỉ nắm giữ những doanh nghiệp then chốt,

quy mô danh mục các Công ty do Nhà nƣớc nắm giữ không nên lớn quá. Kinh

nghiệm các nƣớc cho thấy phần lớn các Công ty quản lý tài sản Nhà nƣớc đều tối

ƣu hóa danh mục của mình thông qua việc giảm số lƣợng các doanh nghiệp từ hàng

nghìn doanh nghiệp xuống khoảng từ 100-200 doanh nghiệp.

Việc giảm số lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nhỏ, không thuộc đối

tƣợng nhà nƣớc cần nắm giữ, duy trì vốn… sẽ tạo điều kiện cho SCIC tập trung ƣu

tiên vào các doanh nghiệp có chất lƣợng, hiệu quả hơn chứ không quản lý một cách

dàn trải nhƣ hiện nay.

Trƣớc mắt nhiệm vụ trọng tâm của SCIC trong thời gian tới là khẩn trƣơng

cơ cấu lại vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp thông qua việc bán hết cổ phần đầu

tƣ tại các doanh nghiệp mà nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ phần để tập trung vào

quản trị các doanh nghiệp nòng cốt và triển khai đầu tƣ vào ngành nghề và lĩnh vực

kinh tế then chốt, nhà nƣớc cần giữ vai trò chủ đạo.

Để thúc đẩy nhanh quá trình thoái vốn của SCIC cần tháo gỡ các vƣớng mắc

trong cơ chế bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, cần cho phép SCIC đƣợc triển

khai mở rộng các hình thức bán vốn nhà nƣớc, phù hợp với Luật doanh nghiệp và

Luật chứng khoán và giao Bộ Tài chính hƣớng dẫn bổ sung, cụ thể là:

Cho phép thỏa thuận bán cổ phần trong trƣờng hợp bán cổ phần của SCIC

cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc (chủ yếu áp dụng đối với các doanh nghiệp

cùng ngành nghề): Giá bán do đơn vị tƣ vấn độc lập theo nguyên tắc bảo toàn vốn

(không thấp hơn giá trị cổ phần ghi trên sổ kế toán). Việc bán cổ phần của SCIC

cho các doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc không làm thất thoát vốn và tài sản nhà

nƣớc. Ngƣợc lại, còn cho phép SCIC lựa chọn đƣợc nhà đầu tƣ chiến lƣợc cho

90

doanh nghiệp, giúp các DNNN khác tăng cƣờng năng lực cạnh tranh.

Cho phép áp dụng hình thức tổ chức bán đấu giá cổ phần theo nhóm các

doanh nghiệp, nhằm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả bán vốn đối với các

doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ, không có lợi thế. Việc định giá doanh nghiệp và giá trị

cổ phần bởi các doanh nghiệp đƣợc thực hiện bởi các tổ chức tài chính trung gian.

Cho phép áp dụng hình thức thỏa thuận hoán đổi cổ phiếu của SCIC lấy cổ

phiếu ở các Công ty khác cùng ngành nghề. Tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu dựa trên giá

trị cổ phần của từng công ty do các công ty tƣ vấn tài chính độc lập xác định.

4.3.3.5. Tăng cường năng lực cho SCIC

Tăng cƣờng nguồn nhân lực: Đối với hoạt động của SCIC thì vấn đề con

ngƣời luôn phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hoạt động quản lý đầu tƣ, kinh doanh vốn

của SCIC không phải là hoạt động đơn giản mà cần trình độ chuyên môn cao. Lấy

ví dụ, khi một doanh nghiệp nào đó sử dụng vốn Nhà nƣớc để kinh doanh những

hoạt động rủi ro nhƣ đầu tƣ chứng khoán, bất động sản hay đầu tƣ chéo vào các

doanh nghiệp khác thì SCIC phải quyết định xem hoạt động đó có đƣợc phép hay

không, và nếu đƣợc thì hiệu quả về mặt tài chính và kế toán nhƣ thế nào? ... đồng

thời, SCIC phải có chuyên gia am hiểu hệ thống kế toán và phân tích tài chính để

đánh giá đƣợc sức khỏe tài chính của doanh nghiệp, vì khi đƣa vốn vào doanh

nghiệp nào đó thì phải đảm bảo đồng vốn đó sử dụng một cách có hiệu quả. Những

doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ và có nguy cơ phá sản phải thoái

vốn, đồng thời đƣa ra những kiến nghị tái cấu trúc cho các doanh nghiệp này… Với

những chức năng trên, nếu SCIC không có đủ khả năng và nguồn lực thì sẽ không

thể làm tốt đƣợc. Nói một cách khái quát, hoạt động quản lý đầu tƣ, kinh doanh vốn

là một hoạt động đòi hỏi chuyên môn cao và sâu, nên buộc SCIC phải có một đôi

ngũ chuyên gia đích thực có đủ kinh nghiệm, kiến thức và nguồn lực.

Tiếp tục củng cố hệ thống Ngƣời đại diện

Tăng cƣờng phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phƣơng trong việc lựa

chọn đánh giá, lựa chọn Ngƣời đại diện tại các doanh nghiệp; đồng thời tăng cƣờng

91

mối quan hệ 3 bên (địa phƣơng- Ngƣời đại diện- SCIC) trong quản lý doanh nghiệp.

Tổ chức lại mạng lƣới Ngƣời đại diện vốn của SCIC tại các doanh nghiệp

theo đó hạn chế tiến tới bỏ dần cơ chế Ngƣời đại diện của SCIC đồng thời là cán bộ,

công chức, viên chức nhà nƣớc của các Bộ, Ngành, UBND các cấp. Từng bƣớc

chuyên môn hóa công tác Ngƣời đại diện để Ngƣời đại diện thực sự là ngƣời bảo vệ

lợi ích của chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trƣờng,

đảm bảo nâng cao hiệu quả đầu tƣ vốn nhà nƣớc và không làm tổn hại đến lợi ích

của các doanh nghiệp.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, nhân sự, thể chế của SCIC nhằm phối hợp tốt hơn

với Ngƣời đại diện trong việc quản lý vốn Nhà nƣớc:

+ Tăng cƣờng cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, nâng cao năng lực, trình độ

chuyên môn, kỹ năng xử lý các vấn đề phát sinh của doanh nghiệp cho cán bộ SCIC.

+ Tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo, tập huấn để hỗ trợ nâng cao năng lực

quản trị của Ngƣời đại diện tại các doanh nghiệp.

+ Hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá thành tích Ngƣời đại diện để có

hình thức động viên, khen thƣởng kịp thời.

Hoàn thiện quy trình, quy chế, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin để

phối hợp với Ngƣời đại diện; kết nối, cập nhật thông tin thƣờng xuyên giữa Ngƣời

đại diện và SCIC.

- Hiện tại, SCIC đang áp dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp CPMS tổng

hợp toàn bộ dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, ngƣời đại diện, tình hình tài chính và

tình hình quản trị của SCIC tại doanh nghiệp. Thời gian tới, SCIC cần áp dụng công

nghệ khoa học tiên tiến để nâng cấp phần mềm để tích hợp thông tin toàn diện, phản

ánh và xử lý kịp thời dữ liệu về doanh nghiệp, về các hoạt động quản trị tại doanh

nghiệp và hoạt động quản trị của SCIC tham gia tại doanh nghiệp. Đáp ứng yêu cầu

trên, mạng công nghệ thông tin của SCIC cần nâng cấp và có thể liên thông thông

92

tin từ doanh nghiệp với nội bộ SCIC.

Có ch nh sách đãi ngộ, thu hút cán bộ hợp lý: Nhƣ đã nêu trên với đặc

thù hoạt động của mình, SCIC cần phải thƣờng xuyên tăng cƣờng chuyên môn và

tăng cƣờng về số lƣợng, thu hút nhiều ngƣời giỏi hơn nữa. Tuy nhiên, với cơ chế về

tài chính nhƣ hiện hành (trả lƣơng theo thang bảng lƣơng của Nhà nƣớc quy định

đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc sở hữu 100% vốn), SCIC rất khó có thể thu hút

đƣợc các chuyên gia hàng đầu về làm việc tại SCIC. Do vậy, để thu hút đƣợc cán bộ

có chất lƣợng thì cơ chế lƣơng của SCIC phải đƣợc thay đổi, cơ chế khuyến khích

phải khác hơn theo hƣớng đãi ngộ tốt hơn, theo nguyên tắc thị trƣờng. Đối với

ngƣời đại diện chuyên trách tại doanh nghiệp, SCIC cần thí điểm cơ chế trả lƣơng,

thƣởng cho ngƣời đại diện để khuyến khích tạo động lực kịp thời.

Củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức hoạt động, theo hƣớng gọn nhẹ, tinh

gọn số lƣợng nhân viên để tránh trở thành một tổ chức hành chính quan liêu cồng

kềnh. Điều này có thể thực hiện đƣợc bằng cách tập trung giải quyết công việc

thông qua HĐQT của doanh nghiệp, giám sát hoạt động của HĐQT và lựa chọn bổ

93

nhiệm những thành viên HĐQT có năng lực và chuyên môn cao.

KẾT LUẬN

Mô hình SCIC là một mô hình mới, với việc SCIC đƣợc thành lập, cơ chế

quản lý vốn đầu tƣ trong các doanh nghiệp của Nhà nƣớc đã đƣợc chuyển sang một

phƣơng thức mới - phƣơng thức kinh doanh, để thay thế cho phƣơng thức quản lý

vốn nhà nƣớc cũ - phƣơng thức hành chính, phù hợp với yêu cầu quản lý vốn nhà

nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.

Luận văn “Mô hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn

nhà nước tại các doanh nghiệp” đã hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về các mô hình

quản lý vốn tập trung và phân tán, thực trạng của phân công quản lý vốn nhà nƣớc

tại các doanh nghiệp. Cũng trong luận văn này, thực trạng của mô hình quản lý vốn

của SCIC đã đƣợc nghiên cứu, đề cập và đánh giá một cách chi tiết, nêu rõ đƣợc các

kết quả đạt đƣợc cũng nhƣng phát hiện đƣợc những tồn tại, hạn chế và vƣớng mắc

trong quá trình hoạt động của SCIC, trên cơ sở phân tích các nguyên nhân cũng nhƣ

qua nghiên cứu kinh nghiệm các mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của một số tổ chức

có hoạt động tƣơng đồng tại một số quốc gia trên thế giới, Luận văn đã đề xuất

những giải pháp để hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tƣ và

94

kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Vũ Thành Tự Anh, 2012. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.

GĐ nghiên cứu của Chƣơng trình giảm dạy kinh tế Fulbright.

2. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, 1998. Các văn kiện Hội nghị của BCH

TW Đảng. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.

3. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, 2015. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4,

Điểm II, Mục IV, Phần II. Hà Nội.

4. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX, 2016. Nghị quyết hội nghị lần

thứ 3. Hà Nội.

5. Bộ Tài chính, 1995. Đổi mới công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Tập

I, II. Hà Nội.

6. Bộ Tài chính, 2014. Thông tư 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 của Bộ

Tài chính hướng dẫn việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà

nước đầu tư tại các doanh nghiệp về SCIC. Hà Nội.

7. Trần Hữu Bƣu và cộng sự, 2008. Báo cáo vấn đề : Việt Nam gia nhập tổ

chức Thương mại thế giới - Giải thích các điều kiện gia nhập. Mutrap II

(dự án hỗ trợ thương mại đa biên). Hà Nội : Nxb Lao động xã hội.

8. Hoàng Thị Chỉnh, 2010. Doanh nghiệp nhà nước trong bội cảnh hội nhập

vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trƣờng ĐH Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.

9. Chính phủ, 2000. Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 6/12/2000 của Chính

phủ về Quy chế quản lý phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác. Hà Nội.

10. Chính phủ, 2007. Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của

Chính phủ về chuyển giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty

95

cổ phần. Hà Nội.

11. Chính phủ, 2009. Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/10/2009 của

Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản

lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp khác. Hà Nội.

12. Chính phủ, 2011. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của

Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ

phần. Hà Nội.

13. Chính phủ, 2012. Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của

Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm,

nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn

nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Hà Nội.

14. Chính phủ, 2013. Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 của Chính

phủ về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư

và kinh doanh vốn nhà nước. Hà Nội.

15. Chính phủ, 2013. Quyết định số 2344/QĐ-TTg ngày 2/12/2013 phê duyệt

đề án tái cơ cấu SCIC giai đoạn 2011-2015. Hà Nội.

16. Chính phủ, 2014. Nghị định 57/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính

phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh

doanh vốn nhà nước. Hà Nội.

17. Cục tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính, 2011. Báo cáo tổng hợp tình

hình sắp xếp cổ phần hóa DNNN. Hà Nội.

18. Quốc hội, 1995. 2003. Luật doanh nghiệp nhà nước 1995, 2003. Hà Nội.

19. Quốc hội, 2005. 2014. Luật doanh nghiệp 2005, 2014. Hà Nội.

20. Quốc hội, 2014. Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hà Nội.

96

21. Quốc hội, 2014. Luật phá sản. Hà Nội.

22. SCIC, 2009. Báo cáo của SCIC tại hội thảo “Quản lý vốn và tài sản nhà

nước tại doanh nghiệp - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam”

ngày 21/4/2009. Hà Nội.

23. SCIC, 2015. Báo cáo kết quả hoạt động 10 năm của SCIC. Hà Nội.

24. SCIC, 2010.Đề án tái cơ cấu của SCIC. Hà Nội.

25. SCIC, 2015. Báo cáo tổng kết năm 2015.

26. Bùi Ngọc Sơn, 2011. Giáo trình pháp luật doanh nghiệp. Hà Nội: NXB

Đại học Quốc gia HN.

27. Thời báo kinh tế sài gòn, số ra ngày 27/11/2012.

28. Vũ Xuân Tiền, 2014. Quản lý vốn đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp.

29. Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, 1999. Báo cáo

điều tra, đánh giá về tình hình hoạt động của DNNN giai đoạn 1994-1999.

Hà Nội.

30. Bộ Tài chính, 1998. Các chế độ mới về quản lý tài chính doanh nghiệp

nhà nước. Hà Nội: NXB Tài chính.

31. Hƣớng dẫn chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê 6-1999

II. Tài liệu tiếng Anh

1. BUMN, 2014 “True Building Value”, financial report.

2. Naughton, 2010 “SASAC and raising Corporate Power in China”, bài viết

trên tạp chí China Leadership Monitor, số 24

3. OECD,2014, “Workshop on State-Owned Enterprises in the Development

Process”, báo cáo hội thảo

III. Các website

1. Website Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc

97

(SCIC):