ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN THỊ LƢƠNG THANH
MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
Chƣơng trình định hƣớng thực hành
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NGUYỄN THỊ LƢƠNG THANH
MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 04 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN TRÚC LÊ
XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CHẤM LUẬN VĂN
PGS.TS NGUYỄN TRÚC LÊ
PGS.TS PHẠM VĂN DŨNG
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dƣới sự
hƣớng dẫn của thầy giáo hƣớng dẫn khoa học. Các số liệu và trích dẫn đƣợc sử
dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn là trung thực và đáng tin cậy. Tôi cũng
xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chƣơng trình đào tạo thạc sỹ Quản lý kinh tế tại trƣờng Đại
học kinh tế, đƣợc sự đồng ý của Khoa Kinh tế chính trị, Trƣờng Đại học kinh tế và
sự nhất trí của giảng viên hƣớng dẫn PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, tôi đã tiến hành thực
hiện luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế với đề tài: “Mô hình quản lý vốn của Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”.
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự
hƣớng dẫn, giúp đỡ quý báu của các quý thầy cô, Lãnh đạo và các đồng nghiệp
trong SCIC, các anh chị trong tập thể lớp. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi
xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu trƣờng Đại học kinh tế - ĐHQGHN, Khoa kinh tế chính trị và
các thầy cô giáo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và hoàn thành luận văn;
PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, ngƣời thầy đã hết lòng giúp đỡ, hƣớng dẫn và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này;
Xin gửi lời cảm ơn tới những ý kiến đóng góp và sự động viên của gia
đình, Lãnh đạo và các đồng nghiệp trong SCIC,các anh/chị trong lớp cao học
QLKT3-K23 trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn thạc sỹ;
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho tôi
những đóng góp quý báu để hoàn thiện bài luận văn này.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các tác giả của những cuốn
sách, bài viết, công trình nghiên cứu và website hữu ích đƣợc đề cập trong danh
mục tài liệu tham khảo của luận văn này.
Hà Nội, tháng 02 năm 2017
Nguyễn Thị Lƣơng Thanh
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. i
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... ii
DANH MỤC HÌNH .......................................................................................... ii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Về tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu và ý nghĩa thực tiễn .................................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
4. Kết cấu của Luận văn ................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠICÁC DOANH NGHIỆP ....... 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại DN ......... 6
1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu ................................................................. 6
1.1.2. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp .................... 8
1.1.3. Kinh nghiệm tại một số nước và bài học đối với Việt Nam .......... 13
1.2. Mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp .......................... 19
1.2.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của Việt Nam.. 19
1.2.2. Yêu cầu hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp ...................................................................................................... 21
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các
doanh nghiệp Việt Nam .............................................................................. 28
1.3.1. Nhân tố kinh tế .............................................................................. 28
1.3.2. Nhân tố chính trị- pháp lý ............................................................. 29
1.3.3. Hệ thống quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ........................ 30
1.3.4. Nhân tố khoa học- công nghệ và con người ................................. 32
1.3.5. Các cam kết hội nhập khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại
Quốc tế ..................................................................................................... 32
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .............................. 35
2.1. Phƣơng pháp thu thập tài liệu .............................................................. 35
2.1.1. Nguồn tài liệu sơ cấp .................................................................... 35
2.1.2. Nguồn tài liệu thứ cấp ................................................................... 35
2.1.3. Thu thập và xử lý tài liệu .............................................................. 36
2.2. Phƣơng pháp xử lý tài liệu, dữ liệu ...................................................... 37
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA TỔNG
CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC ..................... 39
3.1. Tổng quan về Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc (SCIC) 39
3.1.1. Cơ sở pháp lý và mục tiêu thành lập SCIC ................................... 39
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ của SCIC.............. 43
3.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý điều hành của SCIC ................... 46
3.1.4. Nguồn nhân lực ............................................................................. 47
3.1.5. Tài chính của SCIC ....................................................................... 47
3.2. Phân tích về mô hình quản lý vốn của SCIC ....................................... 48
3.2.1. Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của SCIC .... 48
3.2.2. Hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn của SCIC ........................... 56
3.2.3. Tình hình tài chính của SCIC qua các năm .................................. 59
3.2.4 Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ..... 60
3.2.5 Nguồn nhân lực và công nghệ quản trị doanh nghiệp ................... 62
3.2.6 Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý vốn của SCIC ............. 63
3.2.7 Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước tại doanh nhiệp và sắp xếp cổ phần
hóa các Công ty TNHH nhà nước MTV và hội nhập hợp tác quốc tế .... 65
3.3. Đánh giá kết quả hoạt động và mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC . 66
3.3.1. Các mặt đạt được và bài học kinh nghiệm.................................... 66
3.3.2. Một số khó khăn, vướng mắc cơ bản và nguyên nhân .................. 69
CHƢƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN
CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC ..... 70
4.1. Bối cảnh thực hiện phân công của Chính phủ về thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp hiện nay ..................................... 70
4.2.Đề xuất về mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở
Việt Nam thông qua thực tiễn hoạt động của SCIC .................................... 72
4.2.1. Lựa chọn mô hình.......................................................................... 72
4.2.2. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp ...................................................................................................... 75
4.3. Đề xuất giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty
đầu tƣ và kinh doanh vồn Nhà nƣớc trong thời gian tới ............................. 79
4.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụcủa Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn
Nhà nước .................................................................................................. 79
4.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn
nhà nước ................................................................................................. 80
4.3.3 Các giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của SCIC trong thời
gian tới .................................................................................................... 81
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 95
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Từ đầy đủ
1. CTCP Công ty Cổ phần
2. CSH Chủ sở hữu
3. DN Doanh nghiệp
4. DNNN Doanh nghiệp Nhà nƣớc
5. Khazanah Khazanah National Berhad
6. NN Nhà nƣớc
7. SASAC Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản Trung Quốc
8. SCIC Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn Nhà nƣớc
9. SDIC Tập đoàn Đầu tƣ và Phát triển Nhà nƣớc của
Trung Quốc
10. Temasak Temasak Holding
11. TNHH Trách nhiệm hữu hạn
12. UBND Ủy ban nhân dân
i
DANH MỤC BẢNG
Số TT Tên bảng Trang
59 1. Bảng 3.2: Báo cáo tổng kết hoạt động 10 năm 2006-2015
của SCIC
DANH MỤC HÌNH
Số TT Tên hình Trang
46 1. Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành SCIC
54 2. Hình 3.2: Biểu đồ Bán vốn nhà nước qua các năm
78 3. Hình 4.1: Sơ đồ mô hình thực hiện chức năng đại diện
chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam trong
thời gian tới
78 4. Hình 4.2: Sơ đồ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
ii
nhà nước tại doanh nghiệp của SCIC
MỞ ĐẦU
1. Về t nh c p thiết của đề tài
Quản lý và đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc hiệu quả đóng vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã thực
hiện nhiều chủ trƣơng, biện pháp tích cực nhằm hoàn thiện mô hình quản lý doanh
nghiệp nhà nƣớc; đã vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, có sự đổi mới đúng
hƣớng, với bƣớc đi thích hợp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đất nƣớc đƣợc đổi mới toàn diện và
mạnh mẽ, các DNNN đƣợc chuyển đổi, sắp xếp, cổ phần hóa, cơ cấu lại một cách
triệt để, hoạt động của các doanh nghiệp đƣợc thay đổi một cách mạnh mẽ theo cơ
chế thị trƣờng…để đáp ứng phát triển bền vững và hội nhập thành công, thì mô hình
quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp theo phƣơng thức can thiệp hành
chính nhƣ những năm trƣớc đây không còn phù hợp nữa
Một tồn tại lâu nay trong phƣơng thức quản trị doanh nghiệp có vốn nhà
nƣớc ở Việt Nam đó là sự phân tán chức năng và quyền hạn quản trị vốn nhà nƣớc
đầu tƣ vào doanh nghiệp (DN) cho rất nhiều cấp, bộ, ngành, địa phƣơng. Những cơ
quan quản lý nhà nƣớc (NN) này kiêm nhiệm cả chức năng đại diện vốn chủ sở hữu
(CSH), khiến hoạt động quản trị vốn NN không minh bạch trong khi hoạt động
quản lý NN bị quá tải. Nhận diện đƣợc vấn đề này, chính phủ Việt Nam chủ trƣơng
cải cách quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN) bằng định hƣớng phân tách hai
chức năng trên. Chủ trƣơng này đƣợc ghi nhận tại hội nghị Ban chấp hành Trung
ƣơng khóa X (2008): “tách bạch vai trò của nhà nước với tư cách là bộ máy công
quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà
nước” ; văn kiện Đại hội đảng X (2006): “thu hẹp và tiến tới không còn chức năng
đại diện chủ sở hữu của các bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đối với DNNN” và
văn kiện Đại hội đảng XI (2001): “nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu
tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của nhà nước; khắc phục tình
1
trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh
thông qua mệnh lệnh hành chính”.
Năm 2005,Chính phủ Việt Nam chính thức ban hành Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà
nƣớc (SCIC) nhƣ một mô hình thí điểm về thực hiện đại diện vốn CSH chuyên
nghiệp, một mô hình tiên phong trong việc tách rời chức năng quản lý NN và chức
năng đại diện CSH vốn NN. SCIC chính thức đi vào hoạt động năm 2006, gồm các
hoạt động nhƣ nhận chuyển giao phần vốn NN, cổ phần hóa các DNNN, thoái vốn
NN, quản trị DN, thực hiện vai trò của cổ đông NN và thực hiện đầu tƣ hiện hữu,
đầu tƣ mới phần vốn NN theo quy định tại Nghị định số 99/2012/NĐ-CP. Tổng
công ty này đƣợc kỳ vọng sẽ trở thành tập đoàn tài chính quy mô lớn trong khu vực,
phụ trách các hoạt động đầu tƣ chiến lƣợc của quốc gia trong và ngoài nƣớc, đặc
biệt với những lĩnh vực then chốt NN cần nắm giữ vốn.
Qua 10 năm hoạt động, mô hình đã đạt đƣợc một số thành công nhất định,
tuy nhiên cũng đã bộc lộ một số khó khăn hạn chế nhất định trong quá trình hoạt
động, cần có sự phân tích, đánh giá để có những giải pháp, điều chỉnh cho phù hợp.
So với các nƣớc cùng khu vực, trong khi các mô hình quản lý vốn NN tiên
phong nhƣ tập đoàn Temasek Holdings (Temasek), Ủy ban Quản lý và giám sát tài
sản Trung Quốc (SASAC), Khazanah National Berhad (Khazanah) đều đã đạt đƣợc
những thành tựu nhất định thì SCIC vẫn còn nhiều tồn tại, hoạt động chậm chạp và
chƣa tƣơng xứng với kỳ vọng, kế hoạch mà Chính phủ đề ra. Từ khi SCIC ra đời
đến nay, Chính phủ Việt Nam vẫn chƣa có một bƣớc tiến nào trong việc xây dựng
một mô hình quản lý vốn tập trung ở quy mô lớn cho vốn đầu tƣ tại các doanh
nghiệp nhà nƣớc. Do đó, việc tìm hiểu những tồn tại, vƣớng mắc của SCIC là vấn
đề cần thiết để đề xuất giải pháp chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của SCIC
nói riêng và đối với việc hình thành một cơ quan quản lý vốn NN hiệu quả ở Việt Nam.
Để tìm hiểu rõ hơn hoạt động của SCIC, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn
2
thiện mô hình SCIC, tác giả đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu Luận văn là: “Mô
hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp”.
- Câu hỏi nghiên cứu của học viên đối với vấn đề nghiên cứu:
Từ phân tích thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân những hạn chế của mô hình
quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp, cần có những giải pháp gì để hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công
ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thời gian tới?
2. Mục tiêu và ý nghĩa thực tiễn
Mục tiêu của đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của Tổng công
ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC) tại các doanh nghiệp. Từ đó đƣa ra
kiến nghị giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC tại các
doanh nghiệp. Để đạt đƣợc mục tiêu trên, luận văn sẽ lần lƣợt giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc và thực tiễn
mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp của Việt Nam;
- Phân tích thực trạng của mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của Tổng công ty
Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc;
- Đánh giá những mặt đạt đƣợc, hạn chế và nguyên nhân;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nƣớc
của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài nhằm đƣa ra góc nhìn về bƣớc đầu thực hiện phân tách chức năng
CSH vốn NN khỏi chức năng quản lý NN ở Việt Nam, xem xét SCIC nhƣ một ví dụ
thực tiễn về việc thành lập và xây dựng mô hình đại diện CSH nhà nƣớc độc lập cho
3
một nhóm doanh nghiệp. Đề tài kế thừa những nghiên cứu đã có, cập nhật số liệu
mới nhất và tình hình hiện tại, đƣa ra những khía cạnh sâu sát và cụ thể về SCIC,
đóng góp vào nhóm dữ liệu các bài nghiên cứu trƣớc về phân tách chức năng nhƣ
đã trình bày.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là mô hình quản lý vốn của Tổng công ty
Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, mối quan hệ của tổng
công ty này với các cơ quan quản lý NN, các văn bản pháp lý và cơ chế đại diện chủ
sở hữu vốn nhà nƣớc hiện hành tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
- Mô hình hoạt động quản lý vốn, chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt động
của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thực hiện tách bạch
chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở hữu của Nhà nƣớc; đẩy
nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
- Đồng thời đề tài phân tích một số mô hình kinh doanh vốn NN thành công
trên thế giới nhƣ Temasek của Singapore, SASAC và Tập đoàn đầu tƣ và phát triển
nhà nƣớc(SDIC) của Trung Quốc, quỹ đầu tƣ Khazanal của Malaysia.
4. Kết c u của Lu n văn
Đề tài nghiên cứu Luận văn là: “Mô hình quản lý vốn của Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”
Đề tài gồm 4 phần:
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ
HÌNH QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
4
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA
TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC
CHƢƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNHQUẢN LÝ VỐN
5
CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH
QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƢỚC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại DN
1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu
Thời gian qua, về mô hình hoạt động của cơ quan quản lý vốn nhà nƣớc tại
DN đã đƣợc một số tổ chức quốc tế nhƣ OECD, WB... nghiên cứu.
Nghiên cứu của OECD (2012) đã chỉ ra rằng, việc thiết lập mô hình cơ quan
chuyên trách chịu ảnh hƣởng của các yếu tố thuộc phạm trù lịch sử. Một ví dụ điển
hình là trƣờng hợp Indonesia. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm
1997, các DNNN Indonesia đối mặt với hàng loạt nguy cơ nhƣ nợ xấu tăng nhanh,
hoạt động kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân chính là mô hình song
trùng đang áp dụng có những tác động tiêu cực đến hoạt động quản lý và quản trị
các DNNN. Do vậy, năm 1998 Indonesia đã lựa chọn mô hình một bộ chuyên trách
(Bộ Đầu tƣ và phát triển doanh nghiệp) thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do biến động về chính trị trong giai đoạn
từ năm 2000-2001 nên cơ quan này đƣợc chuyển về Bộ Tài chính và hoạt động với
tƣ cách là Tổng cục Phát triển doanh nghiệp. Đến năm 2001, Bộ Đầu tƣ và phát
triển DNNN đƣợc khôi phục và năm 2004 đƣợc đổi tên thành Bộ DNNN. Do năng
lực thể chế, mục tiêu hoạt động và quy mô DNNN, vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp
có sự khác biệt nên có một số quốc gia lựa chọn mô hình công ty đầu tƣ hoặc công
ty nắm vốn hoặc mô hình cơ quan chuyên trách hay mô hình phân tán để thực hiện
chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc (OECD, 2012). Hoặc, do các quốc gia có
thể chế, hoàn cảnh khác nhau nên không thể có một mô hình chung.
Trƣờng hợp của Trung Quốc, do quy mô vốn và số lƣợng DNNN còn rất lớn,
đƣợc giao các mục tiêu khác nhau và chịu ảnh hƣởng của Nho giáo (xã hội dựa trên
6
các cách thức quản lý khác nhau giữa lòng tin và trách nhiệm và chia sẻ kinh
nghiệm) dẫn tới phƣơng thức quản trị khác và khó áp dụng phƣơng thức, mô hình
của các nƣớc phƣơng Tây; do vậy Trung Quốc đã thành lập hệ thống SASAC.
Đồng thời thực tế cho thấy, các DNNN hoạt động thƣơng mại thuần túy
thƣờng đƣợc giao cho một cơ quan/tổ chức chuyên trách thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nƣớc. Các DNNN hoạt động phi thƣơng mại vẫn do một bộ
phận chuyên trách thuộc bộ quản lý ngành quản lý trực tiếp thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nƣớc. Ví dụ, tại Thụy Điển, Bộ Y tế và Các vấn đề xã hội có
một vụ chuyên trách giúp Bộ trƣởng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà
nƣớc đối với các DNNN, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có mục tiêu liên
quan đến chính trị - y tế, xã hội. Tƣơng tự nhƣ vậy, Bộ Văn hoá có một vụ chuyên
trách giúp Bộ trƣởng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với các
DNNN, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có mục tiêu liên quan đến chính trị
- văn hoá; Bộ Môi trƣờng có một vụ chuyên trách chuyên trách giúp Bộ trƣởng thực
hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc, phần vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp có mục tiêu liên quan về môi trƣờng.
Trong trƣờng hợp khu vực DNNN có quy mô không quá lớn, số lƣợng không
nhiều, hoạt động tập trung trong một số ngành lĩnh vực thì việc thiết lập mô hình
một cơ quan, tổ chức chuyên trách thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở
hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN sẽ không quá phức tạp. Ví dụ trƣờng
hợp của Indonesia, việc thành lập và giao cho Bộ DNNN thực hiện chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN đƣợc cho là thành công
khi số lƣợng DNNN giảm từ 557 doanh nghiệp (1960) xuống còn khoảng 140
doanh nghiệp trong giai đoạn 2004 -2012 (BUMN, 2014).
Trong trƣờng hợp khu vực DNNN có quy mô còn lớn và đa dạng về ngành
nghề, lĩnh vực hoạt động thì việc thiết lập mô hình một cơ quan thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với toàn bộ khu vực DNNN sẽ khá phức tạp.
Ví dụ Trung Quốc, khi số lƣợng DNNN giảm mạnh từ 262.000 (1997) xuống còn
7
116.000 (2004), tạo tiền đề thành lập Uỷ ban Giám sát, quản lý tài sản nhà nƣớc -
SASAC (Naughton, 2010);. Tuy nhiên, do số lƣợng DNNN vẫn còn rất lớn và mục
tiêu, quy mô, phạm vi hoạt động tại các vùng miền khác nhau nên Trung Quốc phải
thiết lập hệ thống SASAC, bao gồm 01 SASAC ở cấp Trung ƣơng, 31 SASAC ở
cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ƣơng và 331 SASAC ở các cấp thấp hơn. Trong
đó, SASAC Trung ƣơng quản lý DNNN, phần vốn và tài sản nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp thuộc cấp Trung ƣơng; tƣơng tự nhƣ vậy đối SASAC cấp tỉnh/thành phố
trực thuộc trung ƣơng và SASAC ở cấp địa khu, huyện.
Trƣờng hợp của Nam Phi cho thấy, với quy mô 662 DNNN nhƣng chỉ có một
cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc của Nam
Phi nên đã dẫn đến quá tải và thất bại trong quản lý. Kinh nghiệm cho thấy, mô hình
một cơ quan chuyên trách chỉ phù hợp với quy mô khoảng 100 DNNN. Đối với
những quốc gia có số lƣợng DNNN lớn, cần phải phân chia theo vùng miền hay một
phƣơng thức khác để đảm bảo hiệu quả quản lý.
1.1.2. Các mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Cho đến nay, có một số mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nƣớc chủ yếu sau đã đƣợc các quốc gia lựa chọn và vận hành: (i) mô hình phi
tập trung (decentralized model) đƣợc áp dụng ở Braxin, Hàn Quốc,…; (ii) mô hình
song trùng (dual model) đƣợc áp dụng ở Cộng hòa Séc, Mexico,… (iii) mô hình tập
trung (centralized model) đƣợc áp dụng ở Trung Quốc, Indonesia, Singapore, một
số nƣớc ở Bắc Âu,...
Các mô hình trên đều có những ƣu điểm và hạn chế về tổ chức và trong hoạt
động. Vì vậy, tùy theo các điều kiện, bối cảnh lịch sử, thể chế; mục tiêu, tính chất
hoặc động của các DNNN; quy mô, số lƣợng các DNNN trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia nhƣ đã nêu ở trên mà các mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nƣớc khác nhau đƣợc lựa chọn. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển và từ kinh
nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà
nƣớc đang dần trở thành xu thế, ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có
8
nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình
khác. Mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc có thể
đƣợc tổ chức dƣới hình thức tổ chức, cơ quan nhà nƣớc hoặc doanh nghiệp.
Trên thực tế, mô hình tập trung thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà
nƣớc đối với các DNNN và phần vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp có thể
đƣợc tổ chức dƣới 2 hình thức chủ yếu sau: (i) một tổ chức, cơ quan nhà nƣớc
(trƣờng hợp Bộ DNNN ở Indonesia hoặc SASAC ở Trung Quốc và trƣờng hợp
cục/vụ thuộc bộ ở các nƣớc Bắc Âu, Đức,…); hoặc (ii) dƣới hình thức một doanh
nghiệp (trƣờng hợp Temasek ở Singapore hoặc Khazanah ở Malaysia,…).
1.1.2.1. Mô hình tổ chức dưới hình thức tổ chức, cơ quan Nhà nước.
Mô hình cơ quan chuyên trách chủ sở hữu nhà nƣớc có thể đƣợc tổ chức
dƣới hình thức tổ chức, cơ quan nhà nƣớc và bao gồm hai hình thức chủ yếu sau: (i)
bộ hoặc cơ quan cấp bộ; và (ii) đơn vị thuộc Bộ.
(i). Mô hình bộ hoặc cơ quan cấp bộ
Qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập
trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc vào một tổ chức đầu tƣ kinh doanh
vốn nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế,
ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn
về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.
(ii). Mô hình đơn vị thuộc bộ
Hình thức một đơn vị chuyên trách thuộc bộ đƣợc sử dụng phổ biến hơn là
thiết lập một bộ hoặc một cơ quan hoặc hệ thống cơ quan mới. Theo đó, một đơn vị
thuộc Bộ Tài chính hoặc thuộc các Bộ quản lý ngành đƣợc thành lập để thực hiện
chức năng đại diện chủ sở hữu - hình thức này đƣợc áp dụng tại một số nƣớc Bắc
Âu (Thụy Điển, Na uy), Đức, Nam Phi,…
Trƣớc thời điểm áp dụng mô hình này (năm 1998 đối với Thụy Điển và 2001
đối với Nauy), các nƣớc này đều áp dụng mô hình phân tán thực hiện chức năng chủ
9
sở hữu nhà nƣớc. Ở mô hình do một đơn vị chuyên trách thuộc bộ thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN, Quốc hội phê chuẩn cơ chế thực hiện
quyền quyết định đầu tƣ thành lập và thay đổi cơ cấu sở hữu do Chính phủ trình (cơ
quan đại diện chuẩn bị); Hội đồng quản trị thực hiện quyền quyết định các hoạt
động quản lý của doanh nghiệp, chủ sở hữu không có quyền can thiệp vào các hoạt
động của doanh nghiệp nhƣng có quyền quyết định cơ chế hoạt động của Hội đồng
quản trị. Việc quyết định cơ chế hoạt động của Hội đồng quản trị đƣợc thể hiện
bằng một bản thoả thuận dài hạn. Nội dung của Bản thoả thuận quy định rõ: Mục
tiêu hoạt động của doanh nghiệp (bao gồm cả các mục tiêu tài chính) và mục đích
của các hoạt động đó mà Hội đồng quản trị phải tuân thủ trong quá trình quản lý;
nghĩa vụ của Hội đồng quản trị và từng thành viên của Hội đồng quản trị nhằm quản
lý vốn do Chính phủ và những ngƣời đóng thuế đã đầu tƣ vào công ty; những vấn
đề quan trọng của doanh nghiệp mà Hội đồng quản trị phải xin ý kiến cơ quan đại
diện chủ sở hữu nhà nƣớc - Cục Quản lý DNNN trƣớc khi quyết định. Hàng năm,
Cục Quản lý DNNN sẽ tiến hành đánh giá hoạt động của Hội đồng quản trị của
DNNN thuộc Bộ trên một số khía cạnh nhƣ: cống hiến của từng thành viên cho hoạt
động của Hội đồng quản trị; kết quả quản lý của toàn bộ Hội đồng quản trị so với
mục tiêu đầu năm; kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp so với mục tiêu
đầu năm;... Kết quả đánh giá đƣợc trình lên Bộ trƣởng làm căn cứ để tái bổ nhiệm
hoặc miễn nhiệm. Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành các văn bản quy định về chế
độ báo cáo, thống kê đối với các loại hình DNNN cũng nhƣ yêu cầu Bộ trƣởng phải
xây dựng Báo cáo sở hữu nhà nƣớc.
Khu vực DNNN tại các nƣớc Bắc Âu vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn. Ví dụ, năm
2001, cổ phần của Chính phủ Thụy Điển tại khu vực kinh doanh chiếm tới khoảng
25% tổng số cổ phần tại các doanh nghiệp. Năm 2010, Thụy Điển có 60 DNNN;
trong đó, Chính phủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ tại 46 doanh nghiệp và nắm phần
vốn chi phối tại 14 doanh nghiệp với tổng giá trị tài sản khoảng 236 tỷ USD, doanh
thu khoảng 56,5 tỷ USD, lợi nhuận trƣớc thuế khoảng 9,97 tỷ USD và khoảng
190.000 lao động (chiếm khoảng 4% tổng số lao động), cổ tức trả cho Nhà nƣớc là
10
hơn 5,76 tỷ USD.
Tuy nhiên, việc các bộ thực hiện chuyên trách chức năng đại diện chủ sở
hữu, cổ đông, thành viên nhà nƣớc tại doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc hoạt động
trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý đã bộc lộ nhiều bất cập. Vì vậy, Chính
phủ Thụy Điển có xu hƣớng chuyển dần việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu, cổ đông, thành viên nhà nƣớc tại các doanh nghiệp hoạt động thƣơng mại về
một cơ quan nhà nƣớc (dự kiến là Bộ Tài chính). Đây là những doanh nghiệp hoạt
động đơn thuần vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động trong môi trƣờng thị trƣờng cạnh
tranh đƣợc mở cửa hoàn toàn với sự tham gia của các doanh nghiệp tƣ nhân, các
doanh nghiệp nƣớc ngoài. Những doanh nghiệp đƣợc giao thực hiện mục tiêu chính
trị - xã hội, thực hiện chính sách ngành và thị trƣờng chƣa mở cửa hoàn toàn sẽ tiếp
tục do các Bộ Công nghiệp, Năng lƣợng và Truyền thông, Bộ Y tế và Các vấn đề xã
hội, Bộ Văn hóa thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc.
1.1.2.2. Mô hình tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp
Mô hình tập trung dƣới hình thức doanh nghiệp cũng đƣợc một số nƣớc thiết
lập để giám sát và quản lý DNNN. Những doanh nghiệp này có tƣ cách pháp lý độc
lập và có bộ máy quản trị riêng.
Hình thức này có hai biến thể là công ty nắm vốn (holding company) và công
ty đầu tƣ (investment company). Trong đó, hình thức công ty nắm vốn thƣờng đƣợc
giao chịu trách nhiệm quản lý tài sản trong danh mục đầu tƣ (hình thức này đƣợc áp
dụng tại một số nƣớc nhƣ Hungary, Mozambique, Peru, Bhutan,…). Hình thức công
ty đầu tƣ đƣợc các nƣớc mới nổi và một số nƣớc phát triển có năng lực thể chế khá
tốt và hoàn chỉnh áp dụng nhƣ trƣờng hợp của Tập đoàn Temasek (Singapore) và
Tập đoàn Khazanah (Malaysia).
- Trƣờng hợp Temasek (Singapore): Temasek là tổ chức kinh doanh vốn đầu
tƣ nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp. Temasek, bên cạnh Tổng công
ty Đầu tƣ vốn của Chính phủ (CIIC), đƣợc Chính phủ Singapore cấp vốn để đầu tƣ
vào các doanh nghiệp khác. Việc cấp vốn cho hai doanh nghiệp này đƣợc thực hiện
11
thông qua Bộ Tài chính trên cơ sở dự toán đầu tƣ vốn đã đƣợc Quốc hội phê chuẩn.
Ví dụ năm 2008 Temasek đã đƣợc cấp 10 tỷ đô la Singapore từ Bộ Tài chính. Ngoài
đặc điểm là tập đoàn do Nhà nƣớc đầu tƣ vốn, Temasek hoạt động nhƣ một tập
đoàn tƣ nhân và đƣợc khẳng định là một nhà đầu tƣ và một cổ đông năng động.
Tổng danh mục vốn đầu tƣ của Temasek đến 31/3/2014 là 223 tỷ đô la Singapore,
tăng hơn 2 lần so với năm 2004 (90 tỷ S$). 31% số vốn đƣợc đầu tƣ tại Singapore,
41% tại các nƣớc Châu Á (riêng Trung Quốc là 25%) và 28% là tại các khu vực
khác trên toàn thế giới. Vốn chủ sở hữu (shareholder equity) đạt 187 tỷ đô la
Singapore năm 2014, tăng gần 3 lần so với năm 2004 (65 tỷ S$).
- Trƣờng hợp Khzanah, Malaysia: Khzanah là tổ chức đầu tƣ vốn nhà nƣớc
có cơ cấu gồm công ty mẹ (Khazanah Nasional Berhad), các công ty con và các
công ty có cổ phần, vốn góp của công ty mẹ. Khazanah Nasional Berhad đƣợc giao
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ: (i) quản lý các khoản vốn đầu tƣ do Chính phủ
Malaysia giao; (ii) thực hiện các khoản đầu tƣ mới trong các ngành, lĩnh vực mang
tính chiến lƣợc, lĩnh vực công nghệ cao và tìm kiếm các khoản đầu tƣ chiến lƣợc ở
nƣớc ngoài; (iii) quản lý có hiệu quả vốn, tài sản của Chính phủ Malaysia tại các
doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp khác (trừ Tập đoàn Petronas và một số
DNNN do Chính phủ trực tiếp quản lý). Khazanah Nasional Berhad có cơ cấu gồm
Hội đồng quản trị, Ban kiểm toán, Ban Điều hành, Tổng giám đốc và các ban
chuyên môn: Tài chính và Quản trị, Đầu tƣ và giám sát và Phòng thƣ ký và pháp
chế. Công ty mẹ thực hiện các quyền và nghĩa vụ cổ đông tại các công ty quy định
tại Luật Công ty.
Hiện nay, Khazanah Nasional Berhad là cổ đông chi phối của 9 công ty chiến
lƣợc quốc gia: Tenaga Nasional, Telekom Malaysia, Proton, Tập đoàn UEM, Plus,
Ngân hàng RHB, Malaysia Airports, PMB và Malaysia Airlines. Khazanah cũng là
nhà đầu tƣ chủ yếu trong các ngành, lĩnh vực chiến lƣợc nhƣ: cơ sở hạ tầng, dịch vụ
công cộng, dịch vụ tài chính, hàng không, công nghệ và truyền thông. Các tài sản
do Công ty quản lý có giá trị khoảng trên 50 tỷ Ringit (tƣơng đƣơng khoảng 12 tỷ
USD). Các công ty mà Khazanah Nasional Berhad là cổ đông đa số có nguồn vốn
12
trên 200 tỷ Ringit, chiếm 1/3 thị trƣờng vốn của Malaysia.
Qua quá trình phát triển và từ kinh nghiệm thực tiễn, mô hình thực hiện tập
trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc vào một tổ chức đầu tƣ kinh doanh
vốn nhà nƣớc hoạt động dƣới hình thức doanh nghiệp đang dần trở thành xu thế,
ngày càng đƣợc nhiều các quốc gia lựa chọn do có nhiều ƣu điểm và phù hợp hơn
về quản trị doanh nghiệp hiện đại so với các mô hình khác.
1.1.3. Kinh nghiệm tại một số nước và bài học đối với Việt Nam
1.1.3.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước thông qua Cơ quan hành chính tại Trung
Quốc và bài học đối với Việt Nam
Uỷ ban Giám sát và Quản lý Tài sản Nhà nƣớc (SASAC) đƣợc Trung quốc
thành lập năm 2003 để trực tiếp quản lý 198 DNNN lớn thuộc lĩnh vực phi tài
chính. Bên cạnh việc thành lập SASAC ở Trung ƣơng, Chính phủ Trung quốc còn
cho phép thành lập các tổ chức tƣơng tự SASAC trực thuộc chính quyền địa phƣơng
để quản lý tới 1030 DNNN lớn của địa phƣơng. Đến nay số lƣợng doanh nghiệp do
SASAC quản lý đã đƣợc thu gọn từ 198 xuống còn 148 doanh nghiệp.
SASAC là một cơ quan ngang bộ với chủ tịch SASAC là do Chính phủ bổ
nhiệm. Chủ tịch SASAC đƣợc tham dự các buổi họp Chính phủ nhƣng không đƣợc
phát biểu tại các buổi họp này.
Mục tiêu của SASAC là định hƣớng và thúc đẩy quá trình cải cách DNNN và
tăng cƣờng việc quản lý tài sản Nhà nƣớc.
- Với vị thế là cơ quản quản lý hành chính Nhà nƣớc, SASAC có chức năng
soạn thảo văn bản pháp quy về cải cách và quản lý tài sản nhà nƣớc; chỉ đạo công
tác quản lý tài sản nhà nƣớc tại địa phƣơng.
- Với vị thế là cơ quan quản lý và giám sát doanh nghiệp, SASAC thực hiện
bổ nhiệm và miễn nhiệm các lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp, đánh giá hoạt
động của các cán bộ này theo thủ tục pháp lý và thƣởng/phạt đối với lãnh đạo doanh
nghiệp; và gần đây là thiết lập hệ thống lựa chọn giám đốc điều hành doanh nghiệp
13
theo yêu cầu của hệ thống kinh tế thị trƣờng XHCN và hệ thống doanh nghiệp hiện đại.
Giám sát và quản lý việc bản toàn và gia tăng giá trị tài sản nhà nƣớc thuộc
sự giám sát của SASAC thông qua hoạt động thống kê và kiểm toán. Cử các tổ/ban
giám sát đến một số doanh nghiệp lớn để thay mặt nhà nƣớc thực hiện việc giám sát
hoạt động của doanh nghiệp.
- Với vị thế là một nhà đầu tƣ của Chính phủ, SASAC thực hiện các chính
sách đầu tƣ của mình vào doanh nghiệp và thông qua chính sách cải cách doanh
nghiệp của mình. Các SASAC địa phƣơng cũng đƣợc trao quyền sử dụng lợi từ
DNNN địa phƣơng để thực hiện những dự án đầu tƣ của địa phƣơng
Nhƣ vậy, có thể thấy mô hình SASAC giống nhƣ một “siêu bộ”, quản lý các
DNNN về mọi mặt (hoạt động, nhân sự và vốn).
Sau khi thành lập SASAC, vị thế độc quyền của DNNN ở Trung Quốc
tăng lên rõ rệt. Trong khi DNNN trung ƣơng nắm giữ độc quyền ở một số ngành
có thể lý giải từ mục tiêu chiến lƣợc quốc gia thì các DNNN địa phƣơng cũng trở
nên độc quyền hơn và nắm giữ chủ yếu đối với các lĩnh vực về khai thác tài
nguyên của địa phƣơng.
Việc SASAC quản lý quá nhiều mặt đối với doanh nghiệp có thể đã không
tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong quá trình hoạt động của mình. Do
vậy, để tăng cƣờng hiệu quả quản lý DNNN, hiện nay SASAC cũng đang đi theo
hƣớng thông lệ quốc tế qua việc hình thành các hội đồng quản trị của các doanh
nghiệp. Một phần định hƣớng đổi mới của SASAC là căn cứ trên định hƣớng mô
hình nhƣ Temasek của Singapore. Có thể đánh giá về mặt này Việt Nam đã đi trƣớc
Trung quốc.
1.1.3.2. Mô hình Tập đoàn đầu tư vốn Nhà nước tại Temasek (Singapore),
Khazanah (Malaysia) và bài học đối với Việt Nam
Tại Malaysia có mô hình Công ty Khazanah, Singapore có mô hình Công ty
Temasek. Hai Công ty này là các Công ty có chức năng là nhà đầu tƣ nhà nƣớc tại
14
doanh nghiệp. Temasek và Khazanah không can thiệp vào hoạt động của doanh
nghiệp mà chỉ đóng vai trò nhƣ một cổ đông tại doanh nghiệp đó, bình đẳng với các
cổ đông khác và thực hiện quyền cổ đông của mình theo các quy định của pháp luật.
Mục tiêu Chiến lƣợc của Khazanah là trở thành một “Nhà đầu tư chiến lược
hàng đầu tạo ra được giá trị bền vững cho một quốc gia Malaysia có năng lực cạnh
tranh quốc tế”. Trọng tâm hoạt động của Khazanah vẫn là nhiệm vụ cơ cấu lại các
doanh nghiệp Nhà nƣớc. Từ năm 2006 có thêm việc đầu tƣ phát triển đặc khu kinh
tế Iskanda (phía Nam Malaysia giáp với Singapore). Trong chuyển đổi DNNN,
Khazanah tập trung vào quản trị “vốn nhân lực”, bộ máy lãnh đạo quản trị, điều
hành năng động. Khazanah đóng vai trò tiên phong cho việc thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa các công ty nhà nƣớc thành các doanh nghiệp hiệu quả cao, qua đó tại ra
sự chuẩn bị tốt hơn cho việc mở rộng tự do hóa môi trƣờng kinh doanh.
Chƣơng trình chuyển đổi công ty nhà nƣớc là một phần trong nỗ lực mà
chính phủ Malaysia đang thực hiện nhằm định hƣớng cho sự phát triển và tăng
trƣởng của nền kinh tế quốc gia (chƣơng trình đƣợc bắt đầu từ năm 2004 và dự kiến
hoàn thành vào năm 2015).
Trong khi đó mục tiêu chiến lƣợc của Temasek hiện nay đƣợc đặt ra là “Tạo
ra và tối đa hóa thu nhập bền vững dành cho cổ đông với vai trò là một nhà đầu tư
và cổ đông năng động tại các doanh nghiệp thành công” (SCIC, 2010).
Vào những năm 80, Temasek cũng tập trung vào tƣ nhân hóa và thoái vốn
nhà nƣớc nhƣng hiện nay đã hoàn thành nhiệm vụ này và hoạt động hoàn toàn trên
cơ sở thƣơng mại và tập trung vào việc tạo ra giá trị trong dài hạn. Đầu tƣ của
Temasek hiện vẫn đang tập trung vào đầu tƣ trong khu vực và đạt mục tiêu sẽ phát
triển thành tập đoàn toàn cầu với trọng tâm là Châu Á.
Trọng tâm chiến lƣợc của Temasek đƣợc thực hiện thông qua việc xây dựng
các “doanh nghiệp thành công”. Phát triển tập trung vào sự quản trị và đầu tƣ năng
động hiệu quả tại các Công ty mà Temasek có cổ phần. Mục tiêu của Temasek
15
nhằm khuyến khích các Công ty thành viên kinh doanh thành công và tạo tiếng
vang trên phạm vi quốc tế. Temasek tiến hành cải tổ, thoái đầu tƣ hay đầu tƣ vào
các công ty nếu nhƣ thấy đƣợc cơ hội phát triển hay thực hiện tăng giá trị.
Cả Temasek và Khazanah hiện nay đều có cổ phần tại các doanh nghiệp lớn,
có tỷ trọng vốn nhà nƣớc lớn. Ví dụ: Temasek quản lý công ty viễn thông Singtel,
hãng hàng không Singapore Airlines, … Các công ty này áp dụng các công nghệ
quản trị tiên tiến để thực hiện chức năng tƣ vấn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nhà nƣớc. Ngoài ra, các công ty này còn mở rộng đầu tƣ ra thị trƣờng nƣớc ngoài,
đặc biệt là Temasek. Hiện nay, Temasek, Khazanah đang đƣợc coi là mô hình quản
lý vốn nhà nƣớc thành công nhất ở Châu Á.
1.1.3.3. Công ty Kinh doanh tài sản nhà nước (SDIC) tại Trung Quốc
Nhằm mục tiêu tách chức năng quản lý kinh tế - xã hội và quyền sở hữu tài
sản nhà nƣớc, Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung quốc đã thành lập SDIC vào năm
1995 với mục tiêu chuyển đổi phƣơng thức quản lý tài sản nhà nƣớc từ các cơ quan
chủ quản sang hình thức công ty kinh doanh tài sản. Đây là loại hình công ty Nhà
nƣớc đặc biệt do Trung Quốc thành lập, SDIC thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu Nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.
Theo yêu cầu của các chiến lƣợc kinh tế quốc gia, các chính sách phát triển
ngành và các kế hoạch phát triển vùng, SDIC có nhiệm vụ tham gia góp vốn, đầu tƣ
vào lĩnh vực cơ bản là công nghiệp, dịch vụ tài chính và công nghệ.
SDIC hoạt động theo mô hình tập đoàn mẹ và các công ty con. Chủ tịch
SDIC kiêm tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trực tiếp trƣớc Thủ tƣớng.
Hiện nay đầu tƣ vào công nghiệp của SDIC chủ yếu tập trung vào các ngành
điện, than, cảng, tàu biển, phân bón hóa học và các lĩnh vực cơ bản hoặc các lĩnh
vực dựa vào tài nguyên cũng nhƣ các ngành công nghệ cao. Trong lĩnh vực tài
chính, SDIC đã tiếp cận các công ty tín thác và đầu tƣ, các công ty chứng khoán,
các công ty quản lý quỹ và các ngân hàng mà SDIC có cổ phần hoặc cổ phần kiểm
16
soát. Các dịch vụ tƣ vấn chủ yếu liên quan đến lĩnh vực đầu tƣ, cơ khí, quản lý và
giám sát. Quản lý tài sản của SDIC đang chủ động hƣớng đến việc hợp nhất hoặc tái
cơ cấu các doanh nghiệp trung ƣơng.
1.1.3.4. Bài học cơ bản rút ra đối với Việt Nam
Bài học cơ bản thứ nhất có thể rut ra đối với Việt Nam là cần thiết phải tách
DNNN khỏi những ảnh hƣởng chính trị và hành chính không đúng để DNNN có thể
tập trung vào mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của cổ đông. Sự phân biệt rõ ràng
giữa quyền sở hữu nhà nƣớc với các quyền kinh tế khác (ví dụ quyền quản lý) là hết
sức cần thiết. Biện pháp nhằm tách chức năng sở hữu nhàc nƣớc khỏi các chức
năng khác là thành lập một cơ quan nhà nƣớc duy nhất chuyên thực hiện quyền sở
hữu nhà nƣớc (Cơ quan sở hữu). Đặc biệt, nhà nƣớc cần trao cho Cơ quan sở hữu
những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể nhằm giải quyết tình trạng phân tán về
quyền hạn và manh mún về trách nhiệm trong việc quản lý DNNN.
Bài học thứ hai là cơ quản chủ sở hữu phải mang tính thƣơng mại và chuyên
nghiệp. Trách nhiệm của Cơ quan sở hữu chỉ nên giới hạn trong phạm vi những
DNNN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu cơ quan sở hữu phải chịu trách nhiệm
đối với cả tài sản của tổ chức phi lợi nhuận, tài sản nhà nƣớc nằm ở cơ quan chính
phủ và “các đơn vị dịch vụ công cộng” thì sẽ không thể thực hiện đƣợc mục tiêu
quản lý hữu hiệu đối với DNNN. Các hoạt động phi lợi nhuận mà doanh nghiệp
phải thực hiện nếu có phải đƣợc nhà nƣớc bù đắp cho các tổn thất phát sinh.
Bài học thứ ba là quyền lợi của cổ đông nhà nƣớc tại các doanh nghiệp cần
đƣợc thực hiện thông qua cơ chế thông thƣờng, đó là tổ chức đại hội cổ đông hàng
năm và cử đại diện tham gia HĐQT của DNNN. Các quyền lợi khác của nhà nƣớc
không liên quan tới cổ đông cần đƣợc thực hiện thông qua các kênh pháp luật hành
chính hoặc thƣơng mại thích hợp. Quá trình thực hiện quyền chủ sở hữu đòi hỏi Cơ
quan sở hữu phải cử đại diện đủ tiêu chuẩn tham gia HĐQT của DNNN và giám sát
việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Bài học thứ tƣ là việc cần tập trung vào việc cải cách quản trị doanh nghiệp
17
đối với công ty quản lý tài sản Nhà nƣớc và các công ty thành viên. Khazanah thành
lập từ năm 1993 nhƣng đến năm 2004, họ đã phải đặt lại vấn đề quản trị doanh
nghiệp và xây dựng một chiến lƣợc tăng cƣờng quản trị doanh nghiệp thông qua
việc xây dựng và ứng dụng một loạt các sổ tay về quản trị tại các công ty thành
viên. Temasek cũng khuyến khích các công ty thành viên áp dụng Chuẩn quản trị
doanh nghiệp đƣợc Chính phủ thông qua (3/2001). Sau khi chuẩn hóa đƣợc khung
quản trị, thì các doanh nghiệp chủ động và tự chủ hoạt động theo khung quản trị đó,
Temasek (cũng nhƣ Khazanah) không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp
mà chỉ đóng vài trò nhƣ một cổ đông tại doanh nghiệp đó bình đẳng với các cổ đông
khác và thực hiện quyền cổ đông của mình theo các quy định của pháp luật.
Cơ quan sở hữu cần đƣợc tổ chức một cách gọn nhẹ, giảm thiểu số lƣợng
nhân viên để tránh trở thành một tổ chức hành chính quan liêu cồng kềnh. Ngoài ra,
Cơ quan sở hữu cũng cần nhấn mạnh việc thƣơng mại hóa các hoạt động của mình,
ký hợp đồng với bên ngoài càng nhiều càng tốt để thực hiện chức năng giám sát và
tƣ vấn cho DNNN.
Để phù hợp với việc Nhà nƣớc chỉ nắm giữ những doanh nghiệp then chốt,
quy mô danh mục các công ty do Nhà nƣớc nắm giữ không nên quá lớn.
Về chế độ đãi ngộ, để cơ quan sở hữu mang tính thƣơng mại và chuyên
nghiệp, nhân viên làm việc cho Cơ quan sở hữu phải là những nhân viên chuyên
nghiệp làm việc chuyên trách, đƣợc hƣởng chế độ đãi ngộ theo cơ chế thị trƣờng.
Tóm lại: mỗi mô hình quản lý đƣợc xây dựng từ đặc thù riêng của từng quốc
gia nên khó có thể đánh giá mô hình này tốt hơn mô hình kia. Tuy nhiên, qua thực
tế hoạt động của hai mô hình quản lý và các bài học rút ra từ việc thực tế triển khai
các mô hình của các nƣớc trên Thế giới nêu trên có thể thấy mô hình giao cho
doanh nghiệp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc sẽ tách bạch rõ
hơn vai trò hoạch định chính sách kinh tế của Chính phủ ra khỏi vai trò sở hữu tài
sản của Nhà nƣớc, các doan nghiệp có vốn nhà nƣớc sẽ hoạt động với hiệu quả hoạt
động cao hơn và việc kiểm soát cũng rõ ràng, minh bạch hơn. Trên cơ sở thực tế
18
này, Việt Nam đã lựa chọn chuyển đổi từ mô hình cơ quan hành chính bộ ngành
sang mô hình doanh nghiệp là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua việc
thành lập SCIC.
1.2. Mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp
1.2.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của Việt Nam
Hiện nay ở nhiều nƣớc trên thế giới nhà nƣớc vẫn đầu tƣ vào kinh doanh,
vẫn còn tồn tại doanh nghiệp nhà nƣớc. Tuy nhiên mô hình quản lý doanh nghiệp
nhà nƣớc, quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào kinh doanh của các nƣớc lại không đồng
nhất. Tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế, trình độ quản lý nền kinh tế, quản
lý xã hội; lịch sử hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc; số lƣợng doanh
nghiệp nhà nƣớc... mà mỗi nƣớc có mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc, quản
lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào kinh doanh khác nhau. Có thể nói không nƣớc nào
giống nƣớc nào. Qua nghiên cứu, hiện nay Việt Nam có hai mô hình quản lý doanh
nghiệp nhà nƣớc phổ biến nhƣ sau:
1.2.1.1. Mô hình quản lý vốn phân tán
Mô hình quản lý phân tán là mô hình phân cấp quản lý vốn nhà nƣớc từ Thủ
tƣớng Chính phủ, các Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh. Mô hình quản lý này có
đặc điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, cơ chế cơ quan chủ quản là các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh không
cho phép tách bạch giữa chức năng quản lý Nhà nƣớc và chức năng quản lý kinh
doanh. Đây là vấn đề đã đƣợc nêu trong rất nhiều nghị quyết, hội nghị, hội thảo.
Nhƣng đến nay chƣa có hƣớng giải quyết và sẽ không giải quyết đƣợc nếu vẫn giữ
mô hình hiện tại.
Thứ hai, cơ chế chủ quản nhƣ hiện nay đã biến các DNNN thành "cánh tay
nối dài" của các cơ quan hành chính gồm các Bộ và UBND cấp tỉnh. Từ đó, yêu cầu
công khai, minh bạch sẽ chỉ là quy định trên giấy. Không ngẫu nhiên mà một số tổ
19
chức tài chính quốc tế nhƣ WB, ADB...khi cho Việt Nam vay vốn thực hiện dự án
đã đặt điều kiện: Những DN thuộc sự quản lý của chủ đầu tƣ (là các Bộ, Ngành,
UBND cấp tỉnh) không đƣợc tham gia đấu thầu.
Thứ ba, cơ chế chủ quản hiện nay đã tạo ra những "doanh nhân bất đắc dĩ"
khi giao cho Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh làm đại
diện vốn Nhà nƣớc tại DN. Đó là những quan chức, những chính khách không thể
đủ điều kiện để trở thành doanh nhân ít nhất là về mặt thời gian.
Thứ tƣ, do có những "doanh nhân bất đắc dĩ" là các quan chức, công tác
kiểm tra, thanh tra đối với các DNNN mà họ làm "đại diện chủ sở hữu" hầu nhƣ
không có kết quả. Việc rất nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với
Vinashin, Vinalies nhƣng không phát hiện ra điều gì lớn là bằng chứng cụ thể và
sinh động.
Mô hình này khá phổ biến ở nhiều nƣớc, chủ yếu là những nƣớc thuộc hệ
thống xã hội chủ nghĩa trƣớc đây và một số nƣớc nhƣ Thụy Điển, Phần Lan... Việt
Nam hiện nay cũng đang áp dụng mô hình này. Đặc điểm của mô hình này là các cơ
quan quản lý nhà nƣớc đƣợc phân công, phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu
đối với doanh nghiệp nhà nƣớc gồm cả cơ quan lập pháp (Quốc hội) cơ quan hành
pháp (Chính phủ). Tuy nhiên ở mỗi nƣớc chức năng của mỗi cơ quan khác nhau. Ở
một số nƣớc Quốc hội quyết định thành lập, quy định tỷ lệ vốn nhà nƣớc trong
doanh nghiệp giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Nhƣng phần lớn các nƣớc
Quốc hội chỉ giữ vai trò giám sát. Cơ quan hành pháp phân công, phân cấp thực
hiện các quyền của chủ sở hữu. Mỗi cơ quan có thể thực hiện một số quyền chủ sở
hữu đối với một doanh nghiệp nhƣ Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập
doanh nghiệp, bổ nhiệm ngƣời quản lý, điều hành doanh nghiệp; bộ Tài chính cấp
vốn, giấm sát về tài chính đối với doanh nghiệp; bộ quản lý ngành quyết định ngành
nghề kinh doanh, giám sát thực hiện hoạt động của doanh nghiệp. Cũng có thể một
cơ quan thực hiện toàn bộ các quyền của chủ sở hữu (bộ chủ quản).
Ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý
20
vốn và tài sản nhà nƣớc tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực
thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về tài chính đối với doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà
nƣớc đã đầu tƣ vào doanh nghiệp.
Dƣới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh
nghiệp quản lý trực tiếp các doanh nghiệp nhà nƣớc trung ƣơng. Các doanh nghiệp
nhà nƣớc địa phƣơng chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp
thuộc Sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố (Vũ Xuân Tiền, 2014).
1.2.1.2. Mô hình quản lý vốn tập trung
Mô hình quản lý tập trung là mô hình giao trách nhiệm đại diện quản lý vốn
nhà nƣớc tại doanh nghiệp về một cơ quan của Chính phủ.
Tổ chức này thực hiện các chức năng của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
đƣợc giao quản lý, bao gồm cả doanh nghiệp có100% vốn nhà nƣớc và doanh
nghiệp có một phần vốn nhà nƣớc. Đối với doanh nghiệp có 100% vốn nhà nƣớc tổ
chức này là chủ sở hữu, có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu theo pháp luật quy
định. Đối với doanh nghiệp có một phần vốn nhà nƣớc tổ chức này là cổ đông,
ngƣời góp vốn, thực hiện các quyền của cổ đông, ngƣời góp vốn theo quy định của
pháp luật và điều lệ doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, ngày 20/6/2005 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 151/2005/QĐ-TTg thành lập SCIC và Quyết định số 152/2005/QĐ-TTg về phê
duyệt điều lệ và tổ chức hoạt động của SCIC. Theo đó, SCIC là một tổ chức tài
chính đặc biệt của Nhà nƣớc, đƣợc thành lập để quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn
Nhà nƣớc tại doanh nghiệp và thực hiện chức năng đại diện chru sở hữu vốn Nhà
nƣớc tại doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của nhà nƣớc.
1.2.2. Yêu cầu hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp
Đứng ở giác độ Nhà nƣớc, hội nhập là khai thác các khả năng của đối tác
21
nhằm tạo điều kiện để phát triển kinh tế của nƣớc mình; ở giác độ doanh nghiệp,
thông qua hội nhập quốc tế mà có thêm thị trƣờng để tiêu thụ sản phẩm, để tiếp thu
công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý khoa học của các đối tác
kinh doanh; ở giác độ ngƣời tiêu dùng, nhờ có hội nhập mà họ đƣợc đáp ứng tiêu
dùng tốt hơn, hàng hoá ngày càng đẹp hơn, chất lƣợng tốt hơn và giá rẻ hơn.
Quá trình hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực phải thoả mãn các nguyên
tắc sau:
- Công bằng, tức là không phân biệt đối xử giữa các nƣớc thành viên theo
quy chế tối huệ quốc (MFN). Nếu thành viên A đƣợc hƣởng các ƣu đãi này thì các
thành viên B, C, D… cũng đƣợc hƣởng những ƣu đãi đó nếu họ đều nằm trong tổ
chức thƣơng mại thế giới (WTO). Ngoài ra, cần phải đối xử công bằng giữa hàng
hoá sản xuất trong nƣớc với hàng nhập khẩu (đối xử quốc gia - National treatment)
- Tự do hoá liên tục, tức là mỗi nƣớc chỉ đƣợc sử dụng công cụ bảo hộ chủ
yếu cho sản xuất trong nƣớc của mình là thuế, mà thuế cũng phải giảm dần. Còn các
biện pháp phi thuế nhƣ giấy phép, quota,… đều không đƣợc sử dụng.Bên cạnh đó,
vấn đề tự do hoá phải đƣợc tiến hành một cách liên tục, tức là mức thuế chỉ có giảm
mà không có tăng.
- Minh bạch, tức là hệ thống luật pháp phải rõ ràng, các chính sách liên
quan đến thƣơng mại phải đƣợc công khai hoá cho mọi ngƣời đều biết, luật lệ làm
ăn phải phù hợp với thông lệ quốc tế,…
- Có đi có lại, bình đẳng và có đi có lại là thông lệ chung trong quan hệ
kinh tế quốc tế đã có từ lâu, nhƣng điều đáng nói ở đây là quyền đƣợc “tự vệ”, đƣợc
“trả đũa” của một nƣớc khi nƣớc đó bị hàng nhập khẩu của một nƣớc khác đe doạ
thái quá hoặc bị các biện pháp phân biệt đối xử gây tổn hại.
Nhƣ vậy, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hƣớng tất
yếu. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều không thể là ngƣời đứng
ngoài cuộc. Trong đó, hơn ai hết, doanh nghiệp mà đứng đầu là các DNNN chính là
chủ thể để thực hiện quá trình hội nhập, là động lực hết sức quan trọng và then chốt
22
góp phần quyết định sự thành công của quá trình này (Hoàng Thị Chỉnh, 2010).
Vì vậy, mô hình quản lý vốn nhà nƣớc cũng cần phải hoàn thiện hơn để phù
hợp với quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Qua nghiên cứu các bài
viết về kinh nghiệm quốc tế cũng nhƣ các bài viết của các học giả về mô hình quản
lý vốn nhà nƣớc, thì Việt Nam cần thực hiện một số việc sau đây để dần hoàn thiện
mô hình quản lý vốn nhà nƣớc:
1.2.2.1. Từ bỏ mô hình quản lý phân tán hướng tới mô hình quản lý tập trung
Qua ngiên cứu kinh nghiệm quốc tế, có thể thấy phƣơng thức quản lý vốn
nhà nƣớc ở Việt Nam giao cho một cơ quan do Chính phủ thành lập đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp là đúng hƣớng, phù hợp với xu thế về quản
lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp trên thế giới. Việc xoá bỏ sự can thiệp của cơ
quan hành chính vào hoạt động doanh nghiệp là phù hợp với các cam kết hội nhập
khi Việt Nam tham gia các tổ chức thƣơng mại quốc tế, nhằm tập trung việc quản lý
và kinh doanh vốn nhà nƣớc và tạo ra tổ chức tài chính tầm quốc gia, có năng lực
cạnh tranh quốc tế nhƣ nhiều nƣớc đã làm thời gian qua.
1.2.2.2. Cần tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý của chủ
sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước
Từ 1/7/2010, toàn bộ các DNNN Việt Nam phải chuyển thành công ty cổ
phần, công ty TNHH hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. DNNN phải cạnh tranh
bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Điều đó đòi hỏi chủ sở hữu nhà nƣớc phải
hoạt động nhƣ những chủ sở hữu đích thực và chuyên nghiệp tƣơng tự nhƣ các chủ
sở hữu khác, tạo điều kiện cho DNNN hoạt động một cách tự chủ theo quy định của
pháp luật, có hiệu quả cao và phù hợp với các yêu cầu của các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam trong đó có các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thƣơng
mại thế giới (WTO).
Hơn nữa, nhiều đối tác quốc tế vẫn chƣa công nhận Việt Nam có nền kinh tế
thị trƣờng đầy đủ. Một trong những lý do đó là vấn đề liên quan đến khu vực
DNNN. Mặc dù đã có những bƣớc cải cách, đổi mới không ngừng về khung pháp lý
23
và cơ chế, chính sách đối với các DNNN trong nhiều năm qua và điều chỉnh vai trò
của Nhà nƣớc trong nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay các cơ quan quản lý nhà nƣớc
Việt Nam (Chính phủ, các bộ, UBND cấp tỉnh) vẫn đồng thời làm đại diện chủ sở
hữu DNNN. Điều này dẫn đến lẫn lộn giữa vai trò quản lý hành chính với vai trò
chủ sở hữu của nhiều cơ quan nhà nƣớc. Hậu quả là quản lý nhà nƣớc đối với
DNNN bị méo mó, tạo ra sự phân biệt đối xử giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài
nhà nƣớc. Bộ máy và cán bộ quản lý nhà nƣớc không chuyên nghiệp, vừa không
đáp ứng mục tiêu thiết lập một nền hành chính chuyên nghiệp, vừa không hiệu quả
trong quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh của DNNN.
Với cơ chế hiện nay, chƣa cho thấy sự phân biệt và làm rõ đâu là quyền hạn của
cơ quan quản lý nhà nƣớc, đâu là quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, bắt đầu xuất hiện
ngày càng nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp này,
đƣơng nhiên các cơ quan nhà nƣớc chỉ quản lý về mặt hành chính nhà nƣớc, trong
khi đó, với tƣ cách chủ quản, vẫn quản lý hoạt động kinh doanh đối với các doanh
nghiệp nhà nƣớc trực thuộc. Hệ quả khó tránh là xuất hiện tình trạng phân biệt đối
xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trƣờng và hội
nhập quốc tế, chức năng quản lý nhà nƣớc và quản lý kinh doanh ngày càng trở nên
phức tạp, đòi hỏi các cơ quan quản lý phải chuyên nghiệp hơn. Do đó, việc tách
chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nƣớc với chức năng quản lý hành chính
nhà nƣớc nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng và thực hiện cam kết WTO là
thực sự cần thiết đối với Việt Nam (Thời báo kinh tế Sài Gòn, 2012).
1.2.2.3. Xóa bỏ sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của
doanh nghiệp.
Hiện nay cơ chế quản lý của chủ quản đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam
đã có sự đổi mới và trên thực tế đạt đƣợc một số kết quả nhất định, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Tuy nhiên, với yêu cầu của sự nghiệp đổ mới, cơ
24
chế quản lý của chủ sở hữu hiện nay đối với doanh nghiệp ở các Bộ, các tỉnh, vẫn
còn nhiều hạn chế, đặc biệt cơ chế chủ quản đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của
các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào các quyết định
của chủ sở hữu, nhất là những quy định quản lý hành chính phiền hà, chậm trễ vừa làm
mất thời cơ vừa làm chậm thời gian gia nhập thị trƣờng của doanh nghiệp. Điều đó hạn
chế tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám chịu rủi
ro và dám mạo hiểm của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh và hội nhập kinh tế
thế giới. Hơn thế nữa, nó còn là mảnh đất sản sinh ra tệ nạn tham nhũng và nạn tiêu cực
mà biểu hiện rõ nét là thông qua cơ chế “xin - cho”, cơ chế điều hành trực tiếp đối với
các doanh nghiệp. Vấn đề này đã đƣợc Nghị quyết của Đại hội Đảng X đề cập, phân
tích hậu quả của việc tồn tại cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp và nêu lên quan
điểm phải tiếp tục xóa bỏ đƣợc cơ chế này và phân biệt rạch ròi giữa quản lý nhà nƣớc
và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Không những thế, cơ chế quản lý này còn làm nảy sinh tƣ tƣởng cho doanh
nghiệp vừa ỷ lại, dựa dẫm, vừa phụ thuộc vào cơ quan chủ quản. Cơ quan chủ quản
lại bị ảnh hƣởng bởi tác phong quan liêu, cửa quyền do cơ chế này đem lại. Điều
này vô hình chung làm sa sút năng lực, phẩm chất của bộ phận cán bộ của doanh
nghiệp và cán bộ của các cơ quan chủ quản. Vì lợi ích của ngành mình, tỉnh mình
làm cho các cơ quan chủ quản có nhiều lúc thiếu khách quan trong việc tổ chức,
thực hiện và ban hành các quyết định có liên quan về cơ chế, chính sách, pháp luật
đối với doanh nghiệp trực thuộc.
Hiện nay nền kinh tế nƣớc ta đang chuyển vào chiều sâu, chiều rộng của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, thế nhƣng hàng
ngày có biết bao nhiêu công việc trƣớc, trong và sau khi kinh doanh của doanh
nghiệp bắt buộc phải có phê duyệt, quyết định của cơ quan chủ quản và làm cho các
cơ quan này phải hao tổn vào những công việc có tính chất hành chính, sự vụn vặt
làm cho thời gian dành vào việc thực hiện các chức năng quản lý còn hạn chế, đặc
biệt là chức năng tổ chức, xây dựng, hƣớng dẫn thực hiện chiến lƣợc, chính sách, pháp
25
luật để tạo môi trƣờng cho doanh nghiệp còn rất hạn chế (Nguyễn Thế Tràm, 2014).
1.2.2.4. Công khai, minh bạch hóa tối đa các hoạt động của doanh nghiệp
Đây đƣợc xem là một cơ hội quan trọng nhằm tăng cƣờng sự minh bạch về
tình hình hoạt động và tài chính của DNNN, khối doanh nghiệp đang chiếm tới 1/3
GDP của VN.
Trong những năm gần đây, VN đã đạt đƣợc nhiều tiến triển trong việc cung
cấp thông tin đƣợc công khai và trực tuyến. Một ấn phẩm gần đây của Tổ chức
Arachnys Open Data Compass cho thấy VN đã là “một trong những nƣớc đi đầu
trong khu vực”, xếp thứ hai trong nhóm các quốc gia ASEAN xét về mức độ sẵn có
của thông tin về doanh nghiệp trên mạng.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc công khai thông tin của
DNNN, cùng với các cuộc cải cách khác, có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp này. Công khai thông tin, bao gồm thông tin tài chính và
phi tài chính, và có thể là công khai nội bộ hay bên ngoài (công bố ra công chúng).
Tuy nhiên nhìn chung thông tin công bố của phần lớn DNNN là chƣa đầy đủ
về chất lƣợng, thiếu độ chính xác và tính kịp thời, nên khả năng giám sát của các cơ
quan chính phủ đối với hoạt động của DNNN còn nhiều hạn chế. Nghị định 61
(tháng 6-2013) là một bƣớc tiến trong việc công khai thông tin, nhƣng vẫn còn
nhiều việc phải làm.
Các quy định hiện nay chƣa đủ để đƣa ra một khung pháp lý hiệu quả trong
việc công bố thông tin. Đã có một số quy định về nghĩa vụ công khai thông tin tài
chính và phi tài chính của DNNN, nhƣng hƣớng dẫn còn chƣa đồng bộ và khó thực
hiện. Cũng còn nhiều vấn đề về việc thực thi, giám sát và mức độ chi tiết của yêu
cầu, vì vậy trong thực tế nhiều DNNN công khai thông tin chủ yếu trên cơ sở tự giác.
Trong năm 2013, qua tìm kiếm trên mạng thấy 89 DNNN của VN có trang
web, trong đó có 11 tập đoàn và 12 tổng công ty. Mặc dù đã có nhiều DNNN công
26
khai thông tin hữu ích, song vẫn còn phải cải thiện chất lƣợng thông tin.
Chúng tôi thấy chỉ có 9% cung cấp thông tin tài chính tổng hợp và chỉ 16%
công bố báo cáo thƣờng niên, báo cáo tài chính hoặc báo cáo kiểm toán. Kết quả
nghiên cứu cho thấy dù có thể trên mạng không có thông tin nhƣng các DNNN đều
có thông tin cho mục đích nội bộ. Những thông tin này cần đƣợc chia sẻ rộng rãi, và
hơn thế nữa phải cải thiện chất lƣợng thông tin để phục vụ mục đích giám sát và
đánh giá. Năm nay chúng tôi dự định thực hiện hoạt động này một lần nữa để xem
tình hình có đƣợc cải thiện không.
Một nghiên cứu do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ƣơng (CIEM)
thực hiện năm 2010, trong đó cho thấy gần nhƣ tất cả DNNN cung cấp báo cáo cho
các bộ và cơ quan chủ quản, nhƣng chỉ có 7% DNNN công khai lƣu hành các báo cáo
và chỉ 9% trong số 290 DNNN đƣợc nghiên cứu - sử dụng truyền thông đại chúng.
Điều thú vị là các DNNN cổ phần hóa công khai nhiều hơn với 32% sử dụng
phƣơng tiện truyền thông đại chúng vào thời điểm nghiên cứu.
Điều này cho thấy DNNN cổ phần hóa công bố thông tin nhiều hơn, dù gần
đây quá trình thoái vốn nhà nƣớc đã chậm hơn dự kiến. Những DNNN đã cổ phần
hóa nhƣ Vinamilk, Tập đoàn Bảo Việt, Ngân hàng Công thƣơng, Vinaconex... là
những ví dụ cho thấy có sự minh bạch hơn nhiều trong việc công bố thông tin từ sau
cổ phần hóa.
Thực hiện việc công khai minh bạch hóa tình hình tài chính của doanh
nghiệp do nhà nƣớc làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nhằm tăng
tính trách nhiệm của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp do nhà nƣớc là chủ sở
hữu nói riêng; đánh giá đúng thực trạng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, kịp
thời giúp doanh nghiệp khắc phục tồn tại, hoàn thành mục tiêu, kế hoạch kinh
doanh, nhiệm vụ công ích, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khả năng
cạnh tranh.
Ngoài ra, đây cũng là quy định góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh
nghiệp trong việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quản lý và sử dụng
27
vốn, tài sản nhà nƣớc. Giúp nhà nƣớc, chủ sở hữu vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp
khác, cơ quan quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp kịp thời phát hiện các
yếu kém trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để có cảnh báo và
đề ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
1.2.2.5. Dần xóa bỏ các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam
Việc tiếp tục hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh là điều mà cộng đồng
DN trong và ngoài nƣớc mong muốn. Trong đó, việc giải quyết chính xác và
nhanh chóng thủ tục hành chính đăng ký thành lập và thay đổi nội dung đăng ký
kinh doanh là điều mà Việt Nam cần ƣu tiên hàng đầu trong quá trình cải thiện
môi trƣờng đầu tƣ của mình, nhất là trong bối cảnh hội nhập ngày một sâu rộng
hiện nay.
Đối với vấn đề phân biệt đối xử giữa các DN có nguồn vốn đầu tƣ trong và
ngoài nƣớc, hƣớng sửa đổi đƣợc đề nghị là cần bỏ những quy định tạo nên sự phân
biệt về thủ tục thực hiện giữa DN có hay không có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài chiếm dƣới hay từ 51% vốn điều lệ của DN. Tiến đến xóa bỏ sự phân
biệt giữa DN Việt Nam, DN liên doanh, DN 100% vốn đầu tƣ trong nƣớc, DN có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài…, mà chỉ còn một thuật ngữ DN Việt Nam thành lập và hoạt
động tuân thủ theo pháp luật Việt Nam.
Theo đánh giá của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),
việc dần dần xóa bỏ những rào cản và những phân biệt đối xử trong chính sách giữa
các thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc sẽ tạo lập một môi
trƣờng cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, phù hợp với các quy luật của kinh tế thị
trƣờng, thông lệ quốc tế, tăng sức cạnh tranh của DN và đáp ứng các yêu cầu của
hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp Việt Nam
28
1.3.1. Nhân tố kinh tế
Các nhân tố về kinh tế thể hiện các đặc trƣng cơ bản của hệ thống kinh tế mà
trong đó doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nói riêng tiến
hành hoạt động kinh doanh. Môi trƣờng kinh doanh với các yếu tố nhƣ: tăng trƣởng
kinh tế, chu kỳ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, tình trạng lạm phát, tỷ lệ lãi
suất, tỷ giá hối đoái...có tác động lớn đến các quyết định kinh doanh (quản lý vốn)
cũng nhƣ kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Chu kỳ phát triển của nền kinh tế tác động mạnh mẽ đến việc quản lý vốn.
Khi nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trƣởng cao thì nhu cầu đầu tƣ của xã hội
tăng mạnh, nhà quản trị vốn lúc này phải nắm bắt đƣợc cơ hội để đầu tƣ vốn mở
rộng sản xuất kinh doanh doanh, từ đó tạo ra đƣợc nhiều lợi nhuận. Ngƣợc lại, khi
nền kinh tế lâm vào suy thoái hay khủng hoảng, cơ hội kinh doanh bị thu hẹp, việc
huy động vốn cũng trở nên khó khăn, những quyết định quản lý vốn của nhà quản
trị doanh nghiệp phải thích ứng với tình hình kinh tế để bảo toàn vốn.
1.3.2. Nhân tố chính trị- pháp lý
Môi trƣờng pháp lý chính là hệ thống các chủ trƣơng, chính sách, hệ thống
pháp luật tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ nhà nƣớc.
Hệ thống pháp luật quy định rõ ràng về lĩnh vực hoạt động của từng loại hình
doanh nghiệp, những lĩnh vực đƣợc Nhà nƣớc khuyến khích hay hạn chế hoạt động,
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng đƣợc pháp luật quy định cụ thể. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc là công cụ để qua đó Nhà nƣớc thực hiện mục
tiêu kinh tế- chính trị- xã hội nên hệ thống pháp luật quy định đối với doanh nghiệp
có vốn nhà nƣớc cụ thể, nhƣ: quy định về tỷ lệ sở hữu tối thiểu cần thiết của vốn
nhà nƣớc tại các doanh nghiệp hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt,...Tuy
nhiên các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc nói riêng là một thực thể của nền
kinh tế, do đó nó phải vận hành trong môi trƣờng pháp lý chung và bình đẳng với
mọi thành phần kinh tế khác. Môi trƣờng pháp lý này thuận lợi sẽ tạo đƣợc hậu
29
thuẫn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh khả năng nâng cao lợi nhuận,
góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc. Trái lại, nếu môi trƣờng pháp
lý không thuận lợi hay chậm trễ so với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, do đó việc quản lý vốn cũng nhƣ
hiệu quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc cũng sẽ bị hạn chế.
Chính sách lãi suất: Lãi suất là một công cụ để Nhà nƣớc điều tiết lƣợng
cung cầu tiền tệ, nó ảnh hƣởng trực tiếp đến việc quản lý vốn và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nhà nƣớc đặc biệt chịu
ảnh hƣởng trực tiếp từ chính sách lãi suất của Nhà nƣớc. Khi lãi suất tăng làm chi
phí vốn tăng, với mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn nhà nƣớc, nhiệm vụ của quản
lý vốn nhà nƣớc là xây dựng cơ cấu vốn hợp lý. Mặt khác, với chính sách lãi suất ƣu
đãi khi đầu tƣ vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của xã hội, các doanh nghiệp có
vốn nhà nƣớc có điều kiện để thực hiện nhiệm vụ chính trị- xã hội mà Chính phủ giao.
Chính sách thuế: Thuế là công cụ quan trọng của Nhà nƣớc để điều tiết kinh tế
nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Chính sách thuế hấp
dẫn là động lực để các doanh nghiệp mở rộng đầu tƣ, phát triển sản xuất kinh doanh.
Sự ổn định về chính trị, nhất quán trong chủ trƣơng đƣờng lối của Nhà nƣớc
là nhân tố quan trọng trong việc quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Chủ
trƣơng đƣờng đối của Nhà nƣớc ta hiện nay là thành phần kinh tế nhà nƣớc giữ vai
trò chủ đạo sẽ chi phối các quyết định quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.
1.3.3. Hệ thống quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của nhà nƣớc
đƣợc thông qua các cơ quan, tổ chức và cán bộ đại diện chủ sở hữu Nhà nƣớc thực
hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của chủ sở hữu đối với vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp.
Trên thế giới, để thực hiện các quyền của mình đối với doanh nghiệp có phần
vốn nhà nƣớc, các Nhà nƣớc có thể giao cho một hoặc một số cơ quan làm đại diện
chủ sở hữu và quản lý thông qua việc quyết định những vấn đề quan trọng nhƣ đầu
tƣ, tài chính, bổ nhiệm các chức danh quản lý trong các doanh nghiệp có vốn nhà 30
nƣớc,..Tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, các cơ quan đƣợc giao
trách nhiệm này có thể là cơ quan hành chính nhà nƣớc, tổ chức/cơ quan khác hoặc
một công ty. Việc lựa chọn hệ thống quản lý vốn nhà nƣớc (cơ quan hành chính nhà
nƣớc hoặc công ty đầu tƣ vốn) là yếu tố quyết định đến phƣơng thức quản lý vốn
nhà nƣớc.
Ở Việt Nam, giai đoạn trƣớc năm 2006, quản lý vốn nhà nƣớc thông qua hệ
thống các cơ quan hành chính là Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, do đó cơ chế
quản lý vốn nhà nƣớc sẽ thực hiện đồng thời 3 chức năng: quản lý nhà nƣớc về kinh
tế, chủ quản cấp trên đối với doanh nghiệp và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc còn nhiều đầu mối nhƣ giai đoạn
này, hiệu quả sử dụng vốn nhà nƣớc không cao. Theo Tiến sỹ Trần Tiến Cƣờng-
Trƣởng Ban Nghiên cứu chính sách phát triển doanh nghiệp, Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ƣơng thì thực trạng sử dụng vốn nhà nƣớc giai đoạn qua chƣa hiệu
quả là do bộ máy quản lý nhà nƣớc đồng thời là bộ máy thực hiện quyền sở hữu nhà
nƣớc. Cùng một lức có nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng chủ sở
hữu nhà nƣớc và đều đƣợc coi là chủ sở hữu nhà nƣớc. Hệ quả là không rõ cơ quan
nào đại diện chính; có sự “lấn sân” từ quản lý nhà nƣớc sang quản lý của chủ sở hữu
nhà nƣớc và ngƣợc lại. Bộ máy và cán bộ quản lý không chuyên nghiệp và chuyên
tâm vào một mục đích nhất quán giữa công việc hành chính và kinh doanh, sinh lời
của doanh nghiệp. Việc quản lý chồng chế cũng dẫn đến khó phân xử trách nhiệm
đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Giai đoạn từ 2006 đến nay, Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà
nƣớc đƣợc thành lập và hoạt động nhƣ một đầu mối đầu tƣ vốn nhà nƣớc vào doanh
nghiệp và thực hiện thống nhất, có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp. Theo đó, phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc của
Chính phủ Việt Nam đƣợc thay đổi căn bản: tách quản lý hành chính ra khỏi quản
lý kinh doanh. Nhà nƣớc không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp
mà quản lý thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp, thông qua ngƣời
31
đại diện tham gia quản trị doanh nghiệp theo đúng luật doanh nghiệp và các quy tắc
của thị trƣờng. TS Vũ Thành Anh, Phó Giám đốc phụ trách nghiên cứu Chƣơng
trình dạy Kinh tế Fullbright (thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng: “Phải tách quản lý
hành chính nhà nƣớc ra khỏi quản lý kinh doanh doanh nghiệp. Các quyết định kinh
doanh phải do những ngƣời kinh doanh đƣa ra.”.
1.3.4. Nhân tố khoa học- công nghệ và con người
Con ngƣời- nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quản lý
vốn nhà nƣớc. Cán bộ chuyên nghiệp, đƣợc đào tạo trang bị kiến thức và có kinh
nghiệm về quản trị doanh nghiệp, đầu tƣ vốn sẽ đƣa ra những quyết định đúng đắn
về quản lý vốn. Ngƣợc lại, nhân lực kém, không đƣợc đào tạo chuyên sâu sẽ ảnh
hƣởng trực tiếp đến việc ra quyết định quản lý vốn, đem lại những bất lợi cho hiệu
quả vốn đầu tƣ của nhà nƣớc. Thực tế ở Việt Nam luôn cho thấy nguồn nhân lực
đóng vai trò quan trọng và là vấn đề đặt ra cần giải quyết. Giai đoạn trƣớc năm
2006, nguồn nhân lực quản lý vốn nhà nƣớc là những cán bộ của các cơ quan hành
chính, vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nƣớc, vừa thực hiện nhiệm
vụ đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, không
đƣợc đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu nên hiệu quả quản lý vốn nhà nƣớc giai đoạn
này thấp.
Khoa học- công nghệ là nhân tố hỗ trợ cho hoạt động quản lý vốn. Áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động quản lý mang lại năng suất cao, góp phần
nâng cao hiệu quả vốn đầu tƣ.
1.3.5. Các cam kết hội nhập khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại Quốc tế
Trong quá trình gia nhập WTO, các Thành viên của Ban công tácWTO đã
tập trung nhiều chú ý vào sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp do Nhà
nƣớc sở hữu hoặc kiểm soát tại Việt Nam. Các Thành viên đã đề nghị Việt Nam
cung cấp thông tin về các văn bản pháp luật liên quan cũng nhƣ hoạt động thực tiễn
của các doanh nghiệp này và vai trò của chúng trong nền kinh tế quốc dân.
WTO không có các quy tắc về sở hữu trong các đơn vị kinh doanh. WTO
không ngăn cản các Thành viên thành lập và phát triển các doanh nghiệp do Nhà 32
nƣớc sở hữu (SOEs), tuy nhiên WTO có các điều kiện cụ thể đối với các hoạt động
xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc (STEs). Cụ thể, Điều
XVII của Hiệp định GATT 1994 đề ra hai điều kiện cơ bản cho hoạt động của các
doanh nghiệp này (i) tất cả các hoạt động mua bán chỉ thực hiện theo các căn cứ
thương mại, phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử chung; và (ii) các hoạt
động xuất nhập khẩu phải minh bạch.
Các Thành viên WTO rất quan tâm tới hoạt động của các doanh nghiệp do
Nhà nƣớc sở hữu nói chung và các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng vì
hai lý do chính. Thứ nhất, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế định hƣớng thị trƣờng và trong quá
trình này, nhƣ một số Thành viên đã nêu lên, Việt Nam tiếp tục dành một số ƣu đãi
cụ thể cho các doanh nghiệp nhà nƣớc. Thứ hai, theo cách hiểu của một số Thành
viên WTO thì các doanh nghiệp nhà nƣớc tại Việt Nam không chỉ chiếm số lƣợng
lớn, tỷ trọng đóng góp vào GDP cao cũng nhƣ có tổng số vốn rất lớn mà còn có
nhiều lợi thế về năng lực sản xuất, cung cấp dịch vụ vụ và xuất nhập khẩu một số
mặt hàng chủ chốt (gồm xăng dầu, khoáng sản, dịch vụ viễn thông, ngân hàng và bảo
hiểm, v.v…). Các Thành viên WTO thể hiện lo ngại về khả năng Chính phủ sẽ can
thiệp vào thị trƣờng thông qua các doanh nghiệp nhà nƣớc, do đó có thể bóp méo thị
trƣờng và thậm chí vô hiệu hóa các cam kết về mở cửa thị trƣờng của Việt Nam. Đây
chính là lý do tại sao các Thành viên WTO yêu cầu Việt Nam đƣa ra các cam kết toàn
diện về doanh nghiệp nhà nƣớc, kể cả doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc.
Trƣớc lo ngại của các Thành viên, đại diện của Việt Nam thông báo rằng các
cơ quan quản lý của Việt Nam đã công bố, minh bạch hóa đầy đủ các thông tin về
chính sách và khuôn khổ pháp luật chung liên quan tới việc thành lập, tổ chức và
quản lý hoạt động của các doanh nghiệp nhà nƣớc nói chung và các doanh nghiệp
thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng. Việt Nam cũng xác nhận rằng Việt Nam đang thực
hiện một chính sách dài hạn, nhất quán về nền kinh tế đa thành phần trong đó cả
khu vực nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân, bao gồm cả các nhà đầu tƣ trong và ngoài
33
nƣớc, đƣợc khuyến khích tham gia cạnh tranh bình đẳng. Việt Nam đã xác nhận
rằng khu vực tƣ nhân, kể cả ngƣời nƣớc ngoài, đƣợc phép cung cấp sản phẩm và
dịch vụ cho các doanh nghiệp nhà nƣớc thông qua thông qua đấu thầu hoặc thông
qua đơn hàng của Nhà nƣớc hay phân bổ định hƣớng (trừ các sản phẩm và dịch vụ
công liên quan tới quốc phòng và an ninh quốc gia).
Cải cách, sắp xếp lại và cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nƣớc nói chung và các doanh nghiệp thƣơng mại nhà nƣớc nói riêng là một
chính sách nhất quán, một bộ phận của tiến trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam
trong vòng 20 năm qua. Chính sách này đã đƣợc khẳng định trong nhiều kế hoạch
hành động của Chính phủ nhƣ một giải pháp để xây dựng và phát triển kinh tế thị
trƣờng tại Việt Nam.
Trong bối cảnh đó và ngay cả khi không có các cam kết gia nhập WTO liên
quan tới vấn đề này thì vẫn có thể xác nhận rằng việc thực thi các cam kết nói trên
là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà Việt Nam quyết tâm hoàn thành để đổi mới
và tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nƣớc và đảm bảo các doanh
nghiệp này có năng lực để vận hành hiệu quả trong một môi trƣờng khá cạnh tranh.
Do đó cần cải tiến cơ chế quản lý để đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà
nƣớc hoạt động theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trƣờng và Nhà nƣớc sẽ
không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào các quyết định thƣơng mại của những
doanh nghiệp này. Cụ thể, có thể xem xét các biện pháp sau đây: (i) điều chỉnh các
điều khoản tƣơng ứng về quyền đƣa ra quyết định của Nhà nƣớc liên quan tới các
dự án đầu tƣ, mua bán, thanh khoản, chuyển giao tài sản, tiêu dùng của các doanh
nghiệp nhà nƣớc thông qua việc dành các quyền này cho các doanh nghiệp; và (ii)
Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân các tỉnh sẽ không trực tiếp thực thi
quyền sở hữu mà sẽ chuyển quyền này cho Tổng Công ty Kinh doanh và Quản lý
vốn nhà nƣớc và các tập đoàn khác; hoặc trong trƣờng hợp không thực hiện đƣợc
việc này, Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban Nhân dân các tỉnh nên thực thi các
quyền này theo cách giống nhƣ các cổ đông của doanh nghiệp (Trần Hữu Bƣu và
34
cộng sự, 2008).
CHƢƠNG 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. Phƣơng pháp thu th p tài liệu
Để thực hiện đề tài, tác giả đã tìm hiểu, thu thập các nguồn tài liệu khác nhau
từ các đề tài nghiên cứu về mô hình quản lý vốn nhà nƣớc ở một số nƣớc, văn bản
pháp luật của Nhà nƣớc liên quan tới quản lý sử dụng vốn, tài sản của Nhà nƣớc và
văn bản quy phạm quy định cho SCIC và các báo cáo hàng năm của SCIC.
2.1.1. Nguồn tài liệu sơ cấp
Tài liệu sơ cấp là loại tài liệu mà nhà nghiên cứu tự thu thập, hoặc nguồn tài
liệu cơ bản, còn ít hoặc chƣa đƣợc chú giải. Một số vấn đề nghiên cứu có rất ít tài
liệu, vì vậy cần phải điều tra để tìm và khám phá ra các nguồn tài liệu chƣa đƣợc
biết. Ngƣời nghiên cứu cần phải tổ chức, thiết lập phƣơng pháp để ghi chép, thu
thập số liệu.
Để bổ sung thêm thông tin phân tích trong luận văn, tác giả tiến hành phỏng
vấn một số trƣởng Ban từ Ban Kế hoạch tổng hợp đến ban chuyên môn về quản lý
vốn tại doanh nghiệp: thực trạng tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc
tại doanh nghiệp về SCIC, tình hình thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp. Mọi
thông tin thu thập đƣợc đã đƣợc tác giả tổng hợp kết hợp lý luận với thực tiễn phân
tích và đánh giá.
2.1.2. Nguồn tài liệu thứ cấp
Tài liệu thứ cấp là tài liệu có nguồn gốc từ tài liệu sơ cấp đã đƣợc phân tích,
giải thích và thảo luận, diễn giải. Các nguồn tài liệu thứ cấp chủ yếu gồm: công
trình nghiên cứu, bài báo, tập san chuyên đề, tạp chí, báo cáo khoa học, sách tham
35
khảo, luận án, luân văn, thông tin thống kê, tài liệu văn thƣ, Internet...
Luận cứ khoa học, khái niệm, quy luật, định luật có thể thu thập đƣợc từ các sách
nhƣ: giáo trình pháp luật doanh nghiệp - NXB ĐHQG Hà Nội; Các chế độ mới về quản
lý tài chính doanh nghiệp nhà nƣớc - NXB Tài chính 1998 ...
Báo cáo công bố của các chuyên gia kinh tế trên internet và một số tạp chí
kinh tế tài chính, tham khảo một số luận văn Thạc sỹ của Trƣờng ĐH Kinh tế Quốc
dân về quản lý vốn nhà nƣớc của một số tác giả trong nƣớc.
Số liệu thống kê đƣợc thu thập từ các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh
các năm (2006-2015), báo cáo tài chính, báo cáo nhân sự của SCIC.
Tài liệu, hồ sơ lƣu trữ, các văn bản về luật, chính sách…thu thập từ các cơ
quan quản lý Nhà nƣớc, nhƣ: Nghị quyết Hội nghị của BCH Trung Ƣơng Đảng, đề
án tái cơ cấu SCIC của Bộ Tài chính trình TTCP.
Thông tin trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, internet…
2.1.3. Thu thập và xử lý tài liệu
Thu thập và nghiên cứu tài liệu là một công việc quan trọng cần thiết cho tất
cả các hoạt động nghiên cứu khoa học. Tác giả đã đọc và nghiên cứu các cơ chế,
chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến quản lý vốn của nhà nƣớc tại doanh
nghiệp một số sách, báo, luận văn thạc sỹ đã công bố, tra cứu các trang website để
làm nền tảng và tăng sự hiểu biết cho nghiên cứu khoa học của mình. Những kiến
thức thu thập đƣợc trên các trang website, các tạp chí về kinh tế... là nguồn kiến
thức quý giá đƣợc tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài.
Có hai dạng thông tin đề tài thu nhập từ nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê
gồm: thông tin định tính và thông tin định lƣợng. Do đó, đề tài có hai hƣớng xử lý
thông tin nhƣ sau: (1) Xử lý logic đối với thông tin định tính. Đây là việc đƣa ra
những phân tích về bản chất của vấn đề; và (2) Xử lý thống kê đối với các thông tin
định lƣợng.
Xử lý thông tin định tính
Quy trình thực hiện xử lý thông tin định tính của đề tài đƣợc thực hiện bắt
36
đầu từ việc thu thập thông tin đã có, nhận biết thông tin cho tƣơng lai qua các
phƣơng pháp quan sát, phỏng vấn, thảo luận, nghiên cứu tài liệu từ nhiều nguồn
khác nhau: từ các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc liên quan đến quyền
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc, các báo cáo chuyên đề của các chuyên gia kinh
tế và các báo cáo nội bộ của SCIC... nhằm có thông tin chính xác kịp thời để có thể
xây dựng giả thuyết và chứng minh cho giả thuyết đó từ những sự kiện, thông tin
rời rạc đã thu thập đƣợc. Bƣớc tiếp theo là xử lý logic đối với các thông tin định
tính về lƣợng thông tin, độ tin cậy, tính thời sự, tính mới. Đặc biệt thông tin sử dụng
cần khách quan. Tiếp đến cần thăm dò nội dung thông tin về nguồn, lựa chọn nội
dung; mô tả tài liệu sơ cấp hay thứ cấp; Mục tiêu của thông tin đó phục vụ cấp quản
lý nào, mang tính ngắn hạn hay dài hạn... và tức là việc đƣa ra những phán đoán về
bản chất các sự kiện, đối chiếu, chọn lọc, chỉnh lý thông tintheo mục đích yêu cầu
đã xác định đồng thời thể hiện những logic của các sự kiện thông tin, các phân hệ
trong hệ thống các sự kiện đƣợc xem xét.
Xử lý thông tin định lượng
Thông tin định lƣợng thu thập đƣợc từ các tài liệu thống kê sau đó sắp xếp
chúng lại để làm bộc lộ ra các mối liên hệ và xu thế của sự việc. Các số liệu có thể
đƣợc trình bày dƣới nhiều dạngBảng số liệu; Biểu đồ;
Tóm lại, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài chủ có sử dụng xử lí thông
tin định tính là chủ yếu, xử lí thông tin định lƣợng bổ sung, hỗ trợ.
Các kết quả tác giả thu thập đƣợc từ các nguồn tài liệu sơ cấp và thứ cấp
đƣợc xử lý, phân loại và đƣợc tổng hợp sử dụng trong quá trình phân tích tài liệu về
công tác quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp của SCIC.
2.2. Phƣơng pháp xử lý tài liệu, dữ liệu
Thực hiện đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nhƣ:
(i) Sử dụng căn cứ của OECD về các hình thái quản lý vốn chủ sở hữu nhà
nƣớc, các nguyên tắc quản trị công ty.
(ii) Nghiên cứu các văn bản luật và dƣới luật quy định quyền và trách nhiệm đại
37
diện chủ sở hữu vốn NN, các văn bản luật, điều lệ liên quan đến hoạt động của
SCIC. Tìm hiểu những ràng buộc về pháp lý trong hoạt động của SCIC với các cơ
quan quản lý NN trung ƣơng và địa phƣơng.
(iii) Phƣơng pháp so sánh, cụ thể là so sánh hoạt động của SCIC với một số mô
hình đầu tƣ kinh doanh, quản lý vốn NN thành công trên thế giới, đặt trong bối cảnh
cụ thể, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong hoạt động đại diện chủ sở hữu vốn
38
NN của SCIC.
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA
TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC
3.1. Tổng quan về Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc (SCIC)
3.1.1. Cơ sở pháp lý và mục tiêu thành lập SCIC
3.1.1.1. Cơ sở pháp lý
Song song với quá trình sắp xếp, đổi mới hoạt động của DNNN, ngay từ
những năm đầu cải cách, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có chủ trƣơng đổi mới chính sách
quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và phát triển mô
hình đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc để thay thế chính sách quản lý vốn nhà
nƣớc tại doanh nghiệp theo hình thức mệnh lệnh hành chính sang hình thức đầu tƣ
kinh doanh.
Hội Nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII (12/1997) đã
đề ra chủ trƣơng phải nghiên cứu để chuyển đổi phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc
tại các doanh nghiệp hiện nay sang một phƣơng thức mới, phù hợp, hiệu quả. Nghị
quyết hội nghị nêu rõ “nghiên cứu cơ chế quản lý vốn theo phương thức hành chính
sang cơ chế công ty tài chính” (BCH Trung ƣơng Đảng khóa VIII).
Nghị quyết hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX
(8/2001): “phải đẩy mạnh sắp xếp, nâng cao hiệu quả DNNN, kiên quyết chấm dứt
tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp, cụ thể vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản lý hành chính kinh
tế của Nhà nước và quản ý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” (BCH Trung
Ƣơng Đảng khóa IX).
Qua nghiên cứu mô hình quản lý vốn nhà nƣớc tại một số nƣớc có điều kiện
tƣơng đồng với Việt Nam nhƣ Trung Quốc, Singapore, Malaysia... và thực tiễn đổi
mới, sắp xếp doanh nghiệp ở Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng lựa chọn
39
chuyển đổi từ mô hình cơ quan hành chính bộ ngành sang mô hình doanh nghiệp là
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc. Nghị quyết hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng khóa IX đã chỉ rõ “cần khẩn trƣơng việc thành lập Công ty đầu tƣ
tài chính nhà nƣớc để làm đầu mối đầu tƣ vốn nhà nƣớc vào doanh nghiệp và thực
hiện thống nhất, có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại
doanh nghiệp” (BCH Trung Ƣơng Đảng khóa IX).
Căn cứ các cơ sở trên ngày 20/6/2005, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành
Quyết định 151/2005/QĐ-TTg và Quyết định 152/2005/QĐ-TTg về việc thành lập
và ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của SCIC. Trong đó quy định rõ: SCIC là
một tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nƣớc, hoạt động theo Luật DNNN và các luật
khác có liên quan, đƣợc thành lập để thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu, đầu tƣ và
kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp và các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế
theo quy định của pháp luật. SCIC đƣợc thành lập để đáp ứng yêu cầu khách quan
của quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nƣớc(DNNN). Việc ra đời của SCIC có ý nghĩa quan trọng, góp phần đổi mới
phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp từ cơ chế hành chính sang cơ
chế đầu tƣ, kinh doanh vốn mà trong đó, Nhà nƣớc đóng vai trò là cổ đông thông
qua một tổ chức kinh tế đặc biệt là SCIC.
Nguyên tắc xuyên suốt của quá trình chuyển đổi phƣơng thức quản lý vốn và
đầu tƣ vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua SCIC là Chính phủ thay mặt Nhà
nƣớc thống nhất tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối
với phần vốn của nhà nƣớc tại doanh nghiệp và quản lý việc đầu tƣ vốn nhà nƣớc
vào doanh nghiệp. Căn cứ vào yêu cầu đổi mới quản lý, trình độ và năng lực của
SCIC, Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu
vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp cho SCIC phù hợp với lộ trình sắp xếp cổ
phần hóa DNNN.
Từ năm 2006 đến nay, mặc dù còn một số tồn tại nhất định nhƣng SCIC đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ Nhà nƣớc giao và đạt đƣợc kết quả bƣớc đầu tích cực về:
40
tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc; tái cơ cấu và bán vốn nhà nƣớc
tại DN; thực hiện đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế trên
nguyên tắc hiệu quả…Quy mô vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, các chỉ tiêu về doanh
thu, lợi nhuận của Tổng công ty đều đạt mức tăng trƣởng khá qua các năm
Sau 04 năm hoạt động, năm 2010, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt đƣợc và
những khó khăn vƣớng mắc đối với mô hình SCIC, Ban Cán sự Đảng Chính phủ đã
báo cáo và đƣợc Bộ Chính trị phê duyệt Đề án “Tiếp tục củng cố, phát huy vai trò
của SCIC” (Kết luận số 78-KL/TW ngày 26/7/2010). Theo đó, Bộ Chính trị đã chỉ
đạo tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trƣờng pháp lý thuận
lợi cho SCIC hoạt động có hiệu quả, làm rõ địa vị pháp lý và định hƣớng hoạt động
của SCIC.
- Ngày 15/11/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2012/NĐ-CP về
phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Về
thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh
nghiệp đƣợc phân công cho các Bộ, ngành, Địa phƣơng và SCIC (quy định tại Mục
2, Điều 4, Nghị định 99). Theo đó, Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn nhà
nƣớc là doanh nghiệp do Thủ tƣớng Chính phủ quyết định thành lập, đƣợc Nhà
nƣớc đầu tƣ vốn điều lệ và quản lý vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp do các Bộ,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chuyển giao.
- Ngày 01/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2013/NĐ-CP
về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC. Trên cơ sở những kinh
nghiệm đúc rút qua quá trình hoạt động của SCIC, Nghị định này đã quy định các
cơ chế riêng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đặc thù của SCIC. Ngày
16/6/2014,Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2014/NĐ-CP về Điều lệ và tổ
chức hoạt động của SCIC. Triển khai Đề án tái cơ cấu DNNN theo Quyết định số
929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012, ngày 02/12/2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã có Quyết
41
định số 2344/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tái cơ cấu SCIC giai đoạn đến năm 2015.
Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP và Nghị định số 57/2014/NĐ-CP của
Chính phủ, chức năng, nhiệm vụ của SCIC gồm:
- Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các Công ty
cổ phần,Công ty TNHH 1 TV và 2 TV trở lên, Công ty liên doanh có vốn góp nhà
nước do các Bộ, ngành, địa phương làm đại diện chủ sở hữu; Tập đoàn kinh tế,
Tổng công ty sau cổ phần hóa theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
- Tiếp tục thực hiện các hoạt động sắp xếp, cổ phần hóa, bán vốn nhà nước
đầu tư tại doanh nghiệp được chuyển giao theo quy định hiện hành;
- Đầu tư vốn vào các tập đoàn, tổng công ty, hoặc công ty mẹ hoạt động
trong lĩnh vực, ngành nghề nhà nước nắm giữ quyền chi phối. Đầu tư vốn vào
các dự án theo chỉ định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đầu tư và kinh
doanh vốn vào ngành, lĩnh vực, dự án đem lại hiệu quả kinh tế theo quy định của
pháp luật;
- Cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư, tài chính, cổ phần hóa, quản trị doanh
nghiệp… theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và Phát triển
doanh nghiệp (HTSX& PTDN) theo quy định và các nhiệm vụ khác theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ.
- Để tiếp tục hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh
nghiệp, Nghị quyết Hội nghị TW 6 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá XI
nêu rõ: “Nghiên cứu hình thành tổ chức thực hiện thống nhất chức năng đại diện
chủ sở hữu đối với DNNN”.
3.1.1.2. Mục tiêu thành lập SCIC
Việc thành lập SCIC là yêu cầu khách quan của quá trình sắp xếp, đổi mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và Nghị quyết của Đảng, Nhà nƣớc nhằm
42
đạt đƣợc mục tiêu cụ thể sau:
- Đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại các doanh nghiệp phù hợp
với cơ chế thị trƣờng có định hƣớng nhằm tách dần chức năng quản lý nhà nƣớc về
kinh tế và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh
cải cách hành chính trong công tác quản lý doanh nghiệp, xóa bỏ sự can thiệp hành
chính của cơ quan nhà nƣớc vào hoạt động của doanh nghiệp, giảm bớt gánh nặng
xử lý sự vụ về doanh nghiệp của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ, UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
- Từng bƣớc thực hiện việc chuyển đổi cơ chế cấp vốn trực tiếp từ NSNN
cho doanh nghiệp sang hình thức đầu tƣ vốn vào doanh nghiệp thông qua SCIC theo
nguyên tắc thị trƣờng dƣới các hình thức góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp,
tiến tới xóa bỏ việc cấp vốn trực tiếp từ NSNN đối với DNNN không cần nắm giữ
100% vốn.
- Từng bƣớc quản lý thống nhất các nguồn vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh
nghiệp: sau khi quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN hoàn thành, cùng với
việc triển khai cổ phần hóa các Tổng công ty nhà nƣớc, vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại các
doanh nghiệp sẽ đƣợc giao dần cho SCIC quản lý và thực hiện đầu tƣ, hoặc tiếp tục
cơ cấu lại vốn nhà nƣớc đầu tƣ ở các doanh nghiệp này để giảm bớt số lƣợng doanh
nghiệp mà nhà nƣớc không cần đầu tƣ vốn, nhằm tích tục, tập trung vốn để đầu tƣ
vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo định hƣớng của nhà nƣớc.
- SCIC còn là công cụ quan trọng để đẩy nhanh quá trình sắp xếp DNNN
theo định hƣớng của Nhà nƣớc và thúc đẩy thị trƣờng vốn và thị trƣờng chứng
khoán phát triển.
3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ của SCIC
Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 và Nghị định số
57/2014/ NĐ-CP ngày 16/6/2014 và của Thủ tƣớng Chính phủ về chức năng nhiệm
vụ, cơ chế hoạt độngvà phê duyệt điều lệ tổ chức, hoạt động của SCIC, SCIC có các
43
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nghĩa vụ nhƣ sau:
3.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ
- Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại một số
đối tƣợng doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ. Tham gia quản trị doanh nghiệp theo phƣơng thức mới, với tƣ cách là cổ
đông góp vốn, xóa bỏ sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp.
- Thực hiện cơ cấu lại vốn ở các doanh nghiệp đã tiếp nhận, đẩy nhanh việc
bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ, tỷ trọng vốn nhà nƣớc thấp,
thuộc lĩnh vực Nhà nƣớc không cần nắm giữ theo Đề án đã đƣợc Thủ tƣớng Chính
phủ phê duyệt; thực hiện tích tục, tập trung vốn nhà nƣớc để đầu tƣ vào các dự án
có hiệu quả, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
- Thực hiện đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu, then chốt mà
Nhà nƣớc cần nắm giữ, cần đầu tƣ theo định hƣớng của Chính phủ (bao gồm cả lĩnh
vực hạn tầng, kinh tế, xã hội mà các thành phần kinh tế khác không làm) để tăng
cƣờng vai trò chủ đạo, vai trò định hƣớng của nền kinh tế nhà nƣớc trong nền kinh
tế quốc dân.
- Tiếp tục phân loại, sắp xếp các doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc chuyển giao
về SCIC, thực hiện sáp nhập, giao khoán, bán, cho thuê hoặc giải thể, phá sản các
doanh nghiệp mà nhà nƣớc không cần nắm giữ, tiến hành cổ phần hóa các Công ty
TNHH nhà nƣớc 1 thành viên.
- Thực hiện quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ƣơng (nay là
Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp) theo Quyết định số 113/2008/QĐ-
TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 18/8/2008 về việc thành lập và ban hành Quy
chế quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ƣơng.
- Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nƣớc để bổ sung vốn kinh
doanh thông qua việc vay vốn, phát hành trái phiếu Công ty, trái phiếu công trình,
44
lập quỹ tín thác đầu tƣ theo quy định của pháp luật đối với công ty nhà nƣớc.
- Cung cấp các dịch vụ tài chính, các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Tƣ vấn
đầu tƣ; tƣ vấn tài chính; tƣ vấn cổ phần hóa; tƣ vấn chuyển đổi chủ sở hữu doanh
nghiệp; bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu; nhận ủy thác các nguồn vốn đầu tƣ
từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc.
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tƣ kinh doanh vốn.
- Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
3.1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của SCIC
SCIC có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Luật DNNN (từ 1/7/2014)
theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, ngoài ra còn cáo các quyền và
nghĩa vụ nhƣ sau:
- Đại diện chủ sở hữu vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nƣớc giao cho SCIC
quản lý và đầu tƣ.
- Đƣợc chủ động lựa chọn và quyết định lĩnh vực đầu tƣ và kinh doanh vốn
theo nguyên tắc thị trƣờng, đảm bảo hiệu quả và khả năng sinh lời trong tƣơng lai.
- Đƣợc quyền điều chỉnh tăng, giảm vốn của SCIC đã đầu tƣ tại các doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật, điều lệ của các doanh nghiệp.
- Đƣợc quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động, thuê các chức danh quản lý
phần vốn góp của SCIC tại doanh nghiệp khác theo quy định của Điều lệ Công ty có
vốn góp và Luật doanh nghiệp.
- Đƣợc mời một số chuyên gia tƣ vấn, cố vấn trong nƣớc và nƣớc ngoài.
- Đƣợc huy động vốn để kinh doanh dƣới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu; vay vốn của tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác theo quy định của
pháp luật và tự chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này.
- Có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nƣớc giao và chịu trách nhiệm
45
vê việc thất thoát vốn nhà nƣớc theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện báo cáo công khai, minh bạch về hoạt động kinh doanh và tài
chính của SCIC với các cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
3.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý điều hành của SCIC
Theo quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tƣớng Chính
phủ, SCIC đƣợc thành lập và tổ chức theo mô hình Tổng công ty nhà nƣớc có Hội
đồng quản trị. Từ ngày 1/7/2010, theo Quyết định số 992/QĐ-TTg ngày 30/6/2010
của Thủ tƣớng Chính phủ, SCIC chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty
KIỂM SOÁT VIÊN
HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN
BAN GIÁM ĐỐC
Văn phòng điều hành
Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 1
Ban Kế hoạch tổng hợp
Chi nhánh phía Nam
Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 2
Ban Tin học thống kê
Ban Tài chính – Kế toán
Chi nhánh miền Trung
Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại DN 3
Ban Tổ chức cán bộ
Ban Quản lý rủi ro
Ban Quản lý vốn đầu tƣ tạiDN 4
Công ty TNHH 1TV đầu tƣ kinh doanh
Ban Pháp chế
Văn phòng đảng đoàn
TNHH nhà nƣớc một thành viên có Hội đồng thành viên.
Ban Đầu tư kinh doanh
46
Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành SCIC
3.1.4. Nguồn nhân lực
Lực lƣợng nhân sự của SCIC vào thời điểm thành lập là 30 cán bộ, trong đó
8 cán bộ, nhân viên đƣợc điều động từ các đơn vị thuộc Bộ Tài chính sang và 22
nhân viên tuyển dụng mới. Đến 30/6/2016 tổng số cán bộ, nhân viên của SCIC đã
tăng lên là 253 ngƣời.
Cán bộ của SCIC phần lớn đƣợc đào tạo cơ bản ở nƣớc ngoài hoặc từ các
trƣờng đào tạo kinh tế lớn ở trong nƣớc nhƣ Đại học Ngoại thƣơng, Học viện tài
chính, Đại học Kinh tế quốc dân... Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của SCIC chủ yếu
đƣợc điều động và tuyển dụng từ các Bộ, ngành nhƣ Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà
nƣớc; Bộ Kế hoạch và đầu tƣ... hoặc từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế lớn nhƣ:
Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam, Công ty kiểm toán Vaco; Quỹ đầu tƣ
Manulife... Các chuyên viên của SCIC đều có kiến thức cơ bản vê tài chính doanh
nghiệp, đầu tƣ tài chính và ký năng ngoại ngữ tốt.
Ngoài đội ngũ lãnh đạo chủ chốt, còn lại các cán bộ, chuyên viên trong SCIC
có tuổi đời rất trẻ, tuổi bình quân của cán bộ nhân viên SCIC là 31 tuổi. Đây là một
lợi thế của SCIC, các cán bộ trẻ có tinh thần nhiệt huyết, hăng say, cần cù, không
ngại khó và có độ nhạy bén cao trong công việc... Tuy nhiên đây cũng là một trong
những hạn chế của SCIC do các cán bộ này chƣa đủ độ “chín” trong công việc, gặp
nhiều khó khăn khi phải xử lý những công việc đòi hỏi kinh nghiệm thực tế...
3.1.5. Tài chính của SCIC
SCIC là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính thực
hiện chế độ hạch toán kế toán tập trung. Chế độ kế toán, báo cáo kế toán, báo cáo
tài chính, báo cáo thống kê theo quy định hiện hành. SCIC có trách nhiệm thực hiện
các nghĩa vụ về thuế và đƣợc hƣởng các chính sách ƣu đãi về thuế theo quy định
của pháp luật.
Tính đến thời điểm 31/12/2015, tổng tài sản của SCIC là 72.92 tỷ đồng và
47
tổng nguồn vốn chủ sở hữu của SCIC là 34.755 tỷ đồng
3.2. Phân t ch về mô hình quản lý vốn của SCIC
3.2.1. Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp của SCIC
3.2.1.1. Tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp
a/ Căn cứ tiếp nh n
- Theo Nghị định số 151/2013/NĐ-CP và Nghị định số 57/2014/NĐ-CP của
Chính phủ, đối tƣợng tiếp nhận SCIC gồm: Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện
chủ sở hữu nhà nước tại các Công ty cổ phần,Công ty TNHH 1 TV và2 TV trở lên,
Công ty liên doanh có vốn góp nhà nước do các Bộ, ngành, địa phương làm đại
diện chủ sở hữu; Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty sau cổ phần hóa theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ;
- Thông tƣ số 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn
trình tự, thủ tục chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nƣớc về SCIC.
b/ Kết quả tiếp nh n
- Lũy kế tính đến ngày 31/12/2015, Tổng công ty đã tiếp nhận quyền đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại 996 doanh nghiệp với tổng giá trị vốn nhà nƣớc theo sổ
sách kế toán là 9.100 tỷ đồng (SCIC, 2015). Trong đó có 936 Công ty cổ phần (bao
gồm: Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt nam (Vinaconex),
Tổng công ty cổ phần Đầu tƣ Xây dựng và Thƣơng mại (Constrexim), Tổng công ty
cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam (VEIC), Tổng công ty cổ phần Thƣơng mại
và Xây dựng (Vietracimex), Tổng công ty Đƣờng sông miền Nam) và 30 Công ty
TNHH nhà nƣớc 1 thành viên.
Các doanh nghiệp có vốn bàn giao về SCIC thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh
vực kinh doanh khác nhau, quy mô hoạt động và trình độ quản trị khác nhau. Đa số
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn điều lệ bình quân dƣới 10 tỷ đồng (khoảng
75% doanh nghiệp đã nhận bàn giao vốn), chỉ có khoảng 5% số doanh nghiệp SCIC
48
tiếp nhận vốn có vốn trên 100 tỷ đồng. Trong đó:
- Có 38% số doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc giữ chi phối (trên 50% vốn điều
lệ). Nhiều doanh nghiệp khi cổ phần hóa thuộc diện Nhà nƣớc không cần giữ vốn
nhƣng do không bán đƣợc cổ phần nên số vốn còn lại lớn. 36% DNNN nắm giữ
dƣới 30% vốn điều lệ;
- Các doanh nghiệp có quy mô lớn trên 100 tỷ đồng đa số kinh doanh hiệu
quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ bình quân trên 12%. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp còn lại hiệu quả chƣa cao (45% doanh nghiệp hoạt động có tỷ suất lợi nhuận
thấp hơn 1% và gần 7% doanh nghiệp đang thua lỗ) (SCIC, 2015).
Về cơ bản, việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các
doanh nghiệp thuộc Bộ, địa phƣơng trong thời gian qua đƣợc thực hiện thận trọng,
đúng pháp luật, không làm ảnh hƣởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.1.2. Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
a/ Phân loại danh mục đầu tƣ
Để thực hiện việc sắp xếp lại doanh nghiệp tại Tổng công ty, Tổng công ty
đã xây dựng cơ sở dữ liệu theo dõi toàn bộ vốn đầu tƣ tại các doanh nghiệp, phân
tích, phân loại các doanh nghiệp theo nhóm để có các biện pháp khác nhau áp
dụng đối với từng nhóm nhằm quản lý hiệu quả, khoa học phần vốn nhà nƣớc
tại doanh nghiệp.
Tính đến thời điểm 31/12/2015, sau khi đã bán vốn, danh mục đầu tƣ của
Tổng công ty (còn lại sau khi bán vốn nhà nƣớc và chuyển giao lại một số doanh
nghiệp công ích cho địa phƣơng) bao gồm 230 khoản đầu tƣ với giá trị sổ sách là
17.000 tỷ đồng. Số doanh nghiệp thuộc nhóm A (nhóm đầu tư chiến lược) chiếm
4,7% số lƣợng doanh nghiệp, chiếm 70% giá trị danh mục đầu tƣ; số doanh nghiệp
nhóm B (nhóm đầu tư linh hoạt) chiếm 22,2% số lƣợng doanh nghiệp và 19% giá trị
danh mục đầu tƣ; số doanh nghiệp nhóm C (nhóm thoái đầu tư) chiếm 73,1% số
49
lƣợng doanh nghiệp và 11% giá trị danh mục đầu tƣ (SCIC, 2015)
b/ Kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện.
- Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của Ngƣời đại diện đối với việc bảo toàn
và phát triển phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp, Tổng công ty đã đặc biệt chú
trọng công tác kiện toàn, phối hợp với Ngƣời đại diện.
- Tổng công ty đã ban hành các Quy chế liên quan đến Ngƣời đại diện vốn
của Tổng công ty tại doanh nghiệp và thƣờng xuyên sửa đổi, hoàn thiện các Quy
chế này nhằm đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật và phù hợp với đặc thù của
Tổng công ty, cụ thể Quy chế Ngƣời đại diện đƣợc ban hành lần đầu tại Quyết định
số 08 QĐ/HĐQT ngày 15/01/2007 đƣợc sửa đổi bổ sung bởi các Quyết định số
71/QĐ-HĐQT ngày 19/4/2007, Quyết định số 20/QĐ-ĐTKDV.HĐQT ngày
09/6/2009 của Hội đồng quản trị, Quyết định số 06/QĐ-ĐTKDV.HĐTV ngày
06/02/2013 và Quyết định đang có hiệu lực số 22/QĐ-ĐTKDV.HĐQT ngày
01/10/2014 ban hành Quy chế Ngƣời đại diện vốn của SCIC. Quy chế Ngƣời đại
diện đã quy định rõ tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm, chế độ đãi ngộ và quan hệ
giữa Tổng công ty và Ngƣời đại diện; thay thế, chấm dứt uỷ quyền đối với Ngƣời
đại diện không hoàn thành trách nhiệm đại diện…
- SCIC tiếp tục thực hiện kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện: Căn cứ vào tình
hình thực tế của doanh nghiệp, SCIC đã tiếp tục kiện toàn nhân sự ngƣời đại diện
tại một số doanh nghiệp theo hƣớng:
+ Tiếp tục kế thừa những Ngƣời đại diện đã đƣợc Bộ, ngành, địa phƣơng cử;
+Trực tiếp cử ngƣời của SCIC tham gia quản lý tại các doanh nghiệp lớn
(VD: Bảo Minh, Vinare, Vinamilk, Vinaconex, Traphaco, Dƣợc Hậu Giang,
Domesco, Nhựa Bình Minh…) và các doanh nghiệp có vấn đề phức tạp
(Constrexim, Nhựa Tiền Phong…).
+ Giảm số lƣợng ngƣời đại diện vốn tại các doanh nghiệp theo hƣớng ủy
quyền cho ngƣời đứng đầu doanh nghiệp để tăng cƣờng và xác định rõ trách nhiệm
50
của ngƣời đại diện. Chấm dứt ủy quyền đối với Ngƣời đại diện không hoàn thành
trách nhiệm đại diện vốn. Giảm dần số lƣợng ngƣời đại diện là cán bộ các Sở, ban
ngành kiêm nhiệm.
+ Tiếp tục lựa chọn và ủy quyền cho Ngƣời đại diện thực hiện một số quyền
của cổ đông nhà nƣớc. Với tƣ cách là cổ đông có tiếng nói quan trọng tại doanh
nghiệp, SCIC tiếp tục ủng hộ và đề cử Ngƣời đại diện xứng đáng vào nắm giữ các
chức vụ quản lý, điều hành, qua đó Ngƣời đại diện tiếp tục hƣởng các chế độ tƣơng
ứng với các vị trí lãnh đạo doanh nghiệp.
Kết quả, tính đến ngày 31/12/2/15, SCIC còn 267 Ngƣời đại diện, trong đó:
18% do SCIC cử kiêm nhiệm, biệt phái là ngƣời đại diện; 2% số ngƣời là cán bộ,
công chức kiêm nhiệm là ngƣời đại diện tại doanh nghiệp; 80% ngƣời đại diện đang
trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp (là chủ tịch, giám đốc doanh nghiệp…) (SCIC, 2015).
- Xây dựng cơ chế về trả thù lao, phụ cấp, khen thƣởng Ngƣời đại diện:
Trong Quy chế Ngƣời đại diện (ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-
ĐTKDV.HĐQT ngày 01/10/2014), SCIC đã quy định nguyên tắc đãi ngộ cho
Ngƣời đại diện; đồng thời, quy định chi tiết hơn về các tiêu chí đánh giá, khen
thƣởng ngƣời đại diện…
- Tăng cƣờng tính chủ động của Ngƣời đại diện, gắn liền với quyền hạn và
trách nhiệm và quy định rõ trong Hợp đồng ủy quyền đại diện.
- Cung cấp thông tin, tạo diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm, kết nối các doanh
nghiệp. Ngoài ra SCIC cũng tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho Ngƣời đại diện.
c/ Thực hiện biện pháp quản trị doanh nghiệp thông qua vai trò cổ đông.
- Thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp, Tổng công ty đã chủ động
phát huy vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp theo qui
định của pháp luật. Tổng công ty đã chủ động phƣơng án tham gia các Đại hội cổ
đông; nghiên cứu, góp ý và biểu quyết các quyết định, các phƣơng án kinh doanh
của doanh nghiệp; thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin và vai trò cổ đông
51
nhà nƣớc doanh nghiệp; tham gia mua cổ phần phát hành thêm cho cổ đông hiện
hữu tại các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả có tiềm năng tạo ra giá trị gia tăng
cho vốn nhà nƣớc.
- Thực hiện vai trò cổ đông năng động, Tổng công ty đã chủ động triển khai
các hoạt động tái cơ cấu đối với một số doanh nghiệp nhƣ: Vinaconex, Constrexim,
Nhựa Tiền phong, VEIC, Bảo Minh, Công ty cổ phần du lịch Kim Liên,
Traphaco…; giúp doanh nghiệp tìm kiếm cổ đông chiến lƣợc (Domesco; Bảo Minh;
Vinare; Muối Ninh Thuận); hỗ trợ doanh nghiệp xử lý các khó khăn về quản trị, tài
chính, đặc biệt là việc xử lý các khoản nợ xấu của doanh nghiệp nhƣ Vinaconex,
Xuất nhập khẩu Tổng hợp II.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ tại Quyết định 94/QĐ-TTg ngày
16/01/2012, Tổng công ty đã triển khai các thủ tục đàm phán 3 bên giữa Tổng công
ty, Qantas và Vietnam Airlines để chuyển giao phần vốn nhà nƣớc tại CTCP Hàng
không Jestar Pacific từ Tổng công ty sang Vietnam Airlines. Việc chuyển giao thực
hiện theo đúng chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ.
- Đối với các doanh nghiệp có nhiều tồn tại, Tổng công ty đã thực hiện giám
sát đặc biệt thông qua Ngƣời đại diện, Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát của doanh
nghiệp. Đối với một số doanh nghiệp lớn hoặc một số trƣờng hợp đặc biệt, Tổng
công ty cử cán bộ trực tiếp ứng cử tham gia Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát để
thực hiện giám sát (XNK Hƣng Yên, Đầu tƣ Việt Nam-Oman, Vinaconex,
Constrexim, VEIC, Công ty cổ phần du lịch Kim Liên, Đầu tƣ XNK Da giầy Hà
Nội, SXKD XNK Prosimex…); phối hợp với các cổ đông lớn tại doanh nghiệp để
có giải pháp tái cơ cấu, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh (XNK Vĩnh Lợi, Thực
phẩm & Dịch vụ Sài Gòn...).
Đồng thời, đối với các doanh nghiệp thuộc diện này, Tổng công ty cũng chủ
động phối hợp với địa phƣơng theo Quy chế phối hợp đã ký kết để chia sẻ thông tin,
trao đổi thảo luận, thƣờng xuyên phối hợp với UBND, Sở Tài chính, cơ quan Đảng
tại địa phƣơng (điển hình là các tỉnh Đồng Tháp, Hƣng Yên, Hải Phòng, Bắc Giang,
52
Lạng Sơn, Đắk Lắk,…) trong quá trình xử lý các tồn tại của doanh nghiệp.
- Tuy nhiên về đánh giá chung, việc quản lý vốn của Tổng công ty vẫn còn
gặp nhiều khó khăn, thách thức do các tồn tại phát sinh trƣớc thời điểm cổ phần hóa
chƣa giải quyết dứt điểm; nhiều vấn đề phức tạp phát sinh tại doanh nghiệp nhƣ
kiện cáo kéo dài, nhiều bất cập, tồn tại về tài chính, quản trị doanh nghiệp; các
doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau (đa ngành) nên đòi hỏi kiến
thức tổng hợp, chuyên sâu của các cán bộ quản lý doanh nghiệp...
d/ Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành và ch nh quyền địa phƣơng để
quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Tổng công ty đã chủ động làm việc với UBND các tỉnh thành phố, các bộ
ngành và các Tập đoàn, Tổng công ty lớn để phối hợp giải quyết những vấn đề về
nhân sự đối với ngƣời đại diện, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, hỗ trợ
doanh nghiệp trong quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và
khai thông quan hệ với các địa phƣơng trong việc quản lý vốn nhà nƣớc tại doanh
nghiệp, phối hợp trong việc triển khai các cơ hội đầu tƣ phát triển trong lĩnh vực và
địa bàn do bộ, địa phƣơng quản lý và xây dựng kế hoạch hợp tác với tổng công ty.
Cụ thể, Tổng công ty đã ký kết 53 Quy chế phối hợp với các địa phƣơng; ký
kết Quy chế phối hợp với Tổng cục Cảnh sát và Tổng cục An ninh (Bộ Công an)
trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm lợi ích Nhà nƣớc tại doanh
nghiệp; ký bản thỏa thuận hợp tác với UBND tỉnh Hà Tĩnh, Bắc Giang…
3.2.1.3. Tiếp tục sắp xếp, cổ phần hóa và bán bớt phần vốn nhà nước, tích tụ, tập
trung vốn vào các ngành, lĩnh vực quan trọng
a/Cơ c u lại doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện quá trình cổ phần hóa
DNNN thông qua việc bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp mà nhà nƣớc
không cần đầu tƣ vốn.
Lũy kế từ khi thành lập đến nay, SCIC đã bán vốn tại 900 DN (trong đó bán
hết vốn tại 821 DN, bán một phần vốn tại 79 DN) và bán quyền mua tại 19DN với
53
giá vốn là 5.724 tỷ đồng và thu về 14.109 tỷ đồng gấp 2,5 lần giá vốn (SCIC, 2015).
- Tính đến nay, danh mục vốn tiếp nhận và đầu tƣ SCIC đang quản lý còn
khoảng 230 khoản với tổng giá vốn theo sổ sách kế toán khoảng 17.000 tỷ đồng
(không bao gồm đầu tƣ theo chỉ định của Thủ tƣớng Chính phủ), giá thị trƣờng ƣớc
đạt gần 78.000 tỷ đồng, gấp hơn 4,7 lần so với giá vốn sổ sách kế toán; Vốn chủ sở
hữu của SCIC đạt khoảng 35.000 tỷ đồng.
Việc bán vốn đƣợc thực hiện theo đúng quy định của nhà nƣớc và quy trình,
quy chế đã đƣợc Hội đồng thành viên phê duyệt; bảo toàn và tăng thặng dƣ vốn với
việc lựa chọn doanh nghiệp để bán vốn, lựa chọn thời điểm để bán; đồng thời, thực
hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp trong từng trƣờng hợp nhằm gia tăng giá trị vốn
để thực hiện bán vốn.
Đối với các doanh nghiệp, hoạt động bán vốn của Tổng công ty còn tạo điều
kiện giúp doanh nghiệp có nhà đầu tƣ chiến lƣợc, tăng tỷ lệ sở hữu vốn cho ngƣời
lao động để doanh nghiệp ổn định và phát triển.
- Trong số doanh nghiệp đã tiếp nhận đến nay có đến 80% các doanh nghiệp
quy mô nhỏ, nằm rải rác ở nhiều địa phƣơng, không thuộc diện Nhà nƣớc cần nắm
giữ vốn nhƣng quá trình cổ phần hoá không bán hết hoặc không bán đƣợc cổ phần,
buộc phải giữ vốn Nhà nƣớc và bàn giao sang Tổng công ty. Việc Tổng công ty
phải thực hiện xử lý các vấn đề tồn tại đối với quá nhiều doanh nghiệp nhỏ, kinh
doanh kém hiệu quả đã là một cản trở lớn trong việc tập trung thực hiện các nhiệm
vụ chiến lƣợc đề ra.
Bán vốn nhà nƣớc qua các năm từ 2008 - 2015
250
219
200
148
150
98
97
88
84
100
53
34
50
19
14
11
11
9
7
5
3
0
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Số DN bán bớt vốn
Số DN bán hết vốn
54
Hình 3.2: Biểu đồ bán vốn Nhà nước qua các năm từ 2008 - 2015
Thông qua việc bán vốn tại doanh nghiệp mà Nhà nƣớc không cần đầu tƣ
vốn, SCIC đã và đang thực hiện dịch chuyển dần vốn nhà nƣớc ra khỏi lĩnh vực
không cần thiết đầu tƣ vốn của nhà nƣớc. Mục tiêu đến năm 2015, SCIC chỉ nắm
giữ vốn tại không quá 100 doanh nghiệp(Chính phủ, 2013).
Mặc dù đã có chuyển biến tích cực nhƣng công tác bán vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp của SCIC chƣa hoàn thành về số lƣợng doanh nghiệp theo Đề án Tái
cơ cấu SCIC. Theo Quyết định 2344, SCIC phải bán vốn để đến cuối năm 2015,
danh mục đầu tƣ còn khoảng 100 doanh nghiệp. Thực tế hiện nay còn 197 doanh
nghiệp do có hơn 90 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nhiều năm, một số doanh
nghiệp đang tiến hành phá sản hoặc thuộc diện giám sát đặc biệt, không có nhà đầu
tƣ quan tâm nên không bán đƣợc vốn hoặc rất khó bán vốn; nhiều doanh nghiệp đã
triển khai bán vốn nhiều lần nhƣng không thành công.
b/ Triển khai, sắp xếp, cổ phần hóa các Công ty TNHH nhà nƣớc 1
thành viên đã tiếp nh n
Cùng với việc quản lý phần vốn tại các DNNN đã cổ phần hóa, Tổng công ty
đã tiếp nhận và quản lý một số các công ty TNHH1TV. Tính đến 31/12/2013, Tổng
công ty đã tiếp nhận 30 Công ty TNHH1TV với giá trị sổ sách phần vốn nhà nƣớc
là 324 tỷ đồng. Ngay sau khi tiếp nhận, Tổng công ty đã xây dựng kế hoạch sắp xếp
cổ phần hóa trình Thủ tƣớng chính phủ phê duyệt. Qua gần 6 năm triển khai đã sắp
xếp, cổ phần hóa và bán đƣợc 27 doanh nghiệp (đạt 90%). Hiện nay, SCIC đang cổ
phần hóa 01 doanh nghiệp; tiếp tục củng cố 02 doanh nghiệp trong diện không cổ
phần hóa.Về cơ bản việc triển khai sắp xếp và cổ phần hóa các công ty TNHH1TV
tại Tổng công ty đạt kết quả tốt, quá trình cổ phần hóa đƣợc tiến hành đúng quy
định của pháp luật, phƣơng án sắp xếp và cổ phần hóa đƣợc sự đồng thuận cao của
cán bộ, công nhân viên các doanh nghiệp cũng nhƣ của chính quyền địa phƣơng.
Các doanh nghiệp sau sắp xếp, cổ phần hóa đều hoạt động ổn định và có sự tăng
55
trƣởng tốt.
3.2.1.4. Thu hồi công nợ, các nguồn thu từ cổ phần hóa và thu cổ tức.
Thực hiện Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp
Trung ƣơng (nay là Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp) ban hành kèm
theo Quyết định số 113/2008/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ, SCIC đã thực
hiện có hiệu quả công tác quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.
Cụ thể:
- Đôn đôc thu Quỹ đến thời điểm 30/9/2015 đạt hơn 100.000 tỷ đồng, gấp
gần 7 lần so với số nhận bàn giao tháng 9/2008 (SCIC, 2015), trong đó bao gồm thu
từ cổ phần hóa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nƣớc; thu từ Quỹ các địa phƣơng; thu
từ lợi nhuận, cổ tức đƣợc chia thuộc phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp chƣa
chuyển giao về Tổng công ty và các khoản thu khác.
3.2.2. Hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn của SCIC
3.2.2.1. Về hoạt động đầu tư mới vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo chỉ đạo
của Chính phủ
SCIC đã triển khai thành công bƣớc đầu hoạt động đầu tƣ, kinh doanh vốn
nhà nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đã giải ngân đến thời điểm hiện nay là trên 24.336 tỷ
đồng (trong đó: Đầu tƣ thành lập DN, DN dự án: 844 tỷ đồng; Đầu tƣ cổ phiếu:
4.459 tỷ đồng; Đầu tƣ trái phiếu: 6.250 tỷ đồng; Đầu tƣ hiện hữu: 10.224 tỷ đồng;
Đầu tƣ chỉ định: 2.519 tỷ đồng). Đầu tƣ của SCIC đã tập trung vào các ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế, gắn với thị trƣờng và đạt hiệu quả khá cao. SCIC đã
và đang trở thành đầu mối tích tụ vốn, từ đó giúp cho Chính phủ thực hiện các
khoản đầu tƣ chỉ định, đồng thời là công cụ giúp Chính phủ trong tổng thể triển khai
các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc.
Theo Đề án tái cơ cấu, mục tiêu nhiệm vụ của SCIC là đẩy mạnh đầu tƣ vào
các ngành nghề, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; chủ động nghiên cứu và tham
gia thực hiện tái cơ cấu các Tập đoàn, Tổng công ty khác với vai trò là nhà đầu tƣ
56
tài chính. Triển khai nhiệm vụ tại Đề án Tái cơ cấu SCIC theo Quyết định 2344,
Tổng công ty tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn. Trong giai đoạn
2014 - 2015, Tổng công ty đã giải ngân đầu tƣ gần 8.500 tỷ đồng.
Thời gian qua, hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn của SCIC đã có những
chuyển biến tích cực: vốn giải ngân tăng, hoạt động đầu tƣ tài chính đƣợc mở rộng
có hiệu quả, một số dự án qui mô lớn đã đi vào triển khai sau một thời gian chuẩn bị
Các hình thức đầu tƣ đã đƣợc Tổng công ty thực hiện:
- Thực hiện đầu tư vốn vào các Tập đoàn, Tổng công ty lớn: Trong lĩnh vực
năng lƣợng, Tổng công ty đã hợp tác cùng Tập đoàn Điện lực (EVN) đầu tƣ các dự
án điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thác Bà, Hải Phòng và Quảng Ninh với số vốn trên
2.500 tỷ đồng; đã ký kết Thoả thuận hợp tác toàn diện để đầu tƣ vào các dự án của
Tập đoàn Dầu khí (PVN); nghiên cứu dự án nhà máy điện Nhơn Trạch, cơ hội đầu
tƣ thăm dò và khai thác dầu khí tại nƣớc ngoài…
- Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng: Dự án 29 Liễu Giai, Dự án Tháp truyền hình,
Dự án Tháp tài chính, Dự án hợp tác đầu tƣ xây dựng nhà máy sản xuất thuốc điều
trị ung thƣ tại Việt Nam, Dự án sản xuất Vắc xin quy mô công nghiệp, Dự án hợp
tác với Bệnh viện Nhi Trung ƣơng (TW), Dự án nhà máy nƣớc sông Đà 2, Đầu tƣ
theo chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ vào dự án mở rộng sản xuất giai đoạn II của
CTCP Gang thép Thái nguyên (TISCO).
- Thành lập doanh nghiệp để triển khai dự án: tại 3 doanh nghiệp, trong đó
có CT TNHH Đầu tƣ Bảo Việt - SCIC và CTCP Đầu tƣ và dịch vụ Thăng Long.
- Đầu tư thực hiện quyền mua cổ phiếu, trái phiếu phát hành tăng vốn của
doanh nghiệp cho cổ đông hiện hữu, cổ tức bằng cổ phiếu: tại 264 doanh nghiệp với
tổng vốn đầu tƣ hơn 4.036 tỷ đồng.
- Đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp:Đầu tƣ mua cổ phần trở thành cổ động
chiến lƣợc của Ngân hàng TMCP Quân đội (MB); Đầu tƣ trái phiếu (Trái phiếu
57
Chính phủ 5.000 tỷ, Trái phiếu Ngân hàng TMCP Kỹ thƣơng Việt Nam 450 tỷ).
3.2.2.2. Đầu tư vốn vào doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường.
Căn cứ trên đánh giá phân loại doanh nghiệp theo hạng mục chiến lƣợc, đánh
giá phân tích tình hình tài chính cũng nhƣ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
SCIC đã lựa chọn những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả có tiềm năng tạo ra
giá trị tăng cho vốn nhà nƣớc để thực hiện đầu tƣ thêm vốn vào các doanh nghiệp đó.
Bên cạnh các khoản đầu tƣ dài hạn vào các doanh nghiệp chiến lƣợc (nhóm
A), SCIC thực hiện đầu tƣ vào các doanh nghiệp nhóm B nhằm mục tiêu cơ cấu lại
vốn và gia tăng giá trị doanh nghiệp trƣớc khi thoái vốn.
Thông qua việc đầu tƣ linh hoạt vào doanh nghiệp, vốn nhà nƣớc đƣợc bảo
toàn và phát triển tránh đƣợc tình trạng trƣớc đây do ngân sách không bố trí đƣợc
nguồn nên khi một doanh nghiệp tốt phát hành cổ phiếu tăng vốn, Nhà nƣớc không
thực hiện đầu tƣ vốn dẫn tới tình trạng vốn nhà nƣớc bị pha loãng.
Quá trình xem xét, đầu tƣ vốn đƣợc thực hiện công khai theo nguyên tắc dự
án có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn cao, xóa bỏ hình thức cấp vốn trực tiếp
mang tính bao cấp.
Việc bàn giao tập trung quyền đại diện chủ sở hữu vốn về SCIC đã giảm đầu
mối quyết định đầu tƣ tại các doanh nghiệp, tránh tình trạng cùng một lĩnh vực, một
ngành nghề nhƣng cả trung ƣơng và địa phƣơng cùng đầu tƣ, việc đầu tƣ mang tính
phong trào, hình thức, hiệu quả không cao.
3.2.2.3. Về hợp tác trong lĩnh vực đầu tư vốn:
Trong thời gian qua, bên cạnh việc tìm kiếm triển khai các hoạt động đầu tƣ
trong nƣớc, SCIC cũng đã chú trọng công tác tìm kiếm, hợp tác với các đối tác, tổ
chức kinh tế, tài chính quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) trong khuôn khổ trợ giúp cho ngành Tài chính và tƣ vấn cải cách
khu vực doanh nghiệp; phối hợp với một số đối tác làm việc với các Bộ, ngành liên
quan để triển khai nghiên cứu thế chế pháp lý cho việc khuyến khích sự tham gia
58
của khu vực tƣ nhân vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, SCIC cũng đã quan hệ
trao đổi với các đối tác quốc tế nhƣ Temasek (Singapore), Khazanah (Malaysia),
SDIC (Trung Quốc), QIA (Quatar), và thỏa thuận với gần 20 đối tác quốc tế là các
quỹ đầu tƣ Chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế, Công ty quản lý quỹ...về tìm kiếm
cơ hội hợp tác đầu tƣ.
3.2.3. Tình hình tài chính của SCIC qua các năm
- Sau 10 năm, hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn của SCIC đạt đƣợc kết quả
khả quan,bảo toàn và phát triển vốn, các chỉ tiêu tăng trƣởng liên tục, năm sau cao
hơn năm trƣớc. Tổng lợi nhuận sau thuế lũy kế trên 30.000 tỷ đồng. So với thời
điểm thành lập: Doanh thu tăng gấp 65,4 lần; Vốn chủ sở hữu tăng gấp 9,5 lần;
Tổng tài sản tăng gấp 13,8 lần; Lợi nhuận sau thuế tăng gấp 61 lần; Nộp ngân sách
nhà nƣớc tăng 41 lần; Tỷ suất lợi nhuận/Vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân
13%/năm; Tỷ suất lợi nhuận/Tổng tài sản (ROA) bình quân 6%/năm (Giai đoạn
2006-2010, ROE đạt bình quân 9,6%/năm, giai đoạn 2011-2015 bình quân
15,6%/năm)
(Nguồn: Báo cáo tài chính kiểm toán hàng năm của SCIC)
59
Bảng 3.2: Báo cáo tổng kết hoạt động 10 năm 2006-2015 của SCIC
3.2.4 Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc theo hƣớng xóa bỏ sự can thiệp
hành chính của cơ quan quản lý nhà nƣớc, chuyển đổi theo phƣơng thức đầu tƣ kinh
doanh vốn.
Thực tế hoạt động của SCIC đã bƣớc đầu khẳng định tính đúng đắn của chủ
trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp.
Với phƣơng thức quản lý vốn theo cơ chế SCIC là đại diện chủ sở hữu đã
dần thực hiện đƣợc việc tách bạch chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc với
quyền tự chủ của doanh nghiệp, xóa bỏ dần sự can thiệp hành chính của cơ quan
quản lý nhà nƣớc vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, chuyển
hình thức quản lý vốn nhà nƣớc sang hình thức đầu tƣ, kinh doanh vốn qua đó nâng
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng nhƣ hiệu quả đầu tƣ của nhà nƣớc.
Nhà nƣớc, thông qua SCIC đã thực sự là cổ đông của doanh nghiệp, với chủ
trƣơng không can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, SCIC đã thực
hiện tốt vai trò của mình trong việc giúp đỡ doanh nghiệp xử lý kịp thời những vấn
đề phát sinh, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp trong việc áp dụng các tiêu chí quản
trị kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực, xử lý nhanh chóng những vấn đề phát sinh
thuộc thẩm quyền theo đề nghị của doanh nghiệp nhƣ: thay thế ngƣời đại diện phần
vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp, sửa đổi, bổ sung vốn điều lệ, thay đổi cơ cấu vốn
đầu tƣ, phê duyệt phƣơng án sản xuất kinh doanh, đầu tƣ thêm hoặc bán bớt cổ phần
nhà nƣớc, thực hiện thu nợ tiền án cổ phần, thu cổ tức đối với phần vốn nhà nƣớc…
Lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của cổ đông trong đó có cổ đông nhà nƣớc và lợi
ích của ngƣời lao động đƣợc giải quyết hài hòa.
Song song với việc thực hiện tốt vai trò cổ đông nhà nƣớc tại doanh nghiệp,
SCIC đã và đang thực hiện tốt vai trò của nhà đầu tƣ thông qua việc phân tích, đánh
giá lại tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp để có biện
60
pháp xử lý thích hợp nhƣ: cơ cấu về vốn, tƣ vấn hỗ trợ doanh nghiệp, giới thiệu cơ
hội, đối tác đầu tƣ cho doanh nghiệp, cử cán bộ trực tiếp, ủy quyền, thuê ngƣời đại
diện quyền sở hữu vốn của SCIC tại doanh nghiệp phù hợp với hoạt động đặc thù
của doanh nghiệp.
Thông qua việc tƣ vấn, hỗ trợ, đôn đốc niêm yết, đấu giá một số lƣợng lớn
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của SCIC trên thị trƣờng chứng khoán trong nƣớc và
nƣớc ngoài đã góp phần sinh lời và phát triển quy mô vốn nhà nƣớc do SCIC làm
đại diện chủ sở hữu tại các doanh nghiệp này.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, sau khi quyền đại diện chủ sở hữu
phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đƣợc chuyển giao về SCIC đã có những thay
đổi đáng kể (nhƣ đã nêu ở phần trên).
Từ nguồn thu bán vốn nhà nƣớc, cổ tức và lợi nhuận để lại, Tổng công ty
thực hiện đầu tƣ vào các Tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nƣớc thông qua mua
cổ phần và góp vốn vào dự án; tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu của
nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ. Kết quả đầu tƣ của Tổng công ty cho thấy
thành công bƣớc đầu của việc đổi mới cơ chế đầu tƣ vốn của nhà nƣớc vào doanh
nghiệp từ phƣơng thức cấp vốn và quản lý vốn trực tiếp từ ngân sách chuyển sang
đầu tƣ và kinh doanh vốn, lấy tiêu chí hiệu quả làm thƣớc đo. Các dự án đầu tƣ
đƣợc lựa chọn đúng định hƣớng và trọng điểm về lĩnh vực cần đầu tƣ, có hiệu quả
hơn và đƣợc giám sát tốt hơn.
SCIC đã thực hiện tốt vai trò là công cụ để cơ cấu lại vốn đầu tƣ của nhà
nƣớc tại các DNNN.
- Thực hiện vai trò cổ đông năng động, sau khi tiếp nhận doanh nghiệp Tổng
công ty đã chủ động thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp theo qui định
của pháp luật; triển khai các hoạt động tái cơ cấu, xử lý các tồn tại về quản trị, tài
chính; kiện toàn hệ thống ngƣời đại diện… qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp.
- Thực hiện tái cấu trúc vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp thông qua việc bán
phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nhà 61
nƣớc không cần nắm giữ; đầu tƣ thêm vào doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu
quả; tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tƣ đồng thời thu
hồi vốn, tập trung vốn có hiệu quả cho Nhà nƣớc.
- Bƣớc đầu tách biệt chức năng quản lý nhà nƣớc với vai trò đại diện chủ sở
hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc.
3.2.5. Nguồn nhân lực và công nghệ quản trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp thuộc đối tƣợng nhận bàn giao vốn có số lƣợng lớn, quy mô
nhỏ, phân bổ trên địa bàn rộng, còn nhiều tồn tại về tài chính chƣa đƣợc xử lý trong
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
Số lƣợng doanh nghiệp SCIC đã tiếp nhận lên đến gần 1000 doanh nghiệp
nhƣng chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô nhỏ (75% doanh nghiệp có vốn điều lệ
dƣới 10 tỷ đồng) lại nằm rải rác ở hầu hết các địa bàn trên cả nƣớc. Quá nhiều
doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nƣớc cần nắm giữ vốn hoặc giữ cổ phần chi
phối nhƣng do các doanh nghiệp này trƣớc khi cổ phần hóa do hiệu quả hoạt động
không cao, có nhiều tồn tại về tài chính chƣa đƣợc xử lý dứt điểm hoặc kinh doanh
trong lĩnh vực không hấp dẫn… nên không thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ, do vậy quá
trình cổ phần hóa không bán hết hoặc không bán đƣợc cổ phần, buộc phải giữ vốn
Nhà nƣớc và bàn giao sang SCIC.
Với đặc thù nhƣ vậy nên phần lớn các doanh nghiệp SCIC tiếp nhận hoạt
động rất kém hiệu quả, có nhiều tồn tại khó khăn nhƣng khi cổ phần hóa không
đƣợc giải quyết dứt điểm nên sau khi nhiều doanh nghiệp càng rơi vào tình trạng
khó khăn trầm trọng hơn. Cơ cấu tổ chức bộ máy kém hiệu quả, trình độ và năng
lực của ngƣời quản lý còn nhiều hạn chế, chƣa thích nghi với cơ chế thị trƣờng.
Máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu, nhiều bất cập và chƣa đổi mới để phù hợp với
sự phát triển chung. Nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, thiếu chiến lƣợc,
không tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, không đủ sức cạnh tranh trên
thƣơng trƣờng và trong môi trƣờng quốc tế nên thị phần thấp, có doanh nghiệp
62
trong tình trạng thua lỗ.
Hiện tại, SCIC SCIC đang áp dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp CPMS
tổng hợp toàn bộ dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, ngƣời đại diện, tình hình tài
chính và tình hình quản trị của SCIC tại doanh nghiệp
Số lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc do SCIC tiếp nhận nhiều, nằm rải
khắp cả nƣớc nên số lƣợng Ngƣời đại diện lớn, trình độ và năng lực của Ngƣời đại
diện nhìn chung không đều, tính chất công tác của Ngƣời đại diện là cán bộ tại các
cơ quan quản lý nhà nƣớc nhƣ Bộ, UBND, Sở ban ngành…làm kiêm nhiệm. Ngoài
ra, các doanh nghiệp có quy mô, ngành nghề, trình độ phát triển và văn hóa doanh
nghiệp khác nhau nên cách thức quản trị và công tác phối hợp với SCIC cũng khác nhau.
SCIC mới đƣợc thành lập, thời gian hoạt động chƣa lâu, chiến lƣợc hoạt
động cũng nhƣ cơ cấu tổ chức bộ máy đang trong quá trình xây dựng, số lƣợng và
chất lƣợng của cán bộ nhân viên còn hạn chế.
Với số lƣợng doanh nghiệp nhiều, lực lƣợng cán bộ còn mỏng nên đối với
một số trƣờng hợp, SCIC chƣa cử cán bộ tới toàn bộ doanh nghiệp để tìm hiểu về
hoạt động thực tế của doanh nghiệp trợ giúp, tƣ vấn cho doanh nghiệp trong các vấn
đề cụ thể nhƣ xu hƣớng phát triển ngành nghề, chiến lƣợc kinh doanh, thị trƣờng
tiêu thụ sản phẩm, làm cầu nối các doanh nghiệp, tòa đàm cung cấp thông tin, tiêu
thụ sản phẩm…
Đội ngũ cán bộ của SCIC trẻ, có trình độ nhƣng kinh nghiệm chƣa nhiều,
nhiều vụ việc phức tạp đòi hỏi kiến thức chuyên ngành để xử lý một cách thấu đáo
và thỏa đáng chƣa đáp ứng đƣợc. Do vậy, nhiều vấn đề phát sinh của doanh nghiệp
chƣa đƣợc giải quyết kịp thời và đạt hiệu quả cao.
Việc trả lƣơng cho cán bộ, nhân viên SCIC nhƣ hành chính thì các chuyên
viên khó có thể tận tâm tận lực, sáng kiến, chịu trách nhiệm cá nhân.
3.2.6. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý vốn của SCIC
SCIC là mô hình hoạt động mới với những đặc thù riêng trong tổ chức, hoạt
63
động, cơ chế tài chính... Thực tế, các văn bản pháp quy ở cấp cao hơn nhƣ Luật,
Nghị định khác liên quan đến hoạt động của SCIC nhƣ cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc
tại doanh nghiệp, đầu tƣ, thoái vốn, cơ chế đại diện chủ sở hữu, cơ chế tài
chính...phần lớn đƣợc ban hành trƣớc khi SCIC đƣợc thành lập, do vậy có nhiều
điểm chƣa phù hợp đã làm hạn chế hoạt động của SCIC trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của chủ sở hữu vốn nhà nƣớc cũng nhƣ quá trình cơ cấu lại danh mục vốn
nhà nƣớc và thực hiện các dự án đầu tƣ mới tại SCIC. Mặt khác do mô hình SCIC
mới và đặc thù nên hệ thống văn bản pháp quy chƣa quy định, điều chỉnh hết những
hoạt động của SCIC, và nếu có thực hiện bổ sung, sửa đổi thì cũng cần phải có thời
gian nghiên cứu, thậm chí phải thí điểm triển khai, trên cơ sở đó hoàn thiện thì mới
đảm bảo phù hợp.
Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ về phân công,
phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với DNNN và
vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp, giúp quá trình quản lý doanh nghiệp đƣợc
thực hiện minh bạch và rõ ràng. Quyền, trách nhiệm của SCIC đƣợc quy định riêng
tại Khoản 2/Điều 4 Nghị định 99 đã tạo hành lang pháp lý cho SCIC, thực tế đã
đƣợc triển khai áp dụng, đƣa vào quy định tại Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày
1/11/2013 về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC.
Quy định về ngƣời đại diện tại Nghị định 99 đã đƣợc cụ thể hóa trong Quy
chế Ngƣời đại diện của SCIC. Trên cơ sở đó, Tổng công ty đã từng bƣớc kiện toàn
đƣợc hệ thống ngƣời đại diện. Cơ bản việc phối hợp giữa Tổng công ty và ngƣời đại
diện là chặt chẽ theo Quy chế ngƣời đại diện. Thông qua đó, Tổng công ty đã thực
hiện tốt vai trò là cổ đông Nhà nƣớc tại doanh nghiệp với các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, phân công về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc
tại doanh nghiệp theo Nghị định 99 còn một số tồn tại, hạn chế:
Phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phƣơng thực hiện các quyền,
trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc nên chƣa tách bạch chức năng
64
chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc và điều tiết thị trƣờng của
các cơ quan hành chính nhà nƣớc; dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu
đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp
gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các ngành, lĩnh vực quan trọng,
củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc thông qua mô hình SCIC.
Quyền, trách nhiệm chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng
lặp làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát đối với DNNN.
Chƣa tách bạch rõ về mục tiêu, công cụ, phƣơng pháp cũng nhƣ tổ chức bộ
máy và cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở
hữu nhà nƣớc làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chủ sở hữu nhà nƣớc cũng
nhƣ quản lý nhà nƣớc.
Về việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua ủy
quyền ngƣời đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm, quyền
lợi của Ngƣời đại diện không rõ ràng; một số ngƣời đại diện chƣa tuân thủ đầy đủ
quy định về báo cáo, lấy ý kiến của SCIC; chế độ tiền lƣơng, thù lao, tiền thƣởng
đối với Ngƣời đại diện còn bất cập, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.
3.2.7 Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước tại doanh nhiệp và sắp xếp cổ phần hóa các
Công ty TNHH nhà nước MTV và hội nhập hợp tác quốc tế
Việc bán vốn nhà nƣớc và cổ phần hóa các Công ty TNHH MTV thuộc SCIC
nhằm tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới
đang đƣợc triển khai tích cực nhƣng vẫn cần đƣợc đẩy mạnh hơn nữa để đạt đƣợc
mục tiêu đề ra (theo thống kê sơ bộ đến thời điểm 31/12/2015 SCIC đã hoàn thành
việc bán vốn tại hơn 900 doanh nghiệp, đạt khoảng 80% số doanh nghiệp nhận bàn
giao và hoàn thành sắp xếp lại và cổ phần hóa đƣợc 27/30 Công ty TNHH MTV,
đạt khoảng 90% so với kế hoạch đặt ra). Tuy nhiên tiến độ tiếp nhận các doanh
nghiệp đã cổ phần hóa và các công ty TNHH MTV từ các bộ, địa phƣơng còn chậm
do một số rào cản về chính sách và ý chí thực hiện của các cơ quan liên quan. Với
tiến độ này thì mục tiêu bán hết vốn tại các doanh nghiệp không cần nắm giữ vốn đã
65
và sẽ tiếp nhận phải mất thêm nhiều năm, ảnh hƣởng đến tốc độ hội nhập của Việt
Nam, ảnh hƣởng đến việc cơ cấu lại danh mục đầu tƣ để tập trung nguồn tài chính cho
mục tiêu đầu tƣ vào các lĩnh vực quan trọng theo định hƣớng của Nhà nƣớc.
Việc bán vốn tại các DNNN trong thời gian qua chƣa thực sự đạt đƣợc kết
quả nhƣ mong muốn một phần do tình hình thị trƣờng không thuận lợi, ảnh hƣởng
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trƣờng tài chính và thị trƣờng vốn sụt giảm,
sức mua cổ phần hạn chế, dẫn đến một số cuộc đấu giá cổ phần của SCIC không
thành công… Ngoài ra phần lớn do quá trình triển khai bán vốn của SCIC còn gặp
rất nhiều khó khăn vƣớng mắc do phần lớn các doanh nghiệp thuộc đối tƣợng bán
vốn nhà nƣớc có quy mô nhỏ, tình hình kinh tế khó khăn, có nhiều tồn tại về tài
chính…, do vậy khó thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ tham gia mua lại phần vốn nhà
nƣớc tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định nội bộ của doanh nghiệp ban
hành trƣớc khi SCIC tiếp nhận về nhƣ tại nhiều Công ty, Điều lệ tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp quy định nhiều nội dung hạn chế chuyển nhƣợng vốn của
nhà nƣớc, phải bán cho ngƣời lao động khi nhà nƣớc bán vốn... cũng làm chậm tiến
độ thoái vốn.
3.3. Đánh giá kết quả hoạt động và mô hình hoạt động quản lý vốn của SCIC
3.3.1. Các mặt đạt được và bài học kinh nghiệm
Trong 10 năm qua, vƣợt qua nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu hình thành
và phát triển, đƣợc sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Bộ Tài
chính, sự phối hợp, giúp đỡ của các Bộ, Ngành, địa phƣơng, các đối tác cả trong
nƣớc và quốc tế, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể lãnh đạo, cán bộ, nhân
viên Tổng công ty, mô hình SCIC đã đạt đƣợc một số thành tựu đáng ghi nhận:
Thứ nhất, đã hình thành 1 tổ chức kinh tế đặc thù dƣới mô hình 1 tổng công
ty xếp hạng đặc biệt của Chính phủ để triển khai một trong những chủ trƣơng quan
trọng của Đảng về đổi mới phƣơng thức quản lý vốn nhà nƣớc từ cơ chế hành chính
sang phƣơng thức đầu tƣ, kinh doanh vốn tiên tiến, góp phần đẩy nhanh tiến trình
sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Mô hình hoạt động quản lý vốn
của SCIC theo hƣớng mô hình quản lý vốn tập trung nên đã phát huy hết hiệu quả
66
của mô hình này với phƣơng thức quản lý, đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc tiên
tiến, tránh tình trạng hành chính hóa. Kết quả hoạt động của Tổng công ty tiếp tục
khẳng định chủ trƣơng lớn, đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc về đổi mới phƣơng
thức quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp.
Thứ hai, trong 10 năm qua, SCIC đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đại
diện chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc đối với các công ty cổ phần sau cổ phần hóa. Cơ chế
ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc triển khai tại tất cả các doanh nghiệp đƣợc kết
hợp chặt chẽ với sự giám sát và chỉ đạo trực tiếp của chủ sở hữu đã giúp SCIC bảo
toàn và phát triển phần vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Trong quá trình đại diện
chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, mô hình SCIC đã bƣớc đầu thể hiện
những thế mạnh so với cơ chế chủ quản hành chính trƣớc đây ở chỗ:
Thứ nhất, trong quản trị doanh nghiệp, SCIC có cơ chế và nguồn lực để sẵn
sàng đầu tƣ tăng vốn giúp cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp hiệu quả. Với bộ máy
chuyên nghiệp, qui trình đầu tƣ, thẩm định, quản trị khoa học thông qua vai trò cổ
đông đại diện cho Nhà nƣớc, SCIC không đơn thuần đóng vai trò quản lý vốn mà
còn thực hiện chức năng kinh doanh vốn, làm cho phần vốn Nhà nƣớc tại doanh
nghiệp không chỉ bảo toàn mà còn gia tăng giá trị.
Thứ hai, công tác quản trị doanh nghiệp và tái cơ cấu đƣợc SCIC thực hiện
một cách chuyên nghiệp, bộ máy gọn nhẹ nhƣng tính chuyên môn cao. Thông qua
hệ thống ngƣời đại diện, kết hợp với trực tiếp quản trị danh mục, tình hình doanh
nghiệp, đặc biệt là tình hình tài chính, hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp đƣợc SCIC
giám sát chặt chẽ, khoa học, trên cơ sở đó chủ sở hữu có các quyết định kịp thời.
Thứ ba, trong việc triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc,
SCIC đƣợc xem là một trong những Tổng công ty đi đầu với kết quả thoái vốn tại
các doanh nghiệp trong danh mục Nhà nƣớc không cần nắm giữ hoặc chi phối đạt
hiệu quả cao. Trên thực tế, SCIC là Tổng công ty đầu tiên thực hiện việc thoái vốn
với quá trình chuyên nghiệp, từ định giá đến tổ chức đấu giá, khớp lệnh, giao dịch
ngoài sàn, thỏa thuận, chào bán cạnh tranh, bán cả lô...
Thứ tƣ, SCIC đã triển khai thành công bƣớc đầu mô hình vừa đại diện chủ sở
67
hữu, vừa thực hiện đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đã giải
ngân đến thời điểm hiện nay là trên 17.900 tỷ đồng, tập trung vào các ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế, gắn với thị trƣờng và đạt hiệu quả khá cao. SCIC đã
và đang trở thành đầu mối tích tụ vốn, từ đó giúp cho Chính phủ thực hiện các
khoản đầu tƣ chỉ định, đồng thời là công cụ giúp Chính phủ trong tổng thể triển khai
các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc.
Thứ năm, từ chỗ là mô hình mới, sau 10 năm, hành lang pháp lý cho hoạt
động của SCIC đã tƣơng đối đầy đủ với nhiều văn bản pháp lý do Chính phủ, Thủ
tƣớng Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành đã giúp SCIC vận hành có hiệu quả mô
hình và hoàn thành các nhiệm vụ mà Chính phủ giao phó. Trong nội bộ SCIC cũng
đã xây dựng đƣợc hệ thống quy trình đầy đủ, bao quát tất cả các hoạt động nghiệp
vụ của Tổng công ty. Đặc biệt, nhiều cơ chế pháp lý SCIC tìm tòi, đề xuất xây dựng
và triển khai trong nội bộ SCIC đã đƣợc nhân rộng và áp dụng chung nhƣ quy chế
ngƣời đại diện, cơ chế bán đấu giá cả lô, cơ chế bán cho ngƣời lao động...
Thứ sáu, về xây dựng năng lực bộ máy, trong vòng 10 năm, từ vài chục cán
bộ lúc mới thành lập, SCIC đã xây dựng đội ngũ trên 250 cán bộ đƣợc đào tạo bài
bản, chuyên môn cao. Các phòng, ban chức năng hình thành ngày càng chuyên môn
hóa. SCIC cũng hình thành các Chi nhánh khu vực ở miền Nam, miền Trung giúp
cho việc quản trị các doanh nghiệp tại các địa phƣơng sâu sát hơn. Đặc thù của
SCIC là đội ngũ cán bộ làm trực tiếp không nhiều nhƣng có hệ thống ngƣời đại diện
chuyên trách tại các doanh nghiệp để quản lý chặt chẽ phần vốn Nhà nƣớc tại các
công ty cổ phần.
Thứ bảy, trong phát triển quan hệ đối tác, SCIC đã xây dựng đƣợc mối quan
hệ chặt chẽ với nhiều tổ chức tài chính quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới (World
Bank), Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), các Quỹ đầu tƣ Chính phủ các nƣớc, các
Ngân hàng, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán... cả trong nƣớc và quốc tế.
Nhờ các mối quan hệ hợp tác này, SCIC đã học hỏi và tiếp thu nhiều kinh nghiệm
quý báu trong quá trình phát triển giúp cho hoạt động đầu tƣ, quản trị doanh nghiệp,
68
thoái vốn của SCIC thu hút đƣợc nhiều đối tác từ đó đem lại hiệu quả cao.
3.3.2. Một số khó khăn, vướng mắc cơ bản và nguyên nhân
Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc, trong quá trình hình thành và phát triển 10
năm qua, SCIC cũng đối mặt với một số khó khăn:
- Thứ nhất, việc tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh
nghiệp còn chậm, qui mô hạn chế: qua gần 10 năm hoạt động, vốn nhà nƣớc do
SCIC quản lý mới bằng khoảng 3% tổng số vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp nên hạn
chế việc thực hiện mục tiêu đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn
nhà nƣớc tại doanh nghiệp gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các
ngành, lĩnh vực quan trọng, củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nƣớc thông qua mô hình SCIC. Nguyên nhân chính của việc này là do chƣa có sự
thống nhất về mô hình quản lý vốn tập trung của Chính phủ dẫn đến nhận thức của
các bộ ngành, địa phƣơng vẫn còn tâm lý bảo vệ lợi ích nhóm, không muốn bàn
giao doanh nghiệp về cho SCIC.
- Thứ hai, việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước thông qua
ủy quyền người đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm,
quyền lợi của Ngƣời đại diện còn bất cập; Chế độ lƣơng, thƣởng, thù lao đối với
Ngƣời đại diện còn chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.
- Thứ ba,về quản trị doanh nghiệp thông qua vai trò cổ đông: SCIC vẫn còn
gặp nhiều vƣớng mắc do các tồn tại phát sinh tại thời điểm cổ phần hóa, trƣớc khi
bàn giao về SCIC chƣa giải quyết dứt điểm; nhiều vấn đề phức tạp tại doanh nghiệp
nhƣ kiện cáo kéo dài, tồn tại về tài chính, quản trị doanh nghiệp; Các doanh nghiệp
hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau (đa ngành) nên đòi hỏi kiến thức tổng
hợp, chuyên sâu của các cán bộ quản lý doanh nghiệp...
- Thứ tư, về công tác đầu tư: kết quả chƣa cao do một số quy định về trình tự,
thủ tục đầu tƣ còn nhiều vƣớng mắc làm kéo dài quá trình triển khai các dự án;
đồng thời tình hình thị trƣờng những năm gần đây hết sức khó khăn dẫn đến lựa
69
chọn danh mục đầu tƣ, định hƣớng đầu tƣ bị hạn chế...
CHƢƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ VỐN CỦA
TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC
4.1. Bối cảnh thực hiện phân công của Ch nh phủ về thực hiện quyền đại diện chủ
sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp hiện nay
Hiện nay, phân công của Chính phủ về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đƣợc thực hiện theo Nghị định số 99/2012/NĐ-CP
ngày 15/11/012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn
nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Nghị định 99 ban hành đã:
- Phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ chủ sở hữu
nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng đổi mới phù hợp hơn với yêu
cầu của kinh tế thị trƣờng và quy định cụ thể hơn về quyền, trách nhiệm của từng
chủ thể đại diện chủ sở hữu nên đã tạo thuận lợi hơn cho tổ chức thực hiện các
quyền của chủ sở hữu nhà nƣớc và doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ hơn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nghị định 99 quy định rõ ràng cụ thể quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu,
giúp quá trình quản lý doanh nghiệp đƣợc thực hiện minh bạch và rõ ràng. Quyền,
trách nhiệm của SCIC đƣợc quy định riêng tại Khoản 2/Điều 4 Nghị định 99 đã tạo
hành lang pháp lý cho SCIC, thực tế đã đƣợc triển khai áp dụng, đƣa vào quy định
tại Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013 về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế
hoạt động của SCIC.
- Quy định về ngƣời đại diện tại Nghị định 99 đã đƣợc cụ thể hóa trong Quy
chế Ngƣời đại diện của SCIC. Trên cơ sở đó, Tổng công ty đã từng bƣớc kiện toàn
đƣợc hệ thống ngƣời đại diện. Cơ bản việc phối hợp giữa Tổng công ty và ngƣời đại
70
diện là chặt chẽ theo Quy chế ngƣời đại diện. Thông qua đó, Tổng công ty đã thực
hiện tốt vai trò là cổ đông Nhà nƣớc tại doanh nghiệp với các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, phân công về thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc
tại doanh nghiệp theo Nghị định 99 còn một số tồn tại, hạn chế:
- Phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phƣơng thực hiện các quyền,
trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc nên chƣa tách bạch chức năng
chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc và điều tiết thị trƣờng của
các cơ quan hành chính nhà nƣớc; dẫn tới khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu
đổi mới phƣơng thức quản lý, đầu tƣ, kinh doanh vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp
gắn với quá trình tích tụ, tập trung vốn nhà nƣớc vào các ngành, lĩnh vực quan trọng,
củng cố tăng cƣờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc thông qua mô hình SCIC.
- Quyền, trách nhiệm chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng
lặp làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát đối với DNNN.
- Chƣa tách bạch rõ về mục tiêu, công cụ, phƣơng pháp cũng nhƣ tổ chức bộ
máy và cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc và chức năng đại diện chủ sở
hữu nhà nƣớc làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của chủ sở hữu nhà nƣớc cũng
nhƣ quản lý nhà nƣớc.
- Về việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc thông qua ủy
quyền ngƣời đại diện còn một số khó khăn nhƣ: địa vị pháp lý, trách nhiệm, quyền
lợi của Ngƣời đại diện không rõ ràng; một số ngƣời đại diện chƣa tuân thủ đầy đủ
quy định về báo cáo, lấy ý kiến của SCIC; chế độ tiền lƣơng, thù lao, tiền thƣởng
đối với Ngƣời đại diện còn bất cập, chƣa có hƣớng dẫn cụ thể.
- Về quản trị doanh nghiệp: Ngoài việc thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa
vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh nghiệp nhà nƣớc sở hữu 100% vốn điều
lệ cơ bản thuận lợi thì việc quản lý vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp khác
theo quy định tại Nghị định 99 vẫn còn gặp khó khăn, do hoạt động quản trị đối với
các loại hình doanh nghiệp đa sở hữu vốn điều lệ nhƣ công ty TNHH2TV trở lên,
công ty cổ phần đều chịu sự chi phối bởi Luật Doanh nghiệp, Điều lệ Công ty và hệ 71
thống các quy chế quản trị nội bộ nên việc thực hiện Nghị định 99 về quản trị vốn
nhà nƣớc đầu tƣ tại các doanh nghiệp này còn gặp phải khó khăn.
Những bất cập nêu trên của mô hinh thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu
vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp đã gây ảnh hƣởng tiêu cực đến tiến trình đổi mới,
sắp xếp DNNN; hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp.
4.2. Đề xu t về mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở Việt
Nam thông qua thực tiễn hoạt động của SCIC
4.2.1. Lựa chọn mô hình
Hiện nay, triển khai thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về việc tiếp
tục hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc; từ kinh
nghiệm quốc tế và qua đánh giá thực tế Việt Nam, một số cơ quan quản lý nhà nƣớc
đã xây dựng đề án và đề xuất về mô hình thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ
sở hữu nhà nƣớc; có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nhƣng tập trung vào
3 mô hình:
- Mô hình 1: Một đơn vị thuộc Bộ, UBND cấp tỉnh thực hiện chuyên trách
chức năng đại diện chủ sở hữu là mô hình có nhiều bất cập nhất vì (i) Mô hình này
cơ bản nhƣ đang thực hiện và đƣợc quy định trong Nghị định 99/2012/NĐ-CP về
phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp; (ii) Mô hình này
không tách bạch đƣợc chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà
nƣớc, điều tiết thị trƣờng; vẫn phân tán, thiếu thống nhất vì giao cho 18 Bộ và 63
Tỉnh, Thành phố thực hiện.
- Mô hình 2: Cơ quan nhà nƣớc độc lập thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu nhƣng không thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, điều tiết thị trƣờng là mô
hình đƣợc Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng)
đề xuất lựa chọn trong báo cáo nghiên cứu “Thành lập cơ quan độc lập chuyên trách
thực hiện tập trung chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp”. Mô
hình này mới đạt đƣợc yêu cầu quản lý, còn yêu cầu về hoạt động đầu tƣ kinh doanh 72
vốn của mô hình này khó có thể triển khai đƣợc. Cách thức quản lý chƣa thoát khỏi
phƣơng thức quản lý hành chính... Mô hình này đƣợc nghiên cứu, thiết kế chủ yếu
theo mô hình SASAC của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính quốc tế
đánh giá mô hình SASAC chƣa hiệu quả vì đặc điểm hành chính Nhà nƣớc của cơ
quan này. Hiện nay, mô hình SASAC đã không phù hợp và đáp ứng đƣợc yêu cầu
cải cách DNNN ở Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã có kế hoạch cải tổ cơ
quan này theo hƣớng chỉ tập trung vào chức năng quản lý nhà nƣớc và thành lập tổ
chức quản lý đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc theo mô hình Temasek của Singapore.
Hiện nay, ở nƣớc ta một số cơ quan có xu hƣớng đề xuất hình thành một cơ
quan theo mô hình SASAC của Trung Quốc. Vừa qua, Bộ KHĐT đã triển khai xây
dựng dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định 99; trong đó trọng tâm là qui định về chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Cơ quan chuyên trách về đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp - “Ủy ban Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp” theo mô hình SASAC của Trung Quốc.
Mô hình hoạt động của Ủy ban này mới đạt đƣợc yêu cầu quản lý chặt chẽ,
còn yêu cầu về hiệu quả đầu tƣ, kinh doanh của doanh nghiệp thì chƣa rõ. Mô hình
này, có nhiều vấn đề cần nghiên cứu giải quyết:
Một là: cách thức quản lý phải thoát khỏi phƣơng thức quản lý hành chính,
quan liêu, nhiều thủ tục phiền hà, mất nhiều thời gian dẫn đến làm mất cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp. Theo báo cáo, nhân sự của Uỷ ban này chủ yếu đƣợc
chuyển từ các cơ quan hành chính nhà nƣớc sang vì vậy không tránh khỏi việc này.
Hai là, xác định rõ cách đầu tƣ nhƣ thế nào. Uỷ ban là cơ quan quản lý hay là
tổ chức đầu tƣ. Để đảm bảo hiệu quả đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc thì phải
chuyển hình thức cấp vốn hiện nay sang hình thức đầu tƣ vốn; để đầu tƣ thì phải có
nguồn vốn đầu tƣ và có các chuyên gia có trình độ chuyên môn làm đầu tƣ (cả đầu
tƣ dự án, đầu tƣ tài chính và đầu tƣ mua cổ phần phát hành thêm của doanh nghiệp).
73
Tại SCIC việc đầu tƣ vốn đƣợc thực hiện khá hiệu quả, thể hiện ở kết quả sau:
+ Nguồn vốn đầu tƣ: Từ nguồn thu bán vốn nhà nƣớc, cổ tức và lợi nhuận để
lại, SCIC thực hiện đầu tƣ vào các tập đoàn, tổng công ty lớn của nhà nƣớc thông
qua mua cổ phần và góp vốn vào dự án; đầu tƣ góp vốn thành lập doanh nghiệp mới;
đầu tƣ vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính
phủ với tổng vốn đầu tƣ là trên 24.000 tỷ đồng.
+ Với vai trò cổ đông nhà nƣớc, đặc biệt là đối với những DN lớn có vốn chi
phối, SCIC đã chủ động triển khai thực hiện các biện pháp quản trị doanh nghiệp, tái
cơ cấu, xử lý tồn tại, ổn định tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ví dụ điển hình là Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và Xây dựng VN
(Vinaconex). Năm 2012, doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và mất cân đối tài chính, SCIC đã đầu tƣ hơn 1.000 tỷ đồng mua cổ phần theo
quyền mua của cổ đông hiện hữu, hỗ trợ việc phát hành tăng vốn của DN đảm bảo
theo đúng lộ trình. Bên cạnh đó, thông qua việc áp dụng các chính sách hiệu quả về
quản lý dòng tiền, quản lý bảo lãnh, thu hồi công nợ đã giúp cho tình hình tài chính
của DN lành mạnh và ổn định, kết quả: Vinaconex tránh khỏi nguy cơ phá sản, năm
2013-2014 kinh doanh có lãi, trả cổ tức 6%, giá cổ phiếu tăng từ 8.000 đồng/cổ phần
(năm 2012) lên 14.000 đồng/cổ phần (năm 2015).
Ba là, chế độ lƣơng, đãi ngộ để thu hút, giữ chân ngƣời tài. Nếu là Ủy ban
(một cơ quản quản lý) có chế độ lƣơng, chế độ đãi ngộ nhƣ cơ quan hành chính nhà
nƣớc thì không giải quyết đƣợc việc này.
Bốn là, Về đối tƣợng quản lý của Ủy ban dự kiến là khoảng trên 30 doanh
nghiệp, tuy nhiên trong khoảng 30 doanh nghiệp này, có nhiều doanh nghiệp không
thuộc diện nhà nƣớc phải nắm giữ chi phối theo Quyết định 37/2014/QĐ-TTg ngày
18/6/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại
doanh nghiệp nhà nƣớc. Nhƣ vậy, đối tƣợng quản lý chủ yếu chỉ dƣới 30 doanh
nghiệp nhà nƣớc thì không cần phải thành lập Cơ quan thực hiện chức năng đại diện
74
chủ sở hữu nhà nƣớc theo lộ trình 02 giai doạn nhƣ đã nêu trong báo cáo nghiên cứu.
Năm là, Với mô hình hoạt động của Ủy ban Đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nƣớc tại doanh nghiệp, việc giám sát, đánh giá đối với kết quả hoạt động, đặc biệt là
đánh giá về các chỉ tiêu hiệu quả tài chính rất khó thực hiện.
Sáu là, Mô hình Ủy ban đƣợc nghiên cứu, thiết kế chủ yếu theo mô hình
SASAC của Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều tổ chức tài chính quốc tế đánh giá mô
hình SASAC chƣa hiệu quả vì đặc điểm hành chính Nhà nƣớc của cơ quan này.
Bảy là, chƣa khắc phục đƣợc hạn chế của Nghị định 99 là quyền, trách nhiệm
chủ sở hữu vẫn còn tình trạng vừa phân tán, vừa trùng lặp làm giảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý, giám sát đối với DNNN. Theo dự thảo Nghị định, ngoài Ủy ban là cơ
quan đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp và phần vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp quy mô lớn (dự kiến khoảng 30 tập đoàn, tổng công ty); còn có Bộ quản lý
ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công An là cơ quan đại diện
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp công ích, quốc phòng, an ninh; Ngân hàng Nhà
nƣớc là cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nƣớc tại các ngân hàng
thƣơng mại và tổ chức tín dụng và Tổng công ty Đầu tƣ và Kinh doanh vốn nhà
nƣớc.
- Mô hình 3: Mô hình công ty đầu tƣ và quản lý giám sát DNNN là mô hình
tổ chức kinh tế đặc biệt hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trƣờng, mô hình
này đổi mới triệt để, toàn diện, hiệu quả hơn vì không phải thành lập thêm cơ quan
hành chính và cơ bản giải quyết đƣợc những hạn chế nêu trên của mô hình 2. Ngoài
chức năng giám sát DNNN, về cơ bản đây chính là mô hình hoạt động của SCIC
hiện nay.
4.2.2. Giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII có nêu chủ trƣơng: “Thành lập
một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà
nước”. Với chủ trƣơng trên của Đảng, qua thực tiễn gần 10 năm tiếp nhận và thực
hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại gần 1.000 doanh nghiệp của SCIC
75
và kinh nghiệm thế giới về lựa chọn mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc; để đáp
ứng yêu cầu của tiến trình tái cơ cấu, đổi mới, sắp xếp DNNN và mục tiêu nâng cao
hiệu quả; việc đề xuất hoàn thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh
nghiệp trong thời gian tới với hai định hƣớng lớn nhƣ sau:
- Một là, tiếp tục củng cố mô hình hoạt động của SCIC với mô hình hoạt
động là Tổ chức kinh tế đặc biệt có vai trò thực hiện thống nhất quyền và nghĩa vụ
chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nƣớc
đã cổ phần hóa và các công ty TNHH một thành viên và hai thành viên trở lên
100% vốn nhà nƣớc không hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công ích, an ninh
quốc phòng. Mô hình này đã trải nghiệm qua gần 10 năm hoạt động với những lợi
thế về: quản trị doanh nghiệp, tái cơ cấu, tập trung và tích lũy vốn để đầu tƣ kinh
doanh, tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc và quản lý hành
chính nhà nƣớc… Hoạt động của SCIC tập trung vào một số nhiệm vụ chính sau:
(1) Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các Tập
đoàn kinh tế, Tổng công ty; công ty cổ phần, công ty TNHH 1 TV và 2 TV trở lên,
có vốn góp nhà nƣớc do các Bộ, ngành, địa phƣơng làm đại diện chủ sở hữu (các
doanh nghiệp công ích, an ninh quốc phòng tiếp tục do các Bộ, địa phƣơng tiếp tục
làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc);
(2) Tiếp tục thực hiện các hoạt động sắp xếp, cổ phần hóa, bán vốn nhà nƣớc
đầu tƣ tại doanh nghiệp đƣợc chuyển giao theo quy định hiện hành;
(3) Đầu tƣ vốn vào các tập đoàn, tổng công ty, hoặc công ty mẹ hoạt động
trong lĩnh vực, ngành nghề nhà nƣớc nắm giữ quyền chi phối. Đầu tƣ vốn vào các
dự án theo chỉ định của Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ. Đầu tƣ và kinh doanh vốn
vào ngành, lĩnh vực, dự án đem lại hiệu quả kinh tế theo quy định của pháp luật;
Về mối quan hệ giữa SCIC với các Bộ, địa phƣơng trong việc thực hiện
quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp sau khi tiếp nh n.
- Tính đến nay, SCIC đã chủ động ký và triển khai thực hiện Quy chế phối
hợp với 51 tỉnh/thành phố với nội dung phối hợp toàn diện trong thực hiện quyền
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp trên địa bàn do tỉnh/thành 76
phố làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc trƣớc khi bàn giao cho SCIC. Nội dung
Quy chế phối hơp quy định cụ thể trách nhiệm của SCIC và các tỉnh/thành phố
trong phối hợp từ khâu thực hiện cổ phần hóa và chuyển giao vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp về SCIC đến quản lý doanh nghiệp sau khi chuyển giao về SCIC, tập
trung vào trao đổi thông tin và phối hợp trong xử lý các vấn đề liên quan đến doanh
nghiệp trên địa bàn; về quản lý ngƣời đại diện...
- Trong thời gian tới, để tăng cƣờng phối hợp với các Bộ, địa phƣơng trong
việc chuyển giao và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh
nghiệp; SCIC cần tiếp tục ký Quy chế phối với các Bộ, đặc biệt là các Bộ có nhiều
DN thuộc đối tƣợng chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc về SCIC.
Đồng thời, có thể đề xuất với các cơ quan quản lý nhà nƣớc thể chế hóa những quy
định về phối hợp giữa các Bộ, địa phƣơng với SCIC chuyển giao và thực hiện
quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp.
- Hai là, thành lập Tổng cục Giám sát vốn nhà nước tại doanh nghiệp với
mô hình hoạt động tƣơng tự nhƣ Tổng cục Quản lý vốn và tài sản nhà nƣớc tại
doanh nghiệp trƣớc đây (Đề án thành lập Tổng cục trên cơ sở Cục Tài chính DN đã
đƣợc Bộ Tài chính trình Chính phủ). Tổng cục có vai trò thực hiện quản lý nhà
nƣớc về tài chính doanh nghiệp và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
nhà nƣớc.
Với định hƣớng hoàn thiện nêu trên, mô hình tổng thể về thực hiện quyền đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp ở nƣớc ta trong thời gian tới có thể
77
khái quát bằng sơ đồ sau:
Ch nh phủ (Thủ tƣớng Ch nh phủ)
Bộ, Địa phƣơng
Tổng cục Giám sát vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp (Bộ Tài ch nh)
Tổng công ty Đầu tƣ và k nh doanh vốn nhà nƣớc
DN công ích, An ninh QP
Tập đoàn KT, TCT nhà nƣớc
Quản lý nhà nƣớc vế tài chính doanh ngiệp
Giám sát tài chính các tập đoàn, tổng công ty và DN có vốn nhà nƣớc
Cty CP, TNHH 1, 2 TV có vốn NN độc lập do các Bộ, ĐP chuyển giao
Hình 4.1: Sơ đồ mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước
tại doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới
Mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh
nghiệp của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc trong thới gian tới có
thể khái quát bừng sơ đồ sau:
Ch nh phủ (Thủ tƣớng Ch nh phủ)
Tổng công ty Đầu tƣ và k nh doanh vốn nhà nƣớc
T p đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nƣớc
Cty CP, TNHH 1, 2 TV có vốn NN độc l p do các Bộ, ĐP chuyển giao
Hình 4.2: Sơ đồ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước
78
tại doanh nghiệp của SCIC
4.3. Đề xu t giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty đầu tƣ
và kinh doanh vồn Nhà nƣớc trong thời gian tới
4.3.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước
4.3.1.1. Vị trí, chức năng
Tổng công ty Đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc là tổ chức kinh tế đặc biệt có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện thống nhất quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu
vốn nhà nƣớc tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nƣớc và công ty cổ
phần có vốn nhà nƣớc; Góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu, sắp xếp
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nƣớc; đẩy mạnh đổi mới phƣơng
thức đầu tƣ vốn nhà nƣớc.
Tập trung đầu tƣ kinh doanh vốn vào một số ngành lĩnh vực then chốt, trọng
yếu nhà nƣớc cần nắm giữ chi phối, góp phần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nƣớc; đồng thời phải đảm bảo hiệu quả theo nguyên tắc thị trƣờng.
4.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể
* Tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Tổng công ty thực hiện tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại các
loại hình doanh nghiệp thuộc diện bàn giao cho SCIC theo Nghị định số
151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013; Thông tƣ số 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014
về việc hƣớng dẫn việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại
SCIC và các văn bản chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ; bao gồm cả các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty, ngân hàng thƣơng mại theo quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.
* Quản trị và tái cơ cấu danh mục đầu tư
- Quản trị vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp: SCIC sẽ áp dụng các chuẩn
mực quản trị doanh nghiệp tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế nhƣ tham gia Đại hội cổ
đông; quyền của cổ đông, thực hiện quyền yêu cầu minh bạch và công bố thông tin,
trách nhiệm của Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp... gắn với từng loại hình
79
doanh nghiệp căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nƣớc
đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định 151/2013/NĐ-CP, và
Quyết định 2344/QĐ-TTg, bao gồm: doanh nghiệp là Công ty TNHH1TV, Công ty
TNHH2TV và Công ty cổ phần.
* Đầu tư kinh doanh vốn
Theo Nghị định 151/2013/NĐ-CP, Tổng công ty sẽ tham gia đầu tƣ vào
những ngành lĩnh vực quan trọng: Đầu tƣ vốn vào các dự án, tập đoàn, tổng công ty
hoặc công ty mẹ hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà nƣớc
cần nắm giữ quyền chi phối; Đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu theo nhiệm vụ
của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao bằng nguồn vốn của Chính phủ hoặc
nguồn vốn do Tổng công ty tự cân đối; Đầu tƣ bổ sung vốn vào các doanh nghiệp
có vốn của SCIC.
Sau khi hoàn thành thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp tiếp nhận, bên
cạnh các doanh nghiệp qui mô lớn, tập đoàn, tổng công ty thuộc danh mục nắm giữ
lâu dài; SCIC thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và đầu tƣ tài chính để nắm
giữ thêm một số doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có
hiệu quả cao.
* Hoạt động tư vấn
Trong thời gian tới, hoạt động tƣ vấn của SCIC tập trung vào hoạt động tƣ
vấn quản trị doanh nghiệp và tƣ vấn đầu tƣ: tƣ vấn tìm kiếm đối tác và thẩm định dự
án đầu tƣ; tƣ vấn tài chính: tái cấu trúc vốn, tái cơ cấu nợ; tƣ vấn cơ cấu quản trị của
các doanh nghiệp; tƣ vấn cổ phần hóa cho các công ty TNHH một thành viên; tƣ
vấn xây dựng chiến lƣợc kinh doanh…
* Quản lý Qũy Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp trung ương
4.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
Để triển khai thành công chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Tổng
80
công ty hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức nhƣ sau:
(i) Hội đồng thành viên: có 07 thành viên, gồm có: Chủ tịch và thành viên
hoạt động chế độ chuyên trách và chế độ tập thể lãnh đạo, phân công cho từng cá
nhân phụ trách từng mảng vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên.
Thành lập một số các ủy ban chuyên môn giúp việc cho Hội đồng thành viên nhằm
nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của Hội đồng thành viên.
(ii) Ban Kiểm soát: có 3 thành viên, gồm có: Trƣởng ban kiểm soát và 02
thành viên;
(iii) Ban Tổng giám đốc:có 07 thành viên, gồm có: Tổng giám đốc (kiêm
thành viên Hội đồng thành viên) và 06 Phó Tổng giám đốc;
(iv) Các đơn vị quản lý vốn đầu tư: Các Ban Quản lý vốn đầu tƣ theo ngành
và Ban Quản lý vốn đầu tƣ tại các tập đoàn, tổng công ty:
(vi) Các đơn vi đầu tư kinh doanh vốn: Ban Đầu tƣ dự án, Ban Đầu tƣ tài chính
(vi) Các đơn vị tổng hợp, chức năng gồm: Ban Tài chính - Kế toán, Ban Kế
hoạch - Tổng hợp, Ban Pháp chế, Ban Tổ chức - Cán bộ - Lao động - Tiền lƣơng,
Văn phòng Điều hành, Ban Tin học - Thống kê, Ban Quản lý rủi ro; Ban Kiểm tra
nội bộ… thực hiện nhiệm vụ tham mƣu theo lĩnh vực đƣợc phân công;
(vii) Các đơn vị trực thuộc:hai chi nhánh ở miền Trung và phía Nam, các văn
phòng đại diện của tổng công ty tại nƣớc ngoài (khi đủ điều kiện hình thành).
(viii) Các công ty thành viên: Công ty Đầu tƣ SCIC
4.3.3. Các giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý vốn của SCIC trong thời gian tới
4.3.3.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách
Nhà nƣớc không can thiệp hành chính đối với SCIC. SCIC tự xây dựng một
định hƣớng kế hoạch, Nhà nƣớc sẽ duyệt định hƣớng kế hoạch này và trao cho
SCIC quyền đƣợc thực hiện định hƣớng kế hoạch đó tùy theo tình hình thị trƣờng.
Nếu việc gì SCIC cũng phải xin phép thì doanh nghiệp sẽ ỷ lại, không tự chịu trách
81
nhiệm và có thể để cơ hội đầu tƣ, kinh doanh trôi qua.
Tiếp tiếp tục đẩy mạnh quán triệt và triển khai thực hiện chủ trƣơng hoàn
thiện mô hình đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc tại doanh nghiệp theo hƣớng tách bạch
chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc trong các văn
bản hƣớng dẫn triển khai thực hiện Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII và Nghị
quyết Hội nghị Trung ƣơng chuyên đề về tái cơ cấu DNNN.
Tiến hành đánh giá về kết quả triển khai Kết luận số 78-KL/TW ngày
26/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án “Tiếp tục củng cố, phát huy vai trò của SCIC”,
qua đó khẳng định tính đúng đắn và ban hành văn bản về chủ trƣơng tiếp tục củng
cố mô hình SCIC trong thời gian tới.
Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu vốn nhà nƣớc. Tiến hành đánh giá, nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định số
99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện
các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với DNNN và vốn
nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp. Ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định
151, Nghị định 57 phù hợp một số luật mới đƣợc ban hành, đồng thời tiếp tục có
một số cơ chế đặc thù tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tƣ kinh doanh vốn
của SCIC.
4.3.3.2. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp DNNN, chỉ đạo quyết liệt công tác
bàn giao đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Đề nghị các Bộ, ngành, UBND địa phƣơng tổ chức triển khai cổ phần hóa
dứt điểm, triệt để các công ty TNHH nhà nƣớc một thành viên theo đúng quy định
tại Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển giao doanh
nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành CTCP trƣớc khi chuyển giao về SCIC. Thúc đẩy
nhanh quá trình cổ phần hóa nhằm thực hiện 1 phần cam kết của Chính phủ Việt
Nam khi hội nhập quốc tế.
Công tác chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp về SCIC triển khai rất chậm trong thời gian qua một phần do các quy định
82
về cổ phần hóa quy định nhiều quy định phức tạp, việc xử lý các tồn tại về tài chính
tại nhiều doanh nghiệp cũng chậm. Tuy nhiên một phần cũng do nhiều địa phƣơng
còn muốn trì hoãn, chƣa quyết liệt trong việc chỉ đạo công tác chuyển giao.
Để đẩy nhanh việc này, đồng thời với việc tiếp tục xây dựng kế hoạch sắp
xếp, cổ phần hóa giai đoạn từ nay đến năm 2017, Nhà nƣớc cần chỉ đạo quyết liệt
hơn nữa công tác bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh
nghiệp về SCIC, cần thiết có thể ban hành chế tài về việc hƣớng dẫn chuyển giao
quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp về SCIC, quy định
rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của các Bộ, Ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trong
việc thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc về SCIC. Về
phía SCIC cũng cần phối hợp hỗ trợ tích cực các Bộ, ngành, địa phƣơng trong quá
trình xử lý các tồn tại tại doanh nghiệp.
Cần nâng cao chất lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc chuyển giao về
SCIC, kiên quyết không tiếp nhận đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của Nhà
nƣớc làm ăn kém hiệu quả, có nhiều tồn tại về tài chính. Yêu cầu các Bộ, Ngành,
địa phƣơng thực hiện sáp nhập, thậm chí giải thể, phá sản… không bàn giao về SCIC.
Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phƣơng: (i) Đẩy nhanh tiến
độ, thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ về chuyển giao quyền
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, Tập đoàn, Tổng công ty
cho SCIC: (ii) Tạo điều kiện cho SCIC thực hiện đầu tƣ vào các lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế, các dự án đem lại hiệu quả; đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu
theo nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao.
Căn cứ Nghị định số 151/2013/NĐ-CP ngày 1/11/2013; Thông tƣ số
118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 về việc hƣớng dẫn việc chuyển giao quyền đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại SCIC và các văn bản chỉ đạo của Thủ tƣớng
Chính phủ; định hƣớng, mục tiêu tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu, Tổng công
ty sẽ tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc:
- Tiếp tục thực hiện việc tiếp nhận tại Công ty TNHH 1 TV, công ty TNHH
83
có 2 thành viên trở lên đƣợc chuyển đổi từ công ty nhà nƣớc độc lập trực thuộc các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố hoặc mới thành lập;
Công ty cổ phần đƣợc chuyển đổi từ các doanh nghiệp độc lập 100% vốn nhà nƣớc
trực thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh hoặc mới thành lập;
Công ty liên doanh có vốn góp nhà nƣớc do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban
nhân dân tỉnh làm đại diện chủ sở hữu;
- Tiếp nhận một số Tập đoàn, tổng công ty đã cổ phần hóa theo phê duyệt
của Thủ tƣớng Chính phủ. Tiếp nhận tại các Tập đoàn, Tổng công ty thuộc các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc đã cổ phần hóa, công ty đầu tƣ
tài chính nhà nƣớc tại địa phƣơng theo quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ.
4.3.3.3. Củng cố hoạt động quản lý vốn đầu tư tại doanh nghiệp
* Quản trị và tái cơ cấu danh mục đầu tư:
- Quản trị vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp: SCIC sẽ áp dụng các chuẩn
mực quản trị doanh nghiệp tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế nhƣ tham gia Đại hội cổ
đông; quyền của cổ đông, thực hiện quyền yêu cầu minh bạch và công bố thông tin,
trách nhiệm của Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp... gắn với từng loại hình
doanh nghiệp căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nƣớc
đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định 151/2013/NĐ-CP, và
Quyết định 2344/QĐ-TTg, bao gồm: doanh nghiệp là Công ty TNHH1TV, Công ty
TNHH2TV và Công ty cổ phần.
- Về tái cơ cấu danh mục đầu tƣ, SCIC xây dựng phƣơng án tái cơ cấu các DN:
+ Tiếp tục đẩy mạnh thoái vốn các doanh nghiệp Nhà nƣớc không cần nắm
giữ vốn theo lộ trình của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ. Tổng công ty duy trì
vốn tại một số doanh nghiệp quy mô lớn, quan trọng thuộc các ngành nghề lĩnh vực
hiệu quả cao, Nhà nƣớc cần chi phối.
+ Tập trung đầu tƣ, nắm giữ vốn tại một số doanh nghiệp, tập đoàn, tổng
công ty quy mô lớn, quan trọng thuộc một số ngành, lĩnh vực then chốt mà Nhà
84
nƣớc cần nắm giữ chi phối và thuộc diện đầu tƣ, nắm giữ lâu dài của SCIC.
Thực hiện quản trị doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp:
- Đối với các tập đoàn, tổng công ty:
+ Bên cạnh để cử cán bộ tham gia trực tiếp vào các vị trí quan trọng trong
doanh nghiệp nhƣ: Thành viên Hội đồng thành viên, Ban điều hành, Ban Kiểm soát;
Tổng công ty sẽ lựa chọn và mời các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động
của doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện (theo Luật Doanh nghiệp năm
2014) tham gia làm thành viên hội đồng quản trị độc lập không điều hành và thành
viên Ban Kiểm soát của các công ty mẹ của tập đoàn, tổng công ty tiếp nhận từ các Bộ.
+ Thành lập 01 Ban Quản lý vốn đầu tƣ (bao gồm các cán bộ, chuyên viên có
trình độ, kinh nghiệm) đảm nhận nhiệm vụ tiếp nhận và quản lý vốn tại các tập
đoàn, tổng công ty.
+ Sửa đổi, bổ sung Quy chế quản trị vốn nhà nƣớc tại công ty TNHH MTV
và công ty TNHH 2 TV phù hợp, đáp ứng yêu cầu quản trị vốn nhà nƣớc tại các tập
đoàn, tổng công ty.
- Đối với các công ty TNHH 1 TV do Tổng công ty thành lập và nhận chuyển
giao từ các địa phương: Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo trực tiếp, ngoài ngƣời đại diện
tại doanh nghiệp là lãnh đạo doanh nghiệp, Tổng công ty xem xét để cử thêm cán
bộ tham gia trực tiếp vào các vị trí quan trọng trong doanh nghiệp nhƣ: Thành viên
Hội đồng thành viên, Ban điều hành, Ban Kiểm soát. Về quản trị doanh nghiệp thực
hiện có hiệu quả các quyền chủ sở hữu theo qui định. Triển khai thực hiện sắp xếp,
cổ phần hóa một số công ty TNHH 1 thành viên.
- Đối với phần vốn góp của doanh nghiệp tại công ty cổ phần, công ty TNHH
2 TV trở lên:
+ Đối với các doanh nghiệp thuộc diện đầu tƣ nắm giữ lâu dài: Củng cố ban
lãnh đạo doanh nghiệp, cử ngƣời đại diện có năng lực có trách nhiệm; tăng cƣờng
cử cán bộ Tổng công ty tham gia HĐQT và Ban giám đốc của doanh nghiệp. Về
85
quản trị doanh nghiệp, thực hiện thông qua quyền cổ đông cho phối theo Luật DN.
+ Đối với các doanh nghiệp không thuộc diện đầu tƣ nắm giữ lâu dài: Tổng
công ty sẽ đẩy mạnh triển khai bán vốn tại các doanh nghiệp thuộc nhóm này. Tổng
công ty chủ yếu quản lý điều hành thông qua ngƣời đại diện tại doanh nghiệp. Tuy
nhiên, tại một số doanh nghiệp phát sinh các vấn đề phức tạp, Tổng công ty cử cán
bộ tham gia Hội đồng quản trị, làm Giám đốc tài chính, tham gia Ban kiểm soát.
Nâng cao hiệu quả quản trị trên cơ sở phân loại doanh nghiệp đầu tư.
- Với mục tiêu ƣu tiên đẩy nhanh quá trình bán vốn, tích tụ tập trung vốn và
xác định nhóm doanh nghiệp chiến lƣợc giữ lại lâu dài nhằm đẩy mạnh việc quản trị
doanh nghiệp, SCIC đã phân loại các doanh nghiệp SCIC quản lý thành 02 nhóm: A
(giữ lại) và B (linh hoạt) để đƣa ra các biện pháp quản trị.
+ Nhóm A là nhóm các doanh nghiệp nằm trong chiến lƣợc nắm giữ, đầu tƣ
dài hạn của Tổng công ty và các doanh nghiệp tạm thời phải nắm giữ vốn theo quy
định của Thủ tƣớng Chính phủ. SCIC sẽ tiến hành cử ngƣời trực tiếp tham gia vào
Ban quản lý, Ban điều hành của doanh nghiệp.
+ Nhóm B mà SCIC sẽ đẩy mạnh thực hiện thoái vốn theo định hƣớng của
Chính phủ đối với những ngành, lĩnh vực không nằm trong danh mục Nhà nƣớc cần
nắm giữ, chi phối.
- Sau khi hoàn thành cơ bản thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp; công tác
quản trị doanh nghiệp của SCIC sẽ tập trung vào thực hiện vai trò của cổ đông trong
việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn, tập đoàn,
tổng công ty thuộc diện SCIC đầu tƣ nắm giữ lâu dài.
* Đầu tư kinh doanh vốn.
- Theo Nghị định 151/2013/NĐ-CP, Tổng công ty sẽ tham gia đầu tƣ vào
những ngành lĩnh vực quan trọng: Đầu tƣ vốn vào các dự án, tập đoàn, tổng công ty
hoặc công ty mẹ hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà nƣớc
cần nắm giữ quyền chi phối; Đầu tƣ vào những lĩnh vực trọng yếu theo nhiệm vụ
86
của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ giao bằng nguồn vốn của Chính phủ hoặc
nguồn vốn do Tổng công ty tự cân đối; Đầu tƣ bổ sung vốn vào các doanh nghiệp
có vốn của SCIC.
- Đầu tƣ và kinh doanh vốn vào dự án, ngành, lĩnh vực đem lại hiệu quả kinh
tế: Đầu tƣ góp vốn thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tƣ
mua một phần tài sản hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác; Đầu tƣ thông qua việc mua,
bán cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác; Đầu tƣ liên kết hoặc ủy thác
cho các tổ chức tài chính và quỹ đầu tƣ; Đầu tƣ trực tiếp hoặc gián tiếp ra nƣớc
ngoài; Các hình thức đầu tƣ khác theo quy định của pháp luật.
- Đối với danh mục hiện hữu, TCT sẽ nắm giữ lâu dài 5 ngành, lĩnh vực có
hiệu quả: Thực phẩm - đồ uống, Viễn thông, Dƣợc, Nhựa, Ngân hàng - Bảo hiểm.
- Tham gia với vai trò là nhà đầu tƣ tài chính đối với các khoản đầu tƣ ngoài
ngành của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nƣớc và tham gia tái cơ cấu để
chuyển sang công ty cổ phần đối với các DNNN thuộc diện cổ phần hóa nhƣng
chƣa có điều kiện IPO theo Nghị quyết 15/2014/NQ-CP và Quyết định
51/2014/QĐ-TTg; Tham gia cổ phần hóa các tập đoàn, Tổng công ty nhà nƣớc theo
Nghị định 151/2013/NĐ-CP và mục tiêu của Chính phủ.
- Bên cạnh việc triển khai tiếp nhận vốn nhà nƣớc, tiến hành tái cơ cấu và
thoái vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp về cơ bản đã hoàn thành; Tổng công ty sẽ
chuyển sang tập trung đẩy mạnh hơn chức năng đầu tƣ kinh doanh vốn:
+ Tập trung đầu tƣ vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế mà Nhà
nƣớc cần nắm giữ quyền chi phối; các doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty
thuộc diện SCIC nắm giữ lâu dài.
+ Đầu tƣ vào một số dự án có quy mô lớn trong các lĩnh vực trọng yếu và có
triển vọng lâu dài;
+ Triển khai hoạt động đầu tƣ tài chính;
87
+ Đẩy mạnh mua bán sáp nhập doanh nghiệp;
+ Triển khai hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài (SCIC trực tiếp đầu tƣ và đầu tƣ
thông qua các doanh nghiệp có vốn cùa SCIC).
- Đối với các doanh nghiệp giữ lại, Tổng công ty sẽ tiếp tục tiến hành đầu tƣ
để phát triển doanh nghiệp này. Đồng thời, tiến hành tìm kiếm các nhà đầu tƣ chiến
lƣợc có công nghệ và kinh nghiệm cùng đầu tƣ góp vốn. Thực hiện sáp nhập (hoặc
hoán đổi, mua lại cổ phiếu) một số doanh nghiệp cùng ngành, lĩnh vực nghề tạo
thành doanh nghiệp chủ đạo của lĩnh vực ngành nghề đó.
- Bên cạnh việc tiếp nhận mới các Tổng công ty thuộc các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc đã cổ phần hóa theo quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ; Tổng công ty sẽ đánh giá xây dựng phƣơng án tái cơ cấu giai đoạn 2016
- 2020 trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định, theo đó chỉ duy trì một số có quy mô
lớn, quan trọng giữ vị trí đứng đầu trong ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
- Sau khi hoàn thành thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp tiếp nhận, bên
cạnh các doanh nghiệp qui mô lớn, tập đoàn, tổng công ty thuộc danh mục nắm giữ
lâu dài; SCIC thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập và đầu tƣ tài chính để nắm
giữ thêm một số doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, có
hiệu quả cao.
* Về hoạt động tư vấn
Trong thời gian tới, hoạt động tƣ vấn của SCIC tập trung vào hoạt động tƣ
vấn quản trị doanh nghiệp và tƣ vấn đầu tƣ: tƣ vấn tìm kiếm đối tác và thẩm định dự
án đầu tƣ; tƣ vấn tài chính: tái cấu trúc vốn, tái cơ cấu nợ; tƣ vấn cơ cấu quản trị của
các doanh nghiệp; tƣ vấn cổ phần hóa cho các công ty TNHH một thành viên; tƣ
vấn xây dựng chiến lƣợc kinh doanh…
Sau khi đội ngũ tƣ vấn của SCIC đã tích lũy đƣợc quy mô và kinh nghiệm
tác nghiệp, sẽ phát triển thêm một số hoạt động tƣ vấn sau: tƣ vấn đầu tƣ vào các tài
sản tài chính; tƣ vấn đầu tƣ dự án trong và ngoài nƣớc; tƣ vấn huy động vốn thông
88
qua thị trƣờng tài chính; tƣ vấn công nghệ quản trị cho các doanh nghiệp; tƣ vấn
mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp thuộc các ngành SCIC
có định hƣớng nắm giữ lâu dài)….
* Về quản lý Qũy Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp trung ương
Trong khuôn khổ nhiệm vụ SCIC đƣợc giao liên quan đến quản lý Quỹ,
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ, SCIC tập trung tăng cƣờng một số công tác sau:
- Tăng cƣờng phối hợp với các cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại
doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp nộp tiền
về Quỹ theo quy định.
- Thực hiện chi xuất quỹ kịp thời, đúng quy định theo quyết định của Thủ
tƣớng Chính phủ và Bộ Tài chính.
- Mở sổ kế toán, hạch toán rõ ràng, đầy đủ các khoản thu, chi phát sinh; tổ
chức việc lƣu trữ hồ sơ, chứng từ theo quy định của pháp luật.
- Đối với việc đầu tƣ các dự án quan trọng và các doanh nghiệp thuộc diện
nhà nƣớc tiếp tục duy trì tỷ lệ vốn góp theo phƣơng án đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ
phê duyệt: SCIC sẽ tăng cƣờng trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan
trong việc: rà soát kế hoạch triển khai và khả năng cân đối nguồn vốn của Quỹ và
các dự án trong từng giai đoạn; tổng hợp và xây dựng kế hoạch nguồn vốn đầu tƣ từ
Quỹ báo cáo Bộ Tài chính để thẩm định; giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện dự
án đầu tƣ và tình hình quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tƣ đúng mục đích, đúng đối tƣợng.
- Thực hiện tổng hợp các khó khăn, vƣớng mắc trong công tác quản lý Quỹ
và đề xuất các biện pháp tăng cƣờng công tác quản lý nguồn thu của Quỹ.
4.3.3.4. Đẩy nhanh việc bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà nhà nước
không cần nắm giữ cổ phần, tập trung quản trị các doanh nghiệp nòng cốt và tập
trung vốn để triển khai đầu tư các dự án mới.
SCIC ngay từ khi nghiên cứu đề thành lập đã cố gắng hƣớng theo mô hình
Teamaseck của Singapore. Temasek quản lý và đầu tƣ vốn ít hơn nhiều so với SCIC
89
(khoảng 50-100 doanh nghiệp). Với số lƣợng doanh nghiệp không quá lớn thì mô
hình Temaseck có thể phát huy đƣợc tác dụng. Đây là những định hƣớng chiến lƣợc
của Temaseck mà SCIC nên học tập.
Để phù hợp với việc Nhà nƣớc chỉ nắm giữ những doanh nghiệp then chốt,
quy mô danh mục các Công ty do Nhà nƣớc nắm giữ không nên lớn quá. Kinh
nghiệm các nƣớc cho thấy phần lớn các Công ty quản lý tài sản Nhà nƣớc đều tối
ƣu hóa danh mục của mình thông qua việc giảm số lƣợng các doanh nghiệp từ hàng
nghìn doanh nghiệp xuống khoảng từ 100-200 doanh nghiệp.
Việc giảm số lƣợng doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc nhỏ, không thuộc đối
tƣợng nhà nƣớc cần nắm giữ, duy trì vốn… sẽ tạo điều kiện cho SCIC tập trung ƣu
tiên vào các doanh nghiệp có chất lƣợng, hiệu quả hơn chứ không quản lý một cách
dàn trải nhƣ hiện nay.
Trƣớc mắt nhiệm vụ trọng tâm của SCIC trong thời gian tới là khẩn trƣơng
cơ cấu lại vốn nhà nƣớc đầu tƣ tại doanh nghiệp thông qua việc bán hết cổ phần đầu
tƣ tại các doanh nghiệp mà nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ phần để tập trung vào
quản trị các doanh nghiệp nòng cốt và triển khai đầu tƣ vào ngành nghề và lĩnh vực
kinh tế then chốt, nhà nƣớc cần giữ vai trò chủ đạo.
Để thúc đẩy nhanh quá trình thoái vốn của SCIC cần tháo gỡ các vƣớng mắc
trong cơ chế bán vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, cần cho phép SCIC đƣợc triển
khai mở rộng các hình thức bán vốn nhà nƣớc, phù hợp với Luật doanh nghiệp và
Luật chứng khoán và giao Bộ Tài chính hƣớng dẫn bổ sung, cụ thể là:
Cho phép thỏa thuận bán cổ phần trong trƣờng hợp bán cổ phần của SCIC
cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc (chủ yếu áp dụng đối với các doanh nghiệp
cùng ngành nghề): Giá bán do đơn vị tƣ vấn độc lập theo nguyên tắc bảo toàn vốn
(không thấp hơn giá trị cổ phần ghi trên sổ kế toán). Việc bán cổ phần của SCIC
cho các doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc không làm thất thoát vốn và tài sản nhà
nƣớc. Ngƣợc lại, còn cho phép SCIC lựa chọn đƣợc nhà đầu tƣ chiến lƣợc cho
90
doanh nghiệp, giúp các DNNN khác tăng cƣờng năng lực cạnh tranh.
Cho phép áp dụng hình thức tổ chức bán đấu giá cổ phần theo nhóm các
doanh nghiệp, nhằm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả bán vốn đối với các
doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ, không có lợi thế. Việc định giá doanh nghiệp và giá trị
cổ phần bởi các doanh nghiệp đƣợc thực hiện bởi các tổ chức tài chính trung gian.
Cho phép áp dụng hình thức thỏa thuận hoán đổi cổ phiếu của SCIC lấy cổ
phiếu ở các Công ty khác cùng ngành nghề. Tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu dựa trên giá
trị cổ phần của từng công ty do các công ty tƣ vấn tài chính độc lập xác định.
4.3.3.5. Tăng cường năng lực cho SCIC
Tăng cƣờng nguồn nhân lực: Đối với hoạt động của SCIC thì vấn đề con
ngƣời luôn phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hoạt động quản lý đầu tƣ, kinh doanh vốn
của SCIC không phải là hoạt động đơn giản mà cần trình độ chuyên môn cao. Lấy
ví dụ, khi một doanh nghiệp nào đó sử dụng vốn Nhà nƣớc để kinh doanh những
hoạt động rủi ro nhƣ đầu tƣ chứng khoán, bất động sản hay đầu tƣ chéo vào các
doanh nghiệp khác thì SCIC phải quyết định xem hoạt động đó có đƣợc phép hay
không, và nếu đƣợc thì hiệu quả về mặt tài chính và kế toán nhƣ thế nào? ... đồng
thời, SCIC phải có chuyên gia am hiểu hệ thống kế toán và phân tích tài chính để
đánh giá đƣợc sức khỏe tài chính của doanh nghiệp, vì khi đƣa vốn vào doanh
nghiệp nào đó thì phải đảm bảo đồng vốn đó sử dụng một cách có hiệu quả. Những
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ và có nguy cơ phá sản phải thoái
vốn, đồng thời đƣa ra những kiến nghị tái cấu trúc cho các doanh nghiệp này… Với
những chức năng trên, nếu SCIC không có đủ khả năng và nguồn lực thì sẽ không
thể làm tốt đƣợc. Nói một cách khái quát, hoạt động quản lý đầu tƣ, kinh doanh vốn
là một hoạt động đòi hỏi chuyên môn cao và sâu, nên buộc SCIC phải có một đôi
ngũ chuyên gia đích thực có đủ kinh nghiệm, kiến thức và nguồn lực.
Tiếp tục củng cố hệ thống Ngƣời đại diện
Tăng cƣờng phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phƣơng trong việc lựa
chọn đánh giá, lựa chọn Ngƣời đại diện tại các doanh nghiệp; đồng thời tăng cƣờng
91
mối quan hệ 3 bên (địa phƣơng- Ngƣời đại diện- SCIC) trong quản lý doanh nghiệp.
Tổ chức lại mạng lƣới Ngƣời đại diện vốn của SCIC tại các doanh nghiệp
theo đó hạn chế tiến tới bỏ dần cơ chế Ngƣời đại diện của SCIC đồng thời là cán bộ,
công chức, viên chức nhà nƣớc của các Bộ, Ngành, UBND các cấp. Từng bƣớc
chuyên môn hóa công tác Ngƣời đại diện để Ngƣời đại diện thực sự là ngƣời bảo vệ
lợi ích của chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trƣờng,
đảm bảo nâng cao hiệu quả đầu tƣ vốn nhà nƣớc và không làm tổn hại đến lợi ích
của các doanh nghiệp.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nhân sự, thể chế của SCIC nhằm phối hợp tốt hơn
với Ngƣời đại diện trong việc quản lý vốn Nhà nƣớc:
+ Tăng cƣờng cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn, kỹ năng xử lý các vấn đề phát sinh của doanh nghiệp cho cán bộ SCIC.
+ Tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo, tập huấn để hỗ trợ nâng cao năng lực
quản trị của Ngƣời đại diện tại các doanh nghiệp.
+ Hoàn thiện hệ thống các tiêu chí đánh giá thành tích Ngƣời đại diện để có
hình thức động viên, khen thƣởng kịp thời.
Hoàn thiện quy trình, quy chế, xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin để
phối hợp với Ngƣời đại diện; kết nối, cập nhật thông tin thƣờng xuyên giữa Ngƣời
đại diện và SCIC.
- Hiện tại, SCIC đang áp dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp CPMS tổng
hợp toàn bộ dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, ngƣời đại diện, tình hình tài chính và
tình hình quản trị của SCIC tại doanh nghiệp. Thời gian tới, SCIC cần áp dụng công
nghệ khoa học tiên tiến để nâng cấp phần mềm để tích hợp thông tin toàn diện, phản
ánh và xử lý kịp thời dữ liệu về doanh nghiệp, về các hoạt động quản trị tại doanh
nghiệp và hoạt động quản trị của SCIC tham gia tại doanh nghiệp. Đáp ứng yêu cầu
trên, mạng công nghệ thông tin của SCIC cần nâng cấp và có thể liên thông thông
92
tin từ doanh nghiệp với nội bộ SCIC.
Có ch nh sách đãi ngộ, thu hút cán bộ hợp lý: Nhƣ đã nêu trên với đặc
thù hoạt động của mình, SCIC cần phải thƣờng xuyên tăng cƣờng chuyên môn và
tăng cƣờng về số lƣợng, thu hút nhiều ngƣời giỏi hơn nữa. Tuy nhiên, với cơ chế về
tài chính nhƣ hiện hành (trả lƣơng theo thang bảng lƣơng của Nhà nƣớc quy định
đối với doanh nghiệp Nhà nƣớc sở hữu 100% vốn), SCIC rất khó có thể thu hút
đƣợc các chuyên gia hàng đầu về làm việc tại SCIC. Do vậy, để thu hút đƣợc cán bộ
có chất lƣợng thì cơ chế lƣơng của SCIC phải đƣợc thay đổi, cơ chế khuyến khích
phải khác hơn theo hƣớng đãi ngộ tốt hơn, theo nguyên tắc thị trƣờng. Đối với
ngƣời đại diện chuyên trách tại doanh nghiệp, SCIC cần thí điểm cơ chế trả lƣơng,
thƣởng cho ngƣời đại diện để khuyến khích tạo động lực kịp thời.
Củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức hoạt động, theo hƣớng gọn nhẹ, tinh
gọn số lƣợng nhân viên để tránh trở thành một tổ chức hành chính quan liêu cồng
kềnh. Điều này có thể thực hiện đƣợc bằng cách tập trung giải quyết công việc
thông qua HĐQT của doanh nghiệp, giám sát hoạt động của HĐQT và lựa chọn bổ
93
nhiệm những thành viên HĐQT có năng lực và chuyên môn cao.
KẾT LUẬN
Mô hình SCIC là một mô hình mới, với việc SCIC đƣợc thành lập, cơ chế
quản lý vốn đầu tƣ trong các doanh nghiệp của Nhà nƣớc đã đƣợc chuyển sang một
phƣơng thức mới - phƣơng thức kinh doanh, để thay thế cho phƣơng thức quản lý
vốn nhà nƣớc cũ - phƣơng thức hành chính, phù hợp với yêu cầu quản lý vốn nhà
nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
Luận văn “Mô hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước tại các doanh nghiệp” đã hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về các mô hình
quản lý vốn tập trung và phân tán, thực trạng của phân công quản lý vốn nhà nƣớc
tại các doanh nghiệp. Cũng trong luận văn này, thực trạng của mô hình quản lý vốn
của SCIC đã đƣợc nghiên cứu, đề cập và đánh giá một cách chi tiết, nêu rõ đƣợc các
kết quả đạt đƣợc cũng nhƣng phát hiện đƣợc những tồn tại, hạn chế và vƣớng mắc
trong quá trình hoạt động của SCIC, trên cơ sở phân tích các nguyên nhân cũng nhƣ
qua nghiên cứu kinh nghiệm các mô hình quản lý vốn nhà nƣớc của một số tổ chức
có hoạt động tƣơng đồng tại một số quốc gia trên thế giới, Luận văn đã đề xuất
những giải pháp để hoàn thiện mô hình quản lý vốn của Tổng công ty Đầu tƣ và
94
kinh doanh vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Vũ Thành Tự Anh, 2012. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
GĐ nghiên cứu của Chƣơng trình giảm dạy kinh tế Fulbright.
2. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, 1998. Các văn kiện Hội nghị của BCH
TW Đảng. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
3. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng, 2015. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4,
Điểm II, Mục IV, Phần II. Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX, 2016. Nghị quyết hội nghị lần
thứ 3. Hà Nội.
5. Bộ Tài chính, 1995. Đổi mới công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Tập
I, II. Hà Nội.
6. Bộ Tài chính, 2014. Thông tư 118/2014/TT-BTC ngày 21/8/2014 của Bộ
Tài chính hướng dẫn việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà
nước đầu tư tại các doanh nghiệp về SCIC. Hà Nội.
7. Trần Hữu Bƣu và cộng sự, 2008. Báo cáo vấn đề : Việt Nam gia nhập tổ
chức Thương mại thế giới - Giải thích các điều kiện gia nhập. Mutrap II
(dự án hỗ trợ thương mại đa biên). Hà Nội : Nxb Lao động xã hội.
8. Hoàng Thị Chỉnh, 2010. Doanh nghiệp nhà nước trong bội cảnh hội nhập
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trƣờng ĐH Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
9. Chính phủ, 2000. Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 6/12/2000 của Chính
phủ về Quy chế quản lý phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác. Hà Nội.
10. Chính phủ, 2007. Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của
Chính phủ về chuyển giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty
95
cổ phần. Hà Nội.
11. Chính phủ, 2009. Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/10/2009 của
Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp khác. Hà Nội.
12. Chính phủ, 2011. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của
Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ
phần. Hà Nội.
13. Chính phủ, 2012. Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của
Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn
nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Hà Nội.
14. Chính phủ, 2013. Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 của Chính
phủ về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư
và kinh doanh vốn nhà nước. Hà Nội.
15. Chính phủ, 2013. Quyết định số 2344/QĐ-TTg ngày 2/12/2013 phê duyệt
đề án tái cơ cấu SCIC giai đoạn 2011-2015. Hà Nội.
16. Chính phủ, 2014. Nghị định 57/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính
phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước. Hà Nội.
17. Cục tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính, 2011. Báo cáo tổng hợp tình
hình sắp xếp cổ phần hóa DNNN. Hà Nội.
18. Quốc hội, 1995. 2003. Luật doanh nghiệp nhà nước 1995, 2003. Hà Nội.
19. Quốc hội, 2005. 2014. Luật doanh nghiệp 2005, 2014. Hà Nội.
20. Quốc hội, 2014. Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hà Nội.
96
21. Quốc hội, 2014. Luật phá sản. Hà Nội.
22. SCIC, 2009. Báo cáo của SCIC tại hội thảo “Quản lý vốn và tài sản nhà
nước tại doanh nghiệp - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam”
ngày 21/4/2009. Hà Nội.
23. SCIC, 2015. Báo cáo kết quả hoạt động 10 năm của SCIC. Hà Nội.
24. SCIC, 2010.Đề án tái cơ cấu của SCIC. Hà Nội.
25. SCIC, 2015. Báo cáo tổng kết năm 2015.
26. Bùi Ngọc Sơn, 2011. Giáo trình pháp luật doanh nghiệp. Hà Nội: NXB
Đại học Quốc gia HN.
27. Thời báo kinh tế sài gòn, số ra ngày 27/11/2012.
28. Vũ Xuân Tiền, 2014. Quản lý vốn đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp.
29. Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, 1999. Báo cáo
điều tra, đánh giá về tình hình hoạt động của DNNN giai đoạn 1994-1999.
Hà Nội.
30. Bộ Tài chính, 1998. Các chế độ mới về quản lý tài chính doanh nghiệp
nhà nước. Hà Nội: NXB Tài chính.
31. Hƣớng dẫn chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê 6-1999
II. Tài liệu tiếng Anh
1. BUMN, 2014 “True Building Value”, financial report.
2. Naughton, 2010 “SASAC and raising Corporate Power in China”, bài viết
trên tạp chí China Leadership Monitor, số 24
3. OECD,2014, “Workshop on State-Owned Enterprises in the Development
Process”, báo cáo hội thảo
III. Các website
1. Website Tổng công ty đầu tƣ và kinh doanh vốn Nhà nƣớc
97
(SCIC):