ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU QUỲNH
QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA
CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU QUỲNH
QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA
CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Thu Hằng
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công
bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn
i
Nguyễn Thị Thu Quỳnh
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Dương Thu Hằng về sự
hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong
toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm
Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn
ii
Nguyễn Thị Thu Quỳnh
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
MỤC LỤC ...............................................................................................iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 7
7. Dự kiến đóng góp của luận văn ............................................................ 8
8. Cấu trúc của luận văn .......................................................................... 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .......................................................................................... 10
1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận tác
phẩm văn học ............................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn ......................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tư tưởng, mã thể loại của lý thuyết diễn ngôn ... 13
1.2. Đôi nét về quan niệm “thân” ................................................................ 18
1.2.1. Quan niệm của các tôn giáo về “thân” ................................................. 18
1.2.2. Quan niệm về “thân” trong văn học trung đại Việt Nam ......................... 20
1.3. Đôi nét về Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật phụ nữ trong Truyền
kỳ mạn lục .................................................................................... 24
1.3.1. Đôi nét về thân thế và thời đại của Nguyễn Dữ ...................................... 24
1.3.2. Phác thảo hệ thống nhân vật người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục .......... 25
iii
* Tiểu kết chương 1 ............................................................................... 30
Chương 2: QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN
VẬT PHỤ NỮ TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN ....................... 32
2.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền
thống trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng .................... 32
2.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất ........................ 32
2.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu chung thủy, gắn liền
với hạnh phúc gia đình ..................................................................... 39
2.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử ......................... 46
2.2. Quan niệm “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền thống
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại .................................. 53
2.2.1. Yếu tố kì ảo .................................................................................... 53
2.2.2. Sự hòa thanh diễn ngôn ................................................................... 58
* Tiểu kết chương 2 ............................................................................... 61
Chương 3: QUAN NIỆM VỀ “THÂN ” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN
VẬT PHỤ NỮ PHI TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN ............ 63
3.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng ............................ 63
3.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất ........................ 63
3.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu tự do, khao
khát hạnh phúc đời thường ........................................................... 67
3.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử ............... 78
3.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại .................................. 83
3.2.1. Thế giới kì ảo .................................................................................. 83
3.2.2. Những diễn ngôn trái chiều ................................................................ 87
* Tiểu kết chương 3 ............................................................................. 100
KẾT LUẬN ......................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 103
PHỤ LỤC ..................................................................................................
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo, văn học trung đại Việt Nam
từ thế kỉ X đến XV hầu như vắng bóng hình ảnh của người phụ nữ. Ra đời
vào thế kỉ XVI, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã trở thành một hiện
tượng đột xuất, một sự khởi đầu cho hàng loạt vấn đề về người phụ nữ trong
dòng chảy văn học dân tộc. Bên cạnh hình ảnh người phụ nữ theo quan điểm
“tam tòng tứ đức” của Nho giáo với quan niệm truyền thống về hạnh phúc
gia đình, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, xuất hiện những người
phụ nữ “lệch chuẩn”: tự do yêu đương, tự do ân ái và đấu tranh cho khát vọng
tình yêu của chính mình. Trong đó, có nhiều nhân vật nữ đã trực tiếp nói lên
quan niệm cá nhân về tình yêu và những nhu cầu bản năng của con người.
Nguyễn Dữ là một nhà nho sống ở thế kỉ XVI, ông viết Truyền kỳ mạn
lục khi đã lui về ở ẩn. So với thời đại, Nguyễn Dữ đã có cái nhìn rất mới mẻ
và đa diện về quyền sống, quyền được yêu, được hưởng hạnh phúc lứa đôi
của người phụ nữ trong xã hội cũ. Ông cũng là một trong số ít các tác gia
đương thời đề cập đến chữ “thân” với cái nhìn sâu sắc. Nếu như trước đây,
đa số nhân vật trong văn học trung đại chủ yếu đề cao chữ “tâm” trong sáng
thì trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, một bộ phận nhân vật nữ của
ông đã mạnh dạn đề cao chữ “thân” phàm tục. Vậy chữ “thân” trong Truyền
kỳ mạn lục có nét gì độc đáo? Những quan niệm mới mẻ về tình yêu, hạnh
phúc của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục có đưa họ tới bến bờ hạnh
phúc không hay cuộc đời họ sẽ luẩn quẩn trong vòng bế tắc? Tác phẩm của
Nguyễn Dữ có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của văn học Việt
Nam các giai đoạn sau với đề tài về người phụ nữ? Đây là những câu hỏi cần
được tìm hiểu, nghiên cứu để góp thêm góc nhìn mới về áng “thiên cổ kỳ bút”
đã quen thuộc lâu nay.
Bên cạnh đó, diễn ngôn là khái niệm ra đời từ rất sớm, đã trở thành đề
1
tài của nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới. Tuy nhiên, giá
trị của diễn ngôn không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngôn ngữ mà còn được mở
rộng trong phạm vi nghiên cứu khoa học nhân văn nói chung, nghiên cứu văn
học nói riêng. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu
quan niệm về chữ “thân” trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc nhìn của lý
thuyết diễn ngôn hiện đại với hi vọng có những đóng góp mới.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Quan niệm về
“thân” qua phát ngôn của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn
từ lý thuyết diễn ngôn”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sử dụng diễn ngôn để nghiên cứu văn học còn là một công việc mới mẻ
ở Việt Nam song đã có khá nhiều bài nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà
phê bình lý luận văn học, có thể kể đến các công trình: Lý thuyết văn học hậu
hiện đại của Phương Lựu (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); Khái niệm
diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay của Trần Đình Sử (tháng 3 năm
2013); Về diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Trang Thế Hy của
Lâm Thị Thiên Lan (Tạp chí Khoa học, văn hoá và du lịch, số 12, tháng
7/2013); Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật của Trần Văn Toàn (Tạp
chí văn học số 8.2013); Diễn ngôn trong giao tiếp văn học của Nguyễn Duy
Bình (Tạp chí khoa học ĐHQGHN, năm 2012); Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn
của M.Foucault và nghiên cứu văn học của Trần Văn Toàn (tháng 9 năm
2015); Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến 1945 của Trần Văn Toàn (Tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn, Khoa
Ngữ Văn, ĐHSP Hà Nội, năm 2010); Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn
từ góc độ diễn ngôn (Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải Phương, ĐHSP
HN, năm 2012); Diễn ngôn nữ quyền trong văn xuôi Sương Minh Nguyệt
(Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Giàu năm 2016, ĐHSP TP.HCM);
Diễn ngôn về sức thuộc địa trong tác phẩm “Người tình” của Mr.Duras của
Nguyễn Thị Ngọc Minh (đăng trên trang web: http://vanhoanghean.com.vn
2
ngày 14/07/2011); Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết
của Lê Khâm - Phan Tứ: một cái nhìn lịch đại (Luận văn thạc sĩ của Tô Thùy
Quyên, ĐHSP TP.HCM, năm 2014); Diễn ngôn nhân vật trong nhóm truyện
ngắn thế sự của Phan Huy Thiệp (Bài viết của Phan Thị Điệp, Hội thảo khoa
học sinh viên lần IX, năm 2016); Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số
tác phẩm văn học hiện đại (Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thu Hương,
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, năm 2009); Tiểu thuyết vùng sâu của Tô
Nhuận Vỹ từ góc nhìn diễn ngôn (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thanh Huyền,
ĐHSP Hà Nội, năm 2013); Kí như một loại hình diễn ngôn (Luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Ngọc Minh, ĐHSP Hà Nội, năm 2013); Diễn ngôn về giới nữ
trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Luận án tiến sĩ của
Nguyễn Thị Vân Anh, ĐHSP Hà Nội, năm 2017); Phân tích diễn ngôn do trẻ
em viết trong chuyên mục “cười vui” của báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 -
2008 (Luận văn thạc sĩ của Đặng Chinh Ngọc, ĐHKHXH&NV, năm 2015);
Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu, tính dục trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh
Bình, ĐHKHXH&NV, năm 2016); Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh từ góc nhìn lý thuyết phân tích diễn ngôn (Luận án tiến sĩ của Trần Bình
Tuyên, ĐHKH Huế, năm 2017);…Các công trình nghiên cứu trên đã vận
dụng lý thuyết diễn ngôn trên phương diện xã hội để nghiên cứu một số nội
dung văn học và thể loại văn học. Điều này không chỉ góp phần làm rõ khái
niệm diễn ngôn trong văn học mà còn sử dụng diễn ngôn như một công cụ để
nghiên cứu các tác phẩm, mở ra thêm hướng đi mới trong tiếp nhận văn học
theo hướng hiện đại.
Truyền kỳ mạn lục đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả
và cho đến ngày nay, nhiều vấn đề trong tác phẩm này vẫn thu hút sự chú ý
của giới nghiên cứu và phê bình văn học. Chúng tôi xin điểm qua một số bài
viết, tài liệu ghi chép, công trình nghiên cứu về tác phẩm này như: Tìm hiểu
khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Nguyễn
3
Phạm Hùng - Tạp chí văn học số 7, 1987); Truyền kỳ mạn lục một thành tựu
của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán (Bùi Duy Tân - Văn học Việt Nam,
NXBGD, 2001); Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung
Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền
kỳ mạn lục (Luận án tiến sĩ của tác giả Jeon Hye Kyun, năm 1994); Bàn luận
thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục (Lại Văn Hùng - Tạp
chí văn học số 10, 2002); Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền
kỳ mạn lục (Trần Ích Nguyên, 2000); Những vấn đề khác nhau có liên quan
đến Truyền kỳ mạn lục (Kawamoto Kurive - Tạp chí văn học, 1996); Ảnh
hưởng của văn học dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Hòa năm 1997); Cảm hứng chính sự
trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Tình, ĐH Vinh,
năm 2012); Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kỳ đổi mới
(Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Huyền Trang năm 2013, ĐHSPTN); Quan
niệm nghệ thuật về con người trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
(Nguyễn Thị Tính - Tạp chí khoa học - ĐHSPHN, 2014); Tìm hiểu sắc thái
dục tính trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Hoài Thu,
ĐHKHXH&NV, năm 2014); Sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong
Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Tô Kim Yến, ĐHSP TP.HCM, năm
2014); Những biến đổi của “kỳ” và “thực” trong truyện ngắn truyền kỳ Việt
Nam của Vũ Thanh (Tạp chí Văn học, số 6 - 1994); Về mối quan hệ giữa Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục của Phạm Tú Châu (Tạp chí Văn học,
số 3 - 1997); Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo
trong Truyền kỳ mạn lục của PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn (Tạp chí Nghiên
cứu văn học, năm 2011); Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn
tình yêu, tính dục trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Thanh Bình, ĐHKHXH&NV, năm 2016);… Các công trình
nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục đã khai thác sâu vào khuynh hướng sáng
tác, cảm hứng chính sự, thế giới nghệ thuật, quan niệm về con người và đặc
4
biệt là so sánh Truyền kỳ mạn lục với các tác phẩm cùng trường thể loại để
thấy những nét đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó,
thấy được những giá trị đỉnh cao của áng “thiên cổ kỳ bút” này.
Bên cạnh những vấn đề lí luận chung của tác phẩm, hình ảnh người phụ
nữ trong Truyền kỳ mạn lục cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
công trình khoa học, cụ thể như: Nhân vật nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác
phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả (Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn
của Kim Seona năm 1995 - ĐHKHXH & NV, Hà Nội); Số phận người phụ
nữ và các phương thức thể hiện số phận ấy trong Truyền kỳ mạn lục (Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Dương năm 1996 - ĐHSPI HN); Nghiên
cứu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn Thạc
sĩ của Nguyễn Công Tho năm 2005 - ĐHSPI HN); Hệ thống nhân vật nữ
trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn Thạc sĩ của Nông
Phương Thanh năm 2011 - ĐHSPTN); Yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát
vọng của người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Hải Yến năm 2011 - ĐHSPTN); Người phụ nữ trong Truyền kỳ
mạn lục nhìn từ quan điểm giới (Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nhung năm
2010 - ĐHSPTN); Hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn
thạc sĩ của Mai Thị Lệ Quyên, ĐHKHXH&NV, năm 2016);…Các công trình
nghiên cứu về người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục chủ yếu phân tích hệ
thống nhân vật, làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, số phận khổ đau, khát vọng hạnh
phúc không thành của họ. Thực tế cho thấy, chưa có công trình nào nghiên
cứu Truyền kỳ mạn lục với mục đích lấy những lời nói trực tiếp của các nhân
vật nữ làm đối tượng nghiên cứu chính để từ đó làm nổi bật một quan niệm có
tính tổng thể trong văn học trung đại như quan niệm về chữ “thân”.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Quan niệm về “thân”
qua phát ngôn của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý
thuyết diễn ngôn” để góp phần hoàn thiện thêm cái nhìn đa chiều về tác
phẩm và những đóng góp to lớn của Nguyễn Dữ khi viết về người phụ nữ
5
trong xã hội phong kiến.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan niệm về
chữ “thân” được thể hiện dưới dạng phát ngôn về tình yêu, hạnh phúc lứa
đôi, hạnh phúc gia đình, quan niệm sinh - tử, nhu cầu bản năng của các nhân
vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý thuyết diễn ngôn hiện đại. Qua
đó, giúp người đọc thấy được sự mới mẻ, táo bạo và ý nghĩa nhân sinh tiến bộ
của quan niệm ấy so với bối cảnh xã hội đương thời, góp thêm một góc nhìn
mới về áng “thiên cổ kỳ bút” này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
như: quan niệm về chữ “thân” trong thời kỳ văn học trung đại; khái niệm
diễn ngôn như một công cụ lý thuyết trong nghiên cứu tác phẩm văn học; thân
thế, thời đại của Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật nữ trong tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục; vấn đề người phụ nữ trong văn xuôi tự sự Việt Nam từ TK X đến
TK XVI.
- Khảo sát, thống kê những phát ngôn trực tiếp về tình yêu, nhu cầu
tính dục, nhu cầu vật chất, quan niệm sinh - tử của một số nhân vật nữ trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Phân tích, luận giải quan niệm tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình,
nhu cầu bản năng, quan niệm sinh - tử và số phận của một số nhân vật nữ theo
lý thuyết diễn ngôn hiện đại để thấy được quan niệm về chữ “thân” trong tác
phẩm. Từ đó, chỉ ra tính chất mới mẻ, táo bạo trong ngòi bút nhân đạo của
Nguyễn Dữ.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu phát
ngôn của các nhân vật phụ nữ đại diện cho quan niệm về hạnh phúc gia đình,
khát vọng tình yêu đôi lứa và khát vọng giải phóng tình cảm tự nhiên. Từ đó,
6
chỉ ra được quan niệm về chữ “thân” có phần mới mẻ, táo bạo trong tác
phẩm: nàng Nhị Khanh trong “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, Vũ Thị
Thiết trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, nàng Giáng Hương trong
“Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, nàng Lệ Nương trong “Chuyện Lệ Nương”,
nàng Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo”, hai hồn hoa Đào Hồng nương và Liễu
Nhu nương trong “Chuyện kì ngộ ở trại Tây”.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi dùng bản: Truyền kỳ mạn lục - bản
dịch của Trúc Khê - Ngô Văn Triện, lời giới thiệu của Bùi Kỷ, NXB Văn học ấn
hành tại Hà Nội (1971). Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tập
trung làm nổi bật quan niệm về chữ “thân” qua những phát ngôn thể hiện quan
niệm về tình yêu của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục thông qua các
truyện: “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, “Chuyện người con gái Nam
Xương”, “Chuyện cây gạo”, “Chuyện kì ngộ ở trại Tây”, “Chuyện Từ Thức lấy
vợ tiên”, “Chuyện Lệ Nương”… Ở đây, chúng tôi sử dụng phát ngôn của nhân
vật như một biểu hiện quan trọng của lý thuyết diễn ngôn.
Bên cạnh đó, chúng tôi mở rộng phạm vi tìm hiểu một vài tác phẩm văn
học và tư liệu văn hoá để so sánh khi cần thiết như: Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, Truyền kỳ tân phả của Đoàn
Thị Điểm, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Đoạn trường tân thanh
của Nguyễn Du,… Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu những tác
phẩm thơ hiện, đương đại về tình yêu của các nhà thơ Xuân Diệu, Vi Thùy
Linh… và một số tài liệu nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà lý luận phê
bình văn học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: khảo sát, thống kê các phát ngôn về
quan niệm tình yêu và hạnh phúc gia đình, nhu cầu vật chất, quan niệm sinh -
tử của các nhân vật phụ nữ, chú trọng các phát ngôn gắn với quan niệm về
7
chữ “thân”.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: vận dụng những kiến thức liên
ngành về Phật giáo, Nho giáo, văn học, văn hóa, lịch sử,… để tìm hiểu vấn đề
cần nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống: xây dựng các hệ thống phát ngôn theo từng
tuyến nhân vật bằng lí thuyết diễn ngôn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích nhân vật, phân tích ngôn
ngữ, phân tích các khái niệm diễn ngôn, mã thể loại, mã hệ tư tưởng,…
- Phương pháp tiếp cận văn hóa: đọc tác phẩm từ góc nhìn văn hóa, chỉ
ra tư tưởng của Nguyễn Dữ thể hiện ở việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và
lời bình trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thời trung đại.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên tập trung tìm hiểu quan niệm về chữ
“thân” được thể hiện dưới dạng phát ngôn về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi,
hạnh phúc gia đình, quan niệm sinh - tử, nhu cầu bản năng của các nhân vật
phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý thuyết diễn ngôn hiện đại. Cụ thể
là luận văn đi sâu phân tích phát ngôn của hai tuyến nhân vật phụ nữ có tính
cách, quan niệm sống và yêu gần như trái ngược nhau: Một bên là người phụ
nữ truyền thống tuân thủ đạo đức Nho giáo với quan niệm về tình yêu thủy
chung và khát khao hạnh phúc gia đình bình dị, đề cao cái tâm trong sáng và
coi nhẹ chữ thân; còn một bên là người phụ nữ phá cách với khát vọng hưởng
thụ hạnh phúc ân ái mãnh liệt, đề cao chữ thân và phần nào coi nhẹ chữ tâm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cung cấp phương pháp
luận và kiến thức văn học cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy ở nhà trường các cấp. Đồng thời, đây cũng là một cách tiếp cận mới
cho các tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá giá trị nhân văn của văn học
từ góc nhìn lí thuyết diễn ngôn.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục; Nội dung
8
chính của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
Chương 2: Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ
nữ truyền thống theo quan điểm Nho giáo trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý
thuyết diễn ngôn.
Chương 3: Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ
nữ phi truyền thống theo quan điểm Nho giáo trong Truyền kỳ mạn lục nhìn
9
từ lý thuyết diễn ngôn.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận tác phẩm
văn học
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn
Khái niệm diễn ngôn ra đời từ rất sớm và ngày càng được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu của khoa học nhân văn và xã hội học. Diễn
ngôn (với nghĩa từ nguyên là discourse) có bản chất là dạng thức trao đổi
thông tin (communication), vận hành theo mối quan hệ logic từ đâu ra và
hướng đến đâu (from... and to...). Theo cách hiểu thông thường, đó là sự
tiếp nhận qua lại giữa chủ thể truyền thông tin và đối tượng nhận thông tin
của quá trình trao đổi. Khi trở thành thuật ngữ của ngôn ngữ học, diễn ngôn
vẫn hàm chứa bản chất cơ bản của nghĩa từ nguyên, bao gồm quan hệ giữa
chủ thể diễn ngôn, khách thể diễn ngôn và nội dung diễn ngôn. Từ thế kỉ
XX, trong bối cảnh sự chuyển hướng mạnh mẽ của hệ lý thuyết, diễn ngôn
đã được bổ sung thêm những hàm nghĩa mới, gắn liền với một mô hình
nghiên cứu văn hóa văn học, trở thành một trong những thuật ngữ mang
tính chất chìa khóa trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Theo bài viết "Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn" của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Minh [Nguồn trích dẫn: https://phebinhvanhoc.com.vn/ba-
cach-tiep-can-khai-niem-dien-ngon/], nghĩa mới của diễn ngôn có cội nguồn
sâu xa từ trong các trước tác của ba nhà tư tưởng lớn của thế kỉ XX: F.de
Saussure, M.Bakhtin và M.Foucault.
Thứ nhất, đối với các nhà cấu trúc chủ nghĩa, diễn ngôn được hiểu là
cấu trúc của ngôn ngữ/ lời nói, đó là những nguyên tắc tổ chức, sắp xếp ngôn
từ trong hệ thống theo một quy luật riêng. Nét nghĩa này bắt nguồn từ trong
10
cuốn giáo trình “Ngôn ngữ học đại cương” của Saussure, được sử dụng rộng
rãi trong thời cực thịnh của chủ nghĩa cấu trúc với tên tuổi của nhiều nhà
nghiên cứu cấu trúc chủ nghĩa như: R.Barthes, Todorov, Gennette…
Thứ hai, đối với nhà nghiên cứu M.Bakhtin, diễn ngôn được định nghĩa
như là một loại lời nói thấm đẫm hệ tư tưởng. Hướng này xuất hiện khi Bakhtin
thấy hạn chế của ngữ học Saussure, đồng thời cũng thấy hạn chế của các nhà lý
luận thuộc phái hình thức chủ nghĩa: không thừa nhận mối quan hệ giữa văn học
và ý thức hệ xã hội. Ông là người đề xuất hướng nghiên cứu “siêu ngôn ngữ
học”, phản đối lối nghiên cứu ngôn từ tách khỏi đời sống xã hội và ý thức hệ.
Theo Bakhtin, diễn ngôn luôn thấm đẫm tư tưởng, cảm xúc, thái độ chủ quan
của người nói, hay nói cách khác, nó luôn tồn tại dưới dạng kép: lời nói - hệ tư
tưởng. Như vậy, diễn ngôn có bản chất là đối thoại.
Trung tâm điểm của cách tiếp cận thứ ba về diễn ngôn là những tư
tưởng của M.Foucault. Theo ông, diễn ngôn vừa là công cụ, vừa là hệ quả
của quyền lực. Tri thức mà chúng ta có cũng là sản phẩm được tạo thành từ
các diễn ngôn, đồng thời, là kết quả của những mâu thuẫn quyền lực. Tất cả
những tư tưởng này của Foucault cho thấy ông chủ yếu đi sâu nghiên cứu
những yếu tố chi phối việc kiến tạo và vận hành các diễn ngôn.
Từ đó, trong bài viết "Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn", tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Minh kết luận: “Diễn ngôn có thể hiểu là cấu trúc của
ngôn ngữ (lời nói), diễn ngôn là lời nói - tư tưởng hệ và diễn ngôn như là
công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. [Nguồn trích dẫn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/ba-cach-tiep-can-khai-niem-dien-ngon/]
Theo luận án tiến sĩ “Sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn
học Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay” của tác giả Trần Thị Ngọc Anh,
quan niệm diễn ngôn được hiểu là “hệ thống siêu ngôn ngữ được hiện diện
qua văn bản hoặc phi văn bản về một chủ đề nào đó trong đời sống như chính
trị, quân sự, đạo đức, kinh tế, nghệ thuật, văn học… Mỗi chủ đề tạo thành
một đơn vị diễn ngôn. Tổng hòa các đơn vị diễn ngôn tạo thành hệ thống diễn
11
ngôn trong xã hội. Hệ thống diễn ngôn này chịu sự tác động của cơ chế quyền
lực và trạng thái tri thức mà quy định thực tiễn phát ngôn của con người bằng
những nguyên tắc căn bản trong dùng từ, diễn đạt, kiến tạo văn bản và kết
hợp các hệ thuật ngữ của một giai đoạn lịch sử hoặc một thời đại. Diễn ngôn
do đó chính là bản thể tư tưởng của con người trong thực tiễn luận bàn, diễn
giải về các vấn đề trong đời sống cũng như học thuật một cách có chiến lược,
tuân theo trật tự và mang tính liên văn bản” [1.35].
Từ quan niệm trên của tác giả Trần Thị Ngọc Anh, có thể thấy khi được
vận dụng vào nghiên cứu khoa học xã hội, việc vận hành diễn ngôn phụ thuộc
vào yếu tố chủ quan của chủ thể: tư tưởng, thái độ, tài năng... và các yếu tố
khách quan: luật định xã hội, luật tục cộng đồng... Nó gắn liền trước hết với
khái niệm ý thức hệ. Do đó, có thể hiểu một cách ngắn gọn: diễn ngôn bao
hàm lời nói, tức là nó có tồn tại dưới dạng phát ngôn chủ quan của một cá
nhân. Tuy nhiên, diễn ngôn lại phụ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp và có khả
năng phát triển nâng tầm để trở thành tuyên ngôn cho một giai cấp nhất định,
cho một thời đại cụ thể. Một diễn ngôn được cho là phù hợp với thời đại khi
nội dung của nó trùng khớp với tư tưởng chung của xã hội đương thời. Chính
vì vậy, không nên chỉ xem xét diễn ngôn trên phương diện ngôn ngữ mà còn
cần khai thác diễn ngôn như một công cụ để nghiên cứu các tác phẩm văn
học. Các tác giả xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm thông qua việc
miêu tả ngoại hình, hành động, tâm lý và lời thoại của nhân vật… Với nhiều
tác phẩm văn học, lời thoại của nhân vật cũng chứa đựng những quan điểm,
thái độ của tác giả, hay nói cách khác, xây dựng phát ngôn của nhân vật là
cách thức để tác giả bộc lộ tư tưởng, thái độ về một vấn đề nào đó.
Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm khác nhau của các học giả khi
nghiên cứu diễn ngôn trong lĩnh vực văn chương, có thể thấy trong nghiên
cứu văn học có ít nhất hai mã chi phối việc tạo lập và vận hành các diễn
ngôn: mã thể loại và mã hệ tư tưởng.
Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi sử dụng lý thuyết diễn ngôn để
12
nghiên cứu các phát ngôn (bao gồm có lời độc thoại, đối thoại và các sáng tác
thơ) của nhân vật, dựa trên mã thể loại truyền kì và mã hệ tư tưởng phong kiến.
Tuy nhiên, cần xác định rõ rằng trong đề tài khoa học này, diễn ngôn không phải
là một khái niệm của ngôn ngữ học mà nó là công cụ lý thuyết để nghiên cứu
văn học. Chúng tôi sử dụng diễn ngôn như một phương tiện văn học để phân tích
quan niệm về chữ “thân” qua các phát ngôn về tình yêu của một số nhân vật nữ
trong tác phẩm.
1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tư tưởng, mã thể loại của lý thuyết diễn ngôn
1.1.2.1. Khái niệm về mã
Mã (code) là một khái niệm được sử dụng nhiều trong lĩnh vực ngôn ngữ
học, công nghệ thông tin, kí hiệu học và nghiên cứu văn học. Theo nghĩa thông
thường nhất, mã là nguyên tắc xác lập mối quan hệ giữa thông tin và kí hiệu.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, Saussure là người đầu tiên sử dụng khái
niệm mã. Thứ nhất, mã có một vai trò rất quan trọng trong quá trình giao tiếp,
bởi nhờ nó mà người nhận có thể hiểu được thông điệp của người gửi. Vì thế,
mã là yếu tố xác lập nên mối quan hệ giữa người phát và người nhận, giữa
thông điệp và ý nghĩa thông điệp. Thứ hai, mã là một ngôn ngữ, bởi nó có
những đơn vị và qui tắc tổ chức các đơn vị ấy thành một hệ thống, giúp truyền
đạt thông tin.
Hiểu như vậy, thì văn bản cũng có mã của nó, đó là hệ thống ngữ pháp
chi phối việc tạo lập văn bản, là chìa khóa để giải mã thông điệp giữa người
gửi và người nhận trong giao tiếp. Ngôn ngữ cũng được coi là một mã, vì nó
là nguyên tắc xác lập quan hệ giữa thông tin và kí hiệu dạng lời nói hoặc chữ
viết, phải nắm được những qui tắc của ngôn ngữ, người ta mới có thể giao
tiếp. Văn hóa, văn học đều có một hệ thống mã, mà dựa vào đó, người ta có
thể tiếp cận được các tác phẩm và thích nghi với một nền văn hóa.
1.1.2.2. Mã hệ tư tưởng
Thuật ngữ hệ tư tưởng (ideology) có lịch sử tồn tại trên dưới hai trăm
năm, từng là đối tượng bàn luận của khoa học luận (Tracy và các nhà bách
13
khoa thư), triết học (Marx, Enghen), kí hiệu học (M.Bakhtin, R.Barthes và
nhiều nhân vật khác). Các từ điển triết học hiện có đều cho rằng, Antoine
Louis Claude Destutt de Tracy (1754 - 1836) - nhà triết học, chính trị học,
kinh tế học người Pháp - là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm
1801, trong tác phẩm nổi tiếng: “Cơ sở tư tưởng hệ”. Trong cách sử dụng của
Tracy thời ấy thì hệ tư tưởng là khoa học về tư tưởng. Tuy nhiên, hệ tư tưởng
với nội hàm này chưa thực sự chính xác.
Sau Tracy, vấn đề hệ tư tưởng trở thành đối tượng luận bàn của triết học và
cách luận giải về phạm trù này thay đổi theo nhiều hướng (trong triết học của
H.Tain, triết học Heghen) nhưng đáng chú ý hơn cả là những ý kiến của các nhà
khoa học chủ nghĩa Mác. Những luận điểm cơ bản về hệ tư tưởng được Marx và
Enghen trình bày trong Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846): hệ tư tưởng là tập hợp
những tư tưởng và quan điểm dưới dạng lí thuyết, mang tính hệ thống, phản ánh
quan hệ của các nhóm xã hội (tầng lớp, giai cấp) với thế giới hiện thực và quan
hệ giữa các nhóm xã hội với nhau. Như vậy, hệ tư tưởng không phải là tư tưởng
của cá nhân, cũng không bó hẹp chỉ là tư tưởng của một giai cấp, mà được hiểu
theo nghĩa rộng, là tất cả những nền tảng tri thức, tâm lí, văn hóa... chung cho một
nhóm người nào đó. Trên cơ sở này, có thể kể đến hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân
tộc, hệ tư tưởng của chủ nghĩa nữ quyền, hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân…
Chính vì vậy, hệ tư tưởng có xu hướng loại bỏ những khám phá mang
tính chất cá nhân bằng cách tạo ra những khuôn mẫu của chủ thể và khiến cho
những khuôn mẫu này được công nhận là hợp thức. Ví dụ: Hệ tư tưởng nam
quyền đã chi phối xã hội Việt Nam thời phong kiến, quy định trong nền văn
hóa trung đại Việt Nam, chỉ có những bậc quân vương, danh thần, lương
tướng, quân tử mới được phát ngôn. Những phát ngôn không theo những
khuôn mẫu này (không phải của quân vương, danh thần, quân tử…) đều
không được công nhận là hợp thức. Cũng như vậy, trong hệ tư tưởng thực
dân, dân bản xứ ở các thuộc địa bị tước mất tiếng nói, chỉ có kẻ đi khai hóa,
chinh phục mới được quyền phát ngôn. Còn hệ tư tưởng nữ quyền, hậu thực
14
dân… lại khiến cho những kẻ vốn bị tước đoạt quyền phát ngôn như người
phụ nữ, dân bản xứ ở các nước thuộc địa được cất lên tiếng nói và khẳng định
quyền được tự do ngôn luận của mình. Như vậy, có thể thấy hệ tư tưởng chi
phối mạnh mẽ tới chủ thể của diễn ngôn, mục đích và nội dung diễn ngôn.
Ngoài ra, hệ tư tưởng được thể hiện trong hình thái của một bức tranh
thế giới mang tính chất khuôn mẫu, thể hiện cách thức quan sát và miêu tả thế
giới chung cho cả cộng đồng. Ví dụ: hệ tư tưởng chủ nghĩa thực dân thể hiện
“bức tranh thế giới thuộc địa” như một xứ sở mông muội, tăm tối, lạc hậu cần
được khai hóa và con người ở vùng thuộc địa đều man dại, cần được cải tạo.
Còn trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, hệ tư tưởng nam quyền chịu tác
động của Nho giáo lại thể hiện ở cách ngợi ca người đàn ông như đấng nam
nhi đại trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất” với khí phách anh hùng; song
song đó là miêu tả người phụ nữ như một đối tượng thụ động, yếu đuối, dễ sai
khiến, xếp ngang hàng với hạng “tiểu nhân”.
Như vậy có thể thấy, văn học nghệ thuật tự bản thân nó là diễn ngôn hệ
tư tưởng vì văn học cũng là một diễn ngôn, mà mọi diễn ngôn, theo Bakhtin,
đều tồn tại dưới dạng kép: lời nói - hệ tư tưởng. Trong khuôn khổ đề tài này,
chúng tôi đặt Truyền kỳ mạn lục trong mã hệ tư tưởng của thời đại mà tác
phẩm ra đời - thế kỉ XVI của thời kì phong kiến Việt Nam. Điều đó có nghĩa
là mã hệ tư tưởng của tác phẩm này là hệ tư tưởng nam quyền chịu tác động
của quan điểm đạo đức Nho giáo.
1.1.2.3. Mã thể loại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là “dạng thức của tác
phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát
triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm,
về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối
quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [9.299].
Theo GS.TS Trần Đình Sử trong cuốn Lí luận văn học tập 2 - Tác
phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, thể loại văn học
15
được định nghĩa như sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy
luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có
một loại hình thức nhất định, tạo cho các tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể” [28.220].
Như vậy, có thể hiểu, thể loại là hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn
học, trong đó có sự thống nhất và quy định lẫn nhau của các loại đề tài, chủ
đề, cảm hứng, hình thức nhân vật, kết cấu, lời văn.
Là sản phẩm của sự phát triển văn học dân tộc, thể loại văn học mang
tính dân tộc sâu sắc, gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí và truyền thống văn hóa
mỗi dân tộc. Truyện truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyện kì ảo Trung
Quốc cổ trung đại, được hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với nền
văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là văn học dân gian và văn xuôi tự sự
Việt Nam. Văn hóa dân tộc như cái nôi nuôi dưỡng truyện truyền kì Việt
Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển và cũng chính yếu tố văn hóa
dân gian đã giúp thể loại truyện này ở Việt Nam có điểm khác với truyện
truyền kì ở các nước đồng văn trong khu vực. Có thể nói, sự phát triển của
loại hình này từ tác phẩm truyện u linh (Việt điện u linh tập - Lý Tế Xuyên)
sang chích quái (Lĩnh Nam chích quái - Trần Thế Pháp) đến truyền kỳ
(Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ) đều được quy định chặt chẽ bởi những
điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam. Trong quá trình này, xuất hiện
hàng loạt các nhân tố mới, đặc biệt là sự xuất hiện của các tác gia có phong
cách viết truyện riêng, từ chỗ sao chép đến chỗ tạo ra được những tác phẩm
thực sự mang dấu ấn cá nhân và tinh thần dân tộc. Những sáng tác của họ có
khả năng phản ánh nhiều vấn đề quan trọng của đời sống hiện thực và có ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn học dân tộc. Như vậy, nghiên
cứu một thể loại văn học phải chú ý đến tính lịch sử, tính thời đại, tính dân
tộc và tính biến đổi của nó.
Mỗi thể loại bao giờ cũng có một cấu trúc tương đối ổn định và vững
chắc, làm thành bộ khung bất biến, có vai trò chi phối việc tổ chức các văn
16
bản cụ thể. Cấu trúc ấy là sự khái quát hóa các thông tin thành một hệ thống
các đơn vị, qui tắc nhất định, gọi là mã thể loại. Ví dụ, mã thể loại thơ trữ tình
bao gồm một loạt các đơn vị như: nhân vật trữ tình, hệ thống các hình ảnh,
biểu tượng, vần, nhịp… Các đơn vị này được tổ chức để làm nổi bật thế giới
chủ quan của cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng. Mã thể loại của tiểu thuyết
bao gồm hàng loạt các đơn vị như sự kiện, nhân vật, cốt truyện, chi tiết,… Tất
cả các yếu tố ấy được tổ chức để làm nổi bật một thế giới đang vận động,
chưa hoàn kết.
Ngoài ra, mã thể loại còn gọi là ngôn ngữ thể loại, là yếu tố trung gian
trong cuộc giao tiếp nghệ thuật giữa người viết và người đọc, giúp cho cuộc
giao tiếp ấy được thuận lợi, thông suốt. Khi sáng tác một tác phẩm, bao giờ
nhà văn cũng phải lựa chọn và sử dụng một số mã thể loại nhất định, và khi
tiếp nhận, người đọc cũng cần dựa vào mã thể loại để lí giải tác phẩm. Như
vậy, để đọc - hiểu một tác phẩm văn học, trước hết chúng ta phải nắm vững
được đặc trưng thể loại của tác phẩm đó như nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ…
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được viết theo thể truyền kì nên
việc vận dụng các yếu tố nghệ thuật của mã thể loại này trong nghiên cứu
nhân vật là việc làm cần thiết. Bằng con đường ảo hóa, tác giả Nguyễn Dữ đã
thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của mình và người đọc sẽ không thể hiểu được
toàn bộ giá trị tác phẩm nếu không nắm được đặc trưng cơ bản của mã truyền
kì. Nghệ thuật ảo hóa trong Truyền kỳ mạn lục được thể hiện qua: nhân vật kì
ảo (ma, quỷ, thần tiên,...), không gian kì ảo (thế giới cõi mộng, cõi tiên, âm
phủ, thủy cung, thiên đường…), các chi tiết kì ảo (cuộc hội ngộ giữa người -
ma, người - tiên, người chết đi sống lại, tượng đất biết cử động…). Với nhà
văn Nguyễn Dữ, việc sử dụng mã thể loại truyền kì là một bước đệm cần thiết
để ông bộc lộ những quan niệm nhân sinh tiến bộ, xây dựng những hình
tượng nhân vật độc đáo. Chính vì vậy, muốn lí giải nội dung ý nghĩa của các
truyện trong Truyền kỳ mạn lục, người đọc không thể tách rời mối quan hệ
giữa mã tư tưởng chung của thời đại, tư tưởng riêng của tác giả và mã thể loại
17
truyền kì của tác phẩm này.
1.2. Đôi nét về quan niệm “thân”
1.2.1. Quan niệm của các tôn giáo về “thân”
Bất cứ tôn giáo nào ra đời cũng được quy định bởi một bối cảnh lịch sử
nhất định. Các hiện tượng tôn giáo đều nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lí tín
ngưỡng của một bộ phận cộng đồng. Mỗi tôn giáo lại có những quan niệm
nhất định về các phạm trù liên quan đến con người và đời sống xã hội. Ở Việt
Nam, các học thuyết Phật, Nho, Đạo bàn luận không ít đến các vấn đề bản thể
luận như: đạo, đức, tâm, tính, tình và đặc biệt là “thân”.
Theo quan niệm của Phật giáo, thân là nguồn gốc của nỗi khổ bởi nó
gắn với nhu cầu vật chất, bắt buộc con người phải tìm cách thỏa mãn mà dẫn
tới khổ đau. Như vậy trong quan niệm Phật giáo, thân gắn liền với chữ dục.
Phật giáo nhìn dục như sự kết hợp giữa thèm khát và khổ đau. Sự thèm khát
làm phát sinh một loạt dục vọng: chiếm giữ, ghen tuông , tức giận, oán hờn …
Chúng thay nhau hành hạ con người và khiến người ta bị mù quáng. Đó là các
thứ dục vọng gây ra tội lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu? Phật giáo chỉ
ra rằng tội lỗi của con người chính là phát sinh từ trong tâm thức. Điểm then
chốt trong giáo lý Phật giáo là thân xác gánh chịu sự kiểm soát của tâm thức.
Chính sự ham muốn của tâm thức là nguyên nhân làm bùng lên dục vọng
và dục vọng là nguyên nhân của khổ đau. Phật giáo cho rằng khổ của kiếp
người là do bị dục kích động tạo ra nghiệp báo, khiến cho phải luân hồi hết
kiếp này đến kiếp khác trong bể trầm luân. Phải diệt dục thì mới diệt được khổ.
Theo giáo lý của Phật giáo, tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm nhận
của thân xác. Từ đó, Phật giáo kêu gọi con người nên diệt trừ sắc dục. Theo
quan niệm của đạo Phật, nói đến sắc dục là nhấn mạnh vào sự đắm sắc của
nam nữ, tình ái si mê, ân ái qua bao kiếp buộc ràng nhau không có kỳ chấm
dứt. Từ đó, sắc dục gây nên bao tai họa cho con người: “Người đuổi theo sắc
dục không biết chán như người uống nước muối, càng uống càng khát, càng
đắm mê thì hoạ hại càng lắm, tự đem mình vào chỗ hang hùm miệng sói mà
18
vẫn không sợ” [Nguồn trích dẫn: http://vanhoaphatgiao.com.vn/?p=]. Sắc dục
làm cho bản thân chóng tàn cỗi, bệnh tật lại thêm nhiều, phiền não khổ đau,
triền miên u uất. Vì sắc dục, một người hiền lương có thể trở thành tướng
cướp; một người con hiếu thuận có thể trở nên ngỗ nghịch, làm khổ mẹ cha;
một người chồng tốt, một người vợ đảm đang có thể đánh mất lòng chung
thuỷ khiến gia đình ly tán, con cái bơ vơ.
Nhận thức rõ hoạ hại của sắc dục, Đức Phật dạy các đệ tử phải tỉnh táo,
đừng để đắm luyến vào cái bẫy của sắc đẹp. Ngài khẳng định sức mạnh của
sắc dục như sau: “Sự ham muốn không gì hơn sắc đẹp, sự ham muốn sắc đẹp
ngoài nó không có gì lớn bằng, cũng may chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có
cái gì thứ hai bằng nó thì người khắp thiên hạ không ai có thể tu hành được”
[Nguồn trích dẫn: http://vanhoaphatgiao.com.vn/?p= ].
Còn trong quan niệm của Nho giáo, “thân” cũng là đại diện cho bản
năng tính dục - bản năng rất lớn của con người. Nho giáo chỉ ra bản năng tính
dục là điều xấu mà con người cần phải tránh xa. Chu Hy từng nói: “Vạn ác
dâm vi thủ” - hàng vạn điều ác thì dâm đứng đầu. Chính vì thế, vấn đề tính
dục trong thời kỳ phong kiến Việt Nam với hệ tư tưởng Nho giáo là điều
“cấm kị”, là thứ xấu xa luôn gắn liền với hình ảnh người phụ nữ. Cái nhìn của
xã hội phong kiến về người đàn ông thường là ca ngợi mẫu hình nam nhi,
quân tử, anh hùng, trượng phu. Ngược lại, vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp
và trở nên hết sức mờ nhạt. Khổng Tử dạy rằng: “Duy đương nữ tử dữ tiểu
nhân nan giáo dã” (Chỉ có đàn bà và kẻ tiểu nhân là khó dạy vậy). Khổng Tử
và hệ tư tưởng Nho giáo đã xếp người phụ nữ cùng hạng với kẻ tiểu nhân
thấp kém, hèn mạt. Dưới tác động của tư tưởng Nho giáo và những chuẩn
mực đạo đức hà khắc, người phụ nữ Việt Nam đã phải chịu đựng cuộc sống
âm thầm, lặng lẽ, bị coi nhẹ và sống kiếp tầm gửi phụ thuộc vào đàn ông. Họ
không có quyền cất lên tiếng nói cho quyền lợi, nhu cầu của chính mình.
Không chỉ vậy, các học giả kinh điển của Nho giáo đều thống nhất ở quan
điểm cho rằng sắc dục đồi bại bắt nguồn từ sắc đẹp của người phụ nữ, là yêu
19
khí làm kẻ nam nhi thân bại danh liệt. Vì thế, Tuân Tử dạy rằng: “Ham sắc
đẹp của người con gái là chuốc lấy cái ác nghiệt vậy” [29.510], Vương Sung
đời Hán cũng viết: “Yêu khí sinh ra sự xinh đẹp, nên những người xinh đẹp
phần lớn là ác…Người có sắc đẹp có mang châm độc” [29.290]. Thấm nhuần
tư tưởng đạo đức Nho giáo, Nguyễn Trãi với bài thơ Giới sắc đã khuyên kẻ sĩ
nên coi nữ sắc là kẻ thù, thẳng thắn nêu tên của những bậc quân vương mất
nước vì ham mê gái đẹp và nhục dục thân thể:
“Sắc là giặc, đam làm chi
Thuở trọng còn phòng có thuở suy.
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ,
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi
Bại tan gia thất đời từng thấy,
Tổn hại tinh thần sự ích chi
Phu phụ đạo thường chăng được chớ
Nối tông hòa phải một đôi khi” [39.143].
(Quốc âm thi tập - Bài 190)
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ quan niệm chối bỏ sắc dục của Nho giáo
và Phật giáo nên trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, văn
học trung đại Việt Nam dường như hoàn toàn vắng bóng những tác phẩm viết
về vấn đề tình yêu đôi lứa với hạnh phúc ái ân, hạnh phúc bản năng của con
người, đặc biệt là của người phụ nữ.
1.2.2. Quan niệm về “thân” trong văn học trung đại Việt Nam
Trong văn hóa ứng xử nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói
riêng, chữ "thân" bao gồm nhiều phạm trù, trong đó nổi bật lên các vấn đề:
nhu cầu vật chất (ăn, mặc, ở…), bản năng tính dục và vấn đề sinh - tử… Tuy
nhiên, do hoàn cảnh lịch sử chi phối, nên các tác phẩm văn học từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV chủ yếu hướng tới cái “tâm” trong sáng, ít đề cập đến “thân”
và các nhu cầu về vật chất, nhu cầu bản năng của con người.
Sau hơn 1000 năm bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, năm 938 với chiến
20
thắng Bạch Đằng, đất nước ta bước vào một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của
độc lập, tự chủ. Chính vì vậy, văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XV là
khúc ca khải hoàn của chiến thắng, là tiếng nói ngợi ca lòng yêu nước và chí
khí anh hùng của các bậc quân vương, quân tử hoặc mang đậm cảm hứng tôn
giáo. Cụ thể trong giai đoạn này, văn học trung đại nổi lên ba nội dung chính
là cảm hứng tôn giáo, cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng yêu nước.
Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn văn học mang
tính “hướng thượng”. Lực lượng sáng tác và đối tượng văn học đều là những
người thuộc tầng lớp trên như các bậc quân vương, quan tướng, thiền sư, các
nam nhi, quân tử có công với nước; đề tài văn học cũng thường liên quan tới
các vấn đề mang tầm quốc gia đại sự, có tính chất chính trị, gắn liền với vận
mệnh dân tộc. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này còn nặng tính giai cấp, đại
diện cho lễ giáo phong kiến mà chưa đề cập tới con người cá nhân, con người
đơn lẻ. Đồng thời, đa số nhân vật trong văn học trung đại thời kì này chủ yếu
đề cao chữ “tâm” trong sáng, cao cả và xem nhẹ chữ “thân” phàm tục với
những nhu cầu vật chất tầm thường. Trong suốt chiều dài năm thế kỉ đầu của
văn học trung đại Việt Nam, đề tài tình yêu và thân phận con người với những
nhu cầu bản năng dường như không được khai thác. Tuy có xuất hiện những
tác phẩm thơ và văn xuôi mang hương vị của tình yêu đôi lứa, bộc lộ cảm
xúc cá nhân và những nhu cầu vật chất nhưng sự thể hiện còn hết sức dè
dặt, thường được ẩn nấp và hòa nhập trong các chủ đề văn học lớn của thời
đại. Tuy nhiên, có một sự thật là dù ít dù nhiều, đề tài tình yêu và quan
niệm về thân phận con người đã có sự xuất hiện trong văn học Việt Nam giai
đoạn X - XV.
Trước thế kỉ XVI, do đặc điểm lịch sử - xã hội đề cao Nho giáo, Phật
giáo và tinh thần dân tộc nên thơ tình cổ trung đại chủ yếu ẩn lẫn trong thơ trữ
tình. Có rất nhiều bài thơ cổ, dù đậm chất tình ý nhưng người xưa vẫn thường
gán thêm những ý nghĩa cao cả của lễ giáo. Ví dụ bài thơ “Cổ ý” sau đây của
21
Phù Thúc Hoành (sống vào khoảng thế kỉ XV):
Hà diệp lục như cái
Hà hoa hồng tử nhan
Tư quân vị đắc kiến
Trì thượng không bàn hoàn
(Sen lá như dù biếc
Sen hoa tựa má đào
Nhớ ai không gặp mặt
Vơ vẩn mãi bên ao)
[Bản dịch của nhóm Lê Quý Đôn: http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=]
Đọc bài thơ, ta cảm nhận được nỗi bâng khuâng, nhớ mong xao xuyến
của tác giả dành cho một ai đó - người có thể đã lâu không gặp. Nếu bài thơ
này được đặt trong tư duy của con người hiện đại hôm nay, chúng ta dễ dàng
cho rằng đây là một bài thơ tình với ngôn từ đậm chất tương tư cùng hình ảnh
thơ trong sáng như: “hà diệp” (sen lá), “hà hoa” (sen hoa)... Có lẽ đây là tâm
trạng của một chàng trai trẻ đang bồn chồn trông ngóng người thương của
mình nhưng càng đợi càng không thấy, khiến chàng ngơ ngẩn ngày dài. Vậy
mà theo quan niệm xưa nay của các nhà nghiên cứu, “Cổ ý” là một bài thơ
nhớ vua, là bài thơ trữ tình thể hiện tấm lòng “trung quân” của tác giả và vị
vua mà Phù Thúc Hoành nhớ tới ở đây là vua Lê Thánh Tông. Vậy, đây là
một bài thơ tình yêu đôi lứa đơn thuần hay là một bài thơ tỏ nỗi lòng thương
nhớ vua xưa của tác giả? Cả hai luồng ý kiến đánh giá trên đều có những căn
cứ riêng, song với cách nhìn nhận hiện đại hôm nay thì chắc hẳn sẽ nghiêng về
nhận định đây là một bài thơ tình trẻ trung, chỉ có thể có trong tình yêu đôi lứa
mà ít thấy ở đó lòng “thờ vua kính chúa”.
Cùng với đó, bài thơ “Cây chuối” của Nguyễn Trãi cũng mang nhiều
hàm ý sâu xa, đầy gợi cảm. Dù lớp vỏ ngôn từ là miêu tả về cây chuối mùa
xuân nhưng bài thơ lại khơi gợi lên nhiều ý nghĩa thầm kín về tình yêu và
22
kích thích độc giả mở rộng sự khám phá, liên tưởng. Đã có trên dưới bốn
mươi bài viết cảm thụ về các tầng nghĩa của bài thơ, tuy nhiên đa phần đều
thiên về hướng cho rằng đây là một bài thơ tình có nhuốm màu “ái dục”:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Các nhà nghiên cứu bài thơ như Xuân Diệu, Nguyễn Quang Huy,
Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Phạm Hùng… đều cố gắng giải mã đây là một bài
thơ tình “sâu sắc”, “kín đáo” nhưng không kém phần rạo rực, sôi nổi về tình
yêu tuổi trẻ. Liên tưởng tàu lá chuối non như bức tình thư “phong còn kín”,
cuộn tròn, e ấp quả là một sáng tạo mới mẻ và tinh tế của Nguyễn Trãi. Có
nhiều luồng ý kiến khác nhau đánh giá về bài thơ, có người cho “Cây chuối” là
một bài thơ mang “ý vị thiền” (giống bài thơ “Ba tiêu” của thiền sư Linh Tẩu
Nguyên đời Tống), cũng có ý kiến cho bài thơ là lời tâm sự của tác giả về
cuộc đời mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận bài thơ vẫn phảng phất hương
vị tình yêu trong từng câu chữ.
Nói về thơ tình trong văn học cổ trung đại Việt Nam, không thể không
nhắc tới bài thơ nổi tiếng tương truyền của người cung nữ Điểm Bích, gắn
liền với câu chuyện về vua Trần Anh Tông và sư Huyền Quang:
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ
Mâu Thích Ca nào chốn hữu tình
Bài thơ có nội dung trữ tình sâu sắc, thể hiện sự giác ngộ đến cao sâu
về đạo, hòa lẫn với khao khát yêu đương tha thiết của lòng trần. Sự xao
xuyến, bâng khuâng chọn lựa giữa chân lí nhà Phật và sức hấp dẫn của tình
yêu trần thế đã tạo nên điểm nhấn cho toàn bài thơ, tạo sức sống mạnh mẽ để
23
tác phẩm này tồn tại qua bao thế kỉ. Đây được coi là bài thơ đầu tiên mang
màu tình ái trong nền văn học Việt Nam mười thế kỉ và Điểm Bích là người
phụ nữ đầu tiên của nền văn học trung đại có tác phẩm viết về đề tài này.
Như vậy, có thể thấy rằng từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, những sáng tác
văn học chủ yếu hướng về cảm hứng tôn giáo, cảm hứng thiên nhiên và cảm
hứng yêu nước. Những vấn đề liên quan đến chữ “thân”, cảm xúc cá nhân và
số phận con người đã xuất hiện nhưng còn hết sức mơ hồ, mờ nhạt và thường
ẩn lẫn trong những đề tài lớn kể trên. Bên cạnh đó, các bài thơ thể hiện quan
niệm về “thân” mới chỉ dừng ở mức bộc lộ gián tiếp, tức là “mượn cảnh” để
“nói tình” chứ chưa có tác giả nào trực tiếp bày tỏ khát vọng yêu đương hay
thể hiện quan niệm tình yêu cá nhân. Chính vì vậy, có thể gọi đây là thời kì
thai nghén của các sáng tác đề cập đến chữ “thân”, là bước chân chập chững
đầu tiên để các tác giả văn học Việt Nam trung đại tiếp cận gần hơn với đời
sống hiện thực và giá trị nhân đạo ở giai đoạn sau.
1.3. Đôi nét về Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật phụ nữ trong Truyền
kỳ mạn lục
1.3.1. Đôi nét về thân thế và thời đại của Nguyễn Dữ
Những tài liệu ghi chép về Nguyễn Dữ hiện còn rất sơ lược, dựa vào
một số tư liệu như : Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam tập 2 (Thế kỷ X -
thế kỷ XIX) do Bùi Duy Tân chủ biên, Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa đầu
thế kỷ XVIII) do Đinh Gia Khánh chủ biên và Văn học trung đại Việt Nam do
Nguyễn Đăng Na chủ biên… có thể khái quát một số điểm sau về thân thế của
Nguyễn Dữ: Nguyễn Dữ (còn có thể gọi là Nguyễn Tự), là người xã Đường
Lâm, huyện Gia Phúc, thuộc Hồng Châu xưa, nay là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm
Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông là con trưởng của Nguyễn
Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), làm
quan tới chức Thừa tuyên sứ, hàm Thượng thư. Lúc nhỏ, Nguyễn Dữ chăm
học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp
nhà. Sau khi đỗ Hương Tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, ông trúng tam
24
trường và từng giữ chức tri huyện của huyện Thanh Tuyền. Ông làm quan
được một năm thì từ quan về nuôi dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu, từ đó
“trải mấy mươi sương chân không bước đến thị thành” (Bùi Huy Bích -
Hoàng Việt thi tuyển). Trong những năm tháng đó, ông miệt mài gửi gắm ý
tưởng của mình vào tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ. Song theo nhiều công trình
nghiên cứu, có khả năng Nguyễn Dữ sinh vào cuối thế kỉ XV và sống chủ yếu
vào nửa đầu thế kỉ XVI.
Thế kỷ XVI là thời kì lịch sử - xã hội Việt Nam biến động dữ dội. Nhà
nước phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn suy vi của một triều đại suy
loạn, kỷ cương đổ nát, đạo đức có những biểu hiện suy đồi. Mạc Đăng Dung
cướp ngôi vua, chiến tranh phe phái diễn ra liên miên, ý thức hệ Nho giáo
ngày càng suy giảm, vua chúa hoang dâm xa xỉ: “Vua quỷ” Lê Uy Mục bạo
tàn, hoang dâm, ăn chơi vô độ, ham rượu chè, mê gái đẹp; “Vua lợn” Lê
Tương Dực kế tiếp chơi bời truỵ lạc, bỏ bê việc nước. Cuộc nội chiến Nam -
Bắc triều và Trịnh - Nguyễn phân tranh đã đưa đất nước vào cảnh huynh đệ
tương tàn, chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi, đời sống của nhân dân ngày
càng khốn khổ, bần hàn. Nơi nơi dân chúng lầm than kêu khóc bởi chiến
tranh, dưới sự bóc lột tàn bạo của tầng lớp thống trị. Những hiện thực này đã
tác động rất lớn đến Nguyễn Dữ và được phản ánh một cách chân thực, sâu
sắc trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
1.3.2. Phác thảo hệ thống nhân vật người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục
Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác
phẩm duy nhất còn lại của Nguyễn Dữ được viết vào thế kỷ XVI. Tác phẩm
đã nhận được sự đánh giá cao của giới văn sĩ đương thời. Hà Thiện Hán,
người cùng thời với tác giả đã viết lời “Tựa” cho tác phẩm. Nguyễn Thế Nghi
(người Mộ Trạch, Đường An, Hải Dương, đỗ Tiến sĩ đời Mạc Đăng Doanh,
sống cùng thời Nguyễn Dữ) cũng đã diễn Nôm Truyền kỳ mạn lục. Sau này,
25
các tác giả Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều có nhắc đến
Nguyễn Dữ và khẳng định giá trị của Truyền kỳ mạn lục. Ôn Như Hầu Vũ
Khâm Lân gọi Truyền kỳ mạn lục một “thiên cổ kỳ bút”. Lê Quý Đôn trong
“Kiến văn tiểu lục” đánh giá văn chương Truyền kỳ mạn lục có: “Lời lẽ thanh
tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”. Phan Huy Chú cũng khen
Truyền kỳ mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”. Có thể nói, Truyền kỳ
mạn lục là tác phẩm mẫu mực cho thể loại truyền kì trong văn học trung đại
Việt Nam, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của văn xuôi tự sự chữ Hán.
Nội dung trong Truyền kỳ mạn lục rất đa dạng, tuy nhiên, tư tưởng nổi
bật nhất trong tác phẩm là tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Dữ khi viết về
người phụ nữ. Nếu khi phê phán xã hội, Nguyễn Dữ đứng trên lập trường đạo
đức thì khi phản ánh số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ, ngòi bút
của ông lại đầy tính nhân văn, nhân đạo. Trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, thế giới nhân vật người phụ nữ rất đa dạng, phong phú. Họ có thể
là con người hiện hữu trong cuộc sống bằng xương bằng thịt như: Vũ Thị
Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu), Dương thị (Chuyện đối tụng ở Long cung), Lệ Nương
(Chuyện Lệ Nương), Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu),…Họ cũng có thể là
hồn ma: Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương
Giang); nửa người nửa ma: Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào thị);
hồn hoa: Đào nương, Liễu nương (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), tiên nữ: Giáng
Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ Tiên)… Tuy tất cả đều có chung số phận bất
hạnh trên con đường kiếm tìm hạnh phúc song Nguyễn Dữ đã xây dựng nên
hai tuyến nhân vật phụ nữ đối lập nhau về mặt tư tưởng, căn cứ trên quan
điểm đạo đức Nho giáo.
Nguyễn Dữ đã xây dựng trong tác phẩm của mình những người phụ
nữ tiết hạnh, nết na hiền thục, tuân thủ đạo “tam tòng tứ đức” như: Vũ Thị
Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương)… Đây là những nhân vật
26
phụ nữ thủy chung son sắt, kiên trinh tiết liệt, sẵn sàng tìm đến cái chết để
chứng minh tiết hạnh và sự trong sạch của mình. Ở họ, nếu cái “tâm” trong
sáng bị bôi nhọ, xúc phạm thì sự tồn tại của “thân” sẽ không còn ý nghĩa gì
nữa. Họ sẵn sàng đối diện với cái chết, từ bỏ sự sống, từ bỏ thân xác phàm tục
để bảo toàn danh tiết. Họ xem nhẹ chữ “thân”, xem thường những dục vọng,
những nhu cầu vật chất, thậm chí là cả cái chết. Với họ, danh tiết mới là điều
quan trọng nhất. Quan niệm tình yêu của các nhân vật này luôn gắn liền với
quan niệm về hạnh phúc gia đình và lòng chung thủy son sắt. Một khi danh
dự bị bôi nhọ, hạnh phúc gia đình tan vỡ thì họ cũng không còn tha thiết với
cuộc sống trần tục nữa. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Thị
Thiết là người phụ nữ “thùy mị, nết na, lại có tư dung tốt đẹp” [5.182], là con
dâu hiếu thảo chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau. Dù ở xa chồng nhưng nàng
luôn son sắt chung thủy, vì vậy khi bị Trương Sinh ghen tuông nghi ngờ, Vũ
Thị Thiết đã “gieo mình xuống sông mà chết” [5.186] để chứng minh sự
trong sạch của mình. Cũng đẹp người đẹp nết như Vũ Nương, nàng Nhị
Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu đã khảng khái “lấy đoạn
dây tơ thắt cổ mà chết” [5.29] khi bị người chồng là Trọng Quỳ phụ tình, đem
nàng gán bạc cho kẻ khác. Với những nhân vật nữ này, quan niệm về tình yêu
luôn gắn liền với hạnh phúc gia đình, với “thú vui nghi gia nghi thất” và sự
bảo toàn danh tiết. Nếu bị xúc phạm danh dự và nhân phẩm, họ sẵn sàng từ bỏ
lòng trần để tìm đến cái chết như một minh chứng cho lòng kiên trinh. Những
phát ngôn ở tuyến nhân vật này luôn được phủ bóng hạnh phúc gia đình, coi
thường những nhu cầu cá nhân và gắn liền với chuẩn mực “tam tòng tứ đức”
của người phụ nữ. Họ được xây dựng là những nhân vật đại diện cho cái
“tâm” trong sáng, thanh cao. Vũ Thị Thiết và Nhị Khanh là hai nhân vật tiêu
biểu cho mẫu hình phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo.
Chính vì vậy, họ được ca ngợi, được tôn vinh trong tác phẩm theo những chuẩn
mực của hệ tư tưởng phong kiến đương thời.
Không chỉ bộc lộ quan niệm tình yêu gắn liền với hạnh phúc gia đình,
27
coi thường danh vọng, vật chất, trong tuyến nhân vật phụ nữ truyền thống của
Truyền kỳ mạn lục còn tồn tại những phát ngôn thể hiện khát vọng tình yêu
đôi lứa tự do, trong sáng. Khát vọng tình yêu ấy được thể hiện trong quan niệm
của các nhân vật Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên), Lệ Nương
(Chuyện Lệ Nương)… Họ đều là những cô gái có dung mạo tươi đẹp, trẻ trung,
mang trái tim nhạy cảm và khao khát yêu thương. Trong Chuyện Từ Thức lấy
vợ tiên, nàng Giáng Hương vốn là một tiên nữ ở núi Phù Lai, vậy mà chính
nàng tự nhận rằng trong lòng mình có nỗi buồn thương tình ái: “hình ở phủ
tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục”
[5.113]. Khao khát tình yêu, hạnh phúc của nàng chẳng khác gì con người
trần thế. Những lời nói của Giáng Hương với Từ Thức cũng là những lời thổ
lộ tâm can, mơ ước một tình yêu chân chính, sâu sắc. Giáng Hương là tiên nữ
nhưng trái tim nàng cũng đa cảm như người phụ nữ dưới trần thế vậy! Cũng
chung khát vọng được gắn bó với người mình yêu thương, nàng Lệ Nương
trong Chuyện Lệ Nương lại là một tấm gương của tình yêu thủy chung, son
sắt. Tình yêu của Lệ Nương và Phật Sinh là mối nhân duyên trong sáng, tiền
định từ lời hẹn ước của hai bên gia đình. Hai người lớn lên bên nhau, khăng
khít gắn bó. Dẫu chưa phải là vợ chồng nhưng Lệ Nương đã coi Phật Sinh là
người chồng thực sự của nàng. Chính vì vậy, khi bị bắt vào trong cung, Lệ
Nương đau buồn khôn xiết. Cuối cùng, nàng đã dám tự tận để không phải làm
tì thiếp nhơ nhuốc nơi đất khách quê người cho giặc, giữ vững lòng trinh
thuần cương liệt với Phật Sinh. Khát vọng tình yêu tự do với tấm chân tình
trong sáng của Lệ Nương đã được thể hiện rõ nét trong bức thư nàng gửi Phật
Sinh. Như vậy, Giáng Hương và Lệ Nương tuy có ước mơ về một tình yêu tự
do song hai nhân vật này vẫn tuân thủ theo quan điểm đạo đức Nho giáo,
tuyệt nhiên không hề phá vỡ các quy tắc rường cột của Nho gia về đạo nữ nhi.
Họ luôn khao khát tình yêu trong sáng, vô tư với người mà mình yêu thương.
Quan niệm tình yêu của những nhân vật này có sự giao hòa giữa tinh thần và
thể chất, họ đã có cái nhìn mới mẻ và tự do hơn về chữ “thân”. Song, chữ
28
“thân” ở những nhân vật Giáng Hương, Lệ Nương vẫn gắn liền với những
giá trị đạo đức cốt lõi của Nho giáo, với lòng chung thủy dành cho người
mình yêu thương. Vì vậy, trong Truyền kỳ mạn lục, hai nhân vật này vẫn
được ngợi ca và tôn vinh giống như Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở
Khoái Châu) và Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương).
Đối lập với hình ảnh người phụ nữ truyền thống kể trên, Nguyễn Dữ đã
xây dựng trong Truyền kỳ mạn lục hình tượng phụ nữ phi truyền thống -
những cô gái phá cách, những người đàn bà “lệch chuẩn”, vi phạm quan điểm
đạo đức Nho giáo về “tam tòng tứ đức” như: Nhị Khanh (Chuyện cây gạo),
Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào thị), Đào Hồng Nương và Liễu
Nhu Nương (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương
Giang)… Không tuân thủ vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến, những nhân
vật phụ nữ này đã bắt đầu bộc lộ cá tính và sự phá cách mạnh mẽ trong tư
tưởng: Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo tự do yêu đương với chàng lái buôn
Trình Trung Ngộ và cuối cùng quyến rũ Trung Ngộ chết theo mình để cùng
thỏa mãn ái ân; Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị tư thông
với sư bác Vô Kỷ ngay nơi cửa Phật hay hai hồn hoa Đào nương và Liễu
nương trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây biến hóa thành người để cùng thỏa
mãn nhục dục với chàng nho sinh Hà Nhân. Theo quan điểm đạo đức của hệ
tư tưởng Nho giáo đương thời, những cô gái như Nhị Khanh, Đào Hàn Than,
Đào Nương và Liễu Nương đều xếp vào“hạng gái lẳng lơ dâm đãng” [5.66]
đáng bị coi thường. Chính vì vậy, những mẫu nhân vật phụ nữ phi truyền
thống đều là hồn ma bóng quỷ, u hồn trệ phách được Nguyễn Dữ xây dựng
bằng yếu tố kì ảo để phù hợp với hệ tư tưởng phong kiến đương thời. Cũng
chính ví lẽ đó, những nhân vật này rất coi trọng chữ “thân”, hướng tới sự
hưởng thụ những nhu cầu vật chất và bản năng tính dục trên trần thế. Trong
nhóm nhân vật phụ nữ phá cách này, chúng tôi chú ý tới những nhân vật dám
trực tiếp nói ra khát vọng yêu đương và nhu cầu ân ái của bản thân. Nhìn lại
tiến trình vận động của văn học từ trước đến nay, vấn đề này có ý nghĩa như
29
một cuộc cách mạng trong quan niệm về chữ “thân”. Khi “thân” cất tiếng
nói đầy kiêu hãnh cũng là lúc nhà văn đối thoại lại với quan niệm truyền
thống khinh miệt thân xác, chỉ xem thân xác là “bể chứa” tầm thường cho
linh hồn thanh cao. Với việc xây dựng các nhân vật phụ nữ phá cách, Nguyễn
Dữ đã nỗ lực nhận diện về con người một cách thành thực, không tô vẽ, đặc
biệt là việc đi sâu khám phá khát vọng bản năng trong khía cạnh tự nhiên và
nhân bản nhất của nó.
Với hai tuyến nhân vật phụ nữ có cá tính, quan niệm sống hoàn toàn
trái ngược nhau dựa trên thước đo là hệ thống quan điểm đạo đức Nho giáo,
Nguyễn Dữ đã tạo nên góc nhìn rất đa diện, mới mẻ về quyền được sống,
được hạnh phúc của con người trong xã hội xưa. Lần đầu tiên trong lịch sử
văn học trung đại Việt Nam, khát vọng đi tìm hạnh phúc của người phụ nữ
được cất lên đầy mạnh mẽ thông qua một loạt các phát ngôn, thể hiện quan
niệm về chữ “thân” với những nhu cầu vật chất, quan niệm tình yêu và cách
đối diện với vấn đề sinh - tử. Từ việc khảo sát lượt lời của các nhân vật Nhị
Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Vũ Thị Thiết (Chuyện
người con gái Nam Xương), Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên), Lệ
Nương (Chuyện Lệ Nương), Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), Đào Hồng Nương
và Liễu Nhu Nương (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây), chúng tôi đã lập bảng thống
kê phát ngôn của mỗi nhân vật dựa trên nội dung, tính chất cụ thể của mỗi
lượt lời. Có thể thấy, số lượng các phát ngôn của nhân vật nữ trong Truyền kỳ
mạn lục đã có sự gia tăng so với giai đoạn văn học trước. Không chỉ vậy, tính
chất và mục đích của các phát ngôn cũng có sự thay đổi từ hướng thực hiện
nhiệm vụ chức năng sang bày tỏ quan điểm, ước vọng cá nhân (Xem thêm ở
phần Phụ lục 1,2).
* Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu những nét cơ bản về lý thuyết diễn
ngôn, mã hệ tư tưởng và mã thể loại. Diễn ngôn được hiểu theo nghĩa là lời
nói trong giao tiếp, cụ thể trong đề tài này là những lời đối thoại, độc thoại và
30
những bài thơ tự sáng tác của một số nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
Chúng tôi sử dụng các phát ngôn của nhân vật như là một biểu hiện quan
trọng của lý thuyết diễn ngôn. Trong đó, hai mã cơ bản chi phối các diễn ngôn
này là mã hệ tư tưởng phong kiến và mã thể loại truyện truyền kì.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu các quan niệm về chữ
“thân” dưới sự quy định của Nho giáo, Phật giáo; các dạng thức tồn tại của
đề tài tình yêu và quan niệm về “thân” từ thế kỉ X đến thế kỉ XV trong văn
học; quan niệm về người phụ nữ thời trung đại; tìm hiểu đôi nét về tác giả
Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Chúng tôi cũng
đã phác thảo những nét cơ bản về cuộc đời, số phận và thống kê những phát
ngôn thể hiện quan niệm về “thân” của các nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong
tác phẩm theo hai tuyến: nhân vật phụ nữ truyền thống và nhân vật phụ nữ phi
truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo.
Những vấn đề lí luận và thực tiễn này là cơ sở để tìm hiểu những quan
niệm về tình yêu và hạnh phúc, trong đó đặc biệt chú ý quan niệm về tình yêu
đôi lứa và hạnh phúc gia đình của một số nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục
nhìn từ lý thuyết diễn ngôn. Từ đó, thấy được quan niệm về chữ “thân” mới mẻ,
tư tưởng tiến bộ, trái tim yêu thương và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của tác giả
31
Nguyễn Dữ so với thời đại.
Chương 2
QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN VẬT
PHỤ NỮ TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN
2.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền
thống trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng
2.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất
Nho giáo vốn có cái nhìn khắt khe với người phụ nữ, đặc biệt là về đạo
đức của họ. Những người phụ nữ chuẩn mực theo quan điểm đạo đức Nho
giáo phải là những người hội tụ đủ “tứ đức” là công, dung, ngôn, hạnh và
tuân thủ đạo “tam tòng” bao gồm: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử”. Điều này đã cho thấy rõ quan niệm “trọng nam khinh nữ” trong
tư tưởng Nho giáo - tư tưởng rường cột của xã hội phong kiến. Chính vì vậy,
những nhân vật phụ nữ được Nho giáo ca ngợi thường là điển hình cho mẫu
vợ hiền, dâu đảm, mẹ phúc đức. Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có
hai nhân vật tiêu biểu cho mẫu hình này là Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu) và Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương)
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu là thiên truyện thứ 2 trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, cũng là một trong những truyện gây nhức
lòng người đọc về số phận đau xót, đáng thương của người phụ nữ trong xã
hội xưa. Ngay từ nhan đề, hai chữ “nghĩa phụ” đã cho ta thấy phần nào cốt
cách hiền thảo, tấm lòng ân tình của nhân vật nữ chính Nhị Khanh trong vai
trò một người vợ.
Theo quan niệm Nho giáo, hôn nhân là việc đại sự của đời người do cha
mẹ xếp đặt: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Chính vì vậy, trong xã hội
phong kiến xưa, có những người cả đời phải ôm nỗi đau đớn vì kết duyên với
người mình không yêu thương theo ý cha mẹ, thậm chí là rơi vào hoàn cảnh
32
trái ngang. Nhiều cô gái trong xã hội xưa đã phải sống một đời đau khổ vì bị
gả bán vào cửa nhà giàu do lòng tham của cha mẹ, khiến họ cả đời không có
được hạnh phúc riêng tư:
“Mẹ em tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa”
May mắn hơn rất nhiều người khác, Nhị Khanh và Trọng Quỳ đến với
nhau bằng sự chân tình, rung động thực sự và được hai bên gia đình tác thành:
“Phùng có người con giai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh,
gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những
bữa tiệc, mến vì tài, yêu vì sắc, cùng có ý muốn kết duyên Châu Trần. Cha mẹ
đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kỳ cưới
hỏi”[5.22]. Như vậy, Nhị Khanh và Trọng Quỳ kết duyên bằng sự tự nguyện,
hơn thế lại là một mối nhân duyên đẹp vì hai nhà rất “môn đăng hộ đối”, đôi
trai gái cũng tương xứng sắc tài. Sau khi về nhà chồng, Nhị Khanh càng
chứng tỏ là người con dâu hiền thảo, nết na: “Nhị Khanh tuy còn nhỏ, nhưng
sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng rất hòa mục và thờ
chồng rất cung thuận, người ta đều khen là người nội trợ hiền”[5.22]. Như
vậy, nàng Nhị Khanh là một điển hình cho mẫu phụ nữ theo quan điểm đạo
đức Nho giáo, hội tụ đủ tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh. Là người phụ nữ
được giáo dục theo những chuẩn mực hà khắc của xã hội phong kiến, như một
lẽ đương nhiên, Nhị Khanh cũng bộc lộ sự coi nhẹ những nhu cầu vật chất,
tiền tài, danh vọng tầm thường.
Lần đầu tiên Nhị Khanh bày tỏ quan niệm về nhu cầu vật chất là khi
nàng lấy lời ngăn bảo chồng về đạo phụ - tử. Vì Lập Ngôn tính hay nói thẳng
nên trong triều đình nhiều kẻ ghen ghét, muốn làm hại, hùa nhau tiến cử vào
33
vùng Nghệ An có giặc. Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh ở lại quê nhà không thể đi
theo mình và cha thì “có ý quyến luyến không dứt”. Thấu được tâm tư của
chồng nhưng đồng thời cũng hiểu rõ đạo phụ - tử sâu nặng, Nhị Khanh đã hết
lòng giải thích cho chồng về tình thế gian nguy của cha hiện tại: “Nay nghiêm
đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để lại nơi khu yếu,
bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử
địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm
nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc,
không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo…” [5.23]. Chỉ với vài câu
nói ngắn gọn, khúc chiết, hợp tình hợp lẽ mà Nhị Khanh đã bộc lộ được đức
hi sinh cao cả, tấm lòng tôn kính cha chồng của người con dâu và sự tinh tế,
sâu sắc của một người vợ biết đạo lí. Biết chồng quyến luyến mình không nỡ
rời xa, nàng đã ngay lập tức ngăn bảo, không để chồng bị phân vân nhụt chí
và cha chồng phải nặng lòng suy nghĩ. Tâm ý của nàng cũng trong sáng vô
cùng. Mục đích duy nhất trong lời khuyên chồng đi theo cha là để “sớm hôm
săn sóc” [5.23], giúp cha vượt qua khó khăn, gian khổ. Nàng không hề nhắc
tới tiền tài, công danh hay những chiến tích hào hoáng khi trở về. Có lẽ trong
lòng Nhị Khanh khi ấy, sự bình an của cha và chồng nàng mới là trên hết.
Không màng danh vọng cho chồng, Nhị Khanh dường như cũng quên đi
những nhu cầu bản năng của một người vợ trong lời khuyên ấy. Những người
phụ nữ yêu thương chồng chẳng có ao ước nào lớn hơn là được chăm sóc, gần
gũi cạnh chồng sớm tối. Có người phụ nữ nào lại nỡ đẩy chồng mình vào nơi
tử địa? Có người phụ nữ nào muốn rơi vào cảnh vợ chồng biệt ly, đêm đêm
lạnh lẽo “giường không gối chiếc”? Nhưng, nàng Nhị Khanh trong Chuyện
người nghĩa phụ ở Khoái Châu đã vượt lên trên “thói nữ nhi thường tình” và
chấp nhận hi sinh hạnh phúc riêng tư của cá nhân mình cho người mà nàng
kính trọng: “Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu
cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận
lòng đến chốn hương khuê” [5.23]. Trong câu nói này, nàng nhắc nhở chồng
34
về đạo lí làm con, trách nhiệm và gánh nặng của chữ Hiếu to lớn đến nhường
nào. Nhị Khanh hiểu“chốn hương khuê” trên bàn cân so với “bề hiếu đạo”
chỉ là một tình cảm nhỏ nhoi, không đáng để đấng nam nhi phải bận lòng. Dù
cho nàng có phải chờ đợi mòn mỏi, nhan sắc tàn phai, nàng cũng cam tâm
tình nguyện, chỉ mong chồng làm tròn bổn phận đạo làm con. Nàng nói lời
thuyết phục chồng vào Nghệ An với cha cũng chính là đã làm tròn chữ hiếu
của một người con dâu với cha chồng. Một lời khuyên như thế thì chắc hẳn sẽ
khiến Trọng Quỳ phải kính trọng. Chỉ một lời ấy thôi cũng đủ cho thấy nàng
là người vừa thông minh, hiếu thảo vừa tinh tế, sâu sắc.
Sau khi Trọng Quỳ nghe lời vợ hiền theo cha vào Nghệ An thì tai họa
liên tiếp đổ xuống Nhị Khanh. Cái hoạ đầu tiên của nàng là cha mẹ đẻ nối
nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu chôn cất rồi đến ở chung với bà cô
Lưu thị. Lúc này, Nhị Khanh rơi vào cảnh không nơi nương tựa, đến ở với bà
cô mong sống bình yên qua ngày tháng đợi chồng trở về. Thế nhưng, bà cô
Lưu thị đã ngấm ngầm nhận tiền của quan tướng quân họ Bạch để ép gả nàng
cho hắn. Trọng Quỳ ra đi đã sáu năm trời, không một lá thư, không một tin
về, huống chi nơi Trọng Quỳ dấn thân là chốn loạn lạc binh đao, lành ít dữ
nhiều. Bà cô Lưu thị đã khéo léo dùng lời ngọt ngào khuyên nhủ nàng, đánh
trúng vào tâm lí của những người phụ nữ mong muốn có chỗ dựa bình yên:
“Chi bằng bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe, lấp những lời giăng gió cợt
trêu, nương dưới bóng tùng quân cao cả. Tội gì mà bơ vơ trơ trọi, sống cái
đời sương phụ buồn tênh” [5.24]. Trong những năm tháng đằng đẵng xa
chồng, Nhị Khanh đã phải một mình lặn lội bươn chải, lo toan việc nhà cả hai
bên gia đình. Có lẽ trong bộn bề cuộc sống ấy, đã bao lần nàng mong ước
thấy chồng trở về để có một chỗ dựa vững chắc, cùng chia ngọt sẻ bùi. Nỗi
vất vả, đơn độc của nàng cũng chính là sự cô đơn của rất nhiều chinh phụ
trong xã hội xưa. Nếu là một người phụ nữ ham quyền chức, danh vọng và
mong muốn thỏa mãn nhu cầu vật chất, nhu cầu bản năng thì có lẽ đây là một
dịp tốt của Nhị Khanh. Nàng sẽ vừa được làm vợ của một quan tướng quân
35
đầy quyền lực, sống cuộc sống nhung lụa giàu sang vừa được hưởng trọn
những hoan lạc ái ân chồng vợ, không còn phải cô độc khi đêm về. Đồng thời,
nàng cũng sẽ có nơi nương tựa vững chắc trong những ngày tháng sau này.
Nhưng không! Với một người phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, một lòng thờ
chồng như Nhị Khanh thì những việc làm của bà cô Lưu thị chỉ khiến nàng
“sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng”[5.24]. Chi tiết này càng làm ngời
sáng phẩm chất đoan chính, trái tim trong sạch không màng vật chất, danh lợi
của nàng.
Với quyết tâm “không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người
khác” [5.25], Nhị Khanh đã nhờ người bõ già vào Nghệ An tìm lại Trọng
Quỳ. Vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi, tưởng rằng từ đây hạnh phúc
gia đình nàng sẽ vững bền, yên ấm. Thế nhưng, Trọng Quỳ lại là người “quen
thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời” [5.28], đã nhẹ dạ kết giao với tên lái
buôn Đỗ Tam. Người xưa vốn không coi trọng những người buôn bán vì đó là
nghề giảo hoạt, lọc lừa, thường khinh miệt gọi họ là “con buôn”. Nhận định
này hoàn toàn đúng với Đỗ Tam. Đỗ Tam bỏ ra rất nhiều tiền đánh bạc và
luôn để Trọng Quỳ thắng vì mục đích của hắn không phải là tiền bạc, gia sản
của Trọng Quỳ. Thứ hắn muốn có được chính là Nhị Khanh. Trọng Quỳ
mông muội, ham vất chất, tiền bạc nên mới dễ dàng bị Đỗ Tam dẫn dụ nhưng
Nhị Khanh thì không. Bằng giác quan nhạy bén và sự tỉnh táo trước những
cám dỗ của đồng tiền, Nhị Khanh đã một mực khuyên can Trọng Quỳ:
“Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ:
ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà
xem” [5.28]. Trọng Quỳ thân là nam nhi, được sinh ra trong một gia đình
quyền quý mà lại ham cái lợi nhỏ, không thể tỉnh táo bằng cả một người phụ
nữ như Nhị Khanh. Vì sao vậy? Vì cái tâm của Trọng Quỳ đã bị nhuốm chàm
vật chất, còn tâm của Nhị Khanh thì trong sạch, không màng danh lợi phù du.
Chính vì vậy, Trọng Quỳ dễ bị cám dỗ bởi tiền bạc, còn Nhị Khanh thì luôn
36
tỉnh táo, cảnh giác trước loại người lừa lọc như Đỗ Tam. Phát ngôn này của
Nhị Khanh lại một lần nữa khẳng định sự coi thường vật chất, tiền bạc của
người nghĩa phụ này.
Cùng thuộc mẫu hình phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho
giáo như Nhị Khanh, nhân vật Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam
Xương cũng có những phát ngôn coi nhẹ nhu cầu vật chất, tiền tài danh vọng.
Mở đầu thiên truyện này, Nguyễn Dữ giới thiệu về quê quán, phẩm chất của
Vũ Nương một cách ngắn gọn: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam
Xương. Người đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp” [5.182]. Cái tư
dung tươi đẹp là thứ trời cho, còn cái thuỳ mị nết na hẳn phải là sản phẩm được
tôi luyện từ lễ giáo Nho gia. Không chỉ là một thục nữ theo quan điểm Nho
giáo, Vũ Thị Thiết còn có ngoại hình xinh đẹp, tươi tắn cân xứng với phẩm
chất tâm hồn của nàng. Chính vì có cả nhan sắc và đạo đức như vậy nên Vũ
Thị Thiết đã khiến cho chàng Trương Sinh trong làng: “mến vì dung hạnh, xin
với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” [5.182]. Về nhà chồng, Vũ Thị Thiết thể
hiện là người vợ biết đạo lý và khéo léo, tế nhị trong cách ứng xử. Biết chồng
là người “có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá”[5.182], nàng càng
sống đúng chuẩn mực của một người vợ hiền thảo, đoan trang: “Nàng cũng giữ
gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa” [5.182].
Tính ghen tuông là điều thường trực trong tính cách của con người khi yêu.
Tuy nhiên, chung sống với một người chồng hay ghen chưa bao giờ là điều dễ
dàng. Về làm dâu nhà Trương Sinh, chắc hẳn Vũ Thị Thiết luôn có ý thức để
tâm đến những việc nhỏ nhặt nhất như lời nói, hành động theo khuôn phép đạo
đức Nho giáo nên khiến không khí gia đình mới được yên ấm như vậy.
Tuy nhiên, đoàn tụ chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải lên đường
ra trận. Lời tiễn biệt của Vũ Nương dành cho chồng cũng chính là lời phát
ngôn đầu tiên của nàng thể hiện quan niệm về công danh: “Lang quân đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin
ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó
37
liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công
lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan
hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập
áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn
hàng thư tín, chỉ e không một tin về”. [5.182,183]. Thời xưa, con đường công
danh đối với nam nhân là vô cùng quan trọng. Đã sinh ra là đấng nam nhi thì
phải làm nên công trạng, sự nghiệp lớn, gánh vác giang sơn, vì dân vì nước.
Trương Sinh đầu quân ra trận cũng chính là một cơ hội tốt để chàng lập nên
công trạng ở chốn sa trường, đem về “ấn phong hầu” vẻ vang cho gia tộc.
Hình ảnh Trương Sinh ra trận cũng làm ta liên tưởng đến hình ảnh của người
chinh phu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn ở thế
kỉ XVIII:
"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu".
[6.49]
Tuy nhiên sự khác biệt ở đây là nếu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm,
người chinh phụ tiễn chồng ra trận với những mơ ước về công danh, sự
nghiệp lẫy lừng và hình ảnh người chồng ra trận đẹp như một bức tranh của
“chí làm trai” thì trong Chuyện người con gái Nam Xương, nàng Vũ Thị Thiết
lại không màng đến địa vị, công danh hay kì vọng chồng phải lập nên công
trạng. Ngay từ phút đầu tiên khi tiễn đưa chồng, nàng đã nhận thức được sự
nguy hiểm, gian khổ mà chồng sắp phải trải qua trên chiến trường. Vì vậy,
mong ước của nàng chỉ đơn giản là chồng được nhanh chóng bình an vô sự
38
trở về với quê nhà. Hạnh phúc của Vũ Thị Thiết chỉ gói gọn trong niềm hi
vọng được đoàn tụ gia đình, không vướng chút tham vọng công danh. Ngày
tiễn chồng ra trận, Vũ Thị Thiết đã nói lên điều mong ước giản dị mà đầy tình
nghĩa ấy.
Như vậy, nhân vật Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu và Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương đều thuộc mẫu
hình phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo và tiếng nói chung
đầu tiên giữa họ là tấm lòng trong sáng, cao cả, không màng tới vật chất, công
danh. Qua những phát ngôn về nhu cầu vật chất của hai nhân vật này, ta nhận
thấy cả Nhị Khanh và Vũ Nương đều là những người con dâu hiếu thảo, người
vợ thương yêu chồng sâu sắc. Với họ, hạnh phúc gia đình và sự bình an của
chồng quan trọng hơn nhiều so với những danh vọng hão huyền của tiền tài, địa
vị. Họ dồn nén lại những nhu cầu vật chất tầm thường của chữ “thân” hưởng
thụ để hướng tới sự thanh thản trong tầm hồn với những phát ngôn và hành
động vẹn tình trọn nghĩa, tâm tâm niệm niệm chỉ hướng tới sự bình an cho
chồng và gia đình.
2.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu chung thủy, gắn liền với
hạnh phúc gia đình
Không chỉ coi nhẹ vật chất, Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ
ở Khoái Châu và Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương còn
thể hiện quan niệm về “thân” qua những phát ngôn gắn liền tình yêu thủy
chung với hạnh phúc gia đình.
Lời đầu tiên Nhị Khanh khuyên bảo chồng theo cha vào Nghệ An, mở
rộng ra cũng cho ta thấy quan niệm về tình nghĩa vợ chồng của nàng với
Trọng Quỳ: “Thiếp đâu dám đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu
cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận
lòng đến chốn hương khuê” [5.23]. Với Nhị Khanh, hạnh phúc gia đình phải
được xây dựng trên nền tảng của đạo lí truyền thống, tuân theo sự phân bậc rõ
ràng của các quan hệ rường cột trong gia đình: trước là đạo cha con, sau mới
39
đến đạo vợ chồng. Quan niệm này là phù hợp với quan điểm đạo đức Nho
giáo, chứng tỏ Nhị Khanh đã thể hiện vai trò của người vợ, người con dâu
một cách trọn vẹn. Nàng đã tình nguyện hi sinh, quên đi hạnh phúc cá nhân
của mình để làm tròn chữ hiếu.
Phát ngôn thứ hai của Nhị Khanh thể hiện quan niệm sống và yêu của
nàng là lời nói với người bõ già: “Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ
Phùng lang hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết
không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác” [5.25]. Những
lời này của Nhị Khanh vừa thể hiện tấm lòng chung thuỷ đến quyết liệt, vừa
thể hiện ý thức tự trọng đã đạt đến đỉnh cao của nàng. Với Nhị Khanh, nàng
chỉ có một trái tim, một thân thể, một cuộc đời nên nàng sẽ chỉ có một người
chồng duy nhất là Trọng Quỳ - người mà nàng đã trao tặng hết tất cả. Nàng có
thể chịu đựng, nhẫn nhục sống những ngày tháng cô đơn dù dài đến mấy,
miễn là Trọng Quỳ còn sống và trở về. Nhưng nếu Trọng Quỳ không còn trên
cuộc đời này nữa thì nàng cũng sẽ tự tận theo chàng để trọn vẹn nghĩa tình vợ
chồng chung thủy. Suy nghĩ này của Nhị Khanh không phải người phụ nữ nào
cũng có và sự cương quyết, thủy chung của nàng thật đáng ngợi ca. Chính
tình yêu chân chính và niềm hi vọng thiết tha vào sự trở về của Trọng Quỳ đã
giúp Nhị Khanh vượt qua những ngày tháng lẻ loi, cô độc. Nhị Khanh quả
thực là một tấm gương sáng cho lòng “trung trinh tiết liệt”.
Cùng cảnh ngộ với Nhị Khanh, nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người
con gái Nam Xương cũng thẳng thắn bày tỏ quan niệm về tình yêu gắn liền
với hạnh phúc gia đình, Nếu như lời tiễn chồng ra trận, Vũ Thị Thiết cầu
mong Trương Sinh bình an trở về đoàn viên với hạnh phúc gia đình thì lần
phát ngôn thứ hai của nàng lại nhấn mạnh tới quan niệm thủy chung của
người vợ xa chồng: “Thiếp vốn con nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp
chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh” [5.184]. Vũ Nương
khéo léo nhắc lại những chuyện xưa cũ của hai vợ chồng khi mới kết duyên,
chuyện chàng sớm bị bắt lính khiến vợ chồng xa cách, chưa được hiểu nhau
40
bao lâu đã phải chia lìa. Đây là biến cố mà cả Trương Sinh và Vũ Nương
không hề mong muốn. Nói về chuyện xưa, có lẽ Vũ Nương muốn nhắc cho
chồng nhớ về những ngày tháng hạnh phúc trước đây và giây phút tiễn biệt
đầy cảm động của đôi vợ chồng trẻ. Tiếp đến, Vũ Thị Thiết kể cho chồng
nghe về nỗi lòng trong những ngày tháng cô đơn, hiu quạnh một mình nuôi
con nhỏ và khẳng định về lòng chung thủy “giữ gìn một tiết” của nàng. Từ
ngày Trương Sinh đi, Vũ Nương một mình gánh vác giang sơn nhà chồng,
sinh con chăm mẹ, không còn thói quen trang điểm hay tơ tưởng tới những
chốn phong lưu: “Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng
đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư
thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng
đừng một mực nghi oan cho thiếp” [5.184]. Lời nói của Vũ Nương chứng tỏ
vị trí của Trương Sinh quan trọng đến thế nào trong lòng nàng. Xa chồng,
nàng không thiết tha đến nhan sắc, không màng tới những niềm vui khác hay
khiến làng xóm xung quanh dị nghị về phẩm cách của mình. Lời trần tình của
Vũ Thị Thiết vừa thiết tha, cầu khẩn vừa dứt khoát tự khẳng định nhân phẩm
trong sạch của mình. Người phụ nữ biết sống và yêu theo lễ nghĩa như Vũ Thị
Thiết trong xã hội xưa quả thực là đáng quý biết bao.
Dù tận tâm tận lực níu giữ hạnh phúc như vậy nhưng số phận của Vũ
Nương thật éo le khi người chồng của nàng lại quá đa nghi và ghen tuông.
Trương Sinh mù quáng đổ tội cho Vũ Thị Thiết hư hỏng, dồn ép nàng đến
bước đường cùng. Không còn cách nào khác, Vũ Nương đành bất đắc dĩ nói:
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Đâu
ngờ ân tình tựa lá, gièm báng lên non. Nay đã bình rơi trâm gẫy, mây tạnh
mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng
cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi
Vọng phu kia nữa” [5.185]. Những lời nói này của Vũ Thị Thiết đã tái khẳng
định sự coi trọng cuộc sống gia đình, tình nghĩa chồng vợ của mình. Nàng đến
với Trương Sinh, tha thiết chờ đợi sự trở về của chàng vì nàng khao khát “cái
41
thú vui nghi gia nghi thất”. Với Vũ Nương, chỉ có cuộc sống gia đình mới là
điều nàng ao ước nhất từ trước đến nay. Ngoài hạnh phúc được chung sống
với chồng, nàng không còn bất cứ thú vui nào khác. Nhưng cuộc đời trớ trêu
cứ đày đọa mãi người phụ nữ tiết hạnh ấy. Người chồng mà nàng cố công chờ
đợi lại không hiểu được tấm chân tình của nàng, vì lòng ghen tuông mù quáng
mà ruồng bỏ người vợ đã “đầu ấp má kề”. Trong lời nói của Vũ Nương có sự
nhận thức rõ ràng về tình cảnh trớ trêu không lối thoát của mình khi tình cảm
vợ chồng rạn nứt đổ vỡ. Nghe trong những lời của Vũ Nương có sự oán than,
trách cứ cuộc đời đen bạc và bất hạnh của chính mình. Niềm vui duy nhất của
nàng đã đổ vỡ, người nàng tôn thờ và yêu thương nhất đã quay lưng, nàng
cũng không thể lên núi Vọng Phu mà tỏ rõ tấm lòng chung thủy của mình.
Cũng như Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ Thị
Thiết tìm đến cái chết khi bị chồng ruồng bỏ. Từ đó, ta có thể thấy quan niệm
về tình yêu, hạnh phúc của những người phụ nữ truyền thống theo quan điểm
đạo đức Nho giáo luôn gắn liền với ý thức về nhân phẩm cá nhân. Với họ,
hạnh phúc phải gắn liền với sự vẹn toàn của gia đình. Khi gia đình đổ vỡ thì
niềm hạnh phúc trong cuộc sống của họ cũng tự động chấm dứt. Vì vậy, họ
thà lựa chọn cái chết chứ nhất quyết không để thân thể và đạo đức bị lăng
nhục, bôi nhọ.
Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, bên cạnh những nhân vật
phụ nữ truyền thống theo quan điểm Nho giáo như Vũ Thị Thiết (Chuyện
người con gái Nam Xương), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu) có quan niệm về lòng chung thủy và hạnh phúc gia đình thì phải kể
đến những nhân vật nữ có quan niệm tình yêu tự do, trong sáng như Lệ
Nương trong Chuyện Lệ Nương và Giáng Hương trong Chuyện Từ Thức lấy
vợ tiên.
Lời phát ngôn đầu tiên của Lệ Nương về khát vọng được tự do yêu đương,
gắn bó với Phật Sinh là bút tích mà nàng gửi lại khi bị bắt vào trong cung:
“Thiếp văn, thiên hữu âm dương, thiên đạo dĩ chi nhi bị,
42
Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi nhi thành
…………………………………………………………………
Vi đắc quân chỉ
Tiên thử thân phúc” [4.202]
(Thiếp nghe:
Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
Người có chồng vợ, đạo người mới thành
…………………………………………………………
Man mác nỗi lòng
Thư không xiết tả) [5.202,203,204]
Bút tích Lệ Nương để lại đã thể hiện tâm trạng đau đớn đến tột cùng.
Trong quan niệm của Lệ Nương, con người sống trên cõi đời phải tuân thủ
theo luật âm dương của đất trời, có vợ có chồng thì cuộc sống mới thực sự
trọn vẹn:
“Trời có âm dương, đạo trời mới đủ
Người có chồng vợ, đạo người mới thành” [5.203]
Vậy mà, nàng vốn đã được hứa gả cho Phật Sinh, vốn có thể vui thú nghi
gia nghi thất nhưng biến cố ập tới khiến nàng không còn hi vọng cùng Phật
Sinh đi hết kiếp này. Câu hỏi: “Đôi ta vì đâu? Lỡ làng đến vậy!” [5.203] thể
hiện sự hoảng hốt, đau đớn khôn xiết trước cuộc đời dâu bể của Lệ Nương.
Tâm trạng đau đớn ấy của Lệ Nương có nét đồng điệu với tâm trạng Thuý Kiều
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du khi phải lỗi thề với chàng Kim Trọng. Một
lời đã trót thâm giao với Phật Sinh nên bị khi bắt vào cung, Lệ Nương càng xót
xa cho mình thì lại càng đau đớn cho Phật Sinh. Lời khuyên và cũng là lời khẩn
cầu của nàng đối với Phật Sinh nghe thật da diết, đớn đau:
“Xin chàng trân trọng lấy mình
Liệu kết nhân duyên chốn khác
Đừng vì tình một buổi
43
Để lỡ kế trăm năm” [5.204]
Xót thân phận mình mà thương cho người yêu, tấm lòng vị nghĩa ấy là
một biểu hiện đẹp đẽ của tâm hồn người con gái Lệ Nương. Nàng đã không
thể đem tới niềm vui chồng vợ cho chàng thì cũng không thể ích kỉ, giữ
chàng sống cô độc theo lời hẹn ước. Nàng coi mối nhân duyên của mình và
Phật Sinh chỉ là “tình một buổi”, khuyên chàng sớm tìm lấy “nhân duyên
chốn khác” để bảo toàn hạnh phúc, tính “kế trăm năm”. Chỉ có tình yêu
trong sáng, vô tư và chân thành mới có thể khiến người ta hi sinh vì người
mình yêu nhiều đến vậy. Dù không thể hiện trực tiếp nhưng bức thư của Lệ
Nương vừa là tiếng nói trân trọng hạnh phúc gia đình, vừa là khát vọng về
một tình yêu trong sáng của người con gái nết na, chung thủy.
Nếu các nhân vật Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết và Lệ Nương là người
phàm trần, có những mơ ước riêng về tình yêu trần thế và hạnh phúc gia đình
là điều dễ hiểu thì với nàng tiên nữ Giáng Hương trong Chuyện Từ Thức lấy
vợ tiên lại là điều tương đối lạ lẫm. Giáng Hương có nguồn gốc xuất thân là
tiên nữ, sống giữa chốn tiên cảnh núi Phù Lai: “một động tiên thứ 6 trong 36
động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám víu, như hai núi La Phù
tan hợp theo với gió mưa, như các ngọn Bồng Lai, co duỗi theo với sóng
giợn” [5.109]. Giáng Hương tuy sống trong cảnh bồng lai nhưng vẫn thích
thú những niềm vui trần thế. Nàng hạ phàm để được đi ngắm cảnh, ngắm
hoa, ngắm người chốn nhân gian. Sở thích ấy của nàng đã đưa nàng đến cuộc
gặp gỡ định mệnh với Từ Thức. Có lẽ hành động nghĩa hiệp của Từ Thức đã
khiến trái tim của tiên nữ Giáng Hương rung động. Đáng lẽ ra một tiên nữ
như Giáng Hương phải giữ cho tấm lòng mình được thanh tịnh, không vướng
chút bụi trần. Nhưng chính nàng đã thú nhận với Từ Thức rằng: “Không như
thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảnh dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng
duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục” [5.109]. Chỉ với một câu
nói này của Giáng Hương, người đọc có thể thấy một khía cạnh rất khác so
với bề ngoài thanh cao, tôn nghiêm của nàng tiên nữ. Sinh ra là người của cõi
44
trời, không còn gì phải vấn vương với cõi trần nhưng trái tim của Giáng
Hương cũng giống như trái tim nhạy cảm của bao cô gái chốn nhân gian. Nơi
đây vốn chỉ có những vị chân tu “thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở
phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung mạc, không cần gạn mà lòng tự trọng,
không cần lấp mà dục vẫn lặng” [5.113]. Vậy mà giờ đây lại xuất hiện một
nàng tiên nữ, thân không trong cõi dục mà lòng vẫn còn vướng nợ. Nàng
cũng biết rung động, yêu thương như con người trần tục. Chính tình yêu đã
khiến nàng thay đổi: “màu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa”
[5.111]. Như vậy, Giáng Hương khao khát có một tình yêu tự do, trong sáng,
không bị ràng buộc bởi sự cách biệt giữa hai thế giới tiên - người. Quan niệm
về tình yêu, hạnh phúc của nàng chẳng khác gì quan niệm về tình yêu, hạnh
phúc của con người trần thế.
Yêu như người trần, sống như người trần để rồi số phận của nàng cũng
rơi vào khổ đau, li biệt như vậy. Ngày Từ Thức muốn từ giã cõi tiên để trở về
trần thế là ngày chia cách của hai vợ chồng nàng. Khoảnh khắc hạnh phúc thật
ngắn ngủi khi “ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Thời gian của hai cõi tiên -
người hoàn toàn khác nhau: một năm ở cõi tiên đã bằng cả trăm năm dưới hạ
giới. Từ Thức muốn quay về thăm nhà nhưng chàng không biết điều này, còn
Giáng Hương thì cũng không thể hé lộ cho chàng biết bởi lẽ: “chẳng dám vì
tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của chàng” [5.113]. Khao khát
hạnh phúc gia đình và tình yêu, dám hi sinh danh tiếng tiên nữ để được ở bên
người mình yêu thương nhưng cuối cùng, Giáng Hương cũng chẳng thể giữ
nổi hạnh phúc ấy cho riêng mình.
Như vậy, Giáng Hương và Lệ Nương đều là những cô gái trẻ trung, có
nhan sắc và tài năng. Họ luôn khao khát tình yêu trong sáng, vô tư với người
mà mình yêu thương. Quan niệm tình yêu của những nhân vật này có sự giao
hòa giữa tinh thần và thể chất, họ đã có cái nhìn mới mẻ và tự do hơn về chữ
“thân”. Song, chữ “thân” ở những nhân vật Giáng Hương, Lệ Nương vẫn gắn
45
liền với những giá trị đạo đức cốt lõi của Nho giáo, với lòng chung thủy dành
cho người mình yêu thương. Tuy nhiên, hạnh phúc của họ cũng không được
trọn vẹn, không thể bảo toàn trong xã hội đương thời.
2.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử
Được xây dựng theo khuôn mẫu đạo đức Nho giáo, các nhân vật Nhị
Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) và Vũ Thị Thiết (Người con
gái Nam Xương), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương) là điển hình mẫu mực cho
đạo “tam tòng tứ đức” của phụ nữ thời xưa. Chính vì vậy, quan niệm về cuộc
sống và tình yêu của hai nhân vật này hoàn toàn tuân thủ theo nguyên tắc Nho
gia. Với Nhị Khanh và Vũ Nương, tình yêu phải gắn liền với hạnh phúc gia
đình và sự bảo toàn danh tiết. Khi mối quan hệ này bị rạn nứt, đổ vỡ thì
những người phụ nữ này sẽ đặt tiết hạnh và phẩm giá của mình lên hàng đầu.
Họ sẵn sàng tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của nhân cách:
“Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn”. Vấn đề sinh - tử dường như
không còn quan trọng với Nhị Khanh và Vũ Nương qua những lời trăng trối
của hai nhân vật này trước khi tự tận.
Khi bị ép gả cho tướng quân họ Bạch, Nhị Khanh đã khảng khái nói
với người bõ già: “Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ Phùng lang hãy
còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm
của chồng để đi làm đẹp với người khác” [5.25]. Qua lời này của Nhị
Khanh, ta thấy được tấm lòng thủy chung son sắt và ý thức tự trọng sâu sắc
của nàng. Sáu năm trời đằng đẵng trôi qua, Nhị Khanh không thay lòng đổi
dạ, một mình nuôi hai con nhỏ chờ ngày chồng trở về. Nàng có thể chấp
nhận mọi tủi nhục miễn là gia đình có ngày sum họp ấm êm. Chỉ cần Trọng
Quỳ còn sống, Nhị Khanh sẵn sàng sống trong nỗi cô đơn thầm lặng. Nếu
không, nàng cũng sẽ “liều mình” để giữ trọn đạo vợ chồng thủy chung, chứ
nhất quyết không hưởng hạnh phúc bên người đàn ông khác. Có lẽ với Nhị
Khanh, cuộc sống sẽ chẳng còn ý nghĩa và niềm vui nếu đó không phải là
cuộc sống bên người chồng mà nàng yêu kính. Nếu mất đi người chồng
46
“đầu gối tay ấp” thì lựa chọn đầu tiên và duy nhất của Nhị Khanh chính là
cái chết. Điều này chứng tỏ sự coi thường thân xác và coi trọng danh tiết
trong quan niệm sống của Nhị Khanh.
Là người phụ nữ đẹp người đẹp nết, sống có đạo nghĩa như vậy nhưng
cuộc đời Nhị Khanh quả thực là một tấm bi kịch. Trọng Quỳ đã sa chân ngày
càng sâu vào cái bẫy mà Đỗ Tam giăng ra. Để rồi đến khi thời cơ chín muồi,
Đỗ Tam chỉ bằng một cuộc đánh tứ sắc mà cướp không được Nhị Khanh từ
chính sự tham tiền của Trọng Quỳ. Trước đây khi chồng vắng nhà thì suýt bị
ép gả cho Bạch tướng quân, bây giờ khi chồng đã trở về thì lại bị mang ra
đánh cược như một món hàng. Bị dồn ép tới đường cùng đầy nhục nhã, Nhị
Khanh chỉ còn biết dồn bao nhiêu ai oán ê chề vào lời vĩnh biệt với hai con
trai: “Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một
cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con
thôi”[5.29]. Câu nói này của Nhị Khanh một lần nữa đã khẳng định quan niệm
về đạo nghĩa vợ chồng, lòng chung thủy và đặc biệt là quan niệm coi nhẹ thân
xác. Nói về cái chết, Nhị Khanh không hề hoảng hốt, lo sợ mà trong đó chỉ ẩn
chứa nỗi đau buồn khôn xiết. Nỗi đau buồn này không phải xuất phát từ sự
nuối tiếc cuộc sống dang dở mà chủ yếu là sự thất vọng bởi người chồng bạc
tình và nỗi đau đớn khi phải xa lìa hai con. Trước đây, khi Nhị Khanh tâm
niệm rằng nếu Trọng Quỳ không còn sống để trở về thì sẽ sẵn sàng tự tận, ta đã
thấy nàng là một người phụ nữ đầy lòng thủy chung đáng kính. Nhưng bây giờ,
khi bị chính người chồng của mình đẩy đến với người đàn ông khác giàu có
hơn, nàng một lần nữa quyết định quyên sinh. Chi tiết này làm người đọc thấy
vừa thương cảm cho số phận đầy ngang trái của Nhị Khanh, vừa phẫn uất trước
hành động xuẩn ngốc của Trọng Quỳ. Nhị Khanh đã tự kết liễu cuộc đời mình
một cách đầy oan ức: “lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết” [5.29]. Cuộc sống với
ai cũng là đáng quý, nhất là với một người vợ đức hạnh, một người mẹ hiền
thục của hai đứa con nhỏ như Nhị Khanh. Tự tay cắt đứt sợi dây sinh tử của
mình cũng chưa bao giờ là điều dễ dàng với bất cứ ai. Vậy mà, nàng Nhị
47
Khanh của Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu lại có thể nhanh chóng và
quyết liệt tự kết liễu cuộc đời, bỏ những đứa con thơ bơ vơ ở lại, thậm chí còn
khẳng định trước mặt con trẻ: “một cái chết với mẹ có khó khăn gì” [5.29]. Có
lẽ lúc này, hệ tưởng đạo đức Nho giáo với quan niệm “Chết đói là chuyện rất
nhỏ, thất tiết là chuyện rất lớn” đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ và hành
động của nàng. Nhị Khanh chỉ chấp nhận cuộc hôn nhân với duy nhất một
người chồng là Trọng Quỳ và cũng chỉ có một mái ấm gia đình mà thôi. Nàng
chấp nhận đi theo hầu hạ Đỗ Tam, bỏ lại hai con nhỏ cho Trọng Quỳ thì cũng
đồng nghĩa với việc tự đạp đổ tiết hạnh, lòng tự trọng, nguyên tắc sống và hạnh
phúc gia đình bao năm khổ tâm xây đắp. Vì vậy, người nghĩa phụ ấy đã tìm đến
cái chết. Hành động này là cái ngưỡng cuối cùng thể hiện quan niệm coi
thường thân xác của Nhị Khanh. Sự coi thường đạt đến đỉnh điểm khi người ta
sẵn sàng vứt bỏ đi nó. Nhị Khanh không chỉ coi nhẹ tiền bạc, danh vọng mà có
thể sẵn sàng hi sinh thân thể trần thế, tìm đến cái chết để giữ vững phẩm hạnh,
nhân cách và chữ “tâm” cao quý. Nhưng đằng sau hành động ấy của nàng,
chồng nàng trở thành người đàn ông góa vợ và hai con trai của nàng cũng trở
thành trẻ mồ côi. Nhị Khanh ở đây đáng thương biết bao và cũng đáng trách
biết bao!
Cũng có lòng chung thủy và quan niệm đáng quý, đáng trọng về hạnh
phúc gia đình nhưng cuối cùng cũng phải tìm đến cái chết oan ức như Nhị
Khanh là nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương. Sau
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu thì Chuyện người con gái Nam Xương là
truyện thứ hai kể về nỗi oan khổ của người phụ nữ tiết hạnh, hiền thục trong xã
hội xưa.
Sau chiến tranh tàn khốc, Trương Sinh may mắn toàn vẹn trở về từ chiến
trận. Đối với Vũ Nương, đây chắc chắn là niềm hạnh phúc lớn nhất của nàng.
Thế nhưng, ngày đoàn tụ với chồng lại trở thành ngày nàng mắc nỗi hàm oan
không thể giải thích. Người ta vẫn nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” bởi lẽ trẻ
con thì lúc nào cũng nói thật, không biết gian trá. Xa nhà bao nhiêu năm, vừa
48
đặt chân về lại nghe những lời chối bỏ từ đứa con mới biết nói thì sự nghi ngờ
của Trương Sinh cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng, sai lầm chàng Trương là đã
không thể làm chủ được cảm xúc để nhìn nhận rõ sự việc. Lúc này sự ghen
tuông của Trương Sinh đã trở nên mù quáng. Không kể nguyên nhân, không
nghe lời vợ biện bạch, cũng không màng tới lời nói của mọi người xung quanh
chứng giám cho nàng, Trương Sinh thể hiện rõ sự ghen tuông độc đoán của
mình. Nhưng càng bị nghi ngờ, Vũ Thị Thiết càng thể hiện rõ nàng là một
người phụ nữ biết lễ nghĩa, phải trái đúng sai. Những lời phân trần của Vũ
Nương với Trương Sinh đã làm sáng lên phẩm chất trong sạch và tấm lòng
thủy chung trước sau như một của nàng.
Lời than thở của Vũ Thị Thiết với trời cao trước khi gieo mình xuống
sông Hoàng Giang là lời thề độc xin được chứng giám cho tấm thân trong trắng
và tấm lòng thủy chung của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu,
chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh,
xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng
chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm
cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ” [5.185]. Người
xưa vốn rất coi trọng lời thề, đặc biệt là những lời thề trước khi tự tận. Nàng đã
nhờ đến thần linh chứng giám cho lòng chung thủy, trinh bạch của mình bằng
lời thề độc - lời thề về vật hóa thân của mình sau khi chết đi. Cái chết là điều
chắc chắn mà Vũ Nương đã lựa chọn nhưng nàng vẫn hi vọng cái chết sẽ minh
chứng cho tấm lòng và thân thể của mình. Nàng xin được làm “ngọc Mỵ
nương” oan khổ mà sáng ngời, làm “cỏ Ngu mỹ” đau thương mà ngát hương
sau khi chết đi nếu là người trong sạch. Ngược lại, nàng cũng sẵn sàng làm
“mồi cho cá tôm”, “cơm cho diều quạ”, “chịu khắp mọi người phỉ nhổ” nếu là
kẻ phụ bạc chồng con. Lời thề tự tận ấy đau xót mà cương trực đến nhường
nào! Không tìm ra lối thoát, nàng chết trong sự oan ức, tức tưởi của lòng ghen
tuông nên buộc phải để lại lời trăn trối với trời cao. Ý thức về nhân phẩm và
49
lòng tự trọng của Vũ Thị Thiết đã đạt tới đỉnh cao. Nàng có thể chịu khổ đằng
đẵng nuôi con một mình bao năm để chờ đợi ngày chồng bình an trở về. Nhưng
nếu bị người yêu thương nghi ngờ phẩm giá, nàng nhất quyết không nhẫn nhục
chịu đựng mà phải tìm cách chứng mình sự trong sạch của bản thân bằng mọi
giá. Có lẽ với Vũ Nương, tình cảm vợ chồng chỉ có thể bền vững dựa trên sự
tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Trương Sinh vừa trở về đã có những lời lăng
mạ nhân cách của nàng thì nàng sẽ nhất quyết rời bỏ chàng. Vũ Nương chọn
lựa con đường tự tận để vẹn toàn lễ nghĩa và danh tiết.
Còn với Lệ Nương, nàng may mắn hơn Nhị Khanh và Vũ Nương khi
đã gặp được một người đàn ông thủy chung, nặng tình nặng nghĩa. Việc không
thể kết duyên cùng Lệ Nương đã khiến cho chàng Phật Sinh: “rất là đau thương,
bỏ cả ăn ngủ. Rồi vì cớ hôn sự đã hỏng, bèn thiên ra ngoài miền đông. Nhưng
nặng tình với Lệ Nương, Sinh chưa nỡ lấy ai cả” [5.204]. Người đàn ông như
Phật Sinh trong xã hội xưa cũng thật là đáng quý, đáng trọng. Không chơi bời
lêu lổng giống Trọng Quỳ (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) hay gia
trưởng đa nghi như Trương Sinh (Chuyện người con gái ở Nam Xương), chàng
Phật Sinh trong Chuyện Lệ Nương là người biết trọng ân nghĩa. Nếu Lệ Nương
coi chàng như người chồng cần được yêu thương thì Phật Sinh cũng đã coi nàng
đã là vợ của mình. Vì vậy, trong lòng không nguôi nỗi thương nhớ, quyết chí lặn
lội bao ngày tháng gian khổ đi tìm Lệ Nương. Nhưng đến khi tìm được nàng thì
âm dương đã cách biệt. Khi tới thăm mộ người yêu thương, lòng Phật Sinh tiếc
thương vô hạn, suốt đêm bên mộ khóc lóc, thở than. Động lòng thương cảm,
đêm hôm đó, hồn nàng hiện về cùng chàng dốc bầu tâm sự, thở than. Lời phát
ngôn thứ hai của Lệ Nương vừa là sự trải lòng trước cảnh khốn cùng, vừa là lời
cảm tạ tấm lòng của Phật Sinh:
“Thiếp xuất tự phàm lưu,
Quá mông hậu ngộ
………………………………….
Cảm thuật u hoài
50
Hạnh thùy tri tất”
(Thiếp vốn con nhà tầm thường,
Chàng quá rủ lòng yêu mến
………………………………
Dám tỏ niềm riêng
Kính xin soi xét)
[5.211,212,213]
Qua những lời nói này của Lệ Nương, ta có thể thấy tấm lòng trinh bạch
đáng quý của nàng. Những ngày xa cách Phật Sinh, trong lòng nàng không
nguôi niềm thương nhớ. Cuộc sống của Lệ Nương lúc này chỉ còn là những ngày
“lần lữa trộm sống” với đau thương, mong nhớ đến “mòn mỏi”, tàn tạ:
“Thiếp cùng chàng ly cách
Hờn ôm lầu đỏ, từng trải hôm mai
Mối dứt chim xanh, không thông tin tức
Ngày tháng lần lữa trộm sống
Dong quang mòn mỏi riêng buồn”
[5.211,212,213]
Không thể kết nhân duyên vợ chồng với Phật Sinh, nàng cũng nhất định
không chịu nhuốc nhơ hàng giặc:
“Trước đã không vẹn tiết để theo chồng
Sao lại nỡ cam tâm mà hàng giặc
Gửi chiếc thân ở trong muôn chết,
Trải một ngày như thể ba thu
Lặn suối trèo đèo
Qua nguy vượt hiểm
Ép duyên toan nhắm mắt, giống sói khôn gần
Qua ải muốn đưa chân, núi hổ dễ cảm
Bởi vậy, không ham thú sống”
51
[5.211,212,213]
Giống như nàng Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) và
Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Lệ Nương luôn có ý thức về
mối quan hệ giữa tình yêu, lòng chung thủy và danh tiết của người phụ nữ. Lựa
chọn cái chết chính là Lệ Nương đã bảo vệ cho nhân phẩm và tấm chân tình của
mình trước những biến cố của xã hội.
Theo tư tưởng Nho giáo của xã hội phong kiến đương thời, những mẫu
hình nhân vật này là đáng ngợi ca và các phát ngôn của họ là phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội đương thời. Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết và Lệ Nương
đều là những người phụ nữ đức hạnh, tài sắc, tuân thủ quan điểm của Nho
giáo về “tam tòng, tứ đức”, là người vợ hiền thảo, kiên trinh. Họ đề cao cái
“tâm” trong sạch, xem nhẹ chữ “thân”, xem thường những dục vọng, những
nhu cầu vật chất, thậm chí là cả cái chết. Với họ, danh tiết mới là điều quan
trọng nhất. Thế nhưng, sống theo quan điểm của hệ tư tưởng phong kiến ấy,
kết cục mà Nhị Khanh và Vũ Nương nhận được vẫn chỉ là sự bội bạc và bất
hạnh. Họ cuối cùng không thể gìn giữ được hạnh phúc của mình mà buộc lòng
tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Thương cảm cho số phận bất hạnh của
người phụ nữ tiết hạnh trong xã hội xưa, Nguyễn Dữ đã đưa ra cho họ một con
đường sống trong cõi thần tiên kì ảo sau khi chết đi ở cõi nhân gian. Nhưng
điều này cũng chứng tỏ rằng, hiện thực xã hội phong kiến không thể mang lại
hạnh phúc cho người phụ nữ, dù cho họ có sống đúng theo chuẩn mực lễ giáo
đương thời.
Nhìn lại cuộc đời tâm hồn, phẩm chất của những các nhân vật Nhị Khanh
(Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái
Nam Xương), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương) và Giáng Hương (Chuyện Từ
Thức lấy vợ tiên), chúng ta đều thấy họ đã sống theo những khuôn mẫu, những
tiêu chuẩn của chế độ phong kiến đương thời. Ngay cả quan niệm về một vấn
đề mang tính chất cá nhân như tình yêu và hạnh phúc, những nhân vật nữ này
vẫn tuân thủ các nguyên tắc gò bó của đạo “tam tòng tứ đức”. Thế nhưng, cuối
cùng những người phụ nữ tiết hạnh ấy cũng không tránh khỏi tấn bi kịch cuộc
52
đời. Sống tuân thủ, phục tùng một cách vô điều kiện lễ giáo phong kiến, xem
nhẹ chữ “thân”, đề cao chữ “tâm” nhưng họ lại không có hạnh phúc, thậm chí
là nạn nhân đau khổ của thứ lễ giáo ấy. Kết cục của họ là chia ly, tử biệt, phải
tìm đến cái chết để bảo toàn danh tiết. Nguyễn Dữ là một nhà văn nhân đạo,
ông viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến và thương cho cuộc đời đa
đoan mà họ trải qua. Tuy nhiên vì sống trong thời đại của tư tưởng Nho giáo,
ông không thể để ngòi bút của mình bình phẩm vượt khỏi lễ giáo Nho gia.
Muốn xây dựng kết thúc có hậu cho cuộc đời của những nữ nhân tiết hạnh này,
ông lựa chọn sử dụng yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì để minh oan và ca ngợi
phẩm chất của họ sau khi đã đến với cái chết.
2.2. Quan niệm “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền thống
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại
2.2.1. Yếu tố kì ảo
Các nhân vật Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Nhị
Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương)
ban đầu đều là các nhân vật người trần mắt thịt, yếu tố kì ảo chỉ xuất hiện sau khi
họ đã tìm đến cái chết. Duy có nhân vật Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ
tiên) là nhân vật tiên nữ, đã có sử dụng yếu tố kì ảo ngay từ nguồn gốc xuất thân.
Trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, nhân vật Nhị Khanh đã
tìm đến cái chết sau khi bị Trọng Quỳ - người chồng mà nàng yêu thương, tôn
thờ và chờ đợi đằng đẵng bao năm gán bạc cho tên lái buôn Đỗ Tam. Yếu tố
kì ảo xuất hiện trong cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Trọng Quỳ và linh hồn Nhị
Khanh. Khi đó, Nhị Khanh không hiện hình, hiện thân để Trọng Quỳ có thể
nhìn thấy mà nàng chỉ hiện lên qua một tiếng gọi trên không: “Dọc đường
buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không
có tiếng gọi rằng: “Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình
xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ em ở cửa đền Trưng vương. Ân tình
thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở”. Sinh lấy làm lạ là tiếng giống như
tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên giời một đám mây đen bay
53
ra Tây Bắc” [5.31]. Mặc dù Trọng Quỳ là người phụ bạc tấm chân tình của
Nhị Khanh khiến cho nàng phải phải đi đến quyết định tự tận nhưng câu nói
của Nhị Khanh cho thấy nàng vẫn hết lòng coi Trọng Quỳ là chồng mình, gọi
chàng là “Phùng lang” và nhắc đến mối “ân tình thiết tha”. Điều đó cho thấy
rằng ngay cả khi không còn tồn tại trên trần thế, Nhị Khanh vẫn một lòng một
dạ yêu thương chồng, thủy chung son sắt và sẵn sàng tha thứ cho những lỗi
lầm mà Trọng Quỳ đã gây ra. Khi đến nơi hẹn gặp nhau, âm thanh đầu tiên
mà Trọng Quỳ nghe thấy là tiếng khóc: “Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe
thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần; khi nghe tiếng khóc chỉ còn cách mình
độ nửa trượng, nhìn kỹ thì người khóc chính là Nhị Khanh” [5.31]. Tiếng
khóc nức nở của Nhị Khanh vang lên trong đêm tối biết bao lẻ loi, cô đơn và
oan trái. Cứ ngỡ nàng khóc vì oán trách, vì đau buồn cho số phận của mình,
nhưng không, lời nói của nàng với Trọng Quỳ đã chứng tỏ nước mắt của Nhị
Khanh là sự cảm tạ đối với Trọng Quỳ: “Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới
đây, biết lấy gì để tặng chàng được” [5.32]. Có lẽ chính vì Nhị Khanh là
người phụ nữ hiền thảo, đức độ như vậy nên tác giả đã không muốn để cho
nàng phải chịu cái chết oan khuất. Việc sử dụng yếu tố kì ảo đã thể hiện tinh
thần nhân đạo sâu sắc của tác giả khi ông đề cao nhân cách của nàng, không
để nàng phải chết oan khiên lạnh lẽo: “Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế
thương là oan uổng bèn ra ân chỉ, hiện thiếp được lệ thuộc vào tòa đền này,
coi giữ những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được.
Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì
nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau” [5.32].
Không chỉ vậy, sự đền đáp to lớn nhất đối với Nhị Khanh là nàng được gặp
lại và chứng kiến sự hối hận tột cùng của Trọng Quỳ, dặn dò chồng chuyện
nuôi dưỡng hai con nên người. Một người mẹ, một người vợ tốt như Nhị
Khanh là vô cùng đáng quý, khiến cho Trọng Quỳ phải nhìn nhận lầm lỗi, sửa
đổi bản thân và cả phần đời còn lại “không lấy ai nữa, chăm chỉ chăm nuôi
54
hai con cho đến nên người” [5.33]. Lúc này, yếu tố kì ảo là một phương tiện
quan trọng để tác giả có thể níu giữ một chút niềm tin, niềm hạnh phúc cho
nhân vật nữ của mình.
Cũng chung cuộc đời bất hạnh và oan khiên như Nhị Khanh, nàng Vũ
Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng được rửa oan sau khi
tìm đến cái chết nhờ yếu tố kì ảo. Bị chồng ghen tuông, nghi ngờ lòng chung
thủy, Vũ Nương đã kiên quyết trẫm mình xuống sống tự vẫn cùng lời thề xin
minh giám của đất trời. Nhưng may mắn thay, thánh thần đã cảm nỗi oan
khiên của nàng mà ra tay cứu giúp. Với đặc trưng riêng của thể loại truyền kì,
Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Nếu như trong truyện
cổ dân gian, kết thúc truyện chỉ dừng lại ở cảnh chàng Trương nhận ra sai lầm
của mình thì trong Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã sáng
tạo thêm phần kết truyện, không để Vũ Nương chết trong oan khuất. Nàng
được sống cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp hơn ở chốn thủy cung. Khi gặp
lại Phan Lang là người cùng làng, Vũ Nương vẫn thể hiện là người vợ đức
hạnh:“Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn
mặt mũi nào về thấy người chồng” [5.188]. Trong thâm tâm Vũ Nương, nàng
không hề oán trách Trương Sinh đa nghi phũ phàng mà luôn thấy hổ thẹn vì
đã không thể tự minh oan cho chính mình. Nhưng cuối cùng, lòng nhớ thương
quê hương và gia đình đã khiến nàng gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho
Trương Sinh: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên
lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ
hiện về” [5.188]. Cảnh cuối cùng của tác phẩm khi Trương Sinh lập đàn giải
oan cho Vũ Nương mang đậm yếu tố kì ảo với ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Vũ
Nương trở về, “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại
có đến hơn 50 chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện”
[5.188]. Trở về trong sự huyền ảo rực rỡ nhưng những lời nói của Vũ Nương
dành cho Trương Sinh mới đáng suy ngẫm: “Thiếp cảm tạ ơn đức của Linh
Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về lại
nhân gian được nữa” [5.189]. Vũ Nương hiện về là để nhận lại sự trong sạch
55
cho bản thân, nói với Trương Sinh đôi lời cảm tạ rồi vĩnh viễn trở về chốn
làng mây cung nước. Đây là một kết thúc phần nào có hậu. Nó thể hiện ước
mơ của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời: ở hiền gặp lành, người tốt
dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại
thanh danh và phẩm giá.
Như vậy là, cả Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) và
Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương) khi sống đau khổ, oan khuất
bao nhiêu thì mất đi lại được đền đáp bấy nhiêu. Họ đều được giải oan, dù
muộn màng nhưng đó chính là nguồn hạnh phúc để họ không phải chịu đựng
nối oan khiên ngang trái. Nhờ tấm màn hư ảo này mà những người phụ nữ ấy
tìm được chút sự cứu rỗi vong linh, đồng thời có được chút hạnh phúc ở cõi
âm. Tuy nhiên, kết thúc của cả hai câu chuyện này vẫn mang màu sắc bi kịch.
Thực tại lại trở về với thực tại, họ vĩnh viễn không thể trở về trần gian, chẳng
bao giờ được làm vợ, làm mẹ như mong muốn lớn nhất của cuộc đời. Tất cả chỉ
là ảo ảnh, hư vô và mau chóng tan biến. Kết truyện này càng góp phần tô đậm
nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh.
Còn trong Chuyện Lệ Nương, nhân vật Phật Sinh lại là một chính nhân
quân tử vô cùng ân nghĩa, lặn lội trải bao khó khăn gian khổ để tìm lại người
mình yêu thương là nàng Lệ Nương. Thế nhưng, số phận nghiệt ngã đã không
để cho Phật Sinh và Lệ Nương gặp nhau lần cuối. Khi Phật Sinh tìm đến chỗ
của Lệ Nương thì nàng đã trở thành một nấm đất trong rừng vắng. Lúc này,
yếu tố kì ảo mới được tác giả đưa vào trong tác phẩm. Chi tiết hồn Lệ Nương
trở về gặp lại Phật Sinh, “cùng chàng âu yếm chuyện trò, y như hồi còn sống”
[5.213] giống như một sự bù đắp ân tình cho đôi lứa, để an ủi cho cả Lệ
Nương và Phật Sinh dù họ không thể ở bên nhau mãi mãi.
Không giống như các nhân vật nữ kể trên, nàng tiên nữ Giáng Hương
trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên vốn sống trong chốn bồng lai tiên cảnh, nơi
được nhân gian coi là miền cực lạc, là cõi thiên đường. Trong tác phẩm có rất
nhiều không gian miêu tả cảnh đẹp nơi tiên động có sử dụng yếu tố kì ảo:
56
“Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan
can cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa” [5.108]. Sự xuất hiện của các tiên khách
trong bữa tiệc chào đón Từ Thức cũng đầy huyền diệu: “có người mặc áo
gấm cưỡi con ly từ đằng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía
nam luôn, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió” [5.110]. Ngay cả thời
gian ở chốn bồng lai cũng là thời gian kì ảo, một năm ở đó dài bằng cả trăm
năm dưới nhân gian. Khắc họa Giáng Hương là một tiên nữ, Nguyễn Dữ đã tả
nàng: “tuổi độ 16, phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời” [5.109].
Nàng chủ động xuống cõi trần xem hoa, rồi chẳng may vin gãy cành hoa mà
có mối lương duyên với Từ Thức. Đến khi gặp lại nhau, Giáng Hương sẵn
sàng bộc lộ hết tâm tư của mình:“...thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảnh dễ
sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng
theo cõi dục” [5.109] và chỉ đến khi kết duyên vợ chồng với Từ Thức, cuộc
đời Giáng Hương mới thực sự trở nên tươi đẹp: “màu da hồng hào, chứ
không khô gầy như trước” [5.111]. Giáng Hương vốn sống ở cõi tiên, nơi
không có khổ đau buồn phiền, nơi thời gian vô tận, cuộc sống vĩnh hằng, vậy
cớ sao nàng lại không vui mà để đến độ hao gầy như vậy? Tại sao chỉ đến khi
Từ Thức đặt chân vào cuộc đời nàng thì Giáng Hương mới tự cảm thấy mình
có được niềm vui? Như vậy, ta có thể thấy, với nhân vật Giáng Hương, cõi
tiên chưa hẳn đã là bến đỗ bình yên của mỗi kiếp người và những con người
sống nơi tiên cảnh chưa chắc đều có được hạnh phúc, thỏa mãn được ước
vọng cá nhân. Cuộc sống hạnh phúc không chỉ là sự thỏa mãn về nhu cầu vật
chất mà nó còn là sự bồi đắp về cuộc sống tinh thần, đặc biệt là về mặt tình
cảm, thậm chí là cả thân xác. Bởi thế, tiên nữ Giáng Hương dù sống trong
cảnh không thiếu của ngon vật lạ, có “đèn mỡ phượng, đệm vàng
rồng...buông rèm câu ngọc, rủ trướng móc vàng... Tiệc bày mâm bằng mã
não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu
kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có
được cái của quý như vậy” [5.110] nhưng vẫn thấy cô đơn. Chỉ đến khi Từ
57
Thức xuất hiện và ở lại bên nàng, Giáng Hương mới thực sự có hạnh phúc.
Hai người ngày ngày bên nhau làm thơ trên bức bình phong trắng, ghi lại
cảnh đẹp chốn bồng lai và những giây phút vui đùa bên nhau. Thế nhưng,
“ngày vui ngắn chẳng tày gang”, chốn tiên cảnh không thể giữ nổi tấm lòng
nhớ quê của Từ Thức. Cuối cùng chàng cũng từ giã tiên giới, trở lại nơi trần
thế, để lại Giáng Hương bùi ngùi xót xa và cuối cùng, nàng lại trở thành tiên
nữ cô liêu nhất giữa quần tiên. Bởi lẽ, ai đã một lần nếm vị ngọt của hạnh
phúc mà không thể giữ được vị ngọt ấy thì ắt hẳn trong lòng sẽ mãi đầy nỗi
nhớ thương, luyến tiếc. Tiên nữ Giáng Hương đã vượt qua được khuôn phép
chốn tiên cảnh, dám tìm đến hạnh phúc của đời mình như rồi cuối cùng, nàng
cũng không giữ được nó. Như vậy, dù là người trần mặt thịt hay là tiên nữ
chốn bồng lai, những người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục cũng không thể
có nổi một hạnh phúc gia đình bình dị cho riêng mình.
2.2.2. Sự hòa thanh diễn ngôn
Ở cuối tất cả các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đều để lại
lời bình về nhân vật hoặc sự kiện trong truyện. Có tới 19 lời bình tập trung
bàn về giá trị nhân cách, phẩm chất của các nhân vật, trong đó có những
truyện thuộc tuyến nhân vật phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho
giáo. Từ đó, Nguyễn Dữ đề cao những giá trị đạo đức, nêu cao chủ nghĩa
nhân đạo - một trong những khuynh hướng tư tưởng của Truyền kì mạn lục.
Nguyễn Dữ là một nhà Nho, ông tiếp thu nền khoa cử Nho học với việc đề
cao đạo đức con người nên trong các tác phẩm của ông, đấng nam nhi thì phải
học hành để có thể mang tài năng, sức lực phục vụ triều đại phong kiến, còn
phụ nữ thì phải tuân thủ lễ giáo Nho gia, đạt đủ công, dung, ngôn, hạnh. Nếu
vượt ra ngoài những khuôn phép đó, họ sẽ bị lên án, phê phán.
Có thể thấy, phát ngôn của những người phụ nữ đoan trang, tiết hạnh
như Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Vũ Thị Thiết
(Chuyện người con gái Nam Xương) tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc
đạo đức Nho giáo bằng hệ thống từ ngữ chuẩn mực, chân phương. Vì vậy, khi
58
kết thúc các thiên truyện này, Nguyễn Dữ cùng bình luận với thái độ đầy ngợi
ca, trân trọng nhân cách của họ. Trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu, khi kết thúc tác phẩm, Nguyễn Dữ viết: “Than ôi, người con gái có ba
đạo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng
không? Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không
theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là
theo chồng đó. Có người vợ như thế mà để cho phải hàm oan một cách ai
oán. Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa
mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời
đất” [5.33]. Trong lời bình này, ta có thể thấy rõ thái độ phê phán Trọng Quỳ,
ủng hộ hành động tìm đến cái chết của Nhị Khanh. Người phụ nữ xưa có ba
đạo phải theo: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, nghĩa là:
Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con trai. Quan niệm
này tồn tại trong xã hội phong kiến với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã
từng gây ra nỗi bi thương, oan trái cho bao người phụ nữ. Đối với Nhị Khanh,
khi Trọng Quỳ thua bạc đã gán nợ nàng cho Đỗ Tam, nếu xét theo “tam
tòng” của người phụ nữ xưa, Nhị Khanh không thể từ chối quyết định của
chồng được. Nàng sẽ phải theo hầu hạ Đỗ Tam như thỏa thuận của hắn và
Trọng Quỳ. Với một người coi trọng tiết hạnh, phẩm giá như Nhị Khanh, đây
quả là một sự sỉ nhục đầy đau đớn. Chính vì vậy, nàng đã quyết tự tận để
“theo chính nghĩa chứ không theo tà dục” [5.33]. Nàng đã lựa chọn cái chết
để không phải chịu nỗi nhục làm vấy bẩn tấm thân trong sạch. Nguyễn Dữ đã
gọi cái chết của nàng là chết vì nghĩa: “Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái
đạo theo” [5.33]. Như vậy, theo bình luận của tác giả Nguyễn Dữ, Nhị Khanh
không làm theo lời chồng nhưng cũng không vi phạm vào đạo “tam tòng”
của Nho giáo vì nàng thực hiện hành động theo nguyên tắc đạo đức Nho gia.
Cái chết của nàng là cái chết hợp nghĩa, cái chết để bảo toàn danh dự và thân
thể, trùng khớp với những lời tâm can của nàng trước khi tự tận.
Nếu như Nhị Khanh tìm đến cái chết để bảo toàn danh tiết thì Vũ Thị
59
Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương lại phải tìm đến cái chết như
một sự giải oan. Bị nghi ngờ thất tiết trong những ngày chồng đi lính, Vũ
Nương không có cách nào cởi được sự hoài nghi và ghen tuông của Trương
Sinh. Quá bất lực và đau đớn, Vũ Thị Thiết đã gieo mình xuống sông tự vẫn.
Bình luận ở cuối thiên truyện, Nguyễn Dữ tỏ rõ nỗi đau xót trước sự hàm oan
của nàng: “Than ôi! Những việc từa tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc.
Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền cũng phải phân vân, mất
búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi, ý dĩ đầy xe, Quang
Võ đổ ngờ lão tướng, trói lại mà giết, Tào Tháo đến phụ ân nhân, việc Thị
Thiết cũng giống như vậy. Nếu không được trời xét tâm thành, nước không
làm hại thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn
đâu lại được thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch chưa
hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này”
[5.189,190]. Bi kịch của gia đình Vũ Nương xuất phát từ sự “hiểu nhầm cái
bóng” của con trẻ cũng giống như rất nhiều những câu chuyện nhầm lẫn từng
có. Nó đã đẩy Vũ Nương tìm đến cái chết, phải nhờ thần linh minh giám cho
lòng thành. Trước khi tự tận, Vũ Nương đã để lại lời thề: “Kẻ bạc mệnh này
duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết,
trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ
Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi
cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi
người phỉ nhổ” [5.185]. Kết thúc truyện, Nguyễn Dữ đã sử dụng yếu tố kì ảo
như một sự minh oan và đền đáp phần nào cho nàng. Vũ Nương được sống
cuộc sống thanh bình dưới Thủy cung và có cơ hội trở về giữa đàn giải oan
của Trương Sinh. Trong lời bình, Nguyễn Dữ nhắc lại lời thề tự tận của Vũ
Nương cùng chi tiết kì ảo cuối truyện như một sự tái khẳng định danh dự và
nhân cách của nàng: “Nếu không được trời xét tâm thành, nước không làm
hại thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu
60
lại được thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch chưa hết.
Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này”
[5.189,190]. Có thể thấy, thái độ của tác giả ở đây vẫn là ngợi ca, trân trọng
Vũ Thị Thiết và phê phán sự ghen tuông đến hồ đồ của Trương Sinh. Mã
ngôn ngữ của tác giả trùng khớp với phát ngôn của nhân vật, đều tuân thủ
theo nguyên tắc đạo đức Nho giáo.
Trong tư cách một nhà phê bình đặc biệt, Nguyễn Dữ viết lời bình để
đề cao cái nhân nghĩa, cái lễ giáo ở đời mà con người phải theo. Với những
nhân vật phụ nữ truyền thống như Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở
Khoái Châu), Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), yếu tố kì ảo
chủ yếu được gia cố thêm ở phần cuối truyện với hi vọng giải oan, mong tìm
lại một sự đền đáp cho những mất mát, đớn đau của các nhân vật nữ trên con
đường đi tìm hạnh phúc của mình. Các phát ngôn của nhân vật Nhị Khanh,
Vũ Thị Thiết và lời bình của tác giả Nguyễn Dữ ở những truyện này cùng
hướng tới quan niệm đề cao cuộc sống tinh thần, bảo vệ danh dự nhân phẩm
mà coi nhẹ đi phần thân xác. Đây là sự hòa thanh diễn ngôn của nhân vật và
tác giả đứng từ quan điểm đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, dưới góc nhìn hiện
đại, những câu chuyện bi ai của Nhị Khanh và Vũ Thị Thiết vẫn để lại trong
lòng người đọc bao đau đớn, xót xa. Yếu tố kì ảo dù có vớt vát được một chút
an ủi cho nhân vật nhưng không thể xóa bỏ được hiện thực rằng Nhị Khanh
và Vũ Nương không bao giờ có thể trở lại nhân gian, vui hưởng hạnh phúc
trần thế nữa. Họ mãi mãi phải xa rời gia đình, đặc biệt là không thể làm tròn
nghĩa vụ của một người mẹ đối với những đứa con thơ. Vậy là, dù sống tuân
thủ theo đạo đức phong kiến đương thời, những người phụ nữ đức hạnh như
Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) và Vũ Thị Thiết
(Chuyện người con gái Nam Xương) cũng không thể giữ được hạnh phúc của
riêng mình.
* Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu quan niệm về “thân” thông
61
qua việc phân tích tuyến nhân vật phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo
đức Nho giáo. Đại diện cho hình ảnh người phụ nữ truyền thống là nàng Nhị
Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ Thị Thiết trong
Chuyện người con gái Nam Xương, Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương,
Giáng Hương trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên với những phẩm chất cao quý
đáng ngợi ca. Họ thể hiện mơ ước về một tình yêu thủy chung, trong sáng hay
một hạnh phúc gia đình ấm áp, bình dị theo đúng khuôn phép đạo đức Nho
gia, tuân thủ hệ tư tưởng phong kiến nam quyền đương thời. Đồng thời, các
nhân vật nữ này cũng thể hiện thái độ sống không màng tới nhu cầu vật chất,
tiền tài, danh vọng và coi nhẹ cái chết. Tuyến nhân vật được xây dựng theo
quan điểm đạo đức Nho giáo với đặc trưng cơ bản là thái độ sống xem nhẹ
chữ “thân”, đề cao chữ “tâm”, luôn hướng tới một cuộc sống ấm êm, tốt đẹp.
Dù vậy, kết cục của họ vẫn mãi chỉ là sự chia ly, đau khổ, thậm chí là cái chết
62
tang thương.
Chương 3
QUAN NIỆM VỀ “THÂN ” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN VẬT
PHỤ NỮ PHI TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN
3.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng
3.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất
Bất lực trong con đường tìm đến hạnh phúc cho những người phụ nữ đề
cao chữ “tâm”, coi nhẹ chữ “thân” theo truyền thống theo quan điểm đạo đức
Nho giáo, Nguyễn Dữ đã xây dựng thêm một tuyến nhân vật phụ nữ táo bạo
trong cách sống và yêu, sẵn sàng lên tiếng và hành động cho hạnh phúc của cá
nhân mình, sống theo nhu cầu bản năng và đề cao chữ “thân”. Đó là những
người phụ nữ mạnh mẽ, phá cách như Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), Đào
Hồng Nương và Liễu Nhu Nương (Chuyện kì ngộ ở trại Tây). Với những
nhân vật này, các phát ngôn của họ đã vượt ra khỏi tầm lễ giáo phong kiến, có
sự đấu tranh quyết liệt để giành lấy hạnh phúc cá nhân, đặc biệt là việc đề cao
chữ “thân” với những nhu cầu cơ bản của con người.
Chuyện cây gạo có thể được đánh giá là một trong những thiên truyện
chứa đựng yếu tố kì ảo gây bất ngờ nhiều nhất cho người đọc trong Truyền kỳ
mạn lục. Nhị Khanh là một cô gái xinh đẹp, theo cảm nhận của Trình Trung
Ngộ thì nàng là “một giai nhân tuyệt sắc” [5.34], khiến cho Trung Ngộ dù
mới chỉ thoáng gặp qua đã phải “mang mối tình u uất trong lòng” [5.34].
Chắc hẳn Nhị Khanh cũng đã hiểu thấu tấm lòng của chàng lái buôn trẻ khi
nàng chủ động khơi gợi hoàn cảnh gặp gỡ chàng qua lời dặn con hầu gái: “Ta
lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm giời, không lên
chơi cầu Liễu-khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm nay
nên qua thăm cảnh cũ, để khuây giải chút tình u uất ở trong lòng…” [5.34].
63
Trong lời của Nhị Khanh, có cả thời gian “Đêm nay”, địa điểm “cầu Liễu-
khê”, mục đích “để khuây giải chút tình u uất”. Một cô gái tiểu thư khuê các,
sống trong xã hội phong kiến khắt khe, vậy cớ gì mà đang ở giữa đường phố
đông đúc, Nhị Khanh lại lộ liễu nói lên dự định và tâm tình của mình? Phải
chăng lời nói của nàng là một sự cố tình để Trung Ngộ có thể nghe thấy và
đến với nàng? Có lẽ, Nhị Khanh đã để ý đến chàng trai họ Trình và cũng nhận
thấy trong đôi mắt Trung Ngộ có sự say mê nhan sắc của nàng. Người xưa có
câu: “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân” nên chuyện Trung Ngộ đem lòng
thương nhớ một người đẹp như Nhị Khanh cũng là điều dễ hiểu. Nhị Khanh là
người chủ động khơi gợi mối quan hệ này và Trung Ngộ đã nhanh chóng sa
vào cái bẫy tình ái. Lời nói đầu tiên mà Nhị Khanh nói ra là lời chủ động, gợi
lên mối tình trong lòng Trung Ngộ và cũng chính trong lòng nàng. Từ lời nói
đầu tiên tưởng như vô tình ấy, một cuộc gặp gỡ sắp bắt đầu, một tình yêu đã
chớm nở và một khát vọng hạnh phúc đang trỗi dậy mạnh mẽ.
Tạo cơ hội để Trung Ngộ làm quen với mình, Nhị Khanh thậm chí còn
trực tiếp bày tỏ quan điểm về cuộc sống vô cùng mới mẻ với chàng: “Nghĩ đời
người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào,
nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng,
dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa” [5.36]. Trong
lời nói của Nhị Khanh đã có sự tự ý thức về cuộc đời, về những điều phù phiếm
làm lãng phí thời gian và tuổi trẻ. Nàng coi cuộc đời như giấc chiêm bao ngắn
ngủi, chỉ đến một lần rồi đi mãi mãi nên nàng mong muốn được tận hưởng cái
vui thú trước mắt, được thỏa mãn những nhu cầu bản năng. Quan niệm sống của
nàng hoàn toàn mới mẻ so với thời đại và xa lạ với người phụ nữ truyền thống
theo đạo đức Nho giáo. Ở Nhị Khanh có sự nổi loạn và phá cách vì không phải
ai cũng dám nói ra miệng những lời khao khát tình yêu và sự sống mạnh mẽ đến
vậy. Cách sống của nàng là tận độ, khao khát của nàng là thỏa nguyện ái ân.
Nếu các nhân vật văn học trong giai đoạn X - XV thường chỉ đề cập tới
những vấn đề to lớn mang tầm quốc gia, dân tộc, cổ súy cho tính đạt toàn
64
(triết lý về đạo, lòng yêu nước…), tức là chỉ có diễn ngôn đại tự sự thì nhân
vật Nhị Khanh của thế kỉ XVI đã mạnh bạo chen ngang dòng chảy ấy bằng lời
phát ngôn có tính tiểu tự sự về vấn đề cá nhân, thể hiện nhu cầu, khát vọng
của duy nhất bản thân mình. Đây là điểm nhấn tạo nên sự mới lạ, phá cách so
với thời đại của Nguyễn Dữ, song cũng chính từ đây nhân vật Nhị Khanh trở
nên gần gũi với hiện thực cuộc sống hơn bao giờ hết.
Cách sống gấp, muốn tận hưởng mọi lạc thú trần thế ở Nhị Khanh cũng
có nét tương đồng với cách sống cuống quýt, yêu đời và khao khát hạnh phúc
mãnh liệt trong tình yêu của nhà thơ Xuân Diệu sau này:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng;
Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:
"Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!"
(Xuân Diệu)
Quan niệm về tình yêu và cuộc sống của nhân vật Nhị Khanh và nhà
thơ Xuân Diệu có thể trùng khớp nhau nhưng hai thời đại mà họ sống, hai vị
thế xã hội của họ là hoàn toàn khác nhau. Nhị Khanh là một cô gái, một tiểu
thư của xã hội phong kiến nam quyền hà khắc, còn Xuân Diệu là “ông hoàng
thơ tình” của xã hội hiện đại tự do, phóng khoáng. Xuất thân trong gia đình
phong kiến truyền thống của “một nhà danh giá trong làng” [5.35] nhưng
Nhị Khanh đã không bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến, không cam chịu
cuộc sống theo khuôn khổ “tam tòng tứ đức”. Nàng là hiện thân cho cá tính
yêu đời mạnh mẽ và khát vọng yêu đương tự do hết sức, hết mình. Như vậy,
phát ngôn đầu tiên của Nhị Khanh chính là lời khẳng định niềm yêu sự sống
và say mê những nhu cầu bản năng vốn bị coi là tầm thường, đáng khinh rẻ
65
trong xã hội xưa.
Bên cạnh vẻ đẹp đầy quyến rũ, Nhị Khanh còn lôi cuốn Trình Trung
Ngộ bởi văn tài thiên phú của mình. Sau những lúc cùng nhau ân ái mặn
nồng, Nhị Khanh thường làm thơ ghi lại cảnh hoan lạc, tài tình đến nỗi Trình
Trung Ngộ phải thán phục khen rằng: :“Văn tài của nàng, không kém gì Dị
An ngày xưa ” [5.38]. Tuy nhiên, Nhị Khanh lại không hề coi trọng chính tài
năng của mình: “Người ta sinh ra ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương
thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng một nấm đất vàng là hết chuyện. Đời trước
những người hay chữ như Ban Cơ, Sái Nữ nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay
trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt” [5.38].
Một lần nữa, Nhị Khanh khẳng định cuộc sống trần thế là sự hưởng thụ, là
sống chan hòa trong tuổi trẻ và lạc thú vui say, vì theo quan niệm của nàng,
người con gái dù có xinh đẹp và tài giỏi đến đâu, cuối cùng chấm dứt cuộc
đời cũng chỉ là một nấm đất vàng cô đơn, lạnh lẽo. Nàng đề cao cuộc sống
nơi trần thế với những sự hưởng thụ hoan lạc của thân xác, hoàn toàn khác với
kiểu nhân vật phụ nữ truyền thống như Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con
gái Nam Xương hay nàng Kiều trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du.
Với Vũ nương, tình yêu phải gắn liền với hạnh phúc gia đình và sự coi trọng
danh tiết nên khi bị chồng nghi ngờ ghen tuông, Vũ Thị Thiết sẵn sàng trẫm
mình xuống sông tự vẫn để chứng minh mình là người biết “đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng” [5.185]. Còn trong Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du, Thúy Kiều cũng là cô gái chủ động, tự do tìm đến tình yêu nhưng
quan niệm về tình yêu của Kiều vẫn đậm chất truyền thống. Sống trong xã hội
phong kiến khắt khe với quan niệm: “Nam đáo nữ phòng nam tắc loạn, nữ đáo
nam phòng nữ tắc dâm” nhưng Thúy Kiều vẫn “Xăm xăm băng lối vườn khuya
một mình” để đến thư phòng tự tình cùng Kim Trọng. Bước chân của Kiều là
bước chân tự do đến với tình yêu. Trong hoàn cảnh chỉ có hai người, Thúy
Kiều hoàn toàn có thể nghe theo tiếng gọi của trái tim, thả mình theo những
66
cảm xúc bản năng mà không bị ai ngăn cản. Tuy nhiên, Kiều là cô gái được xây
dựng theo quan điểm đạo đức Nho giáo nên trong hoàn cảnh nào, nàng cũng rất
coi trọng danh tiết. Vì vậy, khi Kim Trọng ngỏ ý muốn chung giấc mộng ân ái:
“Sóng tình dường đã liêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”
thì Thúy Kiều lập tức ngăn lại và khẳng định:“Đạo tòng phu lấy chữ trinh
làm đầu”. Điều đó chứng tỏ, Thúy Kiều đã chủ động, tự do trên con đường
tình duyên nhưng nàng vẫn là đại diện cho mẫu hình phụ nữ truyền thống coi
trọng trinh tiết theo quan điểm Nho giáo. Ngược lại, Nhị Khanh trong Chuyện
cây gạo lại nhận thức về cuộc sống trần thế một cách chân thực và trần trụi:
Sống ở đời cốt để thỏa ý nguyện, công danh chỉ là thứ vô ích, vô dụng. Nàng
quan niệm rằng tuổi xuân qua nhanh, nếu không hưởng thụ “thú vui say” thì
sẽ phải luyến tiếc cái thời trẻ trung, tươi mởn của sắc đẹp và tình yêu. Xét trên
phương diện cá nhân, quan niệm này mang tính tích cực để mỗi người sống
chân thật với chính bản thân mình, sống gần gũi với những nhu cầu chân
chính của cá nhân. Đây là lối sống coi trọng nhu cầu vật chất, coi trọng bản
năng vô cùng táo bạo, hoàn toàn đối lập với kiểu mẫu phụ nữ truyền thống.
3.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu tự do, khao khát
hạnh phúc đời thường
Không chỉ dừng lại ở việc giãi bày thẳng thắn sự hưởng thụ tận độ các
nhu cầu vật chất đời thường, Nhị Khanh của Chuyện cây gạo sẵn sàng bộc lộ
quan niềm về tình yêu tự do, phóng khoáng, trân trọng những giây phút ái ân.
Ngay lần đầu tiên gặp Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh đã chủ động mời
gọi cuộc hoan lạc với chàng trai mới quen: “Thân tàn một mảnh, cách vời
chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay
dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô,
khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống
của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa” [5.36]. Ngay cả trong xã
67
hội hiện đại ngày nay, việc đề nghị thỏa mãn nhu cầu ân ái từ người khác giới
cũng là một vấn đề rất nhạy cảm và lạ lẫm với văn hóa phương Đông. Vậy mà
nàng Nhị Khanh của thế kỉ XVI trong tác phẩm của Nguyễn Dữ đã thẳng thắn
nói lên quan điểm ân ái tự do của mình. Cuộc sống qua cái nhìn của Nhị
Khanh là những ngày tháng quạnh hiu đơn độc, không người quan tâm chăm
sóc; cuộc đời nàng, vẻ đẹp của nàng cũng sẽ heo hút như “hang tối”, nhợt
nhạt như “mầm khô” nếu cứ trói buộc mình trong vòng lễ giáo phong kiến.
Với nàng, để sống đúng nghĩa, sống không hối tiếc thì con người phải hưởng
trọn vẹn hạnh phúc ái ân ngay giữa cuộc đời thực. Vì vậy, Nhị Khanh đã chủ
động đề nghị Trình Trung Ngộ: “Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào
hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm
bén xuân quang đôi chút” [5.36]. Lời đề nghị này có lớp vỏ bề ngoài khiếm
nhã và lẳng lơ nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi khát vọng yêu đương mãnh liệt, là
khát vọng ân ái chân chính của người phụ nữ bị vùi lấp từ bao thế kỉ. Có lẽ,
Nhị Khanh là cô gái đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam dám sống tận độ
với trái tim, với khao khát của tâm hồn và sống thật sự là chính mình.
Không chỉ xinh đẹp, Nhị Khanh còn là một tài nữ - một khách văn
chương “không kém gì Dị An ngày trước” [5.38], được Trung Ngộ khen ngợi
và mến phục. Sau cuộc ân ái với Trung Ngộ, Nhị Khanh đã tự sáng tác hai bài
thơ để ghi chép lại cuộc hoan lạc mặn nồng và bày tỏ cảm xúc cá nhân:
I
Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì
Tu đối tân lang ngữ biệt ly
Ngọc duẩn chỉnh tà châu xuyến tử
Hương la thoát hoán tú hài nhi
Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp
Xuân tận tam canh oán tử quy
Thử khứ vị thù đồng huyệt ước
68
Hảo tương nhất tử vị tâm tri
(Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu
Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu
Măng ngọc vuốt ve nghiêng xuyến trạm
Dải là cổi thảo trút hài thêu
Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc
Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu
Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy
Vì nhau một thác sẵn xin liều) [5.36,37].
Trong bài thơ này, Nhị Khanh thể hiện khao khát ân ái mãnh liệt và
khắc họa lại những dư âm mặn nồng sau cuộc truy hoan. Nàng cũng sẵn
sàng viện đến cái chết để tỏ lòng thề nguyền hò hẹn: “Vì nhau một thác sẵn
xin liều”. Như vậy, Nhị Khanh không phải là cô gái dâm đãng, qua lại với
nhiều loại đàn ông mà nàng chỉ khao khát hạnh phúc và ước mơ có một
tình yêu thật sự bên người mình yêu thương. Tuy nhiên, trong bài thơ của
Nhị Khanh dường như có điều gì đó rất xót xa: sau những giây phút thăng
hoa ân ái, đọng lại chỉ là chút tàn dư lạnh lẽo, khiến người ta nuối tiếc,
ngóng trông: “Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc/Xuân hết cành quyên
khắc khoải kêu”. Bài thơ thứ nhất của Nhị Khanh gợi cho người đọc liên
tưởng tới những vần thơ tràn đầy khao khát ái ân trong Chinh phụ ngâm
của Đặng Trần Côn ở thế kỉ XVIII. Ra đời sau Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ hai thế kỉ, nhân vật người chinh phụ của Đặng Trần Côn đã có
sự tiếp nối tâm hồn từ nhân vật Nhị Khanh của Nguyễn Dữ khi dám nói lên
khát vọng chính đáng của mình trong cảnh lẻ loi, cô độc.
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
69
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. [6.49]
Người chinh phụ xa chồng nhìn cảnh vật mà hình dung tới cảnh hoan lạc
gối chăn rồi xót xa cho thân phận quạnh hiu, lạnh lẽo. Cùng hướng tới khát
vọng ân ái cá nhân nhưng rõ ràng lời thơ của Nhị Khanh vẫn trực diện và táo
bạo hơn hẳn những vần thơ họa cảnh nói tình của người chinh phụ. Nguyễn
Dữ đã xây dựng Nhị Khanh là cô gái có cá tính mạnh mẽ, yêu và bộc lộ tình
yêu trực tiếp bằng ngôn ngữ sắc dục. Ngôn ngữ đậm màu tình ái của Nhị
Khanh cũng chan chứa trong bài thơ thứ hai của nàng.
II
Giải kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu
Túy bão ngân tranh bát phục khiêu
Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế
Kim thuyền ky phạ thúc tiêm yêu
Yên thư đường ngạc hồng do thấp
Hãn thổi mai trang bạch vị tiêu
Tảo vãn kết thành loan phượng hữu
Phong thần nguyệt tịch nhiệm chiêu yêu
(Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài
Ôm tranh nhẹ bấm một đôi hài
Đầu cài én ngọc hình nghiêng chếch
Lưng thắt ve vàng dáng ỏe oai
Đường lúc nở rồi hồng đượm ướt
Mai khi rã hết trắng chưa phai
Phượng loan sớm kết nên đôi lứa
Gió sớm giăng khuya thỏa cợt cười) [5.37]
Bài thơ thứ hai được Nhị Khanh chắp bút sau cuộc ân ái với Trung
Ngộ, có cái tình ý nhẹ nhàng của cuộc yêu đương, vẻ kiều diễm thon thả của
người con gái và khát vọng kết duyên loan phượng để cùng nhau hưởng hạnh
phúc. Tình ý và cách sử dụng ngôn từ của bài thơ này nhẹ nhàng, mang vẻ nữ
70
tính hơn bài thơ thứ nhất. Cùng sáng tác hai bài thơ họa cảnh ái ân và thể hiện
khát vọng hạnh phúc chăn gối nhưng mỗi bài của Nhị Khanh lại mang một
màu sắc riêng, không trùng lặp, không đơn điệu. Điều đó chứng tỏ Nhị Khanh
không chỉ trẻ trung, xinh đẹp mà còn là một cô gái có văn tài.
Như vậy, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng phong kiến, nàng
Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo đã dũng cảm nói lên quan điểm coi trọng
hạnh phúc ái ân của mình. Những phát ngôn về tình yêu của Nhị Khanh là
lời thách thức mạnh mẽ đối với quan niệm “tam tòng tứ đức” của học thuyết
Nho gia; là tiếng nói phản kháng dữ dội chế độ phong kiến khắt khe, trói
buộc quyền tự do của người phụ nữ; là tiếng chuông báo hiệu sự trỗi dậy của
một cá tính phụ nữ mới: dám yêu, dám sống là chính mình và đề cao giá trị
của chữ “thân”. Ở nhân vật Nhị Khanh, tình yêu là điều kiện cần và đủ để
được sống đúng nghĩa và quan hệ ái ân là bước nệm vững chãi để người ta
đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc, của tình yêu. Đây chính là nhân vật thể hiện
rõ nhất quan niệm về chữ thân bản năng, nhu cầu tính dục của con người.
Bên cạnh Chuyện cây gạo, trong Truyền kỳ mạn lục, người đọc cũng bắt
gặp những trang văn say sưa miêu tả cảnh khoái lạc trần thế của con người với
Chuyện kì ngộ ở trại Tây. Nho sinh Hà Nhân chểnh mảng bút nghiên, xa dần
nơi cửa Khổng, sân Trình để tìm đến chốn hoan lạc, nồng nàn với hai nàng
Đào, Liễu. Điều đặc biệt là ở chỗ: đây là một cuộc tình tay ba, là những cuộc
ân ái không phải chỉ có hai người. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, từ thế kỉ
XVI đã xuất hiện mối tình tay ba, những cuộc ân ái hoan lạc ba người được
miêu tả chi tiết và sinh động. Liệu đây có phải là đỉnh cao cho khát vọng giải
phóng tình cảm bản năng, thỏa mãn nhu cầu ái ân của con người, là bức tranh
hiện thực nhất về khao khát hạnh phúc của con người mà tác giả Nguyễn Dữ đã
dựng nên?
Giống như nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, hai cô gái Đào và
Liễu cũng đóng vai trò chủ động trong mối nhân duyên với chàng nho sĩ Hà
71
Nhân: “Ngày ngày đi qua, sinh thường thấy hai người con gái đứng ở bên
trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông
hoa đẹp mà ném cho sinh nữa” [5.54].
Có thể thấy, hai cô gái đẹp đã có tình ý với anh chàng Hà Nhân và chỉ
đợi chàng bắt chuyện là cởi mở lòng ước muốn của mình: “Từ ngày quan
Thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi
đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất
xuân quang” [5.54]. Hai cô gái trẻ tuổi, còn mơn mởn xuân sắc như những
đóa hoa xuân phải bày tỏ nỗi lòng cô đơn, hiu quạnh và khao khát được
hưởng hạnh phúc ân ái chính đáng với một chàng trai xa lạ mới quen. Điều
này vừa đáng giận vừa đáng thương vì nhu cầu được thỏa mãn quan hệ thân
xác vốn rất chính đáng, vậy mà hai nàng lại phải cầu cạnh điều đó từ một
chàng trai lạ, vốn không phải là người thương yêu. Hơn nữa, hai nàng lại phải
chấp nhận sự chia sẻ bằng đại từ xưng hô “chúng em”. Hà Nhân thì chỉ có
một nhưng lại có đến hai cô gái muốn thỏa nguyện ái ân, vì vậy không thể
tránh khỏi việc ân ái tay ba. Điều này là hoàn toàn lạ lẫm và đáng bị lên án
gay gắt trong xã hội đương thời.
Hệ tư tưởng Nho giáo vốn có một quan niệm nghiệt ngã về trinh tiết đối
với người phụ nữ. Câu nói nổi tiếng của một nhân vật Tống Nho là Trình Di:
“Chết đói là chuyện rất nhỏ, thất tiết là chuyện rất lớn” như một bằng chứng
điển hình về sự áp đặt, bất công của Nho giáo đối với phụ nữ thời phong kiến.
Trong “Tân đính Lĩnh Nam chích quái”, ở hồi hăm mốt, có một nhân vật phụ
nữ được ngợi ca vì tấm lòng kiên trinh, quyết tròn bổn phận với chồng với
nước, đó là nàng Mỵ Ê - vợ vua Chiêm:
“Lo nước bị nhục, trinh nữ giữ đúng danh phận
Sợ ngọc bị mờ, liệt nữ giấu kín vết nhơ!” [26.193].
Khi Sạ Đẩu xâm phạm biên giới nước ta, vua Lý Thái Tông thân
chinh đánh dẹp, đặt quân cai trị, bắt cả vợ và phi tần về, trong đó có nàng Mỵ
72
Ê. Biết nàng xinh đẹp, hát hay, vua gọi đến chầu nhưng nàng từ chối mà rằng:
“Thiếp là vợ vua mất nước, kể ra, đã nhơ nhuốc lắm rồi…” [26.193], “Lấy lẽ
tam cương làm trọng thì nghĩa vợ chồng nên lấy làm đầu, xét chung đạo
thường thì vua tôi ở trên” [26.194], “…phu nhân lấy chăn chiên quấn vào
mình, rồi nhảy xuống sông mà chết. Vua Lý nghe tin, rất ái ngại, bèn sai lập
miếu thờ, để biểu dương lòng trinh tiết” [26.194]. Như vậy, nàng Mỵ Ê là
tấm gương của lòng kiên trinh, quyết giữ trọn danh dự và tấm lòng thờ chồng.
Để bảo toàn danh dự và trọn vẹn lòng trinh, Mỵ Ê đã sẵn sàng tìm đến cái chết.
Không có tấm lòng kiên trinh chỉ thờ một người đàn ông như Mỵ Ê
hay Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, hai nàng Đào
và Liễu lại coi việc ân ái tay ba là một thú vui, việc chung chạ chăn gối là một
niềm hạnh phúc. Phải chăng khi những giá trị truyền thống đang lung lay tận
gốc rễ cũng chính là lúc con người dám thành thật với những nhu cầu sống
của chính mình? Hai cô gái tự xưng là những tì thiếp của quan Thái sư nhưng
khi Thái sư qua đời, họ phải sống khuôn phép trong vòng cương tỏa của lễ
giáo, phải chấp nhận “phòng thu khóa kín” mà không được thỏa mãn những
nhu cầu bản năng, dù thực tế là họ còn rất trẻ trung và xinh đẹp. Chính điều
đó lại càng làm tăng nỗi khao khát yêu và được yêu trong lòng những cô gái
trẻ. Họ chẳng còn ngại ngần chi nữa khi trêu ghẹo, khơi gợi ái ân với Hà
Nhân, bởi giờ đây vấn đề bức thiết của Đào, Liễu là được hưởng niềm hạnh
phúc ân ái chân chính của tuổi trẻ. Hình ảnh “những bông hoa hướng dương”
và mong ước được hưởng “xuân quang” của hai cô gái là những ẩn dụ sâu
sắc cho khát vọng được thoát khỏi hệ tư tưởng Nho giáo bảo thủ để vươn tới
ánh sáng của hạnh phúc, được thỏa mãn nhu cầu cá nhân, đắm chìm trong tuổi
trẻ và tình yêu từng phút, từng giây.
Đứng trước hai cô gái xinh đẹp và khêu gợi như vậy, chàng nho sĩ đọc
sách thánh hiền Hà Nhân cũng không thể cưỡng lại được lời mời gọi: “Sinh rủ
rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm…lả lơi cợt ghẹo”
[5.54]. Hai nàng vốn đã ưng lòng nhưng vẫn tỏ rõ là phận nữ nhi mềm yếu,
73
cần sự dịu dàng âu yếm: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn
phong, chỉn e mưa gió nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân
hoa mềm yếu” [5.55]. Nhu cầu được ân ái thì đã quá rõ ràng nhưng ở lời nói
này của Đào và Liễu, ta mới vỡ lẽ ra rằng: Phải chăng từ ngày được về làm
thiếp của quan Thái sư, hai nàng thậm chí chưa bao giờ được trải qua một lần
ân ái để tới mức phải bộc bạch phận mình là:“việc xuân chưa trải, nhụy thắm
còn phong”? Như đã nói ở trên, trong xã hội phong kiến, việc một người đàn
ông lấy nhiều vợ là điều bình thường theo quan niệm Nho giáo: “Tài trai năm
thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, đặc biệt là ở tầng lớp vua
chúa, quan lại. Hai cô gái Đào, Liễu trở thành tì thiếp của quan Thái sư nhưng
cũng có thể hai nàng chưa bao giờ được Thái sư màng tới vì trong phủ còn tới
hàng trăm tì thiếp như hai nàng. Đó là số phận hẩm hiu của rất nhiều cô gái
trẻ đẹp sống trong xã hội phong kiến với chế độ đa thê của hệ tư tưởng Nho
giáo. Lời phát ngôn thứ hai này của Đào, Liễu càng làm tăng nỗi thương cảm
trong lòng người đọc và ta nhận ra khát vọng được chung chăn gối của hai
nàng là điều đáng được sẻ chia, thông cảm. Có thể nhìn từ phương diện đạo
đức thì việc ân ái tay ba là đồi bại, đáng lên án nhưng trong tác phẩm của
Nguyễn Dữ, đây có thể được coi là đỉnh cao cho khát vọng được hòa hợp ân
ái, được thỏa mãn nhu cầu chính đáng tối thiểu nhất của con người.
Điều quan trọng hơn, hạnh phúc ân ái của Hà Nhân và hai nàng Đào,
Liễu được miêu tả sinh động và nồng ấm, không chỉ trần trụi là việc thỏa mãn
nhu cầu cá nhân: “Lửa đượm hương nồng, ân ái mười phân thỏa nguyện”. Ở
chàng học trò trẻ và hai cô gái xinh đẹp còn có sự đồng điệu về tâm hồn và
giao thoa về tài năng. Điều này được thể hiện qua những bài thơ mà đôi bên
cùng phóng tác, họa theo khung cảnh cuộc ái ân. Nàng Liễu ngâm trước bài
thơ thể hiện nguyện ước đã tròn đầy của mình:
Xạ trần lang hãn thấp la y
Thúy đại khinh tần bát tự my
Báo đạo đông phong khoan đả lục
74
Tiêm yêu bãi loạn bất thăng xuy
(Mồ hôi dâm dấp áo là
Màu xanh đôi nét tà tà như chau
Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng) [5.55].
Còn nàng Đào cũng tục ngâm bài thơ miêu tả tình trạng chốn buồng
xuân một cách tinh tế và thơ mộng:
Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì
Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy
Phần phó tài lang phan chiết khứ
Tàn hồng nhận thủ tiểu đào chi
(Cung sâu thưa điểm giọt rồng
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh
Tài lang mặc sức vin cành
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi) [5.55].
Tuy tả cảnh ân ái nam nữ nhưng hai bài thơ của Đào và Liễu không hề
gợn bóng tà dục, xác thịt thô ráp mà toát lên tinh thần viên mãn cùng niềm vui
sướng tột độ khi được hòa hợp về cảm xúc và thể xác. Đó là sự hưởng thụ tình
yêu một cách trọn vẹn, khao khát hạnh phúc chăn gối chân thành tự nguyện,
suy cho đến cùng là ước vọng được giao hòa với con người, được cởi mở
những rung động về thể xác và tâm hồn. Tài năng của Nguyễn Dữ còn được
bộc lộ ở chỗ miêu tả hai hồn hoa, tưởng chừng như giống hệt nhau nhưng vẫn
có sự khác nhau. Hai nhân vật này vẫn là hai tính cách khác nhau: nàng Liễu
thì yếu đuối, nũng nịu; nàng Đào thì nồng nàn nhưng lại hay cả thẹn. Sự khác
nhau ấy đã được thể hiện rõ ngay trong bài thơ hai nàng tả tình trạng chốn
buồng xuân. Những câu thơ của của Đào, Liễu làm ta liên tưởng tới đoạn thơ
hồi tưởng cảnh ái ân hoan lạc với vua chúa của người cung nữ trong Cung oán
ngâm của Nguyễn Gia Thiều :
Cái đêm hôm ấy đêm gì
75
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng
Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu [6.134]
Nếu lời thơ của người cung nữ nồng nàn, tha thiết đậm chất nuối tiếc bâng
khuâng trong cảnh lẻ loi thì vần thơ của Đào và Liễu lại đầy tính mời gọi, thỏa
mãn với hạnh phúc ái ân hiện tại. Người cung nữ bị trói buộc trong cảnh quạnh
quẽ, buồn tủi mà thốt lên những dòng kí ức mặn nồng trong thực tại cô độc; còn
hai nàng Đào, Liễu lại được tự do thăng hoa với cảm xúc ân ái tay ba trong
thực tại.
Không chỉ gần gũi với những vần thơ sắc dục trong văn học trung đại,
hai bài thơ họa cảnh ái ân của Đào và Liễu còn đậm đà nhục cảm sáng tạo, có
nét tương đồng với cảm xúc của nhà thơ đương đại Vi Thùy Linh trong bài
thơ Người dệt tầm gai:
Anh yêu của em ơi
Em yêu anh điên cuồng
Yêu đến tan cả em
Ào tung kí ức
Ngày dài hơn mùa
Em mong mỏi
Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi...
Vi Thùy Linh là nhà thơ nữ đương đại nên cách sử dụng từ ngữ cụ thể
và trực diện hơn hai nàng Đào, Liễu nhưng tinh thần tình ái thì vẫn là sự khao
khát tận độ hạnh phúc ái ân, mong muốn được giao hòa về mặt thể xác và tâm
hồn. Miêu tả cảnh ân ái, về khát vọng chăn gối thầm kín dù ở thời nào cũng
luôn là vấn đề nhạy cảm, nếu không có thế giới quan lành mạnh và ngòi bút
tinh tế thì sẽ dễ rơi vào sự dung tục. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc ân
ái tay ba (hoặc quan hệ tình dục quá hai người) vẫn là hành động đáng lên án,
vậy mà Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật của mình sáng tác những bài thơ miêu
76
tả cảnh chăn gối tay ba, cảnh ân ái nam nữ hưởng lạc từ thế kỉ XVI. So với
các tác phẩm đương thời, Nguyễn Dữ đã có một bước tiến dài trong việc phản
ánh hiện thực và bộc lộ chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo.
Mạnh dạn miêu tả về mối tình tay ba, Nguyễn Dữ cũng không quên
phản ánh những cảm xúc rất chân thực và nhạy cảm trong tình yêu. Ngay từ
đầu, hai nàng Đào, Liễu đã chấp nhận cùng chung thân xác của một người đàn
ông, cùng hưởng những giây phút ân ái mặn nồng, tuy nhiên những phút ghen
tuông, ngờ vực là điều không thể tránh khỏi. Khi Đào thấy Sinh khen Liễu
đẹp mà không nói gì đến mình thì đã “xấu hổ không dám đến nữa” [5.57]. Đó
là cảm giác tủi thân và nỗi ghen tị vốn có của con người khi cảm thấy mình bị
bỏ rơi trong tình yêu. Ta bắt gặp một cảm xúc rất “người”, cảm nhận được cái
đặc trưng muôn đời của tình yêu, dù tình yêu đó thiên về nhục cảm nhiều hơn.
Hai nàng Đào, Liễu đến với Sinh vì mục đích thỏa mãn hạnh phúc ân
ái nên hai cô gái trẻ luôn nhận thức được thân phận và vị trí của mình: “Bọn
chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng đáng được việc tảo tần ở gia đình.
Vả lại ngôi chủ phụ trong nhà, tất phải là người trong nề nếp trâm anh,
chúng em đâu dám chòi mòi đến” [5.59]. Ích kỷ trong tình yêu là điều vô
cùng dễ hiểu, nhất là việc ích kỷ trong quan hệ ân ái. Hai cô gái Đào, Liễu đã
phải chia sẻ mối chân tình của chàng Hà Nhân với nhau, giờ lại phải chấp
nhận cả việc chàng kết duyên loan phượng do cha mẹ sắp đặt. Họ không chỉ
dâng hiến tình yêu và những giây phút thăng hoa ân ái mà họ cũng chấp nhận
để người mình yêu thương đi kết duyên mới, chia sẻ hạnh phúc với cô gái
khác. Với những cô gái trẻ khao khát hạnh phúc như Đào và Liễu, yêu thương
mà họ trao đi là vô tư, trong sáng nhất, không cầu vụ lợi, không đòi đáp đền. Vì
dám yêu, dám sống là chính mình nên họ cũng chấp nhận cả sự hi sinh. Ân ái
một lúc với hai cô gái, người được hưởng thụ nhiều nhất là Hà Nhân nhưng hai
nàng Đào, Liễu lại luôn cho là mình được hưởng “xuân quang”, vì trong vòng
tay ấm áp của Hà Nhân, hai nàng được vui sướng và hạnh phúc, được thỏa mãn
77
nhu cầu ân ái trọn vẹn. Hai hồn hoa Đào, Liễu là những nhân vật được Nguyễn
Dữ xây dựng rất chân thực, đại diện cho cái nhìn mới mẻ và táo bạo về khát
vọng hạnh phúc của nhà văn.
3.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử
Chuyện cây gạo là thiên truyện thứ ba trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
Truyện kể về chàng lái buôn đẹp trai Trình Trung Ngộ nhà ở Bắc Hà, xuống
vùng Nam buôn bán và đánh bạn với một cô gái tuyệt sắc tên là Nhị Khanh ở
nơi đây. Dù không tường gốc tích của Nhị Khanh nhưng vì ham mê sắc đẹp
và được nàng chủ động khơi gợi, Trung Ngộ đã cùng Nhị Khanh “ân ái hết
sức thỏa mãn” [5.36]. Trải qua hơn một tháng, có người xúi Trung Ngộ bảo
Nhị Khanh dẫn về nhà chơi. Nhị Khanh phải đồng ý đưa Trung Ngộ về thăm
nhà. Bước vào gian nhà gianh, có mùi “tanh thối khó chịu”, Trung Ngộ phát
hiện ra linh cữu của Nhị Khanh trong đó. Hóa ra Nhị Khanh mà bấy lâu chàng
ân ái chỉ là một hồn ma, là một người đã chết. Chàng sởn gai ốc sợ hãi bỏ
chạy về nhà, sinh ra ốm nặng nhưng vài ngày sau lại đến ôm quan tài Nhị Khanh
mà chết. Hai người biến thành yêu ma tác quái dân chúng, nương tựa vào cây
gạo cổ trong chùa. Cuối cùng, cả hai đều bị diệt trừ bởi một đạo sĩ cao tay.
Chủ động khơi gợi làm quen, chủ động đưa ra lời đề nghị ân ái, điều đó
chứng tỏ Nhị Khanh không còn là cô gái theo nề nếp trâm anh như xuất thân
của nàng nữa. Nhị Khanh có khát vọng yêu đương tự do và khao khát ân ái
mãnh liệt, muốn thoát khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, thể hiện qua
những lời bộc bạch trực tiếp với Trung Ngộ và những bài thơ tự sáng tác của
nàng. Trong những phát ngôn bộc lộ quan điểm tình yêu của mình, Nhị
Khanh đã ba lần nói tới cái “chết”. Khi mới quen Trung Ngộ, nàng giới thiệu
tên tuổi: “Thiếp họ Nhị tên Khanh” [5.35], gia cảnh: “là cháu gái của ông cụ
Hối, một nhà danh giá trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn
hàn”[5.35] và thẳng thắn bày tỏ quan điểm sống của cá nhân: “…Nghĩ đời
người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống cho ngày
nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của
78
suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”
[4.36]. Tiếp đó, khi hai người đưa nhau xuống thuyền trò chuyện để chuẩn
bị ân ái, Nhị Khanh lại nhắc tới cái chết lần thứ hai: “Thân tàn một mảnh,
cách vời chết cũng chẳng bao xa” [5.36]. Có thể nói, cái chết thường trực
trong Nhị Khanh đến nỗi ngay sau khi hưởng cuộc ân ái xong, Nhị Khanh đề
bài thơ để làm kỉ niệm, hai câu thơ cuối cũng nhắc tới cái chết như một sự
hò hẹn, thề nguyền:
“…Thử khứ vị thù đồng huyệt ước
Hảo tương nhất tử vị tâm tri”
(…Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy
Vì nhau một thác sẵn xin liều)
Có lẽ trước đây, Nhị Khanh đã sống đúng với khuôn phép của Nho
giáo, tự nguyện tuân thủ theo những quy định hà khắc của hệ tư tưởng phong
kiến, không được sống trọn vẹn với ham muốn chân chính của thể xác trong
một thời gian dài nên giờ đây nàng càng ý thức được sự vô giá của hạnh phúc
ân ái, hạnh phúc bản năng. Với nàng, cái chết không có gì to tát đáng sợ cả,
điều đáng sợ nhất là không được hưởng hạnh phúc chăn gối, không được sống
theo nhu cầu và mong ước của bản thân. Những lời nhắc tới cái chết một cách
thản nhiên chứng tỏ Nhị Khanh không hề sợ hãi trước quy luật của đời người
hay phải chăng nàng đã quá quen thuộc với nó?
Nhị Khanh chỉ đến với Trung Ngộ vào đêm khuya, trải tới hơn một
tháng mà chàng lái buôn Trình Trung Ngộ không hề biết gì về gia cảnh, nhà
cửa của nàng, chỉ ham thú vui thân xác trước mắt. Chính vì thế, khi Trung
Ngộ phát hiện ra Nhị Khanh chỉ là một thây ma thì chàng vô cùng bàng hoàng
và sợ hãi: “Chàng trông vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường
mây nhỏ, trên giường đề một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the
hồng, dùng ngân sa đề vào mấy chữ: Linh cữu của Nhị Khanh…Trung Ngộ
thấy vậy, sởn gai dựng tóc, tất tả nhảy choàng ra khỏi cái nhà ấy” [5.40].
Bấy lâu nay, người chàng ân ái cùng chỉ là một cô gái đã chết từ sáu tháng
79
trước. Những lời Nhị Khanh nói lại càng khiến cho chàng lái buôn họ Trình
phải run sợ: “Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về nữa.
Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn hò
nhau!” [5.40]. Cái chết với Nhị Khanh chính là lời hẹn ước để thể hiện khát
khao được gắn kết mãi mãi bên người mình yêu thương. Hóa ra Nhị Khanh
chết đi nhưng lòng nàng vẫn còn vương lụy trần tục, vẫn còn tha thiết với
cuộc sống này. Lúc sống nàng đã không được thỏa lòng yêu đương ân ái nên
khi chết đi, nàng không thể nằm yên trong lòng đất, kết thúc tuổi thanh xuân
của mình như bao cô gái bình thường khác. Hành động “đội mồ mà dậy” để
quyến rũ người trần, thỏa mãn ái ân là minh chứng hùng hồn nhất cho khát
vọng được thỏa lấp những nhu cầu ân ái chính đáng của con người, là khát
vọng yêu và được yêu cháy bỏng nhất của Nhị Khanh.
Sau khi quyến rũ Trình Trung Ngộ chết theo mình, hai hồn ma Nhị
Khanh và Trung Ngộ ngang nhiên công khai những hành động yêu đương
táo bạo:“dắt tay nhau đi đôi, khi thì hát, khi thì khóc” [5.41], để “thân thể
lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn” [5.42] đến “gõ thình thình mà gọi
hỏi trong chùa” [5.42]. Nho giáo đã chẳng thể giàng giữ hai con người ấy và
giờ đây Phật giáo cũng đành bất lực. Nhị Khanh là đại diện cho lòng yêu đời
mãnh liệt nhất, khao khát tận hưởng thời thanh xuân tận độ nhất, ngay cả khi
nàng đã chết. Lúc sống, nàng chưa được hưởng trọn hạnh phúc ân ái và điều
không may hơn là Nhị Khanh phải chết khi còn quá trẻ: “lên 20 tuổi, chết đã
nửa năm” [5.41], nỗi lòng nàng chưa hết lưu luyến với cuộc đời trần thế.
Chính vì vậy, Nhị Khanh đã dám sống lại, đi tìm hạnh phúc cho riêng mình
như một sự bù đắp cho bản thân và táo bạo nói ra những quan niệm tình yêu
mới mẻ và lệch khuôn Nho giáo. Có thể nói, cái chết không thể trói buộc
được khát vọng yêu và sống của Nhị Khanh. Nàng chết thân thể những không
chết được những khao khát sống và yêu. Nhị Khanh đã vùng dậy để sống
trong cái chết.
Còn đối với Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương trong Chuyện kì
80
ngộ ở trại Tây, hai nàng xuất thân là những hồn hoa mềm yếu, mong manh,
sinh - tử vốn dựa vào sương gió. Đối với vạn vật cỏ cây, mùa xuân chính là
mùa đâm chồi nảy lộc và đông về là quãng thời gian tàn úa rụng rời. Chính vì
vậy, khi tiết trời thay đổi: “Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời
đông tiết lạnh ” [5.64], Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương vốn là những
nụ đào, thân liễu không thể ở lại chốn nhân gian thêm được. Khi biết đến kì
sắp phải thác hóa theo quy luật đất trời, Đào và Liễu đã bộc bạch những lời
chân tình với Hà Nhân : “Chúng em không may đều mắc bệnh gió sương, khi
xuân chưa về, mặt hoa dễ héo hương hồn một mảnh, chưa biết rồi sẽ trôi dạt
đến nơi nao” [5.64]. Trước mặt người yêu thương, hai nàng Đào Nương và
Liễu Nương đã ám chỉ đến sự chia ly, tan vỡ gắn liền với cái chết nhưng đó
là một cái chết như thế nào, chính hai nàng cũng mơ hồ không đoán định
được trước: “chưa biết rồi sẽ trôi dạt đến nơi nao” [5.64]. Những lời của
Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương chứa đựng sự nuối tiếc, đau đớn và
đột ngột đến mức chàng nho sinh Hà Nhân: “lo sợ như là con chim sợ cung
vậy !” [5.65].
Đối diện với bản mệnh ngắn ngủi không còn bao lâu của mình, hai
nàng Đào, Liễu không hề sợ hãi mà chỉ bộc lộ rõ sự nuối tiếc đối với những
phút giây vui thú chốn nhân gian : “Ham vui ân ái, ai ai chẳng lòng; nhưng
số trời đã định, kỳ về đến nơi, biết làm sao được. Rồi đây cánh rã trong bùn,
hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú vui biết sẽ thuộc về đâu” [5.65].
Khao khát được làm người, được hưởng thụ những hạnh phúc trần thế của
con người đã khiến Đào Nương và Liễu Nương từ giống cỏ cây biến thành
những cô gái dịu dàng, xinh đẹp, ngày đêm say mê trong những cuộc hoan
lạc với chàng nho sinh Hà Nhân. Để rồi giờ đây khi đất trời chuyển giao
sang mùa tàn cỗi, hai nàng vẫn không thoát khỏi quy luật héo úa của tự
nhiên. Biết không thể thay đổi thực tế phũ phàng, hai nàng dù buồn đau
nhưng không hề quỵ lụy, sẵn sàng đón nhận “kỳ tan tác” [5.65] như một
điều tất yếu trong vòng tròn sinh tử của vạn vật: “Người sinh ở đời như cái
81
hoa trên cây, tươi héo có kỳ, không thể nào gượng được dù trong chốc
lát”[5.65]. Không thể ở bên cạnh sớm tối chăm sóc cho Hà Nhân, hai nàng
chu đáo ân cần dặn dò người ở lại: “Chỉ xin chàng từ đây bồi dưỡng thân
thể, chăm chỉ bút nghiên, ghép liễu thành công, xem hoa thỏa nguyện, thì
chúng em dù vùi thân trong chỗ ngòi lạch cũng chẳng chút phàn nàn”[5.65].
Trong lời dặn dò ấy có cả niềm hi vọng và lòng yêu thương mà hai nàng gửi
gắm cho Hà Nhân. Mặc dù không có danh phận chính thức trong mối quan
hệ với Hà Nhân nhưng Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương luôn mong
chàng được vạn sự bình an, công thành danh toại. Cái chết hay sự đau đớn vì
phải héo tàn của hai nàng sẽ không là gì nếu Hà Nhân có một ngày đỗ đạt
làm quan, có thể vẻ vang “vinh quy bái tổ”. Hai nàng cũng không mong chờ
được Hà Nhân lo phụng hậu sự cho mình sau khi ra đi: “Thân mệnh của
chứng em lả lướt như tơ, mong manh tựa lá. Sau khi thác hóa, đã có mây
làm tán, có lốc (gió) làm xe, sương trắng làm ngọc đeo, cỏ xanh làm nệm
rải, than khóc đã oanh già thỏ thẻ, viếng thăm đã bướm héo vật vờ, chôn vùi
có lớp rêu phong, đưa tiễn có dòng nước chảy, khói tan gió bốc không phiền
phải đắp điếm gì cả” [5.65]. Yêu cầu duy nhất của hai nàng dành cho Hà
Nhân chỉ đơn giản là: “Chàng nếu nghĩ tình ân ái cũ, quá bộ đến trại Tây
thăm viếng, chúng em sẽ được ngậm cười mà về chốn suối vàng” [5.65]. Ta
có thể thấy, giữa Hà Nhân và hai hồn hoa này không phải chỉ có mối quan
hệ xác thịt trần trụi tầm thường mà ẩn sâu trong đó là tình yêu thương thực
sự, dù đó là tình yêu phải chung đụng, sẻ chia.
Có thể thấy trong Chuyện cây gạo và Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây,
những phát ngôn của các nhân vật đều bộc lộ khát vọng tình yêu, nêu lên
quan niệm sống hết mình cho tuổi trẻ, cho tình yêu - tình yêu mang màu
sắc dục. Cũng là dục, nhưng lại không phải thứ dục cuồng loạn chỉ xuất
phát từ nhu cầu bản năng trần trụi, mà là chữ dục gắn liền với cái tình. Vì
vậy, ngôn ngữ của các nhân vật tuy táo bạo nhưng không thô lỗ, mới mẻ
nhưng không sống sượng, bởi nó hiện lên rất chân thực, tự nhiên như một
82
nhu cầu bản thể của con người. Các nhân vật Nhị Khanh (Chuyện cây gạo),
Đào và Liễu (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây) đều là mẫu hình phụ nữ phi
truyền thống, trái ngược với quan điểm đạo đức Nho giáo nhưng họ lại rất
gần gũi với hiện thực đời sống và phù hợp để đại diện cho nhu cầu bản
năng của con người. Đây là điểm tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Dữ,
thậm chí còn rất gần gũi với góc nhìn hậu hiện đại. Các phát ngôn của Nhị
Khanh trong Chuyện cây gạo, hai hồn hoa Đào Hồng Nương và Liễu Nhu
Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây là một đòn giáng vào quan điểm lễ
giáo phong kiến, là thách thức đối với toàn xã hội bởi nó hoàn toàn trái
ngược so với hệ tư tưởng đương thời. Tuy nhiên, để nhân vật có thể nói lên
những quan niệm tình yêu của mình và thoát khỏi vòng kìm kẹp của lễ giáo
phong kiến khắt khe, Nguyễn Dữ đã phải sử dụng đến một thể loại văn học
độc đáo - thể loại truyền kì.
3.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại
3.2.1. Thế giới kì ảo
Truyền kỳ là một thể loại văn xuôi tự sự độc đáo của văn học Việt Nam
trung đại phản ánh hiện thực qua cái kì ảo, có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
kì ảo và yếu tố hiện thực. Trong Truyền kỳ mạn lục, cái kì ảo được Nguyễn
Dữ sử dụng một cách có ý thức như một thủ pháp nghệ thuật để chuyển tải
nội dung. Từ đó, Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới vừa thực,
vừa hư - thế giới thần tiên, ma quỷ với những chi tiết kì ảo chồng xếp lên
nhau mà vẫn không hề xa rời hiện thực. Nếu trong các truyện về người phụ nữ
truyền thống như Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện người con
gái Nam Xương, Chuyện Lệ Nương, yếu tố kì ảo chỉ xuất hiện ở phần cuối
truyện, sau khi nhân vật đã chết thì trong Chuyện cây gạo và Chuyện kỳ ngộ ở
trại Tây, yếu tố kì ảo lại được sử dụng đậm đặc tạo nên những bước ngoặt bất
ngờ cho cốt truyện.
Trong Chuyện cây gạo, yếu tố kì ảo chủ yếu được dùng để xây dựng
83
nhân vật Nhị Khanh. Ban đầu Nhị Khanh xuất hiện trong hình hài của một
cô gái xinh đẹp, dịu dàng với tài năng văn chương hiếm có. Yếu tố đan xen
giữa cái kì và cái thực xuất hiện bắt đầu từ đoạn Trình Trung Ngộ đòi về
thăm nhà của Nhị Khanh. Theo bước chân dẫn đường của Nhị Khanh về
trong đêm tối, người đọc không khỏi sởn gai ốc trước cách Nguyễn Dữ dần
hé mở về ngôi nhà của Nhị Khanh: “Khi đến một chỗ, chung quanh có bức
hàng rào bằng giong tre, thỉnh thoảng chen lẫn vài khóm lau khô, trong có
túp nhà gianh thấp nhỏ lụp sụp, dây vôi bìm leo đầy lên vách và lên
mái…Trình cúi đầu qua dưới mái gianh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh
thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu.
Đương kinh ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà đã có bóng đèn sáng.
Chàng trông vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ,
trên giường để một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng,
dùng ngân sa đề vào mấy chữ: “Linh cữu của Nhị Khanh”. Cạnh cữu có
người con gái nặn bằng đất tay ôm cây hồ cầm đứng hầu” [5.40]. Đến đây,
những chi tiết hiện ra vừa thực vừa hư khiến người đọc giật mình bởi cách
dẫn dắt chi tiết tài tình của tác giả. Hóa ra Nhị Khanh mà mà bấy lâu Trình
Trung Ngộ ân ái mặn nồng chỉ là một xác chết đã sáu tháng nằm quàn giữa
cánh đồng lạnh lẽo. Nhận ra sự thật đáng sợ ấy, Trình Trung Ngộ như
choàng tỉnh giấc khỏi cơn mê, “sởn gai dựng tóc, tất tả nhảy choàng ra
khỏi cái nhà ấy” [5.40]. Lúc này Nhị Khanh đột ngột xuất hiện với một
dáng vẻ và ngữ điệu hoàn toàn khác với vẻ thường ngày. Không còn vẻ dịu
dàng, thục nữ tươi vui, Nhị Khanh hiện hình với sự tàn độc của một ma nữ
“sấn lại nắm vạt áo chàng” [5.40] cùng lời nguyền gọi: “Xin sớm theo
nhau đi, cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ một mình như vậy,
lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về” [5.40]. Dáng vẻ và lời nói của Nhị
Khanh khiến cho chàng lái buôn họ Trình sợ hãi cực độ: “về đến cầu Liễu
khê, hầu như kẻ mất hồn không nói được nữa” [5.41].
Những tưởng sau khi đã phát hiện ra chân tướng gốc tích ma quái của
84
Nhị Khanh thì Trình Trung Ngộ đã may mắn thoát nạn. Nhưng mọi chuyện
hoàn toàn ngược lại. Lúc này, các yếu tố kì ảo được tận dụng tối đa để lột tả sự
ma mị của nhân vật Nhị Khanh. Nàng thoát khỏi vỏ bọc của một thiếu nữ xinh
đẹp tuổi 20 để xuất hiện với tư cách một ma nữ chuyên quấy rối, phá phách,
quyết bắt bằng được Trung Ngộ đi theo mình: “Từ đấy Trung Ngộ sinh ra ốm
nặng. Mà Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo,
có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường ứng đáp với
nàng và muốn vùng dậy để đi theo” [5.41]. Sự xuất hiện thoắt ẩn thoắt hiện dai
dẳng của Nhị Khanh cùng những kí ức về quãng thời gian ân ái mặn nồng đã
gây nên nỗi ám ảnh cho Trung Ngộ. Chàng đã bị "ám" đến mức không còn đủ
tỉnh táo để chống chọi với hồn ma Nhị Khanh nữa. Chàng ta tưởng tượng ra
một thế giới có Nhị Khanh đầy đẹp đẽ và thơ mộng: “Chỗ vợ ta ở có lâu đài
lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo chứ không thể lẩn quẩn
trong chốn bụi hồng này được...” [5.41]. Những người bạn buôn cùng Trình
Trung Ngộ dù đã cố gắng hết sức để bảo vệ cho chàng bằng cách “lấy dây
thừng trói lại” [5.41] nhưng cuối cùng cũng có ngày Trung Ngộ biến mất sau
một đêm u tối. Câu chuyện càng tiếp diễn rùng rợn hơn khi mọi người tìm đến
Đông thôn, đến nơi để linh cữu của Nhị Khanh thì chứng kiến cảnh “chàng đã
nằm ôm quan tài mà chết” [5.41], mọi người quyết định đành phải “thu liệm
chôn cất ngay ở đấy” [5.41]. Vậy là từng bước, Nhị Khanh đã thành công
trong việc làm quen, quyến rũ, cưỡng ép Trình Trung Ngộ chết theo mình để có
thể thỏa nguyện ái ân mãi mãi như lời hẹn ước: “Từ đó về sau, phàm những
đêm tối giời, người ta thường thấy hai người dắt tay nhau đi đôi, khi thì hát,
khi thì khóc; thường bắt người ta phải khẩn cầu lễ bái, hễ không được như ý thì
làm tai làm vạ” [5.41]. Những hành động quấy nhiễu của hồn ma Nhị Khanh
và Trình Trung Ngộ cuối cùng cũng bị trừng phạt bởi một đạo sĩ cao tay nhưng
câu chuyện về hành trình giành giật hạnh phúc trần thế của nàng Nhị Khanh thì
còn gây ám ảnh mãi trong lòng người đọc.
Đến Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, yếu tố kì ảo được sử dụng để kể lại mối
85
tình giữa chàng thư sinh Hà Nhân với hồn hoa Đào Hồng Nương và Liễu Nhu
Nương. Hà Nhân lên kinh đô để học, hàng ngày thường đi qua một dinh tư đổ
nát tên là trại Tây. Ở đây, chàng gặp hai cô gái đẹp tựa tiên nữ là Liễu Nhu
Nương và Đào Hồng Nương. Hà Nhân cùng hai cô gái đắm chìm trong hoan
lạc ân ái mà quên chuyện bút nghiên thi cử, từ chối cả chuyện lấy vợ do cha
mẹ sắp đặt. Chừng được một năm, hai nàng trào nước mắt nói lời tiễn biệt,
chàng đến trại Tây tìm chỉ còn thấy cây đào, liễu tả tơi, hỏi ra mới biết các
nàng là tinh hoa hoá thành. Như vậy, Nguyễn Dữ đã chú trọng sử dụng yếu tố
kì ảo để xây dựng các nhân vật của mình. Nếu Nhị Khanh là một thây xác
không chịu nằm yên dưới lòng đất thì hai nàng Đào, Liễu lại có nguồn gốc
xuất thân biến huyễn từ những hồn hoa hoang dại. Yếu tố kì ảo đan xen với
yếu tố hiện thực trong toàn bộ cốt truyện và cuối cùng được hé mở ở phần
cuối của câu chuyện.
Bên cạnh đó, Chuyện kì ngộ của trại Tây còn xuất hiện nhiều chi tiết và
không gian kì ảo. Trước buổi chia ly, Đào Nương và Liễu Nương để tặng lại
cho Hà Nhân đôi hài cườm với lời tiễn biệt đầy thắm thiết: “Mất người còn
chút của tin, gọi có vật này để tặng nhau trong lúc sinh ly tử biệt, sau này khi
chàng ướm thử, sẽ như là chúng em còn ấp yêu ở dưới chân chàng” [5.66].
Đôi hài cườm nhỏ xinh của hai mĩ nhân là kỉ vật cuối cùng họ để lại cho Hà
Nhân, tưởng là thật mà hóa ra chỉ là hư ảo. Sau khi Hà Nhân phát hiện ra Đào
Nương và Liễu Nương chỉ là do hồn hoa biến thành thì những chiếc hài cũng
tự nhiên biến mất: “Về đến nhà, Sinh lấy những chiếc hài tặng ra xem, vừa
cầm trên tay, mấy chiếc hài đã thành ra những cánh hoa, bay vèo lên trên
không mất” [5.66]. Ban đầu là thật mà cuối cùng lại không là thật, yếu tố kì và
thực cứ thế đan cài chồng xếp lên nhau. Ngay cả khung cảnh của buổi tiệc thơ
mộng, đầy ánh sáng lung linh trong đêm nguyên tiêu với những mĩ nhân họ
Vi, họ Lý, họ Mai, họ Thạch... mà hai nàng Đào, Liễu mời Hà Nhân đến dự
cũng chỉ là hư ảo. Nếu trước đây, khu vườn mà Hà Nhân đến dự tiệc có “cây
cối xanh tươi, mùi hoa thơm ngát” [5.58] với những thức quà độc đáo, thơm
86
ngon“bóc bánh lá hòe, rót rượu hạt hạnh, các món ăn trong tiệc đều là
những món quý trọng cả” [5.59] thì giờ đây, khi cùng ông lão láng giềng trở
lại nơi đó, cảnh vật đã hoàn toàn thay đổi: “Chỉ thấy nếp nhà quạnh hiu, vài
ba cây đào liễu xác xơ tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu” [5.66].
Lúc này, xuất thân của Đào Nương, Liễu Nương cùng các mĩ nhân trong buổi
tiệc mới thực sự được hé mở bằng lời của ông lão: “Đây chả phải là nơi cậu
đến chơi ư? Chị ả họ Kim, thì đây hoa Kim tiền. Cô nàng họ Thạch, thì đây
là cây Thạch lựu. Đến như họ Lý, họ Vi, họ Dương, họ Mai, cũng đều nhân
tên hoa mà làm họ cả. Không ngờ mấy cây hoa ấy lại biến huyễn như thế
được” [5.67]. Những chi tiết kì ảo này được xây dựng phù hợp với đặc trưng
của thể loại truyền kỳ nhưng điều quan trọng hơn cả là bằng phương thức ảo
hóa nhân vật, nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi gắm những khát vọng sống đầy
tính nhân văn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
3.2.2. Những diễn ngôn trái chiều
Truyền kỳ là một thể loại giàu giá trị phản ánh hiện thực. Dù thế giới
trong truyền kỳ là một thế giới hoang đường, kì ảo nhưng đằng sau sự hoang
đường ấy là hiện thực cuộc sống với những con người cụ thể trong những
hoàn cảnh xã hội cụ thể. Truyện truyền kỳ phản ánh hiện thực qua cái kì lạ.
Trong Truyền kỳ mạn lục, mỗi truyện đều có sự thống nhất hai yếu tố kì và
thực dù vai trò của mỗi yếu tố có sự đậm nhạt khác nhau. Chính sự thống nhất
này làm cho truyện truyền kỳ gần gũi với đời sống hiện thực, đậm chất nhân văn.
Nhân vật Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) và các nhân vật Đào, Liễu
(Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây) đều được Nguyễn Dữ xây dựng bằng bút pháp kì
ảo, không phải là con người thực. Thế nhưng các nhân vật này đều có tên
tuổi, địa chỉ rõ ràng, có số phận, tính cách cụ thể, riêng biệt. Mượn yếu tố kì
ảo để xây dựng nhân vật nhưng những khát vọng sống của Nhị Khanh, Đào
Hồng Nương và Liễu Nhu Nương là thật, là hiện thực tràn trề nhựa sống mà
tác giả muốn nói tới. Trong Chuyện cây gạo, nhân vật hồn ma Nhị Khanh đã
ba lần bày tỏ quan niệm về tình yêu thông qua ba lượt lời nói trực tiếp và bộc
87
lộ khát vọng hạnh phúc ân ái qua hai bài thơ ghi lại cảnh hoan lạc với Trung
Ngộ. Còn hai hồn hoa Đào, Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây cũng đã hai
lần nói ra miệng những quan niệm về tình yêu và khát vọng giải phóng tình
cảm bản năng. Bên cạnh đó, mỗi nàng Đào Nương và Liễu Nương lại có
những bài thơ tự sáng tác để nói lên ước vọng hạnh phúc của cá nhân mình.
Không thể phủ nhận rằng, cá tính mạnh mẽ và khát vọng yêu đương chân
chính là những điểm đáng được đề cao ở các nhân vật này. Không chỉ sống có
cá tính và mơ ước, những cô gái như Nhị Khanh, Đào nương và Liễu nương
còn xinh đẹp và rất tài năng. Trong thế giới thực, những cô gái như họ thật
hiếm có và đáng trân trọng, nhưng đáng tiếc thay họ lại chỉ là những nhân vật
kì ảo có xuất thân ma quái đáng sợ. Nguyễn Dữ đã dẫn dắt độc giả đi từ bất
ngờ này tới bất ngờ khác khi ban đầu để nhân vật của mình xuất hiện như
những con người cụ thể, chân thực và sống động, rồi bất ngờ mở tung cánh
cửa kì ảo về xuất thân của họ.
Trong Chuyện cây gạo, ban đầu Nhị Khanh xuất hiện là con người
bằng xương bằng thịt với lời giới thiệu về bản thân đầy đủ tên tuổi, gia cảnh:
"Thiếp họ Nhị tên Khanh, là cháu gái của cụ Hối, một nhà danh giá trong
làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn hàn. Mới đây bị người chồng ruồng
bỏ, thiếp phải dời ra ở bên ngoài lũy làng" [5.35]. Hay trong Chuyện kì ngộ ở
trại Tây, hai nàng Đào, Liễu cũng xuất hiện với tên họ và lí lịch rõ ràng:
"Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu nương, một người họ Đào, tên gọi
Hồng Nương, nguyên là những tì thiếp của quan Thái sư" [5.54]. Điểm đặc
biệt là ở chỗ mặc dù nhân vật của Nguyễn Dữ không phải người thực nhưng lí
lịch của các nhân vật này đều có căn cứ rõ ràng. Dù là một ma nữ, cái tên Nhị
Khanh và hoàn cảnh của nàng là hoàn toàn chân thực: "Sáng hôm sau nhân
đến Đông thôn hỏi thăm, quả có người cháu gái của ông cụ Hối, lên 20 tuổi,
chết đã nửa năm, hiện quàn ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng" [5.54]. Còn
với Đào Nương và Liễu Nương, dù xuất thân chỉ là những hồn hoa nhưng vẫn
88
danh xưng tuân thủ theo nguyên tắc: nguồn gốc của hoa nào thì mang họ của
hoa ấy. Tất cả những lí lịch này đều có căn cứ chứ không chỉ là sự bịa đặt tình
cờ hay chọn lựa ngẫu nhiên.
Không chỉ chân thực từ tên tuổi, lai lịch mà các nhân vật của Nguyễn
Dữ còn được xây dựng có tính cách, số phận riêng biệt, đầy ấn tượng. Nhìn từ
quan điểm nhân sinh thì nhân vật Nhị Khanh hiện lên rất sống động bởi sự
xinh đẹp và cá tính mạnh mẽ dám sống thật với bản thân. Thế nhưng dưới góc
độ hệ tư tưởng Nho giáo, Nhị Khanh hiện lên là một hồn ma tàn ác, dụ dỗ đàn
ông chết theo mình để được cùng thỏa mãn nhu cầu ích kỉ của cá nhân. Tuy
nhiên, một người đã chết hóa làm ma như Nhị Khanh chỉ khao khát ái ân và ái
ân đó phải từ người mà nàng thích, nàng yêu chứ không phải bất kể đàn ông
nào nàng cũng cùng chung chạ chăn gối. Trình Trung Ngộ dù biết Nhị Khanh
là ma nữ nhưng vẫn say mê nàng, đi theo nàng, chết cạnh quan tài của nàng
và cũng hóa thành yêu ma để chung sống bên nàng. Hình ảnh hai người “dắt
tay nhau đi đôi, khi thì hát, khi thì khóc” [5.41], “thân thể lõa lồ mà cùng
nhau cười đùa nô giỡn, đến gõ thình lình mà gọi hỏi trong chùa” [5.41] như
lời thách thức với toàn xã hội đương thời. Hai hồn ma ấy không được sống
cuộc sống trần tục nhưng lại được cùng nhau tận hưởng hạnh phúc đời thường
trần tục. Đó là niềm hạnh phúc được sống chân thật là chính mình. Tuy nhiên,
theo quy luật của cuộc sống, những thứ khác biệt với tư tưởng chính thống
đương thời sẽ bị tàn phá và hủy diệt. Chính vì vậy, kết cục của Nhị Khanh và
Trình Trung Ngộ là cả hai đều bị diệt trừ bởi một đạo sĩ cao tay. Nhưng nỗi
đau đó với Nhị Khanh còn lớn hơn gấp nhiều lần. Nàng đã phải chết đến hai
lần trên con đường đi tìm hạnh phúc: lần đầu chết trẻ, nàng lật áo quan đi tìm
hạnh phúc ái ân, giành được hạnh phúc và đang say mê hưởng thụ nó thì nàng
bị diệt trừ lần hai và lần này là vĩnh viễn không thể hoàn sinh nữa. Cảnh Nhị
Khanh và Trung Ngộ bị diệt trừ ở cuối truyện hoàn toàn là khung cảnh kì
ảo: “Một lúc, mây gió nổi lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không
89
trông thấy nhau, dưới sông thì sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau
một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây gạo đã bị nhổ bật, cành cây gẫy nát và
bị tước như tước đay vậy. Kế nghe thấy trong không có tiếng roi vọt và tiếng
kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông có 6,7 trăm lính đầu trâu gông trói hai
người mà dẫn đi” [5.42,43]. Với hệ tư tưởng đương thời, những yêu ma như
Nhị Khanh là giống dâm quỷ, càn rỡ, đáng bị tiêu diệt. Thế nhưng, trong cái
kết kì ảo của câu chuyện, người ta cũng nghe thấy tiếng kêu khóc của Nhị
Khanh - tiếng kêu khóc ấy đâu phải chỉ vì bị trừng phạt mà nó còn là tiếng
khóc thương cho số phận éo le và nỗi ngang trái đầy đau đớn của cuộc đời
nàng. Với nhiều người, cái kết đó là hoàn toàn hợp lí nhưng với một nhà văn
có tấm lòng nhâu hậu và đa mang như Nguyễn Dữ, cái kết đó còn ẩn chứa bi
kịch trên con đường đi tìm hạnh phúc của con người.
Phải chịu nỗi bất hạnh chết sớm khi tuổi đời còn quá trẻ, Nhị Khanh đã
vượt qua số phận để đi tìm hạnh phúc ái ân, để không phải luyến tiếc tuổi trẻ
nhưng tình yêu và hạnh phúc với nàng cũng thật ngắn ngủi. Niềm khát khao
rất “người” của Nhị Khanh sớm bị dập tắt và nàng cũng phải nhận cái chết bi
thảm giống những người phụ nữ thuần hậu, nết na ở trần gian như Vũ Thị
Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Lệ Nương (Chuyện Lệ
Nương)…Vậy là làm người phụ nữ bình thường đã bất hạnh, Nguyễn Dữ xây
dựng nên hình tượng ma nữ Nhị Khanh hòng mong níu kéo lại chút hạnh
phúc riêng cho nàng thì cũng bị dày xéo, dập vùi đến mức thê thảm. Yếu tố kì
ảo của thể loại truyền kì trong xây dựng nhân vật đã góp phần đắc lực giúp
Nguyễn Dữ thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình, nhưng nó không thắng
được những lễ giáo phong kiến hà khắc, vì vậy nàng Nhị Khanh khao khát
tình yêu tự do, hạnh phúc ân ái trong tư tưởng của Nguyễn Dữ vẫn phải chết
lần thứ hai. Nếu người đọc chỉ nhìn Nhị Khanh với đôi mắt khắt khe theo
quan điểm đạo đức thì sẽ không thể hiểu thấu tình thương mà Nguyễn Dữ đặt
ở nhân vật này. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố kì ảo
90
để xây dựng Nhị Khanh. Chỉ với thể loại truyền kì, nhân vật của Nguyễn Dữ
mới thỏa sức vẫy vùng, bày tỏ tận độ ham muốn yêu và sống, không còn e dè
hay sợ hãi trước lễ giáo Nho gia.
Không giống như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo là kiểu nhân vật
ma quái, hai nàng Đào và Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây vốn có xuất
thân là những hồn hoa của loài thảo mộc. Truyện kể về cuộc gặp gỡ giữa
chàng học trò Hà Nhân với hai cô gái đẹp là Đào Hồng nương và Liễu Nhu
nương ở trại Tây. Sinh tuy mang tiếng đi học nhưng lại mải mê ân ái trong
những cuộc truy hoan với hai nàng Đào, Liễu. Những cuộc ân ái tay ba cứ kéo
dài theo ngày tháng cho tới khi mùa đông về, gió đông kéo tới vùi nát những
cành hoa ở trại Tây và kéo theo sự biến mất của hai cô gái đẹp. Lúc bấy giờ,
Sinh mới “giật mình tỉnh ngộ, tự nghĩ mình bấy lâu mê mải, chỉ là đánh bạn
với hồn hoa” [5.67]. Chàng trở về làm một bài văn tế hai nàng. Đêm đó,
chàng chiêm bao thấy hai nàng đến bái tạ rồi vụt bay lên trên không biến mất.
Trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh có xuất hiện nhiều nhân vật nữ
xuất thân là loài tinh hoa như: nàng Hoàng Anh (Tinh cúc - nghề hoa) vốn là
tinh hoa cúc, cô gái xinh đẹp Cát Cân là tinh hoa mẫu đơn (Yêu hoa đâu dễ
biết hoa) hay có loại tinh mộc như: nàng Hương Ngọc là cây bạch mẫu đơn,
Giáng Ngọc là cây nại đông (Hương Ngọc). Các nhân vật tinh hoa của Bồ
Tùng Linh đã có cá tính riêng biệt song chưa có nhân vật nào phát ngôn trực
tiếp về quan niệm tình yêu như hai nàng Đào và Liễu trong Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ. Tuy chỉ là những hồn hoa nhưng Đào và Liễu vẫn có khát
vọng yêu đương chân chính và cũng trải qua những cung bậc cơ bản nhất
trong cảm xúc yêu thương của con người. Hai nàng đã chán ghét cuộc sống
của một kiếp hoa vô tri vô giác mà biến huyễn thành những cô gái đẹp để
được tận hưởng cuộc sống bình dị nơi trần gian. Dù ngay từ đầu đã chấp nhận
cùng chia sẻ chàng nho sinh Hà Nhân nhưng dường như cảm xúc yêu thương,
buồn tủi, hờn ghen vẫn là của riêng mỗi hồn hoa. Khi Sinh khen Liễu đẹp mà
quên không để ý tới Đào, Đào đã xấu hổ, buồn phiền: “lặng lẽ cúi đầu, có
91
dáng hổ thẹn, rồi từ đấy luôn trong mấy hôm không đến” [5.57], chỉ tới khi
nhận được thư của Sinh thì mới đi lại như trước. Như vậy, dù chỉ là những
hồn hoa nhưng Đào và Liễu vẫn là những cô gái có tâm hồn, có trái tim và
cảm xúc. Chính những khát vọng ân ái và lời mời gọi hưởng thụ cuộc sống
hạnh phúc mới có thể khiến hai hồn hoa đủ dũng cảm biến thành hai cô gái
đẹp để sống cuộc đời của con người, dù cuộc sống đó thật ngắn ngủi.
Hai nhân vật Đào, Liễu không chỉ có tâm hồn mà tấm chân tình hai
nàng dành cho Hà Nhân cũng rất đáng trân trọng. Khi biết cha mẹ đã sắp đặt
hôn kì cho Sinh, hai nàng khuyên lơn chàng về lập gia đình theo ý cha mẹ,
không hề có ý ràng buộc hay trách móc, thậm chí còn biết nhẫn nhục, hi sinh:
“Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng đáng được việc tảo tần ở gia
đình. Vả lại ngôi chủ phụ trong nhà tất phải là người trong nền nếp trâm anh,
chúng em đâu dám chòi mòi đến” [5.59]. Hai cô gái trẻ tự ý thức được bản
thân mình chỉ cùng hưởng hạnh phúc ái ân với Hà Nhân trong một khoảng
thời gian ngắn ngủi, không thể đòi danh phận hay vị trí gì trong cuộc đời
chàng. Chính vì vậy, mong muốn của Đào, Liễu là được thấy chàng ghi nhớ
tình cũ mà sớm trở lại, tiếp tục bên nhau hưởng hạnh phúc gối chăn. Ngày
biệt ly, hai nàng đều nâng chén làm thơ tiễn biệt, khiến cho “Sinh rưng rưng
đôi hàng nước mắt” [5.63]. Nếu như giữa Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu chỉ
có chuyện nhục dục trần trụi theo bản năng thì có lẽ Sinh đã không phải cảm
động đến vậy. Giữa họ, ngoài những phút giây cùng vui ân ái, còn có những
kỉ niệm ấm áp, vui vầy đầy ân nghĩa: bữa tiệc đêm nguyên tiêu ở trại Tây,
những phút hờn ghen buồn tủi của nàng Đào, những lúc hai nàng vượt qua
mưa gió vẫn tới đúng hẹn…
Ngày hai nàng phải thác hóa, Đào và Liễu mỗi người “để đôi hài cườm
lại tặng Sinh” [5.66] làm kỉ vật cho duyên gặp gỡ cùng lời biệt ly: “Ham vui
ân ái ai ai chẳng lòng; nhưng số trời đã định, kỳ về đến nơi, biết làm sao
được. Rồi đây cánh ra trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú
vui biết sẽ thuộc về đâu” [5.65]. Lời nói chia ly của hai nàng đã thể hiện sự
92
nuối tiếc những năm tháng ngắn ngủi cùng Hà Nhân hưởng hạnh phúc ái ân.
Khi Sinh biết rõ gốc tích của hai nàng, về lấy đôi hài ra xem thì “vừa cầm lên
tay, mấy chiếc hài đã thành ra những cánh hoa, bay vèo lên trên không mất”
[5.67]. Chi tiết những chiếc hài hóa thành những cánh hoa bay đi mất là vật
chứng đánh thức Hà Nhân tỉnh ngộ khỏi lòng đắm đuối sắc dục, tạo nên sự
ngỡ ngàng cho người đọc nhưng nó lại chứng minh một thực tế rằng: Hạnh
phúc trần thế mà con người mê đắm thật ngắn ngủi và mong manh, nó không
thể hiện hữu lâu dài ở nơi trần gian này. Những thú vui ân ái, những không
gian thơ mộng của đêm tiệc nguyên tiêu ở trại Tây chỉ là thứ huyễn hoặc, phi
hiện thực. Nếu trong lần đầu Hà Nhân đến dự tiệc cùng Đào và Liễu, không
gian trại Tây thật tươi mát, vui vầy với “khu vườn cây cối xanh tươi, mùi hoa
thơm ngát” [5.58], có “những mỹ nhân tự xưng là họ Vi, họ Lý, họ Dương,
này chị họ Kim, kia cô họ Thạch, lục tục đến mừng và dự tiệc” [5.59] thì
trong lần đến sau của chàng, cảnh vật đã trở về với hiện thực trần trụi, chỉ còn
“nếp nhà quạnh hiu, vài ba cây đào liễu xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ
vương khắp giậu” [5.66]. Hai nàng Đào và Liễu mang tới cho Hà Nhân giấc
mộng ân ái và khi hai nàng ra đi, giấc mộng liêu trai ấy cũng vụn vỡ tan tành.
Các nhân vật nữ là ma, hồn hoa trong Truyền kỳ mạn lục được xây
dựng theo phương thức kì ảo độc đáo. Thủ pháp này cho phép tác giả, một
mặt làm cho tác phẩm không đi ngược lại với quan niệm đương thời cho rằng
phụ nữ là “ma quái”, là chứa chất sự mê hoặc, là nguồn gốc của tội lỗi; mặt
khác, qua các nhân vật nữ ma quái như Nhị Khanh và hai nàng Đào, Liễu,
Nguyễn Dữ tự do nói lên những phát ngôn thể hiện rõ quan niệm đề cao chữ
"thân" với khát vọng sống và yêu, theo đúng nghĩa con người - một thực thể
sinh học mà trong thời đại ông sống không được phép nói ra. Nhìn lại hai
tuyến nhân vật mà tác giả Nguyễn Dữ xây dựng, ta có thể thấy rằng yếu tố kì
ảo đã hỗ trợ đắc lực trong việc xây dựng ngôn ngữ đặc trưng của nhân vật nữ
ở mỗi tuyến. Đối với những nhân vật phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo
đức Nho giáo như Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Vũ
93
Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Lệ Nương (Chuyện Lệ
Nương), Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên), các phát ngôn của nhân
vật đều tuân thủ theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo với việc sử dụng hàng loạt
các điển tích, điển cố, cách xưng hô "thiếp" - "chàng", "lang quân" dịu dàng,
chuẩn mực, thể hiện rõ lòng "kiên trinh tiết liệt" hoặc quan niệm tình yêu
trong sáng, thủy chung. Từ đó góp phần thể hiện nhân cách cao đẹp của người
phụ nữ trong xã hội xưa theo quan điểm Nho gia. Còn đối với tuyến nhân vật
phụ nữ phi truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo như Nhị Khanh
(Chuyện cây gạo), Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương (Chuyện kì ngộ ở
trại Tây), phát ngôn của các nhân vật này được xây dựng bằng hệ thống các
từ và cụm từ đậm màu sắc dục, hướng tới sự hưởng thụ thân xác: "quạt hơi
dương vào hang tối" [5.36], "thả khí nóng tới mầm khô" [5.36] "trộm bén
xuân quang" [5.36], "tìm lấy những thú vui" [5.36] "tìm cuộc hoan lạc ái
ân"[5.36], "tìm thú vui say" [5.38], "khỏi hoài phí mất xuân quang" [5.54]...
Có thể thấy những từ ngữ đầy táo bạo, đậm màu sắc dục này không hề xuất
hiện trong trường ngôn ngữ phổ biến của văn học trung đại giai đoạn trước.
Chỉ đến khi xây dựng nhân vật là những hồn ma, hồn hoa như Nhị Khanh
(Chuyện cây gạo), Đào nương và Liễu nương (Chuyện kì ngộ ở trại Tây) thì
Nguyễn Dữ mới có điều kiện để thổi một luồng phát ngôn nhục dục mới mẻ
vào văn chương đương thời. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố thực và yếu tố
kì, Nguyễn Dữ đã đưa Truyền kỳ mạn lục phát triển tới mức đỉnh cao của thể
loại truyền kì ở Việt Nam.
Bằng việc khắc họa chân dung của những hồn hoa bóng quỷ, Nguyễn
Dữ đã tự do thể hiện tài năng và tư tưởng nhân sinh tiến bộ của mình. Lúc
này, mã thể loại trở thành một công cụ đắc lực trong việc chuyển tải quan
điểm, thái độ của tác giả với con người và cuộc đời. Mã thể loại truyền kì
chính là chiếc mặt nạ hoàn hảo nhất để Nguyễn Dữ có thể bộc lộ tư tưởng
nhân sinh tiến bộ của mình, tránh được những quy tắc khắt khe đương thời.
94
Vì vậy, để hiểu được tác phẩm này, người đọc cần nắm vững các yếu tố kì ảo,
vai trò của nghệ thuật ảo hóa trong việc xây dựng nhân vật, tránh cái nhìn đơn
giản, một chiều.
Sau cái chết lần thứ hai của Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), Nguyễn Dữ
tiếp tục sử dụng yếu tố kì ảo để xây dựng những hình tượng nhân vật phụ nữ
là hồn hoa như Đào, Liễu (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây). Nhưng rốt cuộc, hoa là
một sự vật của thiên nhiên và nó cũng phải tuân theo quy luật của tự nhiên:
khi đông về thì hoa rụng xuống và hai nàng Đào, Liễu thác hóa, chính là lúc
tan tác những ân ái, những kỉ niệm hạnh phúc của tình yêu trần thế. Hai nàng
đến với Hà Nhân không nhằm mục đích gì ngoài hạnh phúc ái ân nên khi sắp
ra đi, hai nàng cũng hết lời cảm tạ và để lại tặng vật. Thấu hiểu tấm chân tình
và khát vọng sống của hai hồn hoa, chàng Hà Nhân đã không ngần ngại “đem
cầm một cái áo, lấy tiền làm mâm cỗ bày cúng hai nàng; lại làm một bài văn
tế” [5.67], khiến hai nàng cảm động, hiện về trong giấc chiêm bao để cảm tạ:
“Đội ơn lang quân làm bài văn tế viếng, khiến cho thanh giá chúng em càng
bội tăng lên” [5.69]. Xây dựng những nhân vật hồn hoa có khát vọng yêu
đương chân chính như vậy, Nguyễn Dữ muốn tái khẳng định nhu cầu được
hưởng hạnh phúc đời thường gắn với nhu cầu bản năng lành mạnh của mỗi
con người. Đào Hồng nương và Liễu Nhu nương chỉ là những hồn hoa vô hại,
nhưng với xã hội phong kiến khắt khe, những cô gái có mơ ước yêu đương tự
do và khát vọng sống mãnh liệt như vậy không được phép tồn tại. Hệ tư tưởng
Nho giáo của xã hội đương thời không tạo cơ hội cho bất kỳ nhu cầu cá nhân
nào được xuất hiện, nên một lần nữa Nguyễn Dữ phải mượn tới yếu tố kì ảo
của thể loại truyền truyền kì để xây dựng nhân vật phụ nữ độc đáo theo tư
tưởng tiến bộ của mình. Đặt Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) và Đào, Liễu
(Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây) trong thế so sánh với nhau, người đọc có thể thấy
yếu tố kì ảo mà tác giả sử dụng có sự biến đổi về chất: Nhị Khanh là ma nữ,
xuất thân là người chết được nửa năm; Đào và Liễu là hồn hoa, biến huyễn từ
tinh hoa trong một vọng tộc đã suy tàn cách đó hai mươi năm. Nhị Khanh dụ
95
dỗ Trung Ngộ chết theo mình, Đào và Liễu sống có ân nghĩa với chàng Hà
Nhân. Rõ ràng, yếu tố kì ảo được tô đậm hơn ở hai nàng Đào, Liễu; mơ ước
được giao hòa với cuộc đời và hành động của của hai nhân vật này cũng gần
gũi và dễ cảm thông hơn so với sự tác oai tác quái của Nhị Khanh. Không
phải yếu tố kì ảo nào cũng gây nên cảm giác ghê sợ cho người đọc và Nguyễn
Dữ đã thành công khi xây dựng nên nhân vật Đào, Liễu ảo mà như thực, có
tâm hồn và lòng yêu thương rất đáng trân trọng.
Phải chăng trong thẳm sâu tư tưởng, Nguyễn Dữ đã ý thức rõ rằng: trong
xã hội phong kiến, dù người phụ nữ sống đạo đức, tiết hạnh đến đâu thì họ vẫn
phải nhận những nỗi bất hạnh tột cùng khi phẩm giá của họ không được đền
đáp mà ngược lại, bị vùi dập và cuối cùng là cái chết oan uổng. Bởi vậy, ông đã
có một cái nhìn khác đối với những người phụ nữ dám vượt qua sự cương toả
của lễ giáo, tìm đến với tình yêu tự do. Ông không ngần ngại miêu tả tình yêu
với tất cả sự mê đắm của chàng lái buôn Trình Trung Ngộ và ma nữ Nhị Khanh
(Chuyện cây gạo), chàng nho sĩ Hà Nhân với hai hồn hoa Đào, Liễu (Chuyện
kỳ ngộ ở trại Tây), lật tung những giá trị đạo đức khi để cho các nhân vật sống
với con người bản năng của mình. Mặc dù vậy, Truyền kỳ mạn lục vẫn chứa
đựng những mâu thuẫn phức tạp trong thái độ của tác giả, điển hình là sự mâu
thuẫn giữa tư tưởng bảo thủ của một nhà Nho và tư tưởng tiến bộ vượt thời đại
của một nhà văn. Điều này được thể hiện ở lời bình cuối mỗi truyện. Ông xây
dựng những nhân vật phụ nữ dám tự do ngôn luận, tự do sống “lệch chuẩn” và
chính ông đã thông qua nhân vật để nói lên khát vọng tình yêu cho người phụ
nữ thời phong kiến, Thế nhưng, khi viết lời bình ông lại lên án những phát
ngôn đó, phê phán lối sống và quan niệm tự do yêu đương đó.
Trong Chuyện cây gạo, ở lời bình cuối truyện Nguyễn Dữ viết : “Than
ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải nạn đáng lo cho người thiên hạ,
nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là một gã lái
buôn không có tri thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia vì người trừ hại,
96
công đức to lớn; nhà bình luận công bằng sau này, phải nên biết đến. Không
nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất
cái hay, ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa người quân tử trung hậu đối với người
khác” [5.43]. Như vậy, ông gọi Nhị Khanh là “giống ma quỷ” chuyên quyến
rũ những kẻ ham mê sắc dục. Những yêu nữ như Nhị Khanh cần phải bị diệt
trừ bởi bàn tay của những người quân tử trung hậu và diệt trừ được nàng tức là
diệt trừ được cái dục vọng của con người - một việc đáng để ngợi ca. Lời bình
thiên số 3 (Chuyện cây gạo) phê phán chuyện ma quỷ và lên án Trình Trung
Ngộ vì mê sắc dục mà bỏ bê công việc. Còn trong tác phẩm, Nguyễn Dữ, qua lời
văn mô tả của mình đã gián tiếp bộc lộ một thái độ đồng tình với mối tình giữa
người dương và người âm là Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh. Mô tả cuộc tình vẻ
quái gở giữa hai nhân vật này là một giọng văn khá lãng mạn và bay bổng.
Nguyễn Dữ gián tiếp đả phá vào lễ giáo phong kiến gò bó con người vào những
quy phạm đạo đức, nhiều khi phi lí, phi nhân văn, từ đó tác giả đề cao luyến ái tự
do của con người. Đặt trong hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc đó, đây là một bước
tiến rất xa về mặt tư tưởng của Nguyễn Dữ. Cũng tương tự như vậy, trong
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Nguyễn Dữ để lời bình rằng: “Than ôi, thanh lòng
không bằng ít dục. Dục nếu yên lặng thì lòng trống rỗng mà điều kiện sẽ vào,
khi bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn quấy nhiễu làm sao được. Chàng
họ Hà lòng trẻ có nhiều vật dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ. Nếu
không thì những giống nguyệt quái hoa yêu, mê hoặc sao được mà chẳng phải
thu hình nép bóng ở trước Lương công là một bậc chính nhân. Kẻ sĩ gánh cặp
đến học ở Trường An, tưởng nên chăm chỉ về học nghiệp, tuy không dám mong
đến được chỗ vô dục nhưng giá tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm” [5.70].
Như vậy, Nguyễn Dữ đã dùng những từ ngữ có tính miệt thị để gọi Đào Hồng
nương và Liễu Nhu nương như: “tà quỷ”, “vật dục”, “loài kia”, “giống
nguyệt quái hoa yêu”.
Điều này cho thấy có sự đấu tranh quyết liệt giữa các luồng tư tưởng
97
trong ngòi bút của Nguyễn Dữ: sự mâu thuẫn giữa hệ tư tưởng Nho giáo truyền
thống đang dần mờ nhạt, sáo rỗng và tư tưởng nhân văn tiến bộ của cá nhân tác
giả. Nguyễn Dữ say sưa tái hiện nhân vật của mình dưới góc độ con người bản
năng với những nhu cầu tâm sinh lý chân chính, ông dành nhiều bút lực tái hiện
cảnh khoái lạc trần gian, ân ái hạnh phúc giữa yêu và người. Thế nhưng, khi tác
giả nhớ tới quan điểm đạo đức của Nho giáo, ông lại bình luận một cách giáo
điều, cứng nhắc, gượng ép theo hệ tư tưởng đương thời. Nếu trong những trang
viết miêu tả cảnh ân ái, Nguyễn Dữ say sưa, cảm tính bao nhiêu thì khi đặt bút
viết lời bình, ông lại lý trí và cứng nhắc bấy nhiêu. Lời bình của Nguyễn Dữ
không trùng khớp và tương xứng với nội dung tư tưởng mà ông truyền tải trong
cốt truyện. Vì vậy, rốt cuộc ở phần cuối Chuyện cây gạo và Chuyện kỳ ngộ ở
trại Tây, lời bình của tác giả lại dẫn dắt người đọc đến với quan niệm: hạnh
phúc ái ân không được coi là hạnh phúc trần thế đáng ca ngợi mà là những
chuyện tà dâm của giống yêu ma đáng sợ, cần khuyến cáo trừng phạt.
Mượn yếu tố kì và ảo, chọn thế đứng, điểm nhìn độc đáo và an toàn
Nguyễn Dữ gián tiếp ca ngợi tự do luyến ái nam nữ, thể hiện một thái độ đồng
tình với những nhu cầu hết sức bản thể và tự nhiên tốt đẹp của con người. Đó
chính là nội dung tư tưởng chủ đạo của các thiên truyện trong Truyền kì mạn
lục. Thời đại Nguyễn Dữ là thời đại còn chưa cởi mở nên chính bản thân
Nguyễn Dữ vẫn đang bị gò bó trong những quan niệm lễ giáo, đạo đức phong
kiến khá ngặt ngèo. Từ đó, thái độ không đồng tình, lên án nhân vật (mà vừa
trước đó ông ca ngợi) là một điều dễ hiểu. Điều này cho thấy sự mâu thuẫn và
cũng chính là sự thống nhất trong tư tưởng và tâm hồn Nguyễn Dữ: một bên
là cuộc sống đích thực, tự do của con người; bên kia là những giàng buộc lễ
giáo mà con người ta phải tuân thủ. Từ sự mâu thuẫn đó, ta nhận thấy rằng
Nguyễn Dữ đang vật lộn trên hành trình đi tìm hạnh phúc chân chính cho con
người, đặc biệt là người phụ nữ khi ông có ý thức chuyển ngòi bút từ diễn
ngôn đại tự sự sang diễn ngôn tiểu tự sự. Và để thấy rõ điều này, ta chỉ có thể
98
đặt phát ngôn của các nhân vật Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), Đào nương và
Liễu nương (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây) trong mối quan hệ giữa hai mã hệ tư
tưởng và mã thể loại của lý thuyết diễn ngôn hiện đại. Mã thể loại truyền kì
chính là vỏ bọc hoàn hảo để Nguyễn Dữ ngụy trang cho tư tưởng của mình,
để nhân vật phụ nữ của ông có thể lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ và an toàn
nhất cho hạnh phúc cá nhân trong bối cảnh xã hội đương thời. Chính vì vậy,
muốn hiểu Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, người đọc ngày nay cần đặt
tác phẩm trong mối quan hệ giữa mã hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến, mã tư
tưởng riêng của tác giả và mã thể loại truyện truyền kì.
Với ngòi bút sắc sảo và chân thật, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên những
nhân vật Nhị Khanh, Đào Hồng nương, Liễu Nhu nương mang hơi thở của
hạnh phúc ái ân, mang tâm hồn cháy bỏng yêu và sống. Có thể coi Nhị Khanh
trong Chuyện cây gạo, Đào và Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây là những
nhân vật khởi đầu thành công cho biểu tượng người phụ nữ dám đứng lên
chống lại chế độ nam quyền hủ lậu, nghiệt ngã. Sau sự xuất hiện của Truyền
kỳ mạn lục ở thế kỉ XVI, văn học trung đại Việt Nam tiếp tục đón nhận hàng
loạt những tác phẩm đề cập tới quyền sống và mưu cầu hạnh phúc của phụ
nữ, đặc biệt ở thế kỉ XVII - XVIII với sự xuất hiện của Chinh phụ ngâm
(Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương
và đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều (Nguyễn Du). Sau Nguyễn Dữ, các tác giả
văn học trung đại đã tập trung hướng ngòi bút tới số phận khổ đau, ước mơ
hạnh phúc bình dị trong tình yêu của người phụ nữ. Tuy nhiên, các nhân vật
nữ của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều và Nguyễn Du vẫn tuân thủ quan
điểm đạo đức Nho giáo, dù có khao khát tình yêu mạnh mẽ nhưng chưa táo
bạo thể hiện quan niệm về tình yêu một cách trực tiếp qua các phát ngôn, đặc
biệt là với tình yêu sắc dục.
Dựa trên thực tế sáng tác, Nguyễn Dữ đã đặt nền móng cho sự xuất hiện
và trỗi dậy của kiểu loại nhân vật phụ nữ mới, hoàn toàn trái ngược với quan
99
điểm đạo đức Nho giáo. Trên con đường đi của mình, ông đã có những dằn vặt,
trăn trở với chính bản thân mình để rồi tiếng nói của trái tim nhân đạo đã chiến
thắng, làm nên một “áng văn hay của bậc đại gia” được đời đời lưu giữ và ngợi ca.
* Tiểu kết chương 3
Ở chương 3, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu quan niệm về “thân” qua
hình mẫu phụ nữ phi truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo nhìn từ
lý thuyết diễn ngôn. Tác giả sử dụng yếu tố kì ảo để ảo hóa nhân vật nữ của
mình với mong muốn có thể đem tới cho họ chút hạnh phúc bình dị đời
thường. Thế nhưng dù là nhân vật phụ nữ trinh thuần cương liệt hay táo bạo
phá cách thì cuối cùng, các nhân vật nữ của Nguyễn Dữ vẫn phải chịu số phận
khổ đau, chia ly tan tác và thậm chí là những cái chết thương tâm. Thông qua
những quan niệm về nhu cầu vật chất, vấn đề sinh - tử và quan niệm tình yêu
của các nhân vật nữ coi trọng chữ thân, Nguyễn Dữ muốn tìm ra câu trả lời
cho con đường đến với hạnh phúc thật sự của con người. Dù ông có mâu
thuẫn trong tư tưởng ở phần lời bình so với nội dung của một số truyện nhưng
thái độ của Nguyễn Dữ đối với người phụ nữ vẫn là niềm thương cảm, xót xa
sâu sắc. Niềm thương cảm ấy xuất phát từ một trái tim nhân hậu của một
người biết đau nỗi đau thời cuộc và khắc khoải khát vọng mang lại hạnh phúc
thật sự cho kiếp người. Đó cũng chính là hành trình tìm đường của một nhà
100
văn chân chính.
KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu về tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, chúng
tôi đã vận dụng một số tri thức văn hóa, tư tưởng thời trung đại ở Việt Nam
để phân tích, làm rõ quan niệm về tình yêu của hai kiểu nhân vật phụ nữ: đó
là hình mẫu phụ nữ truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo như Nhị
Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ Thị Thiết trong
Chuyện người con gái Nam Xương, Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương,
Giáng Hương trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên và hình mẫu phụ nữ phi
truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo như Nhị Khanh trong Chuyện
cây gạo và Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở trại
Tây. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Trong Truyền kì mạn lục nổi bật lên hai tuyến nhân vật phụ nữ có
tính cách, quan niệm sống và yêu gần như trái ngược nhau. Một bên là người
phụ nữ truyền thống tuân thủ đạo đức Nho giáo với quan niệm về tình yêu
thủy chung và khát khao hạnh phúc gia đình bình dị, đề cao cái tâm trong
sáng và coi nhẹ chữ thân; còn một bên là người phụ nữ phá cách với khát
vọng hưởng thụ hạnh phúc ân ái mãnh liệt, đề cao chữ thân và phần nào coi
nhẹ chữ tâm. Bên cạnh những nhân vật nữ là điển hình cho lòng kiên trinh tiết
liệt, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, xuất hiện những nhân vật
phụ nữ có cá tính mạnh mẽ, có sự nổi loạn trong tâm hồn, có khát vọng sống
và yêu mãnh liệt, dám băng qua những rào cản phong kiến để sống là chính
mình, tự do nói lên quyền được đáp ứng những nhu cầu cá nhân. Tuy nhiên, ở
cả hai tuyến nhân vật này dù là hình mẫu nhân vật nào thì kết cục của họ vẫn
là khổ đau, không thể có được hạnh phúc mà mình mơ ước.
2. Những quan niệm tình yêu của các nhân vật được khéo léo gài trong
mã thể loại truyền kì. Đối với những nhân vật phụ nữ truyền thống theo quan
điểm đạo đức Nho giáo, yếu tố kì ảo là một phần quan trọng để tác giả có thể
101
minh oan và nối lại cho họ chút hạnh phúc nơi trần thế. Còn đối với nhân vật
phụ nữ phi truyền thống theo quan điểm đạo đức Nho giáo, thể loại truyền kì
trợ giúp đắc lực cho nhân vật trong việc trực tiếp nói ra quan niệm táo bạo của
mình mà vẫn nằm trong “vùng an toàn” của hệ tư tưởng phong kiến. Bằng
việc sử dụng yếu tố kì ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công hình tượng các
nhân vật yêu ma, hồn hoa để chuyển tải nội dung tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Mã thể loại truyền kì là dung môi tương xứng nhất để Nguyễn Dữ hòa tan
những mâu thuẫn trong tư tưởng của mình. Lý trí của ông là của một nhà Nho
tuân thủ đạo đức phong kiến nhưng tâm hồn và trái tim ông lại là của một nhà
văn biết sống vì con người và cuộc đời.
Nguyễn Dữ đã sớm nhận ra những hiện thực bất công và mặt trái của
xã hội đương thời đối với người phụ nữ. Ông bày tỏ niềm cảm thông, chia sẻ
với số phận khổ đau và khát vọng sống mãnh liệt, đáng trân trọng của người
phụ nữ trong xã hội xưa. Ở điểm này, Nguyễn Dữ đã thể hiện tư tưởng nhân
đạo sâu sắc trên hành trình tìm đường hạnh phúc cho con người của một nhà
văn chân chính.
3. Sử dụng lý thuyết diễn ngôn hiện đại để nghiên cứu về tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục, luận văn đã tìm hiểu quan niệm về chữ thân qua các phát ngôn về
nhu cầu vật chất, vấn đề sinh - tử và tình yêu của các nhân vật thông qua những
lời nói trực tiếp và các sáng tác thơ. Có thể thấy mã hệ tư tưởng và mã thể loại
của Truyền kỳ mạn lục có mối quan hệ chặt chẽ và logic với nhau, dựa trên cơ sở
tư tưởng của chính tác giả Nguyễn Dữ. Qua đó, chúng tôi mong muốn góp thêm
một góc nhìn mới về tác phẩm này ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
4. Vận dụng lí thuyết mới để nghiên cứu các tác phẩm văn học thời
trung đại là việc làm cần thiết để góp phần đổi mới phương pháp nghiên cứu
văn học truyền thống. Mạnh dạn thực hiện luận văn này, chúng tôi cho rằng lí
thuyết diễn ngôn hiện đại là một trong những lí thuyết mang tính khả thi, có
thể áp dụng cho nhiều tác phẩm khác của các tác giả khác. Đây sẽ còn là vấn
đề mới mẻ và hứa hẹn những kết quả nghiên cứu thú vị trong những công
102
trình tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Ngọc Anh (2015), Sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn
học Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội.
2. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại - lý thuyết và tiếp nhận, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Đồng Khánh Bính (2008), "Diễn biến lí luận văn học phương Tây thế kỉ
XX", Tạp chí văn học số 8 năm 2008.
4. Hồng Duy, Qui ước diễn ngôn và văn chương giai đoạn 1986 - 1991,
nguồn trích dẫn: http://www.vanhocquenha.vn
5. Nguyễn Dữ (1971), Truyền kỳ mạn lục, Bản dịch của Trúc Khê, Ngô Văn
Triện, Lời giới thiệu của Bùi Kỷ, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Lương Văn Đang, Nguyễn Trạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những khúc
ngâm chọn lọc tập 1, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Phan Thị Điệp (2016), Diễn ngôn nhân vật trong nhóm truyện ngắn thế
sự của Phan Huy Thiệp, Hội thảo khoa học sinh viên lần IX, Hà Nội
8. Gillian Brown, George Yule (2002), Phân tích diễn ngôn, Trần Thuần
dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Phạm Hùng (1987), "Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ", Tạp chí văn học số 7.
11. Lại Văn Hùng (2002), "Bàn luận thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục", Tạp chí văn học số 10.
12. Lê Thị Huyền, Minh Trí (2009), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
13. Trần Thị Thu Hương (2009), Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số
tác phẩm văn học hiện đại, Luận văn thạc sĩ, ĐHKHXH&NV, ĐHQG
103
Hà Nội.
14. Nguyễn Duy Hinh, Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
15. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2006), Văn
học Việt Nam (thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVII), Nxb Giáo dục, Hà Nội
16. Lâm Thị Thiên Lan (2013), "Về diễn ngôn người kể chuyện trong truyện
ngắn Trang Thế Hy", Tạp chí Khoa học, văn hoá và du lịch.
17. Bồ Tùng Linh (2002), Liêu trai chí dị, Bản dịch của Tản Đà, Đào Trinh
Nhất, Nguyễn Văn Huyền, Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Phương Lựu (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2012), Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, Kỉ
yếu Hội nghị khoa học Cán bộ trẻ trường ĐHSP HN, Nxb ĐHSPHN, Hà
Nội, https://phebinhvanhoc.com.vn/ba-cach-tiep-can-khai-niem-dien-ngon/
21. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2011), Diễn ngôn về sức thuộc địa trong tác
phẩm “Người tình” của Mr.Duras, tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn,
Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, nguồn trích dẫn từ trang web:
http://vanhoanghean.com.vn
22. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang (2006),
Văn học trung đại Việt Nam tập 1, NXB Đại học Sư phạm
23. Trần Thị Nhung (2010), Người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ
quan điểm giới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên
24. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ
góc độ diễn ngôn, Luận án Tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội
25. Mai Thị Lệ Quyên (2016) Hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ mạn lục,
Luận văn thạc sĩ của, ĐHKHXH&NV
26. Vũ Quỳnh (1993), Tân đính Lĩnh Nam chích quái, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
27. Nguyễn Hữu Sơn (2011), "Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và
104
những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục", Tạp chí Nghiên cứu văn học.
28. Trần Đình Sử, Lí luận văn học tập 2 - Tác phẩm và thể loại văn học, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội.
29. Bùi Duy Tân (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Đức Duật, Nguyễn
Tuấn Cường (2007), Hợp tuyển Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X -
XIX), tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Nông Phương Thanh (2011), Hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
31. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của “kỳ” và “thực” trong truyện ngắn
truyền kỳ Việt Nam", Tạp chí Văn học, số 6.
32. Trần Ngọc Thêm (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Lê Thị Hoài Thu (2014), Tìm hiểu sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn
lục, Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Hoài Thu, ĐHKHXH&NV.
35. Nguyễn Thị Tính (2014), "Quan niệm nghệ thuật về con người trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ", Tạp chí khoa học - ĐHSP Hà Nội.
36. Trần Văn Toàn (2013), "Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật",
Tạp chí văn học số 8.
37. Trần Văn Toàn (2010), Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu
Việt Nam từ đầu thế kì XX đến 1945, Tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn,
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP Hà Nội.
38. Tzevetan Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kì ảo, Nxb Đại học
Sư phạm Hà Nội.
39. Nguyễn Trãi (1994), Thơ Quốc âm, Bùi Văn Nguyên biên khảo - Chú
giải - Giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Hoàng Thị Huyền Trang (2013), Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên
41. Trần Ngọc Vương (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX, những
105
vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Hải Yến (2011), Vai trò yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện
khát vọng của người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục, Luận văn Thạc sĩ,
ĐHSP Thái Nguyên.
43. Tô Kim Yến (2014), Sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong
Truyền kỳ mạn lục, Luận văn thạc sĩ của Tô Kim Yến, ĐHSP TP.HCM
42. http://vanhoaphatgiao.com.vn/?p=
106
43. http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=
Phụ lục 1
BẢNG KHẢO SÁT NHỮNG PHÁT NGÔN THỂ HIỆN QUAN NIỆM VỀ “THÂN” CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
“Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì
“Nay nghiêm đường vì tính nói
“Ta sở dĩ nhịn nhục mà
nghĩ Phùng lang hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ
thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để lại nơi khu yếu, bề ngoài
sống là vì nghĩ Phùng lang hãy còn; nếu chàng không
quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác...”
vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa.
còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm
[4.25]
Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm
của chồng để đi làm đẹp với người khác...” [4.25]
Nhị Khanh
1
Chuyện người
hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo.
nghĩa phụ ở Khoái Châu
Thiếp dám đâu đem mối tình khuê các để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê” [4.23].
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
“Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ: ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem” [4.28].
thêm
lạnh
thân
lẻ
“Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Ngày tháng lữa lần, tin hơi xa cách...” [4.182, 183].
“Gió tây nổi khôn đường hồng tiện, xa xôi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, lẽo kẻ ra cõi nghĩ ngoài...Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, vì chàng loi một thiếp bề”...[4.182, 183].
2.
Vũ Thị Thiết
Chuyện người con gái Nam Xương
“Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt ly là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con thôi”[4.29] “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ” [4.185]
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
“Thiếp vốn con nhà nghèo, được
vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình
chăn gối, chia phôi vì động việc lửa
binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn từng đã
nguội lòng, ngõ liễu đường hoa
chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết
hư thân như lời chàng nói. Dám xin
trần bạch để cởi mối nghi ngờ.
Mong chàng đừng một mực nghi
oan cho thiếp” [4.184].
“Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng
vì có cái thú vui nghi gia nghi thất.
Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng
lên non. Nay đã bình rơi trâm gẫy,
mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa
đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có
thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”
[4.185].
Thiếp văn, thiên hữu âm dương,
“Thiếp xuất tự phàm lưu,
thiên đạo dĩ chi nhi bị,
Quá mông hậu ngộ.
Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi
Duyên vị hài ư cẩm
3.
Lệ Nương
Chuyện Lệ
nhi thành.
trướng.
Nương
Ta ngã hà tu?
Phận dĩ bạc ư xuân băng.
Dữ quân bất ngẫu.
Thời dữ chí nhi câu vi,
Tích thời tâm sự, cửu dĩ tương
Thiếp từ quân nhi viễn thệ.
quan,
Chu lâu hữu hận, kỷ đối tà
Kim nhật ty ly, phiên thành vĩnh
huy,
cảm.
Thanh điểu vô môi, thùy
Cánh lạc lâu tiền chi ảnh,
tương lai tín?
Trường giam viện lý chi xuân.
Trướng dung quang chi
Mỗi phạ kính vũ ly loan,
giảm cựu,
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
Cầm thao Biệt hạc.
Độ tuế nguyệt dĩ thâu sinh.
Xuân thành nhật mộ, liễu tà hàn thực
Thùy liệu xích trủy ca tàn,
đông phong,
Hồng nhan họa khởi.
Lưu thủy ngự câu, tràng đoạn
Yên binh Hồ kỵ mạc át
Thượng Dương cung nữ.
xâm lăng;
Đãn hữu u sầu chủng chủng,
Cấm liễu cung hoa, kỷ sầu
Thanh lệ ba ba.
phan chiết.
Trướng túc nguyện chi đa vi,
Hận tàn khu chi đa ngộ,
Tiếu thử sinh chi lãng độ.
Ta ách vận chi trùng tao.
Liễu thị trùng quy chi ước, hảo hội
Thủy bất năng toàn tiết dĩ
nan kỳ,
tòng phu,
Ngọc Tiêu tái hợp chi duyên, tha
Chung hựu nhẫn cam tâm nhi
sinh vị bốc,
hàng lỗ.
Nguyện quân tự ái,
Ký chích thân ư vạn tử,
Biệt đế lương môi.
Độ nhất nhật như tam thu.
Vô dĩ nhất nhật chi ân
Thiệp thủy du sơn,
Nhi ngộ bách niên chi kế.
Bị gian thường hiểm.
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
Du du tâm tự
Tương tùy duyên nhi cẩu hợp,
Thư bất tận ngôn.
tắc lang tử nan thuần,
Vị đắc quân chỉ
Dục xuất tái dĩ dao chinh, tắc
Tiên thử thân phúc” [4.202]
hồ khâu dị cảm.
(Thiếp nghe:
Thị dĩ bất tham sinh hoạt,
Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
Bất phạ câu từ.
Người có chồng vợ, đạo người mới
Lãnh lạc đăng tiền hồn tùy
thành.
chiến cổ,
Đôi ta vì đâu?
Thương hoàng khách lý
Lỡ làng đến vậy!
mệnh ký la cân.
Tâm tình buổi trước, đã kết mối dây!
Kim tắc linh tính tuy tồn,
Ly biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm
Tàn hài phi cựu.
Bóng trước lầu đã rụng
Quý lương nhân chi viễn
Xuân trong viện đành giam.
phỏng,
Những e, gương ly loan bóng múa
Phủ vãng sự sĩ trường ta.
hững hờ
Cảm thuật u hoài
Đàn Biệt hạc tiếng vang ai oán
Hạnh thùy tri tất”
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
Ngòi ngự nước trôi, ruột đứt khúc
[4.211,212].
bao người cung nữ
(Thiếp vốn con nhà tầm
Luống những mạch sầu đợt đợt
thường,
Sóng lệ trùng trùng
Chàng quá rủ lòng yêu
Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau
mến,
Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng.
Trướng gấm nọ duyên
Ước Liễu thị mong gì hảo hội.
chưa đầm ấm,
Duyên Ngọc Tiêu đâu chắc tái sinh
Giá xuân kia phận đã
Xin chàng trân trọng lấy mình
mỏng manh.
Liệu kết nhân duyên chốn khác
Thời với chí ngửa
Đừng vì tình một buổi
nghiêng,
Để lỡ kế trăm năm.
Thiếp cùng chàng ly cách.
Man mác nỗi lòng,
Hờn ôm lầu đỏ, từng trải
Thư khôn xiết tả.
hôm mai,
Chưa biết ý chàng,
Mối dứt chim xanh, khôn
Trước xin bày tỏ)
thông tin tức.
Ngày tháng lữa lần trộm
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
sống,
Dong quang mòn mỏi
riêng buồn.
Nào hay mỏ đỏ ca tàn,
Má hồng vạ nổ.
Ngựa Hồ binh Triệu, giày
xéo tan tành,
Liễu điện hoa cung, bẻ vin
xơ xác.
Ngán nỗi thân tàn nhiều lỡ
dở,
Than ôi, vận ách mỗi
chồng thêm.
Trước đã không vẹn tiết để
theo chồng,
Sau lại nỡ cam tâm mà
hàng giặc.
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
Gửi chiếc thân ở trong
muôn chết,
Trải một ngày như thể ba
thu.
Lặn suối trèo đèo,
Qua nguy vượt hiểm.
Ép duyên toan nhắm mắt,
giống sói khôn gần,
Qua ải muốn đưa chân, núi
hồ dễ cảm.
Bởi vậy, không ham thú
sống,
Chẳng sợ ngục tù.
Lãnh lẽo trước đèn, hồn
theo trống trận,
Bàng hoàng quán khách,
mình gửi khăn là.
STT NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu,
Nhu cầu vật chất
Quan niệm sinh - tử
hạnh phúc gia đình
(danh vọng, tiền tài,…)
Nay thì linh tính tuy còn,
Tàn hình đã khác.
Cảm lòng chàng từ xa tìm
đến,
Buồn nỗi mình biết nói
làm sao?
Dám tỏ niềm riêng,
Kính xin soi xét)
“Không như thiếp bảy tình chưa
sạch, trăm cảnh dễ sinh, hình ở phủ
Chuyện Từ
tía nhưng lụy vướng duyên trần,
4
Giáng Hương
Thức lấy
thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi
vợ tiên
dục” [4.109].
Phụ lục 2
BẢNG KHẢO SÁT NHỮNG PHÁT NGÔN THỂ HIỆN QUAN NIỆM VỀ “THÂN” CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ PHI TRUYỀN
THỐNG THEO QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
STT
NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu, hạnh phúc gia đình
Quan niệm sinh - tử
“Thân tàn một mảnh, cách vời chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa” [4.36].
“…Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống cho ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”. [4.36]
1
Nhị Khanh
Chuyện cây gạo
Nhu cầu vật chất (danh vọng, tiền tài,…) “…Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống cho ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”. [4.36] “Người ta sinh ra ở đời, cốt được thoả chí, chứ văn chương làm gì, thời có chẳng qua rồi cũng một nấm đất vàng là hết chuyện….Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt” [4.38].
STT
NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu, hạnh phúc gia đình
Quan niệm sinh - tử
Nhu cầu vật chất (danh vọng, tiền tài,…)
Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì Tu đối tân lang ngữ biệt ly
Ngọc duẩn chỉnh tà châu xuyến tử Hương la thoát hoán tú hài nhi Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp
Xuân tận tam canh oán tử quy Thử khứ vị thù đồng huyệt ước
Hảo tương nhất tử vị tâm tri ( Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu
Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu Măng ngọc vuốt ve nguyên xuyến trạm Dải là cổi tháo trút hài thêu Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc
Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy Vì nhau một thác sẵn xin liều). [4.36,37]
II
Giải kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu Túy bão ngân tranh bát phục khiêu Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế Kinh thuyền ky phạ thúc tiêm yêu
STT
NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu, hạnh phúc gia đình
Quan niệm sinh - tử
Nhu cầu vật chất (danh vọng, tiền tài,…)
Yên thư đường ngạc hồng do thấp Hãn thối mai trang bạch vị tiêu Tảo vãn kết thành loan phượng hữu Phong thần nguyệt tịch nhiệm chiêu yêu ( Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài Ôm tranh nhẹ bấm một đôi hài Đầu cài én ngọc hình nghiêng chếch Lưng thắt ve vàng dáng vẻ oai Đường lúc nở rồi hồng đượm ướt Mai khi rã hết trắng chưa phai Phượng loan sớm kết nên đôi lứa Gió sớm giăng khuya thỏa cợt cười) [4.37].
Liễu Nhu
2
Nương,
Chuyện kì ngộ ở trại Tây
Đào Hồng
“Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu nương, một người họ Đào, tên gọi Hồng nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái Sư. Từ ngày quan Thái sư qua đời. chúng em vẫn phòng thu khoá kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang”. [4.54] “Chúng em việc xuân chưa trải, nhuỵ thắm
STT
NHÂN VẬT
TRUYỆN
NHỮNG PHÁT NGÔN TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ NHÂN VẬT NỮ
Quan niệm về tình yêu, hạnh phúc gia đình
Quan niệm sinh - tử
Nhu cầu vật chất (danh vọng, tiền tài,…)
Nương
còn phong, chỉn e mưa gió nặng nề hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu”. [4.55] Xạ trần lang hãn thấp la y Thúy đại khinh tần bát tự my Báo đạo đông phong khoan đả lục Tiêm yêu bãi loạn bất thăng xuy ( Mồ hôi dâm dấp áo tà Màu xanh đôi nét tà tà như chau Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng). [4.55]
Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì
Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy Phần phó tài lang phan chiết khứ Tàn hồng nhận thủ tiểu đào chi (Cung sâu thưa điểm giọt rồng Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh Tài lang mặc sức vin cành Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi). [4.55]