BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM -------------------------
ĐIỀN THANH HẢI
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XÂY DỰNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số ngành: 60340102
TP.Hồ Chí Minh, tháng 01/2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM -------------------------
ĐIỀN THANH HẢI
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XÂY DỰNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã ngành: 60340102
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC DƯƠNG TP.Hồ Chí Minh, tháng 01/2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn đã được
cảm ơn và thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn
Điền Thanh Hải
ii
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Dương đã tận tình
hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô khoa Quản trị Kinh doanh, Phòng quản
lý khoa học và đào tạo sau đại học Trường Đại Học Công Nghệ TP Hồ Chí Minh đã
truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học quý báu trong suốt
thời gian tham gia khóa học vừa qua.
Chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo và tập thể Ngân hàng VNCB đã nhiệt tình
hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Những lời cảm ơn sau cùng, tôi xin gửi đến gia đình, người thân, bạn hữu,
đồng nghiệp đã luôn động viên, góp ý và hỗ trợ để tôi hoàn thành luận văn này.
Trân trọng.
Tác giả
Điền Thanh Hải
iii
TÓM TẮT
Hiện nay vấn đề nợ xấu là một trong những đề tài được dư luận và cả nền
kinh tế đặc biệt quan tâm do nó gây ảnh hưởng khá lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế quốc gia. Trên các phương tiện thông tin truyền thông, chủ đề về nợ xấu và
tái cấu trúc ngân hàng thường xuyên được xuất hiện và nợ xấu cũng đã được nhắc
đến khá nhiều trong kỳ họp Quốc hội vừa qua.
Nợ xấu trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng là thực tế khách quan trong quá
trình hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Ngăn ngừa và xử lý nợ xấu nhằm
lành mạnh hóa tài chính của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam là một trong
những trọng tâm lớn trong quá trình hoạt động kinh doanh, khẳng định vị thế của
riêng VNCB cũng như tiến trình tái cơ cấu các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu theo phương pháp định tính có kèm theo
việc khảo sát các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng. Các số liệu sau khi được thu
thập từ các chuyên gia, được xử lý bằng phần mềm Excel 2007, cho ra kết quả điều
tra khảo sát.
Với mục tiêu đề tài đặt ra là các giải pháp quản trị nợ xấu của Ngân hàng
TMCP Xây Dựng Việt Nam nhằm nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng nợ
xấu. Đồng thời đề ra các giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ xấu. Thông qua 3 chương
của luận văn, kết quả nghiên lần lượt làm rõ các vấn đề cơ bản sau đây:
Luận văn làm rõ khái niệm nợ xấu, nguyên nhân phát sinh và tác động của -
nợ xấu đến bản thân NHTM, người đi vay và cả đối với nền kinh tế cả về mặt lý
luận và thực tiễn
Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của VNCB từ 2008 -
–2012, đi sâu phân tích các nguyên nhân thực tế dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao như hiện
nay của VNCB.
- Luận văn tập trung đề xuất các giải pháp mang tính phòng ngừa và đặc biệt
là các giải pháp nhằm xử lý nợ xấu dựa trên các nhóm nguyên nhân phát sinh thực
tế. Đồng thời đưa ra kiến nghị đối với NHNN và Chính Phủ.
iv
ABSTRACT
At present, non-performing loan is one of the topics which is particularly care about by the public and the economy because of its large influence on the development of the national economy. On the communications media, the topic of non-performing loans and bank restructuring occurs frequently and non-performing loan has been mentioned quite a lot in the last session of national assembly.
A non-performing loan in the banking sector is the objective reality of the operation of the commercial banks. Preventing and treating non-performing loan to have a healthy financial system of Vietnam Construction Bank is one of the majors in business process operations in order to affirm the position VNCB as well as a process of restructuring commercial banks today. Topic is researched by a method of qualitative analysis with surveying by experts in the banking sector. The following data were collected from the experts, are handled
by software Excel 2007 to get survey results. With focus point from the thesis is non-performing loan management solution of Vietnam Construction Bank system to research, analyze and evaluate the status of non-performing loan. At the same time this is also to propose solutions to prevent, reduce non-performing loans effectively. Through 3 chapters of thesis, the result of research makes clarification some basics points as following: - This thesis clarifies the concept of non-performing loan, incurred causes and
impact of non-performing loans in both theoretical and practical to the commercial banks themselves, the borrowers and the economy.
- The Thesis is analyzed and evaluated in focus of non-performing loan status of VNCB from 2008 to 2012 and it is also analyzed in depth actual causes leading to high ratio of non-performing loan in VNCB currently.
The thesis focuses to propose preventive measures and solutions and especially
solutions for solving non-performing loans based on the groups of practical
potential cause. At the same time, the thesis is also made proposals for the State
bank of Vietnam and the government.
v
MỤC LỤC
Lời cam đoan Lời cảm ơn Tóm tắt Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, hình vẽ Lời mở đầu CHƯƠNG 1: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........................................................4 1.1.Tín dụng ngân hàng.........................................................................................4 1.1.1 Cơ sở hình thành tín dụng Ngân hàng........................................................4 1.1.2. Vai trò của tín dụng ..................................................................................4 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế...........................................................................4 1.1.2.2. Đối với khách hàng ..........................................................................5 1.1.2.3. Đối với ngân hàng............................................................................6 1.1.3. Phân loại tín dụng NHTM ........................................................................6 1.2. Chất lượng tín dụng NHTM...........................................................................8 1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng NHTM ......................................................8 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng NHTM....................................10 1.2.2.1 Tỷ lệ nợ xấu ....................................................................................10 1.2.2.2 Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn ........................................................10 1.2.2.3 Chỉ tiêu lợi nhuận............................................................................10 1.2.2.4 Trích lập dự phòng rủi ro ................................................................11 1.3 Nợ xấu và những nhân tố phát sinh nợ xấu của NHTM..............................12 1.3.1 Khái niệm nợ xấu ....................................................................................12 1.3.2 Phân loại nợ xấu......................................................................................13 1.3.3 Nguồn gốc phát sinh nợ xấu của NHTM..................................................15 1.3.3.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh .........................................15 1.3.3.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng ....................................................16 1.3.3.3 Nguyên nhân từ nội bộ Ngân hàng ..................................................17 1.3.4 Tác động của nợ xấu và sự cần thiết phải xử lý nợ xấu ............................19 1.3.4.1. Tác động của nợ xấu ......................................................................19 1.3.4.2. Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu ........................................................21 1.4. Phương pháp hạn chế và xử lý nợ xấu.........................................................21
vi
1.5.Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới ............................26 Tóm tắt chương 1 ................................................................................................31 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG NGÂN HÀNG TMCP XÂY DỰNG VIỆT NAM..............................................................................................32 2.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam ................................32 2.1.1. Lịch sử hình thành ..............................................................................32 2.1.2. Sản phẩm dịch vụ ................................................................................33 2.1.3.Cơ cấu tổ chức......................................................................................34 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2008– 2012...........................35 2.1.4.1 Tăng trưởng huy động vốn ...........................................................35 2.1.4.2 Tăng trưởng tín dụng....................................................................37 2.1.4.3 .................................................................................................. Các sản phẩm dịch vụ khác ...........................................................39 2.2. Thực trạng nợ xấu của VNCB .....................................................................41 2.2.1 Diễn biến nợ xấu giai đọan 2008 - 2012................................................41 2.2.2. Cơ cấu nợ xấu......................................................................................42 2.2.2.1.Theo nhóm nợ: .............................................................................42 2.2.2.2.Theo lĩnh vực cho vay ..................................................................43 2.2.2.3.Theo đối tượng khách hàng ..........................................................45 2.2.3. Quy trình xử lý nợ xấu.........................................................................46 2.3. Những nguyên nhân phát sinh nợ xấu của VNCB ......................................49 2.3.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh...............................................49 2.3.2. Nguyên nhân từ khách hàng.................................................................52 2.3.3. Nguyên nhân từ nội bộ hệ thống VNCB ..............................................55 2.4. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của VNCB ......................60 Tóm tắt chương 2 ................................................................................................61 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU ĐỐI VỚI VNCB .........................62 3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của VNCB đến 2018.................................62 3.2. Giải pháp xử lý nợ xấu đối với VNCB .........................................................63 3.2.1. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ môi trường kinh doanh..........63 3.2.1.1.Cơ cấu lại nợ và phát triển thị trường mua bán nợ ........................64 3.2.1.2.Tăng cường vai trò điều tiết, quản lý, điều hành của Chính phủ .........65 3.2.1.3.Minh bạch hoá, chi tiết hệ thống thông tin ...................................66 3.2.1.4. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM..........................67
vii
3.2.1.5. Hoàn thiện và cải tiến hành lang pháp lý về xử lý nợ ...................68 3.2.1.6. Giải pháp khơi thông thị trường bất động sản ..............................69 3.2.2. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ khách hàng............................70 3.2.2.1. Hỗ trợ từ chính phủ đối với khách hàng.......................................70 3.2.2.2. Tư vấn về nợ, phân loại nợ đối với khách hàng............................71 3.2.2.3. Kiểm soát nguồn tiền giải ngân & cập nhật thông tin thường xuyên liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng ................................72 3.2.3. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ nội bộ hệ thống VNCB..........72 3.2.3.1. Hoàn thiện quy trình tín dụng ......................................................73 3.2.3.2. Kiểm soát thẩm quyền phê duyệt tín dụng ...................................74 3.2.3.3. Nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng ...................................74 3.2.3.4. Thiết lập hệ thống dự báo tín dụng ..............................................75 3.2.3.5. Hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ..........78 3.2.3.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...........................................79 3.2.3.7. Nâng cao chất lượng thẩm định và tái định giá giá trị tài sản đảm bảo ...........................................................................................................80 3.2.3.8. Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi nợ ..................................82 3.2.3.9. Nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu ...............................................83 3.2.3.10. Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm chuyển dần cơ cấu lợi nhuận phụ thuộc vào tín dụng sang thu nhập dịch vụ, đa dạng hóa lĩnh vực cho vay.......................................................................................84 3.3. Kiến nghị đối với NHNN và Chính Phủ.......................................................85 3.3.1. Nâng cao năng lực vốn đối với các NHTM..........................................86 3.3.2. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM .....87 3.3.3.Cải thiện và nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng NHNN (CIC) . ................................................................................................................89 Tóm tắt chương 3 ................................................................................................90 KẾT LUẬN..........................................................................................................91 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................92 PHỤ LỤC
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATM: Máy rút tiền tự động
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á
AMC: Công ty quản lý và khai thác tài sản
BĐS: Bất động sản
DATC: Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
DNDD: Doanh nghiệp dân doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HĐQT: Hội đồng quản trị
Qũy tiền tệ quốc tế IMF:
Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS:
Tỷ lệ cho vay/huy động (Loan to Deposit Ratio) LDR:
Ngân hàng nhà nước NHNN:
Ngân hàng thương mại NHTM:
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NHLD: Ngân hàng liên doanh
NPL: Nợ xấu (Non-performing loan)
QTRR: Quản trị rủi ro
SME: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TMCP: Thương mại cổ phần
TSBD: Tài sản bảo đảm
TTCK: Thị trường chứng khoán
TCTD: Tổ chức tín dụng
USD: Đồng dollar Mỹ
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
WB: Ngân hàng thế giới
XNK: Xuất nhập khẩu
ix
DANH MỤC CÁC BẢNG
Thứ tự Nội dung Trang
Bảng 1.1 Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2006 đến năm 2011 15
Bảng 2.2 Tổng hợp doanh số thanh toán quốc tế năm 2011 & 2012 39
Bảng 2.3 Diễn biến nợ xấu của VNCB giai đoạn từ 2008 – 2012 42
Bảng 1/2B Kết quả khảo sát các nguyên nhân bên ngoài chủ yếu Phụ lục
Bảng 2/2B Kết quả khảo sát các nguyên nhân nội bộ chủ yếu Phụ lục
Bảng 1/3B Phụ lục Kết quả khảo sát các giải pháp cho nguyên nhân từ bên ngoài
Bảng 2/3B Phụ lục Kết quả khảo sát các giải pháp cho nguyên nhân từ nội bộ VNCB
DANH MỤC CÁC HÌNH
Thứ tự Nội dung Trang
Hình 2.1 Sơ đồ tổ chức của VNCB 34
Hình 2.2 Nguồn vốn huy động của VNCB từ 2008-2012 35
Hình 2.3 Quy trình tín dụng của VNCB 37
Hình 2.4 Biểu đồ doanh số tín dụng tại VNCB từ 2008-2012 38
Hình 2.5.1 42 Cơ cấu các nhóm nợ theo tổng dư nợ của VNCB tính đến 31/12/2012
Hình 2.5.2 Cơ cấu nợ xấu theo nhóm nợ tính đến 31/12/2012 43
Hình 2.6 44 Cơ cấu nợ xấu theo lĩnh vực cho vay tính đến 31/12/2012 của VNCB
Hình 2.7 Cơ cấu nợ xấu theo đối tượng cho vay tính đến 31/12/2012 45
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ xấu là một trong những vấn đề được dư luận và cả nền kinh tế quan tâm
nhất hiện nay. Trên các phương tiện thông tin truyền thông, chủ đề về nợ xấu và tái
cấu trúc ngân hàng xuất hiện dày đặc. Và cả trong các bài phát biểu tại Quốc hội, nợ
xấu cũng thường xuyên được nhắc đến trong suốt một thời gian dài.
Bất kỳ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nào cũng tạo ra nợ xấu cho các
ngân hàng. Có thể thấy, khủng hoảng tài chính những năm 1997-1998 đã đẩy nợ
xấu của các quốc gia bị tác động tăng lên đến trên 10%, thậm chí cả gần 50% như
Thái Lan và Indonesia. Hay gần đây nhất, cuộc khủng hoảng năm 2008 cũng khiến
nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh. Chính phủ Mỹ phải liên tục tung tiền để mua
các tài sản độc hại của ngân hàng nhằm tạo thanh khoản cho thị trường, EU cũng
phải tung ra nhiều gói cứu trợ các ngân hàng yếu kém.
Đối với Việt Nam, tuy chưa phải là một cuộc khủng hoảng tài chính thực sự
nhưng trong bức tranh nền kinh tế toàn cầu bị suy thoái thì Việt Nam cũng không
ngoại lệ và hệ thống ngân hàng Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn, đặc biệt
là lĩnh vực nợ xấu. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày
30/09/2012 nợ xấu theo các tổ chức tín dụng (TCTD) báo cáo là 117.000 tỷ đồng,
chiếm 4,5% so với tổng dư nợ tín dụng. Còn theo kết quả thanh tra, giám sát
NHNN, nợ xấu của TCTD đến cuối tháng 09/2012 chiếm khoảng 8,8% tổng dư nợ
tín dụng, tương đương 232.100 tỷ đồng và đây được xem là mức tăng cao nhất
trong nhiều năm qua.
Trong hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam hiện nay lợi nhuận phần lớn được
thu về từ hoạt động tín dụng. Do vậy khi số lượng nợ xấu tăng lên đã tác động rất
lớn đến thu nhập và sự phát triển của các Ngân hàng, điều này đã dẫn đến việc nhà
nước đã ra quyết định tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng nhằm loại bỏ các ngân
hàng yếu kém và tạo điều kiện cho các ngân hàng có đủ sức khỏe để cạnh tranh với
các ngân hàng trong khu vực. Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam (tiền thân là
ngân hàng TMCP Đại Tín – TRUSTBank) là một trong những ngân hàng thuộc đối
2
tượng phải tái cấu trúc do thanh khoản yếu và dư nợ xấu khá cao. Chính vì vậy
người viết đã chọn đề tài “Các giải pháp quản trị nợ xấu của Ngân hàng TMCP
Xây Dựng Việt Nam” cho bài luận tốt nghiệp của mình nhằm tìm ra các nhân tố
gây nên nợ xấu và từ đó đề ra các giải pháp để quản trị các khoản nợ xấu này nhằm
giúp cho Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam thực hiện tốt hơn quá trình tái cấu
trúc của mình và phát triển giai đoạn sau này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là các giải pháp quản trị nợ xấu của Ngân hàng
TMCP Xây Dựng Việt Nam với nội dung:
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về tín dụng và nợ xấu trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng Thương Mại.
- Trên cơ sở lý thuyết nghiên cứu kết hợp với thực trạng hoạt động, phân tích đúng
thực trạng nợ xấu của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam, đồng thời dựa vào
các nguyên tắc và kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới, đưa ra những đánh giá
bài học kinh nghiệm cho Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu cho Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam, bao
gồm giải pháp cho các NHTM và các kiến nghị cho NHNN và Chính phủ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nợ xấu của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu được xác định như sau:
Về nội dung: Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Xây
Dựng Việt Nam trong thời gian qua.
Về không gian: Đề tài được thực hiện trên phạm vi toàn Ngân hàng TMCP
Xây Dựng Việt Nam.
Về thời gian: Từ năm 2008 – 2012 và đưa ra các giải pháp ở cấp độ nội bộ
Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam và cả ở cấp độ Ngân hàng Nhà nước
trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung luận văn dựa trên phương pháp nghiên cứu định tính. Tuy nhiên tác
3
giả có khảo sát ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực Ngân hàng thông qua
Bảng câu hỏi.
4.1. Nguồn số liệu sơ cấp:
- Đối tượng điều tra khảo sát: thông qua các chuyên gia làm việc tại các Ngân
hàng như: Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank),
Ngân hàng Ngoại Thương (VCB), Ngân hàng Sacombank, Seabank, VNCB...
- Phương pháp khảo sát: thiết lập bảng câu hỏi
- Xử lý số liệu khảo sát: các số liệu sau khi được thu thập từ 30 chuyên gia, được
xử lý bằng phần mềm Excel 2007, cho kết quả điều tra khảo sát trong các Bảng
Phụ lục đính kèm.
4.2. Nguồn số liệu thứ cấp:
- Được tác giả thu thập từ tư liệu của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam như:
báo cáo thường niên, quy trình cho vay và thu hồi nợ của Ngân hàng, báo cáo tín
dụng, báo cáo nợ xấu, kết quả kinh doanh, …
- Ngoài ra luận văn còn tham khảo Luật, các Nghị định, Quyết định của Chính
phủ, các văn bản pháp qui, định hướng phát triển của NHNN, các văn bản, tạp
chí chuyên ngành, Internet, sách báo liên quan ... Đồng thời sử dụng các kiến
thức được truyền đạt từ thầy cô giảng dạy, góp ý cũng như các đồng nghiệp trong
Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng 1.1.1 Cơ sở hình thành tín dụng Ngân hàng1
Tín dụng xuất phát từ gốc chữ la-tinh: Credittumtức là tin tưởng, tín nhiệm;tín
dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dan gian Việt Nam là quan hệ vay mượn. Nhìn
một cách tổng quát: tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
(dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ chủ thể sở hữu sang chủ thể sử dụng, trên
cơ sở phải có sự hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn ban đầu
Cơ sở khách quan của sự hình thành và phát triển của tín dụng là đó là sự tồn tại
và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá phát triển đến một
mức độ nhất định, sẽ tất yếu dẫn đến xuất hiện những mâu thuẫn vốn có trong quá
trình tuần hoàn của tiền tệ, đòi hỏi sự hình thành và phát triển của tín dụng.
Xét về góc độ Ngân hàng thì tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn
và lãi giữa một bên là ngân hàng và một bên là những người đi vay – đây là quan hệ
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ đôi bên cùng có lợi, đối
tượng vay mượn ở đây là tiền tệ.
1.1.2. Vai trò của tín dụng
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
- Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những
người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có vốn thặng dư (do chi tiêu
ít hơn thu nhập) dến những người thiếu hụt (do chi tiêu vượt quá thu nhập). Nhu
cầu vay vốn không chỉ đầu tư kinh doanh mà còn để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
trước mắt bởi vì những người tiết kiệm thường không đồng thời là những người
có cơ hội đầu tư sinh lời cao. Như vậy nếu không có ngân hàng, thì việc luân
chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế sẽ ách tắc. Chính vì vậy kênh
luân chuyển vốn qua ngân hàng có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy tính hiệu
quả của nền kinh tế.
1 Tiền tệ Ngân hàng, Lê Thị Tuyết Hoa, 2011
5
- Tín dụng ngân hàng không chỉ giới hạn trong chức năng truyền thống là chuyển
vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn mà còn giúp phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ
những người thiếu các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới những người có
các dự án đầu tư hiệu quả hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là kinh tế tăng trưởng,
tạo công ăn việc làm và năng suất lao động cao.
- Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành nghề, khu vực kinh tế
trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề đó, hình thành nên cơ
cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
- Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường,
kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa
các nước.
- Tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua
thuế và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.
- Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp
nông thôn góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội.
1.1.2.2. Đối với khách hàng
- Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn
cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp
cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa
mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng.
- Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh,
doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính
để trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng sống.
- Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả vốn gốc
và lãi trong thời gian nhất định như thỏa thuận. Do đó buộc khách hàng phải nỗ
lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay có hiệu quả, đẩy nhanh
quá trình sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả
nợ cho ngân hàng.
6
1.1.2.3. Đối với ngân hàng
- Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có và
mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70% - 90%). Mặc dù tỷ
trọng hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng
vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
- Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài
sản có, giảm thiểu rủi ro.
- Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ
khác như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn . . .
1.1.3. Phân loại tín dụng NHTM
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các chủ thể khác trong
xã hội. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, do vậy trong quan hệ tín
dụng với các chủ thể kinh tế khác, Ngân hàng có thể vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay. Trong thực tế, khi đề cập đến tín dụng Ngân hàng, thường chỉ xem
xét trên giác độ Ngân hàng là người cho vay. Nếu xem xét Ngân hàng dưới góc độ
là người cấp tín dụng, tín dụng Ngân hàng có thể phân chia thành các hình thức
dưới đây:
Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng sản xuất kinh doanh: Ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế trên mọi lĩnh vực: công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, dịch vụ …
- Tín dụng tiêu dùng: Ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
các cá nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, cho vay dể trang trải các chi phí
đời sống, cho vay thông qua phát hành thẻ tín dụng …
Căn cứ thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: theo quy định của Việt Nam, tín dụng ngắn hạn có thời hạn
tối đa đến 12 tháng, cho vay ngắn hạn sử dụng chủ yếu để bổ sung vốn lưu động
tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá
nhân.
7
- Tín dụng trung hạn: là loại cho vay của Ngân hàng với thời hạn từ trên 1 năm
đến năm năm.
- Tín dụng dài hạn: là loại cho vay với thời hạn trên năm năm, nhằm mục đích hỗ
trợ vốn thiếu hụt phục vụ mua sắm tài sản cố định, xây dựng nhà xưởng …
Căn cứ vào đảm bảo tín dụng
- Tín dụng không có đảm bảo: Ngân hàng cho vay trên cơ sở uy tín, tín nhiệm
khách hàng vay
- Tín dụng có đảm bảo: ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở phải có sự đảm bảo
bằng tài sản của ngơi đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Căn cứ vào hính thức vốn tín dụng
- Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thức cấp tín dụng được ngân hàng
cung cấp bằng tiền
- Tín dụng bằng tài sản: là loại cho vay mà hình thức vốn tín dụng được ngân
hàng cấp bằng tài sản, ví dụ như tín dụng thuê mua.
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
- Tín dụng trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng phải hoàn trả dần vốn gốc
và lãi theo định kỳ
- Tín dụng phi trả góp: khách hàng phải hoàn trả toàn bộ vốn một lần khi đáo hạn
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại cho vay của ngân hàng mà việc thu nợ
được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người đi vay, trên cơ sở khả năng của
người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đả thoả thuận.
Căn cứ vào tính chất hoàn trả
- Tín dụng hoàn trả trực tiếp: ngân hàng cho vay và việc hoàn trả được thực hiện
trực tiếp bởi người đi vay
- Tín dụng hoàn trả gián tiếp: là loại cho vay của ngân hàng mà việc trả nợ được
thực hiện gián tiếp thông qua người thụ lệnh của người đi vay, như các khoản
cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước nhận nợ hoặc chứng
từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
8
1.2. Chất lượng tín dụng NHTM
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng NHTM
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng và đảm bảo thực
hiện nghiêm túc các chính sách, quy định của ngành phù hợp với sự phát triển kinh
tế xã hội từng thời kỳ.
Việc tuân thủ chặt chẽ quy trình tín dụng và kiểm soát tín dụng của bản thân
NH, giúp NH kiểm soát được khoản vay, đối tượng vay, mục đích vay, bảo đảm cho
NH bù đắp được chi phí, có lãi và bảo toàn được vốn. Chất lượng tín dụng được
hình thành và bảo đảm từ hai phía
- Ngân hàng
- Khách hàng như: lãi suất, thủ tục vay, thời gian giải quyết hồ sơ, thái độ phục vụ,
khả năng tư vấn của nhân viên ngân hàng,…
Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa trên cơ sở phân loại nợ:
Theo thông tư mới nhất số 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21/01/2013
thay thế cho Quyết định 493 của NHNN ban hành ngày 22/4/2005 về phân loại nợ,
trính lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng và Quyết định 18 ban hành ngày
25/4/2007 về sửa đổi bổ sung Quyết định 493, dư nợ của các tổ chức tín dụng được
chia làm 05 nhóm, cụ thể:
Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) gồm: (a) Các khoản nợ trong hạn và được
tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi đúng thời
hạn; (b) Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và
lãi đúng thời hạn còn lại; (c) Các khoản nợ của khách hàng trả đầy đủ nợ
gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 01 năm đối với
các khoản nợ trung và dài hạn, 03 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và
các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng
hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại thì phân loại vào nợ nhóm 1.
Trường hợp một khách hàng có nợ cơ cấu lại bao gồm nợ ngắn hạn và nợ
trung, dài hạn thì chỉ xem xét phân loại vào nợ nhóm 1 khi khách hàng đã trả
đầy đủ (nợ ngắn hạn và nợ trung, dài hạn) cả gốc và lãi số nợ đã được cơ cấu lại
9
trong thời gian quy định trên, đồng thời các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là
có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn đã được cơ cấu lại.
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90
ngày; Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức th́ tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng
về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần
đầu).
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày
đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại có thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các
khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2; Các khoản
nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ
lần thứ hai.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần
thứ hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Các khoản nợ nếu có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của của khách
hàng bị suy giảm thì phải phải tính một cách chính xác, minh bạch để phân loại nợ
vào các nhóm nợ phù hợp với mức độ rủi ro, cụ thể:
- Nhóm 2: Các khoản nợ tổn thất tối đa 5% giá trị nợ gốc.
- Nhóm 3: Các khoản nợ tổn thất từ trên 5% - 20% giá trị nợ gốc.
- Nhóm 4: Các khoản nợ tổn thất từ trên 20% - 50% giá trị nợ gốc.
- Nhóm 5: Các khoản nợ tổn thất trên 50% giá trị nợ gốc.
10
Việc phân loại nợ theo các quyết định trên của NHNN vừa dựa vào tiêu chí thời
gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào tiêu chí rủi ro của khoản vay đã làm cho
các NHTM phải đánh giá lại thực chất các khoản nợ đã cho khách hàng vay và có
thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng của ngân hàng mình.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng NHTM
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng
nhưng phổ biến nhất là những chỉ tiêu sau đây:
1.2.2.1 . Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở một
thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này được
tính theo công thức (1.1) dưới đây:
Theo Quyết định 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 , Quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN ngày 25/04/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN của NHNN Việt Nam thì nợ xấu là nợ phân loại vào nhóm 3,4,5.
1.2.2.2 Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.2):
Chỉ tiêu này giúp phân tích khả năng cho vay của NHTM với khả năng huy động
vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động, giúp cải thiện tình
trạng thiếu hụt thanh khoản và cho vay quá mức ở một số NHTM. Do đó, chỉ tiêu
này chỉ mang tính tương đối giúp chúng ta so sánh khả năng cho vay và huy động
vốn của một ngân hàng.
1.2.2.3 Chỉ tiêu lợi nhuận
Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.3) dưới đây:
11
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM tại Việt Nam chiếm từ 70%-85% tổng
lợi nhuận của NHTM. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động tín
dụng. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và giá
vốn huy động. Chỉ tiêu này chỉ mang tính tương đối vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: chính sách lãi suất, chính sách khách hàng,... Thông thường trong hoạt động
ngân hàng, nếu một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt hơn, tỷ lệ nợ xấu thấp hơn
thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng sẽ cao hơn so với ngân hàng khác có cùng một
mức dư nợ.
1.2.2.4 Trích lập dự phòng rủi ro
Là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách
hàng của NHTM không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro
được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của HTM. Dự phòng
rủi ro bao gồm: dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
+ Dự phòng cụ thể: là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại theo từng nhóm
nợ cụ thể để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra, tỷ lệ trích cụ thể:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn tỷ lệ trích lập dự phòng 0%
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý tỷ lệ trích lập dự phòng 5%
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn tỷ lệ trích lập dự phòng 20%
- Nhóm 4: Nợ Nghi ngờ tỷ lệ trích lập dự phòng 50%
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn tỷ lệ trích lập dự phòng 100%
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự
phòng cụ thể theo khả năng tài chính của NHTM.
Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức:
R = max {0, (A - C)} x r (1.4)
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: Số dư nợ gốc của khoản nợ
12
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm được xác định trên cơ sở tích số giữa tỷ lệ
khấu trừ với:
- Giá trị thị trường của vàng tại thời điểm trích lập dự phòng cụ thể;
- Mệnh giá của trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc và các loại giấy tờ có giá,
trừ trái phiếu của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp;
- Giá trị trên thị trường chứng khoán của chứng khoán do doanh nghiệp và TCTD
khác phát hành được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao
dịch chứng khoán tại thời điểm trích lập dự phòng cụ thể;
- Giá trị của tài sản bảo đảm là chứng khoán do doanh nghiệp và TCTD khác phát
hành chưa được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch
chứng khoán, động sản, bất động sản và các tài sản bảo đảm khác ghi trong biên bản
định giá gần nhất được TCTD và khách hàng thống nhất (nếu có) hoặc hợp đồng
bảo đảm;
- Giá trị còn lại của tài sản cho thuê tài chính tính theo hợp đồng cho thuê tài chính
tại thời điểm trích lập dự phòng cụ thể;
- Giá trị của tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay tương ứng số tiền giải ngân theo
hợp đồng tín dụng tại thời điểm trích lập dự phòng cụ thể.
+ Dự phòng chung: là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và
trong các trường hợp khó khăn về tài chính của TCTD khi chất lượng các khoản nợ
suy giảm. Tỷ lệ trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các
khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
1.3 Nợ xấu và những nhân tố phát sinh nợ xấu của NHTM
1.3.1 Khái niệm nợ xấu
Định nghĩa nợ xấu của Ngân hàng tại quyết định 02/2013/TT-NHNN nêu trên thì nợ
xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ)
và nhóm 5 (có khả năng mất vốn). Cụ thể là bao gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi
và gốc trên 90 ngày, đồng thời quyết định này cũng quy định các NHTM căn cứ vào
13
khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích
hợp. Như vậy nợ xấu ngân hàng được xác định theo 2 yếu tố:
- Đã quá hạn trên 90 ngày và
- Khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa 2 - nguyên phó chủ tịch Uỷ ban giám sát tài chính quốc
gia), một định nghĩa khác về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
(IFRS)và IAS 39 được Uỷ ban chuẩn mực kế toán cho ra đời và được áp dụng từ
năm 2005. “Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay
bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để
đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng
tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng). Hệ thống này được coi là
chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, hệ thống này đang được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế chỉnh sửa lại3
Theo quyết định 02/2013/TT-NHNN của NHNN th́ các khoản tín dụng được
phân chia theo 5 nhóm nợ, căn cứ từng nhóm nợ các ngân hàng phải thực hiện trích
lập dự phòng rủi ro (PPRR). Ngoài ra ngân hàng còn phải trích dự phòng rủi ro
(DPRR) chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ.
Như vậy, dự phòng rủi ro là một nguồn quan trọng để các ngân hàng xử lý nợ.
Mức trích dự phòng các lớn thì lợi nhuận càng giảm, và ngược lại.
1.3.2 Phân loại nợ xấu
Từ định nghĩa nợ xấu Ngân hàng nêu trên, cần xem xét phân loại chủ của nợ xấu
Ngân hàng là ai? Trên cơ sở đó đề ra cách giải quyết nợ xấu sẽ chính xác và hiệu
quả hơn. Sau đây là nợ xấu của một số chủ nợ điển hình:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Qua khảo sát thực tế, đại đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ không có nợ xấu Ngân
hàng vì khi đi vay họ đều phải có tài sản thế chấp đầy đủ, đồng thời tài sản thế chấp
đa phần là những tài sản có tính thanh khoản cao và phải có đăng ký giao dịch đảm
bảo. Mặt khác, vì quy mô khoản vay không lớn (trên dưới từ vài tỷ đến vài chục tỷ
2http://www.vietcombank.com.vn/news/vcb.aspx?ID=3749 theo VN economy 3VAS (hệ thống kế toán VN), IAS (hệ thống kế toán quốc tế)
14
đồng); nên việc trích lập dự phòng cũng không ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của
Ngân hàng. Hơn nữa nếu giá bất động sản giảm sút thì Ngân hàng cũng yêu cầu
ngay lập tức phải bổ sung tài sản thế chấp hoặc giảm ngay dư nợ.
Doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn và tổng công ty:
Đa phần trong số các doanh nghiệp nhà nước đều cho vay dạng chỉ thế chấp một
phần hoặc tín chấp hoàn toàn, không như cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, bên cạnh đó còn có những khoản vay do Nhà nước chỉ định như: Vinashin,
Vinaline … Từ việc dễ dàng hơn khi cho vay nên các doanh nghiệp nhà nước
thường vay với số lượng lớn (xoay quanh trên 40% tổng cho vay toàn Ngân hàng;
trong số này còn phải kể đến các khoản vay từ các công ty con của doanh nghiệp
nhà nước (như Vinashin thành lập hàng trăm công ty chỉ để vay được nhiều hơn).
Từ cuối năm 2009 đến đầu năm 2012 lạm phát ở nước ta rất cao, cộng thêm lãi suất
Ngân hàng xoay quanh mức 18%/năm, trong khi ảnh hưởng khủng hoảng tài chính
thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài, đã ảnh hưởng nặng nề đến kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến nợ xấu gia tăng. Giải quyết nợ
xấu Ngân hàng tại khu vực đoanh nghiệp nhà nước có khó khăn do tài sản thế chấp
không đủ để phát mãi hoặc pháp lý của tài sản không rõ ràng, khó xử lý.
Doanh nghiệp bất động sản và doanh nghiệp là “sân sau” của Ngân hàng4
Nợ xấu của DN bất động sản và doanh nghiệp là “sân sau” của Ngân hàng ngày
càng gia tăng. Giải quyết nợ xấu Ngân hàng tại khu vực đoanh nghiệp nhà nước có
khó khăn do tài sản thế chấp không đủ để pay ngân hàng cao thì giá bât động sản lại
bị sụt giảm mạnh, không có người mua, bất động sản bị đóng băng dẫn đến suy
giảm khả năng trả nợ và phát sinh nợ xấu. Trong số các doanh nghiệp này, có một
số là do các cổ đông lớn của Ngân hàng làm chủ, tập trung chủ yếu vào đầu cơ bất
động sản hoặc chứng khoán, vay ngân hàng với số lượng rất lớn (lên tới vài ngàn tỷ
đồng), lúc kinh tế khó khăn, hiệu quả kinh doanh thấp cộng với lãi suất quá cao, nên
cũng dẫn đến phát sinh nợ xấu.
4Nợ xấu Ngân hàng giải quyết bằng cách nào, NXB Thanh niên, 2012
15
1.3.3 Nguồn gốc phát sinh nợ xấu của NHTM
1.3.3.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh không ổn định, tạo khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, tiêu thụ sản phẩm
+ Môi trường kinh doanh không ổn định, suy thoái kinh tế (2008,2009) kéo dài tạo
khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, hàng tồn kho ứ đọng, khoản
phải thu khó đòi cũng gia tăng, khiến cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
bị đình trệ, dẫn đến nợ xấu gia tăng.
Chính sách tiền tệ- tín dụng của chính phủ và NHNN nới lỏng qua nhiều
năm (2006 - 2010)
Bảng 1.1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2006 đến năm 2011:
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011 (ước tính)
32,0
41,2
20,3
27,5
29,8
10
Tốc độ tăng trưởng M2 (%)
Tốc độ tăng tín dụng (%)
24,8
48,9
23,4
37,5
31,2
12-13
M2/GDP danh nghĩa (lần)
0,97
1,16
1,08
1,23
1,34
1,15
Tín dụng/GDP danh nghĩa (lần)
0,71
0,90
0,86
1,06
1,16
1,02
Nguồn: UBGSTC (Trang 15 báo cáo triển vọng kinh tế VN 2012-2013 tháng
12/2011 của Uỷ ban giam sát tài chính quốc gia)
Mức tăng trưởng cung tiền nhanh khiến cho việc vay vốn nhanh và dễ dàng, dẫn
đến thiếu cẩn trọng. Đến đầu năm 2011, chính sách tiền tệ tín dụng thắt chặt quá
mức dẫn đến suy giãm sản xuất, đóng băng tín dụng (6 tháng đầu năm 2013, tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 0,76% so với 31/12/2011) 5
Chủ trương cho phép chuyển các Ngân hàng TMCP nông thôn lên thành thị
Cùng sức ép tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng, các Ngân hàng buộc phải tăng
nhanh huy động vốn và cho vay bằng nhiều cách để đảm bảo chi trả cố tức, giữ giá
cổ phần khỏi tụt giảm. NHTM chủ yếu sử dụng lãi suất huy động cao, từ đó dẫn đến
cho vay cũng rất cao, rủi ro từ phía khách hàng không trả được nợ cũng gia tăng,
phát sinh nợ xấu.
5Ngân hàng nhà nước Việt Nam
16
Vai trò thanh tra, giám sát và quản lý của NHNN
Hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN còn hạn chế, mặc dù hàng năm
thanh tra NHNN đều thanh tra định kỳ hoạt động tín dụng của các NHTM, nhưng
hầu hết không phát hiện ra những khoản tín dụng có nguy cơ xảy ra rủi ro để có thể
cảnh báo sớm và giúp cho NHNN đưa ra các chính sách xử lý kịp thời.
Giải pháp xử lý tín dụng chưa kịp thời, một số giải pháp NHNN đưa ra mặc dù
cần thiết với tình hình hiện tại nhưng lại thiếu tính định hướng. NHNN quy định tỷ
trọng dư nợ cho vay tối đa đối với lĩnh vực phi sản xuất khi mà tỷ trọng dư nợ cho
vay trong lĩnh vực này của một số ngân hàng đã khá cao và đưa ra tại thời điểm thị
trường bất động sản đang gặp khó khăn. Vì vậy, việc giảm tỷ trọng dư nợ cho vay
theo quy định này là điều rất khó, không những cho các ngân hàng mà còn cả các
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản. Nếu quy định này được đưa
ra tại thời điểm khi mới xuất hiện một số ngân hàng bắt đầu tập trung cho vay đối
với lĩnh vực phi sản xuất thì sẽ có tính định hướng cho các NHTM tốt hơn.
1.3.3.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng
Tiềm lực tài chính yếu
Năng lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tổng thể của khách hàng. Trong
các giao dịch đều tiềm ẩn rủi ro, nhưng với các khách hàng có tiềm lực tài chính
mạnh thì có khả năng chống chịu rủi ro rất tốt. Khi có tiềm lực tài chính mạnh họ đủ
sức cầm cự, bù đắp tổn thất và tìm hướng kinh doanh để có thể tiếp tục trụ vững và
phát triển. Còn nếu năng lực tài chính yếu, khách hàng rất dễ bị tổn thương khi gặp
rủi ro và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Bên cạnh các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Cũng còn có không ít các doanh nghiệp có tình hình tài chính
không tốt, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, vay nợ chiếm tỷ trọng cao trong
tổng nguồn vốn và khả năng dự báo thị trường yếu vẫn được ngân hàng cho vay,
thậm chí được vay với số tiền rất lớn.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô nguồn vốn
chủ sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối là đặc điểm chung của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Công tác quản lý tài chính kế toán còn tùy tiện, thiếu đồng
17
bộ, mang tính đối phó, làm cho thông tin ngân hàng có được không chính xác, chỉ
mang tính chất hình thức. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài
chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường
thiếu tính thực tế và sai lệch quá nhiều, rủi ro xảy ra là lẽ đương nhiên.
Đạo đức, uy tín, năng lực quản trị, sản xuất kinh doanh và kinh nghiệm
của người vay
Đây là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến khả năng hoàn trả nợ vay.
Điều này liên quan đến việc sử dụng vốn vay, tổ chức quản lý phương án sản xuất
kinh doanh có hiệu quả nhằm tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng. Với những khách
hàng thiếu thiện chí, trình độ, năng lực quản trị kém, kinh nghiệm non yếu dễ dẫn
đến việc sử dụng vốn sai mục đích, gây thất thoát vốn và thường dây dưa trong việc
trả nợ cho ngân hàng.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh
cụ thể, khả thi, nếu không kiểm tra, phân tích xem, có thể bị rủi ro. Số lượng doanh
nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản
không nhiều, nhưng không phải không có, thậm chí có những vụ việc phát sinh hết
sức nặng nề và nghiêm trọng, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng
xấu đến các doanh nghiệp khác.
Năng lực quản lý kinh doanh yếu kém cũng là lý do phát sinh rủi ro. Nhiều doanh
nghiệp đầu tư vào nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý. Quy mô kinh doanh
phình ra quá to so với tư duy quản lý, là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các
phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
1.3.3.3 Nguyên nhân từ nội bộ Ngân hàng
Hệ thống luật lệ Ngân hàng còn nhiều sơ hở, không quản lý chặt chẽ dẫn đến
việc một số sổ đông lớn huy động vốn ngân hàng cho vay các công ty do chính
họ làm chủ
Một số cổ đông ngân hàng tham gia góp vốn vào Ngân hàng với mục đích chính
không phải kinh doanh tiền tệ mà điều hành Ngân hàng như một công cụ để thực
hiện lợi ích nhóm. Hoạt động theo cách huy động vốn từ đại chúng với lãi suất cao
để cấp tín dụng nhanh, dễ dàng đối với các tổ chức có liên quan, thân hữu của mình.
18
Các công ty này vay được một cách dễ dàng nên sử dụng nguồn tiền không hiệu
quả, dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém, khả năng trả nợ thấp và phát sinh nợ quá
hạn.
Mô hình kinh doanh của nhiều ngân hàng chưa theo kịp chuẩn mực, thông lệ
quốc tế, dẫn đến hiều sai sót trong quá trình thẩm duyệt, giải ngân và giám
sát xử lý nợ vay
Việc áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng theo tiêu chuẩn
Basel (các nguyên tắc của uỷ ban giám sát ngân hàng Basel), xếp ạng tín dụng ...
nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được
các ngân hàng tuân thủ chặt chẽ.
Trong hoạt động cho vay, hệ thống ngân hàng còn lỏng lẻo trong công tác thẩm
định mục đích vay, điều kiện vay, đặc biệt là công tác kiễm tra sau vay dẫn đến chất
lượng tín dụng không cao, nợ xấu ngày càng gia tăng.
Quản trị diều hành, quản trị rủi ro kém, nguồn nhân lực yếu
Xuất phát từ việc số lượng NHTMCP tăng nhanh trong những năm gần đây, trong
khi đó chất lượng quản trị điều hành chưa theo kịp (nhiều cổ đông ngân hàng tham
gia diều hành chưa có kinh nghiệm lãnh đạo trong ngành, tâm lý trào lưu ...);
chuyên môn của đội ngũ nhân viên không phù hợp (do tăng trưởng nóng nên thu hút
một số lượng lớn nhân sự trái ngành, công tác đào tạo không chuyên nghiệp ...) từ
đó dẫn đến việc không đáp ứng được nhu cầu công việc; công nghệ còn lạc hậu,
chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng từ phía khách hàng... bên cạnh đó đạo đức kinh
doanh yếu kém, văn hoá kinh doanh không phù hợp dẫn đến những phát sinh tiêu
cực.
Buông lỏng trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng
Thời gian qua công tác kiểm tra nội bộ của các ngân hàng còn chưa được chú trọng
nhiều, chủ yếu còn mang tính hình thức. Cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ còn
kiêm nhiệm thêm các công việc khác, việc kiểm tra phát hiện sai phạm còn sơ sài,
cả nể, thường trông chờ vào lực lượng thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
19
1.3.4 Tác động của nợ xấu và sự cần thiết phải xử lý nợ xấu
1.3.4.1. Tác động của nợ xấu
Tháng 11/2011, tổ chức S&P (standard & poor) một tổ chức xếp hạng có tín
nhiệm, có tiếng của Mỹ đã điều chỉnh đánh giá mức độ rủi ro trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam từ “nhóm 9” lên “nhóm 10”, tức ứng với mức độ rủi ro cao nhất.
Ngày 24/4/2012 NHNN Việt Nam đã ký văn bản số 2056/2012/NHNN-CSTT
gửi các TCTD và chi nhánh NH nước ngoài yêu cầu thực hiện một số giải pháp tín
dụng thực hiện việc phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ
theo quy định tại quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/3/2012 về việc phân loại
nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ. Triển khai thực hiện vấn
đề trên, nợ xấu ngân hàng đã trở thành trọng tâm phải giải quyết của hệ thống ngân
hàng.
Theo ông Lê Duy Khánh (Thời báo Kinh tế Sài Gòn, trang 10, ngày 03/5/2012)
“ Về bản chất, gia hạn nợ mà không làm chuyển nhóm nợ là một hình thức đảo nợ.
Việc một khoản nợ được kéo dài thời hạn trả nợ giống như một khoản cấp tín dụng
mới mà không cần chứng minh mục đích sử dụng vốn.
Như vậy, với văn bản mới này, NHNN đã gián tiếp cho phép đảo nợ mà lâu nay
NHNN vẫn cấm hoặc vẫn ghi là theo hướng dẫn riêng mà chưa bao giờ hướng dẫn
việc không có dữ liệu chính xác vế nợ xấu đã là điều rất nguy hiểm. Thế nhưng từ
nay với quyết định 780, số liệu về nợ xấu đã không còn mấy ý nghĩa. Hoạt động của
hệ thống TCTD đã rất méo mó nay sẽ càng méo mó hơn”
Số liệu nợ xấu của hệ thống ngân hàng được NHNN công bố cuối năm 2011 là
khoảng 3,1%; đến cuối quý1/2012 là 3,6%. Trong khi đó, số liệu nợ xấu ngân hàng
được công bố qua thanh tra , giám sát là 8,6% (tính đến cuối quý 1/2012) (theo báo
cáo của thanh tra NHNN Việt Nam); đồng thời đến tháng 5/2012 khi Thống đốc
NHNN báo cáo trước Quốc Hội nợ xấu ngân hàng có đến 10% trên tổng dư nợ toàn
hệ thống.
Có thể thấy nợ xấu ngân hàng càng ngày càng tăng lên trong khi số trích dự
phòng rủi ro tín dụng không tăng tương xứng. Với số liệu báo cáo chênh lệch nêu
trên, dẫn đến phần trích dự phòng bắt buộc của các ngân hàng chênh lệch theo số
20
liệu báo cáo. Đồng thời ảnh hưởng đến việc chia lợi nhuận cho các cổ đông của các
ngân hàng sẽ không đúng. Kể cả có ngân hàng (nếu trích dự phòng đầy đủ) không
có lợi nhuận cũng vẫn chia “cổ tức”.
a. Tác động thứ nhất là việc chuẩn bị nguồn (trích dự phòng thực tế không đúng)
để xử lý nợ xấu không có, đồng thời nợ xấu càng ngày càng tăng lên là một nguyên
nhân chính làm ảnh hưởng “thanh khoản” của hệ thống ngân hàng; thanh khoản
luôn bấp bênh; đối mặt với “bất ổn”..
Theo báo cáo “Triển vọng kinh tế việt Nam 2012-2013” của Ủy Ban Giám sát Tài
chính quốc gia tháng 12/2011, trang 15, “thanh khoản của hệ thống ngân hàng càng
ngày càng tiềm ẩn rủi ro hơn, biểu hiện qua việc thị trường liên ngân hàng thời gian
qua có những biến động lớn. Gần đây, thị trường liên ngân hàng chứng kiến sự rối
loạn chưa từng có khki niềm tin sụt giảm nghiêm trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử
hệ thống NH Việt Nam, vay trên thị trường 2 phải có thế chấp vả điều đáng quan
ngại là tỷ lệ nợ xấu trên thị trường này vẫn tiếp tục tăng nhanh… Thanh khoản căng
thẳng, nợ xấu (cả thị trường 1 và thị trường 2) tăng cao làm lãi suất huy động và cho
vay không thể hạ được mặc dù lạm phát đang có xu hướng giảm khá nhanh.”
b. Tác động thứ hai của nợ xấu ngân hàng: do không minh bạch nợ xấu (mỗi nơi
báo cáo một khác, không xác định đúng số nợ xấu ngân hàng là bao nhiêu làm cho
nhà nước không phân biệt được; không đánh giá đúng được kết quả kinh doanh của
từng ngân hàng (vì số liệu trong thực tế đã bị bóp méo). Từ đó có những chính sách
hỗ trợ tiếp theo không chính xác. Cũng như không thể dự phòng, dự báo được chính
xác tình hình phát triển kinh tế, phục vụ cho công tác kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô.Thị trường tiền tệ, ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro và bất ổn, rủi ro
thanh khoản và rủi ro nợ xấu tăng cao
c. Tác động thứ 3 rất quan trọng. Do không đảm bảo đúng chuẩn mực báo cáo Tài
chính quốc tế (IFRS) và IAS 39 của Ủy ban chuẩn mực quốc tế, đồng thời do nợ
xấu ngân hàng thực tế và báo cáo ngày càng tăng cao đã làm ảnh hưởng mức độ tín
nhiệm của doanh nghiệp và của chính phủ trong việc vay vốn nước ngoài (trong
việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc
tế) để đầu tư phát triển kinh doanh.
21
- Ảnh hưởng đến chương trình mời gọi đầu tư nước ngoài vào Viện Nam.
- Ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
1.3.4.2. Sự cần thiết phải xử lý nợ xấu
Qua phân tích những tác động nghiêm trọng của nợ xấu đến hoạt động của
NHTM, đến người đi vay và đến nền kinh tế nói chung, chúng ta thấy rằng hệ thống
các NHTM cần phải có những giải pháp mạnh mẽ và quyết liệt để xử lý nợ xấu.
Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách hàng
của ngân hàng thấp. Do đó ngân hàng phải dùng vốn để trang trải cho các khoản
thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc "xóa sổ"
những khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào
những lòng tin, do đó khi thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn,
người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ
bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có sự
thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là 1 ngân hàng và ở 1 mức độ nhất
định nào đó cũng sẽ đe doạ tới sự an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân
hàng.
1.4. Phương pháp hạn chế và xử lý nợ xấu
Nguyên tắc về quản lý nợ xấu của Ủy ban Basel
Ủy ban Basel đã ban hành các nguyên tắc về quản lý nợ xấu, mà thực chất là đưa ra
các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng. Có thể kể tới 11 nguyên tắc cơ bản trong số 17 nguyên tắc
Basel về quản lý nợ xấu như sau:
Theo nguyên tắc 1 của Ủy ban Basel về phòng ngừa nợ xấu:
Mỗi ngân hàng cần phát triển một chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, trong đó sẵn
sàng chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu phù hợp. Chiến lược quản lý rủi ro tín dụng phản
ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất định mà ngân
22
hàng kỳ vọng. Cụ thể, chiến lược quản lý rủi ro cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng
trong việc sẵn sàng cấp tín dụng dựa trên loại hình rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế,
vị trí địa lý, đồng tiền, kỳ hạn và mức sinh lời dự kiến.
Chiến lược sẵn sàng chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu cần được phổ biến hiệu quả trong
toàn ngân hàng. Mọi nhân viên ngân hàng cần hiểu rõ và có trách nhiệm tuân thủ
các thủ tục và chính sách đã đề ra. Hội đồng quản trị (HĐQT) giao ban tổng giám
đốc quản lý các hoạt động tín dụng do ngân hàng tiến hành và các hoạt động này
được thực hiện trong phạm vi chiến lược, chính sách và mức độ chấp nhận rủi ro đã
được hội đồng quản trị phê duyệt.
Nguyên tắc 2 cũng chỉ ra rằng, yếu tố chính để hoạt động ngân hàng an toàn và lành
mạnh là xây dựng và thực hiện tốt các chính sách và thủ tục bằng văn bản liên quan
đến việc xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng. Các chính sách
và thủ tục được xây dựng và thực hiện tốt sẽ cho phép ngân hàng:
(i) Duy trì các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh;
(ii) Theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng;
(iii) Đánh giá đúng các cơ hội kinh doanh mới;
(iv) Xác định và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Nguyên tắc 3: Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản
phẩm và hoạt động của mình. Đối với các sản phẩm và hoạt động mới, ngân hàng
cần xây dựng biện pháp quản lý rủi ro tín dụng và kiểm soát phù hợp trước khi được
đưa vào sử dụng và phải được HĐQT hoặc ủy ban của HĐQT phê duyệt.
Như vậy, ba nguyên tắc đầu tiên đã cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng chiến
lược quản lý rủi ro tín dụng đối với mọi sản phẩm và hoạt động của ngân hàng.
Đồng thời chỉ ra rằng, các ngân hàng cũng cần chấp nhận và xác định một tỷ lệ nợ
xấu hợp lý, ngoài ra, các quy trình, thủ tục quản lý tín dụng phải được triển khai
một cách đầy đủ và chặt chẽ.
Cụ thể hơn, đối với từng giai đoạn trong quy trình quản lý tín dụng, Ủy ban Basel
đều đưa ra các nguyên tắc nhất định. Đơn cử như trong giai đoạn đầu tiên “Đề nghị
cấp tín dụng”, nguyên tắc 4 đã chỉ rõ:
23
Các tiêu chí để cấp tín dụng lành mạnh phải được xác định rõ ràng. Những tiêu chí
này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân hàng và đồng thời, ngân hàng phải hiểu
biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng.
Các ngân hàng cần nhận được đầy đủ thông tin để cho phép đánh giá toàn diện về
hồ sơ của khách hàng vay. Tùy theo loại hình rủi ro tín dụng và mối quan hệ tín
dụng hiện tại, các yếu tố cần được cân nhắc và đưa vào quá trình phê duyệt tín
dụng. Khi xem xét các khoản tín dụng tiềm năng, các ngân hàng cần nhận thức sự
cần thiết phải trích lập dự phòng rủi ro đối với các tổn thất đã phát hiện và dự kiến
để có đủ vốn bù đắp những tổn thất. Ngân hàng cần đưa các cân nhắc này vào các
quyết định cấp tín dụng, cũng như vào quá trình quản lý rủi ro của toàn bộ danh
mục đầu tư.
Còn đối với giai đoạn “Xây dựng hạn mức tín dụng”, nguyên tắc 5 đã chỉ ra: Ngân
hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm khách
hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau, nhưng có thể so sánh
và theo dõi được ở trong sổ sách kế toán kinh doanh nội bảng và ngoại bảng. Các
giới hạn này thường dựa một phần vào xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng
vay. Với các khách hàng có xếp hạng cao hơn sẽ có giới hạn rủi ro tiềm năng cao
hơn. Cũng cần xây dựng giới hạn đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý
và các sản phẩm cụ thể. Để có hiệu quả, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc
và không đi theo nhu cầu của khách hàng.
Nguyên tắc 6, ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản
tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.
Nhiều cán bộ trong ngân hàng cùng tham gia vào quá trình cấp tín dụng. Những cán
bộ này có thể là những người từ bộ phận tiếp thị, quan hệ khách hàng, hoặc từ bộ
phận phân tích thẩm định tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng.
Nguyên tắc 7, việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng
giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng ngoại lệ cho các công ty và cá nhân cần
theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro.
Các giao dịch quan trọng với các bên có quan hệ phải được HĐQT phê duyệt, và
trong một số trường hợp phải được báo cáo cho cơ quan giám sát ngân hàng.
24
Riêng đối với việc tiếp nhận hồ sơ tín dụng của khách hàng, theo Nguyên
tắc 8: Hồ sơ tín dụng cần đủ mọi thông tin cần thiết để xác định tình hình tài chính
hiện hành của khách hàng vay. Ví dụ, hồ sơ tín dụng cần bao gồm các báo cáo tài
chính hiện hành, phân tích tài chính và các tài liệu xếp hạng nội bộ, các bản ghi nhớ
nội bộ, thư giới thiệu và đánh giá tín dụng. Các bộ phận xem xét khoản vay cần xác
định được hồ sơ tín dụng là hoàn chỉnh và có đủ các phê duyệt và văn bản cần thiết
khác.
Giai đoạn “Phân tích và thẩm định hồ sơ tín dụng” cần tuân theo nguyên tắc
10, khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ trong phân tích. Hệ thống xếp hạng cần nhất quán với bản chất, quy mô và mức
độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng. Do tầm quan trọng của việc bảo đảm
rằng các mức xếp hạng nội bộ là thống nhất và phản ánh chính xác chất lượng của
từng khoản tín dụng, trách nhiệm xây dựng các mức xếp hạng này cần được giao
cho một bộ phận xem xét tín dụng độc lập. Điều quan trọng là sự thống nhất và
chính xác của các mức xếp hạng được kiểm tra định kỳ bởi một bộ phận như nhóm
xem xét tín dụng độc lập.
Ngoài ra, khi phân tích, thẩm định khách hàng theo các chỉ tiêu định lượng và định
tính, cần phải tuân thủ nguyên tắc 6 Cs.
Quy tắc 6 Cs bao gồm: Character - Capacity - Cashflow - Collateral - Conditions
- Control (Tính cách người vay - Năng lực trả nợ - Dòng tiền - Tài sản đảm bảo -
Điều kiện môi trường - Sự kiểm soát).
Giai đoạn “Đánh giá và đo lường rủi ro các khoản vay”, các ngân hàng có thể đo
lường rủi ro khoản vay thông qua các mô hình cho điểm tín dụng, mô hình điểm số
Z của Altman, và mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ theo Basel II.
Theo Basel II, để đo lường và tính toán hệ số rủi ro đối với các khoản mục tài sản
có rủi ro tín dụng, có 3 phương pháp có thể lựa chọn: Phương pháp chuẩn
(Standardized), Phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản (F – IRB), Phương
pháp xếp hạng nội bộ nâng cao (A– IRB).
Nếu các mô hình cho điểm tín dụng đánh giá rủi ro của khách hàng trên cơ sở cho
điểm doanh nghiệp đó, xem doanh nghiệp đang ở mức độ rủi ro nào
25
thì theo Basel II có thể tính được tổn thất dự kiến EL (Expected Losses) theo công
thức:
EL = PD x LGD x EAD
Trong đó: PD (Probability of default) là khả năng vỡ nợ, LGD (Loss given default)
là mức độ tổn thất khi vỡ nợ và EAD (Exposure at default) là tổng dư nợ của khách
hàng không trả được nợ. Nếu mỗi món vay được xem là một phép thử và có số liệu
đầy đủ, chúng ta có thể xác định một cách tương đối chính xác xác suất rủi ro của
từng loại tài sản ngân hàng trong từng thời kỳ, từng loại hình tín dụng và từng lĩnh
vực đầu tư.
Nhằm đánh giá tác động ảnh hưởng của Basel II đến hơn 350 ngân hàng thuộc 31
quốc gia, trong cuộc khảo sát QIS 5, Ủy ban Basel đã phân chia các ngân hàng được
khảo sát thành 2 nhóm ngân hàng: nhóm 1 và nhóm 2; trong đó, các ngân hàng
thuộc nhóm 1 là những ngân hàng có vốn cấp 1 từ 3 tỷ USD trở lên và nhóm 2 gồm
những ngân hàng có vốn cấp 1 dưới 3 tỷ USD.
Theo khảo sát về việc ứng dụng các phương pháp Basel II trong đánh giá rủi ro tín
dụng, kết quả cho thấy rằng: các ngân hàng thuộc các quốc gia G10 chủ yếu ứng
dụng các phương pháp xếp hạng nội bộ (trong đó, các ngân hàng lớn thuộc nhóm 1
các nước G10 chủ yếu ứng dụng phương pháp xếp hạng nội bộ nâng cao). Trong
khi các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ hơn 3 tỷ USD thuộc các quốc gia không nằm
trong nhóm các nước G10 lại chủ yếu ứng dụng phương pháp đơn giản (phương
pháp chuẩn) của Basel II khi đánh giá rủi ro tín dụng.
Trong đó: RSA: Phương pháp chuẩn, FIRB: phương pháp xếp hạng nội bộ đơn
giản, AIRB: phương pháp xếp hạng nội bộ nâng cao.
Ngoài ra, để bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng, nhất thiết phải có sự kiểm
tra, giám sát chặt chẽ của ngân hàng mà trong đó, yếu tố thông tin là vô cùng quan
trọng. Bởi vậy, nguyên tắc 9 và nguyên tắc 11 chỉ ra:
Tính hiệu quả của quá trình quản lý rủi ro tín dụng chủ yếu dựa trên chất lượng
của hệ thống thông tin quản lý. Thông tin tạo ra từ hệ thống này cho phép HĐQT và
các cấp lãnh đạo hoàn thành vai trò giám sát của mình. Do vậy, chất lượng, chi tiết
và tính cập nhật của thông tin là cực kỳ quan trọng.
26
1.5 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của Trung Quốc
Theo quy định của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (với tư cách là NHTW), bộ
phận tín dụng của NHTM cần phải có các quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi
cho vay, kịp thời thu thập thông tin để phân loại, thiết lập và hoàn chỉnh hồ sơ phân
loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại; chịu trách nhiệm về tính chân thực, tính
chuẩn xác, tính hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp; tiến hành phân
loại sơ bộ tài sản theo tiêu chuẩn phân loại, đề xuất ý kiến và lý do phân loại; định
kỳ báo cáo cho bộ phận quản lý rủi ro những thông tin phân loại của bộ phận tín
dụng; căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản tín dụng có sự phân
biệt trong quản lý đối với từng khoản tín dụng, thực hiện các biện pháp cải tiến, loại
trừ và xử lý rủi ro.
Đồng thời, theo đó các khoản tín dụng được phân thành 5 nhóm: nhóm nợ đủ tiêu
chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ
(nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), trong đó nợ nhóm 3, 4, 5 được gọi là
nợ xấu. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: dự phòng chung và dự
phòng cụ thể: -
- Dự phòng chung được trích hàng tháng và được xác định bằng 1% số dư cuối kỳ
của các khoản tín dụng. ờ nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm
5), trong các khoản tín dụng với tỷ lệ như sau: nhóm 1: 0%; nhóm 2: 2%; nhóm 3:
25%; nhóm 4: 50%; nhóm 5: 100%.
Khi phân loại các khoản tín dụng, NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên cơ sở
khả năng trả nợ và dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm
pháp luật về thanh toán nợ vay của khách hàng, t́nh h́nh quản lư tín dụng của ngân
hàng,… Trong phân loại nợ, các NHTM Trung Quốc lấy việc đánh giá khả năng trả
nợ của khách hàng là cốt lõi, xem thu nhập kinh doanh bình thường của khách hàng
là nguồn vốn trả nợ chủ yếu, tài sản đảm bảo là nguồn vốn trả nợ thứ yếu. Đối với
khoản cho vay mới, ngân hàng xem xét lịch sử giao dịch, tình trạng uy tín của
khách hàng với ngân hàng khác. Nếu khách hàng vay là công ty mới thành lập thì
chủ yếu xem xét lịch sử giao dịch, uy tín của các cổ đông. Lịch sử trả nợ của khách
27
hàng có thể phản ánh tình trạng gia hạn, quá hạn nợ vay của họ, đây là yếu tố quan
trọng cần xem xét khi tiến hành phân loại các khoản tín dụng. Để thực hiện xử lý nợ
xấu, Trung Quốc đã thành lập 04 công ty quản lý tài sản (AMC) với vốn điều lệ
khoảng 05 tỷ USD (tương đương 1% tổng số nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung
Quốc hiện nay). Đây là một con số rất nhỏ so với khối lượng nợ xấu, do đó năm
1999, khi một khối lượng nợ bằng 170 tỷ USD được chuyển giao cho các AMC, để
đảm bảo nguồn vốn cân bằng với khối lượng nợ chuyển sang các AMC đã phải vay
từ Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (67 tỷ USD) và phát hành trái phiếu (108 tỷ
USD). Kết quả đến tháng 03/2004, các AMC xử lý được 63,9 tỷ USD mà phần lớn
là chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu (12,7 tỷ USD). Như vậy số nợ thu hồi chỉ đạt
được 7,6% tổng số nợ xấu được chuyển sang và bằng 20% số nợ được xử lý. Khi
phân loại các khoản tín dụng, NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên cơ sở khả năng
trả nợ và dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo.
Nhưng thực ra, khoản nợ được xử lý chủ yếu là việc xoá các khoản nợ không có khả
năng thu hồi thông qua sử dụng dự phòng rủi ro, phần thu được từ các khách hàng
gần như không đáng kể. Ngoài ra, các NHTM và AMC của Trung Quốc đã bán cho
các nhà đầu tư nước ngoài khối lượng nợ với mệnh giá (face value) khoảng 6 tỷ
USD, trong đó City Group chiếm tỷ trọng cao nhất với khối lượng mua gần 2,2 tỷ
USD. Khối lượng nợ được xử lý này là cơ sở để Chính phủ Trung Quốc cấp thêm
cho 02 ngân hàng xử lý nợ tốt nhất Trung Quốc là Ngân hàng Trung Quốc (BOC)
và Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (CCB) 45 tỷ USD từ nguồn dự trữ ngoại hối.
NHTM Trung Quốc sẽ có một cách thức chia sẽ rủi ro tín dụng mới. Thông thường,
các ngân hàng sẽ phân phối lại rủi ro tín dụng bằng cách cân đối giữa các khoản cho
vay và các khoản tiền gửi. Thay vì vậy, khi thực hiện chứng khoán hóa, các ngân
hàng có thể chuyển giao phần rủi ro tín dụng này cho các nhà đầu tư chứng khoán .
Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của Mỹ và châu Âu
Gần đây, một số ngân hàng lớn của Mỹ (ví dụ như JPMorgan hay Bank of America)
đã bắt đầu nỗ lực hoãn các vụ tịch thu tài sản để trả nợ và nỗ lực làm việc với các
chủ nợ để họ vẫn có thể trả tiền.
Các biện pháp phổ biến là giảm lãi suất và giảm giá trị các khoản chi trả để người
28
vay tiền vẫn có thể trả tiền và “không bị ném ra khỏi nhà” (nếu dùng nhà để thế
chấp cho khoản vay). Mặt khác, Mỹ và châu Âu cũng đã bơm tiền vào các ngân
hàng, nhờ đó nhiều ngân hàng lớn đã mua lại các ngân hàng và TCTD nhỏ đang
trên bờ vực phá sản. Hành vi thâu tóm và mua lại như vậy có thể giúp những chính
sách hỗ trợ khách hàng của ngân hàng lớn áp dụng luôn cho khách hàng của ngân
hàng nhỏ.
Đây là gợi ý rất tốt cho việc xử lý tình hình nợ xấu của ngân hàng Việt Nam. Nếu
sắp tới nhiều ngân hàng gặp khó khăn do các khoản nợ xấu bắt nguồn từ doanh
nghiệp kinh doanh BĐS và xuất khẩu, thì các ngân hàng ít gặp vấn đề hơn có thể
mua lại các ngân hàng có vấn đề, đồng thời Nhà nước có thể tính đến giải pháp hỗ
trợ thanh khoản và vốn cho ngân hàng còn khỏe mạnh.
Một giải pháp cũng có thể nghĩ đến là ngân hàng cho các khách hàng mới vay để
mua lại các tài sản của khách hàng cũ với thời hạn vay dài hơn. Đương nhiên,
khách hàng mới phải khỏe mạnh hơn khách hàng cũ.
Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của Thái Lan
Việc xử lý nợ xấu cho các công ty tài chính và các NHTM tại Thái Lan được thực
thi bằng hai mô hình: Từng NHTM tự xử lý và Nhà nước đứng ra xử lý hoặc hỗ trợ
xử lý.
- Mỗi NHTM lập ra một bộ phận quản lý nợ (Assets Management Division - AMD)
hoặc bộ phận quản lý nợ đặc biệt (Special Assets Management - SAM) để chuyên
trách việc xử lý các khoản nợ xấu từ 5 triệu Baht trở xuống.
- Chính phủ thành lập Công ty quản lý tài sản AMC để chuyên trách xử lý nợ khó
đòi (trên 5 triệu Baht) của các Công ty tài chính hoặc của NHTM thuộc Chính phủ.
Thêm vào đó, để công tác xử lý nợ tồn đọng đạt hiệu quả cao hơn, Chính phủ Thái
Lan cũng thành lập thêm một AMC Trung ương có tên là Thai Assets Management
Company - TAMC để tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng từ các NHTM tư nhân và
các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước mà chính các NHTM đó không xử lý được.
Tuy nhiên, TAMC chỉ tiếp nhận xử lý các khoản nợ có nhiều chủ nợ và những
khoản nợ có giá trị trên 50 triệu Baht; còn các khoản nợ đơn lẻ, dưới 50 triệu Baht,
nợ tái cơ cấu lại, nợ đã có phán quyết của Tòa án.. thì để lại cho các NHTM hoặc
29
các AMC của NHTM tự xử lý.
NHTƯ Thái Lan cũng hướng dẫn cho các NHTM thực hành tái cơ cấu nợ để quản
lý và xử lý tốt nhất đối với nợ xấu. Đặc điểm của phương thức này là đưa khách nợ
và chủ nợ ngồi lại với nhau và nó đảm bảo được 4 tính chất: tính cân bằng, tính
thống nhất, tính bắt buộc (kỷ luật) và tính linh hoạt (biến đổi trong thương thuyết
với con nợ). Trên quan điểm đó, các NHTM Thái Lan tiến hành trình tự theo giai
đoạn 5 bước như sau:
(i) Trước tiên, đó là khâu thu thập thông tin để xác định khách hàng cần gì, họ tiếp
cận nguồn vốn nào và làm thế nào họ thực hiện được điều đó. Mục đích của việc
này là ngân hàng muốn biết cái gì đang xảy ra, càng sớm càng tốt và cần thiết phải
có được thông tin càng nhanh càng hiệu quả. Tuy nhiên, các dự đoán không phải
lúc nào cũng dựa trên quá khứ (vì một DN sáng giá, làm ăn giỏi vẫn có thể trở
thành thua lỗ chỉ sau một đêm). Do vậy, ngân hàng phải xem xét các dự đoán và
hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến khách hàng.
(ii) Thứ hai, ngân hàng sẽ đánh giá khả năng trả nợ sơ bộ của khách hàng vay vốn
qua các tiêu chí như: vị thế công ty, sản phẩm của công ty trên thị trường, khả năng
tồn tại và phát triển của công ty trong tương lai…
(iii) Thứ ba, sau khi đánh giá sơ bộ, ngân hàng sẽ đánh giá khách hàng cụ thể bằng
việc nghiên cứu từng khoản vay. Nếu cho vay tiếp thì phải có bảo đảm và tính tới
việc thu hồi nợ sẽ như thế nào. Hơn nữa, ở bước này, ngân hàng phải xem xét các
luồng tiền ra vào của khách hàng vay để đánh giá và kết luận nên cho vay tiếp bao
nhiêu. Vì tiêu chí của ngân hàng là muốn để khách hàng tiếp tục tồn tại và duy trì
hoạt động của khách hàng nên ngân hàng phải nghĩ ngay tới cách thức thu nợ từ
những nguồn nào (ví dụ như nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ
hoán đổi nợ thành cổ phần, xoá nợ, tái tài trợ, hay tìm kiếm nhà tài trợ khác…) và
thu được bao nhiêu, trong thời gian bao lâu thì ngân hàng có thể thu hết nợ…
(iv) Thứ tư, ngân hàng sẽ có phương án cơ cấu lại nợ trên cơ sở xem xét kỹ các khả
năng và điều kiện cụ thể của khách hàng. Các bảng liệt kê các khoản mục cho vay
nhất thiết phải được lập; đặc biệt là các khoản vay bất động sản vì tính chất phức
tạp khi phải xử lý các khoản vay này.
(v) Sau cùng, ngân hàng sẽ chọn ra phương án xử lý ít tốn kém nhất: việc lựa chọn
30
phương án tối ưu phải kết hợp hài hòa các giải pháp giữa duy trì SXKD của khách
hàng và cơ cấu nợ của ngân hàng sao cho đem lại giá trị lớn nhất (hoặc lỗ ít nhất).
Để làm được điều đó, các NHTM Thái phải am tường các yếu tố thực tế tác động
đến khách nợ để có đánh giá đúng về triển vọng tương lai của khách nợ. Mặt khác,
họ cũng xem xét chu đáo và thực tế các đề xuất của khách nợ. Điều quan trọng ở
đây là khả năng trao đổi thuyết phục giữa ngân hàng và khách nợ. Các ngân hàng
Thái cũng chú trọng đến biện pháp bảo đảm cơ cấu lại nợ có làm giảm hay triệt tiêu
quyền của chủ nợ không; và liệu các biện pháp đang và sẽ làm để thực thi có đủ yếu
tố để bắt buộc (cưỡng chế) khi thực hiện việc cơ cấu nợ này hay không. Trong
trường hợp khoản nợ được chuyển thành vốn góp thì các quyền liên quan đến cổ
phiếu thường được các NHTM Thái kiểm tra kỹ (như các cổ phiếu đó có được bán
như các cổ phiếu của các nhà đầu tư khác không; quyền bỏ phiếu liên quan đến bán
cổ phiếu đó như thế nào; và liệu tiền cho vay tiếp như là ứng trước trong phương án
giải quyết có được thu hồi trong giai đoạn xử lý tiếp không và bằng nguồn nào của
khách hàng…)
31
Tóm tắt chương 1
Qua chương 1 tác giả đã khái quát được những vấn đề cơ bản về nợ xấu, nguyên
nhân và tác động của nợ xấu tại các NHTM trong thời gian qua. Bên cạnh đó, việc
tiếp cận các nguyên tắc quản lý nợ xấu theo Basel dần dần đưa hoạt động quản trị
ngân hàng của nước ta hòa nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và đòi hỏi các nhà
quản trị ngân hàng phải luôn chú trọng tăng cường công tác quản lý nợ xấu. Đồng
thời chương 1 cũng đã căn cứ vào việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nợ
xấu và Quy trình xử lý nợ của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam để có cơ sở
tiến hành thực hiện chương 2 một cách khoa học.Cùng với các kinh nghiệm về quản
lý nợ xấu của quốc tế là những hành trang quí báu cho tiến trình giải quyết vấn đề
nợ xấu cực kỳ khó khăn tại các NHTM của nước ta hiện nay.
32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG NGÂN HÀNG TMCP XÂY
DỰNG VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành: Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam tiền thân là
Ngân hàng TMCP Đại Tín (TRUSTBank)
- Ngân hàng TMCP Đại Tín – TRUSTBank chính thức thành lập vào năm
1989, với tên gọi là Ngân hàng TMCP nông thôn Rạch Kiến - ngân hàng cổ
phần đầu tiên của tỉnh Long An, và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp
giấy phép hoạt động số 0047/NH-GP ngày 29/12/1993, trụ sở chính tại số 1,
Thị tứ Long Hòa, Huyện Cần Đước, Tỉnh Long An.
- Ngày 17/08/2007, theo quyết định số 1931/QĐ-NHNN, Ngân hàng TMCP
nông thôn Rạch Kiến được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp
thuận chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng TMCP đô
thị và đổi tên thành Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín, theo quyết định
số 2136/QĐ-NHNN ngày 17/09/2007 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Việc chấp thuận cho Ngân hàng Đại Tín chuyển đổi mô hình hoạt động từ
Ngân hàng TMCP nông thôn sang Ngân hàng TMCP đô thị tạo điều kiện cho
Ngân hàng nâng cao năng lực về tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động
kinh doanh, đủ sức cạnh tranh và phát triển mạnh mẽ, đánh dấu một giai
đoạn phát triển mới của TRUSTBank với mục tiêu phấn đấu trở thành một
ngân hàng bán lẻ hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, cung cấp sản phẩm
dịch vụ đa dạng từ cơ bản đến cao cấp, hoàn thành mục tiêu đưa
TRUSTBank trở thành một trong số các ngân hàng có chất lượng phục vụ tốt
nhất tại Việt Nam.
- Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng mạng
lưới hoạt động, theo quyết định số 1855/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, ngày 21/08/2008, Ngân hàng TMCP Đại Tín chuyển địa
điểm trụ sở chính đến số 145-147-149 Hùng Vương, phường 2, Thị xã Tân
An, Tỉnh Long An.
33
- Tính đến ngày 31/3/2013, Ngân hàng TMCP Đại Tín đã có mạng lưới trên khắp
cả nước với 112 điểm giao dịch có mặt tại Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam
với số vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng và tổng tài sản đạt 20.949 tỷ đồng.
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ
sở đổi tên Ngân hàng TMCP Đại Tín (TRUSTBANK) theo Quyết định số
1161/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 23/5/2013. Theo Quyết
định này, Thống đốc NHNN chấp thuận việc thay đổi tên gọi nêu tại Điều 1
Giấy phép hoạt động số 047/NH-GP ngày 29/12/1993 của Thống đốc NHNN
cấp cho Ngân hàng TMCP Đại Tín với nội dung cụ thể: Tên đầy đủ bằng
tiếng Việt: Ngân hàng thưong mại cổ phần Xây dựng Việt Nam; Tên đầy đủ
bằng tiếng Anh: Vietnam Construction Joint Stock Commercial Bank; Tên
viết tắt bằng tiếng Việt: Ngân hàng Xây dựng Việt Nam; Tên viết tắt bằng
tiếng Anh: Vietnam Construction Bank.
- Logo:
2.1.2. Sản phẩm dịch vụ
Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam cung cấp đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài
chính phù hợp với nhu cầu của Quý khách hàng như tiền gửi thanh toán, tiết kiệm,
Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ;
Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, góp vốn liên doanh) bằng đồng Việt
cho vay...
Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong nước, thực hiện dịch vụ
Nam, ngoại tệ;
ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ qua
Thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.
ngân hàng);
34
2.1.3. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức quản lý của Ngân hàng TMCP Xây dựng
Việt Nam bao gồm:
1) Đại hội đồng cổ đông
2) Ban kiểm soát
3) Hội đồng quản trị
4) Tổng giám đốc
5) Các khối nghiệp vụ trực thuộc
6) Hệ thống mạng lưới hoạt động bao gồm: các công ty trực thuộc và các Sở
giao dịch/Chi nhánh/PGD/Quỹ tiết kiệm.
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức của VNCB
35
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2008– 2012
2.1.4.1 Tăng trưởng huy động vốn
Số dư tiền gửi các tổ chức kinh tế và dân cư toàn hệ thống đến 31/12/2012 đạt
15.877 tỷ đồng, tăng 1.977 tỷ đồng (+14%) so với đầu năm , đạt 102% kế hoạch
năm 2012. Trong năm 2012 tình hình trần lãi suất huy động VND liên tục giảm và
canh tranh gay gắt về huy động vốn giữa các NHTM , Ngân Hàng đã thực hiện tốt
công tác chăm sóc khách hàng, triển khai nhiều chương trình, sản phẩm, cải tiến
phong cách, thái độ giao dịch đối với khách hàng . Với những cải tiến liên tục về
chất lượng dịch vụ , tác phong và quy trình phục vụ khách hàng, tình hình huy động
vốn đã có nhưng chuyển biến tích cực, góp phần ổn định nguồn vốn và thu hút vốn
gửi mới từ dân cư.
ĐVT: tỷ đồng
Hình 2.2: Nguồn vốn huy động của VNCB từ 2008-2012
-
[Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh NHTMCP VNCB 2008-2012]
Ngân hàng VNCB với chiến lược kinh doanh linh hoạt và nhạy bén, ngân
hàng đã đưa ra nhiều giải pháp huy động vốn đồng bộ và kịp thời với khách hàng
như: thường xuyên triển khai các sản phẩm mới nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu và
lợi ích của khách hàng. Các chương trình này được thiết kế mang nhiều ưu đãi cho
36
khách hàng nên được đông đảo khách hàng đón nhận, mang lại lợi ích cao cho
khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh đó, chất lượng huy động vốn còn thể hiện ở
chính sách lãi suất huy động cạnh tranh và linh hoạt cùa ngân hàng. Chính sách
phục vụ và chăm sóc khách hàng được thực hiện tốt, các giao dịch được tiến hành
nhanh gọn và đơn giản trong thời gian cho phép, tạo thiện cảm tốt từ khách hàng.
37
2.1.4.2 Tăng trưởng tín dụng
a. Quy trình cấp tín dụng của VNCB được diễn giải ngắn gọn bằng sơ đồ sau
Tư vấn, hướng dẫn KH lập hồ sơ
Kiểm tra hồ sơ
Đầy đủ Chưa đầy đủ
Thẩm định và lập tờ trình tín dụng
Đồng ý
Kết thúc Không đồng ý Phê duyệt
Ký kết HĐ tín dụng, HĐ bảo đảm
Giải ngân
Kiểm tra sử dụng vốn vay
Thu nợ gốc, lãi
Không đúng hạn Cơ cấu, chuyển nợ quá hạn
Đúng hạn
Trả nợ Thanh lý hợp đồng
Giải chấp tài sản Xử lý, thu hồi nợ
Lưu hồ sơ
Kết thúc
Hình 2.3: Quy trình tín dụng của VNCB
38
b.Hiệu quả hoạt động
Trong những năm qua, VNCB đã đưa ra những sản phẩm tài trợ vốn vay với lãi suất
ưu đãi và thời gian hợp lý nhằm hỗ trợ tối đa nhu cầu vay vốn ổn định đời sống như
vay tiêu dùng , vay mua nhà và cho vay hỗ trợ phát triển nông nghiệp-nông thôn ,
cho vay bổ sung vốn kinh doanh …. Sản phẩn tín dụng được phát triển dựa trên nhu
cầu thực tế của khách hàng nên đã thu hút được sự quan tâm và lựa chọn từ khách
hàng . Tổng dư nợ đạt 13,316 tỷ, tăng 1,385 tỷ (+12%) so với đầu năm chiếm 76%
tổng tài sản có sinh lời, chi tiết như sau:
Theo kỳ hạn: dư nợ ngắn hạn đạt 12.957 tỷ, chiếm tỷ trọng 97%; dư nợ -
trung, dài hạn đạt 359 tỷ, chiếm tỷ trọng 3% trong tổng dư nợ.
Theo loại hình doanh nghiệp: dư nợ cho vay cá nhân đạt 7.809 tỳ, chiếm tỷ -
trọng 59%, dư nợ cho vay doanh nghiệp đạt 5.507 tỳ, chiếm tỷ trọng 41% trong
tổng dư nợ
ĐVT: tỷ đồng
Hình 2.4: Biểu đồ doanh số tín dụng tại VNCB từ 2008-2012
[ Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh VNCB 2008-2012]
- Hoạt động tín dụng bán lẻ của VNCB đạt mức tăng trưởng tốt và là một
trong những kênh quan trọng trong việc phát triển nguồn thu từ NHBL. Để đáp ứng
39
nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, VNCB đã thường xuyên đổi mới các sản
phẩm tín dụng với nhiều mục đích cho vay khác nhau và nhắm đến nhiều đối tượng
khách hàng khác nhau. Bên cạnh các sản phẩm cho vay truyền thống cần tài sản
đảm bảo, thì VNCB cũng đã mở rộng cho vay tín chấp cá nhân là cán bộ nhân viên
của doanh nghiệp hay sản phẩm cho vay hỗ trợ tiêu dùng, cho vay du học, cấp hạn
mức thấu chi… Với việc đang khẳng định thương hiệu bên cạnh thái độ phục vụ
khách hàng nhiệt tình cùng khả năng xử lý nhanh hồ sơ, thủ tục giao dịch đơn giản,
lãi suất, phí dịch vụ cạnh tranh, VNCB đã khẳng định được vị trí vững chắc của
mình trên thị trường tài chính ngân hàng.
2.1.4.3 Các sản phẩm dịch vụ khác
a. Thanh toán quốc tế
- Trong tình hình khó khăn của toàn hệ thống ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín
dụng được kiểm soát chặt chẽ, mạng lưới quan hệ đại lý còn hạn chế ..., năm 2012
Ngân hàng đã triển khai các sản phẩm, dịch vụ và tiếp tục mở rộng mạng lưới ngân
hàng đại lý nhằm duy trì và tăng trưởng doanh số giao dịch. Đến 31/12/2012 đã
phát triển quan hệ đại lý với 51 ngân hàng tại 14 quốc gia trên thế giới. Doanh số
thanh toán quốc tế thực hiện năm 2012 như sau:
Bảng 2.2: Tổng hợp doanh số thanh toán quốc tế ĐVT: USD
Năm 2011 Năm 2012 % tăng hàng năm
Doanh số thanh toán quốc tế 11.193.404 13.400.280 20%
Thu phí thanh toán quốc tế 10.936 15.082 38%
[Nguồn báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh VNCB 2012]
b. Dịch vụ phát hành thẻ
- Trong năm 2012, Ngân hàng tiếp tục phát triển kinh doanh Thẻ, phát triển đại lý
và điểm ưu đãi; Hoàn thành dự án phát hành thẻ Visa; Thực hiện dự án đạt tiêu
chuẩn PCIDSS, dự án thanh toán thẻ Visa trên ATM và phát triển thẻ đồng
thương hiệu. Tổng số thẻ phát hành trong năm 2012 trên toàn hệ thống 11.776
thẻ, nang7 tổng số thẻ đã phát hành đến 31/12/2012 lên 33.035 thẻ. Lắp đặt 05
40
máy ATM, phát triền 29 đại lý và 145 điểm ưu đãi thanh toán thẻ mới, nâng
tổng số máy ATM đang hoạt động tính tới ngày 31/12/2012 là 44 máy , 125 máy
POS, 40 đại lý, 163 điểm ưu đãi thanh toán thẻ. Doanh số thực hiện năm 2012
về công tác thẻ như sau:
+ Thanh toán bằng thẻ: 13 tỷ đồng ( 5.632 lượt)
+ Rút tiền mặt : 340 tỷ đồng (439.631 lượt)
+ Chuyển khoản : 59 tỷ đồng ( 12.488 lượt)
- Để nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ ngày càng tốt hơn, VNCB đã áp dụng công
nghệ chip bảo mật đối với tất cả thẻ thanh toán do VNCB phát hành nhằm tăng
tính an toàn và bảo mật cao cho các loại thẻ, góp phần hạn chế rủi ro khi giao
dịch của chủ thẻ. Sử dụng các loại thẻ của VNCB, khách hàng có thể tham gia
các chương trình khuyến mãi như tích điểm thưởng dành cho chủ thẻ, tặng quà
khi doanh số thanh toán thẻ của khách hàng đạt đủ điều kiện, giảm giá mua hàng
tại các đơn vị liên kết khi sử dụng các loại thẻ tích hợp đồng thương hiệu; tăng
thêm các tiện ích gia tăng qua thẻ.
c. Các sản phẩm, dịch vụ khác: Bảo lãnh, dịch vụ thu chi hộ, chuyển tiền trong và
ngoài nước, dịch vụ ngân hàng điện tử…
VNCB định hướng trở thành một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần đô
thị phát triển, có nghiệp vụ đa dạng, chất lượng phục vụ cao, công nghệ ngân hàng
hiện đại, mạng lưới kênh phân phối rộng dựa trên nền tảng mô hình tổ chức và quản
lý theo chuẩn mực quốc tế, công nghệ thông tin hiện đại, công nghệ ngân hàng tiên
tiến, từng bước đưa VNCB trở thành một thương hiệu ngân hàng bán lẻ có uy tín
trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Do vậy, VNCB không ngừng nâng
cấp chất lượng dịch vụ hiện có, tạo điều kiện hỗ trợ cho các nghiệp vụ khác phát
triển, liên kết với các Ngân hàng bạn để phát triển các dịch vụ Ngân hàng nhằm
phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa công nghệ
Ngân hàng là một trong những định hướng quan trọng của Ngân hàng, nhằm phục
vụ ngày càng tốt hơn công tác quản trị, điều hành, đồng thời là nền tảng cho việc
phát triển các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại.
41
2.2. Thực trạng nợ xấu của VNCB
Một trong những nút thắt lớn hiện nay của nền kinh tế hiện nay là vấn đề nợ xấu
của hệ thống ngân hàng. Nhiều chuyên gia kinh tế gọi đó là “cục máu đông trong
mạch máu” của nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề nợ xấu cảu từng Ngân hàng,
mới có thể giải quyết được nợ xấu ở tầm vĩ mô, từ đó mới có thể khai thông bế tắc
cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự phục hồi của tăng trưởng
kinh tế.
Theo dữ liệu Ngân hàng Nhà nước vừa công bố, tính đến cuối tháng 9/2013,
tổng nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống ngân hàng chiếm 4,62% tổng dý nợ.
Tỷ lệ trên giảm nhẹ so với mức 4,64% cuối tháng 8/2013, nhưng tăng 20,20% so
với cuối năm 2012. Tốc độ tăng nợ xấu bình quân trong 9 tháng đầu năm 2013 đã
giảm so với năm 2012 (2,2%/tháng so với mức 3,91%/tháng).
2.2.1. Diễn biến nợ xấu của VNCB giai đoạn 2008 – 2012:
Với mục tiêu tăng trưởng nhanh về mặt quy mô của hệ thống trong thời gian ngắn.
Do đó trong giai đoạn từ 2008 đến 2012, VNCB đã không ngừng tăng trưởng về số
dư huy động cũng như dư nợ tín dụng. Tính đến 31/12/2012 dư nợ tín dụng của toàn
VNCB đã tăng hơn so với năm 2008 là 11.692 tỷ đồng, đây là con số đáng kể đối
với một ngân hàng có quy mô nhỏ và được chuyển đổi từ ngân hàng nông thôn lên
ngân hàng đô thị và khả năng quản trị rủi ro còn ở mức thấp. Trong quá trình tăng
trưởng nóng như vậy, VNCB đã tập trung cho vay vốn vào một vài đối tượng chủ
yếu với tổng dư nợ cho vay các đối tượng này chiếm khoảng 55% trên tổng dư nợ
toàn ngân hàng. Việc tập trung tăng trưởng dư nợ chủ yếu vào một số đối tượng vay
vốn kết hợp với khả năng quản trị rủi ro còn kém đã dẫn đến việc phát sinh nợ xấu
với tỷ lệ cao là điều không thể tránh khỏi. Tính đến 31/12/2012 tỷ lệ nợ xấu của
ngân hàng đã chiếm khoảng 42%/tổng dư nợ tương đương với khoảng 5.592 tỷ
đồng.
42
Bảng 2.3: Diễn biến nợ xấu của VNCB giai đoạn từ 2008 – 2012
ĐVT: tỷ đồng
Năm 2008 2009 2010 2011 2012
Dư nợ 1.624 5.214 10.052 11.931 13.316
Nợ xấu 1,95 2,08 29,15 196,86 5.592
Tỷ lệ 0,12% 0,04% 0,29% 1,65% 42%
[Nguồn báo cáo nợ xấu VNCB 2008-2012]
2.2.2. Cơ cấu nợ xấu:
2.2.2.1. Theo nhóm nợ:
Theo quyết định 02/2013/TT-NHNN và các văn bản liên quan, nợ xấu bao gồm các
khoản nợ được phân loại vào các nhóm nợ từ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4
(nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn, cơ cấu nợ xấu theo nhóm nợ của
VNCB như sau:
Hình 2.5.1: Cơ cấu các nhóm nợ theo tổng dư nợ tính đến 31/12/2012
[Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh VNCB 2012]
Theo cơ cấu trên, trong tổng dư nợ của VNCB tính đến cuối năm 2012 là 13.316 tỷ
đồng, trong đó 58% là nợ nhóm 1 và nhóm 2, 42% còn lại là nợ xấu thuộc các nhóm
3,4 và 5. Dưới đây là tỷ trọng từng nhóm nợ xấu trong toàn bộ nợ xấu của VNCB:
43
Hình 2.5.2: Cơ cấu nợ xấu theo nhóm nợ tính đến 31/12/2012
[Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh VNCB 2012]
Theo cơ cấu nhóm nợ trên ta thấy nợ xấu chủ yếu tập trung ở nhóm 4(59% t ổng nợ
xấu), tiếp đến là nợ nhóm 5 với tỷ lệ tương ứng 22% tổng nợ xấu và sau cùng là
nhóm 3 với tỷ lệ 19%. Trong nợ nhóm 4 thì nợ cho vay để đầu tư góp vốn kinh
doanh, vay bất động sản và xây dựng, chiếm khoảng 90%.
2.2.2.2. Theo lĩnh vực cho vay
Theo thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Thống đốc NHNN quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD được sửa đổi bổ sung
tại Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010, ngành phi sản xuất bao gồm
ngành BĐS, kinh doanh chứng khoán và cho vay tiêu dùng. Các ngành này được
xếp vào diện rủi ro 250%.
Theo dữ liệu mà Ngân hàng Nhà nước vừa công bố, tính đến cuối tháng 09/2012,
tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ở mức 2,56% so với 31/12/2011.
Trong đó, tín dụng đối với tiêu dùng, chứng khoán, bất động sản chiếm tỷ trọng
15,16% trong tổng dư nợ, ước tính tương đương với hơn 400.000 tỷ đồng. Về dư nợ
cho vay kinh doanh bất động sản, tính đến cuối tháng 5 là khoảng 197.000 tỉ đồng,
chiếm tỉ lệ 7,5% tổng số dư nợ. Nợ xấu cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản
khoảng 12.000 tỉ đồng, tương đương 6,5% dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản.
Số nợ xấu cho vay bất động sản chiếm tỉ lệ khoảng 10,3% trong tổng nợ xấu hệ
thống ngân hàng.
44
Về cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán có xu hướng giảm, đến ngày 31-5 còn
gần 12.000 tỉ đồng, nợ xấu 485 tỉ đồng, chiếm 4,1% tổng dư nợ cho vay chứng
khoán.
Theo báo cáo của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, nợ xấu hiện nay chủ yếu
rơi vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng do thị trường bất động sản đóng
băng quá dài. Tính đến tháng 10/2011, cả nước có 1.309 DNNN với 100% vốn Nhà
nước phân chia theo lĩnh vực gồm có 248 doanh nghiệp công nghiệp; 114 doanh
nghiệp xây dựng; 135 doanh nghiệp giao thông vận tải; 341 công ty nông lâm
nghiệp, thủy lợi, thủy nông và 471 doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Như vậy có
khoảng 500 DNNN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và giao thông
vận tải chiếm khoảng 42% tổng dư nợ tương đương 1.100.000 tỷ đồng. Đây là hai
nhóm ngành có tỉ lệ vay nợ cao nhất với tổng nợ phải trả gấp hơn 2 lần vốn chủ sở
hữu. Với đặc điểm của các ngành này là nợ vay ngân hàng thường là nợ vay trung
dài hạn, do vậy một khi nền kinh tế nói chung và thị trường bất động sản nói riêng
chưa hồi phục thì hiệu quả của các dự án này sẽ bị ảnh hưởng, tác động dây chuyền
và lan tỏa trong thời gian dài, và muốn khắc phục xử lý phải tốn rất nhiều thời gian.
Hiện nợ xấu của 02 nhóm ngành này chiếm tỷ lệ khoảng 35% tổng nợ xấu.
Hình 2.6: Cơ cấu nợ xấu theo lĩnh vực cho vay tính đến 31/12/2012 của VNCB
[Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh VNCB 2012]
Tính đến cuối năm 2012, nợ xấu của VNCB tập trung chủ yếu trong lĩnh vực cho
vay góp vốn, đầu tư kinh doanh BĐS. Tỷ lệ cho vay đối với ngành này chiếm trên
92% tổng nợ xấu toàn VNCB, tiếp đến là ngành cho vay vốn kinh doanh với tỷ lệ
hơn 5% và sau cùng là các ngành xây dựng sửa chữa, tiêu dùng, đầu tư dự án tài sản
45
có định chưa đến 3%. Qua đây chúng ta thấy đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực cho
vay, nghiên cứu cho vay theo đối tượng ngành nên là một điều kiện chính yếu mà
chính sách cho vay của VNCB cần tập trung.
2.2.2.3. Theo đối tượng khách hàng
Hình 2.7:Cơ cấu nợ xấu theo đối tượng cho vay tính đến 31/12/2012
[Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh VNCB 2012]
Cơ cấu nợ xấu theo đối tượng cho vay của VNCB chủ yếu là cá nhân (56%), công
ty (41%), còn đối tượng DNTN và hộ kinh doanh chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng
nợ xấu.
Nguyên nhân chính khiến cho nợ xấu nhiều là do:
- Đối tượng DNNN được hưởng những ưu đãi về tín dụng nên các DNNN có xu
hướng sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn các doanh nghiệp khu vực khác.
Bên cạnh đó một số NHTM thường coi các DNNN là đối tượng “có tóc”, nên
việc thẩm định dự án, hồ sơ vay vốn thiếu chặt chẽ. Trong khi các DNNN biết
mình có lợi thế đi vay vốn, nên họ sử dụng đồng vốn thiếu chặt chẽ, kém hiệu
quả. Việc xử lý nợ xấu tại khu vực kinh tế này sẽ rất khó giải quyết vì dư nợ
vay phần lớn là không có tài sản đảm bảo và nếu có thì cũng rất khó bán tài sản
hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy thoái như
hiện nay
- Các các nhân, doanh nghiệp thuộc “sân sau” của Ngân hàng, bằng việc thành
lập các doanh nghiệp có mối quan hệ lẫn nhau, dòng tiền được sử dụng một
cách luẩn quẩn, đến lúc gặp khó khăn, một DN khốn đốn kéo theo một nhóm
46
doanh nghiệp liên quan gặp khó khăn theo, tạo ra một khối nợ xấu lớn cho
Ngân hàng.
2.2.3. Quy trình xử lý nợ xấu
Các bước tiến hành trong quy trình xử lý nợ xấu:
Khi phát sinh nợ quá hạn Cán bộ tín dụng (CBTD)/ Chuyên Viên Xử Lý nợ
(CVXLN) phải nhanh chóng thực hiện những công việc sau Kiểm tra lại hồ sơ nợ
quá hạn:
1) Kiểm tra, định giá lại tài sản bảo đảm;
2) Tiếp xúc, làm việc với Bên nợ;
3) Đánh giá thực trạng khoản nợ quá hạn;
4) Đề xuất biện pháp xử lý nợ quá hạn với Ban Giám đốc Sở Giao dịch/Chi
nhánh.
Bước 1: Kiểm tra lại hồ sơ nợ quá hạn
Ngay khi phát sinh nnhánh.quá hạn với Ban Giám / Chuyên Viên Xử Lý nợ
(CVXLN) phải nhanh chóng thực hiện
1) Kiểm tra hồ sơ vay vốn có đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ và được cập nhật
thường xuyên không?
2) Kiểm tra tính pháp lý của khách hàng, của bên bảo đảm, của khoản vay đã
giải ngân, của tài sản bảo đảm đã chặt chẽ theo quy định pháp luật và quy
định của Ngân hàng không? Có những thiếu sót, nhầm lẫn, sơ hở nào có
thể gây phương hại đến quyền, lợi ích của VNCB?
3) Những văn bản có giá trị chứng cứ khi khởi kiện bên nợ ra Tòa án để thu
hồi nợ, đặc biệt là những Biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay, các chứng từ
ghi nhận sự làm việc, sự thỏa thuận giữa VNCB với Bên nợ, các bản cam
kết, tường trình, đơn xin miễn, giảm lãi của Bên nợ... có được lưu giữ đầy
đủ trong hồ sơ vay vốn không?
4) Tất cả những giấy tờ có liên quan đến tài sản bảo đảm có hoàn chỉnh, đầy
đủ, đúng thủ tục không? Kiểm tra việc công chứng, đăng ký giao dịch bảo
đảm, xác nhận của tổ chức phát hành chứng từ có giá như cổ phiếu, sổ tiết
kiệm…; Tính phù hợp giữa Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng bảo đảm và các
47
chứng từ có liên quan; Tính hợp pháp của tài sản bảo đảm; Giá trị tài sản
bảo đảm so với thời điểm nhận thế chấp/cầm cố; Khả năng chuyển
nhượng; Những tranh chấp về tài sản với các bên liên quan (nếu có). Có
cần định giá lại giá trị tài sản bảo đảm không? Có cần bổ sung tài sản bảo
đảm không? Các thiếu sót, nhầm lẫn phải được bổ sung, chỉnh sửa kịp
thời.
Bước 2: Kiểm tra, định giá lại tài sản bảo đảm
1) Cùng Bên nợ kiểm tra lại thực trạng tài sản bảo đảm, còn hay không? Có
bị chuyển dịnh, thay đổi, biến dạng, xâm lấn, tranh chấp... không?
2) Định giá lại giá trị tài sản bảo đảm, có đủ bảo đảm cho khoản vay theo
quy định của VNCB không?
3) Đánh giá về khả năng phát mãi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Bước 3: Tiếp xúc, làm việc với Bên nợ
- Sau khi kiểm tra hồ sơ nợ vay có vấn đề, Ban Giám đốc Sở giao dịch/Chi nhánh
hoặc Trưởng phòng, Phó trưởng phòng kinh doanh hoặc Giám đốc Phòng giao
dịch, Tổ trưởng tín dụng cùng CBTD/CVXLN tiếp xúc, gặp gỡ Bên nợ nhằm
thực hiện những yêu cầu sau:
1) Làm rõ nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Đánh giá khả năng tài chính
của Bên nợ. Đánh giá bản chất vấn đề đang xem xét có thực sự ảnh hưởng
đến sự an toàn của VNCB không? Mức độ rủi ro như thế nào?;
2) Ghi nhận những giải trình, đề xuất, giải pháp xử lý vấn đề phát sinh và
nguyện vọng của Bên nợ;
3) Tư vấn giúp đỡ Bên nợ tháo dỡ khó khăn;
4) Đặt yêu cầu sự hợp tác, phối hợp, yêu cầu cần thực hiện, thời hạn giải
quyết vấn đề đối với Bên nợ (định giá lại hoặc bổ sung tài sản bảo đảm, bổ
sung chứng từ chứng minh sử dụng vốn vay...);
5) Củng cố, bổ sung hồ sơ vay vốn;
6) Kiểm tra thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh; Kiểm tra hiện trạng tài
sản bảo đảm.
48
Việc tiếp xúc, làm việc phải có Biên bản làm việc với khách hàng theo mẫu.
Ngoài thông tin trực tiếp từ Bên nợ phải mở rộng thu thập thông tin liên quan từ
nhiều nguồn khác nhau (cơ quan quản lý, chính quyền, bạn hàng, đối tác...);
- Sau khi tiếp xúc, làm việc CBTD/CVXLN phải tiếp tục theo dõi sát tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh của Bên nợ, việc thực hiện những yêu cầu của
VNCB và có báo cáo thường xuyên tình hình cho Ban Giám đốc Sở Giao
dịch/Chi nhánh.
- Trường hợp Bên nợ là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định
của pháp luật thì phải liên hệ với các cơ quan quản lý nhà nước để thu thập tài
liệu về việc giải thể, phá sản như: Quyết định giải thể, Quyết định phê duyệt
phương án giải thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, Báo cáo quyết toán tài
chính về giải thể doanh nghiệp của Hội đồng giải thể; Quyết định đình chỉ thủ
tục thanh lý tài sản, Quyết định tuyên bố khách hàng bị phá sản của Tòa án.
- Trường hợp Bên nợ là cá nhân bị chết, mất tích phải liên hệ cơ quan Công an,
chính quyền địa phương nơi cá nhân cư trú hoặc Tòa án nhân dân để thu thập tài
liệu về việc cá nhân bị chết, mất tích: Giấy chứng tử, Quyết định tuyên bố một
người là đã chết, mất tích của Tòa án, văn bản xác nhận của cơ quan Công an
nơi quản lý hộ khẩu hoặc của chính quyền địa phương nơi cá nhân cư trú.
- Trường hợp Bên nợ là cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự phải liên hệ Tòa
án nhân dân thu thập Quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Bước 4: Đánh giá thực trạng khoản nợ quá hạn
Sau khi làm việc trực tiếp với Bên nợ, CBTD/CVXLN có trách nhiệm đánh
giá thực trạng khoản nợ vay có vấn đề theo các tiêu chí sau:
1) Nợ có khả năng thu: Là khoản nợ được đánh giá Bên nợ vẫn có khả năng
trả đầy đủ nợ gốc và lãi.
2) Nợ phải thu hồi trước hạn: Khi phát hiện Bên nợ cung cấp thông tin sai
sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
3) Nợ khó thu: Gồm các khoản nợ mà tình hình hoạt động kinh doanh và tài
chính của Bên nợ có dấu hiệu suy giảm rõ ràng ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ đầy đủ.
49
4) Nợ không có khả năng thu: Gồm các khoản nợ mà tình hình hoạt động
kinh doanh và tài chính của Bên nợ có dấu hiệu suy giảm nghiêm trọng
dẫn đến nguy cơ tổn thất cao, có đủ cơ sở để xác định không có khả năng
thu hồi, không thể thu hồi toàn bộ nợ hoặc thu hồi không đáng kể.
Bước 5: Các biện pháp xử lý nợ quá hạn
Căn cứ vào kết quả đánh giá thực trạng của khoản nợ quá hạn
CBTDQHKH/CVXLN cần trình Ban Giám đốc Sở Giao dịch/Chi nhánh áp
dụng ngay lập tức một hoặc đồng thời nhiều biện pháp xử lý sau đây:
1) Đẩy mạnh công tác đôn đốc trả nợ;
2) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ;
3) Thu hồi nợ trước hạn;
4) Miễn, giảm lãi vốn vay; Giảm lãi suất vay vốn;
5) Xử lý tài sản bảo đảm;
6) Xử lý nợ quá hạn đối với các khoản vay phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn
7) Bán nợ;
8) Khởi kiện;
9) Đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự;
10)Các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
2.3. Những nguyên nhân phát sinh nợ xấu của VNCB
2.3.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục
1) + bảng câu hỏi (phụ lục 2A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 2B) -Bảng 1,
dưới đây là các nguyên nhân chủ yếu từ môi trường kinh doanh:
(i) Khủng hoảng kinh tế từ năm 2008: Nợ xấu hiện nay không chỉ của VNCB
mà còn của các TCTD được tích lũy từ những năm trước đây do môi trường
kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu. Sau khi chống chọi với
lạm phát cao, nền kinh tế lại đối mặt với việc suy giảm tốc độ tăng trưởng,
làm cho khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động. Theo
50
báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm
ngừng hoạt động tăng nhanh. Tính đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250
doanh nghiệp giải thể (tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011). Nguyên nhân
do năng lực tài chính mỏng, chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng, trong khi năng
lực quản trị yếu nên khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp Việt Nam hạn chế. Đó cũng là nguyên nhân làm cho
chất lượng tín dụng suy giảm đồng nghĩa với việc nợ xấu tăng cao hơn.
(ii) Chính sách nới lỏng tiền tệ: Bên cạnh việc lạm phát bùng nổ là sự duy trì
chính sách nới lỏng tiền tệ (tăng trưởng tín dụng quá nóng) trong thời gian
dài nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nền kinh tế phải hấp thụ một lượng vốn lớn
nhưng việc đầu tư và kiểm soát giá cả lại tỏ ra chưa hiệu quả, cụ thể: Công
suất dư thừa do đầu tư mở rộng quy mô và tình hình kinh tế toàn cầu suy
sụp khiến thị trường đầu ra bị ảnh hưởng; Gánh nặng lãi suất của các doanh
nghiệp quá lớn, cao hơn tỷ lệ ROE (Thu nhập trên vốn chủ sở hữu) của các
tập đoàn và tổng công ty nhà nước (khoảng 16,5%). Kết hợp hai yếu tố này
lại dẫn tới một thực tế là doanh nghiệp không có khả năng trả các khoản nợ
đến hạn, tạo ra nhu cầu đảo nợ (refinancing) và vốn hóa lãi vay.
- Trong bối cảnh dư nợ tín dụng tăng thấp từ đầu năm 2012 trở lại đây cho
thấy, nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là từ các khoản tín dụng đã được cấp
trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh. Nhìn lại
giai đoạn 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân trong
giai đoạn này đạt 26,56%/năm, thì tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là
5 tháng đầu năm 2012, dư nợ tín dụng tăng âm nhưng nợ xấu vẫn tăng tới
45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm
mạnh.
(iii) Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011:
Năm 2011, tăng trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng
trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm
2011 tăng 5,57%).
51
+ Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm
trước: Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010.
Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng
4,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm
2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2012 theo giá
so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm 2011. Ngành xây
dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất động
sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc
dừng khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng không tăng cao,
nhiều sản phẩm tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
+ Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số
tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với
năm 2010. Trong 5 tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
+ Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu
dịch vụ năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ
đi yếu tố giá. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ
và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm
trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%, thấp hơn nhiều so với cùng
kỳ các năm trước.
+ Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước.
Cuối năm 2011, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
23% so với cùng kỳ năm 2010. Tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho
của ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Điều
này phản ánh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu dùng của
nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh
và làm tăng nợ xấu của các TCTD.
(iv) Khách hàng vay của TCTD có tình hình tài chính suy giảm, kém lành
mạnh hoặc kinh doanh thua lỗ. Sản xuất kinh doanh phải đối mặt với vấn đề chi
phí cao, lãi suất ngân hàng cao, thiếu vốn, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn
52
đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ
vay ngân hàng của doanh nghiệp.
(v) Hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo
trong và ngoài ngân hàng... đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền. Đây
cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi
tính minh bạch và giải trình còn hạn chế. Tổng phương tiện thanh toán (M2) của
9 tháng đầu năm 2012 tăng 12,21%, nhưng tín dụng chỉ tăng 2,5%, trong khi
chứng khoán cũng không phải là kênh được các ngân hàng quan tâm kể từ khi
có văn bản hạn chế cho vay chứng khoán của NHNN; bất động sản cũng đóng
băng; vay tiêu dùng không được xem là kênh ưu tiên trong thời gian qua. Như
vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy òng vòng giữa ngân hàng và các Doanh
nghiệp có quan hệ mật thiết. Nếu không xử lý kịp thời, nợ xấu sẽ ngày một
phình to và càng khó xác định, lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên cao, DN sản xuất
kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn.
(vi) Những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành
đã cản trở việc hiện thực hóa các thỏa thuận về xử lý tài sản bảo đảm khiến
nợ xấu bị kéo dài: Pháp luật dân sự hiện hành chưa tiếp cận giao dịch bảo đảm
từ các nguyên lý của quyền bảo đảm nên quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có
bảo đảm nhưng chưa được bảo vệ đầy đủ. Một số các quy định của pháp luật
hiện hành thiếu cụ thể, rõ ràng đã dẫn đến những vướng mắc trong việc xác định
hiệu lực của giao dịch bảo đảm, gây rủi ro cho bên nhận bảo đảm. Hoạt động xử
lý tài sản bảo đảm chưa có được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các các quy
định của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá
tài sản bảo đảm, bán đấu giá tài sản…). Cơ chế, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
còn rườm rà, phức tạp và phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm (bên
có nghĩa vụ thanh toán nợ).
2.3.2. Nguyên nhân từ khách hàng
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục
1) + bảng câu hỏi (phụ lục 2A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 2B) -Bảng 1,
dưới đây là các nguyên nhân chủ yếu từ phía khách hàng:
53
(i) Hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, quản lý yếu:
- Nhiều khách hàng đã phán đoán không chính xác xu hướng phát triển của thị
trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát triển
quá nóng mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng
trong cung và cầu. Một số khách hàng khi thực hiện các dự án lớn lại chia
nhỏ dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp các
doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng cũng như
giảm bớt sự kiểm soát của ngân hàng. Chính những yếu tố này làm cho ngân
hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản cho vay, dẫn đến tình
trạng nợ xấu.
- Nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thiếu hiệu quả, hoạt động
kinh doanh yếu kém, thua lỗ.Trong giai đoạn 2009-2012, thị trường chứng
khoán Việt Nam rơi vào trạng thái suy giảm trong dài hạn, ảnh hưởng tới xu
hướng huy động vốn của các doanh nghiệp.Phần lớn các doanh nghiệp tìm
đến Ngân hàng để vay vốn tài trợ cho kinh doanh thay vì có thể phát hành
chứng khoán.Việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong giai đoạn này giúp các
doanh nghiệp có thể tháo gỡ khó khăn về vốn, song lại khiến các doanh
nghiệp phải đối mặt với trạng thái tăng rủi ro tài chính. Khi nền kinh tế bộc
lộ những bất ổn vĩ mô, lạm phát bị đẩy lên ở mức cao, sức mua giảm sút thì
tình trạng tồn kho kéo dài.Điều này khiến nhiều doang nghiệp ứ đọng vốn,
không có khả năng trả nợ vay cho Ngân hàng. Do đó, việc sử dụng đòn bẩy
tài chính không hiệu quả cùng với kết quả kinh doanh lỗ của nhiều doanh
nghiệp đã trở thành nguyên nhân gia tăng nợ xấu của Ngân hàng.
(ii) Sử dụng vốn sai mục đích:
Nguyên nhân từ phía khách hàng thường thể hiện ở việc khách hàng vay sử
dụng những khoản vay không đúng mục đích cam kết trong hợp đồng vay
nợ, sử dụng vốn sai trình tự, đầu tư vào những hạng mục rủi ro mà không
thông báo cho bên cho vay. Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến hết năm
2010, các tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư ngoài ngành gần 22.000 tỷ đồng,
trong đó có 3.576 tỷ đồng vào chứng khoán, 2.236 tỷ đồng vào lĩnh vực bảo
54
hiểm, 5.379 tỷ đồng vào bất động sản, vào quỹ đầu tư 495 tỷ đồng; riêng lĩnh
vực ngân hàng vượt trội với 10.128 tỷ đồng. Trong số các tập đoàn đầu tư ra
ngoài ngành, dẫn đầu là PVN, với hơn 6.700 tỷ đồng, tiếp đến là Tập đoàn
Công nghiệp cao su với hơn 3.800 tỷ đồng, EVN tổng đầu tư ngoài ngành
hơn 2.100 tỷ đồng. Có tới hơn 80% nguồn vốn nói trên đã được đầu tư vào
kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng, quỹ đầu tư – những ngành
kinh doanh vốn xa lạ với chức năng chính của các doanh nghiệp này…
Ở hầu hết các quốc gia, để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, Nhà nước cần nắm giữ
và chi phối các lực lượng kinh tế chủ đạo một số ngành, lĩnh vực quan trọng,
mũi nhọn. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, với chiến lược nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, Chính phủ đã xây dựng các
tổng công ty, tập đoàn làm trụ cột cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu mang lại không thể phủ nhận, so với tiềm lực và
những ưu đãi mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang được hưởng thì
hiệu quả vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nguyên nhân là các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước đã quá sa đà vào việc đầu tư ra ngoài ngành nghề kinh
doanh chính của mình không đúng với nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Bên
cạnh đó năng lực quản trị của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói
chung, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nói riêng không theo kịp sự mở
rộng kinh doanh, kiểm soát thiếu chặt chẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong khi nguồn vốn cho
hoạt động kinh doanh chính còn hạn chế và hiệu quả các khoản đầu tư này
không cao hoặc không có hiệu quả, đặc biệt rủi ro càng tăng khi đầu tư vào
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản…
(iii) Thông tin bất cân xứng: Người đi vay bao giờ cũng hiểu rõ mục đích sử
dụng những khoản vay trong khi người cho vay (Ngân hàng, các tổ chức tài
chính…) thì không nắm rõ. Từ sự thiếu thông tin và thiếu giám sát, người cho
vay sẽ dễ dàng gặp rủi ro đạo đức khi người đi vay sử dụng các khoản vay một
cách quá mạo hiểm và không có hiệu quả.
55
Ngoài ra, ở mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đạo đức biểu hiện ở những hành
vi gian lận, lừa đảo của khách hàng. Trên thực tế, để đạt được mục tiêu vay
vốn của mình, nhiều khách hàng đã làm giả hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo
nhằm có thể vay được vốn từ ngân hàng. Vậy đây chính là sự bất cân xứng về
thông tin, mà nếu bên cho vay không nắm rõ được nguồn thông tin sẽ dẫn tới
tiềm ẩn rủi ro đạo đức sau khi hợp đồng vay vốn được kí kết
2.3.3. Nguyên nhân từ nội bộ hệ thống VNCB
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục
1) + bảng câu hỏi (phụ lục 2A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 2B)– Bảng 2,
dưới đây là các nguyên nhân chủ yếu từ nội bộ VNCB:
Những nguyên nhân chủ quan có vai trò đáng kể trong việc gia tăng nợ xấu.
(i) Tăng trưởng tín dụng nóng: hầu hết các TCTD theo đuổi "thành tích" tăng
trưởng tín dụng nhanh để khẳng định vị thế, trong khi năng lực quản trị rủi ro
lại hạn chế.VNCB không ngoại lệ, lại là NHTMCP chuyển đổi từ nông thôn
nên việc chạy theo tăng trưởng càng khiến cho VNCB dễ rơi vào trạng thái
nợ xấu tăng nhanh hơn so với một số Ngân hàng khác. Tốc độ tăng trưởng
tín dụng của VNCB đáng kể trong năm 2009 (221%) và năm 2010 (97%),
những năm sau mức tăng trưởng dư nợ chậm lại, chỉ còn dưới 20%/năm. Do
đó nợ xấu ngày hôm nay đa phần xuất phát từ việc tăng trưởng trong năm
2009 và 2010, giai đoan vừa sau khủng hoảng kinh tế. Các doanh nghiệp
cũng như Ngân hàng lúc đó đã tiên đoán rằng kinh tế sẽ phục hồi ngay sau
suy thoái, tuy nhiên cho đến nay tình trạng suy thoái vẫn cón tiếp diễn và
chưa có dấu hiện phục hồi. Các doanh nghiệp với những tiên đoán trước đây
sau 2-3 năm “cầm cự” nay đã quá sức và hậu quả tất yếu là nợ xấu phát sinh
và kéo dài.
(ii) Quản trị rủi ro kém
- Nhận thức về rủi ro tín dụng có hạn chế nhất định. Nguyên nhân của hạn chế
này do nhiều yếu tố: (a) Nhận thức sai lầm trong mối quan hệ và tầm quan
trọng giữa rủi ro, kinh doanh và nguồn vốn, xem xét chưa đầy đủ về những
khả năng mất vốn do những rủi ro tiềm ẩn gây ra, chủ quan về mở rộng kinh
56
doanh, tăng trưởng cho vay phụ thuộc chủ yếu vào huy động tiền gửi, phát
triển kinh doanh thiếu căn cứ; (b) Một số nhà quản lý ưa thích rủi ro, khi xem
xét hồ sơ của khách hàng truyền thống chỉ dựa vào các tài liệu được cung
cấp, như báo cáo bằng văn bản, báo cáo tài chính, không thực hiện đánh giá
rủi ro một cách khách quan. Do đó làm mất đi sự chính xác và tính hiện thực
khi xem xét hồ sơ vay vốn của khách hàng.
- Thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong kỹ năng quản lý: thiếu biện pháp hiệu
quả để xác định, định hướng và kiểm soát rủi ro trong từng khu vực, số liệu
quá khứ không đầy đủ, hệ thống thông tin không cập nhật, kinh nghiệm cá
nhân nhiều khi lạm dụng có thể để lại hậu quả cho hoạt động ngân hàng. Do
đó, biện pháp quản lý yếu kém có nguy cơ tập trung và mang tính hệ thống.
- Quản lý rủi ro không diễn ra xuyên suốt cả quá trình:(a) Công tác thẩm định
không kỹ lưỡng, nghiêm ngặt: trong quá trình thẩm định trước khi cho vay, có
trường hợp quan hệ cá nhân có ảnh hưởng nhất định, vì vậy có hiện tượng
buông lỏng công tác thẩm định, không đánh giá một cách toàn diện, chính xác
những rủi ro của khoản vay, thiếu hiểu biết đầy đủ về tình hình hoạt động của
doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai, đánh giá quá lạc
quan, thiếu phân tích ảnh hưởng tiềm ẩn của môi trường xung quanh, biến
động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước.(b)Quá trình xét duyệt hồ sơ:
có trường hợp ngân hàng bỏ qua một thực tế thủ tục và hồ sơ vay vốn của
khách hàng không đầy đủ, hay hồ sơ vay vốn của khách hàng là hồ sơ ảo. (c)
Rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng: là mối quan tâm lớn trong công tác quản trị
ngân hàng. Những vấn đề thường gây ra rủi ro trong nghiệp vụ như: năng lực
phân tích, thẩm định khách hàng yếu kém dẫn đến việc ngân hàng bị lừa đảo,
mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong khi bên được bảo lãnh mất
khả năng thanh toán. Hạn chế trong vận dụng quy định của pháp luật trong
nước, quốc tế liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng làm phát sinh
những tranh chấp kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng.
57
(iii) Quy trình cho vay lỏng lẻo, thiếu kiểm soát
- Hiện nay VNCB chưa tập trung rà soát lại quy trình cho vay mà chỉ tập trung
vào quy trình xử lý nợ, giai đoạn này nợ xấu đã phát sinh nên nếu tập trung
giai đoạn này mà lơ là khâu ngăn chặn từ đầu, nợ xấu cứ thế tiếp diễn và
Ngân hàng luôn phải chạy theo để xử lý hậu quả.
- Khâu tư vấn hướng dẫn, lập hồ sơ và kiểm tra hồ sơ vay đến khâu thẩm định
và lập tờ trình tín dụng: phụ thuộc chủ yếu vào cán bộ tín dụng. Nếu người
cán bộ tín dụng có chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp tốt, biết vì lợi ích
chung của Ngân hàng thì khâu khởi đầu này xem như đảm bảo đúng chất
lượng khi thực hiện quy trình. Quy trình cho vay hiện nay tại VNCB, cả khâu
tiếp cận khách hàng, thẩm định trình hồ sơ đều do một cán bộ tín dụng đảm
nhiệm, điều này thiếu tính khách quan và dễ dẫn đến móc nối, ban đầu chỉ
đơn giản là cố tình bỏ qua một vài điều kiện nhỏ, sau là cố tình tư vấn lách
quy định cho vay gây hậu quả nghiêm trọng.
- Khâu phê duyệt hồ sơ: xuất phát từ quản trị rủi ro kém nêu trên. Một số chưa
đủ chuyên môn năng lực, cộng với có nhiều người trong cấp lãnh đạo tuy có
nhiều kinh nghiệm quản lý nhưng không phải trong ngành Ngân hàng, dẫn
đến nhận thức khác biệt. Một số do châm trước mối quan hệ cá nhân, phê
duyệt trong tình trạng thiếu điều kiện vay. Một số do các đối tượng vay chính
là “sân sau” của Ngân hàng, cố tình làm trái để dòng tiền sau khi ra khỏi
Ngân hàng thì rơi vào trạng thái luẩn quẩn. Một doanh nghiệp khốn đốn kéo
theo một nhóm doanh nghiệp khó khăn theo, khả năng trả nợ không có dẫn
đến nợ xấu.
- Khâu kiểm tra sử dụng vốn vay chưa được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ và
đầy đủ: đa số Ngân hàng hay chú trọng đến khâu tiếp cận khách hàng và cố
gắng trình hồ sơ tín dụng sao cho được phê duyệt, sau đó thì lo chạy chỉ tiêu
cho hồ so mới. Trong khi giai đoạn rủi ro nhất là từ khi tiền đã được giải
ngân, đi ra khỏi ngân hàng. Nếu Ngân ngân hàng chỉ ngồi chờ tiển quay về
như khách hàng đã cam kết hoặc chỉ kiểm tra sau vay lấy lệ, thì rủi ro lớn
nhất chính là nằm tại đây. Có thể ban đầu khách hàng xin vay đúng mục
58
đích, phương án kinh doanh trả nợ rõ ràng, tuy nhiên do khâu kiểm tra của
Ngân hàng quá lơ là, dòng tiền khách hàng về nhưng họ không trả ngay mà
dùng vào việc khác, khác hoàn toàn với phương án kinh doanh ban đầu. Việc
đầu tư khác gặp khó khăn và do đã không được tư vấn bởi Ngân hàng từ đầu,
khả năng trả nợ gặp trục trặc và nợ xấu là điều có thể đoán trước.
(iv) Chưa xây dựng được hệ thống cảnh báo nợ xấu
- Mỗi khoản nợ xấu trong quá trình phát triển của nó đều có những dấu hiệu
nhất định, từ nhỏ đến to, từ lờ mờ cho đến rõ ràng rành mạch. Do VNCB
chưa xây dựng được hệ thống cảnh báo nợ xấu kết hợp với việc kiểm tra sau
vay qua loa, khiến cho các dấu hiệu đáng lẽ có thể nhận biết được thì lại bị
lãng quên, hoăc không được nhìn nhận rõ. Nếu VNCB có thể xây dựng được
hệ thống cảnh báo nợ xấu, mỗi dấu hiệu từ ban đầu có thể được nhìn nhận và
đánh giá đúng đắn, tỷ lệ nợ xấu có thể đã không cao như hiện nay.
(v) Không đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực và đối tượng cho vay
- Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng của các ngân hàng tập trung vào các
lĩnh vực tăng trưởng "nóng" như bất động sản, chứng khoán... Khi các lĩnh
vực này bị "đóng băng" kéo theo tín dụng đóng băng và nợ xấu gia tăng.
- Theo mô hình hiện tại ở các Ngân hàng nước ngoài, trước khi xem xét cho
vay một ngành nghề nào đó, họ đều thực hiện nghiên cứu ngành, rà soát các
khách hàng thuộc từng ngành, từ đó lên kế hoạch tiếp cận cho vay trong sự
chọn lọc. Hơn nữa, chính sách cho vay của họ chỉ cho phép cho vay đối với
một ngành nghề, đối tượng khách hàng theo tỷ lệ nhất định trong tổng dư nợ.
Việc này chưa được triển khai trong VBCN, do đó đây cũng là một thiếu sót
nghiệm trọng dẫn đến nợ xấu lại tập trung quá nhiều vào một ngành cụ thể
như hiện nay.
(vi) Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế
- Chính sự hạn chế về năng lực và trình độ nghiệp vụ trong quá trình thẩm
định, quá trình phân tích và đánh giá khách hàng, đánh giá doanh nghiệp đã
dẫn đến những quyết định cho vay không đúng, quyết định đầu tư vào những
phương án/dự án kinh doanh kém hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin
59
vẫn là một hạn chế rất lớn của cán bộ nghiệp vụ tín dụng đối với các
NHTM, đòi hỏi nhân viên thẩm định phải có nhiều thông tin liên quan đến
khoản vay thì mới mong hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn.
- Trong giai đoạn bùng nổ ngân hàng 2007-2009, một lượng nhân lực lớn trái
ngành cũng có thể được tuyển vào Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu nhân lực.
Bên cạnh bộ phận có khả năng thực sự, cũng có một bộ phận nhân sự không
nhỏ không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn. Ngoài ra những nhân sự cũ
của Ngân hàng trong quá trình chuyển hoá từ Ngân hàng nông thông lên
thành thị, đã không được đào tạo để hoà nhập với môi trường mới và làm
việc một cách chuyên nghiệp. Chưa kể một bộ phận đạo đức nghề nghiệp
kém, đặt lợi ích cá nhân lên cao hơn lợi ích Ngân hàng khiến cho việc tư vấn
và thẩm định tín dụng đi lệch với bản chất đúng đắn của nó, gây ra những
hậu quả là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nợ xấu Ngân hàng.
(vii) Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ Ngân hàng
- Kiểm soát nội bộ của một NHTM gồm hai bộ phận cấu thành: một là kiểm
soát bộ NHTM là tổng thể hệ thống văn bản quy định của NHTM, các cơ chế
kiểm soát được cài đặt trong các quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng do Ban
điều hành, hoặc Hội đồng Quản trị của NHTM ban hành; Hai là hệ thống tổ
chức của cơ quan kiểm soát nội trong hệ thống NHTM để thực thi việc kiểm
tra, kiểm soát sự tuân thủ của các đơn vị về thực hiện các quy định của ngân
hàng. Công tác kiểm soát nội bộ thực hiện tốt, sẽ giúp cho ban điều hành, các
đơn vị tác nghiệp tuân thủ đúng quy trình nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro
có thể phát sinh trong quá trình hoạt động ngân hàng.
- Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát nội bộ của VNCB trong thời gian qua chưa
theo kịp nhịp độ phát triển, chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng,
một phần do trình độ, năng lực của kiểm tra viên, một phần tinh thần trách
nhiệm của kiểm tra viên chưa thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình
mà chủ yếu kiểm tra qua loa. Bên cạnh đó, kiểm tra viên có thể bị chi phối
bởi cấp trên, buộc phải làm ngơ do áp lực từ cấp trên nhất là cấp phụ trách
kinh doanh. Những nguyên nhân trên làm cho báo cáo kiểm soát nội bộ
60
không chất lượng, chỉ còn mang tính hình thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ
thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê các số liệu từ báo cáo của bộ
phận tín dụng nên chưa thể hiện được tính độc lập, ngăn ngừa, cảnh báo rủi
ro tín dụng, làm chốt chặn hữu hiệu trong cấp phát tín dụng, quản lý hiệu quả
nợ xấu.
2.4. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của VNCB
- Nợ xấu là một trong những yếu tố lớn cản trở dòng luân chuyển vốn, tác
động đến sự ổn định tài chính và sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Trên
thực tế, nợ xấu cao và chậm được giải quyết ngày càng trở thành gánh nặng
cho ngân hàng: mất thanh khoản và giảm lợi nhuận, uy tín trên thị trường bị
ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Việc giải quyết nợ xấu chậm sẽ dẫn đến tình trạng các bảng cân đối kế toán
của VNCB vẫn chiếm tỷ lệ nợ xấu cao, đồng nghĩa với việc VNCB sẽ không
thể cho vay và các DN không tiếp cận được vốn để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh. Giải quyết nợ xấu chậm ảnh hưởng năng lực tài chính của
VNCB, năng lực tài chính của Ngân hàng có tốt thì việc điều hành chính
sách tiền tệ nói chung của toàn ngân hàng mới dễ dàng và hoạt động cung
cấp tín dụng cho nền kinh tế mới thực sự tốt.
- Khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô hình đối
với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình là việc các tài sản cầm cố tại
ngân hàng sẽ ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất
dần, nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các tài sản này sẽ được đem ra sử dụng
nhanh chóng, tạo nên giá trị và giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Về mặt vô
hình khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của Ngân
hàng sẽ khó mà duy trì được mức tín nhiệm, điều này gây ảnh hưởng không
nhỏ tới hoạt động và vị thế của VNCB.
61
Tóm tắt chương 2
Trong chương 2, tác giả đã khái quát được thực trạng hoạt động kinh doanh cũng
như tình hình nợ xấu của VNCB, nêu ra được những nguyên nhân chủ yếu gây nên
tỷ lệ nợ xấu cao, trong đó có các nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân
chủ quan như: nguyên nhân từ môi trường kinh doanh, nguyên nhân từ phía khách
hàng vay, nguyên nhân từ nội bộ VNCB.
Từ việc phân tích những nguyên nhân đã nêu, tác giả đã tiến hành khảo sát trên cơ
sở tham khảo các ý kiến chuyên gia trong ngành ngân hàng thông qua bảng câu hỏi.
Sau khi có kết quả khảo sát từ các chuyên gia cùng với nhận định của tác giả, tác
giả xin nêu ra một số giải pháp và kiến nghị để quản trị nợ xấu của VNCB trong
chương tiếp theo.
62
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU ĐỐI VỚI VNCB
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của VNCB đến 2018
- Với kinh nghiệm của các cổ đông, các đối tác trong ngành xây dựng, các đối
tác trong ngành ngân hàng và nắm bắt xu thế khuyến khích phát triển kinh tế
của Việt Nam, VNCB chủ trương tập trung vào các thị trường trọng điểm, tạo
thế mạnh cho riêng mình để phát triển. Trong đó, cung cấp dịch vụ cho vay
xuất khẩu, cho vay và dịch vụ cho ngành vật liệu xây dựng và nhà ở cho người
có thu nhập thấp sẽ được ngân hàng chú trọng phát triển. Đặc biệt VNCB đẩy
mạnh việc hợp tác kinh doanh với các NHTM do Nhà nước nắm chi phối,
trong các sản phẩm về nhà ở theo chủ trương của Chính phủ, Ngân hàng
NNVN, Bộ xây dựng, trong đó có gói sản phẩm khép kín 4 Nhà (Ngân hàng,
Nhà đầu tư, Nhà thầu, và Nhà cung ứng SX VLXD - TBNT), và các gói sản
phẩm cho nhà thu nhập thấp, nhà ở xã hội. Trong mối liên kết này, Ngân hàng
Xây dựng Việt Nam có vai trò cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các bên
liên quan và kết nối mạng lưới khách hàng tiềm năng rộng khắp trên cả nước.
Mang đến giải pháp cho doanh nghiệp, cộng thêm giá trị cho nhà đầu tư và
tăng lợi ích cho cộng đồng và xã hội sẽ luôn là những mục tiêu đồng hành trên
tiến trình phát triển của Ngân hàng Xây dựng Việt Nam.
- Với chủ trương và định hướng nói trên, VNCB sẽ tập trung 80% nguồn lực
cho vay vào sản phẩm chủ lực của ngân hàng là gói sản phẩm khép kín 4 Nhà
nhằm thực hiện theo đúng chủ trương của Chính phủ và của NHNN là khôi
phục thị trường BĐS, giúp lưu thông lượng hàng tồn kho của ngành xây dựng,
kiểm soát được mục đích vay vốn của các dự án và góp phần nâng cao chất
lượng của các công trình có sự tham gia của VNCB. Với 20% nguồn lực cho
vay còn lại, VNCB sẽ tập trung cho vay đối với thị trường bán lẻ: cho vay sản
xuất kinh doanh, tài trợ thương mại, cho vay tiêu dùng… nhằm đa dạng hoá
sản phẩm phục vụ các nhu cầu vay vốn trong nước.
- Để thực hiện được định hướng này của mình thì việc đầu tiên VNCB cần phải
làm đó là tập trung xử lý nợ xấu để nhằm từng bước đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới
3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và quy định của NHNN. Đồng thời giảm được
63
các khoản trích lập dự phòng, từ đó tăng được lợi nhuận giúp ngân hàng ngày
càng được củng cố, ổn định và phát triển vững mạnh theo phương châm hoạt
động của mình là “An toàn -Hiệu quả-Phát triển bền vững”. Trong thời gian
sắp tới VNCB sẽ chuyển sang mô hình phê duyệt tín dụng tập trung nhằm kiểm
soát và quản trị rủi ro được tốt hơn trong quá trình tái cấu trúc.
3.2. Giải pháp xử lý nợ xấu đối với VNCB
Dựa trên kết quả kháo sát các nguyên nhân gây nên nợ xấu, tác giả đưa ra những
giải pháp quản trị nợ xấu. Việc đưa ra từng giải pháp quản trị nợ xấu không theo
từng nguyên nhân gây nên nợ xấu, mà tác giả đề xuất một nhóm giải pháp cho một
nhóm nguyên nhân, vì giải pháp này có thể vừa cho nguyên nhân này vừa cho
nguyên nhân khác, hoặc cần hơn một giải pháp cho một nguyên nhân.
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục 1) +
bảng khảo sát (phụ lục 3A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 3B) – Bảng 1, dưới đây là
các giải pháp đối với nhóm nguyên nhân từ môi trường kinh doanh:
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Để xử lý nợ xấu, cần có sự vào cuộc của
toàn hệ thống chính trị. Chính vì vậy, NHNN đã chủ động phối hợp với các bộ,
ngành xây dựng, trình Bộ Chính trị thông qua và Chính phủ phê duyệt Đề án xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Đề án đã đưa ra 5 nhóm giải pháp tổng thể cần
triển khai đến năm 2015, bao gồm: Nhóm giải pháp đối với TCTD; nhóm giải pháp
đối với khách hàng của TCTD; nhóm giải pháp về cơ chế chính sách; nhóm giải
pháp về thanh tra, giám sát và giải pháp thành lập Công ty Quản lý tài sản của các
TCTD Việt Nam (VAMC).
Trước đó NHNN cũng đã chỉ đạo toàn ngành triển khai quyết liệt các giải
pháp tự xử lý nợ xấu, như: Cơ cấu lại nợ, tích cực thu nợ, xử lý tài sản bảo đảm; bán
nợ; sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ; tiết giảm chi phí, tập trung trích lập dự
phòng rủi ro... Các giải pháp này cùng với kết quả ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ thị trường của Chính phủ đã đem lại kết quả
quan trọng bước đầu là nợ xấu được xử lý một bước, tốc độ gia tăng nợ xấu giảm
dần từ cuối năm 2012.
64
Như vậy, giải pháp cơ cấu lại nợ không phải là giải pháp duy nhất để xử lý
nợ xấu, nhưng đây là một trong các giải pháp quan trọng, phù hợp với điều kiện
thực tế của thị trường và nền kinh tế nước ta. Đặc biệt, giải pháp này đã góp phần
kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý được một khối lượng nợ xấu rất lớn. Đồng thời
cũng không làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Nhất là, trong
điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng vay bị
suy giảm và việc huy động nguồn tài chính từ bên ngoài để xử lý nợ xấu không
thuận lợi.
3.2.1.1. Cơ cấu lại nợ và phát triển thị trường mua bán nợ
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, thông qua biện pháp cơ cấu lại thời hạn
trả nợ, một khối lượng lớn dư nợ tín dụng được giữ nguyên nhóm. Nhờ vậy, doanh
nghiệp đã được hỗ trợ giảm bớt khó khăn tài chính do không phải trả lãi phạt và
đảm bảo điều kiện tiếp tục có thể vay vốn ngân hàng.
Thực tế cho thấy, đến nay tổng số nợ các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại khoảng
300.000 tỷ đồng, chiếm 10% tổng dư nợ, trong đó khoảng 60% các khoản nợ nếu
không được cơ cấu lại đã trở thành nợ xấu. Nếu không thực hiện giải pháp này thì
nợ xấu đã tăng thêm trên 6%. Các biện pháp tự xử lý nợ xấu của TCTD, trong đó có
biện pháp cơ cấu lại nợ đã mang lại những kết quả tích cực và thực sự có ý nghĩa
đối với cả doanh nghiệp và ngân hàng. Tuy nhiên, các giải pháp này chưa bảo đảm
nợ xấu của các TCTD được xử lý một cách vững chắc, triệt để. Cũng như chưa ngăn
chặn được hoàn toàn nguy cơ nợ xấu gia tăng trở lại nếu các giải pháp khác về kinh
tế vĩ mô, cơ cấu lại doanh nghiệp, xử lý hàng tồn kho, phát triển thị trường bất động
sản… không được triển khai đồng bộ, có hiệu quả.
CácTCTD nên tự nguyện bán nợ xấu cho VAMC: ngay sau khi Đề án xử lý
nợ xấu được ban hành, NHNN đã chủ động đề nghị các cơ quan liên quan triển khai
các nhiệm vụ đã được phân công. Đồng thời, ban hành và thực hiện kế hoạch hành
động triển khai đề án xử lý nợ xấu; thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD
Việt Nam (VAMC). Ngày 26/7/2013, VAMC đã chính thức đi vào hoạt động. Hành
lang pháp lý liên quan đến xử lý nợ xấu qua VAMC đã cơ bản hoàn thành. Đồng
thời, NHNN đã tích cực chỉ đạo các TCTD rà soát, lập danh sách các khoản nợ xấu
65
đủ điều kiện và hoàn chỉnh các hồ sơ đề nghị bán nợ cho VAMC. Tính đến ngày
31/10/2013, VAMC đã mua được tổng số nợ xấu của 14 ngân hàng với số dư nợ
gốc 14.019 tỷ đồng và giá mua là 11.119 tỷ đồng. Dự kiến đến cuối năm 2013,
VAMC sẽ mua được tối thiểu 30-35 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Việc VAMC mua được
nợ xấu và tiếp nhận ngày càng nhiều đề nghị bán nợ tự nguyện từ nhiều ngân hàng,
trong số này có nhiều NHTM có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, chứng tỏ các TCTD đã sẵn
sàng bán nợ xấu. Tâm lý e ngại của các TCTD trong việc bán nợ xấu đã được xóa
bỏ đáng kể khi hiểu được rõ ràng hơn những lợi ích đem lại của việc tham gia xử lý
nợ xấu qua VAMC.
3.2.1.2. Tăng cường vai trò điều tiết, quản lý, điều hành của Chính phủ với
các NHTM
Theo kinh nghiệm nhiều nước, cần lập Ủy ban Nhà nước xử lý nợ, có sự tham gia
của NHNN, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác nhau, tạo điều kiện cho Nhà
nước chủ động can thiệp để hỗ trợ thị trường. Cần quan trọng nhất là công khai
minh bạch quá trình xử lý này, với sự chỉ đạo thống nhất, tránh bị lợi dụng, từng
bước đạt chuẩn nợ xấu theo thông lệ quốc tế.
- Chỉ đạo các ngân hàng sử dụng các công cụ dự phòng của mình, cũng như việc
tái cơ cấu DN và ngân hàng để có tình trạng nợ xấu được lành mạnh hơn, vấn
đề này có thể xử lý để giảm nhẹ một phần tình trạng nợ xấu; khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại nhỏ, yếu kém hợp nhất,
sáp nhập với các ngân hàng lớn, sử dụng tiềm lực tài chính của các ngân hàng
lớn để xử lý nợ xấu.
- Cần nắm chắc tình trạng nợ xấu với số liệu chính xác để xử lý đúng thực tế
bằng các giải pháp kịp thời, sát thực (số liệu của hệ thống ngân hàng còn có sự
khác biệt lớn giữa báo cáo của các DN, đánh giá của NHNN và đánh giá của Ủy
ban Giám sát Tài chính Quốc gia và các chuyên gia, các tổ chức quốc tế).
- Tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho nhà đầu tư
trong và ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu. Tham vấn kinh
nghiệm của các định chế tài chính lớn (IMF, WB...) trong quá trình cải cách hệ
thống tài chính, ngân hàng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức
66
nàynhưng không chấp nhận điều kiện ràng buộc để tránh sự tác động, can thiệp
vào các quyết sách điều hành kinh tế; yêu cầu các ngân hàng thương mại công
bố cụ thể nợ xấu và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân góp vốn hoặc tham
gia đấu thầu, thanh lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng yếu kém để thu hồi
tiền mặt; cho phép ngân hàng thương mại bán trực tiếp các khoản nợ xấu cho
nhà đầu tư nước ngoài:nới rộng giới hạn sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài
tại các ngân hàng trong khoảng thời gian nhất định (từ 10 đến 20 năm), nhưng
yêu cầu phải giảm dần tỷ lệ sở hữu trong các năm tiếp theo thông qua việc bán
lại cổ phần cho cổ đông trong nước.
3.2.1.3. Minh bạch hoá và chi tiết hệ thống thông tin
Các thông tin cần được minh bạch hoá để đề án xử lý nợ xấu đi sát với thực tế,
mang lại hiệu quả đích thực và tiết kiệm đươc thời gian.
- Trong cuộc họp ngày 18/12 với lãnh đạo thành phố HCM, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng cho biết, tổng số nợ xấu của Việt Nam năm 2012 khoảng 400.000 tỷ
đồng, trong đó nợ xấu từ bất động sản chiếm 70%, tương đương 140.000 tỷ
đồng. Tuy được người đứng đầu Chính phủ khẳng định con số, nhưng thống kê
nợ xấu được công bố từ các nguồn lại rất khác nhau. Chẳng hạn, Ngân hàng
Nhà nước cho rằng số nợ xấu chiếm 4,9% GDP, cơ quan giám sát nói là hơn
8,8%, trong khi đó thống đốc ngân hàng đưa ra 10%, còn các nhà phân tích
công bố tỷ lệ này cao hơn mức 10%.
- Trong khi đó, ông Deepak Mishra, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng
Thế giới (WB,) trong cuộc họp báo trước Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ
hồi đầu tháng 12 xác nhận, do không biết chính xác số nợ xấu của Việt Nam là
bao nhiêu, vì thế sẽ không xác định được giải pháp. Ông nhấn mạnh 1% GDP
của Việt Nam tương đương hơn 1 tỷ đô la, do đó sự chênh lệch giữa các con số
không phải nhỏ chút nào.
Thủ thuật chồng chéo
- Theo cách phân nhóm nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) được
quy định năm 2007, nợ được chia thành 5 nhóm: nhóm 1 là nợ đủ tiêu chuẩn
(thời gian quá hạn dưới 10 ngày), nhóm 2 là nợ cần chú ý (thời gian quá hạn từ
67
10 đến 90 ngày) và tăng dần lên nhóm 5, là nợ có khả năng mất vốn (quá hạn
trên 360 ngày). Tuy nhiên, theo cách phân loại như vậy, các ngân hàng thương
mại thường sử dụng các “thủ thuật” hạch toán qua các phương pháp “làm đẹp”
báo cáo tài chính và “gồng mình” để đảm bảo thời gian quá hạn các khoản nợ
vẫn nằm trong phạm vi cho phép là 1 và 2. Sự nguy hiểm là khi những nhóm nợ
dạng “đủ tiêu chuẩn” hay “cần chú ý” kia trở nên xấu, thì được các ngân hàng
“đẩy” thẳng lên nhóm 5 mà không qua các nhóm 3 hay 4. Trên nguyên tắc các
NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro tương ứng với nhóm nợ, nhưng các ngân
hàng đã không làm như quy định.
- Bài báo Nợ xấu ngân hàng được giấu như thế nào đăng trên báo mạng
Vietnamnet đã chỉ ra những thủ thuật của các ngân hàng, phổ biến nhất là các
NHTM hỗ trợ giải ngân các khoản vay mới để trả nợ cũ, làm như vậy, khách
hàng không bị chuyển nhóm nợ. Hơn nữa, NHTM không đánh giá kỹ khả năng
trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng hạn, chỉ thực hiện giải quyết vấn đề khó khăn trả
nợ trước mắt cho khách hàng và điều này làm gia tăng rủi ro cho hệ thống
NHTM.
3.2.1.4. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM
- Năm 2012, NHNN đã xác định được 9 ngân hàng yếu kém và đã triển khai các
giải pháp phù hợp để tiến hành tái cơ cấu các. Cụ thể NHNN đã phê duyệt
phương án tái cơ cấu 8 NHTMCP yếu kém, trong đó, 3 Ngân hàng Sài gòn, Đệ
Nhất, Tín Nghĩa đã được hợp nhất. Ngân hàng Tiên Phong đã được phê duyệt
phương án cơ cấu lại theo hướng tự củng cố, chấn chỉnh. Ngân hàng Nhà Hà
Nội đã được phê duyệt phương án cơ cấu lại theo hướng sáp nhập vào Ngân
hàng Sài Gòn – Hà Nội. Phương án cơ cấu lại Ngân hàng Dầu khí đang được
trình Thủ tướng cho ý kiến. 3 ngân hàng yếu kém còn lại đang được khẩn
trương xem xét phương án cơ cấu lại.
- Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia, quá trình tái cơ cấu ngân hàng chỉ
mới hoàn thành được bước 1. Theo lộ trình tái cơ cấu đề ra, năm 2014, ngành
ngân hàng phải hoàn thành căn bản tái cơ cấu tài chính. Cụ thể, phải hoàn thành
căn bản xử lý nợ xấu, áp dụng trên thực tế các chuẩn mực kế toán và an toàn,
68
tập trung hoàn thành tái cơ cấu hoạt động và quản trị.Trên cơ sở kết quả thanh
tra, giám sát năm 2013, tiếp tục đánh giá thực trạng TCTD qua công tác thanh
tra, giám sát ngân hàng để nhận diện các TCTD yếu kém và TCTD hoạt động
bình thường, từ đó có biện pháp tái cơ cấu thích hợp.
- Bên cạnh đó, NHNN yêu cầu tất cả các TCTD chủ động rà soát, đánh giá thực
trạng và xây dựng phương án tái cơ cấu toàn diện các mặt tổ chức và hoạt động,
tập trung tăng cường năng lực tài chính đảm bảo vốn tự có đủ bù đắp rủi ro, đáp
ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định và vốn điều lệ thực không thấp hơn mức
vốn pháp định, xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
- Theo Chánh thanh tra NHNN - Ông Nguyễn Hữu Nghĩa, việc tái cơ cấu hệ
thống các TCTD và xử lý các TCTD yếu kém là vấn đề hết sức phức tạp, nhạy
cảm, liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của nhiều bên và mất nhiều thời
gian với nhiều thủ tục, quy định. Do vậy, thời gian xử lý các TCTD yếu kém có
thể chậm hơn so với kế hoạch dự kiến. Để tái cơ cấu vẫn cần bổ sung các cơ
chế, chính sách khuyến khích các TCTD tích cực triển khai tái cơ cấu như các
cơ chế, chính sách về miễn giảm thuế, phí để hỗ trợ TCTD trong xử lý nợ xấu
và các tài sản đảm bảo tiền vay, các cơ chế chính sách về miễn giảm thuế
liênquan đến các giao dịch sáp nhập, hợp nhất, mua lại để hỗ trợ cho quá trình
cơ cấu lại TCTD...
3.2.1.5. Hoàn thiện và cải tiến hành lang pháp lý về xử lý nợ
- Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý để các ngân hàng
thương mại có quyền tự chủ đứng ra tổ chức bán tài sản cầm cố thế chấp để thu
hồi vốn đối với các khoản nợ quá hạn (theo như điều khoản đã thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng), đặc biệt có thể có các chính sách ưu tiên đối với những
khoản nợ khó thu hồi phát sinh như miễn thuế doanh thu, thuế quyền sử dụng
đất, chỉ thu phí dịch vụ bán đấu giá một lần khi bán được tài sản cầm cố, thế
chấp trong trường hợp phát mại tài sản qua các trung tâm bán đấu giá. Phí này
theo quy định của pháp luật, bên vay phải thanh toán nhưng đối với nợ quá hạn
phải xử lý thế chấp để thu hồi nợ thì phần lớn khách hàng không còn khả năng
thanh toán, do đó sẽ phải trừ vào số tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản
69
cầm cố, thế chấp này sẽ ảnh hưởng đến vấn đề thu nợ của Ngân hàng. Mặc dù
các văn bản pháp quy đã quy định tỷ lệ hợp pháp giữa giá trị tài sản cầm cố, thế
chấp và mức cho vay ban đầu để đảm bảo thu nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn
và các chi phí phát sinh. Nhưng trên thực tế thì hiện nay diễn biến của thị
trường bất động sản đã ảnh hưởng không ít đến giá trị tài sản cầm cố, thế chấp
đặc biệt là sự giảm giá của thị trường bất động sản trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế đến nay gần như các khoản nợ quá hạn được thu hồi từ việc xử lý tài
sản thế chấp đều được thực hiện bằng cách: Khách hàng và ngân hàng thoả
thuận bán có sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Để xử lý theo hướng trên
thì ngân hàng cần phải hoàn toàn linh động trong việc xử lý tài sản thế chấp và
phải có sự đồng tình ủng hộ của các cơ quan hữu quan cùng với sự tự giác nhất
định từ phía khách hàng.
- Từ đó cho thấy sự cần thiết phải xây dựng cơ chế xử lý TSBD thực sự hiệu quả,
tiết kiệm chi phí và công sức cho các bên. Đề nghị Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành
có liên quan cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này, trong đó đặc
biệt là các nội dung như: tăng khả năng tiếp cận hợp pháp TSBD từ phía bên
nhận bảo đảm; việc thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên
nhận chính TSBD; sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm
thực thi thỏa thuận về xử lý TSBD...Đặc biệt là pháp luật tố tụng trong giải
quyết các vụ kiện yêu cầu xử lý TSBD cần được rút gọn.
3.2.1.6. Giải pháp khơi thông thị trường bất động sản
- Dẫn báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, ngày 9/8/2013 Bộ Xây dựng cho biết,
tính đến 31/5/2013, tổng dư nợ tín dụng trong lĩnh vực bất động sản là 237.509
tỷ đồng, tăng 4% so với thời điểm cuối năm 2012.Trong tổng số dự nợ nói trên
thì vay xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là 14.966 tỷ đồng, tăng 0,1%
so với thời điểm 31/12/2012; vay xây dựng khu đô thị là 46.680 tỷ đồng, tăng
8,3%; vay sửa chữa, mua nhà để ở, cho thuê 55.841 tỷ đồng tăng 4,5%; vay
mua quyền sử dụng đất 14.081 tỷ đồng, tăng 8%; vay đầu tư kinh doanh bất
động sản khác 33.264 tỷ đồng, giảm 7,7%. Đáng chú ý, tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh
vực bất động sản là 6,53%, tăng nhẹ so với thời điểm cuối năm 2012 là 5,39%.
70
- Do vậy việc gấp rút đưa ra những giái pháp khơi thông thị trường bất động sản
sẽ là một trong những giải pháp quan trọng góp phần xử lý nợ xấu cho hệ thống
NHTM Việt Nam. Một số giải pháp như: giảm giá BĐS, giảm lãi vay Ngân
hàng cho những khách hàng có nhu cầu vay đâu tư BĐS thực sự, tránh tình
trang đầu cơ làm tăng giá ảo …
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ khách hàng
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục 1) +
bảng khảo sát (phụ lục 3A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 3B) – Bảng 1, dưới đây là
các giải pháp đối với nhóm nguyên nhân từ khách hàng:
3.2.2.1. Hỗ trợ từ chính phủ đối với khách hàng
- Nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN, góp
phần giảm nợ xấu của các DN, trong thời gian qua, Chính phủ đã triển khai
thực hiện một số giải pháp: (a) Chính sách miễn giảm thuế, phí (thuế thu nhập
DN, thuế giá trị gia tăng, thuế sử dụng đất...) đã hỗ trợ DN có thêm nguồn lực
để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối tượng áp dụng rộng rãi, gồm
các DN được hưởng lợi trực tiếp và cả các DN được hưởng lợi gián tiếp thông
qua quan hệ mua bán - đầu vào, đầu ra (hơn 200.000 DN được gia hạn thuế
giá trị gia tăng, với số tiền trên 11.000 tỷ đồng; giải quyết nợ thuế thu nhập
cho trên 8.200 DN với số tiền 347 tỷ đồng; giảm 50% thuế cho hơn 3.000 DN
với số tiền 339 tỷ đồng; giải quyết thuế môn bài cho hơn 40.000 hộ đánh bắt
hải sản...). (b) Các ngân hàng thương mại đã rà soát các khoản vay, tập trung
tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên, giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ giãn nợ và đơn
giản hoá thủ tục vay cho DN có kết quả kinh doanh và phương án kinh doanh
tốt; lãi suất cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên giảm mạnh xuống 13%. (c) Các
bộ, ngành đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại,
hỗ trợ các DN, cơ sở sản xuất, kinh doanh, củng cố, xây dựng và mở rộng thị
trường trong nước và xuất khẩu.
- Tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế trong nước và kinh
tế thế giới, DN vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn: (a) DN vẫn khó tiếp cận
vốn vay nhất là thời gian cho vay ngắn (3 - 6 tháng); hạn mức cho vay chỉ đáp
71
ứng 30 - 50% nhu cầu vay của DN. Mặt khác, việc thực thi các cam kết về
giảm, giãn nợ của ngân hàng còn hạn chế do Ngân hàng Nhà nước chưa có
hướng dẫn thực hiện cụ thể và chế tài xử phạt chưa rõ ràng nên nhiều ngân
hàng thương mại vẫn đặt điều kiện khắt khe về tài sản thế chấp, yêu cầu trả nợ
cũ; (b) Các biện pháp xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư đạt kết quả chưa
cao, thị trường tiêu thụ tiếp tục bị thu hẹp, hàng tồn kho tăng cao nhất là hàng
nông sản, thực phẩm, công nghiệp, vật liệu xây dựng..., sức mua giảm mạnh;
(c) Chi phí sản xuất tăng và gây khó khăn cho DN trong việc hạ giá thành sản
phẩm và giải quyết hàng tồn kho
- Đối với nợ xấu tại khu vực DNNN để giải quyết lại càng khó khăn hơn. Khác
với các DN tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho
các DN khác để có tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản, các DNNN rất
khó có thể bán tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai
đoạn kinh tế suy thoái. Vì vậy, các khoản nợ mà các DNNN vay thường phải
trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ,
khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn…
- Các hình thức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ khoanh nợ (như việc khoanh
nợ cho Vinashin tại các ngân hàng thương mại) thì Chính phủ vẫn phải bỏ một
phần tiền ra để bù đắp; hình thức chuyển nợ (như của Vinashin cho Vinalines
và PVN) có thể khiến các DNNN khác lâm vào khó khăn và cuối cùng gánh
nặng lại đè lên vai Nhà nước.
- Từ kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy, để giải quyết vấn đề nợ xấu
trong nền kinh tế phải mất một thời gian khá dài từ 5 đến 10 năm, do vậy đối
với Việt Nam, cần phải có một lộ trình mang tính chiến lược cụ thể thì mới có
thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề.
3.2.2.2. Tư vấn về nợ, phân loại nợ đối với khách hàng
Việc tư vấn về nợ & phân loại nợ có thể chia theo 2 đối tượng: khách hàng cá nhân
và khách hàng doanh nghiệp.
- Khách hàng cá nhân: bên cạnh một bộ phận khách hàng có kiến thức nhất
định, có rất nhiều khách hàng đi vay nhưng không nắm rõ các quy định, quy
72
chế về việc vay tiền, có những khách hàng còn không hiểu thế nào là nợ xấu,
nếu không trả nợ thì sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào. Khái niệm về phân loại
nợ dường như xa lạ hoàn toàn. Họ thậm chí còn nghĩ rằng Ngân hàng cũng
như tiệm cầm đồ, khác chăng chỉ là lãi suất thấp hơn.Đến khi không trả được
nợ thì chỉ cần phát mãi tài sản. Những đối tượng này cần phải tư vấn thật kỹ
lưỡng, nếu là khách hàng tốt, có khả năng trả nợ, có thiện chí trả nợ, cơ cấu
khoản nợ chặt chẽ mới có thể tiến hành cho vay.
- Khách hàng doanh nghiệp: đa phần đối tượng khách hàng này có chuyên
môn hơn và chuyên nghiệp hơn so với đa số khách hàng cá nhân. Tuy nhiên
cần xem xét và thẩm định kỹ lưỡng báo cáo tài chính kết hợp tình hình kinh
doanh thực tế để có thể cầu trúc khoản vay đúng thời gian của vòng quay
vốn. Tư vấn và theo sát để hướng khách hàng đến tình hình tài chính lành
mạnh hơn trong quá trình quan hệ tín dụng, tạo mối quan hệ bền chặt và
giảm thiểu nợ xấu cho Ngân hàng.
3.2.2.3. Kiểm soát nguồn tiền giải ngân & cập nhật thông tin thường xuyên liên
quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng
Đây cũng là giải pháp kiểm soát sau vay đối với nhóm giải pháp cho những
nguyên nhân từ nội bộ VNCB. Nhân viên Ngân hàng cần phải giám sát
khách hàng sau vay thật sát sao, từ đó có thể đảm bảo khách hàng đang thực
hiện đúng phương án kinh doanh ban đầu, cơ hội trả nợ đúng hạn cao.
Thường xuyên thăm hỏi khách hàng, bám sát tình hình báo cáo tài chính để
có thể nhận biết những dấu hiệu sớm nhất, từ đó có thể tư vấn co khách hàng
chi tiết, điều chỉnh khách hàng thực hiện theo đúng kế hoạch hoặc có những
phương án xứ lý kịp thời, hạn chế tồi thiểu việc phát sinh nợ khó đòi hoặc để
nó ngày càng phình to gây hậu quả nghiêm trọng.
3.2.3. Nhóm giải pháp đối với nguyên nhân từ nội bộ hệ thống VNCB
Dựa trên kết quả khảo sát từ các chuyên gia trong ngành ngân hàng (phụ lục 1) +
bảng khảo sát (phụ lục 3A), cho ra bảng kết quả (phụ lục 3B)– Bảng 2, dưới đây là
các giải pháp đối với nhóm nguyên nhân từnội bộ VNCB:
73
3.2.3.1. Hoàn thiện quy trình tín dụng
- Muốn giảm thiểu rủi ro trong tín dụng, VNCB nhất thiết phải có một hệ
thống giải pháp chủ động ngăn ngừa và hạn chế rủi ro từ những nguyên nhân
chủ quan nội bộ cũng như hạn chế sự ảnh hưởng từ phía khách hàng vay, từ
môi trường kinh doanh bên ngoài. Hệ thống giải pháp này được thể hiện
trong việc xây dựng, hoàn thiện chính sách tín dụng, quy trình tín dụng cũng
như trong việc chuẩn hóa và kiểm soát sự tuân thủ đúng quy trình tín dụng đã
đề ra, kể cả các biện pháp nhằm ngăn chặn gian lận của khách hàng vay và
đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro.
- Trước đây VNCB áp dụng quy trình tín dụng còn đơn giản nên đã bộc lộ
nhiều bất cập: chỉ có một bộ phận là phòng tín dụng phụ trách toàn bộ công
việc từ khâu tiếp nhận đến thẩm định và giải quyết cho vay. Để nâng chất
lượng của công tác thẩm định, tính khách quan trong việc giải quyết hồ sơ
vay thì sự phân chia rạch ròi nhiệm vụ và quyền hạn của 3 bộ phận: tiếp nhận
hướng dẫn, thẩm định khách hàng và quyết định cho vay là cần thiết, sẽ hạn
chế vấn đề tiêu cực, nâng tính khách quan, và tạo nên sự kiểm soát lẫn nhau
giữa 3 bộ phận trong quá trình thẩm định và duyệt cho vay.
- Bên cạnh đó, trước đây việc thẩm định khách hàng và thẩm định TSĐB đều
do phòng kinh doanh thực hiện nên dễ dẫn đến tiêu cực trong việc định giá
cao giá trị TSĐB nhằm bảo đảm nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do vậy
trong quy trình tín dụng sau này, việc định giá TSĐB cần phải giao cho một
đơn vị chuyên trách đó là công ty quản lý và khai thác tài sản (AMC) trực
thuộc ngân hàng.
- Ngoài ra, cần có sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức bộ máy và quy
trình cấp tín dụng phù hợp với mô hình quản trị rủi ro trong tín dụng theo
chuẩn Basel. Phải phân biệt rõ 02 bộ phận chuyên môn riêng biệt là Bộ phận
khách hàng cá nhân và bộ phận khách hàng doanh nghiệp nhằm sắp xếp và
phân bổ nhân sự phù hợp theo năng lực cá nhân. Do nghiệp vụ cho vay đối
với 02 đối tượng khách hàng này khác nhau, nghiệp vụ cho vay đối với
khách hàng doanh nghiệp đòi hỏi chuyên môn cao hơn. Từ đó sẽ tiến hành
74
phân cấp hạn mức phê duyệt tuỳ thuộc vào từng khối khách hàng cụ thể.
Đồng thời với các công tác nâng cao chất lượng chuyên môn, cần phải thành
lập bộ phận quản lý rủi ro kiểm tra sau vay nhằm kịp thời phát hiện ra những
khoản vay có vấn đề để từ đó nhanh chóng đề ra các biện pháp xử lý phù
hợp, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
3.2.3.2. Kiểm soát thẩm quyền phê duyệt tín dụng
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, VNCB cũng cần kiểm soát
lại thẩm quyền phê duyệt tín dụng tại các chi nhánh trong hệ thống. Đối với các
chi nhánh mà năng lực quản lý của ban lãnh đạo kém, khả năng quản trị rủi ro
thấp dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao thì nên cắt giảm hạn mức phê duyệt và ngược lại.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phê duyệt theo cấp độ chuyên viên tại Hội
sở, cần phải thành lập một Hội đồng tín dụng của Hội sở và của ngân hàng bao
gồm các cá nhân ưu việt trong công tác phê duyệt tín dụng. Có như vậy thì mới
đảm bảo được chất lượng của các hồ sơ được phê duyệt, đồng thời đảm bảo
được tiến độ phê duyệt hồ sơ cho toàn hệ thống. Từ đó hạn chế được các rủi ro
cho các khoản vay trong toàn hệ thống.
3.2.3.3. Nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng
Hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro theo chuẩn quốc tế
- Theo Basel 2, cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có
hệ thống QTRR có hiệu quả, bao gồm các chiến lược, chính sách, quy trình
nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát các loại rủi ro trên. Trong bối
cảnh hiện nay khi nền kinh tế có những biến động khôn lường thì quản lý rủi ro
càng phải được quan tâm hàng đầu. Trước hết việc phân loại rủi ro cũng cần có
sự thay đổi theo hướng chi tiết và sát với thực tế hơn. Có 4 loại rủi ro chính là
rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng.
i) Rủi ro thanh khoản: Ngân hàng ở Việt Nam chỉ có rủi ro trong việc thanh
toáncác khoản nợ đến hạn, các yêu cầu rút tiền tiết kiệm của người gửi. Ở các
quốc gia phát triển thì rủi ro thanh khoản còn được tính đến là rủi ro từ việc
thiếu vốn cho vay ra, các NHTM phải huy động vốn bằng mọi giá.
ii) Rủi ro về tác nghiệp: Đây là dạng rủi ro xoay quanh 4 nguyên nhân chính là
75
con người, hệ thống thông tin, quy trình và do yếu tố khách quan. Những rủi ro
này trong tình hình hiện nay càng trở nên phổ biến.
iii) Rủi ro thị trường:Đây là rủi ro được các NHTM quan tâm hơn thời
gian gầnđây. Điều này xuất phát từ việc các NHTM phải đối mặt với những rủi
ro từ lãi suất, tỷ giá, chứng khoán và các sản phẩm hàng hóa phái sinh.
iv)Rủi ro tín dụng:Ngay như với quản trị rủi ro tín dụng được coi là có nhiều
kinhnghiệm nhất thì các NHTM cũng chưa có nhận thức đầy đủ. Rủi ro tín dụng
hiện mới được các NHTM hiểu là rủi ro khi khách hàng không trả được nợ.
Thực tế thì còn một loại rủi ro tín dụng khác là rủi ro danh mục. Rủi ro danh
mục tín dụng là khi tín dụng NHTM tập trung quá nhiều vào một loại tín dụng
không đa dạng hóa mà thường “bỏ trứng vào một giỏ”. Đây chính là điều mà
VNCB hiện đang gặp phải khi mà dư nợ cho vay BĐS quá cao và thị trường
BĐS có những biểu hiện suy giảm, mất thanh khoản.
Quy trình quản trị rủi ro phải được thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với
toàn bộ danh mục rủi ro. Trong quản trị rủi ro tín dụng, VNCB cần thực hiện quản
trị rủi ro đối với từng khoản tín dụng và đối với toàn bộ danh mục tín dụng. Quản trị
rủi ro đối với từng khoản tín dụng đòi hỏi kiến thức cụ thể về hoạt động kinh doanh
và điều kiện tài chính của đối tác trong khi quản trị rủi ro danh mục tín dụng yêu
cầu kiến thức bao quát toàn diện để giám sát toàn bộ thành phần và chất lượng danh
mục tín dụng. VNCB cần phải có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh
mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín
dụng. Việc giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng giúp cho VNCB có
được cái nhìn tổng thể về rủi ro tín dụng, từ đó, dễ dàng nhận biết được rủi ro đầu tư
tập trung vào những hạng mục (khách hàng, khu vực, ngành nghề,..), trên cơ sở đó,
có những điều chỉnh thích hợp để tránh sự tập trung đầu tư quá mức nhằm làm giảm
thiểu rủi ro.
3.2.3.4. Thiết lập hệ thống dự báo tín dụng
Cần nâng cao khả năng nhận diện và phân loại rủi ro
- Xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm liên quan đến các dấu hiệu của khách
hàng và thị trường. Để nhận biết và ước lượng tác động của những dấu hiệu
76
này, đòi hỏi cán bộ tín dụng có trình độ, nhạy bén và phải quan tâm theo dõi
sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Thực hiện tốt việc dự báo diễn biến kinh tế, của từng ngành lĩnh vực tác
động đến ngân hàng và khách hàng vay vốn. Từ đó đưa ra định hướng, chính
sách cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, cấp hạn mức cụ thể để chủ động
phòng tránh rủi ro, tránh những phản ứng quá chậm, gây ra lúng túng trong
công tác quản trị rủi ro của mình.
Nên thu thập thông tin từ CIC định kỳ 3 hoặc 6 tháng tùy từng đối tượng
khách hàng, để nắm bắt kịp thời tình hình của khách hàng vay. Quy định
này nên đưa vào phần kiến nghị khi xét cấp tín dụng và phần phê duyệt tín
dụng cho khách hàng
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản nợ xấu phát sinh
Các khoản nợ quá hạn, nợ xấu xảy ra có rất nhiều nguyên nhân từ môi
trường kinh doanh, đến những rủi ro về phía khách hàng và cả những yếu
kém chủ quan về phía ngân hàng cho vay. Riêng các nguyên nhân chủ quan
về phía ngân hàng dẫn đến nợ xấu thì hầu hết bắt nguồn từ công tác thẩm
định, kiểm soát tín dụng. Vì vậy, để ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, các ngân
hàng thương mại nên xây dựng cho mình một hệ thống cảnh báo sớm đối với
các khoản nợ xấu phát sinh.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang thực hiện việc phân
loại nợ theo quyết định 493 của Ngân hàng Nhà Nước với 5 nhóm nợ có mức
đội rủi ro tăng dần, trong đó nhóm 1 là nợ đủ tiêu chuẩn, nhóm 2 là nợ cần
chú ý và nhóm 3, 4, 5 là nợ xấu. Để nợ vay tại VNCB không bị chuyển sang
các nhóm nợ xấu, chúng ta cần phải thiết lập hệ thống cảnh báo ngay từ khi
các món nợ có dấu hiệu không được “bình thường” mà đặc biệt chú ý đó là
nợ thuộc nhóm 2. Đối với nhóm nợ này cần phải sớm phân tích tìm nguyên
nhân và có biện pháp, không để kéo dài thời gian quá hạn dễ dẫn đến nguy
cơ nợ xấu. Đó là chưa nói đến việc phân tích định tính về khả năng trả nợ bị
suy giảm, ước lượng mức độ tổn thất giá trị nợ gốc để phân vào nhóm nợ 2.
Chính vì vậy, việc phân loại nợ phải được thực hiện tự động hóa một cách
77
minh bạch trên phần mềm quản lý nợ toàn hệ thống để cho nợ quá hạn phản
ánh trung thực trên hồ sơ quản lý món vay và cân đối kế toán.
Yêu cầu cảnh báo sớm nợ nhóm 2 đòi hỏi ngân hàng cho vay phải kiểm tra
trực tiếp và thu thập thông tin về khách hàng để giải đáp ngay câu hỏi:
Nguyên nhân nào dẫn đến khách hàng chậm trả lãi/gốc ?. Nguyên nhân trực
tiếp: do lỗ một thương vụ, do công nợ không thu được, do mất một phần thị
trường, do sản phẩm hỏng không bán được, do lừa đảo, … hay nguyên nhân
sâu xa: do thiếu vốn chủ sở hữu, lỗ kéo dài, dòng ngân quỹ âm, đầu tư tràn
lan, sử dụng vốn sai mục đích, dự án kém hiệu quả, mất thị trường đầu vào,
đầu ra, năng lực quản lý yếu kém, … Ngoài ra VNCB cũng cần lưu ý phòng
ngừa thủ thuật vay đáo hạn nợ, phải tìm hiểu và xem xét thực tế nguồn trả nợ
là từ đâu. Nếu khoản nợ nhóm 2 quá hạn được khắc phục không quá 30 ngày,
nguồn trả nợ thực chất từ chu chuyển vốn kinh doanh lành mạnh thì có thể
yên tâm về tình hình tài chính của khách hàng. Ngược lại, nếu việc chậm trả
lãi / gốc được xác định là có dấu hiệu bất ổn trong kinh doanh thì rõ ràng
không phải là chậm trả tạm thời mà sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán
nếu ngân hàng không có biện pháp xử lý kịp thời. Lúc này, việc phát hiện
cảnh báo sớm sẽ có tác động tích cực cho cả hai bên (khách hàng vay lẫn
ngân hàng cho vay) để còn kịp thời gian tìm cách khắc phục hay chí ít cũng
không dấn sâu vào những khó khăn nhiều hơn nữa. Nếu việc quá hạn do mất
khả năng thanh toán nhất thời vì tình hình công nợ hay thua lỗ một lô hàng
nào đấy thì lúc này những cảnh báo hay tư vấn từ phía ngân hàng là rất cần
thiết giúp cho kháchhàng có định hướng kinh doanh tốt hơn phù hợp với tình
hình thị trường, qua đó phục hồi khả năng thanh toán nợ vay cho ngân hàng.
Còn nếu nợ quá hạn do những khó khăn về tài chính sâu xa thì việc cảnh báo
sớm cũng giúp cho cả hai bên cùng thông đạt lẫn nhau về giải pháp trả nợ,
thống nhất lộ trình xử lý nợ toàn diện.
Với việc phân loại nợ nhóm 2 là "nhóm nợ cần chú ý" cho nên nó được
xem như là một "nhiệt kế" đo lường và cảnh báo sớm mức độ rủi ro tín dụng
tại các ngân hàng thương mại. Cho dù món vay lớn hay nhỏ, cho vay doanh
78
nghiệp hay tư nhân, quốc doanh hay ngoài quốc doanh, cho vay có tài sản
hay không có tài sản thì khả năng phát sinh nợ nhóm 2, nguy cơ chuyển từ
nợ nhóm 2 sang nợ xấu là hết sức tiềm ẩn đối với các ngân hàng thương mại.
Việc xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản nợ xấu phát
sinh cần được đặt biệt quan tâm. Hệ thống này phải bao gồm các thủ tục và
quy trình thích hợp để xây dựng một hệ thống cảnh báo toàn diện, bao gồm
các yếu tố cơ bản, trong đó tính đầy đủ, cập nhật và chính xác của thông tin
là yếu tố then chốt.
Cần thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô trực
thuộc khối kinh doanh
- Một phần lớn RRTD xảy ra là do thiếu thông tin thị trường, ngành nghề
trong cấp tín dụng cho khách hàng. Việc thu thập thông tin ngành đôi khi gặp
khó khăn vì việc phân tích chủ yếu dựa vào khả năng phán đoán, nhận biết và
sự hiểu biết chủ quan của nhân viên tín dụng.
- Hệ thống cung cấp thông tin ngành nghề của một số ngân hàng và của
NHNN hiện nay chỉ mang tính định lượng, đưa ra những con số mà chưa có
sự nhận định đáng tin cậy của những chuyên gia kinh tế.
- Việc thiết lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế là hết sức cần
thiết trong tình hình hiện nay, khi mà các biến động kinh tế diễn ra mạnh mẽ
hàng ngày. Một mặt để giảm áp lực cho nhân viên tín dụng, giúp họ tập trung
hơn vào chuyên môn; mặt khác giúp cho ngân hàng có cái nhìn tổng quan
hơn về danh mục cho vay, tập trung trong quản trị RRTD khi có những biến
động về tình hình kinh tế vĩ mô. Giúp việc cấp tín dụng của VNCB được an
toàn, hiệu quả và bền vững.
3.2.3.5. Hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ
Xác định đúng đắn mô hình tổ chức và cấu trúc hoạt động của kiểm soát nội bộ
của mình. Từ đó xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ theo hướng thống nhất từ
Hội sở chính tới chi nhánh của VNCB. Đổi mới căn bản phương pháp kiểm tra
nội bộ hiện hành thay kiểm toán nội bộ từ bị động sang chủ động theo kế hoạch
trên cơ sở đánh giá, xếp loại rủi ro của từng nghiệp vụ, từng chi nhánh, thay từ
79
kiểm tra chi tiết tính tuân thủ và các vi phạm xảy ra sang kiểm toán hệ thống
định hướng rủi ro, dự đoán rủi ro tiềm ẩn để đề phòng, khắc phục kịp thời; Đẩy
mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các chương trình phần
mềm hỗ trợ kiểm toán nội bộ khai thác kịp thời, cập nhật, đầy đủ, chính xác các
dữ liệu thông tin cần thiết theo yêu cầu; Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, thu hút
nhân lực đáp ứng đòi hỏi, nâng cao chất lượng kiểm soát nội bộ và kiểm toán
nội bộ.
3.2.3.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Ngân hàng là lĩnh vực đòi hỏi sự chuyên nghiệp và tính minh bạch. Chính vì
vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ ngân hàng là điều hết sức
quan trọng. Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong
quản trị ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn tiềm ẩn rủi ro
đạo đức rất lớn, gây thất thoát tài sản của công dân và quốc gia.
- Sự phát triển quá nóng trong thời gian ngắn của VNCB đã tạo ra những hệ lụy
không nhỏ. Nguồn nhân lực chất lượng cao, có đạo đức nghề nghiệp còn thiếu
nhiều và chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế. Công tác tuyển dụng, đào tạo lại
chưa được coi trọng đúng mức, nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng. Mặt
khác, đa số cán bộ quản lý cấp trung và cấp cao chủ yếu được đề bạt một cách
chủ quan, không tuân theo những nguyên tắc của quản trị nhân sự. Vì vậy các
nhân sự này không đảm bảo được các kiến thức về quản lý và điều hành cho
một chi nhánh, một hệ thống theo hướng hiện đại. Vì vậy, đạo đức và trình độ
chyên môn phải được coi như một tiêu chí hàng đầu trong công tác tuyển chọn,
đặc biệt là đối với các nhân sự cấp cao. Ngân hàng phải xây dựng văn hóa
doanh nghiệp, thiết lập một hệ thống kiểm soát đặc biệt về những hành vi trong
công tác huy động vốn và cho vay. Việc thiếu những quy định rõ ràng, chế tài
nghiêm khắc sẽ tạo ra “rủi ro đạo đức” trong quá trình hoạt động. Bản thân
ngân hàng phải tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, lành mạnh nhằm nâng
cao và giữ gìn phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng.
- Hiện nay đang trong quá trình tái cấu trúc, VNCB cần phải mạnh dạn sàng lọc
lại bộ máy nhân sự lãnh đạo từ cấp trung trở lên nhằm đào thải và thay thế
80
những nhân sự yếu kém bằng những nhân sự chất lượng cao (đặc biệt là đối với
nhân sự lãnh đạo cấp cao). Bên cạnh các tiêu chí đưa ra đối với nhân sự lãnh
đạo thay thế thì cần phải xây dựng lại chính sách đãi ngộ đối với các nhân sự
này, vì có như vậy mới thu hút được người giỏi về làm việc. Khi đã thu hút
được các nhân sự giỏi làm việc tại vị trí lãnh đạo cao cấp thì từ đó mới hoạch
định được chiến lược đúng đắn cho ngân hàng và khả năng quản trị rủi ro được
tốt hơn. Có như thế mới tạo được nền tảng cơ bản cho sự phát triển lành mạnh
và bền vững của ngân hàng VNCB sau này.
3.2.3.7. Nâng cao chất lượng thẩm định và tái định giá giá trị tài sản đảm bảo
- Hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng cần phải quản lý rủi ro và để giảm thiểu
rủi ro, ngân hàng phải nắm chắt thông tin khách hàng làm cơ sở để phán quyết
cho vay và giám sát sau khi vay. Công tác thẩm định phải thu thập đủ thông tin
hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, tình trạng công nợ, khả năng hoàn trả, tài sản
bảo đảm,và các thông tin khác của khách hàng vay.
- Các thông tin về hồ sơ pháp lý như: tên khách hàng, địa chỉ, Giấy chứng nhận
đăng kư kinh doanh và mă số thuế, số lượng chi nhánh, đơn vị trực thuộc, họ
tên và trình độ người đại diện theo pháp luật, người điều hành, ngành nghề kinh
doanh, sản phẩm sản xuất kinh doanh chủ yếu, thị trường tiêu thụ, kênh phân
phối,...
- Thông tin về tình hình tài chính bao gồm: báo cáo tài chính, vốn điều lệ, kết quả
sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ, đòn cân nợ, các tỷ số tài chính,…qua
đó ngân hàng có thể đánh giá khả năng tài chính, quy mô hoạt động và khả
năng phát triển của khách hàng.
- Thông tin về tình hình quan hệ tín dụng gồm giá trị các khoản vay và lịch sử trả
nợ tại các NHTM và tổ chức tín dụng, thời hạn trả của các khoản vay đó, tài sản
đảm bảo.
- Thông tin về xếp hạng tín dụng khách hàng.
- Thông tin liên quan đến dự án của khách hàng, ngân hàng cần phân tích hiệu
quả của dự án, thời gian hoàn vốn, khả năng trả nợ từ việc thực hiện dự án và
các thông tin khác liên quan đến tính khả thi của dự án.
81
- Thông tin về môi trường kinh doanh có liên quan đến ngành nghề, lĩnh vực hoạt
động của khách hàng, thông tin kinh tế, thị trường, xu thế phát triển, tiềm năng
của ngành.
- Để thu thập thông tin một cách đầy đủ, hiệu quả, đòi hỏi công tác thẩm định của
ngân hàng phải cẩn trọng, và hiệu quả. Để nâng cao chất lượng của công tác
thẩm định của chính mình, VNCB cần phải có một bộ phận hệ thống hóa lại
toàn bộ các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định một cách khoa học, làm
thông tin tham vấn cho những cán bộ làm công tác thẩm định, để ngăn ngừa rủi
ro tín dụng cho ngân hàng. Ngoài những thông tin bắt buộc phải thu thập như
thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), thông tin lưu trữ
của ngân hàng, thông tin về tình hình tài chính, phương án/dự án sản xuất kinh
doanh của khách hàng… cán bộ thẩm định cần phải thu thập các thông tin liên
quan đến thị trường, thông tin ngành, thị phần, mức độ cạnh tranh, vòng đời sản
phẩm, nguy cơ bị thay thế của sản phẩm dịch vụ…, từ những thông tin có được
cán bộ thẩm định đánh giá khách hàng để cuối cùng đưa ra kết luận có nên tài
trợ vốn cho khách hàng này không.
- Bên cạnh đó, VNCB cần phải xây dựng chuẩn mực và quy trình thẩm định
khách hàng riêng cho từng nhóm đối tượng khách hàng hoạt động trên từng địa
bàn, nâng cao chất lượng tờ trình thẩm định, loại bỏ các tờ trình thẩm định sơ
sài, chất lượng kém. Cần thiết xây dựng mẫu tờ trình thẩm định những nội dung
thẩm định bắt buộc phải có của chính mình. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm
của cán bộ thẩm định về sự đầy đủ, tính chính xác, trung thực của tờ trình thẩm
định.
Tái định giá giá trị tài sản đảm bảo theo định kỳ: VNCB cần chú trọng tái
định giá tài sản đảm bảo theo định kỳ để xác định lại giá trị thực tế nhằm ngăn
ngừa rủi ro. Với tài sản đảm bảo là máy móc, thiết bị sản xuất chuyên dùng, giá
trị khi đầu tư có thể là khá lớn, tuy nhiên hao mòn vô hình của nó cũng rất lớn.
Hiện nay, các ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi thanh lý tài sản để thu hồi nợ
trong trường hợp khách hàng vay vốn có tài sản đảm bảo là máy móc, thiết bị
chuyên dùng do tính thanh khoản rất kém.
82
- Cần phát huy vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) để giúp
cho VNCB giải quyết nhanh nợ xấu và khai thác tốt các tài sản do ngân hàng xử
lý. Hiện nay Chính phủ đã thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt
Nam (VAMC) nhằm mục đích hỗ trợ các ngân hàng xử lý nợ xấu thông qua việc
bán nợ cho VAMC.
3.2.3.8. Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi nợ
Tuân thủ Quy chế cho vay và Quy trình cấp tín dụng: Để đảm bảo an toàn,
giảm rủi ro trong quá trình cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải luôn tuân thủ Quy chế
cho vay của NHNN và Quy trình cấp tín dụng của VNCB. Tránh tình trạng lạm
dụng chức vụ, quyền hạn cấp những khoản tín dụng không hợp lý, lập hồ sơ giả,
làm gia tăng RRTD ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Kiểm tra giám sát tuân thủ tại chi nhánh phải phát huy tối đa vai trò của mình,
tuân thủ tính độc lập trong kiểm tra, kiểm soát hồ sơ. Hoạt động tín dụng là một
trong những hoạt động có nhiều khả năng xảy ra rủi ro. Do vậy, công tác kiểm tra
giám sát tuân thủ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đảm bảo hoạt động tín dụng đạt
chất lượng cao. Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của công tác kiểm tra giám sát
tuân thủ và kết quả đánh giá chất lượng tín dụng của chi nhánh, thì công tác kiểm
tra giám sát tuân thủ là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất
lượng tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát tuân thủ của chi nhánh cần tiếp tục hoàn
thiện theo hướng sau:
- Kiểm tra sau khi cho vay: kiểm tra việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích,
kiểm tra bảo đảm nợ vay, kiểm tra khả năng thu hồi nợ trên cơ sở theo dõi tình
hình luân chuyển hàng hoá, tình hình tài chính của doanh nghiệp… kịp thời
phát hiện những khoản nợ khó đòi, hoặc khi khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp suy giảm/nguồn thu nhập trả nợ bị ảnh hưởng, thay đổi, NH cần thu hồi
nợ nếu thấy có dấu hiệu không khả quan. Nếu khó khăn là không thể đảo ngược
thì NH cần phải có hành động kịp thời để thu hồi nợ, bảo toàn nguồn vốn cho
vay của NH.
83
3.2.3.9. Nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu
Thành lập bộ phận quản lý nợ
Qua học tập kinh nghiệm của Thái Lan, các NHTM nên tham khảo và thành
lập ra một bộ phận quản lý nợ (Assets Management Division - AMD) hoặc bộ
phận quản lý nợ đặc biệt (Special Assets Management - SAM) để chuyên trách
việc xử lý các khoản nợ xấu.
Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, một số NHTM giao việc xử lý nợ xấu
cho chính các bộ phận đề xuất tín dụng. Tuy nhiên do chính các bộ phận này là
thường không có trình độ chuyên sâu trong lĩnh vực xử lý nợ, đặc biệt là khi liên
quan đến các vấn đề pháp lý, đặc biệt là các vấn đề trước, trong và sau quá trình
tố tụng, do vậy tiến độ và hiệu quả thu hồi nợ xấu chưa cao. Ngoài ra còn có các
hạn chế trong việc đánh giá khách hàng, hoặc các vấn đề về mối quan hệ giữa
bộ phận cho vay và khách hàng.
Nhiệm vụ chính của bộ phận quản lý nợ có vấn đề là theo dõi và quản lý các
khoản nợ bị suy giảm khả năng trả nợ. Với việc hình thành bộ phận này, các
NHTM vừa đảm bảo các chức năng độc lập của các bộ phận, vừa đảm bảo tính
chuyên nghiệp cao, vừa tăng cường khả năng giám sát giữa các bộ phận chức
năng.
Đa dạng hóa các phương thức xử lý nợ xấu
Song song với việc đẩy mạnh công tác xử lý bán TSBĐ để thu hồi nợ vay, để
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý nợ, các NHTM nên chủ động nghiên cứu
và thực hiện đa dạng hóa các hình thức nhằm thu hồi được số nợ nhiều nhất. Cụ
thể:
(i) Ngân hàng có thể đẩy mạnh việc bán các khoản nợ xấu cho VAMC;
(ii) Cải tạo nâng cấp, sửa chữa để góp vốn liên doanh bằng TSBĐ (trong trường
hợp TSBĐ không bán được);
(iii) Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp;
(iv) Khôi phục lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để kinh doanh/ bán…
Chẳng hạn như đối với các khoản nợ xấu của DNNN (kể cả nợ cho vay theo chỉ
định, kế hoạch Nhà nước), Ngân hàng chuyển sang VAMC để tiếp tục theo dõi
84
xử lý theo thẩm quyền. Đối với các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp, tổ chức
cá nhân khác thì Ngân hàng được phép bán nợ cho VAMC, Quỹ hỗ trợ phát
triển, Ngân hàng chính sách, hoặc các doanh nghiệp, cá nhân có chức năng mua
bán nợ. Đối với những khoản nợ xấu của các doanh nghiệp mà Ngân hàng
không chuyển giao cho Công ty mua bán nợ và tổ chức, cá nhân khác thì Nhà
nước cần có cơ chế để Ngân hàng có thể chủ động áp dụng các biện pháp cơ cấu
lại tài chính và hoạt động của doanh nghiệp.
Tái đánh giá lại các khoản vay và cơ cấu lại nợ
Trong bối cảnh nợ xấu đang có chiều hướng gia tăng, việc cơ cấu lại thời hạn
trả nợ cho các khoản vay không trả nợ đúng hạn do tác động của các yếu tố kinh
tế trong nước và quốc tế làm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó
khăn, chậm tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm, ứ đọng tồn kho hàng hóa. Do vậy
ngân hàng cần chủ động phối hợp với khách hàng vay để tháo gỡ khó khăn trong
việc trả nợ và tiếp cận vay vốn, nhằm tạo điều kiện cho khách hàng vay từng
bước phục hồi, duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng trả
nợ, giảm nợ xấu, tiếp tục xem xét cho vay mới đối với các nhu cầu vốn vay có
hiệu quả và đảm bảo khả năng trả nợ.VNCB cần chủ động trong việc tiếp cận
với khách hàng vay gặp khó khăn, để thẩm định lại khả năng hoạt động, thu hồi
vốn, khả năng sinh lợi của dự án, nếu thấy doanh nghiệp có đủ điều kiện thu hồi
nợ thì xem xét cơ cấu lại nợ để doanh nghiệp có vốn hoạt động, qua đó giúp
khách hàng trong việc đối đầu và vượt qua những khó khăn ngắn hạn.
Tuy nhiên việc cơ cấu lại nợ chỉ nên áp dụng áp dụng cho các doanh nghiệp
có những khó khăn tạm thời, có kế hoạch sản xuất kinh doanh, có khả năng khắc
phục được những khó khăn thì ngân hàng mới cơ cấu lại nợ.
3.2.3.10. Xây dựng mô hình ngân hàng theo hướng hiện đại: Đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm chuyển dần cơ cấu lợi nhuận phụ
thuộc vào tín dụng sang thu nhập dịch vụ, đa dạng hóa lĩnh vực cho
vay
- Ngân hàng phải cố gắng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ một đơn vị cho vay
đơn thuần sang cung ứng dịch vụ tài chính rộng lớn và đa dạng hơn, điều này có
85
nghĩa là ngân hàng đang trưởng thành. Tăng thu nhập từ dịch vụ sẽ giúp cho
ngân hàng ổn định về mặt tài chính hơn là chỉ dựa vào nguồn thu nhập duy nhất
từ tín dụng. Khi lệ thuộc thu nhập vào hoạt động cho vay, ngân hàng sẽ mắc kẹt
vào cục nợ xấu hoặc những tài sản không sinh lời.
- Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, VNCB cần khai thác công nghệ hiệu quả
thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công
nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa
dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách
hàng. Công nghệ mới cũng cho phép cải tiến sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
- Việc đầu tư nghiên cứu các sản phẩm mới, phát triển các sản phẩm tạo ra sự
khác biệt giữa các ngân hàng là hết sức quan trọng, khẳng định được vị thế của
ngân hàng và định vị được phân khúc thị trường mà ngân hàng đang nắm giữ.
Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân
tán và hạn chế rủi ro trong quá trình hoạt động. Cần đa dạng hoá sản phẩm dịch
vụ ngân hàng để phân tán rủi ro, tránh tình trạng tập trung quá mức vào một sản
phẩm sẽ dẫn đến rủi ro hoạt động cho ngân hàng rất lớn. Ngân hàng cần triển
khai các sản phẩm có hàmlượng công nghệ cao để khẳng định uy tín, vị thế
ngân hàng trên thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
- Bên cạnh việc phát triển đa dạng hóa các sản phẩm của ngành ngân hàng thì
VNCB cũng cần mở rộng các lĩnh vực cho vay, không nên tập trung cho vay 01
lĩnh vực (BĐS) như thời gian vừa qua. Khi thị trường của lĩnh vực mà chúng ta
cho vay tập trung gặp khó khăn thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dư nợ
của toàn hệ thống. Khi đó không có sự san sẻ lợi nhuận từ các lĩnh vực cho vay
khác để làm giảm kết quả kinh doanh của ngân hàng.
3.3. Kiến nghị đối với NHNN và Chính Phủ
Việc xử lý nợ xấu cần phải có sự phối hợp các giải pháp đồng bộ của bản thân các
NHTM, Chính phủ và NHNN, bên cạnh các giải pháp cho các yếu tố từ môi trường
bên ngòai nêu trên cần sự hỗ trợ tác động từ Chính Phủ và NHNN, tác giả xin đề
xuất thêm một số kiến nghị như sau:
86
3.3.1. Nâng cao năng lực vốn đối với các NHTM
Theo Nghị định 141/2006/ND-CP, yêu cầu tất cả các NHTM phải có vốn
điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng (tương đương 150 triệu USD) vào cuối năm
2010, tuy nhiên sau đó lại cho phép kéo dài thời hạn đến hết năm 2011. Mặc dù
vậy, đến hết năm 2011 vẫn còn 05 ngân hàng chưa đáp ứng được điều kiện này.
Do sức ép phải tái cơ cấu theo lộ trình nên các ngân hàng nhỏ đã tìm các tăng
trưởng tín dụng nóng, tập trung vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán nhiều
rủi ro. Các ngân hàng này thường xuyên đối mặt với tình trạng thiếu thanh
khoản và sử dụng công cụ lãi suất cao để cạnh tranh về huy động vốn hoặc vay
trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất có khi lên cao hơn 30%/năm. Điều
này đã làm cho thị trường tiền tệ luôn bất ổn, ảnh hưởng không nhỏ đến điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Do vậy trong lộ trình tăng vốn pháp định, cần kiên quyết loại bỏ các ngân
hàng có quy mô vốn nhỏ, kinh nghiệm quản trị nội bộ kém, nhân sự và hạ tầng
công nghệ thông tin hạn chế. Vì vậy Nhà nước cần có quy định cụ thể và bắt
buộc trong việc tăng vốn tự có của các NHTM nhằm tăng thêm tiềm lực tài
chính, tăng khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của hệ thống ngân hàng trước
những biến động của thị trường . Việc tăng vốn về nguyên tắc, các NHTM có
thể tăng vốn thông qua các kênh:
i) Tăng vốn Ngân sách Nhà nước cấp (đối với các NHTM nhà nước);
ii) Cổ phần hóa NHTM Nhà nước;
iii) Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với các NHTMCP);
iv) Chỉ đạo và giám sát việc sáp nhập, hợp nhất các NHTM.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là việc tăng vốn phải đi kèm với tăng cường
năng lực quản trị thì mới tận dụng được tính kinh tế nhờ qui mô. Nếu không
đảm bảo được yêu cầu này thì việc tăng vốn sẽ rất có thể dẫn tới làm giảm hiệu
quả, suy yếu năng lực cạnh tranh của chính NHTM. Mức vốn pháp định bắt
buộc được đưa ra dựa trên các tiêu chuẩn an toàn vốn cũng như tốc độ tăng
trưởng tài sản có của các tổ chức tín dụng.
Thứ nhất, là tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), nhằm đảm bảo rủi ro tài sản
87
của ngân hàng phải được cân đối bằng nguồn vốn tự có. Cách thức đánh giá tỷ lệ
này được định nghĩa rõ ràng thông qua Hiệp ước Basel - phương pháp ước định
mức lượng rủi ro mà ngân hàng phải chịu và quy định mức vốn ngân hàng phải
có để có thể kiểm soát được rủi ro.
Thứ hai, là đảm bảo rằng phải có yêu cầu về mức vốn tối thiểu cho các ngân
hàng, giúp mỗi ngân hàng có đủ “lượng vốn cần thiết” để có thể hoạt động hiệu
quả. Điều này nhằm đảm bảo trên thị trường sẽ không có quá nhiều các ngân
hàng rất nhỏ hoạt động không hiệu quả vì quy mô vốn của họ.
Điều cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là cần đảm bảo nguồn
vốn của ngân hàng được phân bổ một cách hiệu quả, tức là các ngân hàng không
nên có lượng vốn “dư thừa” nếu không sẽ làm mất đi sự hấp dẫn của chính mình.
3.3.2. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM
Hiện nay chức năng kiểm tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động tín dụng
tại các NHTM chưa thật sự hiệu quả, chưa đưa ra được những cảnh báo cần thiết
và kịp thời giúp cho các NHTM họat động tốt hơn, an toàn hơn. Hiện nay, việc
kiểm tra, giám sát của NHNN trên địa bàn vẫn còn mang tính hành chính, kiểm
tra theo chu kỳ mang tính cục bộ và thông thường là khi có xảy ra sự cố thì mới
tiến hành kiểm tra mà chưa có những cảnh báo mang tính định hướng chung
nhằm hạn chế rủi ro trong họat động tín dụng cho hệ thống NHTM như cảnh báo
về thị trường, về sự thay đổi của cơ chế chính sách, các thủ thuật âm mưu lừa
đảo của khách hàng... hoặc là đưa ra cảnh báo cho các ngân hàng nào có tốc độ
tăng trưởng dư nợ quá nóng hay có sự cạnh tranh vượt ngưỡng an toàn giữa các
ngân hàng trên địa bàn với nhau. Bên cạnh đó, NHNN còn cần phải yêu cầu các
NHTM quan tâm đến việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro của mình, đồng thời
bên cạnh việc thanh tra và giám sát thông thường thì NHNN cũng phải kiểm tra
việc thực hiện quản trị rủi ro của các NHTM như thế nào, từ đó có thể đưa ra các
cảnh báo cho các NHTM về những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống của các
NHTM. Có như vậy thì công tác thanh tra và giám sát của NHNN mới thật sự có
hiệu quả.
Tiếp tục triển khai đổi mới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Cần nâng
88
cao chất lượng thanh tra bằng cách nắm bắt kịp thời các nghiệp vụ kinh doanh,
dịch vụ NH hiện đại, áp dụng công nghệ mới nhằm giám sát liên tục các NHTM
dưới hai hình thức là thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa. Thanh tra tại chỗ sẽ
nâng cao hiệu lực cho việc xử lý các vi phạm dựa trên các tài liệu chứng minh
không tuân thủ các quy định pháp luật do nguyên nhân khách quan hay chủ quan
làm cơ sở để áp dụng các chế tài cụ thể. Giám sát từ xa giúp cảnh báo kịp thời
những sai phạm để các NHTM có biện pháp ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Triển khai thanh tra, giám
sát một cách thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm đối với các TCTD. Xử lý kiên
quyết, kịp thời các sai phạm phát hiện qua thanh tra.
Nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng. Chương trình thanh tra cần được xây dựng
chi tiết, khoa học, thông tin được thu thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang
tính hình thức; nội dung thanh tra phải cải tiến để đảm bảo kiểm soát được
NHTM, thể hiện vai trò cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro, không gây
ảnh hưởng đến các hoạt động của các NHTM.
Ổn định bộ máy tổ chức Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Tăng cường
số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Thực
hiện có hiệu quả việc phân công cán bộ thanh tra theo dõi và chịu trách nhiệm an
toàn của từng chi nhánh, đơn vị tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đồng thời, cần
hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi nhánh NHNN để đảm bảo tính khách
quan và tạo môi trường hoạt động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau
dồi thêm nghiệp vụ, xử lý tình huống.
NHNN phải có cơ chế kiểm soát và biện pháp ngăn chặn những trường hợp
cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM với nhau đặc biệt là những thị
trường lớn như TPHCM và Hà Nội. Cần có sự kiểm tra giám sát những NHTM
có tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, rà soát lại các văn bản chỉ đạo công
tác tín dụng nội bộ của các NHTM xem có vượt những quy định của NHNN hay
không.
89
3.3.3. Cải thiện và nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng NHNN
(CIC)
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển, các chuyên gia ngân hàng cho rằng, CIC
cần phải xây dựng được một kho dữ liệu phong phú, đa dạng và chất lượng hơn;
cần tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông tiên tiến, hiện đại, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm thu thập để nâng cao khả năng và tốc độ xử
lý thông tin phục vụ công tác điều hành và cung cấp cho các khách hàng. Một số
ý kiến cho rằng, CIC cần phát triển mô hình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, mô
hình chấm điểm tín dụng thể nhân tại CIC; liên kết hệ thống xếp hạng, chấm
điểm tín dụng của CIC với các tổ chức tín dụng; đa dạng các kênh cung cấp &
dịch vụ thông tin đảm bảo an toàn, bảo mật, công khai; nâng cao độ chuẩn dữ
liệu đạt chuẩn quốc tế để phục vụ tốt công tác quản lý điều hành của Ngân hàng
Nhà nước và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.Bên cạnh những yêu
cầu trên, trong thời gian tới, CIC cần chú trọng hơn đến độ chính xác của thông
tin trong thu thập và xử lý; tăng tính kiểm soát và đẩy mạnh hợp tác công - tư để
quản lý toàn diện thông tin về khách hàng vay; chú trọng đến tính đầy đủ khi bổ
sung các loại thông tin có đủ phân tích xã hội, chấm điểm tín dụng đủ cơ sở tin
cậy cho các tổ chức có thể quyết định cấp tín dụng.
90
Tóm tắt chương 3
Trong bối cảnh môi trường kinh doanh chưa có nhiều dấu hiệu phục hồi,
VNCB cần phải chú trọng việc phòng ngừa nợ xấu phát sinh thông qua việc nâng
cao hơn nữa công tác quản trị rủi ro nhằm hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh.
Trong chương III, tác giả đã nêu ra các giải pháp để quản trị nợ xấu cho
VNCB, bao gồm các giải pháp chung cho toàn ngân hàng như: giải pháp từ môi
trường bên ngoài, đối với khách hàng và nhóm các giải pháp nội bộ nhằm nâng cao
chất lượng quản trị nợ xấu. Bên cạnh đó, do bản thân VNCB cũng như các NHTM
không thể tự mình giải quyết được vấn đề nợ xấu mà cần phải có sự phối hợp các
giải pháp đồng bộ của Chính phủ và NHNN, do vậy người viết đồng thời cũng kiến
nghị các giải pháp đối với Chính phủ và NHNN như: Nâng cao năng lực vốn đối
với các NHTM, Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM
….
91
KẾT LUẬN
Nợ xấu trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng là thực tế khách quan trong quá trình
hoạt động của các NHTM, nhưng không vì thực tế khách quan này mà VNCB có
thể lơ là trong quản trị nợ xấu. Ngăn ngừa và xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa tài
chính của VNCB là một trong những trọng tâm lớn trong quá trình hoạt động kinh
doanh, khãng định vị thế của riêng VNCB cũng như tiến trình tái cơ cấu NHTM
hiện nay. Với mục tiêu đề tài đặt ra là nghiên cứu nhằm phân tích, đánh giá thực
trạng nợ xấu và đề ra các giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ xấu, kết quả nghiên cứu
đề tài đã đạt được một số vấn đề cơ bản sau đây:
Luận văn đã làm rõ khái niệm nợ xấu, nguyên nhân phát sinh và tác động của
nợ xấu đến bản thân NHTM, người đi vay và cả đối với nền kinh tế cả về mặt lý
luận và thực tiễn
Luận văn đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của VNCB từ
2008 –2012, đi sâu phân tích các nguyên nhân thực tế dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao
như hiện nay của VNCB.
Luận văn đã tập trung đề xuất các giải pháp mang tính phòng ngừa và đặc
biệt là các giải pháp nhằm xử lý nợ xấu dựa trên các nhóm nguyên nhân phát sinh
thực tế. Đồng thời đưa ra kiến nghị đối với NHNN và Chính Phủ.
Với thời gian nghiên cứu có hạn mà phạm vi kiến thức khá rộng lớn, đề tài
chắc không tránh khỏi một số quan điểm chủ quan cũng như kết quả nghiên cứu sẽ
không tránh khỏi sự cục bộ khi chỉ bằng một số nghiên cứu trong phạm vi hẹp. Tác
giả xin trân trọng đón nhận mọi ý kiến đóng góp và phê bình của các Thầy Cô để
khắc phục hạn chế và hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
92
Tài liệu tham khảo
1. Lê Thị Tuyết Hoa, Tiền tệ Ngân hàng, 2011
2. Nguyễn Đăng Dờn (2010), Quản trị Ngân hàng thương mại hiện đại, NXB
Phương Đông
3. Nguyễn Đăng Dờn (2011), Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Đại học
quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
4. Nguyễn Hữu Nghĩa (2012), Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt
Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước
5. Nguyễn Thị Hoài Thương, 2011. Áp dụng những nguyên tắc của Basel trong
quản lý nợ xấu NHTM. Tạp chí ngân hàng, số 5, trang 25-31
6. Nợ xấu Ngân hàng giải quyết bằng cách nào, NXB Thanh niên, 2012
7. Trần Huy Hoàng, Basel và tiến trình hội nhập vào hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam
8. Trần Huy Hoàng (2008), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Lao động Xã
hội
9. Trần Chí Chinh, 2012, Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu của hệ thống ngân
hàng Việt Nam hiện nay. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 77, trang 32-39
10. Website Ngân hàng Nhà nước: http://www.sbv.gov.vn, các quyết định, thông tư
của NHNN
11. Website Tổng Cục Thống Kê: http://www.gso.gon.vn
12. Website VNCB: http://www.vncb.vn
13 . Website: http://www.vietcombank.com.vn/news/vcb.aspx?ID=3749
http://www.vcci.com.vn/dau-tu-tai-chinh/201303200838173/no-xau-
ngan-hang-giai-phap-nao-la-kha-thi.htm
http://vietbao.vn/Kinh-te/Nguyen-nhan-cua-van-de-no-xau-co-quy-
mo-lon-o-Viet-Nam/20618415/90/
http://vneconomy.vn/20131112040459134P0C6/no-xau-ngan-hang-le-
ra-da-gap-ba-hien-tai.htm
93
http://www.thoibaonganhang.vn/tin-tuc/2-xu-ly-no-xau--mot-nam-
nhin-lai-8013.html
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-
VN/61/43/2/97/97/215467/Default.aspx
http://www.tapchitaichinh.vn/Nghien-cuu-dieu-tra/Mot-so-van-de-ve-
no-xau-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc/16280.tctc
http://dantri.com.vn/su-kien/no-xau-cao-do-ngan-hang-rot-tien-vao-
linh-vuc-nhieu-rui-ro-632230.htm
PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CHUYÊN GIA THAM KHẢO Ý KIẾN
TT HỌ TÊN CHỨC VỤ ĐƠN VỊ CÔNG TÁC
Lê Gia Phát 1 2 Nguyễn Lợi 3 Phạm anh Hùng 4 Phạm Anh Trung Phan Thành Trí 5 6 Nguyễn Trung Quân 7 Huỳnh Công Lợi 8 Nguyễn Xuân Cảnh Chánh Thanh tra Phó Giám đốc Giám đốc PGD Vũng Tàu Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu
9 Trần Hiếu Nhân Phó Giám đốc
Phạm Xuân Đỉnh
NHNN BRVT NHNN BRVT ACB SHB OCB TechcomBank VietinBank VietcomBank AgriBank Vũng Tàu SeaBank Citi Bank BIDV ACB Giám đốc chi nhánh Vũng Tàu Chuyên viên thanh toán quốc tế Chuyên viên tín dụng Trưởng phòng tín dụng cá nhân
HSBC Trưởng phòng tín dụng 14 10 11 Nguyễn Duy Khoa 12 Hoàng Thị Trâm 13 Trần Chánh Thành Nguyễn Thị Trầm Hương
15 Phan Ngọc Thu Vân Trưởng Phòng Tài chính Doanh Nghiệp
16 Giám Đốc Quan Hệ Khách Hàng Trương Thị Mai Phương
17 Đỗ Cẩm Hà Giám Đốc Quan Hệ Khách Hàng
18 Lê Thái Bích Giám Đốc Quan Hệ Khách Hàng
19 Hoàng Thị Ân
20 Bùi Trần Lê Vũ
21 Phạm Quang Chánh 22 Phạm Quang Bình 23 Nguyễn Chí Thanh 24 Ngô Trí Đức 25 Đỗ Hoàng Linh Ngân hàng Sumitomo Ngân hàng Sumitomo Ngân hàng Chinatrust Ngân hàng ANZ VN VCB Ngân hàng ANZ VN VNCB VNCB VNCB VNCB VNCB
26 VNCB Nguyễn Thị Xuân Mai 27 Nguyễn Thị Tâm VNCB Chuyên viên kiếm soát tín dụng Giám Đốc quan hệ khách hàng doanh nghiệp lớn Chuyên viên tín dụng Chuyên viên tín dụng Giám đốc Chi nhánh Cà Mau Phó Tổng Giám đốc Phó Tổng Giám đốc Giám đốc Khối Kiểm tra – Giám sát Phó Tổng Giám đốc
28 VNCB Giám đốc Chi nhánh Đà Nẵng Nguyễn Trùng Phương
29 Nguyễn Thành Công VNCB VNCB 30 Hoàng Đình Quyết Giám đốc Chi nhánh Đồng Nai Giám đốc Chi nhánh Sài Gòn
PHỤ LỤC 2A: MẪU PHIẾU LẤY Ý KIẾN CHUYÊN GIA VỀ CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NỢ XẤU
Tôi tên Điền Thanh Hải, là học viên của Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp Hồ Chí Minh - HUTECH. Tôi đang tiến hành một chương trình khảo sát về Các giải pháp Quản trị nợ xấu của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam - VNCB. Trước khi đưa ra các giải pháp, cần phải xem xét các nguyên nhân phát sinh nợ xấu. Để có cơ sở đưa ra những nguyên nhân chủ yếu gây nên nợ xấu, tôi đánh giá tầm qua trọng của các nguyên nhân gây nên nợ xấu. Bảng dưới đây liệt kê những yếu tố gây nên nợ xấu từ môi trường kinh doanh & từ phía khách hàng, quý vị công tác trong và ngoài VNCB cho ý kiến đánh giá về: Tầm quan trọng của các yếu tố bên ngoài chủ yếu, được cho điểm từ 1 – 5 bằng cách đánh ký hiệu √ vào các cột tương ứng với yếu tố được liệt kê. Điểm 1 Điểm 3 Điểm 4 Điểm 5 Điểm 2 Quan trọng ít Quan trọng Khá quan trọng Rất quan trọng Vô cùng quan trọng
Bảng 1: Các yếu tố bên ngoài chủ yếu Mức độ quan trọng 2 5 TT Các yếu tố bên ngoài chủ yếu
Quan trọng Vô cùng quan trọng 1 Quan trọng ít 3 Khá quan trọng 4 Rất quan trọng
Yếu tố từ môi trường kinh doanh 1 2 3
4
5
6 Khủng hoảng kinh tế Chính sách nới lỏng tiền tệ Tăng trưởng kinh tế chậm Tình hình tài chính của khách hàng vay suy giảm Tình trạng sở hữu chéo giữa các Ngân hàng Bất cập trong các quy định về xử lý tài sản đảm bảo Yếu tố từ phía khách hàng vay
7
Hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, quản lý yếu Sử dụng vốn sai mục đích Thông tin bất cân xứng
8 9 10 Đạo đức uy tín của khách hàng vay Tiếp theo là bảng liệt kê những yếu tố gây nên nợ xấu từ môi trường nội bộ của VNCB, xin quý vị công tác tại VNCB cho ý kiến đánh giá về: Tầm quan trọng của các yếu tố nội bộ chủ yếu, được cho điểm từ 1 – 5 bằng cách đánh ký hiệu √ vào các cột tương ứng với yếu tố được liệt kê. Quý vị công tác ngoài hệ thống
Bảng 2: Các yếu tố bên trong chủ yếu Mức độ quan trọng 2 5 TT Các yếu tố từ môi trường nội bộ chủ yếu
1 Quan trọng ít Quan trọng 3 Khá quan trọng 4 Rất quan trọng Vô cùng quan trọng Tăng trưởng tín dụng nóng
1 2 Quản trị rủi ro kém 3 Quy trình cho vay lỏng lẻo 4 Chưa xây dựng được hệ thống cảnh báo nợ xấu 5 Không đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực và đối tượng cho vay 6 Mô hình, chiến lược kinh doanh của Ngân hàng 7 Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng
8
còn nhiều hạn chế Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ Ngân hàng 9 Lãi suất cho vay 10 Tình trạng "sân sau"
Họ tên người được phỏng vấn: ………………………………………………………. Chức vụ công tác: …………………………………………………………………… Công ty:………………………………………………………………………………. Địa chỉ:………………………………………………………………………………..
Email:…………………………………………………………………………………
Trong quá trình đánh giá, nếu có thắc mắc, xin liên hệ điện thoại hoặc email: thanhhaivt196@yahoo.com.vn;. Hoặc ghi vào phiếu thăm dò để tác giá có thể giải thích và trao đổi kỹ hơn.
Xin chân thành cảm ơn và xin chúc Quý vị thành công trong công việc.
PHỤ LỤC 2B: KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NỢ XẤU Bảng 1: Kết quả khảo sát các nguyên nhân bên ngoài chủ yếu
Bảng 2: Kết quả khảo sát các nguyên nhân nội bộ chủ yếu
PHỤ LỤC 3A: MẪU PHIẾU LẤY Ý KIẾN CHUYÊN GIA VỀ CÁC GIẢI PHÁP CHO QUẢN TRỊ NỢ XẤU
Tôi tên Điền Thanh Hải, là học viên của Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp Hồ Chí Minh - HUTECH. Tôi đang tiến hành một chương trình khảo sát về Các giải pháp Quản trị nợ xấu của Ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam - VNCB. Dựa trên kết quả kháo sát các nguyên nhân gây nên nợ xấu, tôi xin đưa ra những giải pháp quản trị nợ xấu. Việc đưa ra các giải pháp quản trị nợ xấu không theo từng nguyên nhân gây nên nợ xấu, mà tôi xin đề xuất một nhóm giải pháp cho một nhóm nguyên nhân, vì giải pháp này có thể vừa cho nguyên nhân này vừa cho nguyên nhân khác, hoặc cần hơn một giải pháp cho một nguyên nhân. Bảng dưới đây liệt kê những giải pháp cho các nhóm nguyên nhân gây nên nợ xấu từ môi trường kinh doanh & từ phía khách hàng, quý vị công tác trong và ngoài VNCB cho ý kiến đánh giá về: Tầm quan trọng của các giải pháp cho các yếu tố bên ngoài chủ yếu, được cho điểm từ 1 – 5 bằng cách đánh ký hiệu √ vào các cột tương ứng với yếu tố được liệt kê. Điểm 1 Điểm 2 Điểm 3 Điểm 4 Điểm 5
Vô cùng quan trọng, mang Quan trọng ít Quan trọng Khá quan trọng Rất quan trọng tính cấp bách
Bảng 1: Các giải pháp cho các yếu tố bên ngoài chủ yếu Mức độ quan trọng 1 2 3 4
TT Các giải pháp cho nhóm yếu tố bên ngoài chủ yếu
Quan trọng ít Khá quan trọng Rất quan trọng Quan trọng 5 Vô cùng quan trọng, mang tính cấp bách
Yếu tố từ môi trường kinh doanh 1 Cơ cấu lại nợ & phát triển thị trường
2
mua bán nợ Tăng cường vai trò điều tiết, quản lý, điều hành của Chính phủ với các NHTM 3 Minh bạch hoá và chi tiết hệ thống thông tin 4 Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM 5 Hoàn thiện và cải tiến hành lang pháp lý về xử lý nợ 6 Giải pháp khơi thông thị trường bất
động sản Yếu tố từ phía khách hàng vay 7 Hỗ trợ từ chính phủ đối với khách hàng Tư vấn về nợ, phân loại nợ đối với 8 khách hàng
9 Kiểm soát nguồn tiền giải ngân 10 Cập nhật thông tin thường xuyên liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng
Bảng 2: Các giải pháp cho các yếu tố nội bộ chủ yếu Mức độ quan trọng 1 2 3 4
TT Các giải pháp cho nhóm yếu tố từ môi trường nội bộ chủ yếu
Quan trọng ít Khá quan trọng Rất quan trọng Quan trọng 5 Vô cùng quan trọng, mang tính cấp bách
1 Hoàn thiện quy trình tín dụng 2 Kiểm soát thẩm quyền phê duyệt tín dụng 3 Nâng cao công tác quản trị rủi ro tín
dụng 4 Thiết lập hệ thống dự báo tín dụng 5 Hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ
6 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 7 Nâng cao chất lượng thẩm định và tái
8 định giá giá trị tài sản đảm bảo Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi nợ
9 Nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu 10 Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Họ tên người được phỏng vấn: ………………………………………………………. Chức vụ công tác: …………………………………………………………………… Công ty:………………………………………………………………………………. Địa chỉ:………………………………………………………………………………..
Email:…………………………………………………………………………………
Trong quá trình đánh giá, nếu có thắc mắc, xin liên hệ điện thoại hoặc email: thanhhaivt196@yahoo.com.vn;. Hoặc ghi vào phiếu thăm dò để tác giá có thể giải thích và trao đổi kỹ hơn.
Xin chân thành cảm ơn và xin chúc Quý vị thành công trong công việc.
PHỤ LỤC 3B: KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁC GIẢI PHÁP CHO CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NỢ XẤU
Bảng 1: Kết quả khảo sát các giải pháp cho nguyên nhân từ bên ngoài:
Bảng 2: Kết quả khảo sát các giải pháp cho nguyên nhân từ nội bộ VNCB: