BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
------------------------
LÊ THỊ XUÂN
QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG XÉT XỬ
GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI, NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
------------------------
LÊ THỊ XUÂN
QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG XÉT XỬ
GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 8380102
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN
HÀ NỘI, NĂM 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan, không
trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố. Các thông
tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Xuân
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, cho phép tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người
hướng dẫn khoa học TS. Mai Đắc Biên đã tận tình hướng dẫn và đóng góp
nhiều ý kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Cũng cho phép tôi xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học
viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các giảng viên các
khoa, phòng thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình giảng dạy và
tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất các thầy giáo,
cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng chí và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của
các thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên
quý báu cho tôi hoàn thành luận văn này!
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Xuân
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................. vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................ viii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ. ........................... 10
1.1. Khái niệm vụ việc dân sự ................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm việc dân sự ............................................................ 10
1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự ........................................................... 12
1.2. Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ việc dân sự ................................... 15
1.2.1 Khái niệm giám đốc thẩm ........................................................ 15
1.2.2 Thủ tục giám đốc có những nội dung sau [17] ......................... 15
1.3. Thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự ....................................................... 27
1.3.1 Khái niệm thủ tục tái thẩm: ...................................................... 27
1.3.2 Thủ tục tái thẩm có những nội dung sau: ................................. 27
1.4. Quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc
dân sự ..................................................................................................... 30
1.4.1. Khái niệm quyền của đương sự ............................................... 30
1.4.2. Khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm ................................................................................................. 31
1.4.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền đương sự trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ..................................................... 32
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................. 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM
ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN
iv
DÂN TỐI CAO ........................................................................................... 34
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của đương sự trong giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ........................................................... 34
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ......... 34
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2005- 2011 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 có hiệu lực cho đến trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2011) ....... 37
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2012-2015 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa
đổi, bổ sung năm 2011 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015) ........................................................................................ 38
2.1.4 Giai đoạn từ 1/7/2016 đến nay (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 có hiệu lực đến nay) ......................................................... 40
2.2. Những quyền cơ bản của đương sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ
việc dân sự theo pháp luật hiện hành. ..................................................... 41
2.2.1 Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.41
2.2.2 Quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và
nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự; ....................... 43
2.2.3. Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm ............................................................................ 45
2.2.4. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .. 47
2.2.5 Quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi
được triệu tập ................................................................................... 48
2.2.6 Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi
được yêu cầu .................................................................................... 51
2.3 Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án
nhân dân tối cao. .................................................................................... 53
2.3.1. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao trong
v
tiếp nhận, giải quyết đơn, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự .......................................................................... 53
2.3.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự
trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở Tòa án nhân
dân tối cao. ...................................................................................... 56
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................. 67
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC
DÂN SỰ ...................................................................................................... 69
3.1 Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quyền đương sự trong
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao69
3.1.1 Khó khăn, vướng mắc từ những quy định của pháp luật .......... 69
3.1.2 Khó khăn, vướng mắc từ tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và
các biện pháp bảo đảm...................................................................... 71
3.1.3 Khó khăn vướng mắc từ phía đương sự ................................... 74
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của đương sự
trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao.75
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật ........................................... 75
3.2.2 Giải pháp tổng kết thực tiễn công tác xét xử Giám đốc thẩm, tái
thẩm rút kinh nghiệm xét xử, đưa ra văn bản hướng dẫn pháp luật áp
dụng thống nhất trong toàn hệ thống; xây dựng hệ thống án lệ. ........ 77
3.2.3 Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thực hiện. ............................. 78
3.2.4 Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát hoạt
động tư pháp đối với việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật mà Tòa án đã xử. ......................................................... 80
3.2.5 Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại
biểu dân cử, nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng. ................................................................................................. 80
vi
3.2.6. Sử dụng kết quả giám đốc thẩm là tiêu chí để đánh giá trực tiếp
chất lượng Cán bộ, công chức........................................................... 83
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................. 85
KẾT LUẬN ................................................................................................. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 91
PHỤ LỤC MỘT SỐ VỤ ÁN MÀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ĐÃ
XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM ............................................. 94
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT
TẮT
BLDS Bộ Luật dân sự
BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
GĐT,TT Giám đốc thẩm, tái thẩm
HĐXX Hội đồng xét xử
HĐTP Hội đồng thẩm phán
NQ Nghị quyết
QĐ Quyết định
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao
TAND Tòa án nhân dân
TCTAND Luật tổ chức Tòa án nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
LTCTAND Luật tổ chức Tòa án nhân dân
viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự của hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ................................................................ 58
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn (tính cấp thiết của đề tài luận văn)
Quyền con người, quyền công dân là quyền hiến định trong Hiến pháp
năm 2013 của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 14 Hiến pháp
khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiện
thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong Hiến
pháp, Điều 2 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về việc Nhà nước
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của con người, của
công dân: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (CHXHCN) thực hiện
quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều 2. Luật tổ
chức Tòa án nhân dân (LTCTAND) năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân như sau: Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc
khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các
tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả
tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc
2
không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ
về tài sản, quyền nhân thân.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Bảo vệ quyền con người thông qua chức năng thực hiện quyền tư pháp
mà cụ thể là thông qua việc xét xử trong lĩnh vực tố tụng dân sự là nội dung
lớn trong hoạt động của ngành Tòa án, được thực hiện theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự. Khoản 2, Điều 13 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (
BLTTDS 2015) quy định: “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Tòa án thực hiện
nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực dân sự bằng việc xét xử các vụ việc dân sự.
Việc xét xử vụ việc dân sự được thực hiện ở hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật khi đã hết
thời hiệu kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Bản án,
quyết định của Tòa phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi quyết định. Việc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm là
trình tự đặc biệt, do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và Tòa án nhân dân
cấp cao (TANDCC) thực hiện trong những trường hợp do pháp luật quy định.
Việc xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhằm bảo đảm triệt để việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ việc dân sự.
Thực hiện quy định Hiến pháp 2013, Luật TCTAND 2014 và BLTTDS
2015, những năm qua, ngành Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân tối
cao, TAND cấp cao đã có những hoạt động tích cực nhằm thành lập hệ thống
Tòa án nhân dân cấp cao, tổ chức lại bộ máy, nâng cao trình độ quản lý, điều
hành, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, bảo đảm thực hiện tốt chức năng xét
3
xử. Do vậy, chất lượng hoạt động xét xử ở các cấp Tòa án đã được nâng cao
rõ rệt, quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự nói chung và
trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng được bảo đảm; nhiều vụ việc
dân sự phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, nâng cao uy tín của ngành TAND, góp
phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, thúc đẩy sự
phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quyền của đương sự trong các vụ việc dân
sự được xét xử ở trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đôi khi vẫn còn chưa được
bảo đảm một cách triệt để vì nhiều nguyên nhân khác nhau [17], [18].
Vấn đề quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ
việc dân sự cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau, ở nhiều công trình khoa học khác nhau, như sách chuyên khảo, giáo
trình, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các bài báo trên các tạp chí chuyên
ngành, như: Cuốn sách về “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự”của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải
quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực
trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị. “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của Đào Xuân Tiến, Luận
án tiến sĩ Luật học năm 2009 [19]. Tác giả đã trình bày khái niệm về thủ tục
xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng
dân sự, phân tích pháp luật tố tụng dân sự, thực trạng áp dụng của Toà án và
một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết định về dân sự
của Toà án; “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự” của Hà
Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2007. Luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục giám đốc
thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế
4
giới; “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật dân sự hiện hành”
của Chu Thị Hồng Nhung, luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 [14].
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung vào
trình tự, thủ tục tố tụng giám đốc thẩm vụ án dân sự, mặc dù cũng có đề cập
đến quyền của đương sự trong thủ tục giám đố thẩm nhưng còn chưa đầy đủ.
Trong thực tiễn hiện nay, vấn đề tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng phức tạp
do ảnh hưởng từ sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Vấn đề
quyền con người, quyền công dân nói chung cũng như quyền của đương sự
trong các vụ việc dân sự do Tòa giám đốc thẩm, tái thẩm giải quyết về cơ bản
đã được bảo đảm, tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp vi phạm, ảnh hưởng
đến quyền của đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu về quyền của đương sự
trong trình tự xét xử giám đốc thẩm là một vấn đề cấp thiết, đáp ứng cả về
mặt lý luận cũng như thực tiễn trong công tác xét xử các vụ việc dân sự. Vì lý
do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền của đƣơng sự trong xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự ở Tòa án nhân dân tối cao” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật Hành chính tại
Học viện Hành chính Quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, những vấn đề có liên quan đến quyền của đương
sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu với nhiều công trình, bài viết ở các khía cạnh
khác nhau, như:
+ “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ
án dân sự”, sách chuyên khảo của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải
quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực
trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị;
5
+ “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của Đào Xuân Tiến, Luận án
tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009. Tác giả đã đưa
ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích pháp luật tố tụng kinh tế, dân
sự, thực trạng áp dụng của Toà án và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ
tục xét lại bản án, quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án;
+ “Giám đốc thẩm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Mai Ngọc Dương, Luận án tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2008. Luận án giải quyết một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự và nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành
Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm [6], [7];
+ “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự” của Hà
Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2007. Luận văn tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục giám đốc
thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao” do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm
chủ nhiệm đề tài của TANDTC năm 2012. Tác giả đã đưa ra các khái niệm về
đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, thực trạng giải quyết trong những năm
qua, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật nhằm nâng
cao chất lượng giải quyết đơn của đương sự [5];
+ “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” của Hà Thị Thúy
Hà, luận văn thạc sĩ luật học năm 2012.
+ “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật dân sự hiện
hành” của Chu Thị Hồng Nhung, luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 [14].
6
Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong
các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như bài “Chế định giám đốc thẩm, tái
thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành” của tác giả Trần Anh Tuấn
đăng trên Tạp chí Luật học số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; bài “Một
số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang Hiền đăng
trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 4 năm 2009....; Chuyên đề “Thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng
thẩm phán TANDTC” của tác giả Trần Anh Tuấn trong cuốn Bình luận khoa
học BLTTDS sửa đổi năm 2011; “Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 về đảm bảo quyền công dân trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự”, của
TS Nguyễn Hải An trong Tạp chí Tòa án [26], [27].
Tuy nhiên, vấn đề quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao trong những năm qua, nhất là thực tiễn thi
hành BLTTDS năm 2015 theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 đến nay chưa có nhà khoa học nào nghiên
cứu, luận giải. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề quyền của đương sự trong xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao vẫn là
một đòi hỏi của xã hội và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Tên đề tài Luận văn không trùng với các đề tài, công trình khoa học đã
được công bố trước đó ở trong và ngoài nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ,
việc dân sự tại TANDTC đồng thời phân tích, luận giải, đánh giá những điểm
hạn chế, vướng mắc theo quy định của pháp luật hiện hành về quyền của
đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm từ đó đưa ra giải pháp
7
nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ việc dân sự.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải
quyết những vấn đề cụ thể sau:
Làm rõ cơ sở lý luận về quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự như khái niệm, trình tự thủ tục giải quyết, thẩm
quyền của TANDTC, quyền của đương sự trong giai đoạn GĐT, TT.
Làm rõ sự hình thành và phát triển quyền của đương sự trong GĐT,
TT theo pháp luật Việt Nam, phân tích đánh giá những ưu điểm, nhược điểm
của pháp luật hiện hành.
Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền của
đương sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là những quy định của pháp luật và tình hình
thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền của
đương sự trong giai đoạn GĐT, TT tại cơ quan TANDTC.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về quyền của đương sự
trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự theo quy định của
BLTTDS năm 2015 và thực tiễn hoạt động xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ
việc dân sự từ năm 2015 đến nay. Do BLTTDS năm 2015 được thi hành trên
thực tiễn chưa lâu nên trong luận văn có sự phân tích, so sánh, đánh giá với
những quy định về quyền của đương sự trong BLTTDS năm 2004 và thực
tiễn áp dụng từ năm 2013.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
8
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, cải cách tư pháp, nâng
cao hiệu quả công tác xét xử nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của công
dân nói chung và quyền của đương sự trong xét xử các vụ, việc dân sự nói
riêng.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh - đối
chiếu, kết hợp lý luận và thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn
diện các vấn đề về trình tự thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự;
làm rõ những vấn đề về quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự tại TANDTC trong bối cảnh thi hành Hiến pháp 2013,
Luật TCTAND năm 2014 và BLTTDS năm 2015.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn giúp người đọc hình dung thực tiễn, quy
trình thủ tục GĐT, TT vụ án dân sự tại TANDTC; hiểu rõ quyền của đương
sự trong giai đoạn này cũng như thấy được những hạn chế, tồn tại và
nêu lên một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế về quyền của đương
sự trong giai đoạn GĐT, TT nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ việc dân sự.
9
- Chương 2: Thực trạng quyền của đương sự trong giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao
- Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực thiện hiệu quả quyền của đương
sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.
10
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ.
1.1. Khái niệm vụ việc dân sự
1.1.1. Khái niệm việc dân sự
Khái niệm “vụ việc dân sự” lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTDS
năm 2004 và được kế thừa tại BLTTDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 1
BLTTDS năm 2015 về phạm vi và nhiệm vụ của BLTTDS: “Bộ luật tố tụng
dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ
tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án
về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
(sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải
quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự);…”. Để làm rõ khái niệm
“vụ việc dân sự”, trước tiên chúng ta cần làm rõ khái niệm “việc dân sự” và “
vụ án dân sự” [16].
Theo quy định tại Điều 361 BLTTDS năm 2015 thì: “Việc dân sự là
việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án
công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công
nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động” [17].
Như vậy, trong “ việc dân sự” không có yếu tố tranh chấp giữa các
đương sự về quyền và lợi ích trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Việc phân biệt được vấn đề trên có ý nghĩa
trong việc xác định trình tự, thủ tục giải quyết đối với từng vụ, việc cụ thể. Do
yếu tố không có tranh chấp về quyền và lợi ích nên việc dân sự được giải
11
quyết theo trình tự, thủ tục đơn giản hơn so với vụ án dân sự, giúp giảm bớt
gánh nặng cho tòa án cũng như sự phiền hà cho đương sự. Việc dân sự không
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nên có những đặc trưng khác biệt so với
thủ tục giải quyết vụ án dân sự, cụ thể:
+ Thời hạn giải quyết việc dân sự ngắn hơn so với thời hạn giải quyết
vụ án dân sự, theo đó, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn
yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm
phán giải quyết đơn yêu cầu. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội
dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 của BLTTDS thì Thẩm phán yêu
cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS. Trường hợp người yêu cầu thực
hiện đầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý
việc dân sự. Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo
đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thông báo cho người yêu cầu về việc
nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn
hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; Tòa án
thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí
yêu cầu giải quyết việc dân sự; Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho
Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu; Thời hạn chuẩn
bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu, trừ
trường hợp BLTTDS có quy định khác; Tòa án phải mở phiên họp để giải
quyết việc dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên
họp.
+ Thành phần giải quyết việc dân sự không có Hội thẩm tham gia, chỉ
12
có Thẩm phán, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; Người yêu cầu hoặc
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên
họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp.
+ Tòa án mở phiên họp để giải quyết việc dân sự chứ không mở phiên
tòa như trình tự tố tụng đối với việc giải quyết vụ án dân sự.
+ Kết quả giải quyết việc dân sự được tòa án ban hành dưới hình thức “
Quyết định”, chứ không phải “ Bản án” trong vụ án dân sự.
+ Thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm quyết định giải quyết việc
dân sự được quy định 7 ngày,ngắn hơn so với 15 ngày đối với thời hạn kháng
cáo, kháng nghị bản án trong vụ án dân sự.
Từ những nội dung, đặc điểm nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái
niệm việc dân sự như sau: “Việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân không
có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”.
1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự
Vụ án là một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật có tính chất hình sự
hoặc có tính chất dân sự (tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật) được đưa ra
tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Khái niệm vụ án dân sự là một khái
niệm hẹp hơn so với khái niệm vụ án. Theo quy định tại Điều 1. BLTTDS về
phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của BLTTDS, thì BLTTDS quy định trình tự,
thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (vụ án dân sự). Như vậy,
vụ án dân sự là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, phát
sinh trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
13
động, được các chủ thể khởi kiện ra Tòa án để giải quyết. Ở vụ án dân sự thì
luôn có tranh chấp xảy ra và tính chất của nó là giải quyết về các tranh chấp
giữa cơ quan, tổ chức và cá nhân với nhau. Tòa án giải quyết trên cơ sở bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền và buộc người có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ [17].
Chủ thể của vụ án dân sự là nguyên đơn và bị đơn, bao gồm những cá
nhân, cơ quan hoặc tổ chức tham gia vào các giao dịch dân sự hay có những
quyền và lợi ích dân sự liên quan đang bị xâm phạm, tranh chấp hoặc có thể
sẽ bị xâm phạm, tranh chấp cần giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đó gọi
là đương sự trong vụ án dân sự.
Ngoài ra, trong tố tụng dân sự còn có một thành phần quan trọng tham
gia vào việc giải quyết vụ án dân sự, đó là cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan nhà nước thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự
hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, bao gồm: Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự. Người tiến
hành tố tụng là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ
việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự. Ví dụ như : Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư
ký tòa án, kiểm sát viên, Viện trưởng VKS, Thủ trưởng cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên…. Bên cạnh đó còn có những người tham gia tố tụng khác,
như: người đại diện cho đương sự, có thể là người đại diện theo pháp luật,
người đại diện theo uỷ quyền hoặc người đại diện do Tòa án chỉ định; người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng có
đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; người làm chứng là người
tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự do biết
được các tình tiết, sự kiện đó; người giám định là người tham gia tố tụng sử
14
dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự; người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ
khác ra tiếng Việt và ngược lại…
Vụ án dân sự được giải quyết theo trình tự, thủ tục của BLTTDS, bắt
đầu bằng việc khởi kiện của đương sự và kết thúc bằng bản án hoặc quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm vụ án dân sự như sau:“ Vụ án dân sự
là những tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động giữa các chủ thể, được các chủ thể đó khởi kiện ra tòa
án có thẩm quyền để giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình theo quy định của BLTTDS và được Tòa án thụ lý, giải quyết”.
Từ các khái niệm về việc dân sự và vụ án dân sự trên, chúng ta thấy
rằng, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự, có tranh chấp hoặc
không có tranh chấp giữa các chủ thể tham gia trong các lĩnh vực dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, được các chủ thể khởi
kiện hoặc nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết nhằm bảo vệ hoặc công nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
trình tự, thủ tục quy định của BLTTDS [17].
Điểm khác biệt cơ bản giữa việc dân sự và vụ án dân sự là có hay
không có yếu tố tranh chấp giữa các chủ thể tham gia. Ở việc dân sự không có
yếu tố tranh chấp, ở vụ án dân sự có yếu tố tranh chấp. Như vậy, tranh chấp là
dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc trong vụ án dân sự, là yếu tố cơ bản để phân biệt,
xác định việc dân sự hay vụ án dân sự. Từ yếu tố, dấu hiệu đặc trưng này dẫn
đến những khác biệt trong trình tự, thủ tục giải quyết. Trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án dân sự phức tạp và kéo dài hơn so với trình tự, thủ tục giải quyết
việc dân sự. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm vụ việc dân sự như sau: “ Vụ
việc dân sự là những vấn đề về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động, có yếu tố tranh chấp hoặc không tranh chấp, thuộc
15
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Toà án thụ lý giải quyết”.
1.2. Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ việc dân sự
1.2.1 Khái niệm giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 325 BLTTDS “Giám đốc thẩm là xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc
thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này”. Quy định tại Điều
326 của BLTTDS là những căn cứ, điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm,
đó là phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Như vậy, giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự không phải là một
cấp xét xử của Tòa án mà là thủ tục đặc biệt, xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.
1.2.2 Thủ tục giám đốc có những nội dung sau [17]
a) Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị. Kháng nghị của người có thẩm quyền
dựa trên những căn cứ, điều kiện quy định của pháp luật, cụ thể, tại Điều 326
BLTTDS:
a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
Đây là sự đánh giá, kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm được
thể hiện trong bản án, quyết định không phù hợp, không đúng với những tình
tiết khách quan của vụ án dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng với
nội dung vụ án, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không
thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp
pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
Đó là việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự đã không áp dụng hoặc áp dụng không đúng
16
những quy định của BLTTDS, có thể do cố ý hoặc vô ý, dẫn đến vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm cho đương sự không thực hiện được quyền,
nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không
được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: Chủ tọa phiên tòa
không quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng khi có những căn cứ buộc
phải thay đổi hoặc hạn chế thời gian tranh tụng dẫn đến việc những người tạm
gia tố tụng không được tranh luận, đối đáp hết những vấn đề cần làm sáng
tỏ…
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án,
quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba.
Đây là việc Tòa án đã áp dụng sai những quy định của BLDS, các luật
chuyên ngành cũng như những quy định trong Nghị định của Chính phủ, Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên
tịch…dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng với nội dung vụ việc
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Ngoài việc có những căn cứ để kháng nghị nêu trên, điều kiện để kháng
nghị là phải có đơn đề nghị của đương sự hoặc có thông báo của Tòa án, Viện
kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc có kiến nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Trường hợp
xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị. Điều kiện để kháng
nghị giám đốc thẩm là một quy định mới trong BLTTDS năm 2015 so với
BLTTDS năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm 2011), dựa trên nguyên tắc đương
sự tự định đoạt và hạn chế việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không
cần thiết [16].
17
b) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử nên các đương sự không
có quyền trực tiếp yêu cầu tiến hành thủ tục tố tụng đặc biệt này. Tuy nhiên,
pháp luật tố tụng dân sự vẫn bảo đảm quyền tố tụng của đương sự bằng việc
ghi nhận đương sự có quyền phát hiện vi phạm pháp luật, sai lầm trong các
bản án, quyết định của Tòa án và thông báo, đề nghị bằng văn bản tới những
người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét và quyết định
việc kháng nghị. Điều 327 BLTTDS quy định cụ thể về phát hiện bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Căn cứ vào nội dung Điều 327 BLTTDS cho thấy, pháp luật tố tụng
dân sự nước ta không cho phép đương sự có quyền kháng cáo giám đốc thẩm,
họ chỉ có quyền phát hiện vi phạm để thông báo cho người có thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm. Mặt khác, BLTTDS lại cho phép nhiều chủ thể
khác là các cá nhân, cơ quan, tổ chức, kể cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức
không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến các vụ việc dân sự được quyền
phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Trên cơ sở
thông báo, đơn đề nghị của những chủ thể này, người có thẩm quyền kháng
nghị sẽ xem xét để quyết định việc kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT.
c) Đơn đề nghị giám đốc thẩm
Đơn đề nghị GĐT là hình thức thể hiện ý chí của đương sự đối với bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Trong thời hạn 01 năm, kể
từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có
vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền gửi đơn
đề nghị bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị để yêu cầu kháng
nghị. Theo quy định tại Điều 328 BLTTDS, đơn đề nghị xem xét bản án,
18
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; b) Tên, địa chỉ của người đề
nghị; c) Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đề
nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; d) Lý do đề nghị, yêu cầu của
người đề nghị; đ) Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người
đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là
doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật
doanh nghiệp.
Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải gửi bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh
cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
d) Thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm
Thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm là trình tự, thủ tục Tòa án,
Viện kiểm sat tiếp nhận, thụ lý đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực phps luật theo thủ tục giám đốc thẩm, được quy định
Điều 329 BLTTDS, theo đó, Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị do
đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua dịch vụ bưu
chính và phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương
sự. Ngày gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, Viện kiểm
sát hoặc ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi.
Tòa án, Viện kiểm sát chỉ thụ lý đơn đề nghị khi có đủ các nội dung
quy định tại Điều 328 của BLTTDS. Trường hợp đơn đề nghị không có đủ
điều kiện theo quy định tại Điều 328 của BLTTDS thì Tòa án, Viện kiểm sát
yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát; hết thời hạn này mà người gửi
đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề nghị, nêu
19
rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân
công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ
sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định;
trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân công Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân công Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ
sơ vụ án, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định kháng nghị. Trường hợp không
kháng nghị thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tự mình hoặc ủy quyền cho Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo bằng văn bản,
nêu rõ lý do cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo,
kiến nghị [3].
đ) Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 331 BLTTDS, người có thẩm quyền kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét
thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án
nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
e) Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
20
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là khoảng thời gian quy định của
BLTTDS cho phép người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm xem xét,
quyết định việc kháng nghị. Hết thời hạn trên, người có thẩm quyền kháng
nghị sẽ không được kháng nghị. Theo quy định tại Điều 334 BLTTDS: “1.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng
nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều
này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài
thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của
Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này
đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
b) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm
pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba,
xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để
khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó”.
g) Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là văn bản pháp lý, thể hiện dưới
hình thức quyết định, phải chứa đựng các nội dung theo quy định tại Điều 333
BLTTDS. Cụ thể: Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải có các nội dung
chính sau đây:
Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng
nghị; Chức vụ của người ra quyết định kháng nghị; Số, ngày, tháng, năm của
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Quyết định của bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Nhận xét, phân tích
những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
21
kháng nghị; Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị; Kháng nghị toàn bộ
hoặc phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Tên của Tòa án có
thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án; Đề nghị của người kháng nghị.
h) Thẩm quyền giám đốc thẩm
Thẩm quyền giám đốc thẩm là thẩm quyền của Ủy ban thẩm phán hoặc
của Hội đồng thẩm phán TANDCC, TANDTC được tiến hành xét xử vụ án
theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo quy định tại Điều 337 BLTTDS thì thẩm
quyền giám đốc thẩm được phân định như sau [20]:
“1. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án
nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị
như sau:
a) Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm
bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
b) Toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám
đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật quy
định tại điểm a khoản này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết
định đã được Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc
thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không đạt được sự
thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án.
2. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng
nghị như sau:
a) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm
bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
22
b) Toàn thể Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám
đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật quy định tại
điểm a khoản này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã
được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm
bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không đạt được sự thống
nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án….
5. Trường hợp những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về
cùng một vụ án dân sự cùng thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của Tòa án
nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao thì Tòa án nhân dân tối cao có
thẩm quyền giám đốc thẩm toàn bộ vụ án”.
i) Phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc thẩm được quy định từ Điều 339 đến 341 BLTTDS,
bao gồm thời hạn mở phiên tòa là bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng
nghị kèm theo hồ sơ vụ án; Chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm và Thủ tục xét
xử tại phiên tòa giám đốc thẩm. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm được tiến
hành như sau [15]:
Sau khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, một thành viên Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết
định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị.
Trường hợp VKS kháng nghị thì đại diện VKS trình bày nội dung kháng nghị.
Đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được Tòa án triệu tập
đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến về những vấn đề mà Hội đồng
giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng mặt nhưng có văn bản trình bày
ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị và
việc giải quyết vụ án.
23
Các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và thảo
luận. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nghị án và biểu quyết về việc giải quyết
vụ án và công bố nội dung quyết định về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
Việc nghị án phải được thực hiện theo các nguyên tắc quy định tại Điều 264
của BLTTDS.
Trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 337 của BLTTDS thì quyết định của Hội
đồng xét xử phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán
thành.
Trường hợp xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 337 của
BLTTDS thì phiên tòa xét xử của toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết
định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết
tán thành.
Trường hợp Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 337 của BLTTDS thì quyết định của Hội đồng xét xử
phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán thành.
Trường hợp xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 337 của
BLTTDS thì phiên tòa xét xử của toàn thể Hội đồng Thẩm phán TANDTC
phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội
đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
k) Phạm vi giám đốc thẩm
Phạm vi giám đốc thẩm là giới hạn cho phép Tòa giám đốc thẩm xem
xét, giải quyết vụ án. Theo quy định của BLTTDS thì Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung
kháng nghị; Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết
định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị
24
hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết
định đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
l) Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
Sau khi tiến hành phiên Tòa giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm
sẽ biểu quyết về việc giải quyết vụ án và ra một trong các quyết định sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
Đây là trường hợp qua kết quả phiên tòa, HĐXX nhận định, đánh giá
kháng nghị không có căn cứ, quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật là
đúng đắn, không có sai lầm hoặc vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên ra quyết
định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ
nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc
bị sửa;
Qua kết quả phiên tòa, HĐXX xét thấy kháng nghị có căn cứ, bản án,
quyết định của tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc sửa không đúng thì Hội đồng
giám đốc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới xét xử đúng pháp
luật nhưng đã bị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hủy bỏ, sửa đổi một
phần hay toàn bộ. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được
một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu
quả của việc thi hành án.
Quy định về việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án nhằm tạo điều
kiện cho việc hủy bán án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phát
huy được hết tác dụng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
25
lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục
phúc thẩm;
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm hoặc xét
xử phúc thẩm lại nếu việc kháng nghị có căn cứ và trong trường hợp sau đây:
+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ
hoặc không theo đúng quy định.
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
+ Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không
đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục
tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm có thể hủy một phần hoặc toàn bộ
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giao cho tòa án cấp
mình hoặc cấp dưới xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại vụ án. Đồng thời Hội
đồng giám đốc thẩm có thể hướng dẫn tòa án xử lại vụ án những vấn đề cần
thiết như việc đánh giá chứng cứ, việc vận dụng pháp luật để giải quyết vụ án
v.v. Nhưng hội đồng giám đốc thẩm không được chỉ rõ phải quyết định giải
quyết vụ án như thế nào khi vụ án được xét xử lại. Tòa án giải quyết vụ án
theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm quyết định giải quyết vụ án căn cứ vào
diễn biến của vụ án và pháp luật áp dụng giải quyết vụ án mà không bị ràng
buộc vào ý kiến hướng dẫn của tòa án cấp giám đốc thẩm
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải
quyết vụ án.
Khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu có một
trong các căn cứ quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
26
lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án đối với trường hợp sự việc không thuộc thẩm quyền của tòa
án thì tòa án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải
quyết.( Điều 346 BLTTDS) [17].
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần
hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của
việc thi hành án.
- Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
Khi có đủ các điều kiện sau đây thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra
quyết định sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật:
+ Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ
để làm rõ các tình tiết trong vụ án;
+ Việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần
hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của
việc thi hành án.
Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật là quy định mới của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004,
góp phần đảm bảo cho vụ án không bị kéo dài gây tốn kém về thời gian và
tiền của cho đương sự, bởi có vụ án chỉ sai một phần nào đó chẳng hạn như
vấn đề án phí, nhưng nếu Hội đồng xét xử ( HĐXX) quyết định hủy để xét xử
lại toàn bộ vụ án thì cả những phần không bị kháng nghị đáng ra đã được thi
hành nhưng cũng bị xét xử lại là không hợp lý.
Quy định này không mâu thuẫn với khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm
2013 “ Chế độ sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” vì bản án đã qua hai cấp
27
xét xử, TANDTC thực hiện quyền năng hiến định là cơ quan xét xử cao nhất thì phải có thẩm quyền sửa án1 [15].
1.3. Thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự
1.3.1 Khái niệm thủ tục tái thẩm:
Theo quy định tại Điều 351 BLTTDS, “tái thẩm là xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa
án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó”. Như
vậy, tái thẩm trong tố tụng dân sự không phải là một cấp xét xử của Tòa án
mà là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện. Tình tiết mới này có
thể làm thay đổi nội dung vụ án mà Tòa án và các đương sự không thể biết
được khi Tòa án ra bản án, quyết định. Tình tiết mới phải thỏa mãn 3 điều
kiện sau đây: Một là, tình tiết mới đó phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án
giải quyết vụ án mà cả Tòa án và đương sự đã không biết được; Hai là, tình
tiết mới đó phải là những tình tiết quan trọng liên quan đến vụ án có thể làm
thay đổi nội dung vụ án, làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó
trở nên không có căn cứ và không hợp pháp; Thứ 3, tình tiết mới đó cần được
Tòa án xác định qua thủ tục tái thẩm.
1.3.2 Thủ tục tái thẩm có những nội dung sau:
a) Căn cứ kháng nghị tái thẩm
Theo quy định tại Điều 352 BLTTDS, căn cứ để kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
bao gồm:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã
1 Trương Hòa Bình-Chánh án TANDTC “ Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, giải pháp đột phá để TAND thực hiện có kết quả nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”; Tạp chí Tòa án, số chuyên đề tháng 11/2014, tr.7.
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
28
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của
người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ
sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ
quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Như vậy, việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được thực hiện khi thỏa
mãn một trong những căn cứ nêu trên mà không cần đi kèm điều kiện gây
thiệt hại về quyền và lợi ích của đương sự, của người thứ 3 hoặc lợi ích của
Nhà nước như đối với thủ tục giám đốc thẩm.
b) Thông báo và xác minh tình tiết mới được phát hiện
Đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền phát hiện tình
tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng
nghị quy định tại Điều 354 của BLTTDS. Viện kiểm sát, Tòa án phát hiện
tình tiết mới của vụ án phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền
kháng nghị quy định tại Điều 354 của BLTTDS. Khi nhận được thông báo,
Tòa án hoặc VKSND phải tiến hành xác minh tình tiết mới được phát hiện để
xác định tính đúng đắn, khách quan, tức là sự thật của tình tiết mới đó trong
một thời hạn nhất định để đưa ra kết luận, làm căn cứ cho việc quyết định
kháng nghị hoặc không kháng nghị tái thẩm.
c) Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp
cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần
thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
29
dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân
cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
d) Thời hạn kháng nghị tái thẩm
Thời hạn kháng nghị tái thẩm là khoảng thời gian BLTTDS quy định
cho phép người có thẩm quyền kháng nghị ban hành kháng nghị tái thẩm.
Theo quy định tại của BLTTDS, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là
01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của BLTTDS.
đ) Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm là thẩm quyền ban hành
những quyết định để giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục tái thẩm. Theo đó,
Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền sau đây:
1) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật.
2) Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm
lại theo thủ tục do BLTTDS quy định.
3) Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án.
e) Phiên tòa tái thẩm
Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS về việc áp dụng những quy định
của thủ tục giám đốc thẩm thì thời hạn mở phiên tòa, chuẩn bị phiên tòa cũng
2Xem Thủ tục phiên tòa GĐT tại Mục I, tr. 26 Luận văn.
như thủ tục phiên tòa tái thẩm được áp dụng như những quy định về phiên tòa giám đốc thẩm2.
30
1.4. Quyền của đƣơng sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ
việc dân sự
1.4.1. Khái niệm quyền của đương sự
Quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân
sự là một bộ phận không tách rời quyền của đương sự trong vụ việc dân sự
nói chung trong tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 68 BLTTDS thì
đương sự trong vụ việc dân sự gồm đương sự trong vụ án dân sự và đương sự
trong việc dân sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân
bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có tham
gia vào tranh chấp dân sự; Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá
nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Như vậy, cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đã nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
để bảo vệ, hoặc trong trường hợp do luật định, cơ quan, tổ chức nộp đơn yêu
cầu Tòa án bảo vệ lợi ích Nhà nước hoặc lợi ích công cộng trong lĩnh vực
mình phụ trách. Ngoài ra, có trường hợp, mặc dù không trực tiếp tham gia
khởi kiện hoặc là đối tượng bị khởi kiện nhưng quyền và lợi ích hợp pháp của
mình cũng có thể bị ảnh hưởng khi Tòa án xem xét, giải quyết, đây là những
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Những cơ quan, tổ chức, cá nhân
trên được coi là đương sự trong vụ việc dân sự [1].
Vậy, đương sự trong vụ việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham
gia vào quá trình tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước do có quyền, nghĩa vụ liên
quan đến vụ việc dân sự.
Đương sự tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người
yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
việc dân sự.
Để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự một cách đúng đắn, theo quy
31
định của Điều 70 BLTTDS, đương sự có quyền, nghĩa vụ tố tụng ngang nhau,
được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện việc bảo vệ quyền lợi
cho mình. Điều 70 BLTTDS quy định những quyền cụ thể của đương sự, như:
Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của BLTTDS;
Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu,
chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; Đề nghị Tòa án xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được;
Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời; Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do
Tòa án tiến hành; Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng
cứ và pháp luật áp dụng; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án
v.v. Những quyền này của đương sự được pháp luật bảo đảm bằng việc các cơ
quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan, tổ chức cá
nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện, đáp ứng những yêu cầu, đề nghị
của đương sự trong phạm vi quyền của họ. Quyền của đương sự bảo đảm cho
đương sự có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi tham gia vào tố tụng dân sự. Như nậy, có thể hiểu, quyền của
đương sự là những quy định của pháp luật cho phép đương sự được thực hiện
những hành vi hoặc quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.2. Khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
Quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự là một bộ
phận của quyền của đương sự trong vụ việc dân sự. Tuy nhiên, do tính chất
của xét xử GĐT,TT là xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nên một số quyền của đương sự trong vụ việc dân sự sẽ không có đầy đủ
trong thủ tục GĐT,TT, nhưng đồng thời cũng có nội dung được mở rộng hơn,
ví dụ, như quyền phát hiện những vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới của
32
bản án, quyết định của Tòa án. GĐT,TT là thủ tục đặc biệt trong tố tụng dân
sự, được thực hiện nhằm khắc phục những vi phạm, sai lầm trong bản án đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên để đạt được mục đích trên, pháp luật
TTDS quy định quyền của đương sự trong thủ tục này có những nét riêng so
với quyền của đương sự trong giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm. Từ những quy
định tại các chương 20, chương 21 BLTTDS, có thể xác định nội dung quyền
của đương sự bao gồm: Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục GĐT,TT; Quyền làm đơn
đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục GĐT,TT; Quyền nộp đơn đề nghị GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận
đơn đề nghị của đương sự; Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong
thủ tục giám đốc thẩm ,tái thẩm; Quyền nhận quyết định kháng nghị GĐT,TT;
Quyền được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu tập; Quyền trình bày
ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu [20].
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT,TT vụ việc dân sự như sau: quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT
vụ việc dân sự là một bộ phận trong tổng thể quyền của đương sự trong tố
tụng dân sự theo quy định của pháp luật, cho phép đương sự được thực hiện
những hành vi hoặc quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự
theo thủ tục GĐT, TT nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.4.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền đương sự trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự
Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án là phán quyết của
Tòa án đã trải qua quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, xét hỏi, tranh tụng
công khai, dân chủ, khách quan, toàn diện, do vậy, phải được thi hành một
cách triệt để, nghiêm túc trên thực tế mới phát huy hết tác dụng quyền lực của
Nhà nước nói chung và của Tòa án nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những vi phạm, sai lầm,
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và của cá nhân. Do
33
vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đương sự trong
vụ án vẫn có quyền và trách nhiệm phát hiện những vi phạm, sai lầm trong
bản án, quyết định để yêu cầu, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét, khắc phục sai lầm, hậu quả. Đương sự trong vụ việc dân sự mặc dù không
có quyền kháng cáo tiếp theo đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật nhưng vẫn có quyền phát hiện, nộp đơn yêu cầu kháng nghị GĐT,TT để
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Những quy định về quyền của đương sự
trong GĐT,TT vụ việc dân sự có ý nghĩa bảo đảm quyền con người, quyền
công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, bảo đảm việc xét xử, giải
quyết vụ việc dân sự được đúng đắn, bảo vệ lợi ích chính đáng của đương sự,
cả trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Từ những nội dung trên, chúng ta thấy việc BLTTDS quy định quyền của
đương sự trong thủ tục GĐT,TT cũng nhằm phục vụ việc xét xử GĐT,TT xác
định và khắc phục được những sai lầm, vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Tại chương 1, tác giả đã đi sâu phân tích, trình bày những nội dung cơ
bản thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT,TT. Theo đó, xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án là thủ tục đặc biệt, được thực hiện bởi thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, bao
gồm nhiều chế định khác nhau, được quy định trong BLTTDS năm 2015. Tác
giả luận văn đã phân tích, đánh giá những nội dung quan trọng có liên quan
để đưa ra các khái niệm cơ bản liên quan đến quyền của đương sự trong thủ
tục GĐT,TT vụ việc dân sự, như: khái niệm vụ án dân sự, việc dân sự, vụ việc
dân sự; trình bày những quy định về thủ tục GĐT,TT; về đương sự trong vụ,
việc dân sự;
34
Chương 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của đƣơng sự trong
giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức
tòa án và ngạch thẩm phán, trong đó ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện
hai cấp xét xử”. Trong giai đoạn này chưa có văn bản pháp luật nào quy định
về thẩm quyền của Tòa án trong việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
Ngày 22/5/1950, Chính phủ ban sắc lệnh số 85/SL mới có quy định về
thủ tục tiêu án. Tại điều 17 sắc lệnh quy định: “Tòa án chỉ thủ tục một phần
hoặc toàn bộ thủ tục nếu xét thấy một hay nhiều hình thức ghi trong Luật tố
tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự.”
Ngày 12/02/1958, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 321/VHH-CT yêu cầu các Tòa
án phải nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án xử chung thẩm. Ngày
13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số 002/TT
quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu lực
pháp luật.
Luật tổ chức TAND năm 1960 đã quy định khá đầy đủ các nguyên tắc
trong việc xét xử, phân định thẩm quyền của Toà án các cấp. Bên cạnh việc
xét xử hai cấp như trước đây, Toà án đã áp dụng một thủ tục xét xử mới đặc
biệt, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Điều 10 Luật TCTAND năm 1960 quy
định: “Đối với các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực
35
pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán TANDTC xét định” 3. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định điều kiện để có
giám đốc thẩm là phải có kháng nghị của người có thẩm quyền [18].
Một trong những văn bản pháp luật trong giai đoạn này có quy định về
giám đốc thẩm là Pháp lệnh ngày 23/3/1961 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và các TAND địa phương. Trong
Pháp lệnh này có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TANDTC
và một trong những nhiệm vụ, quyền hạn đó là việc kháng nghị những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp nhưng phát hiện có sai lầm.
Hiến pháp năm 1980 quy định: “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất
nước CHXHCN Việt Nam. TANDTC giám đốc việc xét xử của TAND địa
phương và các Toà án quận sự. TANDTC giám đốc việc xét xử của Toà án đặc
biệt trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng nhà nước quy định khác khi thành lập toà án đó ”4 [15].
Luật TCTAND cũng được sửa đổi vào năm 1981 và Điều 23 Luật sửa
đổi, bổ sung Luật tổ chức TAND năm 1988 quy định: “Hội đồng thẩm phán
TANDTC là tổ chức.. .xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm...Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán TANDTC”5
Như vậy, thủ tục tái thẩm lần đầu tiên được quy định trong Luật
TCTAND năm 1981. Cũng theo quy định của luật thì Uỷ ban thẩm phán
TANDTC sẽ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của các toà thuộc TANDTC; các toà chuyên
trách sẽ có quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có
3 Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. 4 Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 5 Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
hiệu lực pháp luật của các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
36
và cấp tương đương; TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của các TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo đó, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm cũng được quy định
khá rõ ràng: Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp.
Thông tư số 01/TATC ngày 01/02/1982 của TANDTC về thủ tục giám đốc
thẩm dân sự ở TANDTC đã quy định rõ các trường hợp cần được kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm như: việc điều tra, thẩm vấn không đầy đủ, không
khách quan, chưa làm sáng tỏ được những tình tiết có ý nghĩa của vụ kiện; vi
phạm pháp luật tố tụng; kết luận trong bản án không phù hợp với những tình
tiết thực tế của vụ kiện mà Toà án xác định.
Như vậy, đến năm 1981, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (GĐT,TT) đã
được Luật TCTAND ghi nhận, tuy nhiên, thủ tục tố tụng đối với bản án đã có
hiệu lực pháp luật mới chỉ là những quy định cơ bản, đơn giản, chưa được
luật hóa trong BLTTDS. Mặc dù vậy, thông qua những quy định trên về việc
xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật, quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT,TT đã được ghi nhận, được bảo vệ, thể hiện sự phát triển mới của pháp
luật tố tụng dân sự [18].
Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước Nước CHXHCN Việt Nam đã
ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Trong đó, chương
XII, từ Điều 71 đến Điều 77 quy định về thủ tục giám đốc thẩm; chương XIII,
từ Điều 78 đến Điều 82 quy định về thủ tục tái thẩm. Các vấn đề cơ bản như:
căn cứ kháng nghị, người có thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị,
thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.. .đều được quy định khá
chi tiết trong Pháp lệnh.
Bên cạnh đó, thời kỳ này, Nhà nước ta cũng quy định về thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm các vụ án kinh tế và tranh chấp lao động tại Pháp lệnh thủ
37
tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996.
Như vậy, có thể thấy các quy định về thủ tục xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật trong giai đoạn này đã có sự phát triển hơn nhưng
mới chỉ dừng lại ở các quy định trong các Pháp lệnh, Thông tư liên tịch mang tính
hướng dẫn mà chưa được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Những văn bản
quy phạm pháp luật này là nền tảng pháp lý cho việc ban hành BLTTDS sau này.
Thông qua những quy định của các Pháp lệnh, quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT,TT được thực hiện, bảo đảm một cách đầy đủ hơn trong từng lĩnh vực dân sự,
kinh tế, kinh doanh, thương mại, lao động.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2005- 2011 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 có hiệu lực cho đến trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2011)
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 10, ngày 15/6/2004, trước yêu cầu của
đất nước trong thời kỳ đổi mới, thể chế hóa quan điểm của Đảng về cải cách
tư pháp tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam đã thông qua BLTTDS năm 2004. BLTTDS năm 2004
đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp nói chung cũng như trong
lĩnh vực tố tụng dân sự nói riêng của nước ta. Các quy định về tố tụng dân sự
được ban hành trước đó trong các văn bản dưới luật đã được luật hóa trong
BLTTDS năm 2004. BLTTDS năm 2004 có hiệu lực pháp luật từ ngày
1/5/2005 gồm 9 phần, 36 chương và 418 điều, quy định tương đối đầy đủ
những vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, thi hành án dân sự, như nhiệm vụ
của BLTTDS, những nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng….Trong BLTTDS năm
2004 đã quy định khá đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng
dân sự, trong GĐT,TT vụ việc dân sự. Cụ thể, trong thủ tục GĐT,TT vụ việc
dân sự, đương sự có các quyền sau: phát hiện bản án, quyết định của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới cần xét lại theo
38
thủ tục GĐT,TT, thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm quyền
kháng nghị( Đ.284, 306); Được nhận quyết định kháng nghị GĐT,TT(
Đ.290); Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi Tòa án triệu tập( Đ.292); Được
trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị tại phiên tòa GĐT,TT(
Đ.295); Được nhận quyết định GĐT,TT( Đ. 303).
Theo quy định tại Điều 310 BLTTDS về áp dụng các quy định của thủ
tục giám đốc thẩm, thì các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện
như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại BLTTDS. Như vậy, quyền của
đương sự trong thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự là đầy đủ so với quyền của
đương sự trong thủ tục GĐT vụ việc dân sự.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2012-2015 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa
đổi, bổ sung năm 2011 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015)
Từ thời điểm năm 2005, sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực pháp
luật, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, xu thế
hội nhập, cùng phát triển được coi là xu thế chung toàn cầu. Việt Nam đã
tham gia Tổ chức Thương mại thế giới WTO, vào Hiệp hội ASEAN, đàm
phán tham gia nhiều hiệp định kinh tế quốc tế quan trọng, như Hiệp định kinh
tế xuyên Thái Bình Dương(TPP). Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, các thành phần kinh tế ra đời, phát triển, do vậy cũng phát sinh nhiều
tranh chấp, yêu cầu cần giải quyết trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, kinh doanh,
lao động, thương mại. BLTTDS năm 2004 sau một thời gian áp dụng đã nảy
sinh những mâu thuẫn, hạn chế, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích nhà nước, đặc
biệt là quyền của đương sự khi tham gia vào tố tụng hình sự. Do vậy, ngày
29/3/2011, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
Luật số 65/2011/QH12, Sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2004, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/2012. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa đổi một số nội
39
dung không phù hợp trong BLTTDS năm 2004 như về thẩm quyền của Tòa
án; quyền và nghĩa vụ của đương sự; sự tham gia của Viện kiểm sát; bổ sung
nguyên tắc tranh tụng để bảo đảm quyền lợi của người tham gia tố tụng; thủ
tục đặc biệt xem xét lại bản án, quyết định của HĐTP-TANDTC. Trong thủ
tục GĐT,TT, các quy định về quyền của đương sự vẫn được giữ nguyên, chỉ
chỉnh sửa câu chữ cho hợp lý và bổ sung thêm một số quyền của đương sự,
thẩm quyền của Hội đồng GĐT (có liên quan đến quyền của đương sự), như,
sửa đổi Điều 284 theo hướng quy định thời hạn phát hiện vi phạm sai lầm của
bản án, quyết định là 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật. Đồng thời bổ sung thêm 2 điều 284a và 284b, quy định về đơn đề nghị
xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
GĐT và thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục GĐT; Sửa đổi, bổ sung Điều 288
về thời hạn kháng nghị, theo hướng, nếu đã hết thời hạn kháng nghị 3 năm
nhưng thuộc trường hợp có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị
được kéo dài thêm 2 năm: “ a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại
khoản 1 Điều 284 của BLTTDS và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định
tại khoản 1 Điều 288 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; b) Bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định
tại Điều 283 của BLTTDS, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải
kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật đó”; Sửa đổi, bổ sung các khoản 2, 3 Điều 297 về thẩm quyền của Hội
đồng GĐT theo hướng: “2. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp
dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; 3. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc
thẩm lại”; Sửa đổi, bổ sung Điều 299 như sau: “Hội đồng giám đốc thẩm ra
40
quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm
lại trong các trường hợp sau đây:
1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc
không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;
2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật;
3. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không
đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục
tố tụng”.
2.1.4 Giai đoạn từ 1/7/2016 đến nay (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 có hiệu lực đến nay)
Từ sau khi ban hành BLTTDS năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm 2011)
đến nay, quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung và vụ việc dân sự theo
thủ tục GĐT,TT nói riêng có nhiều thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn vướng
mắc trong thực tiễn xét xử, tăng thêm quyền của đương sự, bảo đảm tốt hơn
lợi ích của đương sự trong tố tụng dân sự [23]. Tuy nhiên, trước sự hội nhập
ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, sự hồi
phục và phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền
kinh tế Việt Nam. Nhiều loại hình kinh tế cũng như các tổ chức kinh tế tư
nhân nước ngoài hình thành và phát triển tại Việt Nam và ngược lại, nhiều tập
đoàn, tổ chức kinh tế Việt Nam cũng vươn ra thị trường thế giới. Do sự phát
triển nhanh chóng của nền kinh tế mở cửa của Việt Nam kéo theo nhiều vấn
đề xã hội cũng thay đổi, mặt tích cực, mặt tiêu cực đều có, dẫn đến những
tranh chấp, những yêu cầu cần được Nhà nước ghi nhận, giải quyết cũng ngày
càng nhiều, đa dạng. Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng có những thay
đổi lớn đáp ứng yêu cầu của xã hội, đất nước như việc ban hành Hiến pháp
41
năm 2013, Luật TCVKSND năm 2014, Luật TCTAND năm 2014. Những quy
định trong BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế so với
Hiến pháp và các luật nêu trên, như những vấn đề về quyền con người, quyền
công dân cần được ghi nhận, mở rộng trong tố tụng dân sự. Quyền của đương
sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự cũng cần được sửa đổi, bổ sung phù
hợp với những quy định mới của Hiến pháp, của Luật TCTAND năm 2014.
Do vậy, ngày 25/11/2015, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua
BLTTDS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2016. Trong phần hiệu lực thi
hành tại Điều 517 BLTTDS, một số quy định liên quan đến BLDS năm 2015
sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017 và Điều 159, Điểm h, Khoản 1,
Điều 192 BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 vẫn có hiệu lực đến
hết ngày 31/12/2016 [17].
2.2. Những quyền cơ bản của đƣơng sự trong giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự theo pháp luật hiện hành.
2.2.1 Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà là thủ tục
đặc biệt xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên các đương sự
không có quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Bản án, quyết định về vụ việc dân sự có hiệu lực pháp luật khi bản án,
quyết định sơ thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng
cáo, kháng nghị và bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên
án hoặc quyết định. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thi hành
theo trình tự thủ tục quy định, mặc dù có thể đương sự vẫn không đồng ý với
bản án, quyết định đó. Trên thực tế, vẫn có những bản án, quyết định mặc dù
đã được hai cấp xét xử, đã có hiệu lực pháp luật, đã được thi hành trên thực tế
nhưng vẫn có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Trong trường hợp này, mặc dù không có quyền
42
kháng cáo tiếp theo, nhưng pháp luật tố tụng dân sự vẫn bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự bằng việc ghi nhận đương sự có quyền phát hiện
vi phạm pháp luật, sai lầm trong các bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị
bằng văn bản tới những người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT để xem xét
và quyết định việc kháng nghị. Điều 327 BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể
về phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
1) Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền
kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS để xem xét kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm.
2) Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm
quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS.
3) Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nếu phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 của BLTTDS.
Như vậy, có 3 nhóm chủ thể có thể phát hiện vi phạm pháp luật trong
bản án, quyết định của Tòa án và 3 phương thức khác nhau để thể hiện quyền,
trách nhiệm trong việc chuyển tải những thông tin đó đến những người có
thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT để xem xét và quyết định việc kháng nghị.
Thứ nhất, đối với đương sự thì có quyền đề nghị bằng văn bản; Thứ hai, đối
với Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì phải thông
báo bằng văn bản; Thứ ba, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa
43
án nhân dân cấp cao thì kiến nghị. Trong 3 nhóm chủ thể đó, chúng ta thấy
chỉ có đương sự được pháp luật ghi nhận có quyền trực tiếp đề nghị bằng văn
bản đến những người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT. Trong trường hợp
phát hiện tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì đương
sự có quyền thông báo đến người có thẩm quyền kháng nghị biết(Kh. 1,
Đ.353 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm tính ổn định trong việc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, BLTTHS cũng quy định
thời hạn cho việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đối với
đương sự cũng như các chủ thể khác là một năm. Sau thời hạn một năm, nếu
đương sự phát hiện ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
có vi phạm pháp luật, là căn cứ để kháng nghị thì cũng không có quyền đề
nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT. Đương sự phát hiện vi phạm
pháp luật, tình tiết mới là những căn cứ của kháng nghị GĐT,TT bằng nhiều
hình thức khác nhau như nghiên cứu bản án, quyết định, thông qua người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người đại diện, nhân chứng để thu thập tài liệu,
chứng cứ v.v [10].
2.2.2 Quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và
nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự;
Quyền làm đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật theo thủ tục GĐT,TT là quyền tố tụng đầu tiên của đương sự để
khởi động tiến trình GĐT,TT vụ việc dân sự. Để bảo đảm triệt để quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự nhưng đồng thời bảo đảm tôn trọng quyền tự
quyết của đương sự trong vụ việc dân sự, BLTTHS quy định, trường hợp phát
hiện vi phạm pháp luật trong quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu không vì
bảo vệ lợi ích công hoặc của người thứ 3 thì thủ tục GĐT chỉ có thể được tiến
hành khi đương sự có đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục
GĐT,TT. Đối với thủ tục tái thẩm thì không cần điều kiện này. Đơn đề nghị
44
của đương sự phải bảo đảm đúng về hình thức, nội dung theo quy định tại
Điều 328 BLTTDS như sau: a) Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; b) Tên,
địa chỉ của người đề nghị; c) Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật được đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; d) Lý do đề
nghị, yêu cầu của người đề nghị; đ) Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc
điểm chỉ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của
cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ
chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo
quy định của Luật doanh nghiệp. Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải
gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ
(nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Lý do đề nghị kháng nghị của đơn cần căn cứ vào Điều 326 BLTTDS
để nêu ngắn gọn những căn cứ mà đương sự cho rằng cần phải xem lại bản án
phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ
được gửi cho người có thẩm quyền kháng nghị, đó là Chánh án TANDTC,
Chánh án TANDCC, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (VKSNDCC).
Tòa án, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm nhận đơn đề nghị do đương
sự nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và
phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Ngày
gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc
ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi.
Tòa án, Viện kiểm sát chỉ thụ lý đơn đề nghị khi có đủ các nội dung
theo quy định. Trường hợp đơn đề nghị không có đủ điều kiện theo quy định
thì Tòa án, Viện kiểm sát yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung trong thời
hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát; hết
thời hạn này mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện kiểm
sát trả lại đơn đề nghị, nêu rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn
45
[20].
- Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân
công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ
sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định;
trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản, nêu rõ lí do cho
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân công Thẩm phán TANDTC,
Viện trưởng VKSND phân công Kiểm sát viên VKSNDTC nghiên cứu đơn,
thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án, báo cáo Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC xem xét, quyết định kháng nghị. Trường hợp không kháng nghị
thì Chánh án TANDTC Viện trưởng VKSNDTC tự mình hoặc ủy quyền cho
Thẩm phán TANDTC, Kiểm sát viên VKSNDTC thông báo bằng văn bản,
nêu rõ lý do cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có đơn đề nghị, văn bản
thông báo, kiến nghị [3].
Như vậy, đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT vụ việc dân sự không phải
là căn cứ để đưa vụ việc dân sự ra xét xử theo thủ tục GĐT,TT mà chỉ là căn
cứ, cơ sở để những người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, đánh giá tính
đúng đắn để quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị đối với bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy không phải là căn cứ để quyết
định việc kháng nghị nhưng quy định về việc đương sự được làm đơn yêu cầu
kháng nghị đã là một chế định pháp lý quan trọng bảo đảm cho việc bảo vệ
quyền của đương sự được thực hiện một cách triệt để nhất, khắc phục những
sai lầm hoặc vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng dân sự. Khi đương sự có đơn
yêu cầu thì Tòa án, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét và
trả lời cho đương sự biết kết quả.
2.2.3. Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm
Một trong những căn cứ, cơ sở của đương sự trong vụ việc dân sự đề
46
nghị xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
GĐT,TT là việc đương sự phát hiện ra vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Việc phát hiện này có thể do đương sự đã thu thập được chứng cứ, tài
liệu mới liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự mà trước đó Tòa án đã
giải quyết, đã ra bản án hoặc quyết định, ví dụ: phát hiện ra bản di chúc hợp
pháp về việc thừa kế tài sản sau khi có bản án chia tài sản. Để chứng minh
cho đề nghị kháng nghị của mình là có căn cứ, giúp cho người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT căn cứ vào đó ban hành kháng nghị,
BLTTDS quy định đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu
trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự tại Điều 330. Việc cung cấp, bổ sung
chứng cứ, tài liệu được đương sự thực hiện ngay khi nộp đơn đề nghị hoặc
trong cả quá trình xem xét đơn đề nghị GĐT,TT và tại phiên tòa GĐT,TT. Để
bảo đảm hiệu quả của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án theo thủ tục GĐT, TT, người có thẩm quyền kháng nghị cũng như
Hội đồng xét xử chỉ xem xét đối với tài liệu, chứng cứ mà đương sự cung cấp,
bổ sung nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương
sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà
đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án. Điều này cũng
có nghĩa là những tài liệu chứng cứ đó chưa được tòa án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm xem xét trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu những tài liệu, chứng cứ
đóa đã được cung cấp và đã được Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xem xét để
đưa ra bản án, quyết định nhưng đương sự cho rằng việc xem xét, đánh giá đó
không đúng đắn, không khách quan dẫn đến việc ra bản án không đúng thì
cũng không thuộc trường hợp đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ
trong GĐT,TT. Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, người
47
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền yêu cầu
người có đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trường hợp đương sự cung cấp, bổ
sung chứng cứ, tài liệu thì Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán,
Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu đó. Các thành viên Hội
đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu chứng cứ đó tại phiên tòa để
đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của mình. Trường hợp theo yêu cầu
của Thẩm phán về việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự
không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ.
Khoản 1 Điều 94 BLTTDS năm 2004( Đ106 BLTTDS năm 2015) quy
định: Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có
yêu cầu, thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập
chứng cứ. Như vậy, trước tiên Thẩm phán phải yêu cầu đương sự chứng minh
là họ không thể tự mình thu thập được chứng cứ. Ví dụ: trong vụ án tranh
chấp về nhà đất, do thất lạc giấy tờ quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở, đương sự đã có văn bản đề nghị Sở tài nguyên môi trường(hoặc Sở Địa
chính nhà đất) xác định tình trạng nhà đất của mình nhưng Sở Tài nguyên và
môi trường đã có văn bản trả lời không xác nhận theo yêu cầu của cá nhân mà chỉ xác nhận khi có yêu cầu của Tòa án6. Trường hợp đương sự yêu cầu Tòa
án thu thập chứng cứ thì phải nộp lệ phí theo quy định [13].
2.2.4. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị sau khi nghiên cứu đơn
đề nghị của đương sự thấy có đủ căn cứ, điều kiện kháng nghị thì ra quyết
định kháng nghị GĐT,TT và theo quy định tại Điều 336 BLTTDS về gửi
quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, thì quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực
6 Xem Nguyễn Thị Thảo Trang “ Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ”, Tạp chí Tòa án số 8/2016,
tr.32
pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
48
quyền, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
Quyền được nhận quyết định kháng nghị GĐT, TT có ý nghĩa quan
trọng đối với đượng sự, xác nhận việc đề nghị kháng nghị của đương sự đã có
kết quả, mong muốn, nguyện vọng của đương sự đã được người có thẩm
quyền kháng nghị đáp ứng theo đúng quy định của pháp luật. Việc nhận được
quyết định kháng nghị giúp cho đương sự chuẩn bị tốt các điều kiện để tham
gia phiên tòa GĐT,TT trong trường hợp Tòa án triệu tập, như nhờ người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chuẩn bị nội dung trình bày trước Tòa
án; có thể đề nghị cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác có liên quan dừng việc thi hành bản án, quyết định, thực hiện nghĩa vụ
v.v. Việc đương sự được nhận quyết định kháng nghị cùng với Tòa án, cá
nhân khác thể hiện vị trí bình đẳng trước pháp luật của đương sự.
2.2.5 Quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi
được triệu tập
Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu tập là quyền của
đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó, phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp thì trường hợp
xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm vẫn
tiến hành phiên tòa. Việc đương sự có quyền được tham gia phiên tòa có ý
nghĩa trong việc bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
giúp đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự có thể trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Tuy nhiên, việc đương sự được tham gia phiên tòa còn phụ thuộc vào
sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Nếu thấy sự có mặt của đương sự là cần
thiết thì Tòa án mới triệu tập, ngược lại, nếu thấy sự có mặt của đương sự là
49
không cần thiết thì Tòa án sẽ không triệu tập. Sự cần thiết có mặt của đương
sự ở đây được hiểu là sẽ giúp cho HĐXX nhanh chóng, khách quan và xác
định đúng đắn được những tình tiết của vụ việc dân sự có liên quan đến kháng
nghị. Hơn nữa, Tòa án chỉ triệu tập đến phiên tòa GĐT,TT những đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự nếu như đương sự đó có liên quan đến việc kháng nghị, ví dụ,
đương sự đã có đơn yêu cầu kháng nghị hoặc việc giải quyết những vấn đề
trong kháng nghị sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
đó. Ngoài ra, trong trường hợp đương sự đã được tòa án triệu tập mà không
có mặt tại phiên tòa thì HĐXX vẫn tiến hành việc xét xử GĐT,TT. Trong
trường hợp này, Tòa án không vi phạm thủ tục tố tụng. Như vậy quyền được
tham gia phiên tòa GĐT,TT của đương sự chỉ phát sinh khi được tòa án triệu
tập, đương sự có thể tham gia hoặc không tham gia và việc không tham gia
của đương sự cũng không có ý nghĩa quyết định đến việc xác định sự thật
khách quan của vụ việc dân sự bị kháng nghị.
Những người tham gia tố tụng chủ yếu phải kể đến nguyên đơn; bị đơn;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự (Luật sư). Việc pháp luật tố tụng dân sự không quy định
bắt buộc sự có mặt của những người tham gia tố tụng xuất phát từ tính chất
đặc thù của thủ tục giám đốc thẩm là hoạt động xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật chứ không phải là xét xử lại vụ án. Tòa án mở phiên tòa
giám đốc thẩm để xem xét lại vụ án trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong
hồ sơ vụ án hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập thêm nên sự có mặt của
những người tham gia tố tụng rất hạn chế. Một thực tế là việc quy định như
vậy dường như chỉ mang tính hình thức vì sự có mặt của những người tham
gia tố tụng, đặc biệt là nguyên đơn và bị đơn tại phiên tòa giám đốc thẩm gần
như là không có. Thông thường, họ chỉ gửi đơn khiếu nại, tài liệu bổ sung
thông qua đường bưu điện cho Tòa án. Trong trường hợp thật đặc biệt thì họ
50
mới được đại diện của Tòa án, Viện kiểm sát gặp gỡ để trình bày trực tiếp.
Nhiều ý kiến cho rằng việc có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa giám đốc thẩm là không cần thiết vì các bản án, quyết định dân sự có hiệu
lực pháp luật đã được xét xử qua ít nhất một lần và có thể nhiều hơn, do đó đã
đủ chứng cứ, tài liệu để phục vụ cho việc xem xét lại vụ án. Ngoài ra, việc
bảo đảm sự có mặt của những người tham gia tố tụng và những người khác có
liên quan đến dự phiên tòa là khó khăn cho chính đương sự, bởi vì TANDTC
thực hiện việc giám đốc thẩm đối với các vụ án trên phạm vi toàn quốc nhưng
không thể tiến hành xét xử lưu động mà chỉ giải quyết các công việc tại trụ sở
TANDTC. Tuy nhiên, các ý kiến trái chiều lại cho rằng việc các đương sự
không có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm là một điểm hạn chế vì việc thu
thập chứng cứ còn chưa đầy đủ, nhiều hồ sơ vụ án rất sơ sài, hoặc bị làm sai
lệch. Nếu các đương sự không có mặt và không được trình bày thì rất có thể
Hội đồng giám đốc thẩm sẽ đưa ra phán quyết sai lầm. Bên cạnh đó, sự vắng
mặt của đương sự sẽ kéo theo tính trách nhiệm chưa cao của Hội đồng giám
đốc thẩm do thiếu đi sức ép trực tiếp từ phái các bên và tính tranh luận tại
phiên tòa cũng giảm đi đáng kể. Chính vai trò của đương sự mờ nhạt như vậy
làm cho việc xét lại vụ án ở giai đoạn giám đốc thẩm nhiều khi mang tính chất
một chiều, dẫn đến phán quyết của Hội đồng giám đốc thẩm thiếu tính khách
quan, toàn diện và chính xác. Về vấn đề này, pháp luật tố tụng dân sự của đa
số các nước trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên bang
Nga đều cho phép các đương sự có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm. Để pháp
luật tố tụng dân sự được hoàn thiện hơn, đảm bảo sự khách quan, chính xác
của hoạt động giám đốc thẩm, BLTTDS cần sửa đổi theo hướng cho phép
7 Xem Chu Thị Hồng Nhung, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2015, Khoa Luật-Đại học quốc gia Hà
Nội, tr. 73.
đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm mà không phụ thuộc vào việc được triệu tập khi Tòa án thấy cần thiết7 [14].
51
Mặc dù BLTTDS quy định tại Điều 292 về việc khi xét thấy cần thiết,
Tòa án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên
quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, nhưng trong
thực tế các phiên tòa giám đốc thẩm vụ án dân sự từ trước tới nay tại
TANDTC chưa bao giờ có sự tham gia của đương sự hoặc những người khác
có liên quan đến việc kháng nghị. Việc quy định có thể triệu tập hay không
triệu tập đương sự hoàn toàn phụ thuộc vào việc Tòa án xét thấy cần thiết hay
không cần thiết đến sự có mặt của họ, điều đó cũng ít nhiều ảnh hưởng đến
quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án vì các quyết định của Hội đồng
xét xử ít nhiều đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. Như vậy, quy
định như trên thì việc triệu tập đương sự tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
hầu như không được thực thi trong thực tế và quy định như trên chỉ mang tính hình thức8 [8].
2.2.6 Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
khi được yêu cầu
Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu là
quyền của đương sự được quy định tại Điều 341 BLTTDS về thủ tục xét xử
tại phiên tòa giám đốc thẩm, theo đó, đương sự, người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến
về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng
mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
công bố ý kiến của họ. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa có ý
nghĩa quan trọng trong toàn bộ nội dung quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT,TT vụ việc dân sự. Trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT giúp cho
8 Xem Hà Thị Thúy Hà, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2014, Khoa Luật-Đại học quốc gia Hà Nội,
tr.91.
đương sự được trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong việc giải
52
quyết vụ việc dân sự ở trình tự GĐT,TT, qua đó, trực tiếp bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa
được pháp luật bảo đảm triệt để, thể hiện ở quy định, cả trong trường hợp
đương sự vắng mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ. Tuy nhiên, quyền trình bày ý kiến này
có giới hạn, chỉ trong phạm vi những vấn đề mà HĐXX GĐT,TT yêu cầu.
Đối với những vấn đề mà HHĐXX GĐT,TT không yêu cầu trình bày thì
đương sự không được phép trình bày. Sự giới hạn quyền này có liên quan chặt
chẽ đến tính chất của GĐT,TT, đó là việc xét lại bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật khi phát hiện vi phạm hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi
nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, HĐXX
GĐT,TT chỉ xem xét đến phần bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem
xét nội dung kháng nghị là chủ yếu, tức là xem xét căn cứ của kháng nghị có
đúng hay không, những nội dung của kháng nghị có căn cứ hay không mà
không xét xử đối với toàn bộ nội dung, tình tiết của vụ việc dân sự. Vì lẽ đó,
HĐXX chỉ yêu cầu đương sự trình bày ý kiến đối với phần HĐXX xét thấy
cần thiết để làm rõ phần bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội
dung kháng nghị. Như vậy, mặc dù đương sự được trình bày ý kiến tại phiên
tòa GĐT,TT nhưng việc thực hiện quyền này cũng bị hạn chế, chỉ được trình
bày những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Với quy định như
vậy, có ý kiến cho rằng, trong phiên tòa xét xử GĐT,TT, Hội đồng xét xử sẽ
không phải chịu sức ép từ phía các đương sự hoặc dư luận xã hội cho nên chất
lượng của bản án, quyết định giám đốc thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Việc trình bày
ý kiến của đương sự ở đây có ý nghĩa thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý
với việc kháng nghị, với nội dung kháng nghị, với những nhận xét, đánh giá,
quan điểm của Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc đương sự khác. Đương sự
cũng có thể trình bày về nội dung vụ việc, những đánh giá, nhận định, phán
quyết sai lầm hoặc những vi phạm nghiêm trọng của Tòa án cấp sơ thẩm,
53
phúc thẩm, về những tài liệu chứng cứ mới mà đương sự cung cấp hoặc do
VKS, Tòa án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy
nhiên việc trình bày ý kiến của đương sự ở đây không phải là sự tranh tụng
trong phiên tòa GĐT,TT vụ việc dân sự, do vậy, có thể là một yếu tố làm
giảm đi chất lượng của việc xét xử GĐT,TT.
2.3 Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa
án nhân dân tối cao.
2.3.1. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao
trong tiếp nhận, giải quyết đơn, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự
Theo quy định tại tại Điều 104 Hiến pháp và khoản 1, Điều 20 Luật
TCTAND năm 2014, TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam. Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam bao gồm: 1.
TANDTC; 2. Tòa án nhân dân cấp cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; 5. Tòa án quân sự9 Tòa án quân sự không phải là
một cấp tòa án mà được tổ chức trong quân đội, bao gồm: Tòa án quân sự
trung ương; Tòa án quân sự quân khu và tương đương(gọi chung là tòa án
quân sự cấp quân khu; Tòa án quân sự khu vực). Cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân tối cao gồm:
a) Hội đồng Thẩm phán TANDTC;
b) Bộ máy giúp việc;
c) Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
TANDTC có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán TANDTC,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động.
Số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC không dưới mười
9 9 Xem Điều 3 Luật TCTAND năm 2014.
ba người và không quá mười bảy người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án
54
TANDTC là Thẩm phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC.
Hội đồng Thẩm phán TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn: Giám đốc
thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Hoạt động của Hội đồng thẩm
phán TANDTC hoạt động bằng hình thức phiên họp. Phiên họp của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia;
quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải được quá nửa tổng số
thành viên biểu quyết tán thành.
Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị.
Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng
Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán TANDTC.
Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05
Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán TANDTC được thực hiện theo quy định
của luật tố tụng.
Bộ máy giúp việc của TANDTC gồm :
a) Văn phòng; b) Cục Kế hoạch - Tài chính; c) Vụ Giám đốc, kiểm tra
về hình sự, hành chính (Vụ Giám đốc kiểm tra I); d) Vụ Giám đốc, kiểm tra
về dân sự, kinh doanh - thương mại (Vụ Giám đốc kiểm tra II); đ) Vụ Giám
đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và người chưa thành niên (Vụ Giám đốc
kiểm tra III); e) Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học; g) Ban Thanh tra; h) Vụ
Tổ chức - Cán bộ; i) Vụ Tổng hợp; k) Vụ Hợp tác quốc tế; l) Vụ Thi đua -
Khen thưởng; m) Vụ Công tác phía Nam; n) Báo Công lý; o) Tạp chí Tòa án
nhân dân.
Trong số các cơ quan thuộc bộ máy giúp việc nêu trên, Vụ Giám đốc,
kiểm tra về dân sự, kinh doanh - thương mại ( gọi tắt là Vụ Giám đốc kiểm tra
II) là cơ quan trực tiếp giúp TANDTC giải quyết việc xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 5, Điều 6 của Quyết định số
55
918/2015/QĐ-TANDTC ngày 23/6/2015 của Chánh án TANDTC về Tổ chức
bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của
TANDTC thì Vụ này có cơ cấu tổ chức gồm: Vụ trưởng, các Phó Vụ trưởng,
các Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, các công chức và nhân viên khác. Vụ giám
đốc kiểm tra II được thành lập từ tháng 7 năm 2015, thời điểm thành lập có
một Vụ trưởng, một Phó vụ trưởng, 41 Thẩm tra viên, trong đó có 6 Thẩm tra
viên chính và 3 Thư ký (với nhiệm vụ làm công tác văn thư và quản lý hồ sơ).
Các Thẩm tra viên làm nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, đề xuất quan điểm giải
quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, làm thư ký phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm khi Hội đồng thẩm phán họp, tổ chức phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm. Đến tháng 9/2017 Vụ đã kiện toàn tổ chức, biên chế hiện tại có 34
người, trong đó có một Vụ trưởng, bốn Phó vụ trưởng, còn lại là Thẩm tra
viên, không có Thư ký. Nhiệm vụ Thư ký Hội đồng thẩm phán TANDTC do
các Thẩm tra viên thực hiện. Nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Giám đốc kiểm
tra II gồm:
a) Giúp Chánh án TANDTC trong việc xem xét, giải quyết các văn bản
yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về lĩnh vực dân sự, kinh doanh -
thương mại và phá sản thuộc thẩm quyền của TANDTC theo quy định của
pháp luật.
b) Giúp Chánh án TANDTC tổ chức và cử thư ký các phiên họp, phiên
xét xử của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về lĩnh vực dân sự, kinh doanh -
thương mại và phá sản……
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội số 957/NQ-UBTVQH13, ngày 28/5/2015 về
việc thành lập Tòa án nhân dân cấp cao, hiện nay, hệ thống Tòa án nhân dân
cấp cao gồm: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án
nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
56
cấp tỉnh và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của tòa án cấp huyện, tòa án cấp tỉnh trong phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ. Vụ giám đốc, kiểm tra II thuộc Tòa án tối cao giải quyết đơn đề
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định mà Tòa án cấp cao đã
giải quyết nhưng vẫn còn đơn khiếu nại tiếp theo hoặc đơn lần đầu nhưng do
các cơ quan thuộc Chính phủ, Quốc hội, các vị lão thành cách mạng, nguyên
là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chuyển đến, đề nghị
(sau đây gọi tắt là đơn thuộc trường hợp 8.1), các vụ án khác do Hội đồng
thẩm phán TANDTC giao.
2.3.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự
trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở Tòa án nhân dân tối
cao.
Trong những năm qua, TANDTC mà trực tiếp là Vụ giám đốc kiểm tra
II đã tiếp nhận, xử lý và phân loại, thụ lý hàng nghìn đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự; nghiên cứu, giải quyết dứt điểm nhiều đơn.
Cụ thể:
Năm 2013: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.615 vụ án, giải quyết 1.318
vụ, đạt tỉ lệ 81,6%
Năm 2014: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.695 vụ án, giải quyết 1.426
vụ, đạt tỉ lệ 84,13%.
Năm 2015: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.417 vụ án, giải quyết 1.185
vụ, đạt tỉ lệ 83,62%.
Cuối năm 2015(Thực hiện theo Luật tổ chức Tòa án năm 2014)
TANDTC giải thể Tòa Dân sự chuyển thành Vụ Giám đốc kiểm tra II ( phụ
trách án Dân sự, Kinh doanh thương mại). Lúc này quy trình giám đốc thẩm,
tái thẩm thực hiện như sau: TANDCC giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án mà
TAND cấp huyện và tỉnh ( theo lãnh thổ) xét xử đã có hiệu lực pháp luật bị
đề nghị GĐT, TT. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án
57
thuộc diện 8.1 và những vụ án thuộc thẩm quyền của TANDCC nhưng có
khiếu nại kéo dài. Như vậy từ năm 2016, phạm vi GĐT, TT của TANDTC
được thu hẹp, số lượng đơn đề nghị GĐT, TT đã giảm gánh nặng cho
TANDTC.
Năm 2016: Từ tháng 7/ 2015 đến ngày 30/9/2016 Vụ giám đốc kiểm
tra II đã tiếp nhận, thụ lý 1.077 đơn đề nghị GĐT, TT, trong đó có 390 đơn
thuộc trường hợp có kiến nghị hoặc văn bản chuyển đơn và có yêu cầu thông
báo kết quả giải quyết đơn thuộc trường hợp 8.1.
Trong số 1.077 đơn, đã giải quyết được 885 đơn chiếm tỉ lệ 82,17%;
cụ thể: 553 đơn được giải quyết dứt điểm, gồm 410 đơn có Thông báo trả lời
với nội dung không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; 143 đơn
trình Chánh án TANDTC ban hành kháng nghị GĐT,TT. Số lượng vụ án trình
Hội đồng Thẩm phán TANDTC đưa ra xét xử giám đốc thẩm là 121 vụ án.
Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã mở phiên tòa giám đốc xét xử dứt điểm 64
vụ; Chánh án TANDTC rút kháng nghị 03 vụ; còn 54 vụ đang chờ Hội đồng thẩm phán TANDTC xem xét giải quyết10. Năm 2017: Vụ giám đốc kiểm
tra II tiếp nhận 1.202 đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, trong
đó đơn không thuộc thẩm quyền là 460; thụ lý 660 đơn; đơn tồn từ năm 2016
là 344 đơn. Tổng số đơn phải giải quyết là 1004 đơn. Trong đó đã giải quyết
784 đơn(vụ), chiếm tỉ lệ 87,4%; gồm 433 đơn ra thông báo trả lời đơn; Chánh
án TANDTC kháng nghị 109 vụ ( 84 dân sự; 25 KDTM), còn lại đang chờ
giải quyết. Trong số 1.004 đơn đề nghị có 288 đơn thuộc trường hợp 8.1.Vụ
đã giải quyết dứt điểm 195 đơn ( 146 đơn có thông báo trả lời đơn với nội
dung không có căn cứ kháng nghị; 49 đơn/vụ đã kháng nghị), còn 93 vụ đang giải quyết11.
10 Báo cáo thống kê của Vụ Giám đốc II-TANDTC, năm 2016. 11 11 Báo cáo thống kê của Vụ Giám đốc II-TANDTC, năm 2017.
Nhìn tổng thể, TANDTC hàng năm tiếp nhận hàng nghìn đơn liên quan
58
đến vụ việc dân sự đề nghị kháng nghị GĐT,TT, đã nhanh chóng, kịp thời
giải quyết nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tỷ lệ giải
quyết thường chiếm trên 80% và không có khiếu nại, đề nghị tiếp theo. Hội
đồng thẩm phán TANDTC hàng năm đã xét xử GĐT,TT hàng trăm vụ việc
dân sự do có kháng nghị của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC
hoặc có yêu cầu của Ủy ban thường vụ quốc hội, Ủy ban tư pháp quốc hội,
Mặt trân tổ quốc Việt Nam. Các vụ việc dân sự do Hội đồng thẩm phán
TANDTC xét xử GĐT,TT đã bảo đảm đúng pháp luật, giải quyết được những
mâu thuẫn, tranh chấp mà các bản án, quyết định của các tòa án trước đã xét
xử còn chưa giải quyết triệt để. Qua đó, quyền của đương sự cũng như lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được
bảo đảm [21].
Để đánh giá kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự trong
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở TANDTC, trước tiên chúng
ta xem xét bảng số liệu xét xử GĐT,TT trong thời gian 05 năm (từ năm 2013
đến năm 2017) sau đây, thể hiện công tác xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự của
TANDTC dưới đây [21]:
Bảng 2.1: Thống kê kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự của hội
đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao12
CHẤP NHẬN KHÁNG NGHỊ
ĐÃ KHÁNG NGHỊ
ĐÃ XÉT XỬ
RÚT KHÁNG NGHỊ
KHÔNG CHẤP NHẬN KHÁNG NGHỊ
NNăm
CChánh án KN
CChánh án KN
CChánh án KN
VViện trưởng KN
VViện trưởng KN
VViện trưởng KN
Chánh án KN
VViện trưởng KN
HHủy pt để pt xét xử lại
HHủy pt để đình chỉ
Hủy st, giám đốc thẩm để st lại
Hhủy pt giữ st
Hủy sơ thẩm giao tòa sơ thẩm xét xử lại 0
HHủy st, pt để st xét xử lại 110 1117 00
22013 1127
332
1117
227
00
44
0
11
00
112
12 Báo cáo thống kê kết quả xét xử GĐT các vụ việc dân sự của Cục thống kê TANDTC các năm 2013,
2014, 2015, 2016, 2017..
22014 667 22015 339 22016 1121 22017 993 Ttổng 4447
99 77 335 113 996
445 330 554 665 3311
55 44 110 223 669
11 11 00 00 66
5 0 5 3 13
44 338 11 55 228 00 22 668 00 220 554 00 441 3305 11
0 0 0 0 0
55 11 11 11 00 00 33 33 22 11 11 110 66 119 116
00 00 00 00 00
59
Qua số liệu nói trên, ta có một số nhận xét như sau:
- Tình hình kháng nghị của TANDTC và VKSNDTC đối với các bản
án dân sự được thực hiện hàng năm, trong đó, tỷ lệ kháng nghị của Chánh án
TANDTC cao hơn so với kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC(447/96
vụ). Điều này cho thấy các cơ quan của TANDTC đã thực hiện tốt công tác
tiếp nhận, thụ lý, giải quyết đơn kháng nghị của đương sự. các Thẩm tra viên,
Thẩm phán đã nghiên cứu kỹ đơn, hồ sơ vụ án, qua đó phát hiện nhiều vụ án
đã bị xét xử sai, có vi phạm tại các tòa án sơ thẩm và phúc thẩm, báo cáo để
Chánh án TANDTC kháng nghị theo thẩm quyền;
- Tổng số các vụ án do TANDTC và VKSNDTC kháng nghị hàng năm
có sự tăng giảm không đồng đều, năm cao nhất 2013 là 159 vụ, năm thấp nhất
2015 là 46 vụ. Năm 2017 là 106 vụ. Mặc dù tỷ lệ kháng nghị hàng năm không
đồng đều, năm tăng, năm giảm thất thường nhưng vẫn có xu hướng giảm.
Điều này cho thấy chất lượng xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm được nâng lên,
tỷ lệ các vụ án xét xử có sai phạm đã giảm đi, dẫn đến việc kháng nghị GĐT
ở TANDTC giảm;
- Tỷ lệ xét xử GĐT hàng năm trung bình đạt 74%( 400/543 vụ), là tỷ
lệc cao, thể hiện sự nỗ lực cố gắng và quyết tâm giải quyết án dân sự của
TANDTC;
- Tỷ lệ xét xử chấp nhận kháng nghị cao, đạt 80,4%( 437/543 vụ), trong
đó các kháng nghị của Chánh án TANDTC đều được Hội đồng GĐT chấp
nhận. Toàn bộ 6 kháng nghị GĐT không được chấp nhận đều do Viện trưởng
VKSNDTC kháng nghị; Qua đây cho thấy việc nghiên cứu, phát hiện bản án
có vi phạm của các Thẩm phán của TANDTC có chất lượng cao, bảo đảm
60
việc kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật;
- Việc rút kháng nghị của TANDTC và VKSNDTC là 6,4%, tuy chiếm
tỷ lệ không cao( 35/543 vụ), nhưng cũng thể hiện chất lượng của kháng nghị
chưa bảo đảm ở mức cao nhất. Việc rút kháng nghị được thực hiện ở các giai
đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử nếu xét thấy kháng nghị không có căn
cứ;
- Trong số các quyết định của Hội đồng GĐT hủy các bản án thì quyết
định hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để giao Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại
chiếm tỷ lệ cao nhất là 80,2%( 305/380 vụ); Tỷ lệ quyết định hủy bản án sơ
thẩm, giám đốc thẩm để xét xử sơ thẩm lại chiếm tỷ lệ thấp nhất là 0%.
- Ngoài 6 kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC không được Hội
đồng GĐT chấp nhận, các vụ án được đưa ra xét xử đều được HĐ GĐT quyết
định hủy để xét xử lại hoặc giữ nguyên bản án có hiệu lực đúng quy định của
pháp luật. Kết quả trên cho thấy việc TANDTC đã nhanh chóng, kịp thời xem
xét đơn yêu cầu kháng nghị GĐT của đương sự, nghiên cứu hồ sơ, bản án một
cách kỹ lưỡng, ban hành kháng nghị và tiến hành xét xử GĐT một cách nhanh
chóng, có hiệu quả, ban hành quyết định hủy các bản án vi phạm để xét xử lại
hoặc giữ nguyên bản án có hiệu lực, đúng pháp luật đã bảo đảm quyền đương
sự trong thủ tục GĐT vụ án dân sự;
- Kết quả của xét xử GĐT,TT cũng là kết quả của việc sửa chữa những
sai lầm của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, do vậy, công tác
GĐT,TT của TANDTC đã có tác động không nhỏ đến chất lượng xét xử trong
lĩnh vực dân sự của toàn ngành Tòa án. Việc Tòa GĐT,TT xác định và sửa
chữa kịp thời những vi phạm, sai lầm trong các bản án, quyết định đã giúp
tòa án các cấp nhận ra những vi phạm, sai sót trong quá trình giải quyết vụ án,
từ đó nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức của đội ngũ Thẩm
phán TAND các cấp. Trên cơ sở kết quả xét xử đó, TANDTC đã có những
tổng kết thực tiễn, từ đó ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, định hướng đúng
61
đắn cho công tác xét xử của ngành Tòa án. Đồng thời, kết quả xét xử của tòa
GĐT, TT vụ việc dân sự của TANDTC đã góp phần quan trọng trong việc
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự. Nhiều
bản án, quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã thay đổi toàn bộ
quyết định trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, mở ra một hướng
mới cho việc xét xử lại vụ việc dân sự.
Trên thực tế, Quy trình thực hiện một vụ án giám đốc thẩm được thực
hiện bởi những công việc chính như sau: Sau khi có đơn đề nghị Giám đốc
thẩm, tái thẩm, TANDTC sẽ ra quyết định thụ lý vụ án, thu thập tài liệu
chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án, đưa ra tờ trình trình Chánh án TAND TC
quyết định có hay không việc Kháng nghị. Thực tế hiện nay, công tác nặng nề
nhất là tiếp nhận và giải quyết văn bản đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc
gửi đơn đề nghị của đương sự không mất phí và có thể xảy ra việc kháng
nghị, điều đó cho thấy đương sự thực sự rất muốn gửi đơn đề nghị, và hệ lụy
là gần như các vụ án sau khi xét xử phúc thẩm có hiệu lực, đương sự đều thực
hiện quyền gửi đơn đề nghị GĐT, TT.
GĐT,TT vụ việc dân sự không phải là một cấp xét xử mà là thủ tục đặc
biệt xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các cấp tòa án, của
Hội đồng thẩm phán TANDTC do bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật, có
tình tiết mới hoặc có yêu cầu, đề nghị, kiến nghị của các cơ quan nhà nước,
của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC. Thủ tục GĐT, TT bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, quyền của đương sự một cách triệt để cả
trong trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đã được thi
hành trên thực tế nhưng phát hiện những vi phạm pháp luật, tình tiết mới xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, trong nhiều năm
qua, TANDTC luôn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, quy
chế, quy định của ngành Tòa án, đổi mới tổ chức bộ máy, phương thức làm
việc, tổ chức cán bộ nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để đương sự có thể tiếp
62
cận được với các cơ quan của TANDTC, thực hiện, bảo vệ quyền và nghĩa vụ
của mình. Để thuận lợi và xử lý nhanh chóng những đơn đề nghị giám đốc
thẩm của đương sự, văn bản yêu cầu, kiến nghị, đề nghị kháng nghị GĐT,TT,
tại TANDTC đã thành lập phòng tiếp công dân, nhận đơn, văn bản và ban
hành Quy chế giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục GĐT,TT( ban
hành kèm theo quyết định số 625/QĐ-CA ngày 6/9/2016 của Chánh án
TANDTC, sau đây gọi tắt là Quy chế số 625/QĐ-CA). Quy chế quy định rõ
ràng, cụ thể trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết đơn
đề nghị giám đốc thẩm của đương sự; thông báo, kiến nghị của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
(sau đây gọi chung là văn bản đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tại Tòa án nhân dân theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng
hành chính. Vì vậy, việc khiếu nại, nộp đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT của
đương sự được thuận lợi, không bị gây phiền hà, chậm trễ. Quy chế quy định
cả trong trường hợp, nếu thời hạn kháng nghị còn ít hơn 3 ngày thì đơn, văn
bản đề nghị phải được xem xét giải quyết ngay trong ngày để bảo đảm quyền lợi của đương sự13. Trường hợp có đơn yêu cầu hoãn thi hành án và thấy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có dấu hiệu sai, nếu thi hành có thể
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Chánh án hoặc Phó chánh án TANDTC yêu cầu hoãn thi hành án.14 Trường hợp có căn cứ thì
Chánh án TANDTC sẽ ban hành kháng nghị GĐT. Những quy định trên thể
hiện quyền của đương sự được bảo đảm ngay từ bước đầu của quá trình tố
tụng theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự [22].
13 Xem Khoản 2 Điều 7 Quy chế số 625/QĐ-CA. 14 Xem Điều 29, Điều 30 Quy chế số 625/QĐ-CA.
Đương sự trong khi nộp đơn đề nghị GĐT,TT và trong cả quá trình giải
63
quyết theo thủ tục GĐT,TT có thể nộp bổ sung những chứng cứ, tài liệu mới
liên quan đến việc phát hiện, xác định bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật có sai lầm, vi phạm pháp luật để khẳng định yêu cầu của mình là có căn
cứ. Thẩm tra viên, Thẩm phán của TANDTC tiếp nhận đầy đủ chứng cứ, tài
liệu mới để xem xét, đánh giá, đưa ra quan điểm của mình trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự.
Quyền của đương sự trong xét xử GĐT,TT vụ việc không chỉ được
nhìn nhận, đánh giá ở khía cạnh những quy định pháp luật về quyền phát hiện
vi phạm pháp luật của bản án, quyết định, quyền nộp đơn, nhận thông báo, bổ
sung tài liệu, chứng cúa, tham dự và trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT
mà phải luôn gắn liền với các hoạt động của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư
ký phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đối với phiên tòa. Những hoạt
động của Thẩm phán, Kiểm sát viên có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực
hiện quyền của đương sự, bởi vì, khi họ giải quyết vụ việc đúng theo quy định
của pháp luật về thời hạn, trình tự, thủ tục, về nghiên cứu đánh giá nội dung
vụ việc, từ đó đưa ra được những kết luận, phán quyết đúng đắn trong quyết
định GĐT,TT. Chỉ trên cơ sở Thẩm phán, KSV, Thư ký phiên tòa thực hiện
đúng những quy định của pháp luật, giải quyết vụ án một cách công tâm,
khách quan, coi trọng quyền và lợi ích chính đáng của đương sự thì quyền của
đương sự mới thực sự được bảo đảm thực hiện.
Ngay sau khi có kháng nghị GĐT, TT, Chánh án TANDTC phân công
Thẩm phán tiến hành các hoạt động nghiệp vụ như yêu cầu chuyển vụ án đến
Tòa án có thẩm quyền GĐT,TT, nghiên cứu hồ sơ vụ án và làm bản thuyết
trình. Để bảo vệ quyền của đương sự trong vụ việc đã được các cấp Tòa án
giải quyết nhưng đương sự vẫn có đơn khiếu nại, người có thẩm quyền đã
quyết định kháng nghị, Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ việc
mà không chỉ giới hạn trong nội dung kháng nghị để xác định những nội dung
kháng nghị có bảo đảm đúng quy định của pháp luật hay không? Tuy nhiên
64
Thẩm phán cần xác định phạm vi nghiên cứu để đạt được hiệu quả cao nhất là
phải giải quyết được những vấn đề mà đương sự yêu cầu hoặc người kháng
nghị yêu cầu giải quyết, ví dụ, trong vụ án có nhiều đương sự nhưng kháng
nghị chỉ yêu cầu tăng mức bồi thường cho một đương sự thì thẩm phán chỉ tập trung sâu vào việc xem xét mức bồi thường cho đương sự đó15. Việc
nghiên cứu, xem xét toàn bộ vụ việc nhằm mục đích xác định những vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định bị kháng nghị để kịp thời
khắc phục, bảo đảm cho bản, án, quyết định đó hợp pháp và đúng pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, vụ việc mà Hội
đồng GĐT,TT xem xét là vụ việc mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và người kháng nghị chỉ yêu cầu giải quyết phần bản án, quyết định có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng nên ưu tiên của Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ
cũng như của Hội đồng GĐT,TT vẫn là phần bản án, quyết định bị kháng
nghị. Tùy vào kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm mà Thẩm
phán có phương pháp và phạm vi nghiên cứu phù hợp. Đối với kháng nghị
giám đốc thẩm, bản án, quyết định bị kháng nghị với những căn cứ khác nhau
nên Thẩm phán cũng tập trung nghiên cứu, xem xét, đánh giá những căn cứ
đó:
- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì kết luận trong bản án, quyết
định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây
thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì Thẩm phán cần tập
trung vào việc xem xét quá trình chứng minh vụ việc, bao gồm việc cung cấp,
thu thập, đánh giá chứng cứ, đánh giái tính khách quan, hợp pháp và tính có
liên quan của chứng cứ, so sánh sự tương quan phù hợp của chứng cứ với kết
luận trong bản án, quyết định;
- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì có vi phạm nghiêm trọng thủ
15 Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự, Học Viện tư pháp, NXB CAND, 2007.
tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng
65
của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo
đúng quy định của pháp luật thì Thẩm phán tập trung xem xét các thủ tục tố
tụng trong thu thập chứng cứ, trong việc thụ lý, giao gửi văn bản, trong thẩm
quyền, thời hạn mở phiên họp, phiên tòa, trong quá trình xét xử, giao, gửi bản
án.. để xem có vi phạm thủ tục tố tụng hay không? Đánh giá tính chất mức đọ
vi phạm có nghiêm trọng dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được
bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật hay không?
- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì có sai lầm trong việc áp dụng
pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì Thẩm phán
tập trung xem xét các quy định của BLDS, luật kinh doanh thương mại, luật
lao động mà tòa án áp dụng trong bản án quyết định được nhận thức đúng hay
không? Việc áp dụng các quy định đó vào vụ việc cụ thể bị kháng nghị có
đúng đắn hay không?
Tương tự như vậy, đối với kháng nghị tái thẩm, Thẩm phán cũng tập
trung nghiên cứu để xác định nội dung các căn cứ kháng nghị theo 4 khoản
của Điều 352 BLTTDS để đưa ra nhận xét, đánh giá, quan điểm giải quyết vụ
việc của mình. Do tính chất của tái thẩm là phát hiện tình tiết mới, Viện kiểm
sát tiến hành xác minh, kháng nghị nên Thẩm phán ngoài việc nghiên cứu hồ
sơ vụ việc đã được tòa án các cấp giải quyết, Thẩm phán còn nghiên cứu tài
liệu xác minh tình tiết mới của VKS;
- Thẩm phán cần đánh giá tình tiết được phát hiện có phải là tình tiết
mới hay không? Đó là tình tiết chưa hề được biết trong quá trình giải quyết vụ
việc, chưa có trong hồ sơ vụ án và Tòa án đã không biết khi ra bản án, quyết
định. Trường họp tình tiết đó đã có trong hồ sơ vụ án nhưng vì bất kỳ lý do
nào đó mà tòa án đã không biết được khi ra bản án, quyết định thì không phải
là tình tiết mới và vụ việc được kháng nghị theo thủ tục GĐT;
66
- Đánh giá mối quan hệ của tình tiết mới được phát hiện với phán quyết
của tòa án trong bản án, quyết định bị kháng nghị tái thẩm. Tình tiết mới được
đưa ra có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật mới được chấp nhận làm căn cứ để xét xử tái thẩm.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán đề nghị với Chánh án TANDTC
tổ chức Hội đồng xét xử, làm bản thuyết trình. Do GĐT,TT là thủ tục đặc biệt
xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị nên HĐXX được thành lập với thành
phần tùy theo quy định tại Điều 337 BLTTDS. Bản thuyết trình của Thẩm
phán được trình bày tại phiên tòa GĐT,TT cho nên phải chi tiết, cụ thể, khách
quan, phải nêu được nội dung vụ việc của bản án, quyết định, những quyết
định của tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nội
dung kháng nghị, những vấn đề thuộc nội dung vụ việc cần xem xét, nhất là
các nội dung mà theo Thẩm phán có khác với bản án, quyết định bị kháng
nghị hoặc khác với bản kháng nghị, đề xuất với Hội đồng xét xử hướng giải
quyết vụ việc và cơ sở của việc giải quyết của đề xuất đó. Bản thuyết trình
được gửi cho các thành viên Hội đồng xét xử 7 ngày trước ngày mở phiên tòa
để các thành viên đó nghiên cứu chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa
GĐT,TT. Thẩm phán thực hiện công việc triệu tập những người tham dự
phiên tòa, gửi quyết định đưa vụ việc ra xét xử cho VKS cùng cấp để cử KSV
tham gia. Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Thẩm phán triệu tập đương sự có liên
quan đến việc kháng nghị. Đây là việc làm quan trọng để bảo đảm quyền
được tham gia phiên tòa GĐT,TT của đương sự, để họ được trình bày thêm
những ý kiến về quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến kháng nghị, về các tài
liệu, chứng cứ chưa rõ ràng trong hồ sơ vụ việc; về tình hình thi hành bản án,
quyết định bị kháng nghị; để đương sự tham gia tranh tụng tại phiên tòa đối
với các nội dung liên quan đến kháng nghị.
Trong các phiên tòa GĐT,TT của Hội đồng thẩm phán TANDTC trong
67
những năm qua, rất nhiều vụ việc Tòa án đã triệu tập đương sự có liên quan
đến kháng nghị để họ tham gia vào quá trình xét xử, chính vì vậy đã giúp cho
HĐXX đánh giá đúng đắn mọi vấn đề còn mâu thuẫn, còn chưa được làm
sáng tỏ hoặc làm rõ những tình tiết mới mà đã không được phát hiện ra trong
các phiên tòa trước đó, giúp HĐXX đưa ra những quyết định đúng đắn của
mình.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Tại chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích các nội dung quyền của đương
sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, theo đó, đương sự có quyền phát
hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo
thủ tục GĐT, TT. Đây là quyền đầu tiên, cơ bản để đương sự được tham gia
vào quá trình tố tụng dân sự theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Quyền này
cho phép đương sự phát hiện những vi phạm, sai lầm trong bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để tiếp tục yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành việc xét lại bản án, quyết định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Trong trường hợp đương sự phát hiện hoặc cho rằng bản án, quyết định
có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng, đương sự có quyền làm đơn, nộp đơn đề
nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự. Đơn đề nghị
của đương sự đánh dấu quá trình khởi động tố tụng dân sự theo trình tự
GĐT,TT, bởi lẽ, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét, nghiên cứu
đơn, hồ sơ vụ việc, kết luận về tính có căn cứ của đơn yêu cầu, trên cơ sở đó
quyết định ban hành hoặc không ban hành quyết định kháng nghị. Tiếp theo,
trong quá trình gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị và tại phiên tòa GĐT,TT,
đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán, Kiểm
sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu để phục vụ việc quyết định kháng
68
nghị, các thành viên Hội đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu
chứng cứ đó tại phiên tòa để đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của
mình. Khi Tòa án quyết định mở phiên tòa GĐT,TT để xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền được tham gia phiên tòa
GĐT,TT khi được triệu tập. Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu
tập là quyền của đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó,
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng
cấp thì trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người
đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc
người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên
tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa. Cuối cùng, đương sự có quyền trình bày ý
kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu. Để bảo đảm việc đánh giá, kết
luận của Hội đồng xét xử được đúng đắn, khách quan, tại phiên tòa đương sự
được trình bày ý kiến của mình vè việc vi phạm, sai lầm của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Việc vi phạm sai lầm đó đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tại chương 2, tác giả đánh
giá thực tiễn thực hiện quyền đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự mà Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện trong giai đoạn
2013-2017, đưa ra bức tranh tổng quát về việc thực thi nhiệm vụ giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao. Từ thực tiễn đó, tác giả sẽ đánh giá
những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quyền của đương sự và đưa ra
những giải pháp đảm bảo thực hiện quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,
tái thẩm vụ việc dân sự.
69
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
VỤ VIỆC DÂN SỰ
3.1 Một số khó khăn, vƣớng mắc trong thực hiện quyền đƣơng sự
trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân
dân tối cao
Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi BLDS, BLTTDS năm 2015
có hiệu lực pháp luật, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự nói chung và thủ tục
GĐT,TT nói riêng đã có những quy định mới, tiến bộ cho phép mở rộng
quyền của đương sự trong tất cả các giai đoạn tố tụng dân sự, từ đó nâng cao
quyền của đương sự trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Những đổi mới của
các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, Viện kiểm sát trong tổ chức bộ
máy, cán bộ, ban hành các quy chế đã nâng cao rõ rệt chất lượng việc giải
quyết vụ việc dân sự, qua đó bảo đảm được quyền của đương sự. Những
quyết định của HĐXX GĐT,TT đúng pháp luật, khách quan, thấu tình, đạt lý,
được đương sự chấp nhận, thực hiện. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn,
vướng mắc trong thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ
việc dân sự, làm giảm sút hiệu quả chất lượng công tác xét xử GĐT,TT,
quyền của đương sự chưa được bảo đảm triệt để như kỳ vọng của xã hội.
Những khó khăn, vướng mắc đó xuất phát từ cả những quy định của pháp
luật, từ cả về mặt tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và các biện pháp bảo đảm,
từ cả phía đương sự, cụ thể:
3.1.1 Khó khăn, vướng mắc từ những quy định của pháp luật
+ Thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự vẫn còn là một quy trình có tính
khép kín, chưa bảo đảm tối đa quyền tham gia tố tụng, quyền định đoạt của
đương sự
70
Thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự có thể xem là một quy trình giải quyết
án khép kín, thể hiện ở các mặt: đương sự chỉ có quyền gửi đơn đề nghị xem
xét lại vụ án theo thủ tục GĐT,TT cho cơ quan có thẩm quyền kháng nghị
GĐT,TT; phiên tòa GĐT,TT diễn ra không công khai; sự tham gia của đương
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các phiên tòa
GĐT,TT còn hạn chế, chỉ trong trường hợp được Tòa án triệu tập; đương sự
khi tham gia phiên tòa chỉ được trình bày ý kiến, quan điểm của mình khi
được yêu cầu.
Như đã trình bày ở những phần trên, theo quy định pháp luật tố tụng
dân sự, các đương sự khi nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm bởi các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì
chỉ có quyền gửi đơn đề nghị xem xét lại các phán quyết này cho người có
thẩm quyền kháng nghị. Như vậy, các đương sự không được pháp luật trao
quyền chủ động để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình mà phải
thông qua một chủ thể thuộc cơ quan Nhà nước. Với quy định như vậy, nhiều
tình huống có thể xảy ra trong thực tế, như việc đương sự nhận thấy quyền lợi
của mình không được đảm bảo và có đơn đề nghị nhưng chủ thể có thẩm
quyền lại không tiến hành kháng nghị GĐT,TT.
Ngoài ra, một trong những nguyên tắc chủ đạo của pháp luật tố tụng
dân sự là nguyên tắc xét xử công khai. Tuy nhiên, phiên tòa GĐT,TT được
tiến hành dưới hình thức như một phiên họp với tính chất không công khai.
Với thực tiễn xét xử GĐT,TT như hiện nay, việc tiến hành thiếu công khai
không phải là một cơ chế có thể đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. Pháp luật tố tụng dân sự mặc dù đã có quy định cụ thể về
sự tham gia của đương sự, tuy nhiên sự tham gia này mang tính chất bị động,
phụ thuộc vào quyết định của Tòa án.
Tại phiên tòa GĐT,TT đương sự được tạo cơ hội để trình bày quan
điểm, ý kiến của mình đối với việc giải quyết vụ án nhưng không có quy định
71
để các đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được tranh tụng để tiếp tục
làm rõ nội dung kháng nghị. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự thiếu tin tưởng, không hài lòng của đương sự, nhất là bên thua kiện đối
với quyết định của Tòa án.
+ Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, trong
đó chủ yếu là hoạt động xét xử của Tòa án, của HĐXX để bảo đảm việc xét
xử được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, nhưng trong tố
tụng dân sự, vai trò của VKSND còn mờ nhạt, không có nhiều quyền hạn để
thực hiện việc kiểm sát của mình. Ngay trong thủ tục GĐT,TT, theo quy định
tại Điều 336 BLTTDS, trường hợp Chánh án TANDTC kháng nghị thì quyết
định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng
cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm. Quy định thời hạn như vậy là quá
ít đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự. Tại phiên tòa GĐT,TT, đại
diện VKS cũng chỉ có nhiệm vụ trình bày nội dung kháng nghị, nếu kháng
nghị đó là của Viện trưởng VKSND và phát biểu ý kiến về quyết định kháng
nghị và việc giải quyết vụ án. Do vậy, Viện kiểm sát cũng không có nhiều khả
năng để bảo vệ tốt nhất quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT.
3.1.2 Khó khăn, vướng mắc từ tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và
các biện pháp bảo đảm
Xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự được thực hiện ở TAND cấp cao và ở
TANDTC, do vậy, những khó khăn, vướng mắc từ phía những cơ quan tiến
hành tố tụng chủ yếu ở TANDTC và VKSNDTC. Ở tòa án nhân dân tối cao,
việc trực tiếp giải quyết vấn đề xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự thuộc về Vụ
giám đốc kiểm tra 2 và Hội đồng thẩm pháp TANDTC. Vụ giám đốc kiểm tra
2 có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, giải quyết văn bản đề nghị kháng nghị,
72
thông báo về việc không kháng nghị, nghiên cứu hồ sơ, làm tờ trình về việc
đề xuất kháng nghị, giúp Chánh án TANDTC tổ chức Hội đồng xét xử, tổ
chức và cử người làm thư ký phiên tòa GĐT,TT. Với một khối lượng công
việc lớn và phức tạp như vậy, đòi hỏi phải có một lực lượng lớn nhân sự, các
Thẩm tra viên phải tinh thông pháp luật, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, có chuyên môn nghiệp vụ cao mới có thể đáp ứng
được công việc. Tuy nhiên, với biên chế hiện nay, với 34 người giữ chức
danh Thẩm tra viên và Thẩm tra viên chính, có thể nói chưa bảo đảm được về
mặt nhân sự cho công tác của Vụ giám đốc kiểm tra II. Hơn nữa Vụ giám đốc
kiểm tra II tiền thân là Tòa Dân sự Tòa kinh tế TANDTC; tuy nhiên Tòa Dân
sự có Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nên khi Thẩm tra viên nghiên cứu hồ sơ, trình Lãnh đạo thì Lãnh đạo
có thể phê duyệt và ký Thông báo trả lời đơn ngay, chỉ những vụ án có Kháng
nghị mới trình Hội đồng thẩm phán xem xét và trình Chánh án ký ban hành
quyết định kháng nghị. Vụ Giám đốc kiểm tra không có thẩm quyền ký văn
bản trả lời mà phải trình Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét, sau đó, Phó
Chánh án TANDTC duyệt, ký văn bản. Như vậy, quy trình báo cáo hồ sơ qua
rất nhiều cung đoạn, các lãnh đạo kiêm nhiệm nhiều việc vì vậy việc báo cáo
gặp nhiều khó khăn dẫn đến chỉ tiêu công tác thấp, quy trình báo cáo, xắp xếp
thời gian báo cáo, tổ chức các phiên họp Hội đồng gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên cũng có những mặt thuận lợi: do quy trình báo cáo khắt khe, mặc dù
năng suất công việc chậm hơn so với mô hình trước, nhưng chất lượng vụ án
được kiểm duyệt khắt khe, các vụ án được phê duyệt trả lời đơn không có vụ
án nào bị khiếu nại; các vụ án có đề xuất kháng nghị được xem xét nhiều
vòng báo cáo, khi trình Chánh án TANDTC sẽ đảm bảo chất lượng, những vụ
kháng nghị đều được TAND cấp dưới thuyết phục, không có kiến nghị, đề
xuất.
Việc xét xử GĐT,TT do các Thẩm phán TANDTC trong Hội đồng
73
thẩm phán thực hiện.Với biên chế hiện nay, số lượng Thẩm phán TANDTC
tối đa là 17 người, gồm cả Chánh án và Phó chánh án(7 người), vừa làm công
tác lãnh đạo của ngành Tòa án, vừa tham gia xét xử GĐT,TT các loại án hình
sự, dân sự, hành chính…nên phải đảm đương lượng lớn công việc, có dấu
hiệu của sự quá tải. Một Thẩm phán đôi khi phải tham gia nhiều loại Hội
đồng xét xử, hoặc trong trường hợp Hội đồng toàn thể HĐTP họp thì tất cả
các Thẩm phán phải tham gia, do vậy, đối với một số Thẩm phán không
chuyên ngành nên cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng của việc xét xử
GĐT, TT. Ở VKSNDTC cũng có tình trạng tương tự như vậy về mặt nhân sự.
Chỉ có KSVVKSNDTC mới được làm đại diện cho VKS kiểm sát hoạt động
tư pháp tại phiên tòa GĐT,TT của TANDTC. Do số lượng KSVVKSNDTC
có hạn( tối đa là 19 người), gồm cả những người đã nghỉ hưu( trên 60 tuổi)
nhưng vẫn được giữ chức vụ KSVVKSNDTC, phải đảm đương nhiều loại án
nên cũng gặp tình trạng quá tải, đồng thời, một số KSV đã nghỉ hưu thôi giữ
chức vụ quản lý nên việc cập nhật những kinh nghiệm thực tiễn, quy định của
pháp luật cũng phần nào bị hạn chế.
Một vấn đề khó khăn trong việc bảo đảm quyền của đương sự trong thủ
tục GĐT,TT vụ việc dân sự nữa xuất phát từ việc cơ sở vật chất để bảo đảm
cho hoạt động của những cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa đáp ứng được
yêu cầu, chế độ đãi ngộ đối với Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát
viên còn thấp. Tại TANDTC và VKSNDTC, diện tích phòng làm việc nói
chung và phòng làm việc dành cho các đơn vị làm công tác liên quan đến việc
xét xử GĐT,TT còn chật hẹp, phương tiện làm việc, trang thiết bị như máy
tính xách tay, phương tiện đi lại, vận chuyển còn hạn chế đã phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng giải quyết công việc xét xử. Chế độ lương, phụ cấp và
các chế độ đãi ngộ khác của Nhà nước đối với đội ngũ KSV, Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư ký còn thấp so với mặt bằng thu nhập chung của xã hội
nên cũng phần nào làm giảm hiệu quả, năng suất, chất lượng công việc. Tuy
74
những vấn đề này đã được Nhà nước ưu tiên, cải thiện nhưng nhìn chung còn
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
3.1.3 Khó khăn vướng mắc từ phía đương sự
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng quyền của đương sự
trong thủ tục GĐT,TT chưa được bảo đảm một cách triệt để xuất phát từ
chính sự hạn chế về nhận thức của các đương sự. Do mặt bằng hiểu biết pháp
luật của các đương sự còn thấp, nên bản thân các đương sự cũng không nhận
thức được tính chất quan trọng của thủ tục GĐT,TT, không có nhiều khả năng
phát hiện được những tình tiết vi phạm pháp luật, những sai lầm hoặc những
tình tiết mới trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Họ
cũng không có khả năng để trực tiếp tiến hành một số hoạt động thu thập
chứng cứ, tài liệu mới để bổ sung cho căn cứ đề nghị kháng nghị hoặc tại
phiên tòa. Do đó, thực tế ngay chính đương sự cũng không biết, không hiểu
nên không hề “lên tiếng” khi quyền lợi của mình bị thiệt hại bởi bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Trong những năm qua, đội ngũ luật sư của Việt
Nam đã có sự lớn mạnh đáng kể, cả về số lượng và chất lượng, tạo ra nhiều
cơ hội cho đương sự được sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, đội
ngũ luật sư còn non trẻ, chưa có nhiều người có kinh nghiệm già dặn trong
việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ở cấp xét xử
GĐT,TT, do vậy cũng chưa có được nhiều kết quả như kỳ vọng của xã hội.
Hơn nữa, các dịch vụ pháp lý cũng như đội ngũ luật sư chủ yếu phát triển ở
các đô thị lớn, chi phí dịch vụ còn cao nên nhiều đương sự cũng chưa có điều
kiện để tiếp cận, sử dụng phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi của mình. Những
khó khăn trên cũng là rào cản của việc bảo đảm thực hiện quyền của đương sự
trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.
75
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của đƣơng
sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối
cao.
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
Theo quy định hiện hành, đương sự không có quyền kháng cáo đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, mà chỉ có quyền gửi
đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT. Quy định này có mặt tích cực là giữ được
tính ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
nhưng mặt không tích cực là quyền của đương sự trong việc tự bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình không được triệt để, không được chủ động, bị hạn chế.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề xuất chỉnh sửa quy định của BLTTDS
theo hướng cho phép đương sự được quyền có đơn kháng cáo GĐT,TT đối
với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi có những
chứng cứ, tài liệu xác định rõ ràng bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm
pháp luật nghiêm trọng. Tuy nhiên, để hạn chế việc mở phiên tòa GĐT,TT khi
có kháng cáo, cần quy định một quy trình chặt chẽ xem xét căn cứ kháng cáo
để quyết định việc mở phiên tòa hay không mở phiên tòa, do vậy, đơn kháng
cáo không phải là căn cứ bắt buộc để mở phiên tòa GĐT,TT.
Qua nghiên cứu pháp luật nước ngoài thì thấy một số nước có quy định
về việc đơn kháng cáo của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.
Pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp có quy định: quyền kháng cáo
phá án thuộc về tất cả các bên có lợi ích trong bản án (Đ. 609 BLTTDS); đơn
kháng cáo GĐT phải được hai luật sư bên cạnh Tòa án ký tên; hoặc tại Hoa
Kỳ, đơn kháng cáo GĐT phải được một số lượng thẩm phán nhất định thuộc
TANDTC đồng ý thì mới mở phiên tòa giám đốc thẩm.
Theo pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Liên bang Nga16, từ Điều
16 Xem Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga.
380 đến Điều 382 đã quy định chi tiết về việc xem xét tính có căn cứ của đơn
76
kháng cáo, đề nghị GĐT để xác định có chuyển lên Tòa án cấp giám đốc thẩm
xét xử hay không? Cụ thể, trong thời hạn 10 ngày, Thẩm phán được phân
công sẽ trả lại đơn kháng cáo của đương sự, đề nghị giám đốc thẩm của KSV
nếu những đơn này không tuân thủ quy định về nội dung đơn được quy định
tại Điều 378 của Bộ luật; đơn được gửi bởi người không có quyền; quá thời
hạn kháng cáo; có yêu cầu trả lại hoặc thu hồi đơn kháng cáo, đề nghị giám
đốc thẩm trước khi bắt đầu xét xử; đơn kháng cáo, đề nghị giám đốc thẩm vi
phạm thẩm quyền xét xử. Sau đó, nếu không trả lại đơn thì trong thời hạn 01
tháng ở Tòa án cấp giám đốc thẩm và 02 tháng ở Tòa án tối cao sẽ tiến hành
giải quyết đơn và ra một trong hai quyết định: chuyển vụ án lên xem xét nếu
nghi ngờ về tính hợp pháp của bản án, quyết định hoặc từ chối chuyển vụ án
lên xem xét nếu các lý lẽ trong đơn hoặc trong đề nghị không dẫn đến việc hủy
bỏ bản án, quyết định của Tòa án. Sau khi vụ án được chuyển lên, trong thời
hạn 02 tháng (hoặc 04 tháng đối với Tòa án tối cao), một Thẩm phán sẽ ra
quyết định từ chối đưa vụ án ra xét xử hoặc đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, một
vụ án dân sự có được đưa ra xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hay không phụ
thuộc vào việc xem xét, đánh giá theo một quy trình rất cụ thể và nhiều giai
đoạn, nhằm bảo đảm quyền lọi của đương sự, đồng thời hạn chế việc mở phiên
tòa giám đốc thẩm đối với những đơn kháng cáo, đề nghị kháng nghị thiếu căn
cứ pháp luật.
Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển chung, trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam, việc trao quyền kháng cáo cho đương sự là cần thiết nhưng
đồng thời phải đặt ra những quy định phù hợp để hạn chế hiện tượng kháng cáo tràn lan của đương sự17 [14].
Để bảo đảm tính công khai của phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi, bổ sung
BLTTDS theo hướng có những quy định về việc chuyển giao quyết định đưa
17 Xem Chu Thị Hồng Nhung, Luận văn Thạc sỹ luật học, tr.45.
vụ án ra xét xử cho đương sự trong một thời hạn nhất định trước khi mở phiên
77
tòa, phải triệu tập đương sự đến tham gia phiên tòa, phải có phần tranh tụng tại
phiên tòa. Với những quy định như vậy, phiên tòa GĐT,TT sẽ bớt đi tính chất
khép kín, tăng thêm sự công khai, minh bạch và việc tiếp tục tranh tụng tại
phiên tòa sẽ giúp cho HĐXX xem xét, nắm bắt được đầy đủ các tình tiết của vụ
việc, qua đó giúp cho phán quyết của HĐXX thêm đúng đắn và khách quan,
khắc phục tình trạng tiếp tục khiếu nại sau phiên tòa.
Đối với phía Viện kiểm sát tham gia phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi bổ
sung theo hướng tăng quyền hạn cho KSV VKSNDTC, như tăng thời hạn
nghiên cứu hồ sơ vụ việc, quy định về thẩm quyền kiểm sát hoạt động tư pháp
tại phiên tòa, trường hợp VKS kháng nghị thì phải quy định về việc tranh tụng
của KSV với đương sự. Đối với hồ sơ GĐT,TT việc dân sự thì thời hạn nghiên
cứu hồ sơ của VKS có thể 15 ngày là đủ để đánh giá, nhưng đối với vụ án dân
sự thì thời hạn này cần tăng thêm mới bảo đảm cho việc nghiên cứu, nắm vững
nội dung, tình tiết vụ án và tính có căn cứ của kháng nghị.
3.2.2 Giải pháp tổng kết thực tiễn công tác xét xử Giám đốc thẩm, tái
thẩm rút kinh nghiệm xét xử, đưa ra văn bản hướng dẫn pháp luật áp dụng
thống nhất trong toàn hệ thống; xây dựng hệ thống án lệ.
Hàng năm, Hội nghị tổng kết công tác TANDTC được tổ chức để đánh
giá công tác chuyên môn và tổng kết kinh nghiệm xét xử ở TANDCC và
TANDTC. Bản án GĐT, TT chính là giám đốc việc xét xử của cấp dưới,
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, có hay không việc xét xử đúng
pháp luật, đưa ra những lý lẽ, lập luận, phân tích đánh giá mức độ sai sót của
bản án sơ thẩm, phúc thẩm, từ đó rút ra những kinh xét xử cho Tòa án cấp
dưới . Việc thường xuyên tổng kết thực tiễn công tác xét xử là một nhiệm vụ
quan trọng để nhìn nhận , đánh giá chất lượng xét xử, kịp thời xây dựng văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ. Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cũng là một kênh
hữu hiệu để công luận và xã hội giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của
TAND. Từ những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, những vụ án điểm,
78
TANDTC phát triển thành án lệ để phục vụ tốt hơn cho công tác xét xử các
loại án nói chung và án Dân sự nói riêng.
3.2.3 Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thực hiện.
Tòa án nhân dân tối cao – vụ Giám đốc kiểm tra về dân sự, kinh doanh
thương mại ( Vụ II) là cơ quan tham mưu trực tiếp, chịu trách nhiệm nghiên
cứu, xem xét, giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân
sự, kinh doanh thương mại. Với những khó khăn như đã phân tích ở phần trên
nên chúng tôi đề xuất kiến nghị giải pháp khắc phục, hoàn thiện như sau: Bộ
máy hành chính cần tổ chức lại theo hướng phân công các Thẩm phán
TANDTC trong Hội đồng Thẩm phán TANDTC phụ trách từng mảng việc
dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động… có thẩm quyền ký
ban hành các văn bản trả lời đơn, còn những vụ việc có đề xuất kháng nghị thì
báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC họp, xét và Chánh án TANDTC ban
hành kháng nghị.
Đối với khó khăn từ phía Hội đồng thẩm phán TANDTC và từ phía
Kiểm sát viên VKSNDTC, chúng tôi đề xuất cần tăng thêm một số lượng nhất
định Thẩm phán TANDTC và Kiểm sát viên VKSNDTC để bảo đảm không
bị quá tải trong công tác xét xử GĐT,TT. Có thể là 21 người ở cả TANDTC
và VKSNDTC. Đồng thời cần phân công có tính chất ổn định Thẩm phán,
Kiểm sát viên vào các Hội đồng xét xử theo từng loại án dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động, hành chính…phù hợp với chuyên môn chuyên sâu của
từng Thẩm phán, Kiểm sát viên. Những Thẩm phán TANDTC, KSV
VKSNDTC hằng năm cũng cần phải tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn,
chuyên sâu để tăng cường nắm chắc các quy định của pháp luật và kinh
nghiệm thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự. Trên cơ sở tăng cường chất lượng
đội ngũ Thẩm phán, KSV sẽ nâng cao được chất lượng xét xử, từ đó tăng
cường bảo đảm quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.
Tăng cường công tác quản lý và điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân
79
dân tối cao trong việc giải quyết văn bản đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Căn cứ vào nhiệm vụ công tác thường xuyên, lãnh đạo đơn vị cần đề
ra chỉ tiêu cụ thể cho từng cán bộ, công chức trong công tác nghiên cứu hồ sơ
vụ án, đưa ra quan điểm giải quyết đơn đề nghị có hay không có căn cứ. Theo
quy chế hiện hành của Vụ Giám đốc kiểm tra II, thì mỗi công chức bình quân
5 vụ /tháng. Trong đó có những vụ việc đơn giản, vụ việc phức tạp, nhiều vụ
kéo dài do thời gian báo cáo án quá lâu, báo cáo nhiều lần, nhiều nội dung cần
làm rõ, xác minh thực tế.
- Thẩm tra viên cần nâng cao ý thức tự giác trong công tác chuyên môn.
Bời đặc thù của công tác GĐT, TT là khi có đơn yêu cầu thì TANDTC sẽ thụ
lý vụ án, phân công người nghiên cứu đề xuất. CBCC trực tiếp nghiên cứu hồ
sơ hết ngày này qua ngày khác, công việc lặp đi lặp lại sẽ gây tâm lý ngại
việc. Quy trình báo cáo qua nhiều cung đoạn sẽ gây mệt mỏi và nhờn việc.
TANDTC đã tranh bị đồng bộ cơ sở vật chất, máy tính kết nối internet, các
trang mạng của Tòa án thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, các
văn bản chỉ đạo, văn bản hướng dẫn pháp luật… từ đó thuận lợi cho CBCC
truy cập, cần tài liệu gì, văn bản gì sẽ có ngay. Đây là khâu cốt yếu để giúp
cán bộ TA nâng cao trình độ chuyên môn, tạo điều kiện tối ưu cho hoạt động
tư pháp.
- Công tác Văn phòng hàng tháng, hàng quý phải thống kê các vụ án có
văn bản đề nghị GĐT, TT, kiểm tra thường xuyên, rà soát tránh để tình trạng
quá thời hạn tố tụng, các vụ án kéo dài, hoặc sắp hết thời hiệu nên phải nghiên
cứu gấp gáp dẫn đến làm nhanh, làm ẩu gây hậu quả xấu cho công tác GĐT,
TT. Đồng thời, Văn phòng trực tiếp rà soát, thụ lý đơn thư khiếu nại, phân
loại các trường hợp đơn thư vượt cấp, kéo dài, đơn thư do cơ quan Bộ, Ban,
Ngành chuyển đơn, hoặc đơn thư do Đại biểu quốc hội quan tâm...từ đó
chuyển đơn đến các đơn vị chuyên môn giải quyết đơn một cách kịp thời,
đúng pháp luật.
80
3.2.4 Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát hoạt
động tư pháp đối với việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật mà Tòa án đã xử.
Bản chất xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xác
định là nhiệm vụ của Tòa án do đó hoạt động này tất nhiên là đối tượng chịu
sự kiểm sát của VKSND. Việc quy định thẩm quyền kháng nghị và tham gia
phiên tòa GĐT, TT là phù hợp với chức năng nhiệm vụ mà Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2014; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014 quy đinh. Trong phiên tòa GĐT, TT Tòa án là cơ quan ra quyết
định cuối cùng, có hay không việc kháng nghị bản án. Thực tế rất ít vụ án có
sự tham gia của đương sự tại phiên tòa GĐT, TT, vì vậy sẽ có hệ lụy là cấp
dưới xử, cấp trên xét lại dễ gây tâm lý tiêu cực, bênh vực lẫn nhau, vì vậy
VKS tham gia phiên tòa GĐT, TT và có quyền đưa ra quan điểm giải quyết
vụ án, thậm chí phát biểu quan điểm không đồng tình với kháng nghị của
Chánh án tại phiên tòa và có quyền bảo lưu quan điểm. Rõ ràng VKS có vai
trò tích cực trong công tác giám sát hoạt động GĐT, TT để đảm bảo việc xét
xử GĐT, TT khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, VKS cần
tăng cường tinh thần trách nhiệm , nắm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mình để
chủ động , tích cực trong việc phát hiện và kháng nghị đối với bản án, quyết
định có vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, hoạt động chuyên môn phục vụ
cho quyền kháng nghị của VKS chưa cao, hiệu quả hạn chế, có nhiều vụ án
mà VKS kháng nghị không được chấp nhận.
Việc kháng nghị xuất phát từ hoạt động kiểm sát hoạt động TA sẽ nâng
cao được chất lượng đối với hoạt động xét xử và bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự.
3.2.5 Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại
biểu dân cử, nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng.
Vấn đề kiểm soát quyền lực giữa cơ quan nhà nước lần đầu tiên được
81
ghi nhận chính thức trong Hiến pháp năm 2013, một văn bản có hiệu lực pháp
lý cao nhất ở nước ta hiện nay.Trong đó, giám sát, đánh giá hành chính được
coi là một phương thức quan trọng trong kiểm soát quyền hành pháp; là thước
đo nhằm kiểm tra, đánh giá và chấn chỉnh hoạt động của các cơ quan, của đội
ngũ cán bộ, công chức trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao.Để nhận diện, đánh giá và nâng cao hiệu quả hoạt động này, cần thiết
phải nghiên cứu một cách toàn diện về cơ chế giám sát việc thực thi công vụ
của cơ quan hành chính nhà nước. Trong đó, cần làm rõ vị trí, vai trò và các
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các thiết chế trong giám sát việc thực thi công
vụ của các cơ quan hành chính nhà nước như kiểm tra,giám sát của Đảng, các
cơ quan quyền lực nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.
Đồng thời, cần làm rõ vị trí,vai trò của các cơ quan thanh tra với tính chất là
một công cụ quan trọng trong quản lý, một phương thức góp phần kiểm soát
việc thực hiện quyền hành pháp từ chính bên trong nội bộ của nền hành chính
nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám
sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường
xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các
cơ quan hành chính khác cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan quyền
lực nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác
tổ chức và hoạt động cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện
pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các
cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở đã đạt được cơ quan
quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp và thực hiện
trong thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy. Cũng qua
hoạt động giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm
nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban hành. Nếu các
82
văn bản luật đó có khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các cơ quan
quyền lực nhà nước đó phải đưa ra những biện pháp khắc phục. Và cũng
thông qua đó các cơ quan quyền lực nhà nước này cũng đưa ra những yêu
cầu và biện pháp để cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu
quả quản lý của nhà nước. Nếu có những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật
tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước thì cần
phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lý nghiêm minh những vi
phạm đó để củng cố pháp chế. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng đã phát huy được kết quả khả quan.
Quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước được thể hiện
trong Hiến pháp năm 2013 không chỉ bằng hình thức ghi nhận quyền của
công dân mà còn khẳng định trách nhiệm giải trình, công bố thông tin liên
quan đến dân những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan nhà
nước. Thủ tướng được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng
đầu Chính phủ. Đây là quy định mới so với Hiến pháp năm 1992, đồng thời
quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước Nhân dân về hoạt động của Chính
phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, về hoạt động của hệ
thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương bảo đảm tính thống
nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. Quy định này không chỉ là bảo
đảm thông tin cho hoạt động giám sát của Nhân dân đối với cơ quan hành
chính trung ương mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để luật hóa quyền tiếp
cận thông tin, quyền tham gia quản lý đất nước của Nhân dân.Hiến pháp năm
2013 khẳng định rõ “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên
Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của
bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực
được phân công” (khoản 1 Điều 99). Hiến pháp lần này đã bổ sung quy định
83
về trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Theo
đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải
trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà còn phải chịu trách nhiệm
giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản
lý của mình” (khoản 2 Điều 99). Trước đó, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) chỉ quy định Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách
trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật, ra quyết định, chỉ thị, thông
tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa
phương và cơ sở,trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về
lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Như vậy, đây là điểm mới nhằm xác định
trách nhiệm cung cấp thông tin cho Nhân dân, qua đó thực hiện có hiệu quả
quyền giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.
3.2.6. Sử dụng kết quả giám đốc thẩm là tiêu chí để đánh giá trực tiếp
chất lượng Cán bộ, công chức.
Đánh giá là một khâu quan trọng, căn bản trong quá trình quản lý và sử
dụng cán bộ, công chức (CBCC), được tiến hành thường xuyên hàng năm
hoặc trước khi xem xét đề bạt, chuyển công tác đối với CBCC. Mục đích của
hoạt động đánh giá nhằm cung cấp thông tin cho công tác quản lý, làm cơ sở
cho các quyết định quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng, tuyển chọn, đề bạt,
lương, thưởng đối với CBCC. Đánh giá đúng, chính xác kết quả làm việc của
CBCC là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dụng đúng với năng
lực, sở trường, từ đó chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và bổ
nhiệm cán bộ. Đồng thời, hoạt động đánh giá CBCC sẽ cung cấp thông tin
phản hồi để CBCC biết rõ về năng lực và việc thực hiện công việc của họ hiện
tại đang ở mức độ nào, giúp họ phấn đấu tự hoàn thiện bản thân và hoàn thành
tốt các nhiệm vụ được giao.
84
Đánh giá CBCC phải dựa trên mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao, thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc
trong từng vị trí, từng thời gian; tinh thần trách nhiệm trong hoạt động công
vụ. Đánh giá theo hiệu quả công tác căn cứ theo tiêu chí của ngành, địa
phương, đơn vị; căn cứ vào sự tín nhiệm của tập thể và người đứng đầu cơ
quan đối với CBCC (lấy hiệu quả công việc làm thước đo). Cần áp dụng các
phương pháp đánh giá CBCC tiên tiến; đổi mới quy trình đánh giá CBCC,
đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, chính xác và trách nhiệm đối với
việc đánh giá CBCC.
Việc đánh giá CBCC làm việc tại các cơ quan hành chính, cơ quan
công quyền, qua nghiên cứu cụ thể trong phạm vi đội ngũ công chức hành
chính cho thấy:
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là người có thẩm quyền quyết
định đánh giá, phân loại CBCC và phải chịu trách nhiệm về quyết định của
mình. Khi đánh giá CBCC phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của người
được đánh giá, đối chiếu với số lượng, khối lượng công việc do cơ quan, tổ
chức cấp trên hoặc người đứng đầu đơn vị giao; làm rõ ưu, khuyết điểm về
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Yêu cầu đặt ra trong đánh giá CBCC là
phải bảo đảm chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng, vô tư, không
thiên vị.
Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị là một
trong những cơ sở để đánh giá, phân loại CBCC. Về nguyên tắc, kết quả đánh
giá, phân loại từng CBCC không được cao hơn mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối với công chức không đảm nhiệm được các
nhiệm vụ tương xứng với chức danh đang giữ (do trình độ, năng lực hạn chế)
thì được phân loại ở mức cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế
về năng lực (đối với công chức).
85
Hoạt động GĐT, TT được hiểu là Giám đốc lại việc xét xử của cấp
dưới , nhận định, đánh giá về tính đúng đắn, có căn cứ mà bản án do cấp dưới
đã xử. Đây là hoạt động giám sát của cấp trên đối với cấp dưới. Trên cơ sở
phân tích , nhận định của Hội đồng xét xử GĐT, TT sẽ thấy được có hay
không vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm pháp luật, áp dụng pháp luật không
thống nhất…có hay không ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, từ đó có
hay không việc hủy toàn bộ, hủy một phần, sửa bản án sơ thẩm, phúc thẩm.
Trên cơ sở kết quả đó sẽ đánh giá cán bộ, công chức, lãnh đạo đơn vị, tập thể
hàng năm dựa trên tiêu chí án hủy, sửa do cán bộ, công chức, lãnh đạo, tập thể
chịu trách nhiệm theo tiêu chí đánh giá thi đua khen thưởng áp dụng cho hệ
thống TAND. Đối với Thẩm phán có kết quả xét xử tốt, án hủy, sửa đều trong
phạm vi cho phép thì được khen thưởng kịp thời, đối với Thẩm phán có kết
quả xét xử vượt mức cho phép về án hủy, sửa thì sẽ xem xét từ phê bình, rút
kinh nghiệm đến các hình thức kỷ luật khác. Như vậy, từ việc xét xử GĐT,
TT để đánh giá điểm thiếu sót trong quá trình xét xử , từ đó xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chất lượng đáp ứng nhiệm vụ chính trị
của Đảng và nhà nước đã giao phó./.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Tại chương 3, tác giả đã trình bày, phân tích, đánh giá được một số kết
quả trong xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự ở TANDTC trong 5 năm từ năm
2013 đến năm 2017. Trong đó, nêu bật được những kết quả tích cực của
TANDTC trong giải quyết theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Tác giả cũng
phân tích, đánh giá một số hạn chế, khó khăn trong việc thực hiện quyền của
đương sự trong thủ tục, GĐT,TT vụ việc dân sự, trong đó có những khó khăn
hạn chế từ những quy định của pháp luật tố tụng dân sự, như quy trình xét xử
GĐT,TT còn có tính khép kín, chưa thực sự công khai, quyền của đương sự
trong giai đoạn này còn có hạn chế như chưa được quy định bắt buộc phải
86
triệu tập đến phiên tòa, chưa được trình bày ý kiến nếu HĐXX chưa cho phép,
chưa có quy định về tranh tụng tại phiên tòa. Những hạn chế này sẽ làm giảm
đi việc thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.
Những hạn chế, khó khăn từ việc tổ chức thực hiện quyền của đương sự, xuất
phát từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, như việc tổ
chức bộ máy, con người của Hội đồng xét xử, của VKSNDTC còn chưa thực
sự đầy đủ về số lượng, có biểu hiện của sự qua tải, một số Thẩm tra viên,
Thẩm phán, Kiểm tra viên, KSV còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Hạn
chế còn xuất phát từ nhận thức pháp luật của đương sự khi tham gia quá trình
tố tụng theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra
một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, ttor chức thực
hiện, nâng cao nhận thức pháp luật cho đương sự nhằm nâng cao chất lượng
công tác xét xử GĐT,TT, qua đó nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền của
đương sự trong thủ tục GĐT, TT vụ việc dân sự.
87
KẾT LUẬN
Bảo vệ quyền con người thông qua chức năng thực hiện quyền tư pháp
mà cụ thể là thông qua việc xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự là nội dung lớn
trong hoạt động của ngành Tòa án. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do Tòa án nhân dân tối cao và
TAND cấp cao thực hiện nhằm bảo đảm triệt để việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự.
Luận văn đã đi sâu phân tích, trình bày những nội dung cơ bản thuộc
thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT,
đã phân tích, đánh giá những nội dung quan trọng có liên quan để đưa ra các
khái niệm cơ bản liên quan đến quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ
việc dân sự, như: khái niệm vụ án dân sự, việc dân sự, vụ việc dân sự; trình
bày những quy định về thủ tục GĐT,TT; về đương sự trong vụ, việc dân sự;
về khái lược hình thành và phát triển quyền của đương sự trong tố tụng dân sự
Việt Nam. Theo đó, Quyền của đương sự từng bước được xây dựng, hoàn
thiện qua các văn bản quy phạm pháp luật, các BLTTDS, thực tiễn xét xử các
vụ việc dân sự theo thủ tục GĐT,TT. Đến BLTTDS năm 2015 thì quyền của
đương sự đã được quy định một cách đầy đủ, phù hợp với những quy định của
luật pháp quốc tế, kế thừa những tinh hoa, tiến bộ trong các bộ luật, văn bản
quy phạm pháp luật trước đây. Những chế định mới của BLTTDS năm 2015
về đương sự, quyền của đương sự, về thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự là
những căn cứ pháp lý, cơ cở vững chắc cho việc bảo đảm thực hiện quyền của
đương sự trong thủ tục GĐT,TT, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự khi tham gia tố tụng dân sự.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, đương sự có quyền phát hiện
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ
tục GĐT, TT. Đây là quyền đầu tiên, cơ bản để đương sự được tham gia vào
88
quá trình tố tụng dân sự theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Quyền này cho
phép đương sự phát hiện những vi phạm, sai lầm trong bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật để tiếp tục yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
việc xét lại bản án, quyết định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong trường hợp đương sự phát hiện hoặc cho rằng bản án, quyết định có vi
phạm, sai lầm nghiêm trọng, đương sự có quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị
xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự. Đơn đề nghị
của đương sự đánh dấu quá trình khởi động tố tụng dân sự theo trình tự
GĐT,TT, bởi lẽ, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét, nghiên cứu
đơn, hồ sơ vụ việc, kết luận về tính có căn cứ của đơn yêu cầu, trên cơ sở đó
quyết định ban hành hoặc không ban hành quyết định kháng nghị. Tiếp theo,
trong quá trình gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị và tại phiên tòa GĐT,TT,
đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán, Kiểm
sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu để phục vụ việc quyết định kháng
nghị, các thành viên Hội đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu
chứng cứ đó tại phiên tòa để đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của
mình. Khi Tòa án quyết định mở phiên tòa GĐT,TT để xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền được tham gia phiên tòa
GĐT,TT khi được triệu tập. Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu
tập là quyền của đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó,
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng
cấp thì trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người
đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc
người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên
tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa. Cuối cùng, đương sự có quyền trình bày ý
89
kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu. Để bảo đảm việc đánh giá, kết
luận của Hội đồng xét xử được đúng đắn, khách quan, tại phiên tòa đương sự
được trình bày ý kiến của mình vè việc vi phạm, sai lầm của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Việc vi phạm sai lầm đó đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tuy nhiên, quyền này đương
sự chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của HĐXX.
Trong 5 năm qua, kể từ năm 2013 đến năm 2017, hoạt động xét xử
GĐT,TT của HĐTP-TANDTC đã đạt được những kết quả rất tích cực, giải
quyết kịp thời nhiều vụ việc dân sự có đơn khiếu nại, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Luận văn cũng phân tích, đánh giá một số hạn chế,
khó khăn trong việc thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục, GĐT,TT vụ
việc dân sự, trong đó có những khó khăn hạn chế từ những quy định của pháp
luật tố tụng dân sự, như quy trình xét xử GĐT,TT còn có tính khép kín, chưa
thực sự công khai, quyền của đương sự trong giai đoạn này còn có hạn chế
như chưa được quy định bắt buộc phải triệu tập đến phiên tòa, chưa được
trình bày ý kiến nếu HĐXX chưa cho phép, chưa có quy định về tranh tụng tại
phiên tòa. Những hạn chế này sẽ làm giảm đi việc thực hiện quyền của đương
sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Những hạn chế, khó khăn từ việc tổ
chức thực hiện quyền của đương sự, xuất phát từ phía cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, như việc tổ chức bộ máy, con người của Hội
đồng xét xử, của VKSNDTC còn chưa thực sự đầy đủ về số lượng, có biểu
hiện của sự qua tải, một số Thẩm tra viên, Thẩm phán, Kiểm tra viên, KSV
còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Hạn chế còn xuất phát từ nhận thức
pháp luật của đương sự khi tham gia quá trình tố tụng theo thủ tục GĐT,TT
vụ việc dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện, nâng cao nhận thức
pháp luật cho đương sự nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử GĐT,TT,
90
qua đó nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT, TT vụ việc dân sự. Đồng thời bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ
vững niềm tin của nhân dân vào hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và
vào TAND nói chung./.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải An (2017), “Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
về đảm bảo quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự”, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 10/2017, tr13-15, số11/2017, tr.10-12;
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
3. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2016), Quyết định số 625/QĐ-CA
ngày 06/09/2016 ban hành Quy chế giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị,
thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục GĐT/TT vụ việc dân sự;
4. Ngô Cường (2017), “Chế định Thẩm phán của một số quốc gia trên thế
giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2017, tr. 37-47;
5. Nguyễn Huy Du (2012), "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, những vướng mắc và kiến
nghị", Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.
6. Mai Ngọc Dương (2005), “Bàn thêm về giám đốc thẩm theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr48-53;
7. Mai Ngọc Dương (2010), “Giám đốc thẩm dân sự, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
8. Hà Thị Thúy Hà (2014), “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Học Viện Tư pháp Hà Nội (2007), Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc
dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2013), Quyết định GĐT số
13/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 về yêu cầu hủy Nghị quyết của
Hội đồng cổ đông, Tạp chí Tòa án số 2, Kỳ II, tháng 1 năm 2014, tr. 43;
11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2014), Quyết định GĐT số
92
34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 về vụ án “Tranh chấp đòi tài sản”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2016, tr.45;
12. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015), báo cáo tổng kết
thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;
13. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2016), Nghị quyết số
04/2016/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2016 hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành
chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ
và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử;
14. Chu Thị Hồng Nhung (2015), “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
15. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946,1959,1980,
1992, 2013), Hiến pháp;
16. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004, 2015), Bộ luật
dân sự;
17. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005, 2015), Bộ luật
tố tụng dân sự;
18. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960, 1981, 1992,
2002, 2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân;
19. Đào Xuân Tiến (2009), “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự Việt Nam”, Luận
án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
20. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm soát nhân dân tối cao (2013), Thông
tư liên tịch số 03/2013 TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/10/2013
hướng dẫn thi hành một số quy định về thủ tục GĐT,TT và thủ tục đặc
biệt xem xét lại quyết định của HĐTP-TANDTC của BLTTDS đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS;
21. Tòa án nhân dân tối cao (2012 - 2017), Báo cáo tổng kết công tác xét xử
93
các vụ án dân sự.
22. Tòa án nhân dân tối cao (2013 - 2017), Tuyển tập Quyết định Giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về dân sự.
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Trường Đại học kinh tế-Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình
luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM;
26. Trần Anh Tuấn (2004), “Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn
đề đặt ra cho thi hành án”, Tạp chí Luật học đặc san về Bộ luật tố tụng
dân sự, số 4, năm 2004;
27. Trần Anh Tuấn (2011), “Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật”, Tạp chí nghề luật, số 4/2011, tr. 41-48;
28. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013 - 2017), Báo cáo tổng kết công tác
kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
94
PHỤ LỤC
MỘT SỐ VỤ ÁN MÀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
ĐÃ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
Vụ án 1. Quyết định GĐT số 34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 của
Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp đòi tài sản” [11].
Nội dung: “Tại đơn khiếu nại ngày 06/09/1995 và quá trình tham gia
tố tụng, nguyên đơn là ông Trần Công Hầu, ông Trần Kim Nguyên, bà Trần
Thị Loan, bà Trần Thị Vân Vàng ), bà Trần Kim Anh trình bày:
Cụ Trần Văn Dương chết năm 1984), cụ Lê Thị uyến chết năm
1982) có 10 người con gồm: Bà Trần Thị Lê chết năm 2000, độc thân), bà
Trần Kim Huê chết năm 2005, độc thân), ông Trần Công Đồng chết năm
2002, có vợ là bà Nguyễn Thị Rang và 03 người con là anh Trần Công Minh,
anh Trần Công Thương ,chị Trần Nam Phương), bà Trần Kim Lượng chết
năm 1978, độc thân), ông Trần Công Hầu định cư tại Mỹ), bà Trần Thị Vân
Vàng), ông Trần Kim Nguyên định cư tại Mỹ), bà Trần Kim Loan định cư
tại Mỹ), ông Trần Công Minh định cư tại Mỹ) và bà Trần Kim Anh.
Cụ Dương và cụ uyến có một nền nhà lát gạch tàu xây đá k xung
quanh có ch cao 2m, có ch cao 3m vì nền đất thấp nên xây đá k cho cao
bằng mặt đường) ngang 7m dài 20m tọa lạc tại tổ 16, ấp Vĩnh Ph c, xã Vĩnh
Tế nay là số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i
Sam) thành phố Châu Đốc, t nh An Giang. Năm 1945, hai cụ cho cụ Ba
Hoạch cha của ông Lý Quốc Ngọc) mượn để cất mái trại bán tạp hóa.
Khi cha m qua đời, các ông bà vẫn cho cụ Ba Hoạch tiếp tục ở nhờ.
Do điều kiện sinh sống các ông bà đều ở xa, ch còn hai người chị là bà Lê và
bà Huệ ở lại trông phủ thờ. Khi vợ chồng cụ Ba Hoạch mất, ông Ngọc có h i
bà Huê và bà Lê cất thêm nhà vệ sinh và nhà kho, do còn đất trống phía sau
95
nên bà Huê và bà Lê đồng ý.
Năm 1995, do mở đường, có giải t a một phần lộ giới ông Ngọc đã lừa
dối bà Lê và bà Huê ký vào giấy xin sửa nhà nhưng thực tế là giấy chuyển
nhượng nền nhà giá 10 cây vàng, do hai bà tin ông Ngọc nên đã ký giấy. Bà
Lê và bà Huê xác định chưa nhận vàng của ông Ngọc và ông Ngọc c ng thừa
nhận chưa trả vàng cho hai bà. Sau đó, ông Ngọc đã phá nhà c , xây dựng
căn nhà 3 tầng mới. Các ông bà biết được việc này thông qua báo chí, đã đến
gặp ông Ngọc và khiếu nại. Chính quyền địa phương đã quyết định xử phạt
hành chính không cho xây dựng, nhưng ông Ngọc vẫn tiếp tục xây dựng hoàn
thiện nhà ba tầng như hiện nay.
Nay các ông bà yêu cầu ông Ngọc trả lại đất để cho con cháu các ông
bà cất nhà ở. Các ông bà đồng ý trả lại giá trị căn nhà ông Ngọc đã xây dựng
theo định giá.
Bị đơn là vợ chồng ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại trình bày:
ng bà thừa nhận nguồn gốc diện tích nền đất có xây đá k xung quanh 6,5m
x18m trước đây g n liền với căn nhà mà gia đình ông bà hiện nay đang ở có
nguyền gốc của cụ Dương, cụ uyến cho cụ Ba Hoạch cha ông bà ) mượn
cất mái trại bán hàng tạp hóa để ở từ năm 1945. Theo cha ông nói lại là, cứ
lâu lâu ông chủ đất viết giấy tính tiền, do chạy giặc gia đình sơ tán, giấy tờ
thất lạc, nay tìm ch còn hai chứng từ thu tiền do ông chủ đất ký tên. Sau đó,
gia đình ông nhiều lần sửa chữa thành nhà mái tôn. Tháng 01/1995, bà Lê
nói với ông là phần đất này trước cho cha ông ở, nay cần tu sửa phủ thờ, nên
chuyển nhượng giá 10 cây vàng. Khi nhà nước mở đường dời vào 5m, ông đã
trao đổi và hai bà đồng ý ký chuyển nhượng cho ông nền nhà, nhưng ông
chưa giao vàng. ng đã xin Nhà nước di dời nhà xây tường, lợp tôn, nhưng
ba người chị em khác của bà Lê, bà Huê ở Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,
Long uyên làm đơn tranh chấp không cho gia đình ông xây cất. Do Tòa án
96
giải quyết quá lâu, nhà đã d , không có ch ở, nên ông đã xây dựng thành
nhà 3 tầng. Các nguyên đơn đều có nhà đất khác ở và đất phủ thờ còn rộng,
ông bà đề nghị thương lượng được nhận chuyển nhượng nền đất giá 13 lượng
vàng phiên tòa sơ thẩm năm 1995). Hiện tại, ông bà có nhà đất khác, nhưng
đã cho con. Nay năm 2012) ông, bà đồng ý trả cho nguyên đơn nền đất theo
giá thị trường để gia đình được tiếp tục sinh sống trong căn nhà trên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Các con của ông Ngọc, bà
Thoại gồm anh Kim, chị Trinh, chị Khanh, anh Lương, anh Quang thống nhất
lời khai như ông Ngọc, bà Thoại.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 50/1997/DSST ngày 09/10/1997, Tòa án
nhân dân t nh An Giang quyết định tóm t t ):
Buộc gia đình ông Ngọc trả toàn bộ đất cho nguyên đơn, giao căn nhà
ông Ngọc xây dựng cho nguyên đơn sở hữu và nguyên đơn phải trả giá trị
nhà là 107.305.000đ và h trợ tiền di dời 2.000.000đ cho gia đình ông Ngọc.
Sau đó, cả nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo, nguyên đơn xin lại
tiền bồi hoàn trị giá phần xây dựng căn nhà, còn bị đơn xin được trả trả giá
trị đất cho nguyên đơn.
Tại Quyết định số 124/DSPT ngày 15/09/1999, Toà Ph c thẩm
TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Tạm đình ch giải quyết vụ
án theo Nghị quết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24/9/1998 của y ban
Thường vụ Quốc hội vì có con của cụ Dương, cụ uyến ở nước ngoài.
Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 224/DSPT ngày 23-7-2001, Tòa Ph c
thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Hủy án sơ thẩm giao
sơ thẩm lại với lý do, chưa xác minh việc hai bên có kê khai đăng ký và nộp
thuế đất tại chính quyền như thế nào và việc ông Ngọc có lấn chiếm phủ thờ
không chưa được làm r .
Tại Quyết định số 13/QĐ ngày 24/12/2001, Tòa án nhân dân t nh An
97
Giang đã quyết định: Tạm đình ch để chờ hướng dẫn mới của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DSST ngày 27/4/2012 của Tòa
án nhân dân t nh An Giang quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng thừa kế của ông Trần
Văn Dương, bà Lê Thị uyến buộc ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại
trả 180,7 mét vuông đất tọa lạc tại số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh
Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang.
Buộc ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại trả cho các đồng nguyên
đơn do bà Trần Thị Vân, bà Trần Kim Anh đại diện) 451.750.000đ bốn
trăm năm mươi mốt bảy triệu năm mươi nghìn đồng).
Công nhận diện tích 180,7 mét vuông tọa lạc tại số 557 đường Vòng
N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An
Giang cho ông Lý Quốc Ngọc và bà Hu nh Thị Thoại theo bản đo đạc hiện
trạng khu đất ngày 07 tháng 11 năm 2011 của Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất thị xã Châu Đốc).
ng Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại có nghĩa vụ liên hệ cơ quan
thẩm quyền làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 03/5/2012, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu ông Ngọc trả lại phần
đất tranh chấp và đồng ý bồi hoàn lại giá trị căn nhà mà ông Ngọc đã xây cất
trên đất.
Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 07/2012/DSPT ngày 05/10/2012, Tòa
ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm, như
sau:
Buộc ông Lý Quốc Ngọc, Hu nh Thị Thoại và những người sống trong
căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam,
thị xã Châu Đố, t nh An Giang trả lại cho các đồng thừa kế của ông, bà Trần
98
Văn Dương, Lê Thị uyến căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh
Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang.
Các đồng thừa kế của ông, bà Trần Văn Dương, Lê Thị uyến phải trả
giá trị xây dựng diện tích 217,90 m2 cho bị đơn 300.702.000 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Anh, bà Vân h trợ cho ông Ngọc bà
Thoại và những người sinh sống trong căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam,
khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang
20.000.000 đồng tiền di dời.
ng Ngọc, bà Thoại và những người sinh sống trong căn nhà nói trên
được lưu cư 6 tháng kể từ ngày tuyên án ph c thẩm.
Bà Trần Thị Vân Vàng) và Trần Kim Anh đại diện các đồng thừa kế
được liên hệ các cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà theo quy định của pháp luật.
Tòa án cấp ph c thẩm còn quyết định về án phí”.
Sau khi xét xử ph c thẩm, ông Ngọc và bà Thoại có nhiều đơn đề nghị
giám đốc thẩm với nội dụng đã sử dụng đất tranh chấp 70 năm, không có nơi
ở nào khác, xin được thanh toán giá trị đất theo giá thị trường cho nguyên
đơn để ổn định cuộc sống.
Tại Quyết định số 74/2014/DS-KN ngày 20 tháng 03 năm 2014, Chánh
án TANDTC kháng nghị Bản án dân sự th c thẩm số 07/2012/DSPT ngày
05/10/2012 của Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh ; đề
nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự
ph c thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử ph c thẩm lại”.
Ngày 11/7/2014, tại trụ sở TANDTC mở phiên tòa GĐT xét xử vụ án
dân sự nêu trên. Tòa án đã triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa: Trần
Thị Vân( Vàng), Trần Kim Anh, Trần THị Nam Phương, Trần Công Thượng;
99
Bà Huỳnh Thị Thoại, ông Lý Chánh Kim, Lý Hồng Chinh, Lý Hồng Khanh.
Các đương sự đã được HĐXX cho trình bày ý kiến về phán quyết của
Tòa phúc thẩm TANDTC tại Thành phố HCM, ý kiến, đề nghị của mình tại
phiên tòa GĐT.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện VKSNDTC nhất trí với kháng
nghị của Chánh án TANDTC.
Quá trình xét xử GĐT, sau khi nghe Thẩm phán trình bày bản thuyết
trình, đại diện VKSNDTC phát biểu ý kiến, các bên đương sự phát biểu, Hội
đồng xét xử xét thấy:
“ Diện tích 180,7 m2 đất tranh chấp tọa lạc tại số 557 đường Vòng N i
Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang
có nguồn gốc của cha, m nguyên đơn là cụ Trần Văn Dương chết năm
1984) và cụ Lê Thị uyến chết năm 1982) tạo lập, g n liền với phần đất còn
lại mà gia đình nguyên đơn đang có phủ thờ tồn tại.
ng Ngọc thừa nhận trên phần đất này cụ Dương và cụ uyến đã xây
dựng tường đá k xung quanh 6,5m x 1,8m). Năm 1945, cụ Dương, cụ uyến
cho cụ Lý Nam tự Ba Hoạch) là cha của ông Ngọc dựng lán bán hàng tạp
hóa trên nền đất có k đá trên. Sau khi cụ Dương, cụ uyến chết ch còn lại
bà Huê và bà Lê không xây dựng gia đình ở trông coi phủ thờ thì ông Ngọc
có h i và được hai bên đồng ý cho ông Ngọc xây dựng thêm nhà vệ sinh và
nhà kho phía sau.
Thực tế, năm 1995 do Nhà nước mở đường lấy vào một phần nhà đất
nên ông Ngọc đã h i bà Lê và bà Huê để dời nhà vào phía trong được hai bà
đồng ý, khi gia đình ông Ngọc xây lại nhà thì xảy ra tranh chấp.
Đất có nguồn gốc của gia đình nguyên đơn, nhưng gia đình bị đơn đã
sử dụng từ năm 1945 đến khi tranh chấp năm 1995) là 50 năm. Khi cụ
Dương , cụ uyến còn sống không tranh chấp với gia đình ông Ngọc. Quá
100
trình giải quyết kéo dài nhưng từ khi có tranh chấp đến nay, ông Ngọc luôn
có nguyện vọng xin được tiếp tục ở và trả giá trị đất cho nguyên đơn. Gia
đình nguyên đơn vẫn còn đất phủ thờ bên cạnh, các nguyên đơn đều có ch ở
khác, gia đình ông Ngọc đã sử dụng đất thời gian dài đã g n bó với nền đất
này và nay đã xây dựng nhà kiên cố, nên ông Ngọc đã chấp nhận thanh toán
giá trị đất theo giá thị trường như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là đã
đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn, Tòa án cấp ph c thẩm buộc ông Ngọc trả
lại đất cho nguyên đơn là không ph hợp với thực tế và nhu cầu sử dụng đất
ở.
Bởi các l trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản
2 Điều 299 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Q T Đ N :
Hủy Bản án dân sự ph c thẩm số 07/2012/DSPT ngày 05-10-2012 của
Tòa ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “ Tranh chấp
đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Vân tức Vàng) c ng các đồng
nguyên đơn khác với bị đơn là ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại; và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DSST ngày 27/4/2012
của Tòa án nhân dân t nh An Giang”.18 [11].
Thông qua quyết định của HĐXX GĐT vụ án tranh chấp đòi tài sản
nêu trên, chúng ta thấy, quyết định của Tòa GĐT TANDTC là đúng pháp luật.
HĐXX đã xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các
quy định của pháp luật, thực tế việc tranh chấp, đánh giá những quyết định
không đúng pháp luật của các bản án quyết định của tòa sơ thẩm, tòa phúc
18 Quyết định GĐT số 34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ
án “Tranh chấp đòi tài sản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2016, tr.45.
thẩm, trên cơ sở đó đưa ra phán quyết thấu tình, đạt lý, bảo đảm được quyền
101
và lợi ích hợp pháp của bị đơn và cả phía nguyên đơn, giúp các bên tranh
chấp giải tỏa được mâu thuẫn kéo dài trong nhiều năm qua. Quyết định của
Hội đồng GĐT cũng khắc phục được những vi phạm trong việc nhận thức và
áp dụng pháp luật của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại thành phố HCM. Phiên
tòa nêu trên không những bảo đảm được quyền của đương sự trong thủ tục
GĐT mà phán quyết của Hội đồng xét xử GĐT đã bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Vụ án 2. Quyết định tái thẩm số: 29/2015/DS-TT, ngày 23/10/2015, vụ án
“đòi nhà cho thuê”.
Nội dung: “Theo đơn khởi kiện ngày 30/03/1992 và trong quá trình tố
tụng, bà Nguyễn Thị Nhàn trình bày: Ngôi nhà số 2, phố Hàng Điếu, phường
Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội thuộc bằng khoáng điền thổ
số 646, khu Nhà Thờ, thửa số 955, tờ bản đồ số 8, khu địa chính C, đăng ký
quyển sổ 1 thành phố Hà Nội sau đây gọi t t là nhà số 2 Hàng Điếu), do bà
và chị gái là bà Nguyễn Thị Hay mua chung năm 1954 và được chứng thực
đoạn mại ngày 18/08/1954.
Sau khi mua nhà, bà và bà Hay cho ông Nguyễn Trọng Khuê thuê tầng 2
và 4,5cm2 tầng 1; cho ông Nguyễn Văn Kính thuê tầng 1. ng Kính ch thuê
một thời gian ng n thì trả lại và bà cho ông Dương Văn Mầu thuê tầng 1
c ng trong năm 1954. Cuối năm 1954, bà Hay di cư vào miền Nam nên bà là
người thu tiền thuê nhà của các hộ. Năm 1991, ông Khuê trả lại toàn bộ tầng
2 và 4,5cm2 tầng 1 của nhà số 2 Hàng Điếu, việc trả nhà có sự chứng kiến và
xác nhận của y ban nhân dân phường Cửa Đông. Hiện nay gia đình bà có
19 người đang ở thuê nhà của Nhà nước tại số 44 phố Hàng Buồm có diện
tích 42 m2 nên rất chật chội. Bà yêu cầu ông Mầu trả lại tầng 1, nhà số 2
Hàng Diếu và chuyển đổi cho ông Mầu diện tích nhà đất khác là căn nhà hai
tầng mái ngói trên diện tích đất là 40m2 tại tổ 28A phường Ph c Tân.
102
Bị đơn là ông Dương Văn Mầu trình bày: Tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu ông
thuê của bà Nhàn trước đó diện tích này do ông Nguyễn Văn Kính thuê).
Việc thuê nhà không lập thành văn bản, tiền thuê nhà ông nộp cho bà Nhàn,
đến năm 1992 bà Nhàn không thu tiền nữa mà thông báo đòi lại nhà. Trước
đây bà Nhàn đã có ý định bán nhà cho ông nên nay ông không đồng ý trả lại
nhà, c ng không đồng ý chuyển đổi lấy diện tích nhà đất khác theo yêu cầu
của bà Nhàn; ông yêu cầu cầu được mua lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Hơn
nữa, bà Nhàn ch có quyền sở hữu một nửa nhà số 2 Hàng Điếu, nửa còn lại
thuộc quyền sở hữu của bà Hay, hiện nay bà Hay đang định cư ở nước ngoài
nên bà Nhàn không có quyền đòi. Sau đó, ông Mầu còn có lời khai thác là gia
đình ông thuê nhà của chủ c từ năm 1945, đến năm 1954 thì thuê của bà
Hay. Bà Hay có đưa bà Nhàn đến gặp ông nói do bà Hay đi v ng nên ông trả
tiền thuê nhà cho bà Nhàn, do vậy từ năm 1954 ông trả tiền thuê nhà cho bà
Nhàn. Nhà bà Nhàn ở tầng 2 nếu bà Nhàn bán thì ông mua, còn tầng 1 của bà
Hay, khi nào bà Hay về đòi thì ông s trả cho bà Hay. Do vậy, ông không
đồng ý trả nhà theo yêu cầu của bà Nhàn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/DSST ngày 05/04/1993, TAND thành
phố Hà Nội quyết định:
Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê tại tầng một nhà số 2 Hàng Điếu của
bà Nguyễn Thị Nhàn do anh Phạm Tất Thái đại diện, đối với gia đình ông
Dương Văn Mầu do anh Phạm Đức Thành đại diện.
Buộc hộ ông Dương Văn Mầu, anh Dương Văn Thục và anh Dương Văn
Thực c ng với các thành viên có tên trong hộ khẩu tại số 2 Hàng Điếu chuyển
đến tại nhà ở tổ 28A phường Ph c Tân để trả toàn bộ nhà số 2 Hàng Điếu
cho bà Nhàn.
Ghi nhận sự th a thuận của anh Thái biếu gia đình ông Mầu nhà ở 28A
phường Ph c Tân do anh đứng tên mua.
103
Anh Thái có trách nhiệm hoàn tất giấy tờ tặng cho để gia đình ông Mầu
sang tên sở hữu chủ căn nhà nói trên.
Ghi nhận sự tự nguyện của chủ nhà do anh Thái đại diện không lấy tiền
thuê nhà mà ông Mầu còn thiếu từ năm 1990 đến nay.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Thái thanh toán tiền sửa nhà, xí, bếp gia
đình ông Mầu và anh Thực làm thêm năm 1984 là 4000.000 đồng.
Khi chuyển đi gia đình ông Mầu để lại toàn bộ bộ phận nhà và bếp, xí ông
đã làm năm 1984 cho bà Nhàn sử dụng.
Phần hai gác xép, bên trong nhà chính nếu hai bên không tự th a thuận
được thì gia đình ông Mầu được tháo d đem đi, nhưng khi tháo d không
được làm ảnh hưởng đến cấu tr c nhà, nếu gây thiệt hại cho chủ nhà phải bồi
thường theo pháp luật hiện hành.
Ngày 12/4/1993, ông Dương Văn Mầu có đơn kháng cáo.
Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993, Tòa Ph c Thẩm
TANDTC tại Hà Nội đã quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
ng Màu có đơn khiếu nại Bản án dân sự ph c thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 06 ngày 10/01/1994, Viện trưởng VKSNDTC kháng
nghị Bản án dân sự ph c thẩm nêu trên.
Tại Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994, y ban Thẩm
phán TANDTC quyết định:
Chấp nhận kháng nghị số 06 ngày 10/01/1994 của Viện trưởng
VKSNDTC.
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25 ngày 05/4/1993 của TAND thành phố
Hà Nội và Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993 của Tòa ph c
thẩm TANDTC tại Hà Nội đã xử việc đòi nhà cho thuê giữa bà Nguyễn Thị
Nhàn với ông Dương Văn Mầu ở tại số 2 phố Hàng Điếu – Hà Nội.
104
Bác yêu cầu đòi nhà của bà Nguyễn Thị Nhàn đối với ông Dương Văn
Mầu.
Kiến nghị với UBND thành phố Hà Nội làm thủ tục quản lý diện tích nhà
hiện ông Dương Văn Mầu đang thuê của bà Nguyễn Thị Hay ở số 2 phố Hàng
Điếu, thành phố Hà Nội.
Bà Nguyễn Thị Nhàn phải chịu 50.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị Nhàn tiếp tục có đơn khiếu nại gửi các cơ quản lý nhà
nước về nhà đất đòi quyền sở hữu nhà số 2 Hàng Điếu. Bộ ây dựng đã ban
hành Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 về việc giải quyết khiếu
nại của bà Nguyễn Thị Nhàn, trong đó có phần diện tích gia đình ông Dương
Văn Mầu đang sử dụng tại tầng 1, thuộc sở hữu chung của bà Nguyễn Thị
Nhàn và bà Nguyễn Thị Hay. Việc bà Nhàn xin được công nhận quyền sở hữu
toàn bộ ngôi nhà này phải chờ y ban Thường vụ Quốc Hội ban hành “Nghị
quyết về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài được xác lập trước
ngày 1/7/1991” mới có cơ sở giải quyết.
Sau khi y ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 về “Giao dịch dân sự về nhà ở
được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài
tham gia”, ngày 18/4/2011, bà Nguyễn Thị Nhàn và bà Nguyễn Thị Hay có
đơn khởi kiện Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu các thừa kế của
ông Dương Văn Mầu trả lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.
Tại Quyết định dân sự sơ thẩm số 50/2013/QĐST-DS ngày 09/10/2013,
TAND thành phố Hà Nội căn cứ điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS đình ch
giải quyết vụ án dân sự với lý do sự việc đã được giải quyết bằng Bản án
giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán
TANDTC.
ng Hoàng Anh Tuấn được bà Nguyễn Thị Nhàn ủy quyền có đơn kháng
105
cáo Quyết định đình ch giải quyết vụ án dân sự.
Viện trưởng VKSND thành phố Hà Nội kháng nghị Quyết đình ch giải
quyết vụ án dân sự nêu trên theo thủ tục ph c thẩm.
Tại Quyết định ph c thẩm số 16/2014/QĐ-PT ngày 11/2/2014, Tòa Ph c
thẩm TANDTC tại Hà Nội đã hủy Quyết định sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ
án cho TAND thành phố Hà Nội giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
TAND thành phố Hà Nội có Công văn số 1179/2014/CV-TA ngày
14/7/2014 gửi Chánh án TANDTC kiến nghị giám đốc thẩm Quyết định ph c
thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 140/2015/KNTT-DS ngày 19/5/2015, Chánh án
TANDTC đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Bản án giám đốc thẩm số
73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán TANDTC, đề nghị Hội
đồng Thẩm phán TANDTC xét xử tái thẩm hủy Bản án giám đốc thẩm của y
ban Thẩm phán TANDTC; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét
xử sơ thẩm lại theo đ ng quy định của pháp luật”.
Ngày 23/10/2015, tại trụ sở TANDTC đã mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ
án dân sự “Đòi nhà cho thuê” với Hội đồng tái thẩm gồm có mười một(11)
thành viên tham gia xét xử, đại diện VKSNDTC, Thư ký Tòa án, các đương
sự gồm:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Nhàn, sinh năm 1927; trú tại số 44 Hàng Buồm,
phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội( ng Hoàng Anh
Tuấn đại diện).
Bị đơn: Dương Văn Mầu, sinh năm 1923; trú tại tầng 1, nhà số 2, phố
Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1.Dương Văn Thục, sinh năm 1955;
106
2.Dương Văn Thực, sinh năm 1956;
Cùng trú tại nhà số 2, phố Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
Hội đồng tái thẩm xét thấy: “Ngôi nhà số 2 Hàng Điếu thuộc sở hữu của
chị em bà Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Thị Hay do mua chung và đã được
chứng thực đoạn mại ngày 18/8/1954. Sau khi bà Nhàn và bà Hay cho ông
Nguyễn Trọng Khuê ở thuê tầng 2 và 4,5m2 tầng 1; cho ông Nguyễn Văn
Kính thuê tầng 1, cuối năm 1954 ông Kính lại trả lại phần nhà này thì bà
Nhàn cho gia đình ông Dương Văn Mầu vào ở thuê. Cuối năm 1954, bà Hay
di cư vào miền Nam sinh sống đến năm 1981 bà Hay xuất cảnh định cư tại
Canada nên phần diện tích nhà thuộc quyền sở hữu chung của bà Hay với bà
Nhàn tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu thuộc diện nhà v ng chủ. Bà Nhàn khởi
kiện đòi gia đình ông Mầu trả tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp ph c thẩm xử chấp nhận yêu cầu đòi nhà của bà Nhàn,
trong đó có phần nhà v ng chủ của bà Hay) là không đ ng nên tại Bản án
giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994, y Ban Thẩm phán
TANDTC đã quyết định hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25 ngày 05/4/1993 của
TAND thành phố Hà Nội và Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993
của Tòa ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội là có căn cứ, ph hợp với nội dung
Công văn số 366,B D ngày 25/3/1994 của Bộ ây dựng gửi Chủ tịch y ban
nhân dân các t nh, thành phố về nhà v ng chủ, cần giữ nguyên hiện trạng,
chờ chính sách mới của Nhà nước. Tuy nhiên, y ban Thẩm phán TANDTC
lại bác yêu cầu đòi nhà của bà Nhàn là không đ ng quy định tại khoản 4 Điều
77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và không đảm bảo quyền
lợi của bà Nhàn đối với phần quyền sở hữu chung của bà Nhàn với bà Hay tại
tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.
Sau khi có Bản án giám đốc thẩm của y ban Thẩm phán TANDTC, các
107
cơ quan có thẩm quyền của Thành phố Hà Nội đã tiến hành các tục quản lý,
ký hợp đồng cho gia đình ông Mầu thuê tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Bà Nhàn
tiếp tục khiếu nại đến UBND thành phố Hà Nội và Bộ xây dựng yêu cầu xin
lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.
Tại Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 của Bộ ây dựng về
việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhàn là quyết định giải quyết
khiếu nại cuối c ng) có nội dung xác định toàn bộ nhà số 2 Hàng Điếu thuộc
sở hữu chung của bà Nguyễn Thị Nhàn và Nguyễn Thị Hay; việc bà Nhàn
được công nhận quyền sở hữu toàn bộ ngôi nhà này phải chờ y ban Thường
vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước
ngoài được xác lập trước ngày 01/7/1991 mới có cơ sở giải quyết; UBND
thành phố Hà Nội ch đạo thu hồi hợp đồng thuê nhà giữa cơ quan quản lý
nhà nước với ông Dương Văn Mầu tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu giữa cơ
quan quản lý nhà của thành phố với ông Dương Văn Mầu; gia đình ông
Dương Văn Mầu sử dụng diện tích tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu với tư cách
là bên thuê nhà của bà Nhàn và bà Hay; mọi tranh chấp giữa bên thuê và bên
cho thuê giải quyết theo pháp luật dân sự.
Như vậy, Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 của Bộ ây dựng
đã làm thay đổi nội dung Công văn số 366/B D ngày 25/3/1994 của Bộ ây
dựng gửi Chủ tịch UBND các t nh, thành phố về chính sách của Nhà nước về
nhà v ng chủ đối với nhà số 2 Hàng Điếu của bà Nhàn và bà Hay mà y ban
Thẩm phán TANDTC căn cứ vào đó để giải quyết vụ án này, nên cần thiết
phải hủy Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTB-DS ngày 30/6/1994 của y ban
thẩm phán TANDTC để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Do Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban
thẩm phán TANDTC bác yêu cầu của bà Nhàn đòi nhà cho thuê tầng 1 nhà số
2 Hàng Điếu đối với gia đình ông Mầu vẫn đang có hiệu lực nhưng Tòa án
108
nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý vụ án đòi nhà cho thuê của bà Nhàn, bà
Hay đối với các thừa kế của ông Mầu là không đ ng. L ra, khi ph c thẩm
Quyết định sơ thẩm nêu trên, Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội phải giữ
nguyên Quyết định dân sự sơ thẩm số 50/2013/QĐST-DS ngày 09/10/2013
của TAND thành phố Hà Nội và kiến nghị Chánh án TANDTC kháng nghị tái
thẩm Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 ủa y ban thẩm
phán TANDTC mới đ ng, nhưng lại hủy Quyết định dân sự sơ thẩm để xét xử
sơ thẩm lại vụ án là không đ ng. Tuy nhiên, hiện nay TAND thành phố Hà
Nội đã thụ lý sơ thẩm lại vụ án đòi nhà cho thuê nêu trên, nên không cần
thiếu phải hủy Quyết định ph c thẩm số 16/2014/QĐ-PT ngày 11/2/2014 của
Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội, nhưng khi thụ lý lại vụ án này, TAND
thành phố Hà Nội căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 38 BLTTDS đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2011 để nhập thành một vụ án để xét xử sơ thẩm lại theo
đ ng quy định của pháp luật. Vì các l trên, căn cứ khoản 3, khoản 4 điều
291; khoản 3 Điều 297; khoản 4 Điều 305, khoản 2 Điều 309 và Điều 310
BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Q T Đ N
Hủy các bản án, quyết định sau đây: Bản án giám đốc thẩm số
73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán TANDTC; Bản án dân
sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993 của Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà
Nội; Bản án dân sơ thẩm số 25/DSST ngày 05/4/1993 của TAND thành phố
Hà Nội về vụ án “Đòi nhà cho thuê” tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu giữa
nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nhàn với bị đơn là ông Dương Văn Mầu và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
Giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo
19 Tuyển tập Các quyết định giám đốc thẩm vụ việc dân sự năm 2015, TANDTC.
đ ng quy định của pháp luật”19.
109
Trong vụ án xét xử theo thủ tục tái thẩm này, chúng ta thấy, người phát
hiện ra quyết định phúc thẩm có vi phạm pháp luật là TAND thành phố Hà
Nội. Do đó, TAND thành phố Hà Nội đã có công văn kiến nghị Chánh án
TANDTC kháng nghị GĐT quyết định phúc thẩm của TANDTC. Sau khi
nhận được công văn, TANDTC và VKSNDTC đã tích cực nghiên cứu đơn,
yêu cầu Tòa phúc thẩm TANDTC chuyển hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ
án, báo cáo Chánh án TANDTC ban hành kháng nghị TT, mở phiên tòa TT để
xét lại bản án có vi phạm pháp luật. Đại diện nguyên đơn và bị đơn dân sự
đều được triệu tập đến Tòa TT để tham gia, được trình bày ý kiến tại phiên
tòa, đưa ra các lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đại
diện VKSNDTC tham gia phiên tòa đồng ý với kháng nghị của TANDTC,
phát biểu quan điểm của VKSNDTC, hỏi các đương sự. HĐXX TT đã lắng
nghe các ý kiến các đương sự, của đại diện VKS, phân tích, đánh giá chứng
cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, kết luận đúng đắn về vụ án, đưa
ra phán quyết có tính thuyết phục cao. Qua quá trình tố tụng, qua phán quyết
hủy các bản án, quyết định: Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày
30/6/1994 của Ủy ban Thẩm phán TANDTC; Bản án dân sự phúc thẩm số 76
ngày 12/10/1993 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; Bản án dân sơ
thẩm số 25/DSST ngày 05/4/1993 của TAND thành phố Hà Nội, giao hồ sơ
vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật, quyền lợi hợp pháp của đương sự là bà Nhàn, bà Hay được bảo
đảm.
Vụ án số 3. Quyết định giám đốc thẩm số: 12/2016/DS-GĐT, ngày
15/6/2016, Vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nội dung: “Tại đơn khởi kiện ngày 22/9/2012, đơn khởi kiện bổ sung
ngày 10/4/2013 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại
diện của nguyên đơn trình bày:
110
Công ty TNHH Uni – President Việt Nam gọi t t là Công ty Uni) là
Công ty 100 vốn Đài Loan có trụ sở đặt tại Việt Nam, là Công ty Uni
chuyên về sản xuất và phân phối thức ăn chăn nuôi thủy sản. Ngày
01/11/2009 Công ty Uni và ông Hung Hsiung Shun quốc tịch Đài Loan, tạm
tr tại Long An, Việt Nam gọi t t là ông Hung) ký hợp đồng lao động với
thời hạn ghi trong hợp đồng là 03 năm từ ngày 01/11/2009 đến ngày
01/11/2012).Công việc chính của ông Hung là phụ trách kinh doanh thức ăn
thủy sản giám đốc bộ phận). Theo nội quy và quyền về phân phối sản phẩm
của Công ty Uni tại nước ngoài. Ngày 25/03/2011 Công ty Uni và ông Hung
chấm dứt hợp đồng lao động.
Đầu năm 2012, Công ty Uniway Marine Products SDN.BHD gọi t t là
Công ty Uniway) là đối tác của Công ty Uni có trụ sở tại Malaysia đã khởi
kiện Công ty Uni ra Tòa án tại Malaysia với lý do Công ty Uni đã vi phạm
hợp đồng độc quyền phân phối sản phẩm tại thị trường Malaysia, khi đó
Công ty Uni mới biết là ông Hung tự ký hợp đồng độc quyền với Công ty
Uniway. Tài liệu thể hiện việc này là bản fax cua ông Hung ngày 02/12/2009
vào thời gian 04h37 ph t) có nội dung Công ty Uni cho Công ty Uniway
được độc quyền phân phối thức ăn cho tôm tại thị trường Malaysia. Việc ông
Hung lén l t ký hợp đồng này trái pháp luật, dẫn đến hậu quả là: Tòa án tại
Malaysia ra phán quyết buộc Công ty Uni phải bồi thường cho Công ty
Uniway số tiền 117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng).
Do đó, Công ty Uni khởi kiện theo yêu cầu ông Hung bồi thường cho
Công ty Uni hai khoản gồm:
Khoản thứ nhất: yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín
số tiền là 20.000.000 đồng do Công ty Uni bị kiện ra Tòa án Malaysia, ảnh
hưởng đến hình ảnh của Công ty Uni tại thị trường Malaysia).
Khoản thứ hai: yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền
111
là 117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng là số tiền mà Công ty
Uni đã phải bồi thường cho Công ty Uniway do vi phạm th a thuận độc
quyền phân phối thức ăn của Công ty Uni với Công ty Uniway theo phán
quyết của Tòa án tại Malaysia).
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện cho nguyên đơn r t lại yêu cầu đối với
khoản thứ nhất.
Bị đơn là ông ung siang hun và người đại diện tr nh bày:
Trong quá trình làm việc tại công ty Uni, ông đã đại diện Công ty ký kết
nhiều giao dịch với Công ty Uniway. Do thời gian đã lâu nên ông không xác
định được thời điểm đó có ký kết giao dịch độc quyền với công ty Uniway hay
không. ng kh ng định không có việc ông fax th a thuận độc quyền ngày
02/12/2009 vào l c 4h 37 ph t giờ Việt Nam) sang Malaysia cho Công ty
Uniway.
Sau khi ông ngh việc thì phía Công ty Uni không có bất cứ khiếu nại nào
đối với ông, không đề cập gì đến hợp đồng độc quyền đã ký tới Công ty
Uniway và việc bồi thường. Do vậy, ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/D T ngày 14/01/2014, Tòa án
nhân dân t nh ong n quyết định:
Đình ch giải quyết yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President
Việt Nam với ông Hung Hsiang Shun về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun bồi
thường danh dự, uy tín của Công ty TNHH Uni – President Việt Nam với số
tiền 20.000.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President
Việt Nam đối với ông Hung Hsiang Shun về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun
bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH Uni – President Việt Nam số tiền
117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng.
112
Tòa án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 15/01/2014, Công ty TNHH Uni – President Việt Nam có đơn kháng
cáo bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 98/2014/D -PT ngày 25/4/2014, Tòa
Ph c thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố ồ Chí inh đã quyết
định:
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty TNHH Uni – President
Việt Nam, sửa bản ám sơ thẩm.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President Việt
Nam về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun bồi thường thiệt hại cho Công ty
TNHH Uni – President Việt Nam với số tiền 117.339,6 USD tương đương
2.451.231.764 đồng Việt Nam.
Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Tòa án cấp ph c thẩm còn quyết định về án phí”.
Ngay sau khi Tòa phúc thẩm quyết định, ngày 22/8/2014, ông Hung
Hsiang Shun có đơn đề nghị xem xét lại thủ tục giám đốc thẩm. Quá trình
xem xét đơn đề nghị GĐT, các Thẩm phán TANDTC đã yêu cầu Tòa Phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh chuyển toàn bộ hồ
sơ vụ án đến TANDTC để nghiên cứu. Xét thấy bản án phúc thẩm của Tòa án
phúc thẩm đã có những vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự nên Chánh án TANDTC đã ban hành kháng nghị
GĐT đối với bản án nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số 257/2015/KN-DS ngày 03/11/2015, Chánh
án TANDTC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm,
hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 98/2014/DS-PT ngày 25/4/2014 của Tòa án
113
Phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số
02/2014/DS ST ngày 14/01/2014 của TAND tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án
cho TAND tỉnh Long An xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 15/6/2016 tại trụ sở TANDTC đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét
xử vụ án “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” với Hội đồng
giám đốc thẩm có 14 (mười bốn) thành viên tham gia xét xử, Đại diện
VKSNDTC, các đương sự tham gia gồm:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Uni – President Việt Nam; địa chỉ tại số 16-
18 đường ĐT 743, Khu Công nghiệp Sóng Thần 2, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương; đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị Ngọc Loan; địa chỉ: Số 1
đường 34, khu phố 5, phường An Phú, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: ng Hung Hsiang Shun, sinh năm 1970; địa chỉ: No. 316, Chen-
Kuang Rd, Tai – Chung City, Taiwan. Tạm trú tại: Công ty TNHH Khoa kỹ
sinh vật Thăng Long, lô A5 khu công nghiệp Đức Hòa 1, xã Đức Hòa Đông,
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đại diện theo ủy quyền là bà Đặng Thị Kiều
Oanh; địa chỉ: 266/58 Tô Hiến Thành, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí
Minh.
Hội đồng xét xử GĐT xét thấy: “ngày 01/11/2009 ông Hung ký hợp đồng
lao động với Công ty Uni có thời hạn 03 năm từ ngày 01/11/2009 đến ngày
01/11/2012, công việc là phụ trách kinh doanh thức ăn thủy sản giám độc bộ
phận). Ngày 25/03/2011 hai bên chấm dứt hợp đồng lao đồng. Tháng
04/2012, Công ty Uniway khởi kiện Công ty Uni ra Tòa án tại Malaysia do vi
phạm th a thuận độc quyền phân phối sản phẩm thì Công ty Uni cho rằng
Công ty Uni mới biết là vào ngày 02/12/2009 ông Hung đã tự ký th a thuận
độc quyền với Công ty Uniway. Theo phán quyết của Tòa án tại Malaysia với
việc công nhận th a thuận của hai công ty có nội dung: Công ty Uni phải trả
cho Công ty Uniway số tiền 117.339,93 USD. Dựa vào phán quyết trên của
114
Tòa án Malaysia, Công ty Uni khởi kiện ông Hung bồi thường đ ng với số
tiền mà Công ty Uni phải bồi thường cho Công ty Uniway. Căn cứ để Công ty
Uni khởi kiện yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại là Bản fax ngày
02/12/2009, phán quyết của Tòa án tại Malaysia và lời trình bày của đại diện
Công ty Uniway trươc Tòa án tại Malaysia là các th a thuận độc quyền được
ký với ông Hung.
ét thầy về hình thức bản fax ngày 02/12/2009 do Công ty Uni xuất trình
ch là bản fax photocopy và Công ty Uni cho rằng ông Hung là người lập, ký
và fax đi l c 4h37 ph t, nhưng Công ty Uni không đưa ra được căn cứ chứng
minh cho lời khai này. ng Hung không thừa nhận lập, ký và fax cho Công ty
Uniway. Theo quy định tại Điều 81, Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa
đổi, bổ sung năm 2011,điểm a Khoản 2 Điều 3 Nghị Quyết số 04/2012/NQ-
HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì
ch được coi là chứng cứ khi: “các tài liệu đọc được nội dung phải là bản
chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc
bản được d ng làm cơ sở lập ra các bản sao”. Như vậy, bản fax được
photocopy nêu trên không được coi là chứng cứ. Tòa án cấp ph c thẩm căn
cứ vào bản fax này để giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.
ét về nội dung bản fax ngày 02/12/2009: Công ty Uni đồng ý chấp thuận
Công ty Uniway được làm đại lý độc quyền thức ăn nuôi tôm khu vực Tây
Malay từ ngày nay đến 31/12/2011. Ngoài ra: Công ty Uni có quyền tìm kiếm
khách hàng lớn tại khu vực Tây Malay, nhưng giá bán ổn định trong khu vực,
trước khi báo giá khách hàng Công ty Uni s thông báo trước cho Công ty
Uniway. Những khách hàng lớn do Công ty Uni tìm kiếm s không được tính
vào thành tích bán hàng của Công ty Uni. Như vậy, theo nội dung bản fax thể
hiện Công ty Uni đồng ý cho Công ty Uniway được làm đại lý độc quyền thức
115
ăn nuôi tôm khu vực Tây Malaysia từ ngày 02/12/2009 đến 31/12/2011. Tuy
nhiên, trong đơn khởi kiện của của Công ty Uniway kiện Công ty Uni tại Tòa
án Malaysia đòi bồi thường thì Công ty Uniway cho rằng Công ty Uni vi
phạm th a thuận độc quyền phân phối sản phẩm từ năm 2007 đến năm 2011
trong đó có th a thuận ngày 02/12/2009), cụ thể là Công ty Uni vị phạm
th a thuận độc quyền thức ăn cho tôm từ ngày 04/10/2007 đến ngày
31/12/2011 và thức ăn cho cá từ ngày 01/9/2011 đến ngày 31/12/2011. Trong
khi đó, ông Hung làm việc tại Công ty Uni từ ngày 01/9/2011 đến ngày
25/3/2011. Như vậy, thời gian ông Hung làm việc tại Công ty Uni không hoàn
toàn tr ng khớp với khoảng thời gian vi phạm mà Công ty Uniway khởi kiện
Công ty Uni tại toàn án Malaysia. Hơn nữa, theo phán quyết của Tòa án bang
Johorbaru thì thể hiện Công ty Uni và Công ty Uniway nhất trí th a thuận mà
không có sự tham gia của ông Hung.
Tòa án cấp sơ thẩm, ph c thẩm chưa làm r có việc ông Hung ký và fax
đi bản fax ngày 02/12/2009 không mà đã giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.
Trường hợp ông Hung ký và fax bản th a thuận nêu trên cho Công ty Uniway
thì phải thu thập đầy đủ chứng cứ liên quan đến vụ án Công ty Uniway kiện
Công ty Uni tại Tòa án Malaysia để xác định trách nhiệm bồi thường của ông
Hung tương ứng với thiệt hại và thời gian ông Hung gây ra nếu có).
Vì các l trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật
tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày
29/3/2011).
Q T Đ N :
1.Hủy Bản án dân sự ph c thẩm số 98/2014/DS-PT ngày 25/4/2014 của
Tòa Ph c thẩm Tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh và Bản án
dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS-ST ngày 14/01/2014 của Tòa án nhân dân t nh
Long An xét xử vụ án dân sự về tranh chấp bồi thường thiệt hại giữa nguyên
116
đơn là Công ty TNHH Uni – President Việt Nam với bị đơn là ông Hung
Hsiang Shun.
2.Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân t nh Long An để xét xử sơ thẩm
lại theo quy định của pháp luật”.20
Qua vụ án trên, chúng ta thấy: Trong thời hạn 15 tháng, kể từ ngày bị đơn
có đơn yêu cầu xem xét kháng nghị theo thủ tục GĐT vụ án dân sự, TANDTC
và VKSNDTC đã tích cực nghiên cứu đơn, yêu cầu Tòa phúc thẩm chuyển hồ
sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Chánh án TANDTC ban hành
kháng nghị GĐT, mở phiên tòa GĐT để xét lại bản án có vi phạm pháp luật.
Đại diện nguyên đơn và bị đơn dân sự đều được triệu tập đến Tòa GĐT để
tham gia, được trình bày ý kiến tại phiên tòa, đưa ra các lập luận để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đại diện VKSNDTC tham gia phiên tòa
đồng ý với kháng nghị của TANDTC, phát biểu quan điểm của VKSNDTC,
hỏi các đương sự. HĐXX GĐT đã lắng nghe các ý kiến các đương sự, VKS,
phân tích, đánh giá chứng cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, kết
luận đúng đắn về vụ án, đưa ra phán quyết có tính thuyết phục cao. Qua quá
trình tố tụng, qua phán quyết hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của
pháp luật, quyền lợi hợp pháp của đương sự là bị đơn Hung Hsiang Shun
được bảo đảm.
Việc dân sự số 4. Quyết định GĐT số 13/2013/KDTM-GĐT ngày
16/5/2013 của HĐTP-TANDTC về yêu cầu hủy Nghị quyết của Hội đồng cổ
đông [10].
Nội dung: “ Theo đơn yêu cầu đề ngày 20/6/2011 của bà Vương Ngọc
Lan, ông Nguyễn Đình Minh và ông B i Văn Hiệp( là cổ đông của Công ty cổ
20 Tuyển tập các quyết định GĐT,TT vụ việc dân sự năm 2016 của TANDTC.
phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh- sau đây gọi t t là công ti BICICO)đề
117
nghị TAND thành phố Hồ Chí Minh xem xét hủy b “ Nghị quyết Đại hội
đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ- NQ ngày 24/5/2011 của Công ty cổ
phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh” và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ việc thì thấy:
Công ty BICICO được Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103002318 lần đầu ngày 7/5/2004,
có vốn điều lệ là 16.335.000.000.000 đồng, tương ứng với 1.633.500 cổ phần,
trong đó có 51 vốn nhà nước do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam làm đại diện
sở hữu 833.060 cổ phần do ông Đặng Hồng Hải, ông Ngô Mạnh Hoài và ông
Lê Thành Phương làm đại diện, còn lại là các cổ đông khác trong đó có bà
Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh, ông B i văn Hiệp; người đại diện
theo pháp luật là ông Đặng Hồng Hải-Giám đốc công ty.
Theo điều lệ công ty BICICO thì Hội đồng quản trị có 5 người và Ban
kiểm soát có 3 người. Tuy nhiên, ngày 30/8/2010 bà Lê Thị Thái Hường –
Trưởng Ban kiểm soát có đơn xin từ chức. Tiếp đó, ngày 15/09/2010 ông B i
Ngô Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị c ng có đơn xin từ chức. Ngày
11/11/2010, hai thành viên Hội đồng quản trị là ông Đặng Hồng Hải và bà
Lại Thị Nhung có văn bản gửi ông Nguyễn Đình Minh và bà Vương Ngọc Lan
là thành viên Hội đồng quản trị đề nghị họp Hội đồng quản trị vào ngày
17/11/2010 để bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị mới; nhưng cuộc họp này
không tiến hành được vì ông Minh v ng mặt còn bà Lan có mặt tại công ty
nhưng không tham dự được(BL 179). Ông Hải, bà Nhung và các cán bộ quản
lý đề nghị tổ chức lại cuộc họp Hội đồng quản trị vào 8h ngày 22/11/2010;
nhưng cuộc họp này c ng không tiến hành được vì ông Minh vẫn v ng mặt
còn bà Lan có mặt tại công ty nhưng không tham dự.
Ngày 23/12/2010, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có công văn số
1134/HCVN-TCNS gửi Hội đồng quản trị công ty BICICO yêu cầu triệu tập
118
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường để lựa chọn công ty kiểm toán,
bầu bổ sung một thành viên Hội đồng quản trị, một thành viên Ban kiểm soát;
nhưng Hội đồng quản trị công ty BICICO không thực hiện.
Ngày 26/1/2011,Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có công văn số 56-
HCVN-TCNS yêu cầu Ban kiểm soát của công ty BICICO triệu tập cuộc họp
Đại hội đồng cổ đông bất thường với nội dung như công văn số 1134/HCVN-
TCNS nêu trên. Ngày 10/2/2011, bà Lưu Thị Ánh, thành viên Ban Kiểm soát
có văn bản gửi Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có nội dung: Ban Kiểm soát
không thể họp để thống nhất cuộc họp bất thường theo yêu cầu của Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam.
Do Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát công ty BICICO không thực hiện
được yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường của Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam nên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã tự đứng ra triệu tập
họp Đại hội đồng cổ đông bất thường công ty BICICO. Thông báo mời họp
ngày 7/4/2011 do ông Nguyễn Gia Tường-Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa
chất Việt Nam ký thừa ủy quyền của Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam gửi cho các cổ đông tham dự họp Đại hội đồng cổ đông bất thường vào
ngày 25/4/1011. Do tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày
25/4/2011 ch có 25 cổ đông và đại diện ủy quyền của cổ đông đến dự tương
ứng với số cổ phần có quyền biểu quyết là 1.018.860 cổ phần (chiếm 62,37%
vốn điều lệ) nên không đủ điều kiện để tiến hành Đại hội được. Ngày
14/5/2011, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tiếp tục có thông báo mời họp lần
thứ 2 số 449/TB-HCVN gửi các cổ đông tham dự họp Đại hội đồng cổ đông
bất thường công ty BICICO vào hồi 8h 30 phút ngày 25/04/011. Ngày
25/4/2011, công ty BICICO đã tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất
thường với tổng số cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông dự họp là
35 người, sở hữu 1.600.490 cổ phần có quyền biểu quyết, chiếm 97,98% tổng
119
số cổ phần có quyền biểu quyết và đã thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ
đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 25/4/2011 với 3 nội dung:
1. Bầu ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị công ty.
2. Bầu ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát công ty.
3. Không thông qua lựa chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán báo cáo tài
chính năm 2010.
Ngày 26/11/2011, bà Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh và ông B i
Văn Hiệp có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy Nghị
quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/5/2011
của Công ty BICICO với các lý do:
1) Trình tự và thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông không đ ng theo quy
định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty, cụ thể là công văn số
56/HCVN-TCNS ngày 16/1/2011 của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu
Ban Kiểm soát công ty triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường do ông Ngô
Mạnh Hoài, Phó Tổng Giám đốc ký và thông báo mời họp Đại hội đồng cổ
đông bất thường số 298/TB-HCVN ngày 25/4/2011 và số 449/TB-HCVN ngày
14/5/2011 do ông Nguyễn Gia Tường, Phó Tổng Giám đốc của Tập đoàn Hóa
chất Việt Nam ký mà không có ủy quyền của Tổng Giám đốc Nguyễn Đình
Khang, người đại diện theo pháp luật của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là
chưa thực hiện theo đ ng quy định của pháp luật về việc ủy quyền được quy
định tại Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005.
2) Ngày 10/4/2011, nhóm cổ đông n m giữ 17,9% tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết, gồm ông Nguyễn Đình Minh, ông B i Văn Hiệp, ông Võ
Ngọc Các, ông Nguyễn Minh Trí, bà Tô Thị Tuyết Trinh, bà Phạm Ngọc Diệu,
ông Vương Chí Thiệp, ông Phan Văn Th ng đã có các văn bản gửi đến Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu bổ sung, sửa đổi Quy chế làm việc và nội
dung họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 25/4/2011. Tuy nhiên, Tập
120
đoàn Hóa chất Việt Nam, người triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất
thường đã từ chối kiến nghị của nhóm cổ đông nói trên mà không có bất k lý
do chính đáng nào là vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều
99 Luật doanh nghiệp và khoản 4, 5 Điều 16 Điều lệ công ty BICICO.
3) Việc bầu Ban kiểm phiếu: Chủ tọa cuộc họp để Đại hội thông qua việc
bầu Ban kiểm phiếu ch được 62,83% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các
cổ đông được thông qua tại Hội nghị là vi phạm Khoản 3 Điều 104 Luật
doanh nghiệp; theo đó, quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua
tại cuộc họp khi có điều kiện được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số
phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận. Nhưng quyết định
của Đại hội đồng cổ đông bầu 1 thành viên Hội đồng quản trị và 1 thành viên
Ban Kiểm soát ch đạt 62, 83% là vi phạm quy định của Luật doanh nghiệp.
Người liên quan-Công ty BICICO trình bày: Không đồng ý với 3 yêu cầu
nêu trên của bên yêu cầu với lý do: Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội
đồng cổ đông bất thường của công ty do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam thực
hiện đ ng theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Việc ông
Ngô Mạnh Hoài và ông Nguyễn Gia Tường – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam ký các giấy triệu tập là thực hiện sự ủy quyền của Tổng
Giám đốc tập đoàn theo quyết định số 103 ngày 24/03/2011. Việc nhóm cổ
đông n m giữ 17.9% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết có văn bản gửi đến
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu bổ sung, sửa đổi nội dung chương trình
họp Đại hội đồng cổ đông; tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường chủ
tọa cuộc họp không chấp nhận nên không đưa vào chương trình cuộc họp.
Việc bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị và thành viên Ban Kiểm
soát công ty BICICO với kết quả đạt 62.83% tổng số phiếu biểu quyết là phù
hợp với quy định tại điểm Điểm c Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp và
khoản 4 Điều 29 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ
121
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh Nghiệp.
Đại diện Tập đoàn Hóa chất Việt Nam thống nhất với ý kiến của Công Ty
BICICO đã trình bày.
Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 1998/2011/QDST-KDTM ngày
18/11/2011, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự của bà Vương Ngọc Lan , ông
Nguyễn Đình Minh và ông B i Văn Hiệp.
Hủy Nghị quyết số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/05/2011 của Công ty cổ phần
công nghiệp Hóa chất và Vi sinh.
Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lệ phí giải quyết việc dân
sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 22/11/2011, Công ty Cổ phần Công nghiệp Hóa Chất và Vi sinh có
đơn kháng cáo.
Ngày 25/11/2011 ông Lê Minh Th ng, đại diện theo ủy quyền của những
người liên quan là ông Nguyễn Gia Tường và Tập đoàn Hóa Chất VIệt Nam
có đơn kháng cáo.
Tại quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải quyết việc
dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự số 1998/2011/QĐST-KDTM
ngày 18/11/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 15/06/2012 Công ty cổ phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh có đơn
đề nghị xem xét lại quyết định giải quyết việc kháng cáo số 152/2012/QĐ-PT
ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm”.
Căn cứ theo đơn đề nghị xem xét lại vụ việc dân sự theo thủ tục giám đốc
122
thẩm của Công ty BICICO, các Thẩm phán TANDTC đã nghiên cứu hồ sơ vụ
việc, xác định những vi phạm của Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm trong việc ban
hành quyết định giải quyết việc dân sự, báo cáo Chánh án TANDTC kháng
nghị giám đốc thẩm.
Tại quyết định số 30/2012/KDTM-KN ngày 03.10.2012, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kháng nghị quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với
Quyết định giải quyết việc dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy quyết
định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải quyết việc dân sự số
152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ việc cho Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo đúng quy
định của pháp luật.
Ngày 16/5/2013, tại trụ sở TANDTC, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét
xử vụ việc kinh doanh, thương mại về yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội đồng
cổ đông. Tòa án đã triệu tập những đương sự sau đây đến phiên tòa:
- Bên yêu cầu: Bà Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh, ông Bùi
Văn Hiệp;
- Bên liên quan: Bà Lại Thị Nhung làm Đại diện của Công ty BICICO;
ông Lê Minh Thắng, làm Đại diện của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện VKSNDTC đề nghị Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án tòa án nhân
dân tối cao hủy quyết định phúc thẩm nếu trên giao hồ sơ vụ việc cho Tòa
phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo
quy định của pháp luật. Sau khi nghe ý kiến của Đại diện VKS, trình bày của
các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
123
“1. Về tố tụng: Theo quy định tại Điều 311 Bộ Luật tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì “ việc dân sự là việc cá nhân, cơ
quan,tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
dân sự , hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình
hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận cho
mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động”. Trong vụ việc cụ thể này , các đương sự căn cứ quy định tại điều 107
Luật Doanh Nghiệp năm 2005; Điều 22 Điều lệ công ty BICICO yêu cầu Tòa
án tuyên hủy Nghị quyết số 01/ĐHĐCQQ-NQ ngày 24/05/2011 của Đại Hội
đồng cổ đông Công ty BICICO; vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm xác định yêu cầu hủy Nghị quyết Đại Hội đồng cổ đông của Công
ty cổ phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh là vụ việc kinh doanh, thương
mại là đ ng theo quy định tại Khoản 4, Điều 30, Điều 311 Bộ luật tố tụng dân
sự và Điều 107 luật Doanh Nghiệp năm 2005.
2. Về nội dung: do Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Cổ phần công
nghiệp Hóa chất và Vi sinh là ông B i Ngô Quang có đơn xin từ chức ngày
15/09/2010 và Trưởng Ban kiểm soát của Công ty là bà Lê Thị Thái Hường
có đơn xin từ chức ngày 30/08/2010 nên từ tháng 09 năm 2010 Công ty
BICICO không có Chủ tịch Hội đồng quản trị và Trưởng Ban kiểm soát công
ty. Do vậy, 2 thành viên Hội đồng quản trị công ty là ông Đặng Hồng Hải và
bà Lại Thị Nhung đã 2 lần đề nghị ông Nguyễn Đình Minh và bà Vương Ngọc
Lan là các thành viên Hội đồng quản trị công ty họp Hội đồng quản trị vào
ngày 22/11/2010 để bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị mới , nhưng đề nghị của
ông Hải và bà Nhung không thực hiện được vì ông Minh v ng mặt còn bà Lan
tuy có mặt tại công ty nhưng không tham dự ( BL 197). Trước tình hình đó
ngày 23/10/2010 Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (cổ đông n m giữ tổng số
833.060 cổ phần, chiếm 51% vốn điều lệ của công ty BICICO) căn cứ vào các
124
Khoản 3 và 4 Điều 10 Điều lệ Công ty BICICO có công văn số 1134/HCVN-
TCNS gửi Hội đồng quản trị công ty BICICO yêu cầu triệu tập cuộc họp Đại
hội đồng cổ đông bất thường để lựa chọn công ty kiểm toán bầu bổ sung 1
thành viên Hội đồng quản trị và 1 thành viên Ban kiểm soát nhưng Hội đồng
quản trị BICICO không thực hiện. Ngày 26/01/2011, Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam tiếp tục có công văn số 56/HCNV-TCNS yêu cầu ban Ban Kiểm soát của
công ty BICICO triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, nhưng
Ban Kiểm soát của Công ty không thực hiện được.
Do Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát công ty BICICO không thực
hiện yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường của Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam theo quy định tại Điểm c Khoản 3 (Hội đồng quản trị phải
triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây
: c, Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại Khoản 2 Điều
79 của luật này ) và quy định tại Khoản 5 Điều 97 luật Doanh Nghiệp năm
2005 trường hợp Hội đồng quản trị không triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông theo quy định tại Khoản 4 điều 97 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì
trong thời hạn 30 ngày tiếp theo Ban Kiểm soát thay thế Hội đồng quản trị
triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này), nên Tập
đoàn Hóa chất Việt Nam đã đứng ra triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất
thường Công ty BICICO là đ ng theo quy định tại Khoản 6 Điều 97 Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và Khoản 4 Điều 12 Điều lệ Công ty BICICO.
Việc ông Nguyễn Gia Tường – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa chất
Việt Nam thừa ủy quyền của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam ký thông báo mời
họp Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO bất thường số 298/TB-HCVN
ngày 07/04/2011 và số 49/TB-HCVN ngày 14/05/2011 là đ ng thẩm quyền
được quy định tại Quyết định số 103/QĐ-HCVN ngày 24/03/2011 của Tổng
giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
125
Việc mời họp Đại hội đồng cổ đông bất thường lần 2 vào ngày
24/05/2011 được thực hiện theo đ ng quy định tại Điều 100 Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và quy định tại Khoản 2, 3 Điều 16 Điều lệ Công Ty
BICICO.
Do cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường được triệu tập lần 1 vào
ngày 25/04/2011 không tiến hành được do không đủ số cổ đông dự họp theo
quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty BICICO nên ngày
24/05/2011, Công ty BICICO đã tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông bất
thường lần 2 với tổng số cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông dự
họp (tại thời điểm khai mạc) là 35 người, sở hữu và đại diện sở hữu
1.600.490 cổ phần có quyền biểu quyết, chiếm 97,78 % tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết theo Điều lệ công ty BICICO (sau thời điểm khai mạc cuộc
họp có thêm 3 cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông đăng ký tham
dự cuộc họp, sở hữu và đại diện sở hữu 21.200 cổ phần). Như vậy, tổng số cổ
đông và đại diện ủy quyền của cổ đông tham dự cuộc họp là 38 người, sở hữu
và đại diện sở hữu 1.621.690 cổ phần) là phù hợp với quy định tại Khoản 2
Điều 102 Luật Doanh nghiệp năm 2005 và quy định tại Khoản 2 Điều 17
Điều lệ Công ty BICICO.
Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO họp ngày 24/05/2011 đã tiến
hành bầu bổ sung ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị với số phiếu là
1.018.850/ 1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% tổng số cổ phần; bầu bổ sung
ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát của công ty với số phiếu là
1.018.850/1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% tổng số cổ phần và b phiểu
về việc chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 với
số phiếu là 1.018.850/1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% 62,83% tổng số cổ
phần. Theo quy định tại điểm c, khoản 3 điều 104 Luật Doanh Nghiệp năm
2005 thì “việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát
126
phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu...” và theo quy định tại
Khoản 4 Điều 29 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính
phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì: “
Người trúng cử thành viên Hội đồng quản trị hoặc thành viên Ban Kiểm soát
được xác định theo số phiếu bầu tính từ cao xuống thấp, b t đầu từ ứng cử
viên có số phiếu bầu cao nhất cho đến khi đủ số thành viên quy định tại điều
lệ Công ty”. Vì vậy, việc ông Trịnh Anh Tuấn trúng cử thành viên Hội đồng
quản trị và ông Hà Thanh Sơn tr ng cử thành viên Ban Kiểm soát công ty
BICICO là phù hợp với quy định của pháp luật nêu trên.
Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO thông qua Nghị quyết Đại hội
đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQQ ngày 24/05/2011 với 3 nội
dụng:
1. Bầu ông Trịnh Anh Tuấn vào hội đồng quản trị Công ty;
2. Bầu ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát Công ty.
3. Không thông qua lựa chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán
báo cáo tài chính năm 2010.
Nghị quết Đại hội đồng cổ đông bất thường này được thông qua với tỷ
lệ 1.018.850/1.621.690 cổ phần có quyền biểu quyết tại đại hội = 62,83% về
việc bầu bổ sung ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị và ông Hà
Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát là những người có số phiểu bầu cao nhất là
hợp lệ, phù hợp với quy định tại Điểm c, Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh
nghiệp và hướng dẫn tại Khoản 4 Điều 29 Nghị định số 102/2010NĐ-CP
ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật Doanh nghiệp, phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 53 Điều lệ Công ty
BICICO.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm hủy b Nghị quyết đại
hội đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/05/2011 của Công
127
ty BICICO là không đ ng pháp luật.
Vì các l trên, căn cứ vào Khoản 3 Điều 297; Khoản 2 Điều 99 Bộ luật
Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011);
QUY T Đ NH
1. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải
quyết việc dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Giao hồ sơ vụ việc cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
21 Quyết định GĐT số 13/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 của HĐTP-TANDTC về yêu cầu hủy Nghị
quyết của Hội đồng cổ đông; Tạp chí Tòa án số 2, Kỳ II, tháng 1 năm 2014, tr. 43.
thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo đ ng quy định của pháp luật”21.