BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

------------------------

LÊ THỊ XUÂN

QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG XÉT XỬ

GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

------------------------

LÊ THỊ XUÂN

QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG XÉT XỬ

GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 8380102

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN

HÀ NỘI, NĂM 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan, không

trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố. Các thông

tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2019

Tác giả

Lê Thị Xuân

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, cho phép tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người

hướng dẫn khoa học TS. Mai Đắc Biên đã tận tình hướng dẫn và đóng góp

nhiều ý kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Cũng cho phép tôi xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học

viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các giảng viên các

khoa, phòng thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình giảng dạy và

tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất các thầy giáo,

cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng chí và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của

các thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên

quý báu cho tôi hoàn thành luận văn này!

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2019

Tác giả

Lê Thị Xuân

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................... iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................. vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................ viii

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG

GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ. ........................... 10

1.1. Khái niệm vụ việc dân sự ................................................................ 10

1.1.1. Khái niệm việc dân sự ............................................................ 10

1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự ........................................................... 12

1.2. Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ việc dân sự ................................... 15

1.2.1 Khái niệm giám đốc thẩm ........................................................ 15

1.2.2 Thủ tục giám đốc có những nội dung sau [17] ......................... 15

1.3. Thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự ....................................................... 27

1.3.1 Khái niệm thủ tục tái thẩm: ...................................................... 27

1.3.2 Thủ tục tái thẩm có những nội dung sau: ................................. 27

1.4. Quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc

dân sự ..................................................................................................... 30

1.4.1. Khái niệm quyền của đương sự ............................................... 30

1.4.2. Khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm ................................................................................................. 31

1.4.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền đương sự trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ..................................................... 32

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................. 33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM

ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN

iv

DÂN TỐI CAO ........................................................................................... 34

2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của đương sự trong giám

đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ........................................................... 34

2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ......... 34

2.1.2 Giai đoạn từ năm 2005- 2011 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm

2004 có hiệu lực cho đến trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2011) ....... 37

2.1.3. Giai đoạn từ năm 2012-2015 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa

đổi, bổ sung năm 2011 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự

năm 2015) ........................................................................................ 38

2.1.4 Giai đoạn từ 1/7/2016 đến nay (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự

năm 2015 có hiệu lực đến nay) ......................................................... 40

2.2. Những quyền cơ bản của đương sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ

việc dân sự theo pháp luật hiện hành. ..................................................... 41

2.2.1 Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.41

2.2.2 Quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của

Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và

nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự; ....................... 43

2.2.3. Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm ............................................................................ 45

2.2.4. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm .. 47

2.2.5 Quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi

được triệu tập ................................................................................... 48

2.2.6 Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi

được yêu cầu .................................................................................... 51

2.3 Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án

nhân dân tối cao. .................................................................................... 53

2.3.1. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao trong

v

tiếp nhận, giải quyết đơn, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự .......................................................................... 53

2.3.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự

trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở Tòa án nhân

dân tối cao. ...................................................................................... 56

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................. 67

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN

CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC

DÂN SỰ ...................................................................................................... 69

3.1 Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quyền đương sự trong

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao69

3.1.1 Khó khăn, vướng mắc từ những quy định của pháp luật .......... 69

3.1.2 Khó khăn, vướng mắc từ tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và

các biện pháp bảo đảm...................................................................... 71

3.1.3 Khó khăn vướng mắc từ phía đương sự ................................... 74

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của đương sự

trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao.75

3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật ........................................... 75

3.2.2 Giải pháp tổng kết thực tiễn công tác xét xử Giám đốc thẩm, tái

thẩm rút kinh nghiệm xét xử, đưa ra văn bản hướng dẫn pháp luật áp

dụng thống nhất trong toàn hệ thống; xây dựng hệ thống án lệ. ........ 77

3.2.3 Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thực hiện. ............................. 78

3.2.4 Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát hoạt

động tư pháp đối với việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật mà Tòa án đã xử. ......................................................... 80

3.2.5 Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại

biểu dân cử, nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố

tụng. ................................................................................................. 80

vi

3.2.6. Sử dụng kết quả giám đốc thẩm là tiêu chí để đánh giá trực tiếp

chất lượng Cán bộ, công chức........................................................... 83

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................. 85

KẾT LUẬN ................................................................................................. 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 91

PHỤ LỤC MỘT SỐ VỤ ÁN MÀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ĐÃ

XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM ............................................. 94

vii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT

TẮT

BLDS Bộ Luật dân sự

BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự

CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam

GĐT,TT Giám đốc thẩm, tái thẩm

HĐXX Hội đồng xét xử

HĐTP Hội đồng thẩm phán

NQ Nghị quyết

QĐ Quyết định

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao

TAND Tòa án nhân dân

TCTAND Luật tổ chức Tòa án nhân dân

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

LTCTAND Luật tổ chức Tòa án nhân dân

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Thống kê kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự của hội đồng

thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ................................................................ 58

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn (tính cấp thiết của đề tài luận văn)

Quyền con người, quyền công dân là quyền hiến định trong Hiến pháp

năm 2013 của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 14 Hiến pháp

khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con

người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiện

thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong Hiến

pháp, Điều 2 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về việc Nhà nước

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của con người, của

công dân: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự

được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (CHXHCN) thực hiện

quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điều 2. Luật tổ

chức Tòa án nhân dân (LTCTAND) năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân như sau: Tòa án nhân dân là cơ quan xét

xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc

khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các

tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả

tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc

2

không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ

về tài sản, quyền nhân thân.

Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải

được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành.

Bảo vệ quyền con người thông qua chức năng thực hiện quyền tư pháp

mà cụ thể là thông qua việc xét xử trong lĩnh vực tố tụng dân sự là nội dung

lớn trong hoạt động của ngành Tòa án, được thực hiện theo quy định của pháp

luật về tố tụng dân sự. Khoản 2, Điều 13 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (

BLTTDS 2015) quy định: “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Tòa án thực hiện

nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực dân sự bằng việc xét xử các vụ việc dân sự.

Việc xét xử vụ việc dân sự được thực hiện ở hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.

Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật khi đã hết

thời hiệu kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Bản án,

quyết định của Tòa phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi quyết định. Việc xét

lại bản án, quyết định đã có hiệu lực theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm là

trình tự đặc biệt, do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và Tòa án nhân dân

cấp cao (TANDCC) thực hiện trong những trường hợp do pháp luật quy định.

Việc xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật nhằm bảo đảm triệt để việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự trong vụ việc dân sự.

Thực hiện quy định Hiến pháp 2013, Luật TCTAND 2014 và BLTTDS

2015, những năm qua, ngành Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân tối

cao, TAND cấp cao đã có những hoạt động tích cực nhằm thành lập hệ thống

Tòa án nhân dân cấp cao, tổ chức lại bộ máy, nâng cao trình độ quản lý, điều

hành, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, bảo đảm thực hiện tốt chức năng xét

3

xử. Do vậy, chất lượng hoạt động xét xử ở các cấp Tòa án đã được nâng cao

rõ rệt, quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự nói chung và

trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng được bảo đảm; nhiều vụ việc

dân sự phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, góp phần bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự, nâng cao uy tín của ngành TAND, góp

phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, thúc đẩy sự

phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quyền của đương sự trong các vụ việc dân

sự được xét xử ở trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm đôi khi vẫn còn chưa được

bảo đảm một cách triệt để vì nhiều nguyên nhân khác nhau [17], [18].

Vấn đề quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ

việc dân sự cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các góc độ khác

nhau, ở nhiều công trình khoa học khác nhau, như sách chuyên khảo, giáo

trình, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các bài báo trên các tạp chí chuyên

ngành, như: Cuốn sách về “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục

giám đốc thẩm vụ án dân sự”của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải

quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực

trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải

pháp, kiến nghị. “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực

pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của Đào Xuân Tiến, Luận

án tiến sĩ Luật học năm 2009 [19]. Tác giả đã trình bày khái niệm về thủ tục

xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng

dân sự, phân tích pháp luật tố tụng dân sự, thực trạng áp dụng của Toà án và

một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết định về dân sự

của Toà án; “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự” của Hà

Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2007. Luận văn tập trung nghiên

cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục giám đốc

thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế

4

giới; “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật dân sự hiện hành”

của Chu Thị Hồng Nhung, luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 [14].

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung vào

trình tự, thủ tục tố tụng giám đốc thẩm vụ án dân sự, mặc dù cũng có đề cập

đến quyền của đương sự trong thủ tục giám đố thẩm nhưng còn chưa đầy đủ.

Trong thực tiễn hiện nay, vấn đề tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng phức tạp

do ảnh hưởng từ sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Vấn đề

quyền con người, quyền công dân nói chung cũng như quyền của đương sự

trong các vụ việc dân sự do Tòa giám đốc thẩm, tái thẩm giải quyết về cơ bản

đã được bảo đảm, tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp vi phạm, ảnh hưởng

đến quyền của đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu về quyền của đương sự

trong trình tự xét xử giám đốc thẩm là một vấn đề cấp thiết, đáp ứng cả về

mặt lý luận cũng như thực tiễn trong công tác xét xử các vụ việc dân sự. Vì lý

do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền của đƣơng sự trong xét xử giám

đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự ở Tòa án nhân dân tối cao” làm đề

tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật Hành chính tại

Học viện Hành chính Quốc gia.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, những vấn đề có liên quan đến quyền của đương

sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự đã được nhiều nhà

khoa học quan tâm, nghiên cứu với nhiều công trình, bài viết ở các khía cạnh

khác nhau, như:

+ “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ

án dân sự”, sách chuyên khảo của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải

quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực

trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải

pháp, kiến nghị;

5

+ “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp

luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của Đào Xuân Tiến, Luận án

tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009. Tác giả đã đưa

ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực

pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích pháp luật tố tụng kinh tế, dân

sự, thực trạng áp dụng của Toà án và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ

tục xét lại bản án, quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án;

+ “Giám đốc thẩm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của

Mai Ngọc Dương, Luận án tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật

Hà Nội, 2008. Luận án giải quyết một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm

trong tố tụng dân sự và nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành

Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố

tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm [6], [7];

+ “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự” của Hà

Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ luật học, năm 2007. Luận văn tập trung nghiên

cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục giám đốc

thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước trên thế

giới.

+ Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao” do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm

chủ nhiệm đề tài của TANDTC năm 2012. Tác giả đã đưa ra các khái niệm về

đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, thực trạng giải quyết trong những năm

qua, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật nhằm nâng

cao chất lượng giải quyết đơn của đương sự [5];

+ “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” của Hà Thị Thúy

Hà, luận văn thạc sĩ luật học năm 2012.

+ “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật dân sự hiện

hành” của Chu Thị Hồng Nhung, luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 [14].

6

Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong

các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như bài “Chế định giám đốc thẩm, tái

thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành” của tác giả Trần Anh Tuấn

đăng trên Tạp chí Luật học số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; bài “Một

số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang Hiền đăng

trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 4 năm 2009....; Chuyên đề “Thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng

thẩm phán TANDTC” của tác giả Trần Anh Tuấn trong cuốn Bình luận khoa

học BLTTDS sửa đổi năm 2011; “Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015 về đảm bảo quyền công dân trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự”, của

TS Nguyễn Hải An trong Tạp chí Tòa án [26], [27].

Tuy nhiên, vấn đề quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái

thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao trong những năm qua, nhất là thực tiễn thi

hành BLTTDS năm 2015 theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 đến nay chưa có nhà khoa học nào nghiên

cứu, luận giải. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề quyền của đương sự trong xét

xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao vẫn là

một đòi hỏi của xã hội và phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.

Tên đề tài Luận văn không trùng với các đề tài, công trình khoa học đã

được công bố trước đó ở trong và ngoài nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích

Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và

thực tiễn về quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ,

việc dân sự tại TANDTC đồng thời phân tích, luận giải, đánh giá những điểm

hạn chế, vướng mắc theo quy định của pháp luật hiện hành về quyền của

đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm từ đó đưa ra giải pháp

7

nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,

tái thẩm vụ việc dân sự.

- Nhiệm vụ:

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải

quyết những vấn đề cụ thể sau:

Làm rõ cơ sở lý luận về quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự như khái niệm, trình tự thủ tục giải quyết, thẩm

quyền của TANDTC, quyền của đương sự trong giai đoạn GĐT, TT.

Làm rõ sự hình thành và phát triển quyền của đương sự trong GĐT,

TT theo pháp luật Việt Nam, phân tích đánh giá những ưu điểm, nhược điểm

của pháp luật hiện hành.

Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền của

đương sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu là những quy định của pháp luật và tình hình

thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền của

đương sự trong giai đoạn GĐT, TT tại cơ quan TANDTC.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về quyền của đương sự

trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự theo quy định của

BLTTDS năm 2015 và thực tiễn hoạt động xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ

việc dân sự từ năm 2015 đến nay. Do BLTTDS năm 2015 được thi hành trên

thực tiễn chưa lâu nên trong luận văn có sự phân tích, so sánh, đánh giá với

những quy định về quyền của đương sự trong BLTTDS năm 2004 và thực

tiễn áp dụng từ năm 2013.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

8

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan điểm

của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, cải cách tư pháp, nâng

cao hiệu quả công tác xét xử nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của công

dân nói chung và quyền của đương sự trong xét xử các vụ, việc dân sự nói

riêng.

- Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng phương pháp

nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,

phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh - đối

chiếu, kết hợp lý luận và thực tiễn…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn

diện các vấn đề về trình tự thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự;

làm rõ những vấn đề về quyền của đương sự trong xét xử giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự tại TANDTC trong bối cảnh thi hành Hiến pháp 2013,

Luật TCTAND năm 2014 và BLTTDS năm 2015.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn giúp người đọc hình dung thực tiễn, quy

trình thủ tục GĐT, TT vụ án dân sự tại TANDTC; hiểu rõ quyền của đương

sự trong giai đoạn này cũng như thấy được những hạn chế, tồn tại và

nêu lên một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế về quyền của đương

sự trong giai đoạn GĐT, TT nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp

luật về tố tụng dân sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,

tái thẩm vụ việc dân sự.

9

- Chương 2: Thực trạng quyền của đương sự trong giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối cao

- Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực thiện hiệu quả quyền của đương

sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự.

10

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ

TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ.

1.1. Khái niệm vụ việc dân sự

1.1.1. Khái niệm việc dân sự

Khái niệm “vụ việc dân sự” lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTDS

năm 2004 và được kế thừa tại BLTTDS năm 2015. Theo quy định tại Điều 1

BLTTDS năm 2015 về phạm vi và nhiệm vụ của BLTTDS: “Bộ luật tố tụng

dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ

tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án

về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động

(sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải

quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự);…”. Để làm rõ khái niệm

“vụ việc dân sự”, trước tiên chúng ta cần làm rõ khái niệm “việc dân sự” và “

vụ án dân sự” [16].

Theo quy định tại Điều 361 BLTTDS năm 2015 thì: “Việc dân sự là

việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án

công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh

quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công

nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

mại, lao động” [17].

Như vậy, trong “ việc dân sự” không có yếu tố tranh chấp giữa các

đương sự về quyền và lợi ích trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh, thương mại, lao động. Việc phân biệt được vấn đề trên có ý nghĩa

trong việc xác định trình tự, thủ tục giải quyết đối với từng vụ, việc cụ thể. Do

yếu tố không có tranh chấp về quyền và lợi ích nên việc dân sự được giải

11

quyết theo trình tự, thủ tục đơn giản hơn so với vụ án dân sự, giúp giảm bớt

gánh nặng cho tòa án cũng như sự phiền hà cho đương sự. Việc dân sự không

có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ nên có những đặc trưng khác biệt so với

thủ tục giải quyết vụ án dân sự, cụ thể:

+ Thời hạn giải quyết việc dân sự ngắn hơn so với thời hạn giải quyết

vụ án dân sự, theo đó, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn

yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm

phán giải quyết đơn yêu cầu. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội

dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 của BLTTDS thì Thẩm phán yêu

cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận

được yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy

định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS. Trường hợp người yêu cầu thực

hiện đầy đủ yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì Thẩm phán tiến hành thủ tục thụ lý

việc dân sự. Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo

đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thông báo cho người yêu cầu về việc

nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể

từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn

hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; Tòa án

thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí

yêu cầu giải quyết việc dân sự; Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày

thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho

Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu; Thời hạn chuẩn

bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu, trừ

trường hợp BLTTDS có quy định khác; Tòa án phải mở phiên họp để giải

quyết việc dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên

họp.

+ Thành phần giải quyết việc dân sự không có Hội thẩm tham gia, chỉ

12

có Thẩm phán, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; Người yêu cầu hoặc

người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập tham gia phiên

họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập người làm chứng,

người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp.

+ Tòa án mở phiên họp để giải quyết việc dân sự chứ không mở phiên

tòa như trình tự tố tụng đối với việc giải quyết vụ án dân sự.

+ Kết quả giải quyết việc dân sự được tòa án ban hành dưới hình thức “

Quyết định”, chứ không phải “ Bản án” trong vụ án dân sự.

+ Thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm quyết định giải quyết việc

dân sự được quy định 7 ngày,ngắn hơn so với 15 ngày đối với thời hạn kháng

cáo, kháng nghị bản án trong vụ án dân sự.

Từ những nội dung, đặc điểm nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái

niệm việc dân sự như sau: “Việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân không

có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận

một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”.

1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự

Vụ án là một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật có tính chất hình sự

hoặc có tính chất dân sự (tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật) được đưa ra

tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Khái niệm vụ án dân sự là một khái

niệm hẹp hơn so với khái niệm vụ án. Theo quy định tại Điều 1. BLTTDS về

phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của BLTTDS, thì BLTTDS quy định trình tự,

thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (vụ án dân sự). Như vậy,

vụ án dân sự là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, phát

sinh trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

13

động, được các chủ thể khởi kiện ra Tòa án để giải quyết. Ở vụ án dân sự thì

luôn có tranh chấp xảy ra và tính chất của nó là giải quyết về các tranh chấp

giữa cơ quan, tổ chức và cá nhân với nhau. Tòa án giải quyết trên cơ sở bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền và buộc người có nghĩa vụ

thực hiện nghĩa vụ [17].

Chủ thể của vụ án dân sự là nguyên đơn và bị đơn, bao gồm những cá

nhân, cơ quan hoặc tổ chức tham gia vào các giao dịch dân sự hay có những

quyền và lợi ích dân sự liên quan đang bị xâm phạm, tranh chấp hoặc có thể

sẽ bị xâm phạm, tranh chấp cần giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đó gọi

là đương sự trong vụ án dân sự.

Ngoài ra, trong tố tụng dân sự còn có một thành phần quan trọng tham

gia vào việc giải quyết vụ án dân sự, đó là cơ quan tiến hành tố tụng và người

tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan nhà nước thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự

hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, bao gồm: Tòa án

nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự. Người tiến

hành tố tụng là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ

việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng dân sự. Ví dụ như : Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư

ký tòa án, kiểm sát viên, Viện trưởng VKS, Thủ trưởng cơ quan thi hành án,

Chấp hành viên…. Bên cạnh đó còn có những người tham gia tố tụng khác,

như: người đại diện cho đương sự, có thể là người đại diện theo pháp luật,

người đại diện theo uỷ quyền hoặc người đại diện do Tòa án chỉ định; người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng có

đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố

tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; người làm chứng là người

tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự do biết

được các tình tiết, sự kiện đó; người giám định là người tham gia tố tụng sử

14

dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để làm rõ các tình tiết, sự kiện của

vụ việc dân sự; người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ

khác ra tiếng Việt và ngược lại…

Vụ án dân sự được giải quyết theo trình tự, thủ tục của BLTTDS, bắt

đầu bằng việc khởi kiện của đương sự và kết thúc bằng bản án hoặc quyết

định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm vụ án dân sự như sau:“ Vụ án dân sự

là những tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động giữa các chủ thể, được các chủ thể đó khởi kiện ra tòa

án có thẩm quyền để giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình theo quy định của BLTTDS và được Tòa án thụ lý, giải quyết”.

Từ các khái niệm về việc dân sự và vụ án dân sự trên, chúng ta thấy

rằng, vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự, có tranh chấp hoặc

không có tranh chấp giữa các chủ thể tham gia trong các lĩnh vực dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, được các chủ thể khởi

kiện hoặc nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết nhằm bảo vệ hoặc công nhận

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo

trình tự, thủ tục quy định của BLTTDS [17].

Điểm khác biệt cơ bản giữa việc dân sự và vụ án dân sự là có hay

không có yếu tố tranh chấp giữa các chủ thể tham gia. Ở việc dân sự không có

yếu tố tranh chấp, ở vụ án dân sự có yếu tố tranh chấp. Như vậy, tranh chấp là

dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc trong vụ án dân sự, là yếu tố cơ bản để phân biệt,

xác định việc dân sự hay vụ án dân sự. Từ yếu tố, dấu hiệu đặc trưng này dẫn

đến những khác biệt trong trình tự, thủ tục giải quyết. Trình tự, thủ tục giải

quyết vụ án dân sự phức tạp và kéo dài hơn so với trình tự, thủ tục giải quyết

việc dân sự. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm vụ việc dân sự như sau: “ Vụ

việc dân sự là những vấn đề về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động, có yếu tố tranh chấp hoặc không tranh chấp, thuộc

15

thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Toà án thụ lý giải quyết”.

1.2. Thủ tục giám đốc thẩm trong vụ việc dân sự

1.2.1 Khái niệm giám đốc thẩm

Theo quy định tại Điều 325 BLTTDS “Giám đốc thẩm là xét lại bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc

thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này”. Quy định tại Điều

326 của BLTTDS là những căn cứ, điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm,

đó là phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải

quyết vụ án. Như vậy, giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự không phải là một

cấp xét xử của Tòa án mà là thủ tục đặc biệt, xét lại bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.

1.2.2 Thủ tục giám đốc có những nội dung sau [17]

a) Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị. Kháng nghị của người có thẩm quyền

dựa trên những căn cứ, điều kiện quy định của pháp luật, cụ thể, tại Điều 326

BLTTDS:

a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết

khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;

Đây là sự đánh giá, kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm được

thể hiện trong bản án, quyết định không phù hợp, không đúng với những tình

tiết khách quan của vụ án dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng với

nội dung vụ án, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không

thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp

pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;

Đó là việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong

quá trình giải quyết vụ án dân sự đã không áp dụng hoặc áp dụng không đúng

16

những quy định của BLTTDS, có thể do cố ý hoặc vô ý, dẫn đến vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm cho đương sự không thực hiện được quyền,

nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không

được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: Chủ tọa phiên tòa

không quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng khi có những căn cứ buộc

phải thay đổi hoặc hạn chế thời gian tranh tụng dẫn đến việc những người tạm

gia tố tụng không được tranh luận, đối đáp hết những vấn đề cần làm sáng

tỏ…

c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án,

quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương

sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp

pháp của người thứ ba.

Đây là việc Tòa án đã áp dụng sai những quy định của BLDS, các luật

chuyên ngành cũng như những quy định trong Nghị định của Chính phủ, Nghị

quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên

tịch…dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng với nội dung vụ việc

gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích

công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Ngoài việc có những căn cứ để kháng nghị nêu trên, điều kiện để kháng

nghị là phải có đơn đề nghị của đương sự hoặc có thông báo của Tòa án, Viện

kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc có kiến nghị của Chánh án

Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Trường hợp

xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp

pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị. Điều kiện để kháng

nghị giám đốc thẩm là một quy định mới trong BLTTDS năm 2015 so với

BLTTDS năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm 2011), dựa trên nguyên tắc đương

sự tự định đoạt và hạn chế việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không

cần thiết [16].

17

b) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm

Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử nên các đương sự không

có quyền trực tiếp yêu cầu tiến hành thủ tục tố tụng đặc biệt này. Tuy nhiên,

pháp luật tố tụng dân sự vẫn bảo đảm quyền tố tụng của đương sự bằng việc

ghi nhận đương sự có quyền phát hiện vi phạm pháp luật, sai lầm trong các

bản án, quyết định của Tòa án và thông báo, đề nghị bằng văn bản tới những

người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét và quyết định

việc kháng nghị. Điều 327 BLTTDS quy định cụ thể về phát hiện bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục

giám đốc thẩm.

Căn cứ vào nội dung Điều 327 BLTTDS cho thấy, pháp luật tố tụng

dân sự nước ta không cho phép đương sự có quyền kháng cáo giám đốc thẩm,

họ chỉ có quyền phát hiện vi phạm để thông báo cho người có thẩm quyền

kháng nghị giám đốc thẩm. Mặt khác, BLTTDS lại cho phép nhiều chủ thể

khác là các cá nhân, cơ quan, tổ chức, kể cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức

không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến các vụ việc dân sự được quyền

phát hiện vi phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Trên cơ sở

thông báo, đơn đề nghị của những chủ thể này, người có thẩm quyền kháng

nghị sẽ xem xét để quyết định việc kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT.

c) Đơn đề nghị giám đốc thẩm

Đơn đề nghị GĐT là hình thức thể hiện ý chí của đương sự đối với bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án. Trong thời hạn 01 năm, kể

từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có

vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền gửi đơn

đề nghị bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị để yêu cầu kháng

nghị. Theo quy định tại Điều 328 BLTTDS, đơn đề nghị xem xét bản án,

18

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm

phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; b) Tên, địa chỉ của người đề

nghị; c) Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đề

nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; d) Lý do đề nghị, yêu cầu của

người đề nghị; đ) Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người

đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức

đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là

doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật

doanh nghiệp.

Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải gửi bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh

cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

d) Thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm

Thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm là trình tự, thủ tục Tòa án,

Viện kiểm sat tiếp nhận, thụ lý đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực phps luật theo thủ tục giám đốc thẩm, được quy định

Điều 329 BLTTDS, theo đó, Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị do

đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua dịch vụ bưu

chính và phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương

sự. Ngày gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, Viện kiểm

sát hoặc ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi.

Tòa án, Viện kiểm sát chỉ thụ lý đơn đề nghị khi có đủ các nội dung

quy định tại Điều 328 của BLTTDS. Trường hợp đơn đề nghị không có đủ

điều kiện theo quy định tại Điều 328 của BLTTDS thì Tòa án, Viện kiểm sát

yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày

nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát; hết thời hạn này mà người gửi

đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề nghị, nêu

19

rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn.

Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân

công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ

sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định;

trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho

đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân công Thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân công Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ

sơ vụ án, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định kháng nghị. Trường hợp không

kháng nghị thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao tự mình hoặc ủy quyền cho Thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thông báo bằng văn bản,

nêu rõ lý do cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo,

kiến nghị [3].

đ) Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm

Theo quy định tại Điều 331 BLTTDS, người có thẩm quyền kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân

dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét

thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án

nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

e) Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm

20

Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là khoảng thời gian quy định của

BLTTDS cho phép người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm xem xét,

quyết định việc kháng nghị. Hết thời hạn trên, người có thẩm quyền kháng

nghị sẽ không được kháng nghị. Theo quy định tại Điều 334 BLTTDS: “1.

Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng

nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu

lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều

này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài

thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của

Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này

đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm

pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm

nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba,

xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để

khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó”.

g) Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là văn bản pháp lý, thể hiện dưới

hình thức quyết định, phải chứa đựng các nội dung theo quy định tại Điều 333

BLTTDS. Cụ thể: Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải có các nội dung

chính sau đây:

Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng

nghị; Chức vụ của người ra quyết định kháng nghị; Số, ngày, tháng, năm của

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Quyết định của bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; Nhận xét, phân tích

những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị

21

kháng nghị; Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị; Kháng nghị toàn bộ

hoặc phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Tên của Tòa án có

thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án; Đề nghị của người kháng nghị.

h) Thẩm quyền giám đốc thẩm

Thẩm quyền giám đốc thẩm là thẩm quyền của Ủy ban thẩm phán hoặc

của Hội đồng thẩm phán TANDCC, TANDTC được tiến hành xét xử vụ án

theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo quy định tại Điều 337 BLTTDS thì thẩm

quyền giám đốc thẩm được phân định như sau [20]:

“1. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án

nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị

như sau:

a) Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm

bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện có hiệu lực pháp luật bị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

b) Toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám

đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật quy

định tại điểm a khoản này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết

định đã được Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc

thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán nhưng không đạt được sự

thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án.

2. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng

nghị như sau:

a) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm

bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định của

Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

22

b) Toàn thể Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám

đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật quy định tại

điểm a khoản này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã

được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm

bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không đạt được sự thống

nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án….

5. Trường hợp những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về

cùng một vụ án dân sự cùng thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của Tòa án

nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao thì Tòa án nhân dân tối cao có

thẩm quyền giám đốc thẩm toàn bộ vụ án”.

i) Phiên tòa giám đốc thẩm

Phiên tòa giám đốc thẩm được quy định từ Điều 339 đến 341 BLTTDS,

bao gồm thời hạn mở phiên tòa là bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng

nghị kèm theo hồ sơ vụ án; Chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm và Thủ tục xét

xử tại phiên tòa giám đốc thẩm. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm được tiến

hành như sau [15]:

Sau khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, một thành viên Hội đồng xét xử

giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết

định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng

nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị.

Trường hợp VKS kháng nghị thì đại diện VKS trình bày nội dung kháng nghị.

Đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được Tòa án triệu tập

đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến về những vấn đề mà Hội đồng

giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng mặt nhưng có văn bản trình bày

ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị và

việc giải quyết vụ án.

23

Các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và thảo

luận. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nghị án và biểu quyết về việc giải quyết

vụ án và công bố nội dung quyết định về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.

Việc nghị án phải được thực hiện theo các nguyên tắc quy định tại Điều 264

của BLTTDS.

Trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử theo

quy định tại điểm a khoản 1 Điều 337 của BLTTDS thì quyết định của Hội

đồng xét xử phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán

thành.

Trường hợp xét xử theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 337 của

BLTTDS thì phiên tòa xét xử của toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân

dân cấp cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết

định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết

tán thành.

Trường hợp Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử theo quy định tại

điểm a khoản 2 Điều 337 của BLTTDS thì quyết định của Hội đồng xét xử

phải được tất cả thành viên tham gia Hội đồng biểu quyết tán thành.

Trường hợp xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 337 của

BLTTDS thì phiên tòa xét xử của toàn thể Hội đồng Thẩm phán TANDTC

phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội

đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

k) Phạm vi giám đốc thẩm

Phạm vi giám đốc thẩm là giới hạn cho phép Tòa giám đốc thẩm xem

xét, giải quyết vụ án. Theo quy định của BLTTDS thì Hội đồng xét xử giám

đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung

kháng nghị; Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết

định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị

24

hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết

định đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của

người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.

l) Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm

Sau khi tiến hành phiên Tòa giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm

sẽ biểu quyết về việc giải quyết vụ án và ra một trong các quyết định sau:

- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;

Đây là trường hợp qua kết quả phiên tòa, HĐXX nhận định, đánh giá

kháng nghị không có căn cứ, quyết định của bản án có hiệu lực pháp luật là

đúng đắn, không có sai lầm hoặc vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên ra quyết

định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị.

- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ

nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc

bị sửa;

Qua kết quả phiên tòa, HĐXX xét thấy kháng nghị có căn cứ, bản án,

quyết định của tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc sửa không đúng thì Hội đồng

giám đốc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng

nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới xét xử đúng pháp

luật nhưng đã bị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hủy bỏ, sửa đổi một

phần hay toàn bộ. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được

một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu

quả của việc thi hành án.

Quy định về việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án nhằm tạo điều

kiện cho việc hủy bán án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phát

huy được hết tác dụng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

- Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

25

lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục

phúc thẩm;

Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản

án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm hoặc xét

xử phúc thẩm lại nếu việc kháng nghị có căn cứ và trong trường hợp sau đây:

+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ

hoặc không theo đúng quy định.

+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách

quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;

+ Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không

đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục

tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm có thể hủy một phần hoặc toàn bộ

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giao cho tòa án cấp

mình hoặc cấp dưới xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại vụ án. Đồng thời Hội

đồng giám đốc thẩm có thể hướng dẫn tòa án xử lại vụ án những vấn đề cần

thiết như việc đánh giá chứng cứ, việc vận dụng pháp luật để giải quyết vụ án

v.v. Nhưng hội đồng giám đốc thẩm không được chỉ rõ phải quyết định giải

quyết vụ án như thế nào khi vụ án được xét xử lại. Tòa án giải quyết vụ án

theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm quyết định giải quyết vụ án căn cứ vào

diễn biến của vụ án và pháp luật áp dụng giải quyết vụ án mà không bị ràng

buộc vào ý kiến hướng dẫn của tòa án cấp giám đốc thẩm

- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải

quyết vụ án.

Khi xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu có một

trong các căn cứ quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015 thì Hội đồng xét

xử giám đốc thẩm ra quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

26

lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp quyết định đình chỉ

giải quyết vụ án đối với trường hợp sự việc không thuộc thẩm quyền của tòa

án thì tòa án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải

quyết.( Điều 346 BLTTDS) [17].

Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần

hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của

việc thi hành án.

- Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu

lực pháp luật.

Khi có đủ các điều kiện sau đây thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra

quyết định sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật:

+ Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ

để làm rõ các tình tiết trong vụ án;

+ Việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không làm ảnh hưởng đến

quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần

hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của

việc thi hành án.

Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực

pháp luật là quy định mới của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004,

góp phần đảm bảo cho vụ án không bị kéo dài gây tốn kém về thời gian và

tiền của cho đương sự, bởi có vụ án chỉ sai một phần nào đó chẳng hạn như

vấn đề án phí, nhưng nếu Hội đồng xét xử ( HĐXX) quyết định hủy để xét xử

lại toàn bộ vụ án thì cả những phần không bị kháng nghị đáng ra đã được thi

hành nhưng cũng bị xét xử lại là không hợp lý.

Quy định này không mâu thuẫn với khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm

2013 “ Chế độ sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” vì bản án đã qua hai cấp

27

xét xử, TANDTC thực hiện quyền năng hiến định là cơ quan xét xử cao nhất thì phải có thẩm quyền sửa án1 [15].

1.3. Thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự

1.3.1 Khái niệm thủ tục tái thẩm:

Theo quy định tại Điều 351 BLTTDS, “tái thẩm là xét lại bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được

phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa

án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó”. Như

vậy, tái thẩm trong tố tụng dân sự không phải là một cấp xét xử của Tòa án

mà là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện. Tình tiết mới này có

thể làm thay đổi nội dung vụ án mà Tòa án và các đương sự không thể biết

được khi Tòa án ra bản án, quyết định. Tình tiết mới phải thỏa mãn 3 điều

kiện sau đây: Một là, tình tiết mới đó phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án

giải quyết vụ án mà cả Tòa án và đương sự đã không biết được; Hai là, tình

tiết mới đó phải là những tình tiết quan trọng liên quan đến vụ án có thể làm

thay đổi nội dung vụ án, làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó

trở nên không có căn cứ và không hợp pháp; Thứ 3, tình tiết mới đó cần được

Tòa án xác định qua thủ tục tái thẩm.

1.3.2 Thủ tục tái thẩm có những nội dung sau:

a) Căn cứ kháng nghị tái thẩm

Theo quy định tại Điều 352 BLTTDS, căn cứ để kháng nghị theo thủ

tục tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

bao gồm:

1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã

1 Trương Hòa Bình-Chánh án TANDTC “ Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, giải pháp đột phá để TAND thực hiện có kết quả nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”; Tạp chí Tòa án, số chuyên đề tháng 11/2014, tr.7.

không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;

28

2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của

người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;

3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ

sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;

4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ

quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.

Như vậy, việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được thực hiện khi thỏa

mãn một trong những căn cứ nêu trên mà không cần đi kèm điều kiện gây

thiệt hại về quyền và lợi ích của đương sự, của người thứ 3 hoặc lợi ích của

Nhà nước như đối với thủ tục giám đốc thẩm.

b) Thông báo và xác minh tình tiết mới được phát hiện

Đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền phát hiện tình

tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng

nghị quy định tại Điều 354 của BLTTDS. Viện kiểm sát, Tòa án phát hiện

tình tiết mới của vụ án phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền

kháng nghị quy định tại Điều 354 của BLTTDS. Khi nhận được thông báo,

Tòa án hoặc VKSND phải tiến hành xác minh tình tiết mới được phát hiện để

xác định tính đúng đắn, khách quan, tức là sự thật của tình tiết mới đó trong

một thời hạn nhất định để đưa ra kết luận, làm căn cứ cho việc quyết định

kháng nghị hoặc không kháng nghị tái thẩm.

c) Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm

Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Chánh án

TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp

cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần

thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

29

dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân

cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

d) Thời hạn kháng nghị tái thẩm

Thời hạn kháng nghị tái thẩm là khoảng thời gian BLTTDS quy định

cho phép người có thẩm quyền kháng nghị ban hành kháng nghị tái thẩm.

Theo quy định tại của BLTTDS, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là

01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của BLTTDS.

đ) Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm

Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm là thẩm quyền ban hành

những quyết định để giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục tái thẩm. Theo đó,

Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền sau đây:

1) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật.

2) Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm

lại theo thủ tục do BLTTDS quy định.

3) Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải

quyết vụ án.

e) Phiên tòa tái thẩm

Theo quy định tại Điều 357 BLTTDS về việc áp dụng những quy định

của thủ tục giám đốc thẩm thì thời hạn mở phiên tòa, chuẩn bị phiên tòa cũng

2Xem Thủ tục phiên tòa GĐT tại Mục I, tr. 26 Luận văn.

như thủ tục phiên tòa tái thẩm được áp dụng như những quy định về phiên tòa giám đốc thẩm2.

30

1.4. Quyền của đƣơng sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ

việc dân sự

1.4.1. Khái niệm quyền của đương sự

Quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân

sự là một bộ phận không tách rời quyền của đương sự trong vụ việc dân sự

nói chung trong tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 68 BLTTDS thì

đương sự trong vụ việc dân sự gồm đương sự trong vụ án dân sự và đương sự

trong việc dân sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân

bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có tham

gia vào tranh chấp dân sự; Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá

nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan. Như vậy, cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng quyền và

lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đã nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết

để bảo vệ, hoặc trong trường hợp do luật định, cơ quan, tổ chức nộp đơn yêu

cầu Tòa án bảo vệ lợi ích Nhà nước hoặc lợi ích công cộng trong lĩnh vực

mình phụ trách. Ngoài ra, có trường hợp, mặc dù không trực tiếp tham gia

khởi kiện hoặc là đối tượng bị khởi kiện nhưng quyền và lợi ích hợp pháp của

mình cũng có thể bị ảnh hưởng khi Tòa án xem xét, giải quyết, đây là những

người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Những cơ quan, tổ chức, cá nhân

trên được coi là đương sự trong vụ việc dân sự [1].

Vậy, đương sự trong vụ việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân tham

gia vào quá trình tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình

hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước do có quyền, nghĩa vụ liên

quan đến vụ việc dân sự.

Đương sự tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, bị đơn

dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người

yêu cầu, người bị yêu cầu, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong

việc dân sự.

Để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự một cách đúng đắn, theo quy

31

định của Điều 70 BLTTDS, đương sự có quyền, nghĩa vụ tố tụng ngang nhau,

được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện việc bảo vệ quyền lợi

cho mình. Điều 70 BLTTDS quy định những quyền cụ thể của đương sự, như:

Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của BLTTDS;

Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu,

chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; Đề nghị Tòa án xác minh,

thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được;

Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm

thời; Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do

Tòa án tiến hành; Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng

cứ và pháp luật áp dụng; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án

v.v. Những quyền này của đương sự được pháp luật bảo đảm bằng việc các cơ

quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan, tổ chức cá

nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện, đáp ứng những yêu cầu, đề nghị

của đương sự trong phạm vi quyền của họ. Quyền của đương sự bảo đảm cho

đương sự có đủ cơ sở pháp lý, điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình khi tham gia vào tố tụng dân sự. Như nậy, có thể hiểu, quyền của

đương sự là những quy định của pháp luật cho phép đương sự được thực hiện

những hành vi hoặc quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.4.2. Khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm

Quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự là một bộ

phận của quyền của đương sự trong vụ việc dân sự. Tuy nhiên, do tính chất

của xét xử GĐT,TT là xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa

án nên một số quyền của đương sự trong vụ việc dân sự sẽ không có đầy đủ

trong thủ tục GĐT,TT, nhưng đồng thời cũng có nội dung được mở rộng hơn,

ví dụ, như quyền phát hiện những vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới của

32

bản án, quyết định của Tòa án. GĐT,TT là thủ tục đặc biệt trong tố tụng dân

sự, được thực hiện nhằm khắc phục những vi phạm, sai lầm trong bản án đã

có hiệu lực pháp luật của Tòa án nên để đạt được mục đích trên, pháp luật

TTDS quy định quyền của đương sự trong thủ tục này có những nét riêng so

với quyền của đương sự trong giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm. Từ những quy

định tại các chương 20, chương 21 BLTTDS, có thể xác định nội dung quyền

của đương sự bao gồm: Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục GĐT,TT; Quyền làm đơn

đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ

tục GĐT,TT; Quyền nộp đơn đề nghị GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận

đơn đề nghị của đương sự; Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong

thủ tục giám đốc thẩm ,tái thẩm; Quyền nhận quyết định kháng nghị GĐT,TT;

Quyền được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu tập; Quyền trình bày

ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu [20].

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT,TT vụ việc dân sự như sau: quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT

vụ việc dân sự là một bộ phận trong tổng thể quyền của đương sự trong tố

tụng dân sự theo quy định của pháp luật, cho phép đương sự được thực hiện

những hành vi hoặc quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự

theo thủ tục GĐT, TT nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.4.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền đương sự trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự

Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án là phán quyết của

Tòa án đã trải qua quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, xét hỏi, tranh tụng

công khai, dân chủ, khách quan, toàn diện, do vậy, phải được thi hành một

cách triệt để, nghiêm túc trên thực tế mới phát huy hết tác dụng quyền lực của

Nhà nước nói chung và của Tòa án nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có

những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những vi phạm, sai lầm,

xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và của cá nhân. Do

33

vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đương sự trong

vụ án vẫn có quyền và trách nhiệm phát hiện những vi phạm, sai lầm trong

bản án, quyết định để yêu cầu, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem

xét, khắc phục sai lầm, hậu quả. Đương sự trong vụ việc dân sự mặc dù không

có quyền kháng cáo tiếp theo đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật nhưng vẫn có quyền phát hiện, nộp đơn yêu cầu kháng nghị GĐT,TT để

bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Những quy định về quyền của đương sự

trong GĐT,TT vụ việc dân sự có ý nghĩa bảo đảm quyền con người, quyền

công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, bảo đảm việc xét xử, giải

quyết vụ việc dân sự được đúng đắn, bảo vệ lợi ích chính đáng của đương sự,

cả trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Từ những nội dung trên, chúng ta thấy việc BLTTDS quy định quyền của

đương sự trong thủ tục GĐT,TT cũng nhằm phục vụ việc xét xử GĐT,TT xác

định và khắc phục được những sai lầm, vi phạm pháp luật trong bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Tại chương 1, tác giả đã đi sâu phân tích, trình bày những nội dung cơ

bản thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT,TT. Theo đó, xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa

án là thủ tục đặc biệt, được thực hiện bởi thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, bao

gồm nhiều chế định khác nhau, được quy định trong BLTTDS năm 2015. Tác

giả luận văn đã phân tích, đánh giá những nội dung quan trọng có liên quan

để đưa ra các khái niệm cơ bản liên quan đến quyền của đương sự trong thủ

tục GĐT,TT vụ việc dân sự, như: khái niệm vụ án dân sự, việc dân sự, vụ việc

dân sự; trình bày những quy định về thủ tục GĐT,TT; về đương sự trong vụ,

việc dân sự;

34

Chương 2

THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ

TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ VIỆC DÂN SỰ

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của đƣơng sự trong

giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự

2.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, Nhà nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức

tòa án và ngạch thẩm phán, trong đó ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện

hai cấp xét xử”. Trong giai đoạn này chưa có văn bản pháp luật nào quy định

về thẩm quyền của Tòa án trong việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật.

Ngày 22/5/1950, Chính phủ ban sắc lệnh số 85/SL mới có quy định về

thủ tục tiêu án. Tại điều 17 sắc lệnh quy định: “Tòa án chỉ thủ tục một phần

hoặc toàn bộ thủ tục nếu xét thấy một hay nhiều hình thức ghi trong Luật tố

tụng hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự.”

Ngày 12/02/1958, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 321/VHH-CT yêu cầu các Tòa

án phải nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án xử chung thẩm. Ngày

13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số 002/TT

quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu lực

pháp luật.

Luật tổ chức TAND năm 1960 đã quy định khá đầy đủ các nguyên tắc

trong việc xét xử, phân định thẩm quyền của Toà án các cấp. Bên cạnh việc

xét xử hai cấp như trước đây, Toà án đã áp dụng một thủ tục xét xử mới đặc

biệt, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Điều 10 Luật TCTAND năm 1960 quy

định: “Đối với các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực

35

pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán TANDTC xét định” 3. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định điều kiện để có

giám đốc thẩm là phải có kháng nghị của người có thẩm quyền [18].

Một trong những văn bản pháp luật trong giai đoạn này có quy định về

giám đốc thẩm là Pháp lệnh ngày 23/3/1961 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và các TAND địa phương. Trong

Pháp lệnh này có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TANDTC

và một trong những nhiệm vụ, quyền hạn đó là việc kháng nghị những bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp nhưng phát hiện có sai lầm.

Hiến pháp năm 1980 quy định: “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất

nước CHXHCN Việt Nam. TANDTC giám đốc việc xét xử của TAND địa

phương và các Toà án quận sự. TANDTC giám đốc việc xét xử của Toà án đặc

biệt trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng nhà nước quy định khác khi thành lập toà án đó ”4 [15].

Luật TCTAND cũng được sửa đổi vào năm 1981 và Điều 23 Luật sửa

đổi, bổ sung Luật tổ chức TAND năm 1988 quy định: “Hội đồng thẩm phán

TANDTC là tổ chức.. .xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm và tái

thẩm...Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán TANDTC”5

Như vậy, thủ tục tái thẩm lần đầu tiên được quy định trong Luật

TCTAND năm 1981. Cũng theo quy định của luật thì Uỷ ban thẩm phán

TANDTC sẽ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án và quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của các toà thuộc TANDTC; các toà chuyên

trách sẽ có quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có

3 Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. 4 Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 5 Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

hiệu lực pháp luật của các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

36

và cấp tương đương; TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có

quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của các TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Theo đó, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm cũng được quy định

khá rõ ràng: Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp.

Thông tư số 01/TATC ngày 01/02/1982 của TANDTC về thủ tục giám đốc

thẩm dân sự ở TANDTC đã quy định rõ các trường hợp cần được kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm như: việc điều tra, thẩm vấn không đầy đủ, không

khách quan, chưa làm sáng tỏ được những tình tiết có ý nghĩa của vụ kiện; vi

phạm pháp luật tố tụng; kết luận trong bản án không phù hợp với những tình

tiết thực tế của vụ kiện mà Toà án xác định.

Như vậy, đến năm 1981, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (GĐT,TT) đã

được Luật TCTAND ghi nhận, tuy nhiên, thủ tục tố tụng đối với bản án đã có

hiệu lực pháp luật mới chỉ là những quy định cơ bản, đơn giản, chưa được

luật hóa trong BLTTDS. Mặc dù vậy, thông qua những quy định trên về việc

xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật, quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT,TT đã được ghi nhận, được bảo vệ, thể hiện sự phát triển mới của pháp

luật tố tụng dân sự [18].

Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước Nước CHXHCN Việt Nam đã

ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Trong đó, chương

XII, từ Điều 71 đến Điều 77 quy định về thủ tục giám đốc thẩm; chương XIII,

từ Điều 78 đến Điều 82 quy định về thủ tục tái thẩm. Các vấn đề cơ bản như:

căn cứ kháng nghị, người có thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị,

thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.. .đều được quy định khá

chi tiết trong Pháp lệnh.

Bên cạnh đó, thời kỳ này, Nhà nước ta cũng quy định về thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm các vụ án kinh tế và tranh chấp lao động tại Pháp lệnh thủ

37

tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996.

Như vậy, có thể thấy các quy định về thủ tục xét lại bản án, quyết định

đã có hiệu lực pháp luật trong giai đoạn này đã có sự phát triển hơn nhưng

mới chỉ dừng lại ở các quy định trong các Pháp lệnh, Thông tư liên tịch mang tính

hướng dẫn mà chưa được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Những văn bản

quy phạm pháp luật này là nền tảng pháp lý cho việc ban hành BLTTDS sau này.

Thông qua những quy định của các Pháp lệnh, quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT,TT được thực hiện, bảo đảm một cách đầy đủ hơn trong từng lĩnh vực dân sự,

kinh tế, kinh doanh, thương mại, lao động.

2.1.2 Giai đoạn từ năm 2005- 2011 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự

năm 2004 có hiệu lực cho đến trước khi sửa đổi, bổ sung năm 2011)

Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 10, ngày 15/6/2004, trước yêu cầu của

đất nước trong thời kỳ đổi mới, thể chế hóa quan điểm của Đảng về cải cách

tư pháp tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Quốc hội nước

CHXHCN Việt Nam đã thông qua BLTTDS năm 2004. BLTTDS năm 2004

đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử lập pháp nói chung cũng như trong

lĩnh vực tố tụng dân sự nói riêng của nước ta. Các quy định về tố tụng dân sự

được ban hành trước đó trong các văn bản dưới luật đã được luật hóa trong

BLTTDS năm 2004. BLTTDS năm 2004 có hiệu lực pháp luật từ ngày

1/5/2005 gồm 9 phần, 36 chương và 418 điều, quy định tương đối đầy đủ

những vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, thi hành án dân sự, như nhiệm vụ

của BLTTDS, những nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng….Trong BLTTDS năm

2004 đã quy định khá đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng

dân sự, trong GĐT,TT vụ việc dân sự. Cụ thể, trong thủ tục GĐT,TT vụ việc

dân sự, đương sự có các quyền sau: phát hiện bản án, quyết định của tòa án đã

có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới cần xét lại theo

38

thủ tục GĐT,TT, thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm quyền

kháng nghị( Đ.284, 306); Được nhận quyết định kháng nghị GĐT,TT(

Đ.290); Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi Tòa án triệu tập( Đ.292); Được

trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị tại phiên tòa GĐT,TT(

Đ.295); Được nhận quyết định GĐT,TT( Đ. 303).

Theo quy định tại Điều 310 BLTTDS về áp dụng các quy định của thủ

tục giám đốc thẩm, thì các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện

như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm tại BLTTDS. Như vậy, quyền của

đương sự trong thủ tục tái thẩm vụ việc dân sự là đầy đủ so với quyền của

đương sự trong thủ tục GĐT vụ việc dân sự.

2.1.3. Giai đoạn từ năm 2012-2015 (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự sửa

đổi, bổ sung năm 2011 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015)

Từ thời điểm năm 2005, sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực pháp

luật, Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, xu thế

hội nhập, cùng phát triển được coi là xu thế chung toàn cầu. Việt Nam đã

tham gia Tổ chức Thương mại thế giới WTO, vào Hiệp hội ASEAN, đàm

phán tham gia nhiều hiệp định kinh tế quốc tế quan trọng, như Hiệp định kinh

tế xuyên Thái Bình Dương(TPP). Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới đất

nước, các thành phần kinh tế ra đời, phát triển, do vậy cũng phát sinh nhiều

tranh chấp, yêu cầu cần giải quyết trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, kinh doanh,

lao động, thương mại. BLTTDS năm 2004 sau một thời gian áp dụng đã nảy

sinh những mâu thuẫn, hạn chế, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền con

người, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích nhà nước, đặc

biệt là quyền của đương sự khi tham gia vào tố tụng hình sự. Do vậy, ngày

29/3/2011, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành

Luật số 65/2011/QH12, Sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2004, có hiệu lực thi

hành từ ngày 1/1/2012. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS đã sửa đổi một số nội

39

dung không phù hợp trong BLTTDS năm 2004 như về thẩm quyền của Tòa

án; quyền và nghĩa vụ của đương sự; sự tham gia của Viện kiểm sát; bổ sung

nguyên tắc tranh tụng để bảo đảm quyền lợi của người tham gia tố tụng; thủ

tục đặc biệt xem xét lại bản án, quyết định của HĐTP-TANDTC. Trong thủ

tục GĐT,TT, các quy định về quyền của đương sự vẫn được giữ nguyên, chỉ

chỉnh sửa câu chữ cho hợp lý và bổ sung thêm một số quyền của đương sự,

thẩm quyền của Hội đồng GĐT (có liên quan đến quyền của đương sự), như,

sửa đổi Điều 284 theo hướng quy định thời hạn phát hiện vi phạm sai lầm của

bản án, quyết định là 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật. Đồng thời bổ sung thêm 2 điều 284a và 284b, quy định về đơn đề nghị

xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

GĐT và thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục GĐT; Sửa đổi, bổ sung Điều 288

về thời hạn kháng nghị, theo hướng, nếu đã hết thời hạn kháng nghị 3 năm

nhưng thuộc trường hợp có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị

được kéo dài thêm 2 năm: “ a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại

khoản 1 Điều 284 của BLTTDS và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định

tại khoản 1 Điều 288 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; b) Bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định

tại Điều 283 của BLTTDS, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp

pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải

kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật đó”; Sửa đổi, bổ sung các khoản 2, 3 Điều 297 về thẩm quyền của Hội

đồng GĐT theo hướng: “2. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp

dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; 3. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc

thẩm lại”; Sửa đổi, bổ sung Điều 299 như sau: “Hội đồng giám đốc thẩm ra

40

quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm

lại trong các trường hợp sau đây:

1. Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc

không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này;

2. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết

khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp

luật;

3. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không

đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục

tố tụng”.

2.1.4 Giai đoạn từ 1/7/2016 đến nay (từ khi Bộ luật tố tụng dân sự

năm 2015 có hiệu lực đến nay)

Từ sau khi ban hành BLTTDS năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm 2011)

đến nay, quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung và vụ việc dân sự theo

thủ tục GĐT,TT nói riêng có nhiều thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn vướng

mắc trong thực tiễn xét xử, tăng thêm quyền của đương sự, bảo đảm tốt hơn

lợi ích của đương sự trong tố tụng dân sự [23]. Tuy nhiên, trước sự hội nhập

ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, sự hồi

phục và phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền

kinh tế Việt Nam. Nhiều loại hình kinh tế cũng như các tổ chức kinh tế tư

nhân nước ngoài hình thành và phát triển tại Việt Nam và ngược lại, nhiều tập

đoàn, tổ chức kinh tế Việt Nam cũng vươn ra thị trường thế giới. Do sự phát

triển nhanh chóng của nền kinh tế mở cửa của Việt Nam kéo theo nhiều vấn

đề xã hội cũng thay đổi, mặt tích cực, mặt tiêu cực đều có, dẫn đến những

tranh chấp, những yêu cầu cần được Nhà nước ghi nhận, giải quyết cũng ngày

càng nhiều, đa dạng. Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng có những thay

đổi lớn đáp ứng yêu cầu của xã hội, đất nước như việc ban hành Hiến pháp

41

năm 2013, Luật TCVKSND năm 2014, Luật TCTAND năm 2014. Những quy

định trong BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế so với

Hiến pháp và các luật nêu trên, như những vấn đề về quyền con người, quyền

công dân cần được ghi nhận, mở rộng trong tố tụng dân sự. Quyền của đương

sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự cũng cần được sửa đổi, bổ sung phù

hợp với những quy định mới của Hiến pháp, của Luật TCTAND năm 2014.

Do vậy, ngày 25/11/2015, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua

BLTTDS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2016. Trong phần hiệu lực thi

hành tại Điều 517 BLTTDS, một số quy định liên quan đến BLDS năm 2015

sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017 và Điều 159, Điểm h, Khoản 1,

Điều 192 BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 vẫn có hiệu lực đến

hết ngày 31/12/2016 [17].

2.2. Những quyền cơ bản của đƣơng sự trong giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự theo pháp luật hiện hành.

2.2.1 Quyền đương sự phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà là thủ tục

đặc biệt xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên các đương sự

không có quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật. Bản án, quyết định về vụ việc dân sự có hiệu lực pháp luật khi bản án,

quyết định sơ thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng

cáo, kháng nghị và bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên

án hoặc quyết định. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thi hành

theo trình tự thủ tục quy định, mặc dù có thể đương sự vẫn không đồng ý với

bản án, quyết định đó. Trên thực tế, vẫn có những bản án, quyết định mặc dù

đã được hai cấp xét xử, đã có hiệu lực pháp luật, đã được thi hành trên thực tế

nhưng vẫn có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự. Trong trường hợp này, mặc dù không có quyền

42

kháng cáo tiếp theo, nhưng pháp luật tố tụng dân sự vẫn bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự bằng việc ghi nhận đương sự có quyền phát hiện

vi phạm pháp luật, sai lầm trong các bản án, quyết định của Tòa án và đề nghị

bằng văn bản tới những người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT để xem xét

và quyết định việc kháng nghị. Điều 327 BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể

về phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem

xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:

1) Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có

hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết

định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền

kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS để xem xét kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm.

2) Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm

quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS.

3) Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân

dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân

dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật nếu phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 của BLTTDS.

Như vậy, có 3 nhóm chủ thể có thể phát hiện vi phạm pháp luật trong

bản án, quyết định của Tòa án và 3 phương thức khác nhau để thể hiện quyền,

trách nhiệm trong việc chuyển tải những thông tin đó đến những người có

thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT để xem xét và quyết định việc kháng nghị.

Thứ nhất, đối với đương sự thì có quyền đề nghị bằng văn bản; Thứ hai, đối

với Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì phải thông

báo bằng văn bản; Thứ ba, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa

43

án nhân dân cấp cao thì kiến nghị. Trong 3 nhóm chủ thể đó, chúng ta thấy

chỉ có đương sự được pháp luật ghi nhận có quyền trực tiếp đề nghị bằng văn

bản đến những người có thẩm quyền kháng nghị GĐT,TT. Trong trường hợp

phát hiện tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì đương

sự có quyền thông báo đến người có thẩm quyền kháng nghị biết(Kh. 1,

Đ.353 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm tính ổn định trong việc thi hành bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, BLTTHS cũng quy định

thời hạn cho việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đối với

đương sự cũng như các chủ thể khác là một năm. Sau thời hạn một năm, nếu

đương sự phát hiện ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

có vi phạm pháp luật, là căn cứ để kháng nghị thì cũng không có quyền đề

nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT. Đương sự phát hiện vi phạm

pháp luật, tình tiết mới là những căn cứ của kháng nghị GĐT,TT bằng nhiều

hình thức khác nhau như nghiên cứu bản án, quyết định, thông qua người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người đại diện, nhân chứng để thu thập tài liệu,

chứng cứ v.v [10].

2.2.2 Quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định

của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và

nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự;

Quyền làm đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu

lực pháp luật theo thủ tục GĐT,TT là quyền tố tụng đầu tiên của đương sự để

khởi động tiến trình GĐT,TT vụ việc dân sự. Để bảo đảm triệt để quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự nhưng đồng thời bảo đảm tôn trọng quyền tự

quyết của đương sự trong vụ việc dân sự, BLTTHS quy định, trường hợp phát

hiện vi phạm pháp luật trong quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu không vì

bảo vệ lợi ích công hoặc của người thứ 3 thì thủ tục GĐT chỉ có thể được tiến

hành khi đương sự có đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục

GĐT,TT. Đối với thủ tục tái thẩm thì không cần điều kiện này. Đơn đề nghị

44

của đương sự phải bảo đảm đúng về hình thức, nội dung theo quy định tại

Điều 328 BLTTDS như sau: a) Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; b) Tên,

địa chỉ của người đề nghị; c) Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật được đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; d) Lý do đề

nghị, yêu cầu của người đề nghị; đ) Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc

điểm chỉ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của

cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ

chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo

quy định của Luật doanh nghiệp. Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải

gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ

(nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp

pháp. Lý do đề nghị kháng nghị của đơn cần căn cứ vào Điều 326 BLTTDS

để nêu ngắn gọn những căn cứ mà đương sự cho rằng cần phải xem lại bản án

phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ

được gửi cho người có thẩm quyền kháng nghị, đó là Chánh án TANDTC,

Chánh án TANDCC, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

(VKSNDTC), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (VKSNDCC).

Tòa án, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm nhận đơn đề nghị do đương

sự nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và

phải ghi vào sổ nhận đơn, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự. Ngày

gửi đơn được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Tòa án, Viện kiểm sát hoặc

ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi.

Tòa án, Viện kiểm sát chỉ thụ lý đơn đề nghị khi có đủ các nội dung

theo quy định. Trường hợp đơn đề nghị không có đủ điều kiện theo quy định

thì Tòa án, Viện kiểm sát yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung trong thời

hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát; hết

thời hạn này mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện kiểm

sát trả lại đơn đề nghị, nêu rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn

45

[20].

- Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phân

công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ

sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, quyết định;

trường hợp không kháng nghị thì thông báo bằng văn bản, nêu rõ lí do cho

đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân công Thẩm phán TANDTC,

Viện trưởng VKSND phân công Kiểm sát viên VKSNDTC nghiên cứu đơn,

thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án, báo cáo Chánh án TANDTC, Viện trưởng

VKSNDTC xem xét, quyết định kháng nghị. Trường hợp không kháng nghị

thì Chánh án TANDTC Viện trưởng VKSNDTC tự mình hoặc ủy quyền cho

Thẩm phán TANDTC, Kiểm sát viên VKSNDTC thông báo bằng văn bản,

nêu rõ lý do cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có đơn đề nghị, văn bản

thông báo, kiến nghị [3].

Như vậy, đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT vụ việc dân sự không phải

là căn cứ để đưa vụ việc dân sự ra xét xử theo thủ tục GĐT,TT mà chỉ là căn

cứ, cơ sở để những người có thẩm quyền kháng nghị xem xét, đánh giá tính

đúng đắn để quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị đối với bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tuy không phải là căn cứ để quyết

định việc kháng nghị nhưng quy định về việc đương sự được làm đơn yêu cầu

kháng nghị đã là một chế định pháp lý quan trọng bảo đảm cho việc bảo vệ

quyền của đương sự được thực hiện một cách triệt để nhất, khắc phục những

sai lầm hoặc vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng dân sự. Khi đương sự có đơn

yêu cầu thì Tòa án, Viện kiểm sát phải có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét và

trả lời cho đương sự biết kết quả.

2.2.3. Quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm

Một trong những căn cứ, cơ sở của đương sự trong vụ việc dân sự đề

46

nghị xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

GĐT,TT là việc đương sự phát hiện ra vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới có

thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật. Việc phát hiện này có thể do đương sự đã thu thập được chứng cứ, tài

liệu mới liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự mà trước đó Tòa án đã

giải quyết, đã ra bản án hoặc quyết định, ví dụ: phát hiện ra bản di chúc hợp

pháp về việc thừa kế tài sản sau khi có bản án chia tài sản. Để chứng minh

cho đề nghị kháng nghị của mình là có căn cứ, giúp cho người có thẩm quyền

kháng nghị theo thủ tục GĐT,TT căn cứ vào đó ban hành kháng nghị,

BLTTDS quy định đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu

trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự tại Điều 330. Việc cung cấp, bổ sung

chứng cứ, tài liệu được đương sự thực hiện ngay khi nộp đơn đề nghị hoặc

trong cả quá trình xem xét đơn đề nghị GĐT,TT và tại phiên tòa GĐT,TT. Để

bảo đảm hiệu quả của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Tòa án theo thủ tục GĐT, TT, người có thẩm quyền kháng nghị cũng như

Hội đồng xét xử chỉ xem xét đối với tài liệu, chứng cứ mà đương sự cung cấp,

bổ sung nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp

phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương

sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà

đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án. Điều này cũng

có nghĩa là những tài liệu chứng cứ đó chưa được tòa án cấp sơ thẩm, phúc

thẩm xem xét trong quá trình giải quyết vụ án. Nếu những tài liệu, chứng cứ

đóa đã được cung cấp và đã được Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xem xét để

đưa ra bản án, quyết định nhưng đương sự cho rằng việc xem xét, đánh giá đó

không đúng đắn, không khách quan dẫn đến việc ra bản án không đúng thì

cũng không thuộc trường hợp đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ

trong GĐT,TT. Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, người

47

có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền yêu cầu

người có đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trường hợp đương sự cung cấp, bổ

sung chứng cứ, tài liệu thì Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán,

Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu đó. Các thành viên Hội

đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu chứng cứ đó tại phiên tòa để

đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của mình. Trường hợp theo yêu cầu

của Thẩm phán về việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự

không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ.

Khoản 1 Điều 94 BLTTDS năm 2004( Đ106 BLTTDS năm 2015) quy

định: Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có

yêu cầu, thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập

chứng cứ. Như vậy, trước tiên Thẩm phán phải yêu cầu đương sự chứng minh

là họ không thể tự mình thu thập được chứng cứ. Ví dụ: trong vụ án tranh

chấp về nhà đất, do thất lạc giấy tờ quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất

ở, đương sự đã có văn bản đề nghị Sở tài nguyên môi trường(hoặc Sở Địa

chính nhà đất) xác định tình trạng nhà đất của mình nhưng Sở Tài nguyên và

môi trường đã có văn bản trả lời không xác nhận theo yêu cầu của cá nhân mà chỉ xác nhận khi có yêu cầu của Tòa án6. Trường hợp đương sự yêu cầu Tòa

án thu thập chứng cứ thì phải nộp lệ phí theo quy định [13].

2.2.4. Quyền nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

Trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị sau khi nghiên cứu đơn

đề nghị của đương sự thấy có đủ căn cứ, điều kiện kháng nghị thì ra quyết

định kháng nghị GĐT,TT và theo quy định tại Điều 336 BLTTDS về gửi

quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, thì quyết định kháng nghị giám đốc

thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực

6 Xem Nguyễn Thị Thảo Trang “ Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ”, Tạp chí Tòa án số 8/2016,

tr.32

pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm

48

quyền, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.

Quyền được nhận quyết định kháng nghị GĐT, TT có ý nghĩa quan

trọng đối với đượng sự, xác nhận việc đề nghị kháng nghị của đương sự đã có

kết quả, mong muốn, nguyện vọng của đương sự đã được người có thẩm

quyền kháng nghị đáp ứng theo đúng quy định của pháp luật. Việc nhận được

quyết định kháng nghị giúp cho đương sự chuẩn bị tốt các điều kiện để tham

gia phiên tòa GĐT,TT trong trường hợp Tòa án triệu tập, như nhờ người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chuẩn bị nội dung trình bày trước Tòa

án; có thể đề nghị cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác có liên quan dừng việc thi hành bản án, quyết định, thực hiện nghĩa vụ

v.v. Việc đương sự được nhận quyết định kháng nghị cùng với Tòa án, cá

nhân khác thể hiện vị trí bình đẳng trước pháp luật của đương sự.

2.2.5 Quyền được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi

được triệu tập

Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu tập là quyền của

đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó, phiên tòa giám đốc

thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp thì trường hợp

xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố

tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc

thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm vẫn

tiến hành phiên tòa. Việc đương sự có quyền được tham gia phiên tòa có ý

nghĩa trong việc bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,

giúp đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự có thể trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Tuy nhiên, việc đương sự được tham gia phiên tòa còn phụ thuộc vào

sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Nếu thấy sự có mặt của đương sự là cần

thiết thì Tòa án mới triệu tập, ngược lại, nếu thấy sự có mặt của đương sự là

49

không cần thiết thì Tòa án sẽ không triệu tập. Sự cần thiết có mặt của đương

sự ở đây được hiểu là sẽ giúp cho HĐXX nhanh chóng, khách quan và xác

định đúng đắn được những tình tiết của vụ việc dân sự có liên quan đến kháng

nghị. Hơn nữa, Tòa án chỉ triệu tập đến phiên tòa GĐT,TT những đương sự

hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự nếu như đương sự đó có liên quan đến việc kháng nghị, ví dụ,

đương sự đã có đơn yêu cầu kháng nghị hoặc việc giải quyết những vấn đề

trong kháng nghị sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

đó. Ngoài ra, trong trường hợp đương sự đã được tòa án triệu tập mà không

có mặt tại phiên tòa thì HĐXX vẫn tiến hành việc xét xử GĐT,TT. Trong

trường hợp này, Tòa án không vi phạm thủ tục tố tụng. Như vậy quyền được

tham gia phiên tòa GĐT,TT của đương sự chỉ phát sinh khi được tòa án triệu

tập, đương sự có thể tham gia hoặc không tham gia và việc không tham gia

của đương sự cũng không có ý nghĩa quyết định đến việc xác định sự thật

khách quan của vụ việc dân sự bị kháng nghị.

Những người tham gia tố tụng chủ yếu phải kể đến nguyên đơn; bị đơn;

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự (Luật sư). Việc pháp luật tố tụng dân sự không quy định

bắt buộc sự có mặt của những người tham gia tố tụng xuất phát từ tính chất

đặc thù của thủ tục giám đốc thẩm là hoạt động xét lại bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật chứ không phải là xét xử lại vụ án. Tòa án mở phiên tòa

giám đốc thẩm để xem xét lại vụ án trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong

hồ sơ vụ án hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập thêm nên sự có mặt của

những người tham gia tố tụng rất hạn chế. Một thực tế là việc quy định như

vậy dường như chỉ mang tính hình thức vì sự có mặt của những người tham

gia tố tụng, đặc biệt là nguyên đơn và bị đơn tại phiên tòa giám đốc thẩm gần

như là không có. Thông thường, họ chỉ gửi đơn khiếu nại, tài liệu bổ sung

thông qua đường bưu điện cho Tòa án. Trong trường hợp thật đặc biệt thì họ

50

mới được đại diện của Tòa án, Viện kiểm sát gặp gỡ để trình bày trực tiếp.

Nhiều ý kiến cho rằng việc có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên

tòa giám đốc thẩm là không cần thiết vì các bản án, quyết định dân sự có hiệu

lực pháp luật đã được xét xử qua ít nhất một lần và có thể nhiều hơn, do đó đã

đủ chứng cứ, tài liệu để phục vụ cho việc xem xét lại vụ án. Ngoài ra, việc

bảo đảm sự có mặt của những người tham gia tố tụng và những người khác có

liên quan đến dự phiên tòa là khó khăn cho chính đương sự, bởi vì TANDTC

thực hiện việc giám đốc thẩm đối với các vụ án trên phạm vi toàn quốc nhưng

không thể tiến hành xét xử lưu động mà chỉ giải quyết các công việc tại trụ sở

TANDTC. Tuy nhiên, các ý kiến trái chiều lại cho rằng việc các đương sự

không có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm là một điểm hạn chế vì việc thu

thập chứng cứ còn chưa đầy đủ, nhiều hồ sơ vụ án rất sơ sài, hoặc bị làm sai

lệch. Nếu các đương sự không có mặt và không được trình bày thì rất có thể

Hội đồng giám đốc thẩm sẽ đưa ra phán quyết sai lầm. Bên cạnh đó, sự vắng

mặt của đương sự sẽ kéo theo tính trách nhiệm chưa cao của Hội đồng giám

đốc thẩm do thiếu đi sức ép trực tiếp từ phái các bên và tính tranh luận tại

phiên tòa cũng giảm đi đáng kể. Chính vai trò của đương sự mờ nhạt như vậy

làm cho việc xét lại vụ án ở giai đoạn giám đốc thẩm nhiều khi mang tính chất

một chiều, dẫn đến phán quyết của Hội đồng giám đốc thẩm thiếu tính khách

quan, toàn diện và chính xác. Về vấn đề này, pháp luật tố tụng dân sự của đa

số các nước trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên bang

Nga đều cho phép các đương sự có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm. Để pháp

luật tố tụng dân sự được hoàn thiện hơn, đảm bảo sự khách quan, chính xác

của hoạt động giám đốc thẩm, BLTTDS cần sửa đổi theo hướng cho phép

7 Xem Chu Thị Hồng Nhung, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2015, Khoa Luật-Đại học quốc gia Hà

Nội, tr. 73.

đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm mà không phụ thuộc vào việc được triệu tập khi Tòa án thấy cần thiết7 [14].

51

Mặc dù BLTTDS quy định tại Điều 292 về việc khi xét thấy cần thiết,

Tòa án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên

quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, nhưng trong

thực tế các phiên tòa giám đốc thẩm vụ án dân sự từ trước tới nay tại

TANDTC chưa bao giờ có sự tham gia của đương sự hoặc những người khác

có liên quan đến việc kháng nghị. Việc quy định có thể triệu tập hay không

triệu tập đương sự hoàn toàn phụ thuộc vào việc Tòa án xét thấy cần thiết hay

không cần thiết đến sự có mặt của họ, điều đó cũng ít nhiều ảnh hưởng đến

quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án vì các quyết định của Hội đồng

xét xử ít nhiều đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. Như vậy, quy

định như trên thì việc triệu tập đương sự tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

hầu như không được thực thi trong thực tế và quy định như trên chỉ mang tính hình thức8 [8].

2.2.6 Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm

khi được yêu cầu

Quyền trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu là

quyền của đương sự được quy định tại Điều 341 BLTTDS về thủ tục xét xử

tại phiên tòa giám đốc thẩm, theo đó, đương sự, người đại diện hợp pháp,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố

tụng khác được Tòa án triệu tập đến phiên tòa giám đốc thẩm trình bày ý kiến

về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Trường hợp họ vắng

mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm

công bố ý kiến của họ. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa có ý

nghĩa quan trọng trong toàn bộ nội dung quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT,TT vụ việc dân sự. Trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT giúp cho

8 Xem Hà Thị Thúy Hà, Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2014, Khoa Luật-Đại học quốc gia Hà Nội,

tr.91.

đương sự được trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong việc giải

52

quyết vụ việc dân sự ở trình tự GĐT,TT, qua đó, trực tiếp bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Quyền của đương sự trình bày ý kiến tại phiên tòa

được pháp luật bảo đảm triệt để, thể hiện ở quy định, cả trong trường hợp

đương sự vắng mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng xét xử

giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ. Tuy nhiên, quyền trình bày ý kiến này

có giới hạn, chỉ trong phạm vi những vấn đề mà HĐXX GĐT,TT yêu cầu.

Đối với những vấn đề mà HHĐXX GĐT,TT không yêu cầu trình bày thì

đương sự không được phép trình bày. Sự giới hạn quyền này có liên quan chặt

chẽ đến tính chất của GĐT,TT, đó là việc xét lại bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật khi phát hiện vi phạm hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi

nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, HĐXX

GĐT,TT chỉ xem xét đến phần bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem

xét nội dung kháng nghị là chủ yếu, tức là xem xét căn cứ của kháng nghị có

đúng hay không, những nội dung của kháng nghị có căn cứ hay không mà

không xét xử đối với toàn bộ nội dung, tình tiết của vụ việc dân sự. Vì lẽ đó,

HĐXX chỉ yêu cầu đương sự trình bày ý kiến đối với phần HĐXX xét thấy

cần thiết để làm rõ phần bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội

dung kháng nghị. Như vậy, mặc dù đương sự được trình bày ý kiến tại phiên

tòa GĐT,TT nhưng việc thực hiện quyền này cũng bị hạn chế, chỉ được trình

bày những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Với quy định như

vậy, có ý kiến cho rằng, trong phiên tòa xét xử GĐT,TT, Hội đồng xét xử sẽ

không phải chịu sức ép từ phía các đương sự hoặc dư luận xã hội cho nên chất

lượng của bản án, quyết định giám đốc thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Việc trình bày

ý kiến của đương sự ở đây có ý nghĩa thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý

với việc kháng nghị, với nội dung kháng nghị, với những nhận xét, đánh giá,

quan điểm của Thẩm phán, Kiểm sát viên hoặc đương sự khác. Đương sự

cũng có thể trình bày về nội dung vụ việc, những đánh giá, nhận định, phán

quyết sai lầm hoặc những vi phạm nghiêm trọng của Tòa án cấp sơ thẩm,

53

phúc thẩm, về những tài liệu chứng cứ mới mà đương sự cung cấp hoặc do

VKS, Tòa án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy

nhiên việc trình bày ý kiến của đương sự ở đây không phải là sự tranh tụng

trong phiên tòa GĐT,TT vụ việc dân sự, do vậy, có thể là một yếu tố làm

giảm đi chất lượng của việc xét xử GĐT,TT.

2.3 Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa

án nhân dân tối cao.

2.3.1. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao

trong tiếp nhận, giải quyết đơn, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự

Theo quy định tại tại Điều 104 Hiến pháp và khoản 1, Điều 20 Luật

TCTAND năm 2014, TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước

CHXHCN Việt Nam. Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam bao gồm: 1.

TANDTC; 2. Tòa án nhân dân cấp cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; 5. Tòa án quân sự9 Tòa án quân sự không phải là

một cấp tòa án mà được tổ chức trong quân đội, bao gồm: Tòa án quân sự

trung ương; Tòa án quân sự quân khu và tương đương(gọi chung là tòa án

quân sự cấp quân khu; Tòa án quân sự khu vực). Cơ cấu tổ chức của Tòa án

nhân dân tối cao gồm:

a) Hội đồng Thẩm phán TANDTC;

b) Bộ máy giúp việc;

c) Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.

TANDTC có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán TANDTC,

Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động.

Số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC không dưới mười

9 9 Xem Điều 3 Luật TCTAND năm 2014.

ba người và không quá mười bảy người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án

54

TANDTC là Thẩm phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC.

Hội đồng Thẩm phán TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn: Giám đốc

thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị

kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Hoạt động của Hội đồng thẩm

phán TANDTC hoạt động bằng hình thức phiên họp. Phiên họp của Hội đồng

Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia;

quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải được quá nửa tổng số

thành viên biểu quyết tán thành.

Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị.

Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng

Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán TANDTC.

Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05

Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán TANDTC được thực hiện theo quy định

của luật tố tụng.

Bộ máy giúp việc của TANDTC gồm :

a) Văn phòng; b) Cục Kế hoạch - Tài chính; c) Vụ Giám đốc, kiểm tra

về hình sự, hành chính (Vụ Giám đốc kiểm tra I); d) Vụ Giám đốc, kiểm tra

về dân sự, kinh doanh - thương mại (Vụ Giám đốc kiểm tra II); đ) Vụ Giám

đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và người chưa thành niên (Vụ Giám đốc

kiểm tra III); e) Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học; g) Ban Thanh tra; h) Vụ

Tổ chức - Cán bộ; i) Vụ Tổng hợp; k) Vụ Hợp tác quốc tế; l) Vụ Thi đua -

Khen thưởng; m) Vụ Công tác phía Nam; n) Báo Công lý; o) Tạp chí Tòa án

nhân dân.

Trong số các cơ quan thuộc bộ máy giúp việc nêu trên, Vụ Giám đốc,

kiểm tra về dân sự, kinh doanh - thương mại ( gọi tắt là Vụ Giám đốc kiểm tra

II) là cơ quan trực tiếp giúp TANDTC giải quyết việc xét xử giám đốc thẩm,

tái thẩm vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 5, Điều 6 của Quyết định số

55

918/2015/QĐ-TANDTC ngày 23/6/2015 của Chánh án TANDTC về Tổ chức

bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của

TANDTC thì Vụ này có cơ cấu tổ chức gồm: Vụ trưởng, các Phó Vụ trưởng,

các Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, các công chức và nhân viên khác. Vụ giám

đốc kiểm tra II được thành lập từ tháng 7 năm 2015, thời điểm thành lập có

một Vụ trưởng, một Phó vụ trưởng, 41 Thẩm tra viên, trong đó có 6 Thẩm tra

viên chính và 3 Thư ký (với nhiệm vụ làm công tác văn thư và quản lý hồ sơ).

Các Thẩm tra viên làm nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, đề xuất quan điểm giải

quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, làm thư ký phiên tòa giám đốc

thẩm, tái thẩm khi Hội đồng thẩm phán họp, tổ chức phiên tòa giám đốc thẩm,

tái thẩm. Đến tháng 9/2017 Vụ đã kiện toàn tổ chức, biên chế hiện tại có 34

người, trong đó có một Vụ trưởng, bốn Phó vụ trưởng, còn lại là Thẩm tra

viên, không có Thư ký. Nhiệm vụ Thư ký Hội đồng thẩm phán TANDTC do

các Thẩm tra viên thực hiện. Nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Giám đốc kiểm

tra II gồm:

a) Giúp Chánh án TANDTC trong việc xem xét, giải quyết các văn bản

yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm về lĩnh vực dân sự, kinh doanh -

thương mại và phá sản thuộc thẩm quyền của TANDTC theo quy định của

pháp luật.

b) Giúp Chánh án TANDTC tổ chức và cử thư ký các phiên họp, phiên

xét xử của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về lĩnh vực dân sự, kinh doanh -

thương mại và phá sản……

Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và thực

hiện Nghị quyết của Quốc hội số 957/NQ-UBTVQH13, ngày 28/5/2015 về

việc thành lập Tòa án nhân dân cấp cao, hiện nay, hệ thống Tòa án nhân dân

cấp cao gồm: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao

tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án

nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

56

cấp tỉnh và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của tòa án cấp huyện, tòa án cấp tỉnh trong phạm vi thẩm quyền

theo lãnh thổ. Vụ giám đốc, kiểm tra II thuộc Tòa án tối cao giải quyết đơn đề

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định mà Tòa án cấp cao đã

giải quyết nhưng vẫn còn đơn khiếu nại tiếp theo hoặc đơn lần đầu nhưng do

các cơ quan thuộc Chính phủ, Quốc hội, các vị lão thành cách mạng, nguyên

là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chuyển đến, đề nghị

(sau đây gọi tắt là đơn thuộc trường hợp 8.1), các vụ án khác do Hội đồng

thẩm phán TANDTC giao.

2.3.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự

trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở Tòa án nhân dân tối

cao.

Trong những năm qua, TANDTC mà trực tiếp là Vụ giám đốc kiểm tra

II đã tiếp nhận, xử lý và phân loại, thụ lý hàng nghìn đơn đề nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự; nghiên cứu, giải quyết dứt điểm nhiều đơn.

Cụ thể:

Năm 2013: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.615 vụ án, giải quyết 1.318

vụ, đạt tỉ lệ 81,6%

Năm 2014: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.695 vụ án, giải quyết 1.426

vụ, đạt tỉ lệ 84,13%.

Năm 2015: Tòa Dân sự TANDTC thụ lý 1.417 vụ án, giải quyết 1.185

vụ, đạt tỉ lệ 83,62%.

Cuối năm 2015(Thực hiện theo Luật tổ chức Tòa án năm 2014)

TANDTC giải thể Tòa Dân sự chuyển thành Vụ Giám đốc kiểm tra II ( phụ

trách án Dân sự, Kinh doanh thương mại). Lúc này quy trình giám đốc thẩm,

tái thẩm thực hiện như sau: TANDCC giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án mà

TAND cấp huyện và tỉnh ( theo lãnh thổ) xét xử đã có hiệu lực pháp luật bị

đề nghị GĐT, TT. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án

57

thuộc diện 8.1 và những vụ án thuộc thẩm quyền của TANDCC nhưng có

khiếu nại kéo dài. Như vậy từ năm 2016, phạm vi GĐT, TT của TANDTC

được thu hẹp, số lượng đơn đề nghị GĐT, TT đã giảm gánh nặng cho

TANDTC.

Năm 2016: Từ tháng 7/ 2015 đến ngày 30/9/2016 Vụ giám đốc kiểm

tra II đã tiếp nhận, thụ lý 1.077 đơn đề nghị GĐT, TT, trong đó có 390 đơn

thuộc trường hợp có kiến nghị hoặc văn bản chuyển đơn và có yêu cầu thông

báo kết quả giải quyết đơn thuộc trường hợp 8.1.

Trong số 1.077 đơn, đã giải quyết được 885 đơn chiếm tỉ lệ 82,17%;

cụ thể: 553 đơn được giải quyết dứt điểm, gồm 410 đơn có Thông báo trả lời

với nội dung không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; 143 đơn

trình Chánh án TANDTC ban hành kháng nghị GĐT,TT. Số lượng vụ án trình

Hội đồng Thẩm phán TANDTC đưa ra xét xử giám đốc thẩm là 121 vụ án.

Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã mở phiên tòa giám đốc xét xử dứt điểm 64

vụ; Chánh án TANDTC rút kháng nghị 03 vụ; còn 54 vụ đang chờ Hội đồng thẩm phán TANDTC xem xét giải quyết10. Năm 2017: Vụ giám đốc kiểm

tra II tiếp nhận 1.202 đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, trong

đó đơn không thuộc thẩm quyền là 460; thụ lý 660 đơn; đơn tồn từ năm 2016

là 344 đơn. Tổng số đơn phải giải quyết là 1004 đơn. Trong đó đã giải quyết

784 đơn(vụ), chiếm tỉ lệ 87,4%; gồm 433 đơn ra thông báo trả lời đơn; Chánh

án TANDTC kháng nghị 109 vụ ( 84 dân sự; 25 KDTM), còn lại đang chờ

giải quyết. Trong số 1.004 đơn đề nghị có 288 đơn thuộc trường hợp 8.1.Vụ

đã giải quyết dứt điểm 195 đơn ( 146 đơn có thông báo trả lời đơn với nội

dung không có căn cứ kháng nghị; 49 đơn/vụ đã kháng nghị), còn 93 vụ đang giải quyết11.

10 Báo cáo thống kê của Vụ Giám đốc II-TANDTC, năm 2016. 11 11 Báo cáo thống kê của Vụ Giám đốc II-TANDTC, năm 2017.

Nhìn tổng thể, TANDTC hàng năm tiếp nhận hàng nghìn đơn liên quan

58

đến vụ việc dân sự đề nghị kháng nghị GĐT,TT, đã nhanh chóng, kịp thời

giải quyết nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tỷ lệ giải

quyết thường chiếm trên 80% và không có khiếu nại, đề nghị tiếp theo. Hội

đồng thẩm phán TANDTC hàng năm đã xét xử GĐT,TT hàng trăm vụ việc

dân sự do có kháng nghị của Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC

hoặc có yêu cầu của Ủy ban thường vụ quốc hội, Ủy ban tư pháp quốc hội,

Mặt trân tổ quốc Việt Nam. Các vụ việc dân sự do Hội đồng thẩm phán

TANDTC xét xử GĐT,TT đã bảo đảm đúng pháp luật, giải quyết được những

mâu thuẫn, tranh chấp mà các bản án, quyết định của các tòa án trước đã xét

xử còn chưa giải quyết triệt để. Qua đó, quyền của đương sự cũng như lợi ích

của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được

bảo đảm [21].

Để đánh giá kết quả đạt được của việc thực hiện quyền đương sự trong

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự ở TANDTC, trước tiên chúng

ta xem xét bảng số liệu xét xử GĐT,TT trong thời gian 05 năm (từ năm 2013

đến năm 2017) sau đây, thể hiện công tác xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự của

TANDTC dưới đây [21]:

Bảng 2.1: Thống kê kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự của hội

đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao12

CHẤP NHẬN KHÁNG NGHỊ

ĐÃ KHÁNG NGHỊ

ĐÃ XÉT XỬ

RÚT KHÁNG NGHỊ

KHÔNG CHẤP NHẬN KHÁNG NGHỊ

NNăm

CChánh án KN

CChánh án KN

CChánh án KN

VViện trưởng KN

VViện trưởng KN

VViện trưởng KN

Chánh án KN

VViện trưởng KN

HHủy pt để pt xét xử lại

HHủy pt để đình chỉ

Hủy st, giám đốc thẩm để st lại

Hhủy pt giữ st

Hủy sơ thẩm giao tòa sơ thẩm xét xử lại 0

HHủy st, pt để st xét xử lại 110 1117 00

22013 1127

332

1117

227

00

44

0

11

00

112

12 Báo cáo thống kê kết quả xét xử GĐT các vụ việc dân sự của Cục thống kê TANDTC các năm 2013,

2014, 2015, 2016, 2017..

22014 667 22015 339 22016 1121 22017 993 Ttổng 4447

99 77 335 113 996

445 330 554 665 3311

55 44 110 223 669

11 11 00 00 66

5 0 5 3 13

44 338 11 55 228 00 22 668 00 220 554 00 441 3305 11

0 0 0 0 0

55 11 11 11 00 00 33 33 22 11 11 110 66 119 116

00 00 00 00 00

59

Qua số liệu nói trên, ta có một số nhận xét như sau:

- Tình hình kháng nghị của TANDTC và VKSNDTC đối với các bản

án dân sự được thực hiện hàng năm, trong đó, tỷ lệ kháng nghị của Chánh án

TANDTC cao hơn so với kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC(447/96

vụ). Điều này cho thấy các cơ quan của TANDTC đã thực hiện tốt công tác

tiếp nhận, thụ lý, giải quyết đơn kháng nghị của đương sự. các Thẩm tra viên,

Thẩm phán đã nghiên cứu kỹ đơn, hồ sơ vụ án, qua đó phát hiện nhiều vụ án

đã bị xét xử sai, có vi phạm tại các tòa án sơ thẩm và phúc thẩm, báo cáo để

Chánh án TANDTC kháng nghị theo thẩm quyền;

- Tổng số các vụ án do TANDTC và VKSNDTC kháng nghị hàng năm

có sự tăng giảm không đồng đều, năm cao nhất 2013 là 159 vụ, năm thấp nhất

2015 là 46 vụ. Năm 2017 là 106 vụ. Mặc dù tỷ lệ kháng nghị hàng năm không

đồng đều, năm tăng, năm giảm thất thường nhưng vẫn có xu hướng giảm.

Điều này cho thấy chất lượng xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm được nâng lên,

tỷ lệ các vụ án xét xử có sai phạm đã giảm đi, dẫn đến việc kháng nghị GĐT

ở TANDTC giảm;

- Tỷ lệ xét xử GĐT hàng năm trung bình đạt 74%( 400/543 vụ), là tỷ

lệc cao, thể hiện sự nỗ lực cố gắng và quyết tâm giải quyết án dân sự của

TANDTC;

- Tỷ lệ xét xử chấp nhận kháng nghị cao, đạt 80,4%( 437/543 vụ), trong

đó các kháng nghị của Chánh án TANDTC đều được Hội đồng GĐT chấp

nhận. Toàn bộ 6 kháng nghị GĐT không được chấp nhận đều do Viện trưởng

VKSNDTC kháng nghị; Qua đây cho thấy việc nghiên cứu, phát hiện bản án

có vi phạm của các Thẩm phán của TANDTC có chất lượng cao, bảo đảm

60

việc kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật;

- Việc rút kháng nghị của TANDTC và VKSNDTC là 6,4%, tuy chiếm

tỷ lệ không cao( 35/543 vụ), nhưng cũng thể hiện chất lượng của kháng nghị

chưa bảo đảm ở mức cao nhất. Việc rút kháng nghị được thực hiện ở các giai

đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử nếu xét thấy kháng nghị không có căn

cứ;

- Trong số các quyết định của Hội đồng GĐT hủy các bản án thì quyết

định hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm để giao Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại

chiếm tỷ lệ cao nhất là 80,2%( 305/380 vụ); Tỷ lệ quyết định hủy bản án sơ

thẩm, giám đốc thẩm để xét xử sơ thẩm lại chiếm tỷ lệ thấp nhất là 0%.

- Ngoài 6 kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC không được Hội

đồng GĐT chấp nhận, các vụ án được đưa ra xét xử đều được HĐ GĐT quyết

định hủy để xét xử lại hoặc giữ nguyên bản án có hiệu lực đúng quy định của

pháp luật. Kết quả trên cho thấy việc TANDTC đã nhanh chóng, kịp thời xem

xét đơn yêu cầu kháng nghị GĐT của đương sự, nghiên cứu hồ sơ, bản án một

cách kỹ lưỡng, ban hành kháng nghị và tiến hành xét xử GĐT một cách nhanh

chóng, có hiệu quả, ban hành quyết định hủy các bản án vi phạm để xét xử lại

hoặc giữ nguyên bản án có hiệu lực, đúng pháp luật đã bảo đảm quyền đương

sự trong thủ tục GĐT vụ án dân sự;

- Kết quả của xét xử GĐT,TT cũng là kết quả của việc sửa chữa những

sai lầm của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, do vậy, công tác

GĐT,TT của TANDTC đã có tác động không nhỏ đến chất lượng xét xử trong

lĩnh vực dân sự của toàn ngành Tòa án. Việc Tòa GĐT,TT xác định và sửa

chữa kịp thời những vi phạm, sai lầm trong các bản án, quyết định đã giúp

tòa án các cấp nhận ra những vi phạm, sai sót trong quá trình giải quyết vụ án,

từ đó nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức của đội ngũ Thẩm

phán TAND các cấp. Trên cơ sở kết quả xét xử đó, TANDTC đã có những

tổng kết thực tiễn, từ đó ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, định hướng đúng

61

đắn cho công tác xét xử của ngành Tòa án. Đồng thời, kết quả xét xử của tòa

GĐT, TT vụ việc dân sự của TANDTC đã góp phần quan trọng trong việc

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự. Nhiều

bản án, quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã thay đổi toàn bộ

quyết định trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, mở ra một hướng

mới cho việc xét xử lại vụ việc dân sự.

Trên thực tế, Quy trình thực hiện một vụ án giám đốc thẩm được thực

hiện bởi những công việc chính như sau: Sau khi có đơn đề nghị Giám đốc

thẩm, tái thẩm, TANDTC sẽ ra quyết định thụ lý vụ án, thu thập tài liệu

chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án, đưa ra tờ trình trình Chánh án TAND TC

quyết định có hay không việc Kháng nghị. Thực tế hiện nay, công tác nặng nề

nhất là tiếp nhận và giải quyết văn bản đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc

gửi đơn đề nghị của đương sự không mất phí và có thể xảy ra việc kháng

nghị, điều đó cho thấy đương sự thực sự rất muốn gửi đơn đề nghị, và hệ lụy

là gần như các vụ án sau khi xét xử phúc thẩm có hiệu lực, đương sự đều thực

hiện quyền gửi đơn đề nghị GĐT, TT.

GĐT,TT vụ việc dân sự không phải là một cấp xét xử mà là thủ tục đặc

biệt xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các cấp tòa án, của

Hội đồng thẩm phán TANDTC do bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật, có

tình tiết mới hoặc có yêu cầu, đề nghị, kiến nghị của các cơ quan nhà nước,

của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC. Thủ tục GĐT, TT bảo đảm

quyền con người, quyền công dân, quyền của đương sự một cách triệt để cả

trong trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đã được thi

hành trên thực tế nhưng phát hiện những vi phạm pháp luật, tình tiết mới xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy, trong nhiều năm

qua, TANDTC luôn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật, quy

chế, quy định của ngành Tòa án, đổi mới tổ chức bộ máy, phương thức làm

việc, tổ chức cán bộ nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để đương sự có thể tiếp

62

cận được với các cơ quan của TANDTC, thực hiện, bảo vệ quyền và nghĩa vụ

của mình. Để thuận lợi và xử lý nhanh chóng những đơn đề nghị giám đốc

thẩm của đương sự, văn bản yêu cầu, kiến nghị, đề nghị kháng nghị GĐT,TT,

tại TANDTC đã thành lập phòng tiếp công dân, nhận đơn, văn bản và ban

hành Quy chế giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục GĐT,TT( ban

hành kèm theo quyết định số 625/QĐ-CA ngày 6/9/2016 của Chánh án

TANDTC, sau đây gọi tắt là Quy chế số 625/QĐ-CA). Quy chế quy định rõ

ràng, cụ thể trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết đơn

đề nghị giám đốc thẩm của đương sự; thông báo, kiến nghị của cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

(sau đây gọi chung là văn bản đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tại Tòa án nhân dân theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng

hành chính. Vì vậy, việc khiếu nại, nộp đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT của

đương sự được thuận lợi, không bị gây phiền hà, chậm trễ. Quy chế quy định

cả trong trường hợp, nếu thời hạn kháng nghị còn ít hơn 3 ngày thì đơn, văn

bản đề nghị phải được xem xét giải quyết ngay trong ngày để bảo đảm quyền lợi của đương sự13. Trường hợp có đơn yêu cầu hoãn thi hành án và thấy bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có dấu hiệu sai, nếu thi hành có thể

gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Chánh án hoặc Phó chánh án TANDTC yêu cầu hoãn thi hành án.14 Trường hợp có căn cứ thì

Chánh án TANDTC sẽ ban hành kháng nghị GĐT. Những quy định trên thể

hiện quyền của đương sự được bảo đảm ngay từ bước đầu của quá trình tố

tụng theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự [22].

13 Xem Khoản 2 Điều 7 Quy chế số 625/QĐ-CA. 14 Xem Điều 29, Điều 30 Quy chế số 625/QĐ-CA.

Đương sự trong khi nộp đơn đề nghị GĐT,TT và trong cả quá trình giải

63

quyết theo thủ tục GĐT,TT có thể nộp bổ sung những chứng cứ, tài liệu mới

liên quan đến việc phát hiện, xác định bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật có sai lầm, vi phạm pháp luật để khẳng định yêu cầu của mình là có căn

cứ. Thẩm tra viên, Thẩm phán của TANDTC tiếp nhận đầy đủ chứng cứ, tài

liệu mới để xem xét, đánh giá, đưa ra quan điểm của mình trong quá trình giải

quyết vụ việc dân sự.

Quyền của đương sự trong xét xử GĐT,TT vụ việc không chỉ được

nhìn nhận, đánh giá ở khía cạnh những quy định pháp luật về quyền phát hiện

vi phạm pháp luật của bản án, quyết định, quyền nộp đơn, nhận thông báo, bổ

sung tài liệu, chứng cúa, tham dự và trình bày ý kiến tại phiên tòa GĐT,TT

mà phải luôn gắn liền với các hoạt động của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư

ký phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đối với phiên tòa. Những hoạt

động của Thẩm phán, Kiểm sát viên có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực

hiện quyền của đương sự, bởi vì, khi họ giải quyết vụ việc đúng theo quy định

của pháp luật về thời hạn, trình tự, thủ tục, về nghiên cứu đánh giá nội dung

vụ việc, từ đó đưa ra được những kết luận, phán quyết đúng đắn trong quyết

định GĐT,TT. Chỉ trên cơ sở Thẩm phán, KSV, Thư ký phiên tòa thực hiện

đúng những quy định của pháp luật, giải quyết vụ án một cách công tâm,

khách quan, coi trọng quyền và lợi ích chính đáng của đương sự thì quyền của

đương sự mới thực sự được bảo đảm thực hiện.

Ngay sau khi có kháng nghị GĐT, TT, Chánh án TANDTC phân công

Thẩm phán tiến hành các hoạt động nghiệp vụ như yêu cầu chuyển vụ án đến

Tòa án có thẩm quyền GĐT,TT, nghiên cứu hồ sơ vụ án và làm bản thuyết

trình. Để bảo vệ quyền của đương sự trong vụ việc đã được các cấp Tòa án

giải quyết nhưng đương sự vẫn có đơn khiếu nại, người có thẩm quyền đã

quyết định kháng nghị, Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ việc

mà không chỉ giới hạn trong nội dung kháng nghị để xác định những nội dung

kháng nghị có bảo đảm đúng quy định của pháp luật hay không? Tuy nhiên

64

Thẩm phán cần xác định phạm vi nghiên cứu để đạt được hiệu quả cao nhất là

phải giải quyết được những vấn đề mà đương sự yêu cầu hoặc người kháng

nghị yêu cầu giải quyết, ví dụ, trong vụ án có nhiều đương sự nhưng kháng

nghị chỉ yêu cầu tăng mức bồi thường cho một đương sự thì thẩm phán chỉ tập trung sâu vào việc xem xét mức bồi thường cho đương sự đó15. Việc

nghiên cứu, xem xét toàn bộ vụ việc nhằm mục đích xác định những vi phạm

pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định bị kháng nghị để kịp thời

khắc phục, bảo đảm cho bản, án, quyết định đó hợp pháp và đúng pháp luật,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, vụ việc mà Hội

đồng GĐT,TT xem xét là vụ việc mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật và người kháng nghị chỉ yêu cầu giải quyết phần bản án, quyết định có vi

phạm pháp luật nghiêm trọng nên ưu tiên của Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ

cũng như của Hội đồng GĐT,TT vẫn là phần bản án, quyết định bị kháng

nghị. Tùy vào kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm mà Thẩm

phán có phương pháp và phạm vi nghiên cứu phù hợp. Đối với kháng nghị

giám đốc thẩm, bản án, quyết định bị kháng nghị với những căn cứ khác nhau

nên Thẩm phán cũng tập trung nghiên cứu, xem xét, đánh giá những căn cứ

đó:

- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì kết luận trong bản án, quyết

định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây

thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì Thẩm phán cần tập

trung vào việc xem xét quá trình chứng minh vụ việc, bao gồm việc cung cấp,

thu thập, đánh giá chứng cứ, đánh giái tính khách quan, hợp pháp và tính có

liên quan của chứng cứ, so sánh sự tương quan phù hợp của chứng cứ với kết

luận trong bản án, quyết định;

- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì có vi phạm nghiêm trọng thủ

15 Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự, Học Viện tư pháp, NXB CAND, 2007.

tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng

65

của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo

đúng quy định của pháp luật thì Thẩm phán tập trung xem xét các thủ tục tố

tụng trong thu thập chứng cứ, trong việc thụ lý, giao gửi văn bản, trong thẩm

quyền, thời hạn mở phiên họp, phiên tòa, trong quá trình xét xử, giao, gửi bản

án.. để xem có vi phạm thủ tục tố tụng hay không? Đánh giá tính chất mức đọ

vi phạm có nghiêm trọng dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được

bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật hay không?

- Nếu bản án, quyết định bị kháng nghị vì có sai lầm trong việc áp dụng

pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì Thẩm phán

tập trung xem xét các quy định của BLDS, luật kinh doanh thương mại, luật

lao động mà tòa án áp dụng trong bản án quyết định được nhận thức đúng hay

không? Việc áp dụng các quy định đó vào vụ việc cụ thể bị kháng nghị có

đúng đắn hay không?

Tương tự như vậy, đối với kháng nghị tái thẩm, Thẩm phán cũng tập

trung nghiên cứu để xác định nội dung các căn cứ kháng nghị theo 4 khoản

của Điều 352 BLTTDS để đưa ra nhận xét, đánh giá, quan điểm giải quyết vụ

việc của mình. Do tính chất của tái thẩm là phát hiện tình tiết mới, Viện kiểm

sát tiến hành xác minh, kháng nghị nên Thẩm phán ngoài việc nghiên cứu hồ

sơ vụ việc đã được tòa án các cấp giải quyết, Thẩm phán còn nghiên cứu tài

liệu xác minh tình tiết mới của VKS;

- Thẩm phán cần đánh giá tình tiết được phát hiện có phải là tình tiết

mới hay không? Đó là tình tiết chưa hề được biết trong quá trình giải quyết vụ

việc, chưa có trong hồ sơ vụ án và Tòa án đã không biết khi ra bản án, quyết

định. Trường họp tình tiết đó đã có trong hồ sơ vụ án nhưng vì bất kỳ lý do

nào đó mà tòa án đã không biết được khi ra bản án, quyết định thì không phải

là tình tiết mới và vụ việc được kháng nghị theo thủ tục GĐT;

66

- Đánh giá mối quan hệ của tình tiết mới được phát hiện với phán quyết

của tòa án trong bản án, quyết định bị kháng nghị tái thẩm. Tình tiết mới được

đưa ra có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật mới được chấp nhận làm căn cứ để xét xử tái thẩm.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán đề nghị với Chánh án TANDTC

tổ chức Hội đồng xét xử, làm bản thuyết trình. Do GĐT,TT là thủ tục đặc biệt

xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị nên HĐXX được thành lập với thành

phần tùy theo quy định tại Điều 337 BLTTDS. Bản thuyết trình của Thẩm

phán được trình bày tại phiên tòa GĐT,TT cho nên phải chi tiết, cụ thể, khách

quan, phải nêu được nội dung vụ việc của bản án, quyết định, những quyết

định của tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, nội

dung kháng nghị, những vấn đề thuộc nội dung vụ việc cần xem xét, nhất là

các nội dung mà theo Thẩm phán có khác với bản án, quyết định bị kháng

nghị hoặc khác với bản kháng nghị, đề xuất với Hội đồng xét xử hướng giải

quyết vụ việc và cơ sở của việc giải quyết của đề xuất đó. Bản thuyết trình

được gửi cho các thành viên Hội đồng xét xử 7 ngày trước ngày mở phiên tòa

để các thành viên đó nghiên cứu chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa

GĐT,TT. Thẩm phán thực hiện công việc triệu tập những người tham dự

phiên tòa, gửi quyết định đưa vụ việc ra xét xử cho VKS cùng cấp để cử KSV

tham gia. Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Thẩm phán triệu tập đương sự có liên

quan đến việc kháng nghị. Đây là việc làm quan trọng để bảo đảm quyền

được tham gia phiên tòa GĐT,TT của đương sự, để họ được trình bày thêm

những ý kiến về quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến kháng nghị, về các tài

liệu, chứng cứ chưa rõ ràng trong hồ sơ vụ việc; về tình hình thi hành bản án,

quyết định bị kháng nghị; để đương sự tham gia tranh tụng tại phiên tòa đối

với các nội dung liên quan đến kháng nghị.

Trong các phiên tòa GĐT,TT của Hội đồng thẩm phán TANDTC trong

67

những năm qua, rất nhiều vụ việc Tòa án đã triệu tập đương sự có liên quan

đến kháng nghị để họ tham gia vào quá trình xét xử, chính vì vậy đã giúp cho

HĐXX đánh giá đúng đắn mọi vấn đề còn mâu thuẫn, còn chưa được làm

sáng tỏ hoặc làm rõ những tình tiết mới mà đã không được phát hiện ra trong

các phiên tòa trước đó, giúp HĐXX đưa ra những quyết định đúng đắn của

mình.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Tại chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích các nội dung quyền của đương

sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, theo đó, đương sự có quyền phát

hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo

thủ tục GĐT, TT. Đây là quyền đầu tiên, cơ bản để đương sự được tham gia

vào quá trình tố tụng dân sự theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Quyền này

cho phép đương sự phát hiện những vi phạm, sai lầm trong bản án, quyết định

đã có hiệu lực pháp luật để tiếp tục yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành việc xét lại bản án, quyết định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Trong trường hợp đương sự phát hiện hoặc cho rằng bản án, quyết định

có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng, đương sự có quyền làm đơn, nộp đơn đề

nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự. Đơn đề nghị

của đương sự đánh dấu quá trình khởi động tố tụng dân sự theo trình tự

GĐT,TT, bởi lẽ, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét, nghiên cứu

đơn, hồ sơ vụ việc, kết luận về tính có căn cứ của đơn yêu cầu, trên cơ sở đó

quyết định ban hành hoặc không ban hành quyết định kháng nghị. Tiếp theo,

trong quá trình gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị và tại phiên tòa GĐT,TT,

đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán, Kiểm

sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu để phục vụ việc quyết định kháng

68

nghị, các thành viên Hội đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu

chứng cứ đó tại phiên tòa để đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của

mình. Khi Tòa án quyết định mở phiên tòa GĐT,TT để xét lại bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền được tham gia phiên tòa

GĐT,TT khi được triệu tập. Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu

tập là quyền của đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó,

phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng

cấp thì trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người

đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc

người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên

tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám

đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa. Cuối cùng, đương sự có quyền trình bày ý

kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu. Để bảo đảm việc đánh giá, kết

luận của Hội đồng xét xử được đúng đắn, khách quan, tại phiên tòa đương sự

được trình bày ý kiến của mình vè việc vi phạm, sai lầm của bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật. Việc vi phạm sai lầm đó đã ảnh hưởng nghiêm

trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tại chương 2, tác giả đánh

giá thực tiễn thực hiện quyền đương sự trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái

thẩm vụ việc dân sự mà Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện trong giai đoạn

2013-2017, đưa ra bức tranh tổng quát về việc thực thi nhiệm vụ giám đốc

thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao. Từ thực tiễn đó, tác giả sẽ đánh giá

những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quyền của đương sự và đưa ra

những giải pháp đảm bảo thực hiện quyền của đương sự trong giám đốc thẩm,

tái thẩm vụ việc dân sự.

69

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN

CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM

VỤ VIỆC DÂN SỰ

3.1 Một số khó khăn, vƣớng mắc trong thực hiện quyền đƣơng sự

trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân

dân tối cao

Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi BLDS, BLTTDS năm 2015

có hiệu lực pháp luật, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự nói chung và thủ tục

GĐT,TT nói riêng đã có những quy định mới, tiến bộ cho phép mở rộng

quyền của đương sự trong tất cả các giai đoạn tố tụng dân sự, từ đó nâng cao

quyền của đương sự trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Những đổi mới của

các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án, Viện kiểm sát trong tổ chức bộ

máy, cán bộ, ban hành các quy chế đã nâng cao rõ rệt chất lượng việc giải

quyết vụ việc dân sự, qua đó bảo đảm được quyền của đương sự. Những

quyết định của HĐXX GĐT,TT đúng pháp luật, khách quan, thấu tình, đạt lý,

được đương sự chấp nhận, thực hiện. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn,

vướng mắc trong thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ

việc dân sự, làm giảm sút hiệu quả chất lượng công tác xét xử GĐT,TT,

quyền của đương sự chưa được bảo đảm triệt để như kỳ vọng của xã hội.

Những khó khăn, vướng mắc đó xuất phát từ cả những quy định của pháp

luật, từ cả về mặt tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và các biện pháp bảo đảm,

từ cả phía đương sự, cụ thể:

3.1.1 Khó khăn, vướng mắc từ những quy định của pháp luật

+ Thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự vẫn còn là một quy trình có tính

khép kín, chưa bảo đảm tối đa quyền tham gia tố tụng, quyền định đoạt của

đương sự

70

Thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự có thể xem là một quy trình giải quyết

án khép kín, thể hiện ở các mặt: đương sự chỉ có quyền gửi đơn đề nghị xem

xét lại vụ án theo thủ tục GĐT,TT cho cơ quan có thẩm quyền kháng nghị

GĐT,TT; phiên tòa GĐT,TT diễn ra không công khai; sự tham gia của đương

sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các phiên tòa

GĐT,TT còn hạn chế, chỉ trong trường hợp được Tòa án triệu tập; đương sự

khi tham gia phiên tòa chỉ được trình bày ý kiến, quan điểm của mình khi

được yêu cầu.

Như đã trình bày ở những phần trên, theo quy định pháp luật tố tụng

dân sự, các đương sự khi nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị

xâm phạm bởi các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì

chỉ có quyền gửi đơn đề nghị xem xét lại các phán quyết này cho người có

thẩm quyền kháng nghị. Như vậy, các đương sự không được pháp luật trao

quyền chủ động để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình mà phải

thông qua một chủ thể thuộc cơ quan Nhà nước. Với quy định như vậy, nhiều

tình huống có thể xảy ra trong thực tế, như việc đương sự nhận thấy quyền lợi

của mình không được đảm bảo và có đơn đề nghị nhưng chủ thể có thẩm

quyền lại không tiến hành kháng nghị GĐT,TT.

Ngoài ra, một trong những nguyên tắc chủ đạo của pháp luật tố tụng

dân sự là nguyên tắc xét xử công khai. Tuy nhiên, phiên tòa GĐT,TT được

tiến hành dưới hình thức như một phiên họp với tính chất không công khai.

Với thực tiễn xét xử GĐT,TT như hiện nay, việc tiến hành thiếu công khai

không phải là một cơ chế có thể đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp

của các đương sự. Pháp luật tố tụng dân sự mặc dù đã có quy định cụ thể về

sự tham gia của đương sự, tuy nhiên sự tham gia này mang tính chất bị động,

phụ thuộc vào quyết định của Tòa án.

Tại phiên tòa GĐT,TT đương sự được tạo cơ hội để trình bày quan

điểm, ý kiến của mình đối với việc giải quyết vụ án nhưng không có quy định

71

để các đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được tranh tụng để tiếp tục

làm rõ nội dung kháng nghị. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn

đến sự thiếu tin tưởng, không hài lòng của đương sự, nhất là bên thua kiện đối

với quyết định của Tòa án.

+ Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, trong

đó chủ yếu là hoạt động xét xử của Tòa án, của HĐXX để bảo đảm việc xét

xử được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, nhưng trong tố

tụng dân sự, vai trò của VKSND còn mờ nhạt, không có nhiều quyền hạn để

thực hiện việc kiểm sát của mình. Ngay trong thủ tục GĐT,TT, theo quy định

tại Điều 336 BLTTDS, trường hợp Chánh án TANDTC kháng nghị thì quyết

định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng

cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận

được hồ sơ vụ án; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm. Quy định thời hạn như vậy là quá

ít đối với việc nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự. Tại phiên tòa GĐT,TT, đại

diện VKS cũng chỉ có nhiệm vụ trình bày nội dung kháng nghị, nếu kháng

nghị đó là của Viện trưởng VKSND và phát biểu ý kiến về quyết định kháng

nghị và việc giải quyết vụ án. Do vậy, Viện kiểm sát cũng không có nhiều khả

năng để bảo vệ tốt nhất quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT.

3.1.2 Khó khăn, vướng mắc từ tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng và

các biện pháp bảo đảm

Xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự được thực hiện ở TAND cấp cao và ở

TANDTC, do vậy, những khó khăn, vướng mắc từ phía những cơ quan tiến

hành tố tụng chủ yếu ở TANDTC và VKSNDTC. Ở tòa án nhân dân tối cao,

việc trực tiếp giải quyết vấn đề xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự thuộc về Vụ

giám đốc kiểm tra 2 và Hội đồng thẩm pháp TANDTC. Vụ giám đốc kiểm tra

2 có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, giải quyết văn bản đề nghị kháng nghị,

72

thông báo về việc không kháng nghị, nghiên cứu hồ sơ, làm tờ trình về việc

đề xuất kháng nghị, giúp Chánh án TANDTC tổ chức Hội đồng xét xử, tổ

chức và cử người làm thư ký phiên tòa GĐT,TT. Với một khối lượng công

việc lớn và phức tạp như vậy, đòi hỏi phải có một lực lượng lớn nhân sự, các

Thẩm tra viên phải tinh thông pháp luật, có bản lĩnh chính trị vững vàng,

phẩm chất đạo đức tốt, có chuyên môn nghiệp vụ cao mới có thể đáp ứng

được công việc. Tuy nhiên, với biên chế hiện nay, với 34 người giữ chức

danh Thẩm tra viên và Thẩm tra viên chính, có thể nói chưa bảo đảm được về

mặt nhân sự cho công tác của Vụ giám đốc kiểm tra II. Hơn nữa Vụ giám đốc

kiểm tra II tiền thân là Tòa Dân sự Tòa kinh tế TANDTC; tuy nhiên Tòa Dân

sự có Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao nên khi Thẩm tra viên nghiên cứu hồ sơ, trình Lãnh đạo thì Lãnh đạo

có thể phê duyệt và ký Thông báo trả lời đơn ngay, chỉ những vụ án có Kháng

nghị mới trình Hội đồng thẩm phán xem xét và trình Chánh án ký ban hành

quyết định kháng nghị. Vụ Giám đốc kiểm tra không có thẩm quyền ký văn

bản trả lời mà phải trình Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét, sau đó, Phó

Chánh án TANDTC duyệt, ký văn bản. Như vậy, quy trình báo cáo hồ sơ qua

rất nhiều cung đoạn, các lãnh đạo kiêm nhiệm nhiều việc vì vậy việc báo cáo

gặp nhiều khó khăn dẫn đến chỉ tiêu công tác thấp, quy trình báo cáo, xắp xếp

thời gian báo cáo, tổ chức các phiên họp Hội đồng gặp nhiều khó khăn. Tuy

nhiên cũng có những mặt thuận lợi: do quy trình báo cáo khắt khe, mặc dù

năng suất công việc chậm hơn so với mô hình trước, nhưng chất lượng vụ án

được kiểm duyệt khắt khe, các vụ án được phê duyệt trả lời đơn không có vụ

án nào bị khiếu nại; các vụ án có đề xuất kháng nghị được xem xét nhiều

vòng báo cáo, khi trình Chánh án TANDTC sẽ đảm bảo chất lượng, những vụ

kháng nghị đều được TAND cấp dưới thuyết phục, không có kiến nghị, đề

xuất.

Việc xét xử GĐT,TT do các Thẩm phán TANDTC trong Hội đồng

73

thẩm phán thực hiện.Với biên chế hiện nay, số lượng Thẩm phán TANDTC

tối đa là 17 người, gồm cả Chánh án và Phó chánh án(7 người), vừa làm công

tác lãnh đạo của ngành Tòa án, vừa tham gia xét xử GĐT,TT các loại án hình

sự, dân sự, hành chính…nên phải đảm đương lượng lớn công việc, có dấu

hiệu của sự quá tải. Một Thẩm phán đôi khi phải tham gia nhiều loại Hội

đồng xét xử, hoặc trong trường hợp Hội đồng toàn thể HĐTP họp thì tất cả

các Thẩm phán phải tham gia, do vậy, đối với một số Thẩm phán không

chuyên ngành nên cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng của việc xét xử

GĐT, TT. Ở VKSNDTC cũng có tình trạng tương tự như vậy về mặt nhân sự.

Chỉ có KSVVKSNDTC mới được làm đại diện cho VKS kiểm sát hoạt động

tư pháp tại phiên tòa GĐT,TT của TANDTC. Do số lượng KSVVKSNDTC

có hạn( tối đa là 19 người), gồm cả những người đã nghỉ hưu( trên 60 tuổi)

nhưng vẫn được giữ chức vụ KSVVKSNDTC, phải đảm đương nhiều loại án

nên cũng gặp tình trạng quá tải, đồng thời, một số KSV đã nghỉ hưu thôi giữ

chức vụ quản lý nên việc cập nhật những kinh nghiệm thực tiễn, quy định của

pháp luật cũng phần nào bị hạn chế.

Một vấn đề khó khăn trong việc bảo đảm quyền của đương sự trong thủ

tục GĐT,TT vụ việc dân sự nữa xuất phát từ việc cơ sở vật chất để bảo đảm

cho hoạt động của những cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa đáp ứng được

yêu cầu, chế độ đãi ngộ đối với Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát

viên còn thấp. Tại TANDTC và VKSNDTC, diện tích phòng làm việc nói

chung và phòng làm việc dành cho các đơn vị làm công tác liên quan đến việc

xét xử GĐT,TT còn chật hẹp, phương tiện làm việc, trang thiết bị như máy

tính xách tay, phương tiện đi lại, vận chuyển còn hạn chế đã phần nào ảnh

hưởng đến chất lượng giải quyết công việc xét xử. Chế độ lương, phụ cấp và

các chế độ đãi ngộ khác của Nhà nước đối với đội ngũ KSV, Thẩm phán,

Thẩm tra viên, Thư ký còn thấp so với mặt bằng thu nhập chung của xã hội

nên cũng phần nào làm giảm hiệu quả, năng suất, chất lượng công việc. Tuy

74

những vấn đề này đã được Nhà nước ưu tiên, cải thiện nhưng nhìn chung còn

chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.

3.1.3 Khó khăn vướng mắc từ phía đương sự

Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng quyền của đương sự

trong thủ tục GĐT,TT chưa được bảo đảm một cách triệt để xuất phát từ

chính sự hạn chế về nhận thức của các đương sự. Do mặt bằng hiểu biết pháp

luật của các đương sự còn thấp, nên bản thân các đương sự cũng không nhận

thức được tính chất quan trọng của thủ tục GĐT,TT, không có nhiều khả năng

phát hiện được những tình tiết vi phạm pháp luật, những sai lầm hoặc những

tình tiết mới trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Họ

cũng không có khả năng để trực tiếp tiến hành một số hoạt động thu thập

chứng cứ, tài liệu mới để bổ sung cho căn cứ đề nghị kháng nghị hoặc tại

phiên tòa. Do đó, thực tế ngay chính đương sự cũng không biết, không hiểu

nên không hề “lên tiếng” khi quyền lợi của mình bị thiệt hại bởi bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật. Trong những năm qua, đội ngũ luật sư của Việt

Nam đã có sự lớn mạnh đáng kể, cả về số lượng và chất lượng, tạo ra nhiều

cơ hội cho đương sự được sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, đội

ngũ luật sư còn non trẻ, chưa có nhiều người có kinh nghiệm già dặn trong

việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ở cấp xét xử

GĐT,TT, do vậy cũng chưa có được nhiều kết quả như kỳ vọng của xã hội.

Hơn nữa, các dịch vụ pháp lý cũng như đội ngũ luật sư chủ yếu phát triển ở

các đô thị lớn, chi phí dịch vụ còn cao nên nhiều đương sự cũng chưa có điều

kiện để tiếp cận, sử dụng phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi của mình. Những

khó khăn trên cũng là rào cản của việc bảo đảm thực hiện quyền của đương sự

trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.

75

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của đƣơng

sự trong giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân tối

cao.

3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật

Theo quy định hiện hành, đương sự không có quyền kháng cáo đối với

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, mà chỉ có quyền gửi

đơn đề nghị kháng nghị GĐT,TT. Quy định này có mặt tích cực là giữ được

tính ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,

nhưng mặt không tích cực là quyền của đương sự trong việc tự bảo vệ lợi ích

chính đáng của mình không được triệt để, không được chủ động, bị hạn chế.

Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề xuất chỉnh sửa quy định của BLTTDS

theo hướng cho phép đương sự được quyền có đơn kháng cáo GĐT,TT đối

với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi có những

chứng cứ, tài liệu xác định rõ ràng bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm

pháp luật nghiêm trọng. Tuy nhiên, để hạn chế việc mở phiên tòa GĐT,TT khi

có kháng cáo, cần quy định một quy trình chặt chẽ xem xét căn cứ kháng cáo

để quyết định việc mở phiên tòa hay không mở phiên tòa, do vậy, đơn kháng

cáo không phải là căn cứ bắt buộc để mở phiên tòa GĐT,TT.

Qua nghiên cứu pháp luật nước ngoài thì thấy một số nước có quy định

về việc đơn kháng cáo của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.

Pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Pháp có quy định: quyền kháng cáo

phá án thuộc về tất cả các bên có lợi ích trong bản án (Đ. 609 BLTTDS); đơn

kháng cáo GĐT phải được hai luật sư bên cạnh Tòa án ký tên; hoặc tại Hoa

Kỳ, đơn kháng cáo GĐT phải được một số lượng thẩm phán nhất định thuộc

TANDTC đồng ý thì mới mở phiên tòa giám đốc thẩm.

Theo pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Liên bang Nga16, từ Điều

16 Xem Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Nga.

380 đến Điều 382 đã quy định chi tiết về việc xem xét tính có căn cứ của đơn

76

kháng cáo, đề nghị GĐT để xác định có chuyển lên Tòa án cấp giám đốc thẩm

xét xử hay không? Cụ thể, trong thời hạn 10 ngày, Thẩm phán được phân

công sẽ trả lại đơn kháng cáo của đương sự, đề nghị giám đốc thẩm của KSV

nếu những đơn này không tuân thủ quy định về nội dung đơn được quy định

tại Điều 378 của Bộ luật; đơn được gửi bởi người không có quyền; quá thời

hạn kháng cáo; có yêu cầu trả lại hoặc thu hồi đơn kháng cáo, đề nghị giám

đốc thẩm trước khi bắt đầu xét xử; đơn kháng cáo, đề nghị giám đốc thẩm vi

phạm thẩm quyền xét xử. Sau đó, nếu không trả lại đơn thì trong thời hạn 01

tháng ở Tòa án cấp giám đốc thẩm và 02 tháng ở Tòa án tối cao sẽ tiến hành

giải quyết đơn và ra một trong hai quyết định: chuyển vụ án lên xem xét nếu

nghi ngờ về tính hợp pháp của bản án, quyết định hoặc từ chối chuyển vụ án

lên xem xét nếu các lý lẽ trong đơn hoặc trong đề nghị không dẫn đến việc hủy

bỏ bản án, quyết định của Tòa án. Sau khi vụ án được chuyển lên, trong thời

hạn 02 tháng (hoặc 04 tháng đối với Tòa án tối cao), một Thẩm phán sẽ ra

quyết định từ chối đưa vụ án ra xét xử hoặc đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, một

vụ án dân sự có được đưa ra xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hay không phụ

thuộc vào việc xem xét, đánh giá theo một quy trình rất cụ thể và nhiều giai

đoạn, nhằm bảo đảm quyền lọi của đương sự, đồng thời hạn chế việc mở phiên

tòa giám đốc thẩm đối với những đơn kháng cáo, đề nghị kháng nghị thiếu căn

cứ pháp luật.

Tuy nhiên, theo xu hướng phát triển chung, trong pháp luật tố tụng dân

sự Việt Nam, việc trao quyền kháng cáo cho đương sự là cần thiết nhưng

đồng thời phải đặt ra những quy định phù hợp để hạn chế hiện tượng kháng cáo tràn lan của đương sự17 [14].

Để bảo đảm tính công khai của phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi, bổ sung

BLTTDS theo hướng có những quy định về việc chuyển giao quyết định đưa

17 Xem Chu Thị Hồng Nhung, Luận văn Thạc sỹ luật học, tr.45.

vụ án ra xét xử cho đương sự trong một thời hạn nhất định trước khi mở phiên

77

tòa, phải triệu tập đương sự đến tham gia phiên tòa, phải có phần tranh tụng tại

phiên tòa. Với những quy định như vậy, phiên tòa GĐT,TT sẽ bớt đi tính chất

khép kín, tăng thêm sự công khai, minh bạch và việc tiếp tục tranh tụng tại

phiên tòa sẽ giúp cho HĐXX xem xét, nắm bắt được đầy đủ các tình tiết của vụ

việc, qua đó giúp cho phán quyết của HĐXX thêm đúng đắn và khách quan,

khắc phục tình trạng tiếp tục khiếu nại sau phiên tòa.

Đối với phía Viện kiểm sát tham gia phiên tòa GĐT,TT, cần sửa đổi bổ

sung theo hướng tăng quyền hạn cho KSV VKSNDTC, như tăng thời hạn

nghiên cứu hồ sơ vụ việc, quy định về thẩm quyền kiểm sát hoạt động tư pháp

tại phiên tòa, trường hợp VKS kháng nghị thì phải quy định về việc tranh tụng

của KSV với đương sự. Đối với hồ sơ GĐT,TT việc dân sự thì thời hạn nghiên

cứu hồ sơ của VKS có thể 15 ngày là đủ để đánh giá, nhưng đối với vụ án dân

sự thì thời hạn này cần tăng thêm mới bảo đảm cho việc nghiên cứu, nắm vững

nội dung, tình tiết vụ án và tính có căn cứ của kháng nghị.

3.2.2 Giải pháp tổng kết thực tiễn công tác xét xử Giám đốc thẩm, tái

thẩm rút kinh nghiệm xét xử, đưa ra văn bản hướng dẫn pháp luật áp dụng

thống nhất trong toàn hệ thống; xây dựng hệ thống án lệ.

Hàng năm, Hội nghị tổng kết công tác TANDTC được tổ chức để đánh

giá công tác chuyên môn và tổng kết kinh nghiệm xét xử ở TANDCC và

TANDTC. Bản án GĐT, TT chính là giám đốc việc xét xử của cấp dưới,

kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, có hay không việc xét xử đúng

pháp luật, đưa ra những lý lẽ, lập luận, phân tích đánh giá mức độ sai sót của

bản án sơ thẩm, phúc thẩm, từ đó rút ra những kinh xét xử cho Tòa án cấp

dưới . Việc thường xuyên tổng kết thực tiễn công tác xét xử là một nhiệm vụ

quan trọng để nhìn nhận , đánh giá chất lượng xét xử, kịp thời xây dựng văn

bản hướng dẫn nghiệp vụ. Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cũng là một kênh

hữu hiệu để công luận và xã hội giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của

TAND. Từ những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, những vụ án điểm,

78

TANDTC phát triển thành án lệ để phục vụ tốt hơn cho công tác xét xử các

loại án nói chung và án Dân sự nói riêng.

3.2.3 Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thực hiện.

Tòa án nhân dân tối cao – vụ Giám đốc kiểm tra về dân sự, kinh doanh

thương mại ( Vụ II) là cơ quan tham mưu trực tiếp, chịu trách nhiệm nghiên

cứu, xem xét, giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ việc dân

sự, kinh doanh thương mại. Với những khó khăn như đã phân tích ở phần trên

nên chúng tôi đề xuất kiến nghị giải pháp khắc phục, hoàn thiện như sau: Bộ

máy hành chính cần tổ chức lại theo hướng phân công các Thẩm phán

TANDTC trong Hội đồng Thẩm phán TANDTC phụ trách từng mảng việc

dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động… có thẩm quyền ký

ban hành các văn bản trả lời đơn, còn những vụ việc có đề xuất kháng nghị thì

báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC họp, xét và Chánh án TANDTC ban

hành kháng nghị.

Đối với khó khăn từ phía Hội đồng thẩm phán TANDTC và từ phía

Kiểm sát viên VKSNDTC, chúng tôi đề xuất cần tăng thêm một số lượng nhất

định Thẩm phán TANDTC và Kiểm sát viên VKSNDTC để bảo đảm không

bị quá tải trong công tác xét xử GĐT,TT. Có thể là 21 người ở cả TANDTC

và VKSNDTC. Đồng thời cần phân công có tính chất ổn định Thẩm phán,

Kiểm sát viên vào các Hội đồng xét xử theo từng loại án dân sự, kinh doanh

thương mại, lao động, hành chính…phù hợp với chuyên môn chuyên sâu của

từng Thẩm phán, Kiểm sát viên. Những Thẩm phán TANDTC, KSV

VKSNDTC hằng năm cũng cần phải tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn,

chuyên sâu để tăng cường nắm chắc các quy định của pháp luật và kinh

nghiệm thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự. Trên cơ sở tăng cường chất lượng

đội ngũ Thẩm phán, KSV sẽ nâng cao được chất lượng xét xử, từ đó tăng

cường bảo đảm quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.

Tăng cường công tác quản lý và điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân

79

dân tối cao trong việc giải quyết văn bản đề nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm.

- Căn cứ vào nhiệm vụ công tác thường xuyên, lãnh đạo đơn vị cần đề

ra chỉ tiêu cụ thể cho từng cán bộ, công chức trong công tác nghiên cứu hồ sơ

vụ án, đưa ra quan điểm giải quyết đơn đề nghị có hay không có căn cứ. Theo

quy chế hiện hành của Vụ Giám đốc kiểm tra II, thì mỗi công chức bình quân

5 vụ /tháng. Trong đó có những vụ việc đơn giản, vụ việc phức tạp, nhiều vụ

kéo dài do thời gian báo cáo án quá lâu, báo cáo nhiều lần, nhiều nội dung cần

làm rõ, xác minh thực tế.

- Thẩm tra viên cần nâng cao ý thức tự giác trong công tác chuyên môn.

Bời đặc thù của công tác GĐT, TT là khi có đơn yêu cầu thì TANDTC sẽ thụ

lý vụ án, phân công người nghiên cứu đề xuất. CBCC trực tiếp nghiên cứu hồ

sơ hết ngày này qua ngày khác, công việc lặp đi lặp lại sẽ gây tâm lý ngại

việc. Quy trình báo cáo qua nhiều cung đoạn sẽ gây mệt mỏi và nhờn việc.

TANDTC đã tranh bị đồng bộ cơ sở vật chất, máy tính kết nối internet, các

trang mạng của Tòa án thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, các

văn bản chỉ đạo, văn bản hướng dẫn pháp luật… từ đó thuận lợi cho CBCC

truy cập, cần tài liệu gì, văn bản gì sẽ có ngay. Đây là khâu cốt yếu để giúp

cán bộ TA nâng cao trình độ chuyên môn, tạo điều kiện tối ưu cho hoạt động

tư pháp.

- Công tác Văn phòng hàng tháng, hàng quý phải thống kê các vụ án có

văn bản đề nghị GĐT, TT, kiểm tra thường xuyên, rà soát tránh để tình trạng

quá thời hạn tố tụng, các vụ án kéo dài, hoặc sắp hết thời hiệu nên phải nghiên

cứu gấp gáp dẫn đến làm nhanh, làm ẩu gây hậu quả xấu cho công tác GĐT,

TT. Đồng thời, Văn phòng trực tiếp rà soát, thụ lý đơn thư khiếu nại, phân

loại các trường hợp đơn thư vượt cấp, kéo dài, đơn thư do cơ quan Bộ, Ban,

Ngành chuyển đơn, hoặc đơn thư do Đại biểu quốc hội quan tâm...từ đó

chuyển đơn đến các đơn vị chuyên môn giải quyết đơn một cách kịp thời,

đúng pháp luật.

80

3.2.4 Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát hoạt

động tư pháp đối với việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật mà Tòa án đã xử.

Bản chất xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xác

định là nhiệm vụ của Tòa án do đó hoạt động này tất nhiên là đối tượng chịu

sự kiểm sát của VKSND. Việc quy định thẩm quyền kháng nghị và tham gia

phiên tòa GĐT, TT là phù hợp với chức năng nhiệm vụ mà Hiến pháp năm

2013 và Luật Tổ chức Tòa án năm 2014; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2014 quy đinh. Trong phiên tòa GĐT, TT Tòa án là cơ quan ra quyết

định cuối cùng, có hay không việc kháng nghị bản án. Thực tế rất ít vụ án có

sự tham gia của đương sự tại phiên tòa GĐT, TT, vì vậy sẽ có hệ lụy là cấp

dưới xử, cấp trên xét lại dễ gây tâm lý tiêu cực, bênh vực lẫn nhau, vì vậy

VKS tham gia phiên tòa GĐT, TT và có quyền đưa ra quan điểm giải quyết

vụ án, thậm chí phát biểu quan điểm không đồng tình với kháng nghị của

Chánh án tại phiên tòa và có quyền bảo lưu quan điểm. Rõ ràng VKS có vai

trò tích cực trong công tác giám sát hoạt động GĐT, TT để đảm bảo việc xét

xử GĐT, TT khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, VKS cần

tăng cường tinh thần trách nhiệm , nắm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mình để

chủ động , tích cực trong việc phát hiện và kháng nghị đối với bản án, quyết

định có vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, hoạt động chuyên môn phục vụ

cho quyền kháng nghị của VKS chưa cao, hiệu quả hạn chế, có nhiều vụ án

mà VKS kháng nghị không được chấp nhận.

Việc kháng nghị xuất phát từ hoạt động kiểm sát hoạt động TA sẽ nâng

cao được chất lượng đối với hoạt động xét xử và bảo vệ được quyền và lợi ích

hợp pháp cho đương sự trong các vụ án dân sự.

3.2.5 Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại

biểu dân cử, nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng.

Vấn đề kiểm soát quyền lực giữa cơ quan nhà nước lần đầu tiên được

81

ghi nhận chính thức trong Hiến pháp năm 2013, một văn bản có hiệu lực pháp

lý cao nhất ở nước ta hiện nay.Trong đó, giám sát, đánh giá hành chính được

coi là một phương thức quan trọng trong kiểm soát quyền hành pháp; là thước

đo nhằm kiểm tra, đánh giá và chấn chỉnh hoạt động của các cơ quan, của đội

ngũ cán bộ, công chức trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được

giao.Để nhận diện, đánh giá và nâng cao hiệu quả hoạt động này, cần thiết

phải nghiên cứu một cách toàn diện về cơ chế giám sát việc thực thi công vụ

của cơ quan hành chính nhà nước. Trong đó, cần làm rõ vị trí, vai trò và các

chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các thiết chế trong giám sát việc thực thi công

vụ của các cơ quan hành chính nhà nước như kiểm tra,giám sát của Đảng, các

cơ quan quyền lực nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.

Đồng thời, cần làm rõ vị trí,vai trò của các cơ quan thanh tra với tính chất là

một công cụ quan trọng trong quản lý, một phương thức góp phần kiểm soát

việc thực hiện quyền hành pháp từ chính bên trong nội bộ của nền hành chính

nhà nước.

Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám

sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội và

Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường

xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các

cơ quan hành chính khác cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan quyền

lực nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác

tổ chức và hoạt động cũng như những vướng mắc trong quá trình thực hiện

pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các

cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở đã đạt được cơ quan

quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp và thực hiện

trong thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy. Cũng qua

hoạt động giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm

nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban hành. Nếu các

82

văn bản luật đó có khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các cơ quan

quyền lực nhà nước đó phải đưa ra những biện pháp khắc phục. Và cũng

thông qua đó các cơ quan quyền lực nhà nước này cũng đưa ra những yêu

cầu và biện pháp để cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu

quả quản lý của nhà nước. Nếu có những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật

tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước thì cần

phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lý nghiêm minh những vi

phạm đó để củng cố pháp chế. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối

với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng đã phát huy được kết quả khả quan.

Quyền giám sát của Nhân dân đối với bộ máy nhà nước được thể hiện

trong Hiến pháp năm 2013 không chỉ bằng hình thức ghi nhận quyền của

công dân mà còn khẳng định trách nhiệm giải trình, công bố thông tin liên

quan đến dân những vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan nhà

nước. Thủ tướng được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng

đầu Chính phủ. Đây là quy định mới so với Hiến pháp năm 1992, đồng thời

quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng trước Quốc hội, Ủy ban

thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, trước Nhân dân về hoạt động của Chính

phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, về hoạt động của hệ

thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương bảo đảm tính thống

nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. Quy định này không chỉ là bảo

đảm thông tin cho hoạt động giám sát của Nhân dân đối với cơ quan hành

chính trung ương mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để luật hóa quyền tiếp

cận thông tin, quyền tham gia quản lý đất nước của Nhân dân.Hiến pháp năm

2013 khẳng định rõ “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên

Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của

bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực

được phân công” (khoản 1 Điều 99). Hiến pháp lần này đã bổ sung quy định

83

về trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Theo

đó, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải

trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà còn phải chịu trách nhiệm

giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản

lý của mình” (khoản 2 Điều 99). Trước đó, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ

sung năm 2001) chỉ quy định Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính

phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách

trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật, ra quyết định, chỉ thị, thông

tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa

phương và cơ sở,trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về

lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Như vậy, đây là điểm mới nhằm xác định

trách nhiệm cung cấp thông tin cho Nhân dân, qua đó thực hiện có hiệu quả

quyền giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.

3.2.6. Sử dụng kết quả giám đốc thẩm là tiêu chí để đánh giá trực tiếp

chất lượng Cán bộ, công chức.

Đánh giá là một khâu quan trọng, căn bản trong quá trình quản lý và sử

dụng cán bộ, công chức (CBCC), được tiến hành thường xuyên hàng năm

hoặc trước khi xem xét đề bạt, chuyển công tác đối với CBCC. Mục đích của

hoạt động đánh giá nhằm cung cấp thông tin cho công tác quản lý, làm cơ sở

cho các quyết định quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng, tuyển chọn, đề bạt,

lương, thưởng đối với CBCC. Đánh giá đúng, chính xác kết quả làm việc của

CBCC là căn cứ để lựa chọn, sắp xếp, bố trí, đề bạt, sử dụng đúng với năng

lực, sở trường, từ đó chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và bổ

nhiệm cán bộ. Đồng thời, hoạt động đánh giá CBCC sẽ cung cấp thông tin

phản hồi để CBCC biết rõ về năng lực và việc thực hiện công việc của họ hiện

tại đang ở mức độ nào, giúp họ phấn đấu tự hoàn thiện bản thân và hoàn thành

tốt các nhiệm vụ được giao.

84

Đánh giá CBCC phải dựa trên mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ

được giao, thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc

trong từng vị trí, từng thời gian; tinh thần trách nhiệm trong hoạt động công

vụ. Đánh giá theo hiệu quả công tác căn cứ theo tiêu chí của ngành, địa

phương, đơn vị; căn cứ vào sự tín nhiệm của tập thể và người đứng đầu cơ

quan đối với CBCC (lấy hiệu quả công việc làm thước đo). Cần áp dụng các

phương pháp đánh giá CBCC tiên tiến; đổi mới quy trình đánh giá CBCC,

đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, chính xác và trách nhiệm đối với

việc đánh giá CBCC.

Việc đánh giá CBCC làm việc tại các cơ quan hành chính, cơ quan

công quyền, qua nghiên cứu cụ thể trong phạm vi đội ngũ công chức hành

chính cho thấy:

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là người có thẩm quyền quyết

định đánh giá, phân loại CBCC và phải chịu trách nhiệm về quyết định của

mình. Khi đánh giá CBCC phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của người

được đánh giá, đối chiếu với số lượng, khối lượng công việc do cơ quan, tổ

chức cấp trên hoặc người đứng đầu đơn vị giao; làm rõ ưu, khuyết điểm về

phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết

quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Yêu cầu đặt ra trong đánh giá CBCC là

phải bảo đảm chính xác, khách quan, nghiêm túc, công bằng, vô tư, không

thiên vị.

Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị là một

trong những cơ sở để đánh giá, phân loại CBCC. Về nguyên tắc, kết quả đánh

giá, phân loại từng CBCC không được cao hơn mức độ hoàn thành nhiệm vụ

của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối với công chức không đảm nhiệm được các

nhiệm vụ tương xứng với chức danh đang giữ (do trình độ, năng lực hạn chế)

thì được phân loại ở mức cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế

về năng lực (đối với công chức).

85

Hoạt động GĐT, TT được hiểu là Giám đốc lại việc xét xử của cấp

dưới , nhận định, đánh giá về tính đúng đắn, có căn cứ mà bản án do cấp dưới

đã xử. Đây là hoạt động giám sát của cấp trên đối với cấp dưới. Trên cơ sở

phân tích , nhận định của Hội đồng xét xử GĐT, TT sẽ thấy được có hay

không vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm pháp luật, áp dụng pháp luật không

thống nhất…có hay không ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, từ đó có

hay không việc hủy toàn bộ, hủy một phần, sửa bản án sơ thẩm, phúc thẩm.

Trên cơ sở kết quả đó sẽ đánh giá cán bộ, công chức, lãnh đạo đơn vị, tập thể

hàng năm dựa trên tiêu chí án hủy, sửa do cán bộ, công chức, lãnh đạo, tập thể

chịu trách nhiệm theo tiêu chí đánh giá thi đua khen thưởng áp dụng cho hệ

thống TAND. Đối với Thẩm phán có kết quả xét xử tốt, án hủy, sửa đều trong

phạm vi cho phép thì được khen thưởng kịp thời, đối với Thẩm phán có kết

quả xét xử vượt mức cho phép về án hủy, sửa thì sẽ xem xét từ phê bình, rút

kinh nghiệm đến các hình thức kỷ luật khác. Như vậy, từ việc xét xử GĐT,

TT để đánh giá điểm thiếu sót trong quá trình xét xử , từ đó xây dựng kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chất lượng đáp ứng nhiệm vụ chính trị

của Đảng và nhà nước đã giao phó./.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Tại chương 3, tác giả đã trình bày, phân tích, đánh giá được một số kết

quả trong xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự ở TANDTC trong 5 năm từ năm

2013 đến năm 2017. Trong đó, nêu bật được những kết quả tích cực của

TANDTC trong giải quyết theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Tác giả cũng

phân tích, đánh giá một số hạn chế, khó khăn trong việc thực hiện quyền của

đương sự trong thủ tục, GĐT,TT vụ việc dân sự, trong đó có những khó khăn

hạn chế từ những quy định của pháp luật tố tụng dân sự, như quy trình xét xử

GĐT,TT còn có tính khép kín, chưa thực sự công khai, quyền của đương sự

trong giai đoạn này còn có hạn chế như chưa được quy định bắt buộc phải

86

triệu tập đến phiên tòa, chưa được trình bày ý kiến nếu HĐXX chưa cho phép,

chưa có quy định về tranh tụng tại phiên tòa. Những hạn chế này sẽ làm giảm

đi việc thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự.

Những hạn chế, khó khăn từ việc tổ chức thực hiện quyền của đương sự, xuất

phát từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, như việc tổ

chức bộ máy, con người của Hội đồng xét xử, của VKSNDTC còn chưa thực

sự đầy đủ về số lượng, có biểu hiện của sự qua tải, một số Thẩm tra viên,

Thẩm phán, Kiểm tra viên, KSV còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Hạn

chế còn xuất phát từ nhận thức pháp luật của đương sự khi tham gia quá trình

tố tụng theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra

một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, ttor chức thực

hiện, nâng cao nhận thức pháp luật cho đương sự nhằm nâng cao chất lượng

công tác xét xử GĐT,TT, qua đó nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền của

đương sự trong thủ tục GĐT, TT vụ việc dân sự.

87

KẾT LUẬN

Bảo vệ quyền con người thông qua chức năng thực hiện quyền tư pháp

mà cụ thể là thông qua việc xét xử GĐT,TT vụ việc dân sự là nội dung lớn

trong hoạt động của ngành Tòa án. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu

lực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do Tòa án nhân dân tối cao và

TAND cấp cao thực hiện nhằm bảo đảm triệt để việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự.

Luận văn đã đi sâu phân tích, trình bày những nội dung cơ bản thuộc

thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự, quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT,

đã phân tích, đánh giá những nội dung quan trọng có liên quan để đưa ra các

khái niệm cơ bản liên quan đến quyền của đương sự trong thủ tục GĐT,TT vụ

việc dân sự, như: khái niệm vụ án dân sự, việc dân sự, vụ việc dân sự; trình

bày những quy định về thủ tục GĐT,TT; về đương sự trong vụ, việc dân sự;

về khái lược hình thành và phát triển quyền của đương sự trong tố tụng dân sự

Việt Nam. Theo đó, Quyền của đương sự từng bước được xây dựng, hoàn

thiện qua các văn bản quy phạm pháp luật, các BLTTDS, thực tiễn xét xử các

vụ việc dân sự theo thủ tục GĐT,TT. Đến BLTTDS năm 2015 thì quyền của

đương sự đã được quy định một cách đầy đủ, phù hợp với những quy định của

luật pháp quốc tế, kế thừa những tinh hoa, tiến bộ trong các bộ luật, văn bản

quy phạm pháp luật trước đây. Những chế định mới của BLTTDS năm 2015

về đương sự, quyền của đương sự, về thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự là

những căn cứ pháp lý, cơ cở vững chắc cho việc bảo đảm thực hiện quyền của

đương sự trong thủ tục GĐT,TT, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự khi tham gia tố tụng dân sự.

Theo quy định của BLTTDS năm 2015, đương sự có quyền phát hiện

bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ

tục GĐT, TT. Đây là quyền đầu tiên, cơ bản để đương sự được tham gia vào

88

quá trình tố tụng dân sự theo thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Quyền này cho

phép đương sự phát hiện những vi phạm, sai lầm trong bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật để tiếp tục yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

việc xét lại bản án, quyết định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trong trường hợp đương sự phát hiện hoặc cho rằng bản án, quyết định có vi

phạm, sai lầm nghiêm trọng, đương sự có quyền làm đơn, nộp đơn đề nghị

xem xét bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

GĐT,TT và nhận thông báo tiếp nhận đơn đề nghị của đương sự. Đơn đề nghị

của đương sự đánh dấu quá trình khởi động tố tụng dân sự theo trình tự

GĐT,TT, bởi lẽ, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét, nghiên cứu

đơn, hồ sơ vụ việc, kết luận về tính có căn cứ của đơn yêu cầu, trên cơ sở đó

quyết định ban hành hoặc không ban hành quyết định kháng nghị. Tiếp theo,

trong quá trình gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị và tại phiên tòa GĐT,TT,

đương sự có quyền cung cấp, bổ sung chứng cứ, tài liệu trong thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án, Viện kiểm sát phải phân công Thẩm phán, Kiểm

sát viên nghiên cứu kỹ các chứng cứ tài liệu để phục vụ việc quyết định kháng

nghị, các thành viên Hội đồng xét xử GĐT,TT phải nghiên cứu kỹ tài liệu

chứng cứ đó tại phiên tòa để đánh giá, phục vụ việc đưa ra quyết định của

mình. Khi Tòa án quyết định mở phiên tòa GĐT,TT để xét lại bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền được tham gia phiên tòa

GĐT,TT khi được triệu tập. Được tham gia phiên tòa GĐT,TT khi được triệu

tập là quyền của đương sự được quy định tại Điều 338 BLTTDS, theo đó,

phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm ngoài sự tham gia của Viện kiểm sát cùng

cấp thì trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập đương sự hoặc người

đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc

người tham gia tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên

tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử giám

đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa. Cuối cùng, đương sự có quyền trình bày ý

89

kiến tại phiên tòa GĐT,TT khi được yêu cầu. Để bảo đảm việc đánh giá, kết

luận của Hội đồng xét xử được đúng đắn, khách quan, tại phiên tòa đương sự

được trình bày ý kiến của mình vè việc vi phạm, sai lầm của bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật. Việc vi phạm sai lầm đó đã ảnh hưởng nghiêm

trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tuy nhiên, quyền này đương

sự chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của HĐXX.

Trong 5 năm qua, kể từ năm 2013 đến năm 2017, hoạt động xét xử

GĐT,TT của HĐTP-TANDTC đã đạt được những kết quả rất tích cực, giải

quyết kịp thời nhiều vụ việc dân sự có đơn khiếu nại, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự. Luận văn cũng phân tích, đánh giá một số hạn chế,

khó khăn trong việc thực hiện quyền của đương sự trong thủ tục, GĐT,TT vụ

việc dân sự, trong đó có những khó khăn hạn chế từ những quy định của pháp

luật tố tụng dân sự, như quy trình xét xử GĐT,TT còn có tính khép kín, chưa

thực sự công khai, quyền của đương sự trong giai đoạn này còn có hạn chế

như chưa được quy định bắt buộc phải triệu tập đến phiên tòa, chưa được

trình bày ý kiến nếu HĐXX chưa cho phép, chưa có quy định về tranh tụng tại

phiên tòa. Những hạn chế này sẽ làm giảm đi việc thực hiện quyền của đương

sự trong thủ tục GĐT,TT vụ việc dân sự. Những hạn chế, khó khăn từ việc tổ

chức thực hiện quyền của đương sự, xuất phát từ phía cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng, như việc tổ chức bộ máy, con người của Hội

đồng xét xử, của VKSNDTC còn chưa thực sự đầy đủ về số lượng, có biểu

hiện của sự qua tải, một số Thẩm tra viên, Thẩm phán, Kiểm tra viên, KSV

còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Hạn chế còn xuất phát từ nhận thức

pháp luật của đương sự khi tham gia quá trình tố tụng theo thủ tục GĐT,TT

vụ việc dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị

hoàn thiện quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện, nâng cao nhận thức

pháp luật cho đương sự nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử GĐT,TT,

90

qua đó nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT, TT vụ việc dân sự. Đồng thời bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ

vững niềm tin của nhân dân vào hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung và

vào TAND nói chung./.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hải An (2017), “Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

về đảm bảo quyền công dân trong thủ tục giải quyết việc dân sự”, Tạp

chí Tòa án nhân dân, số 10/2017, tr13-15, số11/2017, tr.10-12;

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

3. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2016), Quyết định số 625/QĐ-CA

ngày 06/09/2016 ban hành Quy chế giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị,

thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật theo thủ tục GĐT/TT vụ việc dân sự;

4. Ngô Cường (2017), “Chế định Thẩm phán của một số quốc gia trên thế

giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2017, tr. 37-47;

5. Nguyễn Huy Du (2012), "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc

thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, những vướng mắc và kiến

nghị", Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

6. Mai Ngọc Dương (2005), “Bàn thêm về giám đốc thẩm theo quy định của

Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr48-53;

7. Mai Ngọc Dương (2010), “Giám đốc thẩm dân sự, một số vấn đề lý luận

và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội,

Hà Nội.

8. Hà Thị Thúy Hà (2014), “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam”,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Học Viện Tư pháp Hà Nội (2007), Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc

dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2013), Quyết định GĐT số

13/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 về yêu cầu hủy Nghị quyết của

Hội đồng cổ đông, Tạp chí Tòa án số 2, Kỳ II, tháng 1 năm 2014, tr. 43;

11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2014), Quyết định GĐT số

92

34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 về vụ án “Tranh chấp đòi tài sản”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2016, tr.45;

12. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015), báo cáo tổng kết

thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự;

13. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2016), Nghị quyết số

04/2016/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2016 hướng dẫn thi hành

một số quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành

chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ

và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử;

14. Chu Thị Hồng Nhung (2015), “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt

Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

15. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946,1959,1980,

1992, 2013), Hiến pháp;

16. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004, 2015), Bộ luật

dân sự;

17. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005, 2015), Bộ luật

tố tụng dân sự;

18. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960, 1981, 1992,

2002, 2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân;

19. Đào Xuân Tiến (2009), “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự Việt Nam”, Luận

án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.

20. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm soát nhân dân tối cao (2013), Thông

tư liên tịch số 03/2013 TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/10/2013

hướng dẫn thi hành một số quy định về thủ tục GĐT,TT và thủ tục đặc

biệt xem xét lại quyết định của HĐTP-TANDTC của BLTTDS đã được

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS;

21. Tòa án nhân dân tối cao (2012 - 2017), Báo cáo tổng kết công tác xét xử

93

các vụ án dân sự.

22. Tòa án nhân dân tối cao (2013 - 2017), Tuyển tập Quyết định Giám đốc

thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về dân sự.

23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

24. Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình luật tố tụng dân sự

Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Trường Đại học kinh tế-Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình

luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM;

26. Trần Anh Tuấn (2004), “Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn

đề đặt ra cho thi hành án”, Tạp chí Luật học đặc san về Bộ luật tố tụng

dân sự, số 4, năm 2004;

27. Trần Anh Tuấn (2011), “Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật”, Tạp chí nghề luật, số 4/2011, tr. 41-48;

28. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013 - 2017), Báo cáo tổng kết công tác

kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.

94

PHỤ LỤC

MỘT SỐ VỤ ÁN MÀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

ĐÃ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM

Vụ án 1. Quyết định GĐT số 34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 của

Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp đòi tài sản” [11].

Nội dung: “Tại đơn khiếu nại ngày 06/09/1995 và quá trình tham gia

tố tụng, nguyên đơn là ông Trần Công Hầu, ông Trần Kim Nguyên, bà Trần

Thị Loan, bà Trần Thị Vân Vàng ), bà Trần Kim Anh trình bày:

Cụ Trần Văn Dương chết năm 1984), cụ Lê Thị uyến chết năm

1982) có 10 người con gồm: Bà Trần Thị Lê chết năm 2000, độc thân), bà

Trần Kim Huê chết năm 2005, độc thân), ông Trần Công Đồng chết năm

2002, có vợ là bà Nguyễn Thị Rang và 03 người con là anh Trần Công Minh,

anh Trần Công Thương ,chị Trần Nam Phương), bà Trần Kim Lượng chết

năm 1978, độc thân), ông Trần Công Hầu định cư tại Mỹ), bà Trần Thị Vân

Vàng), ông Trần Kim Nguyên định cư tại Mỹ), bà Trần Kim Loan định cư

tại Mỹ), ông Trần Công Minh định cư tại Mỹ) và bà Trần Kim Anh.

Cụ Dương và cụ uyến có một nền nhà lát gạch tàu xây đá k xung

quanh có ch cao 2m, có ch cao 3m vì nền đất thấp nên xây đá k cho cao

bằng mặt đường) ngang 7m dài 20m tọa lạc tại tổ 16, ấp Vĩnh Ph c, xã Vĩnh

Tế nay là số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i

Sam) thành phố Châu Đốc, t nh An Giang. Năm 1945, hai cụ cho cụ Ba

Hoạch cha của ông Lý Quốc Ngọc) mượn để cất mái trại bán tạp hóa.

Khi cha m qua đời, các ông bà vẫn cho cụ Ba Hoạch tiếp tục ở nhờ.

Do điều kiện sinh sống các ông bà đều ở xa, ch còn hai người chị là bà Lê và

bà Huệ ở lại trông phủ thờ. Khi vợ chồng cụ Ba Hoạch mất, ông Ngọc có h i

bà Huê và bà Lê cất thêm nhà vệ sinh và nhà kho, do còn đất trống phía sau

95

nên bà Huê và bà Lê đồng ý.

Năm 1995, do mở đường, có giải t a một phần lộ giới ông Ngọc đã lừa

dối bà Lê và bà Huê ký vào giấy xin sửa nhà nhưng thực tế là giấy chuyển

nhượng nền nhà giá 10 cây vàng, do hai bà tin ông Ngọc nên đã ký giấy. Bà

Lê và bà Huê xác định chưa nhận vàng của ông Ngọc và ông Ngọc c ng thừa

nhận chưa trả vàng cho hai bà. Sau đó, ông Ngọc đã phá nhà c , xây dựng

căn nhà 3 tầng mới. Các ông bà biết được việc này thông qua báo chí, đã đến

gặp ông Ngọc và khiếu nại. Chính quyền địa phương đã quyết định xử phạt

hành chính không cho xây dựng, nhưng ông Ngọc vẫn tiếp tục xây dựng hoàn

thiện nhà ba tầng như hiện nay.

Nay các ông bà yêu cầu ông Ngọc trả lại đất để cho con cháu các ông

bà cất nhà ở. Các ông bà đồng ý trả lại giá trị căn nhà ông Ngọc đã xây dựng

theo định giá.

Bị đơn là vợ chồng ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại trình bày:

ng bà thừa nhận nguồn gốc diện tích nền đất có xây đá k xung quanh 6,5m

x18m trước đây g n liền với căn nhà mà gia đình ông bà hiện nay đang ở có

nguyền gốc của cụ Dương, cụ uyến cho cụ Ba Hoạch cha ông bà ) mượn

cất mái trại bán hàng tạp hóa để ở từ năm 1945. Theo cha ông nói lại là, cứ

lâu lâu ông chủ đất viết giấy tính tiền, do chạy giặc gia đình sơ tán, giấy tờ

thất lạc, nay tìm ch còn hai chứng từ thu tiền do ông chủ đất ký tên. Sau đó,

gia đình ông nhiều lần sửa chữa thành nhà mái tôn. Tháng 01/1995, bà Lê

nói với ông là phần đất này trước cho cha ông ở, nay cần tu sửa phủ thờ, nên

chuyển nhượng giá 10 cây vàng. Khi nhà nước mở đường dời vào 5m, ông đã

trao đổi và hai bà đồng ý ký chuyển nhượng cho ông nền nhà, nhưng ông

chưa giao vàng. ng đã xin Nhà nước di dời nhà xây tường, lợp tôn, nhưng

ba người chị em khác của bà Lê, bà Huê ở Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,

Long uyên làm đơn tranh chấp không cho gia đình ông xây cất. Do Tòa án

96

giải quyết quá lâu, nhà đã d , không có ch ở, nên ông đã xây dựng thành

nhà 3 tầng. Các nguyên đơn đều có nhà đất khác ở và đất phủ thờ còn rộng,

ông bà đề nghị thương lượng được nhận chuyển nhượng nền đất giá 13 lượng

vàng phiên tòa sơ thẩm năm 1995). Hiện tại, ông bà có nhà đất khác, nhưng

đã cho con. Nay năm 2012) ông, bà đồng ý trả cho nguyên đơn nền đất theo

giá thị trường để gia đình được tiếp tục sinh sống trong căn nhà trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Các con của ông Ngọc, bà

Thoại gồm anh Kim, chị Trinh, chị Khanh, anh Lương, anh Quang thống nhất

lời khai như ông Ngọc, bà Thoại.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 50/1997/DSST ngày 09/10/1997, Tòa án

nhân dân t nh An Giang quyết định tóm t t ):

Buộc gia đình ông Ngọc trả toàn bộ đất cho nguyên đơn, giao căn nhà

ông Ngọc xây dựng cho nguyên đơn sở hữu và nguyên đơn phải trả giá trị

nhà là 107.305.000đ và h trợ tiền di dời 2.000.000đ cho gia đình ông Ngọc.

Sau đó, cả nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo, nguyên đơn xin lại

tiền bồi hoàn trị giá phần xây dựng căn nhà, còn bị đơn xin được trả trả giá

trị đất cho nguyên đơn.

Tại Quyết định số 124/DSPT ngày 15/09/1999, Toà Ph c thẩm

TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Tạm đình ch giải quyết vụ

án theo Nghị quết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24/9/1998 của y ban

Thường vụ Quốc hội vì có con của cụ Dương, cụ uyến ở nước ngoài.

Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 224/DSPT ngày 23-7-2001, Tòa Ph c

thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Hủy án sơ thẩm giao

sơ thẩm lại với lý do, chưa xác minh việc hai bên có kê khai đăng ký và nộp

thuế đất tại chính quyền như thế nào và việc ông Ngọc có lấn chiếm phủ thờ

không chưa được làm r .

Tại Quyết định số 13/QĐ ngày 24/12/2001, Tòa án nhân dân t nh An

97

Giang đã quyết định: Tạm đình ch để chờ hướng dẫn mới của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DSST ngày 27/4/2012 của Tòa

án nhân dân t nh An Giang quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các đồng thừa kế của ông Trần

Văn Dương, bà Lê Thị uyến buộc ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại

trả 180,7 mét vuông đất tọa lạc tại số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh

Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang.

Buộc ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại trả cho các đồng nguyên

đơn do bà Trần Thị Vân, bà Trần Kim Anh đại diện) 451.750.000đ bốn

trăm năm mươi mốt bảy triệu năm mươi nghìn đồng).

Công nhận diện tích 180,7 mét vuông tọa lạc tại số 557 đường Vòng

N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An

Giang cho ông Lý Quốc Ngọc và bà Hu nh Thị Thoại theo bản đo đạc hiện

trạng khu đất ngày 07 tháng 11 năm 2011 của Văn phòng đăng ký quyền sử

dụng đất thị xã Châu Đốc).

ng Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại có nghĩa vụ liên hệ cơ quan

thẩm quyền làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 03/5/2012, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu ông Ngọc trả lại phần

đất tranh chấp và đồng ý bồi hoàn lại giá trị căn nhà mà ông Ngọc đã xây cất

trên đất.

Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 07/2012/DSPT ngày 05/10/2012, Tòa

ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm, như

sau:

Buộc ông Lý Quốc Ngọc, Hu nh Thị Thoại và những người sống trong

căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam,

thị xã Châu Đố, t nh An Giang trả lại cho các đồng thừa kế của ông, bà Trần

98

Văn Dương, Lê Thị uyến căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam, khóm Vĩnh

Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang.

Các đồng thừa kế của ông, bà Trần Văn Dương, Lê Thị uyến phải trả

giá trị xây dựng diện tích 217,90 m2 cho bị đơn 300.702.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Anh, bà Vân h trợ cho ông Ngọc bà

Thoại và những người sinh sống trong căn nhà số 557 đường Vòng N i Sam,

khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang

20.000.000 đồng tiền di dời.

ng Ngọc, bà Thoại và những người sinh sống trong căn nhà nói trên

được lưu cư 6 tháng kể từ ngày tuyên án ph c thẩm.

Bà Trần Thị Vân Vàng) và Trần Kim Anh đại diện các đồng thừa kế

được liên hệ các cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp ph c thẩm còn quyết định về án phí”.

Sau khi xét xử ph c thẩm, ông Ngọc và bà Thoại có nhiều đơn đề nghị

giám đốc thẩm với nội dụng đã sử dụng đất tranh chấp 70 năm, không có nơi

ở nào khác, xin được thanh toán giá trị đất theo giá thị trường cho nguyên

đơn để ổn định cuộc sống.

Tại Quyết định số 74/2014/DS-KN ngày 20 tháng 03 năm 2014, Chánh

án TANDTC kháng nghị Bản án dân sự th c thẩm số 07/2012/DSPT ngày

05/10/2012 của Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh ; đề

nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự

ph c thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Thành

phố Hồ Chí Minh xét xử ph c thẩm lại”.

Ngày 11/7/2014, tại trụ sở TANDTC mở phiên tòa GĐT xét xử vụ án

dân sự nêu trên. Tòa án đã triệu tập các đương sự tham gia phiên tòa: Trần

Thị Vân( Vàng), Trần Kim Anh, Trần THị Nam Phương, Trần Công Thượng;

99

Bà Huỳnh Thị Thoại, ông Lý Chánh Kim, Lý Hồng Chinh, Lý Hồng Khanh.

Các đương sự đã được HĐXX cho trình bày ý kiến về phán quyết của

Tòa phúc thẩm TANDTC tại Thành phố HCM, ý kiến, đề nghị của mình tại

phiên tòa GĐT.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện VKSNDTC nhất trí với kháng

nghị của Chánh án TANDTC.

Quá trình xét xử GĐT, sau khi nghe Thẩm phán trình bày bản thuyết

trình, đại diện VKSNDTC phát biểu ý kiến, các bên đương sự phát biểu, Hội

đồng xét xử xét thấy:

“ Diện tích 180,7 m2 đất tranh chấp tọa lạc tại số 557 đường Vòng N i

Sam, khóm Vĩnh Phước 1, phường N i Sam, thị xã Châu Đốc, t nh An Giang

có nguồn gốc của cha, m nguyên đơn là cụ Trần Văn Dương chết năm

1984) và cụ Lê Thị uyến chết năm 1982) tạo lập, g n liền với phần đất còn

lại mà gia đình nguyên đơn đang có phủ thờ tồn tại.

ng Ngọc thừa nhận trên phần đất này cụ Dương và cụ uyến đã xây

dựng tường đá k xung quanh 6,5m x 1,8m). Năm 1945, cụ Dương, cụ uyến

cho cụ Lý Nam tự Ba Hoạch) là cha của ông Ngọc dựng lán bán hàng tạp

hóa trên nền đất có k đá trên. Sau khi cụ Dương, cụ uyến chết ch còn lại

bà Huê và bà Lê không xây dựng gia đình ở trông coi phủ thờ thì ông Ngọc

có h i và được hai bên đồng ý cho ông Ngọc xây dựng thêm nhà vệ sinh và

nhà kho phía sau.

Thực tế, năm 1995 do Nhà nước mở đường lấy vào một phần nhà đất

nên ông Ngọc đã h i bà Lê và bà Huê để dời nhà vào phía trong được hai bà

đồng ý, khi gia đình ông Ngọc xây lại nhà thì xảy ra tranh chấp.

Đất có nguồn gốc của gia đình nguyên đơn, nhưng gia đình bị đơn đã

sử dụng từ năm 1945 đến khi tranh chấp năm 1995) là 50 năm. Khi cụ

Dương , cụ uyến còn sống không tranh chấp với gia đình ông Ngọc. Quá

100

trình giải quyết kéo dài nhưng từ khi có tranh chấp đến nay, ông Ngọc luôn

có nguyện vọng xin được tiếp tục ở và trả giá trị đất cho nguyên đơn. Gia

đình nguyên đơn vẫn còn đất phủ thờ bên cạnh, các nguyên đơn đều có ch ở

khác, gia đình ông Ngọc đã sử dụng đất thời gian dài đã g n bó với nền đất

này và nay đã xây dựng nhà kiên cố, nên ông Ngọc đã chấp nhận thanh toán

giá trị đất theo giá thị trường như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là đã

đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn, Tòa án cấp ph c thẩm buộc ông Ngọc trả

lại đất cho nguyên đơn là không ph hợp với thực tế và nhu cầu sử dụng đất

ở.

Bởi các l trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản

2 Điều 299 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Q T Đ N :

Hủy Bản án dân sự ph c thẩm số 07/2012/DSPT ngày 05-10-2012 của

Tòa ph c thẩm TANDTC tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “ Tranh chấp

đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Vân tức Vàng) c ng các đồng

nguyên đơn khác với bị đơn là ông Lý Quốc Ngọc, bà Hu nh Thị Thoại; và

những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2012/DSST ngày 27/4/2012

của Tòa án nhân dân t nh An Giang”.18 [11].

Thông qua quyết định của HĐXX GĐT vụ án tranh chấp đòi tài sản

nêu trên, chúng ta thấy, quyết định của Tòa GĐT TANDTC là đúng pháp luật.

HĐXX đã xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các

quy định của pháp luật, thực tế việc tranh chấp, đánh giá những quyết định

không đúng pháp luật của các bản án quyết định của tòa sơ thẩm, tòa phúc

18 Quyết định GĐT số 34/2014/DS-GĐT ngày 11/7/2014 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ

án “Tranh chấp đòi tài sản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2016, tr.45.

thẩm, trên cơ sở đó đưa ra phán quyết thấu tình, đạt lý, bảo đảm được quyền

101

và lợi ích hợp pháp của bị đơn và cả phía nguyên đơn, giúp các bên tranh

chấp giải tỏa được mâu thuẫn kéo dài trong nhiều năm qua. Quyết định của

Hội đồng GĐT cũng khắc phục được những vi phạm trong việc nhận thức và

áp dụng pháp luật của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại thành phố HCM. Phiên

tòa nêu trên không những bảo đảm được quyền của đương sự trong thủ tục

GĐT mà phán quyết của Hội đồng xét xử GĐT đã bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự trong vụ án.

Vụ án 2. Quyết định tái thẩm số: 29/2015/DS-TT, ngày 23/10/2015, vụ án

“đòi nhà cho thuê”.

Nội dung: “Theo đơn khởi kiện ngày 30/03/1992 và trong quá trình tố

tụng, bà Nguyễn Thị Nhàn trình bày: Ngôi nhà số 2, phố Hàng Điếu, phường

Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội thuộc bằng khoáng điền thổ

số 646, khu Nhà Thờ, thửa số 955, tờ bản đồ số 8, khu địa chính C, đăng ký

quyển sổ 1 thành phố Hà Nội sau đây gọi t t là nhà số 2 Hàng Điếu), do bà

và chị gái là bà Nguyễn Thị Hay mua chung năm 1954 và được chứng thực

đoạn mại ngày 18/08/1954.

Sau khi mua nhà, bà và bà Hay cho ông Nguyễn Trọng Khuê thuê tầng 2

và 4,5cm2 tầng 1; cho ông Nguyễn Văn Kính thuê tầng 1. ng Kính ch thuê

một thời gian ng n thì trả lại và bà cho ông Dương Văn Mầu thuê tầng 1

c ng trong năm 1954. Cuối năm 1954, bà Hay di cư vào miền Nam nên bà là

người thu tiền thuê nhà của các hộ. Năm 1991, ông Khuê trả lại toàn bộ tầng

2 và 4,5cm2 tầng 1 của nhà số 2 Hàng Điếu, việc trả nhà có sự chứng kiến và

xác nhận của y ban nhân dân phường Cửa Đông. Hiện nay gia đình bà có

19 người đang ở thuê nhà của Nhà nước tại số 44 phố Hàng Buồm có diện

tích 42 m2 nên rất chật chội. Bà yêu cầu ông Mầu trả lại tầng 1, nhà số 2

Hàng Diếu và chuyển đổi cho ông Mầu diện tích nhà đất khác là căn nhà hai

tầng mái ngói trên diện tích đất là 40m2 tại tổ 28A phường Ph c Tân.

102

Bị đơn là ông Dương Văn Mầu trình bày: Tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu ông

thuê của bà Nhàn trước đó diện tích này do ông Nguyễn Văn Kính thuê).

Việc thuê nhà không lập thành văn bản, tiền thuê nhà ông nộp cho bà Nhàn,

đến năm 1992 bà Nhàn không thu tiền nữa mà thông báo đòi lại nhà. Trước

đây bà Nhàn đã có ý định bán nhà cho ông nên nay ông không đồng ý trả lại

nhà, c ng không đồng ý chuyển đổi lấy diện tích nhà đất khác theo yêu cầu

của bà Nhàn; ông yêu cầu cầu được mua lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Hơn

nữa, bà Nhàn ch có quyền sở hữu một nửa nhà số 2 Hàng Điếu, nửa còn lại

thuộc quyền sở hữu của bà Hay, hiện nay bà Hay đang định cư ở nước ngoài

nên bà Nhàn không có quyền đòi. Sau đó, ông Mầu còn có lời khai thác là gia

đình ông thuê nhà của chủ c từ năm 1945, đến năm 1954 thì thuê của bà

Hay. Bà Hay có đưa bà Nhàn đến gặp ông nói do bà Hay đi v ng nên ông trả

tiền thuê nhà cho bà Nhàn, do vậy từ năm 1954 ông trả tiền thuê nhà cho bà

Nhàn. Nhà bà Nhàn ở tầng 2 nếu bà Nhàn bán thì ông mua, còn tầng 1 của bà

Hay, khi nào bà Hay về đòi thì ông s trả cho bà Hay. Do vậy, ông không

đồng ý trả nhà theo yêu cầu của bà Nhàn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/DSST ngày 05/04/1993, TAND thành

phố Hà Nội quyết định:

Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê tại tầng một nhà số 2 Hàng Điếu của

bà Nguyễn Thị Nhàn do anh Phạm Tất Thái đại diện, đối với gia đình ông

Dương Văn Mầu do anh Phạm Đức Thành đại diện.

Buộc hộ ông Dương Văn Mầu, anh Dương Văn Thục và anh Dương Văn

Thực c ng với các thành viên có tên trong hộ khẩu tại số 2 Hàng Điếu chuyển

đến tại nhà ở tổ 28A phường Ph c Tân để trả toàn bộ nhà số 2 Hàng Điếu

cho bà Nhàn.

Ghi nhận sự th a thuận của anh Thái biếu gia đình ông Mầu nhà ở 28A

phường Ph c Tân do anh đứng tên mua.

103

Anh Thái có trách nhiệm hoàn tất giấy tờ tặng cho để gia đình ông Mầu

sang tên sở hữu chủ căn nhà nói trên.

Ghi nhận sự tự nguyện của chủ nhà do anh Thái đại diện không lấy tiền

thuê nhà mà ông Mầu còn thiếu từ năm 1990 đến nay.

Ghi nhận sự tự nguyện của anh Thái thanh toán tiền sửa nhà, xí, bếp gia

đình ông Mầu và anh Thực làm thêm năm 1984 là 4000.000 đồng.

Khi chuyển đi gia đình ông Mầu để lại toàn bộ bộ phận nhà và bếp, xí ông

đã làm năm 1984 cho bà Nhàn sử dụng.

Phần hai gác xép, bên trong nhà chính nếu hai bên không tự th a thuận

được thì gia đình ông Mầu được tháo d đem đi, nhưng khi tháo d không

được làm ảnh hưởng đến cấu tr c nhà, nếu gây thiệt hại cho chủ nhà phải bồi

thường theo pháp luật hiện hành.

Ngày 12/4/1993, ông Dương Văn Mầu có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993, Tòa Ph c Thẩm

TANDTC tại Hà Nội đã quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

ng Màu có đơn khiếu nại Bản án dân sự ph c thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 06 ngày 10/01/1994, Viện trưởng VKSNDTC kháng

nghị Bản án dân sự ph c thẩm nêu trên.

Tại Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994, y ban Thẩm

phán TANDTC quyết định:

Chấp nhận kháng nghị số 06 ngày 10/01/1994 của Viện trưởng

VKSNDTC.

Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25 ngày 05/4/1993 của TAND thành phố

Hà Nội và Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993 của Tòa ph c

thẩm TANDTC tại Hà Nội đã xử việc đòi nhà cho thuê giữa bà Nguyễn Thị

Nhàn với ông Dương Văn Mầu ở tại số 2 phố Hàng Điếu – Hà Nội.

104

Bác yêu cầu đòi nhà của bà Nguyễn Thị Nhàn đối với ông Dương Văn

Mầu.

Kiến nghị với UBND thành phố Hà Nội làm thủ tục quản lý diện tích nhà

hiện ông Dương Văn Mầu đang thuê của bà Nguyễn Thị Hay ở số 2 phố Hàng

Điếu, thành phố Hà Nội.

Bà Nguyễn Thị Nhàn phải chịu 50.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Nhàn tiếp tục có đơn khiếu nại gửi các cơ quản lý nhà

nước về nhà đất đòi quyền sở hữu nhà số 2 Hàng Điếu. Bộ ây dựng đã ban

hành Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 về việc giải quyết khiếu

nại của bà Nguyễn Thị Nhàn, trong đó có phần diện tích gia đình ông Dương

Văn Mầu đang sử dụng tại tầng 1, thuộc sở hữu chung của bà Nguyễn Thị

Nhàn và bà Nguyễn Thị Hay. Việc bà Nhàn xin được công nhận quyền sở hữu

toàn bộ ngôi nhà này phải chờ y ban Thường vụ Quốc Hội ban hành “Nghị

quyết về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước ngoài được xác lập trước

ngày 1/7/1991” mới có cơ sở giải quyết.

Sau khi y ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số

1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 về “Giao dịch dân sự về nhà ở

được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài

tham gia”, ngày 18/4/2011, bà Nguyễn Thị Nhàn và bà Nguyễn Thị Hay có

đơn khởi kiện Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu các thừa kế của

ông Dương Văn Mầu trả lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.

Tại Quyết định dân sự sơ thẩm số 50/2013/QĐST-DS ngày 09/10/2013,

TAND thành phố Hà Nội căn cứ điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS đình ch

giải quyết vụ án dân sự với lý do sự việc đã được giải quyết bằng Bản án

giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán

TANDTC.

ng Hoàng Anh Tuấn được bà Nguyễn Thị Nhàn ủy quyền có đơn kháng

105

cáo Quyết định đình ch giải quyết vụ án dân sự.

Viện trưởng VKSND thành phố Hà Nội kháng nghị Quyết đình ch giải

quyết vụ án dân sự nêu trên theo thủ tục ph c thẩm.

Tại Quyết định ph c thẩm số 16/2014/QĐ-PT ngày 11/2/2014, Tòa Ph c

thẩm TANDTC tại Hà Nội đã hủy Quyết định sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ

án cho TAND thành phố Hà Nội giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

TAND thành phố Hà Nội có Công văn số 1179/2014/CV-TA ngày

14/7/2014 gửi Chánh án TANDTC kiến nghị giám đốc thẩm Quyết định ph c

thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 140/2015/KNTT-DS ngày 19/5/2015, Chánh án

TANDTC đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm Bản án giám đốc thẩm số

73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán TANDTC, đề nghị Hội

đồng Thẩm phán TANDTC xét xử tái thẩm hủy Bản án giám đốc thẩm của y

ban Thẩm phán TANDTC; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét

xử sơ thẩm lại theo đ ng quy định của pháp luật”.

Ngày 23/10/2015, tại trụ sở TANDTC đã mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ

án dân sự “Đòi nhà cho thuê” với Hội đồng tái thẩm gồm có mười một(11)

thành viên tham gia xét xử, đại diện VKSNDTC, Thư ký Tòa án, các đương

sự gồm:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Nhàn, sinh năm 1927; trú tại số 44 Hàng Buồm,

phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội( ng Hoàng Anh

Tuấn đại diện).

Bị đơn: Dương Văn Mầu, sinh năm 1923; trú tại tầng 1, nhà số 2, phố

Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Dương Văn Thục, sinh năm 1955;

106

2.Dương Văn Thực, sinh năm 1956;

Cùng trú tại nhà số 2, phố Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn

Kiếm, thành phố Hà Nội.

Hội đồng tái thẩm xét thấy: “Ngôi nhà số 2 Hàng Điếu thuộc sở hữu của

chị em bà Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Thị Hay do mua chung và đã được

chứng thực đoạn mại ngày 18/8/1954. Sau khi bà Nhàn và bà Hay cho ông

Nguyễn Trọng Khuê ở thuê tầng 2 và 4,5m2 tầng 1; cho ông Nguyễn Văn

Kính thuê tầng 1, cuối năm 1954 ông Kính lại trả lại phần nhà này thì bà

Nhàn cho gia đình ông Dương Văn Mầu vào ở thuê. Cuối năm 1954, bà Hay

di cư vào miền Nam sinh sống đến năm 1981 bà Hay xuất cảnh định cư tại

Canada nên phần diện tích nhà thuộc quyền sở hữu chung của bà Hay với bà

Nhàn tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu thuộc diện nhà v ng chủ. Bà Nhàn khởi

kiện đòi gia đình ông Mầu trả tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Tòa án cấp sơ

thẩm và Tòa án cấp ph c thẩm xử chấp nhận yêu cầu đòi nhà của bà Nhàn,

trong đó có phần nhà v ng chủ của bà Hay) là không đ ng nên tại Bản án

giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994, y Ban Thẩm phán

TANDTC đã quyết định hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25 ngày 05/4/1993 của

TAND thành phố Hà Nội và Bản án dân sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993

của Tòa ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội là có căn cứ, ph hợp với nội dung

Công văn số 366,B D ngày 25/3/1994 của Bộ ây dựng gửi Chủ tịch y ban

nhân dân các t nh, thành phố về nhà v ng chủ, cần giữ nguyên hiện trạng,

chờ chính sách mới của Nhà nước. Tuy nhiên, y ban Thẩm phán TANDTC

lại bác yêu cầu đòi nhà của bà Nhàn là không đ ng quy định tại khoản 4 Điều

77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và không đảm bảo quyền

lợi của bà Nhàn đối với phần quyền sở hữu chung của bà Nhàn với bà Hay tại

tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.

Sau khi có Bản án giám đốc thẩm của y ban Thẩm phán TANDTC, các

107

cơ quan có thẩm quyền của Thành phố Hà Nội đã tiến hành các tục quản lý,

ký hợp đồng cho gia đình ông Mầu thuê tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu. Bà Nhàn

tiếp tục khiếu nại đến UBND thành phố Hà Nội và Bộ xây dựng yêu cầu xin

lại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu.

Tại Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 của Bộ ây dựng về

việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhàn là quyết định giải quyết

khiếu nại cuối c ng) có nội dung xác định toàn bộ nhà số 2 Hàng Điếu thuộc

sở hữu chung của bà Nguyễn Thị Nhàn và Nguyễn Thị Hay; việc bà Nhàn

được công nhận quyền sở hữu toàn bộ ngôi nhà này phải chờ y ban Thường

vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở có yếu tố nước

ngoài được xác lập trước ngày 01/7/1991 mới có cơ sở giải quyết; UBND

thành phố Hà Nội ch đạo thu hồi hợp đồng thuê nhà giữa cơ quan quản lý

nhà nước với ông Dương Văn Mầu tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu giữa cơ

quan quản lý nhà của thành phố với ông Dương Văn Mầu; gia đình ông

Dương Văn Mầu sử dụng diện tích tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu với tư cách

là bên thuê nhà của bà Nhàn và bà Hay; mọi tranh chấp giữa bên thuê và bên

cho thuê giải quyết theo pháp luật dân sự.

Như vậy, Quyết định số 1327/QĐ-B D ngày 09/10/2003 của Bộ ây dựng

đã làm thay đổi nội dung Công văn số 366/B D ngày 25/3/1994 của Bộ ây

dựng gửi Chủ tịch UBND các t nh, thành phố về chính sách của Nhà nước về

nhà v ng chủ đối với nhà số 2 Hàng Điếu của bà Nhàn và bà Hay mà y ban

Thẩm phán TANDTC căn cứ vào đó để giải quyết vụ án này, nên cần thiết

phải hủy Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTB-DS ngày 30/6/1994 của y ban

thẩm phán TANDTC để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.

Do Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban

thẩm phán TANDTC bác yêu cầu của bà Nhàn đòi nhà cho thuê tầng 1 nhà số

2 Hàng Điếu đối với gia đình ông Mầu vẫn đang có hiệu lực nhưng Tòa án

108

nhân dân thành phố Hà Nội đã thụ lý vụ án đòi nhà cho thuê của bà Nhàn, bà

Hay đối với các thừa kế của ông Mầu là không đ ng. L ra, khi ph c thẩm

Quyết định sơ thẩm nêu trên, Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội phải giữ

nguyên Quyết định dân sự sơ thẩm số 50/2013/QĐST-DS ngày 09/10/2013

của TAND thành phố Hà Nội và kiến nghị Chánh án TANDTC kháng nghị tái

thẩm Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 ủa y ban thẩm

phán TANDTC mới đ ng, nhưng lại hủy Quyết định dân sự sơ thẩm để xét xử

sơ thẩm lại vụ án là không đ ng. Tuy nhiên, hiện nay TAND thành phố Hà

Nội đã thụ lý sơ thẩm lại vụ án đòi nhà cho thuê nêu trên, nên không cần

thiếu phải hủy Quyết định ph c thẩm số 16/2014/QĐ-PT ngày 11/2/2014 của

Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà Nội, nhưng khi thụ lý lại vụ án này, TAND

thành phố Hà Nội căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 38 BLTTDS đã được sửa

đổi, bổ sung năm 2011 để nhập thành một vụ án để xét xử sơ thẩm lại theo

đ ng quy định của pháp luật. Vì các l trên, căn cứ khoản 3, khoản 4 điều

291; khoản 3 Điều 297; khoản 4 Điều 305, khoản 2 Điều 309 và Điều 310

BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Q T Đ N

Hủy các bản án, quyết định sau đây: Bản án giám đốc thẩm số

73/UBTP-DS ngày 30/6/1994 của y ban Thẩm phán TANDTC; Bản án dân

sự ph c thẩm số 76 ngày 12/10/1993 của Tòa Ph c thẩm TANDTC tại Hà

Nội; Bản án dân sơ thẩm số 25/DSST ngày 05/4/1993 của TAND thành phố

Hà Nội về vụ án “Đòi nhà cho thuê” tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu giữa

nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nhàn với bị đơn là ông Dương Văn Mầu và những

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo

19 Tuyển tập Các quyết định giám đốc thẩm vụ việc dân sự năm 2015, TANDTC.

đ ng quy định của pháp luật”19.

109

Trong vụ án xét xử theo thủ tục tái thẩm này, chúng ta thấy, người phát

hiện ra quyết định phúc thẩm có vi phạm pháp luật là TAND thành phố Hà

Nội. Do đó, TAND thành phố Hà Nội đã có công văn kiến nghị Chánh án

TANDTC kháng nghị GĐT quyết định phúc thẩm của TANDTC. Sau khi

nhận được công văn, TANDTC và VKSNDTC đã tích cực nghiên cứu đơn,

yêu cầu Tòa phúc thẩm TANDTC chuyển hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ

án, báo cáo Chánh án TANDTC ban hành kháng nghị TT, mở phiên tòa TT để

xét lại bản án có vi phạm pháp luật. Đại diện nguyên đơn và bị đơn dân sự

đều được triệu tập đến Tòa TT để tham gia, được trình bày ý kiến tại phiên

tòa, đưa ra các lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đại

diện VKSNDTC tham gia phiên tòa đồng ý với kháng nghị của TANDTC,

phát biểu quan điểm của VKSNDTC, hỏi các đương sự. HĐXX TT đã lắng

nghe các ý kiến các đương sự, của đại diện VKS, phân tích, đánh giá chứng

cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, kết luận đúng đắn về vụ án, đưa

ra phán quyết có tính thuyết phục cao. Qua quá trình tố tụng, qua phán quyết

hủy các bản án, quyết định: Bản án giám đốc thẩm số 73/UBTP-DS ngày

30/6/1994 của Ủy ban Thẩm phán TANDTC; Bản án dân sự phúc thẩm số 76

ngày 12/10/1993 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; Bản án dân sơ

thẩm số 25/DSST ngày 05/4/1993 của TAND thành phố Hà Nội, giao hồ sơ

vụ án cho TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của

pháp luật, quyền lợi hợp pháp của đương sự là bà Nhàn, bà Hay được bảo

đảm.

Vụ án số 3. Quyết định giám đốc thẩm số: 12/2016/DS-GĐT, ngày

15/6/2016, Vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nội dung: “Tại đơn khởi kiện ngày 22/9/2012, đơn khởi kiện bổ sung

ngày 10/4/2013 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại

diện của nguyên đơn trình bày:

110

Công ty TNHH Uni – President Việt Nam gọi t t là Công ty Uni) là

Công ty 100 vốn Đài Loan có trụ sở đặt tại Việt Nam, là Công ty Uni

chuyên về sản xuất và phân phối thức ăn chăn nuôi thủy sản. Ngày

01/11/2009 Công ty Uni và ông Hung Hsiung Shun quốc tịch Đài Loan, tạm

tr tại Long An, Việt Nam gọi t t là ông Hung) ký hợp đồng lao động với

thời hạn ghi trong hợp đồng là 03 năm từ ngày 01/11/2009 đến ngày

01/11/2012).Công việc chính của ông Hung là phụ trách kinh doanh thức ăn

thủy sản giám đốc bộ phận). Theo nội quy và quyền về phân phối sản phẩm

của Công ty Uni tại nước ngoài. Ngày 25/03/2011 Công ty Uni và ông Hung

chấm dứt hợp đồng lao động.

Đầu năm 2012, Công ty Uniway Marine Products SDN.BHD gọi t t là

Công ty Uniway) là đối tác của Công ty Uni có trụ sở tại Malaysia đã khởi

kiện Công ty Uni ra Tòa án tại Malaysia với lý do Công ty Uni đã vi phạm

hợp đồng độc quyền phân phối sản phẩm tại thị trường Malaysia, khi đó

Công ty Uni mới biết là ông Hung tự ký hợp đồng độc quyền với Công ty

Uniway. Tài liệu thể hiện việc này là bản fax cua ông Hung ngày 02/12/2009

vào thời gian 04h37 ph t) có nội dung Công ty Uni cho Công ty Uniway

được độc quyền phân phối thức ăn cho tôm tại thị trường Malaysia. Việc ông

Hung lén l t ký hợp đồng này trái pháp luật, dẫn đến hậu quả là: Tòa án tại

Malaysia ra phán quyết buộc Công ty Uni phải bồi thường cho Công ty

Uniway số tiền 117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng).

Do đó, Công ty Uni khởi kiện theo yêu cầu ông Hung bồi thường cho

Công ty Uni hai khoản gồm:

Khoản thứ nhất: yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín

số tiền là 20.000.000 đồng do Công ty Uni bị kiện ra Tòa án Malaysia, ảnh

hưởng đến hình ảnh của Công ty Uni tại thị trường Malaysia).

Khoản thứ hai: yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền

111

là 117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng là số tiền mà Công ty

Uni đã phải bồi thường cho Công ty Uniway do vi phạm th a thuận độc

quyền phân phối thức ăn của Công ty Uni với Công ty Uniway theo phán

quyết của Tòa án tại Malaysia).

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện cho nguyên đơn r t lại yêu cầu đối với

khoản thứ nhất.

Bị đơn là ông ung siang hun và người đại diện tr nh bày:

Trong quá trình làm việc tại công ty Uni, ông đã đại diện Công ty ký kết

nhiều giao dịch với Công ty Uniway. Do thời gian đã lâu nên ông không xác

định được thời điểm đó có ký kết giao dịch độc quyền với công ty Uniway hay

không. ng kh ng định không có việc ông fax th a thuận độc quyền ngày

02/12/2009 vào l c 4h 37 ph t giờ Việt Nam) sang Malaysia cho Công ty

Uniway.

Sau khi ông ngh việc thì phía Công ty Uni không có bất cứ khiếu nại nào

đối với ông, không đề cập gì đến hợp đồng độc quyền đã ký tới Công ty

Uniway và việc bồi thường. Do vậy, ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện

của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/D T ngày 14/01/2014, Tòa án

nhân dân t nh ong n quyết định:

Đình ch giải quyết yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President

Việt Nam với ông Hung Hsiang Shun về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun bồi

thường danh dự, uy tín của Công ty TNHH Uni – President Việt Nam với số

tiền 20.000.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President

Việt Nam đối với ông Hung Hsiang Shun về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun

bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH Uni – President Việt Nam số tiền

117.339,6 USD tương đương 2.451.231.764 đồng.

112

Tòa án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các

đương sự.

Ngày 15/01/2014, Công ty TNHH Uni – President Việt Nam có đơn kháng

cáo bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự ph c thẩm số 98/2014/D -PT ngày 25/4/2014, Tòa

Ph c thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố ồ Chí inh đã quyết

định:

Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty TNHH Uni – President

Việt Nam, sửa bản ám sơ thẩm.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Uni – President Việt

Nam về yêu cầu ông Hung Hsiang Shun bồi thường thiệt hại cho Công ty

TNHH Uni – President Việt Nam với số tiền 117.339,6 USD tương đương

2.451.231.764 đồng Việt Nam.

Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo,

kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tòa án cấp ph c thẩm còn quyết định về án phí”.

Ngay sau khi Tòa phúc thẩm quyết định, ngày 22/8/2014, ông Hung

Hsiang Shun có đơn đề nghị xem xét lại thủ tục giám đốc thẩm. Quá trình

xem xét đơn đề nghị GĐT, các Thẩm phán TANDTC đã yêu cầu Tòa Phúc

thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh chuyển toàn bộ hồ

sơ vụ án đến TANDTC để nghiên cứu. Xét thấy bản án phúc thẩm của Tòa án

phúc thẩm đã có những vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự nên Chánh án TANDTC đã ban hành kháng nghị

GĐT đối với bản án nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 257/2015/KN-DS ngày 03/11/2015, Chánh

án TANDTC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm,

hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 98/2014/DS-PT ngày 25/4/2014 của Tòa án

113

Phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số

02/2014/DS ST ngày 14/01/2014 của TAND tỉnh Long An; giao hồ sơ vụ án

cho TAND tỉnh Long An xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 15/6/2016 tại trụ sở TANDTC đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét

xử vụ án “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” với Hội đồng

giám đốc thẩm có 14 (mười bốn) thành viên tham gia xét xử, Đại diện

VKSNDTC, các đương sự tham gia gồm:

Nguyên đơn: Công ty TNHH Uni – President Việt Nam; địa chỉ tại số 16-

18 đường ĐT 743, Khu Công nghiệp Sóng Thần 2, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình

Dương; đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị Ngọc Loan; địa chỉ: Số 1

đường 34, khu phố 5, phường An Phú, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: ng Hung Hsiang Shun, sinh năm 1970; địa chỉ: No. 316, Chen-

Kuang Rd, Tai – Chung City, Taiwan. Tạm trú tại: Công ty TNHH Khoa kỹ

sinh vật Thăng Long, lô A5 khu công nghiệp Đức Hòa 1, xã Đức Hòa Đông,

huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đại diện theo ủy quyền là bà Đặng Thị Kiều

Oanh; địa chỉ: 266/58 Tô Hiến Thành, phường 15, quận 11, thành phố Hồ Chí

Minh.

Hội đồng xét xử GĐT xét thấy: “ngày 01/11/2009 ông Hung ký hợp đồng

lao động với Công ty Uni có thời hạn 03 năm từ ngày 01/11/2009 đến ngày

01/11/2012, công việc là phụ trách kinh doanh thức ăn thủy sản giám độc bộ

phận). Ngày 25/03/2011 hai bên chấm dứt hợp đồng lao đồng. Tháng

04/2012, Công ty Uniway khởi kiện Công ty Uni ra Tòa án tại Malaysia do vi

phạm th a thuận độc quyền phân phối sản phẩm thì Công ty Uni cho rằng

Công ty Uni mới biết là vào ngày 02/12/2009 ông Hung đã tự ký th a thuận

độc quyền với Công ty Uniway. Theo phán quyết của Tòa án tại Malaysia với

việc công nhận th a thuận của hai công ty có nội dung: Công ty Uni phải trả

cho Công ty Uniway số tiền 117.339,93 USD. Dựa vào phán quyết trên của

114

Tòa án Malaysia, Công ty Uni khởi kiện ông Hung bồi thường đ ng với số

tiền mà Công ty Uni phải bồi thường cho Công ty Uniway. Căn cứ để Công ty

Uni khởi kiện yêu cầu ông Hung bồi thường thiệt hại là Bản fax ngày

02/12/2009, phán quyết của Tòa án tại Malaysia và lời trình bày của đại diện

Công ty Uniway trươc Tòa án tại Malaysia là các th a thuận độc quyền được

ký với ông Hung.

ét thầy về hình thức bản fax ngày 02/12/2009 do Công ty Uni xuất trình

ch là bản fax photocopy và Công ty Uni cho rằng ông Hung là người lập, ký

và fax đi l c 4h37 ph t, nhưng Công ty Uni không đưa ra được căn cứ chứng

minh cho lời khai này. ng Hung không thừa nhận lập, ký và fax cho Công ty

Uniway. Theo quy định tại Điều 81, Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự được sửa

đổi, bổ sung năm 2011,điểm a Khoản 2 Điều 3 Nghị Quyết số 04/2012/NQ-

HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì

ch được coi là chứng cứ khi: “các tài liệu đọc được nội dung phải là bản

chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc

bản được d ng làm cơ sở lập ra các bản sao”. Như vậy, bản fax được

photocopy nêu trên không được coi là chứng cứ. Tòa án cấp ph c thẩm căn

cứ vào bản fax này để giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.

ét về nội dung bản fax ngày 02/12/2009: Công ty Uni đồng ý chấp thuận

Công ty Uniway được làm đại lý độc quyền thức ăn nuôi tôm khu vực Tây

Malay từ ngày nay đến 31/12/2011. Ngoài ra: Công ty Uni có quyền tìm kiếm

khách hàng lớn tại khu vực Tây Malay, nhưng giá bán ổn định trong khu vực,

trước khi báo giá khách hàng Công ty Uni s thông báo trước cho Công ty

Uniway. Những khách hàng lớn do Công ty Uni tìm kiếm s không được tính

vào thành tích bán hàng của Công ty Uni. Như vậy, theo nội dung bản fax thể

hiện Công ty Uni đồng ý cho Công ty Uniway được làm đại lý độc quyền thức

115

ăn nuôi tôm khu vực Tây Malaysia từ ngày 02/12/2009 đến 31/12/2011. Tuy

nhiên, trong đơn khởi kiện của của Công ty Uniway kiện Công ty Uni tại Tòa

án Malaysia đòi bồi thường thì Công ty Uniway cho rằng Công ty Uni vi

phạm th a thuận độc quyền phân phối sản phẩm từ năm 2007 đến năm 2011

trong đó có th a thuận ngày 02/12/2009), cụ thể là Công ty Uni vị phạm

th a thuận độc quyền thức ăn cho tôm từ ngày 04/10/2007 đến ngày

31/12/2011 và thức ăn cho cá từ ngày 01/9/2011 đến ngày 31/12/2011. Trong

khi đó, ông Hung làm việc tại Công ty Uni từ ngày 01/9/2011 đến ngày

25/3/2011. Như vậy, thời gian ông Hung làm việc tại Công ty Uni không hoàn

toàn tr ng khớp với khoảng thời gian vi phạm mà Công ty Uniway khởi kiện

Công ty Uni tại toàn án Malaysia. Hơn nữa, theo phán quyết của Tòa án bang

Johorbaru thì thể hiện Công ty Uni và Công ty Uniway nhất trí th a thuận mà

không có sự tham gia của ông Hung.

Tòa án cấp sơ thẩm, ph c thẩm chưa làm r có việc ông Hung ký và fax

đi bản fax ngày 02/12/2009 không mà đã giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ.

Trường hợp ông Hung ký và fax bản th a thuận nêu trên cho Công ty Uniway

thì phải thu thập đầy đủ chứng cứ liên quan đến vụ án Công ty Uniway kiện

Công ty Uni tại Tòa án Malaysia để xác định trách nhiệm bồi thường của ông

Hung tương ứng với thiệt hại và thời gian ông Hung gây ra nếu có).

Vì các l trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật

tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày

29/3/2011).

Q T Đ N :

1.Hủy Bản án dân sự ph c thẩm số 98/2014/DS-PT ngày 25/4/2014 của

Tòa Ph c thẩm Tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh và Bản án

dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS-ST ngày 14/01/2014 của Tòa án nhân dân t nh

Long An xét xử vụ án dân sự về tranh chấp bồi thường thiệt hại giữa nguyên

116

đơn là Công ty TNHH Uni – President Việt Nam với bị đơn là ông Hung

Hsiang Shun.

2.Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân t nh Long An để xét xử sơ thẩm

lại theo quy định của pháp luật”.20

Qua vụ án trên, chúng ta thấy: Trong thời hạn 15 tháng, kể từ ngày bị đơn

có đơn yêu cầu xem xét kháng nghị theo thủ tục GĐT vụ án dân sự, TANDTC

và VKSNDTC đã tích cực nghiên cứu đơn, yêu cầu Tòa phúc thẩm chuyển hồ

sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Chánh án TANDTC ban hành

kháng nghị GĐT, mở phiên tòa GĐT để xét lại bản án có vi phạm pháp luật.

Đại diện nguyên đơn và bị đơn dân sự đều được triệu tập đến Tòa GĐT để

tham gia, được trình bày ý kiến tại phiên tòa, đưa ra các lập luận để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đại diện VKSNDTC tham gia phiên tòa

đồng ý với kháng nghị của TANDTC, phát biểu quan điểm của VKSNDTC,

hỏi các đương sự. HĐXX GĐT đã lắng nghe các ý kiến các đương sự, VKS,

phân tích, đánh giá chứng cứ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, kết

luận đúng đắn về vụ án, đưa ra phán quyết có tính thuyết phục cao. Qua quá

trình tố tụng, qua phán quyết hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm, giao hồ sơ vụ

án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của

pháp luật, quyền lợi hợp pháp của đương sự là bị đơn Hung Hsiang Shun

được bảo đảm.

Việc dân sự số 4. Quyết định GĐT số 13/2013/KDTM-GĐT ngày

16/5/2013 của HĐTP-TANDTC về yêu cầu hủy Nghị quyết của Hội đồng cổ

đông [10].

Nội dung: “ Theo đơn yêu cầu đề ngày 20/6/2011 của bà Vương Ngọc

Lan, ông Nguyễn Đình Minh và ông B i Văn Hiệp( là cổ đông của Công ty cổ

20 Tuyển tập các quyết định GĐT,TT vụ việc dân sự năm 2016 của TANDTC.

phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh- sau đây gọi t t là công ti BICICO)đề

117

nghị TAND thành phố Hồ Chí Minh xem xét hủy b “ Nghị quyết Đại hội

đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ- NQ ngày 24/5/2011 của Công ty cổ

phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh” và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ

sơ vụ việc thì thấy:

Công ty BICICO được Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh cấp

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103002318 lần đầu ngày 7/5/2004,

có vốn điều lệ là 16.335.000.000.000 đồng, tương ứng với 1.633.500 cổ phần,

trong đó có 51 vốn nhà nước do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam làm đại diện

sở hữu 833.060 cổ phần do ông Đặng Hồng Hải, ông Ngô Mạnh Hoài và ông

Lê Thành Phương làm đại diện, còn lại là các cổ đông khác trong đó có bà

Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh, ông B i văn Hiệp; người đại diện

theo pháp luật là ông Đặng Hồng Hải-Giám đốc công ty.

Theo điều lệ công ty BICICO thì Hội đồng quản trị có 5 người và Ban

kiểm soát có 3 người. Tuy nhiên, ngày 30/8/2010 bà Lê Thị Thái Hường –

Trưởng Ban kiểm soát có đơn xin từ chức. Tiếp đó, ngày 15/09/2010 ông B i

Ngô Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị c ng có đơn xin từ chức. Ngày

11/11/2010, hai thành viên Hội đồng quản trị là ông Đặng Hồng Hải và bà

Lại Thị Nhung có văn bản gửi ông Nguyễn Đình Minh và bà Vương Ngọc Lan

là thành viên Hội đồng quản trị đề nghị họp Hội đồng quản trị vào ngày

17/11/2010 để bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị mới; nhưng cuộc họp này

không tiến hành được vì ông Minh v ng mặt còn bà Lan có mặt tại công ty

nhưng không tham dự được(BL 179). Ông Hải, bà Nhung và các cán bộ quản

lý đề nghị tổ chức lại cuộc họp Hội đồng quản trị vào 8h ngày 22/11/2010;

nhưng cuộc họp này c ng không tiến hành được vì ông Minh vẫn v ng mặt

còn bà Lan có mặt tại công ty nhưng không tham dự.

Ngày 23/12/2010, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có công văn số

1134/HCVN-TCNS gửi Hội đồng quản trị công ty BICICO yêu cầu triệu tập

118

cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường để lựa chọn công ty kiểm toán,

bầu bổ sung một thành viên Hội đồng quản trị, một thành viên Ban kiểm soát;

nhưng Hội đồng quản trị công ty BICICO không thực hiện.

Ngày 26/1/2011,Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có công văn số 56-

HCVN-TCNS yêu cầu Ban kiểm soát của công ty BICICO triệu tập cuộc họp

Đại hội đồng cổ đông bất thường với nội dung như công văn số 1134/HCVN-

TCNS nêu trên. Ngày 10/2/2011, bà Lưu Thị Ánh, thành viên Ban Kiểm soát

có văn bản gửi Tập đoàn Hóa chất Việt Nam có nội dung: Ban Kiểm soát

không thể họp để thống nhất cuộc họp bất thường theo yêu cầu của Tập đoàn

Hóa chất Việt Nam.

Do Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát công ty BICICO không thực hiện

được yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường của Tập đoàn

Hóa chất Việt Nam nên Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã tự đứng ra triệu tập

họp Đại hội đồng cổ đông bất thường công ty BICICO. Thông báo mời họp

ngày 7/4/2011 do ông Nguyễn Gia Tường-Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa

chất Việt Nam ký thừa ủy quyền của Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt

Nam gửi cho các cổ đông tham dự họp Đại hội đồng cổ đông bất thường vào

ngày 25/4/1011. Do tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày

25/4/2011 ch có 25 cổ đông và đại diện ủy quyền của cổ đông đến dự tương

ứng với số cổ phần có quyền biểu quyết là 1.018.860 cổ phần (chiếm 62,37%

vốn điều lệ) nên không đủ điều kiện để tiến hành Đại hội được. Ngày

14/5/2011, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tiếp tục có thông báo mời họp lần

thứ 2 số 449/TB-HCVN gửi các cổ đông tham dự họp Đại hội đồng cổ đông

bất thường công ty BICICO vào hồi 8h 30 phút ngày 25/04/011. Ngày

25/4/2011, công ty BICICO đã tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất

thường với tổng số cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông dự họp là

35 người, sở hữu 1.600.490 cổ phần có quyền biểu quyết, chiếm 97,98% tổng

119

số cổ phần có quyền biểu quyết và đã thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ

đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 25/4/2011 với 3 nội dung:

1. Bầu ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị công ty.

2. Bầu ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát công ty.

3. Không thông qua lựa chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán báo cáo tài

chính năm 2010.

Ngày 26/11/2011, bà Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh và ông B i

Văn Hiệp có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy Nghị

quyết Đại hội đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/5/2011

của Công ty BICICO với các lý do:

1) Trình tự và thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông không đ ng theo quy

định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty, cụ thể là công văn số

56/HCVN-TCNS ngày 16/1/2011 của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu

Ban Kiểm soát công ty triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường do ông Ngô

Mạnh Hoài, Phó Tổng Giám đốc ký và thông báo mời họp Đại hội đồng cổ

đông bất thường số 298/TB-HCVN ngày 25/4/2011 và số 449/TB-HCVN ngày

14/5/2011 do ông Nguyễn Gia Tường, Phó Tổng Giám đốc của Tập đoàn Hóa

chất Việt Nam ký mà không có ủy quyền của Tổng Giám đốc Nguyễn Đình

Khang, người đại diện theo pháp luật của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là

chưa thực hiện theo đ ng quy định của pháp luật về việc ủy quyền được quy

định tại Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005.

2) Ngày 10/4/2011, nhóm cổ đông n m giữ 17,9% tổng số cổ phần có

quyền biểu quyết, gồm ông Nguyễn Đình Minh, ông B i Văn Hiệp, ông Võ

Ngọc Các, ông Nguyễn Minh Trí, bà Tô Thị Tuyết Trinh, bà Phạm Ngọc Diệu,

ông Vương Chí Thiệp, ông Phan Văn Th ng đã có các văn bản gửi đến Tập

đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu bổ sung, sửa đổi Quy chế làm việc và nội

dung họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày 25/4/2011. Tuy nhiên, Tập

120

đoàn Hóa chất Việt Nam, người triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất

thường đã từ chối kiến nghị của nhóm cổ đông nói trên mà không có bất k lý

do chính đáng nào là vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều

99 Luật doanh nghiệp và khoản 4, 5 Điều 16 Điều lệ công ty BICICO.

3) Việc bầu Ban kiểm phiếu: Chủ tọa cuộc họp để Đại hội thông qua việc

bầu Ban kiểm phiếu ch được 62,83% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các

cổ đông được thông qua tại Hội nghị là vi phạm Khoản 3 Điều 104 Luật

doanh nghiệp; theo đó, quyết định của Đại hội đồng cổ đông được thông qua

tại cuộc họp khi có điều kiện được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số

phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận. Nhưng quyết định

của Đại hội đồng cổ đông bầu 1 thành viên Hội đồng quản trị và 1 thành viên

Ban Kiểm soát ch đạt 62, 83% là vi phạm quy định của Luật doanh nghiệp.

Người liên quan-Công ty BICICO trình bày: Không đồng ý với 3 yêu cầu

nêu trên của bên yêu cầu với lý do: Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội

đồng cổ đông bất thường của công ty do Tập đoàn Hóa chất Việt Nam thực

hiện đ ng theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Việc ông

Ngô Mạnh Hoài và ông Nguyễn Gia Tường – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn

Hóa chất Việt Nam ký các giấy triệu tập là thực hiện sự ủy quyền của Tổng

Giám đốc tập đoàn theo quyết định số 103 ngày 24/03/2011. Việc nhóm cổ

đông n m giữ 17.9% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết có văn bản gửi đến

Tập đoàn Hóa chất Việt Nam yêu cầu bổ sung, sửa đổi nội dung chương trình

họp Đại hội đồng cổ đông; tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường chủ

tọa cuộc họp không chấp nhận nên không đưa vào chương trình cuộc họp.

Việc bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị và thành viên Ban Kiểm

soát công ty BICICO với kết quả đạt 62.83% tổng số phiếu biểu quyết là phù

hợp với quy định tại điểm Điểm c Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp và

khoản 4 Điều 29 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ

121

hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh Nghiệp.

Đại diện Tập đoàn Hóa chất Việt Nam thống nhất với ý kiến của Công Ty

BICICO đã trình bày.

Tại Quyết định giải quyết việc dân sự số 1998/2011/QDST-KDTM ngày

18/11/2011, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự của bà Vương Ngọc Lan , ông

Nguyễn Đình Minh và ông B i Văn Hiệp.

Hủy Nghị quyết số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/05/2011 của Công ty cổ phần

công nghiệp Hóa chất và Vi sinh.

Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lệ phí giải quyết việc dân

sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 22/11/2011, Công ty Cổ phần Công nghiệp Hóa Chất và Vi sinh có

đơn kháng cáo.

Ngày 25/11/2011 ông Lê Minh Th ng, đại diện theo ủy quyền của những

người liên quan là ông Nguyễn Gia Tường và Tập đoàn Hóa Chất VIệt Nam

có đơn kháng cáo.

Tại quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải quyết việc

dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân

tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự số 1998/2011/QĐST-KDTM

ngày 18/11/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 15/06/2012 Công ty cổ phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh có đơn

đề nghị xem xét lại quyết định giải quyết việc kháng cáo số 152/2012/QĐ-PT

ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố

Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm”.

Căn cứ theo đơn đề nghị xem xét lại vụ việc dân sự theo thủ tục giám đốc

122

thẩm của Công ty BICICO, các Thẩm phán TANDTC đã nghiên cứu hồ sơ vụ

việc, xác định những vi phạm của Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm trong việc ban

hành quyết định giải quyết việc dân sự, báo cáo Chánh án TANDTC kháng

nghị giám đốc thẩm.

Tại quyết định số 30/2012/KDTM-KN ngày 03.10.2012, Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao kháng nghị quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với

Quyết định giải quyết việc dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy quyết

định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải quyết việc dân sự số

152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối

cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ việc cho Tòa phúc thẩm Tòa án

nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo đúng quy

định của pháp luật.

Ngày 16/5/2013, tại trụ sở TANDTC, đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét

xử vụ việc kinh doanh, thương mại về yêu cầu hủy Nghị quyết Đại hội đồng

cổ đông. Tòa án đã triệu tập những đương sự sau đây đến phiên tòa:

- Bên yêu cầu: Bà Vương Ngọc Lan, ông Nguyễn Đình Minh, ông Bùi

Văn Hiệp;

- Bên liên quan: Bà Lại Thị Nhung làm Đại diện của Công ty BICICO;

ông Lê Minh Thắng, làm Đại diện của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện VKSNDTC đề nghị Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án tòa án nhân

dân tối cao hủy quyết định phúc thẩm nếu trên giao hồ sơ vụ việc cho Tòa

phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo

quy định của pháp luật. Sau khi nghe ý kiến của Đại diện VKS, trình bày của

các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

123

“1. Về tố tụng: Theo quy định tại Điều 311 Bộ Luật tố tụng dân sự đã

được sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì “ việc dân sự là việc cá nhân, cơ

quan,tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu tòa án công nhận hoặc

không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ

dân sự , hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình

hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, yêu cầu Tòa án công nhận cho

mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động”. Trong vụ việc cụ thể này , các đương sự căn cứ quy định tại điều 107

Luật Doanh Nghiệp năm 2005; Điều 22 Điều lệ công ty BICICO yêu cầu Tòa

án tuyên hủy Nghị quyết số 01/ĐHĐCQQ-NQ ngày 24/05/2011 của Đại Hội

đồng cổ đông Công ty BICICO; vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp

phúc thẩm xác định yêu cầu hủy Nghị quyết Đại Hội đồng cổ đông của Công

ty cổ phần công nghiệp Hóa chất và Vi sinh là vụ việc kinh doanh, thương

mại là đ ng theo quy định tại Khoản 4, Điều 30, Điều 311 Bộ luật tố tụng dân

sự và Điều 107 luật Doanh Nghiệp năm 2005.

2. Về nội dung: do Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Cổ phần công

nghiệp Hóa chất và Vi sinh là ông B i Ngô Quang có đơn xin từ chức ngày

15/09/2010 và Trưởng Ban kiểm soát của Công ty là bà Lê Thị Thái Hường

có đơn xin từ chức ngày 30/08/2010 nên từ tháng 09 năm 2010 Công ty

BICICO không có Chủ tịch Hội đồng quản trị và Trưởng Ban kiểm soát công

ty. Do vậy, 2 thành viên Hội đồng quản trị công ty là ông Đặng Hồng Hải và

bà Lại Thị Nhung đã 2 lần đề nghị ông Nguyễn Đình Minh và bà Vương Ngọc

Lan là các thành viên Hội đồng quản trị công ty họp Hội đồng quản trị vào

ngày 22/11/2010 để bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị mới , nhưng đề nghị của

ông Hải và bà Nhung không thực hiện được vì ông Minh v ng mặt còn bà Lan

tuy có mặt tại công ty nhưng không tham dự ( BL 197). Trước tình hình đó

ngày 23/10/2010 Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (cổ đông n m giữ tổng số

833.060 cổ phần, chiếm 51% vốn điều lệ của công ty BICICO) căn cứ vào các

124

Khoản 3 và 4 Điều 10 Điều lệ Công ty BICICO có công văn số 1134/HCVN-

TCNS gửi Hội đồng quản trị công ty BICICO yêu cầu triệu tập cuộc họp Đại

hội đồng cổ đông bất thường để lựa chọn công ty kiểm toán bầu bổ sung 1

thành viên Hội đồng quản trị và 1 thành viên Ban kiểm soát nhưng Hội đồng

quản trị BICICO không thực hiện. Ngày 26/01/2011, Tập đoàn Hóa chất Việt

Nam tiếp tục có công văn số 56/HCNV-TCNS yêu cầu ban Ban Kiểm soát của

công ty BICICO triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, nhưng

Ban Kiểm soát của Công ty không thực hiện được.

Do Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát công ty BICICO không thực

hiện yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường của Tập đoàn

Hóa chất Việt Nam theo quy định tại Điểm c Khoản 3 (Hội đồng quản trị phải

triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây

: c, Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại Khoản 2 Điều

79 của luật này ) và quy định tại Khoản 5 Điều 97 luật Doanh Nghiệp năm

2005 trường hợp Hội đồng quản trị không triệu tập họp Đại hội đồng cổ

đông theo quy định tại Khoản 4 điều 97 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì

trong thời hạn 30 ngày tiếp theo Ban Kiểm soát thay thế Hội đồng quản trị

triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này), nên Tập

đoàn Hóa chất Việt Nam đã đứng ra triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất

thường Công ty BICICO là đ ng theo quy định tại Khoản 6 Điều 97 Luật

Doanh nghiệp năm 2005 và Khoản 4 Điều 12 Điều lệ Công ty BICICO.

Việc ông Nguyễn Gia Tường – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa chất

Việt Nam thừa ủy quyền của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam ký thông báo mời

họp Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO bất thường số 298/TB-HCVN

ngày 07/04/2011 và số 49/TB-HCVN ngày 14/05/2011 là đ ng thẩm quyền

được quy định tại Quyết định số 103/QĐ-HCVN ngày 24/03/2011 của Tổng

giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.

125

Việc mời họp Đại hội đồng cổ đông bất thường lần 2 vào ngày

24/05/2011 được thực hiện theo đ ng quy định tại Điều 100 Luật Doanh

nghiệp năm 2005 và quy định tại Khoản 2, 3 Điều 16 Điều lệ Công Ty

BICICO.

Do cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường được triệu tập lần 1 vào

ngày 25/04/2011 không tiến hành được do không đủ số cổ đông dự họp theo

quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty BICICO nên ngày

24/05/2011, Công ty BICICO đã tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông bất

thường lần 2 với tổng số cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông dự

họp (tại thời điểm khai mạc) là 35 người, sở hữu và đại diện sở hữu

1.600.490 cổ phần có quyền biểu quyết, chiếm 97,78 % tổng số cổ phần có

quyền biểu quyết theo Điều lệ công ty BICICO (sau thời điểm khai mạc cuộc

họp có thêm 3 cổ đông và đại diện theo ủy quyền của cổ đông đăng ký tham

dự cuộc họp, sở hữu và đại diện sở hữu 21.200 cổ phần). Như vậy, tổng số cổ

đông và đại diện ủy quyền của cổ đông tham dự cuộc họp là 38 người, sở hữu

và đại diện sở hữu 1.621.690 cổ phần) là phù hợp với quy định tại Khoản 2

Điều 102 Luật Doanh nghiệp năm 2005 và quy định tại Khoản 2 Điều 17

Điều lệ Công ty BICICO.

Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO họp ngày 24/05/2011 đã tiến

hành bầu bổ sung ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị với số phiếu là

1.018.850/ 1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% tổng số cổ phần; bầu bổ sung

ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát của công ty với số phiếu là

1.018.850/1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% tổng số cổ phần và b phiểu

về việc chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 với

số phiếu là 1.018.850/1.621.690 cổ phần, đạt tỷ lệ 62,83% 62,83% tổng số cổ

phần. Theo quy định tại điểm c, khoản 3 điều 104 Luật Doanh Nghiệp năm

2005 thì “việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát

126

phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu...” và theo quy định tại

Khoản 4 Điều 29 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính

phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì: “

Người trúng cử thành viên Hội đồng quản trị hoặc thành viên Ban Kiểm soát

được xác định theo số phiếu bầu tính từ cao xuống thấp, b t đầu từ ứng cử

viên có số phiếu bầu cao nhất cho đến khi đủ số thành viên quy định tại điều

lệ Công ty”. Vì vậy, việc ông Trịnh Anh Tuấn trúng cử thành viên Hội đồng

quản trị và ông Hà Thanh Sơn tr ng cử thành viên Ban Kiểm soát công ty

BICICO là phù hợp với quy định của pháp luật nêu trên.

Đại hội đồng cổ đông Công ty BICICO thông qua Nghị quyết Đại hội

đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQQ ngày 24/05/2011 với 3 nội

dụng:

1. Bầu ông Trịnh Anh Tuấn vào hội đồng quản trị Công ty;

2. Bầu ông Hà Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát Công ty.

3. Không thông qua lựa chọn Công ty kiểm toán để kiểm toán

báo cáo tài chính năm 2010.

Nghị quết Đại hội đồng cổ đông bất thường này được thông qua với tỷ

lệ 1.018.850/1.621.690 cổ phần có quyền biểu quyết tại đại hội = 62,83% về

việc bầu bổ sung ông Trịnh Anh Tuấn vào Hội đồng quản trị và ông Hà

Thanh Sơn vào Ban Kiểm soát là những người có số phiểu bầu cao nhất là

hợp lệ, phù hợp với quy định tại Điểm c, Khoản 3 Điều 104 Luật Doanh

nghiệp và hướng dẫn tại Khoản 4 Điều 29 Nghị định số 102/2010NĐ-CP

ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của

Luật Doanh nghiệp, phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 53 Điều lệ Công ty

BICICO.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm hủy b Nghị quyết đại

hội đồng cổ đông bất thường số 01/ĐHĐCĐ-NQ ngày 24/05/2011 của Công

127

ty BICICO là không đ ng pháp luật.

Vì các l trên, căn cứ vào Khoản 3 Điều 297; Khoản 2 Điều 99 Bộ luật

Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2011);

QUY T Đ NH

1. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định giải

quyết việc dân sự số 152/2012/QĐ-PT ngày 07/05/2012 của Tòa phúc thẩm

Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

2. Giao hồ sơ vụ việc cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại

21 Quyết định GĐT số 13/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 của HĐTP-TANDTC về yêu cầu hủy Nghị

quyết của Hội đồng cổ đông; Tạp chí Tòa án số 2, Kỳ II, tháng 1 năm 2014, tr. 43.

thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo đ ng quy định của pháp luật”21.