VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO NGỌC HÀI

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA

TÒA AN NHÂN DÂN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO NGỌC HÀI

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành:Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.

Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất

kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ

NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................... 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và thành phần của đương sự trong

pháp luật tố tụng dân sự ............................................................................ 6

1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố

tụng dân sự .............................................................................................. 16

1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong tố tụng dân sự................................................................................. 20

1.4. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự ... 21

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ

TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 26

2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong

tố tụng dân sự .......................................................................................... 26

2.2. Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự ....................... 58

2.3. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật

tố tụng dân sự Việt Nam trong xét sử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tình

Thái Nguyên ............................................................................................. 59

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH

PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA

ĐƯƠNG SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN ......... 69

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam .............................................. 69

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự

trong Tố tụng dân sự Việt Nam và nâng cao khả năng thực hiện tại

Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên ......................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BPKCTT : Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HĐTP : Hội đồng thẩm phán

HĐXX : Hội đồng xét xử

QHPL : Quan hệ pháp luật

TA: Tòa án

TAND : Toà án nhân dân

TTDS : Tố tụng dân sự

VADS : Vụ án dân sự

VDS : Việc dân sự

VVDS: Vụ việc dân sự

VKS : Viện kiểm sát

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan, đương sự là một chủ thể đặc biệt quan trong trong TTDS và có mối

quan hệ chặt chẽ với TA, là trung tâm của hoạt động tố tụng. Có thể khẳng định rằng

không có đương sự thì không có vụ án, việc dân sự. Việc ghi nhận cũng như thực hiện

đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình tố tụng sẽ giúp xác định những

mối quan hệ cơ bản trong quá trình tố tụng, địa vị pháp lý của từng đương sự, đảm bảo cho

việc giải quyết VVDS được tiến hành đúng theo trình tự và giải quyết đúng đắn vụ việc.

Mục đích của việc thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự là để bảo vệ

các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quyền, lợi ích hợp pháp đương sự

được bảo vệ trong tố tụng dân sự là các quyền, lợi ích đã được Nhà nước thừa nhận.

Để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong các

quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế hội nhập

kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn

bản pháp luật về tố tụng dân sự như: Bộ luật TTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm

2011), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải

quyết vụ án tại TA cấp sơ thẩm” của Bộ luật TTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTDS…

Kế thừa, phát triển và pháp điển hóa những quy định của văn bản pháp luật tố

tụng dân sự trước đây, Bộ luật TTDS năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp

thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015. Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về đương sự và

các quyền, nghĩa vụ của đương sự tại Mục 1 Chương VI (từ điều 68 đến Điều 74).

Các quy định trong Bộ luật này đã khắc phục hầu hết những hạn chế, bất cập của các

quy định về đương sự trong VVDS và các văn bản pháp luật trước đó. Tuy nhiên, một

số các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Bộ luật TTDS năm 2015

vẫn còn chưa đầy đủ, thiếu cụ thể... cần được nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện,

tạo điều kiện cho việc giải quyết các VVDS của TA được nhanh chóng và chính xác.

Tỉnh Thái nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của

trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung

du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong thời gian qua, số lượng vụ, việc dân sự

mà các TA trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thụ lý và giải quyết tương cao và không ngừng

tăng lên qua các năm. Trong giai đoạn 2016 – 2018 tổng số VVDS mà TA thụ lý là

1

12065 vụ, trong đó TA đã giải quyết được 10620 vụ, chiếm 88,02% [xem Phụ lục 1].

Quá trình giải quyết các VVDS, về cơ bản TA đã đảm bảo cho mọi công dân thực hiện

đầy đủ các quyền mà pháp luật quy định, như đảm bảo sự có mặt tại phiên tòa, quyền cung

cấp chứng cứ, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền tranh luận tại

phiên tòa... Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên vẫn

còn một số hạn chế, thiếu sót như: Tóa án xác định không đúng thành phần đương sự dẫn

đến ảnh hưởng tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự; vẫn còn tình trạng

TA không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện không đúng, xâm phạm tới quyền khởi kiện vụ

án, quyền yêu cầu giải quyết VDS của đương sự… Kết quả giải quyết các VVDS của TA

vẫn còn nhiều trường hợp bản án, quyết định của TA cấp dưới bị cấp trên sửa án, hủy án

do vi phạm tố tụng. Các VVDS phải giải quyết lại nhiều lần làm lãng phí về thời gian, tiền

bạc, gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Do đó, để góp phần làm rõ các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về

quyền và nghĩa vụ của đương sự, tìm ra những điểm còn hạn chế, thiếu sót nhằm đề

xuất các giải pháp hoàn thiện và đồng thời đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao

khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại TAND tỉnh Thái

Nguyên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật

Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của TA nhân dân tại tỉnh Thái

Nguyên” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Những năm gần đây, khoa học về luật TTDS đã được nhiều tác giả quan tâm

nghiên cứu. Liên quan tới đề tài luận văn thạc sĩ “Quyền và nghĩa vụ của đương sự

theo pháp luật TTDS từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của TA nhân dân tỉnh Thái Nguyên”

có một số công trình tiêu biểu mà tác giả luận văn tiếp cận được như sau:

- Về sách:

+ Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự

năm 2015, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam.

+ Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử, Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.

+ TS.Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề pháp luật TTDS và

thực tiễn áp dụng, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam.

- Về bài báo khoa học:

Trần Anh Tuấn (2008), Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng,

bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 23 (tháng 12 năm 2008); Nguyễn Việt Cường

(2005), Người tham gia TTDS, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 8 (tháng 4

2

năm 2005); Nguyễn Thái Phúc (2005), Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Bộ

luật TTDS 2004, bài báo khoa học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10 năm 2005; Từ

Văn Thiết (2006), Người mù không có người đại diện có quyền khởi kiện dân sự?, bài

báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số 18 (tháng 9 năm 2006); Tưởng Duy Lượng

(2007), Những khó khăn và vướng mắc trong việc xác định người tham gia TTDS và kiến

nghị, bài báo khoa học, Tạp chí Kiểm sát số 13 (tháng 7 năm 2007); Nguyễn Thị Hạnh

(2011), Một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân

sự, bài báo khoa học, Tạp chí TA nhân dân số số 3 (tháng 2 năm 2011).

- Về luận văn thạc sĩ:

+ Nguyễn Phương Hạnh (2004), Quyền tự định đoạt của đương sự theo quy

định của bộ luật TTDS việt nam năm 2004, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc

gia Hà Nội.

+ Đinh Quốc Trí (2012), Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng

minh trong TTDS, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

+ Hoàn Thị Tuyết (2015), Đương sự theo pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành,

luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các công trình nghiên cứu trên đề cập tới các vấn đề về đương sự và một số

khía cạnh về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, mỗi công trình

nghiên cứu, mỗi bài viết lại nhìn nhận ở một góc độ khác nhau, mang tính riêng lẻ

trong vấn đề nghiên cứu về đương sự trong tố tụng dân sự. Chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong

TTDS nói chung, trong thực tiễn xét xử sơ thẩm và của TA nhân dân tỉnh Thái

Nguyên nói riêng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là nhằm đưa ra giải pháp hoàn

thiện pháp luật cũng như nâng cao khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong TTDS tại TAND tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể

sau đây:

- Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức những vấn đề lý

luận về về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam như làm rõ khái

niệm, đặc điểm, vai trò của đương sự trong TTDS; pháp luật về quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong TTDS

3

- Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và

nghĩa vụ của đương sự.

- Đánh giá thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự qua thực tiễn xét

xử sơ thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn

chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót.

- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong TTDS Việt Nam hiện nay

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và

nghĩa vụ của đương sự và thực tiễn đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong xét xử sơ thẩm tại tỉnh Thái Nguyên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật TTDS hiện hành.

- Thực tiễn đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ

thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 - 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứudựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà

nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Tố tụng dân sự Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

sau đây:

- Phương pháp phân tích tài liệu:

+ Sử dụng để nghiên cứu, đánh giá các công trình, tài liệu nhằm thống nhất nhận

thức những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam.

+ Sử dụng để nghiên cứu, đánh giá, xử lý hệ thống các văn bản pháp luật quy

định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.

- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh số liệu thống kê: Sử

dụng để điều tra, khảo sát thực tế; thống kê, nghiên cứu, đánh giá và xử lý các số liệu

phản ánh về việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử

sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên.

4

- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Sử dụng để khảo sát và nghiên cứu, đánh giá

những kết quả, tài liệu thu thập từ thực tiễn đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong xét xử sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên.

- Phương pháp điều tra điển hình: Sử dụng để thu thập thông tin và đánh giá

một số VVDS cụ thể, điển hình, đánh giá kết quả đảm bảo thực hiện các quyền và

nghĩa vụ của đương sự trong xét xử sơ thẩm các VVDS của TAND tỉnh Thái Nguyên.

- Phương pháp chuyên gia: Sử dụng để tham khảo ý kiến của các cán bộ thực

tiễn, các chuyên gia nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong TTDS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Ý nghĩa lý luận: góp phần làm rõ cơ sở lý luận và các quy định pháp

luật Việt Nam hiện hành về Quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật Tố

tụng dân sự

Ý nghĩa thực tiễn: Là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các bạn học

viên nghiên cứu về vấn đề này, đồng thời cũng là tài liệu có giá trị tham khảo

đối với các cơ quan lập pháp, thi hành pháp luật.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn được chia làm ba chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong tố tụng dân sự

Chương 2. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố

tụng dân sự Việt Nam

Chương 3. Thực tiễn, phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao khả năng

thực hiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự

của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ

CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và thành phần của đương sự trong pháp

luật tố tụng dân sự

1.1.1. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự

Theo Từ điển tiếng Việt thì: “Đương sự là người, là đối tượng trong một vụ việc

nào đó được đưa ra giải quyết ” [93, tr.346]. Như vậy, theo nghĩa này đương sự là

con người cụ thể, là đối tượng của bất kỳ một vụ việc nào đó được cơ quan có thẩm

quyền đưa ra giải quyết căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật. Và có thể thấy chủ thể là

cá nhân, là con người cụ thể đóng vai trò quan trọng để hình thành khái niệm đương

sự. Tuy nhiên, định nghĩa trên chưa thể hiện rõ nhóm chủ thể trong thực tế có thể

được công nhận có tư cách đương sự, đó là pháp nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ

thể khác.

Cũng tương tự như Từ điển tiếng Việt, Từ điển Luật học đã đưa ra khái niệm về

đương sự như sau: “Đương sự là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một

việc khiếu nại, hoặc một vụ án. Trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì đương

sự bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền, nghĩa vụ có liên quan” [58,

tr.165]. Trong từ điển Luật học nước ngoàiBlack’s Law Dictionnary, “đương sự”

được định nghĩa là “người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện” [94, tr.515].

Các định nghĩa này một lần nữa cho rằng đương sự là con người cụ thể, là cá nhân mà

không có chủ thể là pháp nhân, tổ chức.

Một quan điểm khác cho rằng: Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham

gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công

cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên

quan đến VVDS.

Từ các quan điểm trên thấy rằng, mặc dù chưa xác định rõ nhóm chủ thể trong

thực tế có thể được công nhận có tư cách đương sự trong TTDS nhưng về cơ bản đều

xác định đương sự trong TTDS phải là những “người” tham gia vào quá trình giải

quyết vụ án, việc dân sự vì có quyền, nghĩa vụ được giải quyết.

Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư

pháp) thì đương sự được giải thích như sau: “Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với

6

tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện

về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người

tham gia TTDS đó bao gồm đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ

quyền lợi của đương sự, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung,

VKS, người làm chứng, người phiên dịch” [86, tr.278]. Ở khái niệm này, đã làm rõ

hơn một bước về thành phần đương sự trong TTDS. Theo đó, đương sự được xác

định là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân

sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động và bao gồm nguyên đơn

hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, quan niệm này

lại chỉ xác định đương sự trong phạm vi gắn với vụ kiện về dân sự, tức là đương sự

trong vụ án dân sự.

Cũng có quan điểm khác lại cho rằng: Đương sự chỉ bao gồm nguyên đơn, bị

đơn trong vụ án dân sự, còn người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - chủ thể đặc

biệt trong TTDS không phải là đương sự, không nằm trong khái niệm đương sự.

Qua nghiên cứu cho thấy khái niệm đương sự phản ánh mối quan hệ giữa họ với

các chủ thể khác trong TTDS. Họ vừa là chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS vừa là

chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung được TA xem xét, giải quyết trong VVDS.

Nếu quan niệm thành phần đương sự chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ án

dân sự thì một số người có quyền, lợi ích liên quan đến VVDS, được xem xét trong

VVDS như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự, người yêu cầu,

người bị yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự sẽ

không được coi là đương sự và không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Do đó đương sự trong một vụ việc phải bao gồm tất cả những người có quyền, nghĩa

vụ được xem xét trong vụ việc đó. Vì vậy, thành phần đương sự cần phải được hiểu

rộng hơn không chỉ nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ

án dân sự mà còn bao gồm cả những người khác có quyền, lợi ích được TA xem xét

trong việc dân sự.

Các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước Bộ luật TTDS năm 2015 không có

quy định về đương sự trong việc dân sự mà chỉ quy định đương sự trong vụ án dân

sự. Cụ thể tại Khoản 1 Điều 56 BLTTDS năm 2004 quy định: “Đương sự trong vụ án

dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,

7

nghĩa vụ liên quan”. Mặc dù tại Điều 311 BLTTDS năm 2004 có quy định: “Toà án

áp dụng những quy đinh của Chương này, đồng thời áp dụng những quy đinh khác

của Bộ luật này không trái với những quy đinh của Chương này để giải quyết những

việc dân sự quy đinh tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7 và 8 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5

và 7 Điều 28, khoản 1 và 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 của Bộ luật này”. Tuy nhiên, do

quy định về đương sự trong việc dân sự chưa được luật hoá, vì vậy, từ thực tiễn xét

xử, giải quyết đã tồn tại những quan điểm khác nhau về đương sự trong việc dân sự,

gây lúng túng cho quá trình giải quyết vụ việc.

Khắc phục những hạn chế, tồn tại trong các quy định pháp luật TTDS và trong

thực tiễn giải quyết các VVDS, Bộ luật TTDS năm 2015 đã luật hóa toàn bộ quy định

đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong VVDS tại Khoản 1 Điều 68. Cụ thể,

Khoản 1 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định:

“Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu

cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”

Như vậy, tuy không đưa ra khái niệm như thế nào là đương sự nhưng tại Khoản

1 Điều 68 Bộ luật TTDS đã chỉ rõ những chủ thể được xác định là đương sự. Và

những chủ thể này lại tiếp tục được định nghĩa rõ hơn tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 của

Điều 68 Bộ luật TTDS.

Từ những sự phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm đương sự trong tố tụng

dân sự như sau: Đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố

tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích

của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS.

1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong tố tụng dân sự

Đương sự trong TTDS là người tham gia TTDS. Do vậy, đương sự có đầy đủ

các đặc điểm của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích đương sự tham gia tố

tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, những người tham gia tố

tụng khác tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc để hỗ

trợ cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, so với những người tham gia tố tụng khác, đương

sự còn có những đặc điểm khác biệt sau đây:

8

- Đương sự là chủ thể của QHPL nội dung có quyền, lợi ích tranh chấp bị xâm

phạm hoặc cần được xác định trong VVDS.

Trước khi trở thành đương sự trong TTDS, các chủ thể đã tham gia vào một

QHPL nội dung như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ kinh

doanh thương mại, quan hệ lao động, họ đều có quyền, lợi ích gắn liền với các quan

hệ đó. Lợi ích của các chủ thể có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc là các

lợi ích tinh thần phát sinh từ các giá trị nhân thân như danh dự, uy tín, nhân phẩm...

Khi có tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ các quan hệ nội dung, các chủ thể tham gia vì

để bảo vệ quyền, lợi ích của mình đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi kiện

hoặc nộp đơn yêu cầu TA giải quyết. Đương sự muốn khởi kiện hoặc yêu cầu thì

trước hết họ phải chứng minh rằng họ có quyền, lợi ích cần được giải quyết trong vụ

việc đó. Vì vậy, về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức để trở thành đương sự của vụ, việc

dân sự thì phải có quyền và lợi ích liên quan đến giải quyết vụ, việc dân sự.

- Đương sự là chủ thể được TA chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết vụ,

việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Đương sự có thể mong muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt động

tố tụng do việc “khởi động” vụ việc của nguyên đơn hoặc người yêu cầu và được TA

thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, các đương sự khi tham gia vào quá trình tố tụng trước

hết là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì để bảo vệ lợi ích của mình

đương sự đưa ra yêu cầu, nêu ra các ý kiến đồng thời cung cấp chứng cứ chứng minh

cho yêu cầu, ý kiến của mình là hợp pháp và có căn cứ với mong muốn để TA giải

quyết bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết các

VVDS. Các lợi ích mà đương sự hướng tới trong quá trình giải quyết có thể là lợi ích

cá nhân, cũng có thể là lợi ích của pháp nhân hoặc lợi ích của những chủ thể đặc biệt

không có tư cách pháp nhân như của hộ gia đình, tổ hợp tác hay doanh nghiệp tư

nhân. Đối với các cá nhân, tổ chức hay các chủ thể khác mà khởi kiện hoặc yêu cầu

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người khởi kiện, người yêu

cầu tham gia với tư cách là đại diện của đương sự, còn đương sự là chủ thể được bảo

vệ quyền lợi.

Trong một số trường hợp đặc biệt, các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức

khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng thì các chủ thể này có thể

tham gia tố tụng và có các quyền, nghĩa vụ như của đương sự nhưng không phải là

9

đương sự. Bởi vì, các cơ quan, tổ chức này khởi kiện nhưng không phải là chủ thể có

quyền lợi bị tranh chấp hoặc vi phạm mà về nguyên tắc chỉ những chủ thể có quyền

lợi mới có thể tự định đoạt về quyền lợi của mình thông qua hoà giải.

- Các đương sự bình đẳng với nhau trong tố tụng, có thể tham gia tố tụng độc

lập hoặc thông qua người đại diện trong TTDS.

Trong quá trình giải quyết, các đương sự bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa

vụ tố tụng. Pháp luật TTDS quy định các quyền, nghĩa vụ chung của đương sự, nhưng

các đương sự ở các tư cách tố tụng khác nhau có một số quyền, nghĩa vụ khác nhau.

Ngoài ra, đương sự có thể tham gia độc lập trong TTDS khi họ có đủ điều kiện

về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng. Tuy

nhiên, trong trường hợp đương sự là người chưa thành niên hoặc đương sự là tổ chức

có tư cách pháp nhân thì người đại diện của đương sự có thể thay mặt đương sự để

tham gia vào quá trình giải quyết để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương

sự. Đặc biệt, trong trường hợp vì lý do nào đó đương sự không trực tiếp tham gia tố

tụng, họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, trừ một số

trường hợp pháp luật quy định không được uỷ quyền. Đây chính là đặc điểm để phân

biệt giữa đương sự trong TTDS với những người tham gia tố tụng khác như người

làm chứng, người giám định, người phiên dịch....

- Đương sự là chủ thể có quyền tự định đoạt, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ

của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải quyết các VVDS.

Đương sự là chủ thể có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết các

VVDS. Khác với các chủ thể tố tụng khác chỉ đương sự mới có quyền tự định đoạt

trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về dân sự và tố tụng. Các chủ thể tố tụng

khác có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Việc thực

hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng có thể làm phát sinh, thay đổi

hay chấm dứt hoạt động tố tụng. TA giải quyết thực chất là TA giải quyết các yêu cầu

của đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Vì vậy, chỉ khi các chủ thể này có

đưa ra yêu cầu thì TA mới giải quyết nhưng khi các chủ thể đó thay đổi, bổ sung hoặc

rút yêu cầu hay đưa ra ý kiến của mình thì hoạt động tố tụng có thể bị thay đổi hoặc

chấm dứt.

Như vậy, trong phát sinh tại TA do cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nộp

đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của

10

người khác hoặc để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước đang bị tranh chấp

hoặc có liên quan đến sự kiện pháp lý mà TA có thẩm quyền xác định. Trong các

VVDS, có những chủ thể tham gia có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải

quyết các VVDS và tham gia vào quá trình giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích của

mình, đó chính là đương sự trong TTDS.

1.1.3. Vai trò của đương sự trong tố tụng dân sự

Bộ luật TTDS Việt Nam điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ

quan, tổ chức có liên quan trong việc giải quyết VVDS. Các quan hệ pháp luật này rất

phong phú và đa dạng, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, giữa cơ

quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng và người liên quan, giữa

đương sự với nhau và với người liên quan. Sự phong phú và đa dạng của các quan hệ

xã hội mà Bộ luật TTDS điều chỉnh đã dẫn đến tính đa dạng về mặt chủ thể của quan

hệ pháp luật TTDS. Các chủ thể này tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS với những

vai trò và mục đích khác nhau, tuy nhiên hành vi của họ lại liên quan mật thiết với

nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất và được các quy phạm pháp luật TTDS điều

chỉnh. Các chủ thể này là các chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS.

Các quan hệ pháp luật TTDS phát sinh và tồn tại trong một thể thống nhất. Tuy

trong tố tụng địa vị pháp lý của các chủ thể là khác nhau, nhưng hoạt động tố tụng

của các chủ thể đều liên quan đến việc thực hiện mục đích của TTDS là bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, mỗi hành vi tố tụng của một chủ thể

đều liên quan đến nhau, dẫn đến những hậu quả pháp lý đối với nhiều chủ thể khác và

góp phần tạo nên sự vận động và phát triển của quá trình tố tụng.

Tuy nhiên, đương sự là thành phần không thể thiếu trong hoạt động TTDS, là

thành phần chính phát động mọi hoạt động TTDS. Đương sự đóng vai trò đặt biệt

quan trọng trong TTDS. Có thể nói không có đương sự thì cũng không có VVDS vì

việc TA giải quyết VVDS thực chất là việc giải quyết các quan hệ pháp luật nội dung

giữa các đương sự, xác định quyền và nghĩa vụ trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các đương sự là các bên trong quan hệ pháp luật nội dung. Nếu không có

đương sự thì không có chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung và quan hệ pháp luật

tố tụng dân sự tức là không tồn tại quá trình tố tụng.

11

Đương sự là thành phần chính trong các quan hệ pháp luật TTDS. Các đương sự

làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật TTDS. Có các đương sự mới

có các quá trình TTDS diễn ra. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTDS, đương

sự mặc dù ở các vị trí tố tụng khác nhau nhưng đều bình đẳng với nhau về quyền và

nghĩa vụ tố tụng. Khi đương sự thực hiện các quyền chủ quan, thể hiện ý chí của một

bên chủ thể sẽ làm phát sinh các hệ quả là quyền và nghĩa vụ của các bên khác hoặc

thiết lập một quá trình tố tụng như là: quyền khởi kiện, quyền yêu cầu,quyền rút đơn

khởi kiện, rút yêu cầu, quyền kháng cáo, quyền rút đơn kháng cáo…

1.1.4. Tư cách của đương sự trong tố tụng dân sự

Về tư cách của đương sự, tư cách của đương sự không phải do bản chất của

quyền lợi viện dẫn quyết định mà do vị trí của họ khi khởi kiện [1, tr.66]. Tư cách đương

sự phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong TTDS. Bởi vậy, việc xác định tư cách tố

tụng của đương sự giúp cho quá trình giải quyết các VVDS được chính xác, khách quan,

đồng thời bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Hiện tại cũng có những quan niệm rất khác nhau trong pháp luật tố tụng của mỗi

quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới. Bộ luật TTDS của nước

Cộng hoà Pháp không đưa ra định nghĩa đương sự, nhưng qua quy định tại Điều 1 và

Điều 323 thì có thể hiểu đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn. Bộ luật TTDS Liên

bang Nga tại Điều 43 quy định: người tham gia TTDS gồm các bên (nguyên đơn và

bị đơn), người thứ ba (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), Kiểm sát viên, người

yêu cầu TA bảo vệ. TTDS của Hoa Kỳ do ảnh hưởng của yếu tố đối tụng (adversary)

thì xác định thành phần đương sự bao gồm hai bên nguyên đơn và bị đơn [46, tr.136].

Có thể thấy rằng pháp luật TTDS của đa số các nước trên thế giới quy định về tư

cách đương sự trong một VADS (trong đó TA giải quyết cả các việc có tranh chấp và

không có tranh chấp). Theo đó, đương sự trong tố tụng tham gia với tư cách nguyên

đơn, bị đơn. Tuy nhiên, Luật TTDS của Việt Nam hiện hành quy định không chỉ là

thủ tục giải quyết các VADS (các bên có tranh chấp) mà quy định cả thủ tục giải

quyết các VDS (các bên không có tranh chấp) [39]. Do đó, đương sự được quan niệm

bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VADS,

người yêu cầu, người liên quan trong VDS.

- Nguyên đơn trong vụ án dân sự:

12

Nguyên đơn trong vụ án dân sựlà người khởi kiện, người được cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết vụ án

dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan,

tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu TA bảo vệ lợi ích

công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn

(Khoản 2 Bộ luật TTDS 2015).

Nguyên đơn là một trong những đương sự quan trọng của vụ án dân sự. Việc

nguyên đơn khởi kiện hoặc các chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng khởi kiện

để bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn là một trong những điều kiện tiên quyết để có vụ

án dân sự phát sinh tại TA, đồng thời là cơ sở để bắt đầu quá trình giải quyết vụ án

dân sự.

Trong vụ án dân sự để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải

đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau:

Thứ nhất, Các chủ thể này cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm

phạm. Thực chất trên cơ sở bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa quyền, lợi ích của các

chủ thể này có bị xâm phạm hay không thì phải được phải được khẳng định trong các

bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án, quyết định

của TA có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp pháp của

nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm. Về nguyên tắc, quyền lợi chỉ

có thể có được hoặc bị xâm phạm khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật

nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động) mà

nguyên đơn là một bên chủ thể.

Thứ hai, Ngoài điều kiện nêu trên thì cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ trở thành

nguyên đơn khi có việc khởi kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức thông

qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự và được TA thụ lý vụ án thì cá nhân,

cơ quan, tổ chức đó được xác định là nguyên đơn. Trong trường hợp cá nhân là người

không có năng lực hành vi tố tụng dân sự mà được người đại diện, cơ quan, tổ chức khác

theo quy định của pháp luật khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người này thì người

được bảo vệ quyền lợi cũng được xác định là nguyên đơn.Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức

do Bộ luật TTDS quy định khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích

13

của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng được xác định là nguyên đơn.Trong

trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp mà

cùng khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết quan hệ nội dung tranh chấp đó thì TA thụ lý

đơn khởi kiện bên nào trước thì bên đó được xác định là nguyên đơn.

- Bị đơn trong vụ án dân sự:

Bị đơn trong vụ án dân sựlà người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TAgiải quyết vụ án

dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm

phạm (Khoản 2 Bộ luật TTDS 2015).

Cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ bị xác định là bị đơn trong vụ án dân sự khi có

những dấu hiệu sau:

Thứ nhất, Là người bị nguyên đơn, hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền theo quy định của Bộ luật TTDS khởi kiện.

Thứ hai,Đối với nguyên đơn là người giả thiết cho rằng quyền và lợi ích hợp

pháp của mình bị xâm phạm, bị tranh chấp. Vì vậy, bị đơn cũng chỉ là người được giả

thiết là có tranh chấp hay vi phạm đến quyền lợi của nguyên đơn.

Trong đa số các trường hợp thì bị đơn chính là chủ thể trực tiếp phía bên kia

trong mối quan hệ pháp luật nội dung với nguyên đơn. Tuy nhiên trong một số trường

hợp thì để xác định bị đơn cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung

để xác định trong mỗi trường hợp cụ thể ai mới là chủ thể trong quan hệ pháp luật nội

dung với nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quantrong vụ án dân sự:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không

khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền

lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và

được TA chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan.Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền

lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố

tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì TA phải đưa họ vào

tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Khoản 4 Bộ

luật TTDS 2015).

14

Như vậy, đương sự trong vụ án dân sự không chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn

mà bao gồm cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi vì khi giải quyết vụ án

dân sự để giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới

quyền, lợi ích của người thứ ba. Để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để đòi hỏi cần

thiết có sự tham gia của người thứ ba này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan.

Để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì các

chủ thể này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự mà TA đang giải

quyết, đồng thời phải được TA đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc

theo yêu cầu của chính họ.

Trong khoa học pháp lý, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có hai nhóm:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập hay còn gọi là người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn.

- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự:

Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu TA công nhận hoặc

không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân

sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ

quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu TA công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (Khoản 5 Bộ luật TTDS 2015).

Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về

giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự

cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự vì họ cũng có lợi ích pháp lý độc

lập. Tuy nhiên, yêu cầu giải quyết việc dân sự của người yêu cầu trong việc dân sự

chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện

pháp lý làm phát sinh thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công

nhận quyền, nghĩa vụ của họ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự là người tuy không

yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến

quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc

15

dân sự đề nghị và được TA chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một

người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì TA phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư

cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự.

1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng

dân sự

1.2.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự

Theo từ điển tiếng Việt, “quyền” là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận

cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi, “Nghĩa vụ” là “việc bắt buộc phải làm đối

với xã hội, đối với người khác mà pháp luật hay đạo đức quy định” [93].

Trong khoa học pháp lý, quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ

thể được tiến hành. Quyền của chủ thể là khả năng của chủ thể được hưởng những lợi

ích nhất định hoặc được tiến hành những hành vi nhất định vì lợi ích hợp pháp của

mình, của tập thể, của Nhà nước. Chủ thể có khả năng xử sự theo một cách thức nhất

định mà luật cho phép, có khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt hành vi xâm

phạm quyền chủ thể của mình và phải tôn trọng quyền và nghĩa vụ pháp lý phát sinh, có

khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền chủ thể của mình.

Thuật ngữ “nghĩa vụ” có thể được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Trong đời

sống hàng ngày nghĩa vụ là sự xử sự mà một người phải thực hiện vì một hoặc nhiều

người khác, nhưng sự thực hiện đó không được đặt dưới sự bảo đảm của Nhà nước

bằng các biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định. Trong quan hệ pháp luật, nghĩa

vụ là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải

tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia. Nghĩa vụ pháp luật

không phải là khả năng xử sự mà là sự cần thiết phải xử sự. Như vậy, có thể hiểu

nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể phải

làm một công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một

hoặc nhiều chủ thể có quyền. Nếu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,

không đầy đủ thì còn phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình gây ra theo các

quy định tương ứng.

16

Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS không nằm ngoài các khái niệm

chung nêu trên. Theo đó, quyền của đương sự là cách xử sự mà luật TTDS cho phép

đương sự được tiến hành. Nghĩa vụ của đương sự là cách xử sự bắt buộc mà đương sự

phải tiến hành.

- Quyền của đương sự là cách xử sự mà luật TTDS cho phép đương sự được tiến hành.

Quyền của đương sự trong các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự cụ thể khác

nhau thì có nội dung khác nhau (những xử sự khác nhau phù hợp với nội dung của

quan hệ đó). Chủ thể quyền trong các quan hệ tố tụng dân sự có thể thực hiện những

hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó. Thông qua

hành vi của mình thỏa mãn quyền của mình hoặc quyền yêu cầu chủ thể khác thực

hiện các hành vi nhất định. Khi quyền của đương sự trong TTDS bị vi phạm, chủ thể

quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép hoặc yêu cầu cơ

quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi quyền đó bị xâm hại.

Quyền của đương sự trong TTDS còn là phương tiện quan trọng để TA nhận biết

được sự thật vụ án, giải quyết vụ án công minh, có căn cứ và hợp pháp. Bởi chính qua

hoạt động tố tụng dân sự của các đương sự, các luật sư, TA hiểu rõ yêu cầu của

đương sự, có được các chứng cứ, lý lẽ để làm rõ các tình tiết của vụ án; tránh được

các sai lầm vi phạm; khắc phục được những hạn chế trong việc thu thập, nghiên cứu,

đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc.

- Nghĩa vụ của đương sự là cách xử sự bắt buộc mà đương sự phải tiến hành.

Cách xử sự của các chủ thể cũng rất khác nhau tùy theo từng quan hệ tố tụng

dân sự cụ thể. Trong quan hệ tố tụng dân sự phổ biến là các quy phạm mệnh lệnh,

quy định nghĩa vụ cụ thể thuộc về chủ thể nào, chủ thể nào phải có trách nhiệm làm

gì dưới dạng “có trách nhiệm”, “phải thức hiện”... Từ các quy phạm này, phát sinh

nghĩa vụ của các bên. Những nghĩa vụ dạng này do pháp luật quy định cho tất cả các

bên tham gia, không chỉ có ý nghĩa đối với các bên mà còn là nghĩa vụ của các chủ

thể và có ý nghĩa đối với nhà nước, đối với xã hội.

Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong bao gồm một hệ thống các quyền, nghĩa

vụ được quy định trong Bộ luật TTDS. Mỗi đương sự tham gia tố tụng dân sự được

pháp luật quy định có các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của họ. Việc thực hiện hoặc không thực hiện hoặc phải thực hiện một trong các

quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự đều ảnh hưởng trực tiếp tới việc bảo vệ

17

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và việc giải quyết đúng đắn VVDS của TA.

Quyền, nghĩa vụ của đương sự trong TTDS được xác lập bởi vị trí tố tụng của đương

sự. Khi vị trí tố tụng khác nhau, đương sự cũng có các quyền, nghĩa vụ tố tụng khác

nhau. Chẳng hạn, nguyên đơn có quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền

phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các đương sự có quyền cung cấp chứng cứ...

1.2.2. Đặc điểm của quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự

- Quyền, nghĩa vụ của đương sự trong TTDS mở ra khả năng của đương sự

được thực hiện hoặc phải thực hiện các quyền, nghĩa vụ nhất định mà pháp luật tố

tụng cho phép hoặc quy định.

Trong quá trình giải quyết VVDS nảy sinh nhiều quan hệ khác nhau giữa các

chủ thể: TA, Viện kiểm sát, những ngời tham gia tố tụng và những người liên quan.

Các chủ thể này tham gia và quan hệ pháp luật TTDS với những động cơ và mục đích

khác nhau vì vậy việc ứng xử của các chủ thể trong những quan hệ đó vô cùng phức

tạp và rất đa dạng. Pháp luật TTDS đã tạo ra những cơ chế xử sự bắt buộc nhằm đảm

bảo các quan hệ pháp luật TTDS tạo thành một chỉnh thể thống nhất, làm cơ sở cho

việc giải quyết VVDS được khoa học và hiệu quả. Các quy phạm pháp luật đã tạo ra

một khả năng cho phép các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTDS được hưởng

những quyền năng nhất định hoặc được tùy chọn cách ứng xử của mình trong mối quan

hệ TTDS đó như “tự mình làm” hay có thể “nhờ người khác làm công việc đó”. Bên

cạnh đó là hệ thống quy phạm bắt buộc các chủ thể trong quan hệ phải thực hiện một

cách ứng xử nhất định hoặc cấm không được thực hiện những cách ứng xử nhất định.

Như vậy, các quy phạm pháp luật TTDS đã mở ra những khả năng nhất định để

các đương sự khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTDS có thể có những quyền

và phải gánh chịu những nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Đặc điểm

này thể hiện sự khác biệt giữa quan hệ pháp luật TTDS với các quan hệ pháp luật tố

tụng khác đó là các bên đương sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền,

nghĩa vụ tố tụng dân sự.

- Quyền, nghĩa vụ của đương sự trong TTDS không mang tính tương xứng và

đối lập.

Có thể nói đây là sự khác biệt trong quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp

luật nội dung. Trong quan hệ pháp luật dân sự bao giờ cũng tồn tại một bên có quyền

và một bên có nghĩa vụ, các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể có tính chất tương

18

xứng và đối lập nhau: Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, tương xứng: bên

này có bao nhiêu quyền thì bên kia có bấy nhiêu nghĩa vụ.

Trong quan hệ pháp luật TTDS quyền của một bên đương sự không phải là

nghĩa vụ trực tiếp của đương sự khác. Quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự là

tương đồng và bình đẳng. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS được xét

trong mối tương quan với cơ quan, người tiến hành tố tụng, với quá trình tố tụng nói

chung chứ không phải trong mối tương quan giữa các bên. Vì vậy, điều 70 Bộ luật

TTDS năm 2015 quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho các đương sự. Tiếp theo

là các điều quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác nhau. Nhưng

các quyền và nghĩa vụ này không mang tính chất đối lập mà chỉ là sự cụ thể hóa vị trí

khác nhau của các đương sự.

Không giống như trong quan hệ pháp luật nội dung, quyền của các đương sự

trong TTDS được thiết lập không phải trên cơ sở yêu cầu đương sự khác có xử sự cần

thiết trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định. Quyền đương sự xuất hiện

trên cơ sở quy phạm trao quyền: là những loại biện pháp thuộc khả năng xử sự của

bản thân chủ thể được Nhà nước bảo vệ.

- Trong quan hệ pháp luật TTDS, có trường hợp quyền của đương sự đồng thời

là nghĩa vụ của đương sự.

Trong quan hệ pháp luật TTDS, các bên đương sự vừa có quyền, vừa có nghĩa

vụ tương ứng. Không có bên nào chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ, và không có

bên nào chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền. Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt

quyền của đương sự cũng chính là nghĩa vụ của đương sự như: quyền và nghĩa vụ

cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự.

Trong TTDS, các đương sự có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp

hoặc họ là người đưa ra yêu cầu, khiếu nại, họ là người biết rõ nguyên nhân, điều

kiện phát sinh tranh chấp, vì vậy họ phải có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề, chứng tỏ

cho TA và những người tham tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong yêu cầu của

mình, đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải có nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình.

Trong suốt quá trình tố tụng, bên nguyên đơn và bên bị đơn liên tục đưa ra những

chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của

mình trước TA trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS. TA không có nghĩa vụ

phải tiến hành điều tra bởi vì nếu TA chủ động thu thập chứng cứ thì sẽ không bảo

19

đảm sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân xử vụ án. Đó chính là quyền

(quyền tự định đoạt) cũng như nghĩa vụ (nghĩa vụ chứng minh) của đương sự. Ví dụ

điển hình này cho thấy một đặc điểm khác biệt của các quy phạm về quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong TTDS so với các quy phạm tố tụng khác là quyền có thể đồng

thời là nghĩa vụ của đương sự.

- Quyền của đương sự trong TTDS mở ra khả năng cho đương sự yêu cầu cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình.

Trong TTDS, cũng như trong các quy định tố tụng khác, khi quyền bị xâm

phạm, các đương sự có quyền yêu cầu TA hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo

vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Như đã nói ở trên, quyền dân sự phát sinh

trên cơ sở luật định và do đó được pháp luật bảo vệ thông qua việc thực hiện các thủ

tục tố tụng. Tuy nhiên trong quá trình tố tụng, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng

của mình, đương sự còn được trao một số quyền nhất định nhằm hỗ trợ đương sự

thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình đó là yêu cầu cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền thực hiện thay cho đương sự hoặc tạo điều kiện cho đương

sự thực hiện một số quyền nhất định như: Yêu cầu cơ quan, tổ chức đang lưu giữ,

quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho TA; đề nghị TA

xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề

nghị TA triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; đề nghị TA áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời....

1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố

tụng dân sự

Về nguyên tắc, để bảo đảm việc giải quyết VVDS được khách quan, đúng pháp

luật thì các đương sự phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ TTDS. Mặt khác,

TA với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều

kiện để cho các đương sự thực hiện được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình. Khi

đương sự có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình cũng chính là

lúc họ có điều kiện nhất trong việc bảo vệ các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung.

Điều 8 BLTTDS quy định về nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng của

đương sự: “Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, TA có

trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.

20

Việc ghi nhận cũng như thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong quá trình tố tụng sẽ giúp xác định những mối quan hệ cơ bản trong quá trình tố

tụng, địa vị pháp lý của từng đương sự, đảm bảo cho việc giải quyết VVDS được tiến

hành đúng theo trình tự và giải quyết đúng đắn vụ việc. Việc một đương sự thực hiện

đúng quyền và nghĩa vụ của mình cũng đồng nghĩa với việc xác định và đảm bảo việc

thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự khác tham gia tố tụng.

Mục đích của việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự là để

bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quyền, lợi ích hợp pháp đương sự

được bảo vệ trong tố tụng dân sự là các quyền, lợi ích đã được Nhà nước thừa nhận.

Pháp luật TTDS là cơ sở pháp lý của hoạt động TTDS, vì vậy khi thực hiện

quyền và nghĩa vụ của mình các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng phải tuân theo

đúng hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm mục đích để cho việc

điều hành công lý được nghiêm minh, có hiệu quả và bảo đảm quyền, lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức.

1.4. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự

1.4.1. Cơ sở lý luận quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố

tụng dân sự

Cơ sở lý luận của việc quy định các quyền và nghĩa vụ của đương sự dựa trên cơ sở

cụ thể hóa, ghi nhận và bảo đảm quyền con người trong TTDS, trên cơ sở và phù hợp với

các quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự, đồng thời

trên cơ sở giải quyết hài hòa giữa việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của đương sự với việc

ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của TA và các chủ thể tố tụng khác.

Con người để tồn tại trong xã hội đòi hỏi phải được bảo đảm các lợi ích vật chất

và tinh thần. Để bảo đảm các lợi ích đó, pháp luật quy định và bảo đảm các quyền

con người. Pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận quyền con người. Trên cơ sở quy

định về quyền con người, pháp luật dân sự đã quy định cụ thể hóa các quyền và nghĩa

vụ về dân sự của con người, đồng thời pháp luật TTDS cũng cụ thể hóa cơ chế bảo vệ

quyền dân sự của con người bằng phương thức giải quyết bảo vệ các quyền dân sự

bằng con đường TA. Vì vậy, việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong

TTDS trước hết phải dựa trên cơ sở ghi nhận và bảo đảm quyền con người về dân sự.

Các bên chủ thể trong các quan hệ dân sự có các quyền, nghĩa vụ về dân sự theo

quy định của pháp luật dân sự. Trong trường hợp các bên chủ thể này không tôn trọng

21

lợi ích của nhau, không tôn trọng lợi ích chung của xã hội, lợi ích của nhà nước và

không thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý thì pháp luật quy định

các phương thức để các chủ thể này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi

các chủ thể của các QHPL dân sự thực hiện việc yêu cầu TA giải quyết và được TA

thụ lý thì các chủ thể của các quan hệ dân sự được TA giải quyết trở thành đương sự

trong TTDS. Lúc này, đương sự không chỉ dừng lại có được các quyền và nghĩa vụ

về dân sự mà còn được pháp luật TTDS quy định cho chủ thể này các quyền và nghĩa

vụ TTDS để họ có thể bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự. Các

quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự có mối liên hệ mật thiết với các quyền, nghĩa

vụ dân sự của đương sự, trong đó các quyền, nghĩa vụ về dân sự là cơ sở nền tảng để

ghi nhận các quyền và nghĩa vụ TTDS, đồng thời việc thực hiện các quyền và nghĩa

vụ TTDS của đương sự là bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích về dân sự. Vì

vậy, xét về mặt lý luận việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ TTDS phải dựa trên cơ sở,

phù hợp với các quyền, nghĩa vụ về dân sự. Cụ thể, được thể hiện như sau:

Thứ nhất, Để các đương sự có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng thì

trước hết đương sự phải chứng minh được họ là chủ thể của các quyền, lợi ích về dân

sự đang có tranh chấp hoặc vi phạm hoặc cần được xác định trong VVDS.

Thứ hai,Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể có toàn quyền định đoạt

lựa chọn quan hệ mà mình tham gia, lựa chọn chủ thể tham gia quan hệ với mình

cũng như lựa chọn các quyền và nghĩa vụ. Vì vậy, khi có tranh chấp với nhau về

quyền và nghĩa vụ thì các chủ thể có quyền quyết định việc có hay không yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, vi phạm đó bằng việc khởi kiện hoặc yêu

cầu giải quyết VVDS, đưa ra yêu cầu phản tố; rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; sửa

đổi, bổ sung yêu cầu; hoà giải với đương sự phía bên kia...

Thứ ba,Các chủ thể trong các quan hệ dân sự độc lập với nhau về tổ chức và tài

sản, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý, tức là bình đẳng trong việc hưởng quyền và

bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ, cũng như chịu trách nhiệm dân sự trong các

quan hệ dân sự mà mình tham gia. Vì vậy, việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ tố tụng

của đương sự cũng phải trên cơ sở bảo đảm các đương sự bình đẳng với nhau về quyền

và nghĩa vụ. Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự trong TTDS

không đồng nghĩa với việc các đương sự đều có những quyền, nghĩa vụ giống nhau mà

22

được hiểu là ngoài những quyền nghĩa vụ giống nhau của đương sự thì mỗi đương sự ở

những vị trí tố tụng khác nhau lại có những quyền, nghĩa vụ khác nhau.

Thứ tư,Hòa giải hợp pháp, đúng pháp luật giữa các bên trong các quan hệ dân sự

luôn được pháp luật khuyến khích. Vì vậy, việc quy định các quyền và nghĩa vụ

TTDS của đương sự phải bảo đảm cho các đương sự có thể có điều kiện thuận lợi để

hòa giải với nhau để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn ở các thời điểm khác nhau của

hoạt động tố tụng và TA cần ghi nhận những sự thỏa thuận tự nguyện, hợp pháp của

họ. Ngoài ra, việc quy định các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự phải dựa trên

cơ sở giải quyết hài hòa giữa việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự

với ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng khác như TA, VKS, người làm

chứng, người giám định, người phiên dịch... đúng với vai trò của mỗi chủ thể này

trong TTDS. Bởi vì, cùng với việc quy định quyền của đương sự thì đồng thời phải

xác định nghĩa vụ của chủ thể tố tụng khác trong việc bảo đảm quyền của đương sự.

1.4.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong pháp luật tố tụng dân sự

Xét trong quan hệ pháp luật TTDS thì thông thường quyền của đương sự sẽ

tương ứng với nhiệm vụ của TA trong việc bảo đảm thực hiện quyền của đương sự và

ngược lại, nghĩa vụ mà đương sự phải thực hiện là nhằm bảo đảm sự hợp tác của các

đương sự với nhau, bảo đảm sự hợp tác của đương sự với cơ quan tiến hành tố tụng

dân sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Thông qua

việc quy định những việc đương sự được thực hiện hay phải thực hiện, pháp luật đã

đặt ra các quy tắc xử sự, điều chỉnh hành vi tố tụng của đương sự nhằm thực hiện

mục đích của tố tụng dân sự là nhanh chóng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự.

Theo nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự thì các đương

sự được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ tố tụng dân sự như nhau.

Suy cho cùng thì các quyền tố tụng là phương tiện pháp lý mà đương sự có thể

sử dụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh có các quyền TTDS,

pháp luật cũng buộc đương sự phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Việc quy định

các nghĩa vụ của đương sự nhằm bảo đảm sự hợp tác của các đương sự với nhau, bảo

đảm sự hợp tác của các đương sự với cơ quan tiến hành tố tụng dân sự nhằm thực

hiện mục đích chung của tố tụng dân sự.

23

Để phân loại quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS phải dựa trên những

căn cứ nhất định. Và dựa trên các căn cứ khác nhau có thể có cách phân loại khác

nhau. Hiện nay có một số nhà nghiên cứu tiếp cận và phân loại quyền và nghĩa vụ của

đương sự dựa vào cơ sở hình thành và tính chất của các quyền tố tụng. Cũng có nhà

nghiên cứu phân loại căn cứ vào các giai đoạn tố tụng. Tuy vậy, cách phân loại phổ

biến nhất vẫn là căn cứ vào tư cách của đương sự. Tức là tương ứng với tư cách của

đương sự mà có các quyền và nghĩa vụ gắn với đương sự đó. Theo cách phân loại

này, thì quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS được phân chia thành: Quyền

và nghĩa vụ chung của đương sự; quyền và nghĩa vụ riêng của từng đương sự.

Nội dung điều chỉnh pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS

cũng sẽ dựa trên cơ sở của sự phân loại các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong

TTDS. Theo đó, nó sẽ bao gồm các nhóm quy phạm sau đây:

- Nhóm quy phạm quy định về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự là các

quyền và nghĩa vụ mà tất cả các đương sự trong TTDS đều có được, đều phải thực

hiện không phân biệt tư cách của đương sự đó là gì. Tức là khi cá nhân, cơ quan, tổ

chức tham gia TTDS và được xác định là đương sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức đó

có các quyền và nghĩa vụ chung như nhau.

- Nhóm quy phạm quy định về quyền và nghĩa vụ riêng của từng đương sự, là

các quyền và nghĩa vụ mà các đương sự có được gắn với tư cách cụ thể của đương sự

đó trong TTDS. Khác với quyền và nghĩa vụ chung của đương sự là tất cả các đương

sự đều có quyền và nghĩa vụ chung như nhau, quyền và nghĩa vụ riêng của từng

đương sự chỉ có ở từng đương sự cụ thể tương ứng với tư cách của đương sự đó. Tức

là quyền và nghĩa vụ đó có ở đương sự này nhưng sẽ không có ở đương sự khác nếu

các đương sự đó khác nhau về tư cách đương sự.

Ngoài ra, trong quá trình tham gia tố tụng dân sự, đương sự là cá nhân đang

tham gia tố tụng chết hoặc đương sự là cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia,

tách, giải thể thì để đảm bảo lợi ích cho đương sự, pháp luật của các quốc gia đều quy

định về việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Có thể hiểu một cách khái quát,

tất cả quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự được chủ thể kế thừa tiếp nối và thực

hiện, người kế thừa tố tụng đó không nhân danh chính mình mà nhân danh đương sự

đã chết (đối với đương sự là cá nhân) hoặc đương sự đã hợp nhất, sáp nhập, chia,

tách, giải thể (đối với đương sự là cơ quan, tổ chức).

24

Tiêu kết chương 1

Trong Chương 1, luận văn đã giải quyết các vấn đề:

1. Phân tích và luận giải để xây dựng khái niệm đương sự trên cơ sở tham khảo

có chọn lọc khái niệm đương sự của một số nhà khoa học được thể hiện ở một số tài

liệu, công trình khoa học chuyên ngành luật. Theo đó, theo luận văn: Đương sự trong

tố tụng dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh

vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS. Đồng thời, chúng tôi

cũng đi vào phân tích các đặc điểm của đương sự làm cơ sở phân biệt giữa đương sự

với những người tham gia tố tụng khác trong TTDS.

2. Vai trò của đương sự trong TTDS là một yếu tố quan trọng trong việc xác

định các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Luận văn đã phân tích và xác định

đương sự là thành phần chính trong các quan hệ pháp luật TTDS. Các đương sự làm

phát sinh quan hệ pháp luật TTDS, có các đương sự mới có các quá trình TTDS diễn

ra. Đồng thời luận văn cũng đã làm rõ vấn đề thành phần đương sự trong TTDS.

3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự là vấn đề cốt lõi mà luận văn cần nghiên cứu,

phân tích, làm rõ. Do đó, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc một số tài liệu, công trình khoa

học chuyên ngành luật, cũng như các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

đuông sự, luận văn đã đưa ra khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự. Theo đó, quyền

của đương sự là cách xử sự mà luật TTDS cho phép đương sự được tiến hành; Nghĩa vụ

của đương sự là cách xử sự bắt buộc mà đương sự phải tiến hành. Đồng thời luận văn

cũng xác định và phân tích đặc điểm của quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, ý

nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự.

4. Trên cơ sở lý luận và phân tích đánh giá, luận văn đã làm rõ vấn đề pháp luật

về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Theo đó, cơ sở lý luận của việc quy

định các quyền và nghĩa vụ của đương sự dựa trên cơ sở cụ thể hóa, ghi nhận và bảo

đảm quyền con người trong TTDS, trên cơ sở và phù hợp với các quyền và nghĩa vụ

dân sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự, đồng thời trên cơ sở giải

quyết hài hòa giữa việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của đương sự với việc ghi nhận

các quyền và nghĩa vụ của TA và các chủ thể tố tụng khác. Quyền và nghĩa vụ của

đương sự được phân loại theo một số căn cứ nhất định. Căn cứ vào tư cách của đương

sự trong TTDS thì quyền và nghĩa vụ của đương sự được phân loại thành Quyền và

nghĩa vụ chung của đương sự và Quyền và nghĩa vụ riêng của từng đương sự.

25

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ

NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và nghiac vụ của đương sự trong tố

tụng dân sự

2.1.1. Về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam

- Quyền đưa ra yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, việc dân sự

Trong TTDS đương sự có quyền đưa ra rất nhiều yêu cầu, trong đó có những

yêu cầu có cơ sở từ các quyền về nội dung được pháp luật nội dung quy định như các

quyền: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu của

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; yêu cầu giải quyết việc

dân sự của người yêu cầu và các quyền yêu cầu thuần tuý mang tính tố tụng như: Yêu

cầu TA xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật; yêu cầu TA áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp các tài

liệu, chứng cứ; yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng …

Trên thực tế còn tồn tại các ý kiến khác nhau là quyền yêu cầu của đương sự

mang tính nội dung hay quyền mang tính tố tụng. Tuy nhiên, theo tác giả, quyền yêu

cầu TA giải quyết là quyền vừa mang tính nội dung, vừa mang tính tố tụng. Bởi vì,

quyền này được phát sinh từ quan hệ pháp luật nội dung và được pháp luật nội dung

ghi nhận, nhưng nó cũng lại được pháp luật tố tụng ghi nhận và bảo đảm thực hiện

quyền này trong suốt quá trình TA giải quyết. Vì vậy, quyền yêu cầu Toàn án giải

quyết là quyền của đương sự trong TTDS.

Quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sựlà quyền

đặc biệt quan trọng của đương sự trong TTDS. Vì vậy, BLTTDS 2015 đã ghi nhận

các quyền này trong hai nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc quyền yêu cầu TA bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4 BLTTDS năm 2015), nguyên tắc quyền quyết định

và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS năm 2015). Theo đó các cá nhân, cơ

quan, tổ chức theo quy định của pháp luật tố tụng có quyền định đoạt trong việc khởi

kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự. TA chỉ thụ lý giải quyết vụ án, việc

dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm

vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

26

Quyền khởi kiện vụ án dân sự của đương sự được quy định tại Điều 186

BLTTDS 2015 theo đó: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua

người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại

TA có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Pháp luật TTDS hiện hành đã quy định mở rộng quyền khởi kiện vụ án dân sự

của đương sự, theo đó đương sự có thể khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết một hoặc

nhiều vấn đề về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết

trong cùng một vụ án dân sự. Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với

nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Việc giải quyết QHPL này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời QHPL khác; việc giải

quyết các QHPL có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một

điều luật tương ứng tại một trong các Điều 26, 28, khoản 1 Điều 30 và Điều 32 của

BLTTDS 2015, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 BLTTDS năm 2015

Việc quy định phạm vi khởi kiện đã tạo điều kiện để đương sự có thể đưa ra yêu

cầu TA giải quyết nhiều quan hệ pháp luật trong cùng một vụ việc nhằm tiết kiệm được

thời gian, công sức, tiền của của đương sự. Tuy nhiên, đối với các quan hệ pháp luật

khác nhau, không có liên quan với nhau, không có cùng đương sự, không cùng một loại

tranh chấp thì đương sự phải khởi kiện để giải quyết ở các vụ việc khác nhau.

Đương sự thực hiện quyền khởi kiện thông qua việc nộp đơn khởi kiện vụ án

dân sự trực tiếp tại TA hoặc gửi qua bưu điện hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện

tử qua Cổng thông tin điện tử của TA (Điều 190 BLTTDS năm 2015). Kèm theo đơn

khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người

khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không

thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu,

chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm

phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo

yêu cầu của TA trong quá trình giải quyết vụ án (Khoản 5 Điều 189). Ngoài ra, trong

trường hợp vì lý do bất khả kháng đương sự nộp các tài liệu chứng cứ trong quá trình

giải quyết vụ án, tuy nhiên phải trước thời điểm TA mở phiên họp tiếp cận công khai

chứng cứ và hòa giải.

Trong trường hợp đương sự thực hiện việc khởi kiện nhưng không đáp ứng các

điều kiện, TA sẽ không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện. Theo quy định tại Điều 192

27

Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp: Người khởi kiện không có

quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không

có đủ năng lực hành vi TTDS; Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của

pháp luật (là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng

người khởi kiện đã khởi kiện đến TA khi còn thiếu một trong các điều kiện đó); Sự

việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA hoặc

quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án

mà TA bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng,

mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản

lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho

mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà TA chưa

chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; Hết thời

hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp

biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho TA, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn

hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả

kháng; đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của TA; Người khởi kiện không

sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2

Điều 193 của Bộ luật này; Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 còn quy định, khi trả lại đơn

khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn

bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn

khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao

chụp và lưu tại TA để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.

Trong trường hợp đương sự không đồng ý với việc TA trả lại đơn khởi kiện thì

đương sự có quyền khiếu nại về việc trả lại đơn. Tại điều 194 BLTTDS 2015 quy

định cụ thể về việc khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại

đơn khởi kiện. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại

đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nạivới TA đã trả lại đơn khởi

kiện.Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải

mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại và phải ra một trong các quyết định:Giữ

nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng

cấp; nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ

28

án. Quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong việc trả lại đơn khởi kiện

nhằm bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự, hạn chế việc TA tuỳ tiện trong việc trả

lại đơn khởi kiện.

Qua nghiên cứu các quy định về quyền khởi kiện của đương sự trong pháp luật

TTDS hiện hành thấy rằng, các quy định đã đảm bảo hơn cho đương sự thực hiện

quyền khởi kiện so với BLTTDS năm 2004. Đặc biệt, so với BLTTDS năm 2004 thì

BLTTDS năm 2015 đã mở rộng hơn về phương thức thực hiện gửi đơn khởi kiện và

quy định thuận lợi hơn cho đương sự trong việc gửi kèm các chứng cư, tài liệu khi

nộp đơn khởi kiện. Cụ thể, đương sự nộp đơn khởi kiện có thể gửi trực tuyến bằng

hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của TA đối với những TA có Cổng

thông tin điện tử. Người khởi kiện vì lý do khách quan mà không thể nộp đầy đủ tài

liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì chỉ cần nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để

chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm và sau đó bổ

sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của TA trong quá

trình giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, pháp luật TTDS hiện hành vẫn không quy định về việc cho phép

đương sự thực hiện việc khởi kiện bằng việc trực tiếp đến TA để trình bày trong

trường hợp đương sự không tự làm đơn được như họ không biết chữ hoặc người tàn

tật hoặc do trình độ dân trí thấp nên không thể tự mình trình bày các nội dung của

đơn khởi kiện theo yêu cầu của TA đã dẫn đến việc khó khăn cho đương sự, trong khi

đó không phải đương sự nào cũng có điều kiện để được tư vấn.

Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự của đương sự được quy định tại Điều 361

của BLTTDS 2015. Theo đó, đương sự có quyền yêu cầu TA công nhận hoặc không

công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức

khác; yêu cầu TA công nhận cho mình quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động. Khi thực hiện quyền yêu cầu, đương sự phải gửi đơn

đến TA có thẩm quyền, đơn yêu cầu phải đáp ứng được đầy đủ các nội dung theo quy

định tại khoản 2, Điều 362 BLTTDS 2015 và phải gửi kèm theo đơn yêu cầu các tài

liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài ra, các

thủ tục khác khi thực hiện quyền yêu cầu được xác định theo nguyên tắc quy định tại

Điều 361 BLTTDS 2015: “Những quy định của Phần này được áp dụng để giải quyết

29

việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27, các khoản 1, 2,

3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29, các khoản 1, 2, 3 và 6 Điều 31, các khoản 1, 2 và 5

Điều 33 của Bộ luật này. Trường hợp Phần này không quy định thì áp dụng những

quy định khác của Bộ luật này để giải quyết việc dân sự”.

Tương tự như trường hợp khởi kiện trong vụ án dân sự, TA sẽ trả lại đơn yêu

cầu của đương sự khi không đáp ứng các điều kiện nêu ra tại Khoản 1 Điều 364. Cụ

thể là: Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực hành vi tố

tụng dân sự; Sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được TA hoặc cơ quan nhà nước có

thẩm quyền giải quyết;Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của TA;Người

yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều

363 của Bộ luật này;Người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm

a khoản 4 Điều 363 của Bộ luật này, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp

lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;Người yêu cầu

rút đơn yêu cầu;Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, TA phải thông báo bằng

văn bản và nêu rõ lý do.Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu

được thực hiện theo quy định tại Điều 194 của BLTTDS năm 2015 (Khoản 2, 3 Điều

364 BLTTDS).

Như vậy, so với BLTTDS năm 2004, thì BLTTDS năm 2015 đã đưa quy định

cụ thể về quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự của đương sự, quy định về trình tự,

thủ tục giải quyết của TA đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự của đương sự. Tuy

vậy, BLTTDS 2015 lại chưa quy định về phương thức gửi đơn yêu cầu giải quyết

việc dân sự để giúp cho đương sự thuận tiện trong quá trình thực hiện quyền yêu cầu

của mình. Mặc dù trong thực tiễn việc gửi đơn yêu cầu có thể được thực hiện tương

tự như ở trường hợp gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự nhưng việc không quy định như

phân tích đã gây ra không ít lúng túng cho đương sự khi thực hiện quyền yêu cầu giải

quyết việc dân sự của mình.

- Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự

Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu hoặc rút yêu cầu của đương sự là một trong

những nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS được

quy định tại Điều 5 của BLTTDS 2015 và quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc

rút yêu cầu của đương sự được quy định tại Khoản 4 BLTTDS năm 2015.

30

Theo quy định của các điều luật này, sau khi TA đã thụ lý vụ án, việc dân sự các

đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu theo hướng tăng thêm hoặc giảm bớt

yêu cầu hoặc đương sự có thể rút yêu cầu của mình. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu

hoặc rút yêu cầu của đương sự là tự nguyện không có mục đích trái pháp luật hoặc

đạo đức xã hội, không vượt ra ngoài phạm vi các yêu cầu mà TA có thể giải quyết

trong cùng một vụ án, việc dân sự thì TA phải chấp nhận. Tuy nhiên để tránh những

trường hợp đương sự lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho TA và các

đương sự khác trong việc tham gia tố tụng thì pháp luật TTDS quy định việc thay đổi,

bổ sung, rút yêu cầu của đương sự trong một số trường hợp phải đáp ứng được những

điều kiện nhất định. Điều này nhằm bảo đảm vừa tôn trọng quyền tự định đoạt của

đương sự, vừa thuận lợi cho TA trong việc giải quyết vụ án, việc dân sự. Cụ thể:

Tại Điều 244 BLTTDS 2015 quy định việc xem xét thay đổi, bổ sung, rút yêu

cầu của đương sự ở tại phiên toà sơ thẩm: “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi,

bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt

quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.

Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu

cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với

phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.

Như vậy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được

HĐXX chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi

yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong

đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Pháp luật TTDS hiện hành

đã không hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, trong

thực tế sau khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu khởi kiện, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập thông qua việc nộp đơn

thì sau khi nộp đơn khởi kiện tại TA, đương sự không được bổ sung các yêu cầu nào

khác vì trong quá trình giải quyết vụ án TA cần kiểm tra tính hợp pháp các tài liệu

chứng cứ mà đương sự đã nộp tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai

chứng cứ và hòa giải.

Quyền rút yêu cầu của đương sự trước hết phải bảo đảm sự tự nguyện. Nếu

trước khi mở phiên toà sơ thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì TA ra quyết

31

định đình chỉ việc giải quyết vụ án (điểm c Khoản 1, Điều 217 BLTTDS 2015);

người nộp đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự rút đơn yêu cầu thì TA đình chỉ giải

quyết việc dân sự (điểm c Khoản 2 Điều 366 BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên, trong

các trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà bị đơn có yêu cầu phản tố, người có

quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì tuỳ từng trường hợp để TA ra

quyết định.

Trường hợp trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên

đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay

không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: (i) Bị đơn không đồng ý thì

không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; (ii) Bị đơn đồng ý thì chấp

nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết

định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp này thì nguyên đơn

có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do BLTTDS quy định (Điều 299 BLTTDS

năm 2015).

Để thực hiện quy định tại Điều 299 BLTTDS 2015 và Nghị quyết của Hội đồng

thẩm phán TA nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành thì:

Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên toà phải được làm

thành văn bản. Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà không phải làm

thành văn bản, nhưng phải ghi vào biên bản phiên toà.

Trong thời hạn nguyên đơn có quyền kháng cáo, nếu nguyên đơn rút đơn khởi

kiện, thì TA cấp sơ thẩm cần phải giải thích cho họ biết hậu quả của việc bị đơn

không đồng ý để họ quyết định việc kháng cáo hoặc rút đơn khởi kiện.

- Trường hợp nguyên đơn vẫn quyết định rút đơn khởi kiện thì TA cấp sơ thẩm

phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn biết và yêu cầu bị đơn phải trả lời bằng văn

bản cho TA cấp sơ thẩm về việc họ có đồng ý hay không đồng ý trong thời hạn năm

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của TA, tùy thuộc vào kết quả trả lời

của bị đơn mà giải quyết như sau:

- Trường hợp Tò án cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn không

đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong thời hạn kháng cáo, kháng

nghị không có đương sự nào kháng cáo, VKS không kháng nghị, thì việc rút đơn khởi

kiện của nguyên đơn đương nhiên không được chấp nhận. Trong trường hợp này bản

32

án sơ thẩm được coi là không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật kể từ

ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Trường hợp TA cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn đồng ý việc

rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, thì không phân biệt trong thời hạn kháng cáo,

kháng nghị có đương sự nào kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị hay không,

TA cấp sơ thẩm đều phải gửi hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị, văn bản rút đơn

khởi kiện cho TA cấp phúc thẩm để TA cấp phúc thẩm căn cứ vào Điều 299 của

BLTTDS 2015 mở phiên toà giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Qua nghiên cứu quy định của pháp luật TTDS về quyền thay đổi, bổ sung, rút

yêu cầu của đương sự thấy rằng, các quy định của pháp luật TTDS đã hướng đến việc

vừa bảo đảm tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, vừa thuận lợi cho TA trong

việc giải quyết vụ án, việc dân sự. Tuy nhiên, việc xử lý hậu quả khi đương sự rút

đơn khởi kiện chưa được quy định hợp lý. Theo quy định của pháp luật TTDS hiện

hành, ở giai đoạn sơ thẩm khi đương sự rút yêu cầu thì TA chấp nhận mà không cần

phải hỏi ý kiến của đương sự khác trong vụ án (Điều 217 và Điều 218 BLTTDS

2015). Tuy nhiên, về nguyên tắc các đương sự có quyền bình đẳng trong việc đưa ra

yêu cầu (nguyên đơn đưa ra yêu cầu khởi kiện, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập) và TA chỉ giải

quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Chúng tôi thấy rằng việc các đương sự

đưa ra yêu cầu TA giải quyết thì đương sự phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình

trước các đương sự khác. Giả sử, đương sự đưa ra yêu cầu một cách tuỳ tiện đối với

đương sự khác và các đương sự khác đã có việc chuẩn bị để tham gia tố tụng, TA cũng

có những chuẩn bị để xét xử nhưng đương sự đưa ra yêu cầu sau đó đã rút đơn khởi kiện

nếu TA chấp nhận việc rút đơn này sẽ dẫn đến các đương sự khác bị thiệt hại.

- Quyền chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của người khác của đương sự

Quyền tự định đoạt của đương sự còn bao gồm quyền chấp nhận hay bác bỏ yêu

cầu của người khác. Việc chấp nhận yêu cầu của người khác thể hiện đương sự này

đã thừa nhận yêu cầu của đương sự khác và như vậy đã giải phóng nghĩa vụ chứng

minh của đương sự đưa ra yêu cầu và đương sự đã thừa nhận.

Việc bác bỏ yêu cầu của người khác thể hiện ý kiến của đương sự không đồng

tình với toàn bộ hoặc một phần yêu cầu của người khác đã đưa ra. Khi bác bỏ yêu cầu

thì đương sự phải chứng minh cho việc bác bỏ yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.

33

Điều 72 BLTTDS 2015 quy định bị đơn có thể chấp nhận hay bác bỏ một phần hoặc

toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Đối với các đương sự khác như nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan mặc dù pháp luật TTDS không quy định nhưng theo tinh thần của các quy định

tại các Điều 70, Điều 71, Điều 73 BLTTDS 2015 thì nguyên đơn, người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan cũng có quyền chấp nhận yêu cầu hay bác bỏ toàn bộ yêu cầu của

đương sự khác. Việc chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu khác của đương sự không phải là

việc đương sự đưa ra yêu cầu mà đây là ý kiến của đương sự trước yêu cầu của người

khác (của đương sự khác).

Theo quy định tại Điều 199 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn mười lăm ngày kể

từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho TA văn bản ghi ý

kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo

nếu có. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia

hạn gửi cho TA nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì TA phải gia hạn,

nhưng không quá 15 ngày. Tuy nhiên, quy định về thời hạn nộp văn bản ghi ý kiến của

người được thông báo với yêu cầu của người khởi kiện chỉ nhằm mục đích bảo đảm cho

việc giải quyết nhanh chóng vụ án, quy định này không có nghĩa là khống chế đương sự

chỉ được nêu ý kiến chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của người khác trong thời hạn nêu

trên mà về nguyên tắc đương sự có quyền đưa ra ý kiến chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu

của đương sự khác ở bất kỳ giai đoạn nào của TTDS. Tuy nhiên, pháp luật TTDS hiện

hành lại không quy định về hậu quả pháp lý khi đương sự không nộp văn bản nêu ý kiến

của mình trong thời hạn quy định tại Điều 199 BLTTDS.

- Quyền tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và hoà giải

Nguyên tắc có tính chất chủ động trong tố tụng dân sự đối với tất cả các giai

đoạn tố tụng, có giá trị định hướng cho các hoạt động của các chủ thể tố tụng đó là

nguyên tắc quyết định và tự định đoạt của đương sự. Theo quy định tại Khoản 2 Điều

5 BLTTDS thì đương sự có quyền “…thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,

không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.

Quyền tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và hoà giải thể hiện rõ

nét của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Đương sự

là chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung đang được giải quyết trong vụ án, việc

dân sự. Vì vậy, đương sự có quyền thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, việc

34

dân sự ở bất kỳ thời điểm hay giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Hòa giải giữa các

đương sự có thể thực hiện với hai hình thức khác nhau trong hoạt động tố tụng:

Thứ nhất, đương sự tự hòa giải (đương sự tự thỏa thuận):

Đây là việc đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án trong quá

trình tố tụng mà không có vai trò tác động của TA đối với sự thỏa thuận này. Ở giai

đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì TA ra quyết định

đình chỉ (Điểm c Khoản 1 Điều 217), nếu đương sự yêu cầu công nhận sự thỏa thuận

thì TA ra quyết định công nhận sự thỏa thuận, nếu không yêu cầu giải quyết vụ án thì

TA ra quyết định đình chỉ. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận

được với nhau thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các bên về việc

giải quyết vụ án (Khoản 1 điều 246). Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc

thẩm ra bản án xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận giữa

các bên nếu sự thỏa thuận đó là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và

không trái đạo đức xã hội (Khoản 1 Điều 300).

Thứ hai, hòa giải do TA tiến hành:

Hòa giải là hoạt động bắt buộc của TA đối với hầu hết vụ án dân sự, trừ trường

hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Hòa giải do TA

tiến hành là việc TA giúp đỡ đương sự thỏa thuận tự nguyện với nhau về việc giải

quyết vụ án không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Khác với tự thỏa thuận (tự hòa

giải), trong trường hợp này để có sự thỏa thuận của các đương sự phải có vai trò giúp

đỡ của TA trong việc hướng dẫn, giải thích pháp luật kết hợp với việc giải quyết các

vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của các bên đương sự. Trên cơ sở đó làm cho các

bên đương sự hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ của mình, để họ có thể thương lượng, điều

đình được với nhau về việc giải quyết vụ án. Hòa giải trong trường hợp này là hoạt

động do TA tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải

quyết vụ án. Vì vậy, khi TA tiến hành giải quyết hòa giải phải có mặt đầy đủ các

đương sự, các đương sự có quyền tham gia hòa giải do TA tiến hành, bởi vì đương sự

chính là người có quyền, nghĩa vụ cần giải quyết trong vụ án. Họ chính là chủ thể của

các quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp nên họ có quyền hòa giải với nhau.

Khi tiến hành hoà giải, TA phải lập biên bản hoà giải. Biên bản hoà giải phải có

các nội dung theo quy định tại khoản 3 Điều 211 BLTTDS 2015. Biên bản hoà giải

phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hoà giải,

35

chữ ký của thư ký TA ghi biên bản hoà giải và của thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.

Trong trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về các vấn đề phải giải

quyết trong vụ án thì TA lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay

cho các đương sự tham gia hoà giải. Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS 2015, hết

thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào

thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một

thẩm phán được chánh án TA phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của

các đương sự.

- Quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình

Đương sự là chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung. Trong VVDS, họ tham

gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng,

lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người

khác bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình được ghi nhận tại Khoản 13 Điều 70

BLTTDS năm 2015.

Đương sự thông qua việc tham gia tích cực của mình vào quan hệ pháp luật

TTDS để chứng minh yêu cầu hoặc ý kiến của mình đưa ra là có căn cứ và hợp pháp,

để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của minh trước TA. Đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải tạo mọi

điều kiện thuận lợi để đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngoài việc tự bảo vệ, đương sự có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho mình. Việc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thực

hiện thông qua việc đương sự uỷ quyền hợp pháp cho người khác tham gia tố tụng,

trừ những loại việc không được uỷ quyền như trong trường hợp vụ án xin ly hôn thì

đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng để đề

nghị TA giải quyết việc ly hôn của người khác (Khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm

2915). Trong thực tế, thông thường người được đương sự uỷ quyền tham gia tố tụng

là luật sư hoặc những người có hiểu biết về pháp luật có điều kiện để thay mặt đương

sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Vì vậy, việc đương sự uỷ quyền

cho luật sư tham gia tố tụng đã trở thành khá phổ biến hiện nay do điều kiện kinh tế

phát triển và trình độ dân trí được nâng lên.

Ngoài luật sư, đương sự có thể nhờ bất kỳ một người nào khác đủ điều kiện theo

quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi cho họ và được TA chấp nhận. Quyền nhờ

36

người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có ý nghĩa quan trọng bởi

vì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng song song

cùng với đương sự, bảo vệ chủ yếu bằng việc giúp đỡ các đương sự về nhận thức

pháp luật để đương sự có thể thực hiện một cách tốt nhất các quyền và nghĩa vụ tố

tụng, để đương sự có thể tự mình đưa ra các yêu cầu và các tài liệu chứng cứ để

chứng minh cho quyền lợi chính đáng của mình.

Quyền của đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được

quy định tại Điều 75 Bộ luật TTDS 2015: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự”. Bộ luật TTDS năm 2015 đã khắc phục những hạn chế trong quy định về

người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, cụ thể: Bộ luật TTDS năm 2004 quy

định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương

sự nhờ và được Toà án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự” (Khoản 1 Điều 63 Bộ luật TTDS năm 2004). Điều luật quy định

như vậy sẽ dẫn đến một cơ chế đó là “xin, cho” trong TTDS vì như vậy sẽ không phù

hợp với việc cải cách tư pháp và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Do vậy tại Điều

75 Bộ luật TTDS năm 2015 đã mở rộng quyền cho đương sự và người bảo về quyền

và lợi ích hợp pháp cho đương sự.

- Quyền yêu cầu Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp mà TA quyết định trong quá trình giải

quyết vụ án, việc dân sự nhằm giải quyết các nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn

tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm thi hành án... Việc áp dụng đúng đắn

các biện pháp này nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, pháp

luật TTDS hiện hành quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục và điều kiện áp dụng.

Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được ghi nhận tại Khoản

10 Điều 70 và Khoản 1, 2 Điều 111 Bộ luật TTDS năm 2015. Đương sự có thể yêu

cầu TA áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay trong quá trình TA giải quyết vụ

án, việc dân sự, đồng thời trong trường hợp cấp bách thì đương sự có thể yêu cầu TA

áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay tại thời điểm nộp đơn khởi kiện đến TA

nhằm bảo đảm cho việc bảo vệ bằng chứng, ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản,

trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản.

37

Đương sự là cá nhân yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm

đơn, nếu đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cơ quan, tổ chức

khởi kiện thì cơ quan, tổ chức phải có văn bản gửi cho TA. Người có đơn hay văn

bản yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đều phải đưa ra chứng cứ chứng

minh cho yêu cầu áp dụng biện pháp áp tạm thời là cần thiết và hợp pháp. Đối với

yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự trong trường hợp bình

thường khi đã có việc thụ lý vụ việc thì trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được

đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi

người đó đưa ra chứng cứ là đã thực hiện biện pháp bảo đảm thì TA phải ra ngay

quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong trường hợp đương sự yêu cầu

áp dụng biệp pháp tạm thời tại phiên tòa nếu hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này

của đương sự thì ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc ngay

sau khi đương sự thực hiện xong biện pháp bảo đảm. Trong trường hợp phải có thời

gian để đương sự thực hiện biện pháp bảo đảm thì TA có thể tạm ngừng phiên tòa để

đương sự thực hiện trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu,

thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với

yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp do tình thế khẩn cấp

cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.

Nếu không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải thông

báo bằng văn bản và nêu rõ lý rõ lý do cho người yêu cầu biết (Điều 133 Bộ luật

TTDS năm 2015).

Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS cho thấy pháp luật đã quy định

chặt chẽ trình tự, thủ tục và điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy

nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ, việc dân sự không ít trường hợp khi nguyên đơn

nộp đơn khởi kiện cũng là lúc mà phía bị đơn đã đủ thời gian để huỷ hoại bằng

chứng, tẩu tán, huỷ hoại tài sản để nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, do

đó TA xem xét để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào thời điểm này thì đã quá

muộn. Vì vậy, trong một số trường hợp cụ thể cần có hướng dẫn biện pháp khác cụ

thể để TA áp dụng nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ.

- Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp của đương sự

Việc tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết các vụ án, việc dân sự có

ý nghĩa rất quan trọng để các đương sự có thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố

38

tụng của mình tại phiên toà, phiên họp. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 227, 228,

229, 230, 231 và Điều 232 Bộ luật TTDS 2015, đương sự có quyền tham gia các

phiên toà, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm vụ án, việc dân sự, một số trường hợp tham

gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu TA xét thấy cần thiết cho việc xét xử giám

đốc thẩm, tái thẩm). Về nguyên tắc, việc giải quyết vụ án, việc dân sự phải có mặt các

đương sự, nếu đương sự vắng mặt thì TA phải hoãn phiên toà, hoãn phiên họp. TA

chỉ được tiến hành phiên toà, phiên họp vắng mặt đương sự nếu họ có đơn yêu cầu

TA xét xử vắng mặt hoặc đương sự vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp tham

gia phiên toà, phiên họp hoặc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được TA

triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng.

Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết nhằm bảo đảm cho

đương sự có cơ hội và điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Với

việc tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết, thông qua tranh tụng trực tiếp,

công khai, liên tục tại phiên toà về các tình tiết, sự kiện, TA mới có thể giải quyết được

toàn diện và đúng đắn vụ việc. Để đảm bảo quyền tham gia phiên toà của đương sự, TA

phải có trách nhiệm triệu tập các đương sự tham gia. Nếu đương sự chưa được triệu tập

hợp lệ hoặc vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì TA phải hoãn phiên toà để

triệu tập lần tiếp theo. Nếu không thuộc trường hợp TA xét xử vắng mặt đương sự mà

TA vẫn tiến hành xét xử thì bị coi là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Quyền tranh luận tại phiên tòa

Hoạt động tranh tụng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định sự

thật khách quan của vụ án, đồng thời qua đó TA có điều kiện để có thể đưa ra các

quyết định đúng đắn, toàn diện, khách quan trong việc giải quyết vụ án. Tranh luận là

hoạt động trung tâm của mỗi phiên tòa. Do vậy, các quy định của pháp luật TTDS đã

mở rộng quyền tranh luận của đương sự và người đại diện của họ tại phiên tòa, giúp

các chủ thể này phát huy hết khả năng trong quá trìnhtranh luận. Pháp luật TTDS hiện

hành không quy định hạn chế về thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến

về mọi vấn đề của vụ án. Đương sự khá chủ động khi tham gia các tranh tụng. Vì vậy,

chủ tọa phiên tòa là người có trách nhiệm điều khiển phiên tòa, điều khiển quá trình

tố tụng để tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trong đó có đương sự được

tranh luận về các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật nhằm bảo vệ cho những yêu cầu

mà họ đưa ra.

39

Đương sự tranh luận tại phiên tòa bằng việc phân tích,đánh giá về chứng cứ của

vụ án, đồng thời đề xuất quan điểm, lý lẽ và giải pháp để bạo vệ quyền và lợi ích của

mình. Tuy nhiên các đương sự không nên đưa ra những ý kiến không liên quan đến

vụ án hoặc nhắc lại những tài liệu, sự kiện đã được xác minh, xem xét ở trong phần

thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.

- Quyền kháng cáo, thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng cáo

TA phải thực hiện hai cấp xét xử, đây chính là nguyên tắc cơ bản của pháp luật

TTDS (Điều 17 Bộ luật TTDS 2015). Và quyền kháng cáo được quy định tại 271 Bộ

luật TTDS năm 2015. Theo đó bản án, quyết định sơ thẩm của TA có thể bị kháng

cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng

cáo, kháng nghị thì TA cấp phúc thẩm xét xử lại. Đương sự thực hiện quyền kháng

cáo yêu cầu TA cấp trên xét xử lại TA đó vì họ cho rằng việc ra bản án, quyết định

của TA cấp sơ thẩm là chưa khách quan. Kháng cáo chính là điều kiện để TA cấp

phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm, góp phần bảo đảm cho các đương sự có điều

kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi thực hiện quyền kháng cáo,

đương sự phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật TTDS. Đương sự chỉ có

quyền kháng cáo về phần bản án, quyết định sơ thẩm hoặc bản án, quyết định sơ thẩm

có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự đó, còn những phần bản án, quyết

định không có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình thì đương sự không có quyền

kháng cáo. Đương sự thực hiện quyền kháng cáo bằng đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo

phải nêu được các nội dung chính theo quy định tại Điều 272 Bộ luật TTDS 2015.

Về thời hạn kháng cáo Điều 273 Bộ luật TTDS 2004 quy định:

“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của TA cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày

tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có

mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn

kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện

đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi TA tuyên án mà không có lý do chính đáng

thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.

2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án

của TA cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi

40

kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định

của Bộ luật này.

3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng

cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở

phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày

đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.”

Kháng cáo ngoài thời hạn nêu trên là kháng cáo quá hạn. Theo quy định tại các

Điều 274, 275 Bộ luật TTDS năm 2015 thì sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn,

TA cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý

do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho TA cấp phúc thẩm.Trong

thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ

kèm theo, TA cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét

kháng cáo quá hạn. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của đại

diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn. Trường hợp người kháng

cáo, Kiểm sát viên vắng mặt thì TA vẫn tiến hành phiên họp.Căn cứ vào tài liệu,

chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá

hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định

theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải

ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định.

Sau khi đã thực hiện quyền kháng cáo, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung

hoặc rút kháng cáo theo quy định tại Điều 284 Bộ luật TTDS 2015. Theo đó, trường

hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 thì người đã kháng cáo

có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo

ban đầu.Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo

có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáonhưng không được vượt quá phạm vi kháng

cáoban đầunếu thời hạn kháng cáođã hết.Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên

tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo.TA cấp phúc thẩm đình chỉ

xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng

cáo. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định.

41

Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải

được lập thành văn bản và gửi cho TA cấp phúc thẩm. TA cấp phúc thẩm phải thông

báo cho các đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo.

- Quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật

Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi

nhận trong Hiến pháp, một quyền có tính chất chính trị và pháp lý của công dân, là

một hình thức biểu hiện của dân chủ xã hội chủ nghĩa, liên quan chặt chẽ và chiếm

vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khoản

1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với

cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ

quan, tổ chức, cá nhân”.

Quyền khiếu nại của đương sự được pháp luật TTDS quy định. Trong Bộ luật

TTDS năm 2004 quyền khiếu nại của đương sự đối với quyết định, hành vi tố tụng

trái pháp luật được quy định rải rác tại các điều từ Điều 291 đến điều 397 và Điều

402, 403 thì trong Bộ luật TTDS năm 2015 quyền này đã được quy định hết sức cụ

thể tại chương XLI “Khiếu nại, tố cáo trong TTDS”.

Theo đó, đương sự có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp

thực hiện việc khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết

định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên cơ sở khiếu nại của đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết

chính xác, kịp thời các khiếu nại của đương sự, xử lý nghiêm minh người vi phạm,

thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra và chịu trách

nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại của mình. Người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại mà không giải quyết hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải

quyết, giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ

luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt

hại theo quy định của pháp luật.

Như vậy, các quy định tại chương XLI “Khiếu nại, tố cáo trong TTDS” Bộ luật

TTDS năm 2015 là cơ sở pháp lý để đương sự có thể thực hiện được quyền khiếu nại

trong tố tụng nhằm giúp đương sự có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và lợi ích

hợp pháp của mình, đồng thời hạn chế, khắp phục những vi phạm của cơ quan tiến

42

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong TTDS. Khắc phục những hạn chế của Bộ

luật TTDS năm 2004, Bộ luật TTDS năm 2015 đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục,

thời hạn giải quyết và trả lời khiếu nại của đương sự đối với các bản án, quyết định

của TA đã có hiệu lực pháp luật giúp cho việc giải quyết khiếu nại được kịp thời,

khắc phục tình trạng khiếu nại tràn lan, vượt cấp.

2.1.2. Về các quyền và nghĩa vụ riêng của từng đương sự

2.1.2.1. Quyền, nghĩa vụ riêng của nguyên đơn

-Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng

Trong vụ án dân sự, đương sự không chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn mà gồm

cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

khởi kiện cũng không bị kiện, họ tham gia vào vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Vì vậy, để việc giải quyết vụ án được toàn diện, kịp thời, đúng đắn

đòi hỏi tất cả các đương sự đều phải được tham gia tố tụng. TA có thể tự mình triệu

tập hoặc theo đề nghị của nguyên đơn TA đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

vào tham gia tố tụng.

- Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án

Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự là việc TA tạm ngừng việc giải quyết

vụ án dân sự khi phát hiện ra một trong các căn cứ mà pháp luật quy định việc tạm

đình chỉ giải quyết vụ án là một bảo đảm để các đương sự có thể thực hiện tốt nhất

các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn có quyền đề

nghị TA tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Tuỳtừng trường hợp, nếu xét thấy yêu

cầu là chính đáng và có căn cứ pháp luật thì TA ra quyết định tạm đình chỉ việc giải

quyết vụ án dân sự.

2.1.2.2. Quyền, nghĩa vụ riêng của bị đơn

- Quyền được Tòa án thông báo về việc bị kiện của bị đơn

Do bị đơn là người bị động khi tham gia vào quá trình tố tụng, họ có thể không

biết về việc đã bị kiện. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho bị đơn có thể chuẩn bị

chứng cứ, tài liệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời tạo điều

kiện để bị đơn tham gia vào quá trình tố tụng nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ

tố tụng của mình, bị đơn có quyền được TA thông báo về việc bị kiện.

- Quyền chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn hoặc bác bỏ

toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn

43

Để bảo đảm sự bình đẳng giữa bị đơn với nguyên đơn, pháp luật TTDS hiện

hành không chỉ quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn

mà còn quy định bị đơn có quyền chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của

nguyên đơn hoặc bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Trong trường hợp này không phải

bị đơn đưa ra yêu cầu mà bị đơn đưa ra ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên

đơn. Khi bị đơn cho rằng một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở,

bị đơn có thể chấp nhận, nhưng nếu bị đơn cho rằng toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn

là không có cơ sở, bị đơn có thể đưa ra ý kiến bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên

đơn. Khi bị đơn đưa ra ý kiến chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn thì bị

đơn phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho ý kiến của mình. Tuy nhiên, chúng tôi

cho rằng quyền chấp nhận một phần, toàn bộ hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác

là quyền chung của các đương sự. Vì vậy, Bộ luật TTDS 2004 cần bổ sung quyền này

vào những quyền chung của đương sự nhằm bảo đảm sự bình đẳng của đương sự

trong TTDS.

- Quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn

Thực chất quyền phản tố là quyền kiện lại của bị đơn đối với nguyên đơn, về

bản chất bị đơn đã đưa ra một yêu cầu mới, một quan hệ pháp luật mới. Quan hệ mới

mà bị đơn đưa ra yêu cầu TA giải quyết có thể cùng tính chất, đặc điểm với quan hệ

mà nguyên đơn đang yêu cầu giải quyết, nhưng được xác định là mới vì đối tượng

của quan hệ mà bị đơn yêu cầu giải quyết khác đối tượng mà nguyên đơn đang đề

nghị TA giải quyết. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 200 Bộ luật TTDS 2015, bị đơn

cùng với việc nộp cho TA văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người

khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Yêu cầu phản tố

của bị đơn đối với nguyên đơn chỉ được chấp nhận khi có một trong các trường hợp

như: Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản

tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu

của nguyên đơn; giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với

nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án

được chính xác, nhanh hơn.

Khi xem xét tổng thể các quy định tại Điều 200 và các quy định khác của Bộ

luật TTDS 2015 thì bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố ở các thời điểm khác nhau

trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và

44

hòa giải. Tuy nhiên, câu chữ theo quy định tại Khoản 1 Điều 200 của Bộ luật TTDS

2015 có thể dẫn đến cách hiểu không hợp lý về thời điểm bị đơn có thể đưa ra yêu

cầu phản tố, khi cho rằng bị đơn chỉ được đưa ra yêu cầu phản tố trong thời hạn và

thời điểm mà bị đơn phải nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện,

tức là trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được thông báo thụ

lý vụ án.

2.1.2.3. Quyền, nghĩa vụ riêng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

- Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập

Yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thể

chống lại cả nguyên đơn, bị đơn bởi vì họ cho rằng một phần tranh chấp giữa nguyên

đơn và bị đơn là thuộc về họ chứ không phải là thuộc về các đương sự khác trong

VA. Đặc biệt, với yêu cầu của mình, họ có thể khởi kiện thành một VVDS độc lập.

Do vậy, Bộ luật TTDSnăm 2015 quy định quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn

(Khoản 2, Điều 73).

Điều 201 Bộ luật TTDS 2015 quy định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu

cầu độc lập khi có đầy đủ các điều kiện như: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến

quyền lợi, nghĩa vụ của họ; yêu cầu của họ có liên quan đến vụ án đang được giải

quyết; yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng vụ án làm cho việc giải

quyết được chính xác và nhanh hơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền

đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,

công khai chứng cứ và hòa giải (Khoản 2 Điều 201 Bộ luật TTDS năm 2015).

- Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng

với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn

Việc tham gia tố tụng của những người này vào quá trình tố tụng do không độc

lập về lợi ích mà lợi ích của họ luôn gắn liền với một bên nguyên đơn hay bị đơn

trong VVDS. Vì vậy, họ không thể một mình tham gia tố tụng mà bao giờ cũng phải

tham gia tố tụng cùng với bên nguyên đơn hoặc cùng với bên bị đơn để cùng với bên

nguyên đơn hoặc bị đơn chống lại yêu cầu của đương sự bên kia. Theo quy định tại

Khoản 3, khoản 4 Điều 73Bộ luật TTDS2015 thì trong trường hợp người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì

45

họ sẽ cùng với nguyên đơn để chống lại bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích của mình.

Trường hợp này họ có các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn. Trong trường hợp

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có

nghĩa vụ thì họ cũng cùng với bị đơn để chống lại nguyên đơn để bảo vệ quyền và lợi

ích cho mình. Trong trường hợp này họ có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn. Tuy

nhiên, chúng tôi cho rằng việc Bộ luật TTDS2015 quy định người có quyền lợi nghĩa

vụ liên quan không có yêu cầu độc lập có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn hoặc của

bị đơn là không hợp lý, bởi vì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có nhiều quyền,

nghĩa vụ tố tụng như của đương sự, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

không có yêu cầu độc lập về đối tượng tranh chấp trong vụ kiện nên không thể có

quyền thoả thuận với đương sự phía bên kia, không có quyền thừa nhận một phần hay

chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự phía bên kia, không có quyền thay đổi, bổ

sung yêu cầu trong vụ kiện [56, tr.47, 48].

2.1.3. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ,

chứng minh

- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Việc cung cấp chứng cứ, chứng minh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối

với việc giải quyết các vụ, việc dân sự, bởi vì chỉ khi TA có đầy đủ các chứng cứ và

các tình tiết của vụ việc đã được làm rõ, thì TA mới có thể giải quyết đúng đắn vụ,

việc dân sự. Trong quá trình TA giải quyết VVDS, hoạt động cung cấp chứng cứ,

chứng minh do nhiều chủ thể tiến hành, tuy vậy hoạt động này hầu hết do đương sự

tiến hành. Sở dĩ như vậy vì bản thân đương sự là người trong quan hệ phát sinh tranh

chấp, hơn ai hết họ là người hiểu hết nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, nội

dung vụ án họ cũng là người đưa ra yêu cầu do vậy họ phải cung cấp chứng cứ cho

TA và chứng minh làm rõ các tình tiết vụ án.

Trong TTDS, việc cung cấp chứng cứ, chứng minh vừa là quyền, vừa là nghĩa

vụ của đương sự (Khoản 1 Điều 6 Bộ luật TTDS 2015). Việc cung cấp chứng cứ và

chứng minh vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự. Việc xác định, cung cấp

chứng cứ, chứng minh là quyền hay nghĩa vụ của đương sự là tuỳ thuộc vào từng

trường hợp, từng bối cảnh cụ thể.

+ Trường hợp chứng cứ cần cung cấp và việc chứng minh chỉ liên hệ đến việc

bảo vệ quyền, nghĩa vụ của bên có yêu cầu. Trong trường hợp người đưa ra yêu cầu

46

có thể từ chối cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc cung cấp chứng

cứ, chứng minh trong trường hợp này là quyền của đương sự và nếu họ không thực

hiện quyền này thì TA có thể chỉ căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải

quyết VA.

+ Trường hợp chứng cứ cần cung cấp có liên hệ đến các đương sự khác, do vậy

người đang giữ chứng cứ có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho TA. Trường hợp này

nếu họ không tự nguyện cung cấp chứng cứ thì TA có quyền thực hiện các biện pháp

cưỡng chế để buộc họ phải cung cấp chứng cứ.

Đối với đương sự, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh là vô cùng quan trọng

để họ làm rõ được cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp của mình và đây là căn cứ để TA

bảo vệ quyền lợi cho họ. Trước TA, nếu đương sự không chứng minh được sự tồn tại

quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có cũng như

không. Bởi vì trên thực tế, các TA cũng có thể sai lầm trong việc xác định các tình

tiết của, từ đó dẫn tới việc giải quyết không đúng với sự thật, đồng thời đương sự

cũng không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật TTDS 2015, đương sự có yêu cầu TA bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho TA tài liệu,

chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; đương sự phản đối

yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập,

cung cấp, giao nộp cho TA tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.

Khi đương sự thực hiện việc nộp đơn khởi kiện VADS, đơn yêu cầu giải quyết

VDS thì đương sự phải cung cấp các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là

có căn cứ và hợp pháp (Điều 189, Điều 362 Bộ luật TTDS năm 2015). Tuy nhiên

trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu,

chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi

kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác người khởi kiện phải tự mình bổ sung

hoặc bổ sung theo yêu cầu của TA trong quá trình giải quyết vụ án.

Đương sự cung cấp chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình

ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết thì TA đều phải tiếp nhận và đưa

vào hồ sơ để làm căn cứ giải quyết.

- Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa

án xác minh, thu thập chứng cứ

47

Trong quá trình TA giải quyết vụ, việc dân sự để việc giải quyết vụ việc được

nhanh chóng và đúng đắn thì đương sự phải cung cấp chứng cứ cho TA. Tuy nhiên,

chứng cứ của vụ án có thể do các đương sự lưu giữ, cũng có thể do cá nhân, cơ quan,

tổ chức khác đang lưu giữ. Vì vậy, theo quy định tại Điều 106 Bộ luật TTDS 2015

các đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý

chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình để giao nộp cho TA.

Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, đương sự

phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp; lý do cung cấp; họ,

tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài

liệu, chứng cứ cần cung cấp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài

liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu;

trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho

người có yêu cầu.

Trong thực tế, đương sự thực hiện quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức

cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan cũng gặp phải nhiều khó khăn. Không ít những

trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các tài liệu, chứng cứ của vụ

việc đã cố tình không cung cấp các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc

cung cấp không đầy đủ, không chính xác. Mặc dù, pháp luật TTDS hiện hành đã có

quy định đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, tổ chức không thi hành quyết định của

TA về việc cung cấp chứng cứ, tài liệu mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang quản lý,

lưu giữ thì có thể bị TA phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên,

nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức cố tình không cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu

của đương sự thì bị xử lý ra sao? pháp luật hiện hành lại không quy định. Chúng tôi

cho rằng để bảo đảm đương sự thực hiện quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức

cung cấp chứng cứ, pháp luật tố tụng cần bổ sung quy định về thời hạn các cá nhân,

cơ quan, tổ chức phải cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của đương sự và trong trường

hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức cố tình không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của

đương sự thì đương sự có quyền yêu cầu TA quyết định xử phạt theo các hình thức

phạt tiền, cảnh cáo. Đồng thời, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cần sớm ban hành văn

bản quy định về thẩm quyền, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố

tụng trong đó có hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các tài liệu

48

chứng cứ nhưng có tình không cung cấp khi được đương sư, TA yêu cầu làm cơ sở

cho việc xử lý trên thực tế.

- Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể

thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám

định, định giá, khiếu nại với VKS về những chứng cứ mà Tòa án đã xác minh, thu

thập do đương sự khác yêu cầu

Về nguyên tắc, đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng không phải trong mọi trường hợp

đương sự đều có thể tự mình thu thập chứng cứ để cung cấp cho TA nhằm chứng

minh cho yêu cầu của mình trước TA. Vì vậy, trong trường hợp đương sự đã không

thể tự mình thu thập được chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu TA xác minh, thu thập

chứng cứ, hoặc có quyền đề nghị TA triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám

định, định giá. Quyền này được ghi nhận tại Khoản 7 Điều 70 Bộ luật TTDS năm

2015. Đương sự đề nghị TA tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ phải làm đơn, có

chữ ký của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của đương sự và phải ghi rõ ràng, cụ thể

vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thể xác

minh, thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên địa chỉ của cơ quan, tổ chức

đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập. Đơn đề nghị xác minh, thu thập chứng

cứ của đương sự phải được lưu vào hồ sơ, TA chỉ chấp nhận và tiến hành xác minh,

thu thập những chứng cứ có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án và theo yêu cầu cụ thể

của đương sự khi có căn cứ để xác định đương sự không thể tự mình thực hiện được

việc xác minh, thu thập chứng cứ đó. Mặt khác, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

của đương sự trong vụ, việc dân sự trong trường hợp TA đã xác minh, thu thập chứng

cứ do đương sự khác yêu cầu mà có đương sự không đồng ý thì đương sự có quyền

khiếu nại với VKS để VKS thực hiện hoạt động kiểm sát hoạt động xác minh, thu

thập chứng cứ của TA.

- Quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự

khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình một cách tốt nhất, pháp luật TTDS quy định đương sự có quyền được

biết, ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình cho

TA hoặc do TA thu thập. Khoản 5 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy

49

định “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho TA thì họ phải sao gửi tài liệu,

chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác;

đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 hoặc tài liệu, chứng cứ

không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc

người đại diện hợp pháp của đương sự khác”. Ngoài ra, đương sự có quyền nhờ TA

hỗ trợ trong việc sao gửi chứng cứ cho các đương sự khác theo khoản 9 Điều 70,

khoản 3 Điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đây là quyền tố tụng mới được pháp luật TTDS hiện hành quy định tương đối

đầy đủ, toàn diện. Với việc ghi nhận quyền này, đương sự có thể đến TA và TA phải

tạo điều kiện cho họ được đọc hồ sơ vụ án, ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ

có trong hồ sơ. Đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có

trong hồ sơ vụ án trước khi TA mở phiên toà xét xử vụ án. Khi có yêu cầu ghi chép,

sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi TA có thẩm quyền. Nếu họ trực

tiếp đến TA trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ, thì họ cũng

phải thể hiện bằng văn bản nộp cho TA. Nếu đương sự là người không biết chữ thì

TA lập biên bản ghi rõ yêu cầu của họ. Biên bản phải được đọc lại cho người có yêu

cầu nghe, ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Đơn hoặc văn bản yêu cầu phải ghi cụ thể

các tên tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp. Trên cơ sở đề nghị của

đương sự, TA tạo điều kiện cho họ được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ mà họ

có yêu cầu để khi TA mở phiên họp công khai chứng cứ thì sẽ công bố để các đương

sự khác biết bằng việc khi đương sự nộp đơn khởi kiện đương sự có nghĩa vụ gửi đơn

khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác cho đương sự theo quy định tại khoản 9 Điều

70 Bộ luật TTDS 2015.

Có thể thấy rằng, quy định trên giúp tăng cường tranh tụng, bảo đảm tính công

khai, dân chủ, công bằng, tạo thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các

quyền và nghĩa vụ trong quá trình tham gia tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích

chính đáng của mình. Tuy nhiên, quy định trên cũng gây khó khăn cho các đương sự

trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp đương sự đã giao tài liệu, chứng cứ

nhưng đương sự khác lại phủ nhận thì việc xác định cơ sở của việc đã giao nhận hay

chưa gặp khó khăn. Chưa kể trong một số trường hợp, các đương sự cố tình che dấu

địa chỉ hoặc lẩn trốn không hợp tác thì việc sao gửi chứng cứ hoàn toàn bế tắc, không

thực hiện được.

50

Theo quy định hiện hành thì các đương sự có nghĩa vụ cung cấp, giao nộp

chứng cứ trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa

giải. Trường hợp không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được thì mở

phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Đây là thủ tục bắt

buộc trước khi đưa vụ án ra xét xử. Thông qua đó, tất cả các tài liệu, chứng cứ có

trong hồ sơ vụ án bao gồm các tài liệu chứng cứ mà các đương sự giao nộp và TA thu

thập được công khai đầy đủ. Đương sự hoàn toàn có thể tiếp cận tài liệu chứng cứ để

có hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, theo chúng tôi TA phải

đảm bảo cho đương sự quyền được tiếp cận tài liệu chứng cứ bằng việc thông báo

hoặc sao gửi và mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ để đương sự thực hiện

quyền và nghĩa vụ của mình, chấp nhận hay không chấp nhận các tài liệu chứng cứ

mà đương sự giao nộp. Không nên quy định đương sự có nghĩa vụ sao gửi tài liệu,

chứng cứ cho đương sự khác.

2.1.4. Các quyền, nghĩa vụ khác của đương sự

- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình

Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự có quyền được

nhận hoặc biết nội dung các văn bản tố tụng. Đương sự có thể nhận được thông báo

hợp lệ thông qua hoạt động cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng do cơ quan

tiến hành tố tụng thực hiện. Ngoài ra, để giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện

việc cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng cho đương sự cũng cần sự trợ

giúp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác như Uỷ ban nhân dân nơi người tham gia

tố tụng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng làm việc, nhân viên

bưu điện và những người khác khi được TA yêu cầu hoặc pháp luật có quy định.

Các văn bản tố tụng được cấp, tống đạt, thông báo và những người được cấp, tống

đạt, thông báo rất phong phú và đa dạng. Do vậy, các phương thức cấp, tống đạt, thông

báo cũng rất đa dạng như trực tiếp, qua bưu điện hoặc qua người thứ ba được uỷ quyền,

niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, để bảo

đảm quyền được nhận thông báo hợp lệ của đương sự thì thủ tục cấp, tống đạt, thông báo

các văn bản tố tụng cho đương sự nói riêng và cho những người được thông báo, cấp,

tống đạt các văn bản tố tụng nói chung phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của Bộ luật

TTDS 2015 (từ Điều 170 đến Điều 181 – Tại chương X). Mặt khác, người có trách

nhiệm thông báo mà không làm đúng trách nhiệm của mình thì tuỳ theo tính chất, mức

51

độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,

nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Quy định về thủ tục thông báo cho đương sự của TA nhằm bảo đảm cho đương

sự có thời gian, điều kiện thuận lợi để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình một

cách tốt nhất, đồng thời không làm kéo dài quá trình giải quyết từ giai đoạn nhận đơn

khởi kiện, sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện và giao nộp các tài liệu chứng cứ kèm theo.

Như vậy, pháp luật TTDS hiện hành quy định đầy đủ, chi tiết về quyền được

nhận thông báo hợp lệ và thủ tục thông báo được xác định là hợp lệ. Tuy nhiên, trên

thực tế do một số nguyên nhân khác nhau dẫn đến đương sự đã không được thông

báo hợp lệ ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Về tính hợp

lệ của việc tống đạt văn bản tố tụng theo Khoản 1 Điều 174 Bộ luật TTDS quy định:

“việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của

Bộ luật TTDS thì được coi là hợp lệ”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do không

quy định chế độ kiểm tra việc chuyển giao cho người được tống đạt từ người trung

gian dễ dẫn đến việc người trung gian không giao hoặc giao không đúng thời hạn cho

người được tống đạt dẫn đến việc người được tống đạt không thể biết việc TA triệu

tập mình để tham gia tố tụng. Theo Điều 172 Bộ luật TTDS quy định, nhân viên tổ

chức dịch vụ bưu chính thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng. Tuy

nhiên, điều luật không quy định cụ thể nghĩa vụ của họ trong việc nhận tống đạt văn

bản tố tụng. Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản để

cụ thể hoá các biện pháp xử lý các hành vi thiếu trách nhiệm của người có trách

nhiệm thông báo văn bản tố tụng.

- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa ánvà chấp hành các quyết định của

Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án

Trong quá trình TA giải quyết các vụ, việc dân sự, để có thể giải quyết vụ, việc

dân sự đúng đắn, phù hợp với các quy định pháp luật nội dung, cũng như pháp luật tố

tụng, TA cần phải tiến hành các hoạt động tố tụng khác nhau như: Thụ lý vụ án, thu

thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật có quy định; tiến hành thủ tục kiểm

tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hoà giải theo quy định của pháp luật;

tiến hành mở phiên toà xét xử vụ án… Khi tiến hành các hoạt động đó, thông thường

TA phải tiến hành triệu tập các đương sự để có thể yêu cầu họ bổ sung đơn khởi kiện,

yêu cầu họ làm bản tự khai hoặc lấy lời khai của họ hoặc để giúp họ hoà giải với nhau

về việc giải quyết vụ án, để họ tham gia phiên toà. Vì vậy, khi đã được TA triệu tập

hợp lệ, đương sự phải có mặt theo giấy triệu tập của TA theo đúng thời gian, địa điểm

52

ghi trong giấy triệu tập. Nếu đương sự vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp họ phải chịu

những hậu quả pháp lý nhất định.

Thực tiễn giải quyết các, đương sự được triệu tập mà vắng mặt có thể vì nhiều

nguyên nhân khác nhau như: Đương sự vắng mặt do họ không được TA triệu tập hợp

lệ; đương sự vắng mặt khi được TA triệu tập hợp lệ nhưng có lý do chính đáng do sự

kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà họ không thể có mặt theo giấy

triệu tập; đương sự được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt...

+ Trường hợp đương sự được triệu tập vắng mặt do việc triệu tập của TA không

hợp lệ: Để bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự, một trong những vấn đề

mang tính nguyên tắc là TA phải tiến hành triệu tập đương sự theo đúng trình tự, thủ

tục do pháp luật TTDS quy định (còn gọi là triệu tập hợp lệ). Nếu TA triệu tập không

hợp lệ đương sự thì việc triệu tập đó không có giá trị pháp lý. Khi TA triệu tập đương

sự không hợp lệ và nếu đương sự vắng mặt thì TA phải hoãn phiên toà và triệu tập

lần tiếp theo bất kể đó là lần vắng mặt lần thứ mấy trong quá trình tố tụng.

+ Trường hợp đương sự được TA triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt: TA đã tiến

hành việc triệu tập đương sự theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhưng

đương sự vắng mặt, theo quy định tại các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật TTDS

2015 tuỳ từng trường hợp mà sẽ có các cách xử lý khác nhau:

* Nếu đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt có lý do chính

đáng thì TA phải hoãn phiên toà.

* Nếu đương sự được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì tuỳ

thuộc nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt thì có thể xử lý như sau:

+ Nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt thì suy đoán

rằng nguyên đơn đã từ bỏ yêu cầu khởi kiện của mình, TA ra quyết định đình chỉ việc

giải quyết vụ án với yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt. Tuy nhiên TA vẫn giải quyết

yêu cầu của những nguyên đơn khác có mặt hoặc yêu cầu của các đương sự khác.

+ Bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt thì TA xét xử vắng

mặt bị đơn.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ

hai mà vẫn vắng mặt thì TA vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

53

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập

hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình

và TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu nguyên đơn và bị đơn đều đồng ý. Trong trường

hợp TA ra quyết định đình chỉ giải quyết Vụ án đối với yêu cầu độc lập thì người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu

thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

Như vậy, pháp luật TTDS hiện hành đã có những quy định về nghĩa vụ đương

sự phải có mặt theo giấy triệu tập hợp lệ của TA và các biện pháp xử lý khi đương sự

được TA triệu tập hợp lệ để tham gia phiên toà sơ thẩm nhưng vắng mặt. Tuy nhiên,

việc xử lý trong trường hợp đương sự vắng mặt chưa được quy định đầy đủ nhiều khi

dẫn đến việc đương sự lạm quyền để trì hoãn tố tụng.

Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, do phạm vi xét xử phúc thẩm có sự khác biệt

với phạm vi xét xử sơ thẩm: Phạm vi xét xử phúc thẩm thường hẹp hơn phạm vi xét

xử sơ thẩm (phạm vi xét xử phúc thẩm rộng nhất bằng phạm vi xét xử sơ thẩm) nên

không phải tất cả các đương sự đã tham gia ở phiên toà sơ thẩm đều phải phải tham

gia ở phiên toà phúc thẩm, đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm bao gồm:

đương sự đã kháng cáo và đương sự không kháng cáo nhưng quyền và nghĩa vụ của

họ có liên quan đến việc xét kháng cáo, kháng nghị. Khi triệu tập các đương sự hợp lệ

tham gia phiên toà phúc thẩm mà đương sự vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp TA phải

giải quyết như sau:

+ Nếu đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà vắng mặt nhưng có

đơn đề nghị TA xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia thì TA

tiến hành xét xử vắng mặt;

+ Nếu đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà vắng mặt lần thứ nhất

(có lý do chính đáng hoặc không có lý do chính đáng) thì TA hoãn phiên toà phúc

thẩm để triệu tập lần tiếp theo;

+ Đương sự kháng cáo được TA phúc thẩm triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà

vắng mặt thì bị coi là đã từ bỏ việc kháng cáo và TA cấp phúc thẩm ra quyết định

đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo

vắng mặt, trừ trường hợp phần vụ án đó có kháng cáo của các đương sự khác hoặc

kháng nghị của VKS;

54

+ Đương sự không kháng cáo nhưng phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà

được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt thì TA tiến hành xét xử vắng mặt

để xét kháng cáo của chủ thể khác hoặc kháng nghị của VKS.

Ngoài ra, nếu đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà vắng mặt

nhưng vì họ gặp trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng xảy ra vào thời điểm

trước ngày TA mở phiên toà phúc thẩm hoặc ngay thời điểm họ đang trên đường đến

TA để dự phiên toà phúc thẩm (do thiên TAi, địch hoạ, bị TAi nạn, ốm nặng phải đi

bệnh viện cấp cứu, người thân chết...) thì TA vẫn phải hoãn phiên toà phúc thẩm để

triệu tập lần tiếp theo.

Như vậy, pháp luật TTDS hiện hành đã có quy định về hậu quả pháp lý của việc

đương sự vắng mặt ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi được TA triệu tập hợp lệ. Tuy

nhiên, vẫn còn một số quy định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có mâu thuẫn cần phải

được sửa đổi bổ sung nhằm bảo đảm nghĩa vụ tham gia của đương sự, đồng thời bảo

đảm sự bình đẳng của các đương sự trong TTDS như đã phân tích trên đây.

- Yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Việc giải quyết vụ án dân sự phải bảo đảm đúng đắn, khách quan. Muốn vậy thì

vai trò của những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa hoặc quá trình tố tụng phải

thật sự khách quan. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thì sự khách quan, vô tư của

những người tiến hành tố tụng không được đảm bảo. Và theo quy định tại Khoản 3

Điều 52 thì Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi

trong những trường hợp:Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích

của đương sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong

cùng vụ việc đó;Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm

nhiệm vụ.

Quyềnyêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

được quy quy định tại Khoản 14 Điều 70 của Bộ luật TTDS năm 2015. Các Điều 53,

54, 60 của Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về các trường hợp thay đổi Thẩm phán,

Hội thẩm nhân dân; Thư ký TA, Thẩm tra viên; Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Điều

55, 61 quy định về thủ tục yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng.

Hiện tại, Bộ luật TTDS cũng chỉ quy định quyền yêu cầu thay đổi người tiến

hành tố tụng nhưng không có bất cứ hình thức, chế tài nào đối với việc yêu cầu không

có căn cứ hoặc không được TA chấp nhận. Điều này dẫn đến việc các đương sự có

thể sử dụng để kéo dài thời gian tố tụng gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc.

55

- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa

TA là chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, đây cũng là chủ

thể duy nhất được sử dụng quyền lực Nhà nước để giải quyết các vụ án dân sự. Khi

thực hiện chức năng và nghĩa vụ của mình, TA tham gia vào hầu hết các quan hệ

pháp luật tố tụng dân sự. Quan hệ pháp luật giữa TA với đương sự là quan hệ mang

tính mệnh lệnh. Mặt khác, đây là nơi giải quyết các lợi ích bị xung đột nên không

tránh khỏi những bức xúc vì cần phải có quy định này thì quá trình xét xử mới diễn ra

theo trình tự, đảm bảo kỷ cương, trật tự tại phiên tòa và thể hiện sự nghiêm minh, tính

răn đe của pháp luật. Việc vi phạm nghĩa vụ này, đương sự sẽ phải chịu những chế tài

nghiêm khắc. Vì vậy, đương sự phải phải tôn trọng TA, chấp hành nghiêm chỉnh nội

quy phiên tòa để quá trình tố tụng nói chung và quá trình tố tụng ở tại phiên tòa nói

riêng được thuận lợi, tạo cơ sở để TA giải quyết vụ án đúng đắn.

- Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa ánđã có hiệu

lực pháp luật

Về nguyên tắc, bản án quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật phải được thi

hành và được mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.

Tuy nhiên, nếu bản án, quyết định đã hiệu lực pháp luật không đúng, thiếu khách

quan thì đương nhiên quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án sẽ bị xâm

phạm. Do đó, để có thể có cơ sở cho các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật,

đương sự có quyền phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền các căn cứ để

kháng nghị.

Để bảo đảm cho các đương sự thực hiện được quyền này đòi hỏi các cơ quan

tiến hành tố tụng, đặc biệt là TA phải xem xét và xử lý kịp thời trong trường hợp sau

khi TA ra bản án, quyết định đã có hiệu lực, nhưng đương sự vẫn có yêu cầu khiếu

nại xem xét lại việc giải quyết. Từ đó có biện pháp xử lý kịp thời nhằm bảo đảm

quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.

- Được cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa án

Nhằm tạo điều kiện cho các đương sự biết được kết quả giải quyết của TA trong

các bản án, quyết định của TA để họ có thể thực hiện quyền kháng cáo của mình đối

với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật hoặc để cho đương sự có

cơ sở yêu cầu thi hành án đương sự có quyền được cấp trích lục bản án, quyết định,

Bộ luật TTDS đã quy định về việc cấp trích lục bản án, quyết định là trách nhiệm của

56

TA đã giải quyết vụ án đó. Khoản 1, Điều 269 Bộ luật TTDS quy định: “Trong thời

hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa, các đương sự, cơ quan, tổ chức,

cá nhân khởi kiện được TA cấp trích lục bản án”.

- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa ánđã có hiệu lực pháp luật

Về nguyên tắc, bản án quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật phải được thi

hành và được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có

nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của TA (Điều 19 Bộ luật TTDS năm 2015).

Khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật, các quyền và nghĩa vụ của

đương sự đã được xác định về mặt pháp lý. Vì vậy, để đảm bảo cho các quyền và

nghĩa vụ này được thi hành, các đương sự phải nghiêm chỉnh thực hiện các bản án,

quyết định có hiệu lực của TA.

- Nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí theo đúng quy định của pháp luật

Án phí là một loại phí được thu khi TA giải quyết các VVDS. Đương sự phải

chịu án phí, bởi vì vụ án dân sự phát sinh phải giải quyết xuất phát từ nguyên nhân

sâu xa là do lỗi của đương sự (bên có nghĩa vụ đã không tự nguyện thực hiện nghĩa

vụ) hoặc là để bảo vệ lợi ích riêng cho các đương sự. Việc nộp tiền tạm ứng án phí, lệ

phí có ý nghĩa quan trọng vì nó mang tính chất răn đe, nâng cao ý thức pháp luật, sự

nghiêm túc của đương sự khi đưa ra quyết định chủ động thực hiện việc khởi kiện.

Việc ấn định mức tạm ứng án phí theo mức tiền án phí đương sự phải nộp trong

các vụ án dân sự, tiền án phí tỉ lệ thuận với tiền tạm ứng án phí, lệ phí.

Nguyên đơn đưa ra yêu cầu, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm

tính theo mỗi yêu cầu của họ. Việc họ nộp tiền tạm ứng án phí là điều kiện không thể

thiếu để TA giải quyết yêu cầu đương sự, Trừ trường hợp đương sự được miễn phí

hoặc miễn nộp tiền tạm ứng án phí (Khoản 2 Điều 195 Bộ luật TTDS năm 2015).

Đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí được nhận lại trong trường hợp họ không

phải chịu án phí. Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí phải chịu án phí thì ngay

sau khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật, số tiền tạm ứng án phí đã thu

được nộp vào ngân sách Nhà nước (Khoản 3 Điều 144 Bộ luật TTDS năm 2015).

Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được TA chấp

nhận, trừ trường hợp được miễn án phí sơ thẩm hoặc không phải nộp án phí sơ thẩm.

Trong trường hợp đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối

57

tài sản chung đó thì mỗi bên đương sự phải nộp án phí tương ứng với phần tài sản mà

họ được hưởng. Trước khi mở phiên tòa, TA tiến hành hòa giải mà các đương sự thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ áthì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí dân

sự phúc thẩm nếu TA cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng

cáo (Điều 148 Bộ luật TTDS năm 2015).

Ngoài ra đương sự trong vụ án dân sự còn phải nộp các khoản lệ phí như lệ phí

cấp bản sao bản án, quyết định hoặc phải nộp các chi phí tố tụng khác theo quy định

của pháp luật như: Chi phí giám định, chi phí làm chứng, chi phí phiên dịch.

2.2. Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự

Trong trường hợp sau khi TA đã thụ lý vụ, việc dân sự mà có đương sự là cá

nhân chết hoặc đương sự là cơ quan, tổ chức bị giải thể, bị tuyên bố phá sản hoặc hợp

nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì có thể quá trình giải quyết

vụ việc bị đình chỉ, tạm đình chỉ nhưng có những trường hợp quyền và nghĩa vụ của

đương sự được dịch chuyển cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Các cá nhân, cơ

quan, tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ tố tụng tiếp tục tham gia tố tụng.

Việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng được thực hiện theo quy định tại Điều

74 Bộ luật TTDS 2015, theo đó trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố

tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được người thừa kế tham gia tố tụng.

Người thừa kế của đương sự được xác định theo quy định về thừa kế của Bộ luật dân

sự 2015. Nếu trong trường hợp có nhiều người thừa kế (thừa kế theo di chúc hoặc

theo pháp luật) thì về nguyên tắc, tất cả những người thừa kế tham gia tố tụng hoặc

họ phải thoả thuận với nhau bằng văn bản để cử người đại diện tham gia hoặc cùng

ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng. Trường hợp tất cả người thừa kế

đều từ chối nhận di sản, không có người thừa kế hoặc có người thừa kế nhưng người

thừa kế không được hưởng thì tài sản thuộc về Nhà nước, sau khi đã thực hiện việc

thanh toán các nghĩa vụ theo thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 658 BLDS 2015.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là về nguyên tắc tài sản đó thuộc về Nhà nước TA phải tiếp

tục giải quyết vụ, việc dân sự nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đại diện cho lợi

ích của Nhà nước tham gia tố tụng trong trường hợp này pháp luật tố tụng hiện hành

không có quy định. Ngoài ra, cần phải phân biệt trường hợp này với trường hợp

nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được

58

thừa kế thì TA sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ, việc dân sự và vấn đề

thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng không đặt ra.

Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng phải chấm dứt

hoạt động, bị giải thể, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức thì việc kế

thừa quyền, nghĩa vụ TTDS đó được xác định như sau:

- Nếu tổ chức phải chấm dứt hoạt động (bị giải thể hoặc phá sản) là công ty cổ

phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh thì cá nhân, tổ chức là thành

viên của tổ chức đó hoặc đại diện của họ tham gia tố tụng.

- Nếu cơ quan, tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể là cơ quan nhà

nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức

xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thì đại diện hợp pháp

của cơ quan, tổ chức được giao tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó

tham gia tố tụng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong trường hợp cơ quan, tổ chức

đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, tổ chức, cơ quan kế thừa

quyền, nghĩa vụ của cơ quan tổ chức đó thì TA sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải

quyết vụ, việc dân sự (điểm b khoản 1 Điều 217 Bộ luật TTDS 2015).

- Nếu tổ chức được tổ chức lại bằng cách hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển

đổi hình thức tổ chức thì cá nhân, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của tổ chức

đó sẽ tham gia tố tụng (Điều 74 Bộ luật TTDS 2015).

- Nếu đương sự là tổ chức không phải là pháp nhân mà người đại diện hoặc

người quản lý đang tham gia tố tụng chết thì tổ chức đó phải cử người khác làm đại

diện để tham gia tố tụng. Nếu tổ chức đó phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể thì cá

nhân là thành viên của tổ chức đó tham gia tố tụng (Điều 74 Bộ luật TTDS 2015).

2.3. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam trong xét sử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tình Thái Nguyên

2.3.1. Khái quát tình hình xã hội của tỉnh Thái Nguyên liên quan đến việc

thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự

Tỉnh Thái nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của

trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng

trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tỉnh Thái Nguyên hiện nay có tổng

diện tích tự nhiên 3562,82 km2, với 9 đơn vị hành chính. Dân số Thái Nguyên khoảng

1,2 triệu người, trong đó có 8 dân tộc chủ yếu sinh sống đó là Kinh, Tày, Nùng, Sán

59

dìu, H’mông, Sán chay, Hoa và Dao. Tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng

loại, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim,

khai khoáng… Hạ tầng cơ sở như hệ thống điện, nước, bưu chính viễn thông, giao

thông (kể cả đường bộ, đường sắt và đường thuỷ) phát triển khá hoàn thiện và thuận

lợi. Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm gần đây có nhiều

thuận lợi song cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Qua những năm xây dựng và trưởng thành, với sự nỗ lực đồng lòng của tập thể

cán bộ công chức, Tòa án hai cấp tỉnh Thái Nguyên mà tiền thân là TAND tỉnh Bắc

Thái đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Đó là sự cần thiết về cơ cấu tổ chức,

sự lớn mạnh về năng lực chuyên môn và sự vững vàng về phẩm chất đạo đức, nhận

thức chính trị của cán bộ công chức tại các Tòa chuyên trách và phòng nghiệp vụ của

TAND tỉnh Thái Nguyên và 09 TAND cấp huyện. Theo số liệu thống kê chính thức

đến hết năm 2019, Tòa án hai cấp tỉnh Thái Nguyên có 155 biên chế, trong đó có 68

Thẩm phán, 62 thư ký và thẩm tra viên và 25 chức danh khác. Về trình độ học vấn: có

24 công chức có trình độ thạc sỹ, 127 công chức có trình độ cử nhân, 04 công chức có

trình độ dưới Đại học. Về trình độ lý luận chính trị: có 21 công chức có trình độ lý

luận cao cấp và cử nhân, 74 công chức có trình độ lý luận trung cấp. Hầu hết tất cả

công chức đều có trình độ cơ sở về tin học và ngoại ngữ. Bên cạnh đó, có 138 công

chức là Đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

Thái Nguyên còn có Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xử xét theo quy định

của pháp luật.

Từ những đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội đã có những ảnh

hưởng nhất định tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật tố

tụng dân sự trong xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên.

Thứ nhất, Thái Nguyên là một tỉnh miền núi trung du Bắc bộ với những đặc

điểm tự nhiên và dân cư đã phân tích ở trên đã gây không ít khó 14 khăn cho công tác

điều tra, xác minh, định giá, triệu tập các đương sự (giao thông, đi lại, công tác văn

thư chuyển chậm…).

Thứ hai, điều kiện cơ sở vật chất của ngành TA ở Thái Nguyên và nguồn kinh

phí hoạt động cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự

theo pháp luật tố tụng dân sự trong xét xử sơ thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên.

60

2.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật

tố tụng dân sự Việt Nam trong xét sử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tình Thái Nguyên

2.3.2.1. Những kết quả đạt được

Trong thời gian qua, số lượng vụ, việc dân sự mà các TA trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên thụ lý và giải quyết tương cao và không ngừng tăng lên qua các năm. Trong

giai đoạn 2016 – 2018 tổng số mà TA thụ lý là 12065 vụ. Theo dõi qua các năm cho

thấy xu hướng các thụ lý hàng năm tăng lên, cụ thể: Năm 2016 tổng số vụ thụ lý là

3333 vụ; năm 2017 là 3976 vụ, tăng 643 vụ (19,29%) so với năm 2016; năm 2018 là

4756 vụ, tăng 780 vụ (19,62%) so với năm 2017. Trong 12065 vụ thụ lý, TA đã giải

quyết được 10620 vụ, chiếm 88,02%. Số vụ được TA giải quyết cũng tăng lên qua

các năm, cụ thể: Năm 2016 giải quyết 3124 vụ; năm 2017 giải quyết 3532 vụ, tăng

408 vụ (13,06%) so với năm 2016; năm 2018 giải quyết 3964 vụ, tăng 432 vụ

(12,23%) so với năm 2017. Trong 10620 vụ việc mà TA đã giải quyết trong giai đoạn

này thì công nhận sự thỏa thuận của các đương sự 4696 vụ, chiếm 44,22% (công

nhận thỏa thuận ly hôn); hòa giải thành 381 vụ, chiếm 3,59%; đình chỉ 1753 vụ,

chiếm 16,51%; xét xử hoặc mở phiên họp 3735 vụ, chiếm 35,17%. [xem Phụ lục 1].

Thực tiễn trong những năm qua thấy rằng, việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh

luận tại phiên toà tiếp tục được triển khai thực hiện trong tất cả các phiên tòa xét xử

các loại vụ án. Quá trình giải quyết các vụ án, TA đã đảm bảo cho mọi công dân thực

hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật quy định, như đảm bảo sự có mặt tại phiên tòa,

quyền cung cấp chứng cứ, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền

tranh luận tại phiên tòa... Do đó, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục

được đảm bảo và có những tiến bộ nhất định, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa

có giảm xuống. Cụ thể: Tổng số bản án sơ thẩm bị hủy, sửa trong phúc thẩm lần lượt

là 84 và 121 vụ. Trong đó, năm 2017 hủy 17 bản án (giảm so với 34 của năm 2016),

sửa 38 bản án (ngang bằng với năm 2016); năm 2018 hủy 33 bản án (tăng so với 17

của năm 2017), sửa 45 bản án (giảm so với 38 của năm 2017). [xem Phụ lục 2].

Việc giải quyết các VVDS cơ bản đã bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các

bên đương sự. Để đương sự thực hiện tốt việc khởi kiện hay việc yêu cầu giải quyết

các vụ, việc dân sự, TA hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã cho niêm yết các mẫu đơn theo

quy định hướng dẫn việc viết đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cũng như cách thức và thời

gian nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, đồng thời thông báo về yêu cầu giao nộp

61

những tài liệu, chứng cứ cần thiết kèm theo đơn đối với những vụ việc cụ thể. Ngoài

ra, lãnh đạo các Toa án cũng thường xuyên tiến hành việc kiểm tra công vụ, giao ban

hàng tuần, tháng để đôn đốc các Thẩm phán và các cán bộ TA thực hiện các công

việc nhận đơn, hướng dẫn đương sự sửa đổi, bổ sung đơn trực tiếp hoặc có văn bản

trả lời, hướng dẫn gửi qua bưu điện; tiến hành xem xét thụ lý, trả lời đơn cho đương

sự, tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử khẩn trương đúng thủ tục và thời hạn. Vì

vậy, tỷ lệ số vụ việc được TA thụ lý giải quyết trên tổng số các vụ việc mà TA nhận

đơn rất cao.

2.3.2.2. Những hạn chế, thiếu sót

Bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình giải quyết các vụ, việc vẫn còn

những hạn chế, thiếu sót, những vi phạm của TA hoặc của đương sự hoặc của người

tham gia tố tụng khác trong việc thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về

quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Hạn chế, thiếu sót thể hiện qua số lượng bản án sơ thẩm bị hủy, sửa trong

phúc thẩm: Với tổng số 10620 vụ việc được TA giải quyết trong giai đoạn 2016 –

2018, đã có 419 kháng cáo, kháng nghị, chiếm 3,94% số vụ việc giải quyết. Trong

419 kháng cáo, kháng nghị được TA chấp nhận và đưa ra phúc thẩm có 205 bản án bị

hủy, sửa, chiếm 49,04%. Đáng chú ý, trong số 205 bản án sơ thẩm bị hủy, sửa thì có

165 bản án là do xét xử sơ thẩm sai, chiếm 80,49% [xem Phụ lục 2]. Điều này cho

thấy công tác giải quyết của TAND tỉnh Thái Nguyên còn những hạn chế, thiếu sót

trong quá trình giải quyết. Những hạn chế, thiếu sót này ảnh hưởng lớn đến việc đảm

bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS ở tỉnh Thái Nguyên.

- Những hạn chế, thiếu sót trong việc đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ

của mình

Pháp luật TTDS hiện hành quy định các quyền và nghĩa vụ của đương sự là cơ

sở pháp lý cho các đương sự khi tham gia tố tụng thực hiện được đúng và đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp về

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy nhiên, trong

thực tiễn giải quyết các ở TA vẫn còn xuất hiện một số trường hợp đương sự đã thực

hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình hoặc đương sự

có những hành vi cản trở, trì hoãn hoạt động tố tụng.

62

+ Đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình không đúng, không đầy

đủ như: Khi khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết VDS đương sự đã không thực hiện

được đúng và đầy đủ các điều kiện khởi kiện, điều kiện yêu cầu như: Đơn khởi kiện,

đơn yêu cầu không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, kèm theo đơn

còn thiếu những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện, yêu cầu hoặc đương

sự khởi kiện, yêu cầu TA giải quyết cả những vụ việc không thuộc thẩm quyền giải

quyết của TA hoặc thuộc thẩm quyền của TA khác chứ không phải thuộc thẩm quyền

của TA đã nhận được đơn của đương sự. Đặc biệt, có một số trường hợp đương sự uỷ

quyền không đúng thủ tục đã dẫn đến TA cấp trên phải huỷ bản án sơ thẩm của TA

cấp dưới. Một số trường hợp khi nhận đơn người nhận đơn xem xét thấy đơn của

đương sự về hình thức và nội dung không theo quy định của pháp luật hoặc còn thiếu

các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện thì TA yêu cầu đương sự bổ sung.

Trên thực tế, đã có trường hợp sau khi đương sự đã được TA giải thích nhưng cố tình

không sửa đổi, bổ sung theo hướng dẫn mà lợi dụng việc pháp luật cho phép đương

sự gửi đơn qua đường bưu điện để gửi lại chính đơn khởi kiện mà trước đó đã bị TA

trả lại [tổng hợp từ tài liệu số 65]. Việc làm trên đây đã gây khó khăn rất lớn cho TA

khi phải xem xét, giải thích và trả lời cho đương sự bằng việc phải gửi văn bản trả lời,

hướng dẫn qua bưu điện làm tốn thời gian, tiền bạc không cần thiết.

+ Trong một số trường hợp khi được TA triệu tập hợp lệ, đương sự có nghĩa vụ

phải có mặt theo giấy triệu tập của TA. Tuy nhiên, thực tiễn còn xuất hiện không ít

trường hợp đương sự mà chủ yếu là bị đơn đã nêu ra đủ các lý do để không có mặt

theo giấy triệu tập của TA dẫn đến việc TA phải hoãn phiên toà nhiều lần làm kéo dài

quá trình giải quyết[tổng hợp từ tài liệu số 65].

+ Một số trường hợp đương sự có hành vi gây khó khăn cho TA trong việc xác

minh, thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật (TA xét thấy cần xác minh, thu

thập chứng cứ nhưng TA chỉ có thể tiến hành khi đương sự có đơn yêu cầu TA xác

minh, thu thập chứng cứ, tuy nhiên đương sự đã không yêu cầu mặc dù đã được TA

giải thích, hướng dẫn; đương sự có hành vi cản trở hoạt động tố tụng như đương sự

cố tình khai báo không đúng sự thật, đe doạ, hành hung hoặc mua chuộc người làm

chứng, cố tình lẩn trốn việc giám định, gây khó khăn cho TA khi tiến hành biện pháp

thẩm định, xem xét tại chỗ, phân tán tài sản tranh chấp, làm giả, sửa chữa chứng

cứ...)[tổng hợp từ tài liệu số 65].

63

+ Có trường hợp giữa các đương sự có mâu thuẫn trầm trọng, nên mặc dù

đương sự đã thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác nhưng

đương sự nhận lại không xác nhận việc đã được sao gửi tài liệu, chứng cứ. Bên giao

cũng không có cơ sở chứng minh việc mình đã sao gửi. Ngoài ra, một số trường hợp

các đương sự cố tình che dấu địa chỉ hoặc lẩn trốn không hợp tác dẫn đến việc sao

gửi chứng cứ hoàn toàn bế tắc, không thực hiện được[tổng hợp từ tài liệu số 65].

- Hạn chế, thiếu sót trong việc TA đảm bảo thực hiện các quy định của pháp

luật TTDS về quyền tố tụng của đương sự

Về cơ bản các TA đã tôn trọng và bảo đảm cho các đương sự thực hiện các

quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vẫn còn xuất

hiện một số trường hợp TA đã không tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền,

nghĩa vụ tố tụng của đương sự.

+ Tóa án xác định không đúng thành phần đương sự dẫn đến ảnh hưởng tới việc

thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự [tổng hợp từ tài liệu số 65].

Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ của

đương sự tại tỉnh Thái Nguyên cho thấy, trong số những sai lầm, vi phạm của TA khi

giải quyết các vụ, việc dân sự là xác định sai thành phần, tư cách của đương sự hoặc

không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng đã dẫn đến

hậu quả là các bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó bị TAcấp phúc thẩm huỷ án.

Mặc dù là những thiếu sót, sai lầm không mang tính phổ biến, nhưng hàng năm các

thiếu sót này đều được kết luận và rút kinh nghiệm trong các Báo cáo tổng kết của

ngành TA và trong các Báo cáo tham luận của các Toà chuyên trách trực thuộc TA

nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại Hội nghị tổng kết công tác hàng năm. Cụ thể: Trong

Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 đã kết luận như sau: Trong công tác giải quyết,

xét xử các... TA xác định sai tư cách hoặc thiếu người tham gia tố tụng dẫn đến quyết

định sai lầm hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên TA tỉnh phải hủy, sửa án.

Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 có nêu: Trong công tác giải quyết, xét xử các

còn những sai lầm, vi phạm như: trong nhiều trường hợp còn vi phạm pháp luật tố

tụng xác định sai tư cách hoặc không đưa người tham gia tố tụng là người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2017

của TA tỉnh Thái nguyên, Tòa dân sự trong tham luận đã chỉ ra những vấn đề cần rút

kinh nghiệm về tố tụng đều là khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện các quy

64

định của pháp luật TTDS về đương sự hoặc quyền và nghĩa cụ của đương sự. Bao

gồm: sai sót do không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng như bỏ sót người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan; TA cấp sơ thẩm bỏ sót người tham gia tố tụng. Báo cáo tổng

kết năm 2018 và Báo cáo 06 tháng đầu năm 2019 những sai lầm, vi phạm của TA

trong việc thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng

lại được đề cập là một trong những vi phạm mà ngành TA vẫn mắc phải cần phải

được khắp phục, hạn chế như: không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào

tham gia tố tụng, TA cấp sơ thẩm còn vi phạm nghiêm trọng thủ tục tó tụng…

Tiêu biểu: Bà N khởi kiện bả M về tranh chấp quyền sử dụng đất (hai hộ liền

kề) theo đó: Bà N nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng P từ năm

1994, khi nhận chuyển nhượng các bên không xác định vị trí, mốc lộ giới cụ thể (do

đất tại nông thôn, các hộ vẫn sử dụng theo bản đồ 299) trước đó bà M cũng được Hợp

tác xã T bán đất diện tích 450 m2 tuy nhiên cũng không xác định mốc lộ giới cụ thể

(do đất tại nông thôn) trong giấy tờ ghi phần diện tích. Quá trình giải quyết tại TA

cấp sơ thẩm xác định phần diện tích bà M sử dụng thừa so với diện tích đã được cấp

quyền sử dụng đất, tuy nhiên phần diện tích đất bà N sử dụng cũng vẫn còn thừa. Tuy

nhiên trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm TA không đưa vợ chồng P vào tham

gia tố tụng xác định vị trí, ranh giới, diện tích cụ thể khi chuyển nhượng, không xác

minh tại Hợp tác xã P (nay đã không còn tồn tại thì cơ quan, tổ chức nào kế thừa

quyền và nghĩa vụ) để xác định quyền và nghĩa vụ nên đã vi phạm nghiêm trọng thủ

tục tố tụng, do vậy TA cấp phúc thẩm đã hủy án sơ thẩm giao hồ sơ cho TA cấp sơ

thẩm giải quyết lại.

+ TA khi trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện không có văn bản kèm theo

giải thích rõ lý do của việc trả lại đơn dẫn đến việc đương sự khiếu nại gay gắt hay

vẫn còn trường hợp TA tiếp nhận cả những tài liệu, chứng cứ của đương sự là các bản

photocopy không có công chứng, chứng thực trong đó có cả những tài liệu quan trọng

làm cơ sở cho việc giải quyết Vụ án[tổng hợp từ tài liệu số 65].

+ Vẫn còn tình trạng TA không thụ lý và trả lại đơn khởi kiện không đúng, xâm

phạm tới quyền khởi kiện vụ án, quyền yêu cầu giải quyết VDS của đương sự như:

Trường hợp việc khởi kiện, yêu cầu của đương sự đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện

khởi kiện, điều kiện yêu cầu theo quy định của pháp luật nhưng TA đã không thụ lý

vụ việc và trả lại đơn với những lý do không có cơ sở hoặc xảy ra tình trạng “đùn

65

đẩy” trách nhiệm giải quyết vụ việc giữa các TA với các cơ quan hữu quan[tổng hợp

từ tài liệu số 65].

Bên cạnh đó, thực tiễn cũng có trường hợp TA thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu

cầu giải quyết không đúng do TA không có thẩm quyền hoặc chưa đủ điều kiện khởi

kiện; không xác định đúng các vấn đề mà đương sự yêu cầu vì vậy khi giải quyết bỏ

sót yêu cầu của đương sự hoặc giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự;

không triệu tập đầy đủ các đương sự tham gia tố tụng, xét xử vắng mặt đương sự hoặc

hoãn phiên toà không đúng quy định của pháp luật; vi phạm thời hạn giải quyết làm

quá trình giải quyết vụ việc bị kéo dài; công nhận sự thoả thuận của đương sự không

đúng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của đương sự khác... [tổng hợp từ tài liệu số 65].

+ Trong quá trình giải quyết các để bảo đảm cho các đương sự thực hiện các

quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình đòi hỏi TA cần phải triệu tập hợp lệ đương sự

tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn việc triệu tập, tống đạt vẫn còn trường hợp

không được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng như khi thấy đương

sự không hợp tác với TA thì Thẩm phán cho rằng có đến giao giấy triệu tập hoặc tống

đạt trực tiếp cho họ thì họ cũng không nhận nên đã đưa đi niêm yết tại chính quyền

địa phương luôn mà không lập biên bản về việc không tống đạt trực tiếp được...

Ngoài ra, khi đương sự đã được TA triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt thì TA có

thể xét xử vắng mặt hoặc đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đương sự đó. Nhưng

trong thực tiễn giải quyết các còn xuất hiện những trường hợp TA xét xử vắng mặt

đương sự không đúng, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đương sự không

đúng[tổng hợp từ tài liệu số 65].

2.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

- Nguyên nhân từ phía đương sự: Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nên điều

kiện kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật

của người dân nói chung, của phần lớn các đương sự trong các nói riêng còn nhiều

hạn chế dẫn đến việc họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố

tụng không tốt. Khi quyền lợi bị vi phạm hoặc có tranh chấp họ có thể không nhận

thức được hoặc nhận thức không đầy đủ về sự vi phạm hoặc tranh chấp đó và khi

nhận thức được thì cũng không biết được cần yêu cầu giải quyết ở đâu? theo thủ tục

như thế nào? để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi tham gia tố tụng, do

66

hiểu biết pháp luật hạn chế đã dẫn đến việc đương sự thực hiện quyền của mình

không đúng.

Thực trạng ý thức pháp luật của người dân nói chung và của đương sự nói riêng

hạn chế cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc trong một số trường hợp

đương sự cố tình thực hiện sai hay có những hành vi cản trở việc giải quyết của TA

hoặc cố tình thực hiện sai hay có những hành vi cản trở việc giải quyết của TA.

- Nguyên nhân từ phía TA:

+ Mặc dù, đội ngũ cán bộ TA trong thời gian vừa qua đã không ngừng được bổ

sung về số lượng, nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ tuy nhiên trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật của một số Thẩm phán vẫn chưa đáp ứng được yêu

cầu của nhiệm vụ đặt ra.

+ Vẫn còn một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn đến sa sút về phẩm chất,

đạo đức nghề nghiệp, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật. trong khi đó, việc xử lý cán

bộ có vi phạm chưa nghiêm, nên tác dụng giáo dục và phòng ngừa chưa cao. Tồn tại

này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu quả của việc giải quyết các và việc thực hiện

các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong các.

+ Ngoài ra, việc tổ chức công tác xét xử, quản lý, điều hành các công tác khác ở

một số TA chưa khoa học, chưa kịp thời và chưa chủ động đề ra các biện pháp có

hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác. Công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm

trong giải quyết, trong bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS cũng

chưa được quan tâm, do đó, việc khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, nhất là

trong công tác xét xử chưa thật sự hiệu quả.

- Nguyên nhân từ những hạn chế của các quy định pháp luật tố tụng hiện hành

về đương sự: Như đã phân tích, đánh giá trong Chương 2 thì một số quy định của

pháp luật hiện hành về đương sự còn thiếu hoặc có nhưng chưa rõ ràng, chưa đầy đủ

hoặc còn bất cập. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại

trong thực tiễn thực hiện các pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Nguyên nhân từ sự phức tạp của các VVDS: Số VVDS mà TA tỉnh Thái

Nguyên thụ lý hàng năm rất nhiều, mặt khác tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực dân

sự, hôn nhân và gia đình ngày càng có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành,

nghề, nhiều đối tượng tranh chấp... nên công tác giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn

nhân và gia đình còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

67

Kết luận Chương 2

Trong chương 2, luận văn đã phân tích làm rõ quy định của pháp luật TTDS

hiện hành về quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Qua đó thấy rằng:

1. Bộ luật TTDS 2015 đã quy định tương đối đầy đủ, chi tiết về quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong TTDS. Các quy định này là cơ sở pháp lý cho TA bảo đảm

việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự, đồng thời là cơ sở để các đương sự

thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong quá trình giải quyết các vụ,

việc dân sự.

2. Qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về quyền và

nghĩa vụ của đương sự trong, thấy rằng vẫn còn một số quy định của pháp luật TTDS

còn chưa đầy đủ, chi tiết mà mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, do đó có thể

dẫn đến cách hiểu và thực hiện khác nhau.

68

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

KHẢ NĂNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam

3.1.1. Phải thể chế hóa được chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư

pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và đẩy mạnh việc xây dựng nền tư pháp

phụng sự, liêm khiết, vững mạnh, độc lập để tăng cường pháp chế XHCN. Điều này

thể hiện xuyên suốt trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng

đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư pháp. Điều này được thể hiện rõ

trong các Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW của

Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII.

Cải cách tư pháp phải dựa trên quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Về bản chất, nhà nước

pháp quyền XHCN là nhà nước dân chủ. Trong nhà nước pháp quyền, chủ quyền của

nhân dân là hình thức thể hiện cao nhất của dân chủ, chủ quyền của nhân dân bao giờ

cũng cao hơn chủ quyền nhà nước, bởi nhà nước là công cụ để bảo đảm thực sự chủ

quyền của nhân dân bảo vệ pháp luật và phục vụ nhân dân. Nhà nước pháp quyền là

nhà nước bảo đảm công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế. Nhà nước bảo đảm cho

mọi công dân đều bình đẳng. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó công

chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, còn công dân được làm

những gì mà pháp luật không cấm. Nhà nước đó phải có một hệ thống pháp luật

thống nhất, toàn diện, đồng bộ với kỹ thuật lập pháp cao và bảo đảm cho hệ thống

pháp luật đó thực sự đi vào cuộc sống.

Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong TTDS và tăng cường khả năng thực hiện các quyền này phải đáp

ứng được các yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong đó phải

69

đảm bảo bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ

quyền con người; thực hiện mô hình tố tụng “xét hỏi kết hợp với tranh tụng”; xác

định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham

gia tố tụng; thực hiện tốt việc tranh tụng xem đó là khâu đột phá của hoạt động xét

xử; tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình; hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng cơ chế

xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định;

khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải,

trọng tài, TA hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó.

Ngoài ra, để hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền hạn của các cơ quan tư pháp, bổ

trợ tư pháp làm ảnh hưởng tới việc tham gia tố tụng, việc thực hiện các quyền tố tụng

của đương sự cần nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các tổ

chức và nhân dân đối với hoạt động xét xử của TA và hoạt động của các cơ quan tư

pháp khác. Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật về đương sự phải thực hiện đồng bộ với các giải pháp khác nhằm bảo

đảm cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như tạo cơ

chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền của

đương sự.

3.1.2. Phải trên cơ sở đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự Việt Nam

Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của sự nghiệp xây dựng đất nước, khẳng định con người là trung tâm của các chính

sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho

sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm phấn đấu

cho mục tiêu “Dân chủ, dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh”, tất cả vì con

người và cho con người. Các quyền con người đã được thể hiện xuyên suốt trong

Hiến pháp, đặc biệt tập trung tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

bản của công dân và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác như Bộ luật

dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ luật hình sự 2015, Bộ luật tố tụng hình

sự… Trong đó, quyền con người trong Tố tụng dân sự hiện nay được rất quan tâm.

Mỗi cá nhân là một chủ thể thụ hưởng các quyền con người và cũng là chủ thể

thực hiện các quyền đó. Trong quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể luôn hướng tới

xác lập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình về quyền nhân thân và quyền tài

sản. Nếu phát sinh các tranh chấp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích, thông thường các

70

chủ thể lựa chọn phương thức bảo vệ thông qua Toà án bằng con đường Tố tụng dân

sự. Giải quyết tranh chấp dân sự trong tố tụng dân sự gồm cả giải quyết tranh chấp

dân sự, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình.

Việc giải quyết các VVDS tại Toà án được nhận thức là công cụ bảo vệ quyền

con người thông qua hoạt động xét xử độc lập, khách quan, công bằng bởi thủ tục tố

tụng chặt chẽ, minh bạch, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, cũng như hạn chế được việc lợi dụng tiến hành tố tụng xâm phạm quyền

con người của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì lẽ đó, việc bảo đảm quyền con người

trong tố tụng dân sự đòi hỏi phải được tiếp cận trong tổng thể quyền dân sự của con

người, gắn với toàn bộ quá trình tố tụng dân sự: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí,

thụ lý đến giai đoạn xét xử, ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án dân sự.

Do đó, hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam đòi hỏi phải trên cơ sở đảm bảo quyền

con người trong tố tụng dân sự Việt Nam.

3.2. Phải bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên

Ngày nay, toàn cầu hoá và hội nhập là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế

giới. Các quốc gia đang tham gia tích cực và chủ động vào các mối quan hệ quốc tế.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã tích cực tham gia vào

các liên kết đa phương và thiết lập các mối quan hệ hợp tác song phương như trở

thành thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), của Tổ chức thương

mại thế giới (WTO)… cũng như ký một loạt các hiệp định thương mại song phương

với các nước đối tác.

Khi tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế nói trên, Việt Nam có nghĩa vụ thực

hiện đầy đủ các cam kết của mình, trong đó có yêu cầu phải đảm bảo sự phù hợp của các

quy định pháp luật trong nước nói chung và các quy định của pháp luật TTDS nói riêng

về đương sự với các quy định trong khuôn khổ của liên kết kinh tế quốc tế đó.

Việc xây dựng, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật TTDS nói chung,

quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS nói riêng, cũng như việc thực thi các

quy định pháp luật đó phải được xem xét trên cơ sở bảo đảm tính tương thích với các

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Việt Nam có thể tham gia. Điều

này được thể hiện qua nội dung của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và

Luật Điều ước quốc tế quy định về thẩm định các văn bản liên quan. Khoản 1 Điều 6

Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định: Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật

71

và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có

quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế

đó, trừ Hiến pháp. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế,

Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều

ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước

quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước

quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung,

bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong

Tố tụng dân sự Việt Nam và nâng cao khả năng thực hiện tại Tòa án nhân dân

tỉnh Thái Nguyên

3.2.1.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong Tố tụng dân sự Việt Nam

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản liên quan đến quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong Bộ luật TTDS năm 2015

- Bổ sung phương thức khởi kiện: Pháp luật TTDS hiện hành vẫn không quy

định về việc cho phép đương sự thực hiện việc khởi kiện bằng việc trực tiếp đến TA

để trình bày trong trường hợp đương sự không tự làm đơn được như họ không biết

chữ hoặc người tàn tật hoặc do trình độ dân trí thấp nên không thể tự mình trình bày

các nội dung của đơn khởi kiện theo yêu cầu của TA đã dẫn đến việc khó khăn cho

đương sự.

Do đó, theo chúng tôi cần bổ sung vào Khoản 1 Điều 190 phương thức khởi

kiện sau: “Trình bày trực tiếp yêu cầu khởi kiện tại TA”.

- Sửa đổi câu chữ về yêu cầu phản tố tại Khoản 1 Điều 200: Câu chữ theo quy

định tại Khoản 1 Điều 200 của Bộ luật TTDS 2015 có thể dẫn đến cách hiểu không

hợp lý về thời điểm bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố, khi cho rằng bị đơn chỉ

được đưa ra yêu cầu phản tố trong thời hạn và thời điểm mà bị đơn phải nộp văn bản

ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện, tức là trong thời hạn không quá 30

ngày kể từ ngày bị đơn nhận được thông báo thụ lý vụ án.

Do đó, theo chúng tôi cần diễn đạt lại Khoản 1 Điều 200 như sau: “Bên cạnh

việc phải nộp cho TA văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị

đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan có yêu cầu độc lập.

72

- Về quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự: Chúng tôi thấy rằng

việc các đương sự đưa ra yêu cầu TA giải quyết thì đương sự phải chịu trách nhiệm

về yêu cầu của mình trước các đương sự khác. Do đó, theo chúng tôi cần bổ sung vào

Điều 217, 218 nội dung: Việc rút đơn khởi kiện chỉ được coi là hoàn thành khi có sự

chấp thuận của bị đơn.

- Quyền chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của người khác của đương sự: Pháp luật

TTDS hiện hành lại không quy định về hậu quả pháp lý khi đương sự không nộp văn

bản nêu ý kiến của mình trong thời hạn quy định tại Điều 199 Bộ luật TTDS. Do đó,

theo chúng tôi cần bổ sung vào Điều 199 thêm khoản: Hậu quả pháp lý khi bị đơn,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không nộp văn bản nêu ý kiến của mình đối

với yêu cầu của nguyên đơn.

- Về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu TA

xác minh, thu thập chứng cứ: Chúng tôi cho rằng để bảo đảm đương sự thực hiện

quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ, pháp luật tố tụng cần bổ

sung quy định về thời hạn các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải cung cấp chứng cứ theo

yêu cầu của đương sự và trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức cố tình không

cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của đương sự thì đương sự có quyền yêu cầu TA

quyết định xử phạt theo các hình thức phạt tiền, cảnh cáo.

Đồng thời, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cần sớm ban hành văn bản quy định về

thẩm quyền, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong đó có

hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các tài liệu chứng cứ nhưng có

tình không cung cấp khi được đương sư, TA yêu cầu làm cơ sở cho việc xử lý trên

thực tế.

- Sửa đổi và gộp Khoản 8 và Khoản 9 Điều 70: Theo chúng tôi TA phải đảm

bảo cho đương sự quyền được tiếp cận tài liệu chứng cứ bằng việc thông báo hoặc

sao gửi và mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ để đương sự thực hiện quyền

và nghĩa vụ của mình, chấp nhận hay không chấp nhận các tài liệu chứng cứ mà

đương sự giao nộp. Tức là trong các điều luật không nên quy định đương sự có nghĩa

vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.

Bởi, quy định như Khoản 9 Điều 70 cũng gây khó khăn cho các đương sự trong

quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp đương sự đã giao tài liệu, chứng cứ nhưng

đương sự khác lại phủ nhận thì việc xác định cơ sở của việc đã giao nhận hay chưa

gặp khó khăn. Chưa kể trong một số trường hợp, các đương sự cố tình che dấu địa chỉ

73

hoặc lẩn trốn không hợp tác thì việc sao gửi chứng cứ hoàn toàn bế tắc, không thực

hiện được.

Do đó, theo chúng tôi cần sửa đổi và gộp Khoản 8 và Khoản 9 Điều 70 như sau:

”Được biết, ghi chép, sao chụp và yêu cầu TA hỗ trợ ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do TA thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy

định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”.

Thứ hai, cơ quan có cần ban hành văn bản hướng dẫn một số điểm có liên

quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự

- Về quyền yêu cầu TA quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Nghiên

cứu các quy định của pháp luật TTDS cho thấy pháp luật đã quy định chặt chẽ trình

tự, thủ tục và điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, thực tiễn

giải quyết các vụ, việc dân sự không ít trường hợp khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện

cũng là lúc mà phía bị đơn đã đủ thời gian để huỷ hoại bằng chứng, tẩu tán, huỷ hoại

tài sản để nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, do đó TA xem xét để áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào thời điểm này thì đã quá muộn.

Vì vậy, theo chúng tôi trong một số trường hợp cụ thể cần có hướng dẫn biện pháp

khác cụ thể để TA áp dụng nhằm đảm bảo cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ.

- Về quyền nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình:

Trong một số trường hợp do không quy định chế độ kiểm tra việc chuyển giao cho

người được tống đạt từ người trung gian dễ dẫn đến việc người trung gian không giao

hoặc giao không đúng thời hạn cho người được tống đạt dẫn đến việc người được

tống đạt không thể biết việc TA triệu tập mình để tham gia tố tụng. Theo Điều 172 Bộ

luật TTDS quy định, nhân viên tổ chức dịch vụ bưu chính thực hiện việc cấp, tống

đạt, thông báo văn bản tố tụng. Tuy nhiên, điều luật không quy định cụ thể nghĩa vụ

của họ trong việc nhận tống đạt văn bản tố tụng.

Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản để cụ thể

hoá các biện pháp xử lý các hành vi thiếu trách nhiệm của người có trách nhiệm

thông báo văn bản tố tụng.

3.2.1.2. Một số giải pháp nâng cao khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của

đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên

Thứ nhất, nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm

phán để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong công tác thụ lý, giải quyết VVDS

Một trong những hạn chế và nguyên nhân tác động làm giảm hiệu quả việc bảo

đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS là kiến thức pháp luật, trình độ

74

chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận Thẩm phán vẫn còn hạn chế, chưa nhận thức

đầy đủ, toàn diện và nắm vững quy định của pháp luật có liên quan đến việc thực hiện

quyền và nghĩa vụ của đương sự, do đó dẫn đến tình trạng thiếu chủ động, lúng túng,

áp dụng chưa đúng, chưa kịp thời các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, một số

Thẩm phán sa sút về bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp.

Do đó, nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán Thẩm

phán của TAND tỉnh Thái Nguyên là hết sức cần thiết. Bởi chính đội ngũ Thẩm phán

là các chủ thể chính thực hiện thụ lý, giải quyết, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của

đương sự trong TTDS.

Trong thời gian tới, để nâng cao năng lực chuyên môn, ý thức chính trị và phẩm

chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp của Thẩm phán của VKSND TAND tỉnh Thái

Nguyên cần thực hiện một số nội dung sau:

Một là, nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất, năng lực trình độ chuyên môn

và tăng cường sự thống nhất trong nhận thức Thẩm phán về quyền và nghĩa vụ của

đương sự trong TTDS.

- Lãnh đạo TAND tình Thái Nguyên phải chú trọng công tác tuyển chọn Thẩm

phán ngay từ khâu tạo nguồn bổ nhiệm. Tổ chức triển khai thi hành nghiêm túc, hiệu

quả quy định của Luật Tổ chức TAND về bổ nhiệm Thẩm phán và thi tuyển, thi nâng

ngạch Thẩm phán. Sau khi đã trúng tuyển và được bổ nhiệm, Thẩm phán cần được

thường xuyên bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ thụ lý, giải quyết, xét xử nói chung,

nói riêng.

- Lãnh đạo TAND tình Thái Nguyên cần tiến hành rà soát và đánh giá lại toàn

bộ lực lượng Thẩm phán, qua đó lập kế hoạch đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao nhận

thức, trình độ pháp luật, nghiệp vụ, năng lực chuyên môn cho cán bộ.

- Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật

cho đội ngũ Thẩm phán cần nâng cao nhận thức về vai trò và trách nhiệm của Thẩm

phán trong công tác thụ lý, giải quyết, xét xử và đặc biệt là nâng cao nhận thức về

quyền và nghĩa vụ và vấn đề đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.

Để làm được điều này, lãnh đạo TAND tỉnh Thái Nguyên phải thường xuyên quan

tâm, quán triệt thông qua các cuộc hợp cơ quan, các hội nghị. Bên cạnh đó, cần xây

dựng chuyên đề về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, chuyên đề

này cần trao đổi rộng rãi trong đội ngũ Thẩm phán.

- Đẩy mạnh phổ biến, quán triệt các văn bản có liên quan đến cải cách tư pháp

và quyền con người như: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược

75

cải cách tư pháp đến năm 2020, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm

2014, Luật TTDS năm 2015...

Hai là, cần chú trọng thực hiện tốt việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ

Thẩm phán của TAND tỉnh Thái Nguyên. Để làm được điều này cần thực hiện một số

nội dung sau:

- Tổ chức các lớp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh cho Thẩm phán. Phấn đấu 100% Thẩm phán có trình độ lý luận chính trị từ

trung cấp đến cao cấp.

- Thường xuyên quán triệt đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước, nhất là các nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp, cải cách tư

pháp, cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tiễn.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Lấy kết quả

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn

đánh giá, bình xét, phân loại Thẩm phán hàng năm.

- Có biện pháp tổ chức quản lí chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên đội ngũ Thẩm

phán kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm.

Thứ hai, tăng cường sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác đảm bảo thực

hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự

Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là cách để TA, Thẩm phán nhìn nhận lại công

tác của mình, trong đó có công tác đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương

sự. Thông qua sơ kết, tổng kết mà nhìn nhận lại được những việc đã làm được, những

hạn chế, thiếu sót để khắc phục, từ đó rút kinh nghiệm trong công tác. Thực tiễn trong

những năm qua, công tác sơ kết, tổng kết việc thụ lý, giải quyết nói chung, đảm bảo

thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự nói riêng của TAND tỉnh Thái Nguyên

vẫn chưa được quan tâm. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện

quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, trong thời gian tới TAND tỉnh Thái

Nguyên cần tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc đảm bảo

thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Theo đó, việc sơ kết, tổng

kết, rút kinh nghiệm có thể tiến hành như sau:

Một là, TAND tỉnh Thái Nguyên nên tiến hành sơ kết, tổng kết theo chuyên đề

đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Ngoài ra, việc tiến

hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm cũng cần được tổ chức sau khi kết thúc xét xử,

76

đặc biệt là sau những vụ án sai, có vi phạm tố tụng. Từ mỗi vụ án cụ thể đó, TAND

tỉnh Thái Nguyên tập hợp những vấn đề bất cập trong việc bảo đảm quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong TTDS… để hàng tháng, hàng quý, hàng năm tổ chức rút kinh

nghiệm chung.

Hai là, việc sơ kết, tổng kết phải hệ thống lại những kết quả đã đạt được, những

hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện việc

bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, đồng thời phải tìm ra và xây

dựng những giải pháp cho thời gian tới.

Ba là, kết quả sơ kết, tổng kết phải phổ biến rộng rãi tới từng Thẩm phán.

Thứ ba, Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật TTDS về quyền và

nghĩa vụ của đương sự và pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự

Nhằm nâng cao sự nhận thức và hiểu biết về pháp luật cũng như giúp cho người

dân chủ động hơn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong TTDS

cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến về các quy định của pháp luật liên quan đến

quyền và nghĩa vụ của đương sự và thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật về giải

quyết tranh chấp dân sự để người dân có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về những quy

định của pháp luật trong lĩnh vực này.

Để làm được điều đó, các cơ quan chức năng tỉnh Thái Nguyên cần thực hiện tốt

các nội dung sau:

Một là, về nội dung tăng cường nhận thức: Cần tuyên truyền phổ biến rộng rãi

cho nhân dân biết, hiểu về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo pháp luật TTDS Việt

Nam hiện hành; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các.

Hai là, về cách thức tuyên truyền phổ biến: Cần sử dụng đa dạng các hình thức

tuyên truyền như tuyên truyền qua các phương tiện thông tin truyền thông, qua các

buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư, qua việc giải thích của TA khi thụ lý…

77

Tiểu kết chương 3

Trong chương 3 tác giả đã giải quyết được các vấn đề:

1. Thực tiễn xét xử tại tỉnh Thái Nguyên cho thấy về cơ bản trong những năm

qua việc thực hiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong TTDS được đảm bảo, TA giải quyết số lượng lớn, đảm bảo quyền và lợi ích của

đương sự trong TTDS. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn tồn tại một số hạn chế,

thiếu sót và vi phạm tố tụng. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót không chỉ

đến từ phía TA mà còn cả ở chính các đương sự tham gia TTDS, ngoài ra do các quy

định của pháp luật chưa đầy đủ, thiếu chi tiết như đã nêu ra trong chương 2 cũng ảnh

hưởng phần nào đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.

2. Trên cơ sở xác định những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong thực tiễn

giải quyết của TA nhân dân tỉnh Thái Nguyên; trên cơ sở những quan điểm, đường

lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến TTDS và quyền,

nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, tác giả luận văn đã đưa ra phương hướng hoàn

thiện quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, đưa ra

giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự

trong TTDS và đưa ra giải pháp nâng cao khả năng thực hiện pháp luật về quyền và

nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại TA nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

78

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đã giải quyết một cách khoa học, bám sát

những vấn đề lý luận và thực tiễn thực tiễn quy định của pháp luật TTDS về quyền và

nghĩa vụ của đương sự mà luận văn đã đặt ra. Trong đó, luận văn đã đi sâu tập trung

giải quyết những nội dung cơ bản sau đây:

1. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận và kế thừa các nghiên cứu về đương

sự, quyền và nghĩa vụ của đương sự của các nhà khoa học; nghiên cứu hệ thống pháp

luật quy định về đương sự và quyền, nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, luận văn đã

làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.

Trong đó, có các vấn đề chủ yếu: Khái niệm, đặc điểm, vai trò và thành phần của

đương sự trong pháp luật TTDS; Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong TTDS;pháp luật vềquyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS và ý nghĩa

của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.

2. Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật TTDS hiện hành, luận văn đã phân tích

làm rõ các quy định của pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trong

đó luận văn tiếp cận và phân tích theo các nhóm quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Trong quá trình phân tích, luận văn làm rõ quy định của pháp luật về quyền và nghĩa

vụ của đương sự, đồng thời đánh giá những mặt còn hạn chế, thiếu sót trong một sso

quy định cụ thể.

3. Qua nghiên cứu, phân tích các báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Thái Nguyên

về kết quả thủ lý, giải quyết các trong giai đoạn 2016 – 2018 và qua việc trao đổ trực

tiếp với các đồng chí là lãnh đạo TAND tỉnh Thái Nguyên, các Thẩm phán của

TAND tỉnh Thái Nguyên, tác giả luận văn đã phân tích thực tiễn thực hiện các quyền

và nghĩa vụ của đương sự trong xét xử các của TAND tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở

đó luận văn đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về những kết đạt được, những hạn

chế, thiếu sót và làm rõ nguyên nhân của chúng để làm cơ sở cho việc đề xuất các

giải pháp cụ thể nhằm nâng cao khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương

sự trong xét xử các của TAND tỉnh Thái Nguyên thời gian tới.

4. Luận văn trình bày những phương hướng để hoàn thiện các quy định của

pháp luật TTDS về các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS trên cơ sở căn

cứ vào các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tính thực tiễn của việc

79

thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại TAND tỉnh Thái

Nguyên.

5. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực

hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, trên cơ sở những phương

hướng hoàn thiện pháp luật TTDS về các quyền và nghĩa vụ của đương sự, tác giả

luận văn đã xây dựng một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

đương sự trong TTDS Việt Nam và một số giải pháp nâng cao khả năng thực hiện các

quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam tại TAND tỉnh Thái Nguyên.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Nguyễn Mạnh Bách (1996), Luật TTDS Việt Nam lược giải, Nxb Đồng Nai.

2. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng

dân sự Việt Nam,Luận án tiến sỹ luật học,Trường Đại họcLuật Hà Nội , Hà Nội.

3. Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX

(2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX

(2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX

(2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược Cải cách tư

pháp đến năm 2020, Hà Nội.

6. Bộ luật TTDS Cộng hoà Pháp (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (2002), bản dịch tiếng

Việt, Hà Nội.

8. Bộ luật Tố tụng Dân sự Nhật Bản (2002), bản dịch tiếng Việt, Hà Nội.

9. Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hoà Liên bang Nga (2005), bản dịch tiếng Việt,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

11. Bộ luật Dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

12. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 1 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

13. Nguyễn Ngọc Chí (2004), “Vai trò của luật sư và người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự”, Hội thảo về tố tụng dân sự, Đồng Nai.

14. Đỗ Văn Chỉnh (2007), “Sự cần thiết ra văn bản pháp luật về xử lý hành vi cản

trở hoạt động tố tụng”, Tạp chí Toà án nhân dân, Hà Nội.

15. Nguyễn Việt Cường (2007), “Yêu cầu phản tố của bị đơn và quyết định đình chỉ

giải quyết vụ án”, Tạp chí Toà án nhân dân, Hà Nội.

16. Tống Công Cường(2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu so sánh,

81

Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Hữu Đắc (1999), Trưởng ban biên soạn, Từ điển luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

18. Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Sài Gòn.

19. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân

sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

20. Nguyễn Thượng Hải (2006), “Hoạt động kiển sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án

kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án”, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội.

21. Đinh Ngọc Hiện (2000), “Tư pháp dân sự và thủ tục tố tụng dân sự”, Hội thảo

những vấn đề lý luận và thực tiễn của tư pháp dân sự Việt Nam trong thời kỳ

chuyển đổi kinh tế, Viện Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và

nhân văn Quốc gia, Hà Nội.

22. Hiến pháp của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam (1992), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

23. Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, TS. Đinh Ngọc Hiện,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

24. Quang Huy (2008), Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đối với

cơ quan tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), “Những nguyên tắc tố tụng Dân sự đặc trưng trong

Bộ lụât Tố tụng Dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội.

26. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển của xã hội, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

27. Nguyên Văn Lâm (2006), “Có nên xem việc uỷ quyền của đương sự không đúng

thủ tục làm căn cứ huỷ bản án sơ thẩm?”, Tạp chí TAND, Hà Nội.

28. Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Trần Huy Liệu (2007), “Sự cần thiết và những quan điểm chỉ đạo cải cách tư

pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (Số chuyên đề về cải cách tư

pháp), Hà Nội.

30. Trần Thúc Linh (1964), Danh từ pháp luật, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

31. Luật Dân sự thương sự tố tụng thi hành trong các toà Nam án Bắc kỳ (Code de

Procédure Civile etCommerciale)

32. Luật Hôn nhân và Gia đình (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Luật Lao động (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

82

34. Luật Thi hành án dân sự (2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Luật Tổ chức Toà án nhân dân (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Luật Tổ chức VKSND (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Lê Văn Luật (2006), “Vấn đề người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu

độc lập và nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của họ trong vụ án ly hôn”, Tạp chí

TAND, Hà Nội.

38. Tưởng Duy Lượng (2004), “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng

minh được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân,

(21), Hà Nội.

39. Tưởng Duy Lượng (2005), “Một số quy định chung về thủ tục giải quyết

việcdân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân, (6), Hà Nội.

40. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

41. Vũ Văn Mẫu (1970), Cổ luật Việt Nam lược khảo, Quyền thứ nhất, Sài Gòn.

42. Vũ Văn Mẫu (1974),Cổ luật Việt Nam thông khảo và tư pháp sử, Quyển 1,tập 1,

Sài Gòn.

43. Michael Browde (5/2000), Pháp luật tố tụng dân sự của Mỹ, Hà Nội.

44. Michael Fromont (2006), Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới,

(bảndịch), Nxb Tư pháp, HàNội.

45. Michiel Bogdan (2002), Luật so sánh, (bản dịch), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

46. Phạm Minh (biên soạn) (2003), Những điều cần biết về luật pháp Hoa Kỳ, Nxb

Lao động, Hà Nội.

47. Lê Đình Nghị (2009), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

48. Phạm Duy Nghĩa (2010), Giáo trình luật kinh tế, Tái bản lần 1, Nxb CAND.

49. Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tạiViệt Nam các bản án, quyết định dânsự

của Toà án nước ngoài (1993), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

50. Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng

tàinước ngoài (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

52. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.

53. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Nxb Chính trị Quốc gia,

83

Hà Nội.

54. Pháp viện biên chế (Organisation des Juridictions Annamites) được thi hành

trong toàn hạt Bắc kỳ.

55. Nguyễn Thái Phúc (2005), “Những chức năng cơ bản của tố tụng”, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật,(12).

56. Nguyễn Thái Phúc (2005), “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong Bộluật

tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,(10).

57. Trần Văn Quảng (2004), Chế định hoà giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt

Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sỹ Luật học, Hà Nội.

58. Nguyễn Hữu Quỳnh (1999), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa,

Hà Nội.

59. Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp chí

Luật học.

60. TANDTC (2005), Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/03/2005

củaHĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất

“Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004, Hà Nội.

61. TANDTC (2005), Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/04/2005

củaHĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII về

“Các biện pháp khẩn cấp tạm thời”, Hà Nội.

62. TANDTC (2005), Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/09/2005

củaHĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS năm

2004 về “Chứng minh và chứng cứ”, Hà Nội.

63. TANDTC (2006), Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của

HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục

giải quyết vụ án dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS, Hà Nội.

64. TANDTC (2006), Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/08/2006 của

HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ

tục giải quyết vụ án dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm” của BLTTDS, Hà Nội.

65. TAND tỉnh Thái Nguyên (2016, 2017, 2018), Báo cáo công tác năm và phương

hướng nhiệm vụ công tác các năm 2016, 2017, 2018.

66. Dương Quốc Thành (2006), “Một số vấn đề chưa có cách hiểu thống nhất trong

Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3), Hà Nội.

67. Phan Hữu Thư (2004), Tiến tới xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự trong thời kỳ

84

đổi mới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

68. Tống Tiểu Trang (2003), Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

69. Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

70. Trường cán bộ Toà án - TANDTC (2004), Tài liệu tập huấn Bộ luật TTDS.

71. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994),Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam.

72. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), “Những khía cạnh tâm lý trong hoạt động

xét xử”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.

73. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009),Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

74. Trường ĐH Luật Hà Nội (2009),Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

75. Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Luật La mã.

76. Trần Anh Tuấn (2008), “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố

tụng”, Tạp chí Toà án nhân dân, (23, kỳ 1 tháng12).

77. Đào Trí Úc (chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nướcpháp

quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

78. Uỷ ban pháp luật của Quốc hội Việt Nam(2004), Hội thảo về tố tụng dân sự, Dự

án Star - Việt Nam - USAID, Hà Nội.

79. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (1993),Cải cách tư pháp, Thông

tin khoa học pháp lý (7), Hà Nội.

80. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (1994), Chuyên đề phân tích,

sosánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.

81. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (1996), Chuyên đề về Luật Tố

tụng Dân sự, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.

82. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (1996), Nghiên cứu một số di

sản pháp luật dân sự từ thế kỷ XV đến Thời Pháp thuộc, Công trình nghiên cứu

cấp Bộ, Hà Nội.

83. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (2003), Một số vấn đề về quyền

dân sự và bảo vệ quyền dân sự trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Công trình

nghiên cứu cấp cơ cở, Hà Nội.

85

84. Viện khoa học pháp lý (2004), Tổng hợp ý kiến đóng góp về dự thảo Bộ luật Tố

tụng Dân sự, Hà Nội.

85. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (2004), Một số vấn đề về tranh

tụng trong tố tụng dân sự, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.

86. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb

Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.

87. Viện Nhà nước và pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc

gia(1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam Thế kỷ XV - Thế kỷ

XVIII, Hà Nội.

88. Viện Sử học, Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

89. VKSND thành phố Hà Nội (2008), Báo cáo của VKSND thành phố Hà Nội số

177/BC/VKS-P5 ngày09/12/2008.

90. VKSNDTC (2009), Tài liệu tổng kết 5 năm thực hiện BLTTDS năm 2004.

91. Vụ Bổ trợ, Bộ Tư pháp (2004), Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư

pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

92. Đinh Ngọc Vượng &Bùi Anh Thuỷ (2007), “Cải cách tư pháp và hội nhập quốc

tế”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về cải cách tư pháp), Hà Nội.

93. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia

thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

II. Tiếng Anh

94. Bryan A.Garner (2001), Black’s Law Dictionnary, ST.Pual,Mnn.

95. David McIntoshand Marjorie Holmes (1991),Civil Proceduresin EC Countries.

86

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Tình hình thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự của TAND tỉnh Thái Nguyên

giai đoạn 2016 – 2018

Phân tích số án đã giải quyết

Năm Loại, vụ việc Tổng thụ lý Số đã giải quyết Đình Chỉ CNTT ly hôn Hòa giải thành

654 2539 38 562 2439 32 92 329 6 110 Xét xử hoặc giải quyết 360 792 26 1318

2016 97 87 13 21 53

5 3333 795 3042 54 4 3124 514 2926 45 440 98 518 9 131 113 4 1235 303 769 36 1318 1639

2017 81 43 6 11 26

4 3976 877 3649 95 4 3532 621 3172 69 1 632 89 566 11 124 114 3 1137 418 812 58 1639 1793

2018 128 95 13 12 70

Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng 7 4756 7 3964 2 681 126 5 1363 1739

TỔNG CỘNG 12065 10620 1753 381 4696 3735

(Nguồn: Tổng hợp báo cáo các năm 2016, 2017, 2018 của

TAND tỉnh Thái Nguyên)

87

Phụ lục 2

Tình hình khấng cáo, kháng nghị và xét xử phúc thẩm vụ việc dân sự của TAND

tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 – 2018

Kết quả phúc thẩm

Sửa án ST Hủy án ST

Năm Loại, vụ việc Tổng thụ lý Số đã giải quyết Tổng số KC, KN Tổng số Do ST sai Tổng số Do ST sai

654 2539 38 562 2439 32 92 31 11 25 8 2 18 8 2 26 3 2 26 2 1

2016 97 87 11 1 1 3 1

5 3333 795 3042 54 4 3124 514 2926 45 4 149 61 37 4 2 38 19 13 2 1 30 17 6 2 34 15 1 1 30 15 1

2017 81 43 8 4 4

4 3976 877 3649 95 4 3532 621 3172 69 1 111 98 39 10 38 23 13 6 29 23 7 6 17 26 4 1 16 17 1 1

2018 128 95 10 3 3 2 2

7 4756 7 3964 1 158 Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng Dân sự HN và GĐ Hành chính Kinh doanh – TM Lao động Cộng 45 39 33

21 67 98 84 TỔNG CỘNG 12065 10620 418 121

(Nguồn: Tổng hợp báo cáo các năm 2016, 2017, 2018 của

TAND tỉnh Thái Nguyên)

88