
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, những người đồng tính công khai tình cảm, tổ chức
đám cưới, sống chung hay nhập quốc tịch của những quốc gia thừa nhận kết
hôn đồng giới để kết hôn không còn là một vấn đề mới mẻ. Tuy xã hội đã cởi
mở hơn với những người đồng tính nhưng thực tế họ vẫn còn chịu đựng sự
thiệt thòi, sự kì thị, đối xử bất công trong các quan hệ xã hội. Bởi lẽ chưa có
cơ sở pháp lý phù hợp ghi nhận và bảo đảm các quyền của người đồng tính.
Không lý do gì họ không có được những quyền đáng được có. Vì đồng tính
không phải là bệnh có thể chữa trị, và người đồng tính cũng không có quyền
lựa chọn được giới tính, càng không thể thay đổi xu hướng tình dục của mình.
Vậy nên, những người đồng tính cần được xã hội nhìn nhận, thừa nhận, bảo
vệ, và cần được đối xử bình đẳng, được tự do sống đúng với con người thật
của mình vì “mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ
những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống,
quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc” [40].
Năm 2001, từ khi Hà Lan trở thành nước đầu tiên hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính và cho phép các cặp đồng tính có quyền kết hôn, ly hôn và
nhận con nuôi thì phong trào đòi quyền con người của người đồng tính ngày
một phổ biến. Cho đến nay, phong trào này không có dấu hiệu dừng lại ở thế
giới, trong đó có Việt Nam và là một trong vấn đề gây nhiều tranh cãi liên
quan đến lĩnh vực quyền con người. Tính đến tháng 06/2019, Trung Hoa Dân
Quốc (hay còn gọi là Đài Loan) đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào
ngày 24 tháng 5 năm 2019 và trở thành quốc gia châu Á đầu tiên - quốc gia
thứ 29 hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Việt Nam cũng đang trong quá trình
xây dựng, bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người bằng việc tham gia các công