BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ THÙY LINH

QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN

TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ THÙY LINH

QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN

TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận

Học viên

văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018 Lê Thị Thùy Linh

LỜI CẢM ƠN

Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những

sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay

nhiều, trực tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm Luận

văn đến nay, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia

đình và bạn bè xung quanh.

Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành

nhất từ đáy lòng đến quý Thầy Cô của trường Học viện Hành chính Quốc gia

đã cùng dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho

chúng tôi vốn kiến thức quý báu suốt thời gian học tập tại trường.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Thu Hà, Phó

Trưởng khoa Lý luận cơ sở, Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tâm chỉ

bảo hướng dẫn tôi qua từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên cứu.

Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo đó, bài Luận văn này của tôi đã hoàn

thành. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô.

Bài luận văn được thực hiện trong 03 tháng. Ban đầu tôi còn bỡ ngỡ vì

vốn kiến thức của tôi còn có hạn. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót,

tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các bạn học

Học viên

Lê Thị Thùy Linh

cùng lớp để bài Luận văn được hoàn thiện hơn.

TRANG BÌA

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA

NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ .......... 9

1.1. Khái niệm chung ..................................................................................... 9

1.1.1. Nguyên đơn .......................................................................................... 9

1.1.2. Quyền của nguyên đơn ....................................................................... 11

1.1.3. Vụ việc dân sự .................................................................................... 12

1.2. Việc xác định tư cách nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự .. 13

1.2.1. Cơ sở của việc xác định tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự 14

1.2.2. Các quy định về xác định tư cách của nguyên đơn .............................. 14

1.3. Các quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự ................... 19

1.3.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn ................................................... 21

1.3.2. Quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng

minh. ............................................................................................................ 33

1.3.3. Các quyền khác của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự. 37

1.4. Các yếu tố bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân

sự ................................................................................................................. 40

1.4.1. Sự bảo đảm về hệ thống luật pháp ...................................................... 40

1.4.2. Bảo đảm về đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật .................................... 41

1.4.3. Bảo đảm về đổi mới và cải cách tư pháp ............................................ 43

Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN

TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN

HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH ...................................................................... 46

2.1. Khái quát chung về huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình ....................... 46

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện ................................................... 46

2.1.2. Tình hình giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh

Quảng Bình. ................................................................................................. 49

2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự tại

huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình ............................................................. 50

2.2.1. Thực hiện quyền tự định đoạt của nguyên đơn. ................................... 50

2.2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ

và chứng minh .............................................................................................. 55

2.2.3. Thực hiện các quyền khác của nguyên đơn. ........................................ 58

2.3. Đánh giá chung...................................................................................... 59

2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................ 59

2.3.2. Hạn chế. ............................................................................................. 60

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế ................................................................... 65

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA

NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI

HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................ 68

3.1. Phương hướng đảm bảo thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết

các vụ việc dân sự. ....................................................................................... 68

3.2. Giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc

dân sự. .......................................................................................................... 72

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 72

3.2.2. Nâng cao trình độ Thẩm phán và các cán bộ Tòa án. ......................... 77

3.2.3. Về thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự nhằm

bảo đảm hơn quyền của nguyên đơn. ............................................................ 78

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc bảo

đảm quyền của nguyên đơn. ......................................................................... 79

3.2.5. Tăng cường tuyên truyền pháp luật trên địa bàn địa phương.............. 80

3.2.6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra .......................................................... 81

KẾT LUẬN ................................................................................................. 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự

BLDS: Bộ luật dân sự

TTDS: Tố tụng dân sự

TA: Toà án

VKS: Viện kiểm sát

VADS: Vụ án dân sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn.

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 và

có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016. BLTTDS 2015 bao gồm các quy định

những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để

Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự và nhiều điểm mới

cập nhật thay cho BLTTDS số 24/2004/QH11 và Luật Tố tụng Dân sự số

65/2011/QH12 sửa đổi năm 2011.

Nếu như nói BLDS 2015 quan trọng về nội dung thì BLTTDS 2015 lại

là Bộ luật quan trọng về hình thức. BLTTDS quy định những vấn đề liên quan

đến: Những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện

để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và

gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa

án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại

Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định

dân sự của TA nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án

dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá

nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan nhằm bảo

đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác,

công minh và đúng pháp luật.

1

BLTTDS góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

Có thể nói, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển

của BLDS 2004, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước

trên thế giới. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ

tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy định về nguyên

đơn, quyền của nguyên đơn và bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn.

Nguyên đơn là một khái niệm pháp lý đặc thù của lĩnh vực tố tụng tại

Tòa án, thể hiện mối quan hệ đặc biệt quan trọng đối với vụ việc tranh chấp

dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại…. Không có một

vụ việc nào được giải quyết tại Tòa án mà không có sự xác định về nguyên

đơn. Vì vậy, nguyên đơn chính là một bộ phận không thể thiếu khi xét xử tại

Tòa án.

Trong vụ việc dân sự, nguyên đơn được coi là chủ thể quan trọng, nếu

thiếu chủ thể này thì vụ việc dân sự không thể phát sinh. Việc Bộ luật tố tụng

dân sự năm 2015 có hiệu lực là một kết quả quan trọng, sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện các chế định quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong

đó có các quy phạm quy định rõ ràng về các vấn đề pháp lý của nguyên đơn.

Điều này có ý nghĩa quan trọng của việc xác định thành phần, tư cách nguyên

đơn trong các vụ việc dân sự, góp phần trong việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ

dân sự chính đáng của họ và đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải

quyết các vụ việc dân sự một cách chính xác, khách quan…

Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì nhiều vấn đề về quyền của

nguyên đơn cũng chưa được giải quyết triệt để. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án

cũng cho thấy, trong nhiều trường hợp, quyền của nguyên đơn đã không được

2

tôn trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền của nguyên đơn

được quy định trong BLTTDS chưa rõ ràng và cụ thể dẫn tới những khó khăn,

vướng mắc trong việc đảm bảo thực hiện quyền. Do vậy, việc nghiên cứu một

cách toàn diện, sâu sắc về quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc

dân sự cả về phương diện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những

giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền

của nguyên đơn là một việc làm cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên đây,

tôi đã lựa chọn đề tài "Quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc

dân sự tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình" làm Luận văn cao học luật

của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn

Sau khi BLTTDS 2004 có hiệu lực và nay là BLTTDS 2015, cũng đã

có một vài công trình nghiên cứu về quyền của nguyên đơn như Luận văn cao

học luật với đề tài “Đương sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều Dương (bảo vệ tại Trường Đại học Luật

Hà Nội năm 2005), Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về đương sự trong

TTDS, từ đó phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện

hành về đương sự và thực tiễn thực hiện các quy định này ở Tòa án để tìm ra

các phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật TTDS về

đương sự; Luận văn cao học luật “Thụ lý vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà

Nội năm 2009), Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân sự,

tiếp cận các quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án dân sự và tìm

hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về thụ lý vụ án dân sự từ đó đưa ra kiến

nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự; Luận

văn cao học luật "Đương sự trong vụ án dân sự" của tác giả Đào Thu Hải Yến

(bảo vệ tại Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015), Luận văn làm rõ khái

3

niệm đương sự cũng như việc xác định đúng tư cách đương sự, quyền và

nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự, đánh giá thực trạng các quy định

pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự qua đó đề

xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về

quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự; Luận văn cao học luật

"Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam

hiện nay" của tác giả Nguyễn Thanh Hải (bảo vệ tại Trường Đại học quốc gia

Hà Nội năm 2016), Luận văn làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy

định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của

đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án từ đó đưa ra một số giải pháp

nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy

định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm

đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế...

Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một

nội dung cụ thể về quyền của nguyên đơn. Chẳng hạn như bài viết “Bàn về

quyền khởi kiện của đương sự khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện do hết thời

hiệu khởi kiện” của tác giả Huỳnh Minh Khánh đăng tải trên Tạp chí Kiểm

sát số 7/2013; Bài viết “Về việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng

dân sự” của ThS Nguyễn Triều Dương (Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng

11/2009)... Các bài viết đăng trên tạp chí có bài “Bảo đảm quyền tố tụng của

đương sự thông qua người đại diện” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng

trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 năm 2015; “Người tham gia tố tụng dân

sự” của Nguyễn Việt Cường đăng trên tạp chí Nghề luật, số 02 năm 2006;

“Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của Trần Anh

Tuấn đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 năm 2008 v.v...

Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại

ở việc đề cập đến một nội dung quyền cụ thể nào đó trong các quyền mà

4

nguyên đơn có hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về quyền của nguyên đơn

trong tổng thể các quyền của nguyên đơn. Cho đến nay, chưa có một công

trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về quyền của nguyên đơn

trong tố tụng dân sự tại địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Trước

tình hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền của nguyên đơn trong giải quyết các

vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ

của mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ

thống về quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.

3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào

cũng đều trả lời cho câu hỏi: Việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào

cái gì? Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không

nằm ngoài cách tiếp cận trên, tôi xác định mục tiêu nghiên cứu của Luận văn

là làm rõ được những vấn đề lý luận cũng như nội dung các quy định của

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền của nguyên đơn trong

giải quyết vụ việc dân sự. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ

việc bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc

dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu

tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền của nguyên đơn đồng thời nâng

cao hiệu quả của việc bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải

quyết vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình trên thực tế.

3.2. Nhiệm vụ

Trên cơ sở mục đích nêu trên, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm

vụ nghiên cứu cụ thể sau:

5

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của nguyên đơn trong tố

tụng dân sự;

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có

liên quan tới quyền của nguyên đơn, bảo đảm quyền của nguyên đơn và thực

tiễn thực hiện tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Từ đó chỉ ra những

điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền của

nguyên đơn cũng như bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ

việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần đảm bảo quyền của nguyên đơn

trong giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu khoa học của Luận văn là quyền của nguyên đơn

trong giải quyết các vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

hiện hành.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu quy

định của pháp luật về quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự,

việc bảo đảm quyền của nguyên đơn khi tham gia tố tụng. Nội dung cốt lõi

của luận văn là xoay quanh quyền của nguyên đơn và việc bảo đảm việc thực

hiện quyền của nguyên đơn dưới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn.

Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:

- Phạm vi về thời gian:

Về văn bản pháp luật, luận văn chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích,

đánh giá quy định của pháp luật tố tụng dân sự năm 2015.

6

Về số liệu khảo sát việc thực hiện quyền của nguyên đơn, luận văn

phân tích các số liệu giai đoạn từ năm 2013 - 2017 tại Toà án nhân dân huyện

Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

- Phạm vi về không gian, quyền của nguyên đơn sẽ được phân tích và

đánh giá qua quy định của Bộ luật tố tụng 2015 và việc thực hiện quyền của

nguyên đơn tại Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được

tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan

điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn

đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ

thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống

kê...v.v.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách

có hệ thống về quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự theo

quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp của luận

văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:

Thứ nhất, quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự được

nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và

thực tiễn thực hiện.

Thứ hai, luận văn nghiên cứu chuyên sâu về thực tiễn thực hiện các quy

định của pháp luật về bảo đảm quyền của nguyên đơn tại huyện Tuyên Hoá,

tỉnh Quảng Bình nhằm chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền của nguyên đơn cũng

như những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật.

7

Thứ ba, trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những

giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của nguyên đơn và bảo

đảm thực hiện quyền của nguyên đơn, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm

quyền của nguyên đơn tại địa bàn huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

Thứ tư, luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu

ích cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực

tiễn liên quan đến giải quyết các vụ việc dân sự. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài

liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện

pháp luật về quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Danh mục các chữ viết tắt, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài

liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về quyền của nguyên đơn trong

giải quyết các vụ việc dân sự.

Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết

các vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn

trong giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN

ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

1.1. Khái niệm chung

1.1.1. Nguyên đơn

Trong cuốn “Black’s Law Dictionnary”, nguyên đơn định nghĩa là

“người đưa ra hành động; bên than phiền hoặc khởi kiện cá nhân và có tên

trong hồ sơ” hay trong Từ điển Luật học của nhà xuất bản từ điển khoa học

năm 2006, đã được xuất bản ở nước ta, “nguyên đơn là người khởi kiện hoặc

người không khởi kiện trong những vụ án về dân sự hoặc tổ chức xã hội khởi

kiện vì lợi ích của người đó. Nguyên đơn có thể là cá nhân hoặc pháp nhân".

Khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Nguyên

đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, các

nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ

án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm

phạm".

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để

yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực

mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 thì nguyên đơn không chỉ là “người

khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy

định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền

và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm” mà còn là “Cơ quan, tổ chức

do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi

ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”.

9

Ví dụ: Cơ quan bảo vệ tài nguyên môi trường khởi kiện doanh nghiệp

vì doanh nghiệp này đã làm ô nhiễm môi trường.

Cơ quan bảo vệ tài nguyên môi trường khởi kiện không phải vì lợi ích

của cơ quan họ mà là lợi ích xã hội đây là điểm khác giữa nguyên đơn là

người khởi kiện vì lợi ích của họ với nguyên đơn khởi kiện không phải vì lợi

ích của họ.

Đối với việc dân sự, theo quy định tại khoản 5 Điều 68 BLTTDS quy

định với vai trò tham gia tố tụng như nguyên đơn, người yêu cầu giải quyết

việc dân sự "là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một

sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và

gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự,

hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động".

Đặc điểm của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự:

Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng dân sự do

vậy nguyên đơn có đầy đủ các đặc điểm của người tham gia tố tụng.

Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội

dung có quyền lợi ích bị xâm phạm hoặc cần được xác định trong vụ án dân

sự. Quyền, lợi ích của nguyên đơn liên quan trực tiếp đến quá trình giải quyết

vụ việc dân sự.

Nguyên đơn là chủ thể được tòa án cho tham gia vào quá trình giải

quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Nguyên đơn có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc thông qua người đại

diện trong tố tụng dân sự. Những quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn

mà pháp luật quy định là cơ sở để nguyên đơn có điều kiện thuận lợi, bình

đẳng với những người tham gia tố tụng khác trong quan hệ tố tụng nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình về mặt nội dung.

10

Nguyên đơn là chủ thể có quyền tự định đoạt việc thực hiện các quyền

và nghĩa vụ của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình

giải quyết vụ việc dân sự.

1.1.2. Quyền của nguyên đơn

Chúng ta thấy rằng trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp

luật ra đời thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận

bằng pháp luật của Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do

Nhà nước thiết lập. Theo đó, quyền của tổ chức, cá nhân khi tham gia vào tố

tụng dân sự đã được pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp

pháp của mình khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự với tư cách

nguyên đơn phải được cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ.

Quyền của nguyên đơn là tổng hợp những hành vi mà nguyên đơn có

quyền thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, là một phần trong

tổng thể quyền con người được pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các

quốc gia trên thế giới quy định. Quyền của nguyên đơn là nhóm quyền tố tụng

thuộc quyền con người, là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội

được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp

pháp của mình được thực hiện.

Xét trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì thông thường quyền của

nguyên đơn sẽ tương ứng với nhiệm vụ của Tòa án trong việc đảm bảo thực

hiện quyền của nguyên đơn. Thông qua việc quy định những việc nguyên đơn

được thực hiện, pháp luật đặt ra các quy tắc xử sự, điều chỉnh hành vi tố tụng

của nguyên đơn nhằm thực hiện mục đích của tố tụng dân sự là nhanh chóng

bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Suy cho cùng thì quyền của

nguyên đơn là phương tiện pháp lý mà nguyên đơn có thể sử dụng để bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

11

1.1.3. Vụ việc dân sự

Vụ việc dân sự là vụ việc phát sinh tại Tòa án nhân dân do cá nhân, cơ

quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

của mình hoặc của người khác. Như vậy vụ việc dân sự có các đặc điểm sau

đây:

Thứ nhất, vụ việc dân sự trước hết phải là những vụ việc phát sinh tại

Tòa án. Chỉ những vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và

phát sinh tại Tòa án mới được gọi là vụ việc dân sự.

Thứ hai, vụ việc dân sự phát sinh trên cơ sở có việc khởi kiện hoặc yêu

cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.

Trong thực tế thường xảy ra nhầm lẫn giữa vụ việc dân sự và vụ án dân

sự. Việc cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự hay khởi kiện

vụ án dân sự dẫn đến những kết quả rất khác nhau.

Vì vậy cần phân biệt được khi nào yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân

sự, khi nào thì khởi kiện vụ án dân sự để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của bản thân trước những vấn đề phát sinh trong các quan hệ dân sự.

Dấu hiệu pháp lý cơ bản nhất để phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự

là yếu tố có tranh chấp hay không. Việc dân sự không có tranh chấp xảy ra

còn vụ án dân sự có tranh chấp xảy ra.

Vụ án dân sự là những tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi chung là

tranh chấp dân sự) do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết và

đã được Tòa án thụ lý. Tranh chấp là tình trạng xung đột về lợi ích pháp lý

giữa ít nhất từ hai chủ thể trở lên. Vụ án dân sự là đối tượng của thủ tục giải

quyết vụ án dân sự.

Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự là tranh

chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Việc

12

dân sự là những trường hợp không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà chỉ

yêu cầu Toà án giải quyết xác nhận những sự kiện pháp lý về dân sự, hôn

nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.

Mỗi vụ việc dân sự dù có tranh chấp hoặc không có tranh chấp giữa các

chủ thể thì khi phát sinh tại Tòa án đều có mục đích giải quyết chung là nhằm

bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,

tổ chức. Theo pháp luật hiện hành, tính chất "dân sự" được hiểu theo nghĩa

rộng bao gồm các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, về kinh doanh,

thương mại, về lao động và về các loại việc khác theo quy định của pháp luật.

Khi một vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thì dẫn đến trách nhiệm giải

quyết vụ việc dân sự đó của Tòa án nhân dân theo trình tự, thủ tục giải quyết

các vụ án và việc dân sự.

Đối với vụ án thì đương sự có đơn khởi kiện (Toà án thụ lý, yêu cầu

cung cấp chứng cứ, hoà giải và mở phiên toà xét xử nếu hoà giải không

thành), còn việc dân sự chủ thể có liên quan gửi đơn yêu cầu Toà án (Toà án

thụ lý, yêu cầu cung cấp chứng cứ, mở phiên họp giải quyết có sự tham gia

của Viện kiểm sát, quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật ngay).

1.2. Việc xác định tư cách nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thì việc xác định tư cách

nguyên đơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp nguyên đơn thực hiện các

quyền và nghĩa vụ tố tụng để đảm bảo quyền lợi của mình, đảm bảo việc giải

quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Việc xác định đúng tư cách nguyên đơn sẽ

tránh được việc vụ án phải giải quyết đi, giải quyết lại nhiều lần gây mất thời

gian, tổn phí cho nguyên đơn cũng như các đương sự khác và Toà án. Xác

định đúng tư cách nguyên đơn sẽ tránh được việc giải quyết không đúng về

quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung, đảm

bảo mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự.

13

1.2.1. Cơ sở của việc xác định tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự

Xác định tư cách của nguyên đơn trên cơ sở xác định chủ thể có quyền

khởi kiện, bị khởi kiện hoặc có quyền yêu cầu, có liên quan đến giải quyết

yêu cầu:

Khi chủ thể khởi kiện hoặc yêu cầu thì tòa án cần xác định một cách

chính xác các vấn đề sau đây:

+ Phải xác định chủ thể đó có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu hay

không?

+ Họ khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích của mình hay

của người khác?

+ Họ có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu đối với ai?

Việc xác định ai có quyền khởi kiện, ai có quyền yêu cầu cần phải căn

cứ vào bản chất của mỗi quan hệ pháp luật đang được xem xét, giải quyết và

đối chiếu với các quy phạm pháp luật nội dung tương ứng.

Trong khoa học pháp lý, tùy thuộc vào các căn cứ khác nhau có thể có

nhiều cách phân loại quyền khởi kiện (hay tố quyền) khác nhau trong các

quan hệ pháp luật. Nếu căn cứ vào bản chất quyền lợi hành xử thì tố quyền

được phân chia thành tố quyền đối vật, tố quyền đối nhân, tố quyền hỗn hợp.

Việc phân loại tố quyền đối vật, tố quyền đối nhân có ý nghĩa trong việc xác

định tư cách của các đương sự trong vụ kiện.

1.2.2. Các quy định về xác định tư cách của nguyên đơn

Có hai loại chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

mình là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp và chủ thể được

chuyển giao hoặc thừa kế quyền, lợi ích. Xét theo luật thực định khoản 2 Điều

68 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người

khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức do bộ luật này quy định khởi

14

kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích

hợp pháp của người đó bị xâm hại.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để

yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực

mà mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.

Điều đó cho thấy nguyên đơn có vai trò quan trọng trong vụ án dân sự

so với các đương sự khác. Vì để phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời

là cơ sở để bắt đầu giải quyết vụ án dân sự phải có nguyên đơn khởi kiện hoặc

các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền lợi của

nguyên đơn.

Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định nguyên tắc chung để xác định

nguyên đơn thông qua hành vi khởi kiện của chủ thể có quyền, lợi ích hợp

pháp bị xâm phạm hay tranh chấp. Theo đó, nguyên đơn trong vụ án dân sự là

người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền

và lợi ích của người đó bị xâm phạm.

Theo quy định trên thì nguyên đơn là chủ thể thỏa mãn hai điều kiện

sau:

- Được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp với bị đơn.

- Đã tự mình khởi kiện.

Các quy định trên của Bộ luật tố tụng dân sự chưa đủ để xác định tư

cách của đương sự trong vụ án dân sự. Bởi lẽ, để có thể xác định đúng tư cách

của nguyên đơn thì ngoài các điều kiện trên, cần có các quy định của pháp

luật hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc xác định tư

cách của nguyên đơn phải dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật có tranh chấp,

pháp luật nội dung điều chỉnh quan hệ đó.

Để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải đáp ứng

những yêu cầu sau:

15

- Thứ nhất: Khi các chủ thể cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của

mình bị xâm hại. Điều này cho thấy việc nguyên đơn tham gia tố tụng mang

tính chủ động, khi nhận thấy quyền lợi của bản thân bị xâm hại chủ thể tự

mình yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho mình. Nó trái ngược

lại với tính bị động của bị đơn khi tham gia tố tụng. Việc yêu cầu bảo vệ

quyền lợi bị xâm hại xuất phát từ ý chí chủ quan của nguyên đơn. Vì việc xác

định quyền lợi của chủ thể có bị xâm hại hay không thì phải được khẳng định

trong các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực. Khi bản án, quyết định

của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi

ích hợp pháp của nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm. Về

nguyên tắc, quyền lợi chỉ có thể có được hoặc bị xâm phạm khi các chủ thể

tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia

đình…) mà nguyên đơn là một bên chủ thể.

- Thứ hai: Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Để tham gia vào

quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn phải có năng lực pháp luật và

năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì ngoài việc có khả năng pháp luật quy định

nguyên đơn còn phải tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự

hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng lúc đó họ trở thành nguyên

đơn.

Quyền dân sự của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định trong

Bộ luật dân sự được pháp luật bảo hộ. Khi các quyền này bị vi phạm thì

những người được hưởng quyền có thể yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Đây chính

là năng lực pháp luật tố tụng dân sự.

Khoản 1 Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 định nghĩa: Năng

lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng

dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp

16

luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình.

Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi

được thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng

lực pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các

quyền, nghĩa vụ dân sự của mình ngay được mà phải đáp ứng một số yêu cầu

nhất định về độ tuổi, trí tuệ (đối với cá nhân); người đại diện (đối với pháp

nhân)… Tương tự như trong pháp luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự quy định

“năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia

tố tụng dân sự” (khoản 2 Điều 69) và để có năng lực tố tụng dân sự, nguyên

đơn cũng cần phải thỏa mãn một số điều kiện về độ tuổi, trí tuệ (đối với

nguyên đơn là cá nhân); người đại diện (đối với nguyên đơn là cơ quan, tổ

chức). Cụ thể như sau:

+ Nguyên đơn là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực

hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn

chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 3 Điều

69);

+ Nguyên đơn là người chưa đủ mười sáu tuổi hoặc người mất năng lực

hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện

hợp pháp của họ thực hiện (khoản 4 Điều 69);

+ Nguyên đơn là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi

đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài

sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan

đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án

có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với

17

những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án do

người đại diện hợp pháp của họ thực hiện (khoản 6 Điều 69);

+ Nguyên đơn là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp (là người

đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc người được người đứng đầu cơ quan, tổ chức

ủy quyền nhân danh mình) tham gia tố tụng (khoản 7 Điều 69).

- Thứ ba: Các chủ thể trở thành nguyên đơn khi yêu cầu Tòa án bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích thuộc lĩnh

vực mình phụ trách: Đối với chủ thể là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng

dân sự đầy đủ hoặc cơ quan, tổ chức thông qua người đại diện hợp pháp khởi

kiện vụ án dân sự được Tòa án thụ lý thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó trở

thành nguyên đơn. Trường hợp cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng

dân sự đầy đủ mà được người đại diện hợp pháp của người này thì người

được bảo vệ quyền lợi cũng được xác định là nguyên đơn. Việc quy định

nhiều chủ thể có thể trở thành nguyên đơn cho thấy sự quan tâm của pháp luật

tới việc đảm bảo lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội.

- Thứ tư: Đơn khởi kiện.

Để khởi kiện và xác định tư cách là nguyên đơn thì chủ thể phải có đơn

khởi kiện và gửi đơn kiện tới Tòa án. Tư cách của chủ thể được xác định là

nguyên đơn, hành vi chủ thể gửi đơn tới Tòa án và Tòa án thụ lý đơn khởi

kiện. Đơn khởi kiện phải đầy đủ nội dung được quy định tại khoản 4 Điều 189

Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội

dung trong tranh chấp mà cùng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết quan

hệ nội dung tranh chấp đó thì Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của bên nào trước

thì bên đó được xác định là nguyên đơn.

18

Ngoài nguyên đơn là người có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ

quyền lợi của cá nhân, lợi ích công cộng… thì bị đơn và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan cũng trở thành nguyên đơn trong trường hợp:

+ Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn

vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn.

+ Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa

vụ với yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn.

1.3. Các quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự

Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo cho các đương sự

nói chung và nguyên đơn nói riêng có điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời bảo đảm việc giải quyết vụ

án dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn, pháp luật tố tụng dân sự đã quy

định khá cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn, với phạm vi

bài Luận văn này tôi chỉ xin đề cập tới quyền của nguyên đơn trong giải quyết

vụ việc dân sự.

Về nguyên tắc, để đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự,

nguyên đơn bình đẳng với các đương sự khác về quyền tố tụng dân sự. Mặt

khác, Tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và có

trách nhiệm tạo điều kiện để cho đương sự thực hiện được đầy đủ các quyền

của mình. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định cụ thể quyền của

nguyên đơn trong các lĩnh vực, giai đoạn tố tụng khác nhau tại Điều 70, 71

BLTTD:

Điều 70 quy định quyền, nghĩa vụ của đương sự: “Đương sự có quyền,

nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, đương sự có

quyền, nghĩa vụ sau đây: Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy

phiên tòa;Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố

19

tụng khác theo quy định của pháp luật; Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ

nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có

thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự

khác và Tòa án; Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy

định của Bộ luật này; Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang

lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình;Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp

tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu

giám định, quyết định việc định giá tài sản; Được biết, ghi chép, sao chụp tài

liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài

liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này; Có nghĩa vụ

gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn

khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã

có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Trường

hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng

cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ;Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng,

thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tự thỏa thuận với nhau về việc

giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành; Nhận thông báo hợp

lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Yêu cầu thay đổi người tiến hành

tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Tham gia

phiên tòa, phiên họp theo quy định của Bộ luật này; Phải có mặt theo giấy

triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa

20

án giải quyết vụ việc; Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan tham gia tố tụng; Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo

quy định của Bộ luật này; Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan

đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được

đối chất với nhau hoặc với người làm chứng; Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra

lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng; Được cấp trích lục bản

án, bản án, quyết định của Tòa án; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định

của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị người có thẩm quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật; Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện

chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án,

đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả

do Bộ luật này quy định; Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định”.

Điều 71 quy định quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn: “Các quyền, nghĩa

vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này; Thay đổi nội dung yêu

cầu khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; Chấp nhận hoặc

bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập".

Căn cứ vào cơ sở hình thành, tính chất của các nhóm quyền tố tụng có

thể phân loại các quyền tố tụng của nguyên đơn thành các nhóm: Quyền tự

định đoạt của nguyên đơn, quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp

chứng cứ, chứng minh và các quyền khác.

1.3.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn

Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự

quyết định quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để

bảo vệ quyền, lợi ích đó. Là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, chi phối

21

quá trình tố tụng dân sự nên quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

trong tố tụng dân sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng

dân sự.

Nội dung nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

trong tố tụng dân sự:

Điều 5 quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự:

Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền

giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có

đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn

khởi kiện, đơn yêu cầu đó.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm

dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,

không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.

Theo quy định trên, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự

được thể hiện trên các phương diện: Khởi kiện; Đưa ra, thay đổi, bổ sung

hoặc rút yêu cầu khởi kiện; Đưa ra, thay đổi, bổ sung hoặc rút căn cứ khởi

kiện.

Xuất phát từ cơ sở trên pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định cho

nguyên đơn trong tố tụng dân sự có các quyền tự định đoạt như: Giữ nguyên,

thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; Tự thỏa thuận

với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải; Tự bảo vệ hoặc nhờ

người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Đề nghị Tòa án quyết

định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tham gia phiên

tòa, phiên họp; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.

22

1.3.1.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc khởi kiện vụ án

dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự

Thứ nhất, với quy định tại Điều 186 và 187 Bộ luật tố tụng dân sự, Nhà

nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu

cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.

Thực hiện quyền khởi kiện chính này là một biểu hiện của nguyên tắc quyền

tự định đoạt của nguyên đơn trong khởi kiện vụ án dân sự.

Thứ hai, quyền tự định đoạt đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự.

Trong các việc dân sự thì không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Nhưng

người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án

dân sự. Họ được quyền đưa ra yêu cầu cho Toà án giải quyết để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong

phạm vi yêu cầu Toà án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý

làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoặc công nhận các quyền, nghĩa vụ của

họ. Việc Bộ luật tố tụng dân sự ghi nhận quyền này của nguyên đơn đã góp

phần thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.

1.3.1.2. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc thay đổi, bổ

sung, rút yêu cầu

Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu thuộc quyền tự định đoạt của nguyên

đơn. Tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền thay đổi,

bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và Điều 244 Bộ luật

tố tụng dân sự 2015 quy định: Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ

sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không

vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập

ban đầu. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của

mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận

và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.

23

Theo đó, nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của

mình. Đây là quy định nhằm giúp nguyên đơn khắc phục trường hợp đưa ra

yêu cầu không đầy đủ, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn

tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc quyết định và

tự định đoạt này có thể được toà án chấp nhận hay không. Trước khi toà án ra

quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì việc quyết định và tự định đoạt

trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu là quyền tuyệt đối của đương sự. Tại

phiên toà sơ thẩm, việc quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ

sung, rút yêu cầu của đương sự bị hạn chế.

Để bảo đảm quyền khởi kiện của nguyên đơn pháp luật không quy định

hạn chế việc thay đổi, bổ sung của đương sự. Tuy nhiên, để tránh trường hợp

nguyên đơn lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho Tòa án

trong việc giải quyết vụ án dân sự và gây khó khăn cho các đương sự khác

trong việc tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự cũng quy định những

điều kiện nhất định cho việc thay đổi, bổ sung này. Theo đó, Điều 244 Bộ luật

tố tụng dân sự quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của nguyên đơn tại

phiên tòa sơ thẩm không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 218, việc Toà án ra quyết định đình chỉ

giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì nguyên

đơn không có quyền đệ đơn kiện lại yêu cầu Toà án giải quyết.

Nguyên đơn có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện

(điểm b, khoản 2 Điều 71, trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu nguyên

đơn rút đơn khởi kiện, thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ việc điểm c khoản

1 Điều 217). Tại phiên tòa nếu nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu

của mình tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử với

phần yêu cầu bị rút hoặc toàn bộ yêu cầu bị rút đó (khoản 1 Điều 244). Trong

24

trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu của mình mà bị đơn vẫn giữ yêu

cầu phản tố thì bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và nguyên đơn lại thành bị

đơn. Nếu cả nguyên đơn và bị đơn đều rút yêu câu, yêu cầu phản tố mà người

có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ yêu cầu thì sẽ trở thành nguyên

đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn (Điều 245).

Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có quyền rút một phần hoặc toàn bộ

yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, nêu người yêu cầu tự

nguyện rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình thì Toà án chấp nhận và

đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu

cầu.

Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự phải dựa vào ý chí

của đương sự, Tòa án sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

do đương sự bị ép buộc.

1.3.1.3. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc thỏa thuận giải

quyết vụ việc dân sự

Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thoả thuận giải quyết vụ

việc của đương sự cũng như của nguyên đơn được thực hiện ở bất cứ giai

đoạn nào.

Trong tố tụng dân sự, hoà giải là thủ tục có ý nghĩa nhân văn nhằm

giúp cho đương sự thoả thuận với nhau để giải quyết các vấn đề có liên quan

đến vụ việc. Cơ sở của hoà giải là xuất phát từ ý chí chủ quan, tự nguyện

quyết định và tự định đoạt của đương sự. Do vậy, chỉ có đương sự là chủ thể

của quan hệ pháp luật nội dung mới có quyền thương lượng, thoả thuận hoà

giải để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ việc, trừ trường hợp đương

sự uỷ quyền cho người khác. Trong quá trình hoà giải, Toà án giữ vai trò

trung gian, giải thích pháp luật, chứ không được hướng dẫn thương lượng, nội

dung thoả thuận, bởi vì quyền thương lượng, nội dung thoả thuận là nội dung

25

của quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, toà án chỉ

công nhận thoả thuận của đương sự cũng như nguyên đơn khi thoả thuận đó

phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.

Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự các bên có quyền

thương lượng với nhau giải quyết vụ việc bằng ý chí và sự tự nguyện của

mình, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận đó, không được dùng vũ

lực, đe dọa dùng vũ lực, bắt các đương sự cũng như nguyên đơn phải thỏa

thuận không phù hợp với ý chí của mình.

Tuy nhiên việc hòa giải chỉ giới hạn ở một số trường hợp nhất định trừ

các trường hợp tại Điều 181 BLTTDS.

Đối với việc hòa giải ở cấp sơ thẩm, trước khi mở phiên tòa hòa giải là

thủ tục bắt buộc với những loại việc mà pháp luật quy định trừ trường hợp

VADS không được hòa giải quy định tại Điều 181 và những vụ án không tiến

hành hòa giải được tại Điều 207.

Trước khi mở phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn

đề giải quyết toàn bộ vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hòa giải thành. Hết

thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương

sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa

giải hoặc một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công

nhận sự thỏa thuận đó (khoản 1 Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự). Tại phiên

tòa sơ thẩm Theo quy định tại Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét

xử phải hỏi nguyên đơn có thỏa thuận được với các đương sự khác về việc

giải quyết vụ án hay không, nêu thỏa thuận được không trái quy định pháp

luật, đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa

thuận đó, quyết định này có hiệu lực ngay.

Tại giai đoạn phúc thẩm tuy pháp luật không quy định cụ thể tuy nhiên

Tòa án phúc thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên

26

tòa phúc thẩm nhưng: Nếu tại Tòa án cấp phúc thẩm nguyên đơn không thoả

thuận được với các đương sự khác về việc giải quyết vụ án không trái pháp

luật, đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa

bản án sơ thẩm, công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.

Như vậy, với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của quyền tự định đoạt

của nguyên đơn, quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự là quyền tố tụng

rất quan trọng của nguyên đơn được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm,

phúc thẩm, trừ những trường hợp Bộ luật tố tụng dân sự quy định không được

tiến hành hòa giải. Việc ghi nhận quyền thỏa thuận của nguyên đơn với các

đương sự khác chính là sự tôn trọng của pháp luật đối với các quyền cơ bản

của con người, trong đó nguyên đơn có quyền tự mình giải quyết các tranh

chấp, mâu thuẫn, tự mình giải quyết việc bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa

án là biện pháp giải quyết vụ án hữu hiệu nhất. Đồng thời góp phần quan

trọng nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí,

giáo dục nếp sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.

1.3.1.4. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc tự bảo vệ hoặc

nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình

Để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình nguyên đơn có thể

ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là

người đại diện theo sự ủy quyền của nguyên đơn, người này phải có đầy đủ

năng lực hành vi dân sự. Việc cử người đại diện theo ủy quyền, hoàn toàn dựa

trên sự tự định đoạt của nguyên đơn.

Đây là một quyền quan trọng của nguyên đơn trong tố tụng dân sự.

Nguyên đơn có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình. Theo

đó thì nguyên đơn có quyền dùng lý lẽ và chứng cứ, tài liệu mình có được để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng.

Quyền tự bảo vệ không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền

27

khác của nguyên đơn mà quyền tự bảo vệ chính là sự tổng hoà các quyền của

nguyên đơn trong tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

mình.

Ngoài quyền tự bảo vệ cho mình, nguyên đơn còn có quyền nhờ người

khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Theo quy định tại Điều

75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

nguyên đơn có quyền nhờ luật sư hoặc người khác mà tòa án chấp nhận tham

gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

nguyên đơn giúp nguyên đơn nhận thức đúng quyền và nghĩa vụ của mình và

bảo vệ các quyền và lợi ích trước Toà án khi có sự vi phạm. Người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có sự am hiểu về luật pháp, vì vậy

những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp nhận, giúp cho quá trình giải

quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi ích cho nguyên đơn. Không

những thế, với sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án của Toà án được công minh hơn, làm

cho người tiến hành tố tụng phải khách quan, tôn trọng pháp luật hơn trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Việc nguyên đơn có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho mình, cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền quyết định và tự định

đoạt của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của nguyên đơn phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2

Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 . Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn nên việc

thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn do

hai bên quyết định.

28

Như vậy, một lần nữa quyền tự định đoạt của nguyên đơn lại được thể

hiện. Tất cả đều hướng tới lợi ích của nguyên đơn. Việc tham gia tố tụng của

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không những có ý

nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trước tòa mà còn có ý

nghĩa thể hiện việc tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của nguyên đơn trong

quá trình tố tụng. Do tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn nên việc

thay đổi chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn sẽ do

hai bên quyết định, đây cũng là quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên

tắc quyền tự định đoạt của nguyên đơn .

1.3.1.5. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc kháng cáo bản

án, quyết định của Tòa án

Kháng cáo là quyền cho phép nguyên đơn chống lại bản án và quyết

định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm và yêu

cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 271

BLTTDS, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm

đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo

thủ tục phúc thẩm. Theo đó, những phần của bản án, quyết định bị kháng cáo

thì chưa được thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành. Có

thể nói, quyền kháng cáo là phương tiện pháp lý, là một trong những nội dung

của quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, quyền này bị

giới hạn bởi những quy định của pháp luật về đối tượng và thời hạn của quyền

khiếu nại, kháng cáo. Mặt khác, đương sự cũng có quyền thay đổi, bổ sung,

rút kháng cáo theo khoản 2, Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Theo quy

định tại Điều 273, thời hạn kháng cáo đối với Bản án của Toà án cấp sơ thẩm

là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với nguyên đơn không có mặt tại phiên

toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng

29

cáo tính từ ngày họ nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết. Thời hạn

kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà

án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày nguyên đơn nhận được quyết định hoặc

kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân

sự. Thông qua việc kháng cáo hay không kháng cáo nguyên đơn thể hiện ý

chí của mình đối với bản án, quyết định của Toà án một cách công khai độc

lập, được quyền tự định đoạt nội dung kháng cáo, như vậy kháng cáo là một

trong những nội dung quyền tự định đoạt của nguyên đơn.

Đối với việc dân sự, theo quy định tại Điều 372 Bộ luật tố tụng dân sự

nguyên đơn có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong vòng

10 ngày, kể từ ngày ra quyết định.

1.3.1.6. Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng

Khi nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì

nguyên đơn có quyền khiếu nại. Nguyên đơn có quyền khiếu nại các quyết

định, hành vi tố tụng của Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm,

Thư ký Toà án.

Đối tượng của khiếu nại là quyết định không thuộc đối tượng của

kháng cáo như: quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm

thời của Thẩm phán trước khi mở phiên toà và của Hội đồng xét xử tại phiên

toà; khiếu nại về hành vi trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán; khiếu nại về

quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn.

Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có

quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định áp

dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán

không quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

30

Thời hạn khiếu nại là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp

dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả lời của Thẩm

phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn

cấp tạm thời.

Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ

ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, nguyên đơn có quyền khiếu nại

với Toà án đã trả lại đơn khởi kiện và tại Điều 319 Bộ luật tố tụng dân sự quy

định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đưa

vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, nguyên đơn có quyền khiếu nại với

Chánh án Toà án đã ra quyết định.

Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định tương đối

đầy đủ, chi tiết các quyền của nguyên đơn trong vụ án dân sự. Các quy định

này đã khắc phục được những khuyết điểm của văn bản tố tụng dân sự trước

đây, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho nguyên đơn có thể thực hiện được đầy đủ

các quyền của mình, đồng thời hạn chế việc các cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng xâm phạm việc thực hiện

quyền tố tụng của đương sự.

Quyền quyết định và tự định đoạt của nguyên đơn trong lĩnh vực khiếu

nại, kháng cáo là một trong những quyền tố tụng quan trọng, bảo đảm cho

nguyên đơn có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng

như phát hiện, khắc phục, sửa chữa những sai sót của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc.

1.3.1.7. Quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là cách thức giải

quyết vụ việc dân sự của Toà án khi khẩn cấp mà theo cách thức này Toà án

sẽ ra ngay quyết định áp dụng giải pháp trước mắt nhằm tạm thời giải quyết

31

nhu cấp cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng , bảo toàn tài sản, đảm

bảo cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích cho đương sự trong tố tụng dân sự.

Mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm bảo vệ

kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, trong đó

có nguyên đơn, vì thế quyền yêu cầu Toà án áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện

pháp khẩn cấp tạm thời phải thuộc về những chủ thể có quyền, lợi ích hợp

pháp và nguyên đơn là một trong những chủ thể đó.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự, trong quá

trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết

vụ việc đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời

giải quyết yêu cầu cấp bách của nguyên đơn, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài

sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây

thiệt hại không thể khắc phục được đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc đúng

quy định của pháp luật.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự quy định nguyên

đơn không những có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi

Toà án đã thụ lý vụ án, mà trong trường hợp do tình thế khẩn cấp cần phải

bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra

nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện.

Để yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nguyên đơn

cần phải có đơn yêu cầu gửi đến Toà án có thẩm quyền, nội dung và hình thức

đơn yêu cầu phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật tố tụng dân

sự.

32

1.3.2. Quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và

chứng minh.

Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá

nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập

được theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ

để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp

hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng

đắn vụ việc dân sự.

Để bảo vệ được tốt nhất các quyền và nghĩa vụ về dân sự của mình thì

nguyên đơn có quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh cho quyền và lợi ích

hợp pháp của mình. Nguyên đơn có quyền cung cấp chứng cứ ở bất cứ giai

đoạn tố tụng nào, khi nguyên đơn giao nộp chứng cứ Tòa án phải lập biên bản

có chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án (Khoản 2 Điều 96 BLTTDS). Vì

vậy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã có nhiều quy định về quyền của

nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh, trong đó có

các quyền sau: Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ,

quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; Đề nghị

Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không

thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu,

chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ

chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng

cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết

định việc định giá tài sản; Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do

đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập.

Theo quy định của BLTTDS nếu như nguyên đơn không thể tự mình

thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

33

thì có thể đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ việc mà mình

không thể thực hiện được (khoản 7 Điều 70 BLTTDS). Quy định này nhằm

khắc phục những trường hợp nguyên đơn không có khả năng, điều kiện để thu

thập chứng cứ. Nguyên đơn cũng có quyền đề nghị Toà án triệu tập người làm

chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản, có quyền khiếu nại với Viện

kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập theo yêu cầu

của nguyên đơn.

Theo khoản 7 Điều 70, trong trường hợp nguyên đơn không thể tự

mình thu thập chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán giải quyết vụ việc

tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ, yêu cầu cá nhân, cơ

quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu

thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu

thập; lý do vì sao không thể tự mình thu thập; họ, tên, địa chỉ của cá nhân và

địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.

Ví dụ: Trong trường hợp cần tính đúng lãi suất cho một khoản nợ trong

vụ án đòi tiền nợ, nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án yêu cầu Ngân hàng Nhà

nước cho biết mức lãi suất tại thời điểm cụ thể. Hoặc yêu cầu Tòa án yêu cầu

Sở tài nguyên và môi trường cho biết về nguồn gốc nhà - đất có chuyển dịch

quyền sử dụng, sở hữu được hay không?

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ

quan chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó, nguyên đơn có

quyền yêu cầu Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định và định giá tài

sản. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có

nhiều trường hợp có thể quyết định toàn bộ vụ việc. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp

về thừa kế, bản di chúc bị tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám

định tư pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ án. Trong trường hợp

nguyên đơn không đồng ý với kết luận giám định thì có thể yêu cầu giám định

34

lại hoặc yêu cầu giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định

khác.

Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự còn quy định các đương sự có

quyền “Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự

khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập” (khoản 8 Điều 70 BLTTDS). Quy

định này sẽ giúp cho các nguyên đơn chuẩn bị được chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi có quyền được biết này nguyên đơn

sẽ có sự chủ động cao trong việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ

cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối

phương.

Để phù hợp với quy định của Luật Giám định tư pháp, ngoài việc

nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định như quy định của

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy

định khi nguyên đơn đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ

chối yêu cầu của nguyên đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu giám định. Quyền

yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra

xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.

định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 quy định đương sự cũng như nguyên đơn có quyền yêu cầu định giá tài

sản trong trường hợp không thỏa thuận được với bị đơn giá đối với tài sản

đang tranh chấp

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có yêu cầu bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp có quyền cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu

cầu đó là hợp pháp để Tòa chấp thuận thụ lý vụ việc dân sự.

Ngay sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, nguyên đơn đã thực hiện

quyền chứng minh bằng việc gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu,

35

chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; Trong quá trình Tòa án giải

quyết vụ việc dân sự, nguyên đơn có quyền giao nộp chứng cứ cho Tòa án.

Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh là vấn đề rất quan trọng để

nguyên đơn làm rõ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trên cơ sở đó thuyết

phục Tòa án bảo vệ. Trước Tòa án nếu nguyên đơn không chứng minh được

sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ

có thể sẽ không được Tòa án bảo vệ.

Nguyên đơn có quyền được dùng mọi biện pháp chứng minh, có quyền

đề xuất và xuất trình chứng cứ trong bất cứ giai đoạn nào. Đó có thể là giấy

tờ, tài liệu liên quan đến vụ kiện và các vật chứa đựng chứng cứ phải được

trực tiếp giao nộp cho Tòa án. Trong quá trình cung cấp chứng cứ, nguyên

đơn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết như xem xét tại

chỗ, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan cung cấp tài liệu cần thiết, lấy lời

khai, triệu tập thêm nhân chứng, đối chất để thu thập thêm chứng cứ, xác

minh cho lời khai và những chứng cứ của mình hoặc để xác định lại giá trị

chứng minh của chứng cứ mà phía bên kia cung cấp. Ngoài ra, quyền được

biết và ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác xuất trình

hoặc do Tòa án thu thập để tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn có thể bảo

vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất.

Nguyên đơn có quyền thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc

cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp

pháp thì mới là một trong những điều kiện để toà án tiến hành thụ lý đơn khởi

kiện - thời điểm bắt đầu của hoạt động tố tụng dân sự. Không thể có một đơn

khởi kiện nào được thụ lý mà không có chứng cứ để chứng minh, các nguyên

tắc khác theo đó mới có thể phát sinh và áp dụng.

Nhận thức được vai trò quan trọng mang tính chất chỉ đạo, Bộ luật tố

tụng dân sự đã quy định cụ thể nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và

36

chứng minh trong tố tụng dân sự. Theo khoản 1 Điều 6 BLTTDS quy định

nguyên đơn có quyền chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Toà án và

chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Nguyên đơn được đảm bảo quyền bảo vệ thông qua việc tự mình thực

hiện hoạt động chứng minh cho mình. Hoạt động chứng minh nhằm đảm bảo

quyền bảo vệ của nguyên đơn nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đã

đưa ra yêu cầu. Thuật ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng

bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công

nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề

ra đối tượng chứng minh. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện

thì họ có quyền chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp

nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương

sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.

1.3.3. Các quyền khác của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.

Ngoài hai nhóm quyền quan trọng được đề cập ở trên, để bảo đảm cho

nguyên đơn có đầy đủ các điều kiện thuận lợi nhất tham gia tố tụng nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành

còn quy định cho nguyên đơn các quyền khác như: Nhận thông báo hợp lệ để

thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; Tham gia

phiên tòa; Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan tham gia tố tụng; Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc

theo quy định của Bộ luật này; Được cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa

án; Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

37

1.3.3.1. Quyền nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của

mình.

Theo quy định tại khoản 12 Điều 70 BLTTDS, khi tham gia vào quá

trình tố tụng, nguyên đơn có quyền được nhận các thông báo hợp lệ để thực

hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Các thông báo cũng như các văn bản tố

tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án

ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định tiếp tục giải

quyết vụ án… Các thông báo và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực

tiếp đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Việc pháp luật quy định nguyên

đơn có quyền được nhận các thông báo cũng như các văn bản tố tụng nhằm

đảm bảo cho nguyên đơn được bảo đảm tốt nhất quyền bảo vệ cũng như các

quyền tố tụng khác của mình.

1.3.3.2. Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham

gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người

giám định, người phiên dịch là những người tiến hành tố tụng, người tham gia

tố tụng có vai trò quyết định trong việc giải quyết vụ án dân sự. Chính vì vậy

mà việc họ có khách quan trong quá trình tố tụng dân sự hay không sẽ ảnh

hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Những

trường hợp có nguy cơ dẫn đến việc không khách quan trong việc giải quyết

vụ án, pháp luật quy định họ phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

Những căn cứ để thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư

ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch được quy định tại các Điều 53,

Điều 54, Điều 60, Điều 84 BLTTDS.

Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư ký

Tòa án, người giám định, người phiên dịch cũng được ghi nhận là quyền của

đương sự để đảm bảo quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Quyền

38

này được thực hiện trước hoặc trong phiên tòa. Do vậy, Tòa án phải có trách

nhiệm thông báo cho đương sự biết những người tiến hành tố tụng giải quyết

vụ án trước khi quyết định đưa vụ án ra xét xử.

1.3.3.3. Quyền tham gia phiên tòa.

Về quyền tham gia phiên tòa, phiên tòa là nơi xem xét và giải quyết các

vấn đề của vụ án dân sự. Kết thúc phiên tòa, quyền lợi và nghĩa vụ của các

đương sự, đặc biệt là nguyên đơn được Tòa quyết định ghi trong bản án và

được đảm bảo thi hành. Bởi vậy, việc tham gia tố tụng tại phiên tòa có ý

nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương

sự cũng như là nguyên đơn. Quyền tham gia phiên tòa của nguyên đơn cũng

được ghi nhận tại khoản 15 Điều 70 BLTTDS.

1.3.3.4. Quyền tranh luận tại phiên tòa.

Cùng với quyền tham gia phiên tòa, phiên họp pháp luật còn trao cho

nguyên đơn một quyền rất quan trọng nữa đó là quyền được tham gia tranh

luận tại phiên tòa, quy định tại khoản 20 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Đây

là điều kiện cần thiết để Hội đồng xét xử nắm bắt được tất cả các tình tiết vụ

án. Đồng thời, đây cũng là biện pháp tốt để nguyên đơn đưa ra những chứng

cứ, lý lẽ thuyết phục trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của họ trước Tòa án.

Theo quy định của BLTTDS thì nguyên đơn có quyền tranh luận trong

suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự kể từ khi nguyên đơn có yêu cầu

và Tòa án thụ lý cho đến khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, quyền tranh luận về

chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết của vụ án;

có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự khác, đưa ra quan điểm của

mình về hướng giải quyết vụ án; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên

quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn

đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc người làm chứng; có

39

quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để

yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm…

Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định

của pháp luật tạo điều kiện cho nguyên đơn thực hiện quyền tranh luận để ra

bản án, quyết định đúng pháp luật như nguyền đơn phải được Tòa án triệu tập

tham gia tố tụng, giải thích cho nguyên đơn quyền tranh luận của họ, tạo điều

kiện cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu do người khác cung cấp hoặc

Tòa án thu thập v.v...

1.4. Các yếu tố bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc

dân sự

1.4.1. Sự bảo đảm về hệ thống luật pháp

Khi lựa chọn định hướng phát triển theo xu hướng tiến bộ, hoàn thiện

hệ thống pháp luật, các quốc gia đều cố gắng cụ thể hóa các quy định về bảo

đảm quyền của công dân trong Hiến pháp và pháp luật của quốc gia mình, vì

thế bảo vệ các quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự là

một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam, Ðảng và Nhà nước ta vừa không ngừng

hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp lý bảo đảm quyền con người

nói chung và quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự nói riêng, vừa

luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng bước cải thiện, không ngừng

nâng cao đời sống nhân dân, vừa quy định cụ thể quyền của nguyên đơn trong

Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật, Chính phủ đã ban hành nhiều văn

bản, nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật, đặc biệt là Bộ luật dân sự và

Tố tụng dân sự. Các cơ quan tư pháp không ngừng chú trọng đến việc đảm

bảo các quyền của những người tham gia tố tụng, trong đó có nguyên đơn.

Tòa án trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người

nói chung và quyền của nguyên đơn nói riêng. Viện kiểm sát là cơ quan tư

40

pháp có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc đảm bảo quyền của nguyên đơn

được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền

giám sát tối cao đối với hoạt động của Chính phủ và các cơ quan điều tra,

Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự, hình sự, hành

chính và bổ trợ tư pháp trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của

Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Là một quốc gia đang phát triển, nhận thức về pháp luật và quyền con

người nói chung và quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự nói riêng

của người dân còn có những mặt hạn chế, do đó, việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật về quyền con người của nước ta giữ vị trí hết sức quan trọng để xây

dựng một xã hội mọi người sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

1.4.2. Bảo đảm về đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật

1.4.2.1. Quy định về sự độc lập, khách quan của Tòa án - Bảo đảm cần

thiết của việc thực thi quyền của nguyên đơn.

Sự độc lập của Tòa án được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng

nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền của nguyên đơn. Sự độc

lập và khách quan của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 12 BLTTDS:

“ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết

việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Ngoài ra, một nguyên tắc

khác cũng được ghi nhận tại khoản 1 Điều 16 BLTTDS là nguyên tắc bảo

đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự. Theo

đó, “Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư

ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người

phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá không được tiến

hành hoặc tham gia tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể

không vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.

Do các mối quan hệ xã hội phức tạp, khi tiến hành giải quyết các VADS

41

các Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án thường bị chi phối, tác động từ nhiều

phía. Những tác động tiêu cực này có thể làm cho một số cán bộ không vững

vàng, thiếu bản lĩnh hoặc thoái hóa, biến chất dẫn đến việc tiến hành tố tụng

thiếu trung thực, không khách quan, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của

đương sự, trong đó có quyền của nguyên đơn. Do đó, độc lập, khách quan chính

là điều kiện để Tòa án có thể giải quyết vụ án một cách công minh. Nếu không

không độc lập, khách quan thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể ra phán

quyết đúng pháp luật và quyền của nguyên đơn không được thực thi trên thực tế.

Để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì việc ghi

nhận bằng pháp luật như trên vẫn chưa đủ mà cần phải có thêm những cơ chế hỗ

trợ khác như về cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ đãi ngộ. Về bảo đảm sự vô

tư của người tiến hành tố tụng dân sự, các Điều 52, 53, 54 BLTTDS cũng có quy

định về việc từ chối, thay đổi những người tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho

rằng sự tiến hành tố tụng của họ không vô tư, khách quan dẫn tới quyền yêu cầu

Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự không được bảo đảm thực hiện.

1.4.2.2. Quy định về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát - Điều kiện

cần thiết để quyền khởi kiện không bị xâm phạm

Như đã phân tích ở Chương 1, quyền lực mà không bị giám sát, kiềm chế

sẽ dẫn tới lạm quyền. Do vậy, việc ghi nhận quyền tham gia tố tụng của VKS

ngay từ khi Tòa án thụ lý vụ án là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền của

đương sự, trong đó có nguyên đơn không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia

này sẽ hạn chế tối đa việc quyền của nguyên đơn không được thực hiện, thực

hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng quy đinh của pháp luật. Ngoài ra,

thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời kháng nghị để

quyền của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện.

Quyền tham gia tố tụng của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 107

Hiến pháp 2013; Điều 27 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân; các Điều 21,

42

23, 25 BLTTDS. Theo đó, cơ chế giám sát, kiểm sát các hoạt động tố tụng

dân sự được quy định thông qua nhiều phương thức khác nhau như kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các VADS của Tòa án, kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định

của Tòa án, kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự…

Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư

liên tịch số 02/20166/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối hợp

giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số

quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các quy định trên đã thể hiện vai trò của

Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền của nguyên đơn thông qua các quy

định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án trong giải quyết các vụ

việc dân sự. Toà án phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp

về việc thụ lý vụ án dân sự cũng như toàn bộ các văn bản tố tụng liên quan đến

giải quyết vụ việc cho Viện kiểm sát. Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng có quyền

kháng nghị và tham gia phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm.

1.4.3. Bảo đảm về đổi mới và cải cách tư pháp

Đổi mới và cải cách tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người là vấn đề ưu

tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, quyền của đương sự khi tham gia tố

tụng là một phần của quyền con người được pháp luật bảo vệ, trong đó quyền

của nguyên đơn cũng không phải là ngoại lệ. Thực hiện chủ trương, đường lối

của Đảng, cải cách tư pháp vẫn tiếp tục được duy trì và là một yêu cầu không

thể thiếu trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam. Trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong

sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,

phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động

xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, cải cách tư

pháp sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế của công tác tư pháp, đảm bảo tốt

43

hơn việc thực hiện tốt hơn quyền tố tụng của đương sự, đặc biệt là nguyên

đơn.

Cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền, hệ thống các cơ quan tư pháp là

công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong

đó có nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng, hạn chế đến mức thấp nhất

những biểu hiện xâm phạm hoặc quyền của nguyên đơn không được đảm bảo

thực hiện đầy đủ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Cải cách tư pháp

được tiến hành khẩn trương, đồng bộ đồng thời xác định rõ khâu then chốt.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một nhiệm vụ rất

khó khăn, phức tạp có liên quan chặt chẽ với tổ chức và hoạt động của nhiều

cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng, Nhà

nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc

kiện toàn, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư

pháp, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có

hiệu lực, hiệu quả.

44

Tóm tắt chương 1

Trong một vụ việc dân sự không thể thiếu chủ thể quan trọng đó là

nguyên đơn, việc xác định đâu là nguyên đơn, nguyên đơn được hưởng những

quyền gì theo quy định của pháp luật thì trước tiên chúng ta cần phải nắm rõ

thế nào là nguyên đơn, đặc điểm của nguyên đơn là gì, từ đó mới có thể xác

định đúng tư cách tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng trong

một vụ việc dân sự. Quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân sự được cụ thể

hóa trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhằm bảo đảm có căn cứ để xác

định nguyên đơn được pháp luật trao cho những quyền gì, được tự mình hoặc

nhờ người khác thực hiện những hoạt động gì. Việc hiểu rõ những quy định

về quyền của nguyên đơn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng thực hiện tốt nhiềm vụ của mình, từ đó cũng giúp cho nguyên

đơn khi tham gia bất kì một hoạt động tố tụng nào trong một vụ việc dân sự

cũng có pháp luật bảo vệ, bảo đảm cho những quyền mà nguyên đơn được

hưởng luôn được thực hiện và tôn trọng.

45

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN

TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

2.1. Khái quát chung về huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình

Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện

Tuyên Hóa là huyện miền núi phía Tây bắc tỉnh Quảng Bình có diện

tích tự nhiên 115.059,4 ha, chiếm 1/7 diện tích tỉnh Quảng Bình, trong đó, đất

nông nghiệp chỉ có 5.082.21 ha chiếm 4,42%; đất lâm nghiệp là 84.32,78 ha,

chiếm 73,38%, đất chưa sử dụng và sông suối là 23.472,13 ha chiếm 20,44%

còn lại là 580,17 ha đất ở và 1.478,72 ha đất chuyên dùng. Phía Bắc giáp

huyện Hương Khê và huyện Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp huyện

Minh Hoá và nước bạn Lào, phía Nam giáp huyện Bố Trạch, phía Đông giáp

huyện Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình.Toàn huyện có 19 xã, 01 thị trấn,

trong đó có 12 xã đặc biệt khó khăn, 6 xã có thôn 135 (12 thôn). Dân số toàn

huyện trên 79.000 nhân khẩu, có 180 hộ với 724 khẩu đồng bào dân tộc thiểu

số sống tại hai xã Thanh Hóa và Lâm Hóa. Là cửa ngõ phía Tây của tỉnh

Quảng Bình có quốc lộ 12A, quốc lộ 15, đường Hồ Chí Minh, đường đi cảng

Vũng Áng và đường sắt Bắc Nam chạy qua với 9 ga trung chuyển hàng hoá,

ngoài ra huyện còn có sông Gianh, sông Rào Trổ là tuyến đường thuỷ quan

trọng tạo thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh và tỉnh

bạn. Đặc biệt sau khi có hệ thống giao thông Xuyên Á, Tuyên Hoá có điều

kiện thông thương với địa bàn kinh tế vùng duyên hải miền Trung, cơ hội để

thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của cả

tỉnh Quảng Bình nói chung.

46

Về kinh tế, Tuyên Hóa trên 82.573 ha rừng tự nhiên, 1.736 ha rừng

trồng và 17,4 ha đất ươm giống. Rừng tự nhiên của Tuyên Hoá có trữ lượng gỗ tương đối lớn, khoảng 3 triệu m3, với nhiều loại lâm thổ sản, gỗ quý như

dạ hương, huệ mộc, cánh kiến, lim, gõ, mun, dổi...Ngoài gỗ, còn có nhiều loại

tre, nứa, song, mây và nhiều loại thảo dược quý như sa nhân, sâm, trầm

hương, hà thủ ô và nhiều loại rau quả.

Bên cạnh đó, xen lẫn giữa những núi đồi, sông suối là những đồng cỏ,

đây là môi trường lý tưởng cho chăn nuôi đại gia súc. Núi rừng Tuyên Hoá

cũng là nơi sinh sống của hàng trăm loài chim thú, một vài nơi còn có nhiều

loại động vật quý hiếm như gấu, bò tót, hổ, mang lớn, nhím, vượn má hung,

voọc vá chân nâu, khỉ đuôi lợn, khỉ mốc… Với 15.800 ha đất vùng gò đồi,

Tuyên Hoá còn có tiềm năng lớn để phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây

ăn quả như tiêu, vải thiều, bưởi và chăn nuôi đại gia súc. Mạng lưới sông suối

của vùng tương đối dày, với dòng sông Gianh, Tuyên Hoá còn có điều kiện để

phát triển nghề nuôi cá lồng bè và đảm bảo khả năng cung cấp nước ngọt cho

toàn huyện.

Ngoài tiềm năng phát triển mạnh nghề rừng và nuôi trồng thủy sản, với hàng tỷ m3 đá vôi đã tạo điều kiện cho huyện phát triển ngành công nghiệp xi

măng và sản xuất vật liệu xây dựng, tiêu biểu là nhà máy xi măng Sông Gianh

với công suất 1,4 triệu tấn/năm.

Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2015

tăng đạt 12%/năm; bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2020 tăng 11-

12%/năm.

- Cơ cấu kinh tế như sau:

+ Đến năm 2015: nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 39,2%; công nghiệp -

xây dựng 26,43%; dịch vụ 34,37%.

47

+ Đến năm 2020: nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 37,66%; công nghiệp

- xây dựng 26,77%; dịch vụ 35,57%.

- Thu nhập bình quân đầu người: đến năm 2015 đạt 19 triệu đồng/năm

và đến năm 2020 đạt 31,5 triệu đồng/năm.

- Đến năm 2015, tổng sản lượng lương thực đạt 18.500 tấn, năm 2020

đạt 19.000 tấn.

Trong những năm qua, đặc biệt giai đoạn 2012-2015, mặc dù phải đối

mặt với nhiều khó khăn, thách thức, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn

cầu; thời tiết diễn biến bất lợi, nắng hạn, mưa rét kéo dài và lũ lụt thường

xuyên; nhưng nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh; cùng với sự

nỗ lực phấn đấu của các các cấp, các ngành và nhân dân trên toàn huyện nên

tình hình kinh tế - xã hội của huyện có nhiều chuyển biến tích cực; kinh tế ổn

định và duy trì được tốc độ tăng trưởng; các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa

xã hội có nhiều tiến bộ; quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn

xã hội được giữ vững; đời sống của người dân cơ bản ổn định và từng bước

được cải thiện. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp

ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, phát triển kinh tế chưa tương xứng với

tiềm năng, thế mạnh của huyện. Đến nay, Tuyên Hoá vẫn là một huyện

nghèo. Trình độ phát triển còn thấp so với mức bình quân chung của tỉnh. Một

số chỉ tiêu về kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch đề ra. Chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, hiệu quả chưa cao; công tác quản lý nhà nước về tài nguyên - môi

trường có mặt còn hạn chế. Một số vấn đề xã hội chưa được giải quyết tốt;

chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; đời sống của một

bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tỷ lệ

hộ nghèo còn cao, nguy cơ tái nghèo lớn.

Tuyên Hóa được nhắc tới là vùng đất có nhiều địa danh lịch sử được

công nhận cấp quốc gia và cấp tỉnh như mộ đền thờ đề đốc Lê Trực ở Tiến

48

Hoá (cấp quốc gia); Bãi Đức - xã Hương Hoá, nơi chi bộ cộng sản đầu tiên

của huyện được thành lập (cấp tỉnh), hang Lèn Hà - xã Thanh Hóa. Ngoài

những địa danh lịch sử, Tuyên Hoá còn có các di tích lịch sử được đề nghị

công nhận như làng Lệ Sơn- xã Văn Hoá, chùa Linh Sơn - xã Tiến Hoá, nhà

và hang hoạt động của cụ Lê An - lão thành cách mạng xã Tiến Hoá, chùa

Hang - Lạc Sơn - xã Châu Hoá; chùa Yên Quốc Tự - xã Mai Hóa; xưởng Trần

Táo và làng Còi xã Đồng Hoá, nơi trung đoàn 18 được thành lập và nhiều

danh lam thắng cảnh đẹp… Đây chính là một trong những lợi thế lớn để

Tuyên Hóa đẩy mạnh phát triển ngành kinh tế du lịch và dịch vụ. [28, tr.1-3]

2.1.2. Tình hình giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh

Quảng Bình.

Các quy định của BLTTDS về giải quyết vụ việc dân sự là cơ sở pháp

lý rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,

cơ quan, tổ chức. Theo số liệu Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng

Bình trong 05 năm gần nhất, tình hình thụ lý giải quyết vụ việc dân sự thể

hiện như sau:

- Năm 2013: Tòa án thụ lý 92 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 89 vụ, việc.

Đạt tỷ lệ: 96,7%.

- Năm 2014: Tòa án thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 77 vụ, việc.

Đạt tỷ lệ: 91,7%.

- Năm 2015: Tòa án thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 102 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 74,5%.

- Năm 2016: Tòa án thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 131 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 78,9%.

- Năm 2017: Tòa án thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 155 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 91,7%.

49

Nhìn chung, từ năm 2013 đến năm 2017 các vụ việc dân sự tăng lên

đáng kể cùng với sự thay đổi ngày càng phức tạp của tình hình kinh tế - xã

hội, tuy nhiên với sự tiến bộ về mặt lập pháp cũng như khả năng giải quyết án

của các cơ quan có thẩm quyền thì tỷ lệ giải quyết các vụ việc dân sự cũng

tăng lên đặc biệt giai đoạn từ năm 2015 - 2017 tỷ lệ giải quyết tăng từ 74,5%

lên 91,7%, giảm tỉ lệ án tồn đọng. [27, tr.1-6]

2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự

tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Thực hiện quyền tự định đoạt của nguyên đơn.

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh

Quảng Bình từ năm 2013 đến năm 2017 tình hình đảm bảo quyền thể hiện

quyền tự định đoạt của nguyên đơn như sau:

- Năm 2013: Tổng số thụ lý 92 vụ, việc dân sự (Trong đó: 18 vụ, việc

tranh chấp dân sự, chiếm 19,6%; 73 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 79,3%;

01 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 1,1%).

+ Có 10 vụ án hôn nhân gia đình, nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa án

ra quyết đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 11,2%. Không có trường hợp

nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.

+ Có 54 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 38

vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công

nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 08 vụ hôn nhân và

gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự, chiếm 51,7%; 08 vụ án tranh chấp dân sự, chiếm 9%, Tòa án ra

quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.

+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu

cầu của nguyên đơn.

+ Xét xử xét xử 25 vụ án, chiếm 28,1%, trong đó:

50

* Có 04 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên

đơn, chiếm 16%.

* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.

* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.

* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [22, tr.1-3]

- Năm 2014: Tổng số thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Trong đó: 17 vụ, việc

tranh chấp dân sự, chiếm 20,2%; 67 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 79,8%.

+ Có 07 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa

án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Không có trường hợp nguyên đơn

thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.

+ Có 42 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 32

vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công

nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 10 vụ hôn nhân và

gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự, chiếm 54,6%; 05 vụ án tranh chấp dân sự, chiếm 6,5%, Tòa án ra

quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.

+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu

cầu của nguyên đơn.

+ Xét xử xét xử 22 vụ án, chiếm 28,6%, trong đó:

* Có 02 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên

đơn, chiếm 9,1%.

* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.

* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.

* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [23, tr.1-2]

51

- Năm 2015: Tổng số thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Trong đó: 36 vụ, việc

tranh chấp dân sự, chiếm 26,3%; 97 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 70,8%;

03 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 2,2%; 01 vụ án tranh chấp hợp đồng

lao động, chiếm 0,7%.

+ Có 10 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa

án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 9,6%. Không trường hợp

nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.

+ Có 57 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 47

vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công

nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 10 vụ hôn nhân và

gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự, chiếm 55,9%; 11 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định

công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 10,6%.

+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu

cầu của nguyên đơn.

+ Xét xử xét xử 19 vụ án, chiếm 20,2%, trong đó:

* Có 03 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên

đơn, chiếm 14,3%.

* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.

* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.

* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn.

+ Tòa án ra quyết định giải quyết 05 việc dân sự, chiếm 4,8%. [24, tr.1-

2]

- Năm 2016: Tổng số thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Trong đó: 45 vụ, việc

tranh chấp dân sự, chiếm 27,1%; 113 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 68,1%;

08 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 4,8%.

52

+ Có 13 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa

án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 9,9%. Không trường hợp

nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.

+ Có 61 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 48

vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công

nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 13 vụ hôn nhân và

gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự, chiếm 46,6%; 06 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định

công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 4,6%; 03 vụ án kinh doanh

thương mại được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự,

chiếm 2,3%.

+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu

cầu của nguyên đơn.

+ Xét xử xét xử 41 vụ án, chiếm 31,3%, trong đó:

* Có 02 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên

đơn, chiếm 4,9%.

* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.

* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.

* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn.

+ Xét miễn giảm thi hành án dân sự 07 việc, chiếm 5,3%. [25, tr.1.2]

- Năm 2017: Tổng số thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Trong đó: 27 vụ, việc

tranh chấp dân sự, chiếm 16%; 131 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 77,5%; 11

vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 6,5%.

+ Có 17 vụ án nguyên đơn rút đơn khởi kiện, trong đó có 16 vụ án hôn

nhân và gia đình, 01 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định đình chỉ

53

giải quyết vụ án, chiếm 11%. Không trường hợp nguyên đơn thay đổi yêu

cầu, bổ sung yêu cầu.

+ Có 77 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 57

vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công

nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 20 vụ hôn nhân và

gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự, chiếm 49,7%; 04 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định

công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 2,6%; 05 vụ án kinh doanh

thương mại được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự,

chiếm 3,2%.

+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu

cầu của nguyên đơn.

+ Xét xử xét xử 52 vụ án, chiếm 33,5%, trong đó:

* Có 05 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên

đơn, chiếm 9,6%.

* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.

* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.

* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [26, tr.1-2]

Theo số liệu thống kê trong vòng 05 năm từ 2013 đến 2017 cho thấy

Tòa án đã rất chú trọng công tác đảm bảo cho nguyên đơn thực hiện quyền

thỏa thuận cũng như quyền được nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình thể hiện ở số lượng các vụ án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của đương sự, hòa giải thành tăng.

54

2.2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng

cứ và chứng minh

- Năm 2013: Tòa án thụ lý 92 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 89 vụ, việc.

Đạt tỷ lệ: 96,7%. Trong đó:

+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt

100%;

+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài

liệu, chứng cứ đó;

+ Có 06 trong tổng số 07 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu

trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, chiếm 85,7%;

+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [22, tr.1-3]

- Năm 2014: Tòa án thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 77 vụ, việc.

Đạt tỷ lệ: 91,7%.

+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt

100%;

+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

55

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài

liệu, chứng cứ đó;

+ Có 04 trong tổng số 06 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu

trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 66,7%;

+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [23, tr.1-2]

- Năm 2015: Tòa án thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 102 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 74,5%.

+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt

100%;

+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài

liệu, chứng cứ đó;

+ Có 07 trong tổng số 08 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu

trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 87,5%;

+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [24, tr.1-2]

- Năm 2016: Tòa án thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 131 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 78,9%.

56

+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt

100%;

+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài

liệu, chứng cứ đó;

+ Có 13 trong tổng số 15 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu

trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 88,7%;

+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [25, tr.1-2]

- Năm 2017: Tòa án thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 155 vụ,

việc. Đạt tỷ lệ: 91,7%.

+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt

100%;

+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho

mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự

mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất

trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu

cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài

liệu, chứng cứ đó;

57

+ Có 23 trong tổng số 25 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu

trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 92%;

+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [26, tr.1-2]

2.2.3. Thực hiện các quyền khác của nguyên đơn.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng

Bình, Tòa án đã đảm bảo quyền của nguyên đơn về quyền nhận thông báo

hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Từ năm 2013 đến năm 2017

Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã tiến hành thụ lý giải

quyết rất nhiều các vụ án, vụ việc dân sự. Chính vì vậy để đảm bảo quyền

nhận thông báo hợp lệ của nguyên đơn là rất quan trọng, ý thức được điều

này, Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã quán triệt phải

chú trọng công tác chuyển giao các văn bản tố tụng cho người tham gia tố

tụng nói chung và nguyên đơn nói riêng để họ kịp thời nắm bắt quá trình giải

quyết vụ án, vụ việc mà mình tham gia, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ

của mình.

Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự được Tòa án nhân dân huyện Tuyên

Hóa đảm bảo thực hiện đúng theo quy định, tất cả các trường hợp yêu cầu

thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong các vụ án, vụ

việc dân sự trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trong những năm

qua đều được Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm

quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo

quy định của Luật được thực hiến đúng và đầy đủ.

Quyền tham gia phiên tòa; quyền tranh luận tại phiên tòa trong các vụ

việc dân sự được Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa bảo đảm thực hiện đầy

đủ, đạt tỷ lệ 100%. Tất cả những người tham gia tố tụng, có liên quan đến vụ

58

việc dân sự đều được Tòa án bảo đảm quyền được tham giam phiên tòa,

quyền được trình bày ý kiến, tham gia tranh luận tại phiên tòa để làm sáng tỏ

những nội dung của vụ án, giúp Tòa án có cái nhìn khách quan, giải quyết vụ

việc đúng theo quy định của pháp luật. [27, tr.1-6]

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Kết quả đạt được

Qua số liệu các năm đã thống kê cho thấy các vụ việc dân sự tăng về số

lượng và ngày càng phức tạp. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án nhân

dân huyện Tuyên Hóa đã giải thích cho các đương sự đặc biệt là nguyên đơn

hiểu rõ các quyền của mình, tạo điều kiện để các bên hòa giải với nhau bảm

đảm quyền được thỏa thuận giữa các bên, kết quả trong lĩnh vực hôn nhân gia

đình tỷ lệ án được ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự,

án đình chỉ do nguyên đơn rút đơn khởi kiện có chiều hướng tăng qua các

năm. Tòa án đã cơ bản đảm bảo được đường lối cũng như thời hạn xét xử, bảo

vệ quyền lợi ích chính đáng của đương sự cũng như nguyên đơn; thu thập

chứng cứ đúng trình tự thủ tục tố tụng. Đã khắc phục tốt tình trạng bản án

tuyên không rõ ràng; thực hiện kịp thời việc gửi bản án, quyết định cho các

chủ thể liên quan. Tòa án đã chú trọng nguyên tắc tự định đoạt và tự nguyện

thỏa thuận của đương sự trên cơ sở pháp luật qui định. Quá trình thụ lý và giải

quyết các vụ việc dân sự Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã có nhiều biện

pháp hỗ trợ bảo đảm cho nguyên đơn thực hiện quyền của mình như hướng

dẫn về cách thức, trình tự viết đơn khởi kiện và thông báo về việc giao nộp

các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện đối với từng vụ việc cụ thể,

thực hiện việc giải thích rõ quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, tạo điều kiện

thuận lợi để nguyên đơn thực hiện tốt quyền khởi kiện của mình. Quá trình

giải quyết đã đảm bảo cho nguyên đơn được trình bày hết những chứng cứ, tài

liệu liên quan đến vụ việc cũng như các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự

59

khác giao nộp. Đảm bảo cho nguyên đơn được quyền có Luật sư bào chữa,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Sau khi ra các quyết định và bản

án Tòa án đã giải thích rõ cho nguyên đơn quyền kháng cáo của mình, tỷ lệ

kháng cáo trong các vụ án tranh chấp dân sự cao.

Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS

về quyền của nguyên đơn tại Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa cũng cho

thấy những hạn chế, bất cập, vướng mắc nảy sinh.

2.3.2. Hạn chế.

Kết quả nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định về quyền của

nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy những hạn chế, bất

cập sau đây:

- Sự thiếu hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về điều kiện khởi kiện

dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được thụ lý hoặc mất quyền khởi kiện.

Thực tiễn thụ lý các vụ án dân sự cho thấy nhiều trường hợp do nhận

thức, hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về các điều kiện khởi kiện còn hạn

chế dẫn đến việc nguyên đơn thực hiện các quyền của mình không đúng,

không được đầy đủ. Chẳng hạn như nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng đơn

khởi kiện không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, thiếu

những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện hoặc nguyên đơn nộp

đơn khởi kiện không đúng Toà án có thẩm quyền, người viết đơn khởi kiện

không có đủ tư cách pháp lý khởi kiện nhưng vẫn thực hiện việc khởi kiện tại

Toà án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cho thấy không ít các trường hợp, do

nguyên đơn không biết được các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi

kiện. Do vậy, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Toà án thì thời hiệu khởi

kiện đã hết. Khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do hết thời hiệu khởi kiện

thì nguyên đơn do thiếu hiểu biết pháp luật lại cho rằng Tòa án đã gây khó dễ

cho họ và khiếu nại nhiều lần.

60

- Sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ,

tài liệu dẫn tới khó khăn cho nguyên đơn trong việc cung cấp tài kiệu, chứng

cứ.

Về nguyên tắc, khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ vào

sổ nhận đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy

vẫn còn có những trường hợp khi nhận đơn khởi kiện, cán bộ nhận đơn xét

thấy đơn khởi kiện của nguyên đơn về hình thức và nội dung không theo đúng

quy định của pháp luật hoặc còn thiếu các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc

thụ lý vụ án. Toà án đã yêu cầu nguyên đơn bổ sung chứng cứ, tài liệu ban

đầu để có thể thụ lý vụ án nhưng nguyên đơn không thể bổ sung được do cá

nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ các tài liệu, chứng cứ này không có thiện

chí cung cấp cho nguyên đơn. Trong khi đó, theo pháp luật hiện hành thì

đương sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án can thiệp sau khi vụ án đã được Toà án

thụ lý và nguyên đơn phải xuất trình được cho Toà án văn bản trả lời của cá

nhân, cơ quan, tổ chức đó về lý do của việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu

cho nguyên đơn. Thực tế này đã dẫn tới việc nguyên đơn không thể thực hiện

được quyền khởi kiện của mình, thậm chí mất quyền khởi kiện do thời hiệu

khởi kiện đã hết.

- Toà án thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp,

bỏ sót người tham gia tố tụng dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét.

Thực tiễn thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự cũng cho thấy nhiều

trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án nhận đơn, lẽ ra Toà án

này phải chuyển đơn khởi kiện tới Toà án có thẩm quyền nhưng do không

nắm vững các quy định về điều kiện thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ

nên Toà án nhận đơn vẫn thụ lý vụ án. Việc thụ lý không đúng thẩm quyền

dẫn tới Toà án đã thụ lý phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền

làm cho yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét giải quyết. Ngoài ra, hiện

61

tượng xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, giải quyết vụ án

không đúng thẩm quyền, bỏ sót người tham gia tố tụng, vi phạm về thành

phần hội đồng xét xử, vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn tồn tại dẫn tới Toà án

cấp trên phải huỷ án để xét xử lại làm cho việc thực hiện quyền khởi kiện bị

chậm trễ.

- Vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết do Tòa án lạm dụng lý do tạm

đình chỉ vụ án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nguyên đơn.

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm

ngưng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những

căn cứ do pháp luật quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn Tòa

án lại tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đó.

Quá trình triển khai thi hành BLTTDS năm 2015 thời gian qua, nhìn

chung khá thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng một số điều luật của

Bộ luật này có sự dẫn chiếu đến nội dung của điều luật khác có liên quan do

chưa có quy định rõ ràng nên sẽ phát sinh bất cập, từ đó, việc hiểu và áp dụng

không thống nhất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

đặc biệt là nguyên đơn, cụ thể sau:

Tại điểm đ, khoản 1, Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định về các

trường hợp tạm đình chỉ vụ án dân sự: “Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải

quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây: đ) Cần đợi kết quả

thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ

chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được

vụ án;”

So với quy định tại khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ

sung năm 2011) trước đây, thì hiện nay Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải

quyết vụ án, khi cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc đợi cơ quan,

tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết

62

được vụ án, mà không phải phụ thuộc vào điều kiện thời hạn giải quyết vụ án

đã hết.

Nghĩa là, nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án ra quyết định ủy

thác hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cung cấp tài liệu, chứng cứ

để giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 93, 94 BLTTDS năm 2004 (sửa

đổi, bổ sung năm 2011), thời hạn tiến hành thực hiện ủy thác thu thập chứng

cứ là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác; 15 ngày đối với cá

nhân, cơ quan, tổ chức khi nhận được yêu cầu của Tòa án hoặc Viện kiểm sát,

nhưng đến khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 179

BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) mà Tòa án vẫn chưa nhận được

kết quả ủy thác hoặc tài liệu chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án sẽ ra quyết

định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả, khi nào có kết quả Tòa án

sẽ ra thông báo tiếp tục giải quyết vụ án.

Còn tại điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định: Cần

đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ

quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải

quyết được vụ án. Điều này cho phép, nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử,

Tòa án ra quyết định ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ

quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại

Điều 105, Điều 106 BLTTDS năm 2015, thì không cần phải chờ hết thời hạn

chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015 Tòa án có thể

ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án ngay.

Việc áp dụng Điều 214 BLTTDS năm 2015 sẽ cho thấy một bất cập

phát sinh, đó là, dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quy định tại Điều 214

BLTTDS năm 2015 để Tòa án ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án. Chủ

yếu các quyết định tạm đình chỉ đều có lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp, ủy

thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ.

63

Do vụ án được tạm đình chỉ, khi có căn cứ phục hồi, Tòa án ra thông

báo tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết và thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định

tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.

Như vậy, nhiều vụ án sẽ bị kéo dài thời gian giải quyết một cách không

cần thiết, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, đặc biệt là

nguyên đơn.

- Việc thực hiện quyền "được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ

do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập" của nguyên đơn.

Đối với những nguyên đơn có Luật sư bảo vệ thì luật sư có quyền

nghiên cứu hồ sơ (Điều 76 BLTTDS) nên thông qua luật sư, nguyên đơn có

thể biết được những chứng cứ, tài liệu của bên kia cung cấp và những chứng

cứ tài liệu do Toà án thu thập. Còn nguyên đơn không có luật sư bảo vệ,

BLTTDS không quy định nguyên đơn có quyền "nghiên cứu hồ sơ". Vì vậy

việc thực hiện quyền này của nguyên đơn gặp không ít khó khăn.

- Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định việc tạm đình chỉ giải quyết

vụ án theo yêu cầu của đương sự cũng như của nguyên đơn.

Điều 70 BLTTDS năm 2015, quy định đương sự có rất nhiều quyền và

nghĩa vụ, mà theo đó, tại khoản 18 của Điều luật này ghi nhận quyền được

“Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật

này”. Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định các căn cứ mà theo đó, Tòa án

ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Vấn đề đặt ra, với trường

hợp quy định tại khoản 18 Điều 70 BLTTDS năm 2015 có thuộc quy định tại

điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 không vẫn chưa có một văn

bản nào hướng dẫn cụ thể về điều này gây khó khăn trong việc đảm bảo

quyền được yêu cầu Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân

sự.

64

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

- Sự thiếu hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về các điều kiện khởi

kiện còn hạn chế dẫn đến việc nguyên đơn thực hiện các quyền của mình

không đúng, không được đầy đủ là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình

trạng yêu cầu khởi kiện chậm được thụ lý hoặc mất quyền khởi kiện. Điều

này xuất phát từ công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được

thực hiện có hiệu quả, nguyên đơn không biết trong một vụ kiện cần phải thực

hiện những hoạt động gì, chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ cần thiết để Tòa

án có thể nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án đó.

- Do sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng

cứ, tài liệu dẫn tới khó khăn cho nguyên đơn trong việc cung cấp tài kiệu,

chứng cứ xuất phát từ việc thiếu các quy định về việc cá nhân, cơ quan, tổ

chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu phải có trách nhiệm cung cấp kịp thời

những chứng cứ, tài liệu đó để Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm cụ của

mình. Bên canh đó cũng do công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa

được chặt chẽ, làm cho hoạt động cung cấp tài liệu chứng cứ, phụ vụ cho vụ

việc không được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, gây ảnh hưởng tới việc đảm

bảo quyền của nguyên đơn và hoạt động của Tòa án.

- Toà án thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp,

bỏ sót người tham gia tố tụng dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét là

do công tác xác minh ban đầu của Tòa án không được chú trọng, việc Tòa án

thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ tranh chấp, bỏ sót người tham gia tố

tụng cũng xuất phát từ việc chủ quan, năng lực của cán bộ Tòa án. Chính vì

điều này làm cho thời gian giải quyết một vụ việc dân sự luôn kéo dài, việc

thực hiện quyền khởi kiện bị chậm trễ.

Ở đây chúng ta không xét tới những sai lầm của Toà án về nội dung vụ

việc nhưng những vi phạm về tố tụng của Toà án cũng có thể làm cho vụ án

65

bị xử đi xử lại nhiều lần làm cho quyền khởi kiện của nguyên đơn chậm được

thực hiện. Do vậy, những hiện tượng trên đây cũng cần được chấn chỉnh và

khắc phục để quyền khởi kiện của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện một

cách có hiệu quả.

- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm

ngưng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những

căn cứ do pháp luật quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn Tòa

án lại tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đó. Nguyên nhân của điều này cuất phát

từ quy định chưa được chặt chẽ của Luật trong việc quy định cụ thể các

trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, chưa có cơ chế

kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc thực hiện quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ

án dân sự của Tòa án. Chính vì nguyên nhân này làm cho việc giải quyết các

vụ án dân sự luôn bị kéo dài, gây ảnh hưởng tới quyền lợi của những người

tham gia tố tụng trong vụ án đó.

- Việc thực hiện quyền "được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ

do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập" của nguyên đơn còn

gặp nhiều bất cập và khó khăn. Nguyên nhân là do quy định của Bộ Luật tố

tụng dân sự chưa quy định về quyền được nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn

khi tham gia tố tụng mà không có luật sư bào chữa. Điều này xuất phát từ việc

chưa chú trọng về việc đảm bảo quyền của nguyên đơn khi tham gia tố tụng

trong một vụ việc dân sự.

- Việc Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định việc tạm đình chỉ giải

quyết vụ án theo yêu cầu của đương sự cũng như của nguyên đơn là do pháp

luật chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể việc việc những trường hợp nào

đương sự yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì Tòa án phải ra

quyết định tạm đình chỉ, điều nàu gây khó khăn cho hoạt động của Tòa án,

làm cho việc giải quyết vụ án dân sự gặp nhiều khó khăn và luôn bị kéo dài.

66

Tóm tắt chương 2

Quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự được giải quyết ở

huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trong nhưng năm qua, đặc biệt là giai

đoạn 2015 - 2017 ngày càng được nâng cao và chú trọng, phù hợp với các quy

định của pháp luật. Nguyên đơn được bảo đảm và thực hiện đầy đủ các quyền

và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng trong vụ việc dân sự. Các

cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án dân sự trên địa

bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã thực hiện đúng và có hiệu quả

nhiệm vụ của mình, tôn trọng quyền của đương sự trong các vụ việc dân sự,

góp phần giải quyết có hiệu quả các vụ việc dân sự phát sinh trên địa bàn

huyện. Tuy nhiên bên cạnh đó không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế

trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng

Bình. Vì vậy Các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng cần đánh giá khách

quan, tiếp thu những thiếu sót, hạn chế trong việc giải quyết các vụ việc dân

sự nhằm khắc phục có hiệu quả, đảm bảo quyền của nguyên đơn cũng như

giải quyết tốt các vụ việc dân sự trong thời gian tới.

67

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN

CỦA NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC

DÂN SỰ TẠI HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Phương hướng đảm bảo thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải

quyết các vụ việc dân sự.

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguyên

đơn trên cở sở các phương hướng sau đây:

Thứ nhất, phải thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới

và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Đường lối của Đảng luôn là kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt

động của nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và mọi cá nhân thực hiện. Kịp

thời thể chế hoá đường lối, chính sách đổi mới của Đảng là một trong những

nhiệm vụ, đồng thời cũng là chìa khoá dẫn đến thành công của công tác xây

dựng hoàn thiện pháp luật. Pháp luật về tố tụng dân sự cũng như các quy định

về quyền của nguyên đơn cũng không nằm ngoại lệ đó.

Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong

đó có các quy định về tố tụng dân sự là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình

xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 24 tháng 05 năm

2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ/BCT “về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, hướng đến

2020”, đề ra mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,

thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng

và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần

68

quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,

xây dựng nàh nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền

tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa đất nước ta trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đề ra mục tiêu “Tiếp tục hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh

gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải

cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức có phẩm chất năng lực đá ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ,

tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống

tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”.

Các quy định về quyền của nguyên đơn cần tuân theo các quan điểm

trên của Đảng và Nhà nước. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sửa đổi, bổ

sung và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự cũng như các quy định cụ thể về

quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.

Thứ hai, phải thể hiện được chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải

cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa;

Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới

việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa

nhiệm kỳ 1994, Đảng ta đã khẳng định phương hướng xây dựng nhà nước ta

là nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phương hướng này đã được chính thức

khẳng định trong các văn kiện của Đảng kể từ hội nghị đại biểu giữa nhiệm

kỳ khóa VII, đến văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và được thể

chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp 2013, đó là: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,

69

vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên

minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Nhà nước pháp quyền có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội

dung quan trọng nhất đó là sự ngự trị pháp luật, pháp luật là công cụ chủ yếu

và hiệu quả để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Pháp luật đóng vai trò như

những quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, định ra hành lang pháp lý cho

các quan hệ của toàn xã hội. Pháp luật về tố tụng dân sự nói chung và những

quy định về quyền của nguyên đơn nói riêng vừa phải đảm bảo tính công

bằng và thể hiện ý chí của nhân dân lao động. Trong khi đó, hệ thống pháp

luật nước ta nói chung và pháp luật về tố tụng dân sự cũng như các quy định

về quyền của nguyên đơn nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự chồng

chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản luật và thậm chí có nhiều lỗ hổng luật gây

cản trở trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự phát sinh, một số quan hệ

dân sự thậm chí không có luật điều chỉnh. Điều đó gây cản trở cho công cuộc

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Vì vậy, một trong những yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt

Nam hiện nay là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất

lượng cao, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực

khách quan của cuộc sống. Để có được một hệ thống pháp luật như thế, đòi

hỏi phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện từng ngành luật, từng chế định pháp

luật làm cho các ngành luật, các chế định pháp luật phát triển đồng bộ, phù

hợp có tính khả thi. Trong đó có các quy định về quyền của nguyên đơn trong

giải quyết các vụ việc dân sự trong Bộ luật dân sự, đáp ứng kịp thời nhu cầu

giải quyết vụ án, giải quyết các quan hệ dân sự phát sính, phù hợp với điều

kiện cụ thể Việt Nam và xu hướng của nhân loại, các quy định về quyền của

nguyên đơn cũng chính là bảo vệ quyền của công dân, quyền con người. Có

như vậy xây dựng nhà nước pháp quyền mới sớm đạt kết quả.

70

Thứ ba, phải phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, các quốc gia muốn

phát triển không thể độc lập với bên ngoài,mà phải thiết lập các mối quan hệ

bang giao rộng rãi. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, chúng ta đã chú ý

hội nhập với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới trên nhiều lĩnh vực

kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ… Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho

phép chúng ta tiếp thu học tập nhữg kinh nghiệm của các nước và vận dụng

một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam.

Để thực hiện thành công đường lối đối ngoại, yêu cầu đặt ra chúng ta

phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với

pháp luật của cộng đồng quốc tế. Theo Tiến sĩ Dương Đăng Huệ: Pháp luật

của Việt Nam không chỉ thể hiện được tính đặc thù của nền kinh tế xã hội

Việt Nam mà còn phải thể hiện được những thông lệ những quy định có tính

chất chung đã được nhiều nước thừa nhận. Không tuân thủ nguyên tắc này, thì

chúng ta về mặt lập pháp đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội

nhập khu vực và quốc tế.

Hiện nay nền kinh tế ở nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và

quốc gia. Kinh tế thị trường phát triển sẽ phát sinh nhiều giao dịch dân sự

cũng như là các quan hệ hôn nhân gia đình… phức tạp và rắc rối, để đảm bảo

cho quyền của các bên, đặc biệt là nguyên đơn khi tham gia vào giải quyết vụ

việc dân sự thì hệ thống pháp luật nói chung, BLTTDS quy định về quyền của

nguyên đơn nói riêng phải thường xuyên được hoàn thiện theo điều kiện thực

tế của Việt Nam và phù hợp với những giá trị, chuẩn mực chung của pháp luật

quốc tế.

Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về

quyền của nguyên đơn trong Bộ luật tố tụng dân sự nói riêng phải luôn chú ý

để đảm bào xích lại gần nhau giữa pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật

71

dân sự thế giới. Qua đó đảm bảo cho việc đảm bảo quyền của nguyên đơn khi

tham gia tố tụng dân sự được thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để.

3.2. Giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ

việc dân sự.

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật

Để quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền của nguyên đơn được

thực hiện tốt trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn một số

quy định cụ thể hơn như sau:

Một là, Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định về quyền của nguyên đơn

trong giải quyết vụ án dân sự mà chưa quy định rõ về quyền của nguyên đơn

trong việc dân sự, sự thiếu hụt này đã gây không ít khó khăn cho đương sự

trong vụ việc dân sự khi họ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Vì vậy cần quy định bổ sung về nguyên đơn trong việc dân sự để họ có thể

bảo vệ quyền, lợi ích của mình một cách hiệu quả, tức là phải sửa đổi Điều

70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng quy định nguyên đơn trong việc dân

sự cũng như quy định các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ như các nguyên đơn

trong vụ án dân sự.

Hai là, hiện nay BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

và việc dân sự khác nhau, nhưng lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong

việc giải quyết giữa các vụ việc dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa quá trình

giải quyết các vụ việc cụ thể, gây khó khăn cho đương sự cũng như nguyên

đơn trong việc định đoạt bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình vì vậy cần

quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải quyết giữa các vụ việc dân sự để

đơn giản hóa quá trình giải quyết.

Ba là, BLTTDS cần quy định nguyên đơn được toà án triệu tập vắng

mặt có lý do chính đáng lần thứ bao nhiêu cũng phải hoãn để triệu tập lần thứ

tiếp theo để bảo đảm quyền tham gia của đương sự.

72

Bốn là, trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên toà sơ

thẩm thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của nguyên

đơn đã rút đơn, còn Toà án vẫn giải quyết các yêu cầu của các nguyên đơn

khác (nếu có).

Năm là, về quyền của nguyên đơn BLTTDS quy định còn mâu thuẫn và

chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện không thống nhất ví dụ như Điều

218 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu

cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, nhưng không giải

thích cụ thể “vượt quá” ở đây là như thế nào. Với việc quy định như trên đã

hạn chế quyền tự định đoạt của nguyên đơn, không những gây khó khăn cho

nguyên đơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình mà có thể tạo ra thành

nhiều vụ án khác nhau bởi nguyên đơn không được thay đổi, bổ sung yêu cầu

theo hướng vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu ở tại phiên tòa thì họ sẽ phải

khởi kiện ở vụ án khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vậy nên

cần quy định rõ “vượt quá” phạm vi yêu cầu khởi kiện là như thế nào.

Sáu là, về nguyên tắc nguyên đơn phải là chủ thể được giả thiết có

quyền lợi bị tranh chấp hay vi phạm, tuy nhiên luật thực định thừa nhận quyền

khởi kiện vụ án dân sự của các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc

lĩnh vực mình phụ trách và tư cách nguyên đơn của các chủ thể. Tuy nhiên,

trong trường hợp cơ quan dân số - gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ yêu

cầu hủy hôn nhân trái luật giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ,

hôn nhân vi phạm độ tuổi hoặc chế độ một vợ, một chồng (ngay cả khi người

được bảo vệ khước từ quyền được bảo vệ) thì thực chất việc thực hiện quyền

yêu cầu của các cơ quan này là vì lợi ích của pháp luật. Theo pháp luật hiện

hành thì những chủ thể này là người đại diện hợp pháp của đương sự chứ

không phải là nguyên đơn. Do vậy, cần phải sửa đổi pháp luật theo hướng quy

73

định các cơ quan tổ chức khởi kiện để duy trì trật tự của pháp luật cũng được

coi là nguyên đơn dân sự.

Bảy là, cần sửa đổi lại quy định tại Điều 214 BLTTDS 2015 về lý do ra

quyết định tạm đình chỉ. Việc áp dụng Điều 214 BLTTDS năm 2015 sẽ cho

thấy một bất cập phát sinh, đó là dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng các căn cứ

tạm đình chỉ để Tòa án ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án dẫn đến nhiều

vụ án sẽ bị kéo dài thời gian giải quyết một cách không cần thiết, gây ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, đặc biệt là nguyên đơn.

Tám là, cần có quy định để Tòa án tạo điều kiện cho đương sự cũng

như nguyên đơn biết được các tài liệu chứng cứ của nhau để đảm bảo cho

nguyên đơn được tiếp cận một cách nhanh nhất và có hiêu quả nhất cá tài liệu

chứng cứ của vụ án, từ đó chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.

Chín là, để đảm bảo quyền của nguyên đơn trong việc yêu cầu Tòa án

ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đồng thời để pháp luật

được hiểu và áp dụng được thống nhất, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cần ban hành hướng dẫn theo hướng cụ thể các trường hợp nguyên đơn

được thực hiện quyền “Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án” theo

quy định tại khoản 18 Điều 70 BLTTDS năm 2015.

Mười là, bổ sung quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng.

Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định Toà án chỉ định người đại

diện cho nguyên đơn trong trường hợp nguyên đơn là người bị hạn chế năng

lực hành vi dân sự nhưng không quy định về việc chỉ định người đại diện

trong trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc là

người vắng mặt không có tin tức là một thiếu sót.

Thiết nghĩ, trong những trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng

lực hành vi dân sự hoặc vắng mặt không có tin tức mà không có người đại

74

diện thì việc chỉ định người đại diện cho họ là hết sức cần thiết. Do vậy, để

bảo đảm quyền của nguyên đơn, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung quyền

này theo hướng Toà án chỉ định người đại diện cho nguyên đơn trong cả

trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc vắng

mặt không có tin tức.

Mười một là, sửa đổi quy định về điều kiện tham gia của người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

nguyên đơn nhờ người trợ giúp tham gia giải quyết vụ việc.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 BLTTDS thì sự tham gia tố tụng

của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phụ thuộc vào sự

chấp nhận của Tòa án. Quy định này đã làm phức tạp thêm thủ tục giải quyết

vụ việc dân sự, tạo ra cơ chế “xin cho” trong TTDS và gây khó khăn cho

nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong

việc thực hiện quyền khởi kiện.

Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định về người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn theo hướng người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là người được nguyên đơn nhờ tham gia tố

tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn mà không cần có sự

chấp nhận của Toà án.

Mười hai là, bổ sung, sửa đổi quy định về biện pháp hỗ trợ trong việc

bảo vệ, thu thập chứng cứ, tài liệu.

Sự trợ giúp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các chứng

cứ, tài liệu liên quan đến vụ án dân sự cũng là một bảo đảm quan trọng để

nguyên đơn có thể thực hiện được quyền của mình tại Toà án. Pháp luật quy

định các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện chỉ cần bao

gồm những chứng cứ, tài liệu đủ để xác định điều kiện thụ lý vụ án. Tuy

nhiên, xét về thực tế thì trong nhiều trường hợp những chứng cứ, tài liệu ban

75

đầu này lại không do nguyên đơn nắm giữ và cá nhân, cơ quan, tổ chức đang

quản lý, lưu giữ các chứng cứ tài liệu này lại không hợp tác với nguyên đơn,

dẫn tới việc thực hiện quyền của nguyên đơn là hết sức khó khăn.

Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào BLTTDS quy định

về quyền yêu cầu Toà án can thiệp ngay lập tức (không cần chờ đợi văn bản

trả lời lý do không cung cấp của các chủ thể này) trong việc thu thập các

chứng cứ, tài liệu đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ và chế

tài áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức này nếu việc từ chối cung cấp

của họ là không có lý do chính đáng.

Như vậy, Điều 385 BLTTDS cần được sửa đổi theo hướng: Cá nhân, cơ

quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu liên

quan tới vụ án cho đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền

lợi hợp pháp của đương sự hoặc Toà án hoặc có hành vi cản trở hoạt động xác

minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng dân sự thì tuỳ theo mức

độ vi phạm có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành

chính hoặc khởi tố về hình sự theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy theo pháp luật

hiện hành thì nguyên đơn chỉ có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ chứng cứ, tài

liệu cùng với việc nộp đơn khởi kiện. Quy định này không đủ hiệu quả để

ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài liệu nhằm gây khó khăn

cho việc thực hiện quyền của nguyên đơn. Từ phân tích này kiến nghị tiếp

theo là cần sửa đổi pháp luật theo hướng quy định về quyền yêu cầu Toà án

áp dụng các biện pháp khẩn cấp cần thiết trước khi nguyên đơn khởi kiện

nhằm bảo vệ bằng chứng, ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài

liệu tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền của nguyên đơn tại Toà án.

76

Mười ba là, bổ sung quy định về cơ chế bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ đối

với Thẩm phán nhằm tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.

Sự độc lập, vô tư khách quan của Tòa án được ghi nhận như những

nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có các quyền

của nguyên đơn (Điều 11 và Điều 16 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm sự

độc lập của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì việc ghi nhận bằng pháp luật

như trên vẫn chưa đủ mà cần phải có thêm những cơ chế hỗ trợ khác như về

cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ đãi ngộ.

Từ phân tích này chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về chế độ bổ

nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi miễn nếu vi phạm

nghiêm trọng pháp luật hoặc không đủ tư cách để tiếp tục hành nghề. Ngoài

ra, các quy định về một chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với người làm nghề Thẩm

phán và cơ chế giám sát, kỷ luật cũng được xem là một giải pháp để bảo đảm

thực thi quyền khởi kiện từ phía Toà án.

3.2.2. Nâng cao trình độ Thẩm phán và các cán bộ Tòa án.

Để hạn chế những vi phạm trong hoạt động áp dụng các quy định của

pháp luật tố tụng dân sự nói chung và các quy định của pháp luật tố tụng dân

sự về quyền của nguyên đơn trong vụ án dân sự nói riêng, chúng ta cần phải

không ngừng đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức

nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác

cho đội ngũ Thẩm phán cũng như các cán bộ Tòa án để từ đó họ có thể thực

hiện tốt các quyền, nghĩa vụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương

sự đặc biệt là nguyên đơn khi tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án

dân sự.

Do hiện nay trên thực tế rất nhiều thẩm phán yếu kém về chuyên môn

nên thường xét xử không đúng theo yêu cầu của nguyên đơn cũng như không

đảm bảo cho nguyên đơn thực hiện triệt để các quyền của mình. Nên bảo đảm

77

cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng, đủ, hiệu quả, đảm bảo cho quyền của

nguyên đơn được thực hiện tối đa thì việc bồi dưỡng chuyên môn ngiệp vụ

của các thẩm phán một cách chuyên nghiệp, đồng đều về năng lực giữa các cơ

quan, đáp ứng được nhu cầu giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh ngày

càng nhiều, càng phức tạp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên

đơn là vấn đề cần thiết.

Với yêu cầu đặt ra như trên, cần tích cực triển khai thực hiện nhiều giải

pháp, như đẩy mạnh công tác đào tạo và tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, coi

đây là nhóm giải pháp mang tính đột phá. Tăng cường đội ngũ giảng viên, đầu

tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho và nghiên cứu đổi mới giáo trình, tài

liệu, phương pháp giảng dạy tại các trường đào tạo nghiệp vụ ngành Tòa án

để đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện

nay; đồng thời xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

ngành TAND đến năm 2020 với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng về

chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận,

ngoại ngữ, tin học... Đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, công chức của

ngành, tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành và đào tạo bậc trên đại học. Đây

chính là tiền đề quan trọng để ngành TAND từng bước nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xử, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ

cán bộ, Thẩm phán, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa

chuyên”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành TAND trong tình hình mới.

3.2.3. Về thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự

nhằm bảo đảm hơn quyền của nguyên đơn.

Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì

nếu trong quá trình Tòa án giải quyết các việc dân sự không có tranh chấp mà

một bên hoặc các bên thay đổi sự thỏa thuận theo hướng có tranh chấp thì Tòa

78

án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự và hướng dẫn đương sự

làm đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục chung.

Theo nghiên cứu của chúng tôi thì quy định này chưa thực sự bảo đảm

quyền khởi kiện của đương sự nhất là sau này pháp luật phát triển theo hướng

bổ sung các việc dân sự do các bên thoả thuận được và yêu cầu Toà án công

nhận. Bởi vì, hậu quả của quy định này là người có yêu cầu trước đó trong

việc dân sự nếu vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì sẽ phải làm lại toàn bộ

thủ tục khởi kiện từ đầu gây mất thời gian và tổn phí một cách không cần

thiết. Chẳng hạn, như đương sự yêu cầu công nhận thoả thuận về tài sản trong

một vụ tranh chấp thừa kế hoặc hợp đồng, yêu cầu công nhận thuận tình ly

hôn nếu một bên thay đổi yêu cầu theo hướng có tranh chấp thì đương sự sẽ

phải khởi kiện lại từ đầu. Do vậy, việc thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa

việc dân sự và vụ án dân sự trong BLTTDS là cần thiết.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc

bảo đảm quyền của nguyên đơn.

Quyền lực nếu không bị giám sát, kiềm chế sẽ dẫn tới lạm quyền. Do

vậy, việc ghi nhận quyền tham gia tố tụng của VKS ngay từ khi Tòa án thụ lý

vụ án cũng như việc dân sự là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền của

nguyên đơn không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia này sẽ hạn chế tối đa

việc quyền của nguyên đơn không được đảm bảo hoặc được thực hiện không

đúng, đồng thời thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời

kiến nghị, kháng nghị để quyền của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện.

Để đạt được mục tiêu trên, trong công tác kiểm sát việc giải quyết các

vụ, việc dân sự, kiểm sát chặt chẽ các thông báo thụ lý vụ, việc dân sự và

thông báo trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn của Tòa án, theo dõi chặt chẽ

số vụ, việc thụ lý của Tòa án để rà soát, đối chiếu. Thực hiện nghiêm túc việc

tiếp nhận và nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa, nhằm phát hiện những vi

79

phạm về tố tụng, nắm chắc nội dung vụ, việc, quan hệ tranh chấp, yêu cầu của

nguyên đơn để phục vụ cho công tác xét xử. Tại phiên tòa, kiểm sát viên phải

thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật; thể hiện đúng vai

trò, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp trong

tố tụng dân sự và xác định kháng nghị là một trong những nhiệm vụ trọng tâm

của công tác kiểm sát. Kịp thời ban hành những kiến nghị đối với cơ quan

Tòa án để khắc phục các vi phạm như: Việc chậm gửi các thông báo thụ lý,

bản án quyết định, chuyển giao hồ sơ cho Viện kiểm sát; chậm thời hạn đưa

vụ án ra xét xử... làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

ngành Kiểm sát dẫn đến làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các

đương sự, đặc biệt là nguyên đơn.

3.2.5. Tăng cường tuyên truyền pháp luật trên địa bàn địa phương.

Theo kết quả khảo sát thực tiễn thì quyền của nguyên đơn không được

bảo đảm thực hiện trên thực tế là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết,

là do sự hạn chế, khiếm khuyết trong chính các quy định của pháp luật. Bên

cạnh đó việc không bảo đảm quyền của nguyên đơn còn có căn nguyên từ sự

thiếu hiểu biết của người dân về các kiến thức cơ bản liên quan đến việc thực

hiện quyền, sự sai sót của các Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dẫn

đến quyền của nguyên đơn không được thực hiện hoặc được thực hiện không

đầy đủ.

Thiết nghĩ, để khắc phục vấn đề này cần phải tăng cường hơn nữa công

tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tăng cường hoạt động của các tổ chức trợ

giúp pháp lý. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật giúp tất cả mọi người

có chiều sâu hiểu biết pháp lý, thực hiện tốt quyền của mình khi tham gia tố

tụng một cách hiểu quả nhất.

Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cần theo kế hoạch, chương

trình cụ thể với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm

80

đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và điều kiện của địa bàn thực

hiện để nhân dân ngày càng có điều kiện tìm hiểu pháp luật.

Thực hiện phong phú, đa dạng các hình thức tuyên truyền và phổ biến

kiến thức pháp luật như: Tuyên truyền miệng; biên soạn tài liệu phổ thông

dưới dạng hỏi đáp pháp luật, tình huống pháp luật; đưa pháp luật vào giảng

dạy trong trường học; tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin

đại chúng; xây dựng câu lạc bộ pháp luật; tủ sách pháp luật xã, phường, thị

trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học; thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền

pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, thông qua tư vấn pháp luật,

trợ giúp pháp lý, thông qua các phiên toà xét xử công khai, lưu động...

3.2.6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra

Để bảo đảm thực hiện tốt các quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân

sự không thể không thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công

tác này. Nguyên đơn tham gia vụ việc dân sự xuyên suốt quá trình của một vụ

việc dân sự, chính vì vậy qua từng giai đoạn tố tụng của vụ việc, nguyên đơn

thực hiện những quyền cụ thể của mình khác nhau. Việc những quyền đó có

được tôn trọng và bảo đảm thực hiện đúng hay không thì cần phải thực hiện

những giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, cần phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra định kỳ thường

xuyên việc thực hiện, bảo đảm quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân sự

thông qua việc kiểm tra hồ sơ vụ việc dân sự đó, từ đó kiến nghị khắc phục

những vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi

phạm việc bảo đảm quyền của nguyên đơn trong từ vụ việc dân sự cụ thể,

tránh lặp lại tình trạng đó trong các vụ việc dân sự tiếp theo.

Thứ hai, thường xuyên tổ chức các cuộc họp giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng trong các vụ việc dân sự xảy trên địa bàn để

phát hiện, trao đổi, rút kinh nghiệm và kiểm điểm vi phạm của từng cá nhân

81

cụ thể trong từng vụ việc, qua đó giúp cho các cơ quan, người tiến hành tố

tụng có trách nhiệm, tôn trọng và bảo đảm quyền của nguyên đơn được thực

hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

82

Tóm tắt chương 3

Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là một trong những chủ thể quan

trọng, để đảm bảo quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự được thực

hiện đúng và đầy đủ là trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, người tiến hành

tố tụng trong vụ việc dân sự. Để thực hiện tốt việc bảo đảm quyền của nguyên

đơn trong vụ việc dân sự trong cả nước nói chung và trên địa bàn huyện

Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng thì cần phải có những phương hướng,

giải pháp cụ thể, phù hợp, giúp cho nguyên đơn khi tham gia tố tụng trong vụ

việc dân sự luôn được bảo đảm quyền của mình. Chính vì vậy, tôi đề xuất

phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những thiếu sót,

hạn chế trong việc thực hiện quyền của nguyên đơn tại đại bàn huyện Tuyên

Hóa, tỉnh Quảng Bình, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về quyền của

nguyên đơn, và việc thực hiện, bảo đảm quyền đó trên thực tế.

83

KẾT LUẬN

Trong vụ việc dân sự, nguyên đơn được coi là chủ thể quan trọng, nếu

thiếu chủ thể này thì vụ việc dân sự không thể phát sinh. Có thể thấy nguyên

đơn trong vụ việc dân sự không những chỉ là người khởi kiện hay người được

cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định khởi kiện yêu

cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp

của họ bị xâm phạm mà nguyên đơn trong vụ việc dân sự còn là cơ quan, tổ

chức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước

thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn

trong vụ việc dân sự mang tính chủ động hơn so với các đương sự khác. Hoạt

động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay

đình chỉ tố tụng của vụ việc. Việc Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu

lực là một kết quả quan trọng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế định

quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy phạm quy

định rõ ràng về các vấn đề pháp lý của nguyên đơn. Tuy nhiên chưa quy định

cụ thể quyền của nguyên đơn trong các việc dân sự, nên thực tiễn còn gặp

nhiều khó khăn trong việc xác định quyền của chủ thể này trong việc dân sư.

Vì vậy trong Luận văn này tôi đi sâu phân tích về quyền của nguyên đơn

trong vụ việc dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ việc dân sự tại

huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng. Điều này có ý nghĩa quan trọng

của việc xác định thành phần, tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự,

góp phần trong việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ dân sự chính đáng của họ và

đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải quyết các vụ việc dân sự một

cách chính xác, khách quan.

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Công Bình (2005), "Các quy định về chứng minh trong TTDS",

Tạp chí luật học.

2. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong

TTDS Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học.

3. Nguyễn Việt Cường (2005), "Người tham gia tố tụng", Tạp chí Tòa án.

4. Nguyễn Triều Dương (2011), Đương sự trong TTDS - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

7. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học - Một số vấn đề của pháp luật tố

tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, Nxb tư pháp, Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), "Những nguyên tắc tố tụng đặc trưng trong

BLTTDS", Tạp chí kiểm sát, số 1, tr.19-23.

9. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), "Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự

trong BLTTDS", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, tr.64-66.

10. Nguyễn Văn Khuê (2004), "Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng

cứ", Tạp chí Kiểm sát.

Nghị quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự. 11.

Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành quy định của Nghị 12.

quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự

13. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.

Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Hà Nội. 14.

Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 15.

Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 16.

Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội. 17.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Bxb. 18.

Công an nhân dân, Hà Nội 2009.

Từ điển Luật học, Nxb Từ điển khoa học, Hà Nội, năm 2006. 19.

Tập bài giảng Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luât thành phố Hồ 20.

Chí Minh.

21. Trần Minh Tiến (2006), "Bản án dân sự sơ thẩm với nguyên tắc quyền

tự định đoạt của đương sự", Tạp chí nghề Luật, số 5.

22. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2013), Báo cáo công tác xét xử

năm 2013 - phương hướng nhiệm vụ năm 2014.

23. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2014), Báo cáo công tác xét xử

năm 2014 - phương hướng nhiệm vụ năm 2015.

24. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2015), Báo cáo công tác xét xử

năm 2015 - phương hướng nhiệm vụ năm 2016.

25. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2016), Báo cáo công tác xét xử

năm 2016 - phương hướng nhiệm vụ năm 2017.

26. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2017), Báo cáo công tác xét xử

năm 2017 - phương hướng nhiệm vụ năm 2018.

27. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2017), Báo cáo công tác xét xử 05

năm 2013 - 2017.

28. Uỷ ban nhân dân huyện Tuyên Hóa (2016), Báo cáo kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.

Website:

29.http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1813

30. http://npklaw.com/en/articles/civil-articles/376-nguyen-tac-quyen-quyet-

dinh-va-tu-dinh-doat-cua-duong-su-trong-to-tung-dan-su-to-tung-hanh-

chinh.html

31. http://www.tamnhin.net.vn/dam-bao-quyen-tranh-luan-trong-to-tung-dan-

su-d1173.html

32. http://luatsuhongocdiep.vn/cafe-luat/thu-thap-chung-cu-va-quyen-khieu-

nai-cua-duong-su.html

33. http://www.Vietlaw.gov.vn

34. http://vietnamlawjoumal.com.vn

35. http://www.nclp.gov.vn

36. http://westlaw.com

37. http://toaan.gov.vn

Tiếng Anh

38. Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary.