BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ THÙY LINH
QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ THÙY LINH
QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận
Học viên
văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018 Lê Thị Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những
sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay
nhiều, trực tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm Luận
văn đến nay, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia
đình và bạn bè xung quanh.
Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất từ đáy lòng đến quý Thầy Cô của trường Học viện Hành chính Quốc gia
đã cùng dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho
chúng tôi vốn kiến thức quý báu suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Thu Hà, Phó
Trưởng khoa Lý luận cơ sở, Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tâm chỉ
bảo hướng dẫn tôi qua từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên cứu.
Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo đó, bài Luận văn này của tôi đã hoàn
thành. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô.
Bài luận văn được thực hiện trong 03 tháng. Ban đầu tôi còn bỡ ngỡ vì
vốn kiến thức của tôi còn có hạn. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót,
tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các bạn học
Học viên
Lê Thị Thùy Linh
cùng lớp để bài Luận văn được hoàn thiện hơn.
TRANG BÌA
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ .......... 9
1.1. Khái niệm chung ..................................................................................... 9
1.1.1. Nguyên đơn .......................................................................................... 9
1.1.2. Quyền của nguyên đơn ....................................................................... 11
1.1.3. Vụ việc dân sự .................................................................................... 12
1.2. Việc xác định tư cách nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự .. 13
1.2.1. Cơ sở của việc xác định tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự 14
1.2.2. Các quy định về xác định tư cách của nguyên đơn .............................. 14
1.3. Các quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự ................... 19
1.3.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn ................................................... 21
1.3.2. Quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng
minh. ............................................................................................................ 33
1.3.3. Các quyền khác của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự. 37
1.4. Các yếu tố bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân
sự ................................................................................................................. 40
1.4.1. Sự bảo đảm về hệ thống luật pháp ...................................................... 40
1.4.2. Bảo đảm về đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật .................................... 41
1.4.3. Bảo đảm về đổi mới và cải cách tư pháp ............................................ 43
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN TUYÊN
HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH ...................................................................... 46
2.1. Khái quát chung về huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình ....................... 46
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện ................................................... 46
2.1.2. Tình hình giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh
Quảng Bình. ................................................................................................. 49
2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự tại
huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình ............................................................. 50
2.2.1. Thực hiện quyền tự định đoạt của nguyên đơn. ................................... 50
2.2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ
và chứng minh .............................................................................................. 55
2.2.3. Thực hiện các quyền khác của nguyên đơn. ........................................ 58
2.3. Đánh giá chung...................................................................................... 59
2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................ 59
2.3.2. Hạn chế. ............................................................................................. 60
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế ................................................................... 65
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA
NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI
HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................ 68
3.1. Phương hướng đảm bảo thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết
các vụ việc dân sự. ....................................................................................... 68
3.2. Giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc
dân sự. .......................................................................................................... 72
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 72
3.2.2. Nâng cao trình độ Thẩm phán và các cán bộ Tòa án. ......................... 77
3.2.3. Về thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự nhằm
bảo đảm hơn quyền của nguyên đơn. ............................................................ 78
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc bảo
đảm quyền của nguyên đơn. ......................................................................... 79
3.2.5. Tăng cường tuyên truyền pháp luật trên địa bàn địa phương.............. 80
3.2.6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra .......................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
BLDS: Bộ luật dân sự
TTDS: Tố tụng dân sự
TA: Toà án
VKS: Viện kiểm sát
VADS: Vụ án dân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 và
có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016. BLTTDS 2015 bao gồm các quy định
những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để
Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự và nhiều điểm mới
cập nhật thay cho BLTTDS số 24/2004/QH11 và Luật Tố tụng Dân sự số
65/2011/QH12 sửa đổi năm 2011.
Nếu như nói BLDS 2015 quan trọng về nội dung thì BLTTDS 2015 lại
là Bộ luật quan trọng về hình thức. BLTTDS quy định những vấn đề liên quan
đến: Những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện
để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa
án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại
Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của TA nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án
dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá
nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác,
công minh và đúng pháp luật.
1
BLTTDS góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Có thể nói, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển
của BLDS 2004, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước
trên thế giới. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ
tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy định về nguyên
đơn, quyền của nguyên đơn và bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn.
Nguyên đơn là một khái niệm pháp lý đặc thù của lĩnh vực tố tụng tại
Tòa án, thể hiện mối quan hệ đặc biệt quan trọng đối với vụ việc tranh chấp
dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại…. Không có một
vụ việc nào được giải quyết tại Tòa án mà không có sự xác định về nguyên
đơn. Vì vậy, nguyên đơn chính là một bộ phận không thể thiếu khi xét xử tại
Tòa án.
Trong vụ việc dân sự, nguyên đơn được coi là chủ thể quan trọng, nếu
thiếu chủ thể này thì vụ việc dân sự không thể phát sinh. Việc Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 có hiệu lực là một kết quả quan trọng, sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các chế định quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong
đó có các quy phạm quy định rõ ràng về các vấn đề pháp lý của nguyên đơn.
Điều này có ý nghĩa quan trọng của việc xác định thành phần, tư cách nguyên
đơn trong các vụ việc dân sự, góp phần trong việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ
dân sự chính đáng của họ và đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải
quyết các vụ việc dân sự một cách chính xác, khách quan…
Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì nhiều vấn đề về quyền của
nguyên đơn cũng chưa được giải quyết triệt để. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án
cũng cho thấy, trong nhiều trường hợp, quyền của nguyên đơn đã không được
2
tôn trọng một cách đúng mức. Một số quy định về quyền của nguyên đơn
được quy định trong BLTTDS chưa rõ ràng và cụ thể dẫn tới những khó khăn,
vướng mắc trong việc đảm bảo thực hiện quyền. Do vậy, việc nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc về quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc
dân sự cả về phương diện lý luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những
giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền
của nguyên đơn là một việc làm cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên đây,
tôi đã lựa chọn đề tài "Quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc
dân sự tại huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình" làm Luận văn cao học luật
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn
Sau khi BLTTDS 2004 có hiệu lực và nay là BLTTDS 2015, cũng đã
có một vài công trình nghiên cứu về quyền của nguyên đơn như Luận văn cao
học luật với đề tài “Đương sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều Dương (bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2005), Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về đương sự trong
TTDS, từ đó phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện
hành về đương sự và thực tiễn thực hiện các quy định này ở Tòa án để tìm ra
các phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật TTDS về
đương sự; Luận văn cao học luật “Thụ lý vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2009), Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân sự,
tiếp cận các quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án dân sự và tìm
hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về thụ lý vụ án dân sự từ đó đưa ra kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự; Luận
văn cao học luật "Đương sự trong vụ án dân sự" của tác giả Đào Thu Hải Yến
(bảo vệ tại Trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015), Luận văn làm rõ khái
3
niệm đương sự cũng như việc xác định đúng tư cách đương sự, quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự, đánh giá thực trạng các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự qua đó đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự; Luận văn cao học luật
"Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam
hiện nay" của tác giả Nguyễn Thanh Hải (bảo vệ tại Trường Đại học quốc gia
Hà Nội năm 2016), Luận văn làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy
định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế...
Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một
nội dung cụ thể về quyền của nguyên đơn. Chẳng hạn như bài viết “Bàn về
quyền khởi kiện của đương sự khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện do hết thời
hiệu khởi kiện” của tác giả Huỳnh Minh Khánh đăng tải trên Tạp chí Kiểm
sát số 7/2013; Bài viết “Về việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng
dân sự” của ThS Nguyễn Triều Dương (Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng
11/2009)... Các bài viết đăng trên tạp chí có bài “Bảo đảm quyền tố tụng của
đương sự thông qua người đại diện” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 năm 2015; “Người tham gia tố tụng dân
sự” của Nguyễn Việt Cường đăng trên tạp chí Nghề luật, số 02 năm 2006;
“Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của Trần Anh
Tuấn đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23 năm 2008 v.v...
Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại
ở việc đề cập đến một nội dung quyền cụ thể nào đó trong các quyền mà
4
nguyên đơn có hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về quyền của nguyên đơn
trong tổng thể các quyền của nguyên đơn. Cho đến nay, chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về quyền của nguyên đơn
trong tố tụng dân sự tại địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Trước
tình hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền của nguyên đơn trong giải quyết các
vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ
của mình. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ
thống về quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào
cũng đều trả lời cho câu hỏi: Việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào
cái gì? Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không
nằm ngoài cách tiếp cận trên, tôi xác định mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
là làm rõ được những vấn đề lý luận cũng như nội dung các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền của nguyên đơn trong
giải quyết vụ việc dân sự. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ
việc bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc
dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu
tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về quyền của nguyên đơn đồng thời nâng
cao hiệu quả của việc bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải
quyết vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở mục đích nêu trên, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
5
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của nguyên đơn trong tố
tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có
liên quan tới quyền của nguyên đơn, bảo đảm quyền của nguyên đơn và thực
tiễn thực hiện tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Từ đó chỉ ra những
điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền của
nguyên đơn cũng như bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ
việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần đảm bảo quyền của nguyên đơn
trong giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khoa học của Luận văn là quyền của nguyên đơn
trong giải quyết các vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu quy
định của pháp luật về quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự,
việc bảo đảm quyền của nguyên đơn khi tham gia tố tụng. Nội dung cốt lõi
của luận văn là xoay quanh quyền của nguyên đơn và việc bảo đảm việc thực
hiện quyền của nguyên đơn dưới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:
- Phạm vi về thời gian:
Về văn bản pháp luật, luận văn chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích,
đánh giá quy định của pháp luật tố tụng dân sự năm 2015.
6
Về số liệu khảo sát việc thực hiện quyền của nguyên đơn, luận văn
phân tích các số liệu giai đoạn từ năm 2013 - 2017 tại Toà án nhân dân huyện
Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi về không gian, quyền của nguyên đơn sẽ được phân tích và
đánh giá qua quy định của Bộ luật tố tụng 2015 và việc thực hiện quyền của
nguyên đơn tại Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn
đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ
thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê...v.v.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách
có hệ thống về quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp của luận
văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự được
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và
thực tiễn thực hiện.
Thứ hai, luận văn nghiên cứu chuyên sâu về thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về bảo đảm quyền của nguyên đơn tại huyện Tuyên Hoá,
tỉnh Quảng Bình nhằm chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền của nguyên đơn cũng
như những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật.
7
Thứ ba, trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của nguyên đơn và bảo
đảm thực hiện quyền của nguyên đơn, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm
quyền của nguyên đơn tại địa bàn huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
Thứ tư, luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực
tiễn liên quan đến giải quyết các vụ việc dân sự. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện
pháp luật về quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Danh mục các chữ viết tắt, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về quyền của nguyên đơn trong
giải quyết các vụ việc dân sự.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết
các vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn
trong giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN
ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Nguyên đơn
Trong cuốn “Black’s Law Dictionnary”, nguyên đơn định nghĩa là
“người đưa ra hành động; bên than phiền hoặc khởi kiện cá nhân và có tên
trong hồ sơ” hay trong Từ điển Luật học của nhà xuất bản từ điển khoa học
năm 2006, đã được xuất bản ở nước ta, “nguyên đơn là người khởi kiện hoặc
người không khởi kiện trong những vụ án về dân sự hoặc tổ chức xã hội khởi
kiện vì lợi ích của người đó. Nguyên đơn có thể là cá nhân hoặc pháp nhân".
Khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Nguyên
đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, các
nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm
phạm".
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để
yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực
mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 68 thì nguyên đơn không chỉ là “người
khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy
định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm” mà còn là “Cơ quan, tổ chức
do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”.
9
Ví dụ: Cơ quan bảo vệ tài nguyên môi trường khởi kiện doanh nghiệp
vì doanh nghiệp này đã làm ô nhiễm môi trường.
Cơ quan bảo vệ tài nguyên môi trường khởi kiện không phải vì lợi ích
của cơ quan họ mà là lợi ích xã hội đây là điểm khác giữa nguyên đơn là
người khởi kiện vì lợi ích của họ với nguyên đơn khởi kiện không phải vì lợi
ích của họ.
Đối với việc dân sự, theo quy định tại khoản 5 Điều 68 BLTTDS quy
định với vai trò tham gia tố tụng như nguyên đơn, người yêu cầu giải quyết
việc dân sự "là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một
sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động".
Đặc điểm của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự:
Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng dân sự do
vậy nguyên đơn có đầy đủ các đặc điểm của người tham gia tố tụng.
Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội
dung có quyền lợi ích bị xâm phạm hoặc cần được xác định trong vụ án dân
sự. Quyền, lợi ích của nguyên đơn liên quan trực tiếp đến quá trình giải quyết
vụ việc dân sự.
Nguyên đơn là chủ thể được tòa án cho tham gia vào quá trình giải
quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nguyên đơn có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc thông qua người đại
diện trong tố tụng dân sự. Những quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
mà pháp luật quy định là cơ sở để nguyên đơn có điều kiện thuận lợi, bình
đẳng với những người tham gia tố tụng khác trong quan hệ tố tụng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình về mặt nội dung.
10
Nguyên đơn là chủ thể có quyền tự định đoạt việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình
giải quyết vụ việc dân sự.
1.1.2. Quyền của nguyên đơn
Chúng ta thấy rằng trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp
luật ra đời thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận
bằng pháp luật của Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do
Nhà nước thiết lập. Theo đó, quyền của tổ chức, cá nhân khi tham gia vào tố
tụng dân sự đã được pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự với tư cách
nguyên đơn phải được cơ quan có thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ.
Quyền của nguyên đơn là tổng hợp những hành vi mà nguyên đơn có
quyền thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, là một phần trong
tổng thể quyền con người được pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các
quốc gia trên thế giới quy định. Quyền của nguyên đơn là nhóm quyền tố tụng
thuộc quyền con người, là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội
được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp
pháp của mình được thực hiện.
Xét trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì thông thường quyền của
nguyên đơn sẽ tương ứng với nhiệm vụ của Tòa án trong việc đảm bảo thực
hiện quyền của nguyên đơn. Thông qua việc quy định những việc nguyên đơn
được thực hiện, pháp luật đặt ra các quy tắc xử sự, điều chỉnh hành vi tố tụng
của nguyên đơn nhằm thực hiện mục đích của tố tụng dân sự là nhanh chóng
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Suy cho cùng thì quyền của
nguyên đơn là phương tiện pháp lý mà nguyên đơn có thể sử dụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
11
1.1.3. Vụ việc dân sự
Vụ việc dân sự là vụ việc phát sinh tại Tòa án nhân dân do cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của người khác. Như vậy vụ việc dân sự có các đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất, vụ việc dân sự trước hết phải là những vụ việc phát sinh tại
Tòa án. Chỉ những vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và
phát sinh tại Tòa án mới được gọi là vụ việc dân sự.
Thứ hai, vụ việc dân sự phát sinh trên cơ sở có việc khởi kiện hoặc yêu
cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế thường xảy ra nhầm lẫn giữa vụ việc dân sự và vụ án dân
sự. Việc cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự hay khởi kiện
vụ án dân sự dẫn đến những kết quả rất khác nhau.
Vì vậy cần phân biệt được khi nào yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân
sự, khi nào thì khởi kiện vụ án dân sự để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của bản thân trước những vấn đề phát sinh trong các quan hệ dân sự.
Dấu hiệu pháp lý cơ bản nhất để phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự
là yếu tố có tranh chấp hay không. Việc dân sự không có tranh chấp xảy ra
còn vụ án dân sự có tranh chấp xảy ra.
Vụ án dân sự là những tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi chung là
tranh chấp dân sự) do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết và
đã được Tòa án thụ lý. Tranh chấp là tình trạng xung đột về lợi ích pháp lý
giữa ít nhất từ hai chủ thể trở lên. Vụ án dân sự là đối tượng của thủ tục giải
quyết vụ án dân sự.
Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự là tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Việc
12
dân sự là những trường hợp không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà chỉ
yêu cầu Toà án giải quyết xác nhận những sự kiện pháp lý về dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động.
Mỗi vụ việc dân sự dù có tranh chấp hoặc không có tranh chấp giữa các
chủ thể thì khi phát sinh tại Tòa án đều có mục đích giải quyết chung là nhằm
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Theo pháp luật hiện hành, tính chất "dân sự" được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, về kinh doanh,
thương mại, về lao động và về các loại việc khác theo quy định của pháp luật.
Khi một vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thì dẫn đến trách nhiệm giải
quyết vụ việc dân sự đó của Tòa án nhân dân theo trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ án và việc dân sự.
Đối với vụ án thì đương sự có đơn khởi kiện (Toà án thụ lý, yêu cầu
cung cấp chứng cứ, hoà giải và mở phiên toà xét xử nếu hoà giải không
thành), còn việc dân sự chủ thể có liên quan gửi đơn yêu cầu Toà án (Toà án
thụ lý, yêu cầu cung cấp chứng cứ, mở phiên họp giải quyết có sự tham gia
của Viện kiểm sát, quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật ngay).
1.2. Việc xác định tư cách nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thì việc xác định tư cách
nguyên đơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp nguyên đơn thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng để đảm bảo quyền lợi của mình, đảm bảo việc giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Việc xác định đúng tư cách nguyên đơn sẽ
tránh được việc vụ án phải giải quyết đi, giải quyết lại nhiều lần gây mất thời
gian, tổn phí cho nguyên đơn cũng như các đương sự khác và Toà án. Xác
định đúng tư cách nguyên đơn sẽ tránh được việc giải quyết không đúng về
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật nội dung, đảm
bảo mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự.
13
1.2.1. Cơ sở của việc xác định tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự
Xác định tư cách của nguyên đơn trên cơ sở xác định chủ thể có quyền
khởi kiện, bị khởi kiện hoặc có quyền yêu cầu, có liên quan đến giải quyết
yêu cầu:
Khi chủ thể khởi kiện hoặc yêu cầu thì tòa án cần xác định một cách
chính xác các vấn đề sau đây:
+ Phải xác định chủ thể đó có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu hay
không?
+ Họ khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích của mình hay
của người khác?
+ Họ có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu đối với ai?
Việc xác định ai có quyền khởi kiện, ai có quyền yêu cầu cần phải căn
cứ vào bản chất của mỗi quan hệ pháp luật đang được xem xét, giải quyết và
đối chiếu với các quy phạm pháp luật nội dung tương ứng.
Trong khoa học pháp lý, tùy thuộc vào các căn cứ khác nhau có thể có
nhiều cách phân loại quyền khởi kiện (hay tố quyền) khác nhau trong các
quan hệ pháp luật. Nếu căn cứ vào bản chất quyền lợi hành xử thì tố quyền
được phân chia thành tố quyền đối vật, tố quyền đối nhân, tố quyền hỗn hợp.
Việc phân loại tố quyền đối vật, tố quyền đối nhân có ý nghĩa trong việc xác
định tư cách của các đương sự trong vụ kiện.
1.2.2. Các quy định về xác định tư cách của nguyên đơn
Có hai loại chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp và chủ thể được
chuyển giao hoặc thừa kế quyền, lợi ích. Xét theo luật thực định khoản 2 Điều
68 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người
khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức do bộ luật này quy định khởi
14
kiện để yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của người đó bị xâm hại.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để
yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực
mà mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Điều đó cho thấy nguyên đơn có vai trò quan trọng trong vụ án dân sự
so với các đương sự khác. Vì để phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời
là cơ sở để bắt đầu giải quyết vụ án dân sự phải có nguyên đơn khởi kiện hoặc
các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn.
Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định nguyên tắc chung để xác định
nguyên đơn thông qua hành vi khởi kiện của chủ thể có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm hay tranh chấp. Theo đó, nguyên đơn trong vụ án dân sự là
người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền
và lợi ích của người đó bị xâm phạm.
Theo quy định trên thì nguyên đơn là chủ thể thỏa mãn hai điều kiện
sau:
- Được giả thiết có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp với bị đơn.
- Đã tự mình khởi kiện.
Các quy định trên của Bộ luật tố tụng dân sự chưa đủ để xác định tư
cách của đương sự trong vụ án dân sự. Bởi lẽ, để có thể xác định đúng tư cách
của nguyên đơn thì ngoài các điều kiện trên, cần có các quy định của pháp
luật hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc xác định tư
cách của nguyên đơn phải dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật có tranh chấp,
pháp luật nội dung điều chỉnh quan hệ đó.
Để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải đáp ứng
những yêu cầu sau:
15
- Thứ nhất: Khi các chủ thể cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm hại. Điều này cho thấy việc nguyên đơn tham gia tố tụng mang
tính chủ động, khi nhận thấy quyền lợi của bản thân bị xâm hại chủ thể tự
mình yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho mình. Nó trái ngược
lại với tính bị động của bị đơn khi tham gia tố tụng. Việc yêu cầu bảo vệ
quyền lợi bị xâm hại xuất phát từ ý chí chủ quan của nguyên đơn. Vì việc xác
định quyền lợi của chủ thể có bị xâm hại hay không thì phải được khẳng định
trong các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực. Khi bản án, quyết định
của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm. Về
nguyên tắc, quyền lợi chỉ có thể có được hoặc bị xâm phạm khi các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia
đình…) mà nguyên đơn là một bên chủ thể.
- Thứ hai: Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Để tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì ngoài việc có khả năng pháp luật quy định
nguyên đơn còn phải tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng lúc đó họ trở thành nguyên
đơn.
Quyền dân sự của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định trong
Bộ luật dân sự được pháp luật bảo hộ. Khi các quyền này bị vi phạm thì
những người được hưởng quyền có thể yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Đây chính
là năng lực pháp luật tố tụng dân sự.
Khoản 1 Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 định nghĩa: Năng
lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng
dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp
16
luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi
được thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng
lực pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình ngay được mà phải đáp ứng một số yêu cầu
nhất định về độ tuổi, trí tuệ (đối với cá nhân); người đại diện (đối với pháp
nhân)… Tương tự như trong pháp luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự quy định
“năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia
tố tụng dân sự” (khoản 2 Điều 69) và để có năng lực tố tụng dân sự, nguyên
đơn cũng cần phải thỏa mãn một số điều kiện về độ tuổi, trí tuệ (đối với
nguyên đơn là cá nhân); người đại diện (đối với nguyên đơn là cơ quan, tổ
chức). Cụ thể như sau:
+ Nguyên đơn là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác (khoản 3 Điều
69);
+ Nguyên đơn là người chưa đủ mười sáu tuổi hoặc người mất năng lực
hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện
hợp pháp của họ thực hiện (khoản 4 Điều 69);
+ Nguyên đơn là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài
sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan
đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án
có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với
17
những việc khác, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án do
người đại diện hợp pháp của họ thực hiện (khoản 6 Điều 69);
+ Nguyên đơn là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp (là người
đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc người được người đứng đầu cơ quan, tổ chức
ủy quyền nhân danh mình) tham gia tố tụng (khoản 7 Điều 69).
- Thứ ba: Các chủ thể trở thành nguyên đơn khi yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng, lợi ích thuộc lĩnh
vực mình phụ trách: Đối với chủ thể là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng
dân sự đầy đủ hoặc cơ quan, tổ chức thông qua người đại diện hợp pháp khởi
kiện vụ án dân sự được Tòa án thụ lý thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó trở
thành nguyên đơn. Trường hợp cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng
dân sự đầy đủ mà được người đại diện hợp pháp của người này thì người
được bảo vệ quyền lợi cũng được xác định là nguyên đơn. Việc quy định
nhiều chủ thể có thể trở thành nguyên đơn cho thấy sự quan tâm của pháp luật
tới việc đảm bảo lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội.
- Thứ tư: Đơn khởi kiện.
Để khởi kiện và xác định tư cách là nguyên đơn thì chủ thể phải có đơn
khởi kiện và gửi đơn kiện tới Tòa án. Tư cách của chủ thể được xác định là
nguyên đơn, hành vi chủ thể gửi đơn tới Tòa án và Tòa án thụ lý đơn khởi
kiện. Đơn khởi kiện phải đầy đủ nội dung được quy định tại khoản 4 Điều 189
Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội
dung trong tranh chấp mà cùng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết quan
hệ nội dung tranh chấp đó thì Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của bên nào trước
thì bên đó được xác định là nguyên đơn.
18
Ngoài nguyên đơn là người có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền lợi của cá nhân, lợi ích công cộng… thì bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cũng trở thành nguyên đơn trong trường hợp:
+ Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn
vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn.
+ Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa
vụ với yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn.
1.3. Các quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự để đảm bảo cho các đương sự
nói chung và nguyên đơn nói riêng có điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời bảo đảm việc giải quyết vụ
án dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn, pháp luật tố tụng dân sự đã quy
định khá cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn, với phạm vi
bài Luận văn này tôi chỉ xin đề cập tới quyền của nguyên đơn trong giải quyết
vụ việc dân sự.
Về nguyên tắc, để đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự,
nguyên đơn bình đẳng với các đương sự khác về quyền tố tụng dân sự. Mặt
khác, Tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và có
trách nhiệm tạo điều kiện để cho đương sự thực hiện được đầy đủ các quyền
của mình. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định cụ thể quyền của
nguyên đơn trong các lĩnh vực, giai đoạn tố tụng khác nhau tại Điều 70, 71
BLTTD:
Điều 70 quy định quyền, nghĩa vụ của đương sự: “Đương sự có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, đương sự có
quyền, nghĩa vụ sau đây: Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy
phiên tòa;Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố
19
tụng khác theo quy định của pháp luật; Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ
nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có
thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự
khác và Tòa án; Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy
định của Bộ luật này; Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang
lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình;Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp
tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu
giám định, quyết định việc định giá tài sản; Được biết, ghi chép, sao chụp tài
liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài
liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này; Có nghĩa vụ
gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã
có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Trường
hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng
cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ;Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành; Nhận thông báo hợp
lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Yêu cầu thay đổi người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Tham gia
phiên tòa, phiên họp theo quy định của Bộ luật này; Phải có mặt theo giấy
triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa
20
án giải quyết vụ việc; Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng; Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo
quy định của Bộ luật này; Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan
đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được
đối chất với nhau hoặc với người làm chứng; Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra
lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng; Được cấp trích lục bản
án, bản án, quyết định của Tòa án; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định
của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật; Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện
chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án,
đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả
do Bộ luật này quy định; Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định”.
Điều 71 quy định quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn: “Các quyền, nghĩa
vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này; Thay đổi nội dung yêu
cầu khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; Chấp nhận hoặc
bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập".
Căn cứ vào cơ sở hình thành, tính chất của các nhóm quyền tố tụng có
thể phân loại các quyền tố tụng của nguyên đơn thành các nhóm: Quyền tự
định đoạt của nguyên đơn, quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp
chứng cứ, chứng minh và các quyền khác.
1.3.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự
quyết định quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để
bảo vệ quyền, lợi ích đó. Là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, chi phối
21
quá trình tố tụng dân sự nên quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
dân sự.
Nội dung nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự:
Điều 5 quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
Theo quy định trên, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
được thể hiện trên các phương diện: Khởi kiện; Đưa ra, thay đổi, bổ sung
hoặc rút yêu cầu khởi kiện; Đưa ra, thay đổi, bổ sung hoặc rút căn cứ khởi
kiện.
Xuất phát từ cơ sở trên pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định cho
nguyên đơn trong tố tụng dân sự có các quyền tự định đoạt như: Giữ nguyên,
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; Tự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án, tham gia hòa giải; Tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Đề nghị Tòa án quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tham gia phiên
tòa, phiên họp; Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
22
1.3.1.1. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc khởi kiện vụ án
dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự
Thứ nhất, với quy định tại Điều 186 và 187 Bộ luật tố tụng dân sự, Nhà
nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan tổ chức yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Thực hiện quyền khởi kiện chính này là một biểu hiện của nguyên tắc quyền
tự định đoạt của nguyên đơn trong khởi kiện vụ án dân sự.
Thứ hai, quyền tự định đoạt đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Trong các việc dân sự thì không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Nhưng
người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án
dân sự. Họ được quyền đưa ra yêu cầu cho Toà án giải quyết để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong
phạm vi yêu cầu Toà án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý
làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoặc công nhận các quyền, nghĩa vụ của
họ. Việc Bộ luật tố tụng dân sự ghi nhận quyền này của nguyên đơn đã góp
phần thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
1.3.1.2. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc thay đổi, bổ
sung, rút yêu cầu
Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu thuộc quyền tự định đoạt của nguyên
đơn. Tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền thay đổi,
bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và Điều 244 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015 quy định: Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
ban đầu. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
23
Theo đó, nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của
mình. Đây là quy định nhằm giúp nguyên đơn khắc phục trường hợp đưa ra
yêu cầu không đầy đủ, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn
tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc quyết định và
tự định đoạt này có thể được toà án chấp nhận hay không. Trước khi toà án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì việc quyết định và tự định đoạt
trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu là quyền tuyệt đối của đương sự. Tại
phiên toà sơ thẩm, việc quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ
sung, rút yêu cầu của đương sự bị hạn chế.
Để bảo đảm quyền khởi kiện của nguyên đơn pháp luật không quy định
hạn chế việc thay đổi, bổ sung của đương sự. Tuy nhiên, để tránh trường hợp
nguyên đơn lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho Tòa án
trong việc giải quyết vụ án dân sự và gây khó khăn cho các đương sự khác
trong việc tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự cũng quy định những
điều kiện nhất định cho việc thay đổi, bổ sung này. Theo đó, Điều 244 Bộ luật
tố tụng dân sự quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của nguyên đơn tại
phiên tòa sơ thẩm không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 218, việc Toà án ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì nguyên
đơn không có quyền đệ đơn kiện lại yêu cầu Toà án giải quyết.
Nguyên đơn có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện
(điểm b, khoản 2 Điều 71, trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nếu nguyên
đơn rút đơn khởi kiện, thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ việc điểm c khoản
1 Điều 217). Tại phiên tòa nếu nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
của mình tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử với
phần yêu cầu bị rút hoặc toàn bộ yêu cầu bị rút đó (khoản 1 Điều 244). Trong
24
trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu của mình mà bị đơn vẫn giữ yêu
cầu phản tố thì bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và nguyên đơn lại thành bị
đơn. Nếu cả nguyên đơn và bị đơn đều rút yêu câu, yêu cầu phản tố mà người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ yêu cầu thì sẽ trở thành nguyên
đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn (Điều 245).
Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có quyền rút một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, nêu người yêu cầu tự
nguyện rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình thì Toà án chấp nhận và
đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu
cầu.
Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự phải dựa vào ý chí
của đương sự, Tòa án sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
do đương sự bị ép buộc.
1.3.1.3. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc thỏa thuận giải
quyết vụ việc dân sự
Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thoả thuận giải quyết vụ
việc của đương sự cũng như của nguyên đơn được thực hiện ở bất cứ giai
đoạn nào.
Trong tố tụng dân sự, hoà giải là thủ tục có ý nghĩa nhân văn nhằm
giúp cho đương sự thoả thuận với nhau để giải quyết các vấn đề có liên quan
đến vụ việc. Cơ sở của hoà giải là xuất phát từ ý chí chủ quan, tự nguyện
quyết định và tự định đoạt của đương sự. Do vậy, chỉ có đương sự là chủ thể
của quan hệ pháp luật nội dung mới có quyền thương lượng, thoả thuận hoà
giải để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ việc, trừ trường hợp đương
sự uỷ quyền cho người khác. Trong quá trình hoà giải, Toà án giữ vai trò
trung gian, giải thích pháp luật, chứ không được hướng dẫn thương lượng, nội
dung thoả thuận, bởi vì quyền thương lượng, nội dung thoả thuận là nội dung
25
của quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, toà án chỉ
công nhận thoả thuận của đương sự cũng như nguyên đơn khi thoả thuận đó
phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự các bên có quyền
thương lượng với nhau giải quyết vụ việc bằng ý chí và sự tự nguyện của
mình, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận đó, không được dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực, bắt các đương sự cũng như nguyên đơn phải thỏa
thuận không phù hợp với ý chí của mình.
Tuy nhiên việc hòa giải chỉ giới hạn ở một số trường hợp nhất định trừ
các trường hợp tại Điều 181 BLTTDS.
Đối với việc hòa giải ở cấp sơ thẩm, trước khi mở phiên tòa hòa giải là
thủ tục bắt buộc với những loại việc mà pháp luật quy định trừ trường hợp
VADS không được hòa giải quy định tại Điều 181 và những vụ án không tiến
hành hòa giải được tại Điều 207.
Trước khi mở phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn
đề giải quyết toàn bộ vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hòa giải thành. Hết
thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương
sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa
giải hoặc một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận đó (khoản 1 Điều 212 Bộ luật tố tụng dân sự). Tại phiên
tòa sơ thẩm Theo quy định tại Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét
xử phải hỏi nguyên đơn có thỏa thuận được với các đương sự khác về việc
giải quyết vụ án hay không, nêu thỏa thuận được không trái quy định pháp
luật, đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận đó, quyết định này có hiệu lực ngay.
Tại giai đoạn phúc thẩm tuy pháp luật không quy định cụ thể tuy nhiên
Tòa án phúc thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên
26
tòa phúc thẩm nhưng: Nếu tại Tòa án cấp phúc thẩm nguyên đơn không thoả
thuận được với các đương sự khác về việc giải quyết vụ án không trái pháp
luật, đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa
bản án sơ thẩm, công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.
Như vậy, với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của quyền tự định đoạt
của nguyên đơn, quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự là quyền tố tụng
rất quan trọng của nguyên đơn được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm,
phúc thẩm, trừ những trường hợp Bộ luật tố tụng dân sự quy định không được
tiến hành hòa giải. Việc ghi nhận quyền thỏa thuận của nguyên đơn với các
đương sự khác chính là sự tôn trọng của pháp luật đối với các quyền cơ bản
của con người, trong đó nguyên đơn có quyền tự mình giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn, tự mình giải quyết việc bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa
án là biện pháp giải quyết vụ án hữu hiệu nhất. Đồng thời góp phần quan
trọng nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ dân trí,
giáo dục nếp sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
1.3.1.4. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc tự bảo vệ hoặc
nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
Để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình nguyên đơn có thể
ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là
người đại diện theo sự ủy quyền của nguyên đơn, người này phải có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự. Việc cử người đại diện theo ủy quyền, hoàn toàn dựa
trên sự tự định đoạt của nguyên đơn.
Đây là một quyền quan trọng của nguyên đơn trong tố tụng dân sự.
Nguyên đơn có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình. Theo
đó thì nguyên đơn có quyền dùng lý lẽ và chứng cứ, tài liệu mình có được để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Quyền tự bảo vệ không phải là một quyền độc lập, tách rời với các quyền
27
khác của nguyên đơn mà quyền tự bảo vệ chính là sự tổng hoà các quyền của
nguyên đơn trong tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình.
Ngoài quyền tự bảo vệ cho mình, nguyên đơn còn có quyền nhờ người
khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Theo quy định tại Điều
75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
nguyên đơn có quyền nhờ luật sư hoặc người khác mà tòa án chấp nhận tham
gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn giúp nguyên đơn nhận thức đúng quyền và nghĩa vụ của mình và
bảo vệ các quyền và lợi ích trước Toà án khi có sự vi phạm. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có sự am hiểu về luật pháp, vì vậy
những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp nhận, giúp cho quá trình giải
quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi ích cho nguyên đơn. Không
những thế, với sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án của Toà án được công minh hơn, làm
cho người tiến hành tố tụng phải khách quan, tôn trọng pháp luật hơn trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Việc nguyên đơn có quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình, cũng là biểu hiện của nguyên tắc quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự và được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn phải đảm bảo các điều kiện quy định tại khoản 2
Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 . Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn nên việc
thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn do
hai bên quyết định.
28
Như vậy, một lần nữa quyền tự định đoạt của nguyên đơn lại được thể
hiện. Tất cả đều hướng tới lợi ích của nguyên đơn. Việc tham gia tố tụng của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không những có ý
nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trước tòa mà còn có ý
nghĩa thể hiện việc tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt của nguyên đơn trong
quá trình tố tụng. Do tham gia tố tụng theo yêu cầu của nguyên đơn nên việc
thay đổi chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn sẽ do
hai bên quyết định, đây cũng là quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên
tắc quyền tự định đoạt của nguyên đơn .
1.3.1.5. Quyền tự định đoạt của nguyên đơn trong việc kháng cáo bản
án, quyết định của Tòa án
Kháng cáo là quyền cho phép nguyên đơn chống lại bản án và quyết
định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm và yêu
cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 271
BLTTDS, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo
thủ tục phúc thẩm. Theo đó, những phần của bản án, quyết định bị kháng cáo
thì chưa được thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành. Có
thể nói, quyền kháng cáo là phương tiện pháp lý, là một trong những nội dung
của quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, quyền này bị
giới hạn bởi những quy định của pháp luật về đối tượng và thời hạn của quyền
khiếu nại, kháng cáo. Mặt khác, đương sự cũng có quyền thay đổi, bổ sung,
rút kháng cáo theo khoản 2, Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Theo quy
định tại Điều 273, thời hạn kháng cáo đối với Bản án của Toà án cấp sơ thẩm
là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với nguyên đơn không có mặt tại phiên
toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng
29
cáo tính từ ngày họ nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết. Thời hạn
kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà
án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày nguyên đơn nhận được quyết định hoặc
kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Thông qua việc kháng cáo hay không kháng cáo nguyên đơn thể hiện ý
chí của mình đối với bản án, quyết định của Toà án một cách công khai độc
lập, được quyền tự định đoạt nội dung kháng cáo, như vậy kháng cáo là một
trong những nội dung quyền tự định đoạt của nguyên đơn.
Đối với việc dân sự, theo quy định tại Điều 372 Bộ luật tố tụng dân sự
nguyên đơn có quyền kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong vòng
10 ngày, kể từ ngày ra quyết định.
1.3.1.6. Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng
Khi nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì
nguyên đơn có quyền khiếu nại. Nguyên đơn có quyền khiếu nại các quyết
định, hành vi tố tụng của Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Toà án.
Đối tượng của khiếu nại là quyết định không thuộc đối tượng của
kháng cáo như: quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Thẩm phán trước khi mở phiên toà và của Hội đồng xét xử tại phiên
toà; khiếu nại về hành vi trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán; khiếu nại về
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn.
Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có
quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán
không quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
30
Thời hạn khiếu nại là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc trả lời của Thẩm
phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, nguyên đơn có quyền khiếu nại
với Toà án đã trả lại đơn khởi kiện và tại Điều 319 Bộ luật tố tụng dân sự quy
định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đưa
vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, nguyên đơn có quyền khiếu nại với
Chánh án Toà án đã ra quyết định.
Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định tương đối
đầy đủ, chi tiết các quyền của nguyên đơn trong vụ án dân sự. Các quy định
này đã khắc phục được những khuyết điểm của văn bản tố tụng dân sự trước
đây, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho nguyên đơn có thể thực hiện được đầy đủ
các quyền của mình, đồng thời hạn chế việc các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng xâm phạm việc thực hiện
quyền tố tụng của đương sự.
Quyền quyết định và tự định đoạt của nguyên đơn trong lĩnh vực khiếu
nại, kháng cáo là một trong những quyền tố tụng quan trọng, bảo đảm cho
nguyên đơn có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng
như phát hiện, khắc phục, sửa chữa những sai sót của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc.
1.3.1.7. Quyền đề nghị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời
Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là cách thức giải
quyết vụ việc dân sự của Toà án khi khẩn cấp mà theo cách thức này Toà án
sẽ ra ngay quyết định áp dụng giải pháp trước mắt nhằm tạm thời giải quyết
31
nhu cấp cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng , bảo toàn tài sản, đảm
bảo cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích cho đương sự trong tố tụng dân sự.
Mục đích của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm bảo vệ
kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, trong đó
có nguyên đơn, vì thế quyền yêu cầu Toà án áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải thuộc về những chủ thể có quyền, lợi ích hợp
pháp và nguyên đơn là một trong những chủ thể đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự, trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết
vụ việc đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời
giải quyết yêu cầu cấp bách của nguyên đơn, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây
thiệt hại không thể khắc phục được đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc đúng
quy định của pháp luật.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự quy định nguyên
đơn không những có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi
Toà án đã thụ lý vụ án, mà trong trường hợp do tình thế khẩn cấp cần phải
bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra
nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện.
Để yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nguyên đơn
cần phải có đơn yêu cầu gửi đến Toà án có thẩm quyền, nội dung và hình thức
đơn yêu cầu phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật tố tụng dân
sự.
32
1.3.2. Quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và
chứng minh.
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ
để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự.
Để bảo vệ được tốt nhất các quyền và nghĩa vụ về dân sự của mình thì
nguyên đơn có quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh cho quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Nguyên đơn có quyền cung cấp chứng cứ ở bất cứ giai
đoạn tố tụng nào, khi nguyên đơn giao nộp chứng cứ Tòa án phải lập biên bản
có chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án (Khoản 2 Điều 96 BLTTDS). Vì
vậy, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã có nhiều quy định về quyền của
nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh, trong đó có
các quyền sau: Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ,
quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình; Đề nghị
Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không
thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu,
chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng
cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết
định việc định giá tài sản; Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do
đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập.
Theo quy định của BLTTDS nếu như nguyên đơn không thể tự mình
thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
33
thì có thể đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ việc mà mình
không thể thực hiện được (khoản 7 Điều 70 BLTTDS). Quy định này nhằm
khắc phục những trường hợp nguyên đơn không có khả năng, điều kiện để thu
thập chứng cứ. Nguyên đơn cũng có quyền đề nghị Toà án triệu tập người làm
chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản, có quyền khiếu nại với Viện
kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập theo yêu cầu
của nguyên đơn.
Theo khoản 7 Điều 70, trong trường hợp nguyên đơn không thể tự
mình thu thập chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán giải quyết vụ việc
tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ, yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu
thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu
thập; lý do vì sao không thể tự mình thu thập; họ, tên, địa chỉ của cá nhân và
địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.
Ví dụ: Trong trường hợp cần tính đúng lãi suất cho một khoản nợ trong
vụ án đòi tiền nợ, nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án yêu cầu Ngân hàng Nhà
nước cho biết mức lãi suất tại thời điểm cụ thể. Hoặc yêu cầu Tòa án yêu cầu
Sở tài nguyên và môi trường cho biết về nguồn gốc nhà - đất có chuyển dịch
quyền sử dụng, sở hữu được hay không?
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ
quan chuyên môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó, nguyên đơn có
quyền yêu cầu Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định và định giá tài
sản. Kết luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có
nhiều trường hợp có thể quyết định toàn bộ vụ việc. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp
về thừa kế, bản di chúc bị tố cáo là giả mạo, nếu xác định của cơ quan giám
định tư pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ án. Trong trường hợp
nguyên đơn không đồng ý với kết luận giám định thì có thể yêu cầu giám định
34
lại hoặc yêu cầu giám định bổ sung ở các cơ quan có chức năng giám định
khác.
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự còn quy định các đương sự có
quyền “Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập” (khoản 8 Điều 70 BLTTDS). Quy
định này sẽ giúp cho các nguyên đơn chuẩn bị được chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi có quyền được biết này nguyên đơn
sẽ có sự chủ động cao trong việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối
phương.
Để phù hợp với quy định của Luật Giám định tư pháp, ngoài việc
nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định như quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn quy
định khi nguyên đơn đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ
chối yêu cầu của nguyên đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu giám định. Quyền
yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 quy định đương sự cũng như nguyên đơn có quyền yêu cầu định giá tài
sản trong trường hợp không thỏa thuận được với bị đơn giá đối với tài sản
đang tranh chấp
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có yêu cầu bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp có quyền cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu
cầu đó là hợp pháp để Tòa chấp thuận thụ lý vụ việc dân sự.
Ngay sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, nguyên đơn đã thực hiện
quyền chứng minh bằng việc gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu,
35
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; Trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự, nguyên đơn có quyền giao nộp chứng cứ cho Tòa án.
Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh là vấn đề rất quan trọng để
nguyên đơn làm rõ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trên cơ sở đó thuyết
phục Tòa án bảo vệ. Trước Tòa án nếu nguyên đơn không chứng minh được
sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ
có thể sẽ không được Tòa án bảo vệ.
Nguyên đơn có quyền được dùng mọi biện pháp chứng minh, có quyền
đề xuất và xuất trình chứng cứ trong bất cứ giai đoạn nào. Đó có thể là giấy
tờ, tài liệu liên quan đến vụ kiện và các vật chứa đựng chứng cứ phải được
trực tiếp giao nộp cho Tòa án. Trong quá trình cung cấp chứng cứ, nguyên
đơn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết như xem xét tại
chỗ, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan cung cấp tài liệu cần thiết, lấy lời
khai, triệu tập thêm nhân chứng, đối chất để thu thập thêm chứng cứ, xác
minh cho lời khai và những chứng cứ của mình hoặc để xác định lại giá trị
chứng minh của chứng cứ mà phía bên kia cung cấp. Ngoài ra, quyền được
biết và ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác xuất trình
hoặc do Tòa án thu thập để tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn có thể bảo
vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất.
Nguyên đơn có quyền thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc
cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp thì mới là một trong những điều kiện để toà án tiến hành thụ lý đơn khởi
kiện - thời điểm bắt đầu của hoạt động tố tụng dân sự. Không thể có một đơn
khởi kiện nào được thụ lý mà không có chứng cứ để chứng minh, các nguyên
tắc khác theo đó mới có thể phát sinh và áp dụng.
Nhận thức được vai trò quan trọng mang tính chất chỉ đạo, Bộ luật tố
tụng dân sự đã quy định cụ thể nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và
36
chứng minh trong tố tụng dân sự. Theo khoản 1 Điều 6 BLTTDS quy định
nguyên đơn có quyền chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Toà án và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Nguyên đơn được đảm bảo quyền bảo vệ thông qua việc tự mình thực
hiện hoạt động chứng minh cho mình. Hoạt động chứng minh nhằm đảm bảo
quyền bảo vệ của nguyên đơn nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đã
đưa ra yêu cầu. Thuật ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng
bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công
nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề
ra đối tượng chứng minh. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện
thì họ có quyền chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương
sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.
1.3.3. Các quyền khác của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.
Ngoài hai nhóm quyền quan trọng được đề cập ở trên, để bảo đảm cho
nguyên đơn có đầy đủ các điều kiện thuận lợi nhất tham gia tố tụng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
còn quy định cho nguyên đơn các quyền khác như: Nhận thông báo hợp lệ để
thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập; Tham gia
phiên tòa; Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan tham gia tố tụng; Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc
theo quy định của Bộ luật này; Được cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa
án; Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
37
1.3.3.1. Quyền nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình.
Theo quy định tại khoản 12 Điều 70 BLTTDS, khi tham gia vào quá
trình tố tụng, nguyên đơn có quyền được nhận các thông báo hợp lệ để thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Các thông báo cũng như các văn bản tố
tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án
ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định tiếp tục giải
quyết vụ án… Các thông báo và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực
tiếp đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Việc pháp luật quy định nguyên
đơn có quyền được nhận các thông báo cũng như các văn bản tố tụng nhằm
đảm bảo cho nguyên đơn được bảo đảm tốt nhất quyền bảo vệ cũng như các
quyền tố tụng khác của mình.
1.3.3.2. Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người
giám định, người phiên dịch là những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng có vai trò quyết định trong việc giải quyết vụ án dân sự. Chính vì vậy
mà việc họ có khách quan trong quá trình tố tụng dân sự hay không sẽ ảnh
hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Những
trường hợp có nguy cơ dẫn đến việc không khách quan trong việc giải quyết
vụ án, pháp luật quy định họ phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
Những căn cứ để thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư
ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch được quy định tại các Điều 53,
Điều 54, Điều 60, Điều 84 BLTTDS.
Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, thư ký
Tòa án, người giám định, người phiên dịch cũng được ghi nhận là quyền của
đương sự để đảm bảo quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Quyền
38
này được thực hiện trước hoặc trong phiên tòa. Do vậy, Tòa án phải có trách
nhiệm thông báo cho đương sự biết những người tiến hành tố tụng giải quyết
vụ án trước khi quyết định đưa vụ án ra xét xử.
1.3.3.3. Quyền tham gia phiên tòa.
Về quyền tham gia phiên tòa, phiên tòa là nơi xem xét và giải quyết các
vấn đề của vụ án dân sự. Kết thúc phiên tòa, quyền lợi và nghĩa vụ của các
đương sự, đặc biệt là nguyên đơn được Tòa quyết định ghi trong bản án và
được đảm bảo thi hành. Bởi vậy, việc tham gia tố tụng tại phiên tòa có ý
nghĩa rất lớn đối với việc đảm bảo quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương
sự cũng như là nguyên đơn. Quyền tham gia phiên tòa của nguyên đơn cũng
được ghi nhận tại khoản 15 Điều 70 BLTTDS.
1.3.3.4. Quyền tranh luận tại phiên tòa.
Cùng với quyền tham gia phiên tòa, phiên họp pháp luật còn trao cho
nguyên đơn một quyền rất quan trọng nữa đó là quyền được tham gia tranh
luận tại phiên tòa, quy định tại khoản 20 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Đây
là điều kiện cần thiết để Hội đồng xét xử nắm bắt được tất cả các tình tiết vụ
án. Đồng thời, đây cũng là biện pháp tốt để nguyên đơn đưa ra những chứng
cứ, lý lẽ thuyết phục trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ trước Tòa án.
Theo quy định của BLTTDS thì nguyên đơn có quyền tranh luận trong
suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự kể từ khi nguyên đơn có yêu cầu
và Tòa án thụ lý cho đến khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, quyền tranh luận về
chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết của vụ án;
có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự khác, đưa ra quan điểm của
mình về hướng giải quyết vụ án; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên
quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn
đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc người làm chứng; có
39
quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để
yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm…
Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật tạo điều kiện cho nguyên đơn thực hiện quyền tranh luận để ra
bản án, quyết định đúng pháp luật như nguyền đơn phải được Tòa án triệu tập
tham gia tố tụng, giải thích cho nguyên đơn quyền tranh luận của họ, tạo điều
kiện cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu do người khác cung cấp hoặc
Tòa án thu thập v.v...
1.4. Các yếu tố bảo đảm quyền của nguyên đơn trong giải quyết vụ việc
dân sự
1.4.1. Sự bảo đảm về hệ thống luật pháp
Khi lựa chọn định hướng phát triển theo xu hướng tiến bộ, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, các quốc gia đều cố gắng cụ thể hóa các quy định về bảo
đảm quyền của công dân trong Hiến pháp và pháp luật của quốc gia mình, vì
thế bảo vệ các quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự là
một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam, Ðảng và Nhà nước ta vừa không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp lý bảo đảm quyền con người
nói chung và quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự nói riêng, vừa
luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng bước cải thiện, không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân, vừa quy định cụ thể quyền của nguyên đơn trong
Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản, nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật, đặc biệt là Bộ luật dân sự và
Tố tụng dân sự. Các cơ quan tư pháp không ngừng chú trọng đến việc đảm
bảo các quyền của những người tham gia tố tụng, trong đó có nguyên đơn.
Tòa án trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người
nói chung và quyền của nguyên đơn nói riêng. Viện kiểm sát là cơ quan tư
40
pháp có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc đảm bảo quyền của nguyên đơn
được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với hoạt động của Chính phủ và các cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự, hình sự, hành
chính và bổ trợ tư pháp trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Là một quốc gia đang phát triển, nhận thức về pháp luật và quyền con
người nói chung và quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự nói riêng
của người dân còn có những mặt hạn chế, do đó, việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật về quyền con người của nước ta giữ vị trí hết sức quan trọng để xây
dựng một xã hội mọi người sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
1.4.2. Bảo đảm về đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật
1.4.2.1. Quy định về sự độc lập, khách quan của Tòa án - Bảo đảm cần
thiết của việc thực thi quyền của nguyên đơn.
Sự độc lập của Tòa án được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng
nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền của nguyên đơn. Sự độc
lập và khách quan của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 12 BLTTDS:
“ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết
việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Ngoài ra, một nguyên tắc
khác cũng được ghi nhận tại khoản 1 Điều 16 BLTTDS là nguyên tắc bảo
đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự. Theo
đó, “Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư
ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người
phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá không được tiến
hành hoặc tham gia tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể
không vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.
Do các mối quan hệ xã hội phức tạp, khi tiến hành giải quyết các VADS
41
các Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án thường bị chi phối, tác động từ nhiều
phía. Những tác động tiêu cực này có thể làm cho một số cán bộ không vững
vàng, thiếu bản lĩnh hoặc thoái hóa, biến chất dẫn đến việc tiến hành tố tụng
thiếu trung thực, không khách quan, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, trong đó có quyền của nguyên đơn. Do đó, độc lập, khách quan chính
là điều kiện để Tòa án có thể giải quyết vụ án một cách công minh. Nếu không
không độc lập, khách quan thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể ra phán
quyết đúng pháp luật và quyền của nguyên đơn không được thực thi trên thực tế.
Để bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì việc ghi
nhận bằng pháp luật như trên vẫn chưa đủ mà cần phải có thêm những cơ chế hỗ
trợ khác như về cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ đãi ngộ. Về bảo đảm sự vô
tư của người tiến hành tố tụng dân sự, các Điều 52, 53, 54 BLTTDS cũng có quy
định về việc từ chối, thay đổi những người tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho
rằng sự tiến hành tố tụng của họ không vô tư, khách quan dẫn tới quyền yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự không được bảo đảm thực hiện.
1.4.2.2. Quy định về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát - Điều kiện
cần thiết để quyền khởi kiện không bị xâm phạm
Như đã phân tích ở Chương 1, quyền lực mà không bị giám sát, kiềm chế
sẽ dẫn tới lạm quyền. Do vậy, việc ghi nhận quyền tham gia tố tụng của VKS
ngay từ khi Tòa án thụ lý vụ án là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền của
đương sự, trong đó có nguyên đơn không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia
này sẽ hạn chế tối đa việc quyền của nguyên đơn không được thực hiện, thực
hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng quy đinh của pháp luật. Ngoài ra,
thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời kháng nghị để
quyền của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện.
Quyền tham gia tố tụng của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 107
Hiến pháp 2013; Điều 27 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân; các Điều 21,
42
23, 25 BLTTDS. Theo đó, cơ chế giám sát, kiểm sát các hoạt động tố tụng
dân sự được quy định thông qua nhiều phương thức khác nhau như kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các VADS của Tòa án, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của Tòa án, kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự…
Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư
liên tịch số 02/20166/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối hợp
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các quy định trên đã thể hiện vai trò của
Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền của nguyên đơn thông qua các quy
định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án trong giải quyết các vụ
việc dân sự. Toà án phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp
về việc thụ lý vụ án dân sự cũng như toàn bộ các văn bản tố tụng liên quan đến
giải quyết vụ việc cho Viện kiểm sát. Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng có quyền
kháng nghị và tham gia phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm.
1.4.3. Bảo đảm về đổi mới và cải cách tư pháp
Đổi mới và cải cách tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người là vấn đề ưu
tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, quyền của đương sự khi tham gia tố
tụng là một phần của quyền con người được pháp luật bảo vệ, trong đó quyền
của nguyên đơn cũng không phải là ngoại lệ. Thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, cải cách tư pháp vẫn tiếp tục được duy trì và là một yêu cầu không
thể thiếu trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam. Trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động
xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, cải cách tư
pháp sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế của công tác tư pháp, đảm bảo tốt
43
hơn việc thực hiện tốt hơn quyền tố tụng của đương sự, đặc biệt là nguyên
đơn.
Cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền, hệ thống các cơ quan tư pháp là
công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong
đó có nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng, hạn chế đến mức thấp nhất
những biểu hiện xâm phạm hoặc quyền của nguyên đơn không được đảm bảo
thực hiện đầy đủ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Cải cách tư pháp
được tiến hành khẩn trương, đồng bộ đồng thời xác định rõ khâu then chốt.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một nhiệm vụ rất
khó khăn, phức tạp có liên quan chặt chẽ với tổ chức và hoạt động của nhiều
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng, Nhà
nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc
kiện toàn, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả.
44
Tóm tắt chương 1
Trong một vụ việc dân sự không thể thiếu chủ thể quan trọng đó là
nguyên đơn, việc xác định đâu là nguyên đơn, nguyên đơn được hưởng những
quyền gì theo quy định của pháp luật thì trước tiên chúng ta cần phải nắm rõ
thế nào là nguyên đơn, đặc điểm của nguyên đơn là gì, từ đó mới có thể xác
định đúng tư cách tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng trong
một vụ việc dân sự. Quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân sự được cụ thể
hóa trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhằm bảo đảm có căn cứ để xác
định nguyên đơn được pháp luật trao cho những quyền gì, được tự mình hoặc
nhờ người khác thực hiện những hoạt động gì. Việc hiểu rõ những quy định
về quyền của nguyên đơn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thực hiện tốt nhiềm vụ của mình, từ đó cũng giúp cho nguyên
đơn khi tham gia bất kì một hoạt động tố tụng nào trong một vụ việc dân sự
cũng có pháp luật bảo vệ, bảo đảm cho những quyền mà nguyên đơn được
hưởng luôn được thực hiện và tôn trọng.
45
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
2.1. Khái quát chung về huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình
Ở HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện
Tuyên Hóa là huyện miền núi phía Tây bắc tỉnh Quảng Bình có diện
tích tự nhiên 115.059,4 ha, chiếm 1/7 diện tích tỉnh Quảng Bình, trong đó, đất
nông nghiệp chỉ có 5.082.21 ha chiếm 4,42%; đất lâm nghiệp là 84.32,78 ha,
chiếm 73,38%, đất chưa sử dụng và sông suối là 23.472,13 ha chiếm 20,44%
còn lại là 580,17 ha đất ở và 1.478,72 ha đất chuyên dùng. Phía Bắc giáp
huyện Hương Khê và huyện Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp huyện
Minh Hoá và nước bạn Lào, phía Nam giáp huyện Bố Trạch, phía Đông giáp
huyện Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình.Toàn huyện có 19 xã, 01 thị trấn,
trong đó có 12 xã đặc biệt khó khăn, 6 xã có thôn 135 (12 thôn). Dân số toàn
huyện trên 79.000 nhân khẩu, có 180 hộ với 724 khẩu đồng bào dân tộc thiểu
số sống tại hai xã Thanh Hóa và Lâm Hóa. Là cửa ngõ phía Tây của tỉnh
Quảng Bình có quốc lộ 12A, quốc lộ 15, đường Hồ Chí Minh, đường đi cảng
Vũng Áng và đường sắt Bắc Nam chạy qua với 9 ga trung chuyển hàng hoá,
ngoài ra huyện còn có sông Gianh, sông Rào Trổ là tuyến đường thuỷ quan
trọng tạo thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các huyện trong tỉnh và tỉnh
bạn. Đặc biệt sau khi có hệ thống giao thông Xuyên Á, Tuyên Hoá có điều
kiện thông thương với địa bàn kinh tế vùng duyên hải miền Trung, cơ hội để
thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của cả
tỉnh Quảng Bình nói chung.
46
Về kinh tế, Tuyên Hóa trên 82.573 ha rừng tự nhiên, 1.736 ha rừng
trồng và 17,4 ha đất ươm giống. Rừng tự nhiên của Tuyên Hoá có trữ lượng gỗ tương đối lớn, khoảng 3 triệu m3, với nhiều loại lâm thổ sản, gỗ quý như
dạ hương, huệ mộc, cánh kiến, lim, gõ, mun, dổi...Ngoài gỗ, còn có nhiều loại
tre, nứa, song, mây và nhiều loại thảo dược quý như sa nhân, sâm, trầm
hương, hà thủ ô và nhiều loại rau quả.
Bên cạnh đó, xen lẫn giữa những núi đồi, sông suối là những đồng cỏ,
đây là môi trường lý tưởng cho chăn nuôi đại gia súc. Núi rừng Tuyên Hoá
cũng là nơi sinh sống của hàng trăm loài chim thú, một vài nơi còn có nhiều
loại động vật quý hiếm như gấu, bò tót, hổ, mang lớn, nhím, vượn má hung,
voọc vá chân nâu, khỉ đuôi lợn, khỉ mốc… Với 15.800 ha đất vùng gò đồi,
Tuyên Hoá còn có tiềm năng lớn để phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây
ăn quả như tiêu, vải thiều, bưởi và chăn nuôi đại gia súc. Mạng lưới sông suối
của vùng tương đối dày, với dòng sông Gianh, Tuyên Hoá còn có điều kiện để
phát triển nghề nuôi cá lồng bè và đảm bảo khả năng cung cấp nước ngọt cho
toàn huyện.
Ngoài tiềm năng phát triển mạnh nghề rừng và nuôi trồng thủy sản, với hàng tỷ m3 đá vôi đã tạo điều kiện cho huyện phát triển ngành công nghiệp xi
măng và sản xuất vật liệu xây dựng, tiêu biểu là nhà máy xi măng Sông Gianh
với công suất 1,4 triệu tấn/năm.
Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2015
tăng đạt 12%/năm; bình quân hàng năm giai đoạn 2016-2020 tăng 11-
12%/năm.
- Cơ cấu kinh tế như sau:
+ Đến năm 2015: nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 39,2%; công nghiệp -
xây dựng 26,43%; dịch vụ 34,37%.
47
+ Đến năm 2020: nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 37,66%; công nghiệp
- xây dựng 26,77%; dịch vụ 35,57%.
- Thu nhập bình quân đầu người: đến năm 2015 đạt 19 triệu đồng/năm
và đến năm 2020 đạt 31,5 triệu đồng/năm.
- Đến năm 2015, tổng sản lượng lương thực đạt 18.500 tấn, năm 2020
đạt 19.000 tấn.
Trong những năm qua, đặc biệt giai đoạn 2012-2015, mặc dù phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn
cầu; thời tiết diễn biến bất lợi, nắng hạn, mưa rét kéo dài và lũ lụt thường
xuyên; nhưng nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh; cùng với sự
nỗ lực phấn đấu của các các cấp, các ngành và nhân dân trên toàn huyện nên
tình hình kinh tế - xã hội của huyện có nhiều chuyển biến tích cực; kinh tế ổn
định và duy trì được tốc độ tăng trưởng; các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa
xã hội có nhiều tiến bộ; quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững; đời sống của người dân cơ bản ổn định và từng bước
được cải thiện. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp
ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, phát triển kinh tế chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh của huyện. Đến nay, Tuyên Hoá vẫn là một huyện
nghèo. Trình độ phát triển còn thấp so với mức bình quân chung của tỉnh. Một
số chỉ tiêu về kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch đề ra. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, hiệu quả chưa cao; công tác quản lý nhà nước về tài nguyên - môi
trường có mặt còn hạn chế. Một số vấn đề xã hội chưa được giải quyết tốt;
chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; đời sống của một
bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tỷ lệ
hộ nghèo còn cao, nguy cơ tái nghèo lớn.
Tuyên Hóa được nhắc tới là vùng đất có nhiều địa danh lịch sử được
công nhận cấp quốc gia và cấp tỉnh như mộ đền thờ đề đốc Lê Trực ở Tiến
48
Hoá (cấp quốc gia); Bãi Đức - xã Hương Hoá, nơi chi bộ cộng sản đầu tiên
của huyện được thành lập (cấp tỉnh), hang Lèn Hà - xã Thanh Hóa. Ngoài
những địa danh lịch sử, Tuyên Hoá còn có các di tích lịch sử được đề nghị
công nhận như làng Lệ Sơn- xã Văn Hoá, chùa Linh Sơn - xã Tiến Hoá, nhà
và hang hoạt động của cụ Lê An - lão thành cách mạng xã Tiến Hoá, chùa
Hang - Lạc Sơn - xã Châu Hoá; chùa Yên Quốc Tự - xã Mai Hóa; xưởng Trần
Táo và làng Còi xã Đồng Hoá, nơi trung đoàn 18 được thành lập và nhiều
danh lam thắng cảnh đẹp… Đây chính là một trong những lợi thế lớn để
Tuyên Hóa đẩy mạnh phát triển ngành kinh tế du lịch và dịch vụ. [28, tr.1-3]
2.1.2. Tình hình giải quyết các vụ việc dân sự tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh
Quảng Bình.
Các quy định của BLTTDS về giải quyết vụ việc dân sự là cơ sở pháp
lý rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Theo số liệu Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng
Bình trong 05 năm gần nhất, tình hình thụ lý giải quyết vụ việc dân sự thể
hiện như sau:
- Năm 2013: Tòa án thụ lý 92 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 89 vụ, việc.
Đạt tỷ lệ: 96,7%.
- Năm 2014: Tòa án thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 77 vụ, việc.
Đạt tỷ lệ: 91,7%.
- Năm 2015: Tòa án thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 102 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 74,5%.
- Năm 2016: Tòa án thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 131 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 78,9%.
- Năm 2017: Tòa án thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 155 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 91,7%.
49
Nhìn chung, từ năm 2013 đến năm 2017 các vụ việc dân sự tăng lên
đáng kể cùng với sự thay đổi ngày càng phức tạp của tình hình kinh tế - xã
hội, tuy nhiên với sự tiến bộ về mặt lập pháp cũng như khả năng giải quyết án
của các cơ quan có thẩm quyền thì tỷ lệ giải quyết các vụ việc dân sự cũng
tăng lên đặc biệt giai đoạn từ năm 2015 - 2017 tỷ lệ giải quyết tăng từ 74,5%
lên 91,7%, giảm tỉ lệ án tồn đọng. [27, tr.1-6]
2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự
tại huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Thực hiện quyền tự định đoạt của nguyên đơn.
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng Bình từ năm 2013 đến năm 2017 tình hình đảm bảo quyền thể hiện
quyền tự định đoạt của nguyên đơn như sau:
- Năm 2013: Tổng số thụ lý 92 vụ, việc dân sự (Trong đó: 18 vụ, việc
tranh chấp dân sự, chiếm 19,6%; 73 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 79,3%;
01 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 1,1%).
+ Có 10 vụ án hôn nhân gia đình, nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa án
ra quyết đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 11,2%. Không có trường hợp
nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.
+ Có 54 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 38
vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 08 vụ hôn nhân và
gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, chiếm 51,7%; 08 vụ án tranh chấp dân sự, chiếm 9%, Tòa án ra
quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.
+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Xét xử xét xử 25 vụ án, chiếm 28,1%, trong đó:
50
* Có 04 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên
đơn, chiếm 16%.
* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.
* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.
* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [22, tr.1-3]
- Năm 2014: Tổng số thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Trong đó: 17 vụ, việc
tranh chấp dân sự, chiếm 20,2%; 67 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 79,8%.
+ Có 07 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Không có trường hợp nguyên đơn
thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.
+ Có 42 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 32
vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 10 vụ hôn nhân và
gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, chiếm 54,6%; 05 vụ án tranh chấp dân sự, chiếm 6,5%, Tòa án ra
quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự.
+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Xét xử xét xử 22 vụ án, chiếm 28,6%, trong đó:
* Có 02 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên
đơn, chiếm 9,1%.
* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.
* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.
* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [23, tr.1-2]
51
- Năm 2015: Tổng số thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Trong đó: 36 vụ, việc
tranh chấp dân sự, chiếm 26,3%; 97 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 70,8%;
03 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 2,2%; 01 vụ án tranh chấp hợp đồng
lao động, chiếm 0,7%.
+ Có 10 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 9,6%. Không trường hợp
nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.
+ Có 57 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 47
vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 10 vụ hôn nhân và
gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, chiếm 55,9%; 11 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định
công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 10,6%.
+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Xét xử xét xử 19 vụ án, chiếm 20,2%, trong đó:
* Có 03 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên
đơn, chiếm 14,3%.
* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.
* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.
* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn.
+ Tòa án ra quyết định giải quyết 05 việc dân sự, chiếm 4,8%. [24, tr.1-
2]
- Năm 2016: Tổng số thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Trong đó: 45 vụ, việc
tranh chấp dân sự, chiếm 27,1%; 113 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 68,1%;
08 vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 4,8%.
52
+ Có 13 vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chiếm 9,9%. Không trường hợp
nguyên đơn thay đổi yêu cầu, bổ sung yêu cầu.
+ Có 61 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 48
vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 13 vụ hôn nhân và
gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, chiếm 46,6%; 06 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định
công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 4,6%; 03 vụ án kinh doanh
thương mại được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự,
chiếm 2,3%.
+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Xét xử xét xử 41 vụ án, chiếm 31,3%, trong đó:
* Có 02 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên
đơn, chiếm 4,9%.
* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.
* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.
* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn.
+ Xét miễn giảm thi hành án dân sự 07 việc, chiếm 5,3%. [25, tr.1.2]
- Năm 2017: Tổng số thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Trong đó: 27 vụ, việc
tranh chấp dân sự, chiếm 16%; 131 vụ án hôn nhân gia đình, chiếm 77,5%; 11
vụ án kinh doanh thương mại, chiếm 6,5%.
+ Có 17 vụ án nguyên đơn rút đơn khởi kiện, trong đó có 16 vụ án hôn
nhân và gia đình, 01 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định đình chỉ
53
giải quyết vụ án, chiếm 11%. Không trường hợp nguyên đơn thay đổi yêu
cầu, bổ sung yêu cầu.
+ Có 77 vụ án có sự thỏa thuận của các bên đương sự, trong đó có 57
vụ án hôn nhân và gia đình đương sự thỏa thuận Tòa án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của của đương sự, 20 vụ hôn nhân và
gia đình đoàn tụ thành Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, chiếm 49,7%; 04 vụ án tranh chấp dân sự, Tòa án ra quyết định
công nhân sự thỏa thuận của các đương sự, chiếm 2,6%; 05 vụ án kinh doanh
thương mại được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự,
chiếm 3,2%.
+ Không có vụ án nào Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ theo đơn yêu
cầu của nguyên đơn.
+ Xét xử xét xử 52 vụ án, chiếm 33,5%, trong đó:
* Có 05 vụ án tranh chấp dân sự có luật sư tham gia bảo vệ cho nguyên
đơn, chiếm 9,6%.
* Không có vụ án nào có đơn kháng cáo của nguyên đơn.
* Không có trường hợp khiếu nại nào của nguyên đơn.
* Không có vụ án nào nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của nguyên đơn. [26, tr.1-2]
Theo số liệu thống kê trong vòng 05 năm từ 2013 đến 2017 cho thấy
Tòa án đã rất chú trọng công tác đảm bảo cho nguyên đơn thực hiện quyền
thỏa thuận cũng như quyền được nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình thể hiện ở số lượng các vụ án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự, hòa giải thành tăng.
54
2.2.2. Thực hiện quyền của nguyên đơn trong hoạt động cung cấp chứng
cứ và chứng minh
- Năm 2013: Tòa án thụ lý 92 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 89 vụ, việc.
Đạt tỷ lệ: 96,7%. Trong đó:
+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt
100%;
+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó;
+ Có 06 trong tổng số 07 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu
trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, chiếm 85,7%;
+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [22, tr.1-3]
- Năm 2014: Tòa án thụ lý 84 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 77 vụ, việc.
Đạt tỷ lệ: 91,7%.
+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt
100%;
+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
55
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó;
+ Có 04 trong tổng số 06 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu
trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 66,7%;
+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [23, tr.1-2]
- Năm 2015: Tòa án thụ lý 137 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 102 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 74,5%.
+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt
100%;
+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó;
+ Có 07 trong tổng số 08 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu
trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 87,5%;
+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [24, tr.1-2]
- Năm 2016: Tòa án thụ lý 166 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 131 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 78,9%.
56
+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt
100%;
+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó;
+ Có 13 trong tổng số 15 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu
trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 88,7%;
+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [25, tr.1-2]
- Năm 2017: Tòa án thụ lý 169 vụ, việc dân sự. Giải quyết: 155 vụ,
việc. Đạt tỷ lệ: 91,7%.
+ Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như giải quyết vụ án đạt
100%;
+ Không có trường hợp nguyên đơn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho
mình; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự
mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất
trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó;
57
+ Có 23 trong tổng số 25 vụ án tranh chấp dân sự nguyên đơn yêu cầu
trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản, đạt tỷ lệ 92%;
+ Đảm bảo 100% nguyên đơn được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. [26, tr.1-2]
2.2.3. Thực hiện các quyền khác của nguyên đơn.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng
Bình, Tòa án đã đảm bảo quyền của nguyên đơn về quyền nhận thông báo
hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Từ năm 2013 đến năm 2017
Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã tiến hành thụ lý giải
quyết rất nhiều các vụ án, vụ việc dân sự. Chính vì vậy để đảm bảo quyền
nhận thông báo hợp lệ của nguyên đơn là rất quan trọng, ý thức được điều
này, Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã quán triệt phải
chú trọng công tác chuyển giao các văn bản tố tụng cho người tham gia tố
tụng nói chung và nguyên đơn nói riêng để họ kịp thời nắm bắt quá trình giải
quyết vụ án, vụ việc mà mình tham gia, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự được Tòa án nhân dân huyện Tuyên
Hóa đảm bảo thực hiện đúng theo quy định, tất cả các trường hợp yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong các vụ án, vụ
việc dân sự trên địa bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trong những năm
qua đều được Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm
quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo
quy định của Luật được thực hiến đúng và đầy đủ.
Quyền tham gia phiên tòa; quyền tranh luận tại phiên tòa trong các vụ
việc dân sự được Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa bảo đảm thực hiện đầy
đủ, đạt tỷ lệ 100%. Tất cả những người tham gia tố tụng, có liên quan đến vụ
58
việc dân sự đều được Tòa án bảo đảm quyền được tham giam phiên tòa,
quyền được trình bày ý kiến, tham gia tranh luận tại phiên tòa để làm sáng tỏ
những nội dung của vụ án, giúp Tòa án có cái nhìn khách quan, giải quyết vụ
việc đúng theo quy định của pháp luật. [27, tr.1-6]
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Kết quả đạt được
Qua số liệu các năm đã thống kê cho thấy các vụ việc dân sự tăng về số
lượng và ngày càng phức tạp. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án nhân
dân huyện Tuyên Hóa đã giải thích cho các đương sự đặc biệt là nguyên đơn
hiểu rõ các quyền của mình, tạo điều kiện để các bên hòa giải với nhau bảm
đảm quyền được thỏa thuận giữa các bên, kết quả trong lĩnh vực hôn nhân gia
đình tỷ lệ án được ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự,
án đình chỉ do nguyên đơn rút đơn khởi kiện có chiều hướng tăng qua các
năm. Tòa án đã cơ bản đảm bảo được đường lối cũng như thời hạn xét xử, bảo
vệ quyền lợi ích chính đáng của đương sự cũng như nguyên đơn; thu thập
chứng cứ đúng trình tự thủ tục tố tụng. Đã khắc phục tốt tình trạng bản án
tuyên không rõ ràng; thực hiện kịp thời việc gửi bản án, quyết định cho các
chủ thể liên quan. Tòa án đã chú trọng nguyên tắc tự định đoạt và tự nguyện
thỏa thuận của đương sự trên cơ sở pháp luật qui định. Quá trình thụ lý và giải
quyết các vụ việc dân sự Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã có nhiều biện
pháp hỗ trợ bảo đảm cho nguyên đơn thực hiện quyền của mình như hướng
dẫn về cách thức, trình tự viết đơn khởi kiện và thông báo về việc giao nộp
các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện đối với từng vụ việc cụ thể,
thực hiện việc giải thích rõ quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn, tạo điều kiện
thuận lợi để nguyên đơn thực hiện tốt quyền khởi kiện của mình. Quá trình
giải quyết đã đảm bảo cho nguyên đơn được trình bày hết những chứng cứ, tài
liệu liên quan đến vụ việc cũng như các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự
59
khác giao nộp. Đảm bảo cho nguyên đơn được quyền có Luật sư bào chữa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Sau khi ra các quyết định và bản
án Tòa án đã giải thích rõ cho nguyên đơn quyền kháng cáo của mình, tỷ lệ
kháng cáo trong các vụ án tranh chấp dân sự cao.
Tuy nhiên, nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS
về quyền của nguyên đơn tại Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa cũng cho
thấy những hạn chế, bất cập, vướng mắc nảy sinh.
2.3.2. Hạn chế.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định về quyền của
nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy những hạn chế, bất
cập sau đây:
- Sự thiếu hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về điều kiện khởi kiện
dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được thụ lý hoặc mất quyền khởi kiện.
Thực tiễn thụ lý các vụ án dân sự cho thấy nhiều trường hợp do nhận
thức, hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về các điều kiện khởi kiện còn hạn
chế dẫn đến việc nguyên đơn thực hiện các quyền của mình không đúng,
không được đầy đủ. Chẳng hạn như nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng đơn
khởi kiện không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, thiếu
những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện hoặc nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện không đúng Toà án có thẩm quyền, người viết đơn khởi kiện
không có đủ tư cách pháp lý khởi kiện nhưng vẫn thực hiện việc khởi kiện tại
Toà án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cho thấy không ít các trường hợp, do
nguyên đơn không biết được các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi
kiện. Do vậy, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Toà án thì thời hiệu khởi
kiện đã hết. Khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do hết thời hiệu khởi kiện
thì nguyên đơn do thiếu hiểu biết pháp luật lại cho rằng Tòa án đã gây khó dễ
cho họ và khiếu nại nhiều lần.
60
- Sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ,
tài liệu dẫn tới khó khăn cho nguyên đơn trong việc cung cấp tài kiệu, chứng
cứ.
Về nguyên tắc, khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ vào
sổ nhận đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy
vẫn còn có những trường hợp khi nhận đơn khởi kiện, cán bộ nhận đơn xét
thấy đơn khởi kiện của nguyên đơn về hình thức và nội dung không theo đúng
quy định của pháp luật hoặc còn thiếu các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc
thụ lý vụ án. Toà án đã yêu cầu nguyên đơn bổ sung chứng cứ, tài liệu ban
đầu để có thể thụ lý vụ án nhưng nguyên đơn không thể bổ sung được do cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ các tài liệu, chứng cứ này không có thiện
chí cung cấp cho nguyên đơn. Trong khi đó, theo pháp luật hiện hành thì
đương sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án can thiệp sau khi vụ án đã được Toà án
thụ lý và nguyên đơn phải xuất trình được cho Toà án văn bản trả lời của cá
nhân, cơ quan, tổ chức đó về lý do của việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu
cho nguyên đơn. Thực tế này đã dẫn tới việc nguyên đơn không thể thực hiện
được quyền khởi kiện của mình, thậm chí mất quyền khởi kiện do thời hiệu
khởi kiện đã hết.
- Toà án thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp,
bỏ sót người tham gia tố tụng dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét.
Thực tiễn thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự cũng cho thấy nhiều
trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án nhận đơn, lẽ ra Toà án
này phải chuyển đơn khởi kiện tới Toà án có thẩm quyền nhưng do không
nắm vững các quy định về điều kiện thẩm quyền theo cấp và theo lãnh thổ
nên Toà án nhận đơn vẫn thụ lý vụ án. Việc thụ lý không đúng thẩm quyền
dẫn tới Toà án đã thụ lý phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền
làm cho yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét giải quyết. Ngoài ra, hiện
61
tượng xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, giải quyết vụ án
không đúng thẩm quyền, bỏ sót người tham gia tố tụng, vi phạm về thành
phần hội đồng xét xử, vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn tồn tại dẫn tới Toà án
cấp trên phải huỷ án để xét xử lại làm cho việc thực hiện quyền khởi kiện bị
chậm trễ.
- Vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết do Tòa án lạm dụng lý do tạm
đình chỉ vụ án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nguyên đơn.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm
ngưng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những
căn cứ do pháp luật quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn Tòa
án lại tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đó.
Quá trình triển khai thi hành BLTTDS năm 2015 thời gian qua, nhìn
chung khá thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng một số điều luật của
Bộ luật này có sự dẫn chiếu đến nội dung của điều luật khác có liên quan do
chưa có quy định rõ ràng nên sẽ phát sinh bất cập, từ đó, việc hiểu và áp dụng
không thống nhất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
đặc biệt là nguyên đơn, cụ thể sau:
Tại điểm đ, khoản 1, Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định về các
trường hợp tạm đình chỉ vụ án dân sự: “Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây: đ) Cần đợi kết quả
thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ
chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được
vụ án;”
So với quy định tại khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011) trước đây, thì hiện nay Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án, khi cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc đợi cơ quan,
tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết
62
được vụ án, mà không phải phụ thuộc vào điều kiện thời hạn giải quyết vụ án
đã hết.
Nghĩa là, nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án ra quyết định ủy
thác hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cung cấp tài liệu, chứng cứ
để giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 93, 94 BLTTDS năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011), thời hạn tiến hành thực hiện ủy thác thu thập chứng
cứ là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác; 15 ngày đối với cá
nhân, cơ quan, tổ chức khi nhận được yêu cầu của Tòa án hoặc Viện kiểm sát,
nhưng đến khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 179
BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) mà Tòa án vẫn chưa nhận được
kết quả ủy thác hoặc tài liệu chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án sẽ ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả, khi nào có kết quả Tòa án
sẽ ra thông báo tiếp tục giải quyết vụ án.
Còn tại điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định: Cần
đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải
quyết được vụ án. Điều này cho phép, nếu trong quá trình chuẩn bị xét xử,
Tòa án ra quyết định ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại
Điều 105, Điều 106 BLTTDS năm 2015, thì không cần phải chờ hết thời hạn
chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015 Tòa án có thể
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án ngay.
Việc áp dụng Điều 214 BLTTDS năm 2015 sẽ cho thấy một bất cập
phát sinh, đó là, dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quy định tại Điều 214
BLTTDS năm 2015 để Tòa án ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án. Chủ
yếu các quyết định tạm đình chỉ đều có lý do chờ kết quả ủy thác tư pháp, ủy
thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ.
63
Do vụ án được tạm đình chỉ, khi có căn cứ phục hồi, Tòa án ra thông
báo tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết và thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định
tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.
Như vậy, nhiều vụ án sẽ bị kéo dài thời gian giải quyết một cách không
cần thiết, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, đặc biệt là
nguyên đơn.
- Việc thực hiện quyền "được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ
do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập" của nguyên đơn.
Đối với những nguyên đơn có Luật sư bảo vệ thì luật sư có quyền
nghiên cứu hồ sơ (Điều 76 BLTTDS) nên thông qua luật sư, nguyên đơn có
thể biết được những chứng cứ, tài liệu của bên kia cung cấp và những chứng
cứ tài liệu do Toà án thu thập. Còn nguyên đơn không có luật sư bảo vệ,
BLTTDS không quy định nguyên đơn có quyền "nghiên cứu hồ sơ". Vì vậy
việc thực hiện quyền này của nguyên đơn gặp không ít khó khăn.
- Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định việc tạm đình chỉ giải quyết
vụ án theo yêu cầu của đương sự cũng như của nguyên đơn.
Điều 70 BLTTDS năm 2015, quy định đương sự có rất nhiều quyền và
nghĩa vụ, mà theo đó, tại khoản 18 của Điều luật này ghi nhận quyền được
“Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật
này”. Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định các căn cứ mà theo đó, Tòa án
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Vấn đề đặt ra, với trường
hợp quy định tại khoản 18 Điều 70 BLTTDS năm 2015 có thuộc quy định tại
điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 không vẫn chưa có một văn
bản nào hướng dẫn cụ thể về điều này gây khó khăn trong việc đảm bảo
quyền được yêu cầu Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự.
64
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
- Sự thiếu hiểu biết pháp luật của nguyên đơn về các điều kiện khởi
kiện còn hạn chế dẫn đến việc nguyên đơn thực hiện các quyền của mình
không đúng, không được đầy đủ là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình
trạng yêu cầu khởi kiện chậm được thụ lý hoặc mất quyền khởi kiện. Điều
này xuất phát từ công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được
thực hiện có hiệu quả, nguyên đơn không biết trong một vụ kiện cần phải thực
hiện những hoạt động gì, chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ cần thiết để Tòa
án có thể nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án đó.
- Do sự thiếu hợp tác của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng
cứ, tài liệu dẫn tới khó khăn cho nguyên đơn trong việc cung cấp tài kiệu,
chứng cứ xuất phát từ việc thiếu các quy định về việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu phải có trách nhiệm cung cấp kịp thời
những chứng cứ, tài liệu đó để Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm cụ của
mình. Bên canh đó cũng do công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa
được chặt chẽ, làm cho hoạt động cung cấp tài liệu chứng cứ, phụ vụ cho vụ
việc không được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, gây ảnh hưởng tới việc đảm
bảo quyền của nguyên đơn và hoạt động của Tòa án.
- Toà án thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp,
bỏ sót người tham gia tố tụng dẫn tới yêu cầu khởi kiện chậm được xem xét là
do công tác xác minh ban đầu của Tòa án không được chú trọng, việc Tòa án
thụ lý không đúng, xác định sai quan hệ tranh chấp, bỏ sót người tham gia tố
tụng cũng xuất phát từ việc chủ quan, năng lực của cán bộ Tòa án. Chính vì
điều này làm cho thời gian giải quyết một vụ việc dân sự luôn kéo dài, việc
thực hiện quyền khởi kiện bị chậm trễ.
Ở đây chúng ta không xét tới những sai lầm của Toà án về nội dung vụ
việc nhưng những vi phạm về tố tụng của Toà án cũng có thể làm cho vụ án
65
bị xử đi xử lại nhiều lần làm cho quyền khởi kiện của nguyên đơn chậm được
thực hiện. Do vậy, những hiện tượng trên đây cũng cần được chấn chỉnh và
khắc phục để quyền khởi kiện của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện một
cách có hiệu quả.
- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm
ngưng việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những
căn cứ do pháp luật quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn Tòa
án lại tiếp tục giải quyết vụ án dân sự đó. Nguyên nhân của điều này cuất phát
từ quy định chưa được chặt chẽ của Luật trong việc quy định cụ thể các
trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, chưa có cơ chế
kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc thực hiện quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự của Tòa án. Chính vì nguyên nhân này làm cho việc giải quyết các
vụ án dân sự luôn bị kéo dài, gây ảnh hưởng tới quyền lợi của những người
tham gia tố tụng trong vụ án đó.
- Việc thực hiện quyền "được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ
do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập" của nguyên đơn còn
gặp nhiều bất cập và khó khăn. Nguyên nhân là do quy định của Bộ Luật tố
tụng dân sự chưa quy định về quyền được nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn
khi tham gia tố tụng mà không có luật sư bào chữa. Điều này xuất phát từ việc
chưa chú trọng về việc đảm bảo quyền của nguyên đơn khi tham gia tố tụng
trong một vụ việc dân sự.
- Việc Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án theo yêu cầu của đương sự cũng như của nguyên đơn là do pháp
luật chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể việc việc những trường hợp nào
đương sự yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì Tòa án phải ra
quyết định tạm đình chỉ, điều nàu gây khó khăn cho hoạt động của Tòa án,
làm cho việc giải quyết vụ án dân sự gặp nhiều khó khăn và luôn bị kéo dài.
66
Tóm tắt chương 2
Quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự được giải quyết ở
huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình trong nhưng năm qua, đặc biệt là giai
đoạn 2015 - 2017 ngày càng được nâng cao và chú trọng, phù hợp với các quy
định của pháp luật. Nguyên đơn được bảo đảm và thực hiện đầy đủ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng trong vụ việc dân sự. Các
cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án dân sự trên địa
bàn huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã thực hiện đúng và có hiệu quả
nhiệm vụ của mình, tôn trọng quyền của đương sự trong các vụ việc dân sự,
góp phần giải quyết có hiệu quả các vụ việc dân sự phát sinh trên địa bàn
huyện. Tuy nhiên bên cạnh đó không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng
Bình. Vì vậy Các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng cần đánh giá khách
quan, tiếp thu những thiếu sót, hạn chế trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự nhằm khắc phục có hiệu quả, đảm bảo quyền của nguyên đơn cũng như
giải quyết tốt các vụ việc dân sự trong thời gian tới.
67
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN
CỦA NGUYÊN ĐƠN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
DÂN SỰ TẠI HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Phương hướng đảm bảo thực hiện quyền của nguyên đơn trong giải
quyết các vụ việc dân sự.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nguyên
đơn trên cở sở các phương hướng sau đây:
Thứ nhất, phải thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới
và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đường lối của Đảng luôn là kim chỉ nam định hướng cho mọi hoạt
động của nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và mọi cá nhân thực hiện. Kịp
thời thể chế hoá đường lối, chính sách đổi mới của Đảng là một trong những
nhiệm vụ, đồng thời cũng là chìa khoá dẫn đến thành công của công tác xây
dựng hoàn thiện pháp luật. Pháp luật về tố tụng dân sự cũng như các quy định
về quyền của nguyên đơn cũng không nằm ngoại lệ đó.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong
đó có các quy định về tố tụng dân sự là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 24 tháng 05 năm
2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ/BCT “về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, hướng đến
2020”, đề ra mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng
và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần
68
quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,
xây dựng nàh nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền
tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa đất nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đề ra mục tiêu “Tiếp tục hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh
gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có phẩm chất năng lực đá ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ,
tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”.
Các quy định về quyền của nguyên đơn cần tuân theo các quan điểm
trên của Đảng và Nhà nước. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự cũng như các quy định cụ thể về
quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ việc dân sự.
Thứ hai, phải thể hiện được chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa;
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới
việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ 1994, Đảng ta đã khẳng định phương hướng xây dựng nhà nước ta
là nhà nước pháp quyền Việt Nam. Phương hướng này đã được chính thức
khẳng định trong các văn kiện của Đảng kể từ hội nghị đại biểu giữa nhiệm
kỳ khóa VII, đến văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và được thể
chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp 2013, đó là: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
69
vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước pháp quyền có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội
dung quan trọng nhất đó là sự ngự trị pháp luật, pháp luật là công cụ chủ yếu
và hiệu quả để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Pháp luật đóng vai trò như
những quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, định ra hành lang pháp lý cho
các quan hệ của toàn xã hội. Pháp luật về tố tụng dân sự nói chung và những
quy định về quyền của nguyên đơn nói riêng vừa phải đảm bảo tính công
bằng và thể hiện ý chí của nhân dân lao động. Trong khi đó, hệ thống pháp
luật nước ta nói chung và pháp luật về tố tụng dân sự cũng như các quy định
về quyền của nguyên đơn nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập. Sự chồng
chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản luật và thậm chí có nhiều lỗ hổng luật gây
cản trở trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự phát sinh, một số quan hệ
dân sự thậm chí không có luật điều chỉnh. Điều đó gây cản trở cho công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Vì vậy, một trong những yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất
lượng cao, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực
khách quan của cuộc sống. Để có được một hệ thống pháp luật như thế, đòi
hỏi phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện từng ngành luật, từng chế định pháp
luật làm cho các ngành luật, các chế định pháp luật phát triển đồng bộ, phù
hợp có tính khả thi. Trong đó có các quy định về quyền của nguyên đơn trong
giải quyết các vụ việc dân sự trong Bộ luật dân sự, đáp ứng kịp thời nhu cầu
giải quyết vụ án, giải quyết các quan hệ dân sự phát sính, phù hợp với điều
kiện cụ thể Việt Nam và xu hướng của nhân loại, các quy định về quyền của
nguyên đơn cũng chính là bảo vệ quyền của công dân, quyền con người. Có
như vậy xây dựng nhà nước pháp quyền mới sớm đạt kết quả.
70
Thứ ba, phải phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, các quốc gia muốn
phát triển không thể độc lập với bên ngoài,mà phải thiết lập các mối quan hệ
bang giao rộng rãi. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, chúng ta đã chú ý
hội nhập với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ… Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho
phép chúng ta tiếp thu học tập nhữg kinh nghiệm của các nước và vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam.
Để thực hiện thành công đường lối đối ngoại, yêu cầu đặt ra chúng ta
phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với
pháp luật của cộng đồng quốc tế. Theo Tiến sĩ Dương Đăng Huệ: Pháp luật
của Việt Nam không chỉ thể hiện được tính đặc thù của nền kinh tế xã hội
Việt Nam mà còn phải thể hiện được những thông lệ những quy định có tính
chất chung đã được nhiều nước thừa nhận. Không tuân thủ nguyên tắc này, thì
chúng ta về mặt lập pháp đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội
nhập khu vực và quốc tế.
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và
quốc gia. Kinh tế thị trường phát triển sẽ phát sinh nhiều giao dịch dân sự
cũng như là các quan hệ hôn nhân gia đình… phức tạp và rắc rối, để đảm bảo
cho quyền của các bên, đặc biệt là nguyên đơn khi tham gia vào giải quyết vụ
việc dân sự thì hệ thống pháp luật nói chung, BLTTDS quy định về quyền của
nguyên đơn nói riêng phải thường xuyên được hoàn thiện theo điều kiện thực
tế của Việt Nam và phù hợp với những giá trị, chuẩn mực chung của pháp luật
quốc tế.
Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về
quyền của nguyên đơn trong Bộ luật tố tụng dân sự nói riêng phải luôn chú ý
để đảm bào xích lại gần nhau giữa pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật
71
dân sự thế giới. Qua đó đảm bảo cho việc đảm bảo quyền của nguyên đơn khi
tham gia tố tụng dân sự được thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để.
3.2. Giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn trong giải quyết các vụ
việc dân sự.
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật
Để quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền của nguyên đơn được
thực hiện tốt trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn một số
quy định cụ thể hơn như sau:
Một là, Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định về quyền của nguyên đơn
trong giải quyết vụ án dân sự mà chưa quy định rõ về quyền của nguyên đơn
trong việc dân sự, sự thiếu hụt này đã gây không ít khó khăn cho đương sự
trong vụ việc dân sự khi họ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Vì vậy cần quy định bổ sung về nguyên đơn trong việc dân sự để họ có thể
bảo vệ quyền, lợi ích của mình một cách hiệu quả, tức là phải sửa đổi Điều
70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng quy định nguyên đơn trong việc dân
sự cũng như quy định các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ như các nguyên đơn
trong vụ án dân sự.
Hai là, hiện nay BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
và việc dân sự khác nhau, nhưng lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong
việc giải quyết giữa các vụ việc dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa quá trình
giải quyết các vụ việc cụ thể, gây khó khăn cho đương sự cũng như nguyên
đơn trong việc định đoạt bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình vì vậy cần
quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải quyết giữa các vụ việc dân sự để
đơn giản hóa quá trình giải quyết.
Ba là, BLTTDS cần quy định nguyên đơn được toà án triệu tập vắng
mặt có lý do chính đáng lần thứ bao nhiêu cũng phải hoãn để triệu tập lần thứ
tiếp theo để bảo đảm quyền tham gia của đương sự.
72
Bốn là, trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên toà sơ
thẩm thì Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của nguyên
đơn đã rút đơn, còn Toà án vẫn giải quyết các yêu cầu của các nguyên đơn
khác (nếu có).
Năm là, về quyền của nguyên đơn BLTTDS quy định còn mâu thuẫn và
chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện không thống nhất ví dụ như Điều
218 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, nhưng không giải
thích cụ thể “vượt quá” ở đây là như thế nào. Với việc quy định như trên đã
hạn chế quyền tự định đoạt của nguyên đơn, không những gây khó khăn cho
nguyên đơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình mà có thể tạo ra thành
nhiều vụ án khác nhau bởi nguyên đơn không được thay đổi, bổ sung yêu cầu
theo hướng vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu ở tại phiên tòa thì họ sẽ phải
khởi kiện ở vụ án khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vậy nên
cần quy định rõ “vượt quá” phạm vi yêu cầu khởi kiện là như thế nào.
Sáu là, về nguyên tắc nguyên đơn phải là chủ thể được giả thiết có
quyền lợi bị tranh chấp hay vi phạm, tuy nhiên luật thực định thừa nhận quyền
khởi kiện vụ án dân sự của các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc
lĩnh vực mình phụ trách và tư cách nguyên đơn của các chủ thể. Tuy nhiên,
trong trường hợp cơ quan dân số - gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ yêu
cầu hủy hôn nhân trái luật giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ,
hôn nhân vi phạm độ tuổi hoặc chế độ một vợ, một chồng (ngay cả khi người
được bảo vệ khước từ quyền được bảo vệ) thì thực chất việc thực hiện quyền
yêu cầu của các cơ quan này là vì lợi ích của pháp luật. Theo pháp luật hiện
hành thì những chủ thể này là người đại diện hợp pháp của đương sự chứ
không phải là nguyên đơn. Do vậy, cần phải sửa đổi pháp luật theo hướng quy
73
định các cơ quan tổ chức khởi kiện để duy trì trật tự của pháp luật cũng được
coi là nguyên đơn dân sự.
Bảy là, cần sửa đổi lại quy định tại Điều 214 BLTTDS 2015 về lý do ra
quyết định tạm đình chỉ. Việc áp dụng Điều 214 BLTTDS năm 2015 sẽ cho
thấy một bất cập phát sinh, đó là dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng các căn cứ
tạm đình chỉ để Tòa án ban hành quyết định tạm đình chỉ vụ án dẫn đến nhiều
vụ án sẽ bị kéo dài thời gian giải quyết một cách không cần thiết, gây ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, đặc biệt là nguyên đơn.
Tám là, cần có quy định để Tòa án tạo điều kiện cho đương sự cũng
như nguyên đơn biết được các tài liệu chứng cứ của nhau để đảm bảo cho
nguyên đơn được tiếp cận một cách nhanh nhất và có hiêu quả nhất cá tài liệu
chứng cứ của vụ án, từ đó chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Chín là, để đảm bảo quyền của nguyên đơn trong việc yêu cầu Tòa án
ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đồng thời để pháp luật
được hiểu và áp dụng được thống nhất, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần ban hành hướng dẫn theo hướng cụ thể các trường hợp nguyên đơn
được thực hiện quyền “Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án” theo
quy định tại khoản 18 Điều 70 BLTTDS năm 2015.
Mười là, bổ sung quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng.
Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định Toà án chỉ định người đại
diện cho nguyên đơn trong trường hợp nguyên đơn là người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự nhưng không quy định về việc chỉ định người đại diện
trong trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc là
người vắng mặt không có tin tức là một thiếu sót.
Thiết nghĩ, trong những trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng
lực hành vi dân sự hoặc vắng mặt không có tin tức mà không có người đại
74
diện thì việc chỉ định người đại diện cho họ là hết sức cần thiết. Do vậy, để
bảo đảm quyền của nguyên đơn, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung quyền
này theo hướng Toà án chỉ định người đại diện cho nguyên đơn trong cả
trường hợp nguyên đơn là người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc vắng
mặt không có tin tức.
Mười một là, sửa đổi quy định về điều kiện tham gia của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
nguyên đơn nhờ người trợ giúp tham gia giải quyết vụ việc.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 BLTTDS thì sự tham gia tố tụng
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phụ thuộc vào sự
chấp nhận của Tòa án. Quy định này đã làm phức tạp thêm thủ tục giải quyết
vụ việc dân sự, tạo ra cơ chế “xin cho” trong TTDS và gây khó khăn cho
nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong
việc thực hiện quyền khởi kiện.
Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi quy định về người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn theo hướng người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là người được nguyên đơn nhờ tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn mà không cần có sự
chấp nhận của Toà án.
Mười hai là, bổ sung, sửa đổi quy định về biện pháp hỗ trợ trong việc
bảo vệ, thu thập chứng cứ, tài liệu.
Sự trợ giúp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các chứng
cứ, tài liệu liên quan đến vụ án dân sự cũng là một bảo đảm quan trọng để
nguyên đơn có thể thực hiện được quyền của mình tại Toà án. Pháp luật quy
định các chứng cứ, tài liệu bắt buộc phải nộp kèm theo đơn kiện chỉ cần bao
gồm những chứng cứ, tài liệu đủ để xác định điều kiện thụ lý vụ án. Tuy
nhiên, xét về thực tế thì trong nhiều trường hợp những chứng cứ, tài liệu ban
75
đầu này lại không do nguyên đơn nắm giữ và cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ các chứng cứ tài liệu này lại không hợp tác với nguyên đơn,
dẫn tới việc thực hiện quyền của nguyên đơn là hết sức khó khăn.
Từ phân tích trên, chúng tôi kiến nghị bổ sung vào BLTTDS quy định
về quyền yêu cầu Toà án can thiệp ngay lập tức (không cần chờ đợi văn bản
trả lời lý do không cung cấp của các chủ thể này) trong việc thu thập các
chứng cứ, tài liệu đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ và chế
tài áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức này nếu việc từ chối cung cấp
của họ là không có lý do chính đáng.
Như vậy, Điều 385 BLTTDS cần được sửa đổi theo hướng: Cá nhân, cơ
quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ, tài liệu liên
quan tới vụ án cho đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của đương sự hoặc Toà án hoặc có hành vi cản trở hoạt động xác
minh, thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng dân sự thì tuỳ theo mức
độ vi phạm có thể bị Toà án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành
chính hoặc khởi tố về hình sự theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy theo pháp luật
hiện hành thì nguyên đơn chỉ có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ chứng cứ, tài
liệu cùng với việc nộp đơn khởi kiện. Quy định này không đủ hiệu quả để
ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài liệu nhằm gây khó khăn
cho việc thực hiện quyền của nguyên đơn. Từ phân tích này kiến nghị tiếp
theo là cần sửa đổi pháp luật theo hướng quy định về quyền yêu cầu Toà án
áp dụng các biện pháp khẩn cấp cần thiết trước khi nguyên đơn khởi kiện
nhằm bảo vệ bằng chứng, ngăn chặn kịp thời hành vi hủy hoại chứng cứ, tài
liệu tạo cơ sở cho việc thực hiện quyền của nguyên đơn tại Toà án.
76
Mười ba là, bổ sung quy định về cơ chế bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ đối
với Thẩm phán nhằm tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.
Sự độc lập, vô tư khách quan của Tòa án được ghi nhận như những
nguyên tắc quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có các quyền
của nguyên đơn (Điều 11 và Điều 16 BLTTDS). Tuy nhiên, để bảo đảm sự
độc lập của Thẩm phán, hội thẩm nhân dân thì việc ghi nhận bằng pháp luật
như trên vẫn chưa đủ mà cần phải có thêm những cơ chế hỗ trợ khác như về
cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, chế độ đãi ngộ.
Từ phân tích này chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định về chế độ bổ
nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời và chỉ bị bãi miễn nếu vi phạm
nghiêm trọng pháp luật hoặc không đủ tư cách để tiếp tục hành nghề. Ngoài
ra, các quy định về một chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với người làm nghề Thẩm
phán và cơ chế giám sát, kỷ luật cũng được xem là một giải pháp để bảo đảm
thực thi quyền khởi kiện từ phía Toà án.
3.2.2. Nâng cao trình độ Thẩm phán và các cán bộ Tòa án.
Để hạn chế những vi phạm trong hoạt động áp dụng các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự nói chung và các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự về quyền của nguyên đơn trong vụ án dân sự nói riêng, chúng ta cần phải
không ngừng đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác
cho đội ngũ Thẩm phán cũng như các cán bộ Tòa án để từ đó họ có thể thực
hiện tốt các quyền, nghĩa vụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương
sự đặc biệt là nguyên đơn khi tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án
dân sự.
Do hiện nay trên thực tế rất nhiều thẩm phán yếu kém về chuyên môn
nên thường xét xử không đúng theo yêu cầu của nguyên đơn cũng như không
đảm bảo cho nguyên đơn thực hiện triệt để các quyền của mình. Nên bảo đảm
77
cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng, đủ, hiệu quả, đảm bảo cho quyền của
nguyên đơn được thực hiện tối đa thì việc bồi dưỡng chuyên môn ngiệp vụ
của các thẩm phán một cách chuyên nghiệp, đồng đều về năng lực giữa các cơ
quan, đáp ứng được nhu cầu giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh ngày
càng nhiều, càng phức tạp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn là vấn đề cần thiết.
Với yêu cầu đặt ra như trên, cần tích cực triển khai thực hiện nhiều giải
pháp, như đẩy mạnh công tác đào tạo và tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, coi
đây là nhóm giải pháp mang tính đột phá. Tăng cường đội ngũ giảng viên, đầu
tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho và nghiên cứu đổi mới giáo trình, tài
liệu, phương pháp giảng dạy tại các trường đào tạo nghiệp vụ ngành Tòa án
để đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện
nay; đồng thời xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
ngành TAND đến năm 2020 với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận,
ngoại ngữ, tin học... Đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, công chức của
ngành, tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành và đào tạo bậc trên đại học. Đây
chính là tiền đề quan trọng để ngành TAND từng bước nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xử, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ
cán bộ, Thẩm phán, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa
chuyên”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành TAND trong tình hình mới.
3.2.3. Về thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ án dân sự
nhằm bảo đảm hơn quyền của nguyên đơn.
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì
nếu trong quá trình Tòa án giải quyết các việc dân sự không có tranh chấp mà
một bên hoặc các bên thay đổi sự thỏa thuận theo hướng có tranh chấp thì Tòa
78
án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự và hướng dẫn đương sự
làm đơn khởi kiện vụ án theo thủ tục chung.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì quy định này chưa thực sự bảo đảm
quyền khởi kiện của đương sự nhất là sau này pháp luật phát triển theo hướng
bổ sung các việc dân sự do các bên thoả thuận được và yêu cầu Toà án công
nhận. Bởi vì, hậu quả của quy định này là người có yêu cầu trước đó trong
việc dân sự nếu vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì sẽ phải làm lại toàn bộ
thủ tục khởi kiện từ đầu gây mất thời gian và tổn phí một cách không cần
thiết. Chẳng hạn, như đương sự yêu cầu công nhận thoả thuận về tài sản trong
một vụ tranh chấp thừa kế hoặc hợp đồng, yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn nếu một bên thay đổi yêu cầu theo hướng có tranh chấp thì đương sự sẽ
phải khởi kiện lại từ đầu. Do vậy, việc thiết lập một cơ chế chuyển hoá giữa
việc dân sự và vụ án dân sự trong BLTTDS là cần thiết.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc
bảo đảm quyền của nguyên đơn.
Quyền lực nếu không bị giám sát, kiềm chế sẽ dẫn tới lạm quyền. Do
vậy, việc ghi nhận quyền tham gia tố tụng của VKS ngay từ khi Tòa án thụ lý
vụ án cũng như việc dân sự là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền của
nguyên đơn không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia này sẽ hạn chế tối đa
việc quyền của nguyên đơn không được đảm bảo hoặc được thực hiện không
đúng, đồng thời thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời
kiến nghị, kháng nghị để quyền của nguyên đơn được bảo đảm thực hiện.
Để đạt được mục tiêu trên, trong công tác kiểm sát việc giải quyết các
vụ, việc dân sự, kiểm sát chặt chẽ các thông báo thụ lý vụ, việc dân sự và
thông báo trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn của Tòa án, theo dõi chặt chẽ
số vụ, việc thụ lý của Tòa án để rà soát, đối chiếu. Thực hiện nghiêm túc việc
tiếp nhận và nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa, nhằm phát hiện những vi
79
phạm về tố tụng, nắm chắc nội dung vụ, việc, quan hệ tranh chấp, yêu cầu của
nguyên đơn để phục vụ cho công tác xét xử. Tại phiên tòa, kiểm sát viên phải
thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật; thể hiện đúng vai
trò, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
tố tụng dân sự và xác định kháng nghị là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của công tác kiểm sát. Kịp thời ban hành những kiến nghị đối với cơ quan
Tòa án để khắc phục các vi phạm như: Việc chậm gửi các thông báo thụ lý,
bản án quyết định, chuyển giao hồ sơ cho Viện kiểm sát; chậm thời hạn đưa
vụ án ra xét xử... làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
ngành Kiểm sát dẫn đến làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự, đặc biệt là nguyên đơn.
3.2.5. Tăng cường tuyên truyền pháp luật trên địa bàn địa phương.
Theo kết quả khảo sát thực tiễn thì quyền của nguyên đơn không được
bảo đảm thực hiện trên thực tế là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết,
là do sự hạn chế, khiếm khuyết trong chính các quy định của pháp luật. Bên
cạnh đó việc không bảo đảm quyền của nguyên đơn còn có căn nguyên từ sự
thiếu hiểu biết của người dân về các kiến thức cơ bản liên quan đến việc thực
hiện quyền, sự sai sót của các Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dẫn
đến quyền của nguyên đơn không được thực hiện hoặc được thực hiện không
đầy đủ.
Thiết nghĩ, để khắc phục vấn đề này cần phải tăng cường hơn nữa công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tăng cường hoạt động của các tổ chức trợ
giúp pháp lý. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật giúp tất cả mọi người
có chiều sâu hiểu biết pháp lý, thực hiện tốt quyền của mình khi tham gia tố
tụng một cách hiểu quả nhất.
Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cần theo kế hoạch, chương
trình cụ thể với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm
80
đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và điều kiện của địa bàn thực
hiện để nhân dân ngày càng có điều kiện tìm hiểu pháp luật.
Thực hiện phong phú, đa dạng các hình thức tuyên truyền và phổ biến
kiến thức pháp luật như: Tuyên truyền miệng; biên soạn tài liệu phổ thông
dưới dạng hỏi đáp pháp luật, tình huống pháp luật; đưa pháp luật vào giảng
dạy trong trường học; tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin
đại chúng; xây dựng câu lạc bộ pháp luật; tủ sách pháp luật xã, phường, thị
trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học; thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền
pháp luật thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, thông qua tư vấn pháp luật,
trợ giúp pháp lý, thông qua các phiên toà xét xử công khai, lưu động...
3.2.6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra
Để bảo đảm thực hiện tốt các quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân
sự không thể không thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công
tác này. Nguyên đơn tham gia vụ việc dân sự xuyên suốt quá trình của một vụ
việc dân sự, chính vì vậy qua từng giai đoạn tố tụng của vụ việc, nguyên đơn
thực hiện những quyền cụ thể của mình khác nhau. Việc những quyền đó có
được tôn trọng và bảo đảm thực hiện đúng hay không thì cần phải thực hiện
những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cần phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra định kỳ thường
xuyên việc thực hiện, bảo đảm quyền của nguyên đơn trong vụ việc dân sự
thông qua việc kiểm tra hồ sơ vụ việc dân sự đó, từ đó kiến nghị khắc phục
những vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi
phạm việc bảo đảm quyền của nguyên đơn trong từ vụ việc dân sự cụ thể,
tránh lặp lại tình trạng đó trong các vụ việc dân sự tiếp theo.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức các cuộc họp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng trong các vụ việc dân sự xảy trên địa bàn để
phát hiện, trao đổi, rút kinh nghiệm và kiểm điểm vi phạm của từng cá nhân
81
cụ thể trong từng vụ việc, qua đó giúp cho các cơ quan, người tiến hành tố
tụng có trách nhiệm, tôn trọng và bảo đảm quyền của nguyên đơn được thực
hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.
82
Tóm tắt chương 3
Nguyên đơn trong vụ việc dân sự là một trong những chủ thể quan
trọng, để đảm bảo quyền của nguyên đơn trong các vụ việc dân sự được thực
hiện đúng và đầy đủ là trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, người tiến hành
tố tụng trong vụ việc dân sự. Để thực hiện tốt việc bảo đảm quyền của nguyên
đơn trong vụ việc dân sự trong cả nước nói chung và trên địa bàn huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng thì cần phải có những phương hướng,
giải pháp cụ thể, phù hợp, giúp cho nguyên đơn khi tham gia tố tụng trong vụ
việc dân sự luôn được bảo đảm quyền của mình. Chính vì vậy, tôi đề xuất
phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những thiếu sót,
hạn chế trong việc thực hiện quyền của nguyên đơn tại đại bàn huyện Tuyên
Hóa, tỉnh Quảng Bình, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về quyền của
nguyên đơn, và việc thực hiện, bảo đảm quyền đó trên thực tế.
83
KẾT LUẬN
Trong vụ việc dân sự, nguyên đơn được coi là chủ thể quan trọng, nếu
thiếu chủ thể này thì vụ việc dân sự không thể phát sinh. Có thể thấy nguyên
đơn trong vụ việc dân sự không những chỉ là người khởi kiện hay người được
cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của họ bị xâm phạm mà nguyên đơn trong vụ việc dân sự còn là cơ quan, tổ
chức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước
thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn
trong vụ việc dân sự mang tính chủ động hơn so với các đương sự khác. Hoạt
động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay
đình chỉ tố tụng của vụ việc. Việc Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu
lực là một kết quả quan trọng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế định
quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy phạm quy
định rõ ràng về các vấn đề pháp lý của nguyên đơn. Tuy nhiên chưa quy định
cụ thể quyền của nguyên đơn trong các việc dân sự, nên thực tiễn còn gặp
nhiều khó khăn trong việc xác định quyền của chủ thể này trong việc dân sư.
Vì vậy trong Luận văn này tôi đi sâu phân tích về quyền của nguyên đơn
trong vụ việc dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ việc dân sự tại
huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nói riêng. Điều này có ý nghĩa quan trọng
của việc xác định thành phần, tư cách nguyên đơn trong các vụ việc dân sự,
góp phần trong việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ dân sự chính đáng của họ và
đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải quyết các vụ việc dân sự một
cách chính xác, khách quan.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Công Bình (2005), "Các quy định về chứng minh trong TTDS",
Tạp chí luật học.
2. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học.
3. Nguyễn Việt Cường (2005), "Người tham gia tố tụng", Tạp chí Tòa án.
4. Nguyễn Triều Dương (2011), Đương sự trong TTDS - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học - Một số vấn đề của pháp luật tố
tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, Nxb tư pháp, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), "Những nguyên tắc tố tụng đặc trưng trong
BLTTDS", Tạp chí kiểm sát, số 1, tr.19-23.
9. Nguyễn Ngọc Khánh (2005), "Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong BLTTDS", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5, tr.64-66.
10. Nguyễn Văn Khuê (2004), "Một số ý kiến xung quanh vấn đề chứng
cứ", Tạp chí Kiểm sát.
Nghị quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự. 11.
Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành quy định của Nghị 12.
quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự
13. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Hà Nội. 14.
Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 15.
Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 16.
Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội. 17.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Bxb. 18.
Công an nhân dân, Hà Nội 2009.
Từ điển Luật học, Nxb Từ điển khoa học, Hà Nội, năm 2006. 19.
Tập bài giảng Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luât thành phố Hồ 20.
Chí Minh.
21. Trần Minh Tiến (2006), "Bản án dân sự sơ thẩm với nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự", Tạp chí nghề Luật, số 5.
22. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2013), Báo cáo công tác xét xử
năm 2013 - phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
23. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2014), Báo cáo công tác xét xử
năm 2014 - phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
24. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2015), Báo cáo công tác xét xử
năm 2015 - phương hướng nhiệm vụ năm 2016.
25. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2016), Báo cáo công tác xét xử
năm 2016 - phương hướng nhiệm vụ năm 2017.
26. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2017), Báo cáo công tác xét xử
năm 2017 - phương hướng nhiệm vụ năm 2018.
27. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá (2017), Báo cáo công tác xét xử 05
năm 2013 - 2017.
28. Uỷ ban nhân dân huyện Tuyên Hóa (2016), Báo cáo kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
Website:
29.http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1813
30. http://npklaw.com/en/articles/civil-articles/376-nguyen-tac-quyen-quyet-
dinh-va-tu-dinh-doat-cua-duong-su-trong-to-tung-dan-su-to-tung-hanh-
chinh.html
31. http://www.tamnhin.net.vn/dam-bao-quyen-tranh-luan-trong-to-tung-dan-
su-d1173.html
32. http://luatsuhongocdiep.vn/cafe-luat/thu-thap-chung-cu-va-quyen-khieu-
nai-cua-duong-su.html
33. http://www.Vietlaw.gov.vn
34. http://vietnamlawjoumal.com.vn
35. http://www.nclp.gov.vn
36. http://westlaw.com
37. http://toaan.gov.vn
Tiếng Anh
38. Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary.