BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
......../.......
................/...............
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙNG THỊ LOAN
QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
......../.......
................/...............
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙNG THỊ LOAN
QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.TRẦN THỊ DIỆU OANH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội
dung cũng như những số liệu trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Phùng Thị Loan
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ, bên cạnh sự hướng dẫn nhiệt tình
của quý Thầy Cô Học viện Hành chính quốc gia, sự nỗ lực cố gắng của bản
thân còn có sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu.
Lời đầu tiên tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Trần Thị
Diệu Oanh đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn
thành luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô Học viện
Hành chính quốc gia Hà Nội và phân viện Miền Trung; cô giáo chủ nhiệm lớp
LH3 - T2 đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho
đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, và
hoàn thiện đề tài luận văn thạc sĩ.
Học viên
Phùng Thị Loan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM
KHUYẾT TẬT ............................................................................................. 7
1.1. Trẻ em khuyết tật ..................................................................................... 7
1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật .................................................................... 16
1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền của trẻ em khuyết tật .... 26
1.4. Các bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .............................................. 30
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 38
Chương 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ QUYỀN TRẺ
EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................... 39
2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình .................................... 39
2.2.Thực trạng quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình ........................... 41
2.3. Đánh giá chung về quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình .............. 73
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 80
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM
KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH .................................................. 81
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình ........... 81
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình ....... 85
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 106
KẾT LUẬN ............................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ được viết tắt
CRPD Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật
CRC Công ước về quyền trẻ em
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng học sinh khuyết tật ở Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch từ năm học 2013 -2014 đến năm học 2017 – 2018. ................. 44
Bảng 2.2: Số lượng trẻ khuyết tật ................................................................. 47
được phổ cập giáo dục bậc mầm non năm 2016 ........................................... 47
Bảng 2.3: Số lượng trẻ khuyết tật được phổ cập giáo dục bậc tiểu học năm 2016 ............................................................................................................. 48
Bảng 2.4: Số lượng trẻ khuyết tật được phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở năm 2016...................................................................................................... 49
Bảng 2.5: Số lượng trẻ em khuyết tật thuộc địa bàn quản lý của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình...... 60
Bảng 2.6: Số lượng trẻ em khuyết tật tham gia phục hồi chức năng tại Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 61
Bảng 2.7: Bảng thống kê trang thiết bị của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ........................................... 62
Bảng 2.8: Bảng thống kê về mức độ tiếp cận nhà ở, trụ sở cơ quan nhà nước, công trình xây dựng của người khuyết tật năm 2016 .................................... 69
Bảng 2.9: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về giao thông tiếp cận cho người khuyết tật năm 2016 ..................................................................................... 70
Bảng 2.10: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về công nghệ thông tin- truyền thông cho người khuyết tật năm 2016 ........................................................... 72
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là nền tảng phát triển của xã
hội. Vì thế bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hôm nay chính là chúng ta
đang tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển
bền vững của đất nước trong tương lai. Các em cần được sống trong môi
trường sống an toàn, lành mạnh để có thể phát triển toàn diện về thể chất, trí
tuệ và tinh thần. Hơn nữa, trẻ em rất cần được quan tâm, dạy dỗ và giáo dục
vì tâm sinh lý các em chưa hoàn thiện, nhân cách chưa được định hình rõ ràng
và đầy đủ. Hơn ai hết, đây là đối tượng dễ bị tổn thương và cần được bảo vệ.
Trong đó, trẻ em khuyết tật là đối tượng cần được quan tâm hơn, vì những
thiếu thốn và thiệt thòi mà các em phải gánh chịu.
Sau khi tham gia ký kết các điều ước quốc tế về quyền con người nói
chung và quyền trẻ em nói riêng, đặc biệt là Công ước về Quyền của trẻ em
năm 1989 và Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 của Liên
hợp quốc, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các quy định của hệ thống pháp
luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật vào trong hệ thống pháp luật quốc
gia, đồng thời đẩy mạnh triển khai, thực thi chính sách bảo đảm quyền trẻ em
khuyết tật. Theo quy định tại Lời nói đầu của Công ước quốc tế về Quyền của
người khuyết tật rằng thừa nhận rằng trẻ khuyết tật cần được hưởng đầy đủ
các quyền và tự do cơ bản của con người một cách bình đẳng với các trẻ em
khác,pháp luật Việt Nam quy định trẻ em khuyết tật ở nước ta được hưởng
các quyền cơ bản như những trẻ em khác.Không những thế, xuất phát từ
những đặc điểm về tình trạng khuyết tật, các em còn được hưởng các chính
sách ưu đãi nhằm bù đắp những thiệt thòi mà các em phải gánh chịu vì những
lý do khác nhau, nhằm bảo đảm cho các em được bình đẳng và được đối xử
như mọi công dân trong xã hội.
Tuy nhiên trên thực tế, trẻ em khuyết gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc
1
sống: học tập, vui chơi, kỳ thị... Những khó khăn đó tác động qua lại lẫn
nhau, là nguyênnhân và kết quả của nhau do vậy chúng tạo thành một vòng
luẩn quẩn cho trẻ em khuyết tật. Tâm lý của trẻ em khuyết tật là mặc cảm, tự
đánh giá thấp bản thân mình so với những đứa trẻ bình thường khác. Các em
rất nhạy cảm hay mặc cảm ngoại hình, không muốn vươn lên, vượt qua và
hòa nhập. Trong đó, sự phân biệt đối xử của cộng đồng là nguyên nhân chính
làm cản trở trẻ em khuyết tật có cuộc sống tốt đẹp. Cản trở lớn nhất với trẻ em
khuyết tật là sự kỳ thị, đặc biệt là sự kỳ thị từ chính những người thân của
mình. Nó là rào cản vô hình làm cho trẻ khuyết tật ngày càng bị đẩy xa hơn
cuộc sống đời thường. Bên cạnh đó, trẻ em khuyết tật còn có nguy cơ bị bạo
hành, ngược đãi, bóc lột, bị đối xử vô trách nhiệm, trong khi đó việc tiếp cận
với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp phápcòn hạn chế. Theo kết quả nghiên cứu
trẻ em khuyết tật có nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực cao gấp 3-4 lần,
nguy cơ bạo hành về thể chất cao hơn 3,6 lần, nguy cơ bạo hành về tình dục
cao hơn 2,9 lần so với trẻ không khuyết tật. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật
thực sự phải đối diện với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, phải vượt qua
rất nhiều rào cản để có cơ hội được hòa nhập và được hưởng trọn vẹn những
quyền vốn có của mình. Trẻ em khuyết tật là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi
nhất, dễ bị tổn thương nhất và là đối tượng yếu thế nhất trong xã hội. Với
những trở ngại mà trẻ khuyết tật đang phải đối diện, trẻ khuyết tật rất cần
được thái độ tôn trọng, không kỳ thị của mọi người để có thể tự tin và vui
sống hơn; được quan tâm, chia sẻ và được bảo vệ bởi sự chung tay của toàn
xã hội.
Trong thời gian qua, quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình đã được
sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội và cộng
đồng. Tuy nhiên vẫn còn một số quyền của trẻ khuyết tật nhưng chưa được
thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả. Đây là vấn đề mang tính thời sự chính
trị và nhân văn sâu sắc trong xã hội hiện nay song sự quan tâm của cộng đồng
2
vẫn còn hạn chế. Nhằm nghiên cứu làm rõ thực trạng quyền trẻ em khuyết tật
ở Quảng Bình, từ đó đề xuất những biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình đồng thời giúp
trẻ em khuyết tật nhận thức đầy đủ về quyền của mình, xoá bỏ những mặc
cảm trong cuộc sống, vươn lên khẳng định mình và hòa nhập với cộng đồng,
tác giả chọn vấn đề "Quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình" làm
đề tài luận văn thạc sỹ. Nghiên cứu này giúp nâng cao nhận thức về quyền của
trẻ em khuyết tật, trách nhiệm của mỗi người và xã hội trong việc bảo đảm
quyền trẻ em khuyết tật nói chung và quyền trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình
nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện
nghiên cứu, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Tuy
nhiên, nghiên cứu về trẻ em khuyết tật, đặc biệt là quyền về trẻ em khuyết tật
chưa nhiều và chưa thực sự nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu.
Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên
cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau:
Về đề tài nghiên cứu khoa học có đề tài “Hoàn thiện pháp luật về đảm
bảo quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương” của Hoàng Thị Kim Quế
thực hiện năm 2010.
Về sách có “Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương” của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2011; sách
“Bảo trợ xã hội cho những nhóm người thiệt thòi ở Việt Nam” của nhóm tác
giả Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung,
Robert Leroy Bach xuất bản năm 2005.
Về báo cáo có “Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật
3
pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của
người khuyết tật” của tác giả Eric Rosenthal thực hiện năm 2009, báo cáo
“Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật tại Việt Nam” của Ban điều phối các
hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD năm 2010, báo cáo “Phân
tích tình hình trẻ em tại Việt Nam” do UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác
với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em năm 2010.
Về luận văn có đề tài “Bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay” của Trần Thị Huyền Trang thực hiện năm 2014 nghiên cứu về thực
trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
Về luận án có đề tài “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam
hiện nay” của Tăng Thị Huyền Trang thực hiện năm 2016 nghiên cứu về thực
trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt
Nam hiện nay.
Những đề tài trên đã có những đóng góp lớn cho việc nghiên cứu và
thực hiện quyền trẻ em khuyết tật tại Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay chưa
có đề tài nghiên cứu nào về quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình trong thời
điểm hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đề tài sẽ góp phần
làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm
kiến thức về bảo đảm quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em
khuyết tật nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền và bảo đảm
quyền trẻ em khuyết tật. Tìm hiểu thực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại
Quảng Bình và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Từ đó đề xuất
những biện pháp khả thi nhằm bảo đảm tốt nhất những quyền cơ bản của trẻ
em khuyết tật tại Quảng Bình.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và bảo đảm quyền trẻ em
khuyết tật bao gồm khái niệm, đặc điểm, các quyền trẻ em khuyết tật, các bảo
đảm quyền trẻ em khuyết tật, nghiên cứu quy định pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế về quyền trẻ em khuyết tật.
Nghiên cứuthực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. Đánh gía
những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
Đề ra các giải pháp khả thi nhằm bảo đảm tốt nhất những quyền cơ bản
của trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quyền của trẻ em khuyết tật.
Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt không gian, luận văn nghiên cứu về quyền trẻ em khuyết tật tại
tỉnh Quảng Bình.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình bảo đảm
quyền của trẻ em khuyết tật tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chung: Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm
về quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng ở
Việt Nam và trên thế giới.
Phương pháp nghiên cứu riêng: phân tích, tổng hợp, xã hội học, thống
kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng thời học hỏi
kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền của trẻ em
khuyết tật.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu này giúp nâng cao hiểu biết của các thành viên trong xã hội
về thực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình, qua đó giúp cộng đồng
nhận thức đúng đắn về hoạt động an sinh xã hội cụ thể cho đối tượng trẻ em
khuyết tật Quảng Bình, thúc đẩy các cơ quan ban ngành có thẩm quyền tại
Quảng Bình thực thi các chính sách về quyền trẻ em khuyết tật một cách tốt
nhất;kêu gọi giúp đỡ, tài trợ từ cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, qua đó
giúp trẻ em khuyết tật có cơ hội hòa nhập cuộc sống.
Đề tài khoa học khi hoàn thiện sẽ là một sản phẩm có giá trị về cả lý
luận và thực tiễn. Đề tài có thể áp dụng được trong nhiều lĩnh vực của xã hội
như giáo dục, an sinh xã hội.. làm tiền đề cho nhiều nghiên cứu khác có mục
đích tương tự. Các trung tâm trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình và những
nơi có điều kiện tương tự cũng như chính quyền địa phương có thể tham khảo
để tổ chức các hoạt động bảo đảm cũng như góp phần thực hiện chính sách
bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm các
chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền của trẻ em khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng trẻ em khuyết tật và quyền của trẻ em khuyết tật
ở tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết
tật ở Quảng Bình
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Trẻ em khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Trong xã hội, trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất
nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong điều kiện tốt nhất là
nhiệm vụ của toàn xã hội và là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm an sinh xã hội, vì mục
tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Hơn nữa trẻ em là một trong
những đối tượng yếu thế nhất cần phải được quan tâm đầu tư. Do đó việc xác
định đối tượng nào được gọi là trẻ em là cơ sở để thực hiện và phát huy sự
quan tâm đó.
Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử
dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1
Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 (Convention on the
Rights of the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ
em tính đến thời điểm này quy định: “Trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn”. Tại Điều 2 trong Công ước số 182 – Công ước
nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất, năm 1999 có quy định: “Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ
được áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi. Như vậy có thể khẳng
định Công ước đã căn cứ vào độ tuổi để đưa ra khái niệm trẻ em. Tuy nhiên
quy định này của Công ước là quy định mang tính mềm dẻo, tức là quy định
về độ tuổi này không phải áp dụng bắt buộc cho tất cả các quốc gia thành viên
mà tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của mỗi nước sẽ có những quy
định khác nhau về khái niệm trẻ em (quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn).
7
Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay trong lời nói đầu của Công ước đã
nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như
sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những người có đầy đủ các điều kiện sau:
Một là, trẻ em phải là người còn non nớt về thể chất và trí tuệ;
Hai là, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt (kể cả về mặt pháp lý)
Ba là, trẻ em là người dưới 18 tuổi.
Việt Nam là nước chính thức đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên
thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Trên cơ sở quy định
của Công ước, Việt Nam đã tiến hành nội luật hóa các quy định của Công ước
về quyền trẻ em trong các văn bản pháp luật quốc gia về quyền trẻ em, trong
đó có khái niệm về trẻ em. Theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2017
quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy, quy định về độ tuổi được
coi là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn 2 tuổi so với quy định trong
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái
với CRC vì Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định
độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi
là người chưa thành niên”. Với quy định này có thể hiểu rằng, người chưa đủ
18 tuổi là người chưa trưởng thành và cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi
vẫn là trẻ em. Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật Lao động năm 2012 quy
định: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động,
làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động”. Theo quy định trên thì người lao động có
thể là người chưa thành niên, nói cách khác có thể vẫn còn là trẻ em.
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có khái niệm đầy đủ
về trẻ em cũng như chưa có điều khoản quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ
8
em. Tuy nhiên trẻ em là đối tượng được hưởng mọi quyền được quy định tại
Công ước về quyền trẻ em mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm
khác, địa vị, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương
quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về
mọi vấn đề liên quan đến bản thân mình. Bên cạnh đó, có thể ngầm hiểu rằng
khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt Nam hẹp hơn khái niệm người chưa
thành niên, bởi người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ
đủ 16tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật
Công ước nhân quyền đầu tiên của thế kỷ thứ 21, Công ước về Quyền
của Người khuyết tật (CRPD), đã được Liên hợp quốc thông qua vào ngày 13
tháng 12 năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 4 tháng 5 năm 2008. Từ đó đến
nay, công ước đã được mau chóng công nhận khắp nơi trên thế giới. Đến thời
điểm ngày 1 tháng 12 năm 2009, đã có 143 quốc gia ký vào CRPD và 74 quốc
gia đã phê chuẩn thực hiện. Khi một nước “phê chuẩn” hay “tham gia vào”
công ước, nước đó đã chấp nhận công ước là luật ràng buộc. Ký kết vào công
ước là bước đầu tiên tiến đến phê chuẩn, việc đó thể hiện một cam kết chính
trị là quốc gia sẽ không hành động trái ngược và có hại tới tới “đối tượng và
mục đích” của công ước. Để chuẩn bị cho việc phê chuẩn, Cao ủy Liên hợp
quốc kiến nghị cần phải rà soát cả luật pháp và cả chính sách xem có tuân thủ
với CRPD hay không. Trong cố gắng đó, Cao ủy Liên hợp quốc kiến nghị
rằng các chính phủ nên bàn thảo với xã hội dân sự, kể cả các tổ chức đại diện
cho người khuyết tật. Trên cơ sở phê duyệt CRPD, các cơ quan nhà nước
không chỉ có nghĩa vụ chấm dứt những cách làm có tính chất phân biệt đối xử
người khuyết tật, mà còn khẳng định chắc chắn nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cần
9
thiết cho người khuyết tật để họ tham gia và xã hội trên cơ sở bình đẳng với
những người không bị khuyết tật.
Công ước CRPD rút ra nhiều kinh nghiệm quốc tế để khuyến khích áp
dụng những các thực hiện hay và hỗ trợ các quốc gia thành viên chú trọng đến
các bước họ cần thực hiện để bảo đảm bảo vệ nhân quyền và để người khuyết
tật được tham gia đầy đủ vào xã hội. CRPD cũng đòi hỏi các chính phủ không
chỉ chuyển đổi luật pháp, chính sách và cách làm mà còn phải tăng cường
thực hiện. CRPD công nhận rằng các quốc gia có quyền “thực hiện liên tục
dần” những quyền con người đó sau một thời gian. Luật pháp về nhân quyền
quốc tế, tuy thế, đòi hỏi rằng các quốc gia thành viên áp dụng các chính sách
ngay lập tức để đặt quốc gia lên con đường tiến lên thực hiện đầy đủ những
quyền đó.
Bản thân văn bản CRPD không có định nghĩa khuyết tật, nhưng đó là
để áp dụng cho “những người khiếm khuyết lâu ngày về thể chất, thần kinh,
trí tuệ hoặc các giác quan mà khi tác động tương hỗ với những rào cản khác
nhau có thể gây cản trở cho việc tham gia hiệu quả và đầy đủ vào xã hội, trên
cơ sở bình đẳng với những người khác.” CRPD đặc biệt loại ra mô hình y tế
về khuyết tật coi một người khuyết tật là một bệnh nhân cần điều trị hoặc cần
từ thiện. Thay vào đó, CRPD công nhận “mô hình xã hội” của khuyết tật.
Theo mô hình xã hội này, khuyết tật là một phần của trải nghiệm nhân loại;
khuyết tật tự nó không giảm bớt quyền của trẻ em và người lớn được lựa chọn
và kiểm soát cuộc đời mình, được sống và được dịch vụ trong một môi trường
hòa nhập, được tham gia đầy đủ và đóng góp cho cộng đồng của mình thông
qua kết nhập và hòa nhập đầy đủ vào dòng chảy cuộc sống về kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa và giáo dục. Hơn thế nữa, mô hình xã hội, như CRPD thừa
nhận, đặt trách nhiệm lên toàn xã hội (chứ không phải lên cá nhân người
khuyết tật) phải tháo dỡ những rào cản thái độ đang “làm khuyết tật” những
10
con người có chút khiếm khuyết và cản trở họ thực hiện quyền của họ, cản trở
họ hòa nhập đầy đủ vào xã hội.
Bằng việc ký kết CRPD, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định cam kết
của mình là đưa luật pháp và tập quán quốc gia phù hợp với Công ước quốc tế
về người trong công tác chuẩn bị đệ trình CRPD cho Quốc hội để phê chuẩn.
Như vậy, Việt Nam đã bắt đầu soạn thảo luật để đưa quốc gia mình vào tuân
thủ với CRPD. Luật Người khuyết tật được ban hành là một trong những
minh chứng cho nỗ lực thực hiện cam kết của Việt Nam. Tại khoản 1, Điều 2,
Luật Người khuyết tật 2010 khẳng định khái niệm người khuyết tật là người
bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn.
Như vậy, trên cơ sở khái niệm về người khuyết tật nói chung thì có thể
thấy trẻ em khuyết tật cũng được coi là người khuyết tật nhưng hẹp hơn khái
niệm về người khuyết tật vì bị giới hạn ở độ tuổi dưới 16 và được coi là đối
tượng thiệt thòi nhất. Từ đó có thể đưa ra khái niệm trẻ em khuyết tật là
những người từ 0 đến 16 tuổi bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ
1.1.3.1. Nguyên nhân do môi trường sống
Một là, do môi trường sống bị ô nhiễm. Môi trường sống có tác động
rất lớn đến chất lượng cuộc sống của con người, trong đó trẻ em là đối tượng
dễ bị tổn thương nhất. Cơ thể trẻ con đang trong quá trình hình thành, phát
triển, vì thế các tế bào non nớt của chúng rất dễ tiếp thu các chất độc hại do ô
nhiễm môi trường gây ra. Thậm chí chúng dễ bị tổn thương nhất ngay từ giai
đoạn phôi thai, kể cả với những phụ nữ khỏe mạnh nhưng nếu sống trong môi
11
trường độc hại vẫn có thể sinh con bị mắc nhiều bệnh lý khác nhau, dẫn đến
tình trạng khuyết tật của trẻ.
Hai là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng
là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở
Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc
diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra
tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi
nhiễm chất độc này.
Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác của môi trường sống như:
đói nghèo, bệnh tật chưa chấm dứt; sử dụng thuốc chữa bệnh bữa bãi gây
nhiễm độc; thay đổi chế độ ăn uống và hoàn cảnh sống; các bệnh xã hội...
Trong đó một trong những nguyên nhân khá phổ biến đó do tai nạn xảy ra
trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh hoạt và tham gia lao động.
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều
quốc gia trên thế giới.
1.1.3.2. Nguyên nhân do xã hội
- Một là, do thấy trẻ bị khuyết tật nên cái nhìn của những người xung
quanh về trẻ thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử điều này làm cho trẻ thấy mặc
cảm, tự ti. Có nhiều trẻ bị cư xử tệ, bị đè nén, bị bỏ rơi (từ thiếu quan tâm cho
đến bỏ rơi hoàn toàn) do người xung quanh không hiểu trẻ, không thông cảm
cho những hành vi khó khăn của trẻ.
- Hai là, do cha mẹ cảm thấy mặc cảm vì gia đình có người khuyết tật
nên họ có thể nghĩ rằng mình có lỗi lầm hoặc oán trách mà không chấp nhận
trẻ, điều này làm cho cách cư xử của họ đối với trẻ không được yêu thương,
tôn trọng làm cho trẻ khó hình thành nên một nhân cách khỏe mạnh.
- Ba là, do gia đình có trẻ khuyết tật nên có ảnh hưởng phần nào đến
kinh tế của gia đình do mất nhiều thời gian chăm sóc trẻ, không có thời gian
12
đi làm việc, gia đình trở nên khó khăn sẽ ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của
cha mẹ và cũng ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của trẻ.
1.1.3.3. Nguyên nhân bẩm sinh
Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Qua kết quả nghiên cứu di
truyền cho thấy một số lượng lớn bệnh tật và tử vong ở người là hậu quả trực
tiếp hay gián tiếp của sự bất thường về di truyền. Các rối loạn di truyền được
xếp dưới 4 hình thức sau đây:
- Bất thường về nhiễm sắc thể
- Rối loạn gen
- Rối loạn nhiều yếu tố
- Các rối loạn về cơ thể
Hai là, trẻ bị khuyết tật ngoài nguyên nhân rối loạn di truyền, còn có
thể do người mẹ bị ảnh hưởng của một số tác nhân độc hại trong môi trường
(nhiễm xạ, các chất hoá học độc hại...). Các chất độc hại có thể là những tác
nhân vật lý như nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp gây say nóng, nhiễm lạnh ở bà
mẹ), các loại tia cực tím hoặc phóng xạ,có thể là những tác nhân hoá học như
thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và ngay cả nhiều thứ thuốc chữa bệnh cho bà mẹ
cũng có thể tác động xấu đến thai làm nó suy yếu đi và nguy hiểm hơn có thể
gây dị tật hoặc làm thai bị chết. Cũng có thể xếp vào loại độc hại cho thai khi
bà mẹ hút thuốc lào,thuốc lá, nghiện ma tuý, nghiện rượu. Những thứ đó đều
làm cho thai suy dinh dưỡng, chậm phát triển về trí tuệ sau này.
Các loại vi trùng, virut, ký sinh trùng và nấm gây bệnh có sẵn trong
môi trường sống, có thể có cả trên cơ thể bà mẹ từ trước khi có thai nhưng
đến giai đoạn thai nghén, sức đề kháng của cơ thể giảm sút khiến các mầm
bệnh đó có cơ hội phát triển và gây bệnh cho bà mẹ. Những mầm bệnh ấy có
thể theo máu mẹ qua rau vào thai hoặc có thể lan theo đường sinh dục đi lên
gây nhiễm trùng rau, nhiễm trùng ối.
13
1.1.3.4. Các nguyên nhân khác
Những nguyên nhân đã dẫn đến những khuyết tật khác nhau ở trẻ em.
Thực tế cho thấy trong những nguyên nhân về xã hội, đói nghèo, thiếu chăm
sóc gây nên tình trạng khuyết tật ở những nước đang phát triển. Nhưng ngay ở
những nước phát triển như (Mỹ, Tây Âu), các nguyên nhân về tinh thần, ô
nhiễm môi trường,… cũng gây giả khuyết tật. Theo Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), khuyết tật có chiều hướng gia tăng ở những nước phát triển và khi xã
hội phát triển thì khuyết tật không những không giảm đi mà còn gia tăng
thêm.
Đa số những người khuyết tật ở vào tình trạng nghèo nàn, thất học và
dễ rơi vào tình trạng bị lãng quên. Khi khoa học chưa phát triển, các nguyên
nhân gây khuyết tật chưa được xác định một cách khách quan mà chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi những quan điểm, tín điều sai lầm (chẳng hạn, khuyết tật là
sự trừng phạt của Thượng đế đối với một linh hồn tội lỗi), thì người khuyết tật
không được thừa nhận như một con người, một nhân cách. Trong hoàn cảnh
đó, không thể bàn tới vấn đề chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật như là một
trách nhiệm xã hội. Ngay cả trong điều kiện ngày nay, nhiều người quá lạc
quan cho rằng với sự phát triển của khoa học, mọi khuyết tật có thể được
"chữa lành", và vấn đề người khuyết tật sẽ không còn là "vấn đề xã hội" nữa.
Một khi những nguyên nhân gây nên khuyết tật, chẳng hạn như bệnh
tật, lạm dụng thuốc, tai nạn, chiến tranh, ô nhiễm môi truờng… vẫn còn, thì
mỗi người đều có thể tiềm ẩn nguy cơ trở thành khuyết tật. Thực tế cho thấy
rằng mỗi khi một hay một số nguy cơ được hoá giải thì lại có những nguyên
nhân khác nảy sinh. Do đó, sự tồn tại của người khuyết tật là một thực tế
khách quan, nằm ngoài mong muốn của con người.
1.1.4. Phân loại trẻ em khuyết tật
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể và riêng biệt về
trẻ em khuyết tật, vì vậy căn cứ vào những quy định về người khuyết tật, cụ
14
thể dựa vào quy định tại Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm
2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người
khuyết tật 2010, có thể phân loại trẻ em khuyết tật như sau:
- Căn cứ vào dạng khuyết tật, có thể phân thành năm loại:
Thứ nhất, khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng
cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di
chuyển.
Thứ hai, khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng
nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn
chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
Thứ ba, khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và
cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường.
Thứ tư, khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí
nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói,
hành động bất thường.
Thứ năm, khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận
thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về
sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.
Thứ sáu, khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng
cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà
không thuộc các trường hợp được quy định các dạng khuyết tật trên.
- Căn cứ vào mức độ khuyết tật có thể phân thành ba loại:
Thứ nhất, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng là những trẻ do khuyết tật dẫn
đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện
được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác
phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ
giúp, chăm sóc hoàn toàn.
15
Thứ hai, trẻ em khuyết tật nặng là trẻ do khuyết tật dẫn đến mất một
phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện
được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc
khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi,
trợ giúp, chăm sóc.
Thứ ba,trẻ em khuyết tật nhẹ là trẻ khuyết tật không thuộc những
trường hợp khuyết tật đặc biệt nặng và khuyết tật nặng.
1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật
1.2.1. Khái niệm quyền của trẻ em khuyết tật
Thuật ngữ quyền trong tiếng anh được gọi là “Right” có nguồn gốc từ
tiếngLatin là RECTUS (có nghĩa là Ruled-quy tắc). Và trong ngữ hệ Ấn-Âu
có nghĩa làviệc miêu tả sự di chuyển theo một đường thẳng. Điều này cũng có
thể hiểu quyền ở đây có nghĩa là những chuẩn mực không thể thay thế được.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, quyền là “cái mà luật pháp, xã hội,
phong tục hay lẽ phải cho phép được hưởng thụ, được vận dụng, được thực
hành và nếu thiếu thì được phép yêu cầu để có đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể
đòi hỏi để giành lại”. Như vậy, khái niệm Quyền chủ yếu liên quan đến việc
hành động, cụ thể là tự do hành động. Theo đó, một người được phép làm
những việc trong khuôn khổ nhất định mà không bị cưỡng ép, áp đặt, và
không ai được vi phạm vào các quyền đó. Việc làm rõ khái niệm quyền là cơ
sở để xác định các vấn đề có liên quan dựa trên quyền.
Do vậy, có thể rút ra kết luận: Quyền là những đòi hỏi cơ bản và chính
đáng của một con người đáng được hưởng hoặc có thể được làm.
“Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai” - đó là một thông điệp đã và
đang là phương châm hành động của nhân loại tiến bộ. Từ xa xưa, con người
đã ý thức được rằng trẻ em cần được bảo vệ che chở đặc biệt khỏi mọi sự xâm
hại bởi chúng còn non nớt về thể chất và tinh thần. Tuy nhiên, cách tiếp cận
này chưa xuất phát từ góc độ quyền mà xuất phát từ góc độ nhân đạo.
16
Trong nhiều thế kỷ, quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu kéo theo tình
trạng bóc lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Cuộc chiến thế giới thứ I
(1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ. Năm 1919,
một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy Điển. Năm
1924, khi Tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em được Hội Quốc liên thông qua
thì vấn đề bảo vệ “quyền trẻ em” mới chính thức được đề cập.
Trong Tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em được liệt kê cụ thể theo 5
nhóm quyền như: (1) Trẻ em phải được phát triển một cách bình thường cả về
thể chất và tinh thần; (2) Trẻ đói phải được cho ăn, trẻ ốm phải được chữa trị,
trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải được giáo dục, trẻ mồ côi và
lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm sóc; (3) Khi xảy ra tai họa,
trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; (4) Trong đời sống, trẻ em phải có
quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bóc lột;
(5) Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng, tài năng của chúng
phải phục vụ cho đồng bào mình.
Có thể xem bản Tuyên ngôn này là sự ghi nhận đầu tiên về các quyền
của trẻ em trên bình diện quốc tế. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản của
Tuyên ngôn chưa thực sự nhấn mạnh đến khía cạnh quyền của trẻ em mà mới
chỉ dừng lại ở các qui định về nghĩa vụ mà “nam giới và phụ nữ của tất cả các
dân tộc” phải có trách nhiệm bảo đảm quyền trẻ em.
Năm 1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, trong đó đã khẳng định “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền
và quyền tự do, mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, như về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, gốc gác dân tộc hoặc xã hội, tài
sản, nơi sinh hoặc bất cứ một thực trạng nào khác”. Trẻ em được thừa nhận là
chủ thể được thừa hưởng đầy đủ các quyền con người, được bình đẳng như
các thành viên trong xã hội khác.
17
Năm 1959, Liên hợp quốc ra Tuyên bố thứ hai về quyền trẻ em. Tuyên
bố năm 1959 kế thừa và phát triển nội dung của Tuyên bố Giơnevơ năm 1924,
khẳng định rằng: Trẻ em, do chưa trưởng thành về tinh thần và thể lực cần có
sự bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ về pháp lý thích hợp,
trước cũng như sau khi sinh. Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em những
điều tốt đẹp nhất. Tuyên bố năm 1959 kêu gọi các bậc cha mẹ, đàn ông và
phụ nữ với tư cách là những cá nhân, kêu gọi các tổ chức tình nguyện, giới
cầm quyền địa phương và chính phủ các nước công nhận những quyền của trẻ
em và phấn đấu để thực hiện bằng luật pháp và những biện pháp khác theo 10
nguyên tắc và những nguyên tắc này như là 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ
em.
Năm 1989, bằng sự vận động tích cực của một số quốc gia, Liên Hợp
quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC). Việt Nam đã phê chuẩn
Công ước này. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một văn bản quốc tế đề
cập toàn diện về quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và
mang tính pháp lý cao, làm cơ sở cho việc thúc đẩy chăm sóc và bảo vệ các
quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh
vực đã được CRC ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một
cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm,
đạo đức và xã hội. CRC gồm 54 điều khoản với nội dung quy định các quyền
dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, nêu rõ các nguyên tắc, các quyền khác
nhau, các cơ chế theo dõi và thực hiện, trong đó, Công ước thể hiện tập trung
ở bốn nhóm quyền, ba nguyên tắc và một tiến trình theo công thức 4-3-1.
Không chỉ đề cập đến trẻ em nói chung, CRC còn đề cập đến việc bảo
vệ quyền của những nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (gồm: trẻ em khuyết
tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...). Đồng thời,
CRC xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa
nghiêm trọng cuộc sống của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột
18
sức lao động, ảnh hưởng của chất ma túy và bị buộc phải tham gia vào các
cuộc xung đột vũ trang... CRC được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và
toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Để bổ sung cho
CRC, Liên Hợp quốc còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến
việc cấm sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và cấm buôn bán
trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Việt Nam đã phê
chuẩn 2 Nghị định thư này). Đến nay, đã có hơn 80 văn kiện quốc tế liên quan
đến quyền trẻ em được ban hành để bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em như:
Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành
niên, gọi tắt là Hướng dẫn Riát (1990); Quy tắc của Liên Hợp quốc về Bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do (1990); Tuyên bố thế giới về sự
sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em (1990). Tuyên bố về chống bóc lột
tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Chương trình hành động
chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Công ước
182 về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất và Khuyến nghị 190 về loại bỏ những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất (1999); Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng
trị tội phạm buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước Lahay về bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nhận con nuôi quốc tế (1993);...
Như vậy, đến những năm cuối thế kỷ XX, các chương trình về bảo vệ
trẻ em của UNICEF mới bắt đầu tiếp cận theo “nhóm đối tượng” để đáp ứng
nhu cầu của các nhóm trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong đó tập trung vào
một số nhóm trẻ em bị những hình thức gây tổn hại chính là: bóc lột, ngược
đãi, bỏ rơi và bạo lực. Đến năm 2003, việc tiếp cận bảo vệ trẻ em theo “nhóm
đối tượng” được chuyển hướng sang hình thức bảo vệ theo cách “tiếp cận hệ
thống” - nghĩa là giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến tất cả các nhóm
trẻ em, trong đó việc xây dựng môi trường an toàn, thân thiện với trẻ em và
thúc đẩy “hệ thống bảo vệ trẻ em” được coi là ưu tiên hàng đầu.
19
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về quyền trẻ em là tất cả những gì
cần có để trẻ em được sống và phát triển một cánh toàn diện, lành mạnh và
an toàn. Về mặt bản chất quyền trẻ em là quyền con người và được cụ thể
hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính cách cuộc sống của
trẻ em.
Tóm lại, trẻ em và trẻ em khuyết tật là chủ thể của hiện tại và là những
người xây dựng tương lai. Đó là những đối tượng dễ bị tổn thương và có ảnh
hưởng lâu dài về cả mặt sức khỏe cũng như tâm lí. Việc ghi nhận quyền trẻ
em và trẻ em khuyết tật nhằm bảo đảm cho các em không chỉ là đối tượng tiếp
thu thụ động với người lớn mà trở thành chủ thể có quyền, có khả năng tạo
dựng cuộc sống phù hợp bảo đảm lợi ích được phát triển một cách toàn diện
của trẻ em. Việc quy định quyền của trẻ em còn là cơ sở để các nhà làm luật
xây dựng các biện pháp bảo đảm việc trẻ em được hưởng đúng các quyền đó.
Thông qua các khái niệm quyền, quyền trẻ em và quyền của người
khuyết tật có thể rút ra được quyền của trẻ em khuyết tật là“một bộ phận của
quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Theo đó, trẻ
em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền tự nhiên vốn có, trẻ được thực
hiện hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà không ai
được phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do khuyết tật
của trẻ" [15]. Việc làm rõ các khái niệm nêu trên có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, là cơ sở để bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật. Bởi trẻ em khuyết tật là
những công dân đặc biệt của xã hội. Họ vừa mang đặc điểm non nớt về mặt
tâm sinh lý như biết bao trẻ em không khuyết tật khác, lại vừa mang trong
mình khiếm khuyết về mặt thể chất và tinh thần như những người khuyết tật
nói chung nên quyền của trẻ em khuyết tật vừa là một bộ phận của quyền con
người, lại vừa là sự kết hợp giữa quyền của trẻ em và quyền của người khuyết
tật. Vì vậy, việc nhận thức chính xác về quyền của trẻ em khuyết tật chính là
20
cơ sở để chăm sóc, giáo dục và bảo vệ có hiệu quả các quyền của nhóm đối
tượng bị tổn thương kép này.
1.2.2. Các quyền của trẻ em khuyết tật
Xét theo tình hình thực tế ở Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói
riêng, nhóm chúng tôi chỉ đề cập đến 5 quyền mà trẻ em khuyết tật chưa được
bảo vệ đầy đủ nhất. Trong pháp luật Việt Nam quy định tên các quyền của trẻ
em khuyết tật cũng có sự thay đổi so với Công ước quốc tế nên trong đề tài
này chúng tôi sử dụng tên các quyền theo pháp luật Việt Nam quy định. Năm
quyền của trẻ em khuyết tật được chúng tôi nghiên cứu bao gồm: Quyền được
giáo dục; Quyền được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được chăm sóc sức khỏe;
Quyền được tham gia văn hóa, thể thao, giải trí; Quyền được tiếp cận cơ sở hạ
tầng, dịch vụ công cộng.
1.2.2.1. Quyền được giáo dục
Đối với giáo dục, Nhà nước ta luôn xem đây là một trong những lĩnh
vực quan trọng mang tính chiến lược. Tại khoản 3 Điều 61, Hiến pháp năm
2013 khẳng định Nhà nước “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo
được học văn hoá và học nghề”. Với quy định này, người khuyết tật nói
chung và trẻ em khuyết tật nói riêng đều được hưởng những chính sách ưu ái
nhất định, có cơ hội được thực hiện quyền được giáo dục mà không có sự
phân biệt đối xử. Những chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho đối tượng
này xuất phát từ những đặc điểm riêng về thể chất, tâm sinh lý cũng như khả
năng tiếp nhận kiến thức của các em. Cụ thể Nhà nước luôn tạo điều kiện về
chế độ miễn giảm học phí, hỗ trợ về dụng cụ học tập...
Hiện nay xuất phát từ đặc điểm của các dạng tật,căn cứ vào sự phân
chia mức độ khuyết tật mà Nhà nước ta đã đưa ra các mô hình giáo dục khác
nhau dành riêng cho trẻ khuyết tật: Giáo dục hoà nhập, Giáo dục bán hoà
nhập và Giáo dục chuyên biệt. Như vậy với ba phương thức giáo dục trên, trẻ
khuyết tật và gia đình có thể lựa chọn phương thức phù hợp với trẻ. Tuy nhiên
21
hiện nay mô hình giáo dục hòa nhập đang được khuyến khích. Giáo dục hòa
nhập có những ưu điểm nổi trội và rất tốt cho trẻ khuyết tật vì đây là một
trong những môi trường giáo dục mà ở đó trẻ khuyết tật có khả năng hòa nhập
nhanh và đưa các em đến gần hơn với cộng đồng, rèn luyện cho các em khả
năng thích nghi tốt.
1.2.2.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội
Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng dành
cho các đối tượng gặp phải rủi ro, bất hạnh, vì nhiều nguyên nhân khác nhau
dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và
gia đình. [24]. Với đối tượng là trẻ khuyết tật, Nhà nước ta đã có những quy
định về đối tượng, chế độ được hưởng bảo trợ xã hội, cụ thể Luật người
khuyết tật năm 2010 đã dành riêng Chương VIII để quy định về nội dung bảo
trợ xã hội cho người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Theo
đó, chế độ bảo trợ xã hội cho trẻ khuyết tật chủ yếu bao gồm: chế độ trợ cấp,
hỗ trợ cho trẻ khuyết tật và chế độ nuôi dưỡng trẻ khuyết tật tại các cơ sở bảo
trợ xã hội.
Theo quy định Luật người khuyết tật 2010 thì trẻ em khuyết tật được
ưu tiên trong hệ thống chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng. Nội dung cụ thể
bao gồm:
- Hệ số hưởng trợ cấp xã hội đối với trẻ khuyết tật cao hơn 0,5 so với
hệ số chung. (Đây là điểm mới cơ bản trong trợ cấp xã hội đối với trẻ em
khuyết tật). Trong trường hợp trẻ em khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng thì
mức hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng được ưu tiên thêm đã giải quyết một
phần khó khăn cho trẻ em khuyết tật, trên cơ sở đó việc tiếp cận giáo dục
cũng được nâng cao một bước.
- Hộ gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng
trong đó có trẻ em được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hệ số 1,0. Chính sách này
22
nhằm hỗ trợ trực tiếp đang trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc trẻ khuyết tật đặc
biệt nặng.
- Người nhận chăm sóc trẻ khuyết tật đặc biệt nặng được hỗ trợ hệ số
1,5. Chính sách này nhằm đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc trẻ em
khuyết tật đặc biệt nặng vì có ưu tiên trong việc nhận nuôi dưỡng chăm sóc
đối tượng Bảo trợ xã hội.
- Người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con
dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ hệ số 1,5. Đây là chính sách mới và tác động
trực tiếp đến việc chuẩn bị hỗ trợ một phần cho việc học tập của trẻ em
khuyết tật, hệ số này tăng lên 2,0 khi vừa nuôi con dưới 36 tháng tuổi và
mang thai.
1.2.2.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe
Theo tinh thần của Luật người khuyết tật, thì nội dung chế độ chăm sóc
sức khỏe cho trẻ em khuyết tật bao gồm ba hoạt động sau: Chăm sóc sức khỏe
ban đầu; Khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Cụ thể: Đối với hoạt động
chăm sóc sức khỏe ban đầu theo quy định tại Điều 21 Luật người khuyết tật,
trẻ khuyết tật được giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chăm sóc
sức khỏe; được tham gia chương trình giáo dục đặc biệt; được thực hiện các
biện pháp phòng ngừa và can thiệp sớm nhằm nhận ra dấu hiệu sớm nhất của
khuyết tật để kịp thời chuẩn đoán và điều trị có hiệu quả. Đối với hoạt động
phục hồi chức năng, đây là nội dung đặc biệt quan trọng, là quyền đặc thù,
riêng có của trẻ em khuyết tật. Trẻ khuyết tật có thể phục hồi thông qua các
cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng như Viện chỉnh hình, phục hồi chức
năng, Trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng…hoặc phục hồi chức năng
dựa vào cộng đồng, hình thức phục hồi mà trẻ có thể thực hiện ngay tại nơi
với những người mà trẻ khuyết tật cùng sinh sống nhằm tạo sự bình đẳng về
cơ hội và hòa nhập cộng đồng cho trẻ.
23
Như vậy, quyền được chăm sóc sức khỏe được pháp luật Việt Nam quy
định tương đối đầy đủ và cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, góp phần đẩy
mạnh hoạt động bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực này.
1.2.2.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch
Đối với quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, Nhà
nước đã ban hành khá nhiều quy định nhằm đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết
tật. Điều 4 Luật người khuyết tật nhấn mạnh trẻ khuyết tật có quyền tham gia
bình đẳng vào các hoạt động xã hội, được tiếp cận các dịch vụ văn hóa, thể
thao, du lịch… phù hợp với dạng tật và mức độ tiếp cận.
Việc quy định trên có ý nghĩa rất lớn đối với người khuyết tật nói
chung và đặc biệt là trẻ khuyết tật. Do những khiếm khuyết về cơ thể cũng
như cảm giác mặc cảm, tự ti làm cho trẻ khuyết tật có xu hướng sống khép
mình và thu mình lại trong những nỗi đau về thể xác và tinh thần. Tuy nhiên
điều này sẽ được giải quyết một cách tốt nhất khi chúng ta tạo điều kiện và cơ
hội để các em tham gia vào các hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí... Các em
sẽ cảm thấy thoải mái hơn,vui vẻ hơn và quên đi những nỗi đau của bản thân
đồng thời giúp trẻ khuyết tật có cơ hội mở mang trí tuệ và nhận thức, tăng
cường sự hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm sống, góp phần cải thiện đời sống
tinh thần của trẻ. Điều này không chỉ đem lại lợi ích cho bản thân trẻ khuyết
tật mà còn làm phong phú, đa dạng đời sống của cộng đồng.
1.2.2.5. Quyền tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng
Một trong những vấn đề khó khăn nhất mà tất cả những người khuyết
tật đối mặt là tình trạng thiếu tiếp cận đến những khu vực công và dịch vụ
công. Người khuyết tật không thể tự mình đến trường, đến trung tâm y tế, nơi
công cộng bởi vì các tòa nhà đó và phương tiện giao thông đó không thiết kế
phù hợp với họ. Việt Nam đã có Luật người khuyết tật và những thông tư,
nghị định tạo môi trường pháp lý nhưng trên thực tế việc thực thi còn hạn chế,
24
nhất là đối với mảng truyền thông tin tức cho người mù điếc thì mới chỉ ở
mức khuyến khích phát triển.
Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng được quy định
khá đầy đủ trong hệ thống văn bản pháp luật như Luật người khuyết tật, Luật
giao thông đường bộ, Luật xây dựng… và tập trung chủ yếu vào ba lĩnh vực
chính sau: tiếp cận phương tiện giao thông, tiếp cận cơ sở hạ tầng, công trình
xây dựng và tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể:
Đối với tiếp cận phương tiện giao thông, pháp luật Việt Nam quy định
các công trình giao thông đường bộ xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp phải đảm
bảo tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật cho người khuyết tật và trẻ em khuyết tật,
như, trên tuyến đường dành cho người đi bộ cần hạn chế các chướng ngại vật;
các phương tiện công cộng buộc phải có chỗ ưu tiên cho người khuyết tật...
Đối với tiếp cận cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng, trong Bộ quy
chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình, Bộ Xây dựng đã ban hành những
quy định tiêu chuẩn liên quan đến xây dựng để bảo đảm cho người khuyết tật
và trẻ khuyết tật tiếp cận sử dụng. Cụ thể là công trình xây dựng mới phải
thiết kế lối đi riêng cho trẻ em khuyết tật; các công trình xây dựng đã được
đưa vào sử dụng nhưng không đảm bảo các tiêu chuẩn tiếp cận thì phải tiến
hành cải tạo để đảm bảo cho trẻ khuyết tật được sử dụng.
Đối với tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông, xuất phát từ mức
độ khuyết tật của trẻ mà các em sẽ có nhu cầu khác nhau. Trong lĩnh vực
truyền thông, theo quy định tại khoản 2 Điều 43 Luật người khuyết tật, Đài
truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các chương trình phát sóng có
phụ đề và ngôn ngữ kí hiệu dành riêng cho người khuyết tật và trẻ em khuyết
tật, giúp trẻ theo dõi nắm bắt được thông tin.
25
1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền của trẻ em khuyết tật
1.3.1. Pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em, Điều 23 quy định về trẻ em khuyết tật
như sau:
1. Các Quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật về tinh
thần hay thể chất cần được hưởng một cuộc sống đầy đủ và tươm tất trong
những điều kiện bảo đảm phẩm giá, thúc đẩy khả năng tự lực và tạo cơ sở cho
trẻ em tham gia tích cực vào cộng đồng.
2. Các Quốc gia thành viên thừa nhận quyền của trẻ em khuyết tật được
chăm sóc đặc biệt và tùy theo các nguồn lực sẵn có, phải khuyến khích và bảo
đảm dành cho trẻ em khuyết tật và cho những người có trách nhiệm chăm sóc
sự giúp đỡ mà họ yêu cầu mà thích hợp với điều kiện của trẻ em đó và với
hoàn cảnh của cha mẹ hay những người khác chăm sóc trẻ em đó.
3. Trên cơ sở thừa nhận các nhu cầu đặc biệt của trẻ em khuyết tật, sự
giúp đỡ dành cho trẻ em khuyết tật theo khoản 2 của điều này phải được cung
cấp miễn phí, bất kỳ khi nào có thể, có tính đến khả năng tài chính của cha mẹ
hay những người khác chăm sóc trẻ em khuyết tật và sự giúp đỡ đó sẽ được
sắp xếp để bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật được tiếp cận một cách hiệu quả và
được nhận sự giáo dục, đào tạo, các dịch vụ y tế và dịch vụ phục hồi chức
năng, chuẩn bị công ăn việc làm và các cơ hội vui chơi, giải trí theo cách thức
có lợi cho việc trẻ em có thể hòa nhập tối đa vào xã hội và phát triển các năng
lực cá nhân, kể cả sự phát triển văn hóa và tinh thần của những trẻ em đó.
4. Trên tinh thần hợp tác quốc tế, các Quốc gia thành viên phải thúc
đẩy việc trao đổi thông tin thích hợp trên lĩnh vực phòng bệnh và về lĩnh vực
chữa trị y tế, tâm lý và chức năng cho trẻ em khuyết tật, kể cả việc phổ biến
và tiếp cận các thông tin liên quan đến phương pháp giáo dục, phục hồi chức
năng và đào tạo nghề với mục tiêu giúp cho các Quốc gia thành viên nâng cao
khả năng và trình độ của họ để mở rộng kinh nghiệm của họ trong những lĩnh
26
vực này. Về mặt này, cần đặc biệt chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát
triển.
Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật bên cạnh những điều
khoản quy định chung cho tất cả các đối tượng người khuyết tật, còn có
những điều, khoản quy định riêng đối với trẻ em khuyết tật.
- Tại Điều 3, Khoản h: tôn trọng khả năng phát triển của trẻ em khuyết
tật và tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật trong việc bảo tồn bản sắc của trẻ
em.
- Điều 7. Trẻ em khuyết tật.
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện những
biện pháp cần thiết để đảm bảo trẻ em khuyết tật được thụ hưởng đầy đủ
quyền con người và các quyền tự do cơ bản như những trẻ em khác.
2. Trong tất cả các hoạt động có liên quan tới trẻ em khuyết tật, thì
những lợi ích tối ưu nhất của một trẻ khuyết tật phải được quan tâm hàng đầu.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đảm bảo trẻ em
khuyết tật có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình về tất cả các vấn đề có liên
quan tới trẻ em, quan điểm của các em sẽ được xem xét 1 cách thích đáng phù
hợp với lứa tuổi và sự chín chắn của các em, giống như các trẻ em khác và sẽ
có những hỗ trợ phù hợp với lứa tuổi và tình trạng khuyết tật để có thể thực
hiện được quyền đó.
- Điều 8, Khoản 2, Mục b quy định: “Khuyến khích thái độ tôn trọng
quyền của người khuyết tật ở tất cả các cấp trong hệ thống giáo dục, bao gồm
cả trẻ em ở mọi lứa tuổi”.
- Điều 18, Khoản 2: “Trẻ em khuyết tật phải được đăng ký khai sinh
ngay sau khi sinh ra và có quyền được đặt tên từ khi sinh ra, có quyền nhập
quốc tịch, và trong khả năng tối đa có quyền được biết cha mẹ mình là ai và
được cha mẹ chăm sóc.”
Điều 23: Quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm.
27
- Tại Khoản 1, Mục c quy định: “Người khuyết tật kể cả trẻ em có
quyền duy trì khả năng sinh sản của họ, trên cơ sở bình đẳng như người
khác”.
- Tại Khoản 2 quy định: “Trong mọi trường hợp thì lợi ích tối ưu nhất
của trẻ em sẽ được ưu tiên hàng đầu, các quốc gia thành viên của Công ước
này cam kết đưa ra những hỗ trợ phù hợp cho người khuyết tật trong việc thực
hiện nghĩa vụ nuôi dạy con cái”.
- Tại Khoản 3 quy định: “Các quốc gia thành viên của Công ước này
cam kết đảm bảo trẻ em khuyết tật có quyền bình đẳng đối với cuộc sống gia
đình, nhằm thừa nhận những quyền này và ngăn ngừa sự giấu giếm, cấm
đoán, ruồng bỏ và cách ly trẻ em khuyết tật, các quốc gia thành viên của Công
ước này cam kết cung cấp các thông tin và dịch vụ hỗ trợ đầy đủ, kịp thời cho
trẻ em khuyết tật và gia đình trẻ em khuyết tật”.
- Tại Khoản 4 quy định: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được
phép cách ly 1 đứa trẻ khỏi bố mẹ vì lý do khuyết tật của trẻ đó hoặc của một
trong hai hoặc của 2 bố mẹ”.
- Tại Khoản 5 quy định: “Các quốc gia thành viên của Công ước này
cam kết lỗ lực để có giải pháp chăm sóc thay thế trẻ em khuyết tật trong một
gia đình lớn hơn … khi mà gia đình của trẻ khuyết tật không thể chăm sóc và
nuôi dưỡng các em”.
- Tại Điều 24 Khoản 2 Mục a quy định: “Người khuyết tật không bị loại
khỏi hệ thống giáo dục phổ thông trên cơ sở sự khuyết tật, và trẻ em khuyết
tật không bị loại khỏi giáo dục tiểu học bắt buộc, hoặc giáo dục trung học,
trên cơ sở sự khuyết tật”.
- Điều 30, Khoản 5, Mục d quy định: “Đảm bảo rằng trẻ em khuyết tật
được tiếp cận bình đẳng như những đứa trẻ khác vào các hoạt động thể thao,
vui chơi, giải trí, kể cả các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí trong hệ thống
giáo dục”.
28
1.3.2. Pháp luật quốc gia về quyền của trẻ em khuyết tật
Hiện nay, pháp luật Việt Nam có những quy định riêng đối với trẻ em
khuyết tật. Cụ thể:
Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1,
Điều 37: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục; được tham gia vào các vấn đề trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác
vi phạm quyền trẻ em”.
* Luật người khuyết tật năm 2010:
- Tại Điều 5, Khoản 3 quy định: “Ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ
xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em”.
- Tại Điều 23, Khoản 2 quy định: “Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho
người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, trẻ em khuyết tật”.
- Tại Điều 23 khoản 3: “Tư vấn biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm
khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ em sơ sinh để kịp thời có biện pháp điều trị và
chỉnh hình, phục hồi chức năng phù hợp”.
- Tại Điều 44 Khoản 2 quy định: Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm
sóc hàng tháng.
Mục c có quy định: “Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật
nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi”.
Khoản 3 có quy định: “Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật
nặng là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức hỗ trợ cấp cao hơn đối tượng
khác cùng mức độ khuyết tật”.
* Luật trẻ em năm 2017:
- Điều 35: “Trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em
và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm
sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và
hòa nhập xã hội”.
29
- Tại Điều 44 Khoản 2: “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, bảo đảm
công bằng về cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi trẻ em; giáo dục hòa nhập cho
trẻ em khuyết tật; có chính sách miễn, giảm học phí cho từng nhóm đối tượng
trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ”.
Qua các quy định pháp luật về trẻ em khuyết tật, ta thấy Nhà nước đã
có sự quan tâm bằng các chính sách thiết thực đến nhóm trẻ em này. Không
chỉ giúp đỡ về vật chất, Nhà nước còn quan tâm đời sống tinh thần của trẻ, bù
đắp những thiệt thòi cho các em. Điều này đã thể hiện tính nhân văn, nhân
đạo của pháp luật Việt Nam.
1.4. Các bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật
1.4.1. Bảo đảm pháp lý về quyền trẻ em khuyết tật
Bảo đảm về pháp lý là một trong những bảo đảm quan trọng nhằm quy
định các quyền của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và quyền của trẻ
em khuyết tật nói riêng trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
và từ đó tạo cơ sở pháp lý để các quyền đó có khả năng thực hiện trong thực
tế. Như vậy nói đến bảo đảm về mặt pháp lý chính là đề cập đến hệ thống
pháp luật về trẻ em khuyết tật mang tính đồng bộ, đầy đủ và có tính khả thi
cao. Đây là cơ sở để các cơ quan, tổ chức và công dân thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình đối với trẻ khuyết tật cũng như trẻ khuyết tật có cơ hội để
thực hiện các quyền mà Nhà nước đã cho phép.
Hệ thống văn bản pháp luật về quyền trẻ em khuyết tật quy định khá
nhiều nội dung trong đó chủ yếu quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của các
chủ thể liên quan bao gồm:
Thứ nhất, cơ chế tổ chức thực thi các qui định pháp luật về quyền trẻ
em khuyết tật, đó là cơ chế hoạt động đồng bộ giữa tất cả các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình.
30
Thứ hai, cơ chế giám sát việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền
trẻ em khuyết tật trong thực tế, sự giám sát của Đảng, Nhà nước và nhân dân
với việc thực hiện pháp luật về quyền trẻ em khuyết tật.
Thứ ba, cơ chế phát hiện, xử lý các vi phạm quyền trẻ em khuyết tật,
hoạt động kiểm tra, phát hiện và xử lý đúng, nghiêm minh, kịp thời các vi
phạm pháp luật về quyền trẻ em khuyết tật là những biện pháp quan trọng,
góp phần phòng, chống, hạn chế các vi phạm pháp luật đồng thời làm củng cố
và tăng cường lòng tin của cá nhân, công dân, gia đình và xã hội vào nhà
nước và pháp luật, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương của đất nước.
Thứ tư, là thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao ý thức pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, gia đình,
nhà trường và cộng đồng đối với việc bảo vệ các quyền trẻ em khuyết tật.
Khi Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Công ước quốc tế về người
khuyết tật ra đời, Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực hưởng ứng
trong việc soạn thảo, ký kết và phê chuẩn Công ước.
Với tư cách là một nước thành viên thực hiện cam kết của mình, Việt
Nam luôn quan tâm, chú trọng, kiện toàn hệ thống pháp luật, chính sách về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Một số văn bản chính sách quan trọng đã được ban
hành như Hiến pháp năm 2013 (Khoản 1 Điều 37 quy định “Trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các
vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm
dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”);
Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05-11-2012, của Bộ Chính trị về “Tăng cường
công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; các
chương trình, chính sách đã được Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt như
Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Chương
trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch triển khai thực
hiện Khuyến nghị của Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc; Chính sách
31
hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; Chương trình phòng,
chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2013 - 2015; Kế hoạch hành động
quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014 - 2020. Đặc
biệt là việc nghiên cứu, ban hành Luật Trẻ em năm 2017 và các chương trình
liên quan đến trẻ em giai đoạn 2016 - 2020. Mặc dù hệ thống luật pháp, chính
sách về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hiện nay còn chưa tập trung,
thiếu đồng bộ, cơ chế, chính sách trợ giúp trẻ em vẫn còn chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn nhưng Việt Nam cũng đã nỗ lực rất nhiều trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.
Bên cạnh hệ thống thể chế, pháp luật đang ngày càng được hoàn thiện,
các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động xã hội về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự
chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng thời mở rộng,
nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ em. Hằng năm,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức
triển khai các chiến dịch truyền thông, phát động phong trào để thúc đẩy xã
hội thực hiện bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Tháng hành động vì trẻ em được phát
động từ Trung ương đến địa phương; Diễn đàn trẻ em các cấp được tổ chức
hằng năm.
Một nội dung quan trọng, nhân tố góp phần quyết định hiệu quả của
hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em là yếu tố nguồn lực (gồm nguồn lực tài
chính và con người). Thời gian qua, các cấp chính quyền từ Trung ương đến
địa phương đã quan tâm bố trí kinh phí thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, tuy nhiên nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp này vẫn còn chưa đáp ứng
được các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Bộ máy, cán bộ làm công tác bảo
vệ, chăm sóc trẻ em đang từng bước được kiện toàn.
Để công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đạt hiệu quả thì hoạt động kiểm
tra, giám sát, cơ sở dữ liệu về trẻ em cũng là một yếu tố quan trọng. Hằng
32
năm, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của
Quốc hội, các bộ, ngành liên quan đã tổ chức các đoàn giám sát, kiểm tra liên
ngành về tình hình thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại trung ương
và địa phương. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo vệ, chăm sóc trẻ em
đang từng bước được nghiên cứu, xây dựng và đưa vào vận hành như Cổng
thông tin tích hợp điện tử về trẻ em; Bộ chỉ số xếp hạng địa phương về thực
hiện quyền trẻ em, Bộ chỉ số về bảo vệ trẻ em; Phần mềm quản lý trẻ em,...
Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu về trẻ em chưa đồng bộ và độ tin cậy chưa cao vì chủ
yếu sử dụng từ nguồn báo cáo hành chính.
Công tác phối hợp liên ngành trong việc thực hiện quyền trẻ em đã
được các bộ, ngành quan tâm ủng hộ với những hình thức, nội dung đa dạng,
phong phú và cam kết mạnh mẽ hơn, từng bước đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp
với các bộ, ngành, tổ chức, đoàn thể có liên quan tổ chức nhiều hoạt động
phối hợp liên ngành trong việc thực hiện quyền trẻ em, như phối hợp liên
ngành trong việc xây dựng luật pháp, chính sách, chương trình, đề án, kế
hoạch hành động; phối hợp liên ngành trong việc tổ chức các hoạt động thúc
đẩy việc thực hiện quyền trẻ em; phối hợp liên ngành trong việc kiểm tra,
theo dõi, đánh giá về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em... Tuy nhiên, công tác
phối hợp liên ngành trong việc thực hiện quyền trẻ em vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế như trách nhiệm phối hợp liên ngành chưa đầy đủ; phối hợp trong tổ
chức các hoạt động đôi khi vẫn còn bị động; hoạt động phối hợp cụ thể vẫn
còn mang tính hình thức; năng lực cán bộ tham gia phối hợp còn hạn chế và
điều kiện để tham gia phối hợp chưa đầy đủ.
Để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương
trình, đề án, dự án trợ giúp, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt trong đó có trẻ em khuyết tật, trong những năm qua, Việt Nam
đã tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNICEF, ILO, WHO,
33
Save the Children, Plan, World Vision, ChildFund,...; đồng thời cũng tích cực
trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến trẻ em. Trong khuôn
khổ Sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng về phòng, chống mua bán người tiểu
vùng sông Mê Kông (COMMIT), Việt Nam đã phê chuẩn Chương trình hành
động phòng, chống mua bán người giai đoạn 2011 - 2015. Đặc biệt, trong
khuôn khổ ASEAN, Việt Nam rất năng động trong hoạt động của Ủy ban thúc
đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC) nhằm góp phần
tăng cường thực hiện các văn kiện quốc tế và khu vực liên quan đến các
quyền của phụ nữ và trẻ em, đồng thời tập trung vào việc kết nối giữa Ủy ban
về quyền trẻ em của Liên hợp quốc và ACWC để thực hiện hiệu quả hơn
những kết luận, khuyến nghị của các Ủy ban này ở cấp quốc gia và khu vực.
Như vậy, về mặt pháp lý cũng như trên thực tế, toàn xã hội Việt Nam
cùng tham gia vào việc bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em. Không những thế,
thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam còn được sự hỗ trợ rất lớn của cộng đồng
quốc tế, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng như phi chính phủ. Sự giúp
đỡ không chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật mà quan trọng hơn
là nhằm nâng cao nhận thức của xã hội, của người dân và chính trẻ em về
quyền trẻ em cũng như giá trị của họ.
Tóm lại, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý về bảo vệ
quyền trẻem. Về cơ bản, các quy định về bảo vệ quyền trẻ em trong các văn
bản pháp luậtViệt Nam đều phù hợp với các quy định của CRC.
1.4.2. Bảo đảm chính trị về quyền trẻ em khuyết tật
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm và chính sách nhất
quán về quyền trẻ em. Theo đó, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được coi là một trong những nhiệm
vụ chính trị trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến
địa phương, là một vấn đề ưu tiên trong mọi chính sách và chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
34
Chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
nói chung cũng như về quyền trẻ em nói riêng là một trong những ưu tiên
trọng yếu của chiến lược phát triển con người xuyên suốt mọi thời kỳ lịch sử
và cách mạng Việt Nam. Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
tinh thần không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong
xã hội. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao
động và trẻ mồ côi cho đến Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tốt
chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em... Tiếp tục thực
hiện chiến lược phát triển con người, chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
bà mẹ, trẻ em”. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
là bảo đảm về chính trị trong việc thực hiện các quyền trẻ em khuyết tật.
1.4.3. Bảo đảm tư tưởng về quyền trẻ em trẻ em khuyết tật
Truyền thống đạo lý của dân tộc luôn lấy chữ nhân làm gốc. Tư tưởng
nhân ái “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” là truyền
thống tốt đẹp, là phẩm chất ngời sáng của người Việt Nam. Trong tiến trình
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, phát huy truyền thống nhân ái của dân
tộc, Đảng, Nhà nước và xã hội luôn quan tâm chăm sóc và giúp đỡ những
người yếu thế trong xã hội, trong đó có trẻ em khuyết tật. Điều này thể hiện
thông qua những chủ trương, chính sách của Đảng, hệ thống pháp luật của
Nhà nước, sự tham gia chung tay của toàn xã hội, của cộng đồng đối với việc
chăm sóc và bảo vệ các quyền của trẻ em khuyết tật. Sự quan tâm, chăm sóc
đó đã được thể hiện trong các chính sách, chương trình ưu tiên, ưu đãi của
Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ,
giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, tiếp cận với các dịch vụ y tế, văn hoá, thể
thao, giao thông và trợ cấp xã hội...
35
1.4.4. Bảo đảm kinh tế về quyền trẻ em khuyết tật
Bảo đảm về kinh tế là nội dung Nhà nước rất quan tâm nhằm đưa các
quyền của trẻ em khuyết tật được thực hiện trong đời sống thực tiễn. Hiện nay
Luật người khuyết tật quy định: “Hàng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để
thực hiện chính sách về người khuyết tật; Bảo trợ xã hội, trợ giúp người
khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa,
thể thao, giải trí, tiếp cận công trình công cộng và công nghệ thông tin, tham
gia giao thông; ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người
khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi; Lồng ghép chính sách về người khuyết tật
trong chính sách phát triển kinh tế- xã hội; Tạo điều kiện để người khuyết tật
được chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và
hòa nhập cộng đồng; Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc
người khuyết tật”. Từ những chính sách mang tính tổng quan, Nhà nước sẽ
triển khai các chính sách cụ thể về người khuyết tật nói chung và trẻ em
khuyết tật nói riêng, nhằm thực hiện mục tiêu chính sách kinh tế và chính
sách xã hội của đất nước, trên cơ sở đó quyền của trẻ em khuyết tật được bảo
đảm trong thực tế.
1.4.5. Bảo đảm văn hóa xã hộivề quyền trẻ em khuyết tật
Truyền thống văn hóa Việt Nam luôn hướng đến xây dựng nền văn hóa
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong đó đề cao tinh thần đoàn kết, chia sẻ
và “tương thân tương ái”. Truyền thống “tương thân, tương ái” luôn được đề
cao và là mục tiêu phấn đấu của cả nước, trong tất cả các hoạt động của các
cơ quan Đảng, chính quyền, các đoàn thể và các hội đoàn thể. Các quy định
bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong đó có trẻ em khuyết tật đã được luật
hóa, xây dựng thành các chương trình hành động, các đề án của Chính phủ,
của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ ngành và các địa phương. Hàng triệu trẻ
em khuyết tật đã trực tiếp nhận được sự trợ giúp. Việt Nam tham gia vào các
36
hoạt động có tính quốc tế vì người khuyết tật, bảo vệ quyền lợi của người
khuyết tật, của trẻ em.
Hiện nay, chăm lo cho trẻ em khuyết tật vừa là đạo lý, vừa là trách
nhiệm của các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội mang lại cuộc sống tốt đẹp
hơn cho trẻ khuyết tật, cần phải đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ khuyết tật,
thể hiện cam kết không phân biệt đối xử.
37
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả đã trình bày khái quát cơ sở lý luận và cơ sở
pháp lý về quyền của trẻ em khuyết tật bao gồm những vấn đề như: khái niệm
trẻ em, trẻ em khuyết tật, quyền của trẻ em khuyết tật. Việc xác định các khái
niệm trên là tiền đề để tác giả phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện các
quyền của trẻ em khuyết tật.
Trên cơ sở nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật
của trẻ em và phân loại trẻ em khuyết tật có ý nghĩa quan trọng trong việc
phân tích tình tình trẻ em khuyết tật cũng như đưa ra nhận định về việc thực
hiện các chính sách của Nhà nước về quyền của trẻ em khuyết tật. Bên cạnh
đó, thông qua việc đưa ra các quy định của pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật, tác giả đã định hướng nội dung cơ bản
về bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật trong thực tế, từ đó góp
phần triển khai thực hiện tốt hơn các quyền của trẻ em khuyết tật, giúp các em
vươn lên hòa nhập cộng đồng.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ QUYỀN TRẺ EM
KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của Việt Nam. Phía bắc
giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía tây giáp nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Theo số liệu từ Niên
giám thống kê năm 2015 dân số Quảng Bình đạt 872.925 người tăng so
với 854.918 người năm 2013 và 846.924 người năm 2009. Trên địa bàn tỉnh
có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh. Dân tộc
ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người
chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập
trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền
Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều, 80,61%
sống ở vùng nông thôn và 19,39% sống ở thành thị. Trẻ em dưới 16 tuổi có
226.517 người, chiếm 25,95% dân số; trẻ em hoàn cảnh đặc biệt có 4.494 em.
Theo Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2014 - 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh, Quảng Bình hiện có trên 45.000 người
khuyết tật, trong đó số lượng người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng là 28.000
người; lượng người tâm thần mãn tính có hành vi gây nguy hiểm cho gia đình
và xã hội là 4.280 người. Trong những năm qua, số lượng người khuyết tật
trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, ô
nhiễm môi trường và các rủi ro như: thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh…
Hai dạng tật chiếm tỷ lệ cao nhất ở tỉnh Quảng Bình là khuyết tật về hệ
vận động và khuyết tật liên quan đến hệ thần kinh, trí tuệ, trong đó khuyết tật
hệ vận động chiếm 36% và khuyết tật hệ thần kinh, trí tuệ chiếm gần 30%
tổng số người khuyết tật, còn lại là các dạng tật khác.
39
Số lượng người khuyết tật chiếm khoảng 5,2% dân số toàn tỉnh, trong
đó gần 90% sống ở nông thôn với điều kiện kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng…
còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các xã miền núi rẻo cao, các xã bãi ngang
cồn bãi. Đa phần người khuyết tật trên địa bàn tỉnh thuộc diện hộ nghèo, hộ
cận nghèo, có trình độ học vấn thấp, không thể sống tự lập, chỉ có khoảng trên
15% tự tạo được thu nhập.
Về tình trạng trẻ em khuyết tật, theo thống kê của Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội năm 2015 số lượng trẻ em dưới 16 tuổi 227.812 người
trong đó có 1720 trẻ em bị khuyết tật chiếm 0,76%. Năm 2016, số lượng trẻ
khuyết tật là 2874 em tăng hơn so với năm 2015 là 1154 trẻ.
Dự báo trong những năm tới, số lượng trẻ khuyết tật vẫn có xu hướng
gia tăng.Trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật của trẻ,
những nguyên nhân bẩm sinh có xu hướng giảm vì hiện nay nhận thức của
người dân cũng như công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản đã được quan tâm
nhiều hơn. Bên cạnh đó, những nguyên nhân từ phía xã hội, từ môi trường
sống... có xu hướng gia tăng. Điều này được giải thích bởi sự phát triển của
kinh tế thị trường, sự tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa...
đã làm tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, tai nạn giao
thông ngày càng nhiều.
Hiện nay, người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật ở Quảng
Bình nói riêng gặp khá nhiều khó khăn trong giao tiếp, hoạt động và tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản. Trình độ học vấn của người khuyết tật nhìn chung
còn thấp, phần lớn học xong bậc tiểu học trong đó số lượng trẻ em khuyết tật
được đến trường không nhiều. Hầu hết các em đều sống phụ thuộc vào gia
đình và không thể sống tự lập, gia đình các em chủ yếu thuộc thuộc diện hộ
nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo quy định của Chính phủ.
Hầu hết trẻ em khuyết tật đều mong muốn được sự quan tâm của gia
đình, nhà nước và xã hội; được chăm sóc về vật chất lẫn tinh thần. Về tinh
40
thần các em cần được được đối xử bình đẳng, được hòa nhập thực sự vào
cộng đồng; Về vật chất các em cần được khám chữa bệnh, được phẫu thuật
chỉnh hình, được trang cấp hoặc được hỗ trợ các dụng cụ chỉnh hình, xe lăn,
xe lắc… phục vụ đi lại, sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay mặc dù Nhà nước đã
ban hành khá nhiều chính sách nhằm quan tâm hơn nữa đến người khuyết tật
nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng, trong thực tế Quảng Bình đã có rất
nhiều hoạt động thiết thực để giúp đỡ, hỗ trợ trẻ em khuyết tật, tuy nhiên vẫn
còn nhiều bất cập do nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn huy động còn hạn
chế nên trẻ em khuyết tật, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa chưa được quan tâm
đúng mức.
2.2.Thực trạng quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình
Trẻ em khuyết tật trước hết là trẻ em, còn non nớt về mặt tâm sinh lý,
lại mang trong mình những khiếm khuyết về mặt cơ thể như những người
khuyết tật khác, do đó, việc nghiên cứu và xác định các quyền của trẻ em
khuyết tật sẽ dựa trên quyền của trẻ em quy định tại Luật trẻ em năm 2017 và
quyền của người khuyết tật ghi nhận tại Luật người khuyết tật năm 2010. Trên
cơ sở thừa nhận sự bình đẳng, không phân biệt đối xử, ở Việt Nam, trẻ em
khuyết tật sẽ được hưởng tất cả các quyền mà pháp luật quy định.
Tuy nhiên trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ tìm hiểu thực trạng một
số quyền cơ bản trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình bao gồm: Quyền được giáo
dục; Quyền được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được chăm sóc sức khoẻ;
Quyền được tham gia hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí; Quyền được tiếp
cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng.
2.2.1.Quyền được giáo dục
Người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng có quyền
bình đẳng trong giáo dục, giáo dục đóng vai trò quyết định đối với trẻ em
khuyết tật. Giáo dục là con đường giúp các em phát triển tối đa khả năng cũng
như tiềm năng cá nhân, để từ đó các em được sống với chân giá trị của mình
41
và có ích cho xã hội. Quyền được giáo dục phải được dựa trên cơ sở bình
đẳng cơ hội, không phân biệt đối xử thông qua giáo dục hòa nhập thân thiện ở
các cấp học, trình độ đào tạo và học tập suốt đời.
Trong những năm qua, quyền được giáo dục của trẻ em khuyết tật ở
tỉnh Quảng Bình đã được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm và
đạt được những kết quả tích cực. Hiện nay trên toàn tỉnh có 3 Trung tâm nuôi
dạy và giáo dục trẻ khuyết tật, gồm Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Quảng
Trạch, Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Lệ Thuỷ và Trung tâm nuôi dạy trẻ
khuyết tật Đồng Hới; 2 Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật ở xã
Hiền Ninh (huyện Quảng Ninh) và thành phố Đồng Hới.
Các Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật trên địa bàn toàn tỉnh đã không
ngừng nỗ lực nâng cao nâng cao chất lượng dạy và học, kết hợp dạy chữ với
thực hiện chương trình phục hồi chức năng cho các trẻ khuyết tật; kết hợp
giữa học văn hóa với học nghề; có khoảng 200 trẻ em khuyết tật đã được đào
tạo nghề với một số nghề chính như: làm hương, làm nón, thêu, may… Qua
thực hiện các chương trình, dự án dạy nghề đã đem lại lợi ích thiết thực cho
trẻ khuyết tật, các em có nghề để lập nghiệp tự nuôi sống bản thân, giảm gánh
nặng cho gia đình, hoà nhập cộng đồng.
Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật thành phố Đồng Hới và Trung tâm
nuôi dạy trẻ Lệ Thủy là những trung tâm thực hiện tốt công tác giáo dục cho
trẻ khuyết tật, đặc biệt là sự phối hợp giữa dạy văn hóa và dạy nghề cho các
em. Cụ thể trong năm học 2015 -2016, Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật
thành phố Đồng Hới có 13 lớp học sinh khuyết tật, đến từ địa bàn thành phố
và một số địa phương khác, với 90 học sinh khuyết tật các dạng, gồm khiếm
thính, khiếm thị, khuyết tật vận động, khuyết tật trí tuệ, học từ lớp 1 đến lớp
5. Cán bộ, giáo viên của trung tâm đã tiếp tục bồi dưỡng bổ sung các phương
pháp dạy học chuyên biệt, từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy đối
tượng học sinh đặc biệt này. Ngoài chương trình nuôi dạy trẻ khuyết tật chính
42
khóa, Trung tâm còn mở thêm các lớp dạy nghề để trang bị thêm kiến thức kỹ
năng tạo dựng cuộc sống, giúp các em chủ động tự lập được khi đã trưởng
thành. Hiện nay, Trung tâm tập trung đầu tư dạy cho các em hai nghề chính
được cho là phù hợp đối tượng học sinh khiếm thính (câm điếc) đó là hai
nghề may và thêu. Trên thực tế, các năm học đã qua, một số học sinh câm
điếc khi ra trường đã tự lập được cuộc sống một cách tự chủ, không liên lụy
nhiều đến gia đình, bằng nghề may và thêu. Được biết, giáo viên dạy may
thêu của trung tâm cho trẻ câm điếc, đã tự học, tự rèn nghề này để giảng dạy
và thực hành may thêu cho học sinh khuyết tật dể tiếp thu. Với người câm
điếc, phải giao tiếp bằng ngôn ngữ động tác, hình ảnh cụ thể. Điều này là lợi
thế của các giáo viên chuyên biệt như ở đây, được đào tạo cơ bản và đã thành
thạo trong giao tiếp với trẻ em cũng như người câm điếc. Đặc biệt là phương
tiện phục vụ dạy và học nghề may thêu ở đây đã được Ủy ban nhân dân tỉnh
đầu tư, với hàng chục máy may. Thầy dạy tận tình, trò tiếp thu nghiêm túc, có
quyết tâm, có kết quả, đã có không ít học sinh câm điếc tự lực trong cuộc
sống đời thường nhờ các nghề may thêu được học ngay trong mái trường
Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Hới.
Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Lệ Thủy với các nhiệm vụ dạy chữ,
dạy nghề, phục hồi chức năng, can thiệp sớm cho trẻ điếc trước tuổi đến
trường và làm công tác tư vấn cho ngành về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Trung tâm có nhà phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật với tiện nghi khá đầy
đủ để các em tập luyện phục hồi chức năng. Các trang thiết bị phục vụ cho
hoạt động dạy học, dạy nghề đã cơ bản đủ điều kiện để các em học tập. Đội
ngũ thầy cô giáo được trẻ hóa, trình độ đào tạo được nâng lên 100% trên
chuẩn. Trong dạy nghề: Trung tâm cũng đã phối hợp với Trường dạy nghề số
9 tỉnh Quảng Bình tiếp tục mở lớp học nghề: thêu ren, nghề may cho các em
khuyết tật trong và ngoài xã hội đến học, đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
Sau khi học xong có nhiều em tham gia may ở cơ sở may tư nhân trong tỉnh
43
có thu nhập bình quân 2,5 triệu đến 3,5 triệu đồng/tháng, tự nuôi sống bản
thân, đỡ gánh nặng cho gia đình.
Đối với Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch, trong những
năm qua, Trung tâm đã thực hiện công tác nuôi dạy trẻ khuyết tật với số
lượng cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Số lượng học sinh khuyết tật ở Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết
tật Quảng Trạch từ năm học 2013 -2014 đến năm học 2017 – 2018.
Tổng số Tổng số Chuyên Ghi Năm học CB-Giáo Tiểu học Học sinh biệt chú viên
2013-2014 49 92 71 21
2014-2015 54 96 71 25
2015-2016 56 98 73 25
2016-2017 56 106 77 29
2017-2018 56 116 81 35
508 Tổng 5 năm 271 373 135
(Nguồn: Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch)
Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch là trường nuôi dạy trẻ
khuyết tật lớn trong tỉnh với nhiều trẻ khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn của
các xã thuộc các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa. Việc dạy chữ,
dạy nghề cho các em khuyết tật rất khó khăn, nhưng với tấm lòng yêu thương
học sinh, các thầy cô giáo tại trung tâm đã học hỏi, tự bồi dưỡng nghiệp vụ
dạy và chăm sóc trẻ khuyết tật, giúp các em dần dần tiếp nhận được kiến thức
văn hóa, vượt lên mặc cảm, hòa nhập cộng đồng. Đặc biệt, trong năm học
2016 – 2017, Trung tâm có tổng số 16 lớp với số lượng 106 học sinh, khối
Giáo dục tiểu học 77 em (12 lớp), khối chuyên biệt 29 em (4 lớp) trong đó
44
tổng số học sinh chia theo loại tật như sau: Khiếm thính (22 em); khiếm thị
(09 em); chậm phát triển trí tuệ và hội chứng down (59 em); tự kỷ (07 em);
vận động (09 em). Trung tâm đã bảo đảm đúng chương trình kế hoạch dạy
học, thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp phù hợp đối tượng loại tật. Các
giáo viên đã chủ động sáng tạo phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học
và hình thức tổ chức dạy học phù hợp từng đối tượng, thực hiện giảm tải
chương trình dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Vì thế chất lượng dạy
học ngày càng được nâng cao và đem lại môi trường học tập và rèn luyện tốt
cho trẻ khuyết tật.
Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội trong năm
2014-2015, toàn tỉnh có số trẻ khuyết tật trong độ tuổi 3-6 tuổi là 135 trẻ, đã
huy động đến trường được 78 trẻ, chiếm 58%. Trẻ khuyết tật trong độ tuổi 6-
13 tuổi là 202, huy động đến trường được 68 trẻ, chiếm 33,7%. Trẻ em khuyết
tật đến trường chủ yếu ở hai bậc học mầm non và tiểu học. Trong 2 năm
2014-2015 có 60% trẻ khuyết tật có khả năng học tập được tiếp cận giáo dục
dưới mọi hình thức, có 295 em học ở 03 trung tâm chuyên biệt. Trong đó,
Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Hới 84 em; Trung tâm giáo dục trẻ
khuyết tật Lệ Thủy 93 em; Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Quảng Trạch
118 em.
Để thực hiện tốt hơn quyền giáo dục cho trẻ em khuyết tật, từ tháng 8
năm 2014 đến nay, với sự tài trợ của tổ chức Caritas Thuỵ Sỹ, Dự án “Phát
hiện sớm, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật” được triển
khai tại 09 xã, phường và 03 Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật của các huyện
Lệ Thủy, Quảng Trạch và thành phố Đồng Hới. Qua 03 năm thực hiện Dự án,
công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật nói chung, phát hiện sớm,
can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập nói riêng đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận, các mục tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Đối với việc giáo dục
hòa nhập cho trẻ khuyết tật, Dự án đã đào tạo 111 lượt cán bộ quản lý về giáo
45
dục hòa nhập cộng đồng và 231 lượt giáo viên dạy hòa nhập. Bên cạnh đó, Dự
án cũng đã thành lập 16 nhóm hỗ trợ giáo dục hòa nhập, 09 nhóm cộng đồng
và 153 nhóm "Vòng tay bè bạn"; giúp đỡ 63 trẻ khuyết tật học hòa nhập tại
các trường; hỗ trợ trực tiếp cho 652 trẻ khuyết tật tiếp cận với giáo dục có
chất lượng được điều chỉnh theo nhu cầu và khả năng. Tuy nhiên quy mô Dự
án “Phát hiện sớm, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật”
còn nhỏ hẹp, mới chỉ thực hiện 09 trong số 159 xã, phường, thị trấn của 03
huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 65 trong số 2.998 trẻ khuyết
tật được hưởng lợi từ Dự án, còn 2.346 trẻ khuyết tật cần sự giúp đỡ, chia sẻ
của chính quyền các cấp và cộng đồng... Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả của
Dự án, ngày 11/9/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch
1659/KH-UBND về việc duy trì và nhân rộng mô hình Dự án "Phát hiện sớm,
can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật" tỉnh Quảng Bình giai
đoạn 2017 - 2020. Theo đó, tỉnh tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả mô hình
mà Dự án đã tạo dựng tại 09 xã, phường thuộc các huyện Quảng Trạch, Lệ
Thủy, thành phố Đồng Hới và nhân rộng sang 02 - 03 địa phương; phấn đấu
95% trẻ khuyết tật từ 0 - 6 tuổi trên địa bàn tỉnh được phát hiện sớm, có kế
hoạch can thiệp sớm, hỗ trợ phục hồi chức năng tại nhà và trường; 95% đội
ngũ cán bộ quản lý mầm non, tiểu học được bồi dưỡng nghiệp vụ về giáo dục
hòa nhập; 100% trường mầm non, tiểu học có đầy đủ hồ sơ quản lý giáo dục
hòa nhập và thành lập nhóm “Vòng tay bạn bè”; vận hành tốt 06 phòng/góc
hỗ trợ giáo dục hòa nhập, nhân rộng bình quân mỗi năm 02 phòng/góc/năm;
duy trì hoạt động giáo dục hòa nhập tại 23 trường tiểu học, mầm non; nhân
rộng mô hình phát hiện sớm, can thiệp sớm, phục hồi chức năng từ 02 - 03 xã
tại địa phương chưa thực hiện Dự án...
Bên cạnh đó, công tác phổ cập giáo dục luôn được quan tâm đối với
học sinh trong toàn tỉnh nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Cụ thể trong
46
năm 2016, theo số liệu thống kê Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình, số
trẻ em khuyết tật được phổ cập giáo dục như sau:
Bảng 2.2: Số lượng trẻ khuyết tật
Tỉ lệ huy động trẻ 5
Trẻ khuyết tật
tuổi
i ổ u t
TS
Có khả năng HT
g n ờ ư r t
TT
Đơn vị
g n ờ ư r t
Tổng
trẻ 5
m ể i
ố S
số trẻ
tuổi
Tỉ lệ
đ ố S
5 G M p ớ l ố S
ệ l ỉ
ố s g n ổ T
D G
T
5 tuổi
đến
n ậ c p ế i T
lớp
1 Đồng Hới
2449
2449 100.00
19
66
32
66.7
4
6
2 Minh Hóa
1153
1153 100.00
20
71
64
93.3
14
15
3 Tuyên Hóa
1607
1607 100.00
25
66
56
70.6
24
34
4 Quảng Trạch
2085
2085 100.00
18
63
55
86.7
13
15
5 Bố Trạch
112
3279
3279 100.00
35
81
71.4
25
36
6 Quảng Ninh
1666
1657
99.46
15
51
51
50.0
5
10
7 Lệ Thủy
2409
2409 100.00
30
87
80
75.0
9
12
8 Ba Đồn
1918
1918 100.00
17
58
44
100.0
19
19
Cộng
179
463
574 16566 16557
99.95
119
77.3
92
được phổ cập giáo dục bậc mầm non năm 2016
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình)
47
Bảng 2.3: Số lượng trẻ khuyết tật
Học sinh
Trẻ khuyết tật
h n
Có khả năng
TT
Đơn vị
HT
ã x ố S
c ọ h u ể i t
ố s g n ổ T
ố s g n ổ T
ệ l ỉ
t ậ t t ế y u h K
D G
T
i s c ọ h ó c g n ờ ư r t ố S
n ậ c p ế i T
2
3
4
6
7
14
16
1
1
Đồng Hới
55
16946
149
149
82
16
23
2
Minh Hóa
6
7909
232
232
14
16
24
3 Tuyên Hóa
5,4
11369
204
204
11
20
29
4
Quảng Trạch
40
14726
265
265
105
18
24
5
Bố Trạch
26022
346
346
233
67,3
30
45
6 Quảng Ninh
11634
254
254
162
63,8
15
21
7 Lệ Thủy
20473
313
313
193
61,7
28
38
8 Ba Đồn
14858
208
208
94
45,2
16
24
Cộng
159
228 123937 1971 1971
1371
69,5
được phổ cập giáo dục bậc tiểu học năm 2016
(Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình)
48
Bảng 2.4: Số lượng trẻ khuyết tật
được phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở năm 2016
Trẻ khuyết tật TTN 11 - 18 tuổi
Có khả năng học tập
ố s g n ổ T
ố s g n ổ T
t ậ t t ế y u h K
ệ l ỉ
T
S C H T p ấ c ó c g n ờ ư r t ố S
D G n ậ c p ế i T
TT Đơn vị
17 19 21 19 40 16 38 17 1 Đồng Hới 2 Minh Hóa 3 Tuyên Hóa 4 Quảng Trạch 5 Bố Trạch 6 Quảng Ninh 7 Lệ Thủy 8 Ba Đồn 12357 6217 10506 12628 23085 10082 18276 13323 104 208 160 215 429 284 382 167 104 208 160 215 429 284 382 167 45 126 65 106 171 112 121 81 43,3 60,6 40,6 49,3 39,9 39,4 31,7 48,5
42,4 Cộng 187 106474 1949 1949
827 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình)
Qua số liệu trên bảng biểu cho thấy tỷ lệ phổ cập giáo dục ở bậc giáo
dục mầm non và tiểu học ở tỉnh Quảng Bình đạt tỷ lệ khá cao và đều đạt
chuẩn mức độ phổ cập, tuy nhiên ở bậc trung hoc cơ sở tỷ lệ này đã giảm
xuống và không đạt mức độ chuẩn. Điều này cho thấy số lượng trẻ em khuyết
tật chưa được đến trường vẫn còn, trẻ em khuyết tật đi học chủ yếu chỉ ở 2
bậc học là mầm non và tiểu học, tỉ lệ trẻ khuyết tật học tiếp lên trung học cơ
sở còn thấp. Điều này được giải thích bởi những lý do khác nhau bao gồm:
Một là, do trẻ em khuyết tật không theo kịp chương trình vì chương trình
học quá khó so với sức học của các em hoặc các em không muốn học tiếp vì
49
môi trường học không thực sự thân thiện, tạo tâm lý tự tin, thoải mái khi các
em đến trường. Môi trường giáo dục hòa nhập còn nhiều trẻ em khuyết tật học
hòa nhập bị trêu chọc và xa lánh gây tổn thương cho các em, Sự phân biệt đối
xử với bạn khuyết tật vẫn còn thể hiện rõ. Thậm chí hiện tượng bắt nạt trêu
chọc nhau cũng xảy ra ở cả trong môi trường giáo dục chuyên biệt. Những
hiện tượng xa lánh, trêu chọc, kỳ thị học sinh khuyết tật xảy ra đằng sau
những biểu hiện qua các quan hệ trong sinh hoạt hàng ngày. Điều này khiến
các em càng thêm tổn thương, tự ti, mặc cảm để hòa nhập.
Hai là, giáo viên chưa xác định được điểm mạnh, nhu cầu của trẻ
khuyết tật để xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân phù hợp đối tượng. Giáo
viên sử dụng phương pháp giảng dạy cho trẻ khuyết tật như dạy học sinh có
trình độ yếu kém, còn lúng túng trong việc lựa chọn cách truyền đạt với
những dạng khuyết tật khác nhau của học sinh.
Ba là, cơ sở vật chất, phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị dạy học đặc
thù, chưa được trang bị đầy đủ và phù hợp với các dạng khuyết tật như như
sách giáo khoa chữ nổi, giáo viên không biết chữ nổi hoặc giao tiếp bằng
ngôn ngữ ký hiệu như trong trường chuyên biệt. Hơn nữa các cơ sở giáo dục
hòa nhập và chuyên biệt đều thiếu phương tiện dạy học phù hợp với học sinh
khuyết tật và phương tiện hỗ trợ học sinh khuyết tật học tập, nên càng làm
cho việc dạy và học càng khó khăn hơn.
Bốn là, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình chưa chặt chẽ nên hạn
chế hiệu quả giáo dục. Nhận thức của gia đình trẻ khuyết tật về giáo dục cho
trẻ khuyết tật còn chưa đầy đủ, chưa nhìn nhận đúng lợi ích của giáo dục đối
với trẻ khuyết tật. Một số trẻ khuyết tật có khả năng đi học nhưng chưa tiếp
cận được giáo dục tiểu học do công tác tuyên truyền, vận động và nhận thức
của cha mẹ còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà xa trường học
hoặc bị từ chối dưới các hình thức khác nhau. Tỉ lệ trẻ em khuyết tật học cấp
trung học cơ sở thấp hơn rất nhiều so với cấp tiểu học do gia đình trẻ bằng
50
lòng với mục tiêu là trẻ biết đọc, biết viết sau khi học hết chương trình tiểu
học. Hơn nữa đa số gia đình trẻ khuyết tật là gia đình thuộc hộ nghèo và cận
nghèo nên sau khi học xong tiểu học các em ở nhà lao động giúp gia đình
hoặc kiếm sống – hơn nữa chương trình trung học cơ sở khó hơn so với tiểu
học nên các em không theo kịp chương trình.
Nhà trường chưa thực sự phối kết hợp với gia đình trong việc xây
dựng kế hoạch và phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật phù hợp và hiệu quả.
Đặc biệt chưa hướng dẫn được gia đình cách giúp trẻ em khuyết tật học ở nhà
và rèn luyện các kỹ năng đặc thù.
Bên cạnh đó mạng lưới các cơ sở giáo dục cho người khuyết tật ở
Quảng Bình còn thiếu, phân bố không đều, cụ thể thiếu cơ sở giáo dục chuyên
biệt cho trẻ khuyết tật, do vậy không thể đáp ứng được nhu cầu học tập của trẻ
khuyết tật theo vùng, miền. Ở miền núi như 2 huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa
không có trường chuyên biệt nào dành cho trẻ em khuyết tật.
Chương trình, tài liệu đào tạo bồi dưỡng cho đối tượng trẻ khuyết tật
còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên thấp cả về
số lượng và chất lượng, không thể đáp ứng được yêu cầu triển khai giáo dục
trẻ khuyết tật với quy mô lớn và đồng đều. Cán bộ quản lý nhà trường thiếu
các biện pháp hỗ trợ và phát triển chuyên môn dạy học hòa nhập cho giáo
viên, chưa có quy chế thi đua khen thưởng giáo viên dạy hòa nhập. Điều này
dẫn đến tình trạng giáo viên dạy hòa nhập chưa được đảm bảo hài hòa giữa
trách nhiệm và quyền lợi. Các cơ sở giáo dục thiếu biện pháp phát triển
chuyên môn cho giáo viên dạy hòa nhập, chưa quan tâm trao đổi và rút kinh
nghiệm về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, chưa chủ động tổ chức sinh hoạt
chuyên đề về giáo dục hòa nhập hoặc đưa vào nội dung sinh hoạt tổ, nhóm
chuyên môn. Các giáo viên dạy hòa nhập thường trao đổi kinh nghiệm trong
giờ ra chơi do nhu cầu tự phát.
51
Trong khuôn khổ của Dự án “Tăng cường tiếp cận và chất lượng giáo
dục hòa nhập thông qua công nghệ thông tin cho trẻ khuyết tật” (hợp tác giữa
Tổ chức CRS và Bộ Giáo dục - Đào tạo), một khảo sát về: “Đánh giá những
khó khăn của trẻ khuyết tật tiếp cận với bậc học phổ thông nhằm đưa ra các
giải pháp sử dụng công nghệ thông tin để tăng cường tiếp cận tốt nhất cho trẻ
khuyết tật trong tương lai” đã được tiến hành tại 16 trường hòa nhập tiểu học,
trung học cơ sở và 7 cơ sở giáo dục chuyên biệt ở 4 tỉnh, thành: Thái Nguyên,
Hà Nội, Quảng Bình và Tp. Hồ Chí Minh với mẫu là 487 người bao gồm cán
bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh, học sinh khuyết tật và cha mẹ trẻ
khuyết tật, đại diện Hội người khuyết tật, chuyên gia công nghệ thông tin…
với các phương pháp phỏng vấn nhóm, phỏng vấn sâu, phiếu hỏi bán cấu trúc,
quan sát giờ chơi, dự giờ, thu thập số liệu thống kê… Khảo sát được thực hiện
từ tháng 12/2012 đến tháng 2/2013 đã đưa ra nhận định: “Đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục hoà nhập là một yêu cầu có ý nghĩa
chiến lược, nhưng trên thực tế còn rất bất cập so với quyền của giáo viên tham
gia dạy hòa nhập. Ở tất cả những nơi mà nhóm khảo sát đến chưa có giáo viên
trường trung học cơ sở nào được tập huấn bài bản về dạy hòa nhập học sinh
khuyết tật, cũng như còn tỉ lệ đáng kể giáo viên tiểu học dạy hòa nhập cũng
chưa được tập huấn. Rõ ràng là có một khoảng cách lớn giữa quyền được đào
tạo, tập huấn của giáo viên với thực tế dạy học hòa nhập học sinh khuyết tật
mà họ đang đảm nhiệm. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo
dục hòa nhập. Trách nhiệm này thuộc cả quản lý cấp sở và cấp phòng Giáo
dục - Đào tạo”.
Ngoài ra, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục trẻ khuyết tật còn quá
ít trong khi kinh phí để đầu tư cho việc xây dựng, đầu tư trang thiết bị, cơ sở
hạ tầng, cũng như kinh phí đào tạo đội ngũ giáo viên lại không nhỏ. Điều này
khiến hoạt động giáo dục trẻ khuyết tật không thực sự được đảm bảo trên thực
tế.
52
Hơn nữa, hệ thống quản lý giáo dục trẻ em khuyết tật dù đã hình thành
ở hầu khắp cả tỉnh, mục tiêu đề ra cụ thể nhưng lộ trình và biện pháp thực
hiện còn quá mơ hồ, chưa có sự chỉ đạo đồng bộ ở các cấp, các ngành, nên
thực tế khi triển khai ở các địa phương đều lúng túng và tự phát. Bên cạnh đó,
cộng đồng dân cư và đại đa số các thầy cô giáo vẫn cho rằng trẻ khuyết tật chỉ
nên học ở các trường lớp chuyên biệt, không thể hòa nhập trong hệ thống giáo
dục phổ thông, nên có rất ít trẻ có cơ hội được học hòa nhập. Những điều này
đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác đảm bảo thực thi quyền của trẻ em
khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục.
2.2.2.Quyền được hưởng bảo trợ xã hội
Chính sách trợ giúp xã hội là một trong những nội dung chính sách
quan trọng nhằm bảo đảm đời sống vật chất cho người khuyết tật. Để hướng
dẫn thực hiện trợ giúp xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã trình
Chính phủ quy định cụ thể về mức, chế độ và thủ tục, hồ sơ, trách nhiệm địa
phương và Bộ, ngành trong Nghị định số 28/2012/NĐ-CP và Nghị định
136/2013/NĐ-CP. Trong đó điều chỉnh tăng mức trợ giúp 1.5 lần so với mức
cũ quy định trước khi Luật ban hành. Thủ tục, hồ sơ rút gọn, đơn giản dễ cho
người khuyết tật và địa phương thực hiện. Mức trợ cấp đã được điều chỉnh
tăng từ 180.000 đồng năm 2010 lên 270.000 đồng năm 2015. Nếu tính chung
cả tăng hệ số và tăng mức chuẩn thì chế độ trợ cấp đã tăng 2,25 lần so với
trước khi ban hành Luật.
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Quảng Bình,
việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội hàng tháng cho người khuyết tật
được địa phương thực hiện đúng quy định, đảm bảo kịp thời cho đối tượng,
góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho
người khuyết tật. Ngay khi Chính phủ ban hành Nghị định số 136/NĐ-CP quy
định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội đã chủ động phối hợp với một số sở, ngành liên quan
53
tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1899/QĐ-
UBND quy định mức trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội và mức chi cho công
tác quản lý thực hiện chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh
đã nâng mức chuẩn trợ giúp hằng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội từ
180.000 đồng lên 300.000 đồng, gấp hơn 1,7 lần so với mức trợ giúp xã hội
tại cộng đồng do Chính phủ quy định. Hiện trung bình một năm, mức kinh phí
thực hiện chi trả cho công tác trợ cấp xã hội hằng tháng của tỉnh là trên 150 tỷ
đồng. Năm 2016, mức chi an sinh xã hội của tỉnh ước đạt trên 1.100 tỷ đồng,
tăng 10% so với cùng kỳ năm 2015. Tính đến năm 2015, tổng số người
khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội là 14.189 đối tượng, 2.207 hộ gia đình,
cá nhân trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng người khuyết tật được hỗ trợ kinh phí
chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng, nuôi dưỡng tập trung khoảng 235trẻ
khuyết tật trong 6 cơ sở bảo trợ xã hội. Tại tỉnh Quảng Bình có 1482 trẻ được
hưởng chính sách chăm sóc của nhà nước theo chế độ trên, chiếm khoảng
86%. Chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần quan trọng trong việc ổn định
cuộc sống của trẻ khuyết tật. Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở bảo trợ xã hội
tăng nhanh. Tính đến hiện nay, toàn tỉnh có 6 cơ sở bảo trợ xã hội và các cơ
sở bảo trợ xã hội này hoạt động khá hiệu quả.
Đó là những thành tựu trong việc bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật
trong lĩnh vực bảo trợ xã hội. Nhờ có chính sách này, đời sống của trẻ em
khuyết tật được ổn định đáng kể, hơn nữa, việc thành lập các cơ sở bảo trợ xã
hội với các hoạt động đầy ý nghĩa, đã góp phần tích cực trong công tác hỗ trợ,
bảo vệ và chăm sóc trẻ em khuyết tật trên phạm vi toàn tỉnh.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều hạn chế khi trẻ khuyết tật tiếp
cận với quyền hưởng bảo trợ xã hội. Về việc xác định đối tượng thuộc diện
hưởng chính sách trợ cấp còn nhiều quy định chưa hợp lý. Theo đó, không
phải mọi trẻ em khuyết tật đều được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, mà chỉ
có trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng và trẻ khuyết tật nặng mới là đối tượng thụ
54
hưởng quyền này (quy định tại Điều 44 Luật người khuyết tật năm 2010). Do
đó dẫn đến tình trạng nhiều trẻ em khuyết tật nhẹ dù gặp khó khăn cũng
không được hưởng trợ cấp, trong khi bản thân trẻ vẫn chưa có thu nhập ổn
định để nuôi sống chính mình, đặc biệt là đối với những trẻ khuyết thuộc hộ
gia đình nghèo và cận nghèo.
Về mức trợ cấp hàng tháng, dù đã được điều chỉnh tăng mức trợ cấp và
ưu tiên cho trẻ khuyết tật được hưởng mức cao hơn so với các đối tượng khác
ở cùng mức độ khuyết tật nhưng nhìn chung, mức trợ cấp xã hội còn thấp so
với mặt bằng mức sống dân cư, nên chưa thể đảm bảo được đời sống của trẻ.
Về cơ sở bảo trợ xã hội, hiện nay số lượng trẻ khuyết tật ở Quảng Bình
tương đối nhiều nhưng số lượng các trung tâm bảo trợ xã hội còn hạn chế,
chưa phân bố phù hợp ở các địa phương, các huyện vùng sâu vùng xa như
Minh Hóa, Tuyên Hóa chưa có trung tâm nào. Sự tham gia của khu vực tư
nhân vào việc thành lập cơ sở chăm sóc trẻ khuyết tật hầu như không có, vì
vậy chưa thể đáp ứng được nhu cầu cần được chăm sóc của nhóm đối tượng
này.Đa phần các cơ sở bảo trợ xã hội đang chăm sóc nhiều loại hình đối
tượng khác nhau trong đó có cả người cao tuổi, người tâm thần, người lớn
khuyết tật, người lang thang, nạn nhân bị buôn bán, trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt và trẻ em khuyết tật… Vì vậy, rất khó để họ có thể cung cấp dịch vụ
chuyên nghiệp và chuyên biệt cho trẻ em khuyết tật. Các cơ sở đều thiếu về số
lượng cán bộ chăm sóc trẻ em khuyết tật. Trẻ khuyết tật là đối tượng đặc biệt
và nhu cầu chăm sóc cao hơn nhiều so với những loại hình đối tượng khác, vì
vậy, việc thiếu đội ngũ cán bộ ảnh hưởng rất nhiều đến các tiêu chuẩn chăm
sóc các em. Ngoài ra, những khó khăn trong khâu tiếp nhận đối tượng, cơ sở
vật chất kỹ thuật, trang thiết bị y tế của nhiều cơ sở bảo trợ xã hội còn thiếu
hụt, nhiều cơ sở được xây dựng từ lâu, nay đã xuống cấp, vấn đề đảm bảo tiêu
chuẩn về giáo dục, học nghề cho trẻ khuyết tật...
55
2.2.3.Quyền được chăm sóc sức khỏe
Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em khuyết tật là một trong
những quyền được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Đối với trẻ em khuyết
tật do có những đặc trưng về tình trạng bệnh, tật nên với các em khó có thể
đạt được những trạng thái thoải mái với tiêu chuẩn của người bình thường.
Bởi lẽ, mong muốn lớn nhất của các em là được khôi phục, hỗ trợ khôi phục
hoặc được thực hiện những kỹ năng để ổn định sức khỏe, có thể tự thực hiện
được những hoạt động sinh hoạt, phục vụ cho chính bản thân, gia đình và xã
hội, nhằm tiến đến hòa nhập cộng đồng. Trong những năm gần đây, công tác
chăm sóc sức khỏe trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình tập trung vào việc phát
hiện sớm, phòng ngừa tốt để có biện pháp xử lí kịp thời và điều trị phù hợp,
hạn chế các hậu quả do khuyết tật gây ra.
Theo báo cáo của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, đến nay, tỉnh
đã thực hiện khá tốt công tác phẫu thuật chỉnh hình, hỗ trợ phục hồi chức
năng cho hàng trăm trẻ em khuyết tật; cung cấp tương đối đầy đủ các phương
tiện trợ giúp như: xe lăn, xe đẩy, chân tay giả; hoạt động ưu tiên, ưu đãi trong
khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật nhằm chuẩn đoán đúng và điều trị
chăm sóc kịp thời cũng đạt được hiệu quả khá cao. Năng lực chuyên môn
chuyên ngành phục hồi chức năng cho đội ngũ cán bộ y tế cũng được tăng
cường, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ
em khuyết tật. Hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cũng đạt
được kết quả tích cực. Quảng Bình đã điều tra, phát hiện, tiến hành biện pháp
phục hồi chức năng cho 44,7% trẻ khuyết tật [21].
Công tác chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng được thực hiện
thường xuyên và mang lại hiệu quả nhất định. Theo báo cáo thực hiện kết quả
Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020 của Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội, công tác chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng
cho người khuyết tật được triển khai bằng nhiều hình thức như: hướng dẫn gia
56
đình chăm sóc sức khoẻ cho người khuyết tật, hướng dẫn người khuyết tật tự
chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng; phân công cán bộ phụ trách thăm
khám sức khoẻ cho người khuyết tật trên địa bàn; thực hiện chính sách ưu tiên
trong khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật; lập sổ quản lý, theo dõi
sức khoẻ cho người khuyết tật. 100% người khuyết tật thuộc hộ gia đình
nghèo, dân tộc thiểu số thuộc vùng khó khăn, người khuyết tật là trẻ em dưới
6 tuổi và người khuyết tật đang hưởng bảo trợ xã hội được cấp thẻ bảo hiểm y
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật khám chữa bệnh, chăm sóc
sức khỏe. Song song với các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật của Sở, ban,
ngành liên quan, các tổ chức xã hội, tổ chức Hội người khuyết tật cũng tích
cực triển khai các hoạt động trợ giúp y tế cho người khuyết tật trong cộng
đồng.
Công tác khám sàng lọc khuyết tật và can thiệp sớm khuyết tật được
thực hiện tương đối tốt. Theo thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội năm 2015, tổng số trẻ em sơ sinh đến 6 tuổi được khám sàng lọc khuyết
tật giai đoạn 2011 – 2015 là 2 497 em, số trẻ em khuyết tật được can thiệp
sớm bằng biện pháp y học giai đoạn 2011-2015 là 596 em. Việc phát hiện
sớm, tổ chức khám sàng lọc và xác định khuyết tật sẽ giúp trẻ khuyết tật có cơ
hội tiếp cận với các can thiệp y tế, tập luyện và phục hồi chức năng. Từ đó,
các em có các điều kiện để tham gia các hoạt động hòa nhập, phát triển bản
thân theo chiều hướng tích cực.
Do hậu quả chất độc da cam trong chiến tranh cùng với điều kiện sống
nghèo nàn ở các vùng nông thôn nên Quảng Bình là tỉnh có tỷ lệ trẻ khuyết tật
cao. Báo cáo đánh giá của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy,
hầu hết trẻ khuyết tật bị hạn chế quyền tiếp cận các dịch vụ công cộng như y
tế và giáo dục, thiếu các dịch vụ can thiệp sớm dẫn đến phát hiện muộn hoặc
phát hiện thiếu các trẻ em khuyết tật. Điều này đồng nghĩa với việc rất nhiều
cơ hội học tập, phát triển của các em sớm bị bỏ qua. Thực tế cho thấy, ở
57
Quảng Bình, việc thiếu các thiết bị, máy móc cần thiết phục vụ cho công tác
phát hiện sớm, can thiệp sớm trẻ khuyết tật là trở ngại không nhỏ. Với sự tài
trợ của tổ chức Caritas Thuỵ Sỹ, dự án “Phát hiện sớm, can thiệp sớm và giáo
dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật tỉnh Quảng Bình” đã đầu tư phòng đo thính
lực có đầy đủ các thiết bị, máy móc hiện đại. Điều này đã góp phần vào công
tác phát hiện sớm để có những can thiệp kịp thời cho trẻ khiếm thính. Để triển
khai có hiệu quả, công tác phát hiện sớm, can thiệp sớm được tổ chức ngay từ
tuyến xã, tại các địa bàn hưởng lợi từ dự án, những người bố, người mẹ có
con khuyết tật được hướng dẫn tận tình về cách phát hiện sớm cũng như
những hình thức phục hồi chức năng tại nhà. Và hơn ai hết, các cán bộ y tế
địa phương chính là những người gần gũi nhất với các gia đình và có điều
kiện tốt nhất để tạo thuận lợi cho việc phục hồi chức năng tại nhà. Trước đó,
họ đã được tham gia các lớp tập huấn của dự án và có đủ năng lực để đáp ứng
phần việc này.
Bên cạnh đó, các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật
diễn ra khá sôi nổi và tích cực. Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh đã
phối hợp với các sở, ngành, các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ phẫu thuật
chỉnh hình phục hồi chức năng cho 596 cháu; tặng 1.092 xe lăn, xe lắc cho
người khuyết tật; phẫu thuật tim, mắt, môi hở hàm ếch cho 1.200 trẻ em
khuyết tật. Trong 3 năm, Quỹ bảo trợ trẻ em tỉnh Quảng Bình, đã hỗ trợ phẫu
thuật cho 109 trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; khám lọc và phẫu thuật miễn phí
cho 354 em bị các bệnh về mắt, 799 em khuyết tật hệ vận động, tiêu hóa, sinh
dục, tiết niệu; hỗ trợ chăm sóc, luyện tập cho 100 cháu tại Trung tâm Phục hồi
chức năng; phối hợp với Tổ chức Nhân đạo Hoa Sen, Hội bảo trợ bệnh nhân
nghèo tỉnh Quảng Bình tổ chức khám 67 cháu bị tim bẩm sinh, chỉ định phẫu
thuật 06 cháu. Phối hợp với Bệnh viện mắt Huế tổ chức khám sàng lọc 70 em,
chỉ định phẫu thuật 12 em bị các bệnh về mắt. Được sự tài trợ của các tổ chức
thông qua Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam, tặng 10 chiếc xe đạp cho trẻ em
58
khuyết tật; chương trình sữa Vinamik, hỗ trợ cho 292 trẻ em của 04 Trung
tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật uống sữa trong 90 ngày [20].
Trong những năm qua, ngành Y tế đã đẩy mạnh hoạt động truyền thông
giáo dục sức khoẻ để phát hiện, can thiệp sớm và phục hồi chức năng cho
người khuyết tật bằng việc tổ chức nhiều đợt truyền thông trên Đài phát thanh
truyền hình của tỉnh, báo Quảng Bình và bản tin sức khoẻ của Trung tâm
truyền thông giáo dục sức khoẻ với nội dung và chủ đề phòng ngừa khuyết
tật, phẫu thuật chỉnh hình cho người khuyết tật. Ngoài ra còn phối hợp, lồng
ghép với các chiến dịch truyền thông các chương trình y tế để nâng cao nhận
thức cho nhân dân trong công tác phòng ngừa khuyết tật tại cộng đồng. Trong
2 năm 2014, 2015 có 60% cán bộ làm công tác trợ giúp trẻ khuyết tật được
tập huấn, nâng cao năng lực quản lý, chăm sóc, hỗ trợ trẻ khuyết tật; 40% gia
đình có người khuyết tật được tập huấn về kỹ năng, phương pháp chăm sóc
phục hồi chức năng cho người khuyết tật [21].
Dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể song vấn đề bảo vệ sức khỏe cho
trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình đang gặp phải nhiều hạn chế. Trước hết, trẻ
khuyết tật gặp khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế, đặc biệt là trẻ
khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện đi lại không thuận tiện. Hơn
nữa, phần lớn hộ gia đình có trẻ khuyết tật có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên
khả năng tiếp cận dịch vụ y tế bị hạn chế, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ y tế chất
lượng cao vượt quá khả năng tài chính của họ.
Hiện tại Quảng Bình chưa có bệnh viện chuyên khoa phẫu thuật chỉnh
hình, không có bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, chỉ có bệnh viện Y học cổ
truyền là bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh được thành lập năm 2004, với chỉ
tiêu hiện có 70 giường bệnh, chưa thành lập đủ các khoa phòng chức năng và
công tác phẫu thuật chỉnh hình được lồng ghép trong khoa, hiện tại bệnh viện
đang được tiếp tục đầu tư để từng bước đi vào hoạt động với quy mô 100 -
120 giường bệnh. Việc huy động nguồn lực, từ các tổ chức, cá nhân trong và
59
ngoài nước để hỗ trợ cho người khuyết tật luôn được quan tâm. Hàng trăm
người khuyết tật nghèo được phẫu thuật chỉnh hình, trợ giúp phục hồi chức
năng, được cung cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí; hàng ngàn người khuyết
tật hệ vận động được cấp xe lăn, xe lắc, chân tay giả miễn phí, hàng trăm ca
phẫu thuật mắt mang lại ánh sáng cho người mù, hàng ngàn suất học bổng đã
được tặng các cháu khuyết tật nghèo vươn lên học giỏi. [21].
Hiện nay, số lượng người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói
riêng có nhu cầu phục hồi chức năng tương đối lớn, tuy nhiên trên địa bàn
tỉnh các Trung tâm phục hồi chức năng cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh
đang còn ít, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chỉnh hình, phục hồi chức năng còn
hạn chế. Vì vậy, việc phục hồi chức năng cho người khuyết tật dựa vào cộng
đồng chưa đáp ứng được nhu cầu của người khuyết tật.
Theo kết quả điều tra tại Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình hiện nay số lượng trẻ khuyết tật tham
gia phục hồi chức năng tại trung tâm còn ít so với tổng số trẻ khuyết tật trên
địa bàn huyện, cụ thể:
Bảng 2.5: Số lượng trẻ em khuyết tật thuộc địa bàn quản lý của Trung
tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình
Địa bàn quản lý & số trẻ em khuyết tật trên địa bàn quản lý 2012 - 2013 2014- 2015
Tổng số địa bàn (xã) 06 2016- 2017 07
06 450 467
Tổng số trẻ em khuyết tật thuộc các địa bàn quản lý (bao gồm tất cả số trẻ em khuyết tật thuộc các xã mà trung tâm quản lý) (trẻ em)
Trong đó (chia theo dạng tật)
Khuyết tật vận động 160 216 395 190
60
Khuyết tật nghe, nói Khuyết tật nhìn Thần kinh, tâm thần Khuyết tật trí tuệ Khuyết tật khác 60 43 50 80 50 46 35 65 68 37
35 38 55 60 17 (Nguồn: Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình)
Bảng 2.6: Số lượng trẻ em khuyết tật tham gia phục hồi chức năng tại
Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình
Số trẻ em tham gia PHCN tại trung 2016- 2014- 2012-2013 tâm 2017 2015
Tổng số trẻ em khuyết tật (trẻ em) 100 100 70
Trong đó (chia theo dạng tật)
Khuyết tật vận động 46 55 40
Khuyết tật nghe, nói 10 07 02
Khuyết tật nhìn 03 05 02
Thần kinh, tâm thần 04 05 0
Khuyết tật trí tuệ 30 26 16
Khuyết tật khác 07 04 10
(Nguồn: Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình)
Theo số liệu thống kê trên, năm 2012-2013 số trẻ khuyết tật là 450 em
nhưng chỉ có 100 em tham gia phục hồi chức năng tại trung tâm, năm 2014-
2015 có 467 trẻ khuyết tật có 100 em tham gia và năm 2015-2016 có 395 trẻ
khuyết tật nhưng chỉ có 70 em tham gia. Điều này một phần do nhận thức của
nhiều gia đình về nhu cầu chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng đối với trẻ
khuyết tật hiện vẫn còn hạn chế. Nhiều gia đình không nhận thấy cần phải
61
chăm sóc sức khỏe nhiều hơn cho trẻ, cảm thấy có con khuyết tật đã là gánh
nặng về tài chính cho họ hoặc không biết chăm sóc sức khỏe cho trẻ ở đâu,
hoặc không có khả năng tiếp cận tới các dịch vụ đó ngay cả khi dịch vụ đó có
tồn tại. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nguyên nhân là cơ sở vật chất của
Trung tâm chỉ có thể tiếp nhận một số lượng trẻ khuyết tật nhất định đến tham
gia phục hồi chức năng.
Theo kết quả điều tra về trang thiết bị, công cụ, dụng cụ sử dụng để
phục hồi chức năng cho trẻ hiện nay tại trung tâm cho thấy:
Bảng 2.7: Bảng thống kê trang thiết bị của Trung tâm phục hồi chức
năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
TT Hiện trạng sử dụng (đánh dấu x vào ô tương ứng) Kém Không Còn Tốt Trung bình Số lượng Tên trang thiết bị, công cụ, dung cụ PHCN Năm sản xuất
sử dụng được
02 10 06 02 1 Xe đạp tự hành
04 01 03 02 10 01 04 15 2 Máy tập đa năng 3 Giàn tập tạ các loại 4 Khung tập đi các loại
5 Xe mủi tên tập đi 6 Máy rung toàn thân 7 Cầu trượt tập gối 8 Cầu thang tập đi 9 Ghế tập lưng 01 01 02 01 02 01 02 02 01 02 01 04
10 Ghế bại nảo 11 Đèn hồng ngoại 12 Bàn chạy bộ bằng cơ 13 Máy chạy bộ đa năng 14 Tạ các loại 02 08 01 01 20 01 03 01 01 15 03 01 02 05
2002- 2013 2002 2002 2002- 2014 2013 2014 2014 2014 2002- 2013 2010 2010 2010 2014 2008 (Nguồn: Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình)
62
Là một trong hai trung tâm phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật, tuy
nhiên hiện trạng về cơ sở vật chất tại trung tâm đang còn hạn chế, một số
trang thiết bị như máy tập đa năng, khung tập đi các loại, đèn hồng ngoại đã
không còn sử dụng được; xe mũi tên tập đi có số lượng 01 cái, ghế tập lưng 2
cái thì tất cả đều đang ở trong tình trạng chất lượng sử dụng kém; có những
dụng cụ đã sản xuất rất lâu năm và hầu như rất ít trang thiết bị được cung cấp
mới.
Các mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng mặc dù được triển
khai ở tỉnh cho đến nay chủ yếu thực hiện các hoạt động trong phạm vi của
lĩnh vực y tế, sự tham gia của các ngành thuộc các lĩnh vực khác không nhiều.
Nguồn kinh phí chi cho các chương trình này còn rất hạn chế, chủ yếu dựa
vào các tổ chức Quốc tế, Tổ chức phi Chính phủ nên kết quả thực hiện chưa
cao.Hoạt động phát hiện sớm khuyết tật và can thiệp sớm chưa thực sự phát
triển. Vì vậy trẻ thường được đưa đến các cơ sở y tế để chữa bệnh hơn là để
phòng bệnh, và việc chữa bệnh cũng gặp nhiều khó khăn do không được phát
hiện sớm. Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, việc quan tâm đến dự
phòng khuyết tật chưa thực sự được chú trọng, đặc biệt trong trường hợp các
gia đình có nhiều trẻ khuyết tật.
2.2.4. Quyền được tham gia hoạt động, văn hóa, thể thao, du lịch
Tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch sẽ giúp trẻ em khuyết
tật phát triển kỹ năng vận động, trí tuệ, nhận thức, xã hội; tăng cường sự tham
gia của trẻ khuyết tật vào đời sống xã hội; tạo nên thái độ tốt của trẻ em
khuyết tật đối với đời sống xã hội; tăng cường chất lượng cuộc sống của trẻ
em khuyết tật. Điều 4 Luật người khuyết tật đã quy định trẻ khuyết tật có
quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, được tiếp cận các dịch vụ
văn hóa, thể thao, du lịch… phù hợp với dạng tật và mức độ tiếp cận.
Thực hiện chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật, phong
trào văn hóa văn nghệ, thể thao của người khuyết tật nói chung và trẻ em
63
khuyết tật nói riêng nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành và các địa
phương trong tỉnh. Đặc biệt ngành văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh đã thực
hiện lồng ghép các hoạt động nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa, thể thao,
du lịch cho người khuyết tật ở cộng đồng.
Kết quả miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ văn hóa, thể thao, giải trí và du
lịch theo quy định của Luật người khuyết tật và văn bản hướng dẫn thi hành
Luật được thực hiện đã được triển khai. Năm 2013, Đoàn thể thao Người
khuyết tật Quảng Bình tham gia thi đấu giải thể thao Người khuyết tật toàn
quốc tổ chức tại Hà Nội. Đoàn khuyết tật Quảng Bình tham gia thi đấu ở môn
bơi lội và đạt được 04 huy chương bạc và 02 huy chương đồng, xếp thứ 20
toàn đoàn. Năm 2015, thực hiện các mục tiêu về các lĩnh vực văn hóa, thể
thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục phối hợp với Hội Bảo trợ
người tàn tật, trẻ mồ côi thành lập Đoàn thể thao người khuyết tật tỉnh Quảng
Bình tham gia thi đấu thể thao Người khuyết tật toàn quốc được tổ chức tại
tỉnh Đồng Nai. Đây là dịp để động viên người khuyết tật có điều kiện hòa
nhập cộng đồng và thể hiện tài năng, phấn đấu vào đội tuyển quốc thể thao
người khuyết tật Việt Nam tham gia các giải thể thao khuyết tật quốc tế, đồng
thời thể hiện sự quan tâm của tỉnh đối với người khuyết tật.[21]
Theo số liệu thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, năm
2015 toàn tỉnh có 159 câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ của người khuyết tật; 200
người khuyết tật tham gia câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ; 159 câu lạc bộ thể
dục, thể thao của người khuyết tật, 1.425 người khuyết tật tham gia câu lạc bộ
thể dục thể thao. Qua số liệu trên cho thấy phong trào hoạt động văn hóa, văn
nghệ và thể dục, thể thao của người khuyết tật khá sôi nổi và tạo sân chơi, cải
thiện đời sống tinh thần cho người khuyết tật.
Đối với trẻ khuyết tật, các trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật cũng rất
quan tâm đến những hoạt động này của trẻ và đạt được những thành tích đáng
khích lệ. Cụ thể Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Hới trong năm 2011,
64
tại Hội thi thể thao học sinh khuyết tật toàn quốc tại thành phố Thái Bình (tỉnh
Thái Bình). Các em đã lập thành tích xuất sắc bao gồm 9 huy chương vàng, 7
huy chương bạc, 10 huy chương đồng, kết quả xếp thứ nhất toàn đoàn. Trong
năm 2013 đoàn vận động viên học sinh Trung tâm tham dự Hội thi thể thao
học sinh khuyết tật toàn quốc lần thứ V tại thành phố Thái Nguyên giành
được 2 huy chương vàng, 20 huy chương bạc, 10 huy chương đồng, kết quả
xếp thứ ba toàn đoàn. Tại Hội thi thể thao học sinh khuyết tật toàn quốc lần
thứ VI năm 2015, tổ chức tại thành phố Cần Thơ, học sinh trung tâm giành
được 05 huy chương vàng, 02 huy chương bạc, 02 huy chương đồng, góp
phần quyết định cho Đoàn vận động viên học sinh khuyết tật Quảng Bình xếp
thứ ba toàn đoàn.
Về hoạt động mỹ thuật, nhân ngày Quốc tế Người khuyết tật 3/12/2015,
tại Hội thi vẽ tranh về Người khuyết tật do Hội Vì sự phát triển của Người
khuyết tật Quảng Bình phối hợp với tổ chức Caritas (Thụy Sĩ) tổ chức: Học
sinh trung tâm tham gia 10 em, đạt thành tích xuất sắc (7/10 em có giải ): 01
giải nhất, 02 giải nhì, 02 giải ba, 02 giải khuyến khích; được Ban tổ chức
đánh giá cao. Đầu học kỳ 2, năm học 2015-2016, tại Liên hoan vẽ tranh
“Rừng xanh ước mơ”, 02 học sinh trung tâm tham gia cùng với học sinh các
trường tiểu học trong thành phố, do Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức các
em giành được 01 giải nhì, 01 giải ba.
Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch cũng tổ chức cho học
sinh khuyết tật tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao và đạt được những
kết quả tích cực. Trong năm học 2016-2017, tại Hội khỏe phù đổng huyện
trung tâm đạt giải nhất các môn điền kinh, bật xa của học sinh khiếm tính và
khiếm thị. Trong cuộc thi ONKYO do Hiệp hội người mù Châu Á Thái Bình
Dương (WBUAP) phát động có 01 em học sinh khiếm thị được chọn bài để
tham dự tại Trung ương Hội. Một học sinh khiếm thị được lựa chọn vẽ tranh
65
về Người khuyết tật qua góc nhìn nghệ thuật do APEC tổ chức đi tham dự
Liên hoan nghệ thuật Châu Á Thái Bình Dương tổ chức tại Đài Loan.
Với nhiều hoạt động sôi nổi, lý thú trên phạm vi toàn tỉnh, nhiều em
khuyết tật đã được tạo điều kiện vui chơi, giao lưu văn hóa văn nghệ, tham
gia những trò chơi kỹ năng bổ ích và quyền về tiếp cận văn hóa, thể thao, giải
trí của trẻ em khuyết tật nhờ đó được đảm bảo. Những hoạt động ấy không chỉ
góp phần rèn luyện sức khỏe, rèn luyện nhân cách, tinh thần vượt khó mà còn
có ý nghĩa thúc đẩy sự hòa nhập cộng đồng cho nhóm trẻ kém may mắn này.
Hơn nữa, nhờ các hoạt động thể thao, vui chơi... cơ thể được vận động, sức
khoẻ được tăng cường, đặc biệt có ích đối với trẻ em khuyết tật. Thông qua
vui chơi, trẻ em khuyết tật tìm hiểu thế giới xung quanh, giúp tăng cường hiểu
biết, tích luỹ kinh nghiệm sống. Nhờ sự lôi cuốn hấp dẫn của các hoạt động
vui chơi, thể thao, giải trí, trẻ khuyết tật có thể quên được những đau đớn, khó
khăn vất vả khi cử động một phần nào đó của thân thể. Cũng nhờ những hoạt
động ấy mà trẻ em chậm phát triển trí tuệ có thể tập trung lâu hơn, học và nhớ
dễ dàng hơn. Do vậy, những hoạt động thể thao, vui chơi, giải trí là những
hình thức tập luyện hấp dẫn nhất đối với trẻ khuyết tật.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực song việc bảo vệ quyền tham
gia văn hóa, thể thao, giải trí còn hạn chế. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, tỷ lệ trẻ em khuyết tật tham gia văn hoá, thể thao
chưa cao. Nhận thức xã hội về vấn đề trẻ em khuyết tật còn hạn chế. Sự thiếu
đồng bộ trong hệ thống chính sách khiến nhiều trẻ em khuyết tật gặp trở ngại
trong việc hòa nhập. Việc huy động sự ủng hộ từ bản thân nội lực các cơ quan
tổ chức chưa nhiều, năng lực sử dụng có hiệu quả nguồn ủng hộ từ các tổ
chức quốc tế còn hạn chế. Hạ tầng cơ sở thể dục thể thao hầu hết chưa đầy đủ
để phục vụ cho trẻ khuyết tật tham gia tập luyện.
Vươn lên hoà nhập cộng đồng là ước ao, mong mỏi của tất cả trẻ em
khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình nói riêng. Việc khiếm
66
khuyết đi một phần về thể chất không làm mất đi giá trị cũng như năng lực
của người khuyết tật nhưng do những rào cản vô hình như sự phân biệt đối xử
từ cộng đồng cũng như bản thân sự mặc cảm của nhiều người khuyết tật, việc
tham gia hoạt động, văn hóa,thể thao, du lịch của nhiều trẻ em khuyết tật gặp
khó khăn. Một trong những khó khăn đó là trẻ em khuyết tật gặp phải là sự
cảm thông của xã hội về tình trạng khuyết tật của họ. Nhiều trẻ em khuyết tật
không dám đến các nơi công cộng, không dám tham gia các hoạt động vui
chơi, giải trí vì sợ bị nhiều ánh mắt để ý khiến các em cảm thấy tự ti, mặc
cảm. Ngoài ra, khó khăn nằm trong chính nội lực của trẻ em khuyết tật khi
nhiều trẻ em khuyết tật còn chưa thực sự cố gắng để vượt qua khiếm khuyết,
hoà nhập cộng đồng và khẳng định bản thân. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của
các địa phương trên địa bàn tỉnh hiện nay để giúp trẻ khuyết tật tiếp cận được
với các hoạt động giải trí còn rất hạn chế, từ các công trình cho trẻ khuyết tật
đến các hoạt động hỗ trợ cho các em còn ít. Trẻ em khuyết tật cũng là những
đối tượng cần vui chơi, giải trí giống bao trẻ em khác, hoạt động giải trí cho
các em cần phù hợp với khả năng của mỗi người.
2.2.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng
Theo báo cáo 5 năm thực hiện Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp
người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, các Sở, ngành, địa phương đã có cố
gắng trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng đối với
người khuyết tật như: quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng công trình công cộng
bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa chữa các công trình công
cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Các công trình là trụ sở làm việc của
cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; công trình văn hóa, thể dục thể
thao trên địa bàn tỉnh cơ bản đảm bảo điều kiện tiếp cận đối với người khuyết
tật. Điều này, bước đầu đã tạo ra cơ hội cho người khuyết tật tham gia vào các
hoạt động xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định cuộc sống, hòa
nhập cộng đồng. Tuy nhiên, số lượng các công trình, hạ tầng cơ sở bảo đảm
67
điều kiện tiếp cận cho người khuyết tật còn rất ít. Nhất là việc tiếp cận các
công trình giao thông, cơ quan hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học...
Nguyên nhân chính là do nhận thức và quan tâm của xã hội đối với người
khuyết tật còn hạn chế, do thiếu nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các
công trình, thiếu chế tài xử phạt và sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp
luật.
Kết quả thực hiện việc miễn, giảm giá vé, giá dịch vụ giao thông công
cộng: Đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng khi tham
gia giao thông bằng các phương tiện công cộng như xe buýt... đều được xem
xét giảm, miễn giá vé, giá dịch vụ. Ngoài ra, người khuyết tật đặc biệt nặng,
người khuyết tật nặng khi tham gia giao thông trên các tuyến vận tải nội địa
bằng các phương tiện máy bay, tàu hỏa, tàu điện, tàu thủy, xe ô tô vận tải
khách theo tuyến cố định đều được xem xét giảm giá vé theo quy định tại
Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
Kết quả thực hiện lộ trình cải tạo nhà chung cư, công trình công cộng:
Một số công trình xây dựng công cộng đã được cải tạo để tăng khả năng tiếp
cận cho người khuyết tật như Ga tàu, các khách sạn, trụ sở các cơ quan, nghĩa
trang và các công trình công cộng… Điều này, bước đầu đã tạo ra cơ hội cho
người khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội và phát huy khả năng của
mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng.
Về cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng đã có một số công trình đô thị có
lối đi riêng dành cho trẻ khuyết tật. Trong kế hoạch 2016-2020 của Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội phấn đấu có 60% công trình là trụ sở làm việc
của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
cơ sở giáo dục, dạy nghề, công trình văn hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư
bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật.
68
Theo số liệu thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, các
chỉ tiêu về việc thực hiện quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công
cộng của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh như sau:
Bảng 2.8: Bảng thống kê về mức độ tiếp cận nhà ở, trụ sở cơ quan nhà
nước, công trình xây dựng của người khuyết tật năm 2016
TT Các chỉ tiêu về tiếp cận nhà ở, trụ sở Đơn vị Số liệu
cơ quan nhà nước, công trình xây
dựng
1 Tỷ lệ công sở hành chính nhà nước đảm % 30
bảo tiếp cận của người khuyết tật
Tỷ lệ công trình TDTT đảm bảo tiếp cận 2 % 20
Tỷ lệ công trình văn hóa đảm bảo tiếp 3 % 30
cận
Tỳ lệ công trình Y tế đảm bảo tiếp cận 4 % 40
Tỷ lệ nhà ga, bến xe đảm bảo tiếp cận 5 % 25
Tỷ lệ công trình dịch vụ (Bưu điện, ngân 6 % 30
hàng, siêu thị) đảm bảo tiếp cận
(Nguồn: Sở Lao động, Thương bình và Xã hội Quảng Bình)
Qua số liệu thống kê có thể các chỉ tiêu về tiếp cận nhà ở, trụ sở cơ
quan nhà nước, công trình xây dựng ở Quảng Bình chưa đáp ứng được nhu
cầu của người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng, các tỷ lệ
còn đang ở mức rất thấp và chưa đạt theo yêu cầu. Điều này cho thấy một số
công trình có tính đến nhu cầu tiếp cận nhưng do không tuân thủ đúng các
quy định đã được nêu trong các văn bản hiện hành nên không đảm bảo tiếp
cận. Hiện nay Bộ Xây dựng đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây
dựng công trình đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng, áp dụng cho nhà
chung cư; công trình công cộng: trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; cơ sở
69
khám, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình văn hóa, thể dục, thể
thao; công trình khách sạn, thương mại, dịch vụ; nhà ga, bến tàu, bến xe,
đường, hè phố, hầm đi bộ, cầu vượt, và các công trình hạ tầng kỹ thuật và tiện
ích đô thị khác (nhà tang lễ, nghĩa trang, nhà vệ sinh công cộng, điểm chờ xe
buýt, máy rút tiền tự động, điểm truy cập internet công cộng…) trong đó có
các quy định về đường vào công trình, lối vào, cửa, thang máy, các không
gian công cộng... Tuy nhiên hiện nay các công trình xây dựng ở tỉnh Quảng
Bình chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Trong bãi đỗ xe công cộng và
bãi đỗ xe trong các tòa nhà chưa có chỗ đỗ xe của trẻ em khuyết tật vận động;
hai bên đường dốc vào công trình chưa bố trí lan can, tay vịn liên tục; Các
công trình chưa có lối vào đảm bảo trẻ em khuyết tật tiếp cận sử dụng. Đặc
biệt hiện nay, tại các trung tâm lớn của tỉnh như thành phố Đồng Hới, các khu
vực như nơi ngồi chờ, chỗ xếp hàng để làm thủ tục đăng ký hay thanh toán,
quầy bán hàng, nơi đổi tiền, rút tiền, trạm điện thoại công cộng, khu vực vui
chơi giải trí, dịch vụ ăn uống hoặc tại các bề mặt làm việc trong các công
trình công cộng chưa đảm bảo trẻ em khuyết tật tiếp cận sử dụng; nhiều dự án
cải tạo công viên, vườn hoa, khu vui chơi trẻ em chưa đạt tiêu chuẩn hoặc
chưa tính đến nhu cầu tiếp cận của trẻ khuyết tật. Ví dụ như bảo tàng thành
phố, các trường học, ga Đồng Hới… không có lối đi riêng cho trẻ khuyết tật.
Nhu cầu khám chữa bệnh rất thiết yếu đối với trẻ em khuyết tật nhưng hầu hết
bệnh viện trên toàn tỉnh không có lối đi riêng cho trẻ em khuyết tật.
Bảng 2.9: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về giao thông tiếp cận
cho người khuyết tật năm 2016
TT Các chỉ tiêu về giao thông tiếp cận 1 Đơn vị % Số liệu 20%
2 % 30%
Tỷ lệ xe buýt đảm bảo tiếp cận của người khuyết tật Tỷ lệ nhà chờ bến xe, bến tàu đảm bảo tiếp cận Tỷ lệ công trình cảng hàng không đảm 3 % 100%
70
4 Người 100%
5 Người 100%
6 Người 100%
bảo tiếp cận Số người khuyết tật được cấp thẻ đi xe bus miễn phí Số lượt người khuyết tật được giảm giá vé khi tham gia giao thông đường sắt Số lượt người khuyết tật được giảm giá vé khi tham gia giao thông hàng không
(Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Quảng Bình)
Về giao thông tiếp cận, các chỉ tiêu về số người khuyết tật được cấp thẻ
đi xe bus miễn phí, số lượt người khuyết tật được giảm giá vé khi tham gia
giao thông đường sắt, số lượt người khuyết tật được giảm giá vé khi tham gia
giao thông hàng không ở tỉnh Quảng Bình đạt tỷ lệ 100%, thực hiện đúng quy
định người khuyết tật, trong đó có trẻ em khuyết tật khi tham gia các phương
tiện giao thông công cộng sẽ được ưu tiên mua vé tại các cửa bán vé, trẻ em
khuyết tật nặng, đặc biệt nặng được miễn giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao
thông bằng xe buýt, được giảm tối thiểu 15% đối với máy bay; giảm tối thiểu
25% đối với tàu hỏa, tàu thủy, tàu điện, xe ô tô vận tải khách theo tuyến cố
định. Tuy nhiên đối với những chỉ tiêu như xe buýt đảm bảo tiếp cận của
người khuyết tật; nhà chờ bến xe, bến tàu đảm bảo tiếp cận chỉ đạt tỷ lệ rất
thấp là 20% và 30%. Phần lớn các phương tiện giao thông cộng cộng và bến
đỗ, nhà chờ xe chưa có thiết kế phù hợp với hành khách khuyết tật làm cho
việc trẻ khuyết tật cho dù đã được phát thẻ đi xe buýt miễn phí cũng không
thể sử dụng được. Hiện nay ở Quảng Bình phương tiện giao thông cho trẻ
khuyết tật rất ít và chỉ được xây dựng ở thành phố, còn các khu vực khác, trẻ
khuyết tật rất khó để có thể tiếp cận nếu muốn di chuyển bằng phương tiện
công cộng. Xe buýt tại Quảng Bình không có lối lên xuống cho người khuyết
tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.Hơn nữa, dù có khả năng tham gia
giao thông bằng xe buýt, nhưng với trẻ em khiếm thị, việc xác định số xe,
điểm đến là cực kỳ khó khăn nếu không có sự hỗ trợ giúp đỡ của người xung
71
quanh.
Các vỉa hè sang đường ở Quảng Bình rất khó sử dụng cho người khiếm
thị và trẻ khuyết tật vận động vì không có lối dẫn, không có chữ nổi Braille và
tín hiệu âm thanh trên các chỉ dẫn của đèn giao thông cho người khiếm thị,
không có đường dốc cho người đi xe lăn... Ở thành phố Đồng Hới và một số
trung tâm khác tình trạng vỉa hè bị lấn chiếm làm nơi buôn bán, đặt biển
quảng cáo, chỗ để xe máy, xe ô tô, khiến trẻ khuyết tật không có lối đi cũng
xảy ra phổ biến. Người sử dụng xe lăn tay chỉ có thể sử dụng vỉa hè tại trung
tâm thành phố, một vài nơi cột đèn tín hiệu giao thông lại cản trở lối lên
xuống vỉa hè cho xe lăn tay.
Bảng 2.10: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về công nghệ thông tin-
truyền thông cho người khuyết tật năm 2016
TT Đơn vị
Chỉ tiêu về công nghệ thông tin - Truyền thông
1 Trang ĐT Số liệu 20%
2 Lần/tháng 2
3 Lần/tháng 2
Số trang thông tin điện tử đảm bảo tiếp cận của người khuyết tật Số lần phát thanh chuyên mục người khuyết tật hàng tháng (bao gồm cả tiếp sóng TW) Số lần phát sóng truyền hình chuyên mục người khuyết tật hàng tháng (bao gồm cả tiếp sóng TW)
(Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Quảng Bình)
Về công nghệ thông tin truyền thông, các chỉ tiêu cho thấy về cơ bản,
người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng đã nhận được sự
quan tâm nhất định từ phía các cấp, các ngành trong tỉnh. Tuy nhiên đa số
trẻkhuyết tật và gia đình có trẻ khuyết tật ở Quảng Bình hiện nay có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, vì vậy, việc có công nghệ và có điều kiện tiếp cận với
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông gặp rất nhiều trở ngại. Hình thức
thông tin được đăng tải trên các phương tiện đại chúng còn chưa phong phú,
72
đa dạng, nhiều loại sách báo giải trí dành cho trẻ em như truyện cổ tích, báo
nhi đồng… đều không đảm bảo cho trẻ khuyết tật tiếp cận theo dõi, nhất là
nhóm trẻ em khiếm thị, khiếm thính. Tiếp cận thông tin bằng internet dù phổ
biến và hiệu quả tuy nhiên số lượng trẻ em khuyết tật được tiếp cận và sử
dụng nó còn hạn chế, đặc biệt là trẻ khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, vùng
nông thôn, miền núi. Những điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp
cận công nghệ thông tin truyền thông của trẻ em khuyết tật trên thực tế.
2.3. Đánh giá chung về quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình
2.3.1. Kết quả đạt được
Quảng Bình là một trong những tỉnh đang gặp nhiều khó khăn về phát
triển kinh tế xã hội, tuy nhiên công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
nói chung và bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật nói riêng luôn được sự quan
tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, nhà trường, gia đình. Trẻ em
vốn còn non nớt về tinh thần và thể chất, rất cần sự quan tâm, chăm sóc,
thương yêu của toàn xã hội. Đặc biệt trẻ em khuyết tật là đối tượng yếu thế
trong xã hội, đa số các em còn nhiều thiệt thòi, hầu hết các em sinh ra và lớn
lên trong các gia đình nghèo khổ, tình trạng vật chất thấp kém, thiếu thốn lại
thêm nhiều mặc cảm về tật nguyền. Vì vậy việc thực hiện đầy đủ các quyền
trẻ em khuyết tật không chỉ là tình cảm mà còn là yêu cầu của pháp luật.
Trong những năm qua, việc thực hiện quyền trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình
đã đạt được một số kết quả, cụ thể:
Thứ nhất, các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện quy định của pháp
luật về quyền trẻ em nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật. Cụ thể để thực
hiện Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP
ngày 10/4/2012 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật khuyết tật; Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020
và các văn bản khác của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương đối với người
73
khuyết tật, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành các văn bản triển khai thực
hiện chế độ, chính sách đối với người khuyết tật trên địa bàn, cụ thể: Quyết
định số 3271/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của UBND tỉnh về việc Phê duyệt
Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014-2020; Kế
hoạch số 254/KH-UBND ngày 14/3/2013 về triển khai Kế hoạch trợ giúp xã
hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa
vào cộng đồng tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2015; Kế hoạch số 1178/KH-
UBND ngày 15/10/2013 của UBND tỉnh về triển khai công tác phục hồi chức
năng cho người khuyết tật giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020;
Kế hoạch số 470/KH-UBND ngày 21/4/2014 của UBND tỉnh về triển khai
chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật năm 2014 trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình; Công văn số 1155/VPUBND ngày 01/7/2013 về việc thực hiện
việc xác định mức độ khuyết tật và chính sách đối với người khuyết tật tại địa
phương; Công văn số 1072/UBND-VX ngày 28/8/2015 về việc tăng cường
quản lý công tác khám sức khỏe, xác nhận người bệnh tâm thần trên địa bàn
tỉnh.
Hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các Sở, ban, ngành, địa
phương triển khai cụ thể hóa, lồng ghép công tác trẻ em khuyết tật vào kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đơn vị mình nhằm đảm bảo quyền lợi và
nghĩa vụ của trẻ em khuyết tật. Ủy ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm, chỉ đạo
các Sở, ban, ngành liên quan, ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố
xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện đề án trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2014-2020. Bằng những hoạt động tuyên truyền; phát hiện, can thiệp
sớm, phẫu thuật chỉnh hình cho trẻ em khuyết tật; trợ giúp giáo dục; chính
sách bảo trợ xã hội... nhằm hỗ trợ trẻ em khuyết tật phát huy khả năng của
mình để đáp ứng nhu cầu bản thân; tạo điều kiện để trẻ em khuyết tật vươn
lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội.
74
Thứ hai, công tác xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật được
chỉ đạo thực hiện có hiệu quả: Thông qua Hoạt động của Hội bảo trợ Người
tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh, Hội Vì sự phát triển của Người khuyết tật, Hội Chữ
thập đỏ, Quỹ Bảo trợ trẻ em… Từ năm 2011-2015 đã hỗ trợ 1.092 xe lăn, xe
lắc cho người khuyết tật, phẫu thuật tim, mắt cho 1.200 trẻ, phục hồi chức
năng cho 596 người khuyết tật góp phần giúp người khuyết tật giải quyết
những khó khăn trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Công tác thông tin,
tuyên truyền được thực hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại
chúng và thông qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ có sự tham gia của
người khuyết tật nhằm thúc đẩy sự thay đổi nhận thức và hành vi của toàn xã
hội.Các ngày 18/4; ngày 3/12 hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội phối hợp với các Sở, ban ngành liên quan tổ chức các hoạt động tuyên
truyền về chính sách đối với người khuyết tật thông qua các hình thức như hội
nghị, hội thảo...
Thứ ba, các trường học đã phối hợp với chính quyền địa phương và cha mẹ
học sinh để vận động học sinh trong độ tuổi đến trường. Việc huy động trẻ khuyết
tật hoà nhập cộng đồng đã giúp các em xoá dần mặc cảm, giúp các em hoà nhập
vào môi trường sống, biết cách sinh hoạt tập thể, rèn luyện một số kỹ năng sống
nhất định. Tổ chức bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về kiến thức
kỹ năng giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở trường phổ thông và kiến thức
nâng cao ở trường chuyên biệt. Cán bộ quản lý được nâng cao năng lực về
xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá, giám sát công tác
giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật.
Thứ tư, việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng đối với
trẻ em khuyết tật đã được quan tâm như: quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng
công trình công cộng bảo đảm cho trẻ em khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa
chữa các công trình công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Các công
trình là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; công
75
trình văn hóa, thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh đã phần nào đảm bảo điều
kiện tiếp cận đối với trẻ em khuyết tật. Điều này, bước đầu đã tạo ra cơ hội
cho trẻ em khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội và phát huy khả năng
của mình để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.Đối với trẻ em khuyết tật
đặc biệt nặng, trẻ em khuyết tật nặng khi tham gia giao thông bằng các
phương tiện công cộng như xe buýt... đều được xem xét giảm, miễn giá vé,
giá dịch vụ. Ngoài ra, trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng, trẻ em khuyết tật nặng
khi tham gia giao thông trên các tuyến vận tải nội địa bằng các phương tiện
máy bay, tàu hỏa, tàu điện, tàu thủy, xe ô tô vận tải khách theo tuyến cố định
đều được xem xét giảm giá vé theo quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
Thứ năm,công tác chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng cho trẻ em
khuyết tật được triển khai bằng nhiều hình thức như: hướng dẫn gia đình
chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em khuyết tật, hướng dẫn trẻ em khuyết tật tự
chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng; phân công cán bộ phụ trách thăm
khám sức khoẻ cho trẻ em khuyết tật trên địa bàn; thực hiện chính sách ưu
tiên trong khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật; lập sổ quản lý, theo
dõi sức khoẻ cho trẻ em khuyết tật. 100% người khuyết tật thuộc hộ gia đình
nghèo, dân tộc thiểu số thuộc vùng khó khăn, người khuyết tật là trẻ em dưới
6 tuổi và người khuyết tật đang hưởng bảo trợ xã hội được cấp thẻ bảo hiểm y
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật khám chữa bệnh, chăm sóc
sức khỏe; hàng năm 70% người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các
hình thức khác nhau; 65% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát
hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các
dạng khuyết tật; khoảng 650 trẻ em và người khuyết tật được phẫu thuật chỉnh
hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp; 60% cán bộ
làm công tác trợ giúp người khuyết tật được tập huấn, nâng cao năng lực quản
lý, chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật; 40% gia đình có người khuyết tật được
76
tập huấn về kỹ năng, phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho người
khuyết tật.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện quyền trẻ em khuyết
tật ở Quảng Bình vẫn còn một số hạn chế sau:
- Hiện nay chưa có cơ sở sản xuất lồng ghép hoặc dành riêng cho người
khuyết tật, ít có nhà tài trợ, doanh nghiệp, nhận người vào làm việc, nguồn
sinh sống của người khuyết tật chủ yếu phụ thuộc vào người thân trong gia
đình;
- Số lượng các công trình, hạ tầng cơ sở bảo đảm điều kiện tiếp cận cho
trẻ khuyết tật còn rất ít. Nhất là việc tiếp cận các công trình giao thông, cơ
quan hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học... Nguyên nhân chính là do
nhận thức và quan tâm của xã hội đối với trẻ khuyết tật còn hạn chế, do thiếu
nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các công trình, thiếu chế tài xử phạt và
sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật.Đa số các công trình có kết cấu
hạ tầng giao thông chưa đảm bảo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về kết cấu hạ
tầng giao thông để trẻ khuyết tật tiếp cận sử dụng, các phương tiện vận tải
hành khách công cộng chưa đáp ứng các quy chuẩn về giao thông tiếp cận.
Do đó, tỷ lệ trẻ khuyết tật tham gia giao thông bằng các phương tiện giao
thông công cộng rất thấp;
- Nhận thức của xã hội về vấn đề trẻ khuyết tật còn hạn chế. Sự thiếu
đồng bộ trong hệ thống chính sách khiến nhiều trẻ khuyết tật gặp trở ngại
trong việc hòa nhập. Việc huy động sự ủng hộ từ bản thân nội lực các cơ quan
tổ chức trong nước chưa nhiều; năng lực quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn ủng hộ từ các tổ chức quốc tế còn hạn chế. Hạ tầng cơ sở thể dục thể
thao hầu hết đều chưa có để phục vụ cho trẻ khuyết tật đến tham gia tập
luyện.
77
- Sự quan tâm của một số địa phương trong việc chăm sóc sức khỏe cho
trẻ khuyết tật chưa cao; một số trường chưa có điều kiện tổ chức cho học sinh
khuyết tật trong việc sinh hoạt như: ăn, ở, phương tiện đi lại; học sinh gặp
nhiều khó khăn khi đến lớp;
- Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục hòa nhập chưa đạt yêu cầu, hầu hết
các nhà trường chưa được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dành riêng
cho học sinh khuyết tật, chưa có không gian tiếp cận và phòng hỗ trợ giáo dục
hòa nhập cho học sinh khuyết tật. Nhìn chung thực hiện giáo dục hòa nhập trẻ
em khuyết tật tại địa phương còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết
bị đồ dùng dạy học hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật đã ảnh
hưởng đến việc giáo dục cho trẻ em khuyết tật.
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn thấp so với mặt bằng, chưa đảm
bảo được những nhu cầu sống tối thiểu của trẻ em khuyết tật. Số lượng cơ sở
chăm sóc trẻ em khuyết tật ít, đa số là các cơ sở nuôi dưỡng tập trung nhiều
loại đối tượng, chưa có cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật riêng
biệt.
Những nguyên nhân dẫn đến trẻ em khuyết tật chưa được bảo vệ các
quyền của mình một cách đầy đủ
Thứ nhất, một số cấp ủy, chính quyền ở cơ sở chưa nhận thức đầy đủ
về tính cấp bách và tầm quan trọng của công tác bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật; chưa dành sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức cho công tác
này. Sự tham gia của các ngành, đoàn thể ở một số nơi còn hạn chế; sự phối
hợp giữa gia đình, nhà trường, các đoàn thể và xã hội còn thiếu chặt chẽ.
Công tác vận động tuyên truyền cho cá nhân, tổ chức, xã hội và cho chính trẻ
khuyết tật và gia đình trẻ khuyết tật về vấn đề khuyết tật chưa thật sự đi vào
chiều sâu, hiệu quả tuyên truyền ở một số nơi còn thấp, cách làm còn nặng
hình thức. Hơn nữa, hoạt động này đa phần chỉ được tiến hành chủ yếu vào
các ngày lễ, ngày truyền thống như Ngày người khuyết tật Việt Nam, Ngày
78
quốc tế thiếu nhi, Trung thu… Vì vậy, nhiều trẻ khuyết tật, gia đình có trẻ
khuyết tật, cá nhân, cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn chưa biết
đến nội dung của những chính sách đối với trẻ khuyết tật.Công tác phát hiện,
ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện chính sách đối với trẻ
em có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa chủ động;
Thứ hai, hệ thống pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật chưa hoàn
thiện, chưa có hệ thống giám sát đầy đủ việc thực thi các quyền của trẻ trên
thực tế. Hơn nữa, chính quyền các cấp các ngành chưa dành sự quan tâm đúng
mức đến nhóm đối tượng này. Vì lẽ đó, tình trạng trẻ khuyết tật bị phân biệt
đối xử, bị miệt thị, bạo lực, lãng quên vẫn xảy ra, gây nhiều khó khăn trong
quá trình thụ hưởng các quyền một cách bình đẳng và hiệu quả.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội của tỉnh nhà còn nhiều khó khăn,
nhất là hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục đang là rào cản lớn đối với người
khuyết tật. Nguồn lực bao gồm cả nhân lực và vật lực để còn hạn chế (thiếu
đội ngũ y bác sĩ cộng đồng, cơ sở y tế thấp kém, thiếu giáo viên dạy hòa nhập
cung như chuyên biệt, giáo viên dạy nghề; thiếu cán bộ xã hội ở cơ sở,
phương tiện giao thông...)
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác bảo đảm quyền trẻ
em khuyết tật chưa được quan tâm thực hiện đúng mức. Đội ngũ cán bộ phụ
trách, cộng tác viên trên địa bàn tỉnh đa phần là kiêm nhiệm nên không tập
chung chuyên sâu cho lĩnh vực này
Thứ năm, bản thân trẻ em khuyết tật, các tổ chức của người khuyết tật
chưa thật sự làm tốt vai trò chủ thể của mình, vai trò phản biện, kiểm tra,
giám sát đối với các ngành các cấp trong việc thực hiện Đề án nói riêng, cũng
như các chính sách khác nói chung.
79
Tiểu kết chương 2
Trong nội dung chương 2, tác giả đã phân tích thực trạng quyền trẻ em
khuyết tật trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đánh giá việc thực hiện các quy định
của pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế về quyền trẻ em khuyết tật.
Với số lượng trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình hiện nay, có thể thấy tình hình
trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình vẫn đang trong tình trạng đáng lo ngại. Mặc
dù trong thực tế, các quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật đã được các cấp ủy
Đảng, các cấp chính quyền và cộng đồng trong tỉnh quan tâm, nhiều chương
trình, dự án đã được triển khai để nhằm ngày càng thực hiện tốt hơn các nhu
cầu của trẻ khuyết tật. Tuy nhiên vẫn có những trẻ em khuyết tật chưa được
hưởng trọn vẹn các quyền của mình, đặc biệt là những trẻ em ở vùng sâu,
vùng xa, các vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn. Những gì các em
đã và đang được hưởng thực sự chưa tương thích với những quy định của
pháp luật quốc tế.
Từ thực trạng thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình, tác
giả đã đưa ra những đánh giá chung về quyền của trẻ em khuyết tật, trong đó
tác giả đã phân tích những kết quả đạt được cũng như những hạn chế và
nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó. Trong đó chủ yếu tác giả tập trung làm rõ
các nguyên nhân từ nhận thức của các cấp chính quyền, của cộng đồng; từ hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện; điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh... Điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật trong
thực tế. Vì vậy cần phải có các giải pháp nhằm phát huy những kết quả đã đạt
được đồng thời khắc phục các hạn chế nhằm tiến tới thực hiện một cách đầy
đủ, hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật trong thời gian tới.
80
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM KHUYẾT
TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình
Bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật là một trong những nhiệm vụ mang
tính cấp bách và lâu dài nhằm giúp các em có thể thụ hưởng được tất cả các
quyền cơ bản vốn có của mình. Điều 23, Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em quy định các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em
khuyết tật được hưởng một cuộc sống đầy đủ và tươm tất, được bảo vệ phẩm
giá, thúc đẩy khả năng tự lực và tạo điều kiện cho các em tham gia vào cộng
đồng. Các quốc gia thành viên phải công nhận quyền được chăm sóc đặc biệt
của trẻ bị khuyết tật. Thực hiện tinh thần của các Công ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia, Đảng và Nhà nước Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói
riêng luôn có quan điểm và chính sách nhất quán về quyền trẻ em, đặc biệt là
trẻ em khuyết tật. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật
được coi là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của các cấp ủy
đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương, là một vấn đề ưu tiên trong
mọi chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa
phương với những quan điểm sau:
Thứ nhất, bảo đảm cho trẻ em khuyết tật là trách nhiệm của Nhà
nước, xã hội và gia đình.
Để trẻ em khuyết tật được sống trong môi trường thật sự thuận lợi, ở đó
các em được học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi và tham gia các hoạt động
như những đứa trẻ bình thường khác, các chủ thể gia đình, các cộng đồng và
Nhà nước đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ các quyền
của các em, đặc biệt là các quyền dành riêng cho trẻ em khuyết tật. Trong mọi
hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em
khuyết tật thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu. Cụ thể:
81
Nhà nước xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách đầu tư, thực
hiện xã hội hóa, mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật; có chính sách tạo điều kiện cho trẻ em
khuyết tật, đặc biệt là trẻ em khuyết tật của hộ nghèo, cư trú ở vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; có chính sách hỗ trợ gia đình thực hiện trách nhiệm bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật. Để thực hiện tốt vai trò trên, Nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong tỉnh bao gồm Ủy ban
nhân dân các cấp, các cơ quan ban ngành, đặc biệt là các cơ quan trực tiếp
thực hiện chức năng chăm sóc và bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật trên cơ
sở nhiệm vụ, quyền hạn được quy định, tổ chức thực hiện tốt các nội dung về
quyền của trẻ em khuyết tật, bảo đảm cho các em được thụ hưởng đầy đủ các
chính sách quan tâm, chăm sóc của Nhà nước đối với đối tượng yếu thế này.
Để các quyền của trẻ em khuyết tật được thực hiện đầy đủ trong thực
tế, rất cần sự chung tay của toàn xã hội, cụ thể là thông qua vai trò của các tổ
chức xã hội. Cụ thể là các tổ chức xã hội trước hết thực hiện tuyên truyền, vận
động, giáo dục về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật; phát triển
phúc lợi xã hội cho các em, tạo cơ hội thuận lợi để trẻ em khuyết tật thực hiện
quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo
đức; cung cấp dịch vụ chăm sóc, trợ giúp trẻ khuyết tật; vận động gia đình, xã
hội thực hiện tốt việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật; chăm
lo, bảo vệ quyền lợi của các em, giám sát việc chấp hành pháp luật về trẻ
khuyết tật, đưa ra những kiến nghị cần thiết đối với các cơ quan nhà nước hữu
quan để thực hiện những nhiệm vụ đó; ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của trẻ em khuyết tật.
Bên cạnh Nhà nước, xã hội, gia đình có vai trò hết sức quan trọng trong
việc chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật. Cha mẹ, người giám hộ là người
trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật,
82
dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của các em, bù đặp những thiệt thòi
mà các em phải gánh chịu về vật chất lẫn tinh thần; khi gặp khó khăn tự mình
không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ chức hữu quan
giúp đỡ để thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng
trẻ em khuyết tật; có trách nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển toàn diện của trẻ
em khuyết tật. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh
dự của trẻ em khuyết tật đều bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của
pháp luật.
Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm phối hợp để bảo đảm cho
trẻ em khuyết tậ thực hiện quyền học tập; được vui chơi, giải trí, hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với dạng khuyết tật và
lứa tuổi; khuyến khích, động viên các em hòa nhập cộng đồng, xóa bỏ mặc
cảm, vươn lên khẳng định mình; giúp đỡ các em được tiếp cận thông tin phù
hợp, được phát triển tư duy sáng tạo và bày tỏ nguyện vọng; lắng nghe và giải
quyết nguyện vọng chính đáng của các em, giúp các em có cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Thứ hai, bảo đảm cho trẻ em khuyết tật được phát triển toàn diện
và phát hiện xử lý kịp thời các hành vi xâm hại đến quyền trẻ em khuyết
tật.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội2011-2020 khẳng định muốn phát
triển kinh tế-xã hội cần: “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và
các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. nâng cao năng lực và
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực
tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao
trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con
người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài,
chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
83
thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội”. Trên tinh thần đó, tỉnh
Quảng Bình đã có nhiều chính sách quan tâm đến đời sống vật chất cũng như
tinh thần của trẻ em khuyết tật, tạo điều kiện để các em được phát triển toàn
diện như về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, các hoạt động vui chơi giải trí, thực
hiện các chính sách bảo trợ xã hội...
Hiện nay, các hành vi bạo hành, xâm hại trẻ em, trong đó có cả trẻ em
khuyết tật xảy ra ngày càng nhiều về số lượng cũng như tính chất và mức độ
nguy hiểm. Các chuyên gia khẳng định: Bạo lực và xâm hại gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe, thể chất và tinh thần của trẻ do các em còn quá
nhỏ, yếu ớt, cần được sự quan tâm, hỗ trợ đặc biệt của gia đình, chuyên gia y
tế, tâm lý. Nếu là trẻ khuyết tật lại càng cần được quan tâm hơn do các em
vốn có sẵn sự mặc cảm, dễ bị kì thị nên khả năng hòa nhập xã hội thường
thấp. Khi bị xâm hại và bạo hành, trẻ khuyết tật càng thêm khép kín, việc hòa
nhập cộng đồng càng trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt, nếu nạn nhân là trẻ tự
kỷ thì sang chấn nặng nề về tâm lý sẽ khiến bệnh trầm trọng, khó hồi phục
hơn.
Điều 34 của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em cũng nêu rõ các
quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em trước mọi hình thức bóc lột và lạm
dụng tình dục. Việt Nam đã tham gia Công ước về quyền trẻ em, do đó Việt
Nam đã ban hành các văn bản qui phạm pháp luật bảo vệ trẻ em phù hợp với
tinh thần của công ước quốc tế trước các hình thức bóc lột, bạo hành, xâm hại.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều điều cần được cập nhật, điều chỉnh để phù hợp
hơn với đối tượng trẻ em nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng.
Trước thực trạng trên, các cơ quan chức năng, đặc biệt là chính quyền
địa phương, các đoàn thể, hội phụ nữ, lực lượng bảo vệ quyền trẻ em khuyết
tật trong tỉnh đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời, hỗ trợ để bảo vệ trẻ khi
phát hiện nguy cơ và hành động xâm hại, bạo hành trẻ khuyết tật trên địa bàn.
84
Các tổ chức xã hội, đơn vị truyền thông trong tỉnh cũng tập trung phổ
biến pháp luật, nâng cao hiểu biết cho người dân về quyền của trẻ khuyết tật,
hoạt động phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp của cộng đồng; giáo dục cho trẻ
khuyết tật nhận thức được việc bị xâm hại, bạo hành để lên tiếng... Ngoài ra,
các đơn vị chức năng, các tổ chức xã hội cũng cần tham gia hỗ trợ pháp lý,
bảo vệ cho trẻ trước tòa; các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước, cộng đồng xã
hội cần chung tay, phối hợp, đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng thể để bảo vệ
an toàn cho trẻ em, nhất là trẻ khuyết tật.
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Nâng cao nhận thức về quyền của trẻ em khuyết tật
Nâng cao nhận thức về quyền trẻ em khuyết tật là một trong những giải
pháp mang tính quyết định vì nhận thức là cơ sở, nền tảng và mang tính định
hướng quan trong cho hành động. Đối với vấn đề bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật, nâng cao nhận thức của cộng đồng, của xã hội trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình càng có ý nghĩa thiết thực hơn khi trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ khuyết tật cần sự chung tay của nhiều lực lượng trong xã hội.
Khi mọi người, mọi cơ quan, tổ chức đều nhận thức được trách nhiệm của
mình thì việc đề ra chiến lược hành động và thực hiện trong thực tế sẽ trở nên
dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều.
3.2.1.1. Nâng cao nhận thức của cộng đồng trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình về quyền trẻ em khuyết tật
Một trong những mong muốn lớn nhất của trẻ em khuyết tật là làm sao
xoá bỏ những rào cản, không chỉ là những rào cản về vật chất và điều kiện
tiếp cận trong sinh hoạt đời sống thường ngày, mà còn là những rào cản về
tinh thần, về định kiến xã hội cũng như của chính thân nhân, gia đình của trẻ
em khuyết tật đối với vấn đề khuyết tật và khả năng của các em; làm sao để
trẻ em khuyết tật được mọi người, mọi giới trong cộng đồng xã hội được đối
xử bình đẳng, được tiếp cận mọi cơ hội trong cuộc sống một cách công bằng,
85
trong sự quan tâm hỗ trợ đầy trách nhiệm và thiện tâm. Một trong những giải
pháp giúp trẻ em khuyết tật thiết thực và hiệu quả nhất vẫn là nâng cao nhận
thức của cộng đồng xã hội và của chính trẻ em khuyết tật về vấn đề khuyết
tật. Bởi khi khi nhận thức đã được rõ ràng, không còn ngộ nhận, thì khi đó cả
cộng đồng cũng như chính trẻ em khuyết tật cùng những người thân, sẽ tìm ra
cách phù hợp nhất để giải quyết những vấn đề còn tồn tại về khuyết tật.
Về vấn đề này Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 647/QĐ-
TTg, ngày 26/4/2013 phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của
chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai,
thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020. Mục tiêu của Đề án là
huy động sự tham gia của xã hội, nhất là gia đình, cộng đồng trong việc chăm
sóc, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó có trẻ em
khuyết tật để ổn định cuộc sống, có cơ hội thực hiện các quyền của trẻ em và
hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật; phát triển các hình thức
chăm sóc thay thế trẻ em khuyết tật dựa vào cộng đồng; từng bước thu hẹp
khoảng cách mức sống giữa trẻ em khuyết tật với trẻ em bình thường tại nơi
cư trú.
Đề án đã nêu ra khá nhiều giải pháp tuy nhiên trong đó nhấn mạnh nội
dung: Truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng trong
việc chăm sóc và trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó có
trẻ em khuyết tật.
Trong thời gian vừa qua, tỉnh Quảng Bình cũng đã rất chú trọng công
tác nâng cao nhận thức cộng đồng về quyền trẻ em khuyết tật và đã triển khai
các hoạt động nhằm thực hiện tốt vấn đề này. Cụ thể tại Đề án Trợ giúp người
khuyết tật tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014 - 2020 đã đánh giá các hoạt động
của các cơ quan nhà nước như sau: “Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các sở,
ban ngành và các tổ chức đoàn thể có liên quan triển khai tuyên truyền sâu
86
rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, phổ biến đến các cơ sở, vận
động sự quan tâm hỗ trợ cho người khuyết tật, cổ vũ động viên tinh thần phấn
đấu vươn lên của người khuyết tật. Đây là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan
trọng, góp phần tích cực tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và
hành vi ứng xử của toàn xã hội đối với người khuyết tật, động viên sự chung
tay góp sức của toàn xã hội cùng với Nhà nước trợ giúp, tạo cơ hội cho người
khuyết tật vượt lên số phận, được sống, lao động, học tập… bình đẳng như
những người bình thường khác”. Ngoài ra còn có các hoạt động khác như
tuyên truyền các văn bản pháp luật như Luật Người khuyết tật, Luật trẻ em...;
các dự án: “Phát hiện sớm, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết
tật” với sự tài trợ của tổ chức Caritas Thuỵ Sỹ; Dự án “Tăng cường tiếp cận
và chất lượng giáo dục hòa nhập thông qua công nghệ thông tin cho trẻ
khuyết tật” (hợp tác giữa Tổ chức CRS và Bộ Giáo dục - Đào tạo)... đã được
triển khai và tạo được sự ủng hộ của cộng đồng về quyền của trẻ em khuyết
tật. Tuy nhiên để vấn đề này được thực hiện tốt hơn trong thực tế, cần triển
khai một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, truyền thông về
bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Các cơ quan: Báo Quảng Bình, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh cần
nâng cao chất lượng và số lượng các chuyên trang, chuyên mục, đưa tin, bài,
ảnh trên báo và sóng phát thanh - truyền hình tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về quyền trẻ em khuyết tật; những kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ khuyết tật;
nội dung các quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật như tham gia bình đẳng vào
các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc
giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức
khỏe và phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, trợ giúp pháp lý, tiếp cận
các công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch
vụ văn hóa - thể thao và du lịch phù hợp với dạng và mức độ khuyết tật.
87
Các ngành chức năng, các địa phương cần đẩy mạnh tuyên truyền về
quyền trẻ em khuyết tật trên hệ thống đài phát thanh, truyền thanh từ huyện
đến cơ sở, kẻ, vẽ băng rôn, khẩu hiệu, phát tờ rơi với hình thức phù hợp,
chẳng hạn: đối với người mù, người không biết chữ: phổ biến, giáo dục bằng
lời nói: qua băng ghi âm, đài phát thanh...; đối với người câm điếc: Tư vấn và
phổ biến giáo dục bằng chữ viết (văn bản, tờ gấp pháp luật), bằng hình ảnh...
hoặc thông qua người phiên dịch (giáo viên của các trường khuyết tật, người
thân trong gia đình...); đối với người khuyết tật là người dân tộc thiểu số
không biết tiếng phổ thông phải phổ biến bằng tiếng dân tộc thiểu số hoặc tờ
gấp bằng tiếng dân tộc thiểu số. Ngoài ra cần tổ chức truyền thông trực tiếp
nhóm nhỏ; đội ngũ cộng tác viên trẻ em thôn xóm trực tiếp tuyên truyền, phổ
biến cách chăm sóc trẻ khuyết tật, nhằm phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý
kịp thời những trường hợp vi phạm quyền trẻ em khuyết tật. Qua công tác
tuyên truyền, từng bước nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân
dân trong tỉnh về công tác chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em khuyết tật.
Hai là, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn trực tiếp tại cộng đồng, trường
học, các trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, trung tâm phục hồi chức năng trẻ
khuyết tật... về các quyền của trẻ em khuyết tật như: tư vấn cho các Nhà
trường có thể đưa nội dung môn học pháp luật về quyền trẻ em vào giảng dạy
trong các Nhà trường; Nhà trường lồng ghép nội dung các môn học với giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ em; tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo về quyền trẻ
em…
Ba là, tổ chức các lớp nâng cao kiến thức bảo vệ, chăm sóc trẻ khuyết
tật cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ em nhằm tiếp tục thực hiện tốt các chính
sách, các đề án, chương trình, kế hoạch về bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em
khuyết tật. Đặc biệt giải pháp này cần triển khai, nhân rộng cho tại các huyện
miền núi như huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa và các xã thuộc vùng sâu,vùng xa.
Xây dựng, nhân rộng các mô hình bảo vệ, chăm sóc trẻ khuyết tật và đẩy
88
mạnh phong trào xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em, tạo môi
trường an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện.
Bốn là, đẩy mạnh hoạt động truyền thông về pháp luật và trợ giúp pháp
lý cho nhóm đối tượng này cũng được đẩy mạnh để giúp các em dễ dàng biết
quyền được trợ giúp pháp lý của mình và tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp
lý miễn phí. Trung tâm trợ giúp pháp lý cần phối hợp với các cơ quan, ban,
ngành trong tỉnh có liên quan thông tin, phổ biến về các chính sách ưu đãi đối
với trẻ em khuyết tật trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình và các
chương trình giải đáp pháp luật; tổ chức nói chuyện pháp luật cho trẻ em
khuyết tật; phát miễn phí tờ gấp pháp luật giới thiệu về chính sách và pháp
luật của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật, trong đó có các tình huống pháp
luật gần gũi và có liên quan thiết thân đối với người khuyết tật; đặt biển thông
tin về quyền được trợ giúp pháp lý của trẻ em khuyết tật tại các địa phương và
Câu lạc bộ người khuyết tật ở các xã...
Do có những khiếm khuyết về thể chất và tâm thần nên trẻ em khuyết
tật thường mặc cảm, tự ti với bản thân, không dám tự tin trước mọi người,
đồng thời các em không thể vận động bình thường như những người khác nên
nhiều trường hợp các em không thể thực hiện các thủ tục pháp lý. Vì vậy, việc
trợ giúp pháp lý không chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn, tư vấn mà người thực
hiện trợ giúp pháp lý đến tận nơi ở (gia đình, trung tâm bảo trợ...) của trẻ em
khuyết tật (đối với trẻ em khuyết tật nặng không thể đi lại) để giúp đỡ họ hoàn
thành hồ sơ, tìm hiểu, thực hiện tư vấn hoặc làm đại diện thay người đó thực
hiện các thủ tục pháp lý cần thiết, liên hệ với cơ quan chức năng giải quyết
giúp các em thông qua hình thức đại diện ngoài tố tụng.
3.2.1.2. Nâng cao nhận thức của trẻ em khuyết tật tỉnh Quảng Bình về
các quyền của mình
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và toàn thể xã hội
trên địa bàn tỉnh, hiện nay, trẻ em khuyết tật Quảng Bình ngày càng tự tin hòa
89
nhập cộng đồng, tham gia nhiều chương trình vui chơi giải trí, nỗ lực vươn
lên để tự khẳng định mình.
Số liệu về trẻ khuyết tật ở Quảng Bình tham gia vào các lớp học hòa
nhập, lớp học chuyên biệt, lớp học bán hòa nhập; hay tham gia vào các bộ
môn thể dục thể thao thi đấu… là minh chứng cho việc bản thân các em luôn
cố gắng để được sống cuộc sống bình thường như bao bạn bè cùng trang lứa.
Do vậy một trong những giải pháp để giúp các em quên đi những nỗi đau cơ
thể, mặc cảm về tinh thần, xóa bỏ cảm giác bị mọi người xa lánh là cần phải
trang bị cho các em niềm tin, những kiến thức cơ bản để các em tự tin hơn khi
tham gia vào các hoạt động trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, cần đối xử một cách bình đẳng với trẻ em khuyết tật như bao
trẻ em khác, xóa bỏ tư tưởng xem trẻ em khuyết tật là gánh nặng của gia đình
và xã hội, tạo môi trường thân thiện, an toàn để các em ngày càng hòa nhập
hơn với cộng đồng.
Thứ hai, tạo cơ hội cho trẻ em khuyết tật được chia sẻ những tâm tư,
nguyện vọng cũng như phát biểu quan điểm của các em về các vấn đề trong
xã hội. Biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến các em, giải quyết kịp thời những
vướng mắc, những đề xuất của các em, luôn sẵn sàng hợp tác và thấu hiểu với
những gì các em đang phải đối diện sẽ là cầu nối đưa trẻ em khuyết tật xích
lại gần hơn với gia đình và cộng đồng, giúp các em có thêm niềm tin và nghị
lực để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động tuyên truyền cho trẻ khuyết tật về
các quyền của trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Từ việc được
nâng cao nhận thức về các quyền mà mình được thụ hưởng, trẻ em khuyết tật
sẽ cảm thấy mình là một công dân trong xã hội, được hưởng những ưu ái nhất
định từ phía Nhà nước và cộng đồng và từ đó, các em biết bảo vệ chính những
quyền của mình nếu bị xâm hại.
Có thể thấy, những biện pháp đưa ra đều nhằm mục đích giúp trẻ
90
khuyết tật tự gỡ bỏ, tự vượt qua mặc cảm, rào cản do chính mình xây dựng
nên. Tuy nhiên nguyên nhân của những mặc cảm, rào cản đó lại xuất phát chủ
yếu từ hoàn cảnh khách quan. Do vậy, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ
quan, tổ chức và trẻ khuyết tật để tạo điều kiện cho trẻ vượt lên chính mình,
hòa nhập tích cực vào cuộc sống.
3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật
Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc gia theo định hướng phù
hợp với nội dung của các Công ước quốc tế về quyền trẻ em và người khuyết
tật là yêu cầu tất yếu hiện nay. Việt Nam đang nỗ lực rất lớn trong việc bổ
sung, chỉnh sửa các quy định của pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật,
đây là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm cho quyền trẻ em khuyết tật được
thực hiện tốt nhất trong thực tế, tạo hành lang vững chắc cho quá trình bảo vệ
có hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật. Những giải pháp cụ thể bao
gồm:
Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống văn bản quy định riêng về trẻ em
khuyết tật. Hiện nay những quy định của pháp luật về trẻ em khuyết tật đang
được lồng ghép trong các văn bản như Luật Người khuyết tật, Luật trẻ em...
cần cụ thể hóa các quy định trong chính sách ưu tiên của Nhà nước dành cho
nhóm đối tượng này trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Những hướng dẫn
cụ thể đó cần chú trọng vào các chính sách, chế độ dành cho trẻ em khuyết tật
trong các lĩnh vực như: giáo dục, y tế, trợ cấp xã hội … Hiện nay, Luật trẻ em
(được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 05/4/2016 tại kỳ họp thứ 11) đã
quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các chính sách và biện
pháp cơ bản về chăm sóc, giáo dục, văn hóa, thông tin, đặc biệt là về bảo vệ
và thúc đẩy sự tham gia của trẻ em. Luật cũng quy định chi tiết trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện
quyền và bổn phận của trẻ em. Tuy nhiên những nội dung liên quan đến trẻ
khuyết tật chỉ được quy định rất ngắn gọn tại một số điều trong văn bản (Điều
91
10, Điều 35). Những văn bản quy định về trẻ em khuyết tật cần chi tiết các
nội dung liên quan đến các quyền của trẻ em khuyết tật được triển khai trong
thực tế, những quy định này cần phải tính đến những đặc trưng của nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương này. Điều này chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi
nhưng quy định của pháp luật thật sự xuất phát từ những tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của trẻ em khuyết tật, phải lấy ý kiến từ chính trẻ em khuyết tật
cũng như gia đình, nhà trường và những cán bộ trực tiếp làm công tác này.
Đồng thời cần quy định rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan,
tổ chức và cá nhân trong việc thực thi quyền của trẻ em khuyết tật trên thực tế
và cải thiện nhận thức của cộng đồng về đối tượng này.
Thứ hai, cần xây dựng các kế hoạch, chương trình, đề án dành riêng
cho đối tượng là trẻ em khuyết tật với những mục tiêu, nội dung phù hợp với
đặc điểm với đặc điểm tâm sinh lý của nhóm chịu tổn thương kép này. Hiện
nay, các chương trình, chính sách đã được Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt
như Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020;
Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch triển
khai thực hiện Khuyến nghị của Ủy ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc;
Chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; Chương
trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2013 - 2015; Kế
hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn
2014 - 2020. Tuy nhiên, trong hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em hiện nay chưa có chương trình, đề án riêng cho đối
tượng là trẻ em khuyết tật, cơ chế, chính sách trợ giúp trẻ em khuyết tật vẫn
còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, trong đó mới chú ý đến trợ giúp,
hòa nhập mà chưa chú trọng việc phòng ngừa, can thiệp và phát triển. Do vậy,
việc ban hành đề án, chương trình dành riêng cho đối tượng này là hoàn toàn
hợp lý. Các đề án liên quan đến trẻ khuyết tật có thể hướng đến các vấn đề cụ
thể như: Đề án trợ giúp trẻ em khuyết tật hòa nhập cộng đồng với nội dung
92
đặt trẻ khuyết tật vào trung tâm của mọi hoạt động thúc đẩy hòa nhập; lập
diễn đàn để trẻ bày tỏ suy nghĩ, vướng mắc của mình khi tiến hành hòa nhập
xã hội; quy định trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân tổ chức có liên quan
trong việc hỗ trợ trẻ hòa nhập cộng đồng… Tuy nhiên, các chương trình, đề
án này chỉ được phép đưa ra sau khi đã tiến hành những cuộc khảo sát thực tế
để nắm bắt chính xác nhu cầu và mong muốn của trẻ nhằm hỗ trợ hiệu quả, có
ý nghĩa và đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em khuyết tật.
Thứ ba, cần thống nhất trong việc quy định độ tuổi được coi là trẻ em
nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Tuổi trẻ em cần có sự nhất quán
trong hệ thống pháp luật quốc gia. Quy định tuổi trẻ em là người dưới 18 tuổi
cho phù hợp với Công ước Quyền trẻ em, qua đó có thể mở rộng đối tượng trẻ
em được hưởng chính sách chăm sóc, bảo vệ của nhà nước. Do đó, sửa Điều 1
Luật trẻ em năm 2017 như sau: “Trẻ em quy định trong Luật này là người
dưới 18 tuổi”. Như vậy, việc thống nhất xác định độ tuổi trẻ em trong các qui
định của pháp luật là cần thiết vì Nhà nước ta là một trong những nước sớm
nhất công nhận và phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em, theo Công ước qui
định, trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trong khi đó, Luật trẻ em hiện hành
qui định trẻ em là người dưới 16 tuổi hoặc ở một số ngành luật cũng có những
qui định khác nhau về độ tuổi của trẻ em như Luật hôn nhân và gia đình xác
định độ tuổi con nuôi là 15 tuổi trở xuống, Bộ luật hình sự qui định người
chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, Bộ luật lao động qui
định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi và khái
niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi, Luật Xử lý vi phạm hành
chính qui định người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính… Như vậy, chưa có sự thống nhất về độ tuổi cụ thể của trẻ em trong
pháp luật quốc gia, để phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các
văn bản pháp lý có liên quan, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em
Việt Nam, phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam, trên cơ sở của Hiến
93
pháp, Luật trẻ em, các ngành luật khác cần thống nhất và qui định độ tuổi trẻ
em là những người dưới 18 tuổi.
Thứ tư, cần quy định các biện pháp chế tài cụ thể đối với những hành vi
vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật dưới hình thức một văn bản riêng biệt
hoặc một chương trong văn bản hướng dẫn chi tiết về trẻ em khuyết tật. Tùy
theo mức độ và đối tượng vi phạm mà các biện pháp chế tài đó phải đảm bảo
tính phù hợp, đa dạng, linh hoạt nhằm xử lý nghiêm minh, có hiệu quả những
hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật. Tuy nhiên, mức độ áp dụng các
biện pháp xử lý này phải được cân nhắc trên cơ sở vừa nghiêm trị hành vi vi
phạm, vừa có ý nghĩa giáo dục ý thức tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật,
lại không làm cho trẻ khuyết tật cảm thấy mình là đối tượng yếu thế nên cần
sự quan tâm quá khác biệt trong các chính sách của Đảng và Nhà nước.
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp trong việc thực hiện chính sách về quyền
của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình
3.2.3.1. Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong việc bảo đảm quyền
trẻ em khuyết tật
Hiện nay, công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng
Bình đã và đang được chú trọng. Tuy nhiên để công tác này được triển khai
thực sự đồng bộ, đầy đủ và có chất lượng cần có cơ chế phối hợp liên ngành
trong lĩnh vực này. Mục đích chính của sự phối hợp liên ngành là tăng cường
phối hợp chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật, xây dựng môi trường sống an toàn,
thân thiện, đảm bảo cơ hội học tập và phát triển bình đẳng cho các em. Cụ thể
dưới sự quản lý chung của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành cần tăng
cường sự phối hợp trong hoạt động nhằm đưa các quyền của trẻ em khuyết tật
được thực hiện trong thực tế.
Hiện nay, trong Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật tỉnh Quảng Bình
giai đoạn 2014 - 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phân công nhiệm vụ cụ thể
94
của các Sở, ban, ngành trong tỉnh về việc thực hiện Kế hoạch. Đồng thời
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan cần có sự phối hợp
liên ngành nhằm thực hiện đầy đủ các quyền của người khuyết tật nói riêng và
trẻ em khuyết tật nói riêng. Cụ thể các cơ quan như Sở Lao động, Thương
binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài
chính, Sở Y tế, Sở Giao thông Vận tải, Sở Xây dựng, Sở Thông tin và Truyền
thông...
Sự phối hợp liên ngành cần chú trọng vào những nội dung sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, rà soát, đánh giá các văn bản đã ban hành, chia
sẻ thông tin, dữ liệu về công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật giữa các
ngành để đề xuất, ban hành những văn bản mới.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng và thành lập tổ chức phối hợp liên
ngành về quyền của trẻ em khuyết tật.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành về công
tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
Thứ tư, phối hợp tổ chức một số chương trình, hoạt động cụ thể trong
lĩnh vực này để các quyền của trẻ em khuyết tật được thực hiện một cách đầy
đủ.
Thứ năm, thường xuyên tổ chức các hội thảo, hội nghị về vấn đề bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật nhằm tạo cơ hội các cán bộ, công
chức của các ngành trao đổi, thảo luận và đề xuất các giải pháp khả thi, thiết
thực giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong thực tế về quyền trẻ em
khuyết tật.
Thứ sáu, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức làm việc trong công tác về quyền của trẻ em khuyết tật.
Thứ bảy, phối hợp chặt chẽ trong việc kiểm tra, theo dõi, đánh giá về
công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
3.2.3.2. Tăng cường sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc
95
bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật
Sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình trong việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng có vai
trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Đây được
đánh giá là một khâu không thể thiếu trong quá trình giáo dục học sinh, đặc
biệt là học sinh khuyết tật của các nhà trường. Việc phối hợp giữa nhà trường,
gia đình đối với việc chăm sóc giáo dục trẻ là một nguyên tắc cơ bản nếu
muốn có sự thành công. Sự phối hợp chặt chẽ trước là để đảm bảo sự thống
nhất trong nhận thức cũng như hoạt động giáo dục cùng một hướng, một mục
đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá
trình phát triển nhân cách của trẻ khuyết tật, giúp cho các em tránh được cảm
giác mặc cảm, tự tin và vươn lên hòa nhập cộng đồng. Sự phối hợp gia đình,
nhà trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng
đầu là tất cả các nhà trường phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo
ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành
những người công dân hữu ích cho đất nước.
Hiện nay, tỉnh Quảng Bình luôn đề cao vai trò nhà nhà trường, gia đình
cũng như sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của hai chủ thể này trong việc
giáo dục và chăm sóc trẻ khuyết tật trong tỉnh. Để giải pháp này được tổ chức
thực hiện trong thực tế, mỗi một chủ thể cần nhận thức được vai trò của mình
đồng thời luôn có sự phối hợp nhịp nhàng với nhau trong quá trình triển khai
các hoạt động bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
Về phía nhà trường, cần nhận thức chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
khuyết tật trong nhà trường phụ thuộc nhiều vào sự tham gia đóng góp của gia
đình trẻ. Vì vậy, trong quá trình giáo dục, nhà trường và giáo viên cần phải có
sự phối hợp chặt chẽ với gia đình bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú
để tạo điều kiện cho công tác chăm sóc – giáo dục trẻ khuyết tật có hiệu quả.
Coi trọng việc phát hiện, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
96
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, vấn đề phát hiện sớm sự phát triển không bình
thường là cực kì quan trọng. Bởi vì chính nhờ có sự phát hiện sớm mà nhiều
khuyết tật của trẻ có thể được bù đắp và thích nghi, có khi tiến tới bình
thường nếu được sự giúp đỡ kịp thời và đúng đắn.
Nhà trường, giáo viên cần cung cấp hoặc giới thiệu cho các bậc cha mẹ
biết các mốc phát triển bình thường của trẻ và những vấn đề cần lưu ý trong
sự phát triển của trẻ để có thể phát hiện và can thiệp sớm khi thấy trẻ có
những biểu hiện không bình thường. Đối với những gia đình có trẻ khuyết tật
cần nói rõ để các bậc cha mẹ hiểu và không nên che giấu khuyết tật của con
mình mà nên mạnh dạn, thẳng thắn trao đổi với giáo viên về những hạn chế
của trẻ. Gia đình nên cho trẻ đến trường học để tạo cơ hội cho trẻ được giao
tiếp với những người xung quanh. Bố mẹ nên cùng giáo viên giúp đỡ trẻ khắc
phục những thói quen không tốt, trong những trường hợp cần thiết, có thể
cùng giáo viên tìm đến tư vấn của các nhà chuyên môn để được giúp đỡ. Cần
giải thích để phụ huynh biết nguy cơ lớn nhất của khuyết tật xảy ra ở tuổi tiền
học đường là nó có thể dẫn đến sự ngưng trệ quá trình phát triển bình thường,
do trở ngại gây ra đối với khả năng thích nghi của trẻ khuyết tât và sự hạn chế
trầm trọng trẻ tiến tới sự thành thục và độc lập. Đa số trẻ khuyết tật có khả
năng thích nghi hoặc có thể được phục hồi hoặc bù trừ nếu được phát hiện
sớm và có biện pháp xử lí thích hợp.
Có thể nói, cùng cha mẹ trẻ khuyết tật thì giáo viên là người hiểu rõ
nhất những khả năng, nhu cầu cũng như những diễn biến sức khỏe, trạng thái
tâm lí hàng ngày của trẻ. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể thông báo những
thông tin tương đối chính xác, rõ ràng về trẻ để cùng phối hợp trong việc lập
kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch cho trẻ ở các môi trường giáo dục
khác nhau trong nhà trường, gia đình, cộng đồng, xã hội và huy động các
nguồn lực vào công tác này. Thực tiễn cho thấy, những địa phương nào trên
97
địa bản tỉnh mà giáo viên tích cực và thực hiện tốt được vai trò này thì địa
phương đó sẽ thành công trong công tác giáo dục trẻ khuyết tật.
Với gia đình ở Quảng Bình hiện nay, một trong những rào cản lớn của
giáo dục hòa nhập là nhận thức của cộng đồng chưa hiểu đúng và đầy đủ về
vai trò của giáo dục hòa nhập. Từ đó dẫn đến trách nhiệm của xã hội đối với
trẻ khuyết tật còn thấp và dừng lại ở quan điểm hỗ trợ trẻ khuyết tật theo
hướng tiếp cận nhân đạo, mà chưa coi đó là quyền mặc nhiên của trẻ khuyết
tật, ngoài ra, một rào cản lớn của giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật lại xuất
phát từ chính cha mẹ, người thân của các em. Đó là sự thiếu hiểu biết hoặc
chủ quan của cha mẹ trẻ khuyết tật trong việc phòng ngừa cũng như phát hiện
để can thiệp sớm, nhất là đối với những trẻ khuyết tật về phát triển. Hơn nữa
đa số gia đình trẻ khuyết tật ở Quảng Bình là những gia đình có hoàn cảnh
khó khăn, đặc biệt là những gia đình ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Vì vậy nâng cao nhận thức của gia đình trẻ khuyết tật trong việc bảo đảm
quyền của các em là một trong những giải pháp để các em có cơ hội thụ
hưởng những cơ hội trong cuộc sống.
3.2.3.3. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong công tác bảo
đảm quyền của trẻ em khuyết tật
Hiện nay để chất lượng công tác bảo đảm trẻ em khuyết tật thực sự có
hiệu quả rất cần sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, của toàn xã
hội vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật; mở rộng sự tham gia
của các chủ thể khác nhau trong xã hội với nhiều phương thức và mô hình để
vừa phát huy tiềm năng trí tuệ, vật chất của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em, vừa
tạo điều kiện mở rộng đối tượng thụ hưởng dịch vụ về bảo vệ, chăm sóc trẻ
em, nhất là trẻ em khuyết tật.
98
Đối với tỉnh Quảng Bình, trong thời gian qua, công tác bảo đảm quyền
của trẻ em khuyết tật đã đạt được những kết quả tích cực, dưới sự lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, sự phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và gia đình trong cộng đồng đã
tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương, chính
sách, các chương trình mục tiêu cho trẻ em khuyết tật ở địa phương. Tuy
nhiên để làm tốt công tác này và phát huy hơn nữa những thành tích đã đạt
được cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, các cấp chính quyền cần coi trọng công tác phối hợp giữa chính
quyền địa phương với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, các tổ
chức xã hội trong công tác bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đồng thời cần
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
quần chúng, nhà trường, gia đình, các doanh nghiệp... đối với sự nghiệp bảo
vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật. Tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo điều hành của
các cấp chính quyền trong tỉnh về việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật
thông qua xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, điều
hành; phê duyệt kế hoạch, chương trình, bố trí nguồn lực, nhân lực. Vận động
toàn dân tham gia bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật, tạo sự chuyển biến tích
cực về nhận thức và hành động của cộng đồng, các tổ chức, các gia đình...
trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em khuyết tật, tạo điều kiện tốt
nhất có thể cho trẻ em khuyết tật.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền địa phương với các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong công tác
bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Cần xây dựng các kế hoạch, chương
trình hành động cụ thể trong đó huy động sự chung tay tham gia của các lực
lượng trong xã hội vào việc thực hiện các mục tiêu, nội dung mà kế hoạch đề
ra nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật. Các cấp chính
quyền cần chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện hàng tháng, hàng quý và
99
hàng năm trên cơ sở đó vận động, thu hút các tổ chức cùng phối hợp thực
hiện, qua đó giúp cho tính bền vững của các hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ
em tốt hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, đa dạng hóa nhiều mô hình chăm sóc, giáo dục trẻ em khuyết tật,
mở rộng nhiều hình thức cơ sở trợ giúp trẻ em khuyết tật, trung tâm công tác
xã hội trẻ em ngoài công lập, tạo cơ hội cho trẻ em khuyết tật được bảo vệ,
chăm sóc. Khuyến khích hình thức hợp tác giữa Nhà nước với doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân về hoạt động của các cơ sở trợ giúp xã hội. Huy động nguồn
đầu tư từ các tổ chức kinh tế trong việc xây dựng cơ sở vật chất như trụ sở,
trang thiết bị... phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em, xây dựng hệ thống cung cấp
dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật ở cấp cơ sở; xây dựng môi trường
sống an toàn, thân thiện cho trẻ em; hỗ trợ nguồn kinh phí để trợ cấp xã hội và
mở rộng đối tượng thụ hưởng đối với trẻ em khuyết tật để trẻ em phục hồi và
hòa nhập cộng đồng.
Bốn là, huy động các các nguồn lực của xã hội cho công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em của tỉnh nhà trong đó bao gồm nguồn lực con người và
nguồn lực tài chính. Cần khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó
trong việc đầu tư cho đối tượng là trẻ em khuyết tật. Đồng thời, quy định cơ
chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn tài chính cung ứng cho dịch vụ bảo
vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật.
3.2.4. Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật
Hiện nay hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương nói chung và
Quảng Bình nói riêng chủ yếu là hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước bao gồm ủy ban nhân dân các cấp và các sở, ban ngành. Để thực hiện có
hiệu quả trong lĩnh vực này, các cơ quan trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cần
nhận thức đầy đủ các quy định của văn bản quy phạm pháp luật và các văn
bản liên quan về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, từ đó phân
100
công trách nhiệm cho từng bộ phận, từng cán bộ trong việc tổ chức thực hiện,
bảo đảm điều kiện cho các hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa phương
và có cơ chế kiểm tra, giám sát về những công việc đã giao. Tiếp tục nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ, tình nguyện viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em các cấp; từng bước chuyên nghiệp hóa mạng lưới tổ chức và đội ngũ cán
bộ công tác xã hội làm việc với trẻ em; mở rộng mạng lưới cộng tác viên bảo
vệ, chăm sóc trẻ em ở cấp thôn, bản. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức làm việc trong lĩnh vực này phải vừa có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, vừa có trách nhiệm, tâm huyết với nghề và đặc biệt phải có lòng
yêu trẻ, chia sẻ với những nỗi đau, thiệt thòi mà các em phải gánh chịu, từ đó
hết lòng tận tụy thực hiện nhiệm vụ, góp phần cải thiện đời sống vật chất cũng
như tinh thần của các em. Do đó, nâng cao năng lực và nhận thức cho đội ngũ
cán bộ cơ sở là hết sức quan trọng với những giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trẻ em khuyết tật. Trong đó nội dung,
chương trình tập huấn là những kiến thức cơ bản về quyền trẻ em khuyết tật,
cụ thể là nội dung những Công ước quốc tế về quyền trẻ em, trẻ em khuyết tật
mà Việt Nam tham gia; những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về quyền trẻ em khuyết tật; đặc điểm về tâm sinh lý của trẻ em khuyết
tật; những kỹ năng cơ bản để có thể làm việc có hiệu quả với đối tượng này...
Trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật, cán bộ cơ sở
có vai trò rất quan trọng trong việc phổ biến các chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước, đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật đó vào
trong đời sống của nhân dân. Đồng thời, cán bộ cơ sở cũng có vai trò kiểm
tra, giám sát tính hiệu quả trong thực thi các chính sách, pháp luật về quyền
trẻ em và trẻ em khuyết tật, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật về quyền của các
em bởi các chủ thể khác nhau.
101
Hai là, kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở theo tinh thần công văn của Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội. Đây là một trong những nội dung được Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội nêu trong công văn gửi Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc tăng cường công tác bảo vệ
trẻ em, thực hiện các giải pháp phòng, chống xâm hại, bạo lực trẻ em. Theo
công văn này, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tổ xây dựng và thực hiện
đề án thành lập tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em, tập trung kiện toàn ban
chỉ đạo, ban điều hành và nhóm công tác liên ngành bảo vệ trẻ em cấp tỉnh,
huyện, xã; xây dựng và thực hiện đề án bố trí, nâng cao năng lực, ổn định đội
ngũ người làm công tác bảo vệ trẻ em ở địa phương, đặc biệt ở cấp xã. Hiện
nay, tỉnh Quảng Bình có 159 xã và mỗi xã đã có một có một cán bộ chuyên
trách về lĩnh vực này, điều này thể hiện sự quan tâm của tỉnh về công tác
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em khuyết tật.
Ba là, xây dựng hệ thống mạng lưới cộng tác viên trong toàn tỉnh về
vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ khuyết tật. Ngoài đội ngũ cán bộ làm việc trong
lĩnh vực công tác về quyền trẻ em, đội ngũ cộng tác viên có vai trò rất quan
trọng. Hiện nay ở Quảng Bình, hệ thống mạng lưới cộng tác viên, nhân viên
công tác xã hội để phát hiện sớm, phòng ngừa, thống kê báo cáo, phối hợp
giải quyết can thiệp chăm sóc bảo vệ trẻ em ở cấp cơ sở còn nhiều lỗ hổng và
rất mỏng yếu, mức thù lao cho đội ngũ này quá thấp do vậy hiệu quả đạt được
chưa cao. Do vậy cần phải gây dựng lại mạng lưới cộng tác viên trong cộng
đồng, nâng cao mức thù lao cho đội ngũ này, nhất là tại các xã có diện tích
rộng và đông dân (xã Hưng Trạch, Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trach, xã
Quảng Hòa, Quảng Thọ thuộc thị xã Ba Đồn...), những xã ở vùng sâu, vùng
xa, vùng miền núi (xã Lâm Hóa thuộc huyện Tuyên Hóa, xã Trung Hóa thuộc
huyện Minh Hóa, xã Tân Trạch, Thượng Trạch thuộc huyện Bố Trạch...).
Điều này sẽ có ý nghĩa động viên tinh thần và nâng cao trách nhiệm, tâm
huyết những người làm công việc này.
102
Việc kiện toàn đội ngũ, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao năng
lực cho cán bộ, cộng tác viên làm công tác bảo vệ,chăm sóc trẻ khuyết tật sẽ
tạo thuận lợi để triển khai hiệu quả, kịp thời các hoạt động bảo vệ trẻ khuyết
tật, tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn diện cả về thể chất, tâm lý, tình cảm,
nhận thức, đạo đức và xã hội, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của
trẻ em. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức của gia đình, cộng đồng xã hội
và chính các em về việc thực hiện các quyền được bảo vệ và an toàn của trẻ
khuyết tật; tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho các em.
3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật
Tăng cường và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong tất cả các lĩnh vực là
một xu thế mang tính tất yếu trong chiến lược phát triển của các quốc gia hiện
nay. Nhận thức được vấn đề này, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào
đời sống quốc tế, trong đó hợp tác quốc tế trong công tác bảo đảm quyền trẻ
em khuyết tật là nội dung mà Việt Nam rất quan tâm. Căn cứ theo khoản 2,
điều 12 Luật Người khuyết tật 51/2010/QH12/QH12 quy định về nội dung
hợp tác Quốc tế về người khuyết tật như sau: Xây dựng và thực hiện chương
trình, dự án hợp tác quốc tế về người khuyết tật; tham gia tổ chức quốc tế; ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế liên quan đến
người khuyết tật; trao đổi thông tin, kinh nghiệm về vấn đề liên quan đến
người khuyết tật.
Trong những năm qua, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước quốc tế về
quyền trẻ em năm 1990, phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền của Người
khuyết tật năm 2014... đồng thời tăng cường hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế
để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề
án, dự án trợ giúp liên quan đến quyền trẻ em khuyết tật như: Chương trình
Thường niên về Hỗ trợ Người khuyết tật Việt Nam (APS) do Cơ quan Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam tài trợ; dự án Thúc đẩy quyền
103
của người khuyết tật tại Việt Nam do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ tài
trợ; Đề án Clema nghiên cứu và phát triển trong khuôn khổ dự án ERASMUS
và Châu Âu về chia sẻ những thiệt thòi cho trẻ khuyết tật. Đặc biệt, trong
khuôn khổ ASEAN, Việt Nam rất năng động trong hoạt động của Ủy ban thúc
đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC) nhằm góp phần
tăng cường thực hiện các văn kiện quốc tế và khu vực liên quan đến các
quyền của phụ nữ và trẻ em, đồng thời tập trung vào việc kết nối giữa Ủy ban
về quyền trẻ em của Liên hợp quốc và ACWC để thực hiện hiệu quả hơn
những kết luận, khuyến nghị của các Ủy ban này ở cấp quốc gia và khu vực.
Quảng Bình hiện nay cũng đang triển khai một số dự án về trẻ khuyết
tật như Dự án “Phẫu thuật chỉnh hình miễn phí” do tổ chức Zhi-Shan
Foundation tài trợ; Dự án “Phát hiện sớm, can thiệp sớm và giáo dục hòa
nhập cho trẻ khuyết tật tỉnh Quảng Bình” do tổ chức Caritas Thụy Sỹ tài trợ;
dự án “Tăng cường tiếp cận và chất lượng giáo dục hòa nhập thông qua công
nghệ thông tin cho trẻ em khuyết tật do Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ và
tổ chức Catholic Relief Serivices (CRS) tài trợ... Qua quá trình các dự án
được triển khai và thực hiện đã thu lại được những thành quả rất đáng ghi
nhận và hỗ trợ rất nhiều về tinh thần cũng như vật chất cho các em. Do vậy
việc tiếp tục mở rộng và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khuyết tật là việc làm cấp thiết cần được duy
trì và tăng cường ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
Trong Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2014 - 2020 của
tỉnh Quảng Bình nêu rõ một trong những giải pháp để thực hiện Kế hoạch là:
“Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm
và nguồn lực để trợ giúp cho người khuyết tật”. Theo đó, cần triển khai tốt
các nội dung sau:
104
Tăng cường quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế, bao gồm các tổ
chức đa phương, song phương và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) trên cả
ba lĩnh vực kỹ thuật, kinh nghiệm và tài chính để trợ giúp trẻ em khuyết tật.
Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc huy động nguồn
lực xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án trợ giúp, chăm sóc,
bảo vệ trẻ em khuyết tật, thực hiện quyền tham gia của trẻ em khuyết tật; hỗ
trợ kỹ thuật, kiến thức, kinh nghiệm và các nguồn lực phục vụ cho các hoạt
động của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật.
Xây dựng các mô hình về bảo vệ, chăm sóc trẻ em khuyết tật, nhất là
cho công tác xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện chính sách, hướng dẫn thực hiện
cũng như xây dựng kế hoạch, giám sát, đánh giá thực hiện mục tiêu về bảo vệ,
chăm sóc trẻ em khuyết tật.
105
Tiểu kết chương 3
Trong chương này, tác giả đã trình bày một cách có hệ thống các giải
pháp nhằm thực hiện đầy đủ hơn, hiệu quả hơn các quyền của trẻ em khuyết
tật ở tỉnh Quảng Bình bao gồm: nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về quyền
của trẻ em khuyết tật; nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của trẻ
em khuyết tật; nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực thi, giám sát chính
sách về quyền của trẻ em khuyết tật; nhóm giải pháp xã hội hóa công tác bảo
đảm quyền của trẻ em khuyết tật; nhóm giải pháp đẩy mạnh hợp tác quốc tế
về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Trong mỗi nhóm giải pháp, tác giả
đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các nhóm giải pháp
đó. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức của
các cấp chính quyền, của cộng đồng, gia đình, nhà trường và xã hội trong tỉnh
cũng như chính bản thân trẻ khuyết tật về các quyền của trẻ em khuyết tật.
Đồng thời việc giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em
khuyết tật có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định rõ các quyền của trẻ em
khuyết tật cũng như cơ chế bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện trong
thực tế, cần có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quyền của trẻ em
khuyết tật, nâng cao vai trò của các co quan nhà nước và người dân trong việc
giám sát thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật. Đây sẽ là động lực rất lớn
giúp trẻ khuyết tật xóa bỏ mặc cảm, tự tin hòa nhập cộng đồng và trở thành
công dân có ích cho xã hội.
106
KẾT LUẬN
Trẻ em là mầm non, là tương lai của đất nước. Chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em trách nhiệm của toàn xã hội. Thế nhưng nhiều trẻ em không
được may mắn, các em mang trong mình những dị tật, không có cơ hội được
vui chơi, học tập như bạn bè cùng trang lứa. Hơn nữa đa số trẻ em khuyết tật
sinh ra trong gia đình khó khăn, tình trạng vật chất thiếu thốn lại thêm nhiều
mặc cảm về tinh thần... Vì thế trẻ em khuyết tật rất cần được sự chia sẻ, việc
bảo đảm cho các quyền của trẻ em khuyết tật cần được tiếp cận theo hướng
nhân đạo, nhân quyền. Đây là vấn đề mang tính thời sự chính trị, hiện nay
Nhà nước đã ban hành khá nhiều chính sách, triển khai thực hiện nhiều biện
pháp nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền của trẻ em khuyết tật. Quảng
Bình là một tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn,
tuy nhiên trong thời gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban ngành
liên quan đã thực hiện có hiệu quả nhất định trong việc bảo vệ, bảo đảm và
thúc đẩy các quyền của trẻ em khuyết tật trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên để phát
huy hơn nữa kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế, vấn đề đặt ra là
cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm cũng như đổi mới hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các thiết chế xã hội trên địa bàn tỉnh về
cả nhận thức, nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện các quyền của trẻ
em khuyết tật.
Luận văn đã phân tích có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về quyền
của trẻ em khuyết tật, làm rõ nội dung các quyền của trẻ em khuyết tật bao
gồm: Quyền được giáo dục; Quyền được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được
chăm sóc sức khỏe; Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải
trí; Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng và các bảo đảm
quyền của trẻ em khuyết tật như bảo đảm bằng pháp lý, chính trị, tư tưởng,
kinh tế, văn hóa xã hội.
107
Trên cơ sở hệ thống lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật, luận văn đã
phân tích thực trạng quyền của trẻ em khuyết tật trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình, từ đó đưa ra đánh giá chung về những kết quả đạt được cũng như những
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
Từ những nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn, luận văn đề
xuất các giải pháp nhằm bảo đảm các quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng
Bình hiện nay. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong tỉnh cần đổi
mới nhận thức rằng khuyết tật là vấn đề xã hội chứ không đơn thuần là vấn đề
y tế. Từ đó nhận thức được tầm quan trọng của các đối tượng yếu thế để trao
quyền cho bản thân và gia đình họ; xây dựng các chương trình hỗ trợ theo
từng dạng khuyết tật và lứa tuổi; có kế hoạch nhằm loại bỏ các thành kiến
quan các dạng khuyết tật; phát triển cộng đồng giúp người dân nhận diện các
dạng vấn đề của cộng đồng và hỗ trợ tìm những nguồn lực cần thiết để giải
quyết các vấn đề của trẻ em khuyết tật. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí
của trẻ em khuyết tật trong xã hội từ đó tạo môi trường tốt nhất cho trẻ em
khuyết tật trong tỉnh phát triển bình đẳng, hòa nhập cộng đồng và vươn lên tự
khẳng định mình.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Báo (2011), Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp.
2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2009), Xây dựng môi trường
bảo vệ trẻ em Việt Nam, đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc
biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, Hà Nội.
3. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2013), Các văn bản pháp luật
về trợ giúp người khuyết tật, Nxb Lao động – xã hội.
4. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (ICCPR),
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế
về quyền con người, Nxb Lao động - xã hội.
5. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, 1966
(ICCSCR), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn
kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động – xã hội.
6. Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (ICRPD), Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con
người, Nxb Lao động - xã hội.
7. Công ước về quyền trẻ em 1989 (ICRPD), Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb
Lao động - xã hội
8. Chính phủ (2012), Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Người khuyết tật 2010, Hà Nội.
9. Chính phủ (2017), Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
trẻ em năm 2017, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Kim Hoa (2014), Công tác xã hội với người khuyết tật,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
11. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Eric Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm
thần (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật pháp của
Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết
tật, tháng 12/2009, Hà Nội.
13. Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên
cứu khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
14. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
16. Quốc hội (2017), Luật trẻ em, Hà Nội.
17. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội
18. Quốc hội, (2005), Luật giáo dục, Hà Nội.
19. Quốc hội (2010), Luật người khuyết tật, Hà Nội.
20. Quỹ bảo trợ trẻ em tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo thành tích
trình Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam
21. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình (2015), Báo
cáo 5 năm thực hiện Luật người khuyết tật.
22. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình (2015), Báo
cáo thực hiện CSPL đối với thanh niên.
23. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình (2015), Báo
cáo kết quả 5 năm thực hiện Luật Người khuyết tật và Đề án trợ giúp người
khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020.
24. Trần Thị Huyền Trang (2014), “Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học quốc
gia Hà Nội.
25. Tăng Thị Huyền Trang (2016), “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội.
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2013), Kế hoạch trợ giúp người
khuyết tật tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014- 2020.