BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM
ĐỖ ĐỨC HẠNH
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG - TẦM
NHÌN ĐẾN NĂM 2020.
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60 34 01 02
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 01 năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM
ĐỖ ĐỨC HẠNH
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG - TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH Mã số: 60 34 01 02
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LƯU THANH TÂM
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 01 năm 2013
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM
Cán bộ hướng dẫn khoa học : TS Lưu Thanh Tâm
(Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị và chữ ký)
Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ
TP. HCM ngày 04 tháng 01 năm 2013
Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm:
1. TS. Nguyễn Phú Tụ Chủ tịch hội đồng
2. TS. Nguyễn Văn Trãi Phản biện 1
3. TS. Nguyễn Ngọc Dương Phản biện 1
4. TS. Mai Thanh Loan Thư ký, ủy viên Hội đồng
5. TS. Lê Bá Hùng Anh Ủy viên Hội đồng
Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được
sửa chữa (nếu có).
Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV
i
TRƯỜNG ĐH KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TPHCM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG QLKH - ĐTSĐH
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TP. HCM, ngày tháng năm 2012
NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ tên học viên: ĐỖ ĐỨC HẠNH Giới tính: Nữ
Ngày, tháng, năm sinh: 31/10/1983 Nơi sinh: Hà Nội
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh MSHV: 1184011054
I- TÊN ĐỀ TÀI:
Thực trạng sản xuất kinh doanh tại làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng
tầm nhìn 2020.
II- NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG:
Xây dựng cơ sở lí luận về làng nghề, về các sản phẩm gốm sứ, lí luận về chiến
lược và tầm nhìn cho làng nghề truyền thống. Tìm hiểu thực trạng làng nghề truyền
thống gốm sứ Bát Tràng, phân tích các điểm mạnh, điểm yếu. Từ đó đưa ra chiến lược
và giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh cho làng nghề. Nhằm phát triển và mở
rộng làng nghề Bát Tràng trong nền kinh tế mở như hiện nay.
III- NGÀY GIAO NHIỆM VỤ: 30/06/2012
IV- NGÀY HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ: 30/12/2012
V- CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:
Tiến sỹ Lưu Thanh Tâm
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH
(Họ tên và chữ ký) (Họ tên và chữ ký)
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã chỉ rõ nguồn
gốc.
Học viên thực hiện Luận văn
Đỗ Đức Hạnh
iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa học cũng như Luận văn này, tác giả xin trân
trọng cảm ơn đến các Thầy, Cô Trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Thành
Phố Hồ Chí Minh nói chung, các Thầy, Cô trong khoa Quản Trị Kinh Doanh
nói riêng trong suốt thời gian học tập tại trường.
“Đặc biệt, em xin trân trọng cám ơn Thầy Lưu Thanh Tâm đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này”.
Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn các hộ sản xuất kinh doanh tại làng
nghề Gốm sứ Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả
trong việc thu thập dữ liệu cũng như những ý kiến đóng góp và phản biện
trong việc xây dựng bảng câu hỏi.
Xin cảm ơn tất cả bạn bè gần xa đã chia sẻ, động viên tôi trong suốt quá
trình học tập cũng như hoàn thiện luận văn này.
Cuối cùng, tác giả xin dành tặng một lời cảm ơn sâu sắc nhất tới
bố mẹ, anh chị em và gia đình đã là chỗ dựa và nguồn động viên an ủi lớn
nhất trên con đường tìm kiếm tri thức.
Một lần nữa Tác giả trân trọng cám ơn tất cả mọi người đã giúp đỡ tác
giả để hoàn thành Luận văn này.
iv
TÓM TẮT
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, mỗi nền kinh tế đều
mang một sắc thái riêng dựa theo văn hóa mỗi quốc gia. Vấn đề làm sao phát triển
được kinh tế nhưng vẫn phù hợp với văn hóa truyền thống chung, đó một kế hoạch
không dễ dàng. Việt Nam là nước thuần nông nghiệp, tỷ lệ nông dân vẫn chiếm đa
số trong cơ cấu ngành nghề lao động của cả nước. Muốn tận dụng và phát huy nội
lực cho lực lượng này, thì mô hình làng nghề truyền thống đang trở thành một điểm
sáng trong bức tranh kinh tế.
Làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng có truyền thống từ hơn 600 năm
nay, các sản phẩm gốm sứ đã từng được thị trường trong nước và nước ngoài ưa
chuộng bởi ngoài vẻ đẹp truyền thống, các sản phẩm mang tính thực dụng cao, hơn
nữa, gốm sứ Bát Tràng còn có những sản phẩm nghệ thuật được người tiêu dùng
quan tâm và trân trọng.
Sau khi được nhà nước quy hoạch để trở thành làng nghề điển hình của cả
nước vào năm 2001, làng nghề Bát Tràng càng chứng tỏ vai trò của mình dựa trên
những ưu điểm và lợi thế của riêng. Tuy nhiên, khi bước vào cơ chế thị trường mở,
đặc biệt sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, mô hình làng nghề truyền
thống gốm sứ Bát Tràng thể hiện rõ sự thiếu bền vững, từ khâu sản xuất đến khâu
tiêu thụ. Điểm yếu lớn nhất đó là làng nghề Bát Tràng không có một chiến lược
đồng bộ dẫn đến sự khủng hoảng và không bắt kịp với thị trường hiện tại thậm chí
bị lấn lướt trong chính thị trường nội địa.
Đề tài sau khi phân tích thực trạng làng nghề Bát Tràng, rồi đưa ra các chiến
lược phát triển để góp một phần gìn giữ những sản phẩm mang tính truyền thống và
phát triển hơn nữa các sản phẩm này, cũng như mong muốn góp phần mở rộng mô
hình làng nghề truyền thống nói chung.
v
ABSTRACT
In the context of global economic integration today, each economy will bring
a cultural character based on each country. The question is that how economic
development is but it is still suitable with common cultural traditions, that plan is
not easy. Vietnam is a purely agricultural country and the number of farmers is still
the majorities of the laboring forces in the structure of the countrywide. To take
advantage and develop the internal resources for this force, the traditional model of
this village has become a bright spot in the economic picture.
600 years. The ceramic products have been popular in both local as well as
foreign markets because the products are not only traditionally beautiful but also
highly practical. What‘s more, Bat Trang also has highly artistic products that its
consumers Traditional village of Bat Trang ceramics has a historical tradition for
more than are very interested in and appreciated.
After the state planed this village to become a typical one of the country in
2001, the village of Bat Trang has shown its roles based on its own strengths and
advantages. However, after entering the open market mechanism, especially after
the global economic crisis in 2008, the model traditional village of Bat Trang
ceramics has shows unsustainability from production to consumption. The only
weakness is that Bat Trang village does not have a uniform strategy led to the crisis
and did not keep pace with the current market or even its product are dominated in
the domestic market.
This research is aimed to analyze the current situation of Bat Trang village in
order to find out the development strategy, contributing a small part to develop
increasingly and maintain its products as well as expending the traditional village
model in general.
vi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN iii
TÓM TẮT iv
ABSTRACT v
MỤC LỤC vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU x
DANH MỤC BIỂU ĐỒ - SƠ ĐỒ xi
DANH MỤC HÌNH ẢNH xi
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết quả dự kiến đạt được 4
6. Bố cục của luận văn 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM. 6
1.1. Cơ sở lí luận: 6
1.1.1. Một số khái niệm liên quan: 6
1.1.2. Đặc điểm chung về làng nghề truyền thống. 14
1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển làng nghề truyền thống. 18
1.3. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống của một số nước trên thế giới (Trong khu vực Châu Á): 20
1.3.1. Phát triển làng nghề truyền thống ở Nhật Bản, 20
1.3.2. Phát triển làng nghề truyền thống ở Trung Quốc, 21
1.4. Một số nhận xét chung về tình hình phát triển làng nghề truyền thống trong thời gian qua: 22
1.4.1. Về thị trường, 22
1.4.2. Vị trí các làng nghề truyền thống trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội của đất nước, 23
1.4.3. Vấn đề vốn đầu tư cho sản xuất, 24
vii
1.4.4. Vấn đề trang thiết bị, công nghệ và mẫu mã sản phẩm, 25
1.4.5. Vấn đề đào tạo kỹ thuật tay nghề cho người lao động, 25
1.4.6. Một số vấn đề về chính sách, 26
Kết luận chương 1: 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG – HUYỆN GIA LÂM – HÀ NỘI 28
2.1. Thực trạng phát triển làng nghề gốm sứ truyền thống của Việt Nam 28
2.1.1. Thời kỳ phong kiến, 28
2.1.2. Sơ lược quá trình phát triển sản xuất trong các làng nghề truyền thống ở nước ta sau cách mạng tháng 8 – 1945, 29
2.1.3. Tình trạng làng nghề thời kỳ trước đổi mới năm 1986, 29
2.1.4. Thực trạng làng nghề từ năm 1986 cho đến nay. 30
2.2. Đặc điểm địa bàn của làng nghề Gốm sứ Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội: 31
2.2.1. Sự ra đời và phát triển làng gốm sứ Bát Tràng 31
2.2.2. Đặc điểm về tự nhiên 33
2.2.3. Đặc điểm đất đai, dân số lao động 34
2.2.4. Đặc điểm cơ sở hạ tầng - kỹ thuật 35
2.2.5. Các sản phẩm chủ yếu của gốm sứ Bát Tràng 35
2.2.6. Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Bát Tràng 37
2.3. Phương pháp nghiên cứu: 39
2.3.1. Số liệu thứ cấp 39
2.3.2. Số liệu sơ cấp 39
2.4. Tình hình sản xuất - kinh doanh của Gốm sứ Bát Tràng 41
2.4.1. Sản xuất và tiêu thụ đồ gốm tại các hộ chuyên điều tra 42
2.4.2. Tình hình sản xuất tại các hộ điều tra 48
2.4.3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các hộ điều tra 55
2.4.4. Đánh giá năng lực cạnh tranh của gốm sứ Bát Tràng 57
2.4.5. Tình hình ô nhiễm môi trường tại làng nghề gốm sứ Bát Tràng 63
2.4.6. Vấn đề du lịch làng nghề tại làng Gốm Bát Tràng 64
2.4.7. Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE) 65
2.4.8. Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE) 66
viii
2.4.9. Phương pháp phân tích SWOT 69
Kết luận chương 2: 72
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG TẦM NHÌN 2020 74
3.1. Xác định tầm nhìn và mục tiêu dài hạn cho làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng từ nay đến năm 2020. 74
3.2. Xây dựng và lựa chọn chiến lược và giải pháp đi kèm 75
3.3. Các giải pháp cụ thể: 77
3.3.1. Giải pháp Marketing tổng hợp 77
3.3.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực 82
3.3.3. Du lịch làng nghề 84
3.3.4. Một số giải pháp khác 85
3.4. Một số kiến nghị và đề xuất đối với các hộ sản xuất kinh doanh và
địa phương làng nghề Bát Tràng. 86
3.5. Một số kiến nghị và đề xuất đối với các cấp ban ngành địa phương và các cơ quan vĩ mô cấp nhà nước. 87
3.5.1.Về vấn đề vốn đầu tư. 87
3.5.2. Về vấn đề tổ chức sản xuất. 88
3.5.3.Về vấn đề môi trường. 89
Kết luận chương 3: 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO I
Tài liệu tham khảo từ sách: I
Tài liệu tham khảo từ luận án, luận văn, đề án, hội thảo: II
Tài liệu báo chí: II
Trang thông tin điện tử: II
PHỤ LỤC SỐ 1 IV
PHỤ LỤC SỐ 2 VI
PHỤ LỤC SỐ 3 IX
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
HTX : Hợp tác xã
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Ủy ban nhân dân
: Số lượng SL
: Cơ cấu CC
: Bình quân BQ
: Nông nghiệp NN
: Thủ công nghiệp TCN
: Đơn vị tính ĐVT
: Triệu đồng Tr.đ
TSCĐ : Tài sản cố định
: Giá trị GT
: Nghìn đồng Ng.đ
: Doanh nghiệp DN
KT – XH : Kinh tế - Xã hội
EFE : External Factor Evaluation
IFE : Internal Factor Evaluation
x
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay ........................................ 16
Bảng 2.1. Đặc trưng về sản phẩm Gốm Bát Tràng ............................................. 36
Bảng 2.2. Kết quả phát triển kinh tế xã Bát Tràng năm 2008 – 2011.................. 38
Bảng 2.3. Quy mô sản xuất của các hộ sản xuất tại làng Bát Tràng .................... 40
Bảng 2.4. Tình hình cơ bản của chủ hộ sản xuất năm 2011 ................................ 43
Bảng 2.5. Tình hình sử dụng vốn của các hộ điều tra năm 2011 ......................... 47
Bảng 2.6. Kết quả sản xuất của các nhóm hộ điều tra ........................................ 51
Bảng 2.7. Chi phí sản xuất gốm của các nhóm hộ điều tra năm 2011 ................. 53
Bảng 2.8. Kết quả & hiệu quả sản xuất gốm của các nhóm hộ điều tra .............. 54
Bảng 2.9. Thị trường tiêu thụ trong nước của gốm Bát Tràng và Trung Quốc .... 58
Bảng 2.10. Thị trường xuất khẩu của gốm Bát Tràng và Trung Quốc ................ 59
Bảng 2.11. Giá một số sản phẩm cạnh tranh trên thị trường ............................... 60
Bảng 2.12. Giá thành sản xuất một số sản phẩm của Bát Tràng và Trung Quốc . 61
Bảng 2.13. Phân biệt cơ bản giữa gốm Bát Tràng và Trung Quốc ...................... 62
Bảng 2.14. Đánh giá các yếu tố bên ngoài ......................................................... 67
Bảng 2.15. Đánh giá các yếu tố bên trong .......................................................... 68
Bảng 2.16. Phân tích SWOT .............................................................................. 69
xi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ - SƠ ĐỒ Sơ đồ 1.1. Chuỗi giá trị sản xuất ........................................................................ 13
Biểu đồ 1.1. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực ......................... 15
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu kinh tế của xã Bát Tràng .................................................... 38
Biểu đồ 2.2. Mức thu nhập bình quân tại làng Gốm Bát Tràng .......................... 42
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu vốn của các hộ sản xuất ..................................................... 48
Sơ đồ 2.1. Quy trình làm gốm sứ Bát Tràng....................................................... 48
Sơ đồ 2.2. Kênh tiêu thụ sản phẩm gốm của các hộ sản xuất .............................. 55
DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình ảnh 1. Sản phẩm trang trí Bát Tràng .......................................................... VI
Hình ảnh 2. Sản phẩm ấm chén Bát Tràng ......................................................... VI
Hình ảnh 3. Sản phẩm tượng mỹ thuật Bát Tràng ............................................ VII
Hình ảnh 4. Lọ lục bình Bát Tràng .................................................................. VII
Hình ảnh 5. Tranh nghệ thuật Bát Tràng ......................................................... VIII
Hình ảnh 6. Bức chiếu thư bằng gốm lớn nhất Việt nam ................................. VIII
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau một thời gian dài, Việt Nam chuyển đồi từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, tự do thương mại với các nước trên thế giới. Quá trình phát triển
và bắt kịp với xu hướng toàn cầu hóa của Việt Nam tạo ra một môi trường cạnh
tranh khốc liệt cho các mô hình kinh doanh của nước ta đặc biệt đối với các làng
nghề truyền thống.
Nhìn vào thực trạng phát triển ngành nghề của nước ta hiện nay, chúng ta có
thể thấy một số ngành nghề đã rất phát triển, đem lại thu nhập cao cho người lao
động (chủ yếu là những người nông dân), nhưng bên cạnh đó cũng không ít những
ngành nghề dã dần bị mai một. Giải pháp cho vấn đề này, đơn giản là chúng ta cần
xây dựng một kế hoạch đồng bộ để phát triển các làng nghề truyền thống. Bởi lẽ
những làng nghề này đã có quá trình phát triển lâu đời, tay nghề lao động cao, có
kinh nghiệm truyền từ đời này qua đời khác. Hơn nữa, các làng nghề truyền thống
tạo ra nhiều việc làm giải quyết thực trạng dư thừa lao động tại nông thôn (Nông
thôn Việt Nam chiếm tới 73% dân số của cả nước, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp
còn thấp – Theo tổng cục thống kê, 2007), góp phần vào sự nghiệp xóa đói giảm
nghèo, tránh được luồng di cư ồ ạt từ nông thôn vào thành phố, tạo ra đoàn kết thôn
xóm, giảm các tệ nạn xã hội, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí…
Nghị quyết đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ X đã chỉ rõ “… Khuyến khích để
các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn…, phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và
vừa, phát triển bền vững các làng nghề… Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có
việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài
nông thôn…”. Do đó, trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã quan tâm đến
việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Cụ thể: Một khoản đầu tư
trên 11.000 tỷ đồng dự kiến sẽ được rót cho lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề
ở Việt Nam từ 2010 đến 2020.
2
Làng nghề Bát Tràng thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội nổi tiếng
với sản phẩm gốm sứ đã hơn 600 năm tuổi. Trong quá trình phát triển nghề truyền
thống, Gốm sứ Bát Tràng đã trải qua những bước thăng trầm, nhiều lúc tưởng như
không thể phát triển, song nó vẫn tồn tại duy trì và đã có những chuyển biến tích
cực trong sản xuất – kinh doanh như: Sản phẩm Bát Tràng đã nhận được nhiều giải
thương cao về Hàng chất lượng cao, mẫu mã đẹp tại các cuộc bình chọn trong và
ngoài nước; xây dựng một thương hiệu đặc thù; với hơn 60 đơn vị kinh tế và
khoảng 1.000 hộ sản xuất gốm sứ, tổng doanh thu những năm gần đây khoảng 300
tỷ; hàng hóa được xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu của thị trường… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, còn rất
nhiều nhược điểm mà làng nghề Gốm sứ Bát Tràng chưa khắc phục được, như việc
các hộ gia đình vẫn sản xuất nhỏ lẻ, chưa liên kết được với nhau để hình thành
những cơ sở sản xuất chuyên nghiệp, sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng chưa cạnh tranh
được so với các sản phẩm tương tự trong nước và nước ngoài, hoặc quan trọng hơn
là việc xử lý các ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình sản xuất…
Nhằm phát huy tối đa nội lực sẵn có của làng nghề Gốm sứ Bát Tràng, đẩy
mạnh mô hình làng nghề truyền thống, phát triển nhưng vẫn giữ được những giá trị
văn hóa tinh túy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài THỰC TRẠNG SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT
TRÀNG – TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020.
Nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc đề ra giải
pháp nhằm giữ gìn và phát triển làng nghề, giữ gìn các văn hóa cổ truyền và nâng
cao đời sống cho nhân dân địa phương góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH – HĐH
nông nghiệp, nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài này, người viết mong muốn tìm hiểu thực trạng phát
triển làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng, từ đó thấy được những vấn đề còn
hạn chế, nguyên nhân của vấn đề đó và đưa ra những giải pháp cụ thể:
3
Hệ thống hóa cơ sở lý luận làng nghề truyền thống, vị trí, vai trò của làng nghề
truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối với kinh tế xã hội
của làng nghề nói riêng.
Tìm hiểu thực trạng làng nghề Gốm sứ Bát Tràng trong những năm gần đây và
những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục.
Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển những lợi thế về sản xuất kinh doanh
của làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là: Hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề Gốm
sứ Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội.
Đối tượng khảo sát là: Các hộ gia đình trực tiếp tham gia sản xuất tại làng
nghề Gốm sứ Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội.
Phạm vi nội dung: Tìm hiểu thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển làng
nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng.
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại làng nghề Gốm sứ Bát Tràng – Gia
Lâm – Hà Nội.
Phạm vi về thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu: Từ 2011 – 2012.
+ Thời gian thực tập: 04/2012 đến 10/2012.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận giải quyết vấn đề của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu điển hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tác động
của nhiều yếu tố môi trường đến làng nghề gốm sứ Bát Tràng, tác giả phân tích và
đề xuất các nhóm giải pháp chiến lược nâng cao hiệu quả của làng nghề truyền
thống nông thôn Việt Nam.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo duy vật biện chứng, vận dụng quan
điểm đường lối của Đảng về phát triển mô hình làng nghề truyền thống và cách tiếp
cận theo hệ thống để phân tích và làm rõ thực trạng. Từ đó đưa ra những nhận định
và đồng thời phát triển các ý tưởng, các quan điểm để cùng vận dụng chúng trong
việc xây dựng các chiến lược, chính sách phát triển ngành nghề truyền thống Gốm
sứ Bát Tràng. Cơ sở lý thuyết của đề tài dựa vào các lý thuyết liên quan đến làng
nghề truyền thống và phát triển kinh tế, các phương thức tăng trưởng kinh tế có đề
cao vai trò của làng nghề truyền thống.
b. Phương pháp kỹ thuật
Luận văn kết hợp các phương pháp mô tả thống kê – khảo sát, phân tích – tổng
hợp – so sánh đối chứng, phân tích định lượng qua mô hình kinh tế lượng.
5. Kết quả dự kiến đạt được
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi của đề tài nghiên cứu, kết quả dự kiến đạt
được của luận văn bao gồm:
Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống như: Các khái
niệm làng nghề, làng nghề truyền thống, đặc trưng của làng nghề truyền thống… để
làm cơ sở nhận dạng thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống nói chung và
làng nghề Gốm sứ Bát Tràng nói riêng.
Phân tích, đánh giá các tác động của nền kinh tế đổi mới đối với mô hình làng
nghề truyền thống để tìm ra các giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trong
thời gian tới.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
5
Chương 2: Thực trạng làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng – Huyện Gia
Lâm – Hà Nội.
Chương 3: Chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh cho làng nghề Gốm sứ Bát
Tràng tầm nhìn 2020.
Trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn, không thể tránh khỏi
những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và sửa chữa của Quý Thầy/ Cô để
luận văn của em hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn!
6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG Ở VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lí luận:
1.1.1. Một số khái niệm liên quan:
1.1.1.1. Khái niệm chung về sản phẩm gốm
Sản phẩm gốm cơ bản được hiểu là những sản phẩm được làm từ những loại
đất sét khác nhau, do những người thợ thủ công làm ra và nung trong lò với nhiệt độ trên 1100oC.
Hầu hết các đồ gốm đều được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện rõ tài năng
sáng tạo của người thợ được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mỗi một làng nghề có
những đặc trưng riêng cho sản phẩm tiêu biểu là màu men của mỗi một vùng đều
không giống nhau.
Dựa vào ý nghĩa sử dụng, có thể phân chia các loại hình gốm sứ như sau [16]:
Gốm mỹ nghệ: Tranh gốm, gạch trang trí, lọ hoa, tượng, đèn ngủ, chậu cây
cảnh…
Gốm gia dụng: Chum, vại, chậu, bát, đĩa, âu, lọ, vò, ấm, chén…
Gốm tín ngưỡng: Bát hương, bình hương, tiêu quách…
Gốm xây dựng: Ống nước, gạch men, ngói…
1.1.1.2. Khái niệm làng nghề truyền thống
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một số nghề
được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Có số hộ từ 35% trở
lên trong làng tham gia hoạt động sản xuất trong các ngành nghề. Thu nhập của họ
từ các ngành nghề này chiếm trên 50% tổng thu nhập của họ và thu nhập từ các
nghề đó chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
7
Có thể hiểu làng nghề “là làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so với
nghề nông”[8]
Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008 của Bộ Tài nguyên và môi
trường, tiêu chí công nhận làng nghề gồm có 3 tiêu chí sau:
Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận.
Chấp hành tốt chính sách Pháp luật của Nhà nước
1.1.1.3. Khái niệm ngành nghề truyền thống,
Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiêu thủ công nghiệp đã xuất
hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế nước ta, có tuổi đời trên 100 năm, còn tồn
tại đến ngày nay, bao gồm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được cải tiến
hoặc sử dụng máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ
truyền thống. Vì thế, những ngành nghề được gọi là ngành nghề truyền thống khi
bao gồm những yếu tố sau [13]:
Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta (trên 100 năm)
Sản xuất tập trung tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo
Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định
Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước
Sản phẩm mang tính truyển thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất
lượng cao, vừa là hàng hóa, vừa là sản phẩm văn hóa, nghệ thuật thậm chí là di sản
văn hóa Việt Nam
Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân của cộng đồng, đóng góp đáng kể
và ngân sách nhà nước.
8
1.1.1.4. Khái niệm về làng nghề truyền thống,
Khái niệm làng nghề truyền thống bao gồm hai khái niệm làng nghề và ngành
nghề truyền thống nêu trên. Làng nghề truyền thống là một thực thể kinh tế - văn
hóa - xã hội, tồn tại và phát triển tương đối bền vững về một hoặc nhiều nghề thủ
công truyền thống lâu đời.
Làng nghề truyền thống là làng cổ truyền, mà ở đó có các hộ nghề, tộc nghề
chuyên sản xuất, chế tác, sinh sống bằng nghề và sản phẩm thủ công truyền thống
lâu đời. Đấy là nơi có những thế hệ nghệ nhân, thợ thủ công tài năng của địa
phương và dân tộc, đã và đang tạo ra những sản phẩm tinh xảo, độc đáo, đậm nét
bản sắc văn hóa, có giá trị kinh tế, tư tưởng và thẩm mỹ cao, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Tiến trình lịch sử hình thành và phát triển làng nghề truyền thống đã cho thấy
các làng nghề ra đời xuất phát từ nhu cầu cần việc làm lúc nông nhàn của người dân
ở nông thôn và làm ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu tại chỗ (tự cấp tự túc) và sau đó là
nhu cầu xã hội (sản phẩm hàng hóa), phục vụ đời sống hàng ngày và yêu cầu thờ
cúng, thưởng ngoạn nghệ thuật, xây dựng nhà cửa, vũ khí và phương tiện quân sự
để bảo vệ đất nước… đã dần dần xuất hiện.
Làng nghề truyền thống thường cần có đặc trưng tiêu biểu:
Lâu đời;
Có vị Tổ nghề;
Có nghệ nhân, đội ngũ thợ lành nghề;
Có công nghệ truyền thống lâu đời ổn định;
Có khả năng duy trì và phát triển bằng việc truyền nghề, lan tỏa nghề ;
Sản phẩm ổn định, độc đáo có ý nghĩa kinh tế, văn hóa, xã hội, có thị trường
tiêu thụ (trong nước và xuất khẩu).
9
Đến nay, trong các làng nghề đã hình thành nhiều loại hình doanh nghiệp (từ
hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, đến các loại công ty) có đăng ký kinh doanh
theo luật định. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ trở thành một trong các ngành hàng
xuất khẩu chủ lực. Việc phát triển làng nghề còn có ý nghĩa như là giải pháp để giải
quyết các vấn đề an sinh xã hội và bảo tồn văn hóa dân tộc, có tính lâu dài, tính
nhân văn cao và góp phần quan trọng cho sự phát triển bền vững. [13]
1.1.1.5. Khái niệm về chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh
“Chiến lược là phương hướng và quy mô của một tổ chức trong dài hạn: chiến
lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực
trong một môi trường cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và kỳ vọng của
các nhà góp vốn”... [24]
Chiến lược được triển khai tại các cấp độ khác nhau: Trong bất kỳ tổ chức
nào, các chiến lược đều tồn tại ở vài cấp độ khác nhau - trải dài từ toàn bộ doanh
nghiệp (hoặc một nhóm doanh nghiệp) cho tới từng các nhân làm việc trong đó.
Chiến lược doanh nghiệp – liên quan đến mục tiêu tổng thể và quy mô của
doanh nghiệp để đáp ứng được những kỳ vọng của người góp vốn. Đây là một cấp
độ quan trọng do nó chịu ảnh hưởng lớn từ các nhà đầu tư trong doanh nghiệp và
đồng thời nó cũng hướng dẫn quá trình ra quyết định chiến lược trong toàn bộ
doanh nghiệp. Chiến lược doanh nghiệp thường được trình bày rõ ràng trong “tuyên
bố sứ mệnh”.
Chiến lược kinh doanh - liên quan nhiều hơn tới việc làm thế nào một doanh
nghiệp có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Nó liên quan đến
các quyến định chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng,
giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra được các cơ hội mới...
Chiến lược tác nghiệp - liên quan tới việc từng bộ phận trong doanh nghiệp sẽ
được tổ chức như thế nào để thực hiện được phương hướng chiến lược ở cấp độ
công ty và từng bộ phận trong doanh nghiệp. Bởi vậy, chiến lược tác nghiệp tập
trung vào các vận đề về nguồn lực, quá trình xử lý và con người [24]
10
Vai trò của chiến lược: Chiến lược có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế. Các quốc gia trên thế giới từ lâu đã biết vận dụng chiến lược vào việc phát
triển kinh tế và đã có những bước nhảy thần kỳ. Điển hình như Nhật Bản sử dụng
chiến lược quản lý, kết hợp với yêu tố hiện đại và yếu tố truyền thống, kết hợp sức
mạnh dân tộc để CNH – HĐH tầm vĩ mô và tạo ra kỳ tích vực dậy sau khi thua cuộc
ở thế giới chiến thứ hai. Hay như Hàn Quốc, sau chiến tranh 1950-1953, đã thực
hiện thành công chiến lược HĐH nông thôn, chiến lược khuyến khích các công ty
trong nước mở rộng sản xuất kinh doanh, nhờ vậy Hàn Quốc trở thành quốc gia
vững mạnh như ngày nay. Đối với Việt Nam, sau chiến tranh chống Pháp và chống
Mỹ, thành công mà đất nước chúng ta đạt được đó là thực hiện chiến lược mở cửa
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và hơn hết đó là
chúng ta thể hiện đường lối đúng đắn mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
1.1.1.6. Khái niệm chiến lược phát triển làng nghề truyền thống,
Chiến lược phát triển có thể hiểu là một kế hoạch bao gồm quá trình tăng lên
cả về lượng lẫn về chất trong một thời kỳ nhất định, hay chính là bao gồm cả sự
tăng lên về quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cả cơ cấu kinh tế - xã hội.
Với sự phát triển làng nghề truyền thống thì được hiểu là sự tăng lên về quy
mô của các loại hình tham gia sản xuất ngành nghề truyền thống, sự tăng lên về số
lượng các cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất nghề, đồng thời là sự tăng lên về giá trị
sản lượng, về thu nhập của người lao động, sự tăng lên về thu nhập của địa phương
cũng như sự tăng lên về tổng thu nhập của các cơ sở và hộ sản xuất ngành nghề
truyền thống. Hay cũng là chính sự thay đổi GDP của địa phương theo hướng tiến
bộ là tăng dần tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ, biểu hiện thông qua sự tăng trưởng
kinh tế địa phương. [14]
1.1.1.7. Khái niệm về tầm nhìn
Khái niệm: Tầm nhìn xác định những giá trị và mục đích cốt lõi nhất của
doanh nghiệp, đồng thời định huớng phát triển trong tuơng lai của doanh nghiệp,
nêu bật được khát vọng mà doanh nghiệp muốn đạt tới.
11
Các yếu tố tạo nên tầm nhìn doanh nghiệp
Tầm nhìn bao gồm ba thành tố chính: giá trị cốt lõi, mục đích cốt lõi và tương
lai rõ nét. Giá trị cốt lõi, mục đích cốt lõi tạo nên hệ tư tưởng cốt lõi của doanh
nghiệp. Đây là tính chất căn bản nhất, lâu bền nhất của một doanh nghiệp, là chất
kết dính toàn bộ doanh nghiệp. Tương lai rõ nét xác định những mục tiêu lớn đạt
được trong tương lai, phải hướng tới giá trị và mục đích cốt lõi.
Giá trị cốt lõi: thể hiện niềm tin, khả năng hoặc khát vọng vươn tới của doanh
nghiệp.
Mục đích cốt lõi: phản ánh được động lực lý tưởng để mọi người trong doanh
nghiệp làm việc và mong muốn đạt được. Mục đích cốt lõi lâu dài, gắn với doanh
nghiệp trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.
Tương lai rõ nét: phải xác định được những mục tiêu lớn, táo bạo có thể đạt được
trong vòng 10-30 năm và những bước thực hiện cụ thể để đạt được các mục tiêu đó.
Vai trò của tầm nhìn đối với doanh nghiệp
Tầm nhìn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Tầm
nhìn gắn kết các thành viên trong doanh nghiệp với nhau, tạo động lực làm việc cho
doanh nghiệp, giúp các hoạt động của doanh nghiệp đi vào những khuôn khổ định
sẵn và hướng tới mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Gắn kết các thành viên trong doanh nghiệp: Như một sợi dây vô hình, tầm
nhìn kết nối tất cả mọi người trong doanh nghiệp với nhau. Họ cùng có niềm tin vào
những giá trị cốt lõi và cùng hướng tới mục đích lâu dài của doanh nghiệp.
Tạo và truyền động lực làm việc: Khi thể hiện được giá trị và mục đích hoạt
động của doanh nghiệp, tầm nhìn giúp nhân viên trong doanh nghiệp hiểu và cảm
nhận được ý nghĩa công việc của họ. Với một tương lai rõ nét, tầm nhìn mang lại
niềm tin vào tương lai cho mọi người. Tầm nhìn cũng chính là con đường chuyển
ước mơ của mỗi cá nhân thành hiện thực. Khi ước muốn, tham vọng và những giá
trị cá nhân được đề cao thì tất cả mọi người đều muốn làm việc hết khả năng của
mình.
12
Giúp các hoạt động của doanh nghiệp đi vào những khuôn khổ định sẵn và
hướng tới mục tiêu phát triển của doanh nghiệp: Mọi hoạt động của doanh nghiệp
đều dựa trên các giá trị cốt lõi và hướng tới mục đích cốt lõi của doanh nghiệp. Vì
vậy, tầm nhìn được coi là chuẩn mực để đánh giá hiệu quả công việc của doanh
nghiệp, là thước đo điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
thành công đều xem xét rất kỹ liệu kế hoạch kinh doanh đó, kế hoạch sản xuất đó có
phục vụ cho mục đích cốt lõi của họ không? Nếu các kế hoạch chỉ đơn thuần để lại
lợi nhuận mà phá vỡ những giá trị hay mục đích cốt lõi của họ, thì chúng sẽ không
bao giờ được thực thi.
Tầm nhìn cho làng nghề truyền thống
Cũng giống như tầm nhìn của một doanh nghiệp, nhưng tầm nhìn cho làng
nghề truyền thống có đặc tính ở một phạm vi rộng hơn. Tầm nhìn cho làng nghề
cũng xác định những điều cốt lõi cho tương lai nhưng mang tính đồng bộ giữa các
chính sách thực thi. [21]
1.1.1.8. Khái niệm chuỗi giá trị sản xuất
Chuỗi giá trị (do Michael Porter đưa vào năm 1985) là một chuỗi các hoạt
động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt
động sản phẩm sẽ nhận thêm một số giá trị tăng thêm. Tùy theo mức độ chi tiết hóa
cho mỗi quá trình, chuỗi giá trị được phân thành chuỗi hai loại: giá trị giản đơn
hoặc chuỗi giá trị mở rộng.
Vậy có thể hiểu: Chuỗi giá trị là một loạt các hoạt động sản xuất kinh doanh có
quan hệ với nhau, từ việc cung cấp đầu vào, sản xuất, thu gom, chế biến và cuối
cùng là bán sản phẩm cho người tiêu dùng.
Trong chuỗi giá trị có “chức năng” của chuỗi và cũng được gọi là các “khâu”
trong chuỗi. Bên cạnh các chức năng chuỗi giá trị chúng ta có “tác nhân”. Tác nhân
là những người thực hiện các chức năng trong chuỗi. Bên cạnh các tác nhân chuỗi
giá trị chúng ta còn có các “nhà hỗ trợ chuỗi giá trị”. Nhiệm vụ của các nhà hỗ trợ
chuỗi là giúp phát triển của chuỗi bằng cách tạo điều kiện nâng cấp chuỗi giá trị.
13
Sơ đồ thể hiện các hoạt động sản xuất/kinh doanh (khâu), các tác nhân chính
trong chuỗi và những mối liên kết của họ. Thể hiện qua sơ đồ chuỗi giá trị dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Chuỗi giá trị sản xuất
Hoạt động
Chọn đất Tạo dáng gốm Thu gom Bán sỉ Thị trường trong nước
Vẽ trang trí Bán lẻ Xử lý, pha chế đất Phân loại sản phẩm Thị trường xuất khẩu
Tráng men Vận chuyển
Nung
Tác nhân
Người thu gom Người bán sỉ, người bán lẻ Các nhà cung cấp đầu tư đầu vào Hộ sản xuất kinh doanh, Tổ HT, HTX
Nhà hỗ trợ các chuỗi giá trị
Chính quyền địa phương, ngân hàng, các Sở/ngành liên quan,…
Công cụ phân tích chuỗi giá trị giúp chúng ta nhắm đến thị trường tiêu thụ sản
phẩm trước khi sản xuất. Qua đó, xác định nhu cầu và yêu cầu của thị trường, tiếp
đến là quản lý được sản xuất kinh doanh, xác định nhu cầu đầu tư hỗ trợ để nâng
14
cấp chuỗi. Chuỗi giá trị chỉ mang lại lợi nhuận cho các tác nhân nếu người tiêu
dùng sẵn sàng chi trả giá sản phẩm cuối cùng.
Giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị: Giá trị gia tăng là mức đo độ thịnh
vượng được tạo ra trong chuỗi giá trị. Để tính được giá trị gia tăng trong một chuỗi
giá trị, chúng ta tính như sau: [Giá trị gia tăng] = [tổng giá bán sản phẩm] – [giá trị
hàng hóa trung gian] (ví dụ chi phí đầu vào: mua nguyên vật liệu, dịch vụ v.v.). Giá
trị gia tăng được tạo ra bởi tác nhân của từng khâu trong chuỗi giá trị. Hàng hóa
trung gian, đầu vào và dịch vụ vận hành được cung cấp bởi các nhà cung cấp mà họ
không phải là tác nhân của khâu.
1.1.2. Đặc điểm chung về làng nghề truyền thống.
Làng nghề truyền thống của nước ta đã có từ lâu đời, cùng với sự phát triển
của kinh tế xã hội, làng nghề truyền thống bao gồm các đặc điểm chính sau:
1.1.2.1. Đặc điểm về phân bố làng nghề trong cả nước
Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến giữa năm 2009, cả nước ta có khoảng
2.790 làng nghề, thuộc 11 nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ
tham gia sản xuất , thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng các làng
nghề lớn như Hà Nội (bao gồm Hà Tây cũ) với 450 làng nghề, Khánh Hòa có 201
làng nghề, Ninh Bình 88 làng nghề… với hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương
thức sản xuất đa dạng.
Tuy nhiên, sự phân bố và phát triển các làng nghề lại không đồng đều trong cả
nước. Các làng nghề ở miền Bắc phát triển hơn ở miền Trung và miền Nam, chiếm
gần 70% số lượng các làng nghề trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung
nhiều nhất và mạnh nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111
làng nghề, còn lại ở miền Nam hơn 300 làng nghề [3]. Biểu đồ 1.1 cho ta thấy sự
phân bổ làng nghề truyền thống theo bảy vùng kinh tế Việt Nam.
15
Biểu đồ 1.1. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực
1.1.2.2. Đặc điểm về nguyên liệu cho sản xuất
Nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu được khai thác ở các địa phương
trong nước. Nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phong phú nông sản và thực
vật, đồng thời có nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng trong đó có các loại vật liệu
xây dựng. Do đó, hầu hết các nguồn nguyên liệu vẫn lấy từ trực tiếp từ tự nhiên.
Do sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, việc khai thác và cung ứng các nguyên
liệu tại chỗ hay các vùng khác trong nước đang dần bị hạn chế. Ví dụ, theo thống
kê, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) mỗi năm tiêu thụ khoảng 70.000 tấn than,
gần 100.000 tấn đất nguyên liệu [2]; Các làng nghề chế biến gỗ, mây tre đan trong
những năm qua đòi hỏi cung cấp một khối lượng nguyên liệu rất lớn, đặc biệt là các
loại gỗ quý dùng cho sản xuất đồ gỗ gia dụng và gỗ mỹ nghệ. Nhiều nguyên liệu
chúng ta đã phải nhập từ một số nước khác.
1.1.2.3. Đặc điểm về công nghệ, thiết bị và cơ sở hạ tầng sản xuất
Hầu hết các cơ sở sản xuất nghề nông thôn, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân
vẫn còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, cơ khí hóa thấp, các thiết bị phần lớn đã cũ, sử
dụng lại của các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn không đảm bảo yêu cầu kỹ
16
thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Trình độ công nghệ thủ công và bán cơ khí
vẫn chiếm tỷ lệ hơn 60% ở các làng nghề.
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới, nhiều làng
nghề đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc mới, hiện đại. Ví dụ, làng gốm Bát
Tràng đã dần dần đưa công nghệ nung gốm sứ bằng lò tuy nen (dùng gas và điện) thay
cho lò hộp và lò bầu (dùng than và củi), nhào luyện đất bằng máy thay cho bằng tay thủ
công, dùng bàn xoay bằng mô tơ điện thay cho bàn xoay bằng tay...; làng gỗ mỹ nghệ
Đồng Kỵ Bắc Ninh hiện nay đã đầu tư 11 máy xẻ ngang, 300 máy cắt dọc, 100 máy
vanh, 500 máy khoan bàn, 500 máy phun sơn… phục vụ cho sản xuất, nhờ đó mà
năng suất và chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao rõ rệt…
Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay
Trình độ kỹ thuật Các ngành dịch vụ Các ngành khác
Chế biến nông – lâm – thủy sản Thủ công mỹ nghệ và vật liệu xây dựng
Thủ công bán cơ khí (%) 61.51 70.69 43.90 59.44
Cơ khí (%) 38.49 29.31 56.10 40.56
Tự động hóa (%) 0 0 0 0
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009
Nhìn chung, phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các
làng nghề nông thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa được chọn lọc và đầu tư khoa
học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do đó chưa đáp ứng được
nhu cầu thị trường và giảm sức cạnh tranh.
1.1.2.4. Đặc điểm về lao động và tổ chức sản xuất
Trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất của làng nghề đang có nhiều
bước tiến mới, nhất là trong thời đại hiện đại hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới
như hiện nay. Các làng nghề đã thu hút một lực lượng lao khá đông đảo, chiếm gần
17
hơn 11 triệu lao động làm việc thường xuyên trong các hộ sản xuất kinh doanh.
Nhiều làng thu hút tới 70% lao động của làng, điển hình là làng gốm sứ Bát Tràng.
Hiện nay, mỗi cơ sở chuyên làm nghề bình quân tạo việc làm ổn định cho 27
lao động thường xuyên, 8 – 10 lao động thời vụ. Mỗi hộ chuyên nghề tạo việc làm
cho 4 – 6 lao động thường xuyên, 2 – 5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu
ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 – 250 lao động.
Do hạn chế về công nghệ và kỹ thuật sản xuất nên các làng nghề vẫn sử dụng
chủ yếu là các lao động thủ công ở hầu hết các công đoạn, kể cả những công đoạn
nặng nhọc và độc hại nhất. Mặt khác, nhiều sản phẩm có đặc thù đòi hỏi trình độ kỹ
thuật và tính mỹ thuật cao, tay nghề khéo léo… chủ yếu là ở các làng nghề truyền
thống, sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Trong các làng nghề truyền thống,
vai trò của các nghệ nhân rất quan trọng, được coi là nòng cốt của quá trình sản xuất
và sáng tạo ra nghệ thuật.
Chất lượng lao động và trình độ chuyên môn ở các làng nghề nhìn chung còn
thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Trong lịch sử phát triển làng nghề các giai đoạn qua thì hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh phổ biến nhất là hình thức hộ gia đình. Cho đến nay, cùng với đó,
một số hình thức sản xuất khác đã ra đời và phát triển phù hợp với xu hướng kinh tế
mới. Các hình thức tổ chức sản xuất của các làng nghề chủ yếu gồm: Tổ chức sản
xuất Hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân; hộ gia đình; công ty trách nhiệm hữu hạn;
công ty cổ phần. Các hình thức này cùng tồn tại, tác động lẫn nhau trong điều kiện
kinh tế mới của nền kinh tế thị trường.
1.1.2.5. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trước đây, về cơ bản thị trường này nhỏ hẹp, tiêu thụ tại chỗ (các vùng nông
thôn, các làng nghề) do đó giá thành cũng thấp. Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ
chế thị trường, cơ cấu kinh tế và quan hệ hệ sản xuất ở nông thôn cũng dần thay đổi,
điều này đã tác động mạnh mẽ đến tình hình sản xuất và kinh doanh của các làng
nghề, chúng dần thích ứng, đáp ứng các nhu cầu của một nền kinh tế mới. Sản xuất
18
hộ gia đình được khuyến khích và chiếm ưu thế đã tạo điều điều cho việc sử dụng
lao động, tự do chọn nguyên liệu và sản phẩm, tăng gia sản xuất, lựa chọn thị
trường và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều mặt hàng từ các làng nghề đã được nhiều thị
trường trong nước chấp nhận và vươn tới các thị trường nước ngoài, mang lại nguồn
thu đáng kể cho quốc gia, đặc biệt phải kể đến là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ
(mây tre đan, hàng dệt, thêu ren, gốm…), đồ gỗ gia dụng, gỗ mỹ nghệ…
1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển làng nghề truyền thống.
Với hơn 2790 làng nghề trong cả nước, gồm 11 nhóm ngành nghề, sử dụng
hơn 11 triệu lao động, đóng góp hơn 40 ngàn tỷ đồng cho thu nhập quốc gia… các
làng nghề truyền thống đã và đang đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế nông thôn. Vai trò của việc
phát triển làng nghề truyền thống được thể hiện qua những đặc điểm sau:
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú với giá
thành rẻ. Các nghề truyền thống chủ yếu sử dụng các nguyên liệu sẵn có trong
nước, vốn là các tài nguyên thiên nhiên điển hình của miền nhiệt đới: tre nứa, gỗ, tơ
tằm, các sản phẩm của nông nghiệp nhiệt đới (lúa gạo, hoa quả, ngô, khoai, sắn…),
các loại vật liệu xây dựng…
Quá trình phát triển các nghề truyền thống đang góp phần giải quyết công ăn
việc làm cho hơn 11 triệu lao động. Theo hiệp hội Làng nghề Việt Nam, trong
khoảng 2790 làng nghề ở nước ta thu hút 1,42 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất
với khoảng 1,35 triệu lao động chính, và hàng triệu lao động phụ, với mức thu nhập
cao gấp 3 đến 4 lần so với thu nhập của người thuần nông.
Người nông dân sản xuất nông nghiệp thường theo mùa vụ, nên có những lúc
nhàn rỗi, dư thừa lao động. Khi tham gia sản xuất các sản phẩm của làng nghề sẽ
tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân, tiến tới tăng thu nhập
cho hộ gia đình, ổn định mức sống. Hơn nữa, một số làng nghề truyền thống còn sử
dụng lao động là người già, người khuyết tật…
19
Mặt khác, sản phẩm từ các làng nghề không chỉ đáp ứng các thị trường trong
nước với các mức độ nhu cầu khác nhau mà còn xuất khẩu sang các thị trường nước
bạn với nhiều mặt hàng phong phú, có giá trị cao. Trong đó, điển hình nhất là các
mặt hàng thủ công mỹ nghệ (hiện nay, mặt hàng này xuất khẩu đạt giá trị gần 1 tỷ
USD/năm). Giá trị hàng hóa từ các làng nghề hàng năm đóng góp cho nền kinh tế
quốc dân từ 40 – 50 ngàn tỷ đồng. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh
quá trình CNH - HĐH nông thôn. Tạo ra bộ mặt đô thị hóa mới cho nông thôn để
người nông dân “ly nông nhưng không ly hương” và làm giàu trên quê hương mình.
Giảm bớt làn sóng nông dân nhập cư về các thành phố lớn dễ ảnh hưởng đến trật tự
xã hội.
Khi người dân làng nghề tham gia sản xuất, sản phẩm của họ làm ra là sản
phẩm hàng hóa nên họ phải chủ động trong mọi khâu của quá trình sản xuất, đặc
biệt là khâu tiêu thụ. Họ sẽ không còn tư tưởng sản xuất tự cung tự cấp, nhờ đó,
người dân sẽ trở nên năng động hơn, linh hoạt hơn trong việc bố trí sản xuất. Do
vậy, làng nghề truyền thống đóng vai trò thay đổi tập quán tư duy sản xuất rất lớn.
Mở rộng hơn, nhiều làng nghề hiện nay có xu hướng phát triển theo hướng
phục vụ các dịch vụ du lịch. Đây là hướng đi mới nhưng phù hợp với thời đại
hiện nay và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời có thể giảm thiểu tình trạng
ô nhiễm môi trường, nâng đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, phục vụ
mục tiêu phát triển bền vững.
Xét trên bình diện nền kinh tế vĩ mô, phát triển sản xuất các mô hình làng nghề
truyền thống, ngoài việc tăng thu nhập cho các hộ gia đình còn tăng thêm thu nhập
quốc dân, tăng thu cho ngân sách địa phương. Hơn nữa, còn góp phần bảo tồn và
phát huy bản sắc dân tộc. Vì làng nghề cổ truyền tạo nên những sản phẩm truyền
thông với trình độ kỹ, mỹ thuật cao, kết tinh tài hoa của các nghệ nhân qua nhiều
thế hệ, nhiều sản phẩm không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn phản ánh một cách
sinh động lối sống và ước vọng của người lao động, thấm đẫm tâm hồn người Việt
và được truyền từ đời này sang đời khác.
20
1.3. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống của một số nước trên thế
giới (Trong khu vực Châu Á):
Mỗi một đất nước có một nền Kinh tế – Văn hóa – Xã hội khác nhau, điều đó
tạo nên sự khác biệt trong từng làng nghề của mỗi quốc gia. Việt Nam là đất nước
giàu truyền thống văn hóa, các sản phẩm thủ công từ các làng nghề hết sức phong
phú và đa dạng. Nhưng trước sự thay đổi nhu cầu của thế giới, các sản phẩm truyền
thống của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu đó, trong khi các nước trong khu
vực lại phát triển tốt và ngày càng ảnh hưởng đến làng nghề của Việt Nam. Chính vì
thế, việc tìm hiểu thực trạng làng nghề của các quốc gia có cùng điều kiện như Việt
Nam là vô cùng cần thiết. Thông qua đó, chúng ta sẽ học hỏi và tiếp thu những kinh
nghiệm cần thiết để kịp thời đưa ra những giải pháp phát triển đồng bộ cho các làng
nghề hiện nay.
1.3.1. Phát triển làng nghề truyền thống ở Nhật Bản,
Nhật Bản là một trong những nước có nghệ thuật gốm sứ phát triển nhất. Điều
đó không chỉ được thể hiện ở số lượng người làm nghề gốm mà còn thể hiện ở nhiệt
huyết của họ trong việc bảo tồn phát huy làng nghề. Cuối những năm 70 của thế kỷ
20, khi Nhật Bản đã cơ bản thực hiện xong công cuộc Công nghiệp hóa đất nước,
các ngành công nghiệp đã được hình thành và phát triển ở khu vực thành phố tạo
nên sự thu hút mạnh mẽ về lao động từ các vùng nông thôn. Nhưng điều đó lại tạo
ra một hiện tượng các làng nghề truyền thống bị mai một. Năm 1979, tỉnh trưởng
tỉnh Ooita – Miền Tây Nam – Nhật Bản phát động và tổ chức phong trào “mỗi thôn
làng một sản phẩm”, gọi tắt là OVOP - One Village One Product. Kết quả cho
thấy ngay những năm đầu tiên. Trong 20 năm kể từ năm 1979-1999, phong trào mỗi
làng một sản phẩm đã tạo ra được 329 sản phẩm với tổng doanh thu là 141 tỷ
yên/năm (trên 1.1 tỷ USD hay 19.000 tỷ đồng Việt Nam).
Qua thống kê cho thấy ngành nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản rất đa
dạng, bao gồm: Chế biến lương thực, thực phẩm; đan lát; dệt chiếu; dệt lụa…Tính
đến nay, Nhật Bản có 867 nghề thủ công truyền thống vẫn còn được duy trì và phát
21
triển. Năm 1992, Nhật Bản tiếp đón gần 3000 lượt khách của 62 quốc gia trên thế
giới tới thăm mô hình các làng nghề truyền thống.
Đi đôi với việc phát triển làng nghề truyền thống, Nhật Bản còn nghiên cứu
các chủ trương chính sách, ban hành các luật lệ, thành lập các hiệp hội, các văn
phòng cố vắn. Tất cả đều đồng bộ và phục vụ một mục đích duy nhất là phát triển
mạnh mẽ mô hình làng nghề. Chính vì vậy, thống kê cho thấy thu nhập ngoài nông
nghiệp chiếm 85% tổng thu nhập mỗi hộ dân. Năm 1993 nghề thủ công và làng
nghề đã đạt giá trị sản lượng tới 8,1 tỷ đô la. [4]
1.3.2. Phát triển làng nghề truyền thống ở Trung Quốc,
Trung Quốc là đất nước liền kề Việt Nam, trong quá trình vận động và phát
triển, quốc gia láng giềng này cũng có các ngành nghề truyền thống phát triển tương
tự như đất nước chúng ta như: Gốm sứ; dệt vải; dệt tơ lụa; nghề giấy…Nghề gốm
sứ Trung Quốc thường được gọi là nghề “đốt lò”, cái lõi làm gốm phần lớn là hình
vòng, các sản phẩm gốm thường là chum, hũ, chõ đồ cơm…Sản phẩm gốm sứ nổi
tiếng của Trung Quốc như: Gốm sứ Sơn Đông, Gốm sứ Thanh Hoa…
Với sự phát triển đi trước của lịch sử, Trung Quốc đã tạo dựng cho mình
những quá khứ huy hoàng của việc phát triển các con đường giao thương giữa các
làng nghề truyền thống với các đất nước xunh quanh. Mậu dịch đóng vai trò không
thể thiếu được đối với sự phát triển của sản phẩm truyền thống Trung Quốc đặc biệt
là gốm sứ bởi mậu dịch chính là động lực thúc đẩy sự tiến bộ về ý tưởng sáng tạo và
kỹ thuật gốm sứ. Ngay từ giai đoạn rất sớm, thời Đường (618-906), các thương
nhân người Ba Tư và Ả Rập đã theo những tuyến đường hành hương tiến vào đại
lục, nơi có nhiều lò gốm sứ nằm rải rác ở khắp các tỉnh miền Bắc Trung Quốc cho
tới tận vùng Trung Đông và Ấn Độ.
Trung Quốc sau thời kỳ cải cách mở cửa năm 1978, việc thành lập và duy trì
Xí nghiệp Hương Trấn, tăng trưởng với tốc độ 20 – 30 % đã giải quyết được 12
triệu lao động dư thừa ở nông thôn. Hiện nay Trung Quốc có khoảng 50.000 làng
22
nghề đã áp dụng mô hình OVOP - Mô hình mỗi làng một sản phẩm được khởi
xướng tại Nhật Bản. [4]
1.4. Một số nhận xét chung về tình hình phát triển làng nghề truyền thống
trong thời gian qua:
1.4.1. Về thị trường,
Đối với các sản phẩm của ngành nghề truyền thống, thị trường bao gồm thị
trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường các yếu tố đầu vào
Thị trường này gồm có thị trường cung ứng nguyên vật liệu, thị trường vốn,
thị trường lao động, thị trường công nghệ và cả thị trường bất động sản. Trong các
thị trường này thì thị trường cung ứng nguyên vật liệu là phát triển mạnh nhất.
Nguyên vật liệu cung cứng cho các làng nghề chủ yếu được khai thác ở các
địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên, do việc khai thác bừa bãi, không có kế hoạch đã
làm nguồn nguyên vật liệu nhanh chóng trở nên cạn kiệt. Dẫn đến việc không chủ
động được nguồn nguyên liệu. Các làng nghề rơi vào tình trạng bị động và tương lai
phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Một trong những mối đe dọa làm ảnh hưởng
đến bản sắc và chất lượng sản phẩm truyền thống.
Về thị trường lao động, hầu hết các lao động trong làng nghề là lao động phổ
thong, lao động chưa được qua trường lớp đào tạo, trình độ thấp. Một phần lớn các
lao động mang tính chất thời vụ nên không được hưởng quyền lợi người lao động,
không chế độ bảo hiểm, không có bảo đảm an toàn trong lao động. Hoạt động thị
trường lao động tại các làng nghề mang tính chất tự phát.
Thị trường các yếu tố đầu ra - tiêu thụ sản phẩm
Đây là thị trường được quan tâm nhiều nhất vì hàng hóa sản xuất ra phải được
tiêu thụ, hạn chế tối đa lượng tồn kho.
23
Thị trường xuất khẩu: Trước đây, sản phẩm của các làng nghề truyền thống
chủ yếu được xuất sang các nước xã hội chủa nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ (chiếm
80% - 90% khối lượng xuất khẩu). Nhưng sau thời gian các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô cũ tan rã, thị trường xuất khẩu về cơ bản bị thu nhỏ hẹp. Từ
khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, điều này đã tác động mạnh mẽ đến
tình hình sản xuất và kinh doanh của các làng nghề, chúng dần thích ứng, đáp ứng
các nhu cầu của một nền kinh tế mới. Nhiều mặt hàng từ các làng nghề đã được đã
được chấp nhận và vươn tới các thị trường nước ngoài, mang lại nguồn thu đáng kể
cho quốc gia, đặc biệt phải kể đến là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (mây tre đan,
hàng dệt, thêu ren, gốm…), đồ gỗ gia dụng, gỗ mỹ nghệ… Hiện nay, thị trường
xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của Việt Nam mở rộng sang khoảng hơn 100
quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo,
thậm chí cả các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, EU… Năm
2000, kim ngạch xuất khẩu đạt 562 triệu USD, trong đó cao nhất là các mặt hàng gỗ
gia dụng và gỗ mỹ nghệ.
Thị trường tiêu thụ nội địa: Một mặt do công nghiệp phát triển sản xuất ra
nhiều mặt hàng tiêu dung có thể thay thế được một số mặt hàng truyền thống với
chất lượng cao giá thành thấp hơn, dẫn tới tình trạng hàng hóa truyền thống không
thể cạnh tranh nổi. Mặc khác, do hàng ngoại được nhập vào một cách tràn lan gây
ra sự cạnh tranh và ép giá các mặt hàng của nhóm ngành nghề truyền thống, làm
cho các sản phẩm làng nghề truyền thống không tiêu thụ được. Một yếu tố khác
không kém phần quan trọng, đó là thị hiếu người tiêu dùng trong nước, thích đồ
ngoại hơn đồ nội. Từ những nhuyên nhân đó, dẫn đến việc tiêu thụ hàng truyền
thống thua ngay trên thị trường trong nước.
1.4.2. Vị trí các làng nghề truyền thống trong sự phát triển của nền kinh tế
xã hội của đất nước,
Những năm qua, các làng nghề truyền thống của Việt Nam có tốc độ phát triển
khá mạnh mẽ. Nếu như năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
24
mới đạt 274 triệu USD, thì năm 2006 đã đạt khoảng 650 triệu USD, năm 2008, ước
tính đạt xấp xỉ 1 tỉ USD. Các mặt hàng được bán trên 100 nước và vùng lãnh thổ,
chưa kể hai ngành gỗ, da giày xuất khẩu mỗi năm đạt giá trị hàng tỉ USD đều có
đóng góp rất lớn của các làng nghề. Ước tính các làng nghề Việt Nam đang sử dụng
trên dưới 1,5 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và từ 4 - 5 triệu lao động thời vụ. Rõ
ràng làng nghề có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, trực tiếp giải quyết việc làm ở
nông thôn. Các làng nghề còn góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống,
tạo ra diện mạo đô thị hóa mới cho nông thôn, để nông dân "ly nông nhưng không
ly hương" và làm giàu trên quê hương mình.
Hiện nay, thu nhập của người lao động hưởng lương mỗi tháng ở các làng
nghề phổ biến khoảng 2 trđ đến 2,5 trđ, nói chung cao hơn nhiều so với những
người làm ruộng lúa. Đặc biệt, khu vực kinh tế làng nghề còn có thể sử dụng được
lao động già cả, khuyết tật, trẻ em mà khác khu vực kinh tế khác không nhận.
Tuy nhiên, sự quan tâm đầu tư cho các ngành nghề truyền thống chưa thật
tương xứng với lợi ích mà làng nghề đem lại. Các làng nghề đang dần bị mai một
mà chưa có nhiều các biện pháp khôi phục và phát triển.
1.4.3. Vấn đề vốn đầu tư cho sản xuất,
Các làng nghề truyền thống, các nghề thủ công ở nước ta chủ yếu phát triển
theo hộ gia đình với phương thức tự cung tự cấp nên đa số các hộ ở đây đều thiếu
vốn đầu tư trang thiết bị sản xuất dẫn tới tình trạng công nghệ chắp vá, không đồng
bộ, chủ yếu dựa vào lào động thủ công.
Những năm gần đây, có một số loại vốn đầu tư của các hiệp hội về phát triển
kinh tế và giải quyết việc làm như: Vốn vay từ quỹ quốc gia về xóa đói giảm nghèo,
nhưng số lượng và tỷ lệ các hộ được vay vốn trong các làng nghề còn quá ít ỏi.
Trong khi đó, nhu cầu về vay vốn của các hộ sản xuất lại rất lớn. Mặc khác, các loại
thủ tục vay vốn quá phiền hà, chậm trễ nên khi đồng vốn tới tay người sản xuất thì
thời cơ sử dụng vốn không mang hiệu quả cao, không bảo đảm được đúng kế hoạch
sản xuất.
25
Theo số liệu của Cục chế biến và ngành nghề nông thôn - Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thì có 70% số hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh mong muốn vay
vốn để phát triển sản xuất, nhưng mới chỉ có 12 – 15% số hộ và khoảng 32,4% cơ
sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề được vay vốn ngân hàng, 1,8 – 4,7% số hộ
được vay vốn tù nguồn hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức quốc tế.
1.4.4. Vấn đề trang thiết bị, công nghệ và mẫu mã sản phẩm,
Hầu hết các cơ sở sản xuất nghề nông thôn, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân
vẫn còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến một phần.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, cơ khí hóa thấp, các thiết bị phần lớn đã cũ, sử
dụng lại của các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn không đảm bảo yêu cầu kỹ
thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Trình độ công nghệ thủ công và bán cơ khí
vẫn chiếm tỷ lệ hơn 70% ở các làng nghề (số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn)
Nhìn chung, phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp dụng cho sản xuất trong các
làng nghề nông thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa được chọn lọc và đầu tư khoa
học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn thấp, do đó chưa đáp ứng được
nhu cầu thị trường và giảm sức cạnh tranh.
1.4.5. Vấn đề đào tạo kỹ thuật tay nghề cho người lao động,
Do hạn chế về công nghệ và kỹ thuật sản xuất nên các làng nghề vẫn sử dụng
chủ yếu là các lao động thủ công ở hầu hết các công đoạn, kể cả những công đoạn
nặng nhọc và độc hại nhất. Mặt khác, nhiều sản phẩm có đặc thù đòi hỏi trình độ kỹ
thuật và tính mỹ thuật cao, tay nghề khéo léo… chủ yếu là ở các làng nghề truyền
thống, sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Trong các làng nghề truyền thống,
vai trò của các nghệ nhân rất quan trọng, được coi là nòng cốt của quá trình sản xuất
và sáng tạo ra nghệ thuật.
Chất lượng lao động và trình độ chuyên môn ở các làng nghề nhìn chung còn
thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, lao động nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Một đặc thù
của nghề truyền thống đó là nghề “Cha truyền con nối”, là “Bí kíp gia truyền”, nên
26
cũng sẽ dẫn đến những vấn đề trở ngại trong đào tạo và truyền đạt đối với các lao
động bên ngoài.
1.4.6. Một số vấn đề về chính sách,
Chính sách vay vốn: Thời gian qua, chính sách vay vốn mới áp dụng cho các
Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và một số hộ nông nghiệp. Đối với các hộ sản
xuất kinh doanh tại các làng nghề thủ công thì chưa được chú tâm đến vấn đề này.
Riêng đối với nghề gốm sứ, việc có vốn để đầu tư mở rộng công nghệ sản xuất, lò
nung là việc rất cần thiết, và đa số các cá nhân không tự giải quyết được.
Chính sách khuyến khích sản xuất và cung cấp nguyên vật liệu cho các cơ sở
sản xuất ngành nghề truyền thống như: Trợ giá nguyên nhiên vật liệu, miễn giảm
thuế, chính sách khuyến khích hoàn thiện hay hội nhập công nghệ mới trong sản
xuất kinh doanh… cũng chưa được chú ý…
Kết luận chương 1:
Qua nghiên cứu chương 1, tác giả muốn tập trung vào những vấn đề sau:
Nêu các khái niệm về làng nghề, khái niệm về phát triển làng nghề, các khái
niệm về chiến lược và tầm nhìn, thống nhất về chuỗi giá trị sản xuất để từ đó xác
định được vấn đề cần tập trung nghiên cứu.
Nội dung chiến lược được xây dựng đa dạng với các loại hình khác nhau, phù
hợp với từng ngành nghề riêng biệt. Vì vậy ở chương 2, tác giả tập trung phân tích
các yếu tố ảnh hưởng để có được một chiến lược và giải pháp mang tính tổng quan.
Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển làng nghề truyền thống trong mô hình
kinh tế thị trường như hiện nay.
Kinh nghiệm từ một số nước có ngành nghề truyền thống phát triển trong khu
vực. Đó là điều kiện giúp chúng ta học hỏi và vận dụng phù hợp với tình hình thực
tiễn.
27
Trong các chương 2 và chương 3 tiếp theo, tác giả tập trung phân tích thực
trạng sản xuất - kinh doanh tại các làng nghề truyền thống chung trong cả nước và
đặc biệt là thực trạng sản xuất – kinh doanh tại làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát
Tràng – Gia Lâm – Hà Nội. Từ đó đưa ra các giải pháp phát triển phù hợp nhằm
phát triển hơn nữa thương hiệu cũng như đẩy mạnh việc đưa sản phẩm ra thị trường
trong và ngoài nước của Gốm sứ Bát Tràng.
28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ
BÁT TRÀNG – HUYỆN GIA LÂM – HÀ NỘI
2.1. Thực trạng phát triển làng nghề gốm sứ truyền thống của Việt Nam
Sự phát triển của gốm sứ Việt Nam đã trải qua những giai đoạn khác nhau,
gắn với những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Đặc biệt, từ giai đoạn đổi mới nền
kinh tế đến nay, dưới tác động to lớn của sự biến đổi nền kinh tế trong nước cũng
như trên toàn thế giới, sự phát triển của các làng nghề cũng có những thay đổi lớn,
có những thành công mới nhưng cũng có không ít những vấn đề còn vướng mắc.
Xuất hiện từ rất lâu đời (điển hình như các làng nghề ở Hà Tây (cũ), Bắc Ninh,
Hưng Yên, có từ thời nhà Lê, Nhà Lý). Các làng nghề nông thôn đã có những bước
đánh dấu khá rõ nét trong lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam. Vượt lên các nhu cầu về
nông nghiệp, các sản phẩm như: đồ sành sứ, đồ gốm, vải vóc, đồ ăn, đồ thờ cúng,
hàng mỹ nghệ, giấy… đã được sản xuất phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày,
phục vụ cho đời sống tâm linh, cho việc học tập, cho đời sống văn hóa và cho cả
xuất khẩu.
2.1.1. Thời kỳ phong kiến,
Năm 1010, nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, đánh dấu một thời kỳ
phát triển rực rỡ của dân tộc. Kinh đô Thăng Long với ba mươi sáu phố phường là
nơi tập trung nhiều ngành nghề tinh hoa. Các cửa khẩu bắt đầu được mở rộng, quan
hệ buôn bán với nước ngoài được ưu tiên. Các làng nghề được chú trọng và phát
triển đến mức tối đa. Đồ gốm sứ đặc biệt được trọng dụng và các sản phẩm gốm đã
trở thành những sản phẩm không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày cũng như
trong các lễ vật cống biếu. [27]
29
2.1.2. Sơ lược quá trình phát triển sản xuất trong các làng nghề truyền
thống ở nước ta sau cách mạng tháng 8 – 1945,
Làng nghề trước Cách mạng tháng Tám đã khá phong phú, đa dạng, nó được
hình thành từ các nghề cũ và một số nghề mới được phát triển nhằm đáp ứng thị
trường luôn thay đổi phức tạp.
Từ những năm 1930, Thực sân Pháp đã chú trọng đầu tư phát triển sản xuất
trong các làng nghề, nhằm mục đích khai thác vơ vét của nước ta và ngăn cản sự di
dân ra thành phố làm công nghiệp và cách mạng vô sản. Theo tài liệu của các học
giả Pháp, năm 1935 ở nước ta đã có tới 108 nghề thủ công khác nhau, đến năm
1943 các nghề thủ công nghiệp ở các địa phương đã thu hút 277.400 thợ vào làm
việc và giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp đạt tới 45 triệu đồng (tiền Đông
Dương).
2.1.3. Tình trạng làng nghề thời kỳ trước đổi mới năm 1986,
Giai đoạn 1954 – 1978: Do chính sách Công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng, khuyến khích các thợ thủ công tham gia vào các Hợp tác xã. Tại
một số làng nghề đã xuất hiện những HTX tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu sang các nước XHCN, với các hàng hóa chính là hàng thủ
công mỹ nghệ. Do đó, chủng loại, số lượng và giá trị hàng hóa được quyết định bởi
đường lối, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này,
nhiều làng nghề đã bị mai một, do nhu cầu, thị hiếu của xã hội thay đổi, ít được ưa
chuộng (chõng tre, khăn xếp)
Giai đoạn 1978 – 1985: Kinh tế chính trị thế giới có nhiều biến động, cùng với
sức ép về dân số và sự cấm vận của Mỹ kinh tế Việt Nam đã lâm vào giai đoạn
khủng hoảng, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Sự suy sụp của hệ
thống bao cấp đã khiến các hộ nông dân và tiểu thủ công nghiệp buộc phải tìm
đường cải thiện cuộc sống theo con đường tự phát. Nhiều làng nghề đã được khôi
phục lại nhằm đáp ứng nhu cầu rất thấp của nhân dân.
30
Qua điều tra hàng năm của Tổng Cục thống kê ta thấy, trong giai đoạn này, giá
trị sản lượng ngành tiểu thủ công nghiệp ở nước ta tăng nhanh, năm 1981 chỉ đạt
27.713 triệu đồng, tới năm 1986 đã đạt tới 48.530 triệu đồng, tăng 1,75 lần so với
năm 1981. Năng suất lao động bình quân một lao động tiểu thủ công nghiệp cũng
được tăng dần từ 17.270 đồng lên 26.890 đồng. Giá trị hàng tiểu thủ công nghiệp
xuất khẩu cũng đã tăng một cách đáng kể, luôn chiếm 30%-40% trong tổng giá trị
hàng hóa xuất khẩu của nước ta.
2.1.4. Thực trạng làng nghề từ năm 1986 cho đến nay.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1986 tạo ra một bước
ngoặt mới cho nền Kinh tế Việt Nam. Do vậy giai đoạn năm 1986 đến năm 1988 là
giai đoạn quan trọng đối với sự phát triển của làng nghề, nó được đánh dấu bằng sự
chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường. Các chính sách kinh
tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản lý trong nông nghiệp và phát triển các thành
phần kinh tế đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn nói chung và với làng nghề nói riêng. Trong giai đoạn này, nhiều làng nghề
truyền thống đã được khôi phục và phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vốn,
kỹ thuật, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh mới, thu hút ngày càng nhiều lao động,
tăng dần sản lượng và kim ngạch xuất khẩu… Điển hình như làng gốm sứ Bát
Tràng, gốm Đồng Nai, chạm khắc Hà Tây, thêu ren Thái Bình…
Các sản phẩm truyền thống của làng nghề Việt Nam đã được tiêu thụ khá ổn
định ở các thị trường Đông Âu và Liên Xô, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ đạt trên 246 triệu rúp [8]. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ và thành tựu nhất
của các ngành nghề truyền thống.
Giai đoạn 1990 – 1992, do biến động của nền kinh tế thế giới, mà xuất phát từ
sự sụp đổ của mô hình CNXH của Liên Xô và Đông Âu, sản xuất của các làng nghề
bị đình trệ do thị trường tiêu thụ không còn như trước nữa, số lao động trong các
làng nghề giảm nhanh chóng.
31
Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Do tìm được hướng đi mới cho các sản phẩm
của làng nghề và cho nền kinh tế Việt Nam nói chung mà nền kinh tế Việt Nam
bước sang một giai đoạn mới. Sự hội nhập nền kinh tế thế giới, cùng với thời kỳ dỡ
bỏ sự cấm vận của Mỹ, sự hợp tác kinh tế và thị trường của Việt Nam không ngừng
được mở rộng. Nhiều làng nghề đã khôi phục nhanh chóng, trong đó nhiều làng vẫn
duy trì được cả nghề nghiệp và mặt hàng truyền thống (như làng Chạm bạc Đồng
Xâm, làng nghề thêu Quất Động, làng gốm Bát Tràng…). Hơn nữa nhiều làng nghề
mới đã được hình thành (Làng gỗ Đồng Kỵ, gạch ngói Hương Canh…).
Hiện nay, Nhà nước có nhiều chính sách nhằm khuyến khích làng nghề phát
triển, đặc biệt từ khi Hiệp hội làng nghề Việt Nam được thành lập (2005), đã có
nhiều chương trình, chính sách nhằm bảo tồn, thúc đẩy sự phát triển làng nghề. Tuy
nhiên, nhiều làng nghề có nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái do nhiều nguyên
nhân khác nhau (do bế tắc về thị trường, do bị cạnh tranh, do thiếu vốn để cải tiến
sản xuất, gây ô nhiễm môi trường…). Để giải quyết những khó khăn này, cần có cái
nhìn tổng quan về làng nghề và gắn với thực trạng kinh tế xã hội trong nước và thế
giới nói chung.
2.2. Đặc điểm địa bàn của làng nghề Gốm sứ Bát Tràng – Gia Lâm – Hà Nội:
Xã Bát Tràng là một trong 31 xã thuộc huyện Gia Lâm – Hà Nội từ trước năm
1945. Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang
Cao như hiện nay.
2.2.1. Sự ra đời và phát triển làng gốm sứ Bát Tràng
Năm 1958 khi đào kênh Bắc Hưng Hải cắt qua phía nam làng Bát Tràng người
ta đã tìm thấy dấu vết của làng Bát Tràng xưa nằm sâu dưới lòng đất đến 12-13m.
Đó là những di tích nhà ở, sân gạch, và nhiều phế vật bằng gốm. Những công trình
khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch sử và
những di tích của làng gốm Bát Tràng xưa đang bị chôn vùi trong lòng đất.
Theo sử biên niên có thể xem thế kỷ 14-15 là thời gian hình thành làng gốm
Bát Tràng. Theo tài liệu giới thiệu “Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà” của ty văn hóa Hà
32
Bắc, và tài liệu “Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng”, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ
Thuật năm 1964, cho biết: Vào thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh
Kiều (người làng Bồ Bát – Thanh Hóa), Đào Trí Tiến (người làng Thổ Hà – Hà
Bắc) và Lưu Phương Tú (người làng Kẻ Sặt – Hải Dương) được cử đi sứ Bắc Tống.
Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông)
(hiện nay là Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở
đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về
truyền bá cho dân chúng quê hương. Và:
Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng.
Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men
sắc màu vàng đỏ.
Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước
men màu đỏ màu vàng thẫm.
Do vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống
nghĩa là trước năm 1127. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, sự ra
đời và phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến hoạt động kinh tế của các
làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét
trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di
cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường
(phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một làng gốm
bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung
cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Từ cuối TK XVII, nhất là từ TK XVIII, việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm
Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút, nguyên do là vì gốm sứ chất lượng cao của
Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á. Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh
hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có được thị trường tiêu thụ rộng rãi
trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây dựng rất cần
thiết cho mọi tầng lớp xã hội thời bấy giờ.
33
Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), Bát Tràng thành lập Xí nghiệp
gốm Bát Tràng (1958), Xí nghiệp X51, X54 (1988) cùng một số hợp tác xã như
Hợp Thành (1962), Hưng Hà (1977), Hợp Lực (1978), Thống Nhất (1982), Ánh
Hồng (1984) và Liên hiệp ngành gốm sứ (1984)... Các cơ sở sản xuất trên cung cấp
hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mỹ nghệ và một số hàng xuất khẩu.
Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế
thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần,
những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ
biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình.
Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng.
Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản
phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa,
lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng... Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị
trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng thu
hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản
xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ
gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc...
2.2.2. Đặc điểm về tự nhiên
Vị trí địa lý
Bát Tràng nằm ở bờ phía đông (tả ngạn) của sông Hồng cách trung tâm Hà
Nội khoảng hơn 10 km. Phía Bắc giáp xã Đông Dư, phía Đông giáp xã Đa Tốn, phía
Nam giáp xã Xuân Quan (huyện Văn Giang, Hưng Yên), phía Tây là sông Hồng.
Nhìn chung Bát Tràng có một vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển nghề gốm
cũng như việc giao thương, trao đổi hàng hóa với các vùng lân cận. Qua đó giúp Bát
Tràng nhanh chóng tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại để phát triển mạnh mẽ kinh tế
địa phương.
Về thời tiết – khí hậu
34
Xã Bát Tràng - Huyện Gia Lâm nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng nên
cũng có tính chất và đặc điểm thời tiết khí hậu của vùng, đó là khí hậu nhiết đới gió
mùa. Mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, nhiệt độ trung bình mùa đông từ 15 - 21oC.
Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,4oC, ngày có nhiệt độ nóng nhất là 42,8oC và thấp nhất là 5,6oC. Độ ẩm không khí từ 81,4 - 87,9%. Những lúc trời mưa phùn liên
tục, độ ẩm đạt 97 - 100%. Tuy độ ẩm này ít nhưng ảnh hưởng rất lớn đối với việc
nung và sấy khô các sản phẩm gốm sứ. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt
1800ml/ năm, trung bình hàng năm có 151 ngày mưa tập trung từ tháng 5 đến 9
băng 79% lượng mưa cả năm mưa nhiều nhất thường vào 3 tháng 7,8,9. Mưa, bão
thường đi đôi với nhau, theo thống kê 55 năm có 40 cơn bão đổ bộ vào đồng bằng
sông Hồng (tương ứng 0,68 cơn bão/1năm). Như vậy cứ 3 năm có 2 cơn bão đổ bào
vào đồng bằng sông Hồng.
2.2.3. Đặc điểm đất đai, dân số lao động
Đất đai
Về mặt địa hình, địa chất Bát Tràng - Gia Lâm là một xã đồng bằng nằm trên
đất phù sa, cùng chung đặc điểm và tính chất của đồng bằng sông Hồng, độ cao của
đất diễn biến từ 3 đến 7m. Hằng năm, xã nhờ có hệ thống cống lấy nước phù sa từ
Sông Hồng tự chảy khi mùa lũ lên cao phạm vi 7 - 9m vùng đất trong đê vẫn lấy
được 1 đến 3 lần nước phù sa, tạo ra một chất đất sét mang tính chất riêng. Chính
lượng phù sa đó, đã bồi đắp thêm sức sống cho xã Bát Tràng nói chung và gốm sứ
Bát Tràng nói riêng.
Đặc thù của xã Bát Tràng là không có nông nghiệp trồng lúa. Chính vì thế
tổng diện tích đất của xã là 164,02 ha đều là đất thổ cư và được tận dụng để sản xuất
thủ công nghiệp gốm sứ [2].
Dân số và lao động
35
Xã Bát Tràng đang có một lực lượng lao động hùng hậu. Trong số 1.800 hộ
gia đình của xã, có đến hơn 80% số hộ dân làm nghề gốm. Hơn nữa, số lao động có
tay nghề và rất tâm huyết với làng nghề. Tính đến năm 2012, xã Bát Tràng đã có 18
nghệ nhân được phong tặng danh hiệu "Nghệ nhân Hà Nội", 3 nghệ nhân ưu tú
được Nhà nước phong tặng, 5 nghệ nhân dân gian cùng hàng trăm thợ giỏi. Đó là
lợi thế đầu tiên, giúp Bát Tràng phát triển mạnh sản phẩm gốm sứ của mình [2].
2.2.4. Đặc điểm cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
Về giao thông: Bát Tràng nằm gần đê sông Hồng nên có lợi thế lớn về đường
thủy. Do vậy, việc vận chuyển hàng hóa và nguyên liệu luôn được thông suốt. Đối
với hệ thống giao thông nông thôn đã được nhựa hóa và bê tông hóa 100%. Đó là
điểu kiện thuận lợi cho việc đi lại và giao lưu kinh tế thương mại. Tuy nhiên, hệ
thống đường quốc lộ dẫn vào làng đang có nguy cơ xuống cấp trầm trọng do xe quá
trọng tải di chuyển nhiều. Điển hình là tuyến đường dê có chiều dài khoảng 10km từ
chân cầu Chương Dương đến điểm cuối khu đô thị sinh thái Ecopark mới sử dụng
đã có nhiều vết nứt gãy, sụt lún.
Về hệ thống điện nước, thông tin liên lạc: Toàn xã có mạng lưới điện nước,
đáp ứng đủ 100% nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của các hộ gia đình trong xã.
Về giáo dục & y tế và các công trình văn hóa phúc lợi: Trường học và trạm y
tế Bát Tràng đều được xây dựng theo tiêu chuẩn quy định, trang thiết bị được đầu tư
đầy đủ. Các công trình như nhà văn hóa, sân chơi thiếu nhi, đều được xây dựng đủ.
2.2.5. Các sản phẩm chủ yếu của gốm sứ Bát Tràng
Tính đến ngày 17/11/2004, thương hiệu gốm sứ Bát Tràng chính thức được
Hiệp hội gốm sứ Việt Nam công nhận và công bố trên phạm vị rộng. Gốm sứ Bát
Tràng vừa đa dạng về chủng loại, vừa phong phú về màu sắc, được chia thành hai
nhóm chính:
Đồ gốm gia dụng: Bao gồm các loại đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, bát, chén,
khay trà, ấm, điếu, nậm rượu, bình vôi, bình, lọ, choé và hũ... Một số sản phẩm như
36
chum vại, ấm đất… là những sản phẩm truyền thống, nhưng do có sự cạnh tranh
khốc liệt của các đồ thay thế bằng nhựa, thủy tinh.. nên đã số lượng sản xuất giảm
đáng kể.
Đồ trang trí: Bao gồm mô hình nhà, long đình, các loại tượng như tượng
nghê, tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng hổ, tượng voi, tượng người ba đầu, tượng
đầu khỉ mình rắn và tượng rồng, gạch trang trí, gốm phong thủy…
Ngoài ra Bát Tràng còn có dòng gốm dùng làm đồ thờ cúng: Bao gồm các
loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm. Trong đó, chân
đèn, lư hương và đỉnh là những sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương
đại vì lẽ trên nhiều chiếc có minh văn cho biết rõ họ tên tác giả, quê quán và năm
tháng chế tạo, nhiều chiếc còn ghi khắc cả họ và tên của những người đặt hàng. Đó
là một nét đặc biệt trong đồ gốm Bát tràng.
Ngày nay, Bát Tràng quy tụ những nghệ nhân với tay nghề tinh xảo, có niềm
đam mê với văn hóa cha ông để lại. Họ không những đã thổi hồn vào đất, sáng tạo
ra nhiều sản phẩm mang tính nghệ thuật, tinh hoa của Bát Tràng, hơn nữa, họ còn
góp phần đưa sản phẩm gốm sứ Bát Tràng đi xa hơn nữa, xuất khẩu ở các quốc gia
khác trên thế giới. Con cháu họ, những thế hệ nối tiếp, được chăm chút và cho đi
đào tạo chính quy tại các Trường Đại học Mỹ Thuật. Mục đích cuối vẫn là giữ lại
được hồn cốt dân tộc qua các sản phẩm gốm. Đặc trưng của Gốm Bát Tràng được thể
hiện trong bảng sau:
Bảng 2.1. Đặc trưng về sản phẩm Gốm Bát Tràng
Sản phẩm Các họa tiết, hoa văn Màu sắc Tính chất sản
phẩm Khắc chìm Đắp nổi
37
- Hình cây: Cây tre, tùng, cúc, trúc, Màu sắc Sản phẩm có độ Gốm mỹ
mai, hoa lá sen, hoa lá súng… chủ đạo của mỏng, trọng nghệ
Gốm Bát lượng nhẹ, thanh - Hình con vật: Con trâu, con nghê,
Tràng là thoát, nhưng vẫn con rồng, con phượng, con cá…
men ngọc, rất mộc mạc, có - Hình mặt trời, ngôi sao. men rạn... độ bóng của
- Hình người lao động sản xuất. màu men. Các
hoa văn họa tiết Ngày này, do nhu cầu và thẩm mỹ của Gốm gia tự nhiên, gần người tiêu dung, các sản phẩm gốm gia dụng gũi, dựa theo dụng có những nét hoa văn rất trang họa tiết cổ. nhã nhưng mang tính thẩm mỹ cao. Từ
những bộ ấm chén, hoặc bát đĩa, chum
vại, đều được thổi những nét hoa văn
mềm mại tại tính thẩm mỹ cao cho sản
phẩm.
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
2.2.6. Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Bát Tràng
Xã Bát Tràng có diện tích đất tự nhiên 164,02 ha với 1.800 hộ, 7.995 nhân khẩu.
Phía Bắc giáp xã Đông Dư, phía Đông giáp xã Đa Tốn, phía Nam giáp xã Xuân Quan
(huyện Văn Giang, Hưng Yên), phía Tây là sông Hồng. Năm 2012, tốc độ phát triển
kinh tế của xã đạt trung bình trên 14%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, thủ công nghiệp chiếm 70%; dịch vụ thương mại chiếm 27%; nông nghiệp
chiếm 3%; bình quân thu nhập đầu người đạt từ 8,5 - 9,6 triệu đồng/năm. Là quê
hương của làng nghề truyền thống, hiện Bát Tràng đã có hơn 60 đơn vị kinh tế, gần
1.000 hộ sản xuất, kinh doanh mặt hàng gốm sứ, cho thu nhập hàng trăm tỷ đồng
mỗi năm [2].
38
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu kinh tế của xã Bát Tràng
Bát Tràng hiện có hơn 60 đơn vị kinh tế, trong đó có 1 doanh nghiệp nhà
nước, 3 công ty cổ phần, 52 công ty TNHH, 4 HTX và gần 1.000 hộ sản xuất, kinh
doanh gốm sứ. Tính đến 9 tháng đầu năm 2012, xã Bát Tràng đã có 18 nghệ nhân
được phong tặng "Nghệ nhân Hà Nội", 3 nghệ nhân ưu tú, 5 nghệ nhân dân gian
cùng nhiều thợ giỏi. Bát Tràng phấn đấu hết năm 2014 trở thành xã nông thôn mới,
có kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững trên cơ sở khai thác hiệu quả các
nguồn lực để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ. Có cơ sở hạ tầng KT-XH đồng bộ, hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của
người dân được nâng cao, đi đôi với bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống.
UBND xã Bát Tràng đã đề nghị thành phố công nhận và bảo tồn làng cổ Bát Tràng;
xây dựng cảng du lịch giai đoạn 2, bảo tàng gốm sứ, trung tâm đào tạo nghề, trung
tâm thương mại trưng bày và giới thiệu sản phẩm của làng nghề.
Bảng 2.2. Kết quả phát triển kinh tế xã Bát Tràng năm 2008 – 2011
ĐVT: Tỷ đồng/ năm
STT Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011
1 Tổng giá trị sản phẩm 320 350 380 401
Nguồn: Thống kê của UBND Xã Bát Tràng
39
2.3. Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1. Số liệu thứ cấp
Số liệu về sản xuất/ xuất khẩu của xã được thu thập tại phòng công thương
huyện Gia Lâm. Số liệu về khí hậu thời tiết của xã được thu thập tại phòng môi
trường UBND huyện Gia Lâm. Số liệu về tình hình kinh tế xã hội của xã Bát Tràng;
Tình hình đất đai, nhân khẩu lao động; Cơ sở vật chất kỹ thuật; Kết quả sản xuất
kinh doanh; Số lượng hộ sản xuất gốm của xã được thu thập tại Ban thống kê
UBND xã Bát Tràng.
2.3.2. Số liệu sơ cấp
Xã Bát Tràng có khoảng 1000 hộ chuyên làm gốm và dịch vụ, trong đó thôn
Bát Tràng có 2700 người với 570 hộ, thôn Cao Giang khoảng 430 hộ sản xuất. Số
liệu sơ cấp bao gồm toàn bộ số liệu điều tra khảo sát trực tiếp tại một số hộ sản xuất
gốm sứ trên địa bàn xã Bát Tràng theo tỷ lệ 1/10. Tổng số hộ đã điều tra là 60 hộ
trực tiếp sản xuất (hộ chính), 20 Doanh nghiệp kinh doanh thương mại gốm sứ và 5
hộ chuyên cung cấp nguyên liệu đất sét, theo bảng câu hỏi dưới đây. Thời gian điều
tra từ tháng 8 năm 2012 đến hết tháng 9 năm 2012.
Nội dung bảng câu hỏi tập trung vào một số thông tin sau:
- Họ và tên cơ sở sản xuất đồ gốm. Số năm làm nghề. Nhân khẩu. Số lao động.
Trình độ chuyên môn. Số mẻ lò nung trong năm 2011, chi phí sản xuất năm 2011.
- Tổng diện tích nhà xưởng, kho hàng…
- Giá trị và số năm sử dụng các tài sản cố định (lò nung, nhà xưởng, thiết bị,
kho hàng…)
- Nguồn nguyên liệu (đất sét, men)
- Kết quả sản xuất năm 2011: Số lượng sản phẩm, tỷ lệ hỏng, tỷ lệ tồn kho…
Bước 1: Chọn mẫu điều tra: Đây là bước đầu quan trọng để bắt đầu tiến
trình nghiên cứu. Xã Bát Tràng có khoảng 1000 hộ tham gia sản xuất với quy mô to
40
nhỏ khác nhau. Do đặc thù sản xuất kinh doanh, tại Bát Tràng phân thành 3 mô hình
khác nhau:
Hộ chuyên cung cấp nguyên liệu sản xuất (đất sét): Các hộ này cung cấp
nguồn đất sét đã được pha trộn sẵn cho các hộ sản xuất trong làng nghề. Một trong
những khâu chuyên môn hóa trong sản xuất. Tỷ lệ mô hình hộ cung cấp nguyên liệu
chiếm 7,5% trong tổng số các hộ dân cư trong xã.
Hộ chuyên kinh doanh thương mại: Đặc thù của các hộ này là không tham gia
sản xuất trực tiếp. Họ có mặt bằng kinh doanh, có vốn để “ôm hàng”. Nên họ chỉ
tham vào khâu trung gian trong quá trình đẩy hàng đến tay người tiêu dùng. Tỷ lệ
hộ thương mại chiếm 25% trong tổng số các hộ dân cư trong xã.
Hộ chuyên sản xuất với các quy mô theo số lượng mẻ lò/ tháng: Các hộ ở mô
hình này chiếm 67,5% tổng số các hộ dân cư. Đặc thù các hộ này là đầu tư vốn và
tham gia sản xuất sản phẩm trực tiếp. Vì vậy, đề tài tiến hành chọn mẫu điều tra
theo tỷ lệ 1/10. Trong các phần sau, tác giả tập trung sâu hơn vào các hộ chuyên sản
xuất và các hộ chuyên thương mại để có cách nhìn tổng quan đối với tình hình sản
xuất – kinh doanh tại làng nghề Gốm sứ Bát Tràng.
Bảng 2.3. Quy mô sản xuất của các hộ sản xuất tại làng Bát Tràng
Hộ sản xuất kinh doanh
Cơ cấu %
Số lượng hộ sản xuất thực tế Số lượng hộ sản xuất được khảo sát
Hộ chuyên sản xuất
Quy mô nhỏ (4 mẻ lò/ tháng) 196 19,6 20
Quy mô vừa (6 mẻ lò/ tháng) 380 38,0 20
Quy mô lớn (8 mẻ lò/ tháng) 225 22,5 20
Hộ chuyên thương mại 157 15,7 20
42 4,2 20 Hộ chuyên cung cấp nguyên liệu sản xuất
Tổng số 1000 100 100
Nguồn: Thống kê của UBND Xã Bát Tràng
41
Bước 2: Phiếu điều tra: Tiến hành xây dựng phiếu điều tra, với các nội dung
và chỉ tiêu đầy đủ mà đề tài yêu cầu.
Bước 3: Phỏng vấn thử & chỉnh sửa: Phỏng vấn thử một vài hộ sản xuất và
một vài nghệ nhân trong làng Bát Tràng đồng thời thay đổi một số nội dung cần
thiết để hoàn thiện các thông tin cần điều tra.
Bước 4: Tiến hành điều tra trực tiếp 100 hộ sản xuất kinh doanh: Tổng
hợp, hệ thống hóa tài liệu trên cơ sở phân tổ thống kê theo những thông tin nhất
định.
Phân tích tài liệu qua phân tích mức độ hiện tượng, phân tích tình hình biến
động và mối quạ hệ giữa các hiện tượng. Thông qua quan sát, tìm hiểu thực tế, các
số liệu được thu thập từ UBND xã Bát Tràng. Qua đó đánh giá được tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của làng nghề truyền thống Gốm Sứ Bát Tràng trong 5 năm
qua (2006-2011).
2.4. Tình hình sản xuất - kinh doanh của Gốm sứ Bát Tràng
Làng nghề Gốm sứ Bát Tràng đã thực sự khởi sắc và là một mô hình làng
nghề truyền thống điển hình của cả nước sau khi được quy hoạch. Tình hình sản
xuất của – kinh doanh gốm sứ tại Bát Tràng được tìm hiểu dựa theo tiêu chi về số
lượng mẻ lò sản xuất/ tháng. Làng nghề Gốm sứ Bát Tràng có hơn 1800 hộ dân, số
hộ tham gia sản xuất kinh doanh Gốm chiếm tới 80% trên tổng số hộ trong xã.
Nghề Gốm ở Bát Tràng mang lại thu nhập ổn định và cao gấp 4 đến 5 lần so với sản
xuất thuần tuý nông nghiệp. Tương đương khoảng 30 triệu đồng/ người/ năm. Điều
đó được thể hiện ở số lượng và chất lượng các mẻ lò được sản xuất bình
quân/hộ/năm qua các năm. Kể từ khi Bát Tràng mở rộng sản xuất kinh doanh và
xuất khẩu hàng hóa, tốc độ phát triển bình quân tăng đáng kể.
Thu nhập của thợ gốm cũng được tăng lên đáng kể, bình quân thu nhập 18
triệu đồng/người/năm vào năm 2005 tăng lên 20,5 triệu đồng/người/năm vào năm
2006. Cho tới năm 2008, thu nhập bình quân tăng khoảng 26 triệu đồng/người/năm,
và đang ở mức 30 triệu đồng/người/năm vào năm 2011. Với mức tăng đáng kể đó,
42
góp phần lớn nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện tình hình chi tiêu của hộ sản
xuất gốm trong làng nghề.
Biểu đồ 2.2. Mức thu nhập bình quân tại làng Gốm Bát Tràng
Tuy nhiên, từ năm 2006 đến nay, và nhất là năm 2008 (tổng doanh thu toàn xã
giảm khoảng 24% so với năm trước) khi kinh tế thế giới vào giai đoạn suy thoái,
lượng tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp ở Bát Tràng sụt giảm dần từng năm.
Nếu những năm 2000, khi làng nghề thực sự khởi sắc thì hầu hết cơ sở sản xuất lớn
nhỏ đều sản xuất hết năng suất nhưng vẫn không kịp hoàn thành các đơn hàng từ
nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu của Bát Tràng năm 2002 là 400 tỷ đồng thì năm
2003 còn 350 tỷ và đến năm 2004 chỉ còn 280 tỷ. Qua đó, đặt ra câu hỏi cho tính
bền vững của mô hình làng nghề truyền thống Bát Tràng.
2.4.1. Sản xuất và tiêu thụ đồ gốm tại các hộ chuyên điều tra
2.4.1.1. Thông tin chung về các hộ điều tra
Đặc thù là một làng nghề có truyền thống lâu đời, các hộ sản xuất Gốm Bát
Tràng đa số được truyền nghề từ đời ông cha tới đời con cháu. Do xu hướng của thị
trường và được quy hoạch cụ thể từ chiến lược Nông thôn hóa của nhà nước (năm
2001), nên làng nghề được phát triển khởi sắc hơn.
43
Bảng 2.4. Tình hình cơ bản của chủ hộ sản xuất năm 2011
Quy mô hộ sản xuất Nội dung ĐVT Tổng các hộ Nhỏ Vừa Lớn
Hộ 100 1. Số hộ điều tra
Hộ Hộ chuyên làm gốm 60 15 28 17
Hộ Hộ cung cấp nguyên liệu sản xuất 20 0 16 4
Hộ Hộ thương mại 20 0 14 6
2. Giới tính chủ hộ
Người Nam 72 17 36 19
Người Nữ 28 6 10 12
3. Nhân khẩu bình quân 1 hộ Lao động 6,6 5 7 8
4. Tổng lao động bình quân 1 hộ Lao động 18,68
Lao động gia đình Lao động 5,4
Lao động thuê Lao động 15,01
5. Tuổi bình quân chung Tuổi 45
6. Số năm làm nghề bình quân Năm 25
7. Trình độ văn hóa Lớp 8
8. Trình độ chuyên môn
Qua truyền nghề Người 74
Trung cấp Người 2
Cao đẳng, đại học 2
Nguồn: Tính toán theo nguồn số liệu điều tra 9 tháng đầu năm 2012
44
Nhân khẩu và lao động
Qua số liệu điều tra trực tiếp, các thông số cho thấy: Số nhân khẩu bình quân
trong 1 hộ là 5 – 6 người. Số nhân khẩu ở quy mô cao nhất là 8 người, giảm dần đối
với các quy mô vừa và nhỏ. Đối với các hộ có quy mô lớn, đa phần do các hộ có 3
thế hệ sống chung dưới mái nhà (ông bà, cha mẹ, con cái). Vấn đề thuê nhân khẩu
của nhóm này rất ít bởi những công việc phụ thêm khi sản xuất được phân bổ cho
các thành viên trong gia đình.
Đối với các hộ sản xuất có quy mô vừa và nhỏ thì chủ yếu là hai vợ chồng và
con cái tham gia sản xuất. Nên nhu cầu tìm lao động làm thêm rất lớn. Tuy nhiên có
một thực tế đang xảy ra đối với vấn đề thuê nhân công. Trước đây, nhân công nhiều,
giá thuê cũng vừa phải, nhưng hiện nay, công nhân chủ yếu là ở các làng lân cận
trong huyện như: Đa Tốn, Đông Dư, Cự Khối, Kim Lan hay xa hơn ở các xã thuộc
huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên). Do được hưởng đền bù ở các dự án: Dự án
Ecopark, dự án đường 5B, dự án đường Hà Nội - Hưng Yên nên không còn mặn mà
với việc làm ở làng nghề truyền thống, họ chủ yếu xin làm trong các khu công
nghiệp trên quận Long Biên như: Hanel, Sài Đồng. Nếu có còn làm việc thì giá
cũng bị đẩy lên cao vì nắm được tâm lý cần thợ của chủ cơ sở sản xuất, do giá điện
và gas tăng nên cũng phải bù vào chi phí này. Đó cũng là mặt trái của xu thế CNH-
HĐH.
Mô hình lao động gia đình, các nhân công được phân công như sau:
- Người chủ là người quán xuyến các công việc, tham gia trực tiếp vào sản xuất,
chịu trách nhiệm những khâu chính: Đưa ra mẫu mã, chủng loại, số lượng sản xuất
của một mẻ lò. Ngoài ra, họ cũng chịu trách nhiệm chính trong khâu tiêu thụ sản
phẩm.
- Các lao động khác, đa phần là lao động thuê mướn theo thời vụ, tham gia vào
các khâu của quá trình sản xuất như: Tạo cốt gốm, trang trí hoa văn họa tiết, sửa
hàng phơ, hỗ trợ khâu nung sản phẩm...
Tất cả các thợ sản xuất, trước khi được vào làm việc chính đều phải trải qua
45
giai đoạn học việc, hoặc đã có kinh nghiệm từ trước.
Thông qua số liệu điều tra cho thấy, độ tuổi và tuổi nghề của chủ hộ thường
khá cao. Độ tuổi trung bình của chủ hộ sản xuất khoảng 45 tuổi. Tuổi nghề trung
bình trên 25 năm. Các chủ hộ thường là những người từng trải qua các giai đoạn
thăng trầm của làng nghề, họ có nhiều kinh nhiệm, có tay nghề cao, hơn nữa họ có
nhiệt huyết trong việc giữ gìn bản sắc cho làng nghề truyền thống.
Tuy nhiên, trình độ văn hóa của các chủ hộ nói chung tương đối thấp. Trung
bình hết cấp 2. Nguyên nhân chính là do nghề gốm là nghề được truyền từ đời này
sang đời khác, con cái chỉ cần học chữ sau đó chuyên tâm làm nghề là được. Với
tình hình xã hội hiện nay, thì việc nâng cao trình độ văn hoá nói chung cho các hộ
gia đình tham gia sản xuất gốm nói chung là việc làm cần được chú trọng. Lớp trẻ
tiếp nối truyền thống của những lò gốm hôm nay, đã có những tiến bộ hơn, đó là
việc các em được học hành cẩn thận. Một bộ phận lớn chủ lò gốm đã ý thức cho con
em mình học những trường Đại học với các chuyên ngành liên quan, như vậy mới
có thể đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phát triển làng nghề, tạo bản
sắc riêng cho sản phẩm và thương hiệu làng nghề.
2.4.1.2. Cơ sở vật chất cho sản xuất gốm của các hộ gia đình
Để nắm được tình hình về điều kiện kinh tế của các hộ sản xuất kinh doanh
gốm ở làng nghề Bát Tràng, đề tài dựa trên các yếu tố sau:
Đất đai: Với mô hình làng nghề sản xuất như tại Bát Tràng thì bình quân đất đai của một hộ sản xuất gốm đạt ở mức trung bình khoảng 300m2/ hộ. Đa phần họ
có ít diện tích đất vườn, nếu có thì không để trồng cây mà sử dụng để phơi củi và
đất sét. Các hộ đều sử dụng hết quỹ đất của mình để phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt. Hầu hết các hộ sản xuất đều có kho hàng, để khi ra một mẻ lò thì đều có diện
tích để chứa. Sau đó, hàng được đóng lên xe và đưa đi tiêu thụ. Tuy nhiên, nếu thị
trường rơi vào trạng thái ảm đạm, hàng hoá tồn đọng nhiều thì đa số các hộ đều
không còn diện tích đất sử dụng. Nhìn chung mặt bằng sản xuất của nhiều hộ gia
đình còn chật hẹp, không thể mở rộng và phát triển sản xuất tiếp được. Phần lớn các
46
cơ sở sản xuất nằm ngay trong khu dân cư, thậm chí là chung với nhà ở.
Ngoài ra, các sản phẩm hỏng, các sản phẩm phế thải, chưa có bãi quy hoạch
dẫn đến mất mỹ quan cho làng nghề cũng như ảnh hưởng đến quỹ đất sản xuất nói
chung.
Tài sản cố định: Qua điều tra cho thấy, các hộ tham gia sản xuất đều tự có
những tài sản cố định thiết yếu như: Xưởng sản xuất, lò nung, kho chứa hàng, các
công cụ khuôn, các công cụ sản xuất cần thiết khác.
Các hộ có quy mô lớn thì có số lượng máy móc và trang thiết bị lớn nên tổng
giá trị tài sản cố định lên đến 1 tỷ đồng/ hộ. Trong khi đó các hộ vừa và nhỏ chỉ
dừng ở quy mô đầu tư khoảng từ 200 trđ đến 300 trđ/ hộ và 500 trđ đến 700 trđ/hộ
Qua đó, cho ta thấy, ngành nghề sản xuất kinh doanh gốm rất cần vốn. Chưa
tính đến các quá trình cần đổi mới công nghệ và đầu tư mới nhà xưởng máy móc.
Đặt ra một bài toán vốn cho tất cả các hộ tham gia sản xuất ngay từ buổi đầu.
Về huy động vốn: Qua tìm hiểu tình hình sử dụng vốn của các hộ sản xuất
gốm của làng nghề Bát Tràng, một thực trạng chung đó là việc thiếu vốn đầu tư sản
xuất. Từ trước đến nay, nhiều hộ sản xuất ở Bát Tràng đã hoạt động từ rất lâu năm
nên có một số vốn tích lũy. Nhiều người hoạt động sản xuất bằng vốn tự có. Do đó,
khi có biến động về thị trường, hàng hoá tiêu thụ kém, lượng tồn kho nhiều, vốn ứ
đọng, thì đa số các hộ tham gia sản xuất đều rơi vào tình trạng sản xuất cầm chừng.
Cụ thể kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của cả xã chỉ còn một nửa năm trước, chừng
5-6 triệu USD.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay, làng nghề Bát Tràng có hơn khoảng
1000 hộ gia đình sản xuất kinh doanh thì chỉ có chưa đầy 100 hộ tiếp cận được vốn
vay kích cầu. Số dư tổng cộng cũng chỉ khoảng 10 tỷ đồng, không đáng kể gì so với
nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp và hộ sản xuất. Nhiều lò đã phải bán tài sản,
vay mượn để duy trì việc kinh doanh. Họ chấp nhận vay mạo hiểm với lãi suất cao
để có thể đầu tư kiếm lợi nhuận. Nguồn vay, ngoài từ bạn bè, người thân thì họ vay
từ các quỹ không chính thức khác.
47
Bảng 2.5. Tình hình sử dụng vốn của các hộ điều tra năm 2011
ĐVT: đồng
Quy mô nhỏ
Các nhóm hộ sản xuất điều tra Quy mô vừa
Nội dung
SL
SL
CC (%)
CC (%)
Quy mô lớn SL
CC (%)
số
357,760,000
100
847,840,000
100 1,489,664,000
100
69.34 418,154,688 30.66 429,685,312
49.32 621,636,787 50.68 868,027,213
41.73 58.27
1. Tổng vốn Vốn cố định 248,070,784 Vốn lưu thông 109,689,216 2. Nguồn huy động Vốn tự có Vốn đi vay
240,915,584 116,844,416
67.34 519,471,568 36.88 328,368,432
61.27 957,556,019 64.28 38.73 532,107,981 37.42
Nguồn: Tính toán từ số liệu năm 2011
Qua khảo sát điều tra cho thấy cơ cấu sử dụng vốn của các hộ tham gia sản
xuất thì số vốn để mua sắm máy móc, trang thiết bị và xây dựng cơ bản chiếm tới
40 – 70% trên tổng giá trị vốn. Vốn lưu động để mua nguyên vật liệu, nhiên liệu,
lượng vốn bị gối chỉ chiếm tỷ lệ từ 25% đến 48%. Tuy nhiên, do đổi mới công nghệ
nung từ than sang khí Gas nên số vốn đầu tư vào lò Gas tương đối lớn (khoảng 120
triệu đồng/lò), nên tăng tỷ lệ vốn đầu tư vào tài sản cố định.
Căn cứ vào tỷ trọng sử dụng vốn cố định và vốn lưu động của các nhóm hộ
cho thấy các hộ sản xuất ở quy mô vừa và lớn, sử dụng vốn lưu động nhiều hơn vốn
cố định (ngược lại so với hộ sản xuất ở quy mô nhỏ). Nguyên nhân là do nhóm hộ
sản xuất ở các quy mô vừa và lớn sử dụng vốn mua nguyên liệu dự trữ cho nhiều
chu kỳ của quá trình sản xuất, tăng lượng gối hàng nhiều.
48
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu vốn của các hộ sản xuất
Như vậy, qua bảng số liệu trên, có thể thấy vốn của các nhóm sản xuất đều ở
trong tình trạng thiếu hụt. Đây là vấn đề lớn rất cần được sự giúp đỡ của các cấp
quản lí cao về chính sách tín dụng và các tổ chức đầu tư.
2.4.2. Tình hình sản xuất tại các hộ điều tra
2.4.2.1. Nguồn nguyên vật liệu
Để có được một sản phẩm hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, cần phải
trải qua những quy trình kỹ thuật phức tạp, nhiều công đoạn. Các khâu sản xuất
được mô tả ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Quy trình làm gốm sứ Bát Tràng
49
Qua khảo sát trực tiếp về tình hình sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào để sản
xuất gốm Bát Tràng, thì 100% các hộ đều sử dụng nguồn đất sét từ nơi khác. Từ Bát
Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi
dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn. Đất
sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu
lửa ở khoảng 1650°C. Tuy là loại đất tốt được người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng
nhưng sét Trúc Thôn cũng có một số hạn chế như chứa hàm lượng ôxít sắt khá cao,
độ ngót khi sấy khô lớn và bản thân nó không được trắng.
Hiện nay, trong làng có một số hộ chuyên cung cấp đất sét đã pha trộn đầy đủ.
Các hộ sản xuất mua với giá 2 triệu đồng/ tấn đất sét và sử dụng để nặn ra sản phẩm
được luôn. Trung bình 1 tấn đất sét như vậy sẽ tạo ra được khoảng 800 sản phẩm
gốm có kích cỡ nhỏ. Hoặc 300 sản phẩm gốm kích cỡ trung bình và 100 sản phẩm
gốm kích cỡ lớn.
2.4.2.2. Sản lượng, chủng loại, giá trị sản xuất gốm của các nhóm hộ
chuyên sản xuất
Chủng loại sản phẩm được sản xuất dựa trên các quy mô sản xuất của các hộ
gia đình. Sản phẩm của hộ sản xuất ở quy mô nhỏ, chủ yếu là gốm gia dụng: lọ hoa,
chậu cây cảnh, bát đĩa, với kiểu dáng đơn giản. Sản phẩm của hộ sản xuất ở quy mô
vừa và lớn thì ngoài gốm gia dụng, họ còn đầu tư kỹ thuật và thời gian để sản xuất
gốm mỹ nghệ. Một vài hộ sản xuất gốm mỹ nghệ và rất thành công bởi mẫu mã sản
phẩm đẹp, tinh tế và được xuất khẩu với giá khá cao. Tập trung chủ yếu vào cơ sở
sản xuất của các nghệ nhân có tiếng trong làng. Sản phẩm Bát Tràng nổi tiếng với
Lọ Lục Bình phong thủy cao từ 1,5 m đến 2 m, với rất nhiều họa tiết hoa văn nghệ
thuật. Chỉ các hộ sản xuất quy mô lớn mới bao tiêu sản xuất dòng sản phẩm này. Do
đặc thù sản phẩm lớn, nên 1 mẻ lò chỉ sản xuất được 8 cặp lục bình, khiến giá thành
cao (khoảng 3 triệu đồng/ cặp), nhưng rất nhiều đơn hàng.
Đặc thù sản xuất của làng Gốm sứ Bát Tràng đó là đa số các hộ tham gia sản
xuất không kiêm thêm các nghề khác. Những năm 2006-2007, Bát Tràng riêng xuất
50
khẩu gốm sứ mỹ nghệ, doanh thu cả xã đạt hơn 13 triệu USD một năm. Chưa kể
gốm sứ xây dựng và gia dụng tiêu thụ tại thị trường trong nước. Nhưng, qua cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 2008-2009, các doanh nghiệp Bát Tràng ở đây mất từ 70
– 90% đơn đặt hàng từ nước ngoài. Khi mất đơn đặt hàng, các cơ sở sản xuất ở Bát
Tràng cũng mất luôn cơ hội có được mẫu sản xuất mới, vì lâu nay bạn hàng nước
ngoài khi đặt hàng luôn đưa theo thiết kế mẫu của họ cho doanh nghiệp ở Bát Tràng
thực hiện. Một thực tế đang xảy ra đó là việc gốm sứ Bát Tràng đang ngày càng bị
hàng gốm sứ Trung Quốc “lấn lướt” ngay trên thị trường nội địa - thậm chí là ngay
tại làng Bát Tràng.
51
Bảng 2.6. Kết quả sản xuất của các nhóm hộ chuyên sản xuất
(Tính bình quân cho 1 hộ/năm)
Quy mô sản xuất
Quy mô nhỏ
Quy mô vừa
Quy mô lớn
Sản phẩm
ĐVT
Giá trị
Giá trị
Giá trị
SL
CC(%)
SL
CC(%)
SL
CC(%)
VNĐ
VNĐ
VNĐ
1. Gốm mỹ nghệ
72,545,000
19.92
475,050,000
56.57
1,107,920,000
75.29
-
-
-
Lọ lục bình
cặp
-
80
160,000,000
Lọ hoa
cặp
2,800
40,600,000
119,700,000
7600
174,800,000
900
Tượng nhỏ
tượng
2,650
11,925,000
6,750,000
-
1500
Tượng lớn
tượng
-
-
175,000,000
1600
224,000,000
1250
Đĩa trang trí
-
-
90,000,000
2400
168,000,000
1500
Tranh gốm, sứ
bức
-
-
62,000,000
2400
348,000,000
400
Chậu cây cảnh
chiếc
2,860
20,020,000
21,600,000
1840
33,120,000
1200
2. Gốm gia dụng
277,140,000
80.08
364,700,000
43.43
363,600,000
24.71
Chum
chiếc
1,150
25,300,000
16,200,000
1900
36,100,000
720
Vại
chiếc
1,160
24,360,000
18,900,000
2100
44,100,000
900
Tiểu sành
bộ
618
148,320,000
172,800,000
- -
720
Ấm chén
bộ
890
53,400,000
112,000,000
1800
261,000,000
1400
Bát đĩa
bộ
920
25,760,000
44,800,000
800
22,400,000
1600
Tổng
100
346,100,000
839,750,000
100
1,471,520,000
100
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra năm 2011
52
Qua bảng thống kê trên cho thấy, số lượng và chủng loại sản phẩm cũng như
cơ cầu giá trị sản phẩm, phụ thuộc vào quy mô sản xuất của mỗi hộ. Những hộ có
vốn tốn, có chiều sâu đầu tư thì sẽ tập trung nhiều và gốm mỹ nghệ - dòng gốm
mang nhiều lợi nhuận và ưu thế. Ngược lại, hộ có vốn thấp, chỉ sản xuất các sản
phẩm gốm gia dụng, với mức lợi nhuận kém hơn. Chính thì thế, chính quyền địa
phương cần có những chính sách khuyến khích đầu tư về vốn, tạo điều kiện tốt hơn
cho môi trường kinh doanh giúp các hộ sản xuất tăng năng suất, góp phần tăng giá
trị ngành công nghiệp địa phương.
2.4.2.3. Chi phí sản xuất gốm của các hộ điều tra
Chi phí đầu tư của các hộ sản xuất tập trung nhiều nhất vào lò nung và chi phí
thuê nhân công. Một lò nung có phí lắp đặt là 120 triệu đồng. Riêng chuyện giá gas
lên, mỗi đợt vào lò cũng mất đứt chừng 10 triệu đồng. Đặc biệt 9 tháng đầu năm
2012, khi giá gas tăng lên mức kỷ lục, sau 3 lần tăng giá liên tiếp, một bình gas loại
45kg khi vận chuyển đến nhà lò là 1.500.000 vnđ, với một lò 1,5 mét khối, để nung
chín sản phẩm cần 7 bình gas 45kg, như vậy chi phí mỗi chuyến đã hơn 10 triệu
đồng, trong khi trước đó chỉ tốn khoảng 6 triệu đồng. Về chi phí nhân công, do tốc
độ CNH tăng mạnh, nên một số lượng lớn công nhân bỏ làng nghề và làm việc cho
các khu công nghiện, dẫn tới việc giá nhân công bị đầy lên trong thời gian gần đây.
Các chi phí đầu tư khác, có cơ cấu thấp hơn, điều đó chứng tỏ các hộ sản xuất
không chủ động được giá thành của các yết tố sản xuất.
Chi phí sản xuất gốm của các hộ điều tra được thống kê cụ thể qua bảng số liệu
2.7 (Xem bảng 2.7, trang 60)
2.4.2.4. Kết quả và hiệu quả sản xuất gốm của các nhóm hộ
Để đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất của các nhóm hộ sản xuất gốm sứ
Bát Tràng, dựa trên các số liệu điều tra, đề tài tính toán một số các chỉ tiêu thể hiện
kết quả sản xuất kinh doanh theo bảng 2.8. (Xem bảng 2.8, trang 61)
53
Bảng 2.7. Chi phí sản xuất gốm của các nhóm hộ điều tra năm 2011
(Tính bình quân cho 1 hộ/ năm, giá trị 1000 đ)
Tổng các hộ Quy mô nhỏ Quy mô các hộ sản xuất Quy mô vừa Quy mô lớn Chỉ tiêu
GT GT CC(%) GT CC(%) GT CC(%)
1. Chi phí trung gian Đất sét Men Mầu Gas Điện sản xuất Bao nung Sửa chữa thường xuyên Vận chuyển, dịch vụ khác Lãi suất tiền vay 2. Chi phí khác Công lao động thuê Thuế các loại Khấu hao TSCĐ 3. Lao động gia đình Tổng chi phí 954,195,330 212,085,815 74,459,042 9,796,405 419,750,526 11,863,829 25,731,467 46,373,893 133,523,733 20,610,619 857,668,942 838,743,047 2,086,994 16,838,900 344,346,929 2,156,211,200 CC (%) 44.25 22.23 7.80 1.03 43.99 1.24 2.70 4.86 13.99 2.16 39.78 97.79 0.24 1.96 15.97 100 139,898,470 48.88 30,721,704 21.96 10,786,172 7.71 979,289 0.70 63,625,824 45.48 1,748,731 1.25 - - 10,660,263 7.62 19,305,989 13.80 2,070,497 1.48 108,415,590 37.88 105,401,637 97.22 292,722 0.27 2,721,231 2.51 37,893,939 13.24 286,208,000 100 297,422,272 43.85 66,087,229 22.22 7.79 23,169,195 3,360,872 1.13 131,282,191 44.14 1.24 3,688,036 2.75 8,179,112 3.95 11,748,180 41,639,118 14.00 8,268,339 2.78 275,378,432 40.60 270,118,704 98.09 0.23 633,370 1.68 4,626,358 105,471,296 15.55 100 678,272,000 477,049,999 40.03 107,336,250 22.50 7.91 37,734,655 5,963,125 1.25 202,030,675 42.35 1.24 5,915,420 5.34 25,474,470 3.01 14,359,205 67,645,690 14.18 10,590,510 2.22 486,822,195 40.85 477,426,527 98.07 0.23 1,119,691 1.70 8,275,977 227,859,005 19.12 100 1,191,731,200
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra năm 2011
54
Bảng 2.8. Kết quả & hiệu quả sản xuất gốm của các nhóm hộ điều tra
(Tính bình quân cho 1 hộ/ năm)
Các nhóm hộ sản xuất gốm Bình quân Nội dung ĐVT chung Quy mô nhỏ Quy mô vừa Quy mô lớn
1. Giá trị sản xuất (GO) 718,737,067 286,208,000 678,272,000 1,191,731,200 ng.đ
2. Chi phí trung gian (IC) 304,790,247 139,898,470 297,422,272 477,049,999 ng.đ
3. Giá trị gia tăng (VA) 503,115,947 200,345,600 474,790,400 834,211,840 ng.đ
4. Thu nhập hỗn hợp (MI) 179,684,267 71,552,000 169,568,000 297,932,800 ng.đ
5. Tổng lợi nhuận (TPr) 165,309,525 65,827,840 156,002,560 274,098,176 ng.đ
6. Tỷ suất giá trị sản xuất (GO/IC) 2.27 2.05 2.28 2.50 lần
7. Tỷ suất giá trị gia tăng (VA/IC) 1.59 1.43 1.60 1.75 lần
8. Tỷ suất thu nhập hỗn hợp(MI/IC) lần 0.57 0.51 0.57 0.62
9. Tỷ suất lợi nhuận/vốn 0.14 0.12 0.09 0.21 lần
10. Tỷ suất lợi nhuận/vốn cố định 0.28 0.17 0.18 0.49 lần
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra năm 2011
55
Qua bảng thống kê trên ta thấy ba nhóm quy mô sản xuất của Bát Tràng đều
đạt được những hiệu quả sản xuất nhất định. Điều đó chứng tỏ Bát Tràng đang phát
triển mạnh trở lại.
2.4.3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các hộ điều tra
Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thị trường, các hộ sản xuất Gốm sứ
Bát Tràng luôn chủ động trong sản xuất kinh doanh cũng như tìm kiếm thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Các mặt hàng Gốm Bát Tràng ngoài việc tiêu thụ trong thị
trường nội địa còn được xuất khẩu một lượng lớn.
Thị trường sản phẩm gốm Bát Tràng hoạt động theo quy luật cung cầu, các hộ
đa phần sản xuất theo mẫu mã và đơn đặt hàng của khách hàng. Theo kết quả điều
tra cho thấy, sản phẩm làm ra được tiêu thụ từ 85% đến 90%. Hàng năm, trong
khoảng thời gian từ tháng 10 âm lịch đến trước tháng 3 âm lịch năm sau, là khoảng
thời gian tiêu thụ tốt nhất. Thời gian tiêu thụ trung bình từ 15 đến 30 ngày sau khi
sản phẩm gốm ra lò. Thời gian thu hồi vốn tính theo chuyến hàng, từ khi lấy hàng
thì trả trước 30 – 50%, còn lại là gối chuyến. Để thu hồi hết công nợ cũng phải mất
khoảng thời gian từ 1 đến 1,5 tháng, cá biệt có hộ trên 2 tháng mới thu hồi hết nợ.
Sơ đồ 2.2. Kênh tiêu thụ sản phẩm gốm của các hộ sản xuất
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
56
Qua sơ đồ trên cho thấy, sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng được tiêu thụ qua 5
kênh khác nhau. Kênh 1 đến kênh 3 là kênh tiêu thụ trong nước, kênh 4, kênh 5 là
kênh xuất khẩu. Cụ thể chức năng các kênh tiêu thụ như sau:
Kênh 1: Là kênh tiêu thụ trực tiếp từ hộ sản xuất đến thẳng người tiêu dùng.
Đặc điểm của kênh bán hàng này là lấy được tiền ngay và giá cả có thể sát mức hơn
vì không cần qua trung gian phân phối. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ này ít. Đa số là
thành phần khách hàng trong vùng tới đặt mua trực tiếp để trang trí, sử dụng trong
nhà hoặc mang đi biếu. Các sản phẩm thường là gạch gốm, chậu hoa… một vài sản
phẩm mang tính nghệ thuật, tạo dấu ấn riêng.
Kênh 2: Hàng hóa từ hộ sản xuất qua người bán buôn đến người bán lẻ và sau
đó đến tay người tiêu dùng. Sản phẩm tiêu thụ qua kênh này chiếm khoảng 40%
tổng lượng bán hàng trong nước. Phần lớn số tiền mua hàng được thanh toán ngay,
hoặc có thể chịu lại một chuyến. Sản phẩm qua kênh này chủ yếu là gốm mỹ nghệ
như: Chậu hoa, tranh gốm, tượng, đèn trang trí, lọ hoa…
Kênh 3: Kênh này được chuyển từ hộ sản xuất đến đại lý sau đó đến người
bán buôn, người bán lẻ và cuối cùng là người tiêu dùng cuối cùng. Kênh này có tỷ
lệ sản phẩm được tiêu thụ ở mức độ cao nhất, chiếm 45.9% lượng bán hàng trong
nước. Các sản phẩm cũng bao gồm gốm gia dụng và gốm mỹ nghệ. Kênh bán hàng
này được nhiều hộ gia đình lựa chọn do bán được cho đại lý với số lượng hàng lớn
nhưng thường bị nợ tiền khá lâu (từ 1 đến 3 tháng). Do vậy vốn sản xuất bị tồn
đọng, ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn.
Kênh 4: Sản phẩm từ hộ sản xuất, qua kênh thu mua của các doanh nghiệp và
công ty xuất nhập khẩu (Công ty TNHH Gốm sứ Bát Tràng…). Lượng hàng tiêu
thụ qua kênh này chiếm 82% lượng hàng hóa được xuất khẩu. Các sản phẩm xuất
đa dạng chủ yếu là gốm mỹ nghệ.
Kênh 5: Là kênh xuất khẩu trực tiếp. Các hộ gia đình có quy mô lớn chủ động
tìm được đơn hàng, rồi thu mua thêm của các hộ sản xuất khác và đóng container
gửi trực tiếp. Lượng hàng xuất đi qua kênh này chiếm 18%. Các sản phẩm xuất
57
tương tự chủ yếu là gốm mỹ nghệ.
2.4.4. Đánh giá năng lực cạnh tranh của gốm sứ Bát Tràng
Nhược điểm của gốm sứ Bát Tràng đó là sản phẩm không ghi tên thương hiệu,
chỉ có sản phẩm của một số nghệ nhân nổi tiếng trong làng mới đóng dấu tên phía
dưới. Ngoài ra bao bì đóng gói sản phẩm, mạnh hộ nào hộ đó sáng tạo, có hộ thì
đóng gói bằng giấy dó hay túi ni long, có hộ thì bọc bằng túi cói, tất cả đều không
chuyên nghiệp. Một chi tiết nhỏ nhưng tạo ra một hệ lụy lớn. Đề tài xin tập trung
phân tích sản phẩm gốm Bát Tràng và gốm Trung Quốc để đưa ra điểm yếu cần
thay đổi của gốm sứ Bát Tràng.
2.4.4.1. Thị trường tiêu thụ và sản phẩm cạnh tranh chủ yếu
Sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng hiện nay được tiêu thụ ở hai thị trường trong
nước và nước ngoài. Tuy nhiên, số lượng liêu thụ không ổn định. Lý do lớn nhất đó
là sự cạnh tranh mạnh mẽ của các thương hiệu gốm sứ khác. Đặc biệt là gốm sứ
Trung Quốc. Riêng đối với các thương hiệu gốm sứ trong nước như làng nghề gốm
sứ Phù Lãng, làng nghề gốm sứ Chu Đậu, thì Bát Tràng vẫn giữ vị trí số một, do
vậy, trong nghiên cứu của đề tài này, tôi so sánh năng lực cạnh tranh của Gốm sứ
Bát Tràng đối với gốm sứ Trung Quốc – hiện đang tràn lan tại thị trường tiêu thụ
Việt Nam.
Thị trường nội địa: Sản phẩm Gốm Bát Tràng có mặt tại hầu hết các tỉnh
thành lớn của cả nước. Tại các tỉnh thành mục tiêu của gốm Bát Tràng đó, thị hiếu
tiêu dùng sản phẩm gốm rất cao, người tiêu dùng sử dụng sản phẩm không chỉ để
trang trí trong gia đình mình mà còn mua làm quà biếu, sử dụng trong công sở.
Các sản phẩm mỹ nghệ như: chậu cây cảnh, tượng, lọ lục bình, tranh gốm, đèn
trang trí ... được tiêu thụ nhiều ở các thành phố lớn. Sản phẩm mang đặc trưng riêng
của gốm sứ Bát Tràng nên rất được ưu chuộng trên thị trường.
Các sản phẩm gia dụng như: chum, vại... chỉ tiêu thụ trong thị trường nội địa.
Tuy nhiên, bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm thay thế bằng thuỷ tinh, nhựa từ
58
Trung Quốc, Hàn Quốc, nên lượng tiêu thụ giảm đáng kể. Lượng sản phẩm chỉ tiêu
thụ được ở các vùng nông thôn.
Một dòng sản phẩm mang ý nghĩa tâm linh đối với người tiêu dùng Việt Nam,
đó là sản phẩm bát hương, lư hương, tiểu sành...Các sản phẩm này chỉ tiêu thụ trong
nội địa, số lượng không nhiều nhưng vẫn được sản phẩm theo đơn hàng. Trong thời
gian tới, vẫn rất cần có sự đồng bộ trong các kế hoạch để giúp Bát Tràng thâm nhập
sâu vào thị trường.
Bảng 2.9. Thị trường tiêu thụ trong nước của gốm Bát Tràng và Trung Quốc
Bát Tràng Trung Quốc Thị trường
Hà Nội
TP. Hồ Chí Minh
Đà Nẵng
Huế
Hải Phòng
Quảng Ninh
Bắc Ninh
Lạng Sơn
Cao Bằng
Vũng Tàu
Cần Thơ
Đồng Nai
Nam Định
Thái Bình
Thái Nguyên
Sơn La
Lai Châu
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Ghi chú : Thị trường đang có mặt sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng Thị trường chưa có mặt sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng
59
Thị trường xuất khẩu: Kể từ năm 2001, khi làng nghề Bát Tràng được quy hoạch
thành làng nghề truyền thống kiểu mẫu, thì việc sản xuất kinh doanh gốm sứ Bát
Tràng phát triển nhanh chóng. Các hộ gia đình tại xã Bát Tràng đa phần tham gia
sản xuất trực tiếp hoặc làm các công việc thương mại liên quan tới sản phẩm gốm
sứ Bát Tràng. Rất nhiều hộ gia đình đã kí được các hợp đồng xuất khẩu với các
nước trên thế giới với hiệu quả kinh doanh cao. Những thị trường xuất khẩu lớn của
làng nghề như: Hàn Quốc, Nhật Bản tiêu thụ chủ yếu là lọ hoa, chậu cây cảnh, tranh
gốm. Các thị trường khác như Mỹ, Anh, Pháp, Italy, Tây Ban Nha ... cũng là những
thị trường có nhu cầu lớn. Các thị trường xuất khẩu nói chung đều tiêu thụ với số
lượng lớn, sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao và mẫu mã đa dạng. Đặc biệt tại thị
trường Hàn Quốc và Nhật Bản tiêu thụ sản phẩm với mẫu mã có sẵn của họ gửi
sang. Khả năng thâm nhập vào thị trường xuất khẩu của gốm Bát Tràng so với sản
phẩm Gốm sứ Trung Quốc được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.10. Thị trường xuất khẩu của gốm Bát Tràng và Trung Quốc
Thị trường Bát Tràng Trung Quốc
Mỹ
Anh
Pháp
Italia
Tây Ban Nha
Hàn Quốc
Nhật
Nga
Đức
Tiệp
Ba Lan
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Ghi chú : Thị trường đang có mặt sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng
Thị trường chưa có mặt sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng
60
2.4.4.2. Cạnh tranh về giá bán và chi phí sản xuất
Một vấn đề rất đáng quan tâm của các chủ lò sản xuất gốm Bát Tràng, chính là
sự cạnh tranh khốc liệt về giá của các sản phẩm Trung Quốc. Sản phẩm cùng loại
nhưng có giá thấp hơn, chắc chắn sẽ thu hút khách hàng hơn, đặc biệt là đối tượng
Khách hàng có thu nhập thấp và trung bình
Bảng 2.11. Giá một số sản phẩm cạnh tranh trên thị trường
Gốm Gốm STT Tên sản phẩm ĐVT Bát Tràng Trung Quốc
1 Lọ hoa kiểu dáng đơn giản Ngàn đồng/cặp 80-160 50-70
2 Chậu cây cảnh Ngàn đồng/cặp 50-75 40-70
3 Tranh gốm Ngàn đồng/cặp 250-400 150-300
Nguồn tính toán: 6 tháng đầu năm 2012
Với bảng thống kê trên cho thấy, gốm Bát Tràng thua ngay trên sân nhà. Riêng
với một vài sản phẩm là đặc trưng của Bát Tràng (lọ lục bình, các sản phẩm giả cổ
với màu men Bát Tràng) thì còn giữ được sự cạnh tranh.
Từ giá bán như vậy, ta có thể thấy, chi phí sản xuất của gốm Bát Tràng luôn ở
mức cao hơn so với gốm Trung Quốc, tập trung một số nguyên nhân sau:
Đặc thù của gốm Bát Tràng là các họa tiết phải vẽ bằng tay, nên công đoạn
trang trí mất nhiều thời gian, đẩy giá nhân công lên, dẫn tới chi phí thành phẩm cao.
Trong khi đó sản phẩm gốm Trung Quốc thường dùng thủ pháp in hàng loạt bằng
khuôn in, nên sản phẩm đồng đều, chi phí giảm tương đối lớn.
Một nguyên nhân nữa, khiến giá thành sản phẩm của gốm Bát Tràng cao đó là
giá nhiên liệu khí đốt (gas) luôn ở mức biến động bất ổn, làm cho mỗi giá trị/ mẻ lò
luôn ở mức cao.
Nguyên nhân cuối cùng có thể nói đó là cách quản lý của người chủ lò Bát
Tràng nói riêng và của các chủ sản xuất tại Việt Nam nói chung: Đó là sự lãng phí
61
trong sử dụng nhân công. Quản lý không bài bản, không có kinh nghiệm, dẫn đến
việc người thợ làm việc không hết công suất lao động. Đó chính là nguyên nhân lớn
khiến chúng ta gặp khó khăn khi tham gia vào thị trường, đặc biệt đó là rào cản
khiến chúng ta bị hạn chế khi gia nhập các tổ chức kinh tế lớn trong khu vực và trên
trường Quốc tế.
Bảng 2.12. Giá thành sản xuất một số sản phẩm của Bát Tràng và Trung Quốc
Tên sản phẩm ĐVT Bát Tràng Trung Quốc
1. Lọ hoa Ngàn đồng/ cặp 45-55 30-40
2. Chậu cây cảnh Ngàn đồng/ cặp 40-50 20-25
3. Tranh gốm Ngàn đồng/ cặp 95-150 60-100
Nguồn tính toán: 6 tháng đầu năm 2012
2.4.4.3. Cạnh tranh về tính khác biệt của sản phẩm
Trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, ngoài việc sử dụng giá là một
công cụ cạnh tranh, các doanh nghiệp còn sử dụng chiến lược đa dạng hóa và tạo ra
sự khác biệt về sản phẩm của mình. Tất cả nhằm mang tới cho khách hàng những sự
lựa chọn hoàn thiện hơn. Chính sự khác biệt đó mang lại cho thương hiệu Bát Tràng
một điểm nhấn riêng, tạo một lợi thế cạnh tranh khác hẳn các làng nghề gốm sứ
khác. Qua khảo sát, đề tài đưa ra sự khác biệt rõ ràng giữa các sản phẩm gốm sứ Bát
Tràng và gốm sứ Trung Quốc.
62
Bảng 2.13. Phân biệt cơ bản giữa gốm Bát Tràng và Trung Quốc
STT
NỘI DUNG
SẢN PHẨM GỐM SỨ BÁT TRÀNG
SẢN PHẨM GỐM SỨ TRUNG QUỐC
Họa tiết trên sản phẩm được dán bằng đề can rồi hấp
1
Họa tiết hoa văn trang trí Gốm sứ Bát Tràng được làm thủ công nên những nét
vẽ uyển chuyển, nét thanh nét đậm, nét to nét nhỏ, do
qua lửa để mực hấp ăn vào men của sản phẩm. Với
làm thủ công nên những nét vẽ này dù rất đẹp nhưng
sản phẩm này các họa tiết, hoa văn rất đồng đều, từ
không đồng đều
chi tiết nhỏ đến lớn.
Màu sắc họa tiết của gốm sứ Bát Tràng thường có ít
Màu sắc đa dạng, người sử dụng thường hay ấn
2
Màu sắc
màu. Màu sắc thường là các màu đơn giản như: màu
tượng bởi điều này, các màu thường là đỏ, vàng, hay
đại thanh, màu xanh non, xanh lá, màu huyết dụ...
xanh thẫm ... Đặc biệt với gốm sứ Giang Tây
Độ trong kém do kỹ thuật lọc đất
Độ trong cao
3
Độ trong của xương đất
Do cấu tạo của xương đất mà gốm sứ Bát Tràng rất
Gốm sứ trung Quốc khi sử dụng rất hay bị sứt miệng
4
Độ bền
của sản phẩm, nhất là với đồ ăn hàng ngày.
bền với va đập, chịu nhiệt tốt, có thể cho vào lò vi
sóng được.
Bát Tràng làm thủ công nên thường dầy hơn
Mỏng hơn
5
Độ dầy
Màu xanh ngọc, xanh rêu, trắng, men rạn, men tinh...
Các màu men
6
Màu men
Nguồn : Nghiên cứu của tác giả
63
Từ bảng thống kê trên cho thấy, mặc dù gốm Bát Tràng với nhiều ưu điểm về
kiểu dáng và màu men cũng như về chất lượng và độ tinh xảo, nhưng vẫn thua gốm
Trung Quốc ở một điểm duy nhất đó là màu sắc không bắt mắt. Xu thế hiện nay của
thị trường vẫn nhằm vào các sản phẩm mang tính thuận tiện, dễ sử dụng, dễ tạo điểm
nhấn. Những yếu tố đó thì gốm Bát Tràng chưa có. Gốm Bát Tràng phải chăng tập
trung quá nhiều vào yếu tố bản sắc truyền thống mà quên đi yếu tố hội nhập thị
trường cho sản phẩm?
2.4.5. Tình hình ô nhiễm môi trường tại làng nghề gốm sứ Bát Tràng
Theo thống kê của UBND Huyện Gia Lâm, toàn xã Bát Tràng có khoảng
70m3 rác thải không chôn lấp/ ngày. Khi làng nghề Bát Tràng vẫn còn sử dụng lò
than để nung đốt sản phẩm, tỉ lệ người bị mắc các bệnh về tai, mũi, họng, bệnh da
liễu, bệnh về mắt và các bệnh về ung thư tăng khá cao, do ô nhiễm khí thải từ bụi
than, ô nhiễm nhiệt. Do chứa khí lưu huỳnh và oxit carbon nên khói từ các lò nung
than rất độc và ảnh hưởng mạnh tới sức khỏe người dân làng nghề.
Chính vì vậy, lò gas được xem như một bước tiến của ngành gốm sứ, giúp đổi
mới lò nung của Bát Tràng. Giảm tiêu hao nhiên liệu, chi phí sản xuất và tiết kiệm
thời gian nung. Năm 2006, Ban quản lý dự án nâng cao hiệu quả sử dụng năng
lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp
cùng UBND xã Bát Tràng và Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng triển khai dự án "Thúc
đẩy ứng dụng lò gas nung gốm tiết kiệm năng lượng" tại làng nghề này.
Ưu điểm của lò gas là đốt 13 tiếng và chờ nguội 13 tiếng là có thể dỡ sản
phẩm, trong khi lò hộp đốt than phải mất tới 3-5 ngày, tùy theo từng loại sản phẩm.
Do điều chỉnh được nhiệt độ trong lò nên không chỉ màu gốm đẹp hơn mà tỷ lệ thu
hồi khi nung gốm bằng gas cũng lên tới trên 90%, trong khi nung bằng than chỉ đạt
dưới 70%. Theo Công ty cổ phần thiết kế và sản xuất gốm sứ Bát Tràng, nhờ ưu
điểm giảm tiêu hao nhiên liệu, giảm chi phí sản xuất 30% và tiết kiệm thời gian
nung, mỗi năm 41 dự án lò nung gas đã giúp tiết kiệm được khoảng 4.000 - 5.000
tấn dầu và giảm khoảng 20.000 tấn khí CO2.
64
Thống kê của UBND xã Bát Tràng cho thấy, hiện vẫn còn khoảng 150 lò than
gây ô nhiễm môi trường đang hoạt động. Năm 2008, đã có 20 lò được chuyển sang
đốt bằng gas, và địa phương chủ trương năm 2009-2010 mỗi năm chuyển 50 lò từ
đốt than sang chạy bằng gas để hoàn thành mục tiêu xóa bỏ lò than.
2.4.6. Vấn đề du lịch làng nghề tại làng Gốm Bát Tràng
Từ tháng 7/2010, Sở Công thương đã kết hợp với Ngành du lịch, xây dựng 4
tour du lịch làng nghề mới đến làng khảm trai Chuôn Ngọ - thêu Thắng Lợi - sơn
mài Hạ Thái- mây tre đan Phú Vinh - lụa Vạn Phúc - gốm sứ Bát Tràng, điêu khắc
tạc tượng Sơn Đồng. Song, hai địa điểm được lựa chọn chủ yếu vẫn là những làng
nghề đã thành công từ lâu là Bát Tràng, Vạn Phúc. Tuy nhiên, dù được đánh giá là
thành công nhưng mức độ chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết, thực tế thì tình hình du lịch
làng nghề tại xã Bát Tràng rất lộn xộn, mạnh ai nấy làm, thiếu tính độc đáo.
Tuyến xe buýt số 47 đi từ đầu cầu Long Biên vào tận chợ Gốm làng cổ Bát
Tràng. Địa điểm đầu làng Bát Tràng, đập vào mắt du khách đó là hàng chồng đồ
gớm sứ hư hỏng, vứt la liệt, bùn và đất sét khô, ướt đầy rẫy. Vào tới chợ Gốm, lập
tức có một nhóm các chị, các cô đầu đội nón, bịt mặt kín mít tới mời chào khách du
lịch tới thăm quan làng nghề. Rải rác cả làng có vài chục điểm “vuốt - nặn - vẽ” cho
du khách thử sức làm gốm trên bàn xoay với giá vào cửa 30 ngàn đồng. Đi kèm với
đó là tô tượng, vẽ lọ, vẽ bát – giá thành tuỳ thuộc vào vật phẩm mà khách lựa chọn.
Giá cả phải chăng nhưng hình thức thì không mới mẻ. Ngoài ra, khách du lịch cũng
có thể ngồi xe ngựa dạo quanh làng với giá 30 ngàn đồng, hoặc “nhờ” một cô bác
nào đó “tình cờ” đứng ở cổng chợ gốm dẫn đi tham quan tại xưởng với giá 5 ngàn
đồng. Cách làm dịch vụ của người dân nơi đây rất thời vụ - rất nông dân: chỉ thấy
được cái lợi trước mắt, chưa thấy được bước tiến dài lâu. Hầu hét các dịch vụ du
lịch kèm theo ở Bát Tràng thiếu phong phú. Hạ tầng du lịch đi kèm còn yếu, nên
khách chỉ đến và đi trong một buổi, cùng lắm là một ngày. Rất ít nhà hàng và gần
như không có nhà nghỉ, khách sạn; quanh khu vực cổng chợ, các hàng ăn uống bình
65
dân thậm chí là thấp cấp, không có sự quản lí về chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm lại mọc lên như nấm, tranh nhau chèo kéo du khách.
Bát Tràng chưa có được một đội ngũ làm du lịch chuyên nghiệp: có cả kiến
thức chuyên môn và văn hoá du lịch. Có người vài phút trước vừa tận tình chỉ bảo
khách cách vuốt, nặn; lúc sau đã to tiếng cãi vã với đồng nghiệp ngay trước mặt
khách chỉ vì vài chục nghìn phí vào cửa bị thâm hụt. Người vào mua hàng được
chào đón đon đả, còn người vào xin chụp ảnh, tham quan tại cửa hàng thì đa số đều
bị từ chối. Trái ngược thay khi ở một showroom khác, người trông hàng rất tận tình
cung cấp thông tin về tình hình xuất khẩu của gia đình mình nhưng chị lại mù tịt về
cách phân biệt hàng Bát Tràng và hàng Trung Quốc.
Năm 2010, Sở Công thương Hà Nội đã tổ chức tập huấn cho gần 200 hộ dân
thuộc các làng nghề Vân Hà, Hạ Thái, Bát Tràng, Chuôn Ngọ, Phú Vinh. Nhưng
chừng đó vẫn như muối bỏ biển. Khả năng làm du lịch của cộng đồng là một trong
những yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến thu hút du khách. Những sản phẩm sẽ không
thể thu hút du khách, nếu không có người giúp du khách hiểu được cái hay, cái đẹp
của sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Bát Tràng vẫn đang thiếu tính bứt phá và tầm vóc để trở thành một làng nghề
thực sự chuyên nghiệp, vững vàng trước sự thay đổi chóng mặt và khắc nghiệt của
nền kinh tế thời hội nhập.
2.4.7. Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài (EFE)
Ma trận này cho phép các nhà chiến lược tóm tắt và đánh giá các thông tin
mang tính vĩ mô như: Kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân khẩu, địa lý, chính trị, luật
pháp, công nghệ cạnh tranh… Có 5 bước trong việc phát triển một ma trận đánh giá
các yếu tố bên ngoài như:
Liệt kê các yêu tố bên ngoài chủ yếu.
Phân loại tầm quan trọng từ 0.0 (không quan trọng) đến 1.0 (rất quan trọng cho
mỗi yếu tố. Tổng số các mức phân loại được ấn định cho các nhân tố phải bằng 1.0.
66
Phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố quyết định sự thành công để cho thấy cách
thức mà các chiến lược hiện tại phản ứng với các yếu tố này. Trong đó 4 là phản
ứng tốt và 1 là phản ứng ít.
Nhân tầm quan trọng của mỗi biến số với loại của nó để xác định số điểm về
tầm quan trọng.
Cộng tổng số điểm về tầm quan trọng: điểm trung bình là 2,5 điểm, nếu doanh
nghiệp có tổng số điểm lớn hơn 2,5 tức là chiến lược hiện tại của DN phản ứng tốt
với các cơ hội và mối đe dọa hiện tại và ngược lại.
Đề tài thực hiện phân tích ma trận các yếu tố bên ngoài của làng nghề Bát
Tràng theo bảng 2.14 (Xem bảng 2.14 trang 74). Kết quả của ma trận đánh
giá các yếu tố bên ngoài (ma trận EFE) đưa ra tổng số điểm quan trọng mà làng
nghề Bát Tràng đạt được là 2,45 điểm. Điều đó cho thấy phản ứng của Bát Tràng
đối với sự thay đổi của môi trường bên ngoài còn yếu, chưa linh hoạt. Thậm chí có
thể nói Bát Tràng chưa có một chiến lược đối phó với những thay đổi khách quan
môi trường vĩ mô nói chung.
2.4.8. Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE)
Cách xây dựng ma trận các yếu tố bên trong cũng giống như cách xây dựng của
ma trận các yếu tố bên ngoài. Chỉ khác là nội dung để cập đến các yếu tố của nội bộ
doanh nghiệp. Ma trận đánh giá các yếu tố bên trong của Bát Tràng theo bảng 2.15
(trang 75). Tổng số điểm quan trọng của ma trận đánh giá các yếu tố bên trong của
làng nghề gốm sứ Bát Tràng là 2,89 điểm, cao hơn số điểm trung bình là 2,5 điểm.
Điều này cho thấy, làng gốm sứ Bát Tràng đang khai thác tốt các điểm mạnh của
mình để khắc phục những điểm yếu. Trong tương lai, nếu Bát Tràng tiếp tục khắc
phục những điểm yếu như: điểm yếu về đa dạng mẫu mã sản phẩm, điểm yếu về
marketing … thì tổng số điểm quan trọng của ma trận này sẽ cao hơn rất nhiều. Đó
cũng là lý do mà nhiều nhà hoạch định chiến lược cho mô hình làng nghề truyền
thống có cùng nhận định là làng nghề gốm sứ Bát Tràng chưa phát triển tương xứng
với tiềm năng của mình.
67
Bảng 2.14. Đánh giá các yếu tố bên ngoài
Các yếu tố chủ yếu bên ngoài Phân loại
Mức độ quan trọng 0,12 Số điểm quan trọng 0,24 2
0,15 0,3 2
O1 Kinh tế dần tăng trưởng ổn định (thu nhập của dân cư tăng), tăng về nhu cầu tiêu dùng O2 Được sự khuyến khích đầu tư – phát triển, ưu đãi thuế cho các mô hình làng nghề của Nhà nước
0,15 0,3 2
O3 Thuận lợi trong hợp tác kinh tế với khu vực nước ngoài do nền Kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ
0,15 0,45 3
O4 Thị trường tài chính – tiền tệ đang dần ổn định và phát triển, sẽ giúp các hộ sản xuất dễ tiếp cận được nguồn vốn
0,08 0,16 2 T1 Nguồn nguyên – nhiên liệu có nguy cơ cạn kiệt theo thời gian
0,15 0,6 4
T2 Sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ (Đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc tại thị trường nội địa)
0,07 0,14 2
T3 Sự bất ổn của kinh tế thế giới, cụ thể như cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, ảnh hưởng tới việc xuất khẩu
0.07 0.14 2
T4 Các điều chỉnh của Chính Phủ trong việc cải thiện ô nhiễm môi trường, sẽ có những tác động nhất định tới yếu tố sản xuất
0,06 0,12 2 T5 Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ
Tổng cộng 1 2,45
68
Bảng 2.15. Đánh giá các yếu tố bên trong
Các yếu tố chủ yếu bên trong Phân loại
Số điểm quan trọng
Mức độ quan trọng 0,08 2 0,16 S1
0,08 2 0,16 S2
0,08 3 0,24 S3
0,07 2 0,14 S4
0,07 3 0,21 S5
0,10 2 0,20 S6
Bát Tràng là một làng nghề có truyền thống lâu đời với các kỹ thuật độc đáo. Nguồn nguyên liệu có thành phần đặc biệt, cho phép tạo ra những sản phẩm gốm có màu sắc độc đáo. Nguồn nhân lực dồi dào, người thợ làm gốm có tay nghề khéo léo, nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Đặc biệt đội ngũ nghệ nhân sẽ là trụ cột của làng. Sản phẩm mang tính chất cổ truyền, độc đáo, giàu bản sắc dân tộc. Sản phẩm mỹ nghệ của Bát Tràng đã có mặt ở các thành phố lớn trong nước và đã có thị trường xuất khẩu. Bát Tràng có vị trí tốt, hệ thống giao thông thuận lợi, cách trung tâm Hà Nội chỉ 10km. Vốn tích lũy lớn
0,05 0,08 2 4 0,10 0,32
S7 W1 Công nghệ sản xuất, đun đốt dù hoàn thiện nhưng chi phí cao, không chủ động được khâu sản xuất.
0,10 4 0,40
0,08 3 0,24
W2 Bao bì đóng gói sản phẩm không chuyên nghiệp, sản phẩm không in tên thương hiệu. W3 Chất lượng sản phẩm thủ công nên không đồng đều, mẫu mã thiếu sự đa dạng và sáng tạo.
0,15 4 0,60 W4
0,06 2 0,12
Ít hoạt động Marketing hỗ trợ bán hàng. W5 Trình độ quản lý của các chủ hộ sản xuất còn yếu, thiếu chuyên môn, thiếu sự hiểu biết về nhu cầu thị trường và pháp luật quốc tế
Tổng cộng 1 2,89
69
2.4.9. Phương pháp phân tích SWOT
Phương pháp SWOT là phương pháp dùng để đánh giá các điểm Mạnh
(Strengths), điểm Yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Rủi ro (Threats).
SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định
hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh. Phân tích SWOT, sẽ đưa ra
cái nhìn tổng quan cho về điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố thời cơ và nguy cơ. Từ
đó, dễ dàng đưa ra các chiến lược phát triển thích hợp với thực trạng làng nghề Bát
Tràng.
Bảng 2.16. Phân tích SWOT
Làng nghề Những điểm mạnh - Những điểm yếu -
Strengths Weaknesses
1, Bát Tràng là một làng 1, Công nghệ sản xuất,
nghề có truyền thống lâu đun đốt dù hoàn thiện
đời với các kỹ thuật độc nhưng chi phí cao, không
Môi trường sản xuất đáo. chủ động được khâu sản
kinh doanh 2, Nguồn nguyên liệu có xuất.
thành phần đặc biệt, cho 2, Bao bì đóng gói sản
phép tạo ra những sản phẩm không chuyên
phẩm gốm có màu sắc nghiệp, sản phẩm không
độc đáo. in tên thương hiệu.
3, Nguồn nhân lực dồi 3, Chất lượng sản phẩm
dào, người thợ làm gốm thủ công nên không đồng
có tay nghề khéo léo, đều, mẫu mã thiếu sự đa
nhiều kinh nghiệm trong dạng và sáng tạo. Sản
sản xuất. Đặc biệt đội ngũ phẩm không đáp ứng
nghệ nhân sẽ là trụ cột được thị hiếu của thị
của làng. trường.
4, Sản phẩm mang tính 4, Ít hoạt động Marketing
70
chất cổ truyền, độc đáo, hỗ trợ bán hàng.
giàu bản sắc dân tộc. 5, Trình độ quản lý của
5, Bát Tràng có vị trí tốt, các chủ hộ sản xuất còn
hệ thống giao thông thuận yếu, thiếu chuyên môn,
lợi, cách trung tâm Hà thiếu sự hiểu biết về nhu
Nội chỉ 10km. cầu thị trường và pháp
6, Vốn tích lũy lớn luật quốc tế.
6, Mức độ nắm bắt nhu
cầu thị trường còn rất
thấp.
7, Phản ứng chậm trước
sự thay đổi của thị trường
Các cơ hội - Kết hợp - SO Kết hợp - WO
Opportunities
1, Kinh tế dần tăng 1, Đẩy mạnh sản xuất sản 1, Đổi mới công nghệ sản
trưởng ổn định (thu phẩm chất lượng cao. xuất, để có được sản
nhập của dân cư tăng), 2, Hội nhập về phía trước. phẩm chất lượng tốt, đồng
tăng về nhu cầu tiêu 3, Giảm thiểu các chi phí đều.
dùng. hoạt động. 2, Thường xuyên thay đổi
2, Được sự khuyến 4, Mở rộng quy mô sản mẫu mã, có bao bì đóng
khích đầu tư – phát xuất gốm sứ mỹ nghệ. gói, có tên thương hiệu.
triển, ưu đãi thuế cho 3, Xây dựng đội ngũ quản
các mô hình làng nghề lý có kiến thức và kinh
của Nhà nước. nghiệm, có các tổ tư vấn
3, Thuận lợi trong hợp luật cho người sản xuất và
tác kinh tế với khu vực xuất khẩu.
nước ngoài do nền
Kinh tế Việt Nam đang
hội nhập mạnh mẽ.
71
4, Thị trường tài chính
– tiền tệ đang dần ổn
định và phát triển, sẽ
giúp các hộ sản xuất dễ
tiếp cận được nguồn
vốn
Thách thức - Threats Kết hợp - ST Kết hợp - WT
1, Nguồn nguyên – 1, Có những chính sách 1, Nâng cao chất lượng
nhiên liệu có nguy cơ khuyến khích thu hút đầu sản phẩm, thay đổi đa
cạn kiệt theo thời gian tư vào làng nghề. dạng kiểu dáng mẫu mã.
2, Sự cạnh tranh gay 2, Có công nghề sản xuất 2, Chú trọng tới việc đổi
gắt của các đối thủ phù hợp, tiết kiệm hợp lý mới công nghệ sản xuất,
(Đặc biệt là hàng hóa trong sản xuất để giảm giá công tác nghiên cứu thị
Trung Quốc tại thị trường, phát triển sản thành sản phẩm.
trường nội địa) phẩm mới.
3, Sự bất ổn của kinh tế
thế giới, cụ thể như
cuộc khủng hoảng kinh
tế 2008, ảnh hưởng tới
việc xuất khẩu.
4, Các điều chỉnh của
Chính Phủ trong việc
cải thiện ô nhiễm môi
trường, sẽ có những tác
động nhất định tới yếu
tố sản xuất
5, Hệ thống pháp luật
chưa đồng bộ
72
Dựa vào bảng đánh giá trên, cơ bản cho chúng ta nhìn thấy được lợi thế mà
gốm sứ Bát Tràng có được như: Các lợi thế dựa trên tính truyền thống và độc đáo
của sản phẩm, dựa trên nguồn nhân công dồi dào có tay nghề, dựa trên nguồn
nguyên liệu rẻ và dễ dàng mua được. Hơn nữa, gốm sứ Bát Tràng còn được sự quan
tâm, đầu tư của nhà nước để phát triển và gìn giữ mô hình truyền thống
Tuy nhiên, điểm yếu rất lớn của Gốm sứ Bát Tràng đó là sự thâm nhập vào
một thị trường với nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Các sản phẩm của Bát Tràng bị cạnh
tranh gay gắt bởi các sản phẩm chất liệu thay thế với hình dáng mẫu mã và màu sắc
nổi trội hơn hẳn. Sản phẩm lại không có tên thương hiệu, xuất xứ, làm giảm đi sự
công nhận về truyền thống gốm Bát Tràng. Chính vì vậy có thể khẳng định Bát
Tràng thiếu hẳn chiến lược định hướng thị trường. Một số hộ gia đình đã nhìn ra
vấn đề này, tuy số lượng chưa nhiều (tập trung một số hộ sản xuất của các nghệ
nhân nổi tiếng) nhưng bản thân họ đã khởi xướng những xu hướng cải tiến về mẫu
mã và màu sắc, mang lại được sự đột phá cho sản phẩm gốm Bát Tràng. Cũng chính
những hộ sản xuất đó, bước đầu đã biết tìm kiếm đơn hàng trên Internet, mở ra một
hướng đi thương mại điện tử cho làng nghề còn đậm chất dân dã này.
Kết luận chương 2:
Trong chương 2, tác giả đã tập trung giới thiệu khái quát về thực trạng của
làng nghề truyền thống Việt Nam nói chung, và đặc biệt là của làng nghề gốm sứ
Bát Tràng.
Tác giả đã trình bày kết quả nghiên cứu về một số hộ sản xuất kinh doanh
trong làng nghề Bát Tràng để nắm được thực trạng sản xuất, những thuận lợi và
những khó khăn trong ngắn và dài hạn. Khó khăn tập trung nhiều vào vấn đề tiếp thị
sản phẩm, mẫu mã sản phẩm cho đến tên thương hiệu Bát Tràng trên thị trường.
Rộng hơn nữa là vấn đề vốn đầu tư cho các hộ sản xuất kinh doanh tại Bát Tràng.
Tác giả đi sâu phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của quá trình phát triển
cũng như quá trình sản xuất kinh doanh của làng nghề gốm sứ Bát Tràng, từ đó có
những giải pháp phù hợp.
73
Từ những vấn đề đã nêu trên, trong chương 3 tác giả đề xuất một số chiến lược
và giải pháp sản xuất kinh doanh cũng như những kiến nghị nhằm phát triển phát
triển mạnh và bền vững trong xu thế hội nhập kinh doanh quốc tế cho sản phẩm
Gốm sứ Bát Tràng. Qua đó, nhân rộng chiến lược cho các làng nghề truyền thống
khác trên cả nước.
74
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH
DOANH CHO LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG
TẦM NHÌN 2020
Nghề và làng nghề Bát Tràng đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của địa
phương nói riêng và của toàn Thành phố Hà Nội nói chung theo hướng CNH –
HĐH nông nghiệp nông thôn, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng. Theo kế
hoạch đưa ra TP Hà Nội chủ trương phát triển nghề, làng nghề gốm sứ với tốc độ
tăng trưởng đạt 2.320 tỷ đồng vào năm 2015 và đạt 6.190 tỷ đồng vào năm 2020.
Tăng thu nhập bình quân đầu người đạt 25 - 30 triệu đồng/năm vào năm 2015 và đạt
35 - 40 triệu đồng vào năm 2020 [23].
Sau khi tìm hiểu và đánh giá cụ thể mô hình làng nghề điển hình của Bát
Tràng tác giả thấy có rất nhiều vấn đề cần xử lý. Bởi Bát Tràng mặc dù được đưa
lên một tầm vóc rất lớn – làng nghề điển hình của cả nước, nhưng thực sự, từ kết
quả kinh doanh, lẫn các mô hình phát triển đều không đạt hiệu quả như mong muốn.
Đa phần các hộ sản xuất đều dừng ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, không có sự liên kết;
mẫu mã chậm cải tiến; công nghệ chậm đổi mới, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp; ô
nhiễm môi trường nặng nề… sức cạnh tranh quá yếu từ giá cả, kiểu dáng, đến tiêu
thụ và thị trường. Qua khảo sát thực tế và qua tìm hiểu những ý kiến của các chuyên
gia phân tích, đề tài xin tập trung đưa ra những những giải pháp mang tính chủ chốt,
hướng tới sự phát triển bền vững cho làng nghề. Các giải pháp được phân tích dựa
trên nội dung phát triển kinh tế làng nghề nhưng vẫn giữ những nét văn hóa truyền
thống chính. Xin được trình bày như sau:
3.1. Xác định tầm nhìn và mục tiêu dài hạn cho làng nghề truyền
thống gốm sứ Bát Tràng từ nay đến năm 2020.
Muốn phát triển làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng bắt buộc phải có
những chiến lược và giải pháp đi kèm, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và Quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện
Gia Lâm cũng như trên địa bàn thủ đô Hà Nội; đồng thời, phải gắn với công tác bảo
75
tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong các sản phẩm và phát triển du lịch; phát
triển làng nghề phải gắn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; gắn với
bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển hiệu quả, bền vững. Phát triển
ngành nghề gắn với thu hút lao động, giải quyết việc làm, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Tầm nhìn cho làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng đến năm 2020 cần
nhấn mạnh bởi yếu tố: phát triển hiệu quả và bền vững. Trong đó, các hoạt
động cụ thể gắn liền với các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ năm 2013 đến 2015: là nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính tiện
dụng của sản phẩm gốm sứ Bát Tràng; xây dựng thương hiệu; hệ thống các cơ sở
sản xuất, dịch vụ; du lịch làng nghề và phát triển làng nghề bền vững với môi
trường.
Giai đoạn 2016 – 2020: sẽ gia tăng giá trị sản phẩm của làng nghề, giá trị sản
lượng từ năm 2016 gấp 1,5 lần so với năm 2012; tăng thu nhập cho người lao động
gấp 2 lần so với năm 2012; mở rộng hệ thống cơ sở sản xuất; dịch vụ du lịch thông
qua việc phát triển làng nghề truyền thống và mở rộng các làng nghề mới; tập trung
đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường tiềm năm; hoàn thiện sản phẩm du lịch làng
nghề, xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề.
3.2. Xây dựng và lựa chọn chiến lược và giải pháp đi kèm
Căn cứ vào chức năng, mục tiêu của làng nghề gốm sứ Bát Tràng để lựa chọn
những chiến lược phù hợp trong tổng số những chiến lược được hình thành, sau đó
đưa ra những giải pháp cụ thể. Chiến lược và giải pháp lựa chọn nhất định phải đáp
ứng được hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội mà làng nghề yêu cầu. Có thể coi việc
lựa chọn chiến lược đúng đắn là “kim chỉ nam” cho những hoạt động sau này. Ở
chương 2, tác giả đã thực hiện giai đoạn đánh giá và tổng hợp các yếu tố từ môi
trường bên trong và bên ngoài để hình thành cách ma trận như: Ma trận đánh giá
các yếu tố bên ngoài (EFE), ma trận đánh giá các yếu tố bên trong (IFE). Qua đó
giúp ta thấy được việc cần xây dựng những chiến lược như thế nào để giúp Bát
76
Tràng phát huy được tiềm năng của mình đồng thời thích ứng được với các tác động
từ bên ngoài.
Tổng hợp một số chiến lược chính đã được đề xuất trong ma trận SWOT, tác
giả lựa chọn chiến lược tập trung đặc biệt vào những điểm còn yếu kém mà Bát
Tràng đang gặp phải như: Các vấn đề liên quan tới sản phẩm, vấn đề quảng bá
thương hiệu Bát Tràng, một số vấn đề liên kết phát triển, vấn đề du lịch làng nghề
và đặc biệt là vấn đề nguồn nhân lực.
Nhóm chiến lược SO:
1, Đẩy mạnh sản xuất sản phẩm chất lượng cao.
2, Hội nhập về phía trước.
3, Giảm thiểu các chi phí hoạt động.
4, Mở rộng quy mô sản xuất gốm sứ mỹ nghệ.
Nhóm chiến lược ST:
1, Có những chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào làng nghề.
2, Có công nghề sản xuất phù hợp, tiết kiệm hợp lý trong sản xuất để giảm giá thành
sản phẩm.
Nhóm chiến lược WO:
1, Đổi mới công nghệ sản xuất, để có được sản phẩm chất lượng tốt, đồng đều.
2, Thường xuyên thay đổi mẫu mã, có bao bì đóng gói, có tên thương hiệu.
3, Xây dựng đội ngũ quản lý có kiến thức và kinh nghiệm, có các tổ tư vấn luật cho
người sản xuất và xuất khẩu.
Nhóm chiến lược WT:
1, Nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi đa dạng kiểu dáng mẫu mã.
2, Chú trọng tới việc đổi mới công nghệ sản xuất, công tác nghiên cứu thị trường,
phát triển sản phẩm mới.
77
Việc lựa chọn chiến lược phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đầu tiên phải kể đến
là mục tiêu mà làng nghề Bát Tràng muốn hướng tới. Mỗi một mục tiêu có một
chiến lược khác nhau. Ngoài ra phải tính đến các yếu tố tác động từ nội bộ làng
nghề, hoặc các yếu tố vĩ mô từ môi trường kinh tế - chính trị của cả nước.
Với làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng mục tiêu dài hạn mà luận văn
đề xuất là “phát triển hiệu quả và bền vững”. Do vậy, các chiến lược đều bám sát
theo nội dung này, và các chiến lược đều cố gắng cải thiện những cái chưa hoàn
thiện của làng nghề Bát Tràng, để tập trung phát triển làng nghề Bát Tràng phù hợp
trong môi trường hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay.
3.3. Các giải pháp cụ thể:
Thông qua những đề xuất về các chiến lược đã nêu trên, tác giả tập trung đưa
ra các giải pháp cụ thể như sau:
3.3.1. Giải pháp Marketing tổng hợp
Giải pháp Marketing tổng hợp tập trung vào bốn yếu tố chính bao gồm: Sản
phẩm; Giá thành cạnh tranh; Kênh phân phối (Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản
phẩm) và Các hình thức chiêu thị (Giải pháp xây dựng và định vị thương hiệu trên
thị trường)
3.3.1.1. Sản phẩm
Trong kinh doanh, không có ngành nghề nào vững bền mãi mãi. Bất cứ doanh
nghiệp nào rồi cũng sẽ phải đối mặt với sự thay đổi của thị trường và có khả năng
biến mất hoàn toàn trên thị trường. Đó là một cuộc sàng lọc khắc nghiệt. Không có
ngoại lệ nếu các hộ sản xuất kinh doanh tại Bát Tràng không biết cách chuẩn bị cho
những thay đổi đó. Hành động phổ biến nhất để đối mặt với sự thay đổi, đó là đa
dạng hóa sản phẩm thông qua công việc nghiên cứu và phát triển. Bát Tràng với
diện mạo ngày hôm nay, thiếu hẳn công việc đó.
Để cải thiện vấn đề trên, chính những người chủ hộ sản xuất phải có được sự
nhạy bén với thị trường. Các mẫu mã hiện nay của Bát Tràng như lọ hoa, chậu cây
78
cảnh, chén bát, ly tách với mẫu mã đa phần nhái lại mẫu của Trung Quốc, không có
bản sắc. Hơn nữa màu sắc sản phẩm không được tươi. Nhu cầu thị trường hiện nay
đang dần chuyển sang những dòng sản phẩm mang tính nghệ thuật, bởi các sản
phẩm gia dụng đang dần bị các sản phẩm chất liệu khác thay thế (thủy tinh,
nhựa…). Chính vì vậy, sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng nên tập trung xây dựng và phát
triển các sản phẩm chủ lực, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp tiêu biểu
Dòng sản phẩm gia dụng: Những sản phẩm này có giá trị thấp, sử dụng hàng
ngày. Mẫu mã nên thay đổi liên tục, phù hợp với nhu cầu. Ví dụ: Bát đĩa ăn cơm, xu
hướng hiện nay tập trung vào những sản phẩm nhẹ, màu sắc hoa văn đơn giản; nếu
vậy gốm sứ Bát Tràng phải đưa ra những mẫu bát đĩa với lượng đất sét mỏng hơn,
độ giòn ít, mẫu hoa văn trang trí hiện đại, không lòe loẹt. Nếu để đồng bộ sản phẩm,
các hộ sản xuất tại Bát Tràng có thể sử dụng phương pháp in hoa văn đại chà giúp
giảm chi phí sản xuất, dẫn đến giá thành sản phẩm cạnh tranh hơn.
Dòng sản phẩm mỹ thuật: Do thu nhập dân cư tăng theo thời gian, nên xu thế
sử dụng các sản phẩm gốm sứ trang trí, đặc biệt là gốm phong thủy đang là phong
trào. Các sản phẩm trong phân loại này thường có độ thẩm mỹ cao, hình dáng độc
đáo, với họa tiết mang tính chất cầu kỳ, buộc phải trang trí hoa văn thủ công, rất tỷ
mẩn. Do vậy, rất cần sự hợp tác liên kết với các Nghệ nhân, các họa sỹ để tạo ra
những sản phẩm có mẫu mã riêng cho làng Bát Tràng, thậm chí với từng hộ sản
xuất. Để làm được vấn đề này, ngoài tài năng, rất cần lòng nhiệt huyết yêu nghề của
những người thợ gốm.
Các cải tiến mẫu mã cũng cần hướng tới nhu cầu của thị trường xuất khẩu, vì
tương lai, đó sẽ là các thị trường có sở thích dùng những sản phẩm mang đậm chất
Phương Đông. Có thể mời các chuyên gia của những nước nhập khẩu chính để tư
vấn thiết kế, cải tiến mẫu mã sản phẩm.
Một vấn đề nữa đó là bao bì sản phẩm. Do sản phẩm của Bát Tràng không có
bao bì, nên đề xuất của người viết thiên về các chất liệu bao bì mang tính đặc trưng,
phù hợp với chất liệu truyền thống của gốm Bát Tràng. Nên thống nhất sử dụng bị
79
cói, có in logo để bọc sản phẩm. Bởi nó vừa dễ sản xuất, vừa tránh sự va đập, sứt vỡ
sản phẩm. Đối với các dòng sản phẩm cao cấp, cần có hộp bao ngoài thể hiện tính
sang trọng và đẳng cấp
Thống nhất ghi tên chủ hộ sản xuất và thương hiệu Bát Tràng trên sản phẩm.
Ví dụ như: Cơ sở gốm sứ Mạnh Lan, địa chỉ 164 - Xóm 5 - Thôn Bát Tràng - Xã
Bát Tràng - Gia Lâm - Hà Nội, có thể tạo logo: Mạnh Lan – Bát Tràng. Như vậy,
vừa nhận mạnh thương hiệu, lại tạo hiệu quả quảng bá.
Quá trình tạo ra mẫu mã sản phẩm, các hộ sản xuất phải quan tâm tới yếu tố
thời vụ. Ví dụ: ngày Hiến chương các nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11, có thể sản
xuất 100 lọ hoa, mang tính độc đáo và sang trọng để bán. Đó sẽ là những điểm nhấn
giúp Gốm Bát Tràng bắt kịp các nhu cầu thị trường
3.3.1.2. Giá thành cạnh tranh
Giá thành là một yếu tố quyết định lượng cầu của người tiêu dùng. Giá thành
càng cao thì lượng cầu càng giảm. Do vậy, yếu tố giảm giá thành sản phẩm là yếu tố
không thể thiếu của sản phẩm Bát Tràng. Tuy nhiên, do đầu vào nguyên nhiên liệu
tăng làm đội giá sản phẩm lên cao (Đặc biệt là giá khí đốt – gas). Tiền công lao
động tăng theo hướng lạm phát. Nguồn vốn không ổn định, lãi suất cao. Và đó cũng
là bài toán không dự trù được của các hộ sản xuất. Đề tài xin đưa ra hướng giải
quyết khác, hiệu quả hơn, mang tính bền vững hơn: Đó là hướng sản xuất tiết kiệm
và thay đổi cách quản lý.
Muốn sản xuất tiết kiệm và hiệu quả, bắt buộc phải giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng.
Ngoài việc cải thiện công nghệ sản xuất thì chính những người chủ sản xuất có thể
kiểm soát được vấn đề này thông qua quy trình, giám sát nhiệt độ lò nung, chồng lò
một cách hiệu quả, nâng cao tay nghề nhân công.
Thay đổi cách quản lý, chính là thay đổi về tư duy trong điều hành công việc
và tác động trực tiếp vào người lao động. Người lao động không sử dụng hiệu quả
thời gian làm việc, vừa làm vừa nói chuyện lại vừa làm công việc khác, không
80
những mất thời gian mà khiến sản phẩm hỏng nhiều. Cần chuyên môn hóa các giai
đoạn về tăng tính hiệu quả.
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, đó là hai vấn đề
lớn khiến giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam không cạnh tranh
được với sản phẩm của các quốc gia khác. Đó là một trong những hạn chế của các
hộ sản xuất tại làng Bát Tràng nói riêng và của chúng ta nói chung.
3.3.1.3. Giải pháp cho thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ của sản phẩm gốm Bát Tràng vẫn mang tính tự phát, mạnh
hộ nào có mối quan hệ tốt thì ký được đơn đặt hàng và sản xuất hoặc thu gom cho
đủ hàng rồi giao dịch với đối tác. Điều đó dẫn tới sự pha tạp và mất uy tín thương
hiệu Gốm sứ Bát Tràng. Để giải quyết hiệu quả vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đề tài đề xuất giải pháp phát triển cho vấn đề này như sau:
Bộ Công thương và Trung tâm xúc tiến thương mại nên đưa ra mô hình, “chú
trọng phát triển sản phẩm trong thị trường nội địa trước khi xuất khẩu”. Bởi lẽ, đây
là một sản phẩm mang đầy đủ bản sắc văn hóa dân tộc của Việt Nam nhưng người
Việt lại không biết, không quan tâm và không sử dụng, thì việc xuất khẩu đi các
nước trên thế giới không mang tính thuyết phục. Để các sản phẩm làng nghề gốm sứ
Bát Tràng nói riêng và của Việt Nam nói chung tiêu thụ được ở thị trường thế giới
thì trước tiên phải để thị trường trong nước tiêu thụ và biết rõ sản phẩm. Nhưng
muốn tiêu thụ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, cũng như cạnh tranh với
các sản phẩm thay thế khác, cần một chiến lược đồng bộ về mẫu mã sản phẩm, giá
thành và tính năng sử dụng, có như vậy, gốm Bát Tràng mới tạo ra những lợi thế về
sản phẩm.
Nếu phát triển và xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài, Bát Tràng cần hỗ
trợ một số doanh nghiệp làng nghề trở thành doanh nghiệp đủ mạnh, thực hiện vai
trò mở rộng thị trường, là đầu mối thu gom sản phẩm xuất khẩu. Lợi thế đầu tiên
mang đến cho các hộ sản xuất gốm đó là sự chuyên môn hóa trong công tác tiêu thụ
sản phẩm. Thứ hai, giữ đúng và hiệu quả thương hiệu Gốm sứ Bát Tràng của Việt
81
Nam. Bởi khi thu gom hàng hóa, công ty xuất khẩu có chức năng loại sản phẩm
hỏng, đóng mác và bao bì theo tiêu chuẩn. Tuy nhiên, muốn thực hiện theo giải
pháp này, nhất thiết phải minh bạch các thông tin về đơn hàng cũng như tránh độc
quyền xuất khẩu. Đối với các nghệ nhân trong làng, những sản phẩm của họ sản
xuất ra mang tính độc đáo và nghệ thuật cao, cần có các kế hoạch giới thiệu và
quảng bá sản phẩm theo từng chủ đề nhất định. Vấn đề vẫn là sự nhất quán của các
giải pháp.
3.3.1.4. Giải pháp xây dựng và định vị thương hiệu trên thị
trường
Xây dựng và định vị thương hiệu trên thị trường phải được coi như một giải
pháp lớn để phát triển làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Muốn thực hiện được điều này,
rất cần sự tham gia hỗ trợ của ban ngành các cấp liên quan. Lâu nay, các làng nghề
có tâm lý không cần quảng bá thương hiệu bởi làng đã có lịch sử hàng trăm năm
nên đương nhiên là sẽ có nhiều người biết đến sản phẩm của làng nghề mình. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy cách làm này không thực sự hiệu quả. Điều đó dẫn đến tình
trạng nhiều làng nghề khi phát hiện sản phẩm của mình bị làm nhái, làm giả nhưng
không biết kiện ai.
Việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là phải đăng ký bảo vệ thương hiệu với
Cục Sở hữu trí tuệ cho sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng. Thương hiệu Gốm sứ Bát
Tràng mặc dù có tiếng trong thị trường nội địa nhưng khi xuất khẩu sang nước
ngoài, có một số cơ sở đã đóng tên thương hiệu khác để bán. Điều đó không những
thiệt hại về kinh tế mà còn mất đi giá trị sản phẩm truyền thống Việt Nam.
Tiếp đến, Sở Công thương Hà Nội cần phối hợp với Sở Du lịch tổ chức nhiều
cuộc hội thảo, và hỗ trợ kinh phí các hộ sản xuất tham gia các hội chợ triển lãm
hàng thủ công mỹ nghệ. Có những chương trình quảng bá kết hợp với giao lưu văn
hoá – lịch sử trên các phương tiện truyền thông, internet.
Một vấn đề hiện nay, đó là các sản phẩm Bát Tràng đang bị thua ngay trên sân
nhà, cụ thể hàng Trung Quốc được bày bán chà trộn với hàng Bát Tràng ngay trong
82
chợ Bát Tràng. Chính vì thế, việc đầu tiên cần có động thái quyết liệt nhằm loại bỏ
hàng Trung Quốc trong chợ Bát Tràng. Cần thành lập Ban quản lý chợ gốm. Thực
tế hiện nay, khu chợ Bát Tràng do Công ty cổ phần gốm sứ Bát Tràng (Hapro Bát
Tràng) cho thuê song vấn đề quản lý lại chưa được làm rõ. Nếu chợ do những người
làm gốm làm chủ, phải quy hoạch và quy định rõ ràng, khu vực nào bán hàng Trung
Quốc và khu vực nào là hàng Bát Tràng. Hoặc chính trong chính một gian hàng,
chủ hàng cần ghi rõ đâu là hàng Trung Quốc. Khi đó, quyền lựa chọn sản phẩm
được trao cho người tiêu dùng và thương hiệu Bát Tràng được bảo vệ.
3.3.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay, đang có tình trạng lao động làng nghề không thiết tha gắn bó với
nghề, thanh niên làng nghề không muốn theo nghề của cha ông, còn nghệ nhân thì
nhiều cụ tuổi đã cao, thiếu điều kiện để sáng tác và truyền nghề, v.v... Vì vậy rất
cần coi trọng việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, hình thành nhiều lớp nghệ nhân
trong làng nghề, qua đó tạo lực lượng kế thừa để có thể lưu giữ được những tinh
hoa truyền thống làng nghề.
Phải coi đầu tư cho đào tạo nghề là chìa khóa cho phát triển làng nghề truyền
thống nói chung. Đại hội lần thứ XI của Đảng (01-2011) cũng đã xác định: “Phát
triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá
chiến lược…”, chính vì vậy, đề tài tập trung vào các nội dung sau:
Việc đầu tiên, cần phải củng cố và phát triển hệ thống các trường dạy nghề, đa
dạng hóa các mô hình dạy nghề và phải thực hiện tốt việc “học đi đôi với hành”.
Thực hiện việc “xã hội hóa”, không chỉ dựa vào hệ thống trường lớp của các cơ sở
công lập, không phân biệt với các loại hình đào tạo của tư nhân.
Tại các làng nghề hiện nay đang thừa lao động phổ thông nhưng lại thiếu trầm
trọng lao động có tay nghề cao. Do vậy cần phải tôn vinh nghệ nhân, đưa những
kinh nghiệm của nghệ nhân vào giảng dạy thực tế như: có chính sách khuyến khích
nghệ nhân kèm cặp và truyền nghề cho lao động trẻ thông qua các lớp đào tạo, câu
lạc bộ, trao đổi kinh nghiệm. Theo Thông tư liên tịch Bộ NN&PTNT– Bộ Lao động
83
TBXH – Bộ Văn hóa – Thông tin số 41/2002 ngày 30 tháng 5 năm 2002 hướng dẫn
tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu và một số chính sách đối với nghệ nhân.
Trong mỗi làng nghề, cần chú trọng phát huy khả năng của các nghệ nhân nhiều
tuổi, giúp cho họ những điều kiện để tiếp tục sáng tạo, đồng thời hình thành nhiều
lớp nghệ nhân, qua đó tạo lực lượng kế thừa, lưu giữ những tinh hoa truyền thống
làng nghề.
Một vấn đề cần thiết phải thực hiện đó là việc: Nâng cao trình độ quản lý
doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân của làng nghề truyền thống. Doanh
nhân là chủ doanh nghiệp các phố nghề, làng nghề xuất thân từ nhiều nguồn, trình
độ rất khác nhau. Hiện nay, trong tổng số người có trình độ từ đại học trở lên trong
cả nước, chỉ có khoảng 10% là doanh nhân. Trình độ, kỹ năng quản lý doanh nghiệp
còn rất thấp cần bồi dưỡng. Vì vậy, cần chú trọng nâng cao trình độ quản lý doanh
nghiệp cho các chủ doanh nghiệp trong làng nghề, từng bước hình thành một đội
ngũ doanh nhân đủ sức đáp ứng yêu cầu mới trên thị trường trong nước và vươn ra
thị trường thế giới, khắc phục tình trạng quản lý thủ công, luộm thuộm. Những
doanh nhân của làng nghề cần được bồi dưỡng cả về kiến thức kinh tế thị trường, về
pháp luật trong kinh doanh. Đồng thời, coi trọng việc bồi dưỡng các kỹ năng quản
lý doanh nghiệp (về tài chính, lao động, nhân sự, tiếp thị , v.v..) Cần tổ chức thông
tin cho doanh nghiệp (thông tin về văn bản quy phạm pháp luật, về thị trường, giá
cả, về khoa học công nghệ v.v… Cần xây dựng, bồi dưỡng và nâng cao văn hóa
doanh nghiệp: văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân của các
doanh nhân.
Thế kỷ 21 là thế kỷ của chất xám, các ngành nghề trên thị trường đều tập trung
vào nguồn nhân lực. Vì vậy, làng nghề Bát Tràng rất cần thiết có những kế hoạch
phát triển nhân sự đồng bộ và hiệu quả. Đó là bước đi vững chắc cho làng nghề
trong hiện tại và tương lai.
84
3.3.3. Du lịch làng nghề
Có thể thấy, du lịch làng nghề là một loại hình văn hóa du lịch chất lượng cao.
Du khách có thể trực tiếp xem các nghệ nhân thao tác hoặc tham gia làm thử. Tuy
nhiên còn nhiều bất cập. Mô hình Du lịch làng nghề Bát Tràng đang phát triển
nhưng hiệu quả không cao. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Văn hóa Thông tin và
Sở Du lịch, cần đào tạo để mỗi một người dân trong làng là một hướng dẫn viên du
lịch. Đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo không gian du lịch mang tính truyền thống.
Nên xây dựng một “Bảo tàng gốm sứ”, nơi được trưng bày các sản phẩm gốm
sứ từ cổ cho tới hiện đại, các sản phẩm với kiểu dáng mẫu mã đặc sắc. Ví dụ các tác
phẩm chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội như tác phẩm
“Sách gốm”, với tựa đề “Thăng Long ngàn năm văn hiến”, trên cuốn sách trích dẫn
bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng của Lý Thường Kiệt “Nam Quốc Sơn Hà” của
nghệ nhân Nguyễn Văn Hòa, hoặc tác phẩm “Tiến quân về thành Thăng Long” của
tác giả Hà Mạnh Tiến,
Xây dựng chương trình du lịch kết hợp với tìm hiểu văn hóa lịch sử của làng
nghề. Chương trình có những giới thiệu về Bát Tràng để khách du lịch thấy được
lịch sử lâu đời, đáng trân trọng của Gốm sứ Bát Tràng như giới thiệu: Đình làng Bát
Tràng, Văn chỉ Bát Tràng, Chùa Kim Trúc… Đa dạng hóa chương trình bằng
việc kết hợp tour du lịch với các lễ hội.
Du lịch là một ngành kinh tế không khói, mang lại nhiều lợi nhuận không chỉ
cho người dân mà còn đóng góp ngân sách địa phương. Cần nhân rộng mô hình
“Tập làm thợ gốm”, một cách bài bản tại mỗi hộ gia đình sản xuất. Ngoài việc vận
động người dân có kê hoạch thu hút khách du lịch bền vững, thì địa phương cũng
cần vận động để các hộ gia đình tự sang tạo những cách du lịch độc đáo riêng. Hơn
nữa, cần tuyên truyền để người dân có một thái độ luôn thân mật và cởi mở với mọi
du khách.
85
3.3.4. Một số giải pháp khác
Hội nhập về phía trước
Giải pháp này, nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài, liên kết với các cơ sở sản
xuất Gốm sứ tại xã Bát Tràng để tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm và hệ thống
phân phối của các đối tác. Để triển khai địa phương, các doanh nghiệp liên quan,
các hiệp hội cần đứng ra, tổ chức các hội chợ, triển lãm thường xuyên, có kết nối
với nhiều thị trường trên thế giới. Các thị trường này có thể là những thị trường đã
và đang nhập hàng gốm sứ Bát Tràng hoặc những thị trường tiềm năng mà Bát
Tràng có kế hoạch hướng tới trong tương lai.
Trong những hội nghị kinh tế quốc tế, ví dụ như hội nghị APEC, nhà nước
hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm Gốm sứ Bát Tràng làm quà tặng cho các doanh
nhân, các nhà báo, đó là một phương pháp hiệu quả để quảng bá sản phẩm và tìm
kiếm đối tác. Hoặc trong các tour quảng bá du lịch Việt Nam tại nước ngoài, các cơ
quan hữu quan cũng có thể sử dụng các sản phẩm truyền thống gốm sứ Bát Tràng
để làm quà lưu niệm, vừa giúp cho làng nghề có cách thức quảng bá liên kết ít tốn
kém, lại vừa thể hiện được bản sắc văn hóa Việt Nam với bạn bè thế giới.
Hội nhập theo chiều ngang
Hội nhập theo chiều ngang có vai trò kết nối các hộ sản xuất trong làng nghề
Bát Tràng thành một thể thống nhất. Bởi thực tế cho thấy, các hộ sản xuất kinh
doanh tại làng nghề Bát Tràng đa phần là tự khép kín, ít có mối liên hệ với các hộ
sản xuất kinh doanh khác. Nên khi có các tác động từ môi trường bên ngoài, các hộ
thường phản ứng chậm, không chủ động liên kết với nhau để ứng phó và giải quyết
vấn đề.
Trọng tâm của chiến lược này là củng cố vai trò và chức năng của Hiệp hội
làng nghề, tiến tới xây dựng mô hình tập đoàn làng nghề, để khắc phục tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành hoặc có sự tương trợ lẫn nhau trước
sức ép hàng hóa nhập khẩu.
86
Bước đầu xây dựng các cam kết chung về khai thác nguyên liệu để tránh việc
khai thác bừa bãi, nguy cơ cạn kiệt nguồn nguyên liệu trong tương lai. Tiếp đến cần
có một cơ chế khung giá sản phẩm, tiến tới chia sẽ đơn hàng theo thế mạnh mỗi cơ
sở.
3.4. Một số kiến nghị và đề xuất đối với các hộ sản xuất kinh doanh và địa
phương làng nghề Bát Tràng.
3.4.1. Kiến nghị đối với các hộ sản xuất kinh doanh tại làng nghề
Bát Tràng
Một là: Các cơ sở sản xuất trong làng nghề phải giữ được tính truyền thống,
những nét độc đáo trong kĩ thuật, thể hiện ở tính nghệ thuật trên từng sản phẩm của
mình. Tạo sự khác biệt đối với những sản phẩm của làng nghề khác và với các sản
phẩm ngoại lai, và làm cho khách hàng nhận biết được sản phẩm làng nghề Bát
Tràng.
Hai là: Cần chú trọng tới mẫu mã, hiện đại hóa trong các khâu sản xuất, tăng
tính bền của sản phẩm, tăng tính hữu dụng của sản phẩm. Nâng cao nhận thức đối
với việc đào tạo và tìm người kế cận để duy trì và phát triển truyền thống làng nghề.
Ba là: Các cơ sản xuất đảm bảo được mục tiêu: Tăng sản lượng sản phẩm,
phát triển sản phẩm mới... phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường tiêu dùng.
3.4.2. Kiến nghị đối với chính quyền địa phương làng Bát Tràng
Thứ nhất: Coi trọng nghề gốm truyền thống là nghề chính của làng, mang lại
vinh dự cho làng.
Thứ hai: Xác định được sản phẩm nào mang tính cạnh tranh cao, có giá trị tốt
thì mở rộng quảng bá, tiếp thị một cách phù hợp.
Thứ ba: Hoàn thiện mô hình làng nghề gốm sứ Bát Tràng thành làng văn hóa
du lịch, tạo điều kiện để người dân có thêm thu nhập từ mô hình du lịch làng nghề.
87
Thứ tư: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, có hiểu biết về làng nghề để thực hiện
các công việc liên quan tới làng nghề.
3.5. Một số kiến nghị và đề xuất đối với các cấp ban ngành địa phương và các
cơ quan vĩ mô cấp nhà nước.
3.5.1.Về vấn đề vốn đầu tư.
Một thực trạng trong nền kinh tế của nước ta hiện nay đó là các biện pháp cho
vay ưu đãi luôn không tập trung đến các đối tượng cần vốn. Năm 2009, chính sách
kích cầu (hỗ trợ cho vay với lãi suất giảm tới 4%) đến với Bát Tràng đúng lúc các
doanh nghiệp ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất. Nhiều lò gốm đứng ngồi đều trông
vào đấy, để trả lương công nhân, giữ chân hoạ sỹ... Thế nhưng, qua vài lần tiếp xúc
với các ngân hàng, nhiều chủ doanh nghiệp vẫn không vay được vốn vì vấn đề thủ
tục giấy tờ hành chính còn quá rườm rà. Trình độ cũng như cách làm việc cứng
nhắc của các bên liên quan gây thiệt hại không nhỏ về tiền bạc và thời gian, đặc biệt
khiến các hộ sản xuất trong làng nghề Bát Tràng mất cơ hội đầu tư kinh doanh.
Vấn đề này, đã rất nhiều lần được Quốc hội cũng như các tổ chức có liên quan
họp và đưa ra các biện pháp giải quyết, nhưng tất cả chỉ như một cuộc thử nghiệm
mà không tiến hành thấu đáo. Bản thân lãnh đạo xã Bát Tràng cũng thừa nhận việc
thiếu vốn trầm trọng của các hộ sản xuất kinh doanh, nhưng không có cách nào tác
động. Bởi muốn được vay vốn, các hộ sản xuất kinh doanh phải đáp ứng được các
yêu cầu như hệ thống tài chính kế toán của mình phải minh bạch, phải có quyền cấp
đất để sản xuất kinh doanh hoặc phải có tài sản thế chấp, có phương án sản xuất,
kinh doanh hiệu quả…
Theo đó, nhất thiết phải cải cách các thủ tục hành chính, tăng vốn tín dụng ưu
đãi, vốn chương trình kích cầu của Nhà nước cho các cơ sở ngành nghề nông thôn
được vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi nhằm đổi mới thiết bị, công nghệ,
sản xuất mặt hàng mới, tăng cường xuất khẩu. Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển
ngành nghề nông thôn và tạo nguồn ngân sách ổn định cho quỹ hoạt động một cách
thường xuyên và có khả năng cung cấp đủ vốn cho các cơ sở ngành nghề nông thôn
88
với các thủ tục cho vay đơn giản. Đây là công cụ chính sách quan trọng để đẩy
mạnh phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề.
Ngoài việc vay vốn từ các Ngân hàng chính sách, hay vốn từ ngân sách Nhà
nước tác giả xin đề xuất một số giải pháp về vốn như sau:
Thu hút vốn trong dân và các thành phần kinh tế khác: Cần có chính sách thu
hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, khuyến khích các thành phần kinh tế khác cùng
tham gia khai thác và phát triển mô hình làng nghề truyền thống, từng bước nâng
dần tỷ lệ vốn góp trong nước. Theo nghiên cứu riêng của các tác giả, Việt Nam có
một lượng lớn kiều bào sinh sống ở một số nước phát triển trên thế giới. Tuy họ lập
nghiệp tại nước ngoài, nhưng họ luôn có ý thức và quan niệm gìn giữ bản sắc văn
hóa dân tộc. Mô hình kêu gọi vốn từ Việt kiều vào mô hình làng nghề truyền thống
sẽ rất khả thi nếu nhà nước biết tập trung khuyến khích vào thành phần này.
Huy động vốn từ nguồn tích lũy GDP cho phát triển làng nghề truyền thống
của TP Hà Nội: Với tỷ lệ tích lũy cho phát triển làng nghề truyền thống khoảng
15%/ năm. Vì thế, chỉ cần đáp ứng khả năng về vốn khoảng 10% cho các mô hình
sản xuất kinh doanh của làng nghề, sẽ bổ sung đáng kể vào quỹ vốn đầu tư.
Nguồn vốn ODA: Đặc điểm của nguồn vốn này là thời hạn cho vay lâu, có thể gia
hạn, lãi suất thấp. Đó là thuận lợi thiết thực giúp cho các hộ trực tiếp sản xuất kinh
doanh tại Bát Tràng. Các nhà tài trợ chính là Nhật, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB), Pháp, Anh hay liên minh Châu Âu (EU), cần có
những biện pháp tận dụng nguồn vốn từ những tổ chức này thông qua sự giúp đỡ từ
phía Chính phủ.
3.5.2. Về vấn đề tổ chức sản xuất.
Theo đánh giá cụ thể của một số nhà nghiên cứu về diện tích sử dụng, về hạ tầng
cơ sở tại các khu quy hoạch thông qua các hoạt động cấp nước, thoát nước, cấp điện, hệ
thống đường đi cũng như các hệ thống xử lý môi trường làng nghề của Việt Nam hiện
nay hầu như chưa được quan tâm. Nhìn chung, hiện trạng quy hoạch các làng nghề nước
ta diễn ra còn manh mún, chưa có kế hoạch cụ thể ở cấp tỉnh, thành phố.
89
Hiện nay, một mô hình quy hoạch khác đang được triển khai là: Chính quyền
địa phương và các hộ sản xuất trong làng nghề cùng xem xét phương án quy hoạch
đưa khu vực sản xuất nghề ra khỏi nơi sinh hoạt của gia đình. Địa phương sẽ quy
hoạch khu đất riêng thuộc địa bàn của xã. Các hộ gia đình sẽ được cho thuê đất
chuyển chuyển xưởng sản xuất ra ngoài. Hạ tầng cơ sở sẽ do địa phương và hộ nghề
cùng góp vốn xây dựng. Tuy nhiên mô hình này mới chỉ được áp dụng trên cơ sở tự
nguyện của các hộ sản xuất.
Vì vậy, cần khẩn trương có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ tầng và
giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt bằng ở các khu, cụm
công nghiệp đã có. Hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho
làng nghề, trợ giúp và giảm nhẹ giá thuê để doanh nghiệp có thể thuê đất với giá
thấp nhất.
3.5.3.Về vấn đề môi trường.
Hiện nay, các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đang gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp tới sức khoẻ người dân và ngày càng trở
thành vấn đề phải giải quyết gấp
Trước hết, phải chú trọng đến các chính sách phát triển bền vững làng nghề.
Sản xuất kinh doanh phải chú ý cải thiện và bảo vệ môi trường, không hy sinh lợi
ích môi trường cho lợi ích kinh tế trước mắt. Xây dựng tiêu chí “Làng nghề
xanh” nhằm xếp loại cho các làng nghề bảo vệ môi trường theo hướng phát triển
bền vững
Đảng và Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng, ban hành và áp dụng văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề, trong đó cần quy định rõ trách
nhiệm của địa phương, các ngành, lĩnh vực hoạt động làng nghề. Phát hiện và xử lý
trường hợp phát sinh các làng nghề gây ô nhiễm môi trường.
Các địa phương cần có kế hoạch, quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo
vệ môi trường. Di rời các cơ sở gây ô nhiễm nặng ra khỏi khu vực dân cư. Quy
hoạch tập trung theo cụm công nghiệp nhỏ cần tránh xa khu dân cư và quy hoạch
90
đồng bộ mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cung cấp
điện, nước, hệ thống thông tin, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn để xử lý
tập trung. Quy hoạch khu vực sản xuất tuỳ thuộc vào đặc thù của các loại hình làng
nghề như sản xuất gốm sứ, dệt nhuộm, tái chế giấy,… Quy hoạch phân tán, sản xuất
ngay tại hộ gia đình kết hợp điều kiện sản xuất với cải thiện vệ sinh môi trường mà
không phải di rời, hạn chế tối đa việc cơi nới, mở rộng đường, xây nhà cao tầng, lưu
giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ truyền nhân văn của làng để có thể kết hợp với du
lịch.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lý nước thải, khí thải, quản lý môi trường
bằng cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế. Đa dạng hoá các nguồn đầu tư và khuyến
khích sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường làng nghề.
Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và phổ biến
lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường trong các quy định của địa phương.
Kết luận chương 3:
Để xác định được tầm nhìn chiến lược cho một doanh nghiệp đã là một vấn đề
khó, xác định tầm nhìn chiến lược cho một làng nghề, điều đó khó khăn hơn rất
nhiều, bởi quá trình phát triển của làng nghề, gắn liền với quá trình phát triển của
lịch sử, của xã hội. Hơn nữa, những sản phẩm làng nghề là những đại diện cho một
nền văn hóa của một đất nước, chính vì vậy, các chiến lược đưa ra nhất thiết phải
giữ được bản sắc văn hóa của làng nghề, biểu hiện trong từng sản phẩm, nhưng vẫn
phải mang tính chất phục vụ nhu cầu của thị trường thì mới có thể phát triển và mở
rộng.
Chính vì những yêu cầu đó, sau khi phân tích và tìm hiểu thực trạng, bao gồm
những ưu, nhược điểm của làng nghề truyền thống Gốm sứ Bát Tràng, tác giả mạnh
dạn đề xuất những chiến lược tổng quan cho làng nghề. Mục đích giúp làng nghề
gốm sứ Bát Tràng có sự ổn định và thống nhất trong chiến lược phát triển sản xuất
kinh doanh. Điều quan trọng cuối cùng đó là sự đồng bộ của các chiến lược, đồng
91
bộ với những hoạch định của các cấp các ban ngành cơ quan hữu quan lien quan.
Có như vậy, làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng mới khởi sắc bền vững.
92
KẾT LUẬN
Phát triển mô hình làng nghề truyền thống, không chỉ góp phần vào việc ổn
định kinh tế xã hội, mà còn duy trì những nét văn hoá của người Việt Nam. Làng
nghề gốm sứ Bát Tràng nhận thức được vai trò và ý nghĩa của việc phát triển đối địa
phương nói riêng và với cả nước nói chung. Bản thân các cấp ban ngành cơ quan
hữu quan đều đã xác định được mục tiêu để giúp làng nghề Bát Tràng khởi sắc
thành một trong những mô hình làng nghề tiêu biểu của đất nước.
Tuy nhiên, để hoàn thành các mục tiêu một cách có hiệu quả không phải là
việc dễ dàng, cũng không phải thực hiện trong một sớm một chiều. Xuất phát từ
thực tế đó, đề tài luận văn hướng vào những vấn đề còn tồn đọng của Bát Tràng,
bao gồm những đóng góp chính như sau:
Một là: Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về sản phẩm gốm, về làng nghề
truyền thống, một số lý luận về chiến lược, xây dựng và lựa chọn chiến lược
Hai là: Phân tích thực trạng phát triển của làng nghề truyền thống gốm sứ Bát
Tràng từ đó đưa ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của Bát Tràng.
Ba là: Xây dựng các chiến lược, kết hợp với định hướng phát triển làng nghề
của TP Hà Nội. Lựa chọn chiến lược phù hợp nhất.
Bốn là: Đề xuất những kiến nghị đối với Trung Ương cũng như địa phương để
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang tồn tại. Tạo cơ sở để các chiến lược được
lựa chọn mang lại được hiệu quả.
Luận văn mang ý nghĩa thiết thực dựa trên những điều tra, nghiên cứu và trăn
trở của tác giả trong thời gian vừa qua. Thông qua đề tài này, tác giả mong muốn
được góp một phần nhỏ bé vào việc gìn giữ và phát triển sản phẩm làng nghề truyền
thống. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu ngắn, do việc di chuyển khó khăn để lấy
các nguồn tài liệu liên quan, do kiến thức và quy mô của đề tài, nên luận văn không
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong Quý Thầy/ Cô thông cảm và sửa
chữa những điểm chưa hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn!
93
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề tổng quát, nhằm định hướng
chiến lược phát triển cho làng nghề Bát Tràng từ nay đến năm 2015, định hướng
2020, nên chưa đi sâu vào các vấn đề mang tính chuyên môn. Chính vì vậy, hướng
mở rộng của đề tài sau này là cần thiết nghiên cứu thêm các vấn đề chuyên sâu đề
mô hình làng gốm Bát Tràng hoàn thiện với vai trò là một làng nghề tiểu thủ công
nghiệp điển hình của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Làng nghề truyền thống là một trong những mô hình kinh tế mang lại nhiều lợi
ích trong việc phát triển xã hội. Do đó, để các làng nghề luôn phát triển bền vững,
rất cần sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng Nhà nước và các ban ngành đoàn thể liên quan.
Bản thân mỗi người dân, hay mỗi người sản xuất cũng cần ý thức được vai trò của
những sản phẩm truyền thống đối với cuộc sống. Hơn ai hết, chính những chiến
lược mang tính đột phá và được thực hiện theo đúng quy trình, sẽ mang lại những
hiệu quả tích cực nhất.
I
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo từ sách:
1. Số liệu thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam,
2. Số liệu thống kê của UBND xã Bát Tràng và của UBND Huyện Gia Lâm – Hà
Nội,
3. Số liệu thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
4. Số liệu thống kê của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ phát triển các Làng
nghề thủ công truyền thống Việt Nam – (HRPC: Handicraft Reseach and Promotion
Center).
5. Bạch Quốc Khang, Bùi Đình Toái, Nguyễn Thị Thu Quế, 2005, Sổ tay hướng
dẫn xây dựng kế hoạch phát triển làng nghề sử dụng phương pháp có sự tham gia
của cộng đồng, NXB Nông nghiệp.
6. Bùi Văn Vượng, 1998, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB Văn
hóa dân tộc.
7. Dương Bá Phượng, 2001, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, NXB Khoa học – Xã hội.
8. Đặng Kim Chi, 2005, Nghiên cứu các giải pháp và chính sách nhằm cải thiện
chất lượng môi trường các làng nghề Việt Nam, NXB Khoa học – Xã hội.
9. Đỗ Quang Dũng, 2004, Phát triển làng nghề trong quá trình CNH – HĐH
nông thôn ở Hà Tây, NXB Khoa học xã hội.
10. Hà Nguyễn, 2010, Làng nghề thủ công Hà Nội, NXB Thông tin và truyền
thông.
11. Mai Thế Hởn, 1998, Phát triển một số làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô, NXB Chính trị Quốc gia.
12. Nguyễn Thị Liên Diệp, 2003, Chiến lược và chính sách kinh doanh, NXB
Thống kê
II
13. Vũ Quốc Tuấn, 2010, Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường
phát triển, NXB Hà Nội.
14. Vũ Quốc Tuấn, 2011, Làng nghề trong công cuộc phát triển đất nước, NXB
Tri Thức.
15. Vũ Từ Trang, 2007, Nghề cổ Đất Việt, NXB Văn hóa Thông tin.
16. Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề, 2010, Định hướng đào tạo nghề cho lực
lượng lao động trong các làng nghề truyền thống, NXB Lao động – Xã hội.
Tài liệu tham khảo từ luận án, luận văn, đề án, hội thảo:
17. Nguyễn Văn Điệp (2008). Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm gốm
của làng nghề Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Luận án Thạc sỹ kinh tế,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
18. Tham luận Hội thảo "Bảo tồn bền vững làng nghề Hà Tây - Thực trạng và giải
pháp", ngày 2/11/2006
Tài liệu báo chí:
19. Bộ công thương, Các giải pháp phát triển làng nghề Việt Nam thời hội nhập,
Tạp chí công nghiệp, 25/12/2008
20. Lê Hải, 2006, Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững, Tạp
chí Du lịch Việt Nam, tr51-52, số 3.
21. Nguyễn Thị Hường, 2005, Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm các làng
nghề Tiểu thủ công nghiệp, Tạp chí Lý luận Chính trị, tr 58 - 63, số 4.
22. Tạp chí di sản văn hóa VN
23. Tạp chí: Tài nguyên và môi trường
Trang thông tin điện tử:
24. Trang thông tin điện tử: Doanh nhân 360o http://www.doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Lanh-dao-360/Lanh- dao/Tam_nhin_doanh_nghiep/
25. Trang thông tin điện tử: tin tức Kinh tế - Tài chính http://www.saga.vn/view.aspx?id=16260
III
26. Trang thông tin điện tử: Gốm sứ Bát Tràng http://gomsubattrang.org/default.asp?tab=news&zone=2&id=29&path=quy-trinh- gom-su
27. Trang thông tin điện tử: Gốm sứ Bát Tràng http://gomsubattrang.org/default.asp?tab=detailnews&zone=2&id=28&tin=41&pat h=lich-su-lang-nghe
28. Trang thông tin điện tử: Báo mới http://www.baomoi.com/Lang-nghe-Ha- Noi-khat-quy-hoach-tong-the/45/5978695.epi
29. Trang thông tin điện tử: Liên minh hợp tác xã Việt Nam http://www.vca.org.vn/Default.aspx?tabid=117&CategoryID=35&News=1928
30. Trang thông tin điện tử: tin tức http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-08-24- se-bi-dong-hoa-neu-phat-trien-du-lich-lang-nghe-thieu-tam-nhin-
31. Thông tin từ website của Sở Công thương
32. Trang thong tin điện tử: Cục báo chí – Bộ văn hóa
http://www.dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=390&c=63
IV
PHỤ LỤC SỐ 1
DANH SÁCH NGHỆ NHÂN ĐƯỢC SỞ VĂN HOÁ & THÔNG TIN HÀ NỘI TRAO TẶNG
STT NGHỆ NHÂN ĐẶC THÙ
Nghệ nhân làng cổ Bát Tràng
1 Nghệ nhân Trần Độ
Phục chế gốm cổ Thăng Long, gốm men nâu đời Trần và sáng chế nhiều bài men đẹp, độc đáo. Đây cũng là nghệ nhân nổi tiếng nhất của làng nghề Bát Tràng, lò gốm của ông đã vinh dự được tiếp nhiều nhà lãnh đạo cấp cao ghé thăm như: Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Nguyên phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa, Tổng bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
2
Nghệ nhân Vương Mạnh Tuấn
Chuyên sâu về lĩnh vực phục chế gốm cổ như: bình gốm men rạn truyền thống, đắp hoa văn nổi, đắp phù điêu theo các tích cổ…
3
Nghệ nhân Tô Thanh Sơn Phục chế men Lam thời Nguyễn, pha chế thành công men rạn thời hiện đại.
4
Nghệ nhân Nguyễn Văn Hưng
Nổi tiếng với tài năng vẽ. Ông cũng là con của nghệ nhân Nguyễn Văn Cổn – Một trong số ít các nghệ nhân của làng gốm Bát Tràng xưa.
5
Nghệ nhân Lê Minh Châu
Chuyên sâu về các loại bình lo hoa các cỡ. Con trai ông, anh Lê Minh Ngọc cho ra đời chiếc độc bình cao nhất Việt Nam (với chiều cao 3,2m đã được ghi vào sách kỷ lục Việt Nam), chiếc độc bình này đã được tham gia trưng bày tại nhiều triển lãm gốm sứ Bát Tràng như: Triển làm gốm sứ Bát Tràng tại Văn Miếu, Vân Hồ, chợ gốm Bát Tràng…
6
Nghệ nhân Vũ Đức Thắng Tôt nghiệp Đại học Mỹ thuật công nghiệp, ông chuyên sâu về cá loại men màu, các sản phẩm của
V
ông đều mang tính mỹ thuật cao
7
Nghệ nhân Nguyễn Lợi và nghệ nhân Phạm Thị Châu
Đây là trường hợp duy nhất ở Bát Tràng mà cả hai vợ chồng đều được phong làm nghệ nhân, cả hai vợ chồng nghệ nhân đều tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội
Nghệ nhân Trần Hợp Nổi tiếng với hai nước men Kết tinh và Huyết dụ 8
9
Nghệ nhân Nguyễn Khang
Chuyên sâu về tranh sứ và và tranh gốm. Khang Oanh là một thương hiệu nổi tiếng trong thị trường tranh gốm sứ ở làng Bát Tràng
Nghệ nhân làng Cao Giang
1
Nghệ nhân Đào Văn Cam
Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Đông Dương xưa, nay là Đại học Mỹ thuật Yết Kiêu, ông chuyên sâu về đồ gốm giả cổ.
Chuyên sâu về men giả đồng 2
Nghệ nhân Nguyễn Ánh Dương
Họa sỹ, giảng viên Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 3
Nghệ nhân Lê Quang Chiến
Nguồn: Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội công bố danh hiệu “Nghệ nhân Hà
Nội”
VI
PHỤ LỤC SỐ 2
NHỮNG SẢN PHẨM ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
GỐM SỨ BÁT TRÀNG
Hình ảnh 1: Sản phẩm tranh trang trí Bát Tràng
Hình ảnh 2: Sản phẩm ấm chén Bát Tràng
VII
Hình ảnh 3: Sản phẩm tượng mỹ thuật Bát Tràng
Hình ảnh 4: Lọ lục bình Bát Tràng
VIII
Hình ảnh 5: Tranh nghệ thuật Bát Tràng
Hình ảnh 6: Bức chiếu thư bằng gốm lớn nhất Việt Nam
IX
PHỤ LỤC SỐ 3
CÁC LOẠI HÌNH LÀNG NGHỀ CHIA THEO
NGÀNH KINH TẾ CỦA CẢ NƯỚC
STT NGÀNH NGHỀ SỐ LƯỢNG
LÀNG NGHỀ
I NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ TIỀU THỦ CÔNG
NGHIỆP
I.1 Nhóm nghề thủ công mỹ nghệ
Gốm sứ 1 35
Chạm bạc, chạm đồng 2 7
Dệt lụa, ươm tơ 3 81
Mây tre, giang, đan, xiên, tăm hương 4 276
Sơn mài 5 9
Sản xuất chiếu cói 6 131
Thêu ren 7 98
Gỗ mỹ nghệ và các sản phẩm từ gỗ (mộc, khảm 8 123
trai...)
Giấy dó và giấy bao gói, vàng mã 9 3
Thừng chão, bao đay, thảm đay, thảm lộc bình 10 41
Làm trống 11 1
Làng nón 12 68
Sững mỹ nghệ 13 3
Sản xuất hương 14 18
Thổi thủy tinh (bóng đèn, lọ hoa, dụng cụ gia đình) 15 1
Đúc đồng, nhôm 16 4
Đục đá mỹ nghệ, chạm khắc đá 17 12
Nghề khác: 18 41
- Trồng hoa, cây cảnh, hoa giấy...
X
- Nghề buôn bán sản phẩm từ làng nghề (vải, sản
phẩm sơn mài, chiếu, đồ đồng...)
I.2 Nhóm nghề tiểu thủ công nghiệp
19 Gia công cơ khí 61
20 Gò, hàn, đồ gia dụng 31
21 Sản xuất giấy bìa, giấy in các loại 3
22 Sản xuất thép xây dựng 1
23 Thuộc da bò, trâu 1
24 Tái chế kim loại 3
25 Tái chế nhựa 1
26 May các loại quần áo, may da... 31
27 Sơ chế bông và chế biến lông vũ 13
28 Sản xuất diêm 7
29 In ảnh (ảnh truyền thần, in sao...) 1
II NGÀNH CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM
30 Chế biến thực phẩm (bún, miến, phở, bánh đa...) 113
31 Nấu rượu 15
32 Chế biến đường (từ mía, thốt nốt...) 27
33 Chế biến hoa quả (nhãn, vải...) 4
34 Làng các loại bánh (đậu xanh, su sê, bánh gai...) 8
35 Giết mổ trâu bò 1
36 Sản xuất muối 10
III NGÀNH NGHỀ NÔNG, LÂM NGHIỆP
III.1 Nhóm nghề chế biến nông sản, thực phẩm
37 Xay xát, sấy (thóc gạo...) 15
38 Nghề chế biến tinh bột, củ quả 10
39 Chế biến rau, củ quả 4
III.2 Nhóm nghề chế biến lâm sản
40 Chế biến thuốc nam, thuốc bắc 8
XI
41 Chế biến chè 12
IV NGÀNH XÂY DỰNG
42 Sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vôi...) 79
43 Sản xuất đá xây dựng (đá mài, đá dùng đổ bê tông...) 3
V NGÀNH THỦY SẢN
44 Chế biến nước mắm 19
45 Chế biến cá khô 4
46 Nuôi trồng, đánh bắt thủy sản (baba, tôm, cá...) 14
TỔNG SỐ 1.451
Nguồn: Liên minh HTX Việt Nam, 05/2008