ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC -----------------------------------

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ SINH THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC -----------------------------------

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ SINH THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích

dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung

thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 24 tháng 04 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai Hương

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám

hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Báo chí - truyền thông và Văn học, Trường Đại

học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy,

giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Nguyễn Đăng

Điệp - người thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người than, bạn bè đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018

Nguyễn Thị Mai Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2

2.1. Về giới thiệu lí thuyết Phê bình sinh thái ............................................................. 2

2.2. Nghiên cứu văn chương từ điểm nhìn phê bình sinh thái ở Việt Nam ................. 6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 10

3.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 10

3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 10

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 101

4.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 10

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 10

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 11

6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................... 11

7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................ 12

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ KHUYNH HƯỚNG

VĂN XUÔI SINH THÁI Ở VIỆT NAM TỪ SAU 1975 .............................. 13

1.1. Khái quát về lí thuyết phê bình sinh thái ........................................................... 13

1.1.1. Định nghĩa phê bình sinh thái ......................................................................... 13

1.1.2. Đặc trưng của phê bình sinh thái ..................................................................... 16

1.2. Sự hình thành và phát triển của khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam từ

sau 1975 ............................................................................................................ 20

1.2.1. Những tiền đề lịch sử văn hóa xã hội .............................................................. 21

1.2.2. Sự hình thành và phát triển khuynh hướng văn xuôi sinh thái ....................... 22

1.3. Vấn đề sinh thái – mối quan tâm của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy

Thiệp ................................................................................................................ 28

1.3.1. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ..................................... 28

1.3.2. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ...................................... 29

CHƯƠNG 2: CÁC BÌNH DIỆN SINH THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP ............................... 35

2.1. Con người – kẻ tận diệt tự nhiên ........................................................................ 35

2.1.1. Tận diệt những loài sinh vật, động vật hoang dã ............................................ 35

2.1.2. Làm biến đổi tự nhiên sau vỏ ngoài cải tạo tự nhiên ...................................... 39

2.2. Phản ứng của tự nhiên trước sự ích kỉ của con người ........................................ 46

2.3. Sự hài hòa giữa con người với tự nhiên ............................................................. 53

2.3.1. Sự ăn năn và sám hối của con người ............................................................... 53

2.3.2. Trở về hài hòa với tự nhiên như một kêu gọi nhân văn .................................. 59

Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN PHÊ BÌNH SINH THÁI

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY

THIỆP .............................................................................................................. 68

3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái ......................................................................... 68

3.2. Tình huống truyện mang tinh thần sinh thái ...................................................... 72

3.3. Cốt truyện và luận đề sinh thái ........................................................................... 79

3.4. Hệ thống biểu tượng đô thị thể hiện cảm quan sinh thái ................................... 87

3.4.1. Đô thị như là sự đối nghịch với tự nhiên ........................................................ 87

3.4.2. Biểu tượng về sự tinh khôi, khoáng đạt, trong lành của tự nhiên ................... 97

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 103

MỤC LỤC THAM KHẢO ................................................................................... 106

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Khởi phát ở phương Tây từ những năm 70 của thế kỷ XX, phê bình

sinh thái đang dần trở thành một khuynh hướng gây tiếng vang trong nghiên

cứu văn chương. Tiếp cận văn chương từ góc nhìn sinh thái trên thực tế đã góp

phần quan trọng vào việc khơi mở những chân trời mới, bổ sung vào các

khoảng trống trong nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, với nhiều lí do khác nhau,

phê bình sinh thái hiện chưa có một tiếng nói ảnh hưởng thực sự ở Việt Nam

mặc dù trong những năm gần đây, có một khuynh hướng văn chương sinh thái

đang dần được hình thành. Trong bối cảnh đó, việc vận dụng lí thuyết của phê

bình sinh thái vào việc giải thích các hiện tượng văn xuôi Việt Nam đương đại

là một việc làm có ý nghĩa lí luận - thực tiễn cần thiết. Một mặt điều này giúp

người nghiên cứu tiếp cận với một phương pháp nghiên cứu phê bình mới mẻ,

năng hoạt, mang ý nghĩa nhân văn; một mặt khác, cũng góp phần giúp bạn đọc

giải thích sâu hơn khuynh hướng phát triển và các đặc trưng thẩm mỹ phong

phú của văn xuôi đương đại.

1.2. Trong văn học Việt Nam đương đại, ở những mức độ khác nhau, vấn

đề thời sự này đã được các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,

Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Ngọc Tư....đề cập đến. Đặc biệt, trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp, tinh thần sinh thái khiến

“người mở đường tinh anh và tài năng nhất” ấy nhanh chóng thâu nhận và kịp

thời phản ánh những vấn đề nóng hổi của đời sống. Bằng tài năng của mình

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã đóng góp nhiều khía cạnh mới

cho truyện ngắn Việt Nam từ cách chọn đề tài, cách dựng truyện, cách xây

dựng nhân vật, lối hành văn....thường đề cập đến các vấn đề sinh thái, về mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên.

1.3. Vì những lí do trên chúng tôi chọn nghiên cứu “Chủ đề sinh thái

trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp” làm đề tài

2

luận văn tốt nghiệp của mình. Bằng việc khảo sát cụ thể, chi tiết các tác phẩm

chúng tôi hy vọng có thêm những phát hiện về những nét độc đáo, sáng tạo

mới mẻ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp trên cơ sở

lí thuyết phê bình sinh thái.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Về giới thiệu lí thuyết Phê bình sinh thái

Về lí thuyết phê bình sinh thái đã có một số công trình nghiên cứu từ các

bài viết (báo, tạp chí) đến những tiểu luận, sách giới thiệu, nghiên cứu lí luận

phê bình...Những tài liệu này phần nào đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt,

mặc dù số lượng ít ỏi nhưng đã cung cấp những hiểu biết chung nhất về cách

tiếp cận và đường hướng của phê bình sinh thái.

Trước hết cần kể đến Ecocriticism – bài giảng của Karen Thornber tại Viện

Văn học, nhân chuyến trao đổi học thuật giữa Viện Havard Yenching với các

nhà nghiên cứu Việt Nam, tháng 3-2001. Đây có thể coi là một trong những tài

liệu đầu tiên có ý nghĩa dẫn nhập về phê bình sinh thái được dịch sang tiếng

Việt trong sự nỗ lực định hình và chính thống hóa nhánh nghiên cứu văn học

theo một định hướng mới: lí thuyết phê bình sinh thái. Bài viết của Karen

Thornber khởi đầu bằng một tổng quan ngắn về bản chất, ý nghĩa và tiến trình

nghiên cứu văn chương – môi trường, cho thấy tính cấp thiết cũng như khái

quát một cách cơ bản nhất sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái.

Trước một cuộc khủng hoảng toàn cầu tác giả khẳng định: “văn chương có ảnh

hưởng quan trọng đến sự hiểu biết về biến đổi môi trường trong quá trình đô

thị hóa và công nghiệp hóa; đồng thời, ảnh hưởng đến những công trình đi về

sau về triết học môi trường, chính trị, thể loại, nơi chốn, khu vực và quốc gia”

[91]. Theo đó, nếu như “ở thời kỳ đầu”, phê bình sinh thái chỉ “tập trung vào

những biểu đạt văn chương về thế giới tự nhiên”, thì đến “thời kỳ thứ hai” lại

“hướng đến những trải nghiệm cá thể nhấn mạnh đặc biệt vấn đề công bằng

môi trường”. Tác giả chỉ ra rằng hệ thống vấn đề ấy khiến Phê bình sinh thái

3

không chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu các nền văn hóa và văn học Âu – Mỹ mà

còn phải hướng đến các nền văn học khác như châu Phi, châu Á và Mỹ Latin.

Tóm lại, có thể nói, những giới thuyết của Karen Thornber đang thực hiện “một

trong những hướng đi hứa hẹn nhất của phê bình sinh thái”, đó là “đa dạng hóa

mối quan tâm phê bình môi trường, mở rộng tới phạm vi nền văn học ngoài

phương Tây”. Như chính nhận định của tác giả, bài luận cho thấy nguyện vọng

“hợp nhất những nhận thức luận khác nhau, dù có thể bấp bênh và tạm thời

nhưng tối cần thiết cho một mối quan hệ thay đổi giữa con người và môi trường

trong một thế giới ngày càng trở nên toàn cầu hóa” [91].

Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (20120 được Đỗ Văn Hiểu

dịch và tổng hợp từ hai cuốn Phê bình sinh thái Âu Mỹ (Nxb Học Lân, 2008)

và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn gốc, in trong Tuyển tập văn luận văn

học sinh thái Trung Quốc và thế giới (Nxb Đại học Công thương Triết Giang,

2010), bản tiếng Trung, cũng là một tài liệu có ý nghĩa mang đến một hình dung

khái quát về tư tưởng nền tảng, các khái niệm chìa khóa cũng như những

khuynh hướng chính của lí thuyết phê bình sinh thái. Theo nghĩa rộng nhất, phê

bình sinh thái là “Phê bình toàn bộ quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên”, “thông

qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên

cứu tư tưởng, văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người đã ảnh hưởng

như thế nào đến thái độ và hành vi nhân loại đối với tự nhiên đã dẫn đến tình

trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái” [55]. Dẫn nhập mang đến

một cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành phê bình sinh thái bằng cách điểm

lại những công trình tiêu biểu nhất theo thời gian. Cho đến thời điểm hiện tại,

phê bình sinh thái đang là trào lưu có sức lan rộng và ảnh hưởng trên toàn thế

giới.

Bài viết Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính

cách tân (2012) của Đỗ Văn Hiểu có thể được coi như là bài viết mang tính

đánh giá khái quát những điều mới mang tính đột phá đã khiến phê bình sinh

4

thái trở thành một “bước ngoặt” trong nghiên cứu văn học, khẳng định vị trí

riêng của nó so với lí thuyết văn học xuất hiện trước đó. Người viết, trước hết,

đặt phê bình sinh thái vào một bối cảnh ra đời khác biệt, gắn với những đòi hỏi

cấp bách của thời đại mới: “trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày

một xấu đi”. Ra đời trong tâm thế này, phê bình sinh thái mang đến một cuộc

cách tân về tư tưởng nòng cốt: từ “nhân loại trung tâm luận” sang “sinh thái

trung tâm luận”; hướng đến một xứ mệnh mới. Văn học giờ đây, vừa thuộc về

văn hóa, vừa “nhìn nhận lại” văn hóa nhân loại. Theo đó, “nhà văn, nhà phê

bình phải thông qua cải tạo văn học, cải tạo quan niệm văn học để hạn chế mắc

lỗi với tự nhiên và thậm chí chuộc tội với tự nhiên” [50]. Sứ mệnh mới tất yếu

đòi hỏi một nguyên tắc mĩ học riêng, những đối tượng và phạm vi nghiên cứu

riêng.

Bản dịch Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen

Thornber, in trong cuốn East Asia Ecocriticisms. A Critical Reader

(Literautures, Cultures and the Environment) (Hải Ngọc dịch, 2003) cũng xuất

phát từ nỗ lực giới thiệu một “giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường

nghiêm trọng hiện nay” thông qua việc “phân tích các diễn ngôn”, đặc biệt là

trong bối cảnh xã hội và văn chương Đông Á [92]. Karen Thornber, trước hết,

khẳng định “việc con người bị ảnh hưởng như thế nào bởi môi trường xung

quanh mình và cả việc con người đã biến đổi môi trường ở mọi nơi và như thế

nào” đã là một mối quan tâm lớn của các văn bản văn chương truyền miệng

cũng như các văn bản viết trên toàn thế giới từ hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên,

phải đến những năm 1990, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường

vật chất mới chính thức trở thành một trào lưu chính thống trong nghiên cứu

văn học. Karen Thornber không chỉ đưa ra những dấu mốc đáng chú ý xác định

sự sự ra đời của phê bình sinh thái, mà còn chỉ ra bước ngoặt quan trọng của

hướng phê bình này, chuyển từ sự quan điểm sinh học trung tâm luận sang sang

những vấn đề công bằng/bất công môi trường và các vấn đề xã hội liên đới. Bàn

5

về văn học châu Á, Karen Thornber lật lại những ảo tưởng cố hữu về người

Đông Á như là có sự gắn bó hài hòa với thế giới tự nhiên và văn chương Đông

Á như sự tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên. Với bà, văn học châu Á không nằm ngoài

mạng lưới chủ đề và khái niệm mang tính toàn cầu như nghèo đói, bệnh tật,

tình trạng nô lệ, chiến tranh và sự tàn phá môi trường. Nói cách khác, vì môi

trường là một mối quan tâm liên – văn hóa, Karen Thornber đề cao “tinh thần

chủ nghĩa thế giới sinh thái” và “ý thức hành tinh” trong nghiên cứu văn học.

Một trong những định hướng phê bình quan trọng mà bà đề xuất là sự mơ hồ

sinh thái (ecoambigiuty) hay một thái độ nước đôi đối với tự nhiên trong diễn

ngôn văn chương. Có thể nói, những gợi dẫn của Karen Thornber đã “nêu bật

sự cấp thiết của một nhận thức tốt hơn về sự phức tạp bao trùm” mối quan hệ

của con người và văn học với cái tự nhiên phi nhân vốn tồn tại trong mọi nền

văn hóa.

Thêm một tài liệu có ý nghĩa gợi mở nữa là bài viết Phê bình sinh thái –

nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy. Ở đây tác giả

chủ yếu tập trung vào việc chỉ ra tính giải cấu trúc mạnh mẽ của phê bình sinh

thái; được thể hiện rõ nét qua các đặc điểm: lệnh tâm, tản quyền, cái chết chủ

thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại...Bắt đầu từ sự hoài nghi và phản đối thuyết

“nhân loại trung tâm luận”, các nhà lí luận khiến “con người không còn được

độc quyền trong mọi việc mà đã bị tản quyền”; đồng thời tiến hành “phản chủ

thể”, “phi tôi”, “giải tôi”...[12,tr. 26].

Cuối cùng có thể kể đến một số tư liệu lí thuyết được viết hay dịch thuật đã

bắt đầu chạm đến phê bình sinh thái trong một ý nghĩa trào lưu lí thuyết mới, thu

hút sự quan tâm của giới nghiên cứu như: Chuyển hướng văn hóa trong nghiên

cứu văn học Trung Quốc của Trần Đình Sử (2011); Những nét tươi mới trong phê

bình văn học của Nguyễn Duy Bình (2011); Hướng phát triển và những vấn đề

của lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XXI của Diêm Gia, Đỗ Văn Hiểu

dịch (2012); Thi pháp sinh thái của Frederick Turne, Nguyễn Tiến Văn dịch

6

(2012); Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryl

Glofelty, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch (2014) .......

2.2. Nghiên cứu văn chương từ điểm nhìn phê bình sinh thái ở Việt Nam

Ở Việt Nam, khuynh hướng nghiên cứu văn chương từ lí thuyết phê bình

sinh thái hiện nay còn mới mẻ và hạn chế. Mặc dù số lượng tác phẩm văn học

sinh thái của nước ta còn rất ít nhưng vấn đề sinh thái với muôn hình muôn vạn

trạng cũng đã phần nào ý thức được vấn đề sinh thái trong văn học.

Trong chuyên luận Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

trong khi bàn về ý nghĩa tư tưởng rút ra từ hệ thống hình tượng “ám ảnh” trong

thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã đề cập đến mối

quan hệ giữa mối lưu tâm đến tự nhiên trong văn học, cụ thể, ở trường hợp này

là trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã bước đầu chạm tới lối phê

bình về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được thể hiện trong văn học:

Một nhân vật trong Người thợ xẻ nói: “Vô sự với tạo hóa, trung thực đến đáy,

dù sống với bùn, chẳng sợ không xứng là người”. Không phải ngẫu nhiên mà

Nguyễn Huy Thiệp mô tả những tay thợ săn, những là những người chuyên

“gây sự” với thiên nhiên, là những kẻ độc ác và đều bị trừng phạt thích đáng

(Con thú lớn, Sói trả thù). Và nhà văn đã viết truyện Muối của rừng như một

tuyên ngôn độc đáo của mình: “Cuộc đi săn khỉ của ông Diểu được chuẩn bị

rất chu đáo đã kết thúc một cách thảm hại: súng mất, quần áo giày dép mất,

con mồi săn được cũng chẳng còn. Nhưng tác giả lại tả ông ta đi về như một

kẻ chiến thắng, tuy cởi truồng nồng nỗng. Ông đã được thiên nhiên dạy cho bài

học làm người, tâm hồn giải tỏa cảm thấy vô cùng bình thản...” [68, tr. 31].

Tóm lại, phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh phần nào có ý nghĩa chống lại một

lối mòn tư duy một thời coi nhẹ và bỏ qua thiên nhiên/tự nhiên trong nghiên

cứu văn học, hướng người đọc đến một ý thức mới về giá trị môi trường sống.

Cần phải kể thêm một người viết phê bình thực sự nhạy cảm với vấn đề

sinh thái trong quan hệ với văn học, đó là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

7

Trong lời Tựa viết cho cuốn tiểu thuyết Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên

năm 1995, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trực tiếp coi vấn đề sinh thái và sự khai

thác bóc lột tự nhiên của văn hóa nhân loại như một đề tài cần hướng đến trong

văn học: “Những con người đô thị hầu như không thèm biết rằng đến năm bảy

chục phần trăm cái sống hàng ngày của chúng ta là chiến lợi phẩm cướp giật

từ sinh mệnh của Rừng: nhà cửa, đồ gỗ, củi bếp, giấy, hương trầm thờ cúng,

ngà voi cho các biệt thự, áo lông thú cho giai nhân, và vàng cho mọi người....

Tất cả được mang về từ một đầu nguồn bí ẩn mà người ta thường gọi một cách

trịch thượng là của sơn lâm vô tận” [42, tr. 5]. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường,

Trần Duy Phương đã làm được một điều “chưa từng xảy ra trong văn học của

chúng ta viết về Rừng”: “Rừng như chính bản thân nó” [86, tr. 8]. Như vậy,

nhà phê bình Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ đặt vấn đề cách thể hiện

“không gian hoang dã trong văn học Việt Nam mà còn cho chúng ta thấy được

một cái nhìn mới về không gian ấy, ít lãng mạn nhưng cũng ít tính chinh phục

hơn”.

Luận án Phóng sự Việt Nam trong môi trường sinh thái văn hóa thời kỳ

đổi mới (2008) của Trịnh Thị Bích Liên cũng đã đặt vấn đề về việc tìm hiểu

mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và văn hóa trong các văn bản văn học

và phi văn học thuộc cả thể loại phóng sự văn học và phóng sự xã hội.

Đỗ Thị Hòa, trong luận án tiến sĩ Ngữ văn với đề tài Thế giới động vật

trong ca dao cổ truyền người Việt (2010) cũng hướng đến xem xét văn học qua

“mối quan hệ hữu cơ giữa các bình diện: môi trường tự nhiên – con người –

giá trị văn hóa”. Tác giả luận văn đã dành nguyên một chương để tìm hiểu về

thế giới động vật trong ca dao, cách ứng xử của người Việt với môi trường tự

nhiên và xã hội. Điểm đáng chú ý nhất trong mối quan hệ giữa người Việt với

môi trường tự nhiên, theo tác giả luận án, đó là “tính linh hoạt, dung hòa và

thiết thực” [56, tr. 75]. Tuy nhiên, tác giả luận án chủ yếu phân tích sự “mã hóa

văn hóa” thế giới vật chất trong văn học. Các động vật được nói đến ở đây chỉ

8

được nhìn qua biểu tượng, tượng trưng, thường bỏ qua ý nghĩa như một thực

thể thuộc môi trường tự nhiên.

Sau khi lí thuyết sinh thái chính thức được giới thuyết, việc tìm hiểu “cái

tự nhiên” và phân tích mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phi nhân trong

văn học đã dần trở thành một hướng phê bình chính thống thu hút được những

quan tâm từ nhiều phía người đọc. Đó là bài viết của Nhã Thuyên: Khí quyển

thơ sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (2012), xuất

phát từ những gợi dẫn của Karen Thorber, tác giả đã đề xuất việc tiếp cận thơ

Mai Văn Phấn từ góc độ phê bình sinh thái có ý nghĩa như “một cách tra vấn

mối quan hệ giữa thơ ca và tự nhiên tưởng như yên ổn” [101].

Trong bài viết Mùa xuân, sinh thái và văn chương (2013), từ gợi dẫn

truyện ngắn Muối của rừng, Huỳnh Như Phương cho rằng: “Văn học tham gia

vào việc bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ chính con người và những giá trị

thuộc về con người. Chủ nghĩa nhân văn mới không còn xem con người là thước

đo của mọi vật”, “thậm chí là chúa tể của muôn loài”, mà là một thành phần

cộng sinh của thiên nhiên, nên phải biết coi trọng từng đơn vị sinh thái: một

cây thủy tùng, một giống loài sinh vật biển, một cánh rừng nguyên sinh....Sự

suy thoái hệ sinh thái của một quốc gia không chỉ quy trách nhiệm cho những

người quản lí đất nước mà cho sự thờ ỡ của từng công dân, trong đó có ửng xử

của nhà văn” [87].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp với công trình nghiên cứu về Thơ mới

từ góc nhìn phê bình sinh thái học văn hóa (2014). Tác giả đã vận dụng lí thuyết

sinh thái để phân tích biểu tượng “vườn” trong Thơ mới Việt Nam. Tuy nhiên,

cũng như tác giả đã nói, đó là “những vén mở bước đầu”.

Ngoài ra, có thể kể đến các bài tham luận có liên quan đến phê bình sinh

thái Hội thảo khoa học Phát triển Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và

hội nhập quốc tế do Viện Văn học tổ chức (tháng 5/2014):

Tham luận Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn

từ Sinh thái học tìm về Tam giáo của Trần Thị Hải Yến, sau khi lí giải vì sao có

9

nhu cầu tìm về tam giáo của sinh thái học, và sinh thái học đã tìm thấy gì ở Phật

giáo, Nho giáo, Đạo giáo, tham luận khẳng định có thể khảo sát văn học trung

đại Việt Nam – một giai đoạn chịu ảnh hưởng rõ rệt của tam giáo từ quan điểm

của phê bình sinh thái.

Tham luận của Nguyễn Thị Tịnh Thy Sáng tác và phê bình văn học sinh

thái – Tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam (2014), cho rằng: “Trong

văn học Việt Nam, ngay từ thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, đã có các tác

phẩm mang tư tưởng sinh thái” [102].

Tham luận Cái nhìn tự nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ

góc nhìn phê bình sinh thái của Đặng Thị Thái Hà, Hình tượng loài vật trong

văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (2014) của Trần

Thị Ánh Nguyệt đã vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để phân tích những

hiện tượng văn học cụ thể. Trần Thị Ánh Nguyệt đã đi sâu vào hình tượng loài

vật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Tác giả đã chỉ ra những bước chuyển

đổi nhất định so với tự sự truyền thống trong cách xây dựng hình tượng loài

vật. Thứ nhất, loài vật không chỉ còn đóng vai trò giải thích ý nghĩa hay tạo

dựng nền cảnh mà trái ngược lại: “có sinh mệnh thật sự, có số phận, tính cách,

tâm hồn”. Những nhận định như trên cho thấy những bước đầu tiên của “sự

phản biện lại thói quen tư duy” khi đứng trước thực trạng môi trường sinh

thái.

Vũ Minh Đức trong Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn

từ lí thuyết phê bình sinh thái (2014), đã phát hiện ra trong tập truyện ngắn

những triết lí sinh thái về cái chết của tự nhiên thông qua các motif săn bắn,

những thông điệp Nguyễn Huy Thiệp đưa ra qua nhân vật nữ, qua biểu tượng

từ gợi dẫn sinh thái nữ quyền.

Từ điểm nhìn phê bình sinh thái, các tác giả đã phân tích văn học trong ý

nghĩa như là những lời nhắc nhở con người “cần tái thiết một hệ sinh thái tiến

bộ và đúng đắn, tôn trọng các loại động vật, tôn trọng thế giới tự nhiên, hướng

đến một thế giới yên bình và công bằng” [62, tr. 49].

10

Ngày 14-12, tại Hà Nội, Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc

tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu”. Những vấn đề

được mang ra trao đổi, bàn luận tại hội thảo này đã giải đáp phần nào được sự

cần thiết và ý nghĩa của chuyên ngành phê bình mới này, mang đến những thông

tin cơ bản cho độc giả, một bộ phận những người cầm bút, nhà nghiên cứu, phê

bình văn học hiện nay ở Việt Nam.

Với tư cách một giảng viên, TS Đặng Lưu, Khoa Sư phạm Ngữ văn, Đại

học Vinh cho rằng trong các lý thuyết về văn học, phê bình sinh thái có vẻ “cận

nhân tình” hơn cả. Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục môi trường tất yếu phải

là vấn đề được quan tâm đúng mức trong dạy học. Tuy nhiên, giáo dục môi

trường trong dạy học nghị luận xã hội thuận lợi bao nhiêu thì trong dạy đọc

hiểu tác phẩm văn chương lại khó khăn bấy nhiêu, bởi, trong chương trình ngữ

văn hiện hành vắng bóng những tác phẩm đề cập trực diện đến những hiểm họa,

nguy cơ về môi trường, sinh thái; và thiếu hẳn tri thức về lý thuyết phê bình

sinh thái nên giáo viên sẽ lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh khai thác

những chủ đề liên quan tới vấn đề này. Những bài viết trên là nguồn tư liệu

quan trọng cho giới nghiên cứu Việt Nam vận dụng những lí thuyết của phê

bình sinh thái vào nghiên cứu văn học.

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước, chúng

tôi tập trung tìm hiểu “Chủ đề sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu và Nguyễn Huy Thiệp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn hướng trọng tâm đến tìm hiểu dấu ấn sinh thái và giá trị xã

hội, thẩm mỹ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy

Thiệp.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Sinh thái là vấn đề rộng. Ở đề tài này chúng tôi chỉ quan tâm đến hai

11

phương diện chính là biểu hiện của sinh thái môi trường và sinh thái nhân văn

trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp.

- Chúng tôi khảo sát ở một số truyện ngắn:

+ 25 truyện ngắn trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb

Văn học, năm 2009.

+ 42 truyện ngắn trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb

Văn hóa Sài Gòn, năm 2006.

+ Một số tác giả văn xuôi Việt Nam đương đại như: Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ

Phấn, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Ngọc Thuần....(để làm tư liệu đối sánh).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu và Nguyễn Huy Thiệp để nhận thấy cảm quan sinh thái được thể hiện

trong tác phẩm.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu một số vấn đề lí luận, thực tế, một số khái niệm liên quan.

- Khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn

Huy Thiệp về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp hệ thống

- Phương pháp thống kê, phân loại

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp loại hình

- Phương pháp phân tích tác phẩm

- Phương pháp liên ngành

6. Đóng góp của luận văn

- Hệ thống hóa kiến thức về phê bình sinh thái, một khuynh hướng nghiên

12

cứu văn học tiên phong.

- Phân tích những đặc trưng vấn đề sinh thái trong truyện ngắn của

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp, qua đó chỉ ra những đóng góp của

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp trong tiến trình truyện ngắn Việt

Nam đương đại.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần

Nội dung của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát về phê bình sinh thái và khuynh hướng văn xuôi

sinh thái ở việt nam từ sau 1975

Chương 2: Sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn

Huy Thiệp

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tinh thần phê bình sinh thái trong truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp

13

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ KHUYNH HƯỚNG VĂN

XUÔI SINH THÁI Ở VIỆT NAM TỪ SAU 1975

1.1. Khái quát về lí thuyết phê bình sinh thái

1.1.1. Định nghĩa phê bình sinh thái

Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin nghĩa là nhà ở, nơi cư trú. Sinh

thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, gồm oikos (chỉ nơi sống)và

logos (học thuyết). thuật ngữ sinh thái học ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật

học người Đức Ernst Haeckel đưa ra. Sinh thái học là học thuyết nghiên cứu về

nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa sinh vật và môi trường xung

quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ là một bộ môn thuộc khoa sinh học

mà nó còn được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân

văn.

Thuật ngữ Ecocritsim (Phê bình sinh thái) còn được gọi bởi những cái tên

khác nhau “phê bình (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies), “thi pháp sinh

thái” (ecopietics) hay “phê bình văn học môi trường” (environmental liturery

criticism)...Tên gọi phê bình sinh thái được Wiliam Rueckert sử dụng năm 1978

trong khảo luận Văn học và sinh thái học: một thử nghiệm mới trong phê bình

sinh thái (Liturature and Ecology: An Exneriment in Ecocritism). Mục đích của

ông là ứng dụng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu

văn học.

Giữa thập kỉ 80 của thế kỷ XX, các học giả cộng tác với nhau xây dựng

phê bình sinh thái trở thành một phong trào mạnh mẽ. Năm 1992, Hiệp hội

nghiên cứu Văn học và môi trường được thành lập ở Đại học Nevada Mỹ. Năm

1994, Kroeber xuất bản cuốn chuyên luận “Phê bình văn hóa sinh thái lãng mạn

và sinh thái tinh thần, đề cương “phê bình sinh thái học” (ecologcal literary

criticsm) hoặc “phê bình có khuynh hướng sinh thái học”. Sau đó các tác phẩm

phê bình sinh thái mọc lên như nấm.

14

Năm 1996, tập bài viết về phê bình sinh thái lần đầu tiên được xuất bản

tại Mỹ mang tên Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và Harold

From chủ biên. Cheryll Glotfelty cũng đã đưa ra một định nghĩa giản dị và rõ

ràng về về phê bình sinh thái: “Nói một cách đơn giản, phê bình sinh thái là

việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên; mang đến

một cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học” [54].

Người đầu tiên giới thiệu về văn học sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh

thái, tư tưởng triết học sinh thái ở Trung Quốc là Vương Nặc – giáo sư văn học

Đại học Hạ Môn. Trong công trình Văn học sinh thái Âu Mỹ (2003), Vương

Nặc cho rằng “lối viết tự nhiên” có đối tượng sáng tác rất hẹp, nhưng sự bao

quát về mặt đề tài và tư tưởng của nó thì quá rộng. Bởi vì nó bao gồm tất cả

những trước tác liên quan đến tự nhiên, thậm chí kể cả những tác phẩm phi sinh

thái hoặc sinh thái. “Văn học sinh thái không đơn thuần là văn học miêu tả tự

nhiên thuần túy, khác nhau căn bản của văn học sinh thái và văn học miêu tả

tự nhiên truyền thống là nó tìm hiểu và trình bày mối quan hệ giữa con người

với tự nhiên cũng như địa vị của con người trong trong thế giới tự nhiên, ảnh

hưởng của con người đối với tự nhiên và ảnh hưởng của tự nhiên đối với con

người, mối liên hệ giữa vạn vật trong tự nhiên với con người” [70, tr. 6]. Như

vậy, đề tài của văn học sinh thái rất rộng. “Một số tác phẩm thậm chí có thể

hoàn toàn không miêu tả cảnh vật tự nhiên, thể hiện tình yêu tự nhiên của nhà

văn nhưng chỉ cần thể hiện thái độ không đồng tình với các hành vi phá hoại

sinh thái, phơi bày căn nguyên văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái, là có

thể được xem là văn học sinh thái” [70, tr. 6]. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm

của những người đi trước, Vương Nặc đưa ra một định nghĩa về văn học sinh

thái được giới học thuật thừa nhận như sau: “Văn học sinh thái là loại văn học

lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của

hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ

giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh

15

thái” [70, tr. 11]. Định nghĩa này xuất phát từ chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, vừa

tránh khỏi sự trói buộc của “lối viết tự nhiên”, vừa phủ nhận tư tưởng chủ nghĩa

nhân loại trung tâm của văn học môi trường; đồng thời cũng thoát khỏi hạn chế

của văn học tự nhiên và văn học ô nhiễm. Nó phản ánh được mấu chốt của văn

học sinh thái là sinh thái. Một tác phẩm sinh thái không đơn thuần miêu tả tự

nhiên hoặc sinh thái, mà quan trọng hơn là phải có đầy đủ tư tưởng sinh thái và

góc nhìn sinh thái. Hạt nhân của tư tưởng sinh thái là quan niệm về tính hệ

thống, tính chỉnh thể và tính liên hệ của sinh thái. Tư tưởng sinh thái lấy tính

bình đẳng, ổn định, bền vững và lợi ích chung của hệ thống sinh thái làm điểm

xuất phát và tiêu chí cuối cùng để bình xét phương thức sống, sự tiến bộ của

khoa học kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của nhân loại;

không lấy chủ nghĩa nhân loại làm thước đo giá trị văn học. Văn học sinh thái

lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái hoặc quan niệm chỉnh thể sinh thái làm kim

chỉ nam để khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người. Văn học sinh thái

còn thể hiện trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của

văn minh, phản ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và

nguồn gốc xã hội của các nguy cơ.

Mỗi nhà nghiên cứu chọn cho mình một hướng đi khác nhau nhưng cùng

chia sẻ một hoang mang lớn của lịch sử nhân loại. Nói cách khác phê bình sinh

thái ra đời trong cơn giật mình của loài người trước một ngày tận thế không xa

mà chúng ta đã và đang cố tình đẩy chính mình vào. Không ai có thể phủ nhận

một thực tế đáng lo ngại là “chúng ta đang bước vào kỉ nguyên của những giới

hạn về môi trường, một thời đại mà hậu quả từ những hành động của con người

đã làm tổn hại nghiêm trọng đến sự sống của chính mình”, hoặc buộc nó phải

“đối mặt với thảm họa toàn cầu rồi phá hủy tất cả những gì đẹp đẽ và tiêu diệt

vô số giống loài” mà nguy cơ diệt vong của loài người như là một tất yếu”.

Ra đời trong nỗi âu lo, sự tự vấn và mặc cảm tội lỗi của con người trước

hành động của chính mình, Phê bình sinh thái đã nhấn mạnh vào khía cạnh đạo

16

đức. Ứng xử ngỗ ngược của con người với bà mẹ Trái đất đã gây ra nhiều tai

họa. Hành động và ứng xử của con người đang khiến tự nhiên nổi giận. Vậy

làm thế nào để thức tỉnh con người và ngăn chặn những nguy cơ sẽ xảy ra?

Trong nhiều nỗ lực mang tính toàn cầu, văn học – một hình thái ý thức xã hội

đã tham gia tích cực vào bảo vệ sinh thái.

1.1.2. Đặc trưng của phê bình sinh thái

1.1.2.1. Mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa

Để hiểu rõ định nghĩa về phê bình sinh thái, trước hết phải hiểu quan niệm

của phê bình sinh thái về tự nhiên và văn hóa, những vấn đề làm nên tư tưởng

đặc thù của phê bình sinh thái. Tự nhiên (nature), từ gốc Latin là nature có

nghĩa là thuộc về tự nhiên hay natus có nghĩa là được sinh ra để phân biệt với

thế giới được tạo ra bởi con người. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, các

nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: “Tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải

do ý muốn, hiểu biết, sáng tạo của con người”. Con người là sản phẩm của tự

nhiên, cần có tự nhiên để tồn tại. Con người cũng là tự nhiên, trong con người

cũng có mặt tự nhiên như bản năng và con người cũng không thể tác rời tự

nhiên. Như vậy, tự nhiên là một khái niệm rộng, bao hàm tự nhiên bên ngoài

con người – môi trường và tự nhiên bên trong con người – bản năng.

Ngày nay, tự nhiên trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn luôn biến đổi,

nó là cái tồn tại đương nhiên từ buổi hoang sơ nhưng đã bị con người dần chiếm

hữu theo nhiều cách. Do đó, tự nhiên không còn là nó một cách nguyên thủy

mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đã bị quy định bởi con người. Theo sự biến

thiên này, cặp từ tự nhiên (nature) và văn hóa (culture) không còn là sự đối lập

mà còn có sự xuyên thấu lẫn nhau, thật khó để có thể phân loại rõ ràng, rành

mạch. Trong cuốn Beginning theory – An introduction to literary and cultural

theory, Perer Barry đã chứng minh bằng cách lấy ví dụ. Chúng ta gọi môi trường

bên ngoài là một chuỗi các khu vực xâm nhập, dịch chuyển dần từ khu vực tự

nhiên sang khu vực văn hóa theo trật tự sau:

17

Khu vực 1: cái hoang dã (the wilderness), gồm sa mạc, đại dương, những

nơi không có người sinh sống.

Khu vực 2: cảnh quan hiểm trở (the scenic sublime) như rừng núi, hồ, thác

nước.

Khu vực 3: vùng nông thôn (the coutryside) như đồi, cánh đồng, rừng

cây.

Khu vực 4: cảnh quan nhân tạo (the domestic picturesque) như công viên,

vườn, đường.

Khi chúng ta dịch chuyển trong suy nghĩ giữa các khu vực này tức là đã

dịch chuyển từ khu vực thuần túy tự nhiên (khu vực 1) sang khu vực phần lớn

là văn hóa (khu vực 4). Cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – do

văn hóa tạo ra và các khu vườn lại tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc

về tự nhiên.

Các nhà phê bình sinh thái thường sử dụng cặp thuật ngữ

human/nonhuman khi nói về mối quan hệ giữa con người và môi trường tự

nhiên. Human (nhân loại) dùng để chỉ con người và tất cả những thứ do con

người tạo ra, bao gồm cả vật chất, trí tuệ và công nghệ. Nonhuman (phi nhân

loại) dùng để chỉ các sinh vật không phải là con người và các yếu tố vật chất

không có sự sống như không khí, đất, nước.

Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của các mối quan hệ giữa

yếu tố nhân loại (human) và phi nhân loại (nonhuman) trong các diễn ngôn văn

hóa. Phê bình sinh thái khôi phục ý nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên với

con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định hình và

thay đổi các quan niệm về tự nhiên. Glotfelty khẳng định: “Toàn bộ phê bình

sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với tự

nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt vấn

đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của

ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một

18

chân ở văn học và chân kia mặt đất, như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình

sinh thái dàn xếp giữa con người (human) và thế giới phi nhân loại

(nonhuman)”.

1.1.2.2. Tư tưởng triết học và quan niệm thẩm mỹ của phê bình sinh thái

Mặc dù, nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không

có lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới xuất phát từ những năm 70 của

thế kỉ XX. Tuy nhiên,bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó.

Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề

cho phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin,

Heidegger...Nghiên cứu về phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh

một cách thuyết phục bằng khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng

“con người kiểu mẫu của muôn loài” có thể đứng cao hơn tất thảy. Các nhà triết

học hiện tượng luận như Hussel, Ingarden, Heidegger....đi vào thế giới nhân

sinh bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri giác. Họ cho rằng con

người cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác, trực giác của mình.

Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết học

các trường phái của luân lí học môi trường phương Tây hiện đại như: Sinh thái

học bề sâu, Đại địa luân lí học, Tự nhiên giá trị luận, Động vật giải phóng....Sinh

thái học bề sâu cho rằng thế giới tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối

quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của

những sinh vật khác trong hệ sinh thái. Can thiệp của con người hoặc phá hủy

thế giới tự nhiên đặt ra mối đe dọa không chỉ đối với các sinh vật khác trong hệ

sinh thái mà còn đe dọa đến sự sống của con người. Quan niệm Đại địa luân lí

học làm thay đổi vai trò của nhân loại trong văn minh truyền thống phương

Tây. Con người từ kẻ chinh phục, thao túng tự nhiên trở thành một thành viên

trong đó. Con người cần phải có sự tôn trọng thích đáng đối với tất cả các thành

viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng tồn tại với các loài vật khác hợp

thành một cộng đồng rộng lớn, con người có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ “cộng

19

đồng sinh vật” được hài hòa, ổn định và đẹp đẽ.

Như vậy, đạo đức môi trường đã mở rộng ra từ quyền con người sang

quyền của thiên nhiên. Cuối thế kỷ XX là thời kỳ phát động phong trào bảo vệ

sinh thái. Bảo vệ sinh mệnh tự nhiên là xứ mệnh tiến bộ của nhân loại.

Trở về với tư tưởng văn hóa phương Đông cổ đại là khuynh hướng quan

trọng của phê bình sinh thái hiện nay. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

được triết học, văn chương, mỹ thuật bàn đến cách đây hàng nghìn năm trước

khi các nhà tư tưởng Trung Hoa xem con người mang bản chất của tự nhiên

nên con người cần sống hòa hợp với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên. “Thiên

nhiên hợp nhất” – tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách

ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương Đông. Điều đó khẳng

định sự thống nhất giữa con người với tự nhiên, con người là một phần của tự

nhiên, giữa con người và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa nhau: Khổng Tử

yêu cầu tôn trọng, giữ gìn môi trường, mùa xuân vào rừng không được đốn cây

lớn, bắt cá phải dùng mắt lưỡi to; Lão Tử cho rằng con người gắn với tự nhiên,

là một bộ phận không thể tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai,

hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận

động theo quy luật khách quan, con người theo quy luật của tự nhiên để hành

động cho hợp lẽ. Bởi vậy, người phương Đông thường lựa chọn cách sống hài

hòa với tự nhiên để được thanh thản và đầy đủ.

Trong sử thi phương Đông còn có những bài học về sự hòa hợp giữa con

người với tự nhiên. Trong các tác phẩm sử thi của người Ấn Độ như: Ramayana,

Mahabrahata... trước khi làm nhiệm vụ trị vì quốc gia, các vị anh hùng đều phải

có thời gian tu thân trên núi cao, trong rừng thẳm để hòa mình vào thiên nhiên,

tu trí, tĩnh tâm. Trước khi trở thành đấng Giác Ngộ, đức Phật đã trải qua kiếp

sống không chỉ là con người, thần linh mà cả là chim chóc, muông thú để cuộc

đời của muôn loài bình thường,với đủ mọi quan hệ thế tục. Đức vua Trần Nhân

Tông sau khi thực hiện xong việc thế sự, xuất gia vào núi sâu để được trong

20

sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên do đó là người thầy minh triết trong tâm

thức người phương Đông.

Không chỉ lấy chủ nghĩa sinh thái làm tư tưởng triết học nền tảng, phê

bình sinh thái lấy thẩm mỹ sinh thái làm nguyên tắc chỉ đạo. Nhà nghiên cứu

Lý Khánh Bản cho rằng chủ trương của mỹ học sinh thái là thống nhất, hài hòa

giữa con người với tự nhiên, con người và xã hội, cá nhân và xã hội chứ không

phải là chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm

lao động sáng tạo ra cái đẹp. Thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ mang tính tự nhiên,

trong thẩm mỹ sinh thái không tồn tại chủ thể - khách thể, con người cảm nhận

tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ. Chủ

nghĩa nhân loại trung tâm coi đối tượng thẩm mỹ tự nhiên là phương tiện, biện

pháp, kí hiệu, công cụ biểu hiện, tượng trưng cho thế giới nội tâm hoặc nhân

cách con người. Các nhà phê bình sinh thái lại chủ trương không thể dùng con

mắt công cụ để đối đãi đối tượng thẩm mỹ tự nhiên. Thẩm mỹ sinh thái cũng

đề cao tính chỉnh thể, không chỉ quan tâm đến đối tượng mà còn đặt nó trong

hệ thống tự nhiên, từ đó khảo sát ảnh hưởng của nó đối với chỉnh thể sinh thái.

Tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp của thẩm mỹ sinh thái cũng khác so với truyền

thống. Trong thẩm mỹ sinh thái, cái gì có lợi cho sự ổn định, hài hòa của hệ

thống sinh thái mới được coi là đẹp. Trong mỹ học truyền thống, con người là

chủ thể, là thước đo của cái đẹp, còn trong phê bình sinh thái, thước đo lại là

chỉnh thể sinh thái. Bên cạnh đó, thẩm mỹ sinh thái còn đề cao nguyên tắc dung

nhập, yêu cầu tinh thần và thể xác nhập vào tự nhiên, hòa với tự nhiên làm một,

có lúc phải quên đi bản ngã. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là

một phương thức biểu hiện của thẩm mỹ sinh thái. Con người không thể phát

hiện ra cái đẹp của tự nhiên nếu quá tự cao tự đại, chỉ có cảm nhận vô tư, không

mục đích mới có thể cảm nhận được cái đẹp, cái kỳ thú của tự nhiên” [52].

1.2. Sự hình thành và phát triển của khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt

Nam từ sau 1975

21

1.2.1. Những tiền đề lịch sử văn hóa xã hội

Chiến tranh chống Mỹ kéo dài trong suốt 30 năm, súng ống, bom đạn, hóa

học phóng xạ đã khiến: “ruộng đã khô, nhà đã cháy, thành phố tan hoang”

(Trịnh Công Sơn). Chiến tranh dù đã qua đi nhưng để lại những tổn thất về môi

trường dài lâu mà con người chưa thể khắc phục ngay được. Những nỗi đau về

da cam hiện đang bào mòn nhiều thế hệ và ngấm ngầm tàn phá môi trường với

những cánh rừng trơ trui, đất và nước bị nhiễm độc....Sinh thái hậu chiến tranh

do vậy vẫn còn là một nỗi đau dai dẳng.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế theo định hướng công nghiệp

hóa – hiện đại hóa cũng đã khiến cho môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái

bị ô nhiễm trầm trọng bằng việc: con người tàn phá rừng để xây dựng thủy điện,

khai thác khoáng sản, xả chất thải ra sông suối, ngày càng lạm dụng các chất

hóa học. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, con người đã xem thiên

nhiên là thứ vô tri nên mặc sức khai thác nó, coi sự trả giá quá dễ, tác động vào

nó mà không tính đến những hậu quả lâu dài về mặt môi trường. Sự tăng trưởng

nóng đã khiến môi trường tự nhiên đang bị đe dọa, con người phải đối mặt với

nhiều vấn đề của mặt trái văn minh đô thị với bao bộn bề ngổn ngang và làm

tổn hại như: hiệu ứng nhà kính, chất thải công nghiệp...Hiểm họa sinh thái còn

nảy sinh do thiếu ý thức, vì nguồn lợi mà con người đã bất chấp tất cả, vi phạm

môi trường như xả thải bất hợp pháp ở các khu công nghiệp làm ô nhiễm nguồn

nước như vụ Vedan xả chất thải chưa qua xử lí ra sông Thị Vải, vụ nhà máy

Fomosa xả chất thải chưa qua xử lí ra biển khiến cả chết ở 4 tỉnh miền Trung,

vụ ô nhiễm môi trường đất quá mức cho phép ở làng Đông Mai – Hưng Yên...

Sự thay đổi chóng mặt vì đô thị hóa sẽ dẫn tới những vấn đề ô nhiễm môi

trường của rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp...Ngoài ra, để mở rộng diện

tích đô thị, các khu công nghiệp, mở rộng mạng lưới giao thông, mở rộng diện

tích đất cho chăn nuôi đã khiến diện tích cây xanh bị thu hẹp lại. Ví dụ như ở

Hà Nội, sự phát triển của đô thị đã xóa sổ nhiều làng nghề truyền thống ngàn

22

đời như lang hoa Ngọc Hà, làng cốm Vòng, lang rau húng ở Láng... Hiện nay,

ô nhiễm đô thị còn lan rộng đến cả những vùng quê, bằng chứng là những tiếng

ếch nhái kêu, những loại rau khúc, rau dệu vốn rất quen thuộc với bà con nông

dân nay cũng dần dần đi vào dĩ vãng. Sự mất dần của thiên nhiên trong đời sống

hiện đại dễ khiến con người cảm thấy nuối tiếc, đau đớn, bất an hơn trước cái

đương đại dang dở này.

Biến đổi khí hậu, khủng hoảng môi trường sinh thái và những vấn đề

toàn cầu hóa trở thành những áp lực rất lớn mà văn chương không thể bỏ

qua. Đứng trước các vấn đề như vậy của đời sống, văn học cũng cần có trách

nhiệm với trái đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi trong suy

nghĩ liên quan đến con người và môi trường cũng cần được đổi thay từ chính

văn học. Khuynh hướng văn học sinh thái ra đời đã đáp ứng được yêu cầu

của thời đại.

1.2.2. Sự hình thành và phát triển khuynh hướng văn xuôi sinh thái

Tinh thần của sinh thái hiện đại có lẽ bắt nguồn từ đầu thế kỷ XX, với

những cảm quan sau đô thị trong thơ của Nguyễn Bính, hay trước đó Tú Xương

cũng đã có những dự báo trong bài thơ Năm mới chúc nhau: “Phố phường chật

hẹp người đông đúc/ Bồng bế nhau lên nó ở non” [15].

Trong văn học giai văn học 1945-1975 những tác phẩm viết về sinh thái

tự nhiên cũng xuất hiện khá nhiều như: Hương cỏ mật (Đỗ Chu), Mùa hoa roi,

Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Đồng Chí (Chính Hữu), Đất nước (Nguyễn Khoa

Điềm), Quê hương (Giang Nam), Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà

(Nguyễn Thi), Hòn đất (Anh Đức), Rừng Xà Nu (Nguyễn Trung Thành), Vườn

trong phố (Lưu Quang Vũ)... Thiên nhiên trong giai đoạn này được viết rất

nhiều trong văn học, tuy nhiên văn học giai đoạn 1945-1975 này chủ yếu nói

thiên nhiên dùng để làm biểu tượng cho cái sức sống vĩnh hằng bất tử của cuộc

chiến khốc liệt ví dụ như tác phẩm Vòng cườm trên cổ chim của Chế Lan Viên.

Văn học cũng nói đến sự tàn phá của chiến tranh đối với tự nhiên nhưng nghiêng

về tố cáo tội ác của quân giặc như: Cánh đồng hoang (Nguyễn Quang Sáng),

23

Giấc mơ ông lão vườn chim (Anh Đức), Rừng Xà Nu (Nguyễn Trung Thành),

Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu). Sinh thái mang tinh thần hiện đại

vì thế chưa hình thành.

Văn học sau năm 1975 với quán tính của nó cũng có những sáng tác đi

theo tố cáo tội ác phá hoại thiên nhiên như: Miền cháy (Nguyễn Minh Châu),

Lời hứa của thời gian (Nguyễn Quang Thiều)...hay dòng văn học da cam với

những di chứng của chất độc hóa học da cam tàn phá môi trường với những

cánh rừng “cười” trong Người xót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), những

đứa con không rõ hình hài của người cựu chiến binh trong Mười ba bên nước

(Sương Nguyệt Minh) và Ngọa sinh (Võ Thị Xuân Hà)...Nguyễn Minh Châu

đã có những trăn trở về những hậu họa sau chiến tranh, đọc những tác phẩm

của nhà văn người đọc nhận thấy những di căn của chiến tranh đang hàng

ngày âm ỉ bào mòn nhiều thế hệ và tàn phá môi trường, như trong Chiếc

thuyền ngoài xa bằng chi tiết nhỏ ít ai để ý, như là đặt một cách tình cờ trong

truyện ngắn: “những bãi xe tăng do bọn thiết giáp ngụy vứt lại trên đường

rút chạy trong hồi “tháng ba bảy nhăm” (bây giờ gần 10 năm, đã bị hơi

nước gặm mòn và làm cho sét gỉ)” giữa một khung cảnh bãi biển thật nên

thơ “thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu”. Dưới con mắt

của nhà phê bình sinh thái, chúng ta nhận thấy chính chiến tranh với những

vết tích xuất hiện kia đã làm mờ đi chỉnh thể đẹp đẽ của bờ biển, lạc giữa vẻ

đẹp trải dài của bãi biển, sự hủy diệt của con người làm cho cảnh thơ mộng

trở nên thô kệch, từ đó dẫn dụ tới một ngụ ý mà tác giả nhắc nhở người nghệ

sĩ về “nghịch lí” của đời sống, bên cạnh cái đẹp thơ mộng là cái hiện thực

sần sùi gai góc.

Ở giai đoạn đầu này, văn xuôi sinh thái chủ yếu xoay quanh biểu hiện của

những hoài niệm về những vẻ đẹp thôn quê, “ngược về với ngoại ô” để được

thanh thản và yên ổn (Nguyễn Quang Thiều, Duy Khán...). Nhưng về sau, các

tác phẩm quan tâm đến những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa

như: Kí sự làng, Phố làng (Đỗ Nhật Minh), Khách đến Nha Trang, Ngọc đất

24

(Hoàng Minh Tường), Sâm cầm Hồ Tây (Sương Nguyệt Minh..); những bất

công nảy sinh từ mối quan hệ giữa người và tự nhiên trong Bãi vàng, Tiền rừng,

Chuyện cũ từ rừng, Màu của bóng tối, Trầm hương (Nguyễn Trí), Biển và chim

bói cá (Bùi Ngọc Tấn), Đá đỏ (Vũ Thi); sự liên hệ giữa bất công phụ nữ với tự

nhiên trong Mùi cọp, Mùa săn (Qúy Thể), Trăm năm còn lại (Trần Duy Phiên),

Lúa hát (Võ Thị Xuân Hà)...

Văn học sinh thái có lẽ phát triển vào khoảng những năm 1980 đến đầu

những năm 1990. Đây là giai đoạn bắt đầu của công cuộc đổi mới, khời động

quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nhiều khi đã tàn phá tự nhiên, hy sinh

tự nhiên vì mục tiêu phát triển kinh tế. Chưa thực sự làm nên một trao lưu “xanh

hóa” trong văn học, nhưng không thể phủ nhận được rằng văn học Việt Nam

sau đổi mới đã có được một độ nhạy bén nhất định, cũng như có được một số

điểm nhấn đáng chú ý trong phản ứng trước thực trạng môi trường – xã hội nói

trên. Một trong số những hiện tượng sớm nhất trong văn học đương đại là

Nguyễn Minh Châu – người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học. Vấn đề

sinh thái đô thị xuất hiện trên những trang văn của ông vào những năm 80-90

của thế kỉ trước với những truyện ngắn như: Một lần đối chứng (1982) mượn

con mắt của loài vật để nhìn nhận bằng cái nhìn tự nhiên hoang dã về đời sống,

Sống mãi với cây xanh (1983) “niềm tin pha lẫn âu lo” về tương lai đô thị hóa,

Khách ở quê ra (1984)...

Trần Duy Phiên viết Kiến và người (1990), rồi muộn hơn một chút là Mối

và người (1992). Các tác phẩm này công bố trên báo địa phương (Tạp chí Cửa

Việt, Tạp chí đất Quảng). Đây là hai tác phẩm đầu tiên đả phá vào lập trường

duy ý chí: ỷ vào sức mạnh của khoa học để tàn phá tự nhiên: “một đời bố có

thua ai”, “bố hênh hoang kì công tạo dựng cơ ngơi”, cậy mình có trí thông

minh (cậu Bảy – là kỹ sư, biết vận dụng những thành quả của khoa học kỹ thuật:

dùng ánh sáng đèn dụ mối, xây dựng hệ thống chuồng trại theo một quy trình

bài bản, hợp lí để sản xuất theo dây truyền chuyên nghiệp sử dụng ít sức người).

25

Việc các nhân vật trong truyện rời phố thị lên rừng để lập trại chăn nuôi, trồng

trọt như một lối ẩn dụ cho việc con người đang ngày càng xâm lấn tự nhiên,

dành đất sống của muôn loài, khai thác cạn kiệt tự nhiên: “Đất này nguyên là

giang sơn của mối. Ông Bảy đặt trang trại, cho máy ủi bằng, cày nát ụ đống,

mồ mả tổ tiên nhà chúng. Đã thế ông còn dùng đem nhủ chúng làm mồi nuôi

gà”. Đúng như khái quát của K. Thornmber “một số nhà phê bình sinh thái

cũng xem khoa học và công nghệ như căn nguyên xâu xa của khủng hoảng sinh

thái, vừa hạ bệ tự nhiên xuống như một đối tượng nghiên cứu và điều khiển bởi

một người quan sát bên ngoài, vừa khuếch đại khả năng của con người làm

phá hủy tự nhiên” [91].

Nguyễn Huy Thiệp - là người tạo nên “khúc ngoặt” cho văn xuôi sinh

thái Việt Nam sau 1975 bằng nhiều sáng tác. Ban đầu, nhà văn tập trung vào

các chủ đề trực diện của việc tự nhiên trả thù (Sói trả thù, Con thú lớn

nhất…). Về sau, ông chuyển hướng phản ánh những bất ổn của nông thôn

trước sự xâm lấn của đô thị như: Thương nhớ đồng quê, Những bài học ở

nông thôn ..... Từ đó, nhà văn cố gắng đi tìm câu trả lời: làm thế nào để sống

yên ổn và hạnh phúc. Câu trả lời của tác giả gần với ý vị của Thiền và triết

lí của Nho giáo: “Hãy để tự nhiên điều chỉnh” (Sống dễ lắm). Vì vậy, truyện

của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện một số nhân vật “phản ứng” với văn minh:

chối bỏ thành phố, trở về với nông thôn. Từ đó cho thấy: niềm ưu tư về sự

mai một của vẻ đẹp tự nhiên cùng những bất ổn của đô thị hóa không chỉ là

bận tâm của riêng Nguyễn Huy Thiệp mà còn của bao người có hiểu biết và

lương tâm.

Từ giữa thập niên 90 của thế kỉ XX văn xuôi sinh thái đã có những tác

phẩm viết trực diện về những vấn đề của văn học và môi trường. Đó là: Kẻ ám

sát cánh đồng (Nguyễn Quang Thiều), Trăm năm còn lại (Trần Duy Phiên); Bãi

vàng đá quý trầm hương, Đồ tể (Nguyễn Trí), Chuyến đi cuối năm (Đỗ Chu),

Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn); Gia phả của đất, Ngọc đất (Bùi Minh

26

Tường); Giải vía, Đối thoại với bất tử (Hà Thị Cẩm Anh); Tre hoa nở, Cội mai

lưu lạc, Những chiếc lá hình giọt lệ (Quế Hương); Tiếng đàn môi sau bờ rào đá,

Bóng của cây sồi (Đỗ Bích Thúy).... Các sáng tác đã đưa đến cho văn xuôi sinh

thái nhiều góc cạnh phản ánh mới lạ.

Trong số các tác giả trẻ viết về sự nếm trải và số phận của con người

trước những khủng hoảng sinh thái, Nguyễn Ngọc Tư là cây bút để lại nhiều

trang viết ám ảnh nhất. Thời kì đầu, tác giả chủ yếu viết những truyện ngắn

về đề tài tình cảm phổ biến như tình yêu lứa đôi, tình phụ tử, tình mẫu tử.

Về sau, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư thường lồng vào đó vấn đề thời sự: môi

trường. Dụng ý nghệ thuật đó thể hiện trước hết ngay trong cách đặt tên tác

phẩm: Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Khói trời lộng lẫy… - những nhan đề hé

lộ vẻ đẹp mênh mông, khoáng đạt nhưng cũng rất đỗi mong manh của thiên

nhiên. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư “thi thoảng lắm mới thấy hình ảnh

cây trái sum suê còn hầu như là sự phai màu của đất, sự biến mất của tự

nhiên tươi đẹp, những thảm họa thiên nhiên trút xuống” [78]. Bằng sự nhạy

cảm của con người sống ở vùng sông nước, Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra

một điều cốt yếu. Đó là: sự xâm nhập mặn và thiếu hụt nước ngọt không chỉ

khiến sinh vật thoi thóp, kiệt quệ “cây trái tàn rụi” và “những con cá nước

đục còn sót lại, ốm ròm, trên mình đầy ghẻ lở” mà còn làm cho cuộc sống

của con người lao đao, khốn khó. Họ “mệt mỏi và đuối sức như con cá nước

đục, khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển” [108, tr. 14]. Qua

những trang viết, nhà văn gửi đi tâm tình tha thiết, cùng sự trăn trở về môi

sinh: “nỗi ai hoài trước vẻ đẹp tự nhiên ngày một nhạt phai, phập phồng một

nỗi âu lo về những hiểm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống vốn mong manh

của người dân cực Nam tổ quốc” [78]. Những nhà văn tiền bối như Sơn Nam

với Hương rừng Cà Mau, hay Đoàn Giỏi với Đất rừng phương Nam từng

viết về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người để khẳng định khát vọng

chinh phục và sự kiêu hùng trước tự nhiên. Còn Nguyễn Ngọc Tư nhìn nhận

27

con người như là “tội nhân” tàn phá môi trường: “không con nào tàn phá gây

hại như con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới đó” [108, tr. 143]. Từ

chiều sâu phản ánh, sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đặt ra nhiều vấn đề của

khủng hoảng môi trường và sinh thái; cảnh báo về hậu quả của tình trạng

biến đổi khí hậu đối với mỗi cá nhân, từng ngôi nhà, thước đất và dòng sông.

Như vậy, có thể thấy rằng từ sau những năm 1975 trở đi văn học đã hình

thành thêm khuynh hướng văn xuôi sinh thái với những biểu hiện cụ thể sau

đây:

Thứ nhất, xuất hiện và phân luồng các chủ đề sinh thái trong các tác phẩm

văn học. Ban đầu, các chủ đề có thể còn tản mát, bị khuất lấp giữa những chủ

đề khác; nhưng về sau, đã được thể hiện một cách tập trung. Hai chủ đề sinh

thái chính trong văn học Việt Nam sau 1975 là: truy tìm nguồn gốc của nguy

cơ sinh thái; đặt ra trách nhiệm của con người đối với tự nhiên và kêu gọi bảo

vệ vạn vật trong tự nhiên nhằm duy trì sự cân bằng sinh thái.

Thứ hai, lực lượng sáng tác của dòng văn học sinh thái từ một số cây bút

lẻ tẻ đến một đội ngũ sáng tác chuyên tâm. Tuổi nghề, tuổi đời cùng kinh

nghiệm văn chương của đội ngũ sáng tác khá đa dạng, bao gồm cả các nhà văn

đã thành danh ở giai đoạn văn học trước 1975 như Nguyễn Minh Châu, lẫn các

nhà văn sau 1975 mới bắt đầu cầm bút như Nguyễn Huy Thiệp, Trần Duy Phiên,

Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Trí… Càng về sau, số lượng các cây bút càng đông

đảo và tác phẩm của họ càng phản ánh được những nội dung bức thiết của sinh

thái môi trường. Ví như, giai đoạn đầu văn xuôi sinh thái chủ yếu xoay quanh

biểu hiện những hoài niệm về vẻ đẹp thôn quê - chốn bình yên cho tâm hồn. Về

sau, các tác phẩm quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội như hệ quả của tốc độ

đô thị hóa và công nghiệp hóa; những bất công trong mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên.

Tóm lại, trên hành trình đi tới để phát triển của văn học Việt Nam sau

1975, bên cạnh các dòng văn học khác thì văn xuôi sinh thái đã và đang khẳng

28

định vị thế của nó. Những tác phẩm đã đề cập cả ở bề rộng và bề sâu nhiều vấn

đề sinh thái môi trường cấp bách của đất nước nói chung và từng vùng miền

nói riêng.

1.3. Vấn đề sinh thái – mối quan tâm của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn

Huy Thiệp

1.3.1. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 trong một gia đình

nông dân khá giả ở làng Văn Thái tục gọi làng Thơi, chuyên nghề đánh cá ra

khơi và làm muối, là một vùng quê nghèo của huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ

An.

Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc

Kháng ở Nghệ An, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội. Từ đó, ông

gắn bó với cuộc đời người chiến sĩ, vừa cầm súng vừa cầm bút.

Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh tài năng nhất”

[73, tr. 15-20], ngay cả việc ý thức rất sớm về vấn đề sinh thái. Bằng nhạy cảm

của người cầm bút, ông viết Một lần đối chứng (1982). Tác giả muốn nhìn đời

sống qua con mắt chính loài vật, như bản chất tự nhiên, hoang dã, bên ngoài

mọi tình cảm cao thượng, trong sáng của con người; ngoài cả những định kiến,

ý định áp chế như là từ chối sự áp đặt đơn giản những quy luật đời sống vào

quy luật của tạo vật. Việc “mèo vẫn hoàn mèo” thể hiện “khát vọng khôn cùng

muốn nắm bắt tâm hồn muôn loài” để thấy “cuộc sống vượt ra ngoài phạm vi

của thói quen “tượng tượng” “liên tưởng”, “nhân cách hóa” thường tình” [75,

tr. 241]. Chính cái cách nhìn này đã giúp Nguyễn Minh Châu phát hiện ra chủ

đề phát hiện chân lí qua những chi tiết dường như trái ngược nhưng lại phù hợp

theo logic sống. Việc tha bổng con bò Khoang trong Phiên chợ Giát về rừng

nhưng con vật đã quay trở về là một cách nhìn như thế. Chưa xét đến những

biểu hiện đằng sau đó, chỉ tính riêng việc biểu hiện tập tính của loài vật thì đây

là một cái nhìn thấu suốt. Loài vật có lẽ xa lạ với ý niệm “được thả tự do” của

29

lão Khúng, nó về nhà như một thói quen của giống loài, bất chấp mọi ý định

cao đẹp, trong sáng của con người vẫn xử sự theo quy luật muôn đời. Tiếp theo

là Sống mãi với cây xanh (1983), tác giả đề cập từ rất sớm “niềm tin pha lẫn âu

lo” về tương lai đô thị hóa. Những đề xuất này của Nguyễn Minh Châu vẫn

được các nhà văn viết về đề tài sinh thái khẳng định.

1.3.2. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp

Sau 1975 và kéo dài cho đến gần chục năm, tức những năm liên tiếp sau

khi kết thúc chiến tranh, văn học Việt Nam rơi vào tình trạng mất dần độc giả.

Người ta viết nhiều hơn, các nhà văn có nhiều thuận lợi hơn so với thời kỳ chiến

tranh: thời giờ nhiều hơn, không còn không khí ác liệt căng thẳng, vốn tích lũy

trong cuộc chiến tranh dài rất phong phú lại được mở mang giao lưu trong

ngoài...Sách in ra nhiều nhưng lại ế hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với văn

học trong nước, người ta chỉ còn đọc sách nước ngoài và đọc văn học cổ. Tình

hình đó kéo dài cho đến giữa những năm 80. Lúc bấy giờ báo Văn nghệ - tờ

báo chính thức của Hội nhà văn Việt Nam chuyên đăng sáng tác mới của các

nhà văn trong nước ế đến mức bị thua lỗ năng, không có tiền mua giấy và trả

cho nhà in. Chỉ đến khi báo Văn nghệ đăng truyện Tướng về hưu của Nguyễn

Huy Thiệp thì tờ báo này “cháy” trên tất cả thị trường báo chí trong cả nước.

Tướng về hưu, bằng một lối viết lạnh lùng, sắc sảo phơi bày một hiện tượng

chưa từng thấy trong văn học trước đó, đó là sự hoang mang, bất lực của một

người anh hùng trong chiến tranh trước thực trạng hỗ loạn xã hội sau chiến

tranh. Song dù có ý kiến khác nhau về Tướng về hưu và Nguyễn Huy Thiệp

như thế nào thì cũng phải khẳng định rằng văn học Việt Nam những năm cuối

của thế kỷ XX đã ghi nhận một hiện tượng “hai lần lạ” trên văn đàn với những

tác phẩm đầu tay của tác giả này đã gây xôn xao dư luận. Điều này không chỉ

xảy ra với Tướng về hưu mà còn đúng với nhiều tác phẩm xuất sắc khác của

Nguyễn Huy Thiệp như: Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Kiếm

sắc, Vang lửa, Muối của rừng, Phẩm tiết...

30

Trong khi văn học đổi mới đang hăng hái làm công việc phơi bày, tố cáo

những hiện thực xã hội phúc tạp thì Nguyễn Huy Thiệp không lao vào vòng

chảy chung đó. Ông đi theo một con đường rất khác: rất sớm, từ nhiều góc độ

khác nhau, đa dạng đến mức nhiều khi khiến người ta kinh ngạc, khi trực tiếp,

khi qua nhiều khúc xạ phong phú, khi quyết liệt dữ dằn, khi đằm thắm đầy chất

thơ, ông cố lần ngược lên đến ngọn nguồn của những hiện tượng xã hội ấy, gợi

ra những nguyên căn tiềm ẩn lâu dài. Và như vậy ông đã khởi xứng ra trong

văn học Việt Nam hiện đại cái có thể gọi là dòng văn học tự vấn. Cũng có thể

nói cách khác: bằng nhạy cảm nghệ sĩ nhanh nhạy của mình, Nguyễn Huy Thiệp

đã “lắng nghe” được đòi hỏi sâu kín mà ngày càng bức xúc tự soi tìm lại mình

của xã hội và văn học của ông là văn học thể hiện đòi hỏi đó, cố gắng tìm câu

trả lời, ông đưa văn học hiện đại Việt Nam đến một bước chuyển rất quan trọng.

Một nền văn học có ý thức mạnh mẽ làm chức năng là tấm gương tự soi mình

của dân tộc và con người.

Bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 80, Nguyễn Huy Thiệp đã bước

chân vào làng văn nhưng phải đến tháng 1-1987 khi báo Văn nghệ đăng chùm

truyện Những ngọn gió Hua Tát thì tên tuổi của nhà văn mới được chú ý đến.

Năm 1988 Nguyễn Huy Thiệp cho trình làng một loạt truyện ngắn khiến

cho lí luận phe bình văn học nước nhà khởi sắc mạnh mẽ như Vàng lửa, Phẩm

tiết, Kiếm sắc, ngoài ra còn có Giọt máu, Những bài học nông thôn, Những

người thợ xẻ..

Những độc đáo trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp mặc dù có những ý

kiến khen chê khác nhau nhưng tất cả đều giống như một khối thuốc nổ và có

lực hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả.

Nói đến sinh thái cần hiểu hai mặt của nó, một là sinh thái xã hội hai là

sinh thái tự nhiên. Sinh thái xã hội nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa con người

với con người trong xã hội, sinh thái tự nhiên là mối quan hệ giữa con người

với tự nhiên. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đề cập đến mối quan hệ

31

ấy nhưng điều đáng ghi nhận ở tác giả là cách nói của ông thể hiện một cảm

quan sinh thái mới mẻ, vừa nhẹ nhàng lại vừa sâu sắc, có khi lại quyết liệt với

những cái kết khiến người đọc phải giật mình nhìn lại vấn đề được tác giả nói

đến trong tác phẩm. Những câu chuyện Nguyễn Huy Thiệp kể lại tuy dung

lượng không đủ dài nhưng lại có sức hút kì lạ, có khả năng tác động mạnh mẽ

đến ý thức của con người trước vấn đề sinh thái đang là một trong những điểm

nóng của toàn cầu. Con người đã can thiệp thô bạo vào giới tự nhiên, làm biến

đổi thuộc tính vốn có của nó, chà đạp lên những vẻ đẹp của tự nhiên, tận diệt

tự nhiên, tước đoạt cả quyền sống trong môi trường hoang dã của những con

thú rừng....những việc làm ấy của con người ở những chừng mực nhất định đều

đã nhận được sự đáp trả thích đáng của tự nhiên.

Nguyễn Huy Thiệp – người tạo nên “khúc ngoặt” cho văn xuôi Việt Nam

sau năm 1975, ông đã đưa ra những triết lí sinh thái thực sự có chiều sâu. Nếu

như thời kỳ đầu, nhà văn tập trung vào các chủ đề trực diện của việc tự nhiên

trả thù (trong Sói trả thù, Con thú lớn nhất...). Về sau ông “lắng nghe được đòi

hỏi sâu kín mà ngày càng bức xúc của những bất ổn nông thôn trước sự xâm

lấn của đô thị (trong Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn...). Trong

truyện của ông xuất hiện nhiều nhân vật phản ứng với “văn minh”. Bạc Kỳ Sinh

trong Chuyện tình kể trong đêm mưa, không thích việc người Kinh lên Tây Bắc

“khai hóa văn minh”, “thắp lên ánh sáng văn hóa”; thầy giáo Triệu trong Những

bài học nông thôn than thở về việc “chúng ta đè gí nông thôn bởi thượng tầng

kiến trúc với toàn bộ giấy tờ và toàn bộ khái niệm về nền văn minh”; Doanh

trong Những người muôn năm cũ đã phỉ báng “kết quả của việc tiếp thu văn

minh đô thị...Học vấn và tiện nghi sẽ làm móng vuốt của nó sắc nhọn ra”...Từ

đó, Nguyễn Huy Thiệp “cố gắng tìm câu trả lời” làm thế nào để sống yên ổn và

hạnh phúc. Câu trả của nhà văn gần với ý vị của Thiền và đậm triết lí Lão –

Trang: “hãy để tự nhiên điều chỉnh” trong Sống dễ lắm. Do vậy, tác phẩm của

Nguyễn Huy Thiệp ngợi ca những con người mà số phận của họ gắn với nông

32

thôn như thầy giáo Triệu, bỏ gốc gác thành phố về làm thầy giáo với niềm tự

hào “Mẹ tôi là nông dân còn tôi sinh ra ở nông thôn”, là Năng, Nhâm, Minh,

Mị...những nhân vật đó của ông thường là những thanh niên lớn, chớm tuổi dậy

thì, điều đó như là một niềm hy vọng khấp khởi và đầy lo âu của ông về tương

lai nông thôn. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp không hề ảo tưởng, ông trĩu nặng bất

an lo âu. Điều đó thể hiện ở cách kết thúc truyện thường là cái chết như trong

Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê; tha phương trong Những

người muôn năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm mưa...; nỗi đau đớn trong Chăn

trâu cắt cỏ...; và niềm cô độc trong Sống dễ lắm... Nguyễn Huy Thiệp tạo ra

một dòng “văn học tự vấn” mà có lẽ bất cứ nhà văn nào ưu tư với cuộc đời này

đều mong muốn đi tìm câu giải đáp cho cái bất an, những vẻ đẹp tự nhiên đang

dần mai một, về những chất chồng bất ổn của đô thị hóa....

Qua những truyện ngắn viết bằng cảm quan sinh thái nhạy bén, tinh tường

của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã đặt ra vấn đề lớn, một trong những vấn đề

nóng của văn học đương đại nói riêng và thời sự nhân loại nói chung. Tư tưởng,

cảm quan sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã được bộc lộ

sâu sắc và thấm thía. Ông phản đối tư tưởng cao ngạo, mù quáng khi nhìn nhận

quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi con người là linh hồn của vạn vật và

từ đó tùy ý bộc lộ tự nhiên, coi việc chiếm đoạt, chà đạp tự nhiên là phương

thức khuếch trương bản thân. Bằng việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật,

những chi tiết, tình huống truyện độc đáo, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp

đã rúng lên một hồi chuông cảnh báo đối với con người, với văn hóa ứng xử

với tự nhiên của con người: Hành vi của con người cần được điều chỉnh khi tác

động vào tự nhiên, sao cho hành vi ấy không vượt quá sức chịu đựng của tự

nhiên.

Văn học với tư cách là một bộ phận nhạy cảm, tinh tường có khả năng tiên

cảm, dự báo đối với con người. Những tác phẩm viết mối quan hệ giữa con

người và thiên nhiên của Nguyễn Huy Thiệp đã làm tròn xứ mệnh của mình

33

vừa cảnh báo vừa dự báo. Con người tiến bộ đáng lẽ phải tôn trọng tự nhiên

nhưng họ lại đang can thiệp quá thô bạo vào tự nhiên. Chính tự nhiên đã đang

dạy cho con người bài học làm người. Con người cần sống hòa hợp chứ không

phải là tước đoạt, là chà đạp, là tận diệt tự nhiên – đó là thông điệp mà Nguyễn

Huy Thiệp muốn gửi đến độc giả hôm nay và mai sau qua truyện ngắn của ông.

Tóm lại, với những khái niệm công cụ đã đưa ra, chúng tôi sử dụng làm

điểm tựa để khám phá các tầng nghĩa bên trong mỗi chi tiết nghệ thuật của

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp, đồng thời cũng nhờ đó

để làm sáng tỏ thêm quan điểm của mình khi đưa ra các kết quả nghiên cứu

trong phạm vi nghiên cứu luận văn.

Tiểu kết chương 1

Với lịch sử hình thành và phát triển đã gần một nửa thế kỉ, phê bình sinh

thái học đã trở thành một trào lưu phê bình văn học lan tỏa khắp thế giới. Cùng

với sự phát triển của văn học sinh thái, phê bình sinh thái đã tác động không

nhỏ vào nhận thức của con người về những nguy cơ sinh thái môi trường đang

diễn ra gay gắt hàng ngày.

Văn học sinh thái Việt Nam sau 1975 tuy hình thành và phát triển tương

đối muộn nhưng cũng nhanh chóng bắt nhịp và đạt được những thành tựu nhất

định. Điều đáng ghi nhận là đã có một số cây bút chuyên viết về mảng sinh thái

với những tác phẩm đa dạng và sắc sảo. Trong đội ngũ ấy có nhà văn Nguyễn

Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp – họ đều đang rung lên một hồi

chuông cảnh báo đối với con người, với văn hóa ứng xử với tự nhiên của con

người: Hành vi của con người cần được điều chỉnh khi tác động vào tự nhiên,

sao cho hành vi ấy không vượt quá sức chịu đựng của tự nhiên. Bằng ngôn ngữ

của văn học, tác giả đã góp phần truyền đi những thông điệp sinh thái - nhân

văn qua mỗi trang viết. Truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn

Huy Thiệp đã phản ánh được biểu hiện của sinh thái môi trường và sinh thái

nhân văn trong truyện ngắn.

34

35

Chương 2

CÁC BÌNH DIỆN SINH THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN

MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP

2.1. Con người – kẻ tận diệt tự nhiên

2.1.1. Tận diệt những loài sinh vật, động vật hoang dã

Greg Garrard1 đưa ra một nhận định thấu đáo: Phê bình giải phóng động

vật thường tìm cách làm suy yếu sự phân biệt về mặt đạo đức và pháp lí giữa

loài người và loài vật, trong khi đó lại thừa nhận sự khác biệt giữa động vật

hoang dã với vật nuôi trong nhà: “Những tự sự về động vật hoang dã đã thường

xuyên triển khai dựa trên sự phân biệt cấp bậc mang bản chất giới giữa động

vật hoang dã với động vật nuôi trong nhà. Trong đó, động vật hoang dã gắn

với sự tự do nam tính, trong khi vật nuôi bị xem là những nàng hầu gái ủng hộ

sự cướp phá của con người”2.

Đọc truyện ngắn Một lần đối chứng, người đọc ngỡ ngàng khi nhận ra sự

bất khả tri của con người với loài vật, ngay cả những con vật vốn được xem là

thân thiết, đã thuần hóa ở ngay cạnh chúng ta: “Bí ẩn nảy sinh khi bạn bắt gặp

cái nhìn của một con vật thân thuộc, và bạn nhận ra rằng mình chẳng biết gì

cả, hoặc gần như không biết gì về thế giới của chính nó...ngay cả khi ngủ với

mèo và chơi với chó của mình thì bạn cũng chỉ biết rất ít về những gì diễn ra

trong thế giới của nó,về những gì thực sự đang xảy ra trong con tim và khối óc

người bạn nhỏ của mình” [25, tr. 12]. Nguyễn Minh Châu đã liên tục xây dựng

những tình huống mà loài vật khiến con người phải ngạc nhiên, qua đó nhắc

1 Greg Garrard là Giáo sư Bền vững FCCS tại Đại học British Columbia, một giảng viên quốc gia của Học viện Giáo dục Đại học Anh, và thành viên sáng lập và cựu Chủ tịch của Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (Anh và Ireland). Ông là tác giả của chủ nghĩa Ecocriticism (Routledge 2004, 2nd 2nd edn) cũng như nhiều bài viết về sư phạm sinh thái, nghiên cứu động vật và phê bình về môi trường. Ông là biên tập viên về Giáo dục Ecocriticism và Văn hoá Xanh (Palgrave 2011) và Cẩm nang Oxford về Đạo đức học (OUP 2014), và đồng biên tập của Environmental Cultures , một loạt sách từ Bloomsbury Academic Press. Greg sẽ quan tâm đến việc giám sát nghiên cứu đại học và sau đại học về phê bình và lý luận về môi trường; nghiên cứu động vật quan trọng; giáo dục môi trường; văn học và khoa học (đặc biệt là sinh học và tâm lý học); và văn học Anh đương đại. 2 Greg Garrard (2004), Ecocriticism (the New Critical Idom), Routledge.

nhở chúng ta qua những diễn ngôn giữa động vật và trẻ em: động vật phi nhân/

36

vật nuôi trong nhà không phải là trẻ em dù trẻ em vẫn là nơi lưu giữ mối quan

hệ gắn kết nguyên thủy giữa con người và loài vật: “tiếng gọi của đứa con gái

nhỏ đã đánh thức dậy nơi tôi một cái gì đó giống như niềm rung động thật xa

xăm có lẽ từ thủa ấu thơ của loài người” [25, tr. 286]; tiếng gọi của bé gái nhỏ

cũng kéo gần cái phi nhân đến với con người: “con mèo thoạt nhìn thấy tôi liền

nhổm dậy xù lông ra chực tự vệ nhưng con bé của tôi vừa cất tiếng gọi thì đã

chạy lại” [25, tr. 297]. Những đứa trẻ bao giờ cũng dành tình yêu thương vô tư,

hồn nhiên và trong sáng nhất đối với con vật – điều mà khó một người lớn nào

còn giữ được: “mặc cho tôi bảo, con bé vẫn ôm chặt con mèo vào lòng....con

bé vẫn cứ ôm riết lấy trong đôi cánh tay, lại còn đưa hai bàn tay rất sạch sẽ

vuốt ve khắp mình mẩy nó....cô bé và con mèo chỉ đối thoại bằng mấy tiếng

đơn giản nhưng chứa chan tình âu yếm giữa người và con vật bé bỏng” [25, tr.

298]. Nhưng đúng như Nguyễn Minh Châu đã nói: đây không phải là câu

chuyện dành cho thiếu nhi. Gần gũi với con người đến mấy, con vật cũng không

phải là con người, không thể được nhìn bằng cái nhìn “nhân hóa”, không thể

cứ đối xử với chúng như những đứa trẻ dù đầy yêu thương và nâng niu đi chăng

nữa. Tác giả không chấp nhận cái nhìn sơ giản hóa về động vật. Con mèo liên

tục bứt ra khỏi sự nuông chiều muốn trói buộc nó vào thế giới người. Mọi hành

động của nó đều nhắc nhở con người rằng, nó không phải là những đứa trẻ. Dẫu

thế nào nó vẫn xa lạ với trẻ em – những người bạn gắn bó và thương nó nhất:

“Con bé Lan lẽo đẽo đi sau bỗng kêu thét lên một tiếng rồi òa lên. Con mèo đã

chuồi mình ra khỏi cánh tay quăng mình xuống đất vụt chạy....Tôi ra sức dỗ

nhưng đứa trẻ vẫn khóc tấm tức trên vai tôi. Tôi hiểu, cái mà nó đánh mất đi

đó chắc chắn còn to lớn hơn con mèo, và có lẽ cả tôi cũng vậy” [25, tr. 199].

Đó không đơn giản là sự mất mát tình cảm về mặt tình cảm mà còn cho thấy sự

bất toàn của niềm tin và nhận thức trong cái nhìn về con vật.

Mệnh đề sinh thái tiếp theo được chạm tới trong truyện ngắn này là bản

tính hoang dã trong con vật nuôi hay sự quay trở về với bản tính - không gian

37

hoang dã. Việc phân định thú nuôi và động vật hoang dã trở nên mơ hồ hơn bao

giờ hết: “Thuở ban đầu chắc chắn nó cũng là một con vật nuôi trong nhà, một

con mèo ngoan ngoãn, đáng yêu và không khéo cũng được cưng chiều của một

gia đình nào đó, nhưng về sau nó ốm quá, nó bị bệnh xoắn trùng đường ruột,

tôi biết rõ như thế, lại còn ghẻ lở hôi hám, cho nên người ta không thể nuôi

nữa, sau khi đã hết đường chạy chữa. Thế là một hôm nó bỏ nhà ra đi. Nó trở

thành một thứu của vô thừa nhận. Nó phải sống lang thang. Nó trở thành một

gã mèo ốm o không nơi cư ngụ. Rồi nó trở thành mèo hoang từ lúc nào chính

nó cũng không biết” [25, tr. 293]. Sự chuyển hóa này phơi bày một ranh giới

không cố định giữa con vật thuần - hóa/ vật nuôi với con vật hoang dã, giữa

một con “thú cưng” trong nhà vớ một kẻ thù nghịch với loài người. Sự mong

manh này liên tục nhắc nhở con người về cái nơi chốn đích thực mà những con

vật ấy vẫn thuộc về những không gian phi nhân. Khi hai con mèo biến mất vào

bóng chiều trên cánh đồng hoang là lúc con người thức tỉnh về một “kẻ khác”

vẫn tồn tại ngay cạnh mình, không những thế, đánh thức một cảm giác nguyên

thủ khi đứng trước cảnh quan, trước những con vật: “Chưa bao giờ tôi thấy

phong cảnh cánh đồng quen thuộc ấy trở nên hoang dã như thế, hoang dã đến

mức trở thành rất xa lạ, và cả mặt đất mà chúng ta đang sinh sống trong phút

chốc như vừa đi ngược trở về một thời kỳ hồng hoang chưa hề có dấu vết con

người- ngay loài vật cũng đều là loài thú” [25, tr. 299]. Ranh giới này rõ rệt

hơn cả qua cuộc sống của con mèo cái – “cô gái nhà lành”. Với nó không hề có

sự chắc chắn về không gian sống. Mặc cho mọi sự níu giữ, nó đã từng và có thể

rời bỏ cuộc sống với loài người bất cứ lúc nào. Nơi chốn tự do lí tưởng của nó

không phải là thế giới con người: “Ngước cặp mắt ngây thơ về phía chân trời

xa, phía đó lại là một gò đất hoang vu khác, một khu rừng nhỏ thực sự toàn cây

mỡ và sến, táu” [25, tr. 297]. Không có bất cứ cảm giác nào thuần hóa hoàn

toàn được tạo dựng. Mối quan hệ giữa con người với loài vật phi nhân mong

manh và nhiều âu lo hơn người ta vẫn nghĩ. Sống cùng con người trong một gia

38

đình, con mèo có thể phù hợp với những gì loài người kỳ vọng vào nó khi biểu

hiện “một mối tình thân đặc biệt như người” với con bé Lan, khi tỏ ra như đã

trở thành một “cô gái nhà lành” theo đúng những chuẩn mực xã hội người: “trở

về sống trong gia đình tôi, nó lại như xưa, một cô gái nhà lành nhu mì, đoan

trang, ít có con mèo cái nào bì kịp”. Con người, bằng suy nghĩ đơn giản của

mình, bao giờ cũng hy vọng có thể dạy dỗ và loại bỏ/ xóa bỏ dấu vết hoang dã

của con vật bằng những bài học luân lí của chính loài người: “con gái mới nứ

mắt ra mà bỏ nhà đi rông dài rồi! Lại còn ngheo với ngò ....mày cứ ngắm thân

xác của mày bây giờ xem, làm thân con gái mới nhớn lên mà sớm ham mê chơi

bời là chỉ có mà hư thôi con ạ!” [25, tr. 300]. Hoặc, có khi, lại muốn tẩy rửa cái

chất hoang dã của nó theo theo một cách thể xác nhất: “Tôi đã tắm rửa cho nó

bằng nước xà phòng thơm pha nước nóng hơi âm ấm, tôi tắm cho nó năm lần

bẩy lượt với tâm lí hy vọng rằng tắm táp nhiều khi không những thân xác mà

cả tâm hồn nó cũng được rửa sạch” [25, tr. 300].

Điều đáng nói là cái phi nhân, tính hoang dã hay rộng hơn là cái con người

hoang mang, không nắm bắt và không kiểm soát được, liên tục lệnh ra bên

ngoài mọi quy phạm chuẩn mực của đạo đức con người, ở đây lại thường xuyên

đồng nhất với sự ô uế, bẩn thỉu, những vệt đen mà con người muốn xóa bỏ đó

là những vết chân của con mèo hoang trên trang giấy trắng “khiến cho sau đó

tôi phải vừa giận dữ vừa bực dọc cầm mảnh giẻ lau đi rồi vứt mảnh giẻ dơ bẩn

ra ngoài cửa sổ sau đó mới có thể dò dẫm lại được từng chữ một mà mình viết

ra” [25, tr. 293]; đó là vết bùn bẩn trên vạt áo bông hoa do bốn chân con vật cọ

vào: “tôi phủi những vết bùn trên vạt áo bông hoa của nó, lại nhớ những vệt

bùn dơ dáy trên trang bản thảo của mình” [25, tr. 299], đó là màu đen bẩn thỉu

của con mèo hoang: “một mớ da đen sì tanh rềnh” – cái màu đen được tiếp tục

truyền lại cho những đứa con của nó, như dấu ấn của dòng máu hoang dã: “nó

đen sì từ đầu đến chân, hai con mắt vẫn còn được bọc trong cái màng da nhưng

dường như đã hứa hẹn sẽ đầy hằn học. Chắc các bạn đã biết nó mang trong

39

người dòng máu nào rồi” [25, tr. 310]. Đó cũng là màu đen của bóng đêm.

Trường liên tưởng nà tiết lộ một bí ẩn luôn thuộc về tự nhiên mà con người

chưa thể lí giải, cái “chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn muôn loài không bao

giờ cắt nghĩa hết” [25, tr. 307]. Việc tẩy xóa dấu vết hoang dã bên trong con vật

nuôi, theo đó, thực chất là một quá trình “nhân hóa”, làm cho con vật vừa gần

gũi vừa trở nên dễ hiểu hơn theo những bộ khung đánh giá và chuẩn mực đạo

đức của con người.

2.1.2. Làm biến đổi tự nhiên sau vỏ ngoài cải tạo tự nhiên

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự phát triển của công nghiệp hóa

– hiện đại hóa đã đem đến cho con người nhiều tiện nghi, sự tiến bộ, đồng thời

cũng đẩy con người đến cuộc đối đầu trực tiếp với thiên nhiên. Số phận của

rừng, của những loài động và thực vật đang ngày càng bị đe dọa bởi sự khai

thác của con người mà không để ý đến sự phát triển bền vững. Vì khát vọng và

ham muốn tột bậc con người đã khiến cho thiên nhiên trở nên cạn kiệt, kéo theo

rất nhiều hệ lụy dài lâu về mặt sinh thái, làm cho không gian sinh thái ngày một

thu hẹp.

Sự tấn công của con người vào cảnh quan hoang dã như một thực trạng

hiện tại đã được nhà văn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp mô tả một

cách khá rõ nét thông qua các truyện ngắn của mình.

Trong truyện ngắn Sống mãi với cây xanh bác Thông không thể hình

dung nổi đến một ngày những mảnh đất sinh thái nhỏ bé bị triệt hạ để phục

tùng cho tham vọng về một thủ đô hiện đại hơn. Đọc những trang truyện ngắn

này người đọc cảm thấy tác giả như đang nhắc khéo lại với chúng ta rằng, sự

xuất hiện của không gian đô thị không khác gì là hệ quả lâu dài của một quá

trình chinh phục tự nhiên. Những trang viết của Nguyễn Minh Châu cho thấy

sự nhạy cảm của ông trước sự chiếm đoạt và xâm lấn của con người đối với

thế giới tự nhiên. Họ đang chuẩn bị cưa ngắn những cành cây quá dài lâu nay

vẫn đổ bóng mát xuống tận lòng đường. Họ đang om sòm thảo luận về việc

40

nên hạ mấy cành cây lớn xuống theo cách nào để không xảy ra tai nạn, không

làm sập cái nhà; “nhà nào nhà nấy đã chất lù lù một đống củi cành sấu. Thật

ra là một đại yến tiệc thiên hạ”. Những chi tiết ấy cho thấy sự ích kỉ của con

người. Và còn đau lòng: “chỉ còn có một thân cây gỗ trơ trụi thui lủi. Kẻ được

hưởng bóng mát nhiều nhất là lũ trẻ phố chợ và mấy hàng phở quanh ngã tư

vừa nghe tin hạ đốn cây sấu, lập tức xông vào lột da nó, như lột một con bò ở

lò sát sinh. Cây sấu vẫn đứng thẳng với một cái thân đã bị lột vỏ đang ứa

nhựa, ở những khoảng vỏ mới bị lột nom đỏ hỏn như da đứa trẻ sơ sinh...”

[25, tr. 413]. Mượn cái nhìn của bác Thông nhà văn Nguyễn Minh Châu đã

miêu tả hết sức sinh động cảnh tàn sát cây sấu già. Cái cây sấu vô tội bỗng

chốc đã hiện lên như một thi thể, vừa cho thấy sự vô tình tàn nhẫn của con

người trước những món lợi vật chất trước mắt chúng ta đã dễ dàng đánh mất

đi khả năng giao tiếp đối với tự nhiên, cũng có nghĩa dễ dàng đánh mất đi cảm

giác về chính mình như phần da thịt của thế giới. Giao cảm ấy không cần đến

lí trí, không cần đến những ngôn ngữ khác biệt mà con người tự tạo cho mình,

cũng không cần đến những huyền thoại văn hóa. Nó đơn giản chỉ là những

cảm giác với thiên nhiên như chính một phần thi thể của mình: “cây sấu vẫn

bình thản mà ông lão thấy đau, y như sắp phải đứng để người ta cứa vào thịt

da ông lão”; ông “lão không đủ can đảm để nhìn cái phần xương thịt đẽo ra

từ cơ thể sống của một người thân yêu”; “kiệt sức vì đau đớn và cô độc, ông

lão như một cây cổ thụ trăm tuổi đang sắp ngã xuống mặt đất” [25, tr. 451].

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với sự quan sát tỉ mỉ của mình ông đã chỉ ra

những xung đột giữa con người với tự nhiên trong hàng loạt các truyện ngắn

của mình: Muối của rừng, Con thú lớn nhất, Sói trả thù, Trái tim hổ, Những

người thợ xẻ.....

Truyện ngắn Những người thợ xẻ sự tấn công và chiếm đoạt của con người

đối với không gian hoang dã được thể hiện qua mối liên hệ giữa đói nghèo –

môi trường được phơi bày trực tiếp. Chỉ những kẻ bần cùng mới chọn không

41

gian hoang dã như một chốn tìm kiếm món lợi sinh tồn. Không chỉ thế, nếu như

ở những không gian thôn dã, nông dân là những kẻ bên lề hóa, thì ở đây những

con người sống tăm tối, khổ cực và cô độc giữa thiên nhiên rừng rú hoang sơ

là những đứa con rơi thứ hai của xã hội văn minh. Đó là hành trình lên miền

ngược xe gỗ của Bường, Biên, Biền, Ngọc. Họ đều là những người ở miền xuôi

vì kế sinh nhai mà đi lên miền núi – vào rừng để tìm nguồn sống bằng cách chặt

gỗ - sự chiếm đoạt không gian núi rừng một cách vô độ khiến tự nhiên phải oằn

mình để chống đỡ. Những cây “chò chỉ” to ở rừng bị ông Thuyết thuê người ta

chặt và cưa xẻ ra từng khúc để phục vụ cho việc dựng nhà, phục vụ cho lợi ích

kinh tế của con người: “Theo giấy tờ ông Thuyết ghi sẵn, chúng tôi phải xẻ cái

cột nhà 40x40x320, đấy là chưa kể các cây quá giang với vì kèo. Anh Bường

bảo: Lão Thuyết này làm nhà kiểu gì mà lắm cột cái thế không biết? Hay là

nhà sàn? Buổi trưa có một anh công nhân nông trường đi kiếm củi qua chỗ

chúng tôi Anh Bường níu lại nói chuyện. Anh Bường phàn nàn phải xẻ 36 cái

cột nhà to tướng, anh công nhân cười: Nhà năm gian trên này chỉ đến 12 cái

cột là hết mức. Tay Thuyết này ranh lắm, chắc chắn hắn xẻ để bán cho cánh lái

xe dưới xuôi đây mà. Họ thích cột nhà bằng gỗ chò chỉ lắm. Anh Bường bảo:

Ông anh này, phiền bác dụ cánh lái xe vào đây, bọn này sẽ bán trực tiếp, không

cho tay Thuyết biết, có được không? Anh công nhân bảo: Được. nhưng có mầu

không? Anh Bường bảo:Dứt khoát chứ? Bác tên là gì? Em tên là Đặng Xuân

Bường.Anh công nhân bảo: Tôi tên là Trần Quang Hạnh. Anh Bường bảo: Bác

có cái tên đẹp thật. Đừng làm xấu cái tên nhé. Anh công nhân cười: Được rồi,

bốn hôm nữa sẽ có ô tô vào đấy” [98, tr. 151] Có thể thấy nạn chặt phá rừng

bừa bãi ở Bản Hoan trong truyện ngắn Thổ cẩm là nguyên nhân thực sự của sự

đói nghèo và dốt nát. Dưới sự khai thác của con người, những cánh rừng thuộc

về tự nhiên dần dần bị thu hẹp và chiếm đoạt.

Nguyễn Huy Thiệp có cách viết rất hiện đại và tự nhiên khi viết về truyện

ngắn Con thú lớn nhất, ở truyện ngắn này tác giả nói về một tay thợ săn ở Hua

42

Tát rất tài tình. Những thành tích của lão khi được kể ra khiến cho người đọc

cảm thấy sợ hãi, rùng mình hơn là cảm thấy nể tài săn bắn của hán: “Người

chồng là tay thợ săn cự phách: Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi

khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng

sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim

xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì

lốm đốm những vệt nước tủy màu vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như

những cái mả. Lão thợ săn như hiện thân của thần Chết của rừng. Chim chóc

và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với

lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình” [98, tr. 218].

Sự tàn nhẫn của lão thợ săn không chỉ thể hiện qua hình ảnh đống xương thú

và lông chim sau nhà lão mà còn được miêu tả qua hành động của lão ta: “Có

người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con Công đang múa. Một

con Công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung

với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo

khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu mới lượn vòng tinh tế như thế. Con Công đang

múa, thế mà – “Đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi

lửa đỏ. Con Công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc như máu. Vợ lão

già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con Công cho vào cái lếp sau lưng”

[98, tr. 218]. Con người đang tận diệt vẻ đẹp của thiên nhiên, đó là điều mà nhà

văn Nguyễn Huy Thiệp muốn chỉ ra trong câu chuyện về một lão thợ săn đã

bắn con Công đang múa. Ở đây, nhà văn muốn nhấn mạnh tới hai lần hành động

của con Công: “lão bắn chết một con Công đang múa. Một con Công đang múa

nhé”. Câu văn không một từ ngữ nào nói đến sự thương xót con Công mà đọc

lên thấm thía xót xa. Con Công vốn được mệnh danh là công chúa của rừng,

khi nó đang múa là lúc vẻ đẹp được tỏa sáng nhất, thu hút nhất, quyến rũ nhất,

vậy mà khẩu súng của lão thợ săn đã lợi dụng lúc ấy để hạ ngục nó, giết chết

nó. Và Khẩu súng đã trở thành phương tiện hỗ trợ bàn tay của con người hủy

43

diệt cuộc sống của thế giới tự nhiên, phá hủy vẻ đẹp của tự nhiên một cách thô

bạo và tàn nhẫn nhất. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn thấu được bản chất của vấn

đề khi đặt thiên nhiên và con người đối diện nhau. Cái nhìn cảu con người và

tự nhiên dành cho nhau hiện nay đã kèm theo thái độ, sự mâu thuẫn, sự xung

đột. Con người đang ăn mòn, phá hoại tự nhiên chứ không còn đơn thuần là

việc chinh phục, cải tạo tự nhiên.

Cũng nói về một tay thợ săn giỏi ở Hua Tát, truyện ngắn Sói trả thù kể về

Hoàng Văn Nhân – một người có tài săn bắn: “Ở Hua Tát có gia đình thợ săn

họ Hoàng. Đến đời Hoàng Văn Nhân thì tiếng tăm gia đình này đã vang dội

khắp các bản mường. Nhân bắn rất giỏi, ông luôn là người cầm trịch trong các

mùa săn. Ông không biết sợ là gì. Điều này giống như cha ông, ông nội ông và

cụ ông” [98, tr. 227]. Ông Nhân đã bỏ qua lời cảnh tỉnh của những người già

trong bản khi đưa thằng con trai duy nhất của mình vào rừng từ lúc nhỏ: “Từ

năm năm tuổi, San theo cha vào rừng. Ông Nhân quyết chí rèn cặp cho con

cũng thành một chàng thợ săn lão luyện”. Trong một lần theo cha đi săn cùng

phường săn của bản, San đã được tận mắt quan sát bố săn thú và được ông dạy

cho những kinh nghiệm khi đi săn. Phường săn và ông Nhân đã truy đuổi để

giết hại những con sói cuối cùng trong đàn, con cuối cùng là con đầu đàn, khôn

nhất, già nhất. Đến lúc cận kề cái chết, bản năng làm mẹ của nó trỗi dậy, nó

ngoạm được một con sói con đẹp nhất để tha đi chạy trốn khỏi sự săn bắn của

con người nhưng không thành. Cái nhìn lần cuối của nó dành cho ông Nhân

không phải cái nhìn van lơn, cầu cứu, căm thù hay sợ hãi mà cái nhìn như để

nhận dạng. Cái nhìn ấy thật ám ảnh, nó khiến người đọc cảm thấy ghê sợ sự tàn

nhẫn của phường săn và ông Nhân. Nhất là hành động của ông Nhân: lia cả vào

lưng con sói một chùm đạn ghém. Chỉ là cái chết của một con sói thôi nhưng

nó khiến người ta có cảm giác ông Nhân như một kẻ sát nhân độc ác.

Sự tác động của con người vào tự nhiên không chỉ là tước đoạt sự sống

của các loài động vật mà còn là tước đoạt cả quyền sống trong thế giới hoang

44

dã của chúng. Khi thằng San bắt con Sói mang về nhà nuôi chính là lúc con vật

bị tách ra khỏi cuộc sống tự nhiên trong môi trường hoang dã thân thuộc của

mình. Thế giới của con người đang sống không phải nơi thuộc về nó, không

mang lại cho nó sự nghích nghi thực sự. Sự nhẫn tâm của con người đối với tự

nhiên thể hiện ở cả những hành vi ấy. Hành vi này cho thấy con người đang đi

ngược lại với quy luật của tự nhiên. Những con thú hoang dã vốn có cuộc sống

của riêng nó. Chỉ có rừng thì chúng mới thực sự được sống thỏa mái theo bản

năng của nó nhất.

Con người cho đến ngày nay, vẫn nhầm tưởng rằng mình đã thuần hóa

được những con thú hoang dã, tưởng rằng đã xóa được bản năng hoang dã của

nó. Nhưng bản chất hoang dã vẫn là thuộc tính bản năng ẩn sâu trong mỗi con

vật đó. Do vậy mà con người cần phải nhìn thằng vào vấn đề này, cần thay đổi

nhận thức và hành động của chính mình khi ứng xử với thiên nhiên. Cần tôn

trọng thiên nhiên, không nên can thiệp quá nhiều vào thiên nhiên. Chúng ta

thấy rằng, ở tất cả các truyện ngắn có viết về chủ đề sinh thái của nhà văn

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp nếu con người xâm phạm vào tự

nhiên thì sẽ bị thiên nhiên dạy cho bài học.

Trong truyện ngắn Muối của rừng, biểu hiện con người tận diệt tự nhiên

được thể hiên qua nhân vật ông Diểu. Động thái của ông Diểu khi vào rừng là

đi săn các loại thú quý hiếm, con thú nào càng quý hiếm thì càng chứng tỏ được

trình độ săn bắn của mình. Trong truyện ngắn, ông Diểu là một con người thật

đáng sợ, ông đã chĩa súng, nã đạn vào những loài vật có quan hệ gần gũi với

con người. Sự chủ động này của ông Diểu chứng tỏ rằng việc ông ta bắn con

khỉ hoàn toàn đúng với mục tiêu đặt ra của ông ta trong cuộc đi săn. Điều này

cho thấy mối xung đột giữa con người với tự nhiên đã hình thành một cách có

ý thức. Ông Diểu đang hủy diệt tự nhiên để thỏa mãn thú vui của mình. Con

người khi vào rừng đã hình thành sẵn ý đồ xấu trong khi đó bộ ba trong gia

đình khỉ vẫn thực hiện những hành động theo bản năng sinh tồn thường ngày

45

của chúng: bứt quả trên cây để ăn. Chúng không hề nhận thấy nguy hiểm đang

đến gần bằng việc: “Ông Diểu bóp cò. Tiếng súng dữ dội đến nỗi đàn khi đàn

khỉ lặng đi dễ đến một phút. Con khỉ đực buông tay ngã nhào xuống đất nặng

nề” [98, tr. 68]. Đó là một thước phim ám ảnh, ám ảnh không phải nó đặc sắc,

ám ảnh vì hình ảnh con khỉ đực ngã nhào xuống đất nặng nền. Khẩu súng và

bàn tay của con người đã không bỏ qua cơ hội bắn hạ con thú đáng thương và

được xếp vào loại khôn nhất trong thế giới động vật. Nhưng đường bay của

viên đạn từ khẩu súng hai nòng hiện đại mà ông Diểu có sức mạnh hơn trí thông

minh của một con thú. Tiếng súng ấy được tác giả miêu tả: “Tiếng súng dữ dội

đến nỗi đàn khỉ lặng đi dễ đến một phút”. Sự sợ hãi của đàn khỉ thể hiện bằng

việc chúng lặng đi khi nghe tiếng súng. Đó là thứ âm thanh của sự chết chóc

mà phương tiện hiện đại của con người mang đến. Nó đã làm phá vỡ sự yên

bình của bầy khỉ khi đang cùng nhau đi kiếm ăn trong rừng. Hình ảnh con khỉ

ngã nhào xuống đất là một sự việc đau xót nhất trong tác phẩm. Sự đau xót này

không hẳn là do cái thiện của mỗi con người lên tiếng, nó còn là sự lên tiếng

của văn hóa ứng xử giữa con người với tự nhiên. Khi con người và tự nhiên

đang cùng nhau chung sống trong hệ sinh thái nhưng lại không có sự bình đẳng.

Con người luôn tìm cách tàn nhẫn. Tự nhiên, nói hẹp hơn chính là các loài động

vật trong tự nhiên luôn nằm trong tầm ngắm của những khẩu súng săn, cả vì

mục giải trí như ông Diểu và cả vì mục đích kinh tế của bao kẻ săn nhẫn tâm

kiếm lời bằng việc tước đoạt sự sống của muông thú. Nếu như trong văn học

dân gian, những câu chuyện kể về những người đi săn khiến người đọc cảm

thấy khâm phục những nhân vật có tài đi săn thì bước sang thời kì văn học hiện

đại, cụ thể trong những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tình cảm

dành cho những tay thợ săn đã hoàn toàn ngược lại. Điều này càng khẳng định

quan điểm thẩm mỹ của thời đại chi phối đến tình cảm thẩm mỹ của tác giả đối

với văn học.

Trong truyện ngắn Tướng về hưu con người gần như tách biệt hoàn toàn

46

với môi trường tự nhiên hoang dã. Thế nhưng trong không gian vốn nghiễm

nhiên được coi là văn hóa, văn minh ấy, một cá thể nghiễm nhiên hiện hữu;

chính con người trở thành thức ăn nuôi sống động vật, trong cái nhìn vô cảm

để phục vụ cho lợi nhuận kinh tế đồng loại: “Vợ tôi làm việc ở bênh viện phụ

sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai bỏ đi, Thủy cho vào

phích đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng

cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dẫn tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám,

trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc” [98, tr. 13]. Dưới

góc nhìn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, con người không chỉ là tội đồ với

thiên nhiên, chiếm đoạt không gian hoang dã của thiên nhiên mà chính con

người lại trở thành thức ăn để nuôi sống động vật, vì cái mục đích lợi nhuận

kinh tế mà con người bất chấp mọi thủ đoạn. Đây là một điểm nhìn mới của

nhà văn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

Con người ngày nay đang tận diệt vẻ đẹp của thiên nhiên, đó là những

điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp muốn chỉ

ra qua những câu chuyện của mình. Con người đang vô tư nghĩ và hành động

theo ý mình khi tác động vào tự nhiên. Con người hiện đại dường như ngày

càng tàn nhẫn và lạnh lùng và vô cảm trước sự đau đớn của tự nhiên khi sự

sống của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Bây giờ vẫn còn nhiều những ông

Diểu mùa xuân mang súng vào rừng, thậm chí vào ngay dưới những vòm cây

bên rìa thành phố để mà tận diệt chim muông, cầm thú. Những ông Diểu ở thời

đại này là những ông Diểu hãnh tiến và thành đạt bây giờ chắc sẽ chẳng ai đi

về hai tay không như ông Diểu trong truyện ngắn Muối của rừng của Nguyễn

Huy Thiệp. Và cũng sẽ chẳng có khóm hoa tử huyến nào chờ đợi họ. Mưa mùa

xuân cũng không còn rắc trên đầu họ. Chỉ có một bầu trời mù xám màu dành

cho họ mà thôi.

2.2. Phản ứng của tự nhiên trước sự ích kỉ của con người

Con người xuất hiện và tồn tại trên thế giới tự nhiên đã hình thành và phát

47

triển từ rất lâu. Tự nhiên đã hào phóng dành tặng cho con người biết bao của

cải mà nó đã tạo ra từ thủa ban đầu. Nguồn tài nguyên ấy vô cùng giàu có nhưng

lại không vô tận. Dựa vào trí tuệ và sự phát triển ngày càng tiến bộ của các

công cụ lao động cũng như kỹ thuật hiện đại mà con người sở hữu để tác động

vào tự nhiên nhằm khai thác những nguồn lợi từ đó phục vụ cho cuộc sống của

mình. Tuy nhiên, khi con người ngày càng lạm dụng khoa học kỹ thuật hiện đại

của mình thì sự bóc lột đối với thế giới tự nhiên ngày càng vượt quá mức cho

phép, đi quá xa sự chịu đựng của tự nhiên. Trong một chừng mực nào đó, tự

nhiên đã có những phản ứng nhất định để đáp trả lại những hành động của con

người. Những phản ứng của tự nhiên được miêu tả trong tác phẩm của nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp là tiếng nói của tự nhiên trước ứng xử của con người. Đó là

sự thức tỉnh ý thức của con người và trả thù của con người khi can thiệp của họ

trở nên quá thô bạo vào thế giới tự nhiên.

Trong Muối của rừng chi tiết con khỉ con đoạt mất súng của ông Diểu gây

ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Nó không lao vào tấn công ông Diểu để trả thù

cho bố mẹ nó, cũng không sợ hãi bỏ chạy, không làm gì khác mà chọn việc đoạt

lấy súng của ông Diểu: “Từ mô đá, bỗng nhiên con khỉ con xuất hiện. Nó túm

lấy dây súng của ông kéo lê trên mặt đất” [98, tr. 69]. Cho thấy tự nhiên muốn

ngăn chặn bàn tay phá hoại của con người. Sự giằng co ấy cho thấy tự nhiên

không còn được bình yên như nó vốn có mà luôn phải đấu tranh với con người

để tồn tại. Trong mối quan hệ giữa tự nhiên và con người đang diễn ra hiện nay

có sự bất bình đẳng bởi chỉ có con người khai thác đến kiệt quệ các nguồn lợi

từ tự nhiên mà bù đắp chẳng đáng là bao trong khi tự nhiên cứ gồng mình lên

đáp ứng các nhu cầu của con người. Tự nhiên đang phải giành giật sự sống với

bàn tay tàn sát của con người. Và khẩu súng của ông Diểu là một biểu tượng

đắt giá cho ý đồ nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp muốn truyền đạt.

Con khỉ khi rơi xuống vực vẫn giữ chặt lấy khẩu súng của ông Diểu, nó thà

chịu rơi xuống vực chứ nhất định không chịu buông bỏ khẩu súng săn trả cho

48

ông Diểu. Có lẽ sự lựa chọn mang theo khẩu súng cùng rơi xuống vực của nó

là muốn lấy đi phương tiện trợ giúp con người trong việc tàn sát đồng loại của

nó. Hình ảnh “Giữ chặt dây súng, nó lăn xuống miệng vực không một chút chần

chừ” không chỉ là hành động của một con khỉ nữa mà là lời lên án của thiên

nhiên dành cho con người, là sự phản đối của thiên nhiên trước hành động của

con người. Sư hy sinh “không chút chần chừ” cùng với tiếng “rú thê thảm của

con khỉ nhỏ” là lời cảnh báo. Là phản ứng của thiên nhiên không chỉ với ông

Diểu mà cho cả loài người. Tự nhiên đang đòi lại những gì thuộc về tự nhiên.

Điều này được thể hiện ở chi tiết con khỉ cãi lẽo đẽo đi theo ông Diểu khi ông

ta vác con khỉ đực bị thương xuống núi. Khỉ cái muốn giành giật với ông Diểu

con khỉ chồng của nó, giành lại cuộc sống tự nhiên cho con thú bị con người

cướp khỏi rừng và có nguy cơ mất đi mạng sống của mình: “Đi được một quãng,

ông Diểu quay lại thì vẫn thấy nó lẽo đẽo đằng sau. Thật khốn nạn quá! Ông

Diểu đặt con khỉ đực xuống đất rồi nhặt đất đá đuổi con khỉ cái. Nó kêu the thé

rồi chạy biến đi. Chạy được một lúc, ông Diểu ngó lại thì vẫn thấy nó lẵng

nhẵng bám theo. Cái bộ ba ấy cứ thế lầm lũi xuyên rừng. Con khỉ cái cũng thật

kiên trì. Ông Diểu bỗng thấy bị xúc phạm ghê gớm. Tựa như ông bị theo dõi.

Bị đòi ăn vạ” [98, tr. 73]. Sự đeo bám giành giật lại sự tự do cho đồng loại từ

tay con người của con khỉ cái khiến ta phải suy ngẫm. Ông Diểu đã tách con

khỉ đực ra khỏi cuộc sống bày đàn của nó khiến sự ổn định và đầy đủ của đàn

bị xáo trộn và thiếu hụt, lẽ tất nhiên chúng sẽ tìm cách lấy lại sự cân bằng cho

chúng nên chúng không bỏ cuộc. Tự nhiên có quy luật của tự nhiên. Con người

đã lợi dụng sức mạnh của khoa học kỹ thuật làm tổn thương tự nhiên, xáo trộn

sự bình yên và sự ổn định của tự nhiên. Đòi quyền bình đẳng, đòi “ăn vạ” khi

bị tổn thương là điều chắc chắn tự nhên sẽ làm. Tự nhiên không hét lên những

tìm “lột truồng” ông Diểu cướp đi cái thể hiện sự văn minh ở con người, đưa

con người về với hình hài nguyên thủy của họ khi đối diện với tự nhiên. Chi

tiết tổ mối đùn lên cuốn hết quần áo của ông Diểu cho thấy tự nhiên cũng khéo

49

biết cách trêu chọc con người. Một người đi săn được trang bị đầy đủ phương

tiện hiện đại nhưng khi bước vào rừng đã trút bỏ mọi thứ vướng víu, màu mè,

phục trang của xã hội để quay về với cái bản thể của mình. Với hình hài nguyên

thủy ấy, bóng của ông Diểu nhòa vào màn mưa. Thiên nhiên đã xóa nhòa hình

ảnh của ông. Con người khi ấy trở nên bé nhỏ hiên nhiên. Con người khi ấy trở

nên bé nhỏ trước tự nhiên, cái hình ảnh oai phong khi ông Diểu nổ súng bắn

con khỉ đực không còn nữa, điều còn lại lúc ấy chỉ còn là một con người cô

đơn, lầm lũi đi trong màn mưa xuân.

Hậu quả khi con người tác động vào tự nhiên một cách thái quá quá còn

được thể hiện trong truyện Con thú lớn nhất: “Cuối năm ấy, ở Hua Tát động

rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú trong

rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn rằng

Then bắt đầu trừng phạt” [98, tr. 219]. Thực chất không có sự trừng phạt của

then mà là hậu quả tất yếu của sự khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng mà người

ta đã và đang làm. Khi rừng không còn đủ khả năng đáp ứng nữa, khi muông

thú sợ hãi trước tiếng súng săn của con người, khi từng ngày những cây gỗ bị

đốn hạ, chim chóc đâu còn chốn lương thân, rừng trụi lá, tất yếu sẽ xác xơ, trơ

trụi. Đó là thảm họa của Hua Tát. Cây cối hứng chịu sự tàn phá và hủy diệt đầu

tiên, và sau đó có thể sẽ đến con người. Tự nhiên bắt đầu quay lưng với con

người bằng việc là khi cây cối làm cho con người thiếu hụt nguồn sống từ thực

vật. Đó là sự đáp trả y hệt như những gì con người “dành” cho tự nhiên để rồi

nhận lại những hậu quả tương tự. Chỉ có như vậy con người mới thấu hiểu được

nỗi sợ hãi của nguy cơ bị diệt vong như thế nào. Như vợ chồng lão thợ săn ngụ

cư ở Hua Tát trong những ngày tháng Hua Tát động rừng: “Lão thợ săn ngụ cư

kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên

trong đời lão gặp cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được

nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ gầy của

lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn

50

lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà xanh lét như mắt chó sói. Lần ấy lão

già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, cơ bắp thịt

nhão tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết

máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí

một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã bắt đầu

trừng phạt thế gian này như lời người ta đồn đại chăng?” [98, tr. 219]. Màu

ngọn lửa mà mụ vợ nhóm dự báo một điềm không bình yên sắp xảy ra. Màu

xanh lét của ánh lửa trong bếp nhà lão thợ săn được nhắc lại đến lần thứ hai khi

lão trở về nhà. Một kết cục bi thảm cho cuộc đời vợ chồng lão thợ săn. Lão đã

lầm tưởng vợ mình là con công, lão bắn chết vợ mình khi bà ta ra rừng tìm lão

và tay mụ có cầm bộ lông chim công. Điều đáng nói ở đây là cái mụ đem theo

không phải là cái gì khác mà chính là bộ lông con chim công mà trước đó lão

thợ săn đã bắn nó khi nó đương múa. Bộ lông chim ấy dẫn đường cho viên đạn

từ khẩu súng của lão bay đến người mụ vợ. Chi tiết này chứa đầy ẩn ý: hình

ảnh bộ lông con chim công con chim công bị giết hại trước đó hay chính là tự

nhiên bị tàn phá đã dẫn đường cho mụ vợ lão thợ săn đến với cái chết bi thảm?

Đó có phải là sự trả thù của tự nhiên dành cho con người hay không? Chính bộ

lông chim công ngày nào bà vợ nhặt về lại mang đến cho mụ vợ một cái kết bi

đát của cuộc đời. Mụ chết bởi viên đạn trong tay lão chồng, chua xót hơn khi

mụ không được chồng mình nhận ra mà lại lầm tưởng là con mồi. Cái kết của

câu chuyện khiến người ta suy nghĩ: “Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng

queo của lão ra khỏi bụi cây. Một viên đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn

được con thú lớn nhất của đời mình”. Con người sẽ tự hủy diệt chính mình nếu

họ hủy diệt tự nhiên. Có thể nhận thấy ở truyện ngắn Con thú lớn nhất một đặc

điểm là khi con người chưa kịp nhận sự trừng phạt của Then như lời người ta

đồn đại thì lão già đã tìm đến cái chết. Cay đắng hơn, lão còn dùng cái xác thối

của mụ vợ làm mồi săn thú. Nhờ có con mồi này lão đã săn được con thú lớn

nhất của đời mình, đó chính là mạng sống của lão. Kết cục của câu chuyện

51

khiến người đọc rùng mình. Tự nhiên không giết họ một cách trực tiếp. Tự

nhiên để mặc họ tự kết liễu đời mình khi đã bị tự nhiên đóng cửa không ban

phát của cải nữa. Cách ứng xử này thấm thía và mạnh mẽ hơn việc tự nhiên

trực tiếp trả thù con người. Tuy không thẳng thắn trừng trị sự bóc lột đến cùng

kiệt tự nhiên của con người nhưng hậu quả đáng sợ mà con người phải hứng

chịu cũng đủ để con người phải nhìn nhận lại chính bản thân mình. Con người

khi đã tận diệt tự nhiên, đã lấy hết tài nguyên thiên nhiên, tất yếu sẽ tự chĩa

súng vào chính mình. Đó là kết cục của con người khi không biết quý trọng tự

nhiên. Tự nhiên trả lời con người bằng cách dồn họ đến bước đường cùng, dẫn

họ lạc vào tình cảnh không còn tỉnh táo, khiến họ tìm đến cái chết một cách đau

đớn.

Việc tự nhiên trả thù con người một cách ghê rợn nhất trong truyện ngắn

viết về chủ đề sinh thái trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có

lẽ phải kể đến truyện ngắn Sói trả thù. Ông Nhân không thể ngờ rằng con sói

mà thằng con trai độc nhất của ông mang về từ cuộc đi săn năm nào đã cướp

mất mạng sống của ông vào đúng ngày cúng ma cho thằng San khi nó tròn 13

tuổi: “Ông Nhân định ngày cũng ma cho con. Ông bảo người ta giết hai con

lợn, nhân thể giết luôn con chó sói để thiết đãi bà con trong bản” [98, tr. 229].

Nhưng thật đau lòng, con sói chưa kịp giết thì thằng con trai của lão gặp nạn

khi bố nó sai xem công việc của người làm: “Hôm ấy, khi người nhà chuẩn bị

động giao giết lợn thì xảy ra một việc kinh người....nó nhảy ba bước tới cầu

thang bằng gỗ vàng kiềng, không may cái ống quần lanh vướng vào cái then

ngang của cái cầu thang. Nó ngã xuống đất ngay nơi xích chó sói. Con sói đang

nằm lim dim thì bỗng giật mình chồm dậy. Thằng San đập đầu xuống một hòn

đá cạnh con chó sói, miệng vấp vào cái dây sắt buộc vào cổ nó. Máu trào ra từ

miệng thằng San. Vết máu đỏ từ miệng thằng San thức tỉnh từ trong tiềm thức

mơ hồ của con thú một điều gì đấy. Nó chồm lên nhe hàm răng trắng nhọn và

trắng nhởn tớp vào giữa cổ thằng San nơi có những vết lang ben mờ mờ. Người

52

nhà ông Nhân hốt hoảng chạy lại. Con chó sói như điên dại không buông tha

thằng bé. Nó cắn, cào, nhay, nhá, nó rứt từ cổ thằng San ra từng mảng thịt,

từng sợi gân và dây chằng bê bết máu. Thằng San chết ngay, mắt trợn ngược.

Cổ nó hõm vào một khoảng đỏ lòm, từ đấy máu phun ra phì phì, sủi cả bong

bóng. Máu phun đầy mặt con chó sói, nhuộm đỏ cả cái đầu lông lá bù xù” [98,

tr. 229]. Thằng San đã chết – một cái chết thật đau đớn. Nó chết do bị ngã xuống

hòn đá cạnh con sói và miệng thì vập vào cái dây sắt buộc cổ con sói. Chính

cái dây sắt ấy là sản phẩm của con người hiện đại, của xã hội loài người. Chính

sản phẩm ấy đã trở thành một công cụ giúp con người cột chặt tự do của một

con vật có cuộc sống thành công cụ giúp con người cột chặt sự tự do của một

con vật có cuộc sống thuộc về thế giới tự nhiên. Những tưởng có sự trói buộc

ấy, con thú hoang sẽ trở nên vô hại với con người nhưng chính con người đã

vấp phải sợi dây do họ tạo ra để xích con thú. Sự trả thù của con người với con

thú khiến người ta phải bằng hoàng, sợ hãi, nhìn lại cái kết của những kẻ đi săn,

những kẻ chĩa súng vào những con thú hoang dã, những kẻ nhẫn tâm tước đoạt

quyền được sống trong môi trường hoang dã của thú rừng.

Có thể khẳng định xung đột trong mối quan hệ với con người với tự nhiên

thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những xung đột hoàn toàn có

ý thức, xảy ra do chính ý muốn chủ quan của con người. Những hành động con

người thực hiện khi tác động vào tự nhiên khiến tự nhiên không đủ khả năng

chịu đựng và tìm cách đáp trả. Có thể sự báo thù của tự nhiên ở mức độ răn đe,

dạy cho con người bài học hay trả thù một cách thẳng tay thì con người cũng

phần nào nhận ra được cái giá của việc tước đoạt quyền bình đẳng của tự nhiên

trước con người. Dù là cách thể hiện nào đi chăng nữa thì tự nhiên cũng đã có

những biểu hiện nhằm thức tỉnh ý thức của con người, mong muốn con người

nhận ra được tầm quan trọng của việc khai thác, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên

nhiên, tránh lạm dụng khoa học kỹ thuật mình có để tàn phá, tận diệt tự nhiên,

tránh để tự nhiên quay lưng lại hoặc báo thù con người.

53

Có thể nói, bằng tình yêu thiên nhiên, yêu thế giới tự nhiên, yêu những

sinh vật đang tồn tại cùng con người trong môi trường sinh thái mà Nguyễn

Huy Thiệp đã viết lên những câu chuyện con người vô tình hay cố ý gây lên

những tội ác với tự nhiên nhiều hơn phần viết về vẻ đẹp tự nhiên. Bằng những

truyện ngắn thể hiện chủ đề sinh thái, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp muốn dự báo

trước thực trạng và hậu quả khôn lường nếu con người cứ cố tình khai thác và

sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi. Qua đây có thể thấy cái nhìn

và tư tưởng của các tác giả về một vấn đề mang tính thời sự của toàn cầu hết

sức tinh tế và nhân văn.

2.3. Sự hài hòa giữa con người với tự nhiên

2.3.1. Sự ăn năn và sám hối của con người

Văn học trước 1975 viết về tự nhiên chủ yếu là để nói về con người, và

lấy con người làm trung tâm mô tả, biểu hiện, đánh giá tự nhiên. Tự nhiên trong

văn xuôi sau 1975 mang một cảm hứng khác, và có sự khác nhau trong điểm

nhìn của tác giả về thế giới tự nhiên dưới một cảm quan mới – cảm quan sinh

thái. Sự khác biệt về điểm nhìn đó dẫn tới sự thay đổi quan niệm về tự nhiên,

vai trò của tự nhiên có sự thay đổi: các ước lệ về tự nhiên bị phá vỡ, thay vào

đó là các quan niệm về một tự nhiên tự trị, tồn tại bên trong con người, không

còn phụ thuộc vào bàn tay con người mà thay vào đó tự nhiên là sinh mệnh độc

lập. Không còn là nền cảnh, là cái cớ mà chúng có sinh mệnh thật sư, có số

phận, tính cách, tâm hồn....Như nhà văn Mạc Ngôn đã từng phát biểu: “Khi đó

tôi bỗng cảm thấy có cây quanh mình, và cả bò dê nữa, đều có thể trò chuyện

với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh mà còn có cả tình cảm nữa”.

Chính vì vậy, các tác giả muốn nhìn đời sống qua con mắt của chính loài vật,

như bản chất tự nhiên, hoang dã của nó, bên ngoài mọi tình cảm cao thượng,

trong sáng của con người, ngoài cả những ý kiến định áp chế của con người.

Văn học sinh thái viết về con người với những trách nhiệm của con người

đối với thế giới tự nhiên. Văn học khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong tự

54

nhiên và duy trì cân bằng sinh thái. Văn học sinh thái đưa trách nhiệm của con

người đối với tự nhiên thành định hướng đạo đức chủ yếu. Đạo đức ở đây không

chỉ là trong các mối quan hệ giữa con người với con người mà với việc anh ta

đối xử với thế giới xung quanh ra sao. Từ đó nhận diện những mẫu hình nhân

cách mới cho chủ nghĩa nhân văn, ở đó con người cần tôn trọng, yêu thương,

che chở thế giới tự nhiên, nhìn vào loài vật để điều chỉnh đạo đức của mình.

Cùng với các nhà văn hiện đại cả hai nhà văn Nguyễn Minh Châu và

Nguyễn Huy Thiệp và nhiều nhà văn khác nữa họ đã vượt qua lối tư duy truyền

thống để cảm nhận thiên nhiên trong sự giao thoa văn hóa Đông - Tây. Ở đó,

con người và thiên nhiên tuy không hòa tan vào nhau nhưng giữa con người và

thiên nhiên dường như không có ngăn cách. Ông lắng nghe tiếng nói của tự

nhiên bằng giác quan nhạy cảm của mình, thấu hiểu nó bằng cả tấm lòng với

chủ nghĩa nhân văn cao cả.

Truyền thống tư tưởng phương Đông thường thiên về bảo vệ động vật hơn

thực vật nhưng thực tế cây cối cũng có cảm giác. Nhiều thí nghiệm chỉ ra rằng

thực vật thay đổi hướng của những chiếc lá đến phía ánh sáng và kéo dài rễ đến

chỗ có nước hoặc chất dinh dưỡng. Như vậy thực vật cũng nhận thức được môi

trường. Bởi vậy “từ góc nhìn rộng, thực vật có tri giác” [52, tr. 194]. Và chỉ

những người thực yêu thương cây cối mới có thể nhận ra cảm giác của cây cỏ.

Đọc truyện ngắn Sống mãi với cây xanh, chúng ta thấy trong con mắt của ông

Thông, việc chặt cây xấu là “làm thịt” khiến cho “thân cây bị lột vỏ đang ứa

nhựa, ở những khoảng vỏ mới bị lột nom đỏ hỏn như da đứa trẻ sơ sinh”. Và

khi cây xấu bị hạ xuống bác Thông như mất đi một phần cơ thể của mình vậy:

“Cây sấu vẫn bình thản mà ông lão thấy đau, y như sắp phải đứng để người ta

cưa tay cưa chân mình”, ông còn cảm nhận được “tiếng máy cưa xoèn xoẹt

cứa vào da thịt ông lão”.

Quả là, loài vật cũng có cảm nhận đời sống riêng theo cách của nó, có một

cảm quan đặc biệt, biết lắng nghe và đánh thức phần tâm linh sâu thẳm của con

55

người. Những hành trình cô độc của một con người cô đơn với con vật yêu

thương của mình là motip quen thuộc trong văn học bởi vì trong những khoảnh

khắc đặc biệt ấy sự nhạy cảm bản năng của loài vật đã đánh thức phần vô thức

chìm sâu của con người. Vĩnh biệt Gunxarư của Aitmatốp là một cuộc đi nhuốm

đầy màu sắc huyền thoại của một người già nua trên chiếc xe ngựa già nua.

Hành trình ấy khơi dậy trong ký ức đã tàn lụi bóng dáng của những ngày xưa

cũ kì diệu, mãnh liệt. Trong truyện ngắn Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu)

là dòng nội tâm miên man của lão Khúng chập chờn đan xen hai chiều quá khứ,

hiện tại lồng cài trên quãng đường dắt con bò ra chợ Giát. Con bò Khoang đã

gợi dậy một thế giới hoang vu, âm u, mờ mịt của cuộc đời nhoè nhoà trong

muôn vàn đối lập tương tranh giữa tủi cực, vất vả, cực nhọc nhiều mất mát

nhưng cũng đầy yêu thương, gắn bó, xen lẫn giữa tối tăm, mịt mùng và ánh

sáng của lão Khúng. Ông Khúng được biết đến là một con người gai ngạnh, thủ

cựu, cứng rắn, tính toán nhưng khi nhìn thấy thịt bò bị bán ngoài chợ ông không

nỡ bán con bò Khoang cho người ta giết thịt mà tha bổng nó về rừng: “- Nào,

bây giờ thì tao giải thoát cho mày, lão lầm rầm nói với con vật thân yêu bằng

cái giọng hơi cau có, - mày hầu tao thế là đủ rồi đấy con ạ, bây giờ thì mày hãy

đi đi, hãy vào rừng mà sống, cỏ đấy, cỏ trong rừng thiếu gì, mày ăn suốt cả đời

không hết, khát thì có nước suối. Mày muốn sống một mình hay bầy đàn cũng

được. Ở đây đi sâu vào bên trong sẽ có một bầy bò hoang. Chúng nó sướng

như những bà hoàng, ông hoàng giữa núi non, cây cỏ, chẳng bao giờ phải kéo

cày, kéo xe...Hãy đi đi, nào!. Lão cuộn vào năm ngón tay trái cái dây chão đã

được tháo ra khỏi mũi con khoang đen, dùng đầu dây đánh một cái thật đau

vào hông, bắt nó phải chạy té vào rừng ” [25, tr. 607-608].

Trong Một lần đối chứng từ góc nhìn chủ quan của bản thân, nhân vật Tôi

đã không ngại trực tiếp bày tỏ cảm xúc của mình trước hai con vật rất bình

thường: một con mèo hoang và một con mèo nhà. Người đọc có thể cảm nhận

được sự đồng cảm với thế giới động vật của nhân vật Tôi với cô mèo nhà của

56

mình – cô gái nhà lành xinh đẹp và hiền ngoan. Bên cạnh đó, để bảo vệ các

loài động vật, nhân vật Tôi còn đưa ra lời kêu gọi bảo vệ loài vật với cộng đồng

bằng việc đối chứng đầy ý nghĩa: “Các bạn và tôi – nhân danh loài người thử

làm một cuộc đối chứng với loài vật, một cuộc đối chứng giữa thiện và ác, giữa

lý trí, trí tuệ và bản năng mù quáng (cũng là một cuộc đối chứng giữa hai mặt

nhân cách và phi nhân cách, giữa cái hoàn thiện và phi hoàn thiện giữa ánh

sáng và những khoảng bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn mỗi người –

miếng đất nương náu và gieo mầm của lỗi lầm và tội ác” [25, tr 364]. Cái chết

của lũ mèo con đã khiến cô gái thất thần.

Trong truyện ngắn Muối của rừng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp những lắng

nghe và đồng cảm với thiên nhiên được thể hiện qua cuộc vận lộn của gia đình

nhà khỉ với ông Diểu. Đọc xong truyện ngắn Muối của rừng người ta mới thấy

động vật cũng biết yêu thương nhau huống chi là con người.Thế giới của động

vật nó cũng như thế giới của con người vậy: nó cũng có cuộc sống gia đình với

vợ, chồng, con cái. Tại sao con người lại nhẫn tâm vì muốn tìm nguồn vui chơi

cho mình mà nhẫn tâm làm tổn hại đến những loài thú vô tội. Cuộc sống của

con người vẫn sẽ không bị tổn thất gì nếu không giết hại chúng, tại sao giết hại

động vật hoang dã như vậy?. Thiên nhiên trong truyện ngắn Muối của rừng với

biểu tượng là con khỉ dù đã bị ông Diểu làm tổn thương nhưng chưa bị tước

đoạt mạng sống. Khi chứng kiến con khỉ bị đau đớn vì vết thương mình gây

nên, ông Diểu đã động lòng trắc ẩn, đã cảm thấy có lỗi, nhất là khi con khỉ cái

cứ lẽo đẽo theo ông khi ông vác con khỉ đực xuống núi. Với cảm giác hối hận

của kẻ đã làm điều ác nhưng đã kịp dừng tay: “Ông Diểu thấy buồn tê tái đến

tận đáy lòng. Ông nhìn cả hai con khỉ và thấy cay cay nơi sống mũi. Hóa ra ở

đời trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật lặng nề (...) Thôi tao phóng

sinh cho mày” [98, tr. 73]. Hành động quyết định phóng sinh cho con khỉ của

ông Diểu thể hiện rõ nhất sự hối hận của con người khi làm tổn thương đến tự

nhiên (động vật). Đọc truyện ngắn Muối của rừng chúng ta còn có thể thấy tự

57

nhiên cũng không phụ lòng người, nó đã đền đáp xứng đáng khi con người

biết quay đầu lại. Nó bao dung khi giăng một màn mưa xuân dịu dàng và mau

hạt để bao bọc cho con người trần truồng sau cuộc săn bắn ấy trở về với xã

hội loài người. Với một cái kết có hậu cho một truyện ngắn thời hiện đại với

một bên là con người hiện đại và một bên là tự nhiên, con người với sức mạnh

của mình đã xâm hại đến tự nhiên nhưng sự can thiệp của con người đã bị

thua sức mạnh tự nhiên. Sức mạnh của quy luật tự nhiên biểu hiện dưới sức

mạnh của rừng xanh, của những sinh vật trong rừng đã chiến thắng sức mạnh

của con người. Cuối cùng con người nhận ra cái ác của mình mà rời bỏ nó sau

bài học đích đáng của tự nhiên. Đó là cái giá phải trả, thậm chí còn phải trả

giá đắt hơn nếu con người cứ cố tình can thiệp thô bạo đến tự nhiên. Thiên

nhiên biết lắng nghe và đồng cảm trong truyện ngắn Muối của rừng còn được

thể hiện qua chi tiết miêu tả về một loài hoa không có thật như lá diêu bông

(giá trị văn hóa) và ba mươi năm mới nở một lần. Loài hoa đó là kết tinh muối

của rừng, kết tinh những gì tốt đẹp nhất của cuộc sống. Hoa tử huyến là biểu

tượng đẹp cho sự nhân ái mà thiên nhiên muốn dành tặng cho con người khi

con người biết nhận ra những sai lầm, cái ác của mình. Biết từ bỏ những điều

xấu xa và từ bỏ nó, biết dừng lại khi thiên nhiên nổi giận đòi quyền bình đẳng.

Hành động nổi giận của thiên nhiên đã thực sự khiến cho mối quan hệ giữa

con người với tự nhiên được xoa dịu và trở nên nhẹ nhàng hơn. Đó cũng là

điều khiến cho ông Diểu đi trong màn mưa xuân dịu dàng hơn như trong

truyện ngắn đã kể lại: “Ra khỏi thung lũng, Ông Diểu đi xuống cánh đồng.

Mùa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế dù có mưa

như thế nào. Chỉ một lát sau, bóng ông nhoà vào màn mưa”. Thông qua hình

hình về cánh rừng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra rằng tự nhiên có sức

mạnh ghê gớm, nó không chỉ có khả năng giúp con người có cảm giác bình

yên và được thanh lọc tâm hồn, tự nhiên còn dạy cho con người bài học về

đức hy sinh và lòng chung thủy.

58

Trong truyện ngắn Những người muôn năm cũ, bà Hinh được nói đến là

một người phụ nữ thất học nhưng có tấm lòng lương thiện, là một người biết

yêu thương và bà đặc biệt rất coi trọng động vật. Biểu hiện biết lắng nghe và

đồng cảm với thiên nhiên được kể đến trong truyện đó là khi bà Hinh biết được

ông An – chồng bà bắn chết một con khỉ dù nó đã bị quèn sẵn nhưng bà vẫn xót

xa, thương cảm cho một sinh linh bé nhỏ của rừng: “Trời ơi....Nó hệt như đứa

bé con hai tuổi. Đồ bất nhân! Sao lại đi bắn nó kia chứ...Trông hai cái mắt

đang mở thô lố ra kìa” [98, tr. 513]. Đọc những truyện ngắn của nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp nói chung và truyện ngắn Những người muôn năm cũ nói

riêng thì động vật dưới con mắt của nhà văn nó cũng có sự sống như con người

vậy, chính nhận ra được điều quan trọng đó, bà Hinh đã nhất định không cho

chồng mình làm thịt con khỉ mà phải mang chôn nó. Hành động quyết liệt bào

vệ động vật của bà Hinh được thể hiện trong cuộc đội thoại giữa hai vợ chồng

bà: “Nếu ông ăn thịt nó thì cút ngay đi! Ăn thịt nó có khác gì ăn thịt người. Chỉ

có loài cầm thú mới ăn như thế” [98, tr. 513]. Chỉ là một người phụ nữ thất học

nhưng bà Hinh có cái nhìn đồng cảm với loài vật thật sâu sắc mà không phải ai

cũng có được đức tính tốt của bà như vậy.

Trong truyện ngắn Những người thợ xẻ những biểu hiện biết lắng nghe và

đồng cảm với thiên nhiên được tập trung thể hiện qua nhân vật cô giáo Thục.

Cô giáo Thục được kể đến trong truyện là một người sống gần gũi với tự nhiên

hơn ai hết. Cô hiểu lẽ đời, những quy luật của tạo hóa: “Vô sự với tạo hóa, trung

thực đến tận đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng đáng là người”

[98, tr. 131].

Phê bình sinh thái yêu cầu nghệ thuật không được xa rời cội nguồn tự

nhiên. Văn học nghệ thuật phải xây dựng lại mối quan hệ hài hòa giữa con

người và tự nhiên thì mới có cái đẹp. Từ góc nhìn này soi rọi vào tác phẩm

Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp để đánh giá sự thành công

của tác giả chúng ta thấy quả là những trang viết của Nguyễn Minh Châu và

59

nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ám ảnh độc giả phần nhiều có lẽ bởi nhà văn

Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng trong những

truyện ngắn có chủ đề sinh thái những nhân vật gần gũi với tự nhiên, giữ gìn

bản tính tự nhiên, bản chất tạo hóa để kêu gọi con người hiện đại cần phải sống

hài hòa với thiên nhiên, giữ lấy bản tính tự nhiên.

2.3.2. Trở về hài hòa với tự nhiên như một kêu gọi nhân văn

Văn học Việt Nam sau một thời gian dài mải mê với cõi hiện thực nhân

sinh với những đề tài thời sự như những mắt trái của xã hội, vấn đề giáo dục và

tình dục...khiến cho tinh thần văn học sinh thái có nguy cơ xuống dốc. Sự thiếu

vắng của tự nhiên đã khiến cho môi trường văn học trở nên khô khan, ngột ngạt

bởi những đề tài viết về toan tính, lừa lọc, xảo trá của đời sống cuống quýt, vội

vã. Nghệ thuật phải thông qua miêu tả mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

để tạo nên sức hút, sức sống. Vậy nên, việc về với tự nhiên đã làm “xanh” một

khoảng không gian văn học, từ đó đề xuất cho chúng ta nhiều vấn đề trước bà

mẹ Trái đất và giúp chúng ta nhận ra khi loài người càng trưởng thành càng

phải nhận ra mình đã phũ phàng với nơi mà con người ta lớn lên, gắn bó và đặt

hy vọng ở đó.

Khám phá ra vẻ đẹp của tự nhiên, chỉ cho nhân loại thấy cái đẹp huyền

diệu của tạo hóa cũng là cách mà phê bình sinh thái muốn hướng tới, văn học

phải thông qua sự miêu tả của con người với thiên nhiên thì mới có cái đẹp.

Khiến con người hướng đến khát vọng về cái đẹp. Cách mà phê bình sinh thái

muốn đề xuất ở đây là mỗi khi người ta nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, thưởng

ngoại nó, người ta sẽ có nhu cầu gìn giữ nó. Sở dĩ lâu nay chúng ta quay lưng

lại với tự nhiên vì chúng ta chỉ nhìn thấy những giá trị kinh tế mà không nhận

ra đời sống tinh thần, cái tâm linh đằng sau thiên nhiên. Nhà văn Nguyên Ngọc

đã từng nói rằng: “Ở U Minh, cũng như Tây Nguyên có một nền văn hóa rừng,

do con người ngàn đời sống hài hòa với rừng xây dựng nên” [71, tr. 290].

Tiếp thu cảm hứng muôn thủa của văn học tự cổ chí kim nhà văn Nguyễn

60

Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng dành những trang viết của

mình cho thiên nhiên với tình cảm tha thiết, tình yêu thiên nhiên tươi đẹp và

rung động trước những vẻ đẹp của giới tự nhiên. Khám phá ra vẻ đẹp tự nhiên,

chỉ cho nhân loại thấy cái đẹp huyền diệu của tạo hóa cũng là cách mà nhà phê

bình sinh thái muốn hướng tới.

Đọc truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sáng tác từ sau những năm 1975, có

thể thấy những hình ảnh về những tâm hồn mê say đắm thiên nhiên. Trong

truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, cảnh thiên nhiên mà Phùng săn được là một

cảnh tuyệt đẹp, trong đời làm nghệ thuật của anh chưa hề chộp được, giống như

“Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Đứng trước tuyệt tác ấy người

nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong tim như có một cái gì bóp thắt vào”. Bức tranh

có một không hai trong cuộc đời làm nghề nhiếp ảnh đó đã khiến Phùng rung

động thực sự, trong cái giây phút ngắn ngủi chính anh như “vừa khám phá thấy

cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm

hồn”. Bức họa ấy đã gột rửa tâm hồn của người cảm nhận nó, hướng về những

chân thiện của cuộc đời.

Đọc truyện ngắn Nguồn suối của Nguyễn Minh Châu dội về trong tâm trí

người đọc là tiếng suối cháy róc rách, thầm thì, nho nhỏ của con suối “gan góc

và đáng kiêu hãnh” trên vùng đất Paken: “Trên đầu con suối Lào cao ngất và

thanh vắng, nguồn suối Pakhen đổ trắng xoá, ngọn suối xói vào lòng đất mang

cả khối tình đầu mãnh liệt chợt réo như thác” [28, tr. 13]. Người đọc có thể

cảm nhận được ở đây xúc cảm sâu lắng yêu thương của con người đối với thiên

nhiên: “Đêm nằm nghe tiếng suối chảy róc rách, thầm thì nho nhỏ thôi nhưng

tôi thấy con suối sao mà gan góc và đáng kiêu hãnh” [28, tr. 5]. Câu văn dàn

trải hơn bởi sự xuất hiện của nhiều thanh bằng 15/26 và các từ luyến láy tạo âm

hưởng hài hoà “róc rách”, “thầm thì”, “nho nhỏ”, “gan góc”… góp phần tạo

nên một giọng văn trữ tình tha thiết, thể hiện được cái đẹp của sự sống bất diệt

ẩn mình trong dáng vẻ “gan góc” và “đáng kiêu hãnh” của từng con suối, dòng

61

sông.

Trong truyện ngắn Phiên chợ Giát nhiên nhiên giúp cho người sống phong

phú và rộng rãi. Thiên nhiên giúp con người giao tiếp với cái ngoài của nó, làm

cho tâm hồn trở nên rộng rãi và thoáng đạt: tình yêu cỏ cây của lão Khúng:

“Lão nhớ lại cánh rừng ở trong giấc mơ với tàu lá xanh thẫm, cây lim lẫn thông

già mọc trên vách đá, những con bò đã đi đứng trên vỉa núi đá đầy cheo leo

hoặc bình yên gặm cỏ giữa những khoảng rừng bằng ngập đầy nắng. Trong

đàn bò kia đã từng có mặt lão, cái dáng dấp thong dong và thư thái nhất trần

đời của lão....Phả ra mùi của các loài cây cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa

đắng vừa ngọt”, “Cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang dã rất xa xưa

đã ngủ kỹ trong ký ức của lão nhiều năm về trước” [28, tr. 607]. Chỉ có người

nông dân suốt đời gắn bó với đất đai bằng máu thịt, bằng tình yêu mới cảm

nhận được từ thân thể đứa con thân yêu của mình những dấu vết của tự nhiên

quen thuộc mà huyền nhiệm. Thiên nhiên làm sống dậy đời sống tinh thần

phong phú của mỗi người, bù đắp tình yêu với quê hương.

Trong truyện ngắn Một lần đối chứng thiên nhiên hiện lên rất đẹp qua lăng

kính của nhân vật Tôi – cha của bé Lan khi đi tìm con mèo của gia đình mình:

“...tôi đưa mắt nhìn về khoảng rừng xa chỉ nhìn thấy một làn sương chiều quán

quýt lấy những ngọn cây và một bầy cò trắng tự nhiên bay túa lên trời” [28, tr.

353].

Trong truyện ngắn Sống mãi với cây xanh là mỗi người khi biết nghe cây

cỏ sẽ làm giàu có cho tâm hồn của mình: “Từ ngày giữa phố phường chật hẹp,

đông đúc có bao giờ các bạn đi ra sông Hồng nghe tiếng hát của phù sa và bờ

bãi? Đã bao giờ các bạn dừng bước trên hè phố nâng một cảnh cây gãy?....”[28,

tr. 414].

Không trùng lặp với bất cứ nhà văn nào, nhà văn Nguyễn Minh Châu lựa

chọn cho mình hướng đi riêng, một nhãn quang riêng khi quan sát và miêu tả

thiên nhiên. Cảm quan của ông khiến người đọc nhận thấy ngay sự độc đáo

62

khác biệt: không dùng nhiều mĩ từ, không phô bày chữ nghĩa mà chắt lọc, giản

dị, trong sáng và tươi mới.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã viết trong những câu chuyện ngắn của

mình những câu chuyện khác nhau nhưng trong đó luôn đó có những đoạn dành

để ông thả vào cái say đắm của mình trước tự nhiên. Tình yêu cuộc sống không

chỉ để yêu con người mà còn là tình yêu dành cho vạn vật trong thế giới tự

nhiên.

Trong truyện Chảy đi sông ơi không phải là một thiên truyện ngắn chỉ

dành để nói về sông mà ẩn sau đó là một hàm nghĩa khác. Dưới cái nhìn tinh tế

của Nguyễn Huy Thiệp, dòng sông hiện lên trong một không gian tươi sáng.

Quang cảnh thiên nhiên nơi bến Cốc đẹp và tràn trề nhựa sống với một bến đò

rất mơ màng và cô liêu hiện diện trong tâm trí người bến Cốc: “Đoạn sông chảy

qua bến Cốc lia một vòng cung đầy những roi cát bên bồi về mãi phía Tây. Bến

đò ở ngay gốc gạo đơn độc đầu xóm. Con sông bến nước mơ màng và buồn cô

liêu, nửa như chờ đợi, nửa như hờn dỗi. Mùa hoa, trên ngọn cây gạo màu đỏ

xao xuyến lạ lùng. Nước lờ lững troi, giữa tim dòng sông rạch một mũi sóng có

điểm tựa như mũi giáo. Mùa đông có cả những con sáo lông đen chân vàng

đậu trên sợi thép níu đò căng từ gốc gạo sang phía bên kia sông. Chúng nghiêng

nghiên đầu xuống dòng nước chảy tha thiết líu ra líu ríu” [98, tr. 7]. Vẻ đẹp

của con sông mang nét bình dị và yên bình đến dịu dàng tha thiết tựa như bản

nhạc du dương làm xay đắm lòng người. Đó là một bức tranh thiên nhiên mộc

mạc nhưng đẹp đến mê hồn bởi chính sự tự nhiên thuần phác và hiền hậu vốn

có của nó. Nó giống như một người bạn tâm giao, tri kỉ của “tôi” bởi “ngoài

giờ đi học thỉnh thoảng tôn lang thang xuống bến đò chơi”. Nguyễn Huy Thiệp

đã đặt nhân vật của mình trước thiên nhiên, trước vẻ bình yên của dòng sông

để họ nhận ra chính mình, tìm lại khoảng lắng đọng nhẹ nhàng cho tâm hồn

mình, tìm lại chính con người thật của mình, bảo tồn phần nhân tính thuần phác

của bản thân họ trước những xô bồ ồn ã, trước những toan tính bon chen cuồn

63

cuộn của dòng sông cuộc đời đang xối xả như nước mùa lũ, đục ngầu và dữ

dội.

Cũng miêu tả về sông nhưng khác với dòng sông Cốc, có một dòng sông

khác lại thẹn thùng, e ấp như người thiếu nữ vào buổi tinh sương thức dậy. Con

sông có linh hồn, tâm trạng cứ sống mãi trong miền kí ức thiêng liêng của nhà

văn Nguyễn Huy Thiệp: “Sương mù giăng giăng trên mặt sông. Khi nắng lên,

sương tan rồi bay lên như khói mây. Mặt sông lộ rõ, ngái ngủ và thẹn thùng”

(Con gái thủy thần). Phải là một người gắn bó, am hiểu tường tận về sông thì

mới viết được những lời văn hay như vậy, đồng thời phải là người có hiểu biết

sâu rộng thì mới cùng viết về dòng sông nhưng không có dòng sông nào giống

dòng sông nào, chúng đẹp và có nét riêng biệt không thể lẫn vào nhau. Điều

này thể hiện sự giao cảm giữa lòng người và dòng sông sao mà tha thiết đến

thế. Dường như trong truyện ngắn Con gái thủy thần, con sông còn mang vẻ

đẹp của thế giới cổ tích bởi màn sương mù giăng trên sông. Đọc những trang

văn miêu tả về dòng sông trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

chúng ta mới thấy nhà văn đã dành rất nhiều tình cảm cho thiên nhiên, một bức

tranh không quá sặc sỡ hay mĩ miều mà là một bức tranh với những nét vẽ mền

mại để các đối tượng ấy hiện lên thật mộc mạc nhưng có khả năng khắc chạm

vào ánh mắt và tâm trí người xem.

Hơn 10 năm sống và làm việc tại Tây Bắc giúp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

am hiểu về rừng lắm, ông đã có rất nhiều truyện ngắn viết về thiên nhiên, con

người nơi núi rừng. Trong truyện ngắn Mưa Nhã Nam ta bắt gặp một khung

cảnh thiên nhiên huyền bí của rừng đêm: “Đêm trong rừng mênh mông và hư

ảo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mùi hương rừng nồng nàn”. Ông yêu rừng, say

rừng và huy động toàn bộ các giác quan để cảm nhận hết cái tuyệt diệu của

rừng nên đã thấy cái nồng nàn của hương rừng. Cái nhìn của nhà văn Nguyễn

Huy Thiệp đối với thiên nhiên trong tác phẩm này thật say sưa, ông chân trọng

những biểu hiện dù là bé nhỏ của tự nhiên.

64

Thiên nhiên trong truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy

Thiệp được hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn mà tấm áo rực rỡ của thiên nhiên

mang lại làm say đắm lòng người. Đó đúng là một khung cảnh thiên nhiên tươi

sáng, thi vị, ngập màu sắc, thật thơ mộng: “Bản Hua Tát ở trong thung lũng

hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ,

nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở

vàng đến nhức mắt”.

Vẻ đẹp thiên nhiên dưới con mắt của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp còn được

thể hiện rất bình dị mộc mạc của làng quê thanh bình trải dài với những cánh

đồng, thửa ruộng. Trong Chăn trâu cắt cỏ, vẻ đẹp thiên nhiên hiện lên là một

cánh đồng lúa đang thì con gái: “Lúa lên đòng nên có mùi thơm ngào ngạt. Trời

nắng, thứ nắng đầu mùa hạ, không khô mà dịu”. Trong Những bài học nông

thôn thiên nhiên tươi đẹp là cảnh trí sau vụ gặt của nhà nông: “Phía chân trời,

mây cuồn cuộn rực hồng một màu lửa. Mặt ruộng nứt nẻ. Cả cánh đồng hực

lên mùi hương đất nồng nàn”. Trong truyện ngắn Con gái thủy thần thiên nhiên

tươi đẹp là những cảnh vật về đêm nơi thôn dã trông như một bức tranh thủy

mặc dưới ánh trăng: “Ánh trăng soi rõ mồn một, trông thấy cả những rễ mía

trông hơi giống đầu rễ si đâm tua tủa ở các đốt cây. Rặng mía hắt bóng thẫm

đen chạy dài trên mặt cát đã bị gió làm cho khô se đi nên rất mịn. Thỉnh thoảng

gió đùa rào rào trong bãi mía nghe lạnh cả người”.

Trong truyện ngắn Muối của rừng, thiên nhiên tươi đẹp hiện lên với những

cảnh sắc tươi đẹp của khung cảnh mùa xuân trong khu rừng: “Sau tết Nguyên

Đán khoảng một tháng là thời gian thích hợp nhất ở rừng. Cây cối đều nhú lộc

non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. thiên nhiên vừa trang trọng, vừa tình cảm.

Điều ấy một phần là do mưa xuân. Khoảng thời gian này mà đi trong rừng,

chân dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được

thót mình bởi một giọt nước trên cây rỏ xuống vai trần thì thật tuyệt thú. Tất cả

những trò nhố nhăng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi

65

một cú nhảy của một con sóc nhỏ trên cành dâu da” [98, tr. 65]. Đó là tâm trạng

của ông Diểu hay của chính tác giả gửi vào đó. Với họ rừng là chốn bình yên

cho ai đó tìm đến mà hít hà cái không khí trong lành, để quên đi những toan

tính, lo toan của cuộc sống thường nhật: “Ông Diểu ngồi im dễ đến nửa giờ.

Mưa xuân mỏng và mịn. Thời tiết ấm. Dễ đến rất lâu ông Diểu mới có dịp ngồi

yên đến thế này, không nghĩ gì, không buồn không vui, không lo lắng, cũng

không tính toán. Sự tĩnh lặng bình thản của rừng xuyên suốt qua ông” [98, tr.

66]. Cái hoang sơ, cái tự nhiên của thiên nhiên núi rừng đã làm cho lòng người

ta tĩnh lại, cảm giác được gột rửa rất thanh tịnh. Quả thực đọc truyện ngắn Muối

của rừng chúng ta thấy thiên nhiên núi rừng đã mang đến cho con người những

điều mà con người ta không thể tìm thấy ở cái xã hội mình đang sống. Việc hòa

mình với thiên nhiên hoang dã con người ta như tìm lại được chính mình. Đó

cũng là điều nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thông qua truyện ngắn này muốn gửi

đến con người thông điệp thiên nhiên là người bạn tốt và rất đẹp nếu con người

biết sống hài hòa với nó. Nguyễn Huy Thiệp có cách nói rất thú vị khi đặt con

người vào lòng của tự nhiên. Để mặc tự nhiên phô bày vẻ đẹp và sức quyến rũ

của nó, để mặc con người chìm đắm trong bầu không khí tuyệt diệu của tự

nhiên, để mặc người đọc nhận ra tự nhiên dẹp đẽ biết nhường nào. Nhà văn

không thốt lên, không reo lên mà cứ nhẹ nhàng với những con chữ khiến ta thấy

như muốn lao đến cái nơi mà nhà văn đang kể trong truyện, muốn được như

nhân vật của ông đang bước chân trên lớp lá mục của rừng, sự bình dị của thiên

nhiên trong truyện ngắn đã khiến con người ta muốn chạy trốn khỏi thành phố

ồn ào và đầy khói bụi để tìm về với tự nhiên hoang sơ.

Truyện ngắn Những người thợ xẻ đã mang đến cho người đọc những ấn

tượng mới về thiên nhiên – thiên nhiên trong con mắt của người đi rừng: “Hai

bê bạt ngàn ngô và bông. Những dãy núi đã vôi trập trùng cao ngất. Chúng tôi

đi men ở dưới chân núi, vừa bé nhỏ, vừa cô đơn, lại liều lĩnh, mà bất lực, thậm

chí vô nghĩa nữa. Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến khắc khoải, nao

66

lòng” [98, tr. 110]. Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp được đặt

vào trong thế đối diện với không gian thiên nhiên bao la, vĩnh hằng để nhận ra

thân phận nhỏ bé, cô đơn, mong manh và phù du của mình trước dòng chảy tự

nhiên vĩnh cửu. Vẻ đẹp của núi rừng dưới ngòi bút tinh tế và rung cảm nhạy

bén của nhà văn hiện lên như một thước phim điện ảnh.

Trong truyện ngắn Truyện tình kể trong đêm mưa thiên nhiên hiện lên:

“Rặng cây sau nhà Muôn từ màu xanh chuyển sang màu đỏ như mận và màu

đỏ của máu. Hoa linh lăng là thứ hoa đơn ở rừng có màu vàng như hoa tai

vàng nở rất nhiều ở hàng rào đầy những tơ hồng cũng màu vàng như màu nhẫn

vàng” [98, tr. 466]. Nguyễn Huy Thiệp đã mầy mò tìm kiếm những loài hoa

dại, tìm đến cái màu sắc hoang sơ với cách so sánh rất lạ: những giây tơ hồng

cũng như màu nhẫn vàng. Không chỉ tìm về thiên nhiên gần gũi như những loài

hoa Nguyễn Huy Thiệp còn tìm thấy vẻ đẹp của thiên nhiên ở những màn sương

của núi rừng hết sức tinh tế: “Sương mù ở vùng núi cao khác với sương mù ở

vùng đồng bằng: nó dày đặc, nó như màn sữa loãng, mênh mông bí ẩn, không

hoang tưởng, không làm hại ai, nó là khí núi tan ra rồi tụ lại; nó không phải là

hơi nước, hơi bụi và mưa nhỏ mà ta vẫn gọi là sương ở đồng bằng” [98, tr.

455]. Khả năng quan sát và diễn tả những gì quan sát được của Nguyễn Huy

Thiệp cũng rất tài tình và độc đáo. Có khi thiên nhiên hiện lên trong hình ảnh

của những con mưa nhiệt đới khi thì dai dẳng thấm vào vách, vào lòng người,

khi thì ào ạt nuốt vào đêm rừng mênh mang, sâu thẳm của Mưa Nhã Nam.

Thiên nhiên trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có khi hiện

lên như là bà mẹ vĩ đại nuôi sống con người: “Năm ấy, không hiểu sao rừng

Hua Tát của mài nhiều vô kể. Người ta đào được những củ mài xốp, thơm hanh

hanh và ngậy, ninh lên bở tơi, ăn hơi tê rát vòm miệng rất thú. Nàng Bua và lũ

con cũng kéo nhau đi đào. Rừng hào phóng bao dung với tất cả mọi người”

[98, tr. 221].

Dưới con mắt chiêm nghiệm và những rung động từ chiều sâu tâm hồn

67

của cả hai tác giả Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã cho người đọc

thấy được bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng. Thiên nhiên ở đây vừa có giá

trị thưởng ngoại đồng thời nó gắn với những giá trị văn hóa của dân tộc Việt

Nam qua mọi thời kỳ của đất nước. Điều đặc biệt có thể nhận thấy trong những

sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp khi viết về

thiên nhiên ở cả hai ông đều không sử dụng lối nói hoa mỹ, cầu kỳ mà trái lại

các ông đều sử dụng những câu văn ngắn gọn, súc tích, từng lớp lang nối tiếp

nhau phô bày những vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó cũng chính là vẻ đẹp của những

giá trị nhân văn hiện đại và ngôn từ nghệ thuật làm nên ma lực truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp.

Tiểu kết chương 2

Từ điểm nhìn phê sinh thái, các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu và Nguyễn Huy Thiệp tập trung khai thác ba nội dung chủ đạo: Con người

và thiên nhiên trong mối quan hệ hòa kết; Con người và thiên nhiên trong mối

quan hệ xung đột. Cách thể hiện của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp

đều rất mới mẻ, sâu sắc và đôi chỗ có phần quyết liệt. Có nhiều truyện ngắn

còn trực tiếp đề cập tới vấn đề sinh thái nhưng cũng có tác phẩm khơi gợi nó

từ một vài chi tiết nhỏ để độc giả tìm thấy và suy ngẫm. Từ đó, nhà văn nêu ra

những bài học về sự ứng xử với thế giới tự nhiên không phải bằng những lời

hô hào mà bằng sự tác động cảm hóa để thấu hiểu.

68

Chương 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN PHÊ BÌNH SINH THÁI TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP

3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái

Có lẽ tư tưởng vấn đề sinh thái trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn

Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện ngay cách đặt tên các

truyện bằng những hình ảnh gắn liền với tự nhiên.

Nếu như ở các truyện ngắn viết trước năm 1975 chủ yếu xoay quanh đề

tài chiến tranh với các truyện ngắn như: Dấu chân người lính, Mảnh trnawg

cuối rừng, Bên đường chiến tranh.....để nói về cuộc chiến đấu thiêng liêng của

dân tộc mang đậm chất sử thi thì sau 1975, lồng vào các câu chuyện là vấn đề

thời sự: vấn đề môi trường. Tư tưởng này thể hiện ngay ở tên các truyện bằng

những hình ảnh tự nhiên: truyện ngắn Bến quê là hình ảnh thiên nhiên gần gũi

với con người như: cỏ, cây, bãi bồi ven sông Hồng. Thiên nhiên gắn với con

người và nó khiến con người ta có đi đâu nữa thì đến cuối đời vẫn phải quay

về với quê hương. Về với thiên nhiên quê hương giúp cho con người ta như

được nó gột rửa linh hồn con người và khiến người ta cảm thấy ấm áp, thân

69

thuộc và yêu thương; truyện ngắn Khách ở quê ra, chuyến thăm thủ đô của một

vị khách ở quê ra và những cảm nhận về thủ đô ngột ngạt, từ đó nêu lên luận

đề về công nghiệp hóa có tác động ra sao đến đời sống tâm lí của người dân.

Chỉ cần đọc tên nhan đề đã phần nào nhận ra nội dung mà tác giả muốn gửi

gắm. So với các truyện ngắn giai đoạn trước yếu tố sinh thái chưa nổi bật nhưng

đến với truyện ngắn Sống mãi với cây xanh thì phê bình sinh thái hiện lên một

cách rõ nét, cụ thể và nó thể hiện ngay trong nhan đề của tác phẩm - Sống mãi

với cây xanh - cuộc đời của con người mãi mãi gắn bó với thiên nhiên, không

thể tách rời khỏi thiên nhiên, thiên nhiên là mãi mãi, phải bảo vệ và phục hồi

cây xanh trong quá trình đô thị hóa đô thị.

So với Nguyễn Minh Châu có lẽ cách đặt nhan đề truyện mang ý nghĩa

sinh thái được tác giả Nguyễn Huy Thiệp vận dụng tối đa có thể kể đến các tác

phẩm như: Muối của rừng, Sói trả thù, Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Những

người thợ xẻ..... Ở truyện ngắn Muối của rừng thông qua nhan đề đã gợi cho

người đọc sự hình dung về một chi tiết của truyện. Truyện ngắn kể về cuộc đi

săn của người đàn ông tên Diểu. Cuộc đi săn này tưởng trừng như để thỏa mãn

cái suy nghĩ đáng sống của ông “ở tuổi 60, có khẩu súng mới, đi săn trong rừng

vào một ngày đầu xuân kể cũng đáng sống”. Song chỉ một lát cắt đó, cả một xã

hội hiện thực được đưa vào. Mấu chốt của truyện là khi ông Diểu đi săn mang

theo toàn bộ cuộc sống của xã hội ngoài đời vào cuộc sống rừng sâu – một thế

giới mà sự khác biệt ranh giới của chúng bị ngăn cách bởi nhiều thứ. Khi con

khỉ đực lọt vào tầm ngắm của ông cũng là lúc ông đặt cho nó biết bao tội danh

“cái thằng ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cục cằn! Nhà

lập pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn”. Ông đã giảm đi niềm vui khi săn

và nóng bừng người lên khi theo đuổi con mồi của mình. Ông đã thấy loài khỉ

bộc lộ tất cả những xấu xa, giả dối, lố lăng, kệch cỡm của con người mà ông

chứng kiến hàng ngày. Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo xây dựng một nhân vật

“thân cảnh an nhàn mà không vô sự”. Ông đã mang cái phiền muộn của xã hội

70

để trút vào rừng xanh. Rồi sự thay đổi bất chợt tâm trạng, cái cảm giác vui

mừng khi hạ được con khỉ không còn nữa mà là cảm giác run sợ khi làm điều

ác, ông bất ngờ trước hành động của khỉ mẹ và khỉ con. Cái hành động mà ông

luôn chắc mầm “chẳng có đời nào có thể xảy ra”. Vậy mà nó lại xảy ra. Con

khỉ con đã cầm súng của ông và rơi xuống vực, còn con khỉ cái ông đã thấy

thương và nổi giận khi nó quay trở lại. Ông đã mắng nó: “Đồ giả dối, mày

chứng minh tấm lòng cao thượng hệt như một bà trưởng giả” và cuối cùng trong

ông là sự xúc động thật sự. Điều mà ông chắc chắn không có trong xã hội hiện

thực ngoài đời và ông nghĩ rằng trong này cũng sẽ như vậy và đã hoàn toàn sai

lầm. Rừng xanh đã cho ông một bài học khác với bài học cuộc sống con người

mà ông đã rút ra. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh ông Diểu trần chuồng, cô

đơn đi trong mưa xuân và ông đã bắt gặp một rừng hoa tử huyến – một loài hoa

ba mươi năm nở một lần. Người nào gặp hoa này sẽ gặp may mắn. Nguyễn Huy

Thiệp đã lấy hình ảnh hoa tử huyến để làm nhan đề cho truyện ngắn. Hoa tử

huyến – một loài hoa màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta gọi hoa này

là muối của rừng. Một hình ảnh thiêng liêng, hư ảo như lá diêu bông làm cho

câu chuyện thêm màu sắc bí ẩn. Hành trình đi săn của nhân vật Diểu là cả một

hành trình tìm lại bản thân. Nó mang dáng dấp của một câu chuyện cổ tích song

lại có vị mặn của cuộc đời. người đọc tự rút ra được một bài học từ người thầy

thiên nhiên – bài học về nhân sinh, con người tự nhận ra cái ác của mình và từ

bỏ nó. Truyện ngắn Sói trả thù (trong chùm truyện ngắn Những ngọn gió Hua

Tát), là câu chuyện về gia đình họ Hoàng với sự trả thù của một con sói. Ngay

từ nhan đề người đọc đã hình dung ra sự việc chính xảy ra câu chuyện. Trong

gia đình họ Hoàng có ông Nhân là tay thợ săn cừ khôi, ông có một cậu con trai

tên San. Ngay từ nhỏ San được cha huấn luyện để trở thành một thợ săn tài giỏi.

Nhưng chính những hành động của ông Nhân đã gây ra cái chết của người con

trai duy nhất của mình. Trong một cuộc đi săn chó sói ông Nhân cùng những

người thợ săn trong làng đã giết hết đàn sói mặc dù con đầu đàn nhìn ông bằng

71

ánh mắt van xin nhưng ông vẫn nhẫn tâm nổ súng, còn một con sói ông mang

về nhà nuôi đến ngày cúng ma cho thằng San tròn mười ba tuổi con sói ấy trỗi

dậy bản năng của mình nó cắn xé xác con ông như đã từng đối xử với đnà sói.

Như vậy, lấy nhan đề là sự việc con sói trả thù, truyện ngắn đã tạo ra sự hứng

thú cho bạn đọc, đồng thời tác giả gửi gắm một quan niệm dân gian “ác giả ác

báo”, khuyên con người ta hãy biết yêu thiên nhiên rồi thiên nhiên sẽ bảo vệ

chúng ta. Nếu chúng ta tàn ác với chúng thì chúng ta cũng phải chịu những hậu

quả khôn lường. Trong truyện ngắn Những người thợ xẻ, lấy nhóm nhân vật

chính trong tác phẩm làm nhan đề. Truyện đề cập đến vấn đề tham lam và lũng

đoạn tài nguyên của đất nước. Câu chuyện phá rừng, xẻ gỗ bán lậu chỉ là vi bản

của hiện tượng đạo chích lan tràn trên toàn diện lãnh thổ. Đội ngũ hành nghề

có nhiều lớp lang, đẳng cấp trong đó thấp nhất là bọn ăn cắp vặt, tà tử và ô hợp

bọn phường du thực vừa mãn hạn tù (Bương), trí thức lưu manh (Ngọc) hoặc

choai choai, cù lần, hữu dụng vô mưu (Biền và Biên)...Đội ngũ lính tép riu này

lên rừng xẻ gỗ, làm công cho bọn ăn cắp gỗ, quyền thế, tầm vóc, đểu giả (ông

Thuyết). Những mánh lới, những thủ đoạn chặn họng, ăn hiếp, hung hãm tung

ra từ tứ phía, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài: giữa chủ và thợ, giữa những

người cùng ê kíp, vừa sống chết với nhau, vừa sẵn sàng làm thịt nhau vì miếng

mồi còm. Từ ngàn xưa, đạo đức thảo khấu vầy vò khung cảnh núi rừng thơ

mộng “bạt ngạt hoa ban trắng, màu trắng đến khắc khoải, nao lòng. Này, hoa

ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng thế không”. Qua nhan đề truyện

ngắn, nhà văn muốn đề cập đến vấn đề khai thác gỗ trái phép ở những vùng núi

và tệ nạn buôn lậu gỗ từ những người có quyền thế cho đến những người dân

thường. Đồng thời tác giả cũng lên tiếng kêu gọi ý thức của con người đối với

việc bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Truyện ngắn Trái

tim hổ, kể về chàng trai mồ côi tên Khó, giống như bao nhiêu người con trai

bản Hua Tát tin vào câu chuyện trái tim hổ dữ có thể chữa bênh liệt hai chân

cho người con gái tên Pùa, vì tin vào lời đồn về phép màu của trái tim hổ, chàng

72

trai đã vác súng vào rừng, quyết săn bằng được hổ dữ. Đã “hơn mười người

chết vì con hổ dữ. Tiếng khóc than lẫn với tiếng hú dài âm vang trong bản”.

Người ta đã nản chí dần, số người đi săn rụng nhanh như bựa chín cây. Cuối

cùng chỉ còn lại một người – người ấy là Khó. Nhưng cuối cùng cả Khó và Pùa

đều có một kết thúc buồn. Đó là cái chết. Nhà văn đã lấy chi tiết trái tim hổ ra

làm nhan đề cho tác phẩm để nhấn mạnh sự mu muội mù quãng của con người

vào một thế lực siêu nhiên, chính sự mù quãng đó đã đẩy đến cái chết của những

người đàn ông vô tội, động vật và con người vốn dĩ sống hài hòa trong môi

trường của mình nhưng chính lòng tham, sự ích kỉ của bản thân đã dẫn đến

những hậu quả cho riêng mình. Đồng thời tác giả cũng gửi gắm vào đó một bài

học: đừng nên chạy theo những gì không có thực, kết quả cuối cùng của sự theo

đuổi ấy chỉ là con số không.

Có thể thấy qua cách đặt tên nhan đề ấy từ góc nhìn phản ánh của tác

giả cả hai nhà văn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã đáp ứng

được những vấn đề nóng bỏng của toàn xã hội. Bắt kịp nhịp sống của hiện

thực và dùng văn chương để răn dạy và thức tỉnh con người chứ không ru

ngủ con người.

3.2. Tình huống truyện mang tinh thần sinh thái

Nếu như cấu tứ, mạch cảm xúc là điểm tựa của người đọc khám phá và

tìm hiểu một bài thơ thì tình huống truyện chính là yếu tố tạo những bất ngờ

vfa làm nên nét độc đáo cho câu chuyện. Tình huống truyện có thể xem là tình

thế, tình huống, trường hợp...Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu hay những

người trực tiếp cầm bút đều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Theo nhà văn

Nguyễn Minh Châu: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết,

tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra những

chuyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng ” và “...những

người cầm bút có biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một

khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý

73

nghĩa nhất, một khoảng khắc sống...nhưng bắt buộc con người ở vào một tình

thế phải bộc lộ con người cái tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm

chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại” [26,

tr. 25]. Còn riêng nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh lại cho rằng: “Quan trọng

nhất trong truyện ngắn là tạo ra được một tình huống nào đó. Từ tình huống,

bật nổi một bản chất tính cách nhân vật, bộc lộ một tâm trạng” [68, tr. 17]. Nhà

văn Nguyễn Trung Kiên cho rằng: “Theo tôi hiểu thì mỗi truyện ngắn chỉ chứa

đựng một tình thế nào đó xảy ra trong đời sống, nếu có hai tình thế trở nên thì

truyện ngắn sẽ bị phá vỡ” [68, tr. 23]. Qua các lời nhận định trên, chúng ta càng

hiểu rõ hơn về sức mạnh của của tình huống và vị trí của nó trong truyện. Chính

nó là nhân tố hàng đầu nhằm biểu lộ tài năng của tác giả theo cách viết của

riêng mình. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, ý kiến khác nhau, nhưng

tất cả đều thừa nhận rằng tình huống đóng vai trò quan trọng trong truyện ngắn.

Với văn học theo vấn đề văn học sinh thái, tình huống truyện lí giải cho người

tiếp nhận biết được mạch cảm xúc của nhân vật, tính cách, cuộc sống và hoàn

xã hội nơi mà nhân vật đang sinh sống.

Có một quan niệm về tình huống truyện rất riêng nên các sáng tác của

Nguyễn Minh Châu cũng rất đa dạng và phong phú tạo cho người đọc sự hứng

thú say mê. Nổi bật trong tác phẩm có vấn đề sinh thái của Nguyễn Minh Châu

là xây dựng tình huống truyện mang tính nghịch lí. Ở truyện ngắn Bến quê

nghịch lí thứ nhất là Nhĩ – nhân vật chính từng đi khắp mọi nơi trên trái đất

nhưng cuối đời mắc bệnh và cột chặt với mình trên chiếc giường nhỏ cạnh cửa

sổ. Tất cả mọi sinh hoạt của nhân vật Nhĩ đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của Liên

– vợ anh ta. Bệnh tật khiến cho anh không khác đứa trẻ là mấy, chiếc giường

bây giờ như chiếc nôi, còn đôi bàn tay của người vợ tần tảo dường như là đôi

bàn tay mẹ thuở nào, Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười “y như

một chú bé mới đẻ đang toa toét cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được

chăm sóc và chơi với”. Đây là nghịch lí hay là số mệnh?. Từ cái nghịch lí thứ

74

nhất dẫn đến cái nghịch lí thứ hai đó là bây giờ khi cuối đời Nhĩ mới nhận ra

được vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh,

nhưng tiệc rằng anh không thể và không bao giờ có thể dù một lần. Anh muốn

nhờ Tuấn - đứa con mình đang học đại học tử thành phố, vừa mới trở về nhà

trong dịp nghỉ hè thay anh thám hiểm bến sông – cái bãi bồi mà anh chưa đặt

chân bao giờ nhưng tiếc rằng ước mơ đó của anh không thực hiện được. Đó có

lẽ cũng là một nhận thức về cuộc đời của mà nhà văn lặng lẽ gửi vào nghịch lí

phũ phàng với tâm hồn khắc khoải trong những ngày cuối đời. Cuộc đời và số

phận đầy ngẫu nhiên, những nghịch lí vượt ra khỏi dự định của con người. Bằng

những nghịch lí ấy Nguyễn Minh Châu không chỉ thể hiện quan niệm văn

chương, cuộc đời mà còn muốn nhận thức mọi người hãy trân trọng những vẻ

đẹp bình dị, gần gũi của quê hương mình. Con người ta dù đi đâu chăng nữa

nhưng rồi có lúc mệt mỏi, muốn dừng chân thì cái bến quê là quê hương, là bến

đậu cuộc đời – bến đậu những giá trị tinh thần gần gũi. Bãi bồi bên kia sông,

con đò như một phần cuộc sống đơn sơ giản dị gắn bó như chính quê hương

gia đình, là nơi chôn nhau cắt rốn mà con người ta ai rồi cũng sẽ trở về. Trở về

để tìm cảm giác bình yên, cảm giác yên lặng – được yêu thương, che chở nhưng

đừng để đến lúc quá muộn như nhân vật Nhĩ trong truyện. Hãy yêu cái vẻ đẹp

thân thuộc ấy một cách bình dị ngay từ hôm nay. Hành động của cuối cùng của

Nhĩ “giơ cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn

thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động này như gửi tới mọi người lời

nhắn nhủ, thức tỉnh thoát khỏi sự vòng vèo, chùng chình để hương tới giá trị

đích thực mà gần gũi trong cuộc sống.

Có lẽ quan Bến quê nhà văn Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những trải

nghiệm về cuộc đời – cuộc đời đã trải qua nhiều vất vả nhọc nhằn của dòng đời

bon chen. Đây là ý nghĩa luận đề của truyện ngắn – điều làm nhà văn trăn trở

suốt đời cầm bút và nó đã làm nổi bật phong cách viết truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu sắc, vẫn mang cái

75

nhìn từng trải chắc chắn của con người đã tôi luyện qua lò lửa chiến tranh.

Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một Bến quê mang ý nghĩa triết

lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người. Có lẽ chẳng ai gấp lại trang sách

sau khi đọc truyện Bến quê mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc động

trào dâng. Có một chút gì đó sẽ buồn, xót xa và ân hận những cảm nhận sâu sắc

về vẻ đẹp bình di, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong

sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.

Cũng là tình huống nghịch lí nhưng ở tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa lại

để thể hiện bằng những phát hiện của nghệ sĩ Phùng. Phát hiện thứ nhất để thực

hiện yêu cầu của anh trưởng phòng khó tính muốn có tấm ảnh thật ưng ý cho

tờ lịch cuối năm người nghệ sĩ đã dốc toàn bộ vốn liếng, kinh nghiệm để trở về

chiến trường xưa. Khi đến với vùng biển ngoại thành thì Phùng có những phát

hiện mang tính nghịch lí. Sau nhiều ngày phục kích Phùng đã chụp được khoảnh

khắc “đắt” có một không hai trong cuộc đời cầm máy đó là cảnh chiếc thuyền

ngoài xa đang thu lưới vào bờ lúc bình minh “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe

nhòe và bầu sương mù trắng như sữa...đang hướng mặt vào bờ” [25, tr. 344]

trong màn sương sớm phớt hồng của ban mai, con thuyền ngoài xa đẹp như mơ.

Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa đến bộ toàn bích.

Trái tim người nghệ sĩ như thắt lại vì hạnh phúc. Phùng tưởng như mình khám

phá chân lí của cái đẹp nghệ thuật: cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp và nghệ

thuật đã thanh lọc tâm hồn, làm cho tâm hồn người trở nên thánh thiện – đó

chính là cái đẹp của chân – thiện – mỹ. Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ bất

ngờ và chớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Hóa ra bên trong của sự

toàn thiện, toàn bích mà người nghệ sĩ bắt gặp trên biển chẳng phải là đạo đức,

là chân lí. Khi chiếc thuyền vào bờ Phùng thấy từ con thuyền ngư phủ đẹp như

mơ ấy đôi vợ chồng hàng chài bước xuống. Họ xuất hiện ở cự ly gần để Phùng

nhận ra từng nốt rỗ trên khuôn mặt nhàu nát, mệt mỏi sau một đêm thức trắng

của người đàn bà. Cái cảm giác ngây ngất do cái đẹp tột đỉnh mang lại chưa kịp

tan đi ngay lập tức Phùng phải chứng kiến “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

76

Đó là cảnh một người đàn ông độc ác, vũ phu đánh vợ tới tấp. Người vợ nín

lặng căng mình ra chịu trận đòn man rợ của người chồng. Phùng bằng hoàng

nhận ra sự thật đằng sau bức tranh mà anh dày công tìm kiếm. Dùng vẻ đẹp

hoàn mỹ của thiên nhiên để nói lên cuộc sống mưu sinh vất vả của người dân

vùng biển. Qua đó thấy được những quan niệm về nhận thức cuộc đời và mối

quan hệ của con người với thiên nhiên.

Khác với những tác phẩm của các nhà văn khác truyện ngắn Sống mãi với

cây xanh, ca gợi những con người nghèo khổ như bác Thông – ông già trông

cây, bà Ngan bán xôi, hay cô Loan tem phiếu ....nhưng lại không đặt những con

người lao động bình thường này vào sự đối lập với những kẻ giàu có lớp trên –

một sự đối lập đã quá quen thuộc của văn xuôi nước ta. Ở truyện ngắn Sống

mãi với cây xanh nhà văn Nguyễn Minh Châu tác giả đặt họ ở loại đối lập khác:

đối lập giữa một bên là những con người yêu quý và gắn bó với thiên nhiên cây

cối, với môi trường văn hóa cũ kỹ nghèo nàn nhưng đầy kỉ niệm lâu đời, từ kỷ

niệm lịch sử đến kỷ niệm sinh hoạt đời thường với một bên là tập hợp đông

đảo, khi thì ẩn danh, khi thì đích danh, từ những người nào đó đã quyết định

đổi tổ trồng cây thành chặt hạ cây cối đến những hình hài cụ thể đang hăm hở

“làm thịt cây”, và đôi khi, thuộc về đám người đáng trách này còn có cả những

người nhiệt tình đổi mới bộ mặt phố xá, nhưng quên tính đến môi trường thiên

nhiên, môi trường văn hóa lịch sử của con người. Còn một nghịch lí trong thiên

nhiên đó chính là trước mắt người đời con người như bác Thông được coi là

“dở tính”, lẩn thẩn thì trước thiên nhiên cây cối họ lại là vị khách quý. Và phải

chăng nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dùng những nghịch lí này để nhấn mạnh

cái điều cốt yếu với tư tưởng của truyện, tư tưởng về sự cần thiết của việc bảo

tồn môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa lịch sử cho con người tương

lai công nghiệp hóa, đô thị hóa.

Khác với nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp để đạt

được độ chín muồi trong sự phản ánh hiện thực của cuộc sống con người và

77

thiên nhiên, chúng ta dễ dàng nhận thấy được những tình huống bất ngờ.

Trong truyện ngắn Muối của rừng, tình huống truyện mang ý nghĩa cao

nhất được đặt vào trong hoàn cảnh éo le về sự đối mặt giữa ông Diểu với con

khỉ khi “Ông đành cởi chiếc quần lót đang mặc, ông dùng chiếc quần lót ấy

băng vết thương cho nó” [98, tr. 65]. Với tâm trạng đối nghịch và đấu tranh tư

tưởng giữa ông Diểu, tác giả đã lột tả lên được bản chất vốn có của một con

người, bản chất ấy chính là “thiên lương” mà tạo hóa vốn ban tặng cho loài

người để rồi “Ông trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi” [98, tr. 67]. Từ

một kẻ tàn phá thiên nhiên, ông Diểu đã được chính thiên nhiên dạy cho bài

học làm người. Trở về sau chuyến đi săn, khẩu súng đã mất, trang phục chẳng

còn, ông cứ mình trần thân trụi mà đi giữa thiên nhiên, giữa trời đất. Song, điều

quan trọng là ông đã giải phóng ra được khỏi những xấu xa, tội lỗi, và thật ngạc

nhiên ông đã gặp hoa tử huyền – “loài hoa cứ ba chục năm mới nở một lần....là

điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc” [98, tr. 67]. Từ tình huống

truyện này, tác giả Nguyễn Huy Thiệp đã gửi gắm cho người đọc một thông

điệp: Con người không nên vì những ý thích nhất thời mà hủy hoại thiên nhiên.

Trong truyện ngắn Sói trả thù, tình huống truyện mang ý nghĩa cao nhất

với hành động cắn, cào, nhay...của con sói đối với thằng San con trai ông Nhân:

“Nó cắn, cào, nhay, nhá, nó rứt từ từ thằng San ra từng mảnh thịt, từ sợi dây

chằng bê bết máu” [98, tr. 211]. Trước tình cảnh đó ông Nhân chỉ còn hai chữ

“hận thù”, nhưng trong tâm ông chợt bừng lên ánh sáng từ bi cao cả: “Lưỡi rìu

quằn lại, các sợi dây xích đứt tung. Con sói tru lên một tiếng rồi chạy về phía

rừng....” [98, tr. 211]. Hành động của ông Nhân khiến mọi người đứng quanh

ông “sững sờ”, có lẽ họ không hiểu nổi vì sao ông Nhân lại tha chết cho con sói

đáng chết như vậy. Có thể mọi người không hiểu nhưng ông Nhân thì rất hiểu.

Cái chết tức tưởi và đau đớn của thằng con trai “đẹp như tiên đồng” đã thức

tỉnh trong ông những điều rất sâu xa. Trong quá khứ, ông đã từng tàn phá, hủy

hoại thiên nhiên, giờ đây thiên nhiên đang quay trở lại trừng phạt ông như một

78

sự báo ứng. Không muốn nhúng tay thêm vào tội ác, ông Nhân đã trả con sói

về rừng. Ông Nhân đã tự mình chặt đứt sợi xích sắt trói buộc con sói với môi

trường sống nhân tạo mà ông đã tạo ra cho nó; chặt đứt sự can thiệp của con

người vào bản chất tự nhiên của con vật hoang dã. Bài học đích đáng mà thiên

nhiên dành cho ông Nhân cũng là bài học dành cho tất cả mọi người, những ai

vẫn còn đang rắp tâm hủy hoại và tàn phá thiên nhiên. Sự tha thứ của ông Diểu

còn là bài học dành cho tất cả mọi người – những ai còn rắp tâm hủy hoại và

tàn phá tự nhiên. Sự tha thứ của ông Diểu còn là bài học ngàn vàng về cách

sống của một bộ phận con người hôm nay: hãy nhìn đời bằng đôi mắt lạc quan,

và hãy nhìn người bằng niềm tin yêu khoan dung và độ lượng. Có như vậy,

cuộc sống của con người mới đạt đến sự cân bằng thanh thản trong tâm hồn.

Tình huống truyện trong truyện ngắn Con thú lớn nhất cũng chứa đựng

đầy bất ngờ, những bất ngờ đó mang những ý đồ nghệ thuật hết sức sâu sắc của

Nguyễn Huy Thiệp. Lão thợ săn ngụ cư sau những ngày tháng động rừng không

săn bắn được con thú nào đã đuổi theo bộ lông công của bà vợ ông ta mang

theo để nhả đạn mà không hề biết rằng đó chính là vợ của mình. Tình huống

này khiến người đọc thấy thảng thốt và xót xa cho số phận của những kẻ đi săn:

cả cuộc đời săn bắn biết bao chim thú, cuối cùng lại bắn chết người vợ của mình

rồi tự kết liễu đời mình bằng một viên đạn xuyên qua trán. Đó là sự trả giá, là

kết cục bi thảm của con người khi đã tàn sát tự nhiên một cách ồ ạt. Việc xây

dựng tình huống này của Nguyễn Huy Thiệp mang lại bất ngờ lớn cho người

đọc. Không đơn giản như những câu chuyện cổ tích, độc giả sẽ khó đoán được

cái chết xảy ra với mụ vợ lão thợ săn chết có oan uổng hay không; cũng không

có dòng nào miêu tả hay lời ngoại lề của một nhân vật thứ ba trước tình huống

chua chát này. Tác giả cứ diễn tả tình huống, để mặc cho người đọc tự suy

ngẫm. Đó là cái tài của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi khai thác các tình huống.

Ông dường như chỉ kể ra tình huống , không xoáy sâu thêm bằng những câu

văn dài dòng. Ngắn gọn mà có sức mạnh, đó chính là hiệu quả nghệ thuật từ

79

các tình huống truyện của nhà văn này.

Qua một số truyện ngắn tiêu biểu viết về vấn đề sinh thái của nhà văn

Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chúng ta có thể khẳng định

rằng: cả hai nhà văn đã luôn tạo ra trong tác phẩm của mình với những tình

huống hết sức độc đáo; truyện ngắn của cả hai ông (nhất là đối với nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp) đã đem lại cho chủ thể tiếp nhận những cơn rùng mình

thóp tim, hay nghẹt thở với những điều bất ngờ thì nó cũng là những bài học về

giá trị đạo đức và cách sống của một con người chân chính. Dù bài học đó được

làm nên bằng tiếng cười của con người đau khổ, hay trên chính sự lỗi lầm thì

cũng là bức đột phá của tác giả khi nhìn nhận sự đời. Đây cũng là một trong

những phương diện tạo nên sức hấp dẫn cho những thiên truyện của cả hai nhà

văn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

3.3. Cốt truyện và luận đề sinh thái

Đối với truyện ngắn thì để có một cốt truyện ngắn hay phải có một cốt

truyện độc đáo. Nghệ thuật truyện ngắn đồng nghĩa với nghệ thuật sáng tạo cốt

truyện. Arixtot – nhà triết học lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại đã định nghĩa: “Có một

số người lầm tưởng: Cốt truyện sẽ thống nhất nếu nó xoay quanh một nhân vật

– thực ra, vô số sự việc có thể xảy ra với một người, hơn nữa ngay trong một

bộ phận những biến cố đó cũng không có sự thống nhất nào cả. Cũng như hành

động của một con người thì nhiều vô kể, nhưng trong đó có những cái không

thể nào giống như trong các nghệ thuật mô phỏng khác, sự mô phỏng thống

nhất là sự mô một đối tượng, thì ở đây cốt truyện dùng để chỉ mô phỏng hành

động cũng phải là sự miêu tả một hành động – hành động hoàn chỉnh, và các

phần của sự kiện phải sắp xếp như thế nào để khi thay đổi hay bỏ đi một phần

thì cái chỉnh thể cũng biến động theo, bởi cái gì mà có hoặc thiếu nó cũng được

thì đó không phải là bộ phận hữu cơ của thể thống nhất ấy” [13, tr. 33-48]. Cốt

truyện là “Hệ thống sự kiện cụ thể, tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật

nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động

80

của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự kịch” [13, tr. 33-48]. Đây là phương

diện nghệ thuật rất quan trọng và khá phức tạp trong tác phẩm tự sự. Đại thi

hào Gớt đã từng đề cao vai trò của cốt truyện trong sáng tạo truyện ngắn: “Đúng

vậy, còn gì quan trọng hơn cốt truyện và thiếu nó thì cả nền lí luận nghệ thuật

sẽ còn là gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được thì tài năng ta cũng sẽ lãng

phí vô ích”. Mặt khác, cốt truyện có tính đặc trưng của mỗi nền dân tộc, thời

đại, thể hiện tài năng, phong cách và quan niệm của mỗi nhà văn.

Cốt truyện ngắn thường diễn ra trong không gian trong một không gian và

thời gian hẹn chế, chức năng của nó là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc

đời và tình người. Cấu trúc của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều

tuyến mà thường xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Yếu

tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là tình huống truyện, là những chi tiết

cô đúc, có sức khái quát lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm

những chiều sâu chưa nói hết.

Nguyễn Minh Châu được coi là một người tinh tế, ông nhận thấy cần thay

đổi một nền văn học trong không khí dân chủ, cởi mở của những ngày đổi mới

nên ông đã tự bản thân mình thay đổi, tuy âm thầm lặng lẽ nhưng hết sức mạnh

mè càng về sau lại trở nên kiên quyết và triệt để. Những thành công của Nguyễn

Minh Châu trong những năm gần đây khẳng định sự cần thiết phải đổi mới thi

pháp truyền thống và thi pháp nghệ thuật thế kỉ XIX. Bởi vì thi pháp tự sự

truyền thống đang là lực lượng kìm hãm văn xuôi hiện đại Việt Nam tiếp cận

hiện thực đời sống ở một giai đoạn xã hội đầy phức tạp. Các sáng tác của

Nguyễn Minh Châu không theo cái lối mòn của văn học lúc bấy giờ mà mô

hình tự sự tổ chức theo nguyên tác của truyện kể đã được thay thế bằng mô

hình tự sự tổ chức theo nguyên tắc tiểu thuyết. Nhờ thế, mạch suy tưởng, triết

lí tràn vào mạch trần thuật. Mạch kể nhiều khi phải theo đuổi theo mạch tả,

dòng sự kiện lấn át dòng tiến trình làm cho khung cốt truyện ngày càng có

khuynh hướng nới lỏng.

81

Cốt truyện trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu được chia thành nhiều

loại tiêu biểu: cốt truyện tâm lí thể hiện rõ nét trong tác phẩm Bến quê qua

nghịch lí trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật. Nghĩa là sức mạnh của toàn

bộ thiên truyện dồn cả vào sự thể hiện thế giới nội tâm của Nhĩ. Có thể thấy

mạch tâm trạng của Nhĩ diễn theo hai chặng: trước và sau khi Nhĩ nhờ anh con

trai sang sông. Hành động cuối cùng của nhân vật Nhĩ có thể hiểu là anh đang

nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.

Nhưng hình ảnh này còn gợi ý khái quát hơn: Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người

về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời

để rứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất đơn giản, gần

gũi và bền vững. Truyện ngắn Bến quê là một tác phẩm mang đầy tính triết lí

nhân sinh về con người và cuộc đời, ngoài ra nó cũng là sự thức tỉnh nhẹ nhàng

cho con người. Hãy sống và làm những gì để đến cuối đời không phải ân hận,

day dứt.

Kiểu cốt truyện thứ hai là cốt truyện nghịch lí, tức là bằng những nghịch

lí mà người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm thấy chúng ta có thể nhận ra nội dung,

tư tưởng và chủ đề tác phẩm. Qua những nghịch lí ấy tác giả thể hiện quan niệm

nghệ thuật và quan niệm về người cầm bút. Từ khi chứng kiến hiện thực gia

đình người đàn bà làng chài, người nghệ sĩ Phùng có cái nhìn đời khác hẳn.

Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở xa, một khoảng cách đủ tạo nên vẻ đẹp huyền ảo,

nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời,

bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Không được thoát

li cuộc sống, nghệ thuật và cuộc sống phải có mối quan hệ với nhau. Nghệ thuật

không thể lãng mạn hóa khi cuộc đời đầy rẫy những trái ngang. Cốt truyện đã

làm cho Chiếc thuyền ngoài xa vừa chân thực vừa mang giá trị nhân bản sâu

sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, sự tăm tối ngu dốt là một trong

những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em? Đây cũng

chính là thông điệp mag Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm tới bạn đọc qua

82

việc xây dựng nghịch lí như trên. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan

hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía: “Cuộc đời vốn dĩ là

nơi sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không bao giờ cuộc đời là nghệ thuật,

và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của

nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con

người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và

sống cùng cuộc đời” [18]. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái

đẹp, hãy là con người biết yêu, biết ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình,

biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Kết thúc tác

phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng

những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, thế nhưng mấy ai biết được

sự thật nàm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của truyện ngắn để lại nhiều suy

ngẫm: “quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng tôi mỗi lần ngắm kỹ, vẫn thấy hiện

lên cái màu hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng

hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà đang bước ra

khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét

thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuân

mựt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những đường bước chậm

rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn đám đông” [25, tr. 347].

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để

nhận ra những uẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để

nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.

Ở truyện ngắn Sống mãi với cây xanh mang những nét viễn tưởng, cốt

truyện mang tính tự nhận thức cao. Viễn tưởng không chỉ ở chỗ viết “thiên hồi

kí đầy cảm động của cây sấu và cây cột điện” mà còn ở cuối tác phẩm tác giả

lại kể lại về hậu vận của “hai mươi năm sau”. Và viễn tưởng nhất là ở chỗ nhà

văn mô tả con người trong sự giao hòa với thiên nhiên, mô tả những cuộc trò

chuyện giữa cây cối, giữa các đồ vật vô tri với con người. Chính những nét viễn

83

tưởng với sự giả định kia làm cho thiên truyện có giọng điệu trong trẻo, đầy thi

vị. Và bác Thông được xây dựng trong cảm hứng gợi ca, trân trọng “một lão

ông biết nói chuyện với cây cối” và “còn có thể nói chuyện với đất nữa”. Với

năng lực lạ đời “biết trò chuyện với đất cát và cây cối”, bác Thông rất có thể bị

xem là “dở tính”, là lẩn thẩn. Song thiên nhiên cây cối với bác lại là vị khách

quý nhất tại “đại hội các loài cây”. Cảm hứng ngợi ca trân trọng có lúc lại bật

lên đầy trăn trở. Truyện ngắn Sống mãi với cây xanh đã xây dựng những thứ

xung đột nhẹ nhàng, êm đềm không dễ nhận ra. Ý nghĩa của tác phẩm mang lại

cho người đọc giá trị nhận thức cao. Thức tỉnh con người đừng vì ham muốn,

ích kỷ bản thân mà đối xử nhẫn tâm với tự nhiên. Tự nhiên cũng là một thực

thể sống cần được tôn trọng bảo vệ.

Khác với truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi bàn về vấn đề sinh thái

trong truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khi xây dựng cốt truyện hay ý

thức luận đề sinh thái. Nguyễn Huy Thiệp – là nhà văn được coi là người có tài

viết truyện hiện đại mà đọc như truyện cổ tích, ông khéo léo sử dụng lối diễn

đạt cốt truyện và mạch truyện theo trình tự thời gian tuyến tính, cái gì xảy ra

trước thì nói trước, diễn ra sau thì kể sau. Cách ông kể về các nhân vật cũng rất

giống dân gian cũng rất giống dân gian vẫn thường dùng khi nói về các nhân

vật trong truyện cổ tích. Những truyện ngắn trong chùm truyện Những ngọn

gió Hua Tát và Muối của rừng là những ví dụ tiêu biểu. Với nhãn quan tinh

tường cộng thêm vốn sống phong phú với hàng chục năm công tác ở miền núi,

Nguyễn Huy Thiệp nhìn thế giới tự nhiên – vấn đề sinh thái không bằng con

mắt của những con người sinh ra và lớn lên ở rừng núi, mà ông nhìn các vấn đề

ở chốn hoang dã với con mắt khách quan, nhìn nhận và đánh giá với quan điểm

của một người yêu thiên nhiên, trân trọng các vấn đề giá trị tự nhiên, sinh thái

bằng cách chỉ ra những sai lầm của con người trong quá trình sưt dụng khai

thác và chung sống với thế giới tự nhiên.

Các truyện ngắn đều mở đầu theo công thức truyền thống: Muối của rừng,

84

Con thú lớn nhất, Sói trả thù nhưng kết thúc theo lối hiện đại. Nếu truyện cổ

tích truyền thống có những cái kết giải quyết triệt để vấn đề nảy sinh trong

truyện thì những câu chuyện “cổ tích” của Nguyễn Huy Thiệp có những cái kết

theo hướng mở, nó tạo khoảng trống lớn để người đọc đắp thêm những suy

ngãm vào đó, làm đầy lên khoảng trống nghệ thuật mà tác giả cố tình tạo ra

trong tác phẩm của mình.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trở thành những kết cấu không khép kín.

Nói cách khác là ông kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo thực thụ với

mình. Nếu trong văn xuôi truyền thống, người đọc đã rất quen với những kết

thúc khép kín, nghĩa là ở đó người ta không chờ đợi một sự quay ngước hay

thay đổi nào nữa của câu chuyện, thì ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp điều

này hoàn toàn có thể xảy ra. Mở đầu theo công thức truyền thống, dẫn dắt người

đọc đi từ lai lịch, xuất xứ nhân vật, sự kiện nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã phá

bỏ những phán đoán tuân theo quy luật lôgic thông thường để tạo ra những cách

kết thúc mới, buộc người đọc phải suy nghĩ, trăn trở. Gia đình lão thợ săn ngụ

cư ở bản Hua Tát xuất hiện với chân dung đầy đủ về ngoại hình, lai lịch, điệu

bộ bằng cách mở đầu như một câu chuyện cổ tích: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một

gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa

bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đề luống tuổi. họ đi đâu

cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề

thấy một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim.

Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo” [98,

tr. 200]. Lai lịch và ngoại hình của nhân vật được nhắc đến ngay ở đầu truyện

một cách khái quát và đầy đủ, những điều này không được nhắc lại trong phần

tiếp theo của truyện, hệt như câu truyện cổ tích.

Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nói chung và truyện ngắn

gắn với vấn đề sinh thái nói riêng chúng tôi nhận thấy ông đã sử dụng kiểu kết

thúc không khép kín độc đáo. Có những truyện kết thúc bỏ lửng, có truyện lại

85

kết thúc mở ra nhiều kiểu khác nhau trong việc giải quyết các xung đột và số

phận nhân vật. Không hề giống các câu chuyện cổ tích, đọc truyện ngắn của

ông người đọc khó đoán được kết thúc như thế nào. Ông kể chuyện đời và số

phận của những kẻ hết đi săn tự nhiên. Người ta nghĩ rằng chuyện đi săn chỉ là

vấn đề phụ, để trang điểm cho một câu chuyện khác về cuộc đời nhân vật.

Nhưng không, Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện đi săn của các nhân vật để nói đến

vấn đề mà hiện nay cả thế giới đang quan tâm sự suy giảm tài nguyên, sự can

thiệp một cách tàn nhẫn của con người vào thế giới tự nhiên. Kết thúc của các

câu chuyện là bài học tự nhiên dành cho con người khi sức chịu đựng của nó

vượt quá mức giới hạn.

Cách kết thúc mở cũng là sự tính toán của tác giả. Nếu theo cách truyền

thống, mọi mâu thuẫn được giải quyết triệt để thì ý nghĩa của truyện được thể

hiện một cách rành mạch, thẳng thắn như cách nói của dân gian. Truyện của

Nguyễn Huy Thiệp kết thúc khi sự việc xảy đã ra và để lại hậu quả của những

mâu thuẫn chưa được giải quyết, không có lời phát biểu của tác giả trước vấn

đề được nói trong truyện ngắn một cách tường minh. Tất cả đều được hàm ẩn,

được chìm dưới nước. Việc của độc giả là khám phá phần chìm của tảng băng

trôi, tự tìm cho mình cách hiểu về tác phẩm; tự đánh giá vấn đề sau khi câu

chuyện dừng lại. Sự dừng lại về mặt ngôn ngữ của câu chuyện sinh thái trong

mỗi tác phẩm không phải là sự kết thúc hoàn toàn của chuyện nhà văn muốn

nói. Cách kết thúc mở tạo ra lối đi mới cho ý đồ nghệ thuật chứa đựng trong

một dung lượng ngắn của truyện. Truyện ngắn Muối của rừng, có một kết thúc

bất ngờ. Những tưởng ông Diểu sẽ vác con khỉ về hãnh diện khoe với mọi người

kết quả của chuyến đi săn. Nhưng thật ngạc nhiên, ông Diểu lại phóng sinh cho

con vật tội nghiệp ấy, để nó được về với đại ngàn,với bầy đàn của mình. Còn

ông, ông nhòa vào màn mưa xuân với thân hình trần trụi không một mảnh vải

che thân, cũng không còn khẩu súng săn nữa. Ông Diểu đã trở về với hình hài

nguyên thủy của loài người, nhập vào lòng tự nhiên như thời tiền cổ con người

86

đã sống chan hòa với tự nhiên như vậy. Đặc biệt, cuối truyện, tác giả còn để

ông Diểu gặp được hoa tử huyền, được thấy muối của rừng ba mươi năm mới

xuất hiện một lần. Cái kết của truyện ngắn này mở ra biết bao suy ngẫm: về

lòng nhân, về sức cảm hóa con người của tự nhiên, về quy luật nhân – quả, về

sự cản hóa con người của tự nhiên, về quy luật nhân quả, về sự đền bù cho kẻ

biết quay đầu lại bờ khi chưa đi xa quá giới hạn của cái Thiện, về tấm lòng bao

dung của tự nhiên, về lời cảnh tỉnh con người khi không tôn trọng tự nhiên...

Trong khi đó truyện ngắn Sói trả thù và Con thú lớn nhất lại lựa chọn cách kết

thúc không hề nhẹ nhàng như Muối của rừng. Cái chết đã xuất hiện khi mâu

thuẫn lên cao tới mức không thể điều hòa. Cái chết đau đớn, bi thảm của thằng

con trai ông Nhân, cái chết lạnh lẽo của vợ chồng lão thợ săn ngụ cư là cái kết

cục của những kẻ tận diệt tự nhiên. Cái chết của mụ vợ lão thợ săn (Con thú

lớn nhất) và thằng San (Sói trả thù) xảy ra không phải vì bản thân họ trực tiếp

làm điều ác, họ gánh hậu quả mà những người chồng, người cha mình gây nên.

Kết thúc truyện ngắn này có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh, đi thằng vào

nhận thức của độc giả, những câu chuyện với cái kết không có hậu. Thông

thường trong những truyện cổ tích kết thúc không có hậu, sự trừng phạt sẽ dành

cho những kẻ trực tiếp gây nên cái ác. Nhưng trong hai truyện ngắn này, bên

cạnh cái chết đau khổ cho những kẻ gây tội ác, những người thân của họ cũng

phải hứng chịu đau đớn. Có phải có sự quả báo nhầm đối tượng? Nếu trong các

truyện cổ tích truyền thống, cái chết oan uổng của vợ lão thợ săn và thằng San

sẽ không phù hợp với quan niệm của dân gian. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã

nhận thấy những vấn đề suy thoái của tự nhiên không giáng xuống đầu của

riêng ai. Thông qua các câu chuyện với cách kết thúc bất ngờ ấy, ông chỉ muốn

chỉ ra rằng sự trả thù của tự nhiên hết sức ghê gớm. Nó sẽ gây tai họa cho tất

cả mọi người, nhất là các thế hệ tương lai của chúng ta, nếu như con người

khiến thiên nhiên nổi giận.

Nhìn chung, qua các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà

87

văn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt những tác phẩm được viết từ sau những năm

1975 đến nay, có thể thấy rõ những vấn đề sinh thái được đặt ra đều mang tính

cấp thiết. Vấn đề phê bình sinh thái đã được nhà văn Nguyễn Minh Châu và

nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được phản ánh đa chiều, trong đó đau đáu khát

vọng ý thức bảo vệ cái đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái trước những nguy cơ

bị xâm hại bởi quá trình phát triển mạnh của quá trình đô thị hóa và thức tỉnh ý

thức con người thời đại mới....Chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn, trực diện và

có những biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường, bảo vệ những giá trị văn

hóa, tình thần của cuộc sống.

3.4. Hệ thống biểu tượng đô thị thể hiện cảm quan sinh thái

3.4.1. Đô thị như là sự đối nghịch với tự nhiên

Luận điểm này được gợi dẫn từ một mệnh đè quan trọng của nhà thơ – nhà

phê bình Kenneth Burke – người được coi là “vị cha đẻ của lí thuyết xanh”, khi

ông cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng sinh

thái hiện nay nằm ở việc loài người càng lúc càng “bị tách khỏi điều kiện tự

nhiên” (separated from our natural condition). Theo Kenneth Burke con người

vừa là một phần của tự nhiên, lại vừa tự tách biệt mình ra khỏi thế giới tự nhiên;

và “vấn đề của thời hiện đại nằm ở chỗ xu hướng thứ hai chiếm ưu thế hơn, dẫn

đến sự tha hóa của con người và sự suy thoái của môi trường”.

Văn học tiếp cận sự đứt gãy này theo cách riêng của mình, bắt đầu bằng

việc miêu tả trực tiếp những tình huống sống cụ thể, những trải nghiệm vật

lí/tâm lí của con người khi đối diện với một cảnh quan đã-đang-hay sẽ - được-

đô thị hóa. Trong văn học Việt Nam đương đại, có thể coi các truyện ngắn của

Nguyễn Minh Châu là những “dự cảm” đầu tiên về mối quan hệ càng lúc càng

trở nên “xa lạ hóa” của con người đô thị với thế giới tự nhiên. Thế nhưng, trong

tác phẩm của ông không đơn thuần chỉ có những tiếng nói phủ định và chối bỏ.

Chứng kiến sự chuyển mình mang tính bước ngoạt theo hướng hiện đại hóa của

đời sống xã hội, Nguyễn Minh Châu đã có được sự nhạy cảm thực sự khi nắm

88

bắt những khát vọng xây dựng và đổi mới của một lớp người hậu chiến, đặc

biệt là thế hệ trẻ. Chưa thành hình, nhưng niềm hy vọng, lòng mong ước về một

sự đổi thay mang quy mô đô thị đã dần được kiến tạo, thay thế cho tư duy “phát

triển” cũ của một xã hội trước đó.

Trong thực tế không thể phủ nhận sức hấp dẫn quá lớn của đời sống đô thị

mà bất cứ cái nhìn “lãng mạn hóa” nào về các hình thái không gian khác (nông

thôn hay vùng hoang) cũng không thể xóa bỏ được. So sánh với những hấp lực

đô thị, vẻ cách biệt, hoang vu hẻo lánh, hay sự giản đơn của đời sống nông thôn

trở nên thật quá nhà tẻ, chán chường, thiếu cuốn hút. Đó là lí do khiến cho

những người sinh ra và lớn lên ở các không gian đô thị khó lòng từ bỏ nơi chốn

ban đầu của họ. Việc quan lưng hoàn toàn với đô thị tìm đến một hình thái

không gian khác “kém phát triển” hơn, đến bây giờ, vẫn là một điều ít xảy ra

(nếu không muốn nói là quá hiếm hoi), và thường đi kèm với những huyền

thoại về sự hy sinh lí tưởng. Phổ biến hơn cả vẫn là cảm thức về nỗi nhớ đô thị,

hoài niệm đô thị của nhưng kẻ buộc phải rời xa nó, hay trốn tránh nó vì chán

chường bất mãn.

Trong truyện ngắn Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu, tình cảnh mụ

Huệ - một người con gái thành thị lấy một anh chồng dân quê và buộc phải

cùng người chồng “thích nghi” trở lại với đất đai nguyên thủy đã cho thấy rõ

nét điều này. Huệ xuất thân là “một cô gái thành phố chính cống”, mụ Huệ chấp

nhận lấy lão Khúng không phải vì tình yêu, cũng không phải vì mong muốn

một cuộc sống thôn quê. Sự ra đi của Huệ là để từ biệt một cuộc tình phụ bạc,

để che giấu bản thân và đứa con vô thừa nhận cô đang mang trong bụng. Nghĩa

là, lựa chọn lấy anh chồng như là “một bước đường cùng” trong hoàn cảnh

không thể tránh khỏi. Nỗi nhớ về anh người yêu “thành phố” hay về không gian

thành phố, đời sống thành phố lúc nào cũng vấn hiện lên trong tâm tưởng Huệ,

ngay cả sau khi gần hai mươi năm bỏ đi, mụ không còn “đặt chân đến một

thành phố nào cả, kể cả cái thị trấn lâm nghiệp cỏm con”; “đến bây giờ đã trở

89

thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừng thực sự, chắc

hẳn Huệ vẫn cứ cất riêng mình một hình ảnh cuối cùng của cái thời thiếu nữ

sông ở thành phố” [25, tr. 333]. Thực vậy, quá khứ đô thị đẹp đẽ ấy vẫn xuất

hiện thường xuyên trong mỗi suy nghĩ, mỗi so sánh của Huệ. Với Huệ, cũng

như với bao nhiêu người dân thành thị khác, việc thích nghi với một không gian

phi đô thị không bao giờ có thể trọn vẹn, hết sức miễn cưỡng và lúc nào cũng

đầy định kiến: “Chao ôi! Chỉ có Huệ mới hiểu hết được tất cả nỗi đau đớn, tù

túng của một cuộc đời bị bưng bít và cách biệt với chung quanh, dù kẻ thông

minh và hiểu biết đến đâu cũng sẽ trở thành hẹp hòi và thiển cận không tránh

được...Huệ đã lấy cả bản thân số phận đời mình để làm vật thí nghiệm cho cái

điều này cơ mà” [25, tr. 354].

Thành phố, với Huệ trở thành một nơi chốn lí tưởng, một không gian mà

cô luôn cố muốn được quay trở lại sống trong nó, dù bằng cách này hay cách

khác: “có thể nói rằng suốt cả đời mình, Huệ sống ở đây đẻ chờ đợi một thành

phố ra đời – một thành phố công nghiệp của hàng vạn công nhân khai thác mỏ

quặng (một thứ kim loại quý). Huệ biết rằng đến lúc đó, đời sống của con người

và thiên nhiên chỗ này hoàn toàn khác bây giờ, con người sẽ không còn bị bưng

bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây, người ta có thể nhận được những tin

tức của mọi ngưởi nơi khác”. Mong mỏi ấy, không có gì khác mà chính là khát

vọng đô thị hóa, nếu không thể cho mình, thì cũng là tương lai sáng sủa cho thế

hệ sau: “chị tin nhất định dù sớm muộn nó phải có, nhất định một thành phố

công nghiệp sẽ mọc lên trên mảnh đất hoang này....Mảnh đất này chỉ có cách

công nghiệp hóa, ống khói những lò cao nhà máy phải mọc lên! Những đứa

con của chị chẳng phải mơ ước và đi kiếm tìm cuộc sống đô thị ở tận đâu xa,

mà ở ngay trên miếng đất chúng đang đứng” [25, tr. 345]. Nghĩa là, nhân vật

này đang phủ nhận nơi mình sống, đồng thời, phủ nhận mối quan hệ hiện tại cô

đang cùng với người chồng của mình trải nghiệm giữa con người với thế giới

tự nhiên. Những kí ức đô thị xưa cũ đã nuôi cấy trong hình dung của Huệ một

90

mối quan hệ với tự nhiên nhàn hạ, ít vất vả hơn nhiều, và có vẻ như văn minh

nhiều hơn so với cuộc mưu sinh trước mắt. Theo đó Th. – mối tình đầu của

Huệ, chàng người yêu cũ giờ là tổng công trình sư của một “công trình công

nghiệp đồ sộ”, về bản chất, có thể được hiểu như một tạo dựng mang tính biểu

tượng cái “gốc gác thành phố” không thể đoạn tuyệt, cho thứ hấp lực vĩnh viên

của đô thị và xu hướng đô thị hóa. Nói đúng hơn, cả một đời Huệ đã dằn vặt vì

sự lỡ dở với không gian đô thị - nơi cô nghĩ rằng mình và đứa con mình lẽ ra

xứng đáng được hưởng, chứ không phải nỗi nhọc nhằn của cuộc sống khai

hoang.

Nhưng sức quyến rũ ấy không chỉ đến với mụ Huệ - người vợ có xuất thân

thành thị của lão Khúng. Khao khát hướng về cuộc sống đô thị còn hết sức rõ

nét ở đứa con của lão: “Đời sống đô thị - cái niềm mơ ước thật xa lạ cứ mỗi

ngày một hiện ra trong những đứa con của mụ Huệ một cách cụ thể, như một

tiếng gọi của thời đại, nhất là vào những ngày cuối năm, mùa cà chua, chúng

phải đèo những sọt cà chua chín để xuống bán tận chợ Vinh”. Sự hấp dẫn của

thành phố đủ sức cám dỗ tất cả những ai đã từng ít nhiều tiếp xúc với nó. Một

lần nữa, ánh đèn lại xuất hiện như một dấu chỉ đô thị, biểu hiện cho đời sống

văn minh hiện đại. So với ánh trăng, sự thay thế của đèn điện cho thấy bước

chuyển về sự khai thác tự nhiên nhằm tìm kiếm nguồn nhiên liệu nhân tạo, vừa

biểu đạt một sự đứt gãy trong mối quan hệ mật thiết vốn có giữa con người với

thiên nhiên. Nếu như ánh trăng là hiện tại, thì ánh đèn điện sáng là giấc mơ

phát triển, là tương lai mà thế hệ trẻ ở những không gian khác hướng tới:

“Những buổi khuya sáng trăng, trong cái im lặng thẳm sâu từ những cánh rừng

chung quanh như ùa ra cái sân nề vôi trắng toát trước nhà, đám con tụ tập lại,

kháo với nhau bao nhiêu là thứ chuyện đầy hấp dẫn về đời sống ở trong cái

quầng sáng điện mà chúng vừa từ đấy trở về” [25, tr. 338].

Nhịp sống, âm thanh, ánh sáng, sự tiện nghi vật chất nơi đô thị đã làm nảy

sinh cảm giác chán chưởng cảnh sống giản đơn nhàn tẻ và có phần nhọc nhằn

91

ở nông thôn hay vùng hoang dã. Những lí lẽ phát triển đô thị lại vẽ thêm những

huyền thoại về sự phân cách giữa văn minh hoang dã, hiện đại hóa>

như một cách kích thích người ta quay lưng hơn nữa với không gian phi đô thị

hóa. Theo đó, tính bền vững của đời sống con người ở những không gian “khác”

bị đe dọa, xáo trộn, biểu hiện ở sự bất tín chính những người dân bản địa vào

truyền thống văn hóa, vào cách thức lao động sản xuất cũ, cũng như vào sự gắn

kết cũ với tự nhiên. Sau Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp đã đề cập đến

sự bất ổn này trong các truyện ngắn của mình và truyện Chuyện tình kể trong

đêm mưa là một câu chuyện như thế.

Cuộc tình tan vỡ giữa Bạc Kỳ Sinh và Muôn, thực chất,là sự chia rẽ vì bất

đồng quan điểm sống. Muôn tin vào những lời hứa hẹn mới của con đường

“Kinh hóa”, đô thị hóa: “Cô tỏ ý chê bai lối sống khép kín, quá gần tự nhiên,

thậm chí có phần tăm tối của người dân miền núi”. Ngược lại, Bạc Kỳ Sinh –

“đứa con hoang của núi rừng” – hoài nghi về điều này. Anh khó chịu với việc

ngày càng có nhiều người Kinh lên Tây Bắc với những khẩu hiệu: “đi xa hơn

nữa”, “khai hóa văn minh”, “thắp lên ánh sáng văn hóa” [98, tr. 590]. Giống

như nhân vật Th. Trong Khách ở quê ra, đồn trưởng biên phòng Lò Văn Ngân

trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp chính là đại diện cho lớp người “khai

hóa” mới này. Anh ta không chiếm được trái tim Muôn, nhưng lại toát ra sức

hút của sự mới mẻ, của hấp lực đô thị, đủ khả năng đẩy tình yêu xuống hàng

thứ yếu. Muôn đã từ chối Bạc Kỳ Sinh như từ chối sống chung với thiên nhiên.

Sự đánh đổi ấy, cái mà cô có được là một cuộc sống trưởng giả theo mô hình

“dân thành thị”. Dù thế nào, có thể thấy Bạc Kỳ Sinh hay người kể chuyện đều

không hề có ý trách móc Muôn. Như rất nhiều người dân tộc nhạy bén khác, cô

đã đoán trước được xu hướng đô thị hóa tất yếu của mảnh đất mà mình sinh

sống. Đúng như Bạc Kỳ Sinh đã nói, Muôn đã chọn cho mình một con đường

dễ dàng hơn. Né tránh những thách thức mà tình yêu thiên nhiên mang lại, cô

đến với “một môi trường tầm thường hơn”: “Ngôi nhà của Ngân ở ngay cổng

92

chợ Mường La, ngôi nhà thiết kế giống như những ngôi nhà khác ở thành phố,

tầng dưới để bán hàng hay để cho thuê văn phòng, tầng trên để ở. Ngân và

Muôn lấy nhau, họ có hai đứa con, cả hai đang học Đại học...Muôn còn rất

đẹp. Cô mặc quần áo sang trọng theo lối dân thành phố” [98, tr. 605].

Đô thị hóa đi kèm với nó là thái độ khước từ sống chung gắn kết với tự

nhiên. Và nó đang trở thành một xu thế cuốn hút các nhân vật trong truyện ngắn

của nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Có thể thấy

rằng từng bước phát triển của đô thị cũng là từng bước nhân hóa cảnh quan,

hủy diệt và tuyệt giao với thế giới tự nhiên. Quan niệm thống trị của thời đại

về sự phát triển biến những người như lão Khúng, bác Thông trong truyện ngắn

của Nguyễn Minh Châu trở thành những kẻ lập di, ngờ nghệch. Nếu như

Desmond Morris gọi các công viên thành phố là “những mẩu nhỏ của môi

trường tự nhiên”, thì bác Thông trong Sống mãi với cây xanh là người nhận về

mình trách nhiệm gìn giữ những “mẩu nhỏ” quan trọng ấy. Bác chăm sóc tất cả

cây cối ở thành phố này bằng tình yêu thương và sự thấu hiểu. Nguyễn Minh

Châu được coi như là một nhà văn đặt nền móng cho văn học đổi mới, có thể

nói, một phần là bởi trong các sáng tác của mình, ông đã lần dầu tiên đặt ra

những cuộc đối thoại với tự nhiên, lắng nghe tiếng nói của tự nhiên không phải

là từ vị thế của kẻ thống trị, cũng không phải là tình yêu thiên nhiên theo cách

“nhân hóa” nó, phú cho nó các hình thái cảm xúc của con người. Ngược lại, với

ông, tự nhiên có một tiếng nói “khác” của riêng mình. Nó vẫn không ngừng cất

tiếng nói với chúng ta từng giây phút, chỉ có điều con người đã dần đánh mất

đi trong mình khả năng thấu hiểu. Mối quan tâm của tác giả muốn đặt ra như

ông đã nói chính là vấn đề “thành thị hiện đại và thiên nhiên” [25, tr. 365].

Những dòng văn kéo trí tưởng tượng của người đọc vào lịch sử, nhắc lại với

chúng ta rằng, sự xuất hiện của không gian đô thị, không gì khác là hệ quả lâu

dài của một quá trình chinh phục tự nhiên: “Đúng, đời sống loài người là một

chuỗi dài quá trình chinh phục thiên nhiên”. Thế nhưng, “thật là thiếu thỏa

93

đáng, và thậm chí nguy hiểm nếu không nghĩ đến công việc hòa hợp với thiên

nhiên: Từ phố phường chật hẹp đông đúc có bao giờ các bạn đi ra sông Hồng

nghe tiếng hát của phù sa và bờ bãi? Đã bao giờ các bạn dừng bước trên hè

phố nâng một cành cây bị gẫy? Có phải tình yêu của các bạn nói lên trong màu

xanh của bàng cây? Và nhất là tuổi thơ, hãy trả lại cho tuổi thơ những nội cỏ

và bóng râm mát của cổ thụ, quà sấu giằm và cảm giác đi trong rừng” [25, tr.

366]. Nghĩa là, tự nhiên là cái nôi nâng đỡ và xoa dịu con người, là nơi ươm

mầm những tình cảm đẹp đẽ nhất, thánh thiện nhất.

Bởi lẽ đó mà bác Thông không thể hình dung nổi đến một ngày, những

“mảnh sinh thái” nhỏ bé ấy sẽ bị triệt hạ để phục tùng cho từng tham vọng về

một thủ đô hiện đại hơn nữa. Ngay chính Huân – chàng trai trẻ Sài Gòn giàu

nhiệt huyết đại diện cho lí tưởng thay đổi, cũng không thể lường trước được

rằng sự dung hòa giữa không gian đô thị với môi trường sinh thái, thực chất là

vấn đề nan giải đến mức nào. Là một kĩ sư xây dựng đam mê các kiểu cách

kiến trúc đô thị, ngay từ khi đặt chân đến Hà Nội, anh đã nuôi trong mình niềm

tin đầy “lãng mạn”: “Hà Nội phải đổi khác, Hà Nội vừa xanh ngắt cây cối vừa

vươn cao lên bằng những ngôi nhà chọc trời nhưng vẫn không mất vẻ hài hòa

với phần kiến trúc Hà Nội cũ” [25, tr. 396]. Anh ấp ủ ý tưởng về một “công

trình thuộc thời vị lai” hứa hẹn bao nhiêu điều “to tát” và “vui vẻ”. Thế nhưng,

Nguyễn Minh Châu đã linh cảm thấy vô số điều bất ổn trong những dự án xây

dựng như thế. Đó là bởi, việc vừa gìn giữ mối quan hệ chung sống hài hòa với

tự nhiên, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế một điều quá khó, nếu không muốn

nói là không tưởng. Môi trường tự nhiên quá khó để dành đất sống, chứ chưa

nói đến khả năng tồn tại mạnh mẽ trong không gian của những “tòa nhà chọc

trời”. Không chỉ thế, những dự án quy hoạch này được đề xuất bởi một con

người tài năng, giàu niềm tin tưởng, đã đi khắp năm châu bốn bể để học hỏi,

thế nhưng, lại không có một độ lùi cần thiết về thời gian để thấu hiểu đời sống

con người và vùng đất nơi đây. Bản vẽ của Huân được duyệt, rồi được thực thi

94

khá giống với những gì trước đó anh mường tượng: “Khu phố xây dựng thí

điểm đã mọc lên. Nó gợi lên phong vị hiện đại của một thành phố công nghiệp

châu Âu. Một đại lộ rộng và thẳng tắp chạy dài suốt giữa ruột phố” [25, tr.

418]. Thế nhưng, sự xáo trộn trong cuộc sống những con người nơi đây, nỗi

đau của những người đã có bao kỷ niệm gắn bó với khoảng trời cũ, không gian

cũ, là điều mà “một người khách qua đường” như anh không thể đoán trước:

“Cái người khách đã hy sinh ấy đã mó đến đời ông lão. Cái giường nằm tự

nhiên không nằm trong nhà mà đang nằm tranh ảnh ngay giữa đường, thạp

gạo và chiếc đèn dầu hỏa cũng vậy. Trời đất hỡi, hắn đến đây làm gì, bày vẽ ra

những đổi thay này làm gì? Để đến nỗi cả cái gian nhà này của ông cũng chẳng

còn nữa. Ông ngước mắt nhìn lên trần ngắm những phiến rùi mè đầy bặn bụi

đang văng vẳng phát thanh tiếng cả một bầy mọt đang trèo trẹo nghiến gỗ mà

thậm chí nghĩ đến rằng ngày mai không còn được nghe nữa, ông đã thấy như

độ ập vào đời mình những phiến buồn hiu quạnh” [25, tr. 413].

Huân gắn bó quá ít ỏi với mảnh đất anh mong muốn và tham gia đổi thay,

xây dựng lại. Dự án ấy cũng chỉ để thỏa mãn cái ý thích nhất thời của một con

người nhiều lãng mạn, thiếu thực tế. Huân vẽ ra vô số ý tưởng, nhưng vì chiến

tranh, anh không có cơ hội chứng kiến việc các bản thiết kế ấy đang được “hiện

thực hóa” như thế nào trong hiện tại: một cây phải hạ xuống để một trạm bơm

xăng mọc lên, hệ thống đường sá và nhà cửa càng lúc càng thu hẹp, tước đoạt

dần không gian tồn tại của thiên nhiên, vô số cây cối bị đốn ngã nhằm lấp đầy

sự tiện nghi bên trong những tòa nhà sang trọng. Như thế, đi cùng với đô thị

hóa không phải là lối sống hài hòa, mà là một cơn sốt khai thác: “công việc khai

thác bây giờ đột xuất trở lên lớn lắm”; “Không phải mình bác mà nhiều người

làm ở vườn ươm đã chuyển sang công việc khai thác, đúng như lời giám đốc

nói, khai thác bây giờ trở nên đột xuất to lớn”; “Bao nhiêu nhà cửa trở lên

khang trang, bàn ghế, xa lông, tủ kệ chật nhà cũng vì được làm cái công việc

béo bở: khai thác gỗ ngay trong thành phố!” [25, tr. 410]. Và một khi con

95

người đã biến tự nhiên thành công cụ, nhìn tự nhiên bằng cái nhìn lợi ích, người

ta rất khó để quay đầu lại, nhận thức lại. Cái lợi vật chất, dù thế nào vẫn quyến

rũ hơn cả, và đủ sức phá hủy sự thân thiết giữa con người và tự nhiên nhanh

hơn cả. Những trang viết của Nguyễn Minh Châu cho thấy sự nhạy cảm của

ông trước sự bội phản quá nhanh ấy của con người: “Họ đang chuẩn bị cưa

ngắn những cành quá dài lâu nay vẫn từng đổ bóng mát xuống tận lòng đường.

Họ đang om sòm thảo luận về việc nên hạ mấy cành lớn xuống theo cách nào

để không xảy ra tai nạn, không làm sập mái nhà”; “nhà nào nhà nấy đã chất

lù lù một đống củi cành sấu. Thật là một cuộc yến tiệc cho cả thiên hạ” [25, tr.

412]. Những chi tiết ấy thể hiện rõ nét sự ích kỉ của con người. Và còn đau lòng

hơn: “Chỉ còn một cái thân cây gỗ tươi trụi thui lủi. Kẻ được hưởng bóng mát

nhiều nhất là lũ trẻ phố chợ và gia đình mấy hàng phở quanh ngã tư vừa nghe

tin hạ cây sấu, lập tức xông vào lột da nó, như lột da một con bò ở lò sát sinh.

Cây sấu vẫn đứng thẳng với một cái thân cây đã bị lột vỏ đang ứa nhựa, ở

những khoảng vỏ mới bị lột nom đỏ hỏn như da đứa trẻ sơ sinh...” [25, tr. 414].

Mượn cái nhìn của bác Thông, Nguyễn Minh Châu đã miêu tả hết sức sinh động

cảnh tàn sát thương tâm cây sấu già. Cái cây vô tội bỗng chốc đã hiện lên như

một thi thể bị hành quyết. Những so sánh liên tiếp vừa khắc họa cây sấu như

một sinh thể sống, vừa cho thấy sự vô tình tàn nhẫn của con người. Trước những

món lợi vật chất trước mắt, chúng ta dễ dàng đánh mất đi khả năng giao cảm

với tự nhiên, cũng có nghĩa, dễ dàng đánh mất đi cảm giác về chính mình như

là một phần “da thịt của thế giới” (“flesh of the world”, Maurice Merleau-

Ponty). Giao cảm ấy không cần đến lí trí, không cần đến thứ ngôn ngữ khác

biệt mà con người tự tạo ra cho mình, cũng không viện đến những huyền thoại

văn hoá. Nó đơn giản chỉ là sự dự phần một cách vật lí nhất của những cảm

giác thân thể: “Cây sấu vẫn bình thản mà ông lão thấy đau, y như sắp phải

đứng để người ta cưa tay cưa chân mình. Rồi bỗng tiếng cưa máy cứ xoèn xoẹt

cứa vào thịt da ông lão”; ông “không còn đủ can đảm nhìn cái phần xương thịt

96

đẽo ra từ cơ thể sống của một người thân yêu”; “kiệt sức vì đau đớn và cô độc,

ông lão như một cái cây cổ thụ trăm tuổi đang sắp ngã xuống mặt đất” [25, tr.

416].

Tuy nhiên, trong một đô thị càng lúc càng hiện đại hoá, trong một không

gian càng lúc càng dung chứa lòng tham vô độ của con người, những ai còn giữ

được bản tính hồn nhiên “lẩm cẩm” như bác Thông thật quá hiếm hoi. Cây sấu

im lặng, chết cái chết của một vị Thánh đã từng chở che con người, và giờ đây,

bị chính họ phản trắc. Rễ cây bật lên như một câu hỏi không lời chất vấn lại

những hành động bạo tàn nhân danh văn hoá, văn minh: “Nhìn khoảng đất rỗng

trùng sâu xuống quanh cây sấu và đống đất đào lên, người ta bất giác giật mình

được bất giác tận mắt chứng kiến cái tầng đất văn hoá của con người – nó cũng

chẳng lấy gì làm dày lắm” [25, tr. 414]. Văn hoá, như thế, nảy sinh từ tự nhiên,

được tự nhiên nuôi dưỡng. So với sự vĩ đại vô thuỷ vô chung của thiên nhiên,

của trái đất, nó nhỏ bé và mỏng manh đến thảm hại. Mặt khác, văn hoá lại cũng

chính là tấm áo choàng hư nguỵ mà chúng ta không ngừng che đậy tự nhiên

nhằm thoả mãn sự khoe khoang về quyền năng thống trị của loài người cùng

với vô số lợi ích thực dụng mà địa vị ấy mang lại.

Chưa hẳn là một tuyên ngôn, nhưng qua Sống mãi với cây xanh, Nguyễn

Minh Châu đã thể hiện những suy tư có tầm về mối quan hệ giữa nghệ thuật,

thời đại, và môi trường sinh thái. Văn học nói riêng hay nghệ thuật nói chung,

đúng như Jonathan Bate nói, có thể lựa chọn cho mình một lối đi khác với diễn

ngôn thống trị, phản biện lại ngôn ngữ và văn hoá, để “làm nhiệm vụ tái kết nối

chúng ta với thế giới”. Hay Heidegger, trong The Question Concerning

Technology (Câu hỏi về Công nghệ), cũng đã nói về nhiệm vụ mới của thơ ca

trong việc “nhắc nhở và duy trì một mối quan hệ phi công cụ (non-instrumental

relationship) với thế giới”. Qua các tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã

thực sự làm được điều ấy trong văn học. Nghệ thuật, với ông, không phải là địa

hạt của tư duy thực dụng trước tự nhiên. Nó gần gũi hơn cả với “bản năng giao

97

hoà với muôn loài”, với cái nhìn nguyên thuỷ, trẻ thơ về thế giới: “Con người

không có một chút học thức, văn hoá ấy (bác Thông) – như sau một làn sương

lờ mờ - chỉ bằng bản năng giao hoà với muôn loài, đã mò mẫm để đi gần thấu

đến cõi huyền diệu của nghệ thuật” [25, tr. 374].

Ở truyện ngắn khác, Tâm hồn mẹ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lại đề cập

đến hiện trạng đáng buồn của những đứa trẻ xa rời tự nhiên. Những đứa trẻ như

Thu, Đăng gần như chỉ được tiếp xúc thoáng qua với thiên nhiên qua những

chuyến dã ngoại ngắn ngủi được nhà trường tổ chức. Nhưng vốn là những đứa

trẻ của thành thị, đồng quê, với chúng, thật quá xa lạ. Chúng lạc lối trên cánh

đồng hoang lạnh, trên mảnh đất chúng chưa bao giờ thuộc về.

Có thể nhận thấy rằng, vấn đề đô thị hóa trong những truyện ngắn của

Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã khiến người dân mất mối quan

hệ với đất đai, đẩy họ vào một cảnh sống bất trắc hơn.

3.4.2. Biểu tượng về sự tinh khôi, khoáng đạt, trong lành của tự nhiên

Không phải ngẫu nhiên mà nhà động vật học người Anh – Desmond

Morris lại gọi tiến trình đô thị hóa là “sự bành trước nhân tạo cuộc sống xã hội

loài người”. Trong công trình nổi tiếng Vườn thú người, Desmond Morris đã

đề xuất một giả thiết gây nhiều tranh luận khi khẳng định: môi trường “phát

triển kinh tế” mà con người đang sống trong nó, thực chất, cũng chỉ mang hình

thái của một dạng vườn thú (vườn – thú - người). Sau gần một thập niên giữ

vai trò phụ trách vườn thú và tiến hành nghiên cứu các triệu chứng căng thằng

– stress của động vật bị giam trong cũi nhỏ, ý tưởng giữa sự tương đồng giữa

vườn thú dành cho các con vật và thành phố của con người đã đến với Desmond

Morris: “tôi coi tù nhân bị giam cầm trong vườn thú như là ẩn dụ đầy ấn tượng

cho các công dân căng thẳng mà tôi gặp trong cuộc sống hằng ngày” [33, tr.

24]. Ông cho rằng, để hiểu người dân đô thị, điều quan trọng là hãy so sánh họ

với những con vật đang bị giam cầm, chứ không phải là những con thú được tự

do trong không gian hoang dã. Theo đó, các đô thị, không gì khác chính là

98

những nhà tù mà con người đang không ngừng hào hứng tự xây lên để giam

hãm chính mình vào một điều kiện sinh tồn phi – tự nhiên nhất định có thể:

“Con vật hiện đại không còn sống trong điều kiện tự nhiên đối với loài của nó.

Bị giam hãm, không phải do những người sưu tập vườn thú mà là do chính cái

trí óc xuất chúng của mình, con người đã tự nhốt bản thân vào trong một bầy

thú nuôi nhốt khổng lồ luôn hoạt động không ngừng nghỉ, nơi nó thường xuyên

bị tổn hại do căng thẳng” [33, tr. 16].

Cảm giác về thành phố như một kiểu “nhà tù”, “vườn thú” như thế, có lẽ,

chỉ xuất hiện rõ nét nhất ở những người vốn quen với những điều kiện sinh tồn

hoang dã hơn hay có cuộc sống gắn bó với thế giới tự nhiên. Suy nghĩ của lão

Khúng – một vị “khách ở quê ra” trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu

minh chứng cho điều này. Trong truyện ngắn này thủ đô Hà Nội hiện lên khá

khác thường qua cái nhìn của của lão: “Rõ thật là quân man di mọi rợ, nhà với

cửa, cứ ý như một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình

như có đám cưới, lại thấy các dây quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái

mặt người ló ra y như một lũ chim bồ câu đang gù trong các tầng chuồng” [25,

tr. 353]. Có thể nói, qua lời nhân vật nhà văn đã gửi gắm một tiếng nói đối chất

lại với những diễn ngôn thống trị về văn minh đô thị. Như đã thấy, lão Khúng

giữ một quan niệm khác hoàn toàn về cuộc sống “văn minh”. Lão không thể

mường tượng được việc con người có thể khao khát hướng đến sống một cuộc

sống phi tự nhiên, phi nhân bản đến vậy. Quả thật, con mắt của lão Khúng khi

lang thang giữa thành phố thật đúng như con mắt của một con thú đang chứng

kiến cảnh đồng loại mình đang bị giam cầm trong những chiếc lồng, không tiếp

xúc với thiên nhiên, không được đất đai cỏ cây truyền sức sống, bức bối, tù

túng, yếu ớt đến thảm hại: “Ừ cũng lạ thật cái anh dân thành phố, sống như thế

này mà cũng sống được, chẳng có vườn tược, chẳng có cây cối, ăn, ở, ỉa trên

đầu nhau, chỉ thấy tường và tường, chả trách người nào người nấy cứ trắng

nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ là phải!...” [25, tr. 353]. Lão Khúng hay chính

là hiện thân của tự nhiên, của bản tính hoang dã –lão không thể dễ dàng tiếp

99

xúc với họ. Cái thành phố được “phi nhân hóa” ấy không cho lão dấu chỉ nào

về bản sắc, không ban tặng cho lão một sự tiếp xúc thân thuộc nào. Lão đi “lạc

lung tung”, “hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lôn xuống tầng dưới dùng”. Mỗi

nhà là một chuồng nhỏ, và cả phố phường giống như một vườn thú lớn bóp

nghẹt lão, khiến lão ngột ngạt, hoảng loạn. Ngay cả những cái cây ở thành phố

này cũng đầy tính nhân tạo và xa lạ với tự nhiên. Ánh sáng đèn điện chỉ làm

cho lão thêm lạc lối: “Những bức tường chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu

như đang bày trò chơi ú tìm với lão, chế nhạo lão. Đèn trong các lùm cây và

trong các gian nhà bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm được lối về nhà chú.

Toàn thân lão run rẩy như người lên cơn sốt và trong tâm hồn tự nhiên dâng

lên một nỗi niềm cô độc....lão lẩm bẩm gọi tên thằng Dũng, lão lần lượt gọi tên

từng đứa con đang ở nhà. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở

lại với lão, hãy ở lại với đất cát ” [25, tr. 354]. Chuyến đi này đã khiến não mơ

hồ cảm nhận được sự bất ổn của lối sống đô thị, sự đáng sợ của không gian đô

thị. Lão bỏ về như một sự chạy trốn, lão muốn đi khỏi đó càng nhanh càng tốt.

Và cách lão từ giã thủ đô thật đúng như hành trình của một con thú hoang vừa

thoát khỏi sự bủa vây của những chấn song vườn thú, ừa về với thiên nhiên

hoang dã: “Lão vộ gói buộc đồ đạc ....Khi những luồng gió không có gì cản trở,

tự nhiên thổi lồng lộng lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm

lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành

phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã” [25, tr. 354].

Desmond Morris so sánh việc con người kiến tạo mỗi đô thị hiện đại cũng

tương đương với việc đang dựng nên những vườn thú để giam cầm chính mình

và các loại động vật khác. Thế nhưng, theo ông, áp lực mà con người phải chịu

có vẻ như nó còn khủng khiếp hơn nhiều: “Ngay cả một giám đốc vườn thú ít

kinh nghiệm nhất cũng không bao giờ được chiêm ngưỡng cảnh các con vật

đông đúc và tù túng tới mức mà con người phải dồn nén chính loài của mình

vào trong các thành phố và thị trấn hiện đại. Mức độ bó hẹp và nhân tính hóa

không gian sống tối đa ấy, theo mọi quy tắc, tất yếu sẽ dẫn đến việc vườn thú

100

người ắt phải là một nhà thương điên đầy tiếng la hét, đang dần rã thành một

mớ hỗn độn xã hội” [33, tr. 135]. Đánh mất sự giao tiếp thực tế với thiên nhiên

sống, đổ xô nén chặt quá đông vào một khoảng không gian chật chội bị nhân

tính hóa cao độ, bên cạnh đó, mối quan hệ mà con người ở các thành phố lớn

đạt tới hành trình “kiếm miếng ăn” bị giới hạn vào sự cạnh tranh càng lúc càng

cao với chính đồng loại của mình. Tất cả những điều kiện sống ấy là nguyên

nhân dẫn đến sự khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng trong đời sống đô thị hiện

đại. Theo Murray Bookchin, người dân đô thị “trở nên cô đơn hơn rất nhiều so

với các thế hệ ông cha khi còn sống ở nơi thôn dã. Ở khu đô thị hiện đại, người

dân thành phố đã rơi vào tình trạng vô danh, vào tình trạng phân hóa xã hội

và cô độc tinh thần xưa nay chưa từng có trong lịch sử nhân loại” [46, tr. 159].

Sự tù túng tinh thần, sức ép mưu sinh và tình trạng vô cảm của cuộc sống

đô thị đã đẩy “người thợ săn thời mới” vào một bối cảnh bạo lực mới. Tách biệt

với khung cảnh lao động cũ giữa thiên nhiên, mọi động thái sinh tồn giờ đây

thuần túy dựa trên những “cuộc chiến” với chính đồng loại mình. Nguyễn Huy

Thiệp từng đề cập đến điều này trong truyện ngắn Tội ác và trừng phạt: “Bọn

giết người ở thành phố, ở những hoàn cảnh văn minh trả lời động cơ giết người

rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhưng chính vì thế lại vô lí hơn: “Vì nó chửi tôi...nó

cướp miếng ăn của tôi...nó đổ dầu định đốt nhà tôi. Nhưng tên cao thủ hơn

trong bọn giết người trả lời về động cơ giết người đơn giản và khá tàn nhẫn:

Tôi cần tiền” [98, tr. 471]. Cũng theo nhận định của người dẫn truyện: “Ở ngay

Hà Nội, vẫn có đầy rấy những tên “ăn thịt người”, mặc complê hẳn hoi chứ

không đóng khố cởi truồng” [98, tr. 469]. Đúng như Desmond Morris đã nói:

tốc độ hiện đại quá nhanh đến mức những con vật – người chưa kịp thích nghi

với những bộ áo khoác “văn minh” mà chính chúng ta đang tự phủ lên mình.

Đặt trong không gian đô thị, việc vừa không thể giải tỏa ức chế tâm lí, mất khả

năng cân bằng tinh thần, vừa rơi vào môi trường cạnh tranh khốc liệt để có

được những “con mồi”, bản tính thú vị ấy đã chuyển hóa thành cách hành xử

101

bạo lực đầy đáng sợ.

Tình trạng này là đáng báo động với con người nói chung, nhưng còn đe

dọa khủng khiếp hơn cả tới trẻ thơ. Nếu như Nguyễn Minh Châu từng cất những

lời kêu gọi mang tính dự báo về việc con người từng phá hủy những nơi chốn

tuyệt vời của tuổi nhỏ (truyện Sống mãi với cây xanh) thì trong truyện ngắn

Tâm hồn mẹ của Nguyễn Huy Thiệp thực tế đáng sợ ấy đã xảy ra. Những đứa

trẻ như Thu, Đăng gần như chỉ được tiếp xúc thoáng qua với thiên nhiên qua

những chuyến dã ngoại ngắn ngủi được nhà trường tổ chức. Nhưng vốn là

những đứa trẻ thành thị, đồng quê, với chúng, thật quá xa lạ. Chúng lạc lối trên

cánh đồng hoang lạnh, trên mảnh đất chúng chưa bao giờ thuộc về. Với riêng

Đăng, lớn lên trong cảnh mồ côi, sống với ông bà ngoại yêu thương nhưng

không hiểu mình, cậu bé chỉ có Thu để chia sẻ. Vậy mà ông bà Đăng – những

người đã “bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của lôgic huyền

thoại, thay vào là thứ lôgic xám xịt, rạch ròi”, lại nghi kị những tình cảm vừa

trong sáng vừa thiêng liêng của hai đứa trẻ. Không đánh đập, nhưng những lời

mắng nhiếc của bà ngoại lại là những trận bạo lực tinh thần đối với tâm hồn

yếu đuối của Đăng. Không gian sống hiện tại tưởng như không còn một mối

giao hòa nào để cân bằng những tổn thương của cậu bé. Âm thanh và hình ảnh

gần gụi nhất để có thể đưa đến sự giải tỏa lại cũng là một cảnh tượng đầy bạo

lực: “Trên nhà bà ngoại của Đăng vẫn đang điên cuồng gào thét. Có tiếng tàu

điện sầm sập chạy nhanh ngoài phố. Bỗng ý nghĩ về cái chết bật ra rất nhanh

trong Đăng. Đúng rồi! Ngã xuống dưới đường ray! Cái khối sắt đồ sộ lướt qua

và thế là hết. Chẳng phải làm gì, chẳng phải nghĩ ngơi...” [98, tr. 26]. Tình

trạng không thể coi trọng không gian sống làm nơi nương tựa tinh thần hiện ra

sâu sắc và rõ nét qua chi tiết này. Giải pháp mà môi trường đô thị phi tự nhiên,

với những bộ máy cơ giới vô cảm của nó mang đến cho những tâm hồn ngây

thơ yếu đuối chỉ là cảm giác về sự hủy diệt.

Sau tất cả có thể thấy đô thị là không gian sinh tồn của con người, là “điểm

102

nóng” có sức hút cư dân lớn, nhưng lại không phải là nơi đem lại cho chúng ta

cuộc sống hài hòa, cân bằng. Đó là nơi gây chấn thương hơn là xoa dịu chấn

thương. Những cảm thức ấy đẩy người ta đến sự rời xa và chối bỏ đô thị để tìm

về với những hình thái không gian khác bớt tù túng hơn, phóng khoáng hơn và

giao hòa hơn với tự nhiên (thôn quê hay vùng hoang dã).

Tiểu kết chương 3

Thông qua các biện pháp nghệ thuật thể hiện vấn đề phê bình sinh thái cả

hai nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã cho thấy

những tài năng bậc thầy trong việc lựa chọn đặt tên nhan đề truyện, các chi tiết,

tình huống bất ngờ và xây dựng cốt truyện độc đáo. Ngoài ra, dưới góc nhìn

phê bình sinh thái, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn Huy

Thiệp đã có nhiều yếu tố mới mẻ trong việc xây dựng hệ thống biểu tượng mang

đậm ý nghĩa sinh thái. Đó là biểu tượng sinh động và phong phú về không gian

sinh thái đô thị, đã góp phần thể hiện sự tác động nhiều chiều của con người

vào tự nhiên.

103

KẾT LUẬN

Thế kỷ XX là thế kỷ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải

đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất nhưng đồng thời đây cũng là thế kỷ

sẽ nảy nở và phát triển các trào lưu sinh thái. Bởi lẽ, càng ngày con người càng

nhận ra cần phải duy trì sự hài hòa, ổn định, cân bằng sinh thái thì sẽ khiến

nhân loại phát triển bền vững. Do vậy, phê bình sinh thái sẽ là một lí thuyết

đem lại cho thực tế nghiên cứu văn học những cách tân đáng kể, làm thay đổi

toàn bộ hệ tư tưởng đã tồn tại một cách cố hữu trong tư tưởng nhân loại – “con

người là trung tâm” để thay thế vào đó cách tiếp cận mới – “sinh thái là trung

tâm”.

Ở phương diện nội dung, vấn đề sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Minh

Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện rõ cảm quan sinh thái tự nhiên và cảm

quan sinh thái tinh thần và cảm quan đó được hình thành từ tình yêu thiên

nhiên, trong ý thức nhân văn và đời sống xã hội, từ nhu cầu sống của con

người. Nó đã đi vào văn học như là sự tự ý thức của nhà văn. Cảm quan này

thể hiện trên cả hai phương diện: miêu tả vẻ đẹp, sự quyến rũ của tự nhiên và

lên án những hành vi của con người khi can thiệp thô bạo vào tự nhiên; đồng

thời tác giả cũng cảnh báo nguy cơ những tai biến của thiên nhiên như một sự

báo thù con người. Đây là một trong những điểm đặc sắc chưa được nhiều

người nói đến khi nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu

và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Khi nghiên cứu truyện ngắn của cả hai tác giả

trên có thể thấy cả hai ông đã nắm bắt được vấn đề mang tính thời sự của nhân

loại và đưa vào trang văn một cách khéo léo nhưng hết sức quyết liệt. Sức ảnh

hưởng của ý nghĩa nhân văn hiện đại nằm trong mỗi câu chuyện, mỗi chi tiết

viết về mối quan hệ giữa giữa con người và tự nhiên sâu sắc. Nó chỉ ra cho

người đọc thấy nguồn gốc của vấn đề, đánh thức ý thức và trách nhiệm của

con người đối với tự nhiên. Những thông điệp của cả hai nhà văn Nguyễn Minh

Châu và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gửi tới con người và xã hội qua các hình

104

tượng nghệ thuật có giá trị cảnh tỉnh con người sống có tính nhân văn hơn với

môi trường.

Ở phương diện nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu

và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều những đổi mới cách tân được thể hiện

ở nhiều phương diện và quan trọng trong việc nhìn nhận, đánh giá những vấn

đề cấp thiết của xã hội. Qua nhan đề, tình huống truyện, cốt truyện, hệ thống

biểu sinh thái đô thị..đã làm cho độc giả hôm nay nhìn nhận đúng đắn và những

suy nghĩ khác về môi trường sinh thái xung quanh chúng ta, nó không phải

những gì quá xa vời mà nó gần ngay bên cạnh chúng ta. Lấy thiên nhiên làm

chất liệu sáng tác, qua thiên nhiên gửi gắm những suy nghĩ, chiêm nghiệm,

nhà văn đã cho độc giả thấy vấn đề sinh thái không chỉ là vấn đề của thời đại

mà nhà văn sống, không chỉ có của ngày hôm nay mà còn mãi đến đời sau.

Trước những vấn đề về sự bất an của môi trường sinh thái, sự cô đơn của

kiếp người trước cuộc sống hiện đại con người tìm về với thiên nhiên để dãi

bày, thanh lọc tâm hồn, truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà

văn Nguyễn Huy Thiệp đã đề xuất những mẫu hình nhân cách cho chủ nghĩa

nhân văn sinh thái. Những mẫu hình nhân cách ấy không hình thành từ những

nhân vật lí tưởng mà được thể hiện qua những thân phận nhỏ bé. Đây chính là

những đóng góp mà cả hai nhà văn Nguyễn Minh Châu và nhà văn Nguyễn

Huy Thiệp đối với tiến trình truyện ngắn Việt Nam đương đại.

Viết về vấn đề sinh thái hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống văn

học nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Bởi văn học phản ánh những vấn

đề của đời sống một cách chân thực nhất, rõ nét nhất. Văn học là chìa khóa để

chạm tới mọi cảm xúc và thức tỉnh con người. Với xã hội hiện nay, khi môi

trường đang lên tiếng kêu thoảng thốt, hãi hùng thì văn học không thể đi du

ngủ con người bằng những lời văn sáo rỗng mà nó cần làm xứ mệnh thiêng

liêng của nó là thức tỉnh con người, giúp con người ta có cái nhìn đúng đắn và

thay đổi cách cư xử với thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Thông qua các truyện

105

ngắn của mình cả hai nhà văn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp,

chúng tôi nhận thấy cần có nhiều hơn nữa những tác phẩm viết về vấn đề sinh

thái, về đề tài môi trường nhằm tạo ra một làn gió mới có sức lan tỏa rộng khắp

để tác động sâu rộng hơn, hiệu quả hơn đến ý thức của con người trong việc

bảo vệ và cải tạo môi trường sống của chính con người.

Tóm lại, qua kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi có tham vọng chờ

đợi thêm nhiều nhà văn khác với trách nhiệm của người cầm bút sẽ cùng với

cộng đồng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề sinh thái – một vấn đề mang tính

toàn cầu hiện nay. Thông qua các tác phẩm của mình, họ sẽ định hướng thẩm

mỹ, giáo dục ý thức và cách ứng xử của con người với thiên nhiên, còn nhiều

khoảng trống cần được lấp đầy.

Xin được kết lại bằng một nhận định của Thornber về ý nghĩa của sự dấn

thân của các nhà văn cũng như các nhà phê bình giàu nhạy cảm và đầy ý thức

trách nhiệm đang thực hiện trước vấn đề sinh thái: “Tôi không hề ảo tưởng

rằng việc đọc và bàn luận về sự thể hiện tình trạng tổn hại sinh thái trong văn

học rồi có thể giải thoát chúng ta khỏi cái lối sống phụ thuộc đang dẫn đến tình

trạng làm thay đổi khủng khiếp các hệ sinh thái. Nhưng đi vào văn học cho

phép chúng ta có được những suy nghĩ sâu sắc hơn về việc tại sao chúng ta lại

lựa chọn làm một việc gì đó cũng như vô số hậu quả của những lựa chọn này

– đó là những bước đi đầu tiên cần thiết để có thể khắc phục những hậu quả

trước mắt và ngăn chặn nó trong tương lai” [58].

106

1. Tạ Duy Anh (2014), Làng quê đang biến mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. Hà Anh (2012), Người nghèo , nông dân – đề tài không cũ của văn học và

báo chí:

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Nguoi-ngheo-nong-

dan-de-tai-khong-cu-cua-van-hoc-va-bao-chi-2262.html

3. Lại Nguyên Ân (1987), “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm

1980”, Tạp chí Văn học, số 3.

4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

5. Peter Barry (2009), Beginning theory: An Introduction to literary and

cultural theory, Hoàng Tố Mai dịch và tổng thuật - Phê bình sinh thái là

gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

6. Lê Huy Bắc (1996), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học, Số 6,

tr 45 – 50.

7. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp

chí văn học, Số 9, tr. 66 – 73.

8. Lê Huy Bắc (2002), “Truyện ngắn hậu hiện đại”, Tạp chí văn học, Số 9,

tr. 57 – 68.

9. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn – lí luận, tác giả tác phẩm, tập 1, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

10. Lê Huy Bắc (2004), “Truyện ngắn: nguồn gốc và khái niệm”, Nghiên cứu

văn học, Số 5, trang 84 – 95.

11. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự”, Nghiên cứu văn học, Số 7,

tr. 34 – 43.

12. Lê Huy Bắc (chủ biên) (2013), Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và thực

tiễn, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

107

13. Lê Đăng Bảng (dịch) (2007), Aristote: Nghệ thuật thơ ca, Nxb Lao động

- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam sau 1975-1995 – Những đổi

mới cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Bính (2011), Tuyển tập thơ Nguyễn Bính, Hoàng Xuân tuyển

chọn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

16. M. Bakhtin, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư (tuyển chọn,

dịch) (2003), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. John Berger, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology -

Vì sao phải nhìn những con vật (Lê Quốc Hiếu dịch và tổng thuật) - Phê

bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

18. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

19. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Tập

truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

20. Nguyễn Minh Châu (1983), Bến quê - Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội.

21. Nguyễn Minh Châu (1988), Chiếc thuyền ngoài xa, Nxb Tác phẩm mới,

Hà Nội.

22. Nguyễn Minh Châu (1991), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

23. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn - Tập phê bình tiểu

luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu Toàn tập (tập 1 đến

5), Nxb Văn học, Hà Nội.

25. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà

Nội.

108

26. Nguyễn Minh Châu (2007), Truyện ngắn và lời bình, Nxb Văn học, Hà

Nội.

27. Nguyễn Minh Châu (2007), Công cuộc đổi mới văn học sau 1975, Nxb

Đại học sư phạm, Hà Nội.

28. Nguyễn Minh Châu (2009), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,

Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Trịnh Thùy Dương (2016), Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê

bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

31. Keown Damien, Đạo đức Phật giáo, Nguyễn Thanh Vân (dịch) (2013),

Nxb Tri thức, Hà Nội.

32. Morris Desmond, Vườn trần trụi, Vương Ngân Hà (dịch) (2010), Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

33. Morris Desmond, Vườn thú người, Công ty văn hóa truyền thông Nhã

Nam (2011), Nxb Dân trí, Hà Nội.

34. Đoàn Ánh Dương (2014), Không gian văn hóa đương đại (phê bình vấn

đề và hiện tượng văn học), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

35. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

36. Đặng Anh Đào (1988), “Biển không có thủy thần”, Báo văn nghệ, số

35 – 36.

37. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

38. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX- Những vấn

đề lịch sử và lí luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Vũ Minh Đức (2016), Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp

nhìn từ lý thuyết phê bình sinh thái:

109

http://vanthonhactrieuchau.blogspot.com/2016/09/nhung-ngon-gio-hua-

tat-cua-nguyen-huy.html

40. Nguyễn Đăng Điệp (2009), “Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp”,

Tạp chí văn học, số 5.

41. Nguyễn Đăng Điệp – Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam,

Nxb giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Điệp (2013), Đổi mới thơ Việt Nam đương đại nhìn từ

trường hợp Nguyễn Quang Thiều

http://vienvanhoc.vass.gov.vn

43. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

44. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại – Bình giảng và phân

tích tác phẩm, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

45. Fontenay Elisabeth, Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy (dịch)

(2013), Nxb Tri thức, Hà Nội.

46. Schumacher E. F (1994), Nhỏ là đẹp – Về lợi thế của quy mô vừa và nhỏ

trong kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Simon C. Estok (2013), East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader

(Literratures, Cultures, and the Environment) - Dẫn nhập phê bình sinh

thái Đông Á – Những cái nhìn mang tính khu vực (Nguyễn Trường Sinh

dịch và tổng thuật) - Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

48. Nguyễn Mạnh Hà (2009), “Một số nguyên tắc tự sự của Nguyễn Huy

Thiệp trong truyện ngắn”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà Nội.

49. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ

Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Đỗ Văn Hiểu (2012), Phê bình sinh thái, khuynh hướng nghiên cứu văn

học mang tính cách tân:

http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n11088/Phe-binh-sinh-thai-

110

khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-mang-tinh-cach-tan.html

51. Đỗ Văn Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - cội nguồn và sự phát triển,

https://phebinhvanhoc.com.vn.

52. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn

học mang tính cách tân”, Tạp chí Khoa học công nghệ tập 15.

53. Đỗ Văn Hiểu, Hải Ngọc (2013), Những tương lai của Phê bình sinh thái

và văn học:

https://hieutn1979.wordpress.com/2013/06/20/karen-thornber-nhung-

tuong-lai-cua-phe-binh-sinh-thai-va-van-hoc-phan-cuoi/

54. Đỗ văn Hiểu (2015), Văn học sinh thái và lí luận sinh thái:

https://dovanhieu.wordpress.com/2015/08/31/van-hoc-sinh-thai-va-li-

luan-phe-binh-sinh-thai-1/

55. Đỗ văn Hiểu (2016), Phê bình sinh thái cội nguồn và sự phát triển:

https://dovanhieu.wordpress.com/2016/02/03/phe-binh-sinh-thai-coi-

nguon-va-su-phat-trien-1/

56. Đỗ Thị Hòa (2010), Luận án tiến sĩ Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà

Nội: “Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt”.

57. Mai Hương (2001), “Nguyễn Minh Châu và di sản văn học cuả ông”, Lời

giới thiệu Nguyễn Minh Châu Toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

58. Thornber Karen, Ecoambiguity. Environment Cries ah East Asian

Literautures, The Univercity of Michigan Press, 2012.

59. Richard Kerridge (1998), Environmentalism and Ecocriticsim - Môi

trường luận và phê bình sinh thái (Phạm Phương Chi dịch và tổng thuật),

Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

60. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Cao Kim Lan (2005), “Mấy vấn đề về thi pháp cốt truyện”, Tạp chí văn

học, Số 6, tr. 66 – 84.

111

62. Hoàng Thị Lành (2014), “Hồ Trung Quốc của Lý Khắc Uy nhìn từ lí

thuyết Phê bình sinh thái, Khóa luận tốt nghiệp –khoa Ngữ văn – trường

Đại học sư phạm Huế.

63. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

64. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại – Những chân dung, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

65. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

66. Trịnh Thị Bích Liên (2008), Luận án tiến sĩ Ngữ văn trường Đại học sư

phạm Hà Nội: “Phóng sự Việt Nam trong môi trường sinh thái văn hóa

thời kỳ đổi mới”.

67. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và

phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội.

68. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

69. Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà

văn, Hà Nội.

70. Vương Nặc (2003), Âu Mỹ sinh thái văn học, Nxb Bắc Kinh xã.

71. Nguyên Ngọc (2008), Nghĩ dọc đường, Nxb Văn Nghệ, TP. HCM.

72. Lã Nguyên (1989), “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở đổi mới tư duy

nghệ thuật”, Tạp chí Văn học, Số 2.

73. Lã Nguyên (1998), “Tiếp cận tác phẩm thơ từ góc độ văn hóa nghệ thuật”,

Tạp chí văn học, Số 3, tr. 15-20.

74. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biện soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy

Thiệp, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.

75. Thao Nguyễn (tuyển chọn) (2013), Nguyễn Minh Châu một giọng văn

nhiều trắc ẩn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

112

76. Trần Ánh Nguyệt (2014), “Hình tượng loài vật trong văn xuôi Việt Nam

sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái”, Hội thảo khoa học “Phát

triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế”, Viện

Văn học, Hà Nội.

77. Trần Thị Ánh Nguyệt (2015), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt

Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận án, ĐH Sư Phạm Hà

Nội.

78. Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư:

https://phebinhvanhoc.com.vn

79. Nguyên Ngọc (2008), Nghĩ dọc đường, Nxb Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí

Minh.

80. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

81. Vương Trí Nhàn (2006), Cánh bướm và đóa hoa hướng dương (Phác thảo

chân dung 39 nhà văn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

82. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm và dư luận, Nxb Trẻ,

Hà Nội.

83. Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Minh Châu- con người và tác phẩm, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

84. Nhiều tác giả (2010), Đạo Phật và Môi trường, Thích Nhuận Phát (dịch),

Nxb Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh.

85. Hồ Sỹ Qúy (1999), “Về triết lí con người chinh phục tự nhiên”, Tạp chí

Triết học, Số 6.

86. Trần Duy Phiên (1995), Trăm năm còn lại, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

87. Huỳnh Như Phương, Mùa xuân, sinh thái và văn chương

http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/mua-xuan-sinh-thai-van-chuong-

20130129040047612.htm

113

88. Kate Rigby, “Ecocriticism” – Introducing Criticism at the Twenty – First

Century, Phê bình sinh thái trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn

cầu, Đặng Thị Thái Hà dịch và tổng thuật - Phê bình sinh thái là gì?, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

89. Chitra Sankaran (2017), The Ecology of Disaster: A Chitra Sankaran -

Thảm họa dưới góc nhìn sinh thái học: đọc tiểu thuyết “Một điều kinh

ngạc của Divakaruni” (Phạm Phương Chi dịch) - - Phê bình sinh thái là

gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

90. Trần Đình Sử (2015), Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn

học hiện nay:

https://trandinhsu.wordpress.com/2015/02/09/phe-binh-sinh-thai-tinh-

than-trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay/

91. K. Thornmber (2011), Ecocritcism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn

học.

92. Karen Thornber (2013), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn

học:

https://www.youtube.com/watch?v=xOHqerUQWR0

93. K. Thornmber (2013), Ecoambiguity: Environmental crises and East

Asian Literatures - Những môi trường sinh thái, những mơ hồ về môi

trường và các nền văn học (Đăng Thị Thái Hà lược dịch) - Phê bình sinh

thái là gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

94. Nguyễn Trung Thành (2008), Rừng Xà Nu, Nxb giáo dục, Hà Nội.

95. Nguyễn Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”,

Tạp chí Văn học, Số 9.

96. Phương Lập Thiên - Thích Nhuận Đạt dịch (2012), Triết học sinh thái

Phật giáo và ý thức sinh thái hiện đại:

http://www.daophatngaynay.com/vn/mobile/pg-nganh/sinh-thai/11126-

Triet-hoc-sinh-thai-Phat-giao-va-y-thuc-sinh-thai-hien-dai.html

114

97. Nguyễn Huy Thiệp (1999), Như những ngọn gió, Nxb Văn học, Hà Nội.

98. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,

Nxb Văn hóa Sài Gòn, Sài Gòn.

99. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

100. Trần Nho Thìn (2012),Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

101. Nhã Thuyên (2012), Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ,

bầu trời và những linh hồn:

http://toquoc.vn/van-chuong-va-du-luan/khi-quyen-thosinh-thai-cua-mai-

van-phan-tho-bau-troi-va-nhung-linh-hon-105988.html

102. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình văn học sinh thái –

Tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam, Hội thảo khoa học “Phát

triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế”, Viện

Văn học, Hà Nội.

103. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái - tiềm năng

cần khai thác của văn học Việt Nam:

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Sang-tac-va-phe-

binh-sinh-thai-tiem-nang-can-khai-thac-cua-van-hoc-Viet-Nam-837.html

104. Đỗ Minh Tuấn (1995), Trốn lo âu về lại cánh đồng, Văn học lên ngôi,

Nxb Văn học, Hà Nội

105. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb Trẻ, thành

phố Hồ Chí Minh.

106. Nguyễn Ngọc Tư (2010 ), Khói trời lộng lẫy, Nxb Thời đại, Hà Nội.

107. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Khói trời lộng lẫy: tập truyện ngắn, tái bản lần

thứ 4, Nxb Trẻ, Hà Nội.

108. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn

học, Số 2, tr. 15 – 19.

115

109. Trịnh Thu Tuyết (1999), “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng

nhân vật truyện ngắn”, Tạp chí văn học, Số 1, tr. 76 – 82.

110. Trần Mạnh Tiến (2013), Lí luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX

(Chuyên khảo), Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

111. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận (những truyện hay và mới

nhất), Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

112. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Sông, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

113. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, Người và đất Việt, Nxb Trẻ, thành phố

Hồ Chí Minh.

114. Karen J. Warren (2000), Ecofeminist Philosophy: A Western Perspective

on What It is and Why It Matters - Tự nhiên như là một vấn đề nữ quyền:

Thúc đẩy nữ quyền luận sinh thái bầng cách thu thập dữ liệu thực nghiệm

một cách nghiêm túc (Phạm Phương Chi dịch và tổng thuật) - Phê bình

sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

115. http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p7/c98/n16923/Thien-nhien-

Nguon-cam-hung-bat-tan-cua-van-chuong-Phuong-Dong.html