ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

TRƢƠNG KHẢ HÂN (ZHANG KEXIN)

SO SÁNH VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN

VÀ VĂN HÓA TAM TINH ĐÔI (TỨ XUYÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội - 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

TRƢƠNG KHẢ HÂN (ZHANG KEXIN)

SO SÁNH VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN

VÀ VĂN HÓA TAM TINH ĐÔI (TỨ XUYÊN)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Việt Nam học

Mã số: 60220113

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung

Hà Nội-2018

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn Cô

GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong

suốt quá trình làm luận văn. Nếu thiếu sự giúp đỡ của cô Dung, tôi chắc chắn

không thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp thuận lợi được.

Tôi xin cảm ơn các thầy cô của khoa Việt Nam học và tiếng Việt tận tình

truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất

cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài

luận văn. Các cán bộ của Bảo tàng Nhân học và các bạn đồng nghiệp của tủ

sách TS. Nishimura đã giúp đỡ tôi và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn

thành luận văn này.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các

bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Hà Nội, tháng 12 năm 2018

Học viên thực hiện

Trương Khả Hân

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

Chƣơng 1: VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN ................................................. 4

1.1. Môi trƣờng sinh thái.............................................................................. 4

1.1.1. Điều kiện địa lý .................................................................................... 4

1.2. Khái quát về văn hóa Phùng Nguyên ................................................... 5

1.2.1. Quá trình phát hiện và nghiên cứu ..................................................... 5

1.2.2. Niên đại ............................................................................................... 7

1.3. Đặc điểm của văn hóa Phùng Nguyên .................................................. 7

1.3.1. Loại hình di tích .................................................................................. 7

1.3.2. Đặc trưng di vật ................................................................................. 10

1.4. Kinh tế xã hội ....................................................................................... 33

1.4.1. Về đời sống kinh tế sản xuất ............................................................. 33

1.4.2. Nông nghiệp ...................................................................................... 36

1.4.3. Thủ công nghiệp ................................................................................ 38

1.5. Kiến trúc thƣợng tầng ......................................................................... 42

Chƣơng 2: VĂN HÓA TAM TINH ĐÔI (TỨ XUYÊN) ........................... 46

2.1. Môi trƣờng sinh thái............................................................................ 46

2.1.1. Điều kiện địa lý .................................................................................. 46

2.1.2. Điều kiện khí hậu .............................................................................. 47

2.2. Khái quát về di chỉ Tam Tinh Đôi ....................................................... 47

2.2.1. Di chỉ Tam Tinh Đôi .......................................................................... 47

2.2.2. Tầng văn hóa và niên đại .................................................................. 51

2.2.3. Loại hình di tích ................................................................................ 52

2.3. Đặc điểm của văn hóa Tam Tinh Đôi .................................................. 53

2.3.1. Tên gọi của văn hóa .......................................................................... 53

2.3.2. Phân bố .............................................................................................. 54

2.3.3. Đặc trưng văn hóa ............................................................................. 55

2.3.4. Một số tranh luận về văn hóa Tam Tinh Đôi..................................... 56

2.4. Kinh tế xã hội ....................................................................................... 56

2.4.1. Nông nghiệp ...................................................................................... 57

2.4.2. Thủ công nghiệp ................................................................................ 58

2.5. Kiến trúc thƣợng tầng ......................................................................... 59

2.5.1. Kết cấu tổ chức xã hội ....................................................................... 59

2.5.2. Tôn giáo và tín ngưỡng ..................................................................... 61

Chƣơng 3: SO SÁNH VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN VÀ VĂN HÓA

TAM TINH ĐÔI ......................................................................................... 65

3.1 Khái quát về tình hình giao lƣu văn hóa ............................................. 65

3.2. So sánh hai nền văn hóa ...................................................................... 73

3.3. So sánh một số di vật cụ thể ................................................................ 75

3.3.1. Nha chương ....................................................................................... 75

3.3.2. Qua làm bằng đá ngọc ....................................................................... 80

3.3.3. Vòng tay hình ống có gờ nổi ............................................................... 81

3.3.4. Phù hiệu đá........................................................................................ 82

KẾT LUẬN ................................................................................................. 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 87

PHỤ LỤC.................................................................................................... 91

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cb Chủ biên

ĐHQG Hà Nội Đại học Quốc gia Hà Nội

GS.TS Giáo Sư. Tiến Sĩ

Nxb Nhà xuất bản

Tr. Trang

TH Trung Hoa

TS Tiến Sĩ

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1: So sánh một số di vật của Tứ Xuyên (Trung Quốc) và Việt Nam .... 68

Bảng 2: So sánh một số đồ ngọc thuộc thời đại đồng thau - thời đại đồ sắt

giữa Tứ Xuyên (Trung Quốc) và Việt Nam .................................................. 70

Bảng 3: So sánh một số đồ gốm thuộc thời đại đồng thau - thời đại đồ sắt giưã

Tứ Xuyên (Trung Quốc) và Việt Nam.. ........................................................ 71

Bảng 4: So sánh một số đồ đồng thuộc thời đại đồng thau - thời đại đồ sắt

giữa Tứ Xuyên (Trung Quốc) và Việt Nam................................................... 72

Bảng 5: So sánh đối chiếu văn hóa Tam Tinh Đôi và văn hóa Phùng Nguyên.

..................................................................................................................... 73

LỜI MỞ ĐẦU

Quê hương tôi là tỉnh Tứ Xuyên, nằm ở phía Tây Nam Trung Quốc, một

tỉnh nổi tiếng về ẩm thực cay tê và gấu trúc. Nói đến lẩu Tứ Xuyên, hoặc

nước Thục thời kỳ Tam Quốc, các thầy cô giáo và các bạn chắc hẳn đã nghe.

Bồn địa Tứ Xuyên cũng giống như nhiều vùng khác trên thế giới, có lịch sử

thú vị, lâu dài và phong phú.

Sau khi tiếng Việt và Việt Nam học trở thành chuyên ngành của tôi, tôi

có nhiều cơ hội để tìm hiểu, học tập thêm những tri thức như văn hóa, địa lý,

lịch sử của đất nước Việt Nam. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng, tuy có

khoảng cách rất xa, quê hương mình đã có mối liên hệ với Việt Nam khá lâu

rồi. Trên lớp Khái Lược Việt Nam, lần đầu tiên tôi được nghe câu chuyện về

hoàng tử nước Thục (chính là An Dương Vương) dẫn tộc người di chuyển đến

vùng đât (miền Bắc Việt Nam ngày nay) và xây dựng thành Cổ Loa, Đông

Anh, Hà Nội. Vì vậy, tuy chỉ là một truyền thuyết (đã được nhiều học giả

chứng thực thiếu tính chân thật do có sự chênh lệch lớn về thời gian và không

có tài liệu vật chất hỗ trợ), nhưng đã khiến tôi muốn tìm hiểu về tình hình

giao lưu văn hóa giữa vùng Tứ Xuyên và vùng miền Bắc Việt Nam thời cổ

xưa. Văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Tam Tinh Đôi chính là hai nền văn

hóa chứa các dấu tích giao lưu văn hóa sớm nhất giữa hai vùng này.

Ở Đồng bằng Sông Hồng và Bồn địa Tứ Xuyên cách đây ba bốn nghìn

1

năm trước cư dân đã có lối sống như thế nào? Văn hóa của cư dân hai vùng

này có những gì giống nhau, những gì khác nhau? Tôi rất muốn tìm hiểu về

những điều huyền diệu trong đó.

Tất nhiên, nếu thiếu tư liệu khảo cổ học chứng thực, tất cả suy đoán vẫn

chỉ là sự suy diễn thiếu căn cứ. Vì vậy, nhân dịp viết bài luận văn tốt nghiệp, tôi

chọn đề tài này để nâng cao hiểu biết, cũng là để giải đáp nghi vấn của mình.

Lịch sử nghiên cứu về quan hệ giữa văn hóa Tam Tinh Đôi và văn hóa

Phùng Nguyên có ít tài liệu, bất kế bằng tiếng Việt hay là tiếng Trung. Ở Việt

Nam, các học giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu Văn hóa Phùng Nguyên,

đã đạt được nhiều thành quả xuất sắc; ở Trung Quốc, các học giả chủ yếu tập

trung vào nghiên cứu văn hóa cổ Thục nói chung và văn hóa Tam Tinh Đôi

nói riêng, và rất nhiều vấn đề về văn hóa Tam Tinh Đôi đều chưa có một ý

kiến nhất trí, đến bây giờ vẫn chưa có một bộ tác phẩm uy tín nào để giới

thiệu văn hóa Tam Tinh Đôi một cách rõ ràng.

Tuy vậy, vẫn có một số nhà khảo cổ học đã phát hiện những liên hệ giữa

hai nền văn hóa này, ví dụ đã có học giả so sánh và nghiên cứu một số di vật

cùng được tìm thấy và xuất hiện nhiều đặc điểm chung như nha chương, bát

bồng gốm, công cụ đá và một số đồ trang sức bằng đá.

Do số lượng các tác phẩm học thuật cùng chủ đề rất hạn chế, hơn nữa, khảo

cổ học không phải là chuyên ngành của tôi, vì vậy đã gây ra nhiều khó khăn

trong quá trình tôi tiến hành nghiên cứu và so sánh để hoàn thành luận văn.

2

Chương 1 chủ yếu khái quát về văn hóa Phùng Nguyên như loại hình di

tích, quá trình khai quật và nghiên cứu, đặc trưng di vật, sự phân bố của văn

hóa Phùng Nguyên, cũng như tóm tắt lại xã hội kinh tế của văn hóa Phùng

Nguyên. Nội dung chính của chương 2 là khái quát những thông tin về văn

hóa Tam Tinh Đôi như quá trình khai quật và nghiên cứu, loại hình di tích,

niên đại, tầng văn hóa, phân bố, đặc trưng văn hóa, tình hình xã hội kinh tế và

tôn giáo tín ngưỡng. Chương 3 tập trung so sánh những đặc điểm văn hóa

giữa văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Tam Tinh Đôi, đồng thời khái quát

tình hình giao lưu văn hóa giữa vùng Tứ Xuyên và miền Bắc Việt Nam thời

cổ. Cuối cùng là rút ra một số kết luận về sự khác biệt và sự giống nhau giữa

hai nền văn hóa này.

Trong quá trình viết luận văn tôi đã áp dụng những phương pháp nghiên

cứu khoa học như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phân

loại, phương pháp lịch sử, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp

nghiên cứu liên ngành, phương pháp khảo sát thực địa v.v... Tôi cũng đã tham

khảo một số tác phẩm khoa học bằng tiếng Việt, tiếng Trung giới thiệu về văn

hóa Phùng Nguyên và văn hóa Tam Tinh Đôi, một số luận văn đã được công

bố trên tạp chí học thuật, và đi tham quan khảo sát nhà bảo tàng Tam Tinh Đôi

3

để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Chƣơng 1: VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN

1.1. Môi trƣờng sinh thái

1.1.1. Điều kiện địa lý

Bắc Bộ Việt Nam được chia thành vùng đồng bằng và vùng núi, địa thế tây

bắc cao, đông nam thấp. Đồng bằng Sông Hồng là đồng bằng chính, địa thế

thấp, bằng phẳng, có nhiều hồ ao, ruộng đất phì nhiêu, dân số đông đúc. Sông

Hồng là một con sông lớn nhất của Bắc Bộ Việt Nam, bắt nguồn từ Đại Lý,

tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đây cũng là một trong những con sông có lượng

nước nhiều nhất trên thế giới. Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt

đời sống cũng như trong sản xuất lao động. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm

màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc

hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp

giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ [18, tr.158].

1.1.2. Điều kiện khí hậu

Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối cao và ẩm, nền khí hậu chịu

ảnh hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang tính chất khí hậu lục

địa. Toàn vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm quanh năm với 2 mùa rõ rệt

hè, đông. Đồng thời hàng năm chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió

mùa Đông Nam. Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ phía bắc xuống phía

nam và có khí hậu giao hoà, là đặc trưng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ và

4

ven biển.

Có điều kiện khí hậu nhiệt đới, tài nguyên động vật, thực vật của Bắc Bộ

Việt Nam rất phong phú và đa dạng, hệ thống sinh thái phức tạp, tạo ra sự ảnh

hưởng rõ rệt đối với hoặt động săn bắn của cư dân, cũng khiến nông nghiệp

vùng này mang đặc điểm khác biệt với vùng nông nghiệp khác. Tùy theo sự

phát triển của nông nghiệp trồng lúa, lương thực sản xuất đứng vai trò quan

trọng trong cuộc sống kinh tế, lúa gạo chính 2 mùa đến 3 mùa một năm [18,

tr.158].

1.2. Khái quát về văn hóa Phùng Nguyên

1.2.1. Quá trình phát hiện và nghiên cứu

Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh,

Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng

(Hình 1). Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có

dấu vết văn hóa đồng dạng với các di chỉ Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa

điểm có di cốt người (Hình 2,3). Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật

khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại

chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và

chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được

tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên

đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn

trang trí.

5

Có thể lấy năm 1959, năm phát hiện di chỉ Phùng Nguyên và đầu năm

1971, năm tổ chức nghiên cứu thời Hùng Vương lần thứ IV là mốc mở đầu và

kết thúc lịch sử nghiên cứu nền văn hóa này. Công cuộc nghiên cứu văn hóa

Phùng Nguyên đã đạt được những thành tựu xuất sắc. Tư liệu phát hiện và

nghiên cứu về văn hóa Phùng Nguyên đã dày hàng ngàn trang. Vị trí ý nghĩa

và khoa học của văn hóa Phùng Nguyên là rất lớn đối với lịch sử Việt Nam

nói chung và khảo cổ học Việt Nam nói riêng.

Di chỉ Phùng Nguyên được khai quật nhiều lần và nhiều cơ quan tham

gia nghiên cứu di chỉ này. Di chỉ Phùng Nguyên được bộ môn Khảo cổ học

trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội tiến hành khai quật lần thứ ba từ ngày 23/2

đến 13/3 năm 1968. Các cuộc khai quật do Hà Văn Tấn phụ trách. Diện tích

khai quật mỗi hố là 100m2. Di vật thu được gồm 69 hiện vật đá , 19 hiện vật

gốm và trên 5000 mảnh gốm. Như vậy từ năm 1959 đến 1968, các nhà khảo

cổ học đã khai quật trên diện tích rộng ở Phùng Nguyên trên diện tích

3.917m2 khai quật và 41m2 thám sát. Số lượng di vật phát hiện được trong 3

lần khai quật này là hết sức đồ sộ và quý giá, gồm gần 2000 di vật đá, trên

130 di vật gốm và trên 100.000 mảnh gốm lớn nhỏ. Tầng văn hóa ở đây nói

chung là đơn giản, chỉ có một lớp tương đối mỏng (dày 0,1-0,30m). Đây là

nguồn tư liệu có giá trị nhiều mặt giúp cho quá trình điều tra, thám sát và khai

quật hàng loạt các di tích Phùng Nguyên khác. Ngay sau khi phát hiện và có

những đợt khai quật ở di chỉ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã lần lượt tìm

6

thấy hàng loạt các địa điểm khác cách không xa nó, có những đặc trưng văn

hóa tương tự. Có thể kể tên những di tích chính như sau: Xóm Rền, Phùng

Nguyên, Gò Bông, Khu Đường, Thành Dền/Cao Xá… tỉnh Phú Thọ; Gò Hện,

Văn Điển, Đình Chiền, Đồi Đồng Dâu… Hà Nội.

Kết quả thu được trong những năm đầu nghiên cứu văn hóa Phùng Nguyên

thật lớn lao. Các nhà khảo cổ học đã có trong tay khối tư liệu rất phong phú,

đa dạng về loại hình văn hóa đủ cơ sở để khẳng định đó là một nền văn hóa sơ

kỳ đồng thau- văn hóa Phùng Nguyên.

1.2.2. Niên đại

Căn cứ vào việc phân tích tổng thể các dấu tích văn hóa vật chất của các địa

điểm thuộc văn hóa Phùng Nguyên thì văn hóa này không còn ở hậu kỳ đá mới

nữa mà đã ở vào sơ kỳ thời đại đồng thau.

Đa số các nhà nghiên cứu đều theo quan điểm thứ hai. Như vậy văn hóa

Phùng Nguyên có niên đại mở đầu từ cuối thiên niên kỷ thứ III trước công

nguyên - đầu thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên và kết thúc vào khoảng nửa

đầu thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên.

1.3. Đặc điểm của văn hóa Phùng Nguyên

1.3.1. Loại hình di tích

Các địa điểm văn hóa Phùng Nguyên phân bố tập trung ở khu vực hợp

lưu của các con sông lớn như sông Hồng, sông Đà, sông Thao và sông Đáy

tức vùng Nam Phú Thọ, Đông Bắc Hà Tây cũ, Hà Nội, Nam Bắc Ninh. Phần

7

lớn các di tích nằm ở miền trước núi, dưới chân đồi núi đất, ven sông suối ở

vùng trung du. Nhiều địa điểm trên các khu đất cao châu thổ, ven biển.

Loại hình: Trên 50 địa điểm thuộc văn hóa Phùng Nguyên tập trung phần

lớn ở tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc (34 địa điểm), Hà Nội bao gồm cả Hà Tây cũ

(14 địa điểm), Bắc Ninh (6 địa điểm). Nhìn chung địa bàn phân bố các di chỉ

văn hóa Phùng Nguyên khá rộng lớn, bao gồm cả vùng trung du và đồng bằng

Bắc Bộ.

Văn hóa Phùng Nguyên tồn tại và phát triển trong thời gian cách ngày

nay trên dưới 4000 năm. Những dấu tích còn lại hầu hết là các làng định cư,

các di chỉ cư trú ngoài trời. Diện tích các làng định cư này nhìn chung khoảng

1 vạn mét vuông. Cá biệt có những làng có diện tích khá lớn tới 2 đến 3 vạn

mét vuông (Văn Điển, Phùng Nguyên, Gò Bông…)

Người Phùng Nguyên thường cư trú trên các đồi gò đất nổi cao hơn mặt

ruộng xung quanh từ 0,5m đến 2-3 m, cá biệt có trường hợp cao đến 5-6m

như di chỉ Gò Bông, Gò Chè (Tam Thanh, Phú Thọ). Lớp đất văn hóa có độ

kết chặt tùy thuộc vào tính chất thổ nhưỡng của từng vùng, nhưng nhìn chung

cứng rắn có xen lẫn các hạt latêrit kết vón. Đất có màu xám đen và chứa đựng

thuần nhất các di vật khảo cổ học như đồ đá, đồ gốm, ít xương răng và tro

than. Tích tụ tầng văn hóa ở các di chỉ Phùng Nguyên nhìn chung không dày

lắm, trung bình khoảng 0,7m, dày nhất đến 2m (di chỉ Xóm Rền). Một số di

chỉ có độ dày tầng văn hóa không đều, có chỗ dày chỗ mỏng tùy thuộc địa

8

hình cư trú. Tuy đã phát hiện được 50 địa điểm của văn hóa này, trong đó số

di chỉ đã được khai quật cũng hơn 25 địa điểm , song các dấu vết cư trú, nhà

cửa vẫn còn là vấn đề chưa sáng tỏ.

Căn cứ vào tính chất và đặc điểm các di tích văn hóa Phùng Nguyên, có

thể phân chia thành 3 loại hình:

- Di chỉ cư trú

- Di chỉ-xưởng

- Di chỉ cư trú-mộ táng

Phần lớn các di tích cư trú Phùng Nguyên đã được phát hiện và nghiên

cứu thuộc loại hình di chỉ cư trú, loại di chỉ thường gặp có 1 tầng văn hóa

Phùng Nguyên thuần nhất, có thể chỉ thuộc 01 giai đoạn phát triển nhất định

như thuộc giai đoạn sớm hoặc giai đoạn giữa-giai đoạn Phùng Nguyên cổ

điển. Cũng như những di chỉ cư trú tầng văn hóa phát triển qua 02 giai đoạn

sớm và giữa. Đáng chú ý là hệ thống các di chỉ cư trú thuộc giai đoạn muộn-

giai đoạn Phùng Nguyên sau cổ điển. Đa số các di chỉ này tập trung ở các

vùng đồng bằng cao, mà không phải phân bố ở vùng trung du là chính như 2

giai đoạn trước. Trong các di chỉ này yếu tố văn hóa Đồng Đậu đã xuất hiện

rõ nét.

Các di chỉ xưởng nằm ở giai đoạn cuối văn hóa Phùng Nguyên bước

sang văn hóa Đồng Đậu. Cho đến nay mới tìm thấy 03 di chỉ xưởng với tính

chất công xưởng rõ ràng. Điều đặc biệt là tính chuyên môn hóa của chúng khá

9

cao: Di chỉ xưởng Gò Chè chế tác công cụ đá là chính-xưởng Bãi Tự chế tác

mũi khoan, di chỉ xưởng Tràng Kênh chế tác vòng trang sức là chủ yếu.

Di chỉ cư trú mộ táng, nếu không kể địa điểm Xóm Rền với phát hiện

dấu tích 2 ngôi mộ lẻ loi nằm ngay trong di chỉ cư trú, đến nay chúng ta mới

tìm thấy được 1 địa điểm thuộc loại hình này. Đó là địa điểm Lũng Hòa. Tại

Lũng Hòa đã phát hiện được cả một khu mộ tập trung. Trong diện tích hố khai

quật không lớn lắm đã tìm thấy 12 ngôi mộ có những đặc điểm tương tự nhau,

chứng tỏ chúng cùng thuộc 1 thời đại, một nhóm cư dân. Khu mộ địa cũng

phân bố trong phạm vi cư trú, đất lấp mộ chứa nhiều di vật giống như các di

vật tìm thấy trong tầng văn hóa và đồ tùy táng được chôn theo người chết.

Địa tầng: Có 5 loại hình di tích theo diễn biến địa tầng:

- Loại có một tầng văn hóa thuộc văn hóa Phùng Nguyên.

- Loại có địa tầng phát triển liên tục từ cuối Phùng Nguyên sang Đồng Đậu

- Loại di chỉ- xưởng phát triển từ cuối Phùng Nguyên sang Đồng Đậu.

- Loại di chỉ xen lẫn mộ táng.

- Loại mộ táng tách riêng khỏi di chỉ cư trú.

1.3.2. Đặc trưng di vật

- Đồ đá: Có người đã nói rằng: Nếu có một nghề thủ công nào để lại

nhiều minh chứng nhất về kỹ thuật học, mà không những bằng chứng đó lại

hầu như không bị hủy hoại bởi thời gian, thì đó chính là nghề sản xuất đồ đá.

Cũng như vậy, nếu có một nền văn hóa khảo cổ nào hàm chứa nhiều tinh hoa

10

hơn cả về kỹ thuật chế tác đá và sản phẩm đồ đá, thì đó chính là văn hóa

Phùng Nguyên (Hình 5).

Di vật đá Phùng Nguyên hầu hết đều có kích thước nhỏ. Kể cả công cụ

sản xuất cũng như đồ trang sức đều được chế tạo bằng các loại đá có độ rắn

cao, màu sắc đẹp.

Đặc trưng về nguyên liệu và loại hình.

*Về vấn đề nguyên liệu đá trong văn hóa Phùng Nguyên:

Những tài liệu khảo cổ học cho biết rằng nguyên liệu dùng để chế tác đá

của cư dân Phùng Nguyên rất đa dạng. Đó là các loại đá: Basalt, spilite,

nephrite, gres, schist, jade,jasper. Họ không những biết lựa chọn các loại đá

tốt mà còn có ý thức sử dụng từng loại đá sao cho thích hợp với từng loại

công cụ hay đồ trang sức. Ví dụ, đá Basalt thường được sử dụng để chế tạo

các loại công cụ có số lượng nhiều và kích thước lớn; đá nephrite chủ yếu để

chế tạo đồ trang sức, đá sa thạch cát kết được sử dụng làm dao cưa, bàn mài;

đá silic-jasper dùng làm mũi khoan. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, ngoài

đồ trang sức, đá nephrite còn được sử dụng để chế tạo các loại rìu bôn, đục cỡ

vừa và nhỏ. Như vậy,người Phùng Nguyên phải biết rõ về thuộc tính từng loại

đá thì mới có thể sử dụng chúng để chế tạo từng loại công cụ thích hợp.

* Về công cụ sản xuất ở văn hóa Phùng Nguyên rất phong phú. Di vật có

số lượng nhiều nhất là bôn đá hình tứ giác có lưỡi vát lệch một bên. Số lượng

rìu tứ giác cân xứng trong các di chỉ thuộc văn hóa này ít hơn, có những địa

11

điểm không có. Những di vật vẫn gọi là rìu và bôn có thể gồm 3 loại sau:

-Rìu: Lưỡi vát chữ V cân xứng.

-Bôn: Lưỡi vát một bên thành chữ V lệch.

-Rìu bôn: Lưỡi vát hai bên không đều nhau.

Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng quy mô kích thước vừa phải là đặc

trưng nổi bật của công cụ sản xuất văn hóa Phùng Nguyên. Kích thước bôn

tập trung trong khoảng dài 6-7cm, rộng 3-4cm, dày 1-2cm. PGS.TS Hán Văn

Khẩn thì cho rằng: rìu, bôn và rìu bôn Phùng Nguyên gồm 2 loại rõ ràng:

-Loại hẹp ngang và dày.

-Loại rộng ngang và mỏng.

Nếu căn cứ vào quy mô kích thước thì mỗi loại lại có thể chia ra làm 3

loại sau:

-Loại lớn có kích thước 8 đến trên10 cm.

-Loại vừa có kích thước từ 5 đến 7 cm.

-Loại nhỏ có kích thước từ 4cm trở xuống.

Ba đợt khai quật di chỉ Phùng Nguyên thu được 531 chiếc rìu bôn, 246

chiếc rìu tứ giác lưỡi vát đều 2 bên. Di chỉ Gò Bông đã tìm thấy 44 chiếc bôn

trong khi rìu đá chỉ thấy có 4 chiếc. Di chỉ Đồng Vông, số lượng bôn tìm thấy

cũng nhiều hơn rìu 2 chiếc.

Trong số bôn đá tìm thấy ở các địa điểm Phùng Nguyên cũng có một số

lượng không nhỏ những bôn có kích thước nhỏ,mỏng. Về mặt hình dáng,

12

những bôn loại này chủ yếu có hình tứ giác, gần vuông hoặc dài, một số chiếc

có đầu đốc thon nhỏ hơn phần lưỡi, lưỡi có độ lượn hơi vòng cung, kích

thước trung bình của loại bôn này nằm trong khoảng chiều dài1,8-2,5 cm,

rộng 1,5-2 cm, dày 0,3-0,5 cm, góc lưỡi 30-40 độ, đặc biệt có nhiều chiếc

chiều dài và chiều rộng tương đương nhau.

Những chiếc rìu đá điển hình ở Phùng Nguyên cũng là rìu tứ giác, mặt

cắt ngang hình tứ giác và nhìn trực diện cũng là hình tứ giác. Các địa điểm

thuộc văn hóa này, hầu như không thấy sự xuất hiện của rìu đá có mặt cắt

ngang hình bầu dục. Rìu lưỡi cân Phùng Nguyên đa số có dáng hình thang,

nhưng phần lưỡi thường chỉ nhỉnh hơn phần đốc một chút. Toàn thân rìu được

mài nhẵn, ở nhiều chiếc rìu thuộc địa điểm Phùng Nguyên còn cho thấy rõ rệt

dấu vết sử dụng mòn vẹt của chúng. Kích thước rìu Phùng Nguyên nhỏ nhắn,

xinh xắn; loại rìu có kích thước lớn hơn cũng chỉ tập trung ở khoảng dài 6-7

cm, rộng 4-5 cm ,dày 1,5-2 cm. Trên thân một số rìu còn sót lại các dấu ghè,

đẽo hoặc mẻ sứt trong quá trình chế tác và sử dụng. Đa số rìu Phùng Nguyên

đều có góc lưỡi sắc (khoảng ở 40 độ-50 độ cho loại kích thước trên).

Đáng chú ý là, trong các địa điểm thuộc văn hóa này không có ít rìu đá

được chế tác bằng đá ngọc Nephrite có các màu đẹp: trắng đục, trắng vân

hồng, vân xanh. Loại rìu này có kích thước nhỏ bé, xinh xắn, kích thước trung

bình của loại rìu này có độ dài trên dưới 3 cm, rộng 2 hoặc hơn 2 cm, dày 0,5

cm, cá biệt còn có những chiếc rìu lưỡi cân xứng, dáng đẹp kích thước nhỏ

13

hơn. Sự có mặt của những chiếc rìu này khiến chúng ta nghĩ tới 1 nghề thủ

công nhẹ nhàng tỉ mỉ hơn là những thao tác sản xuất thô nặng.

Tại di chỉ Phùng Nguyên đã tìm thấy 246 chiếc rìu các loại nhưng không

hề có chiếc rìu mài có chiều dài đến10 cm. Loại rìu nhỏ (dài dưới 4 cm,rộng

dưới 2,5 cm) chiếm tới 40% tổng số rìu. Tại di chỉ Văn Điển cũng đã tìm

được 181 chiếc rìu tứ diện, kiểu dáng và kích thước, quy thức chế tác cũng

giống hệt như rìu tìm thấy ở Phùng Nguyên. Riêng ở địa điểm Gò Bông, trên

tổng diện tích 178 m2 khai quật khoa Sử Đại học Tổng Hợp Hà Nội (nay là

Trường ĐHKHXH&NV) đã thu thập được trên 500 hiện vật đá nhưng số

lượng rìu đá chân chính chỉ có 7 chiếc (bên cạnh 108 chiếc bôn đá). Tại địa

điểm Gò Hện, rìu và bôn theo báo cáo khai quật cho biết có số lượng tương

đương nhau (rìu: 9 chiếc, bôn: 9 chiếc) trong tổng số 113 di vật đá. Trong 1

vài địa điểm thuộc văn hóa Phùng Nguyên, còn có mặt loại rìu có vai hay có

nấc như ở Phùng Nguyên, Núi Xây… tuy số lượng rất ít, nhưng sự có mặt của

những loại rìu này cho ta thấy sự giao lưu văn hóa với các cư dân khác đã khá

phát triển.

Trong số công cụ sản xuất của văn hóa Phùng Nguyên, ngoài rìu và bôn

ra, còn phải kể số lượng đến lớn đục đá. Đục đá Phùng Nguyên có đặc điểm

nhỏ nhắn cũng như rìu và bôn, được chế tác từ các loại đá mịn hạt, độ cứng

dáng kể như Spilite, Nephlite, và có những màu sắc đẹp. Loại hình của đục

cũng đa dạng, có thể phân chia thành các loại chính sau: Đục bằng, đục mảnh

14

vòng, đục nhọn, đục vũm và đột.

Đục bằng có số lượng nhiều nhất, có lưỡi bằng, lưỡi mài vát một hoặc cả

2 mặt giống đục sắt hiện nay. Đụa bằng có chiếc khá dày, có chiếc khá mỏng.

Đục bằng có thân dài, hẹp ngang, mặt cắt ngang là hình thang, chữ nhật, hình

vuông hay hình thấu kính. Kích thước của loại đục này rất khác nhau: dài từ

3-4cm, rộng 1-3cm, dày 1-3cm. Chiếc đục phát hiện được ở Xóm Rền xứng

đáng được xếp vào loại đục dày, dài và dày nhất của văn hóa Phùng Nguyên.

Đục được làm bằng đá Spilite màu xám, có quy mô kích thước khá lớn: dài 13

cm, rộng 3,5 cm, dày 2,5 cm, mặt cắt ngang hình chữ nhật. Khác với đục dày,

đục mỏng có lưỡi mài vát 2 hoặc 1 mặt, mặt cắt ngang chủ yếu là hình thang,

chữ nhật cũng đủ kích cỡ từ lớn đến nhỏ. Kích thước loại đục này tập trung

trong khoảng: dài từ 3 đến 10 cm, rộng từ 1-1,5 cm, dày từ 0,5-0,8 cm. Loại

đục này thường được làm bằng đá Nephrite rất đẹp. Rõ ràng, loại đục dày

cũng như đục mỏng có đủ các loại kích thước từ dài đến ngắn, từ rộngđến

hẹp, từ dày đến mỏng. Như vậy với bộ đục gồm nhiều kiểy loại này, người

thợ thủ công có thể dễ dàng đục, khoét các lỗ vuông, chữ nhật, hình tam giác

hay hình thang trên các vật liệu tre gỗ để là khung nhà cửa…

Đục móng (hay còn gọi là đục vũm) là một loại đục chuyên dụng để đục

khoét các lỗ tròn giống như đục móng của người thợ mộc ngày nay. Đục móng

thường có số lượng ít hơn các loại đục trên nhưng cũng khá phổ biến ở nhiều di

tích Phùng Nguyên, như Phùng Nguyên, Chùa Gio, Văn Điển, Đồng Vông…

15

Đục mảnh vòng được làm bằng đá Nephrite với các màu sắc khác nhau,

như trắng ngà, hồng nhạt, hay tím mận chín. Đây là công cụ do người Phùng

Nguyên khéo léo tận dụng những mảnh vòng gãy, rộng bản (từ 1-2cm) đem

mài chế thành những đục nhỏ xinh xắn. Gọi là đục nhưng chưa chắc nó được

sử dụng như những đục đá thực thụ. Bởi vì nó nhỏ và mỏng manh có khi lại

cong nên rất có thể đục mảnh vòng còn được sử dụng như dao để cắt, gọt,

rạch, khắc.

Đục nhọn hay đục đinh được làm từ mảnh đá, mảnh tước hay mảnh công

cụ vỡ. Đục thường được làm bằng đá Nephrite hay Spilite. Tuy nhiên loại

công cụ này không có nhiều lắm trong các di tích Phùng Nguyên.

Đột có mặt trong các di tích Phùng Nguyên không nhiều, được làm bằng

đá Nephrite, có mặt cắt ngang hình bầu dục, một đầu lớn, một đầu nhỏ, đầu

nhỏ được mài nhỏ dần thành hình tròn. Nhìn chung nó có dạng giống đột sắt

hiện nay. Như vậy đục gồm nhiều loại khác nhau, được làm bằng đá Nephrite

hay Sphilite, có mặt cắt khác nhau (hình thang, hình vuông hình chữ nhật…)

có kích thước từ 3-10cm, rộng 1-2 cm, dày từ 1-5cm. Để tiết kiệm nguyên

liệu và công sức, người Phùng Nguyên đã tận dụng các mảnh vòng gãy, mảnh

công cụ vỡ để làm công cụ.

Tại di chỉ Phùng Nguyên đã tìm thấy 59 chiếc đục, kích thước trung bình

thường có chiều dài 3-4 cm, thân rộng 1 hoặc hơn 1 cm, bề dày của đục thường

chỉ khoảng 0,3-0,5 cm. Có những chiếc đốc bằng, cũng có những chiếc đốc

16

tròn do sử dụng lâu ngày. Tại Văn Điển đã phát hiện được 20 chiếc đục. Khi

khai quật Đồng Vông và Gò Bông cũng tìm thấy ở mỗi nơi 7 chiếc…

Tại một số địa điểm, thuộc nhóm công cụ sản xuất bằng đá còn phải kể

đến các loại dao đá, ềm đá. Hình dạng của loại di vật này cũng rất khác nhau,

có những dao đá hình dáng dài, thuôn, rìa lưỡi sử dụng rõ ràng nằm về một

phía (dao đá ở Tràng Kênh), nhưng cũng có những dao đá chỉ là các mảnh,

phiến tước dài được sử dụng đến mòn vẹt. Tại Gò Hện, đã tìm được 6 chiếc

dao đá có kích thước và rìa lưỡi sử dụng rất khác nhau. Có chiếc dài 7,2 cm,

bản rộng là 4 cm, nhưng cũng có chiếc chiều dài là 4 cm mà rộng bản lưỡi lại

là 5,5 cm.

Đáng chú ý là một số di vật đá được coi là liềm. Liềm có chức năng chuyên

biệt trong việc gặt hái ngũ cốc, cắt cây thân thảo, vì vậy sự có mặt của liềm là

một yếu tố quan trọng để đánh giá trình độ sản xuất lương thực của người xưa.

Một số di vật được xác định là liềm đã tìm thấy trong các địa điểm thuộc văn hóa

Phùng Nguyên, trong đó chiếc liềm ở địa điểm Gò Bông là điển hình. Liềm được

làm bằng một phiến tước dài phần chuôi liềm có bề rộng nhất 3,5 cm, đây cũng

là phần đáy nhất của liềm. Phần tiếp giáp với sống liềm về phía lưỡi có ngấn tròn

(bị vỡ chỉ còn một phần cung tròn) có tác dụng để buộc dây, tra cán. Đặc biệt

phần lưỡi liềm tuy bị gãy, phần còn lại dài 4 cm, nhưng vẫn thấy chiều cong

giống hệt liềm cắt hiện đại. Rìa lưỡi rất sắc và bóng nhẵn do sử dụng. Phần sống

lưng của liềm dày 0,3-0,7cm, được mài nhẵn. Thân liềm còn nhiều vết ghè đẽo.

17

Chiếc liềm này được phát hiện trong lần khai quật thứ hai ở địa điểm Gò Bông.

Nhiều nhà nghiên cứu cho đây là bằng chứng gián tiếp về một nền nông nghiệp

trồng lúa trong văn hóa Phùng Nguyên.

Trong nhóm công cụ sản xuất thuộc văn hóa Phùng Nguyên, còn có một

số lượng không nhỏ các cưa đá. Các cưa đá đều được chế tác bằng đá sa thạch

hạt mịn hoặc thô thùy theo từng nơi. Loại công cụ này thấy ở nhiều địa điểm

nhất là trong các công xưởng như Tràng Kênh, Bãi Tự hay Gò Chè…

Ngoài ra còn phải kể đến sự có mặt của mũi khoan đá trong các địa điểm

văn hóa Phùng Nguyên. Mũi khoan là một công cụ không thể thiếu được

trong quá trình chế tạo đồ trang sức (vòng tay,vòng chân,khuyên tai và hạt

chuỗi). Đây là một trong những di vật từng là đối tượng sản xuất của hai

công xưởng Bãi Tự và Tràng Kênh, à nơi chuyên sản xuất mũi khoan đá và đồ

trang sức có niên đại Phùng Nguyên muộn. Tại hai công xưởng này đã tìm

thấy hàng ngàn mũi khoan đá.

Ngoài ra ở văn hóa Phùng Nguyên còn có rất nhiều các loại bàn mài, hòn

kê, hòn đập, bàn đập bằng đá. Bàn mài là công cụ không thể thiếu trong việc

chế tác đá của cư dân Phùng Nguyên. Bởi vì,tuyệt đại bộ phận công cụ sản

xuất, vũ khí và đồ trang sức được mài nhẵn hoàn toàn. Bàn mài Phùng

Nguyên được làm từ các loại đá quác dít, quác dít hóa yếu, đá sa thạch, sa

thạch có phen-xpát, phôn-li. Bàn mài có một số màu sắc chủ yếu như xám

đen, trắng xám mốc, nâu hồng hoặc tím nhạt.

18

Số lượng bàn mài phát hiện được ở từng di tích Phùng Nguyên khá lớn

so với các loại công cụ sản xuất và vũ khí khác. Điều này chứng tỏ nhu cầu sử

dụng bàn mài ở cư dân Phùng Nguyên là rất lớn.

Bàn đập là một trong những loại hình di vật tiêu biểu trong văn hóa

Phùng Nguyên. Đó thường là các thỏi đá mài hình chữ nhật, bằng sa thạch hạt

mịn hoặc đá phiến. Trên hai mặt của bàn dập có những rãnh khía đều đặn

thẳng song song nhau, rãnh có mặt cắt hình chữ V, rộng chừng 2-3mm và

cách nhau đều đặn cũng chừng 2-3 mm. Trên các bàn đập, số lượng rãnh và

kích thước của rãnh phụ thuộc vào kích thước dài, rộng của bàn đập.

Tại địa điểm Phùng Nguyên, đã tìm thấy 18 bàn đập, ở Gò Bông có 5

chiếc. Trong một số địa điểm khác như Núi Xây, Gò Chùa, Gò Hện… cũng có

mặt loại hình di vật này.

* Về các loại vũ khí:

Vũ khí trong các di tích văn hóa Phùng Nguyên không nhiều, nhưng gồm

một số loại khá tiêu biểu như: mũi lao, mũi giáo, mũi tên, qua đá và nha chương.

Mũi lao, lưỡi giáo, lưỡi qua, những đầu mũi tên 3 cạnh hoặc 2 cạnh cũng

là những di vật tìm thấy trong các địa điểm Phùng Nguyên. Sự đa dạng của

loại di vật này cho thấy, trong phương thức sống của cư dân Phùng Nguyên

xưa, săn bắn là một trong những hoạt động phát triển và có hiệu quả nhất.

Mũi lao, mũi giáo được làm bằng đá Spilite, xám xanh hay đá Nephrite

trắng hồng. Phần lớn chúng bị gãy vỡ thành từng mảng nhỏ nên rất khó phân

19

biệt là mũi lao hay mũi giáo.

Qua đá là một loại vũ khí đặc biệt. Qua đá xuất hiện không nhiều trong

văn hóa Phùng Nguyên, ví dụ như ở di chỉ Tràng Kênh chỉ có 3 mảnh qua đá

trong tổng số hàng nghìn di vật đá. Đây có thể coi là những vũ khí mang tính

biểu trưng cao.

Nha chương là hiện vật độc đáo của văn hóa Phùng Nguyên (Hình 4).

Nha chương được làm bằng một loại đá, giống loại đá mà cư dân Phùng

Nguyên thường dùng làm rìu. Hiện vật này được mài nhẵn bóng, thân dài, có

lỗ gần phía đốc, hai bên lỗ có mấu, lưỡi ở một đầu, mài vát một mặt và rìa

lưỡi cong lõm vào. Hiện nay có 6 nha chương đều thấy trên đát Phú Thọ: 3

chiếc ở Xóm Rền, 3 chiếc ở Phùng Nguyên.

Trong đó hai chiếc nha chương ở di chỉ Phùng Nguyên được ông Nguyễn

Lộc công bố vào năm 1985. Chiếc thứ nhất còn khá nguyên vẹn, có cấu tạo

đơn giản hơn các nha chương khác của văn hóa Phùng Nguyên. Đốc nha

chương gần vuông, bằng 1/5 chiều dài cả hiện vật. Phần tiếp giáp giữa đóc và

thân lưỡi phát triển rộng tạo thành chắn tay và vai ngang tạo thành mấu ngắn.

Giữa đốc gần với chắn tay có một lỗ khoan xuyên thủng. Thân lưỡi nha

chương hình chữ nhật, lưỡi hơi cong hình cung, lưỡi mài vát một bên. Nha

chương được mài nhẵn phẳng toàn thân, mặt cắt ngang thân hình chữ nhật.

Các đường xoi nhẹ tạo thành rãnh nông, mảnh, cắt ngang trên cả đốc thân và

lưỡi nha chương. Nha chương được làm bằng đá trắng ngà vân nâu, bị sứt mẻ

20

nhỏ ở rìa lưỡi và thân lưỡi. Nha chương có quy mô, kích thước như sau: dài

24cm, đốc dài 4,5cm, rộng 4 cm, lưỡi rộng 4,2-4,7 cm, dày 0,7 cm.

Chiếc nha chương thứ hai phát hiện được ở di chỉ Phùng Nguyên bị vỡ

mất phần đốc và thân lưỡi, chỉ còn lại phần đốc có mấu. Phần đốc còn lại có

đuôi mấu dài nhô ngang ra 2 bên thân, ở đầu mấu có lỗ xoi nhưng không

thủng sang mặt sau. Đôi mấu dài lại được xẻ thành 4 mấu nhỏ tạo thành 2

nhóm mấu. Dưới 2 mấu dài ó đôi mấu nhỏ. Các đôi mấu sắp xếp hơi lệch

nhau. Các đôi mấu được nối với nhau bằng các rãnh xoi mảnh, nông chạy

song song với nhau. Nha chương được làm bằng đá trắng đục có vân vàng.

Kích thước của phần hiện còn đo được là: dài 13 cm, phần đốc dài 5,1 cm,

rộng 5,6 cm, dày 0,4 cm và lưỡi rộng 6,7cm.

Chiếc nha chương thứ ba được công bố vào năm 1998. Nó được ông

Nguyễn Văn Đống phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đất là gạch tại di chỉ

Phùng Nguyên vào năm 1993. Nha chương còn nguyên vẹn được làm bắng đá

ngọc Nephrite giống với đá làm công cụ sản xuất và đồ trang sức của văn hóa

Phùng Nguyên. Nó được mài nhẵn bóng, thân dài có hai lỗ cách đều nhau, 2

bên chỗ đốc và thân có mấu lõm hình chữ V, lưỡi mài vát một mặt. Kích

thước của nha chương khá lớn: dài 35cm, phần đốc dài 6cm, đốc rộng 8,9cm,

mấu dài 0,7cm, hân dài 28cm, lưỡi rộng 12cm. Nha chương có độ dày 0,4cm.

Lỗ khoan cách đầu đốc 2cm, có đường kính 0,8cm. Hai lỗ khoan cách nhau

3,3cm. Đốc nha chương có một dấu cưa. Thân có vết lõm dài 5cm, rộng 1cm,

21

do khuyết tật của đá nguyên liệu.

Nha chương cũng là một di vật điển hình của khảo cổ học Trung Quốc.

Nó xuất hiện và tồn tại từ hậu kỳ đá mới đến thời Hán.

* Các loại đồ trang sức:

Đồ trang sức là một loại di vật phong phú và có mặt ở tất cả các địa điểm

thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Đó là các loại vòng tay, vòng chân, vòng tai,

hạt chuỗi trang sức hình vuông, hình tròn, hình đuôi cá, hình dấu phẩy. Tại

Phùng Nguyên có hơn 4000 hiện vật đá thì đồ trang sức đã có gần 600 tiêu

bản. Tại Văn Điển riêng vòng đá có 535 chiếc trên tổng số 1085 hiện vật đá.

Gò Bông có số lượng đồ trang sức 60 chiếc trong tổng số 500 hiện vật đá. Sự

có mặt của 2 công xưởng Bãi Tự và Tràng Kênh-chuyên sản xuất, chế tạo đồ

trang sức bằng đá cho thấy khiếu thẩm mỹ và nhu cầu đời sống tinh thần của

cư dân Phùng Nguyên đã ở trình độ cao. Vòng đá ở các địa điểm thuộc văn

hóa Phùng Nguyên rất nhỏ nhắn và tinh tế. Chúng được chế tác bằng các loại

đá ngọc Nephlite với các màu trắng hồng, vân nâu, xanh ngọc… rất trang nhã

và tinh tế. Các vòng có mặt cắt ngang đa dạng, nhiều kiểu: chữ nhật dẹt và

đứng, hình vuông, hình tròn, hình bán nguyệt, hình tam giác, hình thấu kính,

và đặc biệt hơn cả là loại vòng có mặt cắt hình chữ nhật đứng có gờ ngoài, có

khi có một gờ nhô ra ở giữa , có khi có cả 3 gờ nhô ra hoặc 4 gờ to nhỏ không

đều nhau. Đẹp và cầu kỳ nhất là vòng chữ T tồn tại trong nhiều địa điểm. Mặc

dù số lượng không nhiều nhưng nó được coi là đồ trang sức rất đặc trưng cho

22

văn hóa Phùng Nguyên.

Kích thước vòng đeo nhỏ nhắn. Loại vòng mặt cắt ngang chữ nhật đứng

trong di chỉ Phùng Nguyên, bản rộng của vòng trung bình 0,7 cm, độ dày 0,3

cm, đường kính tập trung ở kích thước từ 6-7cm. Đáng chú ý là nhiều chiếc

vòng đã có dấu khoan nối vòng hoặc các dấu cưa cho thông lỗ để buộc dây.

Loại vòng có mặt cắt ngang hình chữ D hay tròn cũng vậy, đường kính của

mặt cắt thân vòng thường khá nhỏ, chỉ 0,5-0,7cm. Đặc biệt có những vòng rất

chuẩn về độ tròn thân vòng. Loại vòng có mặt cắt hình tam giác trong văn hóa

Phùng Nguyên cũng có những đặc điểm khác biệt với vòng loại này ở các văn

hóa khác. Loại vòng hình ống có gờ nổi ở mặt ngoài là loại vòng rất tiêu biểu

cho trình độ điêu luyện của người Phùng Nguyên cũng như khiếu thẩm mỹ

của họ. Vòng thường có bản đứng, rộng và rất mỏng. Mặt ngoài bản vòng có

các nấc nhô ra cũng mỏng và dài ngắn tùy theo ý muốn của người thợ. Có

những vòng có gờ hình chữ T, có vòng có nhiều gờ nhô ra to nhỏ khác nhau.

Tại địa điểm Phùng Nguyên đã tìm thấy 16 chiếc; tại địa điểm Gò Hện có đến

3 mảnh vòng được tìm thấy thuộc vào loại này; Đồng Vông có 6 mảnh vòng

hình chữ T. Tại Văn Điển, đã tìm thấy 14 mảnh vòng có gờ dạng hình chữ T

hoặc 3 gờ to nhỏ khác nhau…

Khuyên tai là loại trang sức thấy không nhiều trong các di tích Phùng

Nguyên. Nó được làm bằng đá, giống khuyên tai ngày nay. Khuyên tai có quy

mô nhỏ hơn, đường kính chỉ độ 2-3cm, dày ở giữa, mỏng dần về hai phía đầu,

23

mặt ngoài hơi cong khum, mặt trong phẳng tại cho nó có mặt cắt chữ D, giữa

2 đầu khuyên tai là một khe hở rộng độ 1 ly. Khuyên tai được là bằng đá trắng

ngà, mài nhẵn bóng.

Số lượng khuyên tai và nhẫn các loại có mặt cắt khác nhau: cơ bản là

mặt cắt hình vuông, hình tròn, hình bán nguyệt… trong các di chỉ Phùng

Nguyên khá nhiều. Có những chiếc nhẫn được chế tạo bằng đá đen sẫm, bóng

và cứng như sừng. Đáng chú ý là ở những địa điểm thuộc giai đoạn muộn của

văn hóa này đã xuất hiện loại hình khuyên tai có mấu (Tràng Kênh, Bãi Tự,

Nghĩa Lập, Lũng Hòa…) Loại khuyên tai này bắt đầu có mặt ở văn hóa

Phùng Nguyên giai đoạn cuối và còn thấy trong nhiều văn hóa khảo cổ khác

muộn hơn Phùng Nguyên.

Hạt chuỗi hình ống là loại hình đồ trang sức phổ biến trong các địa điểm

Phùng Nguyên. Nó được làm từ đá Nephrite hoặc quacxit, có màu tím phớt

hồng, trắng ngà, xám xanh, đen như sừng, tím như mận chín. Nó được chế tạo

qua cách cưa, khoan, mài rất tinh vi. Hạt chuỗi có dạng hình trụ tròn, hầu như

không có dạng tang trống. Có hạt chuỗi to, dài. Có loại hạt chuỗi bé ngắn. Lỗ

khoan có khi xuyên chính giữa, cũng có khi chạy lệch sang một bên. Loại hạt

chuỗi dài thì dùng lối khoan hai đầu để chế tạo lỗ. Loại hạt chuỗi nhắn thì chỉ

cần khoan từ một đầu bé để tạo lỗ. Quy mô kích thước của hạt chuỗi cũng

khác nhau. Đường kính hạt chuỗi trong khoảng từ 0,5-1cm, độ dài của hạt

chuỗi nằm trong khoảng 0,5 đến 5-6cm. Hai đầu hạt chuỗi có khi được cắt

24

mài phẳng, có khi được cắt mài vát. Hạt chuỗi thuộc loại này thường có

đường ren nằm trên thân và lỗ khoan nhỏ chỉ 0,2 cm cho thấy kỹ thuật khoan

lỗ và kỹ thuật tiện đã đạt đến đỉnh cao. Ngoài ra,những hạt chuỗi nhỏ bé,

đường kính và bề dầy tương đương nhau (chừng 0,6-0,7 cm) có dáng hình

tang trống được mài nhẵn bóng là những hạt chuỗi rất đẹp của văn hóa Phùng

Nguyên. Tại công xưởng Tràng Kênh, tìm thấy hàng loạt hạt chuỗi này, thậm

chí còn tìm thấy cả các hạt chuỗi hình tang trống nhưng lại có các gờ nổi nhô

ra ở bên ngoài trông rất đẹp…

Tại nhiều địa điểm thuộc văn hóa Phùng Nguyên đã tìm thấy những đồ

trang sức khá độc đáo: đó là các vật đeo có các hình thù khác nhau như hình

đầu thú, hình đuôi cá, hình dấu phẩy, hình bàn chân… Vật đeo loại này đều

được làm bằng chất liệu đá chế tạo đồ trang sức.

Trang sức hình dấu phẩy tìm thấy ở di chỉ Phùng Nguyên là một mảnh

đá mỏng gần hình chữ nhật, góc tròn, một đầu mài nhỏ lại hơi cong tạo thành

hình dấu phẩy. Nó còn có một lỗ khoan nhỏ ở đầu.

Trang sức hình rìu xéo ở di chỉ Phùng Nguyên, được là từ một mảnh đá

trắng xám, mũi nhọn, gót tròn, gần gót có một lỗ tròn nhỏ. Quy mô của trang

sức: dài 1,8cm, rộng ở lưỡi 2,1cm, rộng ở đốc là 6cm.

Trang sức hình đuôi cá là một mảnh đá mỏng màu xanh, gần hình chữ

nhật, một đầu mài lõm vào, một đầu mài lõm tạo hình đuôi cá. Kích thước của

trang sức này là: dài 5,5cm, rộng 2,2cm và 2,7 cm, dày 4cm. Rãnh mài ở cả 2

25

mặt, rộng 5cm, sâu 1,5cm.

Tại Phùng Nguyên có 4 chiếc. Điều đáng chú ý là nhiều chiếc có lỗ đeo.

Các vật này đều được chế tác khá tỉ mỉ và cẩn thận.

Ngoài các loại trang sức trên, tại các di chỉ Phùng Nguyên còn có một số

rìu, bôn, đục cỡ nhỏ có khoan lỗ, một số thỏi đá hình đũa. Những di vật này

có nhiều khả năng được sử dụng như đồ trang sức (Hình 6).

Kỹ thuật chế tác đá:

Đây là vấn đề mang tính thời đại, tính văn hóa rõ rệt. Trong đó hai đặc

tính quan trọng trong kỹ thuật chế tác đá Phùng Nguyên là tính đa dạng và

thính chuyên hóa.

Tính đa dạng: Nét đặc trưng trong hệ thống di chỉ Phùng Nguyên là sự

tồn tại rất đa dạng của các di chỉ xưởng. Trong văn hóa này đã có đến 16 di

chỉ xưởng có chứ năng chuyên sản xuất đồ đá. Tính đa dạng của sản xuất đồ

đá trong văn hóa Phùng Nguyên thể hiện trên nhiều di chỉ xưởng có chức

năng chuyên sản xuất đồ đá . Tính đa dạng của sản xuất đồ đá trong văn hóa

Phùng Nguyên thể hiện trên nhiều loại hình di xưởng , đồng thời thể hiện trên

nhiều loại nguyên liệu được sử dụng cũng như nhiều loại kỹ thuật được áp

dụng trong quá trình chế tác đồ đá. Người Phùng Nguyên không chỉ dùng

công cụ sản xuất, họ còn dùng đồ trang sức và vũ khí bằng đá nữa, do đó ứng

với các loại hình di vật khác nhau, người ta dùng các loại nguyên liệu khác

nhau và các kỹ thuật chế tác thích hợp để sản xuất. Tính đa dạng về loại hình

26

sản phẩm đã thể hiện tính đa dạng trong sản xuất đồ đá nói riêng và trong sản

xuất thủ công nói riêng.

Để sản xuất một loại sản phẩm người thợ thủ công không chỉ dùng một

kỹ thuật mà phải sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau. Chẳng hạn như chế tạo

chiếc rìu đá Phùng Nguyên,người thợ có thể dùng phương pháp ghè đẽo để

tạo phác vật, nhưng cũng có thể kết hợp thêm kỹ thuật cưa để tiết kiệm

nguyên liệu và tăng hiệu quả chế tác, sau đó lại phải dùng kỹ thuật mài để

hoàn chỉnh sản phẩm này. Trong chế tạo đồ trang sức cũng vậy, người Phùng

Nguyên đã kết hợp tổng hợp mọi kỹ thuật chế tác đá có để làm ra một sản

phẩm. Đối với một chiếc vòng tay mặt cắt hình chữ T, người ta phải dùng rất

nhiều kỹ thuật để tạo ra sản phẩm, ví dụ như: ghè đẽo, cưa, mài…

Tính đa dạng trong sản xuất đồ đá ở văn hóa Phùng Nguyên đã trở thành

một đặc điểm quan trong khi nghiên cứu về sản xuất thủ công ở văn hóa này.

Trong các di chỉ xưởng, do đặc trưng của nguồ nguyên liệu ở mỗi xưởng khác

nhau trong cùng một giai đoạn thời gian, tương ứng với những nguyên liệu

được dùng ở đó, người Phùng Nguyên rất giỏi lựa chọn những kỹ thuật chế

tạo tối ưu nhất cho từng loại nguyên liệu, từng loại sản phẩm, đồng thời còn là

người đã biết kết hợp một cách hài hòa, tinh tế nhất các kỹ thuật chế tác đá từ

trước đến giai đoạn đó. Trong văn hóa Phùng Nguyên, hệ kỹ thuật chế tạo đá

bao gồm: ghè, đẽo, tu chỉnh ép, cưa, cắt, khoan, tiện, mài, đánh bóng… Như

chúng ta đã biết kỹ thuật chế tác mũi khoan đá Jasper và sử dụng chúng rất

27

phổ biến trong các di chỉ Bãi Tự, Tràng Kênh, nhưng lại không có ở các di chỉ

xưởng dùng đá Splite như Hồng Đà… Mặc dầu các công xưởng này đều đều

có sự hiện diện của kỹ thuật khoan tách lõi nhằm tạo vòng đeo. Cũng như vật,

kỹ thuật cưa cũng đã để lại rất nhiều bằng chứng trong các di chỉ xưởng chế

tạo đá ở Phùng Nguyên, nhưng không di chỉ xưởng nào phổ biến bằng các địa

điểm như Bãi Tự, Tràng Kênh, Đầu Rằm… Từ những bằng chứng kỹ thuật,

có thể đưa ra những nhận xét rằng các kỹ thuật chế tác đá tinh tế nhất đã tồn

tại trong các di chỉ xưởng chế tạo đồ ngọc, ở đó vừa là đỉnh cao của kỹ thuật

học vừa là đỉnh cao về loại hình học đồ đá của văn hóa Phùng Nguyên nói

riêng và toàn bộ thời đại đồng thau nói chung.

Tính chuyên hóa trong kỹ thuật chế tác đá: Sự hiện diện trong các di chỉ

chế tác đá, mang các chức năng sản xuất khác nhau trong văn hóa Phùng

Nguyên cho thấy nét khái quát lớn nhất của tính chuyên hóa trong sản xuất đồ

đá của văn hóa này.

Các di chỉ xưởng như Gò Chè, Thọ Văn, Đoan Thượng có những đặc

trưng đồ gốm giai đoạn Phùng Nguyên giống như đã thấy trong di chỉ xưởng

Bãi Tự, Tràng Kênh, nhưng đồ đá trong các di chỉ xưởng này chỉ cho thấy

một dạng phẩm của văn hóa này mà thôi, đó là việc sản xuất ra rìu, cuốc,

đục… bằng đá Splite. Bên cạnh đó, sự tồn tại rất chuyên hóa của hệ thống di

chỉ xưởng chế tạo đồ trang sức bằng đá ngọc Bãi Tự, Tràng Kênh, Đầu

Rằm… trong đó, kỹ thuật khoan bằng mũi khoan đá Jasper, kỹ thuật cưa đá là

28

những kỹ thuật cơ bản.

Sự tồn tại đan xen của các loại hình di chỉ xưởng, với các hệ thống kỹ

thuật khác nhau, trong cùng một văn hóa khảo cổ đòi hỏi chúng phải có một

cái nhìn đa chiều về những hợp nguồn tạo thành thể thống nhất của nền văn

hóa Phùng Nguyên.

Dưới góc độ kỹ thuật học, ta thấy sự tiên tiến trong kỹ thuật chế tác đồ

ngọc của người Phùng Nguyên, những kỹ thuật tu chỉnh ép bằng những lực ép

đều đặn, điêu luyện để chế tạo mũi khoan, mà về hình dáng giống như những

mũi khoan hiện đại, mới thấy trong văn hóa Phùng Nguyên. Người ta tính

rằng để ép được một mũi khoan có chiều dài 5-6cm, người Phùng Nguyên

phải ép ra được ít nhất 360 vảy tước rất nhỏ và đều. Chưa thể tính được thời

gian để chế tạo mũi khoan, nhưng số lượng vài trăm mũi khoan có mặt trong

các di chỉ xưởng Bãi Tự, Tràng Kênh thì chúng ta có thể hình dung ra nỗi khó

khăn, vất vả của người thợ làm đá Phùng Nguyên.

Chuyên hóa trong sản xuất đồ trang sức, người Phùng Nguyên đã tạo ra

rất nhiều sản phẩm nổi tiếng thời đại đó. Sự chuyên hóa này chắc chắn phải

xuất phát như nhu cầu xã hội đối với sản phẩm làm ra, còn mang những mối

quan hệ hữu cơ với việc trao đổi các sản phẩm đó. Tính chuyên hóa trong sản

xuất đồ đá của người Phùng Nguyên đã tạo ra một tiền đề kỹ thuật quan trọng

nhằm đưa người Phùng Nguyên nhanh chóng bước vào kỹ nghệ chế tác đá

trong văn hóa Phùng Nguyên đã tạo nên kỹ thuật cho người Đông Sơn sau

29

này hòa nhập với quỹ đạo văn hóa trong khu vực.

- Đồ đồng: Hiện vật đồng thau định hình chưa tìm thấy trong các địa

điểm văn hóa Phùng Nguyên, song cư dân Phùng Nguyên đã biết đến nghề

luyện đồng. Trong một số di chỉ Phùng Nguyên đã tìm thấy những cục đồng

nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Ví dù: ở Gò Bông (xã Thượng Nông, Tam Nông, Phú

Thọ), khai quật năm 1965 và 1967 đã tìm thấy những cục đồng nhỏ, gỉ đồng

và xỉ đồng ở các độ sâu khác nhau. Đến độ sâu 1,30m vẫn tìm thấy gỉ đồng.

Kết quả phân tích quang phổ của một trong số những cục đồng cho thấy đây

là một hợp kim gồm đồng, thiếc và vết bạc, tức là đồng thau chứ không phải

là đồng nguyên chất. Theo những báo cáo khai quật, gỉ đồng còn được tìm

thấy ở Gò Đồng Sấu, Lũng Hòa... Những khai quật mới đây (tháng 2 năm

2008) tại địa điểm Gò Bông và Đồi Đồng Dâu (Ba Vì, Hà Nội) đã cung cấp

thêm một số chứng cứ mới về đúc đồng, trong tầng văn hóa Phùng Nguyên

của các địa điểm này, những người khai quật đã tìm thấy cục đồng dây đồng,

mảnh đồng nhỏ, xỉ đồng.

Những vết tích kim loại đầu tiên trong các di tích Phùng Nguyên đã là

sản phẩm hợp kim cao cấp (đồng-thiếc), chứ không phải là dạng khởi thủy

(đồng đỏ). Theo một số nhà nghiên cứu, nguồn gốc kim loại sớm ở Việt Nam

có khả năng là sản phẩm của giao lưu văn hóa mà đúng ra là sự giao lưu kỹ

thuật. Cách đúc và có thể ban đầu là cả nguyên liệu nữa có được do ảnh

hưởng của trung tâm văn hóa khác. Dần dần, người Phùng Nguyên nắm chắc

30

được kỹ thuật luyện đồng. Sự có mặt của xỉ đồng và gỉ đồng là bằng chứng

xác đáng nhất cho việc đúc đồng tại chỗ. Tuy vậy, đồ đồng đã thực sự đóng

vai trò quan trọng trong đời sống cư dân và tạo ra những thay đổi quan trọng

trong quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất hay chưa? Đây là vấn đề đòi hỏi

nhiều nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu sắc [6, tr.100 ].

- Đồ gốm: kỹ thuật chế tác gốm ở văn hóa Phùng Nguyên rất tinh xảo về

cả loại hình, chất liệu, hoa văn (Hình 7).

Gốm có ba loại chính: mịn, thô, và rất thô. Trong loại gốm thô còn có thể

tách ra loại hình gốm xốp. Gốm Phùng Nguyên thường bị tạp sắc như nâu,

nhạt, xám đen. Gốm được nung trong khoảng từ 600°C đến 800°C và có thể

được nung theo phương thức nung ngoài trời song trong hố hở. Gốm được

chế tạo bằng phương pháp bàn xoay (tay, chân), bên cạnh đó còn có nặn tay,

chắp, gắn, ghép...

Loại hình gốm đa dạng, phong phú gồm các loại như đồ gia dụng, vật

dụng sản xuất, trang sức, trang trí... Trong đó nhiều nhất là đồ gia dụng (đun

nấu và chứa). Đặc biệt trong văn hóa Phùng Nguyên có đồ gốm với đường

kính miệng lớn, thành mỏng, miệng dày. Loại này không nhiều, song rất đặc

trưng, không gặp ở những trung tâm khác.

Trong gốm văn hóa Phùng Nguyên phổ biến các đồ đựng có chân đế.

Độ cao của chân đế phần nhiều từ 3cm trở lên. Nhiều chân đế có trang trí hoa

văn. Trong đồ gốm có loại chạc gốm (còn gọi là chân giò, vật hình cốc ) mà

31

vẫn chưa xác định được chức năng cụ thể và được gọi bằng nhiều tên khác

nhau, thường thô, dày, độ nung thấp, một số có trang trí văn khắc vạch. Tại

một số địa điểm, trong tổ hợp hiện vật gốm bên cạnh những trang trí văn khắc

vạch. Nhìn chung đồ gốm có dáng thanh thoát, nhiều loại có chân đế. Đồ gốm

thường được trang trí với các kỹ thuật tạo hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp thêm,

trổ lỗ, miết bóng, khảm bột trắng... Hoạ tiết hoa văn có xu hướng thiên về uốn

lượn, cong mềm mại... điển hình là hoạ tiết chữ S với nhiều biến thể khác

nhau. Điển hình của đồ gốm trang trí là các loại bát bồng, thố được khắc tạo,

in chấm, khảm chất bột trắng ở các họa tiết hoa văn khắc vạch in chấm, khắc

vạch in chấm chữ S hay chữ S biến thể hoặc các motip hoa văn hình học hay

“tráng men trắng″ trong lòng bình và thố.

Tại một số địa điểm, trong tổ hợp hiện vật gốm bên cạnh những loại

hình chung và phổ biến cho toàn bộ văn hóa, người ta vẫn có thể nhận thấy

những kiểu dáng và trang trí gốm riêng, độc đáo. Điều đó phản ánh những

quan hệ văn hóa đa chiều và tính đa dạng của văn hóa này [6, tr.112 ]. Cũng

cần lưu ý rằng đồ gốm Phùng Nguyên có một số loại hình và mô típ trang trí,

kỹ thuật trang trí giống những văn hoá Đại Hoa Thạch sơ kỳ, Vân Nam, Cảm

Đà Nham, Vân Nam, Đàm Thạch Sơn, Phúc Kiến và một số văn hoá ĐÁ MỚI

Đài Loan, Hồng Kông, nhưng cả tổ hợp gốm Phùng Nguyên lại cho thấy

những nét độc đáo, riêng biệt mà không văn hoá đá mới trung kỳ và hậu kỳ

nào ở Trung Quốc cung cấp được những chứng cứ cổ típ. Ngoài ra cũng cần

32

lưu ý, lôi văn và gốm ba chân đặc trưng cho gốm hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí

Trung Quốc hầu như không tìm thấy trong văn hoá Phùng Nguyên.

1.4. Kinh tế xã hội

1.4.1. Về đời sống kinh tế sản xuất

Các bộ lạc Phùng Nguyên là những cư dân nông nghiệp trồng lúa

nước.Trong lớp dưới của văn hóa Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) thuộc giai đoạn

Phùng Nguyên đã tìm thấy một số hạt gạo cháy. Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải

Phòng) cũng tìm được phấn hoa của loại lúa nước Oryza. Trong những địa

điểm cư trú khá rộng của người Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ học đã phát

hiện những bình vại gốm lớn, có thành dày, đường kính miệng rộng từ 70 -

80m. Đây được đoán định là những đồ đựng lương thực sau khi thu hoạch của

cư dân thời kì này.

Cùng với trồng trọt, cư dân Phùng Nguyên cũng biết đến chăn nuôi, chủ

yếu là các loài gia súc như chó, lợn, trâu, bò, gà... Ở một số di chỉ mộ táng

Phùng Nguyên, rất nhiều xương, răng chó, lợn, trâu, bò đã được tìm thấy. Tại

di chỉ xóm Rền (Phú Thọ), người ta phát hiện cả tượng đầu gà bằng đất nung.

Đó là bằng chứng cho thấy nghề chăn nuôi gia súc tại nơi cư trú đã được định

hình. Ngoài ra, các nghề như săn bắn, đánh cá vẫn tồn tại. Mặc dù không còn

chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống kinh tế thời kì này.

Các nghề thủ công của cư dân Phùng Nguyên khá phong phú.

Đồ gốm và nghề làm gốm là một tiêu chí quan trọng để các nhà nghiên

33

cứu xếp văn hoá Phùng Nguyên vào thời đại đồng thau. Bấy giờ, người Phùng

Nguyên đã đạt đến trình độ chế tác gốm khá tinh xảo về cả loại hình và hoa

văn trang trí. Tại các di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên, người ta đã phát hiện

thấy hàng trăm nghìn mảnh gốm vụn, không còn giữ nguyên hình dạng như

cũ. Ở di chỉ Gò Bông, trên một diện tích khai quật chưa đầy 200m2 đã có tới

hơn 4 vạn mảnh gốm được tìm thấy.

Gốm Phùng Nguyên có 3 loại chính: gốm mịn, gốm thô - xốp và gốm rất

thô. Hầu hết đồ gốm đều được làm từ đất sét có pha thêm cát, diệp thạch đá

vôi nghiền nhỏ, hay một số chất hữu cơ. Điều đó chứng tỏ những người thợ

gốm Phùng Nguyên đã biết tính đến những yếu tố đảm bảo cho đồ gốm có

tính dẻo, chịu lửa tốt. Về kĩ thuật, gốm Phùng Nguyên được chế tạo chủ yếu

bằng phương pháp bàn xoay (tay chân) kết hợp với nặn tay. Bằng kĩ thuật ấy,

cư dân Phùng Nguyên đã tạo ra nhiều loại hình đồ đựng và đồ đun nấu rất

phong phú; Về kiểu dáng, đồ đun nấu thì thường có đáy tròn, thân hình cầu,

miệng rộng, loe hay hơi khum; đồ đựng (gồm bát đĩa, bình, thố, vò…) hầu hết

đều được gắn chân đế, có loại đường kính miệng 5 - 10cm, có loại lớn hơn từ

30 đến 50 - 60cm.

Không chỉ phong phú về kiểu dáng, đồ gốm Phùng Nguyên còn rất đa

dạng về loại hình hoa văn trang trí (Hình 8). Trong văn hoá Phùng Nguyên, tỉ

lệ số mảnh gốm tìm được có trang trí hoa văn vặn thừng, văn chải chiếm số

lượng khá lớn. Tuy vậy, hoa văn đặc trưng cơ bản là khắc vạch kết hợp văn

34

đập, in lăn, chấm dải, in các loại với hoạ tiết phức tạp. Loại này chiếm tỉ lệ

không lớn, song thể hiện đỉnh cao về thẩm mỹ với một phong cách rất Phùng

Nguyên.

Mặc dù vậy, loại hình hoa văn trang trí trong đồ gốm Phùng Nguyên

cũng có sự biến thiên qua các giai đoạn. Ở giai đoạn sớm của văn hoá Phùng

Nguyên (tiêu biểu là các di chỉ Gò Bông, Gò Hện, Gò Đồng Chỗ...) đồ án

trang trí trên gốm thường là những đường nét phóng khoáng, tự do với những

hình chữ S rời nhau. Trên các nét vạch trang trí, người thợ gốm đã phủ thêm

một lớp bột trắng để làm cho các hình trang trí nổi lên trên nền đan tạo cho đồ

gốm vừa có vẻ đẹp trang trọng, vừa duyên dáng. Ở giai đoạn giữa của văn hóa

Phùng Nguyên (tiêu biểu là các di chỉ Phùng Nguyên, xóm Dền, An Đạo, Phú

Thọ), các đồ án trang trí trên gốm lại tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc đối

xứng với những đường cong uốn lượn phức tạp, những giải chữ S nối liền

nhau đệm giữa khoảng trống hai bên kia là những hình tam giác. Ở giai đoạn

cuối (tiêu biểu là di chỉ Lũng Hoà - Vĩnh Phúc), đồ gốm Phùng Nguyên

không còn được trang trí đẹp như giai đoạn trước nữa: các đồ án trang trí đối

xứng chặt chẽ như giai đoạn giữa mất đi, thay vào đó lại xuất hiện lối trang trí

bằng cái que nhiều răng, tạo thành trang trí nhiều đường chạy song song. Đây

là lối trang trí tiêu biểu cho đồ gốm văn hóa Đồng Đậu phát triển sau đó.

Bên cạnh nghề gốm, nghề làm đồ trang sức cũng khá phát triển. Số

lượng trên 4.000 di vật đá, phân loại thành 600 tiêu bản đá tìm được trong các

35

di chỉ Phùng Nguyên đã chứng tỏ nghề tạo đồ trang sức đã trở nên phổ biến

trong đời sống của cư dân bấy giờ. Sự hình thành và phát triển của những

cộng xưởng chế tác, như Bãi Tự, Tràng Kênh, Gò Chè chuyên sản xuất chế

tạo đồ trang sức cho thấy đây là một trong những nghề thủ công cũng chiếm

vị trí nhất định đối với người Phùng Nguyên.

Ngoài ra, các nghề thủ công như đan lát, xe chỉ, dệt vải cũng khá phát

triển trong đời sống kinh tế của người Phùng Nguyên. Việc phát hiện nhiều

dọi chỉ trong các di chỉ khảo cổ học là bằng chứng cho thấy cư dân Phùng

Nguyên đã biết xe chỉ, dệt vải. Mặt khác, họ cũng biết xe thừng, đan lát, lóng

đôi và lóng thúng rất đẹp. Điều này được minh chứng qua những dấu đan lát

và dấu dây in trên gốm của thời kì này.

Với nhiều loại hình gồm hạt chuỗi hình ống, vật đeo đầu thú (hình chữ

nhật, hình vuông, hình tròn, hình chữ T...), khuyên tai, nhẫn có mặt cắt hình

vuông, hình tròn, hình bán nguyệt...đều là sản phẩm chế tạo của những người

thợ thủ công tài hoa Phùng Nguyên.

1.4.2. Nông nghiệp

Dấu vết cư trú và xóm làng tụ cư của con người đã được khảo cổ học

phát hiện khá nhiều và liên tục từ văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Đồng Đậu

và văn hoá Gò Mun. Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước

phát triển và các ngành nghề thủ công, trong đó có nghề đúc đồng dần được

hình thành của thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên, cư dân sinh sống ở lưu vực

36

sông Hồng đã có bước phát triển mạnh mẽ ở các thời kỳ sau để chuẩn bị cho

sự ra đời của nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.

Văn hoá Phùng Nguyên mở đầu vào khoảng 4000 năm trước và kéo dài

trong khoảng 600-700 năm, được xem là giai đoạn văn hoá mở đầu cho quá

trình dựng nước của dân tộc Việt Nam. Trong nhiều di tích đã có những

chứng cứ về nông cụ bằng đá và những công cụ đá chế tác nông cụ gỗ tre nứa

cùng với môi trường sinh thái đã phần nào gợi mở những dấu ấn đầu tiên về

sự hình thành và phát triển của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thời kỳ văn

hoá Phùng Nguyên. Qua các tầng văn hoá với số lượng lớn rìu bôn mà các

cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy chứng tỏ thời bấy giờ cư dân đã có

một cuộc sống tương đối ổn định lâu dài để tiến hành sản xuất nông nghiệp.

Rìu bôn là công cụ tương đối phổ biến thời kỳ này dùng để chặt cây, khai

hoang diện tích trồng lúa và lương thực. Tại khu di tích Văn Điển đã khai

quật được 228 rìu bôn, ở Đồng Vông là 107 chiếc. Cũng theo kết quả khai

quật ở khu di tích Xuân Kiều với những dấu tích về những cục than có nhiều

hạt lúa bị cháy, hay những hình vỏ trấu trên những trạc gốm phát hiện ở di

tích Đồng Vông đã cho thấy cư dân văn hoá Phùng Nguyên đã phát triển nghề

trồng lúa nước tương đối phổ biến. Bên cạnh việc trồng lúa cư dân thời kỳ

này còn trồng cây ăn quả và lấy hạt. Trong một số kết quả khai quật khảo cổ

học đã tìm thấy các loại hạt như trám, mận, đỗ… Cùng với trồng trọt thì chăn

nuôi thời kỳ này cũng đã xuất hiện. Theo kết quả phân tích những xương răng

37

động vật thu được trong các di tích Văn Điển, Đồng Vông, Núi Xây… đều

cho thấy đây là những động vật do con người thuần dưỡng, và có những động

vật sống trong rừng và dưới nước, cùng với những tượng trâu bò, gà bằng đất

nung. Điều đó cho thấy thời kỳ này, những động vật như trâu, bò, gà đã là

những con vật gần gũi được nuôi dưỡng trong nhà. Qua đây có thể thấy thời

kỳ văn hoá Phùng Nguyên, ở châu thổ sông Hồng đã có một nền nông nghiệp

tổng hợp tương đối ổn định bao gồm trồng lúa nước, trồng cây ăn quả và chăn

nuôi… bên cạnh kinh tế khai thác tự nhiên.

1.4.3. Thủ công nghiệp

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, các ngành nghề thủ

công cũng đã dần được hình thành và có bước phát triển. Đó là nghề làm đồ

đá, đồ gốm và đặc biệt là nghề luyện đúc đồng. Nghề làm đồ đá đã có từ trước

đó nhưng đến thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên thì có bước phát triển vượt bậc.

Trong kết quả khảo cổ từ các địa điểm trên địa bàn Hà Nội có các bộ sưu tập

công cụ và đồ trang sức bằng đá mà đặc biệt là qua những lưỡi răng cưa, mũi

khoan, lõi vòng bằng đá, các loại bàn mài cũng như các phế phẩm có vết cưa,

khoan có thể thấy người thợ đá thời bấy giờ đã có những kỹ thuật tay nghề

cao và thành thạo. Ngoài những đồ trang sức bằng đá như vòng tay theo hình

các chữ cái và được làm công phu, mặt ngoài có ren hoặc được mài nhẵn

bóng, nhiều màu sắc và hình dáng... còn có nhiều công cụ sản xuất như rìu

bôn, đục, bàn dập, chì, lưới, mũi tên. Dù đã hình thành từ trước đó nhưng có

38

thể nói đến giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên thì đồ đá mới trở thành một

nghề thủ công đúng với ý nghĩa của nó.

Bên cạnh nghề đá, nghề làm gốm cũng đánh dấu một bước nhảy vọt

trong lịch sử phát triển của nghề gốm. Tuy chưa tìm thấy di chỉ về các lò nung

gốm nhưng qua những mảnh gốm vỡ và các đồ gốm tìm thấy còn nguyên vẹn

có thể thấy được kỹ thuật của nghề gốm thời kỳ này từ việc chọn nguyên liệu,

cho đến nghệ thuật trang trí. Đồ gốm Phùng Nguyên chủ yếu là gốm thô pha

cát, song cũng có một tỷ lệ nhất định gốm mịn mặt ngoài miết láng và một số

gốm xốp nhẹ. Mỗi loại nguyên liệu dược dùng để sản xuất một số loại hình

gốm nhất định và trang trí những loại hoa văn phù hợp. Hiện tượng này cho

thấy người thợ gốm ở đây đã nắm được kỹ thuật chọn lựa, sàng lọc, pha trộn

nguyên liệu để có thể làm ra những đồ gốm tốt nhất. Sự tiến bộ của đồ gốm

Phùng Nguyên thể hiện rõ nhất trong khâu tạo hình và trang trí hoa văn.

Người thợ gốm đã biết sử dụng bàn xoay để tạo hình nên đồ gốm có độ tròn

trặn, thành gốm mỏng đều. Bàn xoay cũng được sử dụng để trang trí hoa văn,

vạch những đường chỉ chìm chạy quanh. Với phương pháp bàn xoay, đồ gốm

thời kỳ này không những đẹp hơn, kiểu dáng phong phú hơn mà còn sản xuất

hàng loạt đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn. Có thể nói việc sử dụng bàn

xoay trong công nghệ làm gốm thời kỳ này là một thành tựu xuất sắc của cư

dân thời Phùng Nguyên.

Sáng tạo vĩ đại nhất của cư dân thời kỳ Phùng Nguyên chính là sự ra đời

39

của kỹ thuật đúc đồng. Dù các di chỉ khai quật thu được không có nhiều chỉ là

những cục xỉ đồng, nhưng khi phân tích kết quả thì đây là đồng thau chứ

không phải đồng đỏ. Điều này có thể khẳng định rằng kỹ thuật đúc đồng đã có

từ thời văn hoá Phùng Nguyên.

Ngoài những ngành nghề thủ công chính, thời kỳ này đã có một số nghề

phụ trong gia đình như làm đồ gỗ, dệt vải, đan lát…

Tóm lại, trong những lớp cư dân Phùng Nguyên đầu tiên đến khai phá

vùng đất Hà Nội đã có một nền kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau

trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nước và bước đầu biết đến kỹ thuật luyện

đồng. Đây chính là những cơ sở, nền tảng cho sự phát triển của giai đoạn tiếp

theo là văn hoá Đồng Đậu và Gò Mun.

+ Về kĩ thuật chế tác công cụ

Chiếm tỉ lệ chủ yếu trong công cụ sản xuất của cư dân văn hoá Phùng

Nguyên vẫn là đồ đá. Tuy nhiên, kĩ thuật chế tác đá của cư dân Phùng Nguyên

đã đạt đến đỉnh cao mà ở giai đoạn trước hay sau đó đều không vượt qua. Hầu

hết các loại công cụ và đồ trang sức bằng đá của người Phùng Nguyên đều

được mài nhẵn, có kích thước nhỏ nhắn, tinh tế, được chế tác từ các loại đá

quí hiếm, có độ rắn cao, màu sắc đẹp. Nếu ở giai đoạn hậu kì đá mới, con

người mới biết đến các loại hình kĩ thuật như ghè, đẽo, cưa, khoan, tiện đá...

thì đến văn hoá Phùng Nguyên, những kĩ thuật này đã trở nên phổ biến thành

thục đến độ tinh vi. Các thao tác kĩ thuật như tiện đá, khoan lỗ và khoan tách

40

lõi đã giúp người Phùng Nguyên tạo ra các loại hình công cụ có hình dáng

chính xác và tiết kiệm được nguyên liệu.

Chiếm đa số trong các loại hình công cụ đá Phùng Nguyên là các loại rìu

bôn có thiết diện hình tứ giác. Người ta đã tìm thấy số lượng lớn các bôn đá

hình tứ giác có lưỡi vát lệch một bên ở các di chỉ Phùng Nguyên. Ngay tại

một di chỉ như Gò Bông (Phú Thọ), các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 44 chiếc

bôn đá. Phần lớn trong số bôn đá tìm được có kích thước nhỏ, mỏng, dài trung

bình từ 1,8 - 2,5cm, rộng 1,5 - 2cm, dày 0,1 - 0,5cm, lưỡi tạo góc 30 - 400,

nhiều chiếc dài bằng chiều rộng.

Bện cạnh là các loại rìu đá hình tứ giác có kích thước nhỏ, góc lưỡi sắc

(40 - 500). Đặc biệt, người ta cũng bắt gặp trong các địa điểm văn hóa Phùng

Nguyên loại rìu đá được chế tác bằng ngọc Nephrit có màu trắng đục, trắng

vân hồng hay vân xanh. Loại rìu này kích thước rất nhỏ (dài trung bình 3cm,

rộng gần 2 cm, dày 0,5 cm), có loại còn bé hơn, giống như đồ trang sức của

con người. Đó là sản phẩm của đôi bàn tay chế tác đá tài hoa của người Phùng

Nguyên bấy giờ.

Ngoài bôn và rìu đá, trong các di chỉ Phùng Nguyên còn tìm thấy nhiều

loại hình công cụ khác, như đục đá, cuốc đá, dao đá, liềm đá, cưa đá, mũi

khoan đá, mũi lao, mũi giáo, mũi tên đá 2 - 3 cạnh… Những hiện vật này đều

được làm ra trong một số công xưởng chế tác đá ở Tràng Kênh, Bãi Tự, Gò

Chè...

41

Trong một số di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên, người ta còn tìm được

những cục đồng nhỏ, gỉ đồng và xỉ đồng. Tại di chỉ Gò Bông, bên cạnh những

cục đồng còn tìm thấy xỉ đồng và gỉ đồng ở độ sâu 1,3m. Ở một số địa điểm

khác như gò Đồng Xâu, Lũng Hoà, chùa Gio cũng tìm thấy gỉ đồng và mảnh

khuôn đúc đồng bằng đất nung. Bằng phương pháp phân tích quang phổ

những cục đồng tìm thấy được ở Gò Bông, người ta cho rằng đây là hợp kim

đồng thau (gồm đồng, thiếc và một số vết bạc) chứ không phải là dạng đồng

đỏ ban đầu.

Việc phát hiện xỉ đồng, gỉ đồng, khuôn đúc đồng bằng đất nung là bằng

chứng cho phép chúng ta xác định về sự ra đời của nghề luyện kim đồng thau

ở Việt Nam trong giai đoạn phôi thai.

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa tìm thấy được những đồ đồng nguyên

vẹn trong các di chỉ Phùng Nguyên. Việc không có những hiện vật bằng đồng

được định hình cho thấy đồ đồng thời bấy giờ còn chiếm tỉ lệ rất ít. Không thể

phủ nhận rằng, mặc dù chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên đã bước vào thời

đại kim khí nhưng đồ đồng vẫn chưa lấn át được công cụ bằng đá. Đồ đá vẫn

chiếm tỉ lệ chủ yếu (92%) và là công cụ chủ đạo trong đời sống sản xuất -

kinh tế của người Phùng Nguyên.

1.5. Kiến trúc thƣợng tầng

Quan điểm thẩm mỹ của cư dân Phùng Nguyên đã khá phát triển. Điều

đó thể hiện trong kỹ thuật chế tác đồ trang sức, đồ đá và đồ gốm của họ.

42

Trong bộ sưu tập đồ trang sức, có thể bắt gặp những vòng trang trí, những

chuỗi hạt bằng đá Nephrit màu xanh men hay ngọc, hay màu trắng ngà nhỏ

nhắn, được khoan tiện tinh vi, tinh xảo.

Trong nguyên liệu đồ đá, cũng tìm thấy những chiếc rìu được mài nhẵn

bóng và có trang trí những đường khắc chìm trông giống như một loại đồ

trang sức hay đồ chơi.

Đặc biệt là trên đồ gốm, sự hài hòa, cân đối trong cách bố trí các đồ án hoa

văn đã tạo nên sự nhịp nhàng, mềm mại, thanh thoát mà không đơn điệu trong

phong cách gốm Phùng Nguyên.

Tất cả những dấu hiệu ấy đã chứng minh rõ ràng cho cảm xúc về cái đẹp

của người Phùng Nguyên. Sự phát triển của quan điểm thẩm mỹ có lẽ cũng

gắn liền với sự phát triển của tư duy khoa học. Qua các lỗ khoan chính xác

trên các công cụ bằng đá cắt nhỏ; qua sự bố trí của các họa tiết trên gốm theo

quy tắc đối xứng khác nhau (đối xứng trục quay, đối xướng gương) và số lần

lặp lại của các họa tiết phức tạp (thường là 6 hoặc 3) đã cho phép chúng ta

đoán định về sự suy nghĩ, tính toán có chủ đích, theo một lối tư duy hình học

nhất định của người Phùng Nguyên.

Trong táng thức, cũng giống như các giai đoạn trước, cư dân Phùng

Nguyên chôn người chết theo tư thế nằm ngửa ở những huyệt nông, trong mộ

có chôn theo công cụ bằng đá, đồ gốm, đồ trang sức (khuyên tai, hạt chuỗi).

Hai ngôi mộ tìm thấy ở đây đều quay về hướng Đông. Ở khu mộ táng Lũng

43

Hòa (Vĩnh Phúc), người chết lại được chôn trong những ngôi mộ nằm rất sâu

(có khi tới 5,2m). Chôn theo người chết là rất nhiều công cụ bằng đá (như rìu,

đục, bàn mài…), đồ trang sức bằng đá (như vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi),

đồ gốm (như nồi, bình, bát, dọi xe chỉ) và cả một số xương hàm lợn. Hầu hết,

các ngôi mộ ở Lũng Hòa được đặt quay đầu về hướng Đông. Có thể hoạt

động này gắn liền với tín ngưỡng sùng bái mặt trời – một biểu hiện thường

gặp ở các bộ lạc nông nghiệp.

Về tổ chức xã hội, các bộ lạc Phùng Nguyên về cơ bản vẫn chưa vượt

qua được khỏi phạm trù của xã hội công xã Nguyên thủy. Điều này là hiển

nhiên khi đồ đá còn phổ biến và chiếm ưu thế, chưa cho phép tạo ra một sự

chuyển biến có tính chất bước ngoặt về chất trong đời sống kinh tế của con

người thời kỳ này. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nghề luyện kim là một dấu

hiệu giúp ta có thể nghĩ rằng, người đàn ông trong các bộ lạc Phùng Nguyên

đã bắt đầu chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất. Có thể nói rằng, các bộ lạc

Phùng Nguyên cách đây 4.000 năm vẫn sống trong xã hội nguyên thủy, nhưng

đó là xã hội “đang có chuyển biến mạnh mẽ, đang vươn lên để tự phủ định

mình, một xã hội đã có đầy đủ những tiền đề để bước sang một hình thái mới

cao hơn – xã hội có phân hóa giai cấp và nhà nước sơ khai”.

Tóm lại, văn hoá Phùng Nguyên được coi là mốc bản lề đánh dấu sự

chuyển biến lớn lao từ thời kì đá mới sang thời đại kim khí. Những chuyển

biến không nhỏ trong đời sống kinh tế - xã hội Phùng Nguyên đã dọn đường

44

cho thời đại kim khí ngày càng phát triền về sau qua các giai đoạn Đồng Đậu,

Gò Mun, Đông Sơn. Điều đó chứng tỏ rằng, cư dân các bộ lạc Phùng Nguyên

là một trong những cái nôi đầu tiên của dân tộc Việt và văn hoá Phùng

45

Nguyên là cội nguồn bản địa của văn minh sông Hồng.

Chƣơng 2: VĂN HÓA TAM TINH ĐÔI (TỨ XUYÊN)

2.1. Môi trƣờng sinh thái

2.1.1. Điều kiện địa lý

Tứ Xuyên nằm ở phía Tây của nền văn minh sông Trường Giang và nền

văn minh sông Hoàng Hà, cũng là khu văn hóa và khu kinh tế quan trọng của

thượng du sông Trường Giang. Phía Tây Tứ Xuyên giáp với Cao nguyên

Thanh Tạng, phía Đông gắn với Đồng bằng Giang Hán, phía Nam giáp với

Cao nguyên Vân Qúy, phía Bắc là núi Tần Lĩnh. Xung quanh Tứ Xuyên toàn

là núi cao liên miên, đồng bằng Thành Đô nằm ở giữa, địa thế của Tứ Xuyên

Tây Bắc cao, Đông Nam thấp (Hình 9). Sông Kim Sa, sông Nhã Long, sông

Đại Độ, sông Mân Giang, sông Gia Lâm...v.v chảy qua vùng này. Những sông

lớn này là con đường quan trọng đối với các dân tộc thời cổ Tứ Xuyên để giao

lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài. Với môi trường địa lý riêng biệt, văn hóa

thời cổ Tứ Xuyên vừa mang đặc điểm bản thân, vừa vẹn toàn một số yêu tố

văn hóa của vùng sông Hoàng Hà và hạ du của sông Trường Giang.

Di chỉ Tam Tinh Đôi, Quảng Hán, nằm ở Đồng bằng Thành Đô, vị trí

trung tâm của Bồn địa Tứ Xuyên (Hình 10). Vùng này địa thế bằng phẳng, đất

đai phì nhiêu, có điều kiện thuận lợi cho dẫn nước tưới ruộng, khí hậu ôn hòa

ẩm ướt, từ xưa đến nay đều là một vùng có điều kiện thuận lợi để phát triển

46

nông nghiệp.

2.1.2. Điều kiện khí hậu

Khí hậu của đồng bằng Thành Đô thuộc gió mùa Á nhiệt đới, khí hậu ẩm

ướt suốt năm, lượng mưa mỗi năm thường trên 1000 mm. Tháng một mùa

đông có nhiệt độ trung bình từ 3°C đến 8°C. Mùa Đông không quá lạnh, mùa

hè nóng nực, nhiệt độ trung bình của mỗi năm khoảng 16.3°C, bốn mùa rõ

ràng. Từ xưa đến nay đều là khu nông nghiệp nổi tiếng.

Gần mấy nghìn năm nay, đặc điểm của địa hình bồn địa, khí hậu Tứ

Xuyên không có sự thay đổi lớn, theo dấu tích cây tre đã khô được khai quật

trong di chỉ Tam Tinh Đôi và bào tử phấn hoa của di tích Phố Chỉ Huy (thuộc

Thành Đô) có thể thấy rằng lúc đó, cây cối của đồng bằng Thành Đô chủ yếu

là cây lá to, thích hợp với môi trường khí hậu ẩm ấm. Khí hậu ôn hòa, nguồn

nước phong phú, đã cung cấp cho cư dân thời cổ điều kiện thuận lợi để phát

triển nông nghiệp, định cư lâu dài.

2.2. Khái quát về di chỉ Tam Tinh Đôi

2.2.1. Di chỉ Tam Tinh Đôi

Di chỉ Tam Tinh Đôi nằm ở thôn Tam Tinh, trấn Nam Hưng, cách thành

phố Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên khoảng 10 km, là một di chỉ lớn (Hình 11).

Từ năm 1929, nhà khảo cổ học phát hiện di chỉ này đến nay [15, tr. 24] , di

chỉ Tam Tinh Đôi đã được điều tra nghiên cứu và khai quật nhiều lần, với quy

mô lớn [19, tr. 227].

47

Diện tích phân bố của di chỉ Tam Tinh Đôi rộng đến hơn 12 km2. Ông

Trương Tú Thục từng nói rằng, “ Lịch sử Tiên Tần của Tứ Xuyên phải nhờ

việc khảo cổ để viết ra.” Vì cư dân cổ của Tứ Xuyên chưa có chữ viết của

mình, nhiều thông tin về Tứ Xuyên thời Tiên Tần cũng chỉ là câu chuyện

trong thần thoại. Với diện tích rộng lớn như thế, di chỉ Tam Tinh Đôi đã đóng

vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc nghiên cứu văn hóa khảo cổ học trước

thời kỳ nhà Tần của vùng Tứ Xuyên.

Đặc biệt là sau khi khai quật hai hố làm lễ tế rất quy mô vào năm 1986,

hơn 1000 văn vật có giá trị lớn đã xuất lộ. Cùng với việc khai quật ra hàng

loạt văn vật quý hiếm tinh xảo và mang tính chất thần bí, những điều bí ẩn

của lịch sử cũng lần lượt xuất hiện, đã thu hút nhiều học giả nghiên cứu di chỉ

và văn hóa này.

Từ năm 1980 đến nay, các đơn vị khảo cổ của tỉnh Tứ Xuyên đã tổ chức

nhiều cuộc khai quật, rất nhiều luận văn và tác phẩm học thuật được phát

hành và xuất bản. Trong đó các học giả tập trung nghiên cứu về các lần khai

quật: Khu vực III của di chỉ Tam Tinh Đôi được khai quật vào năm 1980 -

1981; Khu vực I của di chỉ Tam Tinh Đôi được khai quật vào năm 1982; Tây

Tuyền Khảm được khai quật vào năm 1984; Khu vực I, II, III của di chỉ Tam

Tinh Đôi được khai quật vào năm 1986; cùng với Nguyệt Lượng Loan, được

khai quật vào năm 1963, tất cả có 5 giai đoạn nghiên cứu [22, tr.13]. Tổng

hợp lại những tài liệu kể trên, tuy vẫn có nhiều tranh luận và chưa đạt được ý

48

kiến nhất trí cao, thông qua phân tích của các nhà khảo cổ học, chúng ta biết

rằng, trong di chỉ Tam Tinh Đôi có di tồn của ba nền văn hóa phát triển liên

tục, với những đặc trưng riêng biệt, đó là là văn hóa Bảo Tôn, văn hóa Tam

Tinh Đôi và văn hóa Thập Nhị Kiều. Trong đó, văn hóa Tam Tinh Đôi là văn

hóa chủ thể của di chỉ Tam Tinh Đôi [21, tr.13].

Trong luận văn của Cao Đại Luân, Quách Minh [14, tr.82], tác giả đã

tóm tắt lại các di tồn quan trọng trong di chỉ Tam Tinh Đôi.

- Văn hóa Bảo Tôn:

+ Giai đoạn I của di chỉ Tam Tinh Đôi

+ Niên đại tuyệt đối: 4800~4100BP

+ Niên đại tương đối: cuối thời kỳ thời đại đồ đá mới

+ Diện tích phân bố: 5 km2

+ Những di tồn quan trọng: Nền đất đầm chặt Thanh Quan Sơn (với

diện tích hơn 500 m2), kiến trúc cỡ lớn kiểu cột lỗ (loại hình kiến trúc này chỉ

được phát hiện tại cổ thành Bão Đôn, cổ thành Huyện Bì, nhưng cả hai đều

không có dấu tích nền đất đầm chặt nhân tạo cỡ lớn), Nghĩa trang Nhân

Thắng (một số đồ ngọc và ngà voi).

- Văn hóa Tam Tinh Đôi:

+ Giai đoạn II và giai đoạn III của di chỉ Tam Tinh Đôi

+ Niên đại tuyệt đối: 4100~3200BP

+ Niên đại tương đối: thời kỳ văn hóa Nhị Lý Đầu đến thời kỳ nhà Thương.

49

+ Diện tích phân bố: 3.5 km2

+ Những di tồn quan trọng: thành Nguyệt Lượng Loan (tường thành,

với diện tích 3 km2, chu vi khoảng 7000m), hố làm lễ tế, hố khảo cổ Nguyệt

Lượng Loan (các đồ ngọc)

- Văn hóa Thập Nhị Kiều

+ Giai đoạn VI của di chỉ Tam Tinh Đôi

+ Niên đại tuyệt dối: 3200~2600BP

+ Niên đại tương đối: Thời kỳ Tây Chu

+ Diện tích phân bố: 3.5 km2

+ Những di tồn quan trọng: Hố làm lễ tế 1 và 2 của Tam Tinh Đôi,

tường thành

Tóm lại, những phát hiện của khảo cổ học về Tam Tinh Đôi đã phản ánh

ra diện mạo lịch sử thời kỳ sớm của vùng Tứ Xuyên, đó là: cách đây khoảng

4800 năm, trong bồn địa đã hình thành một cộng đồng văn hóa đặc sắc, tức là

văn hóa Thục, giai đoạn thứ nhất thuộc thời kỳ muộn của xã hội nguyên thủy,

cách đây khoảng 4800 - 4100 năm trước, kinh tế xã hội dần dần phát triển;

cách đây khoảng 4100 năm, vùng này đã hình thành và xuất hiện văn hóa Tam

Tinh Đôi điển hình, cư dân của Tam Tinh Đôi đã xây dựng thành cổ, chính

quyền nhà nước sơ khai có lẽ đã xuất hiện; Cách đây khoảng 3200 năm trước,

văn hóa Tam Tinh Đôi đạt được đỉnh cao. Sau đó, cư dân Tam Tinh Đôi đã

tiếp thu một số yếu tố văn hóa mới, dần dần phát triển và thay đổi; cách đây

50

khoảng 2600 năm, thành cổ của Tam Tinh Đôi bị vứt bỏ đột nhiên, lịch sử Tứ

Xuyên đã có một cuộc biến cách khá lớn, trung tâm của nước Thục đã chuyển

sang Thành Đô, một giai đoạn phát triển mới đã bắt đầu [23, tr.7].

Sự phát hiện và khai quật của di chỉ Tam Tinh Đôi mang giá trị sử học

quan trọng. Thứ nhất, khiến các học giả có một nhận thức mới đối với văn

hóa Ba Thục (nước Ba và nước Thục, là hai nhà nước cổ xưa của vùng Tứ

Xuyên ngày xưa). Sự phát hiện của di chỉ Tam Tinh Đôi đã là một thách thức

rất lớn đối với học giới sử học, cũng đã thay đổi nhiều nhận thức đối với lịch

sử cổ Tứ Xuyên. Ví dụ, trước đây, giới nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho

rằng, vùng Ba Thục là một vùng tương đối khép kín, và ít có sự giao lưu với

văn hóa bên ngoài, không có hoặc có rất ít sự giao lưu với văn minh Trung

Nguyên và các nền văn hóa khác. Sự phát hiện của di chỉ Tam Tinh Đôi cũng

đã thay đổi nhận thức về vấn đề văn minh Hoa Hạ bắt nguồn từ đâu, chỉ bắt

nguồn từ văn hóa Trung Nguyên hay là có nguồn gốc đa dạng. Những phát

hiện và khai quật của di chỉ Tam Tinh Đôi chứng minh rằng, đây là một trung

tâm văn hóa đồng đại với văn hóa Trung Nguyên thời kỳ nhà Hạ, nhà

Thương, thậm chí còn sớm hơn.

Sự phát hiện và khai quật của di chỉ Tam Tinh Đôi cũng đã nghiệm

chứng tính chân thật của những văn hiến ghi về nhà nước cổ đại Thục.

2.2.2. Tầng văn hóa và niên đại

Tầng văn hóa của di chỉ Tam Tinh Đôi phân bố dày mỏng không đều, có

51

chỗ dày, có chỗ mỏng (cụ thể xem hình 17). Phía Đông Bắc của vùng khai

quật tuy có nhiều đồ đá và tàn dư của đồ gốm, nhưng trong quá trình nông

dân làm ruộng, tầng văn hóa của khu vực này đã bị phá hủy. Phía Tây Nam

của khu vực khai quật có tầng văn hóa rất dày, chỗ dày nhất sâu đến 2m, vì

vậy, đại đa số di vật được khai quật và phát hiện tại đây. Đây là một di chỉ cao

ở phía Đông Bắc, thấp ở phía Tây Nam.

Năm 1933, trong khi khai quật vùng Nguyệt Lượng Loan lần thứ nhất,

đã có học giả cho rằng di chỉ Tam Tinh Đôi không chỉ tồn tại một giai đoạn

văn hóa. Sau đó, năm 1963, học giả của Trường Đại học Tứ Xuyên đã luận

chứng quan điểm này. Năm 1980 và năm 1981, các nhà khảo cổ chia tầng văn

hóa trong di chỉ Tam Tinh Đôi thành tám tầng, trừ tầng trên mặt (tầng 1), tầng

xen kẽ (tầng 5 và tầng 7), tầng 6 và tầng 8 được coi là văn hóa giai đoạn I,

tầng 3 và tầng 4 được coi là văn hóa giai đoạn II, tầng 2 là văn hóa giai đoạn

III. Năm 1982, trong cuộc khai quật lần thứ 2, các nhà khảo cổ học đề xuất di

chỉ Tam Tinh Đôi có văn hóa giai đoạn VI.

2.2.3. Loại hình di tích

Trong báo cáo kết quả khảo cổ của lần khai quật năm 1987, các nhà khảo

cổ học thông báo rằng đã phát hiện ra 3 hố hố tro, 4 mộ táng, 18 di tích nền

nhà và nhiều chỗ có dấu vết của nền đất cháy.

- Di chỉ cư trú: Tuyệt đa số di tích nền nhà được khai quật ở chỗ mang

địa thế cao của khu vực Đông Bắc di chỉ. Các di tích nền nhà đều là kiến trúc

52

kết cấu gỗ, chủ yếu là hình vuông và hình chữ nhật, chỉ có 2 chỗ là hình tròn.

Diện tích 10 - 25 m2. Hướng của nhà cửa không đồng nhất. Đến năm 2014, đã

phát quật ra hơn 40 chỗ di chỉ cư trú. Điều này cho rằng vùng này đã có nhiều

cư dân sinh sống (cụ thể xem hình 18).

- Di tích nền đất cháy: nền đất cháy được phát hiện tại văn hóa giai đoạn

II và giai đoạn III. Trong đó có rất ít răng thú, gốm vỡ và mảnh tre.

- Di tích bếp lửa: sự phân bố của 3 hố tro không có quy luật, cũng không

quy chỉnh. Trong đó đã phát hiện ra một số gốm vỡ và tre vỡ, than củi.

- Di tích mộ táng: trong 4 mộ táng được khai quật, có 3 mộ trẻ em, 1 mộ

của phụ nữ trưởng thành, đều chưa tìm thấy đồ vật chôn theo.

- Di tích tường thành (Hình 14): trong di chỉ Tam Tinh Đôi đã phát hiện

di tích tường thành, tổng cộng có 3 miền tường thành, chiều rộng khoảng

20m, chiều cao khoảng 2-5m. Phía Bắc lấy sông Áp Tử làm bức bình phong

thiên niên, phía Đông, Nam và phía Tây là tường thành nhân tạo, đã hình

thành một kiến trức phòng ngự khá là hoàn chỉnh.

2.3. Đặc điểm của văn hóa Tam Tinh Đôi

2.3.1. Tên gọi của văn hóa

Như những nội dung đã kể trên, văn hóa Tam Tinh Đôi là văn hóa chủ

thể của quần thể di chỉ Tam Tinh Đôi. Song, trên đồng bằng Thành Đô còn có

khoảng hơn mười di chỉ khác cũng thuộc về hệ thống văn hóa Tam Tinh Đôi.

Đây là một nền văn hóa cổ có phạm vi phân bố rộng, có đặc trưng văn hóa

53

riêng biệt và khác với các văn hóa khảo cổ khác, đã có điều kiện đầy đủ để đặt

tên cho mình [24, tr.70]. Tuy di chỉ Tam Tinh Đôi nổi tiếng vì mặt nạ đồng

thau, cây thần đồng thau và những đồ đồng nghi lễ tinh xảo, nhưng không phù

hợp với niên đại của văn hóa Tam Tinh Đôi, cho nên trong bài văn này sẽ

không đề cập nữa.

Theo thông lệ khảo cổ học, các nhà khảo cổ học lấy tên của di chỉ điển hình

và địa điểm phát hiện văn hóa lần đầu tiên đặt tên cho văn hóa này, đấy chính

là văn hóa Tam Tinh Đôi.

2.3.2. Phân bố

Văn hóa Tam Tinh Đôi là một nền văn hóa thuộc giai đoạn sớm của thời

đại đồng thau và di chỉ Tam Tinh Đôi, thành phố Quảng Hán là di chỉ tiêu

biểu nhất của văn hóa này. Đồng thời, trên phạm vi đồng bằng Thành Đô đã

phát hiện nhiều di chỉ có văn vật mang đặc trưng giống với văn hóa Tam Tinh

Đôi. Cách đây khoảng 4800 năm, ở Nghi Tân, Hán Nguyên (tỉnh Tứ Xuyên),

Xích Thủy (tỉnh Qúy Châu) đều có sự tồn tại của yếu tố văn hóa này.

Trong khu vực lớn rộng này, vị trí trung tâm của di chỉ Tam Tinh Đôi

không cần tranh luận nữa, chúng ta có lý do suy đoán rằng các nền văn hóa kể

trên ít nhiều cũng chịu sự ảnh hưởng của văn hoá Tam Tinh Đôi. Thời kỳ nhà

Hạ, nhà Thương và đầu thời kỳ Tây Chu, văn hóa Tam Tinh Đôi đạt được

đỉnh cao phát triển, vì vậy, phạm vi sự phát xạ văn hóa cũng rất rộng lớn.

Đông đến Tây Lâm Hiệp, bắc tới thành phố Hán Trung, Bửu Kê, nam đến

54

thành phố Hán Nguyên, Nghi Tâm, Thổ Thành. Một số di vật như nha

chương, bát bồng,...v.v. của văn hóa Phùng Nguyên, Việt Nam, nhà khảo cổ

học cũng đã phát hiện ra một số yếu tố văn hóa giống với văn hóa Tam Tinh

Đôi. Chúng ta có thể thấy, đây là một văn hóa có sức lan tỏa khá là rộng lớn.

2.3.3. Đặc trưng văn hóa

Sự phát hiện và khai quật của di chỉ Tam Tinh Đôi đã cung cấp nhiều tư

liệu quý hiếm cho việc nghiên cứu văn hóa cổ Thục. Tuy tư liệu và di vật số

lượng có hạn, nhưng có ý nghĩa trọng đại.

- Công cụ sản xuất của văn hóa Tam Tinh Đôi chủ yếu là đồ đá mài nhỏ,

trong đó có rìu, cái đục, dọi se sợi. Nhiều nhất được chế tạo bằng đá phiến,

nham thạch, slate, cũng có một số công cụ đồ đá được chế tạo bằng thạch anh,

đá hoa cương. Rất nhiều đồ đá có công nghệ chế tạo tinh xảo.

- Đồ gốm chủ yếu là đồ gốm thô. Nhiều đồ gốm được làm bằng tay, một

số làm bằng bàn xoay. Loại hình đồ vật chủ yếu có 3 loại: bát bồng, đồ gốm

có đế nhỏ và cái gáo có tạo hình đầu con chim. Trừ đồ dùng để hâm nóng

rượu, thì ở phạm vi di chỉ chưa tìm được những đồ vật có ba chân khác như

vạc. Hoa văn đa số là văn thừng trên chất liệu gốm pha cát, bên cạnh đó còn

có những loại hoa văn khắc vạch rất tinh xảo như hoa văn hình chữ S, hoa văn

hình tròn, hoa văn vân lôi (Hình 26).

- Di tích kiến trúc đều là kiến trúc có kết cấu gỗ trên mặt đất. Di chỉ nền

nhà của văn hóa Kỳ II đều là những nền phăng có hình chữ nhật (Hình 16).

55

- Văn hóa phân bố và mối quan hệ với văn hóa khác. Một trong những

đặc điểm tiêu biểu nhất của nền văn hóa này là có nhiều đồ vật như bát bồng,

cái gáo có tạo hình đầu con chim, đồ gốm có đế nhỏ, có phạm vi phân bố khá

rộng, riêng ở tỉnh Tứ Xuyên, như Thành Đô, Nhã An, Hán Nguyên và Lãng

Trung đều đã có những phát hiện về loại hình di vật này (Hình 25).

2.3.4. Một số tranh luận về văn hóa Tam Tinh Đôi

Trong giới nghiên cứu, nhiều học giả vẫn đang tranh luận về mối quan

hệ giữa khái niệm văn hóa Tam Tinh Đôi và văn hóa nước Thục thời cổ, văn

hóa Tam Tinh Đôi và di chỉ Tam Tinh Đôi. Về vấn đề xác định niên đại của di

chỉ Tam Tinh Đôi giai đoạn VI (văn hóa Thập Nhị Kiều đã kể trên), đặc biệt là

đối với hai hố làm lễ tế, còn có nhiều tranh luận chưa được giải quyết.

Cũng vì có một số văn vật được khai quật tại hố làm lễ tế mang đặc

trưng giống với một số văn vật Phùng Nguyên như nha chương, và vì di chỉ

Tam Tinh Đôi đã thể hiện mấy nền văn hóa phát triển liên tục trên địa bàn

đồng bằng Thành Đô, cho nên trong luận văn này chủ yếu để so sánh đối

chiếu văn hóa Tam Tinh Đôi với văn hóa Phùng Nguyên, nhưng cụ thể đến

một số văn vật như nha chương, bát bồng, tôi sẽ tham khảo niên đại cụ thể

của văn vật này và không hạn chế vị trí khai quật và nơi phát hiện.

2.4. Kinh tế xã hội

Văn vật là di tồn của quá khứ, đã bao gồm nhiều thông tin của lịch sử như

niên đại, quan hệ xã hội, cuộc sống cư dân và tình hình sản xuất, còn có thể

56

phản ánh khoa học kỹ thuật, sức sản xuất và phong tục tập quán, tôn giáo tín

ngưỡng, hình thái ý thức của thời đại đó. Tóm lại, văn vật có thể phản ánh chế

độ chính trị, kinh tế xã hội, tình hình lịch sử của mối quan hệ dân tộc và sự

giao lưu văn hóa.

Di chỉ Tam Tinh Đôi đã cung cấp cho chúng tôi tư liệu phong phú để

nghiên cứu về tình hình phát triển của nông nghiệp, chăn nuôi, săn bắn và thủ

công nghiệp.

2.4.1. Nông nghiệp

Như điều kiện khí hậu của đồng bằng Thanh Đô đã kể trên, vùng này có

điều kiện tự nhiên tốt lành để phát triển nông nghiệp, sớm nhất đến giai đoạn

của thời đại đồ đá đã có nhân loại sinh sống tại đây [23, tr. 10]. Di chỉ Tam

Tinh Đôi là một di chỉ thành phố khá lớn, tuy chưa có nhiều công cụ sản xuất

được khai quật, nhưng từ những thông tin của nhiều văn vật, chúng ta hoàn

toàn có thể phân tích và nghiên cứu tình hình phát triển nông nghiệp của thời

kỳ đó.

Công cụ sản xuất: nhà khảo cổ học đã khai quật nhiều công cụ đồ đá

trong di chỉ Tam Tinh Đôi như rìu đá, dao đá, mâu đá, đục đá, dùi đá, chày đá,

đá mài, v.v, trong hố làm lễ tế cũng đã phát hiện đồ ngọc và đồ đá có dáng

cuốc. Tính chất đá nhiều là đá phiến, nham thạch, cũng có một số đá hoa cương

và đá thạch anh. Cách chế tạo chủ yếu là mài, có dấu vết được mài xoay, có

vòng đá đá lớn đến đường kính 60-70 cm, cũng có vòng đá nhỏ với đường kính

57

mấy cm, tạo hình quy chỉnh, được chế tạo gia công tinh xảo. Từ thu thập vật

liệu đá, đến gia công, cư dân Tam Tinh Đôi đã nắm chắc kỹ thuật gia công

phức tạp.

Đồ uống rượu (Hình 20): Trong di chỉ Tam Tinh Đôi cũng đã phát hiện

nhiều đồ uống rượu. Trong đó có đồ uống rượu bằng gốm, cũng có đồ uống

rượu bằng đồng. Không chỉ có nhiều loại hình, mà còn nhiều số lượng, từ cất

giữ đến uống rượu. Điểm này cho rằng, lúc đó phong tục uống rượu rất thịnh

hành. Đồng thời, sản xuất rượu cần phải có lương thực đầy đủ, nếu không có

nông nghiệp phát triển để cung cấp lương thực, thì rất khó để sản xuất rượu.

2.4.2. Thủ công nghiệp

Trong quá trình khai quật hố làm lễ tế số 1, nhà khảo cổ học đã phát hiện

một tầng vụn xương, phía Tây Nam dày đến 60-80cm, phía Đông Bắc chỉ dày

đến 5cm, khoảng 3m3. Theo quan sát, những dư tồn này thuộc động vật lớn,

nhà khảo cổ học suy đoán đây là một số động vật để làm đồ cúng tế. Một cuộc

lễ cúng thì sử dụng nhiều thú săn hoặc gia súc, gia cầm, nếu không có chăn

nuôi phát triển thì rất khó làm được. Trong hố cũng đã phát hiện nhiều ngà

voi, nếu không có nguồn gốc đầy đủ và lượng dự trữ đầy đủ, cũng không có

khả năng để sử dụng nhiều ngà voi trong một cuộc lễ cúng. Nếu muốn giành

được ngà voi, chỉ có thể thông qua đổi hàng, săn bắn hoặc chăn nuôi mới thực

hiện được.

Trong di chỉ cũng đã phát hiện rất nhiều răng hươu, lợn và một số đồ

58

xương khác. Đồng thời cũng đã phát hiện ra nhiều tượng gốm nặn, tượng đá

và hoa văn trang sức có tạo hình con hổ, con voi, con trâu, con lợn, con dê và

con cá, con ếch, v.v... nếu không có sự tiếp xúc dài hạn và quan sát tỉ mỉ, sẽ

khó lấy được hiệu quả nghệ thuật cao đến mức độ này, đây cũng đã phản ánh

trình độ phát triển của nghề chăn nuôi lúc đó.

2.5. Kiến trúc thƣợng tầng

2.5.1. Kết cấu tổ chức xã hội

Sự xuất hiện của thành phố đánh dấu nhân loại đã từ xã hội dã man bước

vào xã hội văn minh, đây cũng là một cột mốc về sự đối lập giữa giai cấp

khác nhau. (Hình 15) Theo kết quả điều tra của năm 1984, trong di chỉ Tam

Tinh Đôi đã phát hiện di tích tường thành, tổng cộng có 3 miền tường thành,

chiều rộng khoảng 20m, chiều cao khoảng 2-5m. Phía Bắc lấy sông Áp Tử

làm bức bình phong thiên niên, phía Đông, Nam và phía Tây là tường thành

nhân tạo, đã hình thành một kiến trức phòng ngự khá là hoàn chỉnh. Xây dựng

công trình phòng ngự trên cơ sở môi trường thiên nhiên phù hợp với các

nguyên tắc xây dựng thành phố thời kỳ sớm.

Năm 1980, 18 di chỉ kiến trúc đã được phát hiện. Năm 1986 lại phát hiện

ra nhiều di chỉ cư trú. Những di tích kiến trúc này toàn là kiến trúc có kết cấu

gỗ trên mặt đất, có hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật bốn loại. Phương pháp

xây dựng của loại kiến trúc này là dựng nền nhà, sau đó xây dựng những cột,

những cống, trên mặt đất xây dựng giàn giáo theo kỹ thuật mộng và chốt. Tài

59

liệu kiến trúc thường là đất, gỗ, tre, cỏ. Diện tích kiến trúc thường là khoảng 20

m2, cũng có một số kiến trúc lớn tới hơn 70 m2 có lẽ thuộc kiến trúc cung điện.

Đồng thời, nhà khảo cổ học cũng đã phát hiện một cống thoát nước.

Phía Bắc di chỉ Tam Tinh Đôi, trong khu vực gần sông, nhiều bán thành

phẩm, phế phẩm được phát hiện. Đây có lẽ là khu công trường. Vì khu vực

này bờ sông, có tài nguyên nước phong phú, tính chất của đất cũng dính, tạo

ra điều kiện thuận lợi cho nghề chế tạo đồ gốm, đồ đá.

Có tường thành, có khu vực được phân chia theo chức năng, theo quy

hoạch tổng thể và những di vật được phát hiện, di chỉ Tam Tinh Đôi không

phải là một di chỉ thành phố bình thường mà là một thành phố trung tâm cổ

(Hình 15).

Trong di chỉ Tam Tinh Đôi, nhiều đồ làm lễ cúng bằng đá và ngọc như

bích, khuê, tông, chương, mác, kiếm, rìu v.v... được phát hiện. Trong đó, có

ngọc bích có đường kính từ 60 đến 70cm, ngọc tông thường dài hơn 20cm, có

một số ngọc tông dài đến 160cm, rộng khoảng 23cm. Đồng thời đã có nhiều

đồ vàng, đồ rượu tinh xảo và đồ đồng thau làm lễ cúng được khai quật. Trong

những năm gần đây, trong quá trình khai quật, số lượng của công cụ sản xuất

tương đối ít, điểm này cho rằng, di chỉ này không phải là một thị trấn phổ

thông mà là một nơi của giai cấp thống trị. Trong hai hố làm lễ tế đã phát hiện

ra nhiều đồ đồng, đồ vàng, đồ ngọc và hơn mười ngà voi, chúng ta có thể thấy

rằng quy mô của lễ tế rất long trọng. Sự xuất hiện của gậy vàng đã phản ánh

60

địa vị cao quý của chủ nhân.

Kết hợp lại những nội dung đã kể trên, chúng ta có thể biết được, trong

thời kỳ văn hoa Tam Tinh Đôi, nông nghiệp đã có khả năng cung cấp lương

thực thừa để cấp dưỡng một số người của giai cấp không cần lao động, không

cần tiến hành sản xuất nông nghiệp, cũng có khả năng để ủ rượu. Khi đó, xã

hội đã trải qua phân công xã hội lần thứ hai, thương nghiệp cũng đã xuất hiện.

Giai cấp thống trị có nhiều tài sản, có quyền lực cao nhất, có lễ nghi

hoàn chỉnh. Họ tổ chức cúng tế long trọng để thờ cúng thần trời, thần đất và

thần núi, họ đã áp dụng quy cách lễ nghi thuộc cấp hoàng tộc. Vì vậy, chúng

ta có thể khẳng định rằng, lúc đó, cư dân của văn hóa Tam Tinh Đôi đã xây

dựng một nhà nước chế độ nô lệ.

2.5.2. Tôn giáo và tín ngưỡng

Vì văn hóa Tam Tinh Đôi đã kéo dài liên tục, cũng là một kết quả được tích

tũy nhiều năm, trong tôn giáo và tín ngưỡng của người Thục cổ đã bao gồm

sùng bái vật tổ, sùng bái thiên nhiên và sùng bái tổ tiên. Nhiều loại tôn giáo

và tín ngưỡng cùng tồn tại cho rằng, tôn giáo và tín ngưỡng của người nước

Thục thời cổ là trong một quá trình phát triển, chứ không phải là sự thay thế

đơn giản. Sau khi quan niệm mới đã ra đời, những yếu tố văn hóa trong quan

niệm cũ không những được giữ lại, mà còn hòa nhập với nhau, tích lũy không

dừng [20, tr. 23].

+ Sùng bái vật tổ

61

Giống như cư dân cổ của các di chỉ khác, cư dân thời kỳ Tam Tinh Đôi

cũng đã trải qua một giai đoạn văn hóa lịch sử chính là giai đoạn sùng bái vật

tổ. Sự sùng bái vật tổ của cư dân Tam Tinh Đôi được thể hiện trong những

điểm sau:

Thứ nhất, sùng bái ký hiệu vật tổ. Ký hiệu vật tổ là lấy vật tổ để làm tiêu

chí của cộng đồng mình. Cư dân thời kỳ Tam Tinh Đôi có lẽ là cư dân cổ

Thục trong ghi chép của sách cổ Trung Quốc, thị tộc cổ Thục này được gọi là

Ngư Phù (cách gọi thời cổ của chim cốc ), vì vậy, hình tượng con chim có lẽ

là ký hiệu chính của thị tộc Ngư Phù. Đã có học giả cho rằng, thị tộc Ngư Phù

chính là cư dân của di chỉ Tam Tinh Đôi giai đoạn II và giai đoạn III. Đặc

trưng văn hóa của hai giai đoạn này chính là cái muôi với cán có tạo hình con

chim. Ngoài ra, trong hố làm lễ tế đã khai quật ra rất nhiều di vật có hình

tượng con chim. Có đồ đồng với tạo hình con chim 5 chiếc, còn có nhiều đồ

thau, đồ vàng, đồ ngọc có hoa văn con chim. Những hoa văn, đồ vật có tạo

hình con chim có lẽ có sự liên quan với người cổ Thục sùng bái vật tổ con

chim.

+ Sùng bái tự nhiên

Cư dân Tam Tinh Đôi cũng như con người thời kỳ cổ, chưa có đủ khả

năng để chinh phục thiên niên và vô cùng thần phục thiên nhiên, cho nên cư

dân Tam Tinh Đôi sùng bái thiên thể, sùng bái núi và cây cối [20, tr. 24].

Trong hố làm lễ tế, 6 cái văn vật có tạo hình mặt trời giống như bánh xe

62

được khai quật, những văn vật này có lẽ là ký hiệu về sùng bái mặt trời. Trong

hố làm lễ tế cũng đã khai quật ra 71 cái văn vật có tạo hình giống như mắt. Có

học giả cho rằng, đây cũng là hình tượng của mặt trời.

Cư dân Tam Tinh Đôi là người cổ Thục thuộc bộ lạc Ngư Phù, bộ lạc này

bắt nguồn từ dân tộc Thiếu Hạo(少昊). Chữ Hán Hạo (昊) này phía

trên là chữ Nhật(日), phía dưới là chữ Thiên(天), trong chữ viết cổ, chữ

Thiên và chữ Đại(大) có thể dùng thay cho nhau, chữ Đại và chữ Nhân

(人) cũng có thể dùng thay cho nhau, vì vậy, theo cấu tạo của chữ Hạo này,

giống như một con người dưới mặt trời, hàm nghĩa của chữ này nên là

“ những người sùng bái mặt trời”. Cho nên, văn hóa Tam Tinh Đôi không chỉ

là một văn hóa sùng bái con chim, mà cũng sùng bái mặt trời.

Do nhận thức đối với thiên nhiên chưa đủ, tổ tiên của dân tộc Hoa Hạ

cho rằng mặt trời chuyển động không dừng như con chim, và coi mặt trời là

con chim, cũng có tổ tiên cho rằng có con chim đeo mặt trời chuyển động.

Căn cứ nhận thức này, người cổ Thục cũng coi chim là mặt trời, coi mặt trời

là con chim.

Trong các văn vật được khai quật tại di chỉ Tam Tinh Đôi, một trong

những văn vật nổi tiếng nhất chính là cây vũ trụ (Hình 22). Cây thần đồng

thau có ba tầng cành cây, mỗi tầng có ba cành, trên mỗi cành cây đứng một

con chim, trên đỉnh cây cũng có một con chim đứng. Có học giả cho rằng, đây

chính là một biểu tượng của sùng bài con chim và mặt trời. Trong sách cổ Sơn

63

Hải Kinh và Hoài Nam Tử có ghi chép về một cây thần tên là 若木(Nhã

Mộc), cây thần Nhã Mộc cũng như cây thần Phù Tang của phía Đông, trên

cây có mười mặt trời. Con chim thay mặt cho mặt trời, đã chứng minh rằng

64

người cổ Thục của văn hóa Tam Tinh Đôi coi con chim là mặt trời.

Chƣơng 3: SO SÁNH VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN VÀ VĂN HÓA

TAM TINH ĐÔI

3.1 Khái quát về tình hình giao lƣu văn hóa

Bồn địa Tứ Xuyên là một đơn nguyên địa lý tương đối độc lập, sau khi

nước Tần thời kỳ Xuân thu Chiến quốc mở rộng lãnh thổ đến vùng Tứ Xuyên,

vùng này mới dần dần hòa nhập với văn hóa Trung Nguyên và dần dần trở

thành một bộ phận quan trọng của lịch sử Trung Hoa. Trong bài thơ Thục Đạo

Nan của nhà thơ Lý Bạch viết rằng: Y hu hy, Nguy hồ cao tai, Thục đạo chi

nan, nan ư thướng thanh thiên (Ôi, Nguy hiểm thay, cao thay! Đường Thục

khó, khó hơn lên trời xanh.). Nhiều người nghĩ rằng, văn minh Tam Tinh Đôi

nói chung và văn hóa Tam Tinh Đôi nói riêng là một nền văn minh, văn hóa

hoàn toàn khác với văn minh Trung Nguyên, và có đặc sắc riêng biệt, đây

cũng là một nền văn minh, văn hóa hình thành và phát triển một cách độc lập

trong điều kiện địa lý tương đối khép kín. Nhưng, những năm gần đây, nhiều

phát hiện khảo cổ học cho thấy, vùng Tứ Xuyên thời cổ tuy ngăn cách với văn

hóa Trung Nguyên trên mặt địa lý, nhưng vẫn tồn tại một con đường xuất phát

từ Đồng bằng Thành Đô, đi qua Vân Nam (Trung Quốc), gắn kết với Đông

Nam Á, Trung Á, thậm chí đến Tây Á.

Trong phạm trù nghĩa hẹp, con đường tơ lụa chỉ con đường tơ lụa trên

đất và con đường tơ lụa trên biển, trong phạm trù nghĩa rộng, đây là một hệ

65

thống các con đường buôn bán nối Phương Đông và Phương Tây kể từ thời

thượng cổ. Vì vậy, học giả Trung Quốc đặt tên cho con đường nối Đồng bằng

Thành Đô với Đông Nam Á, Trung Á, và đến Tây Á là con đường tơ lụa phía

Nam. Từ những năm 80s thế kỷ 20, khái niệm con đường tơ lụa phía Nam

được đề xuất, tùy theo sự phát hiện và nghiên cứu về di chỉ Tam Tinh Đôi

được tiến triển không ngừng, các học giả cũng dần dần đi sâu thảo luận và

nghiên cứu, tuy vẫn có nhiều tranh luận và nghi vấn, các học giả đã khẳng

định rằng con đường này đã tồn tại vào thời kỳ Tiên Tần. Bồn địa Tứ Xuyên

và Đồng bằng sông Hồng nằm ở con đường này, có lẽ là do con đường này để

tiến hành hoạt động buôn bán, giao lưu văn hóa [Hình 6].

Văn hóa Phùng Nguyên là một văn hóa khảo cổ học quan trọng nhất của

miền Bắc Việt Nam, từ năm 1959 đến năm 1998 đã phát hiện hơn 55 di chỉ.

Văn hóa Phùng Nguyên cũng kéo dài khá lâu, từ thời đại đá đến thời đại đồng

thau, cách đây khoảng 4200~3200 năm trước. Văn hóa Phùng Nguyên phân

bố tại vùng trung du sông Hồng và phía bắc sông Hồng, vùng này chính là

khu vực nước Văn Lang trong sử sách Việt Nam ghi chép, vì vậy, văn hóa

Phùng Nguyên cũng được chia thành thời kỳ Tiền Văn Lang và thời kỳ Văn

Lang. Chủ thể văn hóa của văn hóa Phùng Nguyên chủ yếu là văn hóa bản

địa, có nhiều đồ gốm đáy tròn, hoa văn trang trí chủ yếu là hoa văn khắc và

hoa văn cắt, đồ đá chủ yếu là đồ đá nhỏ. Đồng thời, một số đồ ngọc và đồ

gốm, đồ đá của văn hóa Phùng Nguyên đã thể hiện ra một số yếu tố văn hóa

66

ngoại lai [16, tr.22 ],

Văn hóa Đông Sơn cũng chủ yếu phân bố ở vùng Bắc bộ Việt Nam, thuộc

thời đại đồng thau và sơ kỳ đồ sắt, niên đại tuyệt đối thường được nghĩ là từ thế

kỷ 3,4 trước Công Nguyên đến thế kỷ 1 sau Công Nguyên. Sơ kỳ và trung kỳ

của văn hóa Đông Sơn được coi là thời kỳ Văn Lang và thời kỳ Âu Lạc. Thời

kỳ văn hóa Đông Sơn, quan tài hình thuyền bắt đầu xuất hiện, vũ khí đồ đồng,

công cụ đồ đồng và trống đồng cũng xuất hiện rất nhiều. Văn hóa chủ thể của

văn hóa Đông Sơn cũng thuộc văn hóa bản địa, nhưng những yếu tố văn hóa

ngoại lai càng nhiều hơn so với thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên.

Trong các yếu tố văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Đông Sơn, có nhiều

điểm giống nhau với văn hóa thuộc vùng Tứ Xuyên đồng thời kỳ hoặc thời kỳ

sớm hơn. Những điểm giống nhau về văn hóa khảo cổ thời đại đồng thau giữa

lưu vực sông Hồng và vùng Tứ Xuyên đã được hàng loạt học giả Trung Quốc

đề ý, một số học giả còn tiến hành nghiên cứu, phân tích một cách hệ thống

và sâu sắc.

Các văn vật được khai quật từ di tồn văn hóa Phùng Nguyên như ngọc

chương, ngọc viên, ngọc bích, đĩa gốm có chân cao, rìu đá, được khai quật từ

văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Đồng Đậu, viên đồng được phát hiện từ

văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Đông Sơn...v.v., giống với ngọc viên, ngọc

chương, ngọc bích và đĩa gốm có chân cao được khai quật từ di chỉ Tam Tinh

Đôi, rìu đá của mộ táng thời Chiến Quốc ở Thập Phương, viên đồng được

67

khai quật từ di chỉ Tam Tinh Đôi.

Chủng

Tứ Xuyên (Trung Quốc)

Việt Nam

Loại

Quan

tài hình

thuyền

Thật Phương, mộ táng thời Chiến

Hải Phòng, Văn hóa Đông Sơn

Quốc

Đục

đồng,

rìu

đồng

Phát hiện từ mộ táng quan tài hình

Phát hiện từ mộ táng quan tài hình

thuyền, Thật Phương Chiến Quốc

thuyền, văn hóa Đông Sơn

Dao

đồng

Thật Phương, mộ táng thời Chiến

Phát hiện từ mộ táng quan tài hình

Quốc

thuyền, văn hóa Đông Sơn

Bài

đồng

Phát hiện từ mộ táng quan tài hình

Hán Nguyên

thuyền, văn hóa Đông Sơn

Bảng 1: So sánh một số di vật của Tứ Xuyên (Trung Quốc) và Việt Nam

(Nguồn: [16, tr.18])

Táng trong quan tài hình thuyền, đây cũng là phong tục lễ tang thịnh

68

hành vào thời Chiến Quốc của vùng Tứ Xuyên, kiểu mộ táng này cũng được

phát hiện trong một số di tồn văn hóa Đông Sơn ở Hải Phòng, Việt Khê, Chu

Sơn, nhưng niên đại muộn hơn thời Chiến Quốc, khoảng giữa thời kỳ Tần

Hán và thời kỳ Đông Hán.

Từ nội dung đã trình bày, chúng ta có thể biết rằng, đã tồn tại một số

điểm giống nhau giữa Lưu vực sông Hồng miền bắc Việt Nam và vùng Tứ

Xuyên về văn hóa khảo cổ học thời đại kim khí. Song, những yếu tố văn hóa

giống nhau không phải là được thể hiện trong một số đồ vật có hình dạng và

cấu tạo đơn giản, điều này cho rằng giữa hai vùng chắc chắn đã có sự tồn tại

của văn hóa giao lưu. Đối với quan điểm này, sử sách Việt Nam và Trung

Quốc đều có thể kiểm chứng được.

Nhưng trên thực tế, sự giao lưu văn hóa giữa vùng Tứ Xuyên và miền

Bắc Việt Nam đã tồn tại khá lâu rồi, thậm chí sớm hơn thời kỳ nhà Tần tấn

công nước Thục. Từ một số di vật được khai quật tại văn hóa Phùng Nguyên

như nha chương, ngọc viên, đĩa có chân cao...v.v., đã phát hiện những di vật

này mang một số điểm giống với văn hóa Tam Tinh Đôi. Cho dù văn hóa

truyền bá sẽ cần một số thời gian, vì vậy, một số nhà khảo cổ học Trung Quốc

cho rằng, muộn đến thời kỳ nhà Thương và nhà Tây Chu, yếu tố văn hóa của

văn hóa Thục đã được truyền đến phía Bắc Việt Nam rồi.Ở vùng Tây Nam

69

Trung Quốc, văn hóa Thục là một nền văn hóa phát triển nhất, lâu đời

Bảng 2: So sánh một số đồ ngọc thuộc thời đại đồng thau-thời đại đồ sắt giữa

Tứ Xuyên(TQ)

Việt Nam

Chủng

Loại

Viện

Hố làm lễ tế, Di chỉ Tam Tinh

Di chỉ Phùng Nguyên

Đôi

Nha

Chương

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Di chỉ Phùng Nguyên

Bích

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Di chỉ Phùng Nguyên

Mác

Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Phùng

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Nguyên

Tứ Xuyên (TQ) và Việt Nam

70

(Nguồn: [16, tr.19~20])

Bảng 3: So sánh một số đồ gốm thuộc thời đại đồng thau- thời đại đồ sắt giưã

Chủng

Tứ Xuyên (TQ)

Việt Nam

Loại

Đĩa có

chân

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Văn hóa Đông Sơn

Chân

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Văn hóa Đông Sơn

Bát

bồng

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Văn hóa Phùng Nguyên

Nồi

gốm

Thật Phương, mộ táng thời Chiến

Di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên

Quốc

Tứ Xuyên (TQ) và Việt Nam

71

(Nguồn: [16, tr.21])

Bảng 4: So sánh một số đồ đồng thuộc thời đại đồng thau - thời đại đồ sắt

Tứ Xuyên (TQ)

Việt Nam

Chủng

Loại

Viện

đồng

Di chỉ Tam Tinh Đôi

Văn hóa Đông Sơn và văn hóa

Động Đậu

Mác

đồng

Thật Phương, mộ táng thời Chiến

Văn hóa Đông Sơn

Quốc

Việt

(một

loại

binh

khí)

Thật Phương, mộ táng thời Chiến Quốc

Di chỉ Văn hóa Đông Sơn

Mâu

đồng

Thật Phương, mộ táng thời Chiến

Di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn

Quốc

giữa Tứ Xuyên (TQ) và Việt Nam

72

(Nguồn: [16, tr.22])

nhất, đã trở thành một trung tâm văn minh cổ ở thượng du sông Trường

Giang, tuy điều kiện địa lý tương đối độc lập, nhưng một số yếu tố văn hóa

của văn hóa Thục đi qua nhiều con đường thiên niên của lũng sông trong rặng

núi Hoành Đoạn, đã được truyền đến Việt Nam và các nơi của Đông Nam Á,

đây không phải là ngẫu nhiên.

Đồng thời, vì giao lưu văn hóa không chỉ là một hành vi đơn hướng, mà

là một hành vi hai bên. Trong di chỉ TĐT đã khai quật ra nhiều ngà voi, vỏ sò.

Theo quan điểm của một số nhà khảo cổ học Trung Quốc, những ngà voi và

vỏ sò không phải là vật sản của nội địa như Bồn địa Tứ Xuyên, mà là một kết

quả giao lưu văn hóa với những văn hóa gần biển (nhiều học giả cho rằng nơi

sản xuất của những vỏ sò, ngà voi là Ấn Độ Dương). Theo quan điểm này,

những ngà voi, vỏ sò có lễ là đồ vật quý giá được sử dụng trong quá trình

hàng đổi hàng (Việt Nam có lẽ là nơi trung gian). Nhưng những luận văn và

tài liệu về nghiên cứu ngà voi, vỏ sò được khai quật từ di chỉ Tam Tinh Đôi

vẫn ít, và chưa có một quan điểm nhất trí, uy tín, cho nên sẽ không giới thiệu

thêm nữa.

3.2. So sánh hai nền văn hóa

Bảng 5: So sánh đối chiếu văn hóa Tam Tinh Đôi và văn hóa Phùng Nguyên

Văn hóa Tam Tinh Đôi Văn hóa Phùng Nguyên

Niên đại

tuyệt đối:

Niên đại tuyệt đối: khoảng 4200~3500BP

Niên

4100~3200BP

Niên đại tương đối: mở đầu từ cuối thiên

đại

Niên đại tương đối: thời

niên kỷ thứ III trước công nguyên-đầu

73

kỳ văn hóa Nhị Lý Đầu

thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên và

đến thời kỳ Nhà Thương

kết thúc vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ

thứ II trước công nguyên.[18 ,tr.164]

Khí hậu: Thuộc gió mùa

Khí hậu: Thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa

Điều

Á nhiệt đới, khí hậu ẩm

ẩm quanh năm với 2 mùa rõ rệt hè, đông.

kiện tự

ướt suốt năm, có bốn

Địa hình: đồng bằng, có sông lớn chày

nhiên

mùa rõ rệt

qua, tài nguyên nước phong phú

Địa lý: đồng bằng, có

Thổ nhưỡng: giàu có phù sa

nhiều sông chảy qua, tài

nguyên nước phong phú

Thổ nhưỡng: giàu có phù

sa

1. Bát bồng, đồ gốm có

1. Cư dân Phùng Nguyên sử dùng đá, ngọc

Đặc

đế nhỏ và cai gáo có tạo

để chế tạo đồ đá, kỹ thuật gia công đồ đá

trƣng

hinh như đầu của con

đã đạt được đỉnh cao, có một số di vật

văn hóa

chim là ba loại đồ gốm

giống với di vật trong văn hoa Tam Tinh

điểm hình;

Đôi như nha chương, bôn tứ giác, bát

2. Trang sức và hoa văn

bồng...;

rất đa dạng và phong phú

2. Có nhiều di vật hình vòng, loại hình

(Hình 19);

phong phú;

3. Kỹ thuật luyện kim đồng manh nha;

4. Trang sức và hoa văn trên đồ gốm rất

tinh xảo, cũng rất đa dạng;

5. Bát bồng, nồi là đồ gốm tiêu biểu của

văn hóa Phùng Nguyên.[18 ,tr.164]

1. Đã phát hiện tướng

1. Đã phân hóa giai tầng xã hội

Tình

thành và một số di chỉ

2. Xóm Rền và Phùng Nguyên có lẽ là hai

hình xã

74

kiến trúc, di chỉ Tam

trung tâm văn hóa

hội

Tinh Đôi là một di chỉ

3. Kỹ thuật chế tạo đồ gốm và đồ đá

kinh tế

thành cổ;

cao.[17, tr.44]

2. Đã xuất hiện một nhà

nước

thần quyền, đã

phân hóa giai cấp.

3.3. So sánh một số di vật cụ thể

3.3.1. Nha chương

Nha chương chính là di vật quan trọng và kỳ bí nhất của văn hóa Phùng

Nguyên. Cho đến năm 2009, 8 nha chương đã được phát hiện nhưng chỉ ở hai

di chỉ: Xóm Rền (5 chiếc) và Phùng Nguyên (3 chiếc). Đặc biệt, một ngôi mộ

ở Xóm Rền có 2 chiếc, một chiếc dài 63cm, được chôn cùng với vòng mặt cắt

hình chữ T, hạt chuỗi, đồ gốm và rìu bôn đá [8, tr. 80-82].

Tại Trung Quốc, nha chương được phát hiện trong nhiều nền văn hóa.

Hà Văn Tấn [10, tr. 90] so sánh 4 chiếc nha chương ở Xóm Rền và

Phùng Nguyên với các nha chương Trung Quốc và nhận xét: “Sự giống nhau

đến chi tiết giữa nha chương Việt Nam và nha chương Trung Quốc là biểu

hiện sự ảnh hưởng của văn hóa Thương ở Việt Nam……Nha chương ở Việt

Nam có niên đại tương đương với văn hóa Thương ở Trung Quốc, thậm chí

với giai đoạn sớm của văn hóa này… Ảnh hưởng của văn hóa Thương đến

văn hóa Phùng Nguyên có thể đã theo con đường phía Tây, qua Tứ Xuyên,

Vân Nam. Tuy nhiên cũng chưa đủ chứng cứ để loại trừ con đường phía

75

Đông, qua Quảng Đông và Quảng Tây”(Hình 4, 21).

Về hai chiếc nha chương Xóm Rền, học giả Hồng Kông Tang Chung

(Đặng Thông) nhận xét : “ Việc nha chương Phùng Nguyên, cái rõ ràng mang

phong cách của nha chương Nhị Lý Đầu, cái giống hệt nha chương Tam Tinh

Đồi cho thấy quá trình lan tỏa của nha chương tới Việt Nam khá phức tạp”.

Năm 2002, cùng với các nhà khảo cổ học Việt Nam khai quật 2 ngôi mộ

ở Xóm Rền, Tang Chung lại thấy một chiếc nha chương nhỏ ” giống một dạng

nha chương chỉ có ở Tam Tinh Đôi”. Ông coi đó là một bằng chứng cho “mối

quan hệ đặc biệt giữa văn hóa Tam Tinh Đồi của nước Thục cổ và văn hóa

Phùng Nguyên”.

Tang Chung không nói rõ đó là dạng nha chương nào, nhưng có lẽ, đó là

dạng dạng nha chương lưỡi lõm, cán có hai lỗ, đúng là hiện chỉ thấy ở văn

hóa Tam Tinh Đôi và Phùng Nguyên.

Nhưng, cũng có một số quan điểm khác nhau. Hà Văn Tấn nhận xét ” hai

nha chương Xóm Rền được làm cùng bằng một loại đá giống một loại đá mà

cư dân Phùng Nguyên thường dùng làm rìu”. Ông không nói rõ nhưng ngụ ý

người Phùng Nguyên đã chế tác nha chương.

Hán Văn Khẩn cho rằng: Về mặt chất liệu, số lượng, mức độ tinh xảo,

nha chương Phùng Nguyên thua kém nhiều so với nha chương Trung Quốc.

Do đó, khó có cơ sở xác đáng để cho rằng nha chương Phùng Nguyên có

nguồn gốc trực tiếp từ Trung Quốc. Trong quá trình tiếp xúc giao lưu với

76

những cư dân có nha chương ở Nam Trung Quốc, người Phùng Nguyên đã

học hỏi và tự tạo nha chương theo kiểu dáng nha chương Trung Quốc”.

Nhưng ít nhất, lại cũng có hai nhà khảo cổ học Việt Nam không chia sẻ

quan điểm với các đồng nghiệp của mình.

Người thứ nhất là Phạm Minh Huyền [3, tr.30] với ý kiến: nha chương

Phùng Nguyên cùng với qua Lũng Hòa đã “được du nhập vào văn hóa Phùng

Nguyên một cách có chọn lọc”.

Người thứ hai là Nguyễn Việt với lời lẽ còn cầu kỳ bóng bẩy hơn cả lời

lẽ của Higham: “Hình ảnh xa hoa lộng lẫy của những chiếc nha chương khiến

tôi liên tưởng đến những cuộc thăm viếng của những người khách sang trọng

từ một vùng rất xa đến nơi đây hoặc một cuộc viếng thăm của chủ nhân Xóm

Rền đến những nơi rất xa đó để có thể đưa về những chiếc nha chương đẹp và

lạ kỳ đó”.

Như đã nêu, Higham và Tang Chung cho rằng nha chương Phùng

Nguyên có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp từ hai văn hóa Nhị Lý Đầu và

Tam Tinh Đôi.

Nhưng các nghiên cứu mới nhất cho thấy nhà Hạ không chế tác nha

chương, còn nhà Thương, tuy có chế tác nha chương, nhưng nha chương

Thương phần lớn bằng đá và làm minh khí chứ không phải bằng ngọc làm lễ

khí. Tóm lại, nha chương không phải là một biểu tượng cho quyền lực chính

trị, tín ngưỡng của nhà Hạ như suy đoán của Child-Johnson, cũng chẳng là

77

một thứ hàng hóa cao cấp của nhà Thương dùng để trao đổi với các vùng phía

Nam như Higham từng xác định.

Giờ đây, những tư liệu mới đã khẳng định: cả nha chương Nhị Lý Đầu và

nha chương Thương đều có nguồn gốc Tam Tinh Đôi, nơi cho đến nay đã phát

hiện được nhiều nha chương nhất, với loại hình phong phú nhất, với chiếc nha

chương lớn và đẹp nhất và có những bằng chứng về việc dùng nha chương cụ

thể nhất.

Là một nước lớn mạnh với nền văn hóa Đồng Thau rực rỡ, Tam Tinh Đôi

xứng đáng là một trung tâm chế tác và phổ biến nha chương thời Hạ-Thương.

Mặt khác, chúng ta có cơ sở để khẳng định nha chương Phùng Nguyên

có nguồn gốc Tam Tinh Đôi, đó là:

- Nha chương ở di chỉ Thái Bình Dương có niên đại khoảng 2100-1800

TCN. Nha chương tại hai di chỉ Tam Tinh Đôi và Kim Sa, dù được chôn

muộn, nhưng có hình dáng gần gũi nhất với nha chương giai đoạn III và IV

của văn hóa Nhị Lý Đầu (Fankenhousen), tức khoảng 1700-1600 TCN. Như

vậy, nha chương Tam Tinh Đôi đều có niên đại sớm hơn hoặc xấp xỉ với niên

đại của nha chương Phùng Nguyên. Niên đại của hai di chỉ Phùng Nguyên và

Xóm Rền là khoảng giữa thế kỷ 17-14 TCN.

Văn hóa Tam Tinh Đôi có tất cả các dạng nha chương thấy trong văn hóa

Phùng Nguyên, cụ thể các dạng đầu cong lõm, đầu cong lồi, lưỡi vát, lưỡi

hình đuôi cá riêng dạng chuôi có hai lỗ, cho đến nay chỉ thấy ở Tam Tinh Đôi

78

và Phùng Nguyên.

- Chức năng và ý nghĩa của nha chương:

Bàn về chức năng của nha chương, Tang Chung từng cho rằng: nha

chương Long Sơn, Tam Tinh Đôi là lễ khí, còn nha chương ở các nơi khác

(gồm nha chương Phùng Nguyên), do đều được tìm thấy trong mộ nên là vật

tùy táng.

Thực ra, nha chương có cả hai chức năng trên, trước hết chúng là lễ khí

của các thủ lĩnh kiêm pháp sư, rồi đến một ngày khi chủ nhân của chúng ra đi,

chúng trở thành đồ tùy táng, tương tự các lễ khí của văn hóa Lương Chử như

rìu Việt, đĩa Bích, ống Tông hay các lễ khí của văn hóa Đông Sơn như trống,

thạp và rìu đồng.

Nguyễn Việt: nha chương là vật “có nguồn gốc từ thời Thương, là biểu

tượng quyền uy mà sứ giả nhà Thương mang theo để tặng và phủ dụ các chư

hầu và bang tộc thuộc quốc”.

Hán Văn Khẩn (2010) dù coi nha chương là một loại “vũ khí đặc biệt tạo

vị thế đặc biệt cho di chỉ Xóm Rền” nhưng vẫn băn khoăn không rõ nha

chương là biểu trưng cho quân quyền hay là lễ khí. Cuối cùng, ông coi nha

chương Phùng Nguyên đơn giản chỉ là sản phẩm của sự giao lưu, tiếp xúc.

Trịnh Sinh (2007) nhận xét thận trọng: sự có mặt của nha chương ở mộ

Xóm Rền cho thấy trong xã hội Việt cổ đã xuất hiện một số thủ lĩnh có quyền

lực, là tiền đề để hình thành nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương trên vùng

79

Đất Tổ sau này .

Còn Nguyễn Việt (2010) đoán định mạnh mẽ: ngôi mộ Xóm Rền có 2

nha chương là “ngôi mộ giàu nhất của xã hội Phùng Nguyên”; đó không chỉ là

mộ thủ lĩnh Xóm Rền mà còn là“ mộ thủ lĩnh đại diện cho cả thế giới Lạc

Việt ở Lĩnh Nam”. Ông đặt câu hỏi: phải chăng đó chính là “thực ảnh của

huyền thoại được ghi chép trong Việt Sử lược”: ” Đến đời Trang Vương nhà

Chu, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, tự

xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang.”

Nhưng như chúng ta sẽ thấy, nước Văn Lang của Vua Hùng đã ra đời

cùng với văn hóa Đông Sơn vào đầu thế kỷ 7 TCN chứ không vào thời Phùng

Nguyên. Vì thế, ý kiến của Trịnh Sinh là hợp lý hơn.

Trong văn hóa Tam Tinh Đôi, nha chương là lễ khí gắn với các tín

ngưỡng thờ Núi-Sông. Trong văn hóa Phùng Nguyên, nha chương chắc cũng

gắn với các tín ngưỡng đó, đồng thời là một biểu trưng cho quyền thế của thủ

lĩnh kiêm pháp sư.

Tóm lại, nha chương xuất hiện trong văn hóa Lương Chử và phát triển trong

văn hóa Tam Tinh Đôi với chức năng chính là một lễ khí. Sự xuất hiện của nha

chương trong văn hóa Phùng Nguyên, một mặt phản ánh sự tồn tại của một tầng

lớp thủ lĩnh pháp sư Phùng Nguyên, mặt khác thể hiện mối liên hệ cội nguồn văn

hóa-tộc người giữa người Phùng Nguyên với người ở Tứ Xuyên.

3.3.2. Qua làm bằng đá ngọc

80

Qua làm bằng đá hay đá ngọc được phát hiện chủ yếu trong các di chỉ

Phùng Nguyên muộn (Lũng Hòa, Tràng Kênh, Đồng Đậu).

Hình 9: Qua đá: A- Lũng Hòa; B-Tháp Tại Kim Sơn; C-Tam Tinh Đôi

D-Nhị Lý Đầu; Qua Tam Tinh Đôi với chuôi giống chuôi nha chương

(Nguồn: Higham 1996)

Higham (1996) thấy qua Lũng Hòa gần gũi nhất với qua Tháp Tại Kim

Sơn và Nguyên Quang (hai di chỉ thuộc văn hóa Phù Bân) và cùng loại với

qua Tam Tinh Đôi và Nhị Lý Đầu (loại qua trông giống dao găm). Ông dẫn ý

kiến của Murowchick (1989) cho rằng qua Lũng Hòa là sản phẩm trao đổi.

Chúng ta có thể nói rõ hơn: qua Lũng Hòa là sản phẩm trao đổi với văn hóa

Phù Bân. Hơn nữa, cũng như nha chương Hổ Lâm Sơn, qua Lũng Hòa và qua

Tháp Tại Kim Sơn đều có nguồn gốc Tam Tinh Đôi.

Văn hóa Tam Tinh Đôi còn có loại nửa qua nửa nha chương, mũi nhọn

nhưng chuôi có mấu.

3.3.3. Vòng tay hình ống có gờ nổi

Tại cả hai di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền đều có một dạng vòng

đeo ở cổ tay hình ống mặt ngoài có các đường gờ nổi song song.

81

Jiao (2007:195) cho biết , một dạng vòng tương tự cũng thấy tại di chỉ

Hổ Lâm Sơn, thuộc văn hóa Phù Bân (1500-1000 TCN) ở Nam Phúc Kiến

và Đông Bắc Quảng Đông.

Hình 10 : Vòng tay hình ống: Xóm Rền; Phùng Nguyên; Hổ Lâm Sơn;

(Nguồn: Hán Văn Khẩn 2009, Tienlong Jiao 2007, gyyjy.com, Chengdu 2006)

Lương Chử; Tam Tinh Đôi.

Được biết, dạng vòng này xuất hiện đầu tiên trong văn hóa Lương

Chử, sau đó ở các văn hóa Nhị Lý Đầu và Tam Tinh Đôi (Chengdu 2006).

Có vẻ vòng ống Phùng Nguyên và Hổ Lâm Sơn là một sự tổng hòa

dạng vòng ống với dạng vòng chữ T.

Dạng vòng ống trên góp thêm một bằng chứng khẳng định mối liên hệ

Tam Tinh Đôi-Phúc Kiến-Phùng Nguyên.

3.3.4. Phù hiệu đá

Hình 11: Di vật Phùng Nguyên; Mô típ “mặt người” trên nha chương Tam

Tinh Đôi; Mô típ hình ếch Tam Tinh Đôi; Tấm đồng Tam Tinh Đôi.

82

(Nguồn: HX.Chinh-NN. Bích 1978; Sanxingdui Museum 2006.)

HX.Chinh-NN. Bích [1, tr.86] cho biết: Nguyễn Lộc, người có công phát

hiện ra di chỉ Phùng Nguyên đã thu lượm được một phiến đá chữ nhật (5, 2 x

2,4 cm), mặt trước có hoa văn, mặt sau trên có lỗ và dưới có một cái móc. Vật

đã bị mất, hiện chỉ còn bản vẽ cho thấy hoa văn gồm mặt thú cách điệu, các

đường cong hình chữ X, biểu hiện mây, sấm v.v.... Di vật có kiểu dáng và

phong cách hoa văn rất gần với một vật trang sức ở kiếm trong một ngôi mộ

Hán ở Lạc Dương-Trung Quốc, có hoa văn tương tự một vật bằng đá ngọc

trong một ngôi mộ thời Bắc Thuộc ở Mân Trung (Thanh Hóa). Vì thế, hai tác

giả ngờ rằng nó thuộc giai đoạn muộn hơn văn hóa Phùng Nguyên.

Tuy nhiên, có thể thấy mô típ “mặt thú” cách điệu trên phiến đá khá gần

gũi với một mô típ “mặt người” trên một chiếc nha chương Tam Tinh Đôi; mô

típ hai chữ C lồng vào nhau ở hai góc dưới cũng gần gũi với các mô típ trên

một tấm đồng Tam Tinh Đôi và một tấm đồng Nhị Lý Đầu có gốc từ Tam

Tinh Đôi (theo Bargley 2001), cả hai có hình dáng khá giống phiến đá Phùng

Nguyên. Mô típ hai đường xoáy ốc hình chữ X là một dạng đơn giản của mô

típ ếch trên lá vàng Tam Tinh Đôi.

Các học giả ở Bảo tàng Tam Tinh Đôi (2006) cho hay: một tấm đồng

Tam Tinh Đôi (cỡ 46,4 x17 cm) có hình người không đầu, không chân. Hai

bên có 4 tai có lỗ để xỏ dây. Mô típ chính là các con cò cách điệu, có liên

quan tới tục thờ chim ở nước Thục cổ. Từ đó, họ đoán đó là một phù hiệu

83

dùng trong tế lễ. Một tấm đồng khác có hình dáng tương tự nhưng nhỏ hơn

(14 x 5,6 cm) có hoa văn cây, quả và các búp lá mang tính phồn thực. Đặc

biệt, tấm đồng này có dấu tích vải, chứng tỏ đó là một phù hiệu được đính vào

vải.

Theo tôi, đó chính là những phù hiệu bằng đồng được đính lên lễ phục của

vua- pháp sư Thục. Trong mối liên hệ với nha chương Tam Tinh Đôi, phiến đá

tìm được ở Phùng Nguyên là một di vật của văn hóa Phùng Nguyên và là một

84

phù hiệu đính trên lễ phục của thủ lĩnh-pháp sư Phùng Nguyên.

KẾT LUẬN

Con người đã sinh sống trên trái đất một thời gian lâu dài. Mặc dù có sự

hạn chế của năng lực sản xuất, mức độ giao lưu giữa các vùng, các khu vực

không thể bằng hiện nay, nhưng trên thực tế, sự giao lưu trực tiếp hoặc gián

tiếp giữa những nền văn hóa từ xưa đến nay luôn được tiếp diễn.

Tìm hiểu về văn hóa Phùng Nguyên và văn hóa Tam Tinh Đôi, và so

sánh hai nền văn hóa thực sự là một quá trình đem lại nhiều tri thức và nhiều

điều thú vị. Thông qua những tài liệu, hiện vật và những nghiên cứu của nhà

khảo cổ học, chúng ta không chỉ hình dung ra được mọi mặt đời sống vật chất

và tinh thần của cư dân Phùng Nguyên và cư dân Tam Tinh Đôi mà còn hiểu

được mối liên hệ giữa hai nền văn hóa này.

Ngay từ thời kỳ đầu của văn minh nhân loại, đã có con người an gia lập

nghiệp, sáng tạo ra văn minh rực rỡ. Trong thời gian và không gian tương

đồng này, cư dân của hai nền văn hóa này đã có sự liên hệ , phác họa một bức

tranh về sự giao lưu giữa Bồn địa Tứ Xuyên và Đồng bằng sông Hồng.

Trong lời mở đầu tôi đã đặt ra mấy câu hỏi muốn trả lời sau khi viết

xong bài luận văn tốt nghiệp này, ở đồng bằng Sông Hồng và bồn địa Tứ

Xuyên cách đây ba bốn nghìn năm trước cư dân đã có lối sống như thế nào?

Văn hóa của cư dân hai vùng này có những gì giống nhau, những gì khác

nhau?

85

Những di vật như nha chương, bát bồng, qua làm bằng đá ngọc, vòng

tay hình ống có gờ nổi, phù hiệu đá...v.v. là kết quả của văn hóa giao lưu giữa

văn hóa Phùng Nguyên và Văn hóa Tam Tinh Đôi. Nhưng hai nền văn hóa

đều có đặc trưng riêng mình. Bát bồng, đồ gốm có đế nhỏ và cái gáo có tạo

hình như đầu của con chim là ba loại đồ gốm điểm hình của văn hóa Tam

Tinh Đôi, trang sức và hoa văn của văn hóa Tam Tinh Đôi rất đa dạng và

phong phú; cư dân Phùng Nguyên sử dụng đá, ngọc để chế tạo đồ đá, kỹ thuật

gia công đồ đá đã đạt được đỉnh cao, có nhiều di vật hình vòng, loại hình

phong phú, trang sức và hoa văn trên đồ gốm rất tinh xảo, cũng rất đa dạng.

Trong di chỉ Tam Tinh Đôi thuộc thời kỳ văn hóa Tam Tinh Đôi, nhà

khảo cổ học đã phát hiện tường thành và một số di chỉ kiến trúc, di chỉ Tam

Tinh Đôi là một di chỉ thành cổ; xã hội của cư dân văn hóa Tam Tinh Đôi đã

xuất hiện một nhà nước thần quyền, đã phân hóa giai cấp. Xóm Rền và Phùng

Nguyên có lẽ là hai trung tâm văn hóa, đã phân hóa giai cấp, kỹ thuật chế tạo

đồ đá rất phát triển. Hai nền văn hóa này tiếp xúc nhau qua những con đường

thiên nhiên của lũng sông trong rặng núi Hoành Đoạn.

Vì tôi chưa có kiến thức một cách hệ thống, hoàn chỉnh về khảo cổ học

nói chung và khảo cổ học Việt Nam, khảo cổ học Trung Hoa nói riêng, tuy đã

cố gắng nghiên cứu và viết luận văn rồi, tôi cũng biết rằng bài luận văn này

chắc chắn có nhiều điều không đủ, hoặc có một số quan điểm thiếu khoa học,

bị chủ quan. Nhưng tôi vẫn chân thành cảm ơn các thầy cô vui lòng đọc xong

86

bài văn này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Ngọc Bích. Di chỉ khảo cổ học Phùng

Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, 1978.

2. Lâm Thị Mỹ Dung. Thời đại đồ đồng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

2004.

3. Phạm Minh Huyền. “Qua” và “Chương” bằng đá trong các di tích thời đại

đồng thau ở miền Bắc Việt Nam, Thông báo Khoa học của viện BTLSVN,

1995, tr. 22-38.

4. Hán Văn Khẩn. Thử phân giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên qua tài liệu

gốm, Khảo cổ học số 19, 1976, tr. 5-22.

5. Hán Văn Khẩn. Xóm Rền-Một di tích khảo cổ đặc biệt quan trọng của thời

đại đồ đồng Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.

6. Hán Văn Khẩn (chủ biên). Cở sở Khảo cổ học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2008.

7. Hán Văn Khẩn. Văn hóa Phùng Nguyên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,

2005.

8. Hán Văn Khẩn, Đặng Hồng Sơn. Trở lại vấn đề Nha Chương trong văn hóa

Phùng Nguyên, Khảo cổ học, 2010, (5), tr. 50-63.

9. Lê Văn Lan, Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Linh. Những vết tích đầu tiên của

thời đại đồ đồng thau ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, 1963.

87

10. Hà Văn Tấn. Về những chiếc “Nha Chương” trong văn hóa Phùng

Nguyên, Khảo cổ học, 1993, (1).

11. Hà Văn Tấn. The Late Pleistocene climate in the Southeast Asia: New

data from Vietnam. Morden Quaternary Research in Southeast Asia, 1985, (9).

12. 陈德安、陈显丹(1987).《上古巴蜀文明的重大发现--三星堆遗址

与“三星堆文化”》,《文史杂志》(1987年第1期),39-40页。Trần

Đức An, Trần Hiển Đan. Một phát hiện trọng đại của văn minh Ba Thục

thượng cổ - di chỉ Tam Tinh Đôi và văn hóa Tam Tinh Đôi, tạp chí văn sử,

1987, (1), tr 39-40.

13. 陈显丹(1992),《广汉三星堆遗址发掘情况、初步分析》,《南

方考古》第二期,27-34页。Trần Hiển Đan. Tình hình khai quật, phân tích

sơ bộ của di chỉ Tam Tinh Đôi, Quảng Hán, Nam Phương Khảo Cổ, 1992, (2),

tr. 27-34.

14. 高大伦、郭明(2016),《三星堆遗址古文明的长度宽度和高

度》,《四川文物》2016年第6期(总第190期),79-83页。Cao Đại

Luân, Quách Minh. “Chiều dài”, “chiều rộng” và “chiều cao” của văn minh

cổ di chỉ Tam Tinh Đôi, Tứ Xuyên Văn Vật, 2016, (6), tr.79-83.

15. 林名均(1942),《广汉古代遗物的发现与发掘》,《说文月

刊》,第三辑第7期,24-39页。Lâm Danh Quân. Sự phát hiện và khai quật

của những di vật Quảng Hán thời cổ, tạp chí Thuyết Văn tập 3, 1942, (7),

tr.24-39.

88

16. 雷雨(2006),《从考古发现看四川与越南古代文化交流》,《四

川文物》2006年第6期,17-23页。Lôi Vũ. Từ những phát hiện khảo cổ xem

giao lưu văn hóa giữa Tứ Xuyên và Việt Nam thời cổ, văn vật Tứ Xuyên,

2006, (6), tr. 17-23.

17. 彭长林(2015),《越南北部石器时代至汉代的社会复杂化进程探

研》,《南方民族考古》第十一辑,35-65页。Bành Trường Lâm. Tìm

hiểu và nghiên cứu về sự phức tạp hóa của tiến trình phát triển xã hội từ thời

đại đồng đá đến thời kỳ nhà Hán của miền Bắc Việt Nam, Nam phương dân

tộc khảo cổ, 2015, (11), tr. 35-65.

18. 彭长林、付珍(2015),《越南北部古环境变迁对古文化发展的影

响》,《边疆考古研究》(第17辑),157-174页。Bành Trường Lâm,

Phó Trân. Sự ảnh hưởng đối với sự phát triển văn hóa thời cổ của sự biến đổi

môi trường sinh thái của miền Bắc Việt Nam, Biên cương khảo cổ nghiên cứu,

(17), tr. 157-174.

19. 四川省文物管理委员会等(1987),《广汉三星堆遗址》,《考古

学报》,1987年2月刊,227-254页。Uỷ ban Quản lý Văn vật Tỉnh Tứ

Xuyên. Di chỉ Tam Tinh Đôi, Quảng Hán, Báo Khảo cổ học, 1987, (2), tr.

227-254.

20. 孙亚樵、胡昌钰(2004),《从三星堆文化看古蜀人的原始宗教

观》,《中华文化论坛》2004年第2期,23-26页。Tôn Á Tiều, Hồ Xương

Ngọc. Từ văn hóa Tam Tinh Đôi xem quan niệm tôn giáo nguyên thủy của

89

người nước Thục thời cổ, Diễn đàn văn hóa Trung Hoa, 2004, (2), tr. 23-26.

21. 孙华(1993),《试论广汉三星堆遗址的分期》,四川大学博物馆

中国古代铜鼓研究学会编《南方民族考古》5辑,10-24页,四川科学技

术出版社。Tôn Hoa. Thử phân tích phân giai đoạn của di chỉ Tam Tinh Đôi,

Quảng Hán, Nam phương dân tộc khảo cổ, (5), tr. 10-24.

22. 王毅、张擎(1999),《三星堆文化研究》,《四川文物》,1996

年1月10日出版,13-22页。Vương Nghị, Trương Kình. Nghiên cứu văn hóa

Tam Tinh Đôi, Văn vật Tứ Xuyên, 10/01/1996, tr. 13-22.

23. 赵殿增(1992),《三星堆考古发现与巴蜀古史研究》,《四川文

物》1992年“三星堆古蜀文化研究专辑》,3-12页。Triệu Điện Tăng.

Những phát hiện khảo cổ của Tam Tinh Đôi và nghiên cứu lịch sử thời cổ của

Ba Thục, Văn vật Tứ Xuyên, 1992, tr.3-12.

24. 赵殿增(2017),《三星堆考古新发现与古蜀文明新认识》,《四

川文物》2017年第1期(总第191期),68-75页。Triệu Điện Tăng. Những

phát hiện khảo cổ mới của Tam Tinh Đôi và những nhận thức mới về văn

90

minh Thục cổ, Văn vật Tứ Xuyên, 2017, (191), tr. 68-75.

PHỤ LỤC

Hình 1: Bản đồ phân bố của văn hóa Phùng Nguyên

(Nguồn: Hán Văn Khẩn (cb) 2008, Cơ sở Khảo cổ học Việt Nam, Nxb ĐHQG

91

Hà Nội)

Hình 2: Di chỉ phân bố của Văn hóa Phùng Nguyên

(Nguồn: [17, tr. 41])

Hình 3: Sự phấn bố của các nền văn hóa thời đại đồng thau,

miền Bắc Việt Nam

92

(Nguồn: [18, tr.165])

Hình 4: Nha Chương đá văn hóa Phùng Nguyên

93

(Nguồn: [6, tr.359])

Hình 5: Hiện vật đá văn hóa Phùng Nguyên

1-12. Rìu bôn; 13-14. Đục; 15. Dao cưa; 16-17. Cuốc;

18-23. Vũ khí (22. xương); 24. Bản đập vải vỏ cây; 25. Công cụ dạng Sơn Vi;

94

26-27. Bàn mài; 28. Tượng rùa ( Nguồn: Bộ môn Khảo cổ học)

Hình 6: Đồ trang sức đá văn hóa Phùng Nguyên

1-15. Các loại vòng tay; 16-18. Khuyên tai;

95

19. Hạt chuỗi; 20. Vật đeo hình đuôi cá ( Nguồn: Bộ môn khảo cổ học)

Hình 7: Hiện vật gốm văn hóa Phùng Nguyên

1-6. Bát; 7-10. Thố; 11. Cốc; 12-13. Bình; 14. Chân chạc; 15-16. Dọi, chì lưới

96

và bí gốm; 17-20. Nồi; 21-22. Vòng; 23. Ấm ( Nguồn: Bộ môn Khảo cổ học)

Hình 8: Một số loại hoa văn trên đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên

97

(Nguồn: Bộ môn Khảo cổ học)

Hình 9: Vị trí địa lý tỉnh Tứ Xuyên

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Tứ_Xuyên)

Hình 10: Vị trí địa lý của Di chỉ Tam Tinh Đôi

98

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_chỉ_Tam_Tinh_Đôi)

Hình 11: Di chỉ Tam Tinh Đôi

( Nguồn: http://www.sxd.cn/uploadfile/2017-3-16/201953-58239.JPG)

Hình 12: Tầng văn hóa của di chỉ Tam Tinh Đôi, lấy một chỗ ở phía Nam di

chỉ làm ví dụ

1. Lớp đất canh tác 2. Tầng văn hóa thứ nhất 3. Tầng văn hóa thứ 2

4. Tầng văn hóa thức 3 5,7. Lớp ngàn cánh 6. Tầng văn hóa thứ 4

8. Tầng văn hóa thứ 5 9. Tầng sinh thổ

99

( Nguồn: [19, tr. 230] )

Hình 13: Di tích cư trú trong di chỉ Tam Tinh Đôi

( Nguồn: Nhà Bảo tàng di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 14: Tường thành của di chỉ Tam Tinh Đôi

100

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 15: Phân vùng theo chức năng

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 16: Di tích kiến trúc của Di chỉ Tam Tinh Đôi

101

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 17: Di vật của văn hóa Tam Tinh Đôi

102

(Nguồn:[22,tr. 18])

Hình 18: Qua ngọc của văn hóa Tam Tinh Đôi

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 19: Đồ gốm của văn hóa Tam Tinh Đôi

103

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 20: Đồ uống rượu của văn hóa Tam Tinh Đôi

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 21: Nha Chương của văn hóa Tam Tinh Đôi

104

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 22: Cây vũ trụ của Tam Tinh Đôi

105

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 23: Nha Chương của Di chỉ Tam Tinh Đôi

(Nguồn: [20, tr.24])

Hình 24: Vị chí địa lý của Tam Tinh Đôi và con đường tơ lụa phía Nam

106

(Nguồn: Nhà Bảo tàng Di chỉ Tam Tinh Đôi)

Hình 25: Vị trí của một số di chỉ của miền Bắc Việt Nam và Tứ Xuyên

(Trung Quốc)

107

(Nguồn: [16, tr. 17])

Hình 26: Một số hoa văn đồ gốm của Văn hóa Tam Tinh Đôi

(Nguồn: [19, tr.230])

Hình 27: Bôn Phùng Nguyên Hình 28: Bôn đá ngọc cỡ nhỏ ở Xóm Rền

108

(Nguồn: Hán Văn Khẩn,2009) (Nguồn: Hán Văn Khẩn,2009)

Hình 29: Qua đá: A- Lũng Hòa; B-Tháp Tại Kim Sơn; C-Tam Tinh Đôi

D-Nhị Lý Đầu; Qua Tam Tinh Đôi với chuôi giống chuôi nha chương

(Nguồn: Higham 1996)

Hình 30: Vòng tay hình ống: Xóm Rền; Phùng Nguyên; Hổ Lâm Sơn; Lương

Chử; Tam Tinh Đôi.

109

(Nguồn: Hán Văn Khẩn 2009, Tienlong Jiao 2007, gyyjy.com, Chengdu 2006)

Hình 31: Di vật Phùng Nguyên; Mô típ “mặt người” trên nha chương Tam

Tinh Đôi; Mô típ hình ếch Tam Tinh Đôi; Tấm đồng Tam Tinh Đôi; Tấm đồng

Nhị Lý Đầu.

110

( Nguồn: HX.Chinh-NN. Bích 1978;Nhà Bảo tàng Tam Tinh Đôi 2006.)