BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN

HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM

Ngành: Tài chính - Ngân hàng

NGUYỄN ĐỨC ANH

Hà Nội - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN

HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM

Ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 8340201

HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN: NGUYỄN ĐỨC ANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN VIỆT DŨNG

Hà Nội - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam” do

cá nhân tôi nghiên cứu, nguồn số liệu được thu thập từ các nguồn đã qua thẩm định và

có nguồn gốc rõ ràng, kết quả phản ánh trung thực đề tài nghiên cứu của luận văn.

Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Anh

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập thạc sĩ với chuyên ngành “Tài chính Ngân hàng” tại

trường Đại học Ngoại thương tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau

đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ và đặc biệt các thầy cô đã truyền đạt kiến thức trong

quá trình tôi học tập tại trường để tôi được trau dồi thêm kiến thức về chuyên ngành

đã học, từ đó xây dựng vững trắc nền tảng để hoàn thành luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới thầy PGS.TS. Nguyễn Việt Dũng -

Trưởng khoa Tài chính Ngân hàng trường đại học Ngoại thương, người đã chỉ bảo và

hướng dẫn nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài của tôi giúp tôi có thể

hoàn thành luận văn.

Sau cùng tôi xin cảm ơn gia đình đã luôn quan tâm, ủng hộ và tạo mọi điều

kiện tốt nhất trong quá trình học tập của tôi và cảm ơn những người bạn đã đồng hành

cùng tôi trong suốt 2 năm học tập tại trường đã hỗ trợ và giúp đỡ tôi hoàn thành luận

văn này.

Dù đã rất cố gắng hết mình, nhưng do năng lực còn hạn chế nên bài Luận Văn

nếu có phần thiếu sai sót xin được nhận sự góp ý chân thành của bạn đọc và các thầy

cô để đề tài được hoàn thiện hơn và đóng góp vào tình hình thực tiễn của xã hội.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Anh

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH ................................................................ vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ LUẬN VĂN ................................................................ viii

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................... 4

1.1 Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 4

1.2. Các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến hoạt động quản trị lợi

nhuận ................................................................................................................... 5

1.3. Các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến hoạt động quản trị lợi

nhuận ................................................................................................................... 7

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI

NHUẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP...................................................... 12

2.1. Cơ sở lý luận hoạt động quản trị lợi nhuận ................................................ 12

2.1.1. Khái niệm hoạt động quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp ........ 12

2.1.2. Lý thuyết liên quan giải thích đến hoạt động quản trị lợi nhuận ....... 14

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận ................... 18

2.1.4. Một số công cụ quản trị lợi nhuận ...................................................... 22

2.2. Động cơ và kỹ thuật để thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của các doanh

nghiệp. ............................................................................................................... 26

2.2.1. Động cơ thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận ................................ 26

2.2.2. Các kỹ thuật để thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của DN ....... 28

2.3. Các mô hình đo lường hoạt động quản trị lợi nhuận ................................. 35

2.3.1. Mô hình của Heathly (1985) ............................................................... 36

2.3.2. Mô hình của DeAngelo (1986) ............................................................ 36

iv

2.3.3. Mô hình của Jones (1991) ................................................................... 37

2.3.4. Các mô hình cải tiến của Jones và các cộng sự.................................. 37

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................ 39

3.1. Quy trình nghiên cứu ................................................................................. 39

3.1.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 39

3.1.2. Quy trình nghiên cứu .......................................................................... 39

3.2.1. Đòn bẩy tài chính ................................................................................ 41

3.2.2. Đa dạng đầu tư .................................................................................... 42

3.2.3. Biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư ........................... 43

3.2.4. Quy mô công ty.................................................................................... 44

3.2.5. Chất lượng kiểm toán .......................................................................... 45

3.2.6. Tỷ lệ độc lập của HDQT ..................................................................... 46

3.3. Mô hình nghiên cứu và đo lường ............................................................... 47

3.4. Chọn mẫu và dữ liệu nghiên cứu ............................................................... 48

3.5. Phương pháp phân tích số liệu ................................................................... 49

3.6. Xử lý số liệu ............................................................................................... 50

TỔNG KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................ 52

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................... 53

4.1. Kết quả thống kê mô tả .............................................................................. 53

4.1.1. Biến phụ thuộc QTLN ......................................................................... 53

4.1.2. Các biến độc lập, biến giả .................................................................. 53

4.2. Phân tích tương quan .................................................................................. 55

4.3. Kiểm định giả thiết về trị trung bình của hai tổng thể (Independent-samples

T-test) ................................................................................................................ 57

4.3.1. Biến phụ thuộc và biến Chất lượng kiểm toán .................................... 57

v

4.3.2. Biến phụ thuộc và biến đa dạng đầu tư .............................................. 58

4.4. Phân tích hồi quy ........................................................................................ 59

4.4.1. Kiểm định sự phù hợp của mô hình .................................................... 60

4.4.2. Kiểm định vấn đề đa cộng tuyến ......................................................... 61

4.4.3. Kiểm định Phương sai sai số thay đổi ................................................ 62

4.5. Thảo luận về kết quả nghiên cứu ............................................................... 63

TỔNG KẾT CHƯƠNG 4 ............................................................................ 64

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................. 65

5.1. Kết luận ...................................................................................................... 65

5.2. Kiến nghị .................................................................................................... 66

5.3. Hạn chế đề tài ............................................................................................. 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 72

PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... ix

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

AEM : Accurals Based Earnings Management (Quản trị lợi nhuận dồn tích)

BKS : Ban kiểm soát

BCTC : Báo cáo tài chính

CBTT : Công bố thông tin

CEO : Giám đốc điều hành

CSH : Chủ sở hữu

DNNY : Doanh nghiệp niêm yết

DA : Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh

DN : Doanh nghiệp

EM : Earnings Management (Quản trị lợi nhuận)

HĐKD : Hoạt động kinh doanh

HDQT : Hội đồng quản trị

HOSE : Sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM

HNX : Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

NQL : Nhà quản lý

NĐT : Nhà đầu tư

NDA : Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh

QTLN : Quản trị lợi nhuận

REM : Real Earnings Manipulation (Quản trị lợi nhuận thực tế)

TTCK : Thị trường chứng khoán

TA : Tổng biến kế toán dồn tích

TNDN : Thu nhập doanh nghiệp

TSCĐ : Tài sản cố định

vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU & HÌNH

Bảng 2.1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất quý 2 năm 2017 của

Công ty Cổ phần Bất động sản Ninh Văn Bay ..................................................... 31

Bảng 4.1: Kết quả thống kê mô tả Biến phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận .. 53

Bảng 4.2: Kết quả thống kê mô tả các biến độc lập ............................................. 53

Bảng 4.3: Kết quả bảng tần số biến độc lập (biến định tính) KIEMTOAN ......... 54

Bảng 4.4: Kết quả bảng tần số biến độc lập (biến định tính) DAUTU ................ 55

Bảng 4.5: Ma trận tương quan giữa các biến độc lập, biến phụ thuộc ................. 55

Bảng 4.6: Bảng kết quả kiểm định Independent - samples T-test đánh giá sự khác

biệt quản trị lợi nhuận giữa nhóm kiểm toán thuộc Big 4 và ngoài Big 4 ............ 57

Bảng 4.7: Bảng kết quả kiểm định Independent - samples T-test đánh giá sự khác

biệt về quản trị lợi nhuận giữa nhóm có đa dạng đầu tư (1) và nhóm không Group

Statistics ................................................................................................................ 59

Bảng 4.8: Bảng ANOVA cho kiểm định F ........................................................... 60

Bảng 4.9: Kết quả đánh giá sự phù hợp của mô hình ........................................... 61

Bảng 4.10: Bảng kết quả hồi quy đa biến ............................................................. 61

Bảng 4.11: Kết quả Kiểm định Phương sai sai số thay đổi .................................. 62

HÌNH

Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất ................................................................. 47

viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ LUẬN VĂN

Luận văn này nghiên cứu sự ảnh hưởng của 6 nhân tố: đòn bẩy tài chính, đa

dạng đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô công ty, chất

lượng kiểm toán và tỷ lệ độc lập HDQT trong 4 năm từ 2015 đến 2019. Bộ dữ liệu

được sử dụng được tổng hợp và lấy từ phần mềm Fiintrade do Stoxplus cung cấp

trong giai đoạn 2015 - 2019 sau đó được xử lý và được sử dụng dưới dạng mảng.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng nhằm xác định giả thuyết về các nhân

tố tác động và mức độ tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận, phần dữ liệu sau khi

thu thập được sẽ được tiến hành hồi quy bằng phần mềm SPSS. Để hiểu rõ hơn về

mối quan hệ giữa các nhân tố và hành vi quản trị lợi nhuận, luận văn đã lược khảo

các nghiên cứu trước đây và những lý thuyết liên quan đến hành vi quản trị lợi nhuận.

Sau khi tổng hợp các lý thuyết liên quan và các nghiên cứu trước, luận văn tiến

hành xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu. Với dữ liệu thứ cấp thu thập được,

bằng phương pháp hồi quy bội cho 6 biến độc lập là đòn bẩy tài chính (DONBAY),

đa dạng đầu tư (DAUTU), tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư

(DONBAYDD), quy mô công ty (QUYMO), chất lượng kiểm toán (KIEMTOAN)

và tỷ lệ độc lập HDQT (HDQT) với một biến phụ thuộc hành vi quản trị lợi nhuận

(QTLN). Kết quả cho thấy hai biến có quan hệ nghịch biến với hành vi quản trị lợi

nhuận (DAUTU và DONBAY), 1 biến quan hệ đồng biến (DONBAYDD) và 3 biến

còn lại không đạt nên bị loại khỏi mô hình nghiên cứu.

Từ kết quả nghiên cứu luận văn góp phần đưa ra bức tranh tổng quát chung về

hành vi QTLN của các DN với các nhà đầu tư, đồng thời kiến nghị nhằm kiểm soát

hành vi QTLN của các DN, góp phần cải thiện chất lượng BCTC của các DNNY trên

sàn chứng khoán Việt Nam

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu

Trong khoảng nửa thể kỷ gần đây chủ đề quản trị lợi nhuận đang nhận được sự

quan tâm đặc biệt của rất nhiều những chuyên gia, các nhà kinh tế học cũng như các

đối tượng khác trong xã hội, BCTC của một doanh nghiệp có thể coi như một bức

tranh, đoạn phim chi tiết về tình hình tài chính cũng như tiềm năng phát triển của

doanh nghiệp đó, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của các bên có lợi ích liên

quan đặc biệt là nhà đầu tư. Việc các doanh nghiệp tận dụng sự linh hoạt các chuẩn

mực kế toán nhằm thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận đã gây tác động tiêu cực đến

niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường đặc biệt là với thị trường non trẻ như TTCK

Việt Nam. Một trong những yếu tố quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu

tư là chỉ tiêu lợi nhuận, qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh và triển vọng xu hướng

phát triển tương lai của doanh nghiệp. Quản trị lợi nhuận là sự vận dụng linh hoạt

chính sách kế toán hoặc phương pháp và ước tính kế toán để điều chỉnh lợi nhuận

thay đổi (tăng hoặc giảm) so với lợi nhuận đạt được ở mức hoạt động thông thường

của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà quản lý còn có thể đưa ra các quyết định kinh doanh

có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận thực tế như áp dụng các chính sách bán hàng, tăng

công suất sản xuất nhằm giảm giá thành đơn vị hoặc cắt giảm các khoản chi phí tùy

ý. Động cơ thực hiện quản trị lợi nhuận của nhà quản lý có thể xuất phát từ lợi ích cá

nhân hoặc vì mục tiêu chung của doanh nghiệp. Song chính điều này lại làm cho các

bên liên quan sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính hiểu nhầm về tình hình hoạt động

thực tế của doanh nghiệp và có thể đưa ra các quyết định không phù hợp. Chính vì lý

do đó, tìm hiểu về hoạt động quản trị lợi nhuận của nhà quản lý là mục tiêu được thực

hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu cả trên thế giới và Việt Nam. QTLN liên quan chặt

chẽ đến chất lượng thông tin của BCTC của các công ty niêm yết qua đó tác động

đến quyết định của nhà đầu tư. Với mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt

Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mời nổi trên bảng xếp hạng của các tổ chức

quốc tế như FTSE Russel và MSCI thì tính minh bạch thông tin của các công ty đang

niêm yết trên sàn là rất quan trọng, vì vậy hoạt động quản trị lợi nhuận của các DN

niêm yết trên sàn cần được nhìn nhận một cách cẩn trọng và kiểm soát chặt chẽ trong

2

thời kì hiện nay. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận

của các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam”

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là từ dữ liệu BCTC của các doanh nghiệp

Việt Nam đã công bố trên sàn chứng khoán Hà Nội và sàn chứng khoán TpHCM

trong giai đoạn 2015 - 2019 tính ra các chỉ số tài chính từ đó phân tích, thống kê để

nghiên cứu các nhân tố tác động đến hành vi QTLN của nhà quản trị tại các công ty

niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, đồng thời kiểm định lại một số mô hình đã

được áp dụng trên thế giới trong thời gian qua bằng hình thức QTLN thông qua các

khoản dồn tích. Qua đó trả lời được các câu hỏi sau:

- Mức độ thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý tại các

DNNY trên sàn chứng khoán Hà Nội và sàn chứng khoán TpHCM?

- Mức độ tác động của các nhân tố đến hành vi QTLN của các DN niêm yết trên

sàn chứng khoán Hà Nội và sàn chứng khoán TpHCM?

Từ kết quả nghiên cứu luận văn góp phần đưa ra bức tranh tổng quát chung về

hoạt động QTLN của các DN với các nhà đầu tư, đồng thời kiến nghị nhằm kiểm soát

hoạt động QTLN của các DN,góp phần cải thiện chất lượng BCTC của các DNNY

trên sàn chứng khoán Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi QTLN của các DN

niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và sàn chứng khoán TpHCM.

Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn chứng khoán của

Việt Nam là sàn HNX, không bao gồm các công ty đại chúng giao dịch trên sàn

Upcom. Ngoài ra trong bài nghiên cứu dữ liệu sẽ loại bỏ bớt các công ty hoạt động

trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các quỹ đầu tư do sự khác biệt

trong cơ cấu tài sản và phương thức hạch toán so với các DN trên sàn. Với phạm vi

không gian: luận văn sử dụng số liệu báo cáo tài chính năm của các DN giai đoạn từ

3

2015 - 2019. Kết quả tác giả sẽ thu thập số liệu tại 533 công ty tại sàn chứng khoán

Hà Nội và sàn chứng khoán TpHCM giai đoạn từ 2015 - 2019

4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

Bộ dữ liệu được sử dụng được tổng hợp và lấy từ phần mềm Fiintrade do

Stoxplus cung cấp trong giai đoạn 2015 - 2019 sau đó được xử lý và được sử dụng

dưới dạng mảng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng nhằm xác định giả

thuyết về các nhân tố tác động và mức độ tác động đến hoạt động quản trị lợi nhuận,

phần dữ liệu sau khi thu thập được sẽ được tiến hành hồi quy bằng phần mềm SPSS.

Kết cấu của luận văn

Kết cấu của đề tài sẽ bao gồm các phần sau

Chương 1: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, khái quát về tổng quan

tình hình nghiên cứu của đề tài, các nghiên cứu trong và ngoài nước từ đó định hướng

được các bước nghiên cứu tiếp theo của đề tài.

Chương 2: Trình bày cơ sở lý thuyết, chỉ ra được tầm quan trong của chất lượng

lợi nhuận trong BCTC của doanh nghiệp, các lý thuyết liên quan đến hoạt động

QTLN, mục đích và các cách thức mà nhà quản lý sử dụng để thực hiện hành vi, các

mô hình nghiên cứu trước đó từ đó xác định hướng nghiên cứu tiếp theo.

Chương 3: Trình bày phương pháp nghiên cứu, quy trình nghiên cứu bằng cách

xây dựng mô hình nghiên cứu và xác định các biến trong mô hình.

Chương 4: Trình bày và phân tích kết quả nghiên cứu định lượng, qua đây kiểm

định lại các khuyết tật tồn tại của mô hình và trình bày cách khắc phục.

Chương 5: Đưa ra kết luận chung về tình hình nghiên cứu từ đó đề xuất các

kiến nghị về hành vi QTLN của các nhà quản lý với các bên liên quan đặc biệt là đối

tượng nhà đầu tư.

4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài

Về bản сhất thì hoạt động quản trị lợi nhuận táс động trựс tiếр đến hiệu quả hоạt

động dоаnh nghiệр khi táс động đến dòng tiền thựс tế hоạt động, và bằng сáсh này

hаy сáсh kháс, việс “tạm ứng dòng tiền trоng tương lаi” hаy “gửi lại một рhần lợi

nhuận hiện tại” khiến dоаnh nghiệр đối mặt với những rủi rо tiềm ẩn trоng hоạt động

kinh dоаnh vì trоng một сhu kì khủng hоảng, việс điều сhỉnh lợi nhuận dương trоng

nhiều kì liên tiếр là сáсh trựс tiếр đẩy сông ty đến bờ vựс рhá sản. Thựс tế này сàng

khiến сhо сáс nghiên сứu trоng lĩnh vựс minh bạсh thông tin tài сhính dоаnh nghiệр,

đặс biệt là những nghiên сứu về tương quаn giữа quản trị lợi nhuận và hiệu quả hоạt

động dоаnh nghiệр trở nên сần thiết hơn bао giờ hết. Сó thể nhắс đến сáс сông trình

nghiên сứu сủа Dесhоw & Slоаn (1991) đánh giá сhi рhí R&D сủа сáс СЕО trоng

năm сuối nhiệm kì. Tiêu biểu сó сông trình сủа Jоnеs (1991) khi đây là mô hình рhát

hiện quản trị lợi nhuận áр dụng dựа trên biến kế tоán dồn tíсh сó thể điều сhỉnh, và

là mô hình đầu tiên đượс сhấр thuận sử dụng một сáсh rộng rãi

Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển, quy mô hoạt động

ngày càng lớn và thu hút đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư. Tuy nhiên vẫn tồn

tại hiện tượng điều chỉnh lợi nhuận vì các mục tiêu khác nhau của các công ty niêm

yết như thu hút đầu tư, tiết kiệm thuế…Điều này gây khó khăn cho các đối tượng sử

dụng thông tin kế toán. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam, rất nhiều

nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự xuất hiện của hành vi

quản trị lợi nhuận. Trong đó, lợi nhuận có thể được điều chỉnh tăng nhằm tăng giá trị

doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu hoặc thu hút nhà đầu tư trong năm niêm yết đầu

tiên hoặc lợi nhuận cũng có thể được điều chỉnh giảm nhằm giảm số thuế Thu nhập

doanh nghiệp phải nộp khi có sự thay đổi thuế suất.

Tại Việt Nam, các mô hình dồn tích được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về

quản trị lợi nhuận đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán và đã đạt được

nhiều kết quả với một số nghiên cứu điển hình như: luận án Tiến sĩ của Nguyễn Hà

Linh (2017) sử dụng mô hình Jones (1991) để xem xét các nhân tố ảnh hưởng; nghiên

5

cứu của Nguyễn Công Phương (2017) và luận án Tiến sĩ của Phạm Thị Bích Vân

(2017) sử dụng mô hình cải tiến của Dechow và cộng sự (1995) trong bối cảnh các

công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu,... Bên cạnh đó, các mô hình của

Roychowdhury (2006) cũng được vận dụng trong một số nghiên cứu gần đây như:

Nguyễn Thị Phượng Loan và Nguyễn Minh Thao (2016) khi xem xét hành vi quản

trị lợi nhuận nhằm tránh lỗ và suy giảm lợi nhuận.

Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động quản trị lợi nhuận

của nhà quản lý. Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam vẫn còn mới mẻ nên các nghiên

cứu về hành vi quản trị lợi nhuận mới chỉ bắt đầu được thực hiện những năm gần đây.

1.2. Các nghiên cứu nước ngoài về nhân tố tác động đến hoạt động quản trị

lợi nhuận

Ahmad-Zaluki, N. A., Campbell, K., & Goodacre, A. (2011) với nghiên cứu

“Earnings management in Malaysian IPOs: The East Asian crisis, ownership control,

and post-IPO performance”, The International Journal of Accounting, 46(2), 111-

137. Nghiên cứu về hoạt động quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Malaysia

với mẫu nghiên cứu gồm 250 công ty trong giai đoạn 1990-2000 và sử dụng mô hình

Jones (1991) để nhận diện hoạt động quản trị lợi nhuận, cho thấy chất lượng công ty

kiểm toán và thời gian hoạt động của công ty có tác động nghịch biến với hoạt động

quản trị lợi nhuận.

Roodposhti, F. R., & Chashmi, S. N (2011) với đề tài “The impact of corporate

governance mechanisms on earnings management”, African Journal of Business

Management, 5(11), 4143-4151. Tác giả nghiên cứu về tác động của cơ chế quản trị

công ty đến quản trị lợi nhuận với mẫu nghiên cứu gồm 196 công ty niêm yết trên

Sàn chứng khoán Tehran trong giai đoạn 2004-2008. Kết quả nghiên cứu cho thấy

quy mô công ty càng tăng thì hoạt động quản trị lợi nhuận càng tăng.

Nasrollah Takhtaei, Mohammad Amin Ojaghi and Seyed Hamid Sahafi

Esfandabadi (2013) với nghiên cứu “Effect of Financial Leverage and Investment

Diversification on Income-Increasing Earnings Management”, Middle-East Journal

of Scientific Research. Trong bài tạp chí này, tác giả sử dụng biến đòn bẩy tài chính,

6

biến đa dạng đầu tư và biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư là 3 biến

độc lập chính. Tác giả sử dụng mô hình của Kothari, Leone and Wasley (2005) để

nhận diện, đo lường Biến phụ thuộc - Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được.

Kết quả cho thấy hoạt động quản trị lợi nhuận có quan hệ nghịch biến với đòn bẫy tài

chính và đa dạng đầu tư, còn đối với biến tích hợp đòn bẩy tài chính cùng đa dạng

đầu tư thì lại có quan hệ đồng biến.

Rahmani, S., & Akbari, M. A (2013) với đề tài “Impact of firm size and capital

structure on earnings management: evidence from Iran”. World of Sciences Journal,

1(17), 59-71. Tác giả nghiên cứu về tác động của quy mô doanh nghiệp và cấu trúc

vốn đến quản trị lợi nhuận sử dụng mô hình Jones (1991) để đo lường hoạt động quản

trị lợi nhuận trên mẫu gồm 75 công ty niêm yết tại Iran trong giai đoạn 2006-2010.

Kết quả cho thấy cấu trúc vốn (tỷ lệ đòn bẩy tài chính) có ảnh hưởng nghịch biến với

hoạt động quản trị lợi nhuận, nhưng nghiên cứu không tìm ra ảnh hưởng của biến quy

mô công ty.

Dwi Lusi Tyasing Swastika (2013) với nghiên cứu “Corporate Governance,

Firm Size, and Earning Management: Evidence in Indonesia Stock Exchange”, IOSR

Journal of Business and Management. Bài tạp chí khảo sát 4 yếu tố ảnh hưởng đến

hoạt động quản trị lợi nhuận bao gồm: số lượng thành viên trong hội đồng quản trị,

tỷ lệ độc lập của hội đồng quản trị, quy mô công ty và chất lượng công ty kiểm toán.

Tác giả sử dụng mô hình của Kothari, Leone and Wasley (2005) để nhận diện, đo

lường Biến phụ thuộc - Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được. Kết quả cho

thấy biến số lượng thành viên trong hội đồng quản trị có mối quan hệ đồng biến với

hoạt động quản trị lợi nhuận, trong khi biến quy mô công ty và chất lượng công ty

kiểm toán có mối quan hệ nghịch biến với hoạt động quản trị lợi nhuận và tỷ lệ độc

lập của HDQT không có ý nghĩa thống kê.

Iram Naz, Khurram Bhatti, Abdul Ghafoor and Habib Hussain Khan (2015) với

nghiên cứu “Impact of Firm Size and Capital Structureon Earnings Management:

Evidence from Pakistan”, European Journal of Business and Management. Bài tạp

chí nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của quy mô công ty và cơ cấu vốn (Tỷ lệ nợ dài

hạn / Vốn cổ phần) đối với hoạt động quản trị lợi nhuận. Tác giả sử dụng mô hình

7

Modified Jones (1994) để nhận diện, đo lường Biến phụ thuộc - Biến kế toán dồn tích

có thể điều chỉnh được. Kết quả cho thấy biến cơ cấu vốn có mối quan hệ nghịch biến

với hoạt động quản trị lợi nhuận trong khi biến quy mô công ty không có ý nghĩa

khảo sát.

1.3. Các nghiên cứu trong nước về nhân tố tác động đến hoạt động quản trị

lợi nhuận

Nghiên cứu về quản trị lợi nhuận là chủ đề còn mới ở Việt Nam bởi vì thị trường

chứng khoán Việt Nam là thị trường mới nổi nên hành lang luật pháp, chính sách vĩ

mô của nhà nước đến cả pháp luật về kế toán, kiểm toán chưa chặt chẽ. Một số nghiên

cứu về quản trị lợi nhuận trong thời gian gần đây được thực hiện tại Việt Nam tiêu

biểu như:

Trần Thị Mỹ Tú (2014) với nghiên cứu “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến

hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết

trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Kinh tế

thành phố Hồ Chí Minh. Bài nghiên cứu khảo sát sự tác động của 4 nhân tố: tỷ lệ độc

lập của hội đồng quản trị, quy mô của công ty kiểm toán BCTC cho doanh nghiệp

niêm yết, quy mô của doanh nghiệp và đòn bẫy tài chính. Kết quả cho thấy 2 biến độc

lập (tỷ lệ độc lập của hội đồng quản trị, quy mô của công ty kiểm toán BCTC cho

doanh nghiệp niêm yết) có quan hệ nghịch biến với hoạt động quản trị lợi nhuận trong

khi 2 biến còn lại (quy mô của doanh nghiệp và đòn bẫy tài chính) có quan hệ đồng

biến với hoạt động quản trị lợi nhuận.

Nguyễn Thị Toàn (2016) với đề tài nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến

hành vi quản trị lợi nhuận - Nghiên cứu tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch

chứng khoán Hà Nội”, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn

tập trung xem xét các nhân tố đặc điểm công ty ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi

nhuận cho năm tài chính mới nhất, giúp các đối tượng liên quan có thể cập nhật thông

tin về hoạt động quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng

khoán Hà Nội, từ đó hỗ trợ cho việc ra quyết định của mình. Kết quả nghiên cứu cho

thấy 4 nhân tố liên quan đến đặc điểm công ty, bao gồm: quy mô công ty, thời gian

8

hoạt động của công ty, loại công ty kiểm toán và tính trì hoãn của báo cáo tài chính

có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Sở giao

dịch chứng khoán Hà Nội.

Nguyễn Thị Phượng Loan, Nguyễn Minh Tha (2016) với nghiên cứu “Nhận

diện hành vi quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam”, Tạp Chí Phát Triển KH & CN. Sử dụng dữ liệu của 610

công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng Khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

trong giai đoạn từ 2008-2015, bằng các mô hình hồi quy đã được kiểm định, nghiên

cứu cho thấy các nhà quản lý có áp dụng hành vi quản trị lợi nhuận thực tế để tránh

lỗ. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu đã được thực hiện trước đó. Cuối

cùng, dựa vào kết quả thực nghiệm, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao độ

tin cậy của chỉ tiêu lợi nhuận và bảo về quyền lợi nhà đầu tư.

Lê Thị Yến Nhi (2017) với đề tài nghiên cứu “Phân tích hành vi quản trị lợi

nhuận trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết nhóm ngành sản xuất hàng

tiêu dùng Việt Nam”, Trường đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Theo kết quả nghiên

cứu, có thể thấy trong nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam, có tồn tại hành

vi điều chỉnh lợi nhuận. Các công ty thuộc nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng có

cùng đặc trưng về ngành nghề kinh doanh, cũng như áp dụng các phương pháp kế

toán, chuẩn mực kế toán tương đối giống nhau, nên không có sự khác biệt về hành vi

điều chỉnh theo nhóm ngành. Mức độ quản trị lợi nhuận sẽ có sự khác biệt tùy theo

quy mô của doanh nghiệp, theo sàn niêm yết.

Phạm Thị Bích Vân (2017) với đề tài luận án “Quản trị lợi nhuận khi phát hành

thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Đại

Học Đà Nẵng. Qua kết quả kiểm định và phân tích ở trên cho thấy, các công ty niêm

yết có phát hành thêm cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam có

hiện tượng điều chỉnh tăng lợi nhuận trước kỳ phát hành thêm cổ phiếu nhằm thu hút

đầu tư và tăng giá trị thị trường của cổ phiếu. Đồng thời, nếu quy mô doanh nghiệp,

khả năng sinh lời càng lớn thì sự điều chỉnh lợi nhuận càng cao. Ngược lại, đòn bẩy

tài chính, quy mô hội đồng quản trị, sự thanh khoản của tài sản càng nhỏ thì sự điều

chỉnh lợi nhuận càng lớn. Trong khi đó, tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập, sự

9

kiêm nhiệm của chức danh chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc/tổng giám đốc và

kiểm toán độc lập không có ảnh hưởng gì đến hành động điều chỉnh lợi nhuận.

Lê Văn Thừa (2017) với đề tài nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến hành

vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên sàn giao

dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ

Chí Minh. Luận văn này nghiên cứu sự ảnh hưởng của 6 nhân tố: đòn bẩy tài chính,

đa dạng đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô công ty, chất

lượng kiểm toán và tỷ lệ độc lập HDQT trong 4 năm từ 2015 đến 2016 với mẫu quan

sát là 270 công ty. Mô hình Modified Jones được vận dụng để đo lường hành vi quản

trị lợi nhuận. Kết quả cho thấy ba biến có quan hệ nghịch biến với hành vi quản trị

lợi nhuận (KIEMTOAN, HDQT và QUYMO), 2 biến quan hệ đồng biến (DAUTU

và DONBAY) và 1 biến còn lại không đạt nên bị loại khỏi mô hình nghiên cứu.

Hoàng Thị Việt Hà, Đặng Ngọc Hùng (2018) với nghiên cứu khoa học “Yếu tố

ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp niêm

yết tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ. Các tác giả tập trung nghiên cứu

các yếu tố ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận dồn tích và Quản trị lợi nhuận thực tế

của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 06

trong số 08 yếu tố ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận dồn tích và có ý nghĩa thống kê

ở mức 1%, 5%, 10%; có 02 yếu tố có ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận thực tế; 05

yếu tố (BCTC hợp nhất, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc, Hiệu quả hoạt động

kinh doanh, Đòn bẩy tài chính, Phát hành cổ phiếu) có ảnh hưởng thuận chiều đến

AEM1, ngược lại yếu tố Quy mô và chất lượng kiểm toán có quan hệ ngược chiều

với AEM1. Kết quả nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng về Quản trị lợi

nhuận khi xem xét theo khía cạnh Quản trị lợi nhuận dồn tích và Quản trị lợi nhuận

thực tế, đồng thời gợi mở việc áp dụng các mô hình Quản trị lợi nhuận khi thực hiện

các nghiên cứu trong tương lai đối với doanh nghiệp niêm yết trong nước và quốc tế.

Nguyễn Thị Kim Cúc, Phạm Thị Mỹ Linh (2018) với nghiên cứu “Nhân tố ảnh

hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận khi phát hành thêm cổ phiếu của các công ty

niêm yết tại Việt Nam”, Tạp chí Công Thương. Nghiên cứu này nhằm xem xét mối

quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận khi phát hành

thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương

10

pháp nghiên cứu hỗn hợp, là phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp nghiên cứu

định lượng. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20 để xác định hệ số hồi quy, trên cơ

sở đó xây dựng phương trình các nhân tố tác động đến điều chỉnh lợi nhuận của các

công ty niêm yết có phát hành thêm cổ phiếu. Từ đó, kiểm định sự tác động của các

nhân tố đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty. Kết quả nghiên cứu cho

thấy các nhân tố như tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) độc lập, kiểm toán

độc lập, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn không thuộc

ban điều hành đều tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận khi phát hành thêm cổ

phiếu của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra

hàm ý với từng nhân tố tác động nhằm hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà

quản lý, nâng cao tính trung thực và hợp lý trên Báo cáo tài chính (BCTC), giúp nhà

đầu tư có cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư chính xác hơn.

Ngô Hoàng Điệp (2018) với đề tài luận án “Các nhân tố tác động đến hành vi

quản trị lợi nhuận của người quản lý tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng

khoán Việt Nam”, Trường đại học Kinh tế TP.HCM. Kết quả nghiên cứu cho thấy các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam có thực hiện quản trị lợi

nhuận thông qua các khoản dồn tích và quản trị lợi nhuận thông qua các nghiệp vụ

kinh tế phát sinh và mức độ quản trị lợi nhuận là cao so với một số nước trong khu

vực. Các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố đến hành vi QTLN

thông qua các khoản dồn tích gồm: thường xuyên tổ chức các cuộc họp HĐQT, có tỷ

kệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính, có sự hiện diện nhiều thành viên nữ

trong HĐQT và BKS. Trong các nhân tố tác động đến AEM thì nhân tố ROA, nhân

tố tỷ lệ nữ trong HĐQT, nhân tố quy mô doanh nghiệp và nhân tố tỷ lệ nợ vay ngắn

hạn có tác động mạnh nhất. Các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân

tố đến hành vi QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh: trong các nhân tố

tác động đến REM, nhân tố tỷ lệ nữ thuộc HĐQT, quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ nợ phải

trả và quy mô kiểm toán có tác động mạnh nhất. Từ đó, tác giải đề xuất một số kiến

nghị nhằm kiểm soát hành vi QTLN, nâng cao chất lượng thông tin công bố cho công

ty kiểm toán.

Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Văn Bảo (2019) với nghiên cứu “Cơ cấu sở hữu và

hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên HOSE”, Tạp chí tài chính.

Nghiên cứu xem xét tác động của các nhân tố cơ cấu sở hữu gồm mức độ tập trung

11

quyền sở hữu, tỷ lệ sở hữu của nhà quản lý, tỷ lệ sở hữu của nhà nước, tỷ lệ sở hữu

của nhà đầu tư nước ngoài và các nhân tố khác gồm quy mô công ty, đòn bẩy tài

chính, chất lượng kiểm toán đến hành vi quản trị lợi nhuận. Kết quả cho thấy có 4

nhân tố tác động ngược chiều đến hành vi quản trị lợi nhuận, đó là biến tỷ lệ sở hữu

của nhà quản lý, tỷ lệ sở hữu của nhà nước, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

và chất lượng kiểm toán. Nhân tố đòn bẩy tài chính có tác động cùng chiều đến hành

vi quản trị lợi nhuận.

Nhìn chung các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam hiện nay tập trung vào

những vấn đề cơ bản của hoạt động quản trị lợi nhuận sau: mô hình nhận diện hoạt

động quản trị lợi nhuận, động cơ dẫn đến hoạt động quản trị lợi nhuận, kỹ thuật quản

trị lợi nhuận, các nhân tố tác động đến hoạt động quản trị lợi nhuận, hậu quả của hoạt

động quản trị lợi nhuận. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tập trung nghiên cứu

quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam.

12

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN

CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

2.1. Cơ sở lý luận hoạt động quản trị lợi nhuận

2.1.1. Khái niệm hoạt động quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp

Đối với các bên có lợi ích liên quan việc tiếp cận thông tin và đánh giá doanh

nghiệp thông qua BCTC của chính doanh nghiệp đó trở nên rất quan trọng đặc biệt là

với đối tượng là nhà đầu tư. BCTC doanh nghiệp được coi là ngôn ngữ mà các bên

có thể dựa vào để đánh giá doanh nghiệp đó, một trong các yếu tố mà nhà đầu tư xem

xét đến để đánh giá và ra quyết định đầu tư đó là dựa vào chất lượng lợi nhuận

(Earnings Quality) của doanh nghiệp, là bức tranh phản ánh hiệu quả hoạt động của

chính DN ở hiện tại và tương lai giúp các NĐT trả lời được các câu hỏi: Lợi nhuận

trong tương lai liệu có lặp lại? Lợi nhuận của doanh nghiệp có ổn định không? Bản

thân doanh nghiệp có kiểm soát được nguồn tạo lợi nhuận không? Điều quan trọng

hơn cả là lợi nhuận đó có tạo ra dòng tiền thực hay không?... Chính vì đó mà nhiều

nhà quản trị doanh nghiệp đã thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của mình với

nhiều động cơ khác nhau.

Trải qua gần 1 thế kỉ hoạt động quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp đã và đang

là chủ đề nghiên cứu được quan tâm của các nhà kinh tế học và những người làm

trong ngành tài chính trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, nhiều định nghĩa

khác nhau đã được ra đời đi cùng với sự phát triển theo thời gian của các doanh nghiệp

và hoạt động QTLN khác nhau được vận dụng linh hoạt của các nhà quản trị. Mở đầu

cho nghiên cứu về hoạt động QTLN có thể kể tới công trình nghiên cứu của Mr.

Hepworth (1953) khi ông đã tiến hành việc điều tra và đưa ra quan điểm về hoạt động

và cách thức mà các nhà quản trị doanh nghiệp sử dụng để san bằng lợi nhuận (income

smoothing) giữa các năm nhằm giảm mức độ rủi ro mà các nhà đầu tư nhìn vào với

doanh nghiệp, nghiên cứu của ông là nền tảng cho các nghiên cứu sau này về hành vi

QTLN của các DN. Hoạt động quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích được Gordon

(1964) định nghĩa là việc điều chỉnh lợi nhuận thông qua sự linh hoạt trong việc lựa

13

chọn các chính sách và ước tính kế toán được chấp nhận bởi các quy định về kế toán

(Nguyễn Thị Phượng Loan, Nguyễn Minh Thảo, 2016).

Schipper (1989) định nghĩa “QTLN là hành vi người quản lý sử dụng sức ảnh

hưởng của mình để can thiệp vào việc vận dụng các chính sách kinh tế nhằm đạt được

lợi ích cá nhân” ngoài ra ông còn mở rộng thêm định nghĩa về hành vi QTLN ngoài

cơ sở dồn tích có điều chỉnh AEM (Accrual earnings management) ông bổ sung thêm

về hành vi QTLN trực tiếp thông qua dòng tiền REM (Real earnings management)

đó là “hành vi đạt được thông qua các quyết định về thời gian của các hoạt động đầu

tư và tài chính để thay đổi lợi nhuận được báo cáo hoặc các chỉ tiêu liên quan” [1,tr.

92]. Có rất nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu về chủ đề này và một trong những

nghiên cứu nổi bật có thể kể đến như của Healy và Wahlen (1999) về hoạt động quản

trị lợi nhuận thông qua hình thức REM đó là “Hoạt động quản trị lợi nhuận xảy ra

khi họ những nhà quản trị vận dụng những kĩ thuật nhằm điều chỉnh trên báo cáo tài

chính và trong cấu trúc giao dịch để thay đổi báo cáo tài chính khiến gây ra sự hiểu

nhầm của các bên trong việc đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp đó, hoặc tạo tác động đến kết quả của các giao dịch hợp đồng mà phụ thuộc

vào số liệu kế toán báo cáo”.

Quản trị lợi nhuận xảy ra khi “nhà quản lý điều chỉnh báo cáo tài chính và cơ cấu

giao dịch để thay đổi báo cáo tài chính hoặc là đánh lừa một số các bên liên quan về

kết quả kinh doanh của công ty (Healy và Wahlen, 1999, trang 368). Quản trị lợi nhuận

phản ánh hành động của nhà quản trị trong việc lựa chọn các phương pháp kế toán để

mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng giá trị thị trường của công ty (Scott 1997).

Quản trị lợi nhuận là nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu đề ra. Ví dụ, các nhà

quản lý có thể muốn tránh báo cáo lỗ hoặc lợi nhuận giảm so với cùng quý, năm trước

(Burgstahler và Dichev, 1997a và 1997b; DeGeorge và cộng sự, 1999). Ngoài ra, các

nhà quản lý có thể muốn báo cáo lợi nhuận đáp ứng hoặc vượt quá dự báo của các

nhà phân tích (Rangan, 1997; Brown, 2001; DeGeorge và cộng sự, 1999; Dechow và

cộng sự, 1995).

14

Giá cổ phiếu thường giảm đáng kể khi các mục tiêu lợi nhuận không đạt được,

thậm chí lợi nhuận giảm rất nhỏ (Skinner và Sloan, 2002). Dichev và cộng sự (2013),

đã tiến hành khảo sát 169 giám đốc tài chính tại các công ty niêm yết trên thị trường

Mỹ và tiết lộ rằng ít nhất 20% công ty có điều chỉnh lợi nhuận trong báo cáo tài chính

hàng quý, trong đó lý do nhằm thao túng cổ phiếu là quan trọng nhất chiếm tới 94,1%

Trong thời gian qua hoạt động QTLN của các DN xảy ra ngày càng tinh vi và

nhiều hơn gây ra các ảnh hưởng nghiệm trọng đến thị trường và đặc biệt là niềm tin

của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán, từ các vụ lùm xùm làm chấn động thị

trường tài chính Thế Giới như trường hợp của ENROL năm 2001, năm 2002 là

WorldCom một tập đoàn Viễn thông của Mỹ với tuổi đời gần 20 năm, hay vụ sụp đổ

làm trấn động thị trường toàn cầu vào ngày 15/09/2008 của Lehman Brothers một

trong những ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ. Đến các trường hợp của doanh nghiệp

Việt Nam tiêu biểu như Bông Bạch Tuyết (BBT) hay Công Ty Cổ Phần Gỗ Trường

Thành (TTF), Dược Viễn Đông (DVD) …v..v… Điều này khiến cho các nghiên cứu

gần đây đưa ra các quan điểm mạnh mẽ hơn về QTLN như của Levit (1998) định

nghĩa “quản trị lợi nhuận là một mảng tối mà ở đó, kế toán đang bị làm sai do nhà

quản trị đã “cắt gọt” các khía cạnh của nó. Vì vậy, báo cáo lãi lỗ phản ánh mong

muốn của nhà quản trị hơn là phản ánh tình hình tài chính thực của doanh nghiệp.”

Trên cơ sở pháp lý thì quản trị lợi nhuận không được coi là hoạt động vi phạm

vào luật nhưng để nâng cao tính minh bạch của thị trường, góp phần thu hút các nhà

đầu tư trong việc tiếp cận thông tin thông qua BCTC của các công ty trên sàn thì hoạt

động này cần phải được kiểm soát chặt chẽ.

2.1.2. Lý thuyết liên quan giải thích đến hoạt động quản trị lợi nhuận

2.1.2.1. Lý thuyết đại diện (Agency theory)

Lý thuyết đại diện cho rằng luôn tồn tại một mối quan hệ gọi là mối quan hệ đại

diện (agency reletionship) xảy ra khi chủ sở hữu doanh nghiệp (người ủy nhiệm) thuê

những nhà quản trị (người đại diện) đại diện cho lợi ích của họ. Và luôn có một khả

năng tiểm tàng xảy ra đó là mâu thuẫn lợi ích giữa hai bên và mâu thuẫn này được

gọi là vấn đề đại diện (agency problem).

15

Thật vậy từ những nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này như Ross(1973) ông đã

cho rằng “mối quan hệ đại diện được thiết lập giữa hai hay nhiều bên khi mà một trong

các bên này gọi là người đại diện (agent), hành động như một đại diện của bên kia,

được gọi là người ủy quyền (principal), trong một bối cảnh ra quyết định đặc biệt”.

Hay như hai tác giả là Jensen & Meckling (1976) cũng đưa ra nhận xét của mình

về mối quan hệ đại diện như sau “một hợp đồng trong đó một hay nhiều người sử

dụng dịch vụ của một người khác để hoàn thành, dưới danh nghĩa của mình, một

công việc nào đó, hành động này bao hàm sự ủy quyền quyền ra quyết định cho

người khác”.

Nếu cả hai bên trong mối quan hệ đại diện này đều muốn tối đa hóa giá trị lợi

ích của mình sẽ là nguyên nhân dẫn đến “giám đốc của các doanh nghiệp này trở

thành những người quản lý tài chính của người khác … một cách bất cẩn và lãng

phí” chứ không “thực sự nghiêm túc như cách mà những người chủ doanh nghiệp xử

lý vốn của chính họ” (Smith, 1776). Điều này hàm ý rằng người quản lý công ty sẽ

luôn không hành động vì lợi ích tốt nhất của người chủ sở hữu doanh nghiệp do có

tách biệt quyền sở hữu và quyền điều hành doanh nghiệp cũng như đối nghịch về lợi

ích giữa hai bên.

Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp này đã dẫn đến

mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và nhà quản trị, điều này làm nảy sinh ra một loại chi

phí gọi là chi phí đại diện (Agency Cost). Chi phí đại diện sẽ tồn tài dưới 2 dạng là

chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:

- Chi phí gián tiếp được thể hiện qua cơ hội bị mất đi khi nhà quản trị không

thực hiện một dự án đầu tư có kỳ vọng tác động tích cực đến giá trị công ty và lợi ích

của cô đông như giá trị cổ phần, song song với đó lại rất rủi ro. Chủ sở hữu thì muốn

thực hiện dự án vì có khuynh hướng chấp nhận rủi ro cao (rick-prefrerence) cao hơn

so với nhà quản trị, phần là do chủ sở hữu có thể đã thực hiện đa dạng hóa danh mục

đầu tư của mình, ngược lại so với những cổ đông trong công ty, các nhà quản trị có

xu hướng đầu tư ngắn hạn hơn và đảm bảo an toàn hơn cho bản thân mình vì do công

16

việc của họ có thể bị ảnh hưởng (lương, thưởng, mất việc …v..v..) nếu đầu tư vào các

dự án rủi ro và dài hơi hơn.

- Chi phí đại diện trực tiếp được thể hiện qua hai hình thức đó là chi tiêu của

DN để mang lại lợi ích cho nhà quản trị mà các khoản này do cổ đông phải gánh chịu.

Ví dụ: công ty mua một chiếc siêu xe đắt tiền tặng riêng cho nhà quản trị.

Hình thức tiếp theo là những chi phí phát sinh để giám sát hoạt động của nhà

quản trị như là chi phí cho kiểm toán bên ngoài để đánh giá sự chính xác của các

thông tin trong BCTC công bố trên các phương tiện truyền thông.

2.1.2.2. Lý thuyết tín hiệu (Sinalling theory)

Những thông tin đưa ra có thể chứa thông tin tích cực, tiêu cực và có thể là

những thông tin không hoàn chỉnh, do vậy luôn tồn tại một sự bất đối xứng thông tin

giữa người truyền tín hiệu và người nhận tín hiệu. Lý thuyết được ra đời lần đầu tiên

sau nghiên cứu và phát triển của Michael Spence năm 1973 với quan điểm rằng việc

thuê mướn lao động là một quyết định không thể chắc chắn được vì họ không thể biết

được năng lực thực sự của người lao động. Để giảm thiểu rủi ro thuê phải lao động

không phù hợp người sử dụng lao động cần dựa vào các tín hiệu mà người lao động

phát ra như: chất lượng bằng cấp, thời gian công tác, kinh nghiệm của họ trong quá

khứ…. Đây là ngòi nổ đầu tiên để làm rõ hiện tượng bất cân đối thông tin trong thị

trường lạo đông, nhưng sau đó nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế

học nhằm giải thích việc các doanh nghiệp thông tin ra công chúng để phát tín hiệu

để các nhà đầu tư có thể đánh giá chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp.

Việc các bên có lợi ích liên quan dựa vào tin của doanh nghiệp để đưa ra quyết

định của mình, nhờ vào việc cung cấp thông tin của bản thân doanh nghiêp đó các

bên sẽ đánh giá được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp này với các doanh nghiệp

khác trong nghành. Việc luôn tồn tại bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý và nhà

đầu sẽ dẫn đến hiện tượng mà theo nghiên cứu của (Verrecchia, 1983) ông đã chỉ ra

rằng: kết quả của vấn đề bất đối xứng thông tin là các công ty cố gắng cung cấp thông

tin nhất định cho các nhà đầu tư, để cho thấy rằng họ tốt hơn so với các công ty khác

trên thị trường, với mục đích thu hút đầu tư và nâng cao danh tiếng.

17

Với một doanh nghiệp bất kì thông tin nào được công bố ra đều nhận được sự

quan tâm của các bên liên quan đặc biệt là đối với nhà đầu tư, bất cứ thông tin nào

được công bố như báo cáo tài chính, thông báo nợ, phát hình trái phiếu để huy động

vốn, công bố lợi nhuận hàng năm, M&A v.v. đều phát ra một tín hiệu tốt hoặc xấu

tác động tích cực hoặc tiêu cực đến thị trường, (Richard D. Morris, 2012) cho rằng

các công ty chất lượng cao hơn sẽ lựa chọn các chính sách kế toán cho phép thông tin

tốt sẽ được tiết lộ, trong khi các công ty có chất lượng thấp sẽ lựa chọn chính sách kế

toán mà cố gắng để giấu thông tin có chất lượng kém. Điều này nhằm mục đích gửi

các tín hiệu nhằm thông tin cho các chủ sở hữu và các nhà đầu tư về hình ảnh hiện tại

của doanh nghiệp và gợi mở về bức tranh tương lai của doanh nghiệp đó, họ có xu

hướng điều chỉnh lợi nhuận nhằm đưa ra kết quả kinh doanh có thể tác động đến tâm

lý ra quyết định của nhà đầu tư như mua vào hay bán ra gây ảnh hưởng đến thị giá cổ

phiếu của doanh nghiệp cũng như giá trị vô hình của doanh nghiệp đó.

Đặc biệt với các nhà đầu tư việc đưa ra quyết định thông thường thông qua chỉ

số về khả năng sinh lời thể hiện con số về lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp và

để tạo tâm điểm về chất lượng hoạt động của công ty, nhà quản lý thường có xu hướng

quản trị lợi nhuận thông qua các chỉ số như ROA, quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài

chính. Trong khuôn khổ của luận văn dựa trên sự kế thừa từ các nghiên cứu trước của

các nhà nghiên cứu tác giả áp dụng lý thuyết tín hiệu để xem xét tác động của lợi

nhuận trên tổng tài sản (ROA), đòn bẩy tài chính (LEV), quy mô doanh nghiệp (SIZE)

đến hoạt động quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý doanh nghiệp, với kì vọng kết

quả sẽ phản ánh được những doanh nghiệp có lợi nhuận càng cao, quy mô càng lớn,

sử dụng đòn bẩy cao thì người quản lý các doanh nghiệp này có xu hướng quản trị

lợi nhuận.

2.1.2.3. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary Cost Theory)

Lý thuyết chi phí sở hữu chỉ ra nguyên nhân được coi là rào cản lớn nhất ảnh

hưởng đến công bố thông tin của DN. Đó là vị thế trong cạnh tranh của DN, sẽ ảnh

hưởng đến quyết định cung cấp các thông tin liên quan đến DN. Các DN có quy mô

nhỏ thường chịu ảnh hưởng nhiều, nếu công bố thông tin ở mức độ lớn nào đó hoặc

công bố thông tin nhiều hơn, sẽ có ảnh hưởng không tốt đến lợi thế cạnh tranh của

DN trên thị trường.

18

Theo lý thuyết này, mức độ trình bày thông tin trên báo cáo bộ phận (BCBP)

giữa các công ty không những phụ thuộc vào đặc điểm từng công ty mà còn phụ thuộc

vào những chi phí công ty phải trả để làm điều này. Điều này có nghĩa là, việc cung

cấp nhiều hay ít thông tin bộ phận là không chỉ phụ thuộc vào quy định BCBP mà

còn phụ thuộc vào hành vi áp dụng quy định của DN. Theo lý thuyết chi phí sở hữu

(Dye, 1986; Verrecchia, 1983), hành vi này của DN được lý giải như sau: mức độ

thông tin mà DN cung cấp phụ thuộc vào những chi phí mà DN phải đối mặt. Đặc

biệt, DN sẽ hạn chế cung cấp thông tin khi mà thông tin cung cấp này có ảnh hưởng

xấu đến vị thế cạnh tranh của DN. Kết quả là khi DN quyết định lựa chọn thông tin

nào cần cung cấp, nhà quản lý sẽ cân nhắc đến lợi ích nhận được cũng như rủi ro có

thể ảnh hưởng đến vị thế cạnh tranh của DN. Điều đó cũng có nghĩa là mức độ trình

bày thông tin BCBP có bị ảnh hưởng bởi yếu tố cạnh tranh giữa các DN kinh doanh

cùng lĩnh vực.

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận

2.1.3.1. Kiểm toán độc lập

Kiểm toán độc lập được xem là công cụ quan trọng của cổ đông nhằm đảm bảo

tính minh bạch và độ tin cậy của Báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải nêu ý

kiến về tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính được lập phù hợp với các quy

định được chấp nhận. Những nghiên cứu trước đây cho rằng, chất lượng của kiểm

toán phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quy mô của công ty kiểm toán, sự thay đổi

kiểm toán và phí kiểm toán.

Kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy nếu công ty niêm yết được kiểm toán

bởi Big 4 thì sẽ kiểm soát được hành vi QTLN. Chen và cộng sự (2005) cho rằng chất

lượng kiểm toán đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát khả năng QTLN và

các công ty kiểm toán Big 5 cung cấp chất lượng kiểm toán cao, góp phần kiểm soát

hành vi QTLN. Nghiên cứu của Nguyễn Hà Linh (2017) cũng cho rằng công ty kiểm

toán Big 4 có tác động ngược chiều với mức độ QTLN của người quản lý tại CTNY

Việt Nam.

19

Frankel và cộng sự (2002) nghiên cứu mối quan hệ giữa phí kiểm toán với hành

vi QTLN cùng với phản ứng của thị trường khi giá phí kiểm toán được công bố. Kết

quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa phí kiểm toán với các chỉ số

đại diện cho hành vi QTLN, đồng thời họ cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy mối

quan hệ ngược chiều giữa phí phi kiểm toán và giá cổ phiếu vào ngày mà giá phí được

tiết lộ. Tương tự, Ferguson và cộng sự (2004) cũng đã chứng minh được mối quan hệ

ngược chiều giữa giá phí kiểm toán với hành vi QTLN.

2.1.3.2. Quy mô doanh nghiệp

Theo Bushman và cộng sự (2004) biến quy mô là biến có ảnh hưởng đến khuynh

hướng và mức độ điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp; Lobo, Zhou (2006) và Shen,

Chih (2007) đã kết luận trong nghiên cứu của họ, doanh nghiệp có quy mô lớn thì cơ

hội và động cơ điều chỉnh lợi nhuận theo hướng san bằng lợi nhuận và khai khống

lợi nhuận lớn, do sự linh hoạt trong hoạt động của các doanh nghiệp và người sử dụng

thông tin rất khó khăn để phát hiện ra điều đó.

Pincus và Rajgopal (2002) cho rằng, công ty có quy mô càng lớn thì càng có áp

lực lớn để điều chỉnh lợi nhuận của họ nhằm báo cáo mức lợi nhuận đáp ứng mức lợi

nhuận kỳ vọng của các bên liên quan.

2.1.3.3. Khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời có mối quan hệ mật thiết với mức độ điều chỉnh lợi nhuận,

kết quả nghiên cứu của Iatridis và Kadorinis (2009) cho thấy, khả năng điều chỉnh lợi

nhuận tăng ở những công ty có khả năng sinh lời thấp là rất cao nhằm để cải thiện

bức tranh tài chính của họ. Thêm vào đó, Sun và Rath (2008) chứng minh được rằng,

khả năng sinh lời và quy mô công ty là những nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hành

động điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty. Đồng thời, hai tác giả còn rút ra kết luận

là, những công ty có khả năng sinh lời càng thấp thì khả năng điều chỉnh lợi nhuận

càng lớn.

Bên cạnh đó, Burgstahler và Dichev (1997) cho rằng, các công ty có khuynh

hướng điều chỉnh lợi nhuận nếu lợi nhuận của công ty bị giảm hoặc bị lỗ. Để tránh

20

báo cáo lỗ, các công ty bóp méo lợi nhuận thông qua việc bóp méo các chính sách kế

toán nhằm mục đích là ảnh hưởng đến lợi nhuận khi công bố ra bên ngoài.

Degeorge và cộng sự (1999) nhấn mạnh rằng, chỉ tiêu lợi nhuận mang dấu

dương là một trong những nấc thang chính đầu tiên mà doanh nghiệp phải đạt được

bằng cách điều chỉnh lợi nhuận.

2.1.3.4. Tính thanh khoản

Tính thanh khoản là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng trong việc đánh

giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tính thanh khoản thể hiện khả năng chuyển

đổi thành tiền của các loại tài sản trong doanh nghiệp. Nó phản ảnh khả năng thanh

toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty cũng như là có tình hình tài chính mạnh để

hoạt động sản xuất kinh doanh. Iatridis và Kadorinis (2009) cho rằng, những công ty

có tình hình tài chính không thuận lợi có khuynh hướng trình bày biến DA tăng thông

qua việc điều chỉnh lợi nhuận.

LaFond và cộng sự (2007) nghiên cứu mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận

và tính thanh khoản - được đo lường bằng 3 cách khác nhau (tỷ số thanh toán hiện

hành, tỷ số thanh toán nhanh, tỷ số thanh toán tức thời). Kết quả nghiên cứu chỉ ra

rằng, cả 3 cách đo lường tính thanh khoản đều cho tương quan nghịch với mức độ

điều chỉnh lợi nhuận. Các tác giả kết luận rằng, những công ty có tính thanh khoản

càng thấp thì khả năng điều chỉnh lợi nhuận càng lớn. Ngoài ra, Ascioglu và cộng sự

(2012) cũng kết luận rằng, tồn tại mối quan hệ ý nghĩa giữa hành động điều chỉnh lợi

nhuận và tính thanh khoản của công ty.

2.1.3.5. Đòn bẩy tài chính

Watts và Zimmerman (1990) cho rằng, những công ty có tỷ lệ nợ phải trả trong

cấu trúc vốn của công ty cao thì có khả năng lựa chọn chính sách kế toán để điều

chỉnh tăng lợi nhuận để loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực khi đòn bẩy tài chính cao.

Bên cạnh đó, DeFond và Jiambalvo (1994) tìm thấy mối tương quan thuận giữa đòn

bẩy tài chính và mức độ điều chỉnh lợi nhuận.

Efendi và cộng sự (2007) gợi ý rằng, khi một công ty gần chạm đến ngưỡng vi

phạm điều khoản của hợp đồng vay (mức lợi nhuận tối thiểu, mức cổ tức tối thiểu...)

21

thì nhà quản trị điều chỉnh mạnh lợi nhuận để tránh những chế tài của hợp đồng vay

mang lại.

Beneish (2001) đã chứng minh được, hợp đồng vay là động cơ mạnh để nhà

quản trị thực hiện điều chỉnh tăng lợi nhuận nhằm mục đích tránh báo cáo lỗ và tránh

vi phạm hợp đồng vay.

2.1.3.6. Tính độc lập của Hội đồng quản trị

Tính độc lập của hội đồng quản trị được tính bằng tỷ lệ thành viên hội đồng

quản trị độc lập trên tổng số thành viên hội đồng quản trị. Kết quả nghiên cứu thường

cho thấy hội đồng quản trị với một tỷ lệ cao những người ở bên ngoài (tính độc lập

cao) có khả năng làm giảm mức độ quản trị lợi nhuận, gia tăng chất lượng thông tin

trên BCTC. Xie và cộng sự (2003) cho rằng ở những công ty có tỷ lệ thành viên độc

lập trong hội đồng quản trị cao thì ít khả năng phát sinh hoạt động quản trị lợi nhuận.

Osma và Noguer (2007) đã chứng minh được rằng các qui định về thể chế của

hội đồng quản trị, của Giám đốc điều hành có tác dụng kiểm soát hoạt động quản

trị lợi nhuận.

Metawee (2013) đã tìm ra mối quan hệ ngược chiều giữa mức độ độc lập của

hội đồng quản trị với mức độ quản trị lợi nhuận khi sử dụng mẫu nghiên cứu gồm các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Ai Cập giai đoạn 2008-2010.

2.1.3.7. Qui mô Hội đồng quản trị

Qui mô HĐQT được tính bằng số lượng thành viên HĐQT tại ngày kết thúc

năm. Một mặt, HĐQT gồm nhiều thành viên có thể có nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến

thức và nêu nhiều ý kiến đóng góp sẽ tăng cường khả năng giám sát của HĐQT. Lý

luận này xuất phát từ lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực. Mặt khác, HĐQT có nhiều

thành viên nhưng các thiếu liên kết giữa các thành viên HĐQT sẽ tạo tăng thêm cơ

hội cho người quản lý gia tăng QTLN.

Ayemere và cộng sự (2015) đã tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa số lượng

thành viên thuộc HĐQT với mức độ QTLN. Nhìn chung, các tác giả ủng hộ giả thuyết

cho rằng, quy mô hội đồng quản trị càng lớn và những người tham gia trong hội đồng

22

quản trị có chuyên môn cao thì có khả năng ban hành cơ chế giám sát hoạt động của

nhà quản trị hiệu quả hơn. Nghĩa là quy mô hội đồng quản trị càng lớn thì mức độ

điều chỉnh lợi nhuận càng nhỏ (Suzan Abed và Cộng sự, 2012; Abbadi và cộng sự,

2016; Soliman và cộng sự, 2013; Lakhal, 2015)

Xie và cộng sự (2003) thực hiện nghiên cứu ảnh hưởng của quy mô hội đồng

quản trị đến mức độ điều chỉnh lợi nhuận, kết quả cho thấy hành động điều chỉnh lợi

nhuận ít xảy ra đối với các công ty có quy mô hội đồng quản trị lớn. Tương tự, Yu

(2008) cho rằng, quy mô hội đồng quản trị nhỏ ít có khả năng phát hiện hành động

điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị.

2.1.3.8. Qui mô Ủy ban kiểm toán

Hiệu quả kiểm soát của ủy ban kiểm toán bị ảnh hưởng bởi số lượng thành viên

và sự phối hợp giữa các thành viên. Nguồn lực quá ít sẽ không đủ để thực hiện hết

nhiệm vụ nhưng số lượng quá nhiều, thiếu chuyên môn, giao tiếp và phối hợp không

đồng bộ có thể dẫn đến hiệu quả công việc thấp. Lin và cộng sự (2006) đã nghiên cứu

mối quan hệ giữa hoạt động quản trị lợi nhuận với các nhân tố liên quan đến ủy ban

kiểm toán công ty như tính độc lập, kích cỡ, chuyên môn về tài chính, mức độ năng

động và cơ cấu sở hữu vốn. Kết quả của họ cho thấy số lượng thành viên trong ủy

ban này có quan hệ ngược chiều với mức độ quản trị lợi nhuận. Nghiên cứu của

Ayemere và cộng sự (2015) cũng cho kết quả tương tự.

2.1.4. Một số công cụ quản trị lợi nhuận

Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2016) đã đưa ra các thủ thuật (công cụ)

chủ yếu được áp dụng phổ biến tại Việt Nam mà nhà quản trị có thể sử dụng để thực

hiện quản trị lợi nhuận thông qua việc lựa chọn chính sách kế toán, bao gồm: thay

đổi chính sách kế toán áp dụng, thông qua việc trích lập và hoàn nhập các khoản dự

phòng tổn thất tài sản, thông qua việc lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở

dang, thông qua các khoản trích trước và phân bổ, thông qua các khoản dự phòng

phải trả, và thông qua việc ước tính tỷ lệ hoàn thành hợp đồng và ghi nhận doanh thu,

chi phí đối với hợp đồng dài hạn.

23

2.1.4.1. Thay đổi chính sách kế toán áp dụng.

Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán

Việt Nam đưa ra một số phương pháp kế toán, chính sách kế toán và cho phép doanh

nghiệp được lựa chọn chính sách phù hợp với doanh nghiệp mình. Ví dụ: Các phương

pháp tính giá hàng tồn kho (nhập trước xuất trước, bình quân gia quyền, thực tế đích

danh); các phương pháp khấu hao tài sản cố định (phương pháp khấu hao đường

thẳng, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và phương pháp khấu hao theo số

lượng, khối lượng sản phẩm),... Tuy nhiên, khi lựa chọn chính sách kế toán nào thì

phải áp dụng nhất quán, để đảm bảo thông tin trình bày trên BCTC có khả năng so

sánh được, nếu thay đổi chính sách cần thuyết minh về sự thay đổi này. Chính việc

có nhiều cơ hội lựa chọn chính sách kế toán, nên nhà quản lý có thể đưa vào áp dụng

chính sách kế toán thích hợp nhất theo xét đoán chủ quan của nhà quản lý, để phục

vụ cho các mục tiêu định trước của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.

2.1.4.2. Thông qua việc trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng tổn thất tài sản

Kế toán Việt Nam cho phép, doanh nghiệp thực hiện việc lập dự phòng tổn thất

tài sản liên quan đến bốn nhóm tài sản. Đó là, dự phòng giảm giá chứng khoán kinh

doanh, dự phòng tổn thất đầu tư vào đơn vị khác, dự phòng phải thu khó đòi và dự

phòng giảm giá hàng tồn kho. Để thông tin tài sản được trình bày theo giá trị thuần

có thể thực hiện được, thì trước khi lập BCTC doanh nghiệp cần xem xét lại giá trị

các khoản mục tài sản này. Việc xác định mức dự phòng tổn thất cần lập để tiến hành

trích lập thêm hay hoàn nhập dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, có yếu

tố xét đoán chủ quan của nhà quản lý và người làm công tác kế toán tại đơn vị. Một khi

điều này xảy ra, sẽ tạo cơ hội cho nhà quản lý can thiệp, tác động đến giá trị tài sản và

khoản mục chi phí trình bày trên BCTC, từ đó chi phối đến thu nhập của doanh nghiệp.

2.1.4.3. Thông qua việc lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang.

Theo quy định, khi tính giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất có thể

áp dụng một trong các phương pháp xác định trị giá sản phẩm dở dang, như: Phương

pháp đánh giá theo chi phí nguyên vật liệu chính, đánh giá theo chi phí nguyên vật

liệu trực tiếp, đánh giá theo phương pháp ước tính sản lượng hoàn thành tương

24

đương... Thực ra đây là công việc tính toán, phân bổ chi phí cho các sản phẩm chưa

hoàn thành. Công việc này trực tiếp tác động đến giá thành sản phẩm doanh nghiệp

sản xuất ra, đồng thời gián tiếp tác động đến khoản mục chi phí hoạt động kinh doanh

trong kỳ, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức

quản lý sản xuất, tính chất của các khoản mục chi phí, để nhà quản lý lựa chọn và sử

dụng phương pháp đánh giá thích hợp. Điều này mang đến cơ hội cho nhà quản lý,

lựa chọn phương pháp đánh giá “có lợi nhất” để tác động đến thu nhập của doanh

nghiệp, nhằm đạt được những mục đích riêng nhất định.

2.1.4.4. Thông qua các khoản trích trước và phân bổ

Để đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong kế toán, chế độ kế toán cho phép doanh

nghiệp sử dụng các kỹ thuật trích trước hoặc phân bổ, để xử lý các khoản mục chi phí

liên quan đến nhiều kỳ kế toán. Thí dụ, để phản ánh các khoản phải trả cho hàng hóa,

dịch vụ đã nhận được từ người bán trong kỳ báo cáo nhưng thực tế chưa chi trả do

chưa có hóa đơn hoặc chưa đủ hồ sơ, tài liệu kế toán, quy định cho phép doanh nghiệp

được ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh doanh của kỳ báo cáo thông qua việc trích

trước chi phí. Hay kỹ thuật này còn được sử dụng để trích trước chi phí trong thời

gian doanh nghiệp ngừng sản xuất theo mùa vụ, trích trước chi phí để tạm tính giá

vốn hàng hóa, thành phẩm bất động sản đã bán,...

Việc trích trước vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phải được tính toán

một cách chặt chẽ và phải có bằng chứng hợp lý, tin cậy về các khoản chi phí phải

trích trước trong kỳ, để đảm bảo số chi phí phải trả này phù hợp với số chi phí thực

tế phát sinh. Bên cạnh đó, quy định còn cho phép doanh nghiệp treo lại các khoản chi

phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh

của nhiều kỳ kế toán (như chi phí trả trước về thuê cơ sở hạ tầng, chi phí thành lập

doanh nghiệp, công cụ, dụng cụ, bao bì luân chuyển, đồ dùng cho thuê liên quan đến

hoạt động kinh doanh trong nhiều kỳ kế toán,...) để kết chuyển các khoản chi phí này

vào chi phí sản xuất kinh doanh của các kỳ kế toán sau. Đồng thời, quy định cũng

nêu rõ việc tính và phân bổ chi phí trả trước vào chi phí sản xuất kinh doanh từng kỳ

kế toán, phải căn cứ vào tính chất, mức độ từng loại chi phí, để lựa chọn phương pháp

và tiêu thức hợp lý.

25

Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định cơ sở để trích trước chi phí cũng như việc

lựa chọn phương pháp và tiêu thức phân bổ hợp lý thì không giống nhau giữa các

doanh nghiệp. Bởi điều này, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả sự can thiệp

chủ quan của nhà quản lý. Do đó, đây cũng là một trong những con đường dẫn tới chi

phối thu nhập của các doanh nghiệp.

2.1.4.5. Thông qua các khoản dự phòng phải trả

Theo quy định của Thông tư 200/2014/TT-BTC, tùy theo đặc điểm hoạt động

và cách thức tổ chức quản lý mà doanh nghiệp được ghi nhận các khoản dự phòng

phải trả như: Dự phòng phải trả tái cơ cấu doanh nghiệp, dự phòng phải trả bảo hành

sản phẩm, dự phòng bảo hành công trình xây dựng. Một trong những điều kiện để ghi

nhận khoản dự phòng phải trả đó là, doanh nghiệp đưa ra được một ước tính đáng tin

cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó. Giá trị được ghi nhận của một khoản dự phòng phải

trả là giá trị được ước tính hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi, để thanh toán nghĩa

vụ nợ hiện tại, tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc tại ngày kết thúc kỳ kế toán giữa

niên độ.

Trường hợp, số dự phòng phải trả cần lập ở kỳ kế toán này lớn hơn số dự phòng

phải trả đã lập ở kỳ kế toán trước chưa sử dụng hết, thì số chênh lệch được ghi nhận

vào chi phí sản xuất, kinh doanh của kỳ kế toán đó. Ngược lại, nếu số dự phòng phải

trả lập ở kỳ kế toán này nhỏ hơn số dự phòng phải trả đã lập ở kỳ kế toán trước chưa

sử dụng hết, thì số chênh lệch phải được hoàn nhập ghi giảm chi phí sản xuất, kinh

doanh của kỳ kế toán đó. Việc ước tính mức dự phòng cần lập, cho phép các nhà quản

lý sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp của mình, để ước tính mức dự phòng phù

hợp. Điều này không ngoại trừ khả năng tạo cơ hội cho các nhà quản lý tác động đến

khoản mục chi phí này, từ đó chi phối thu nhập của doanh nghiệp để phục vụ cho

mục tiêu định trước.

2.1.4.6. Việc ước tính tỷ lệ hoàn thành và ghi nhận doanh thu, chi phí đối với hợp

đồng dài hạn

Trong một số Doanh nghiệp đặc thù như đơn vị xây lắp, việc xác định doanh

thu, chi phí có những nét đặc trưng riêng biệt. Cụ thể như trường hợp ghi nhận doanh

thu hợp đồng xây dựng, tùy theo hợp đồng quy định thanh toán theo tiến độ kế hoạch

26

hay theo giá trị khối lượng thực hiện, để doanh nghiệp xác định doanh thu, chi phí.

Trường hợp, hợp đồng xây dựng quy định nhà thầu được thanh toán theo giá trị khối

lượng thực hiện, thì khi kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng được xác định một cách

đáng tin cậy và được khách hàng xác nhận, đơn vị sẽ ghi nhận doanh thu trên cơ sở

phần công việc đã hoàn thành được khách hàng xác nhận. Còn nếu hợp đồng quy

định nhà thầu được thanh toán theo tiến độ kế hoạch, thì khi kết quả thực hiện hợp

đồng xây dựng được ước tính một cách đáng tin cậy, đơn vị sẽ phản ánh doanh thu

tương ứng với phần công việc đã hoàn thành, do nhà thầu tự xác định tại thời điểm

lập BCTC. Bên cạnh đó, theo hướng dẫn của Chuẩn mực hợp đồng xây dựng (VAS

15): “Phần công việc đã hoàn thành của hợp đồng làm cơ sở xác định doanh thu” có

thể được xác định bằng nhiều cách khác nhau (Tùy thuộc vào bản chất của hợp đồng

mà có thể có 3 phương pháp xác định). Như vậy, quy định cho phép doanh nghiệp

được sử dụng phương pháp tính toán thích hợp, để xác định phần công việc đã hoàn

thành. Điều này có thể ảnh hưởng đến giá trị của khoản mục doanh thu, do doanh

nghiệp xác định khối lượng công việc hoàn thành dựa trên các căn cứ khác nhau và

phụ thuộc một phần vào xét đoán của nhà quản lý.

2.2. Động cơ và kỹ thuật để thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của các

doanh nghiệp.

2.2.1. Động cơ thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận

Kế toán được coi là ngôn ngữ kinh doanh để các nhà quản lý doanh nghiệp

truyền tải thông điệp của mình đến các bên có lợi ích liên quan, việc các nguyên tắc

kế toán chung (GAAPs) được thừa nhận cho phép họ những nhà quản trị có đủ không

gian (room) để linh hoạt và chủ động thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của mình

bởi vì: kế toán hoạt động trên nguyên tắc dồn tích, cẩn trọng và phù hợp, có thể biểu

hiện ý chí của ban lãnh đạo về các giao dịch kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp, có

những giao dịch phù hợp với thời điểm phát sinh tuy nhiên cũng có những giao dịch

mang tính chủ quan cao nhằm đạt được lợi ích của một nhóm liên quan. Như đã biết

hoạt động quản trị lợi nhuận không phải là một hành vi phạm pháp nhưng bản thân

nó có tác động tiêu cực đến niềm tin của các nhà đầu tư trên thị trường, ảnh hưởng

trực tiếp đến lợi ích của các cổ đông công ty vậy vì sao các nhà quản trị đã và đang

27

thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận? Và để đạt được mục tiêu của mình các nhà

quản lý sẽ thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận, bài nghiên cứu sẽ chỉ ra các động

cơ mà thúc đẩy các nhà quản lý hiện nay thực hiện quản trị lợi nhuận:

- Đạt được chỉ tiêu kinh doanh trong các hợp đồng đã kí kết: đây là hoạt động

có chủ ý nhằm tạo ra lợi nhuận theo kế hoạch đã đề ra nhằm duy trì mối quan hệ giữa

NQL và CSH đạt được lợi ích cá nhân được quy định trong các hợp đồng thù lao đã

kí kết, cụ thể ở các hợp đồng lao động được kí kết hiện nay giữa nhà quản trị và phía

công ty luôn có các KPI đặt ra nhằm gắn trách nhiệm và quyền lợi của bên ủy quyền

(chủ sở hữu doanh nghiệp) và bện nhận ủy quyền (nhà quản lý doanh nghiệp) thường

thì các KPI đều được đo lường bằng lợi nhuận kế toán công ty hằng năm, VD: bạn sẽ

được trả thêm số tiền Y bằng với số % x lợi nhuận kế toán đạt được. Điều này gây ra

hiện tượng nhà quản lý doanh nghiệp sẽ có xu hướng can thiệp bằng các đánh giá chủ

quan của mình trong quá trình lập và công bố truyền thông BCTC của doanh nghiệp

ra bên ngoài để tăng lợi nhuận kế toán nhằm đạt được chỉ tiêu KPI đã kí trong hợp

đồng thù lao với doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đã đạt vượt mức lợi nhuận kì vọng

đặt ra một số nhà quản lý sẽ chủ ý làm giảm lợi nhuận năm tài chính xuống để dễ

dàng đạt được mức tăng trưởng lợi nhuận các năm sau.

- Thực hiện làm mềm lợi nhuận bằng cách san bằng lợi nhuận của các kỳ kế

toán nhằm mục đích đảm bảo xu hướng lợi nhuận ổn định vẽ ra bức tranh kinh doanh

ổn định của doanh nghiệp để thu hút và tiếp cận các nguồn vốn từ thị trường với cách

dễ dàng và chi phí tối ưu nhất. Điều này góp phần giữ được thị giá cổ phiếu của DN

được ổn định và có xu hướng gia tăng vì tạo ra cảm giác cho các nhà đầu tư có suy

nghĩ đầu tư vào doanh nghiệp này sẽ ít rủi ro hơn với các doanh nghiệp có xu hướng

lợi nhuận biến động mạnh, thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào DN.

- Quản trị lợi nhuận với mục đích tránh vi phạm vào các hợp đồng đi vay của

doanh nghiệp, và tối ưu thuế doanh nghiệp phải nộp: trong cơ cấu vốn của doanh

nghiệp ngoài dòng VCSH thì còn một nguồn vốn đó là từ nguồn vốn vay, một trong

các nguồn vốn vay xuất phát từ mối quan hệ giữa DN và các nhà cung cấp tín dụng

và thuế như cơ quan Thuế và Ngân Hàng, các công ty tài chính. Thường thì các DN

sẽ phải kí kết với các điều khoản ràng buộc dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận doanh nghiệp,

28

nếu không đạt được mức lợi nhuận cam kết thì sẽ chịu mức phát hợp đồng bằng cách

gia tăng lãi suất với các khoản nợ hay thanh toán trong thời gian sớm hơn dự kiến

theo quy định đã nêu trong hợp đồng. Về vấn đề thuế DN phải đóng thuế thu nhập

DN dựa trên LN phải chịu thuế vì vậy các yếu tố này đều tác động đến hành vi QTLN

của nhà quản lý DN.

2.2.2. Các kỹ thuật để thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận của DN

Lợi nhuận của các DN là chỉ số mà các NĐT thường có xu hướng nhắm vào

nhất để theo dõi và đưa ra quyết định của mình. Sự khác biệt giữa lợi nhuận kế toàn

và dòng tiền thực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN kết hợp với không

gian mà nhà quản trị có được từ các chuẩn mực kế toán đem lại khiến cho nhà quản

trị có xu hướng thực hiện hành vi này vì nhiều mục đích khác nhau. QTLN sẽ có hai

hình thức đó là thông qua các khoản dồn tích và thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát

sinh. Trong luận văn này tác giả sẽ tập trung vào hành vi QTLN thông qua các khoản

dồn tích, theo nghiên cứu của Rahman và Sharif (2013) đã chỉ ra các kĩ thuật mà các

nhà quản trị dùng để can thiệp thực hiện hoạt động quản trị lợi nhuận bao gồm: Cookie

Jar Reserves, Take a Big Bath, Big Beg on the Future, thay đổi chính sách kế toán

(Change GAAP)

 Kỹ thuật Cookie Jar Reserves

Rõ ràng đứng trên góc độ nhà đầu tư chúng ta sẽ đầu tư vào một DN có mức

tăng trưởng lợi nhuận đều qua các năm hay có sự biến động bất thường? Chắc chắn

đa số các nhà đầu tư có xu hướng sẽ đầu tư vào các doanh nghiệp tăng trưởng đều,

đó là lý do vì sao các nhà quản trị sử dụng kĩ thuật Cookie Jar Reserves, kĩ thuật này

được hiểu như là một phương pháp mà các nhà quản trị “để dành” lợi nhuận trong

năm mà DN kinh doanh cực tốt và thu được khoản lợi nhuận khổng lồ hơn các năm

trước và dự báo ở các năm kế tiếp. Việc làm này có ý nghĩa về mặt kế toán và nó gây

ra sự hiểu nhầm với các nhà đâu tư, vì khi các nhà quản lý DN thực hiện kĩ thuật này

các nhà đầu tư sẽ có cảm giác “an toàn giả” rằng DN đang có mức tăng trưởng đều

đặn qua các năm, gây ra các quyết định sai lầm cho các nhà đầu tư.

29

Kỹ thuật “Cookie Jar Reserve” thưởng được hiểu là thủ thuật để dành hũ bánh

của DN được xây dựng dựa trên nền tảng những diễn biến trong tương lai luôn có

mức độ không chắc chắn và theo nguyên tắc thận trọng trong kế toán nên các nhà

quản lý DN sẽ ước tính giá trị giảm đi của tài sản thông qua các khoản mục: hàng tồn

kho, khoản phải thu. Họ sẽ tác động vào LN của DN năm đó bằng cách ghi nhận mức

chi phí cao cho mức độ không chắc chắn này dưới dạng dự phóng như dự phóng giảm

giá hàng tồn kho, giảm giá khoản phải thu khó đòi cao từ đó làm gia tăng chi phí của

DN trong năm nay cụ thể là làm tăng SG&A của doanh nghiệp dẫn đến lợi nhuận

hoạt động của DN giảm xuống, đồng thời trích lập mức khấu hao cao của tài sản ở

năm nay bằng cách thay đổi hình thức khấu hao từ khấu hao đường thẳng sang khấu

hao nhanh với các khoản mục tài sản. Tuy nhiên ở các năm tiếp theo các mức giảm

giá thực tế không cao như mức dự phóng thì DN đã tạo ra được “hũ bánh lợi nhuận”

để dành để nhập vào kết quả kinh doanh nhằm làm đẹp tình hình kinh doanh của

doanh nghiệp ở các năm đó.

Ngoài ra nhà quản trị còn có thể thực hiện kỹ thuật “Cookie Jar Reserve” thông

qua trích lập dự phóng bảo hành hàng bán ở mức cao hơn so với thực tế phát sinh, từ

đó dư ra một khoản lợi nhuận để dành khoản này sẽ được hoàn nhập vào các năm

sau. Người quản lý doanh nghiệp còn có thể thực hiện cách thức khác thông qua kĩ

thuật CJR bằng cách trì hoãn ghi nhận doanh thu khi thực hiện các hợp dài hạn vì họ

có thể ghi nhận doanh thu và chi phí theo tiến độ kế hoạch hoặc theo khối lượng công

việc hoàn thành. Việc xác định doanh thu và chi phí tạo điều kiện cho nhà quản lý có

không gian để thực hiện hành vi QTLN vì tỷ lệ hoàn thanh công việc được tính bằng

cách lấy chi phí phát sinh thực tế đối với khối lượng công việc đã thực hiện chia cho

chi phí dự toán của toàn bộ công việc.

 Kỹ thuật “Take a Big Bath”

Kỹ thuật này có phần tương đồng với kĩ thuật Cookie Jar Reserve là đều góp

phần xây dựng bức tranh lợi nhuận của doanh nghiệp ở các năm tiếp theo nhưng điểm

mấu chốt của kĩ thuật này là DN xóa bỏ những khoản mục “treo” trên bảng cân đối

kế toán nhằm mục đích “gột rửa” báo cáo tài chính. Kỹ thuật này sẽ làm cho công ty

lỗ lớn ở kỳ hiện tại tạo cho NĐT cảm giác tất cả những gì xấu nhất và tồi tệ nhất đã

30

xảy ở hiện tại bằng cách gia tăng chi phí ở năm hiện tại và đánh lừa họ là DN đang

tốt dần lên trong các kì tiếp theo. Nghiên cứu của Tokuga và Yamashita (2011) đã

chỉ ra như sau: các DN nỗ lực tăng lợi nhuận ở những năm tiếp theo bằng cách tác

động vào chi phí ở năm hiện tại làm kết quả kinh doanh

Nhà quản trị thực hiện việc xóa bỏ những khoản mục trên bảng cân đối kế toán

bằng cách: đầu tiên thừa dịp tình hình công ty kinh doanh không hiệu quả hay lỗ của

doanh nghiệp trong năm tài chính đó các nhà quản trị sẽ tiến hành đợt cải tổ mạnh

(big bath) để giải quyết, xóa xổ (write off) các hạng mục tài sản ảo như hàng tồn kho,

nợ phải thu bằng cách tái cơ cấu như tái cơ cấu nợ xấu, tái cơ cấu hoạt động, thực

hiện đánh giá tổn thất tài sản dẫn đến kì kế toán này sẽ lỗ khủng khiếp. Sau đó ở các

kì kế toán tiếp theo tài sản sẽ sạch hơn, lợi nhuận có bước chuyển biến tích cực hơn.

Ví dụ điển hình cho trường hợp này trên thị trường chứng khoán Việt Nam có

thể kể đến là công ty Bất động sản du lịch Ninh Văn Bay với mã niêm yết trên sàn

HOSE với mã CK là (NVT), tại thời điểm năm 2017 NVT có khoản nợ vay đến hạn

cụ thể là khoản trái phiếu của ngân hàng Techcombank vào tháng 11 là 230 tỷ, công

ty chưa có dấu hiệu nào có thể trả được nợ vạy. Một điểm đáng lưu ý là phần TSNH

của doanh nghiệp chiếm hơn 90% là khoản phải thu từ việc cho công ty khác vay tiền

là CTCP Du Lịch Tân Phú ước tính giá trị lên tới 245 tỷ đồng chiếm gần 70% khoản

phải thu của doanh nghiệp. Đáng ngờ hơn nữa là phần lớn khoản này lại thuộc về

công ty Du lịch Tân Phú. Và người đại diện pháp luật của công ty Tân Phú này lại là

bà Lê Thị Thu Hà (thành viên HĐQT của Ninh Văn Bay). Trong tình hình đó công

ty NVT đã thực hiện kỹ thuật Take a Big Bath bằng cách tiến hành tái cấu trúc doanh

nghiệp của mình cụ thể như sau: Tháng 6/2017, HĐQT NVT ra nghị quyết số 7 cho

phép toàn quyền xử lí khoản nợ bằng việc bán bớt tài sản, từ đó phát sinh ra khoản

dự phòng phải thu ngắn hạn được tính vào chi phí quản lí doanh nghiệp lên đến 245

tỷ (bảng 1) . Thông qua việc trích lập dự phòng, công ty đã write-off được khoản mục

phải thu ảo liên quan đến công ty Tân Phú. Kết quả, tài sản ngắn hạn của công ty

giảm hơn một nửa so với 6 tháng trước đó. Và dự tính đến cuối năm 2017, tài sản của

NVT sẽ còn một lần giảm mạnh nữa do kết quả của việc thanh lý tài sản để trả khoản

vay cho Techcombank. Sau đó, từ năm 2018, công ty sẽ không còn chịu gánh nặng

31

lãi vay nữa, cộng với những triển vọng của ngành bất động sản du lịch, NVT sẽ tái

sinh (Take a big bath hoàn tất).

Bảng 2.1: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất quý 2 năm 2017 của

Công ty Cổ phần Bất động sản Ninh Văn Bay

Kỹ thuật TABB này còn thường xuyên được thực hiện khi DN có sự thay đổi

quản lý cấp cao nhằm mục đích để đẩy trách nhiệm cho người quản lý tiền nhiệm, tạo

điều kiện cho nhà quản lý mới gia tăng lợi ích của họ trong các kỳ kế toán tiếp theo,

điều này được chỉ ra trong nghiên cứu của Chi-keung Man và Brossa Wong (2013).

 Kỹ thuật Big Bed On The Future

Doanh nghiệp sẽ “đánh cược vào tương lai” thông qua việc áp dụng các lỗ

hổng trong quy định của chuẩn mực kế toán để ghi toàn bộ lợi nhuận có thể thu được

trong tương lai vào năm hiện tại, các nhà quản lý thực hiện kỹ thuật Big Bed on the

Future thông qua hoạt động mua bán sát nhập công ty, theo thông tư số 202/2014/TT-

BTC: Lợi thế thương mại hoặc lãi từ giao dịch mua rẻ sẽ được xác định là chênh lệch

giữa giá trị hợp lý của tài sản thuần có thể xác định được của công ty con tại ngày

mua do công ty mẹ nắm giữ (thời điểm công ty mẹ nắm giữ quyền kiểm soát công ty

con). Với các nhà quản lý của công ty A khi họ nắm giữ 49% cổ phần công ty B (công

ty B là công ty liên kết của công ty A), sau khi công ty B công bố lợi nhuận đột biến

dẫn đến thị giá công ty B tăng cao, các nhà quản lý công ty A sẽ tăng tỷ lệ sở hữu

32

công ty B lên trên 51% (công ty A nắm quyền kiểm soát công ty B) bằng việc mua

thêm lượng cổ phiểu của công ty B với giá cao lên so với trước, theo chuẩn mức kế

toán lượng cổ phiếu của công ty A nắm giữ của công ty B sẽ được đánh giá là lại tại

thời điểm hợp nhất vào kết quả kinh doanh của công ty A. Đây sẽ là khoản lợi nhuận

bất thường vì đây là phần lợi nhuận kế toán do người quản lý vận dụng chính sách kế

toán này để ghi thêm vào khoản lợi nhuận hợp nhất từ DN B và một khoản thu nhập

do chênh lệch đánh giá lại, phần lợi nhuận này thực chất không tạo ra không tạo ra

dòng tiền thậm chí DN còn mất một khoản tiền do chi ra để tăng sở hữu của công ty B.

 Thay đổi chính sách kế toán (Change GAAP)

Chuẩn mức kế toán là những qui định, những nguyên tắc cơ bản mà nhà quản

lý DN dựa vào để để xây dựng lên bộ BCTC của DN mình, các chính sách kế toán

được áp dụng để đảm bảo DN trình bày thông tin trên BCTC một cách chính xác và

minh bạch, xong bên cạnh đó vẫn có những khoảng không mà các nhà quản trị có thể

dựa vào đó để tác động vào một số vùng nhất định của BCTC để biến hóa lợi nhuận

theo ý mình, mặc dù theo quy định DN phải thuyết minh trên BCTC của mình khi

vận dụng hoặc thay đổi các chính sách kế toán khác nhau. Dưới đây là một số vùng

tác động mà các nhà quản trị có thể vận dụng để tác động vào BCTC của doanh nghiệp

bằng cách thay đổi chính sách kế toán:

Hạng mục nợ phải thu: các doanh nghiệp phải xác định độ tuổi của hạng mục

khoản phải thu từ đó họ có thể trích lập dự phòng cho khoản mục này, nếu như nhà

quản trị trích lập khoản phải thu này cao điều đó có nghĩa sẽ tác động trực tiếp vào

chi phí quản lý doanh nghiệp (SG&A) tăng lên từ đó làm cho hoạt động lợi nhuận

kinh doanh giảm xuống, dẫn đến lợi nhuận dòng của doanh nghiệp giảm dẫn đến EPS

giảm tác động đến quyết định của nhà đầu tư, với chiều làm tăng lợi nhuận các nhà

quản trị DN có thể làm ngược lại bằng cách không trích lập khoản dự phòng này hoặc

trích lập ở mức thấp nhất có thể. Ngoài ra họ có thể linh động áp dụng quy tắc trích

lập khoản phải thu khó đòi dựa vào tỷ lệ % doanh thu bán hàng trong kỳ và tỷ lệ %

khoản nợ phải thu tại ngày lập báo cáo để xác định con số trích lập dự phòng này.

33

Hạng mục hàng tồn kho: ở hạng mục này nhà quản trị có thể có nhiều cách tác

động vào cụ thể như sau chúng ta có phương trình cân bằng thể hiện mối quan hệ như

sau: Inventory + COGS = Purchase + Cost Conversion, vì giá mua và chi phí kết

chuyển không thay đổi nên nhà quản lý sẽ tác động vào Inventory (hàng tồn kho) làm

cho chúng tăng lên để cho giá vốn hàng bán (COGS) là giảm xuống và làm cho lợi

nhuận hoạt động tăng. Nhà quản lý có thể định giá lại lượng hàng tồn kho của mình

bằng cách thay đổi phương pháp đánh giá hàng tồn kho: phương pháp nhập trước

xuất trước, nhập sau xuất trước, bình quân gia quyền, nhận dạng cụ thể …v..v. Từ đó

có thể làm giá tăng giá trị hàng tồn kho, ngoài ra nhà quản lý có thể sử dụng cách

thương lượng với nhà cung cấp để giảm giá mua đầu vào nguyên liệu trong kỳ kế

toán. Một cách khác là họ có thể tác động bằng cách giảm chi phí kết chuyển bằng

cách giảm chi phí nhân công trực tiếp (Direct labor) được hiểu là khoản lương thưởng

và thu nhập của người lao động ở khối sản xuất bằng cách thay đổi cách khai báo

khoản lương thưởng này ở 2 kỳ liên tiếp, các cách này đều tác động đến giá trị hàng

tồn kho của doanh nghiệp từ đó tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra

DN có thể không trích lập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho từ đó sẽ không có

khoản mục chi phí phát sinh dẫn đến lợi nhuận kế toán của DN đó sẽ tốt hơn so với

trường hợp hàng tồn kho thực tế bị giảm giá.

Hạng mục tài sản cố định: Nhà quản lý sẽ thực hiện hành vi QTLN của mình

bằng cách thay đổi phương thức tính khấu hao cho tài sản cố định bằng cách áp dụng

một số phương pháp khấu hao sau: phương pháp khấu hao nhanh, khấu hao theo

đường thẳng, khấu hao theo số dư giảm dần,… Để làm tăng lợi nhuận DN nhà quản

lý có thể thay đổi phương pháp tính khấu hao nhanh sang khấu hao đường thẳng vì

khi đó chi phí khấu hao của DN sẽ giảm xuống dẫn đến lợi nhuận DN ở kỳ kế toán

đó gia tăng.

 Thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh

Theo Xu, Taylor và Dugan (2007), người quản lý thực hiện hành vi QTLN thông

qua việc tác động vào các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng những kỹ thuật phổ biến sau:

34

QTLN thông qua chi phí tùy biến: Chi phí tùy biến là những chi phí có thể thay

đổi tùy thuộc vào quyết định của người quản lý. Người quản lý QTLN bằng cách gia

tăng, tiết giảm hoặc thậm chí có thể giảm bằng không một số khoản mục chi phí như

chi phí quảng cáo, chi phí đầu tư và phát triển, chi phí đào tạo,… Gunny (2010) đã

phát hiện người quản lý doanh nghiệp quản trị lợi nhuận thông qua việc cắt giảm chi

phí đầu tư và phát triển, chi phí bán hàng.

QTLN thông qua các hoạt động sản xuất, hàng tồn kho: Trong cấu thành của

sản phẩm bao gồm phần biến phí và phần định phí. Phần biến phí có thể kể đến như

chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí về năng lượng…

Biến phí thay đổi tương ứng theo mức sản lượng sản xuất. Phần định phí có thể kể

đến như chi phí khấu hao tài sản, chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí dụng cụ lao

động,… Định phí ở một mức sản lượng nào đó sẽ không thay đổi. Người quản lý có

thể thực hiện QTLN thông qua việc gia tăng mức sản xuất để làm giảm giá thành đơn

vị sản phẩm, từ đó giảm giá vốn của sản phẩm tiêu thụ.

QTLN thông qua hoạt động bán hàng: Bên cạnh việc gia tăng sản xuất, người

quản lý còn có thể QTLN bằng cách tác động vào chính sách bán chịu và thực hiện

giảm giá hàng bán để tăng doanh số bán hàng. Người quản lý có thể nới lỏng chính

sách bán chịu cho một số khách hàng lớn, khách hàng tiềm năng hoặc thực hiện chính

sách giảm giá ở một số thời điểm trong năm để gia tăng doanh thu bán hàng.

QTLN thông qua hoạt động thanh lý tài sản dài hạn: Kết quả thanh lý tài sản

được phản ánh ngay vào lợi nhuận/lỗ của năm hiện hành. Người quản lý có thể lựa

chọn thời điểm để tiến hành thanh lý tài sản để điều chỉnh lợi nhuận như mong muốn.

QTLN thông qua hoạt động mua bán cổ phiếu quỹ: Một chỉ tiêu thu hút nhiều

sự quan tâm của nhà đầu tư là chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu phổ thông (EPS).

Chỉ tiêu này được xác định bằng lợi nhuận (hoặc lỗ) sau thuế TNDN thực hiện trong

năm của công ty mẹ chia cho số lượng cổ phiếu phổ thông lưu hành bình quân. Người

quản lý có thể điều chỉnh chỉ tiêu EPS thông qua chính sách mua (hoặc tái phát hành)

cổ phiếu quỹ. Việc mua thêm cổ phiếu quỹ, vừa làm giảm số lượng cổ phiếu lưu hành

bình quân làm tăng EPS, vừa làm giảm số tiền sử dụng để chia cổ tức.

35

2.3. Các mô hình đo lường hoạt động quản trị lợi nhuận

Cơ sở của hành vi điều chỉnh lợi nhuận là kế toán theo cơ sở dồn tích. Kế toán

cơ sở dồn tích là một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương

pháp kế toán cụ thể trong kế toán doanh nghiệp.

Nếu lợi nhuận được xác định theo cơ sở tiền, lợi nhuận và dòng tiền từ HĐKD

trong một kỳ sẽ bằng nhau. Tuy nhiên, kế toán theo cơ sở tiền hiện nay được sử dụng

để lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Từ đó, lợi nhuận trình bày trên Báo cáo kết quả

HĐKD và dòng tiền trình bày trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có một độ vênh. Các

nhà nghiên cứu kế toán gọi độ vênh đó là tổng biến kế toán dồn tích (Total accruals-

TA) và được tính bằng công thức:

Tổng biến kế toán dồn Lợi nhuận sau Lưu chuyển tiền thuần = - thuế kỳ t từ HĐKD kỳ t tích kỳ t (TAt)

Suy ra:

Lợi nhuận sau Tổng biến kế toán Lưu chuyển tiền thuần = - thuế kỳ t từ HĐKD kỳ t dồn tích kỳ t (TAt)

Lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD được lập trên cơ sở tiền nên không thể điều

chỉnh được, muốn điều chỉnh lợi nhuận thì nhà quản lý phải điều chỉnh tổng biến kế

toán dồn tích (TA). Trong tổng biến kế toán dồn tích lại gồm biến kế toán dồn tích

không điều chỉnh (Nondiscretionary accruals -NDA) và dồn tích có điều chỉnh

(Discrectionary accruals -DA). Biến NDA phản ánh điều kiện kinh doanh cụ thể của

từng đơn vị do đó không bị điều chỉnh bởi nhà quản lý, ví dụ như độ dài của chu kì

kinh doanh, chu kì sống của sản phẩm. Ngược lại, đối với biến DA thì nhà quản lý có

thể điều chỉnh thông qua việc lựa chọn chính sách kế toán hay tác động vào nghiệp

vụ kinh tế phát sinh.

Các nhà nghiên cứu cho rằng biến DA đại diện cho hành vi điều chỉnh lợi nhuận

nhưng các nhà nghiên cứu không thể quan sát một cách trực tiếp. Vì vậy, các nhà

nghiên cứu phải thông qua hai cách: một là xem xét sựlựa chọn chính sách kế toán và

hai là tính toán biến NDA.

36

2.3.1. Mô hình của Heathly (1985)

Theo mô hình này, tác giả giả định rằng khi không có hành động điều chỉnh lợi

nhuận của nhà quản trị, DA bằng 0 và TA chính là NDA. NDA chính là giá trị trung

bình của TA. Hay nói cách khác, NDA không thay đổi từ năm này sang năm khác.

𝑡

𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 = 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑛

Và:

DAit = TAit/Ait-1 - NDAit

Chú thích:

n: số năm trong kỳ ước tính

t: năm sự kiện (năm nghiên cứu hành động điều chỉnh lợi nhuận)

i: công ty i cần nghiên cứu hành động điều chỉnh lợi nhuận

2.3.2. Mô hình của DeAngelo (1986)

Mô hình DeAngelo so sánh tổng biến kế toán dồn tích (TA) giữa thời kỳ t với

TA thời kỳ t-1 và chênh lệch giữa hai thời kỳ này chính là các biến kế toán được điều

chỉnh (DA). Mô hình của DeAngelo giả định rằng các thành phần biến kế toán không

thể điều chỉnh (NDA) sinh ra là ngẫu nhiên và bằng với tổng số biến kế toán dồn tích

(TA) của thời kỳ t-1 hay nói cách khác NDA không đổi qua hai năm, do đó sự thay

đổi trong tổng số biến kế toán dồn tích (TA) giữa thời kỳ t và thời kỳ t-1 được giả

định là do việc thực hiện các điều chỉnh kế toán.

Phần biến kế toán không thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện:

𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 = 𝑇𝐴𝑖𝑡−1 𝐴𝑖𝑡−2

Phần biến kế toán có thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện:

𝐷𝐴𝑖𝑡 = − 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

37

Mô hình của DeAngelo không thật sự chính xác nếu các công ty này có xu

hướng phát triển. Sựphát triển sẽ ảnh hưởng nhất định trong khía cạnh hoạt động của

họ, bao gồm các biến kế toán dồn tích. Nếu yếu tố tăng trưởng bị bỏ qua, sự thay đổi

trong biến kế toán dồn tích (TA) ở thời kỳ t có thể xác định không chính xác, do

những thay đổi trong biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA) phụ thuộc vào sự tăng

trưởng. Ví dụ quy mô công ty lớn, đầu tư thêm máy móc, thiết bị, nhà xưởng,.. làm

cho chi phí khấu hao tăng, dẫn đến phần NDA tăng. Điều này có thể dẫn đến kết luận

không đúng về việc thực hiện điều chỉnh kế toán để lập BCTC.

2.3.3. Mô hình của Jones (1991)

Theo Jones, phần NDA phụ thuộc vào doanh thu, quy mô của tài sản cố định

(nguyên giá). Vì vậy Jones sử dụng mức biến động về doanh thu thuần và nguyên giá

tài sản cố định để dự đoán phần NDA. Mô hình trình bày như sau:

Phần biến kế toán không thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện được xác định

theo phương trình sau:

+ 𝜀 = 𝛼1 + 𝛼2 + 𝛼3 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 ∇𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1

Trong đó:

∆REV: Doanh thu thuần kỳ t - Doanh thu thuần kỳ t-1

PPEt: Nguyên giá TSCĐ hữu hình

Ait-1: Tổng tài sản cuối kỳ t-1

Các tham số α1, α2, α3 ở mô hình trên được tính bằng ước lượng OLS của a1, a2,

a3 trong mô hình sau:

+ 𝜀 = 𝑎1 + 𝑎2 + 𝑎3 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1 ∇𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

2.3.4. Các mô hình cải tiến của Jones và các cộng sự

Dechow, Sloan and Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của Jones (1991) bằng

cách điều chỉnh sự thay đổi của doanh thu bằng sự thay đổi của tài khoản nợ phải thu.

Mô hình được phát triển nhằm giảm sự sai số của mô hình trong việc xác định biến

38

dồn tích bất thường khi nhà quản lý chi phối doanh thu. Mô hình Jones được cải tiến

như sau:

Phần biến kế toán không thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện được xác định

theo phương trình sau:

+ 𝜀 = 𝛼1 + 𝛼2 + 𝛼3 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1 ∇𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 − ∇𝑅𝐸𝐶𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Trong đó ∇RECit = Phải thu khách hàng cuối kỳ t - Phải thu khách hàng cuối kỳ

t -1

Các tham số α1, α2, α3 ở mô hình trên được tính bằng ước lượng OLS của a1, a2,

a3 trong mô hình sau:

+ 𝜀 = 𝑎1 + 𝑎2 + 𝑎3 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1 ∇𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 − ∇𝑅𝐸𝐶𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Suy ra phần biến kế toán có thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện được xác

định theo phương trình sau:

= − 𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Dechow, Sloan và Sweeney (1995) đã chỉ ra rằng mô hình Modified Jones đã

phát hiện ra hoạt động quản trị lợi nhuận tốt hơn so với mô hình Jones (1991) và các

mô hình khác như mô hình của Healy (1985) hoặc DeAngelo (1986). Nhiều nghiên

cứu đã kết luận rằng hai mô hình Jones và Modified Jones đã cho kết quả đáng tin

cậy về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay, Kothari and Watts, 1996).

39

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Quy trình nghiên cứu

3.1.1. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài thực hiện theo phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp với nghiên

cứu định tính.

Phương pháp định tính: nghiên cứu, phân tích các công trình nghiên cứu trong

và ngoài nước kết hợp với cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác

giả. Từ đó, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu, các giả thiết nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng: thu thập dữ liệu, xử lý dữ liệu nhằm kiểm

định mô hình và các giả thiết đã đề xuất.

Ngoài ra, bài nghiên cứu còn sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu, phân tích

thông tin, số liệu để rút ra những vấn đề lý luận, từ đó xác định giải pháp nhằm hạn

chế tác động tiêu cực của hoạt động quản trị lợi nhuận trên BCTC.

3.1.2. Quy trình nghiên cứu

 Bước 1:

Tổng hợp và đúc kết các nghiên cứu trước đây liên quan đến việc đo lường hoạt

động quản trị lợi nhuận, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận và

cách thức đo lường các nhân tố ảnh hưởng đó. Hệ thống hóa một cách đầy đủ về các

lý thuyết nền tảng liên quan đến hoạt động quản trị lợi nhuận và các nhân tố ảnh

hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận. Trên cơ sở đó, tác giả xác định được lỗ hổng

nghiên cứu đó là: nhân tố đa dạng đầu tư và nhân tố tích hợp đòn bẩy tài chính với đa

dạng đầu tư chỉ mới được tác giả Nasrollah Takhtaei et al. (2013) nghiên cứu và chưa

nhận thấy có nghiên cứu nào trong nước khảo sát nhân tố này.

Bên cạnh đó, tác giả nhận thấy: nhân tố quy mô công ty có 3 tác giả nghiên cứu

(Huỳnh Thị Vân (2012), Nguyễn Thị Uyên Phương (2014) và Trần Thị Mỹ Tú

(2014)), tuy nhiên, tác giả Huỳnh Thị Vân (2012) cho kết quả không có ý nghĩa thống

40

kê trong khi 2 tác giả còn lại cho kết quả đồng biến. Vì thế, trong luận văn này, tác

giả chọn nhân tố quy mô công ty để khảo sát lại.

Ngoài ra, tác giả còn nhận thấy: nhân tố chất lượng kiểm toán có 4 tác giả nghiên

cứu (Dwi Lusi Tyasing Swastika (2013), Trần Thị Mỹ Tú (2014), Nguyễn Thị Uyên

Phương (2014) và Phan Thị Thanh Trang (2015)). Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Thị

Uyên Phương (2014) cho kết quả chất lượng kiểm toán không ảnh hưởng đến hành

vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp trong khi 3 tác giả còn lại cho kết quả

nghịch biến. Và nhân tố tỷ lệ độc lập của HDQT có 3 tác giả nghiên cứu (Dwi Lusi

Tyasing Swastika (2013), Trần Thị Mỹ Tú (2014) và Giáp Thị Liên (2014)). Tuy

nhiên, tác giả Dwi Lusi Tyasing Swastika (2013) cho kết quả không có ý nghĩa khảo

sát trong khi 2 tác giả còn lại cho kết quả nghịch biến. Vì thế, trong luận văn này, tác

giả sẽ chọn nhân tố chất lượng kiểm toán và tỷ lệ độc lập của HDQT để khảo sát lại.

 Bước 2:

Xây dựng mô hình nghiên cứu và xác định các giả thiết nghiên cứu.

 Bước 3:

Thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến đề tài từ BCTC đã được kiểm toán

của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Hà Nội và sàn chứng khoán

Tp.HCM từ năm 2015 đến năm 2019 (website: http://fiintrade.vn).

Xử lý thông tin, số liệu bằng phần mềm SPSS 20 và Excel

 Bước 4:

Phân tích, bàn luận kết quả nghiên cứu, nhận xét và đề xuất kiến nghị.

3.2. Giả thiết nghiên cứu

Trong phần này, các giả thiết được nêu ra để kiểm nghiệm đều dựa kế thừa

những nghiên cứu trước, những lý thuyết hiện có nhằm tạo cơ sở vững chắc cho các

biến được xét đến.

41

3.2.1. Đòn bẩy tài chính

Công ty có đòn bẩy cao có thể có nguy cơ phá sản nếu họ không thể thực hiện

thanh toán các khoản nợ của họ, họ cũng có thể là không thể tìm thấy các khoản vay

mới trong tương lai. Đòn bẩy tài chính tăng sẽ làm hạn chế hoạt động quản trị lợi

nhuận ở các công ty, bởi việc trả nợ sẽ làm giảm lượng tiền mặt có sẵn mà các nhà

quản lý có thể sử dụng để đầu tư vào các dự án. Đồng thời, khi được đánh giá là có tỉ

lệ đòn bẩy tài chính cao, công ty phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ của các chủ

nợ và việc chi tiền cho các hoạt động cũng bị kiểm soát khá chặt chẽ.

Jelinek (2007) cho thấy rằng những thay đổi đòn bẩy và mức độ đòn bẩy có tác

động khác nhau trên hoạt động quản trị lợi nhuận và kết luận rằng tăng đòn bẩy có

liên quan với giảm dồn tích quản trị lợi nhuận. Hơn nữa kết quả cho thấy rằng khi nợ

tăng sẽ làm giảm chi tiêu tùy ý của người quản lý, và kế đến là giảm dồn tích quản trị

lợi nhuận. Còn đối với Murya (2010) cho rằng, nếu các công ty báo cáo giảm nợ phải

trả và tăng tài sản hiện có nhằm tránh vi phạm các hợp đồng vay nợ, thì đòn bẩy tài

chính là công cụ giúp thực hiện các hoạt động quản trị lợi nhuận. Watts &

Zimmerman (1986, 1990) đồng ý rằng đòn bẩy là một công cụ để quản lý thu nhập.

Theo Watt, các công ty với đòn bẩy cao hơn có khả năng sử dụng các biện pháp kế

toán mà tìm cách tăng thu nhập hiện tại. Jiang và các cộng sự (2008) tìm thấy rằng

những thay đổi trong đòn bẩy có xu hướng ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi

nhuận với mức độ khác nhau. Điều này có thể đúng khi các nhà quản lý của các công

ty sử dụng vốn vay cao với mục đích muốn trình bày thu nhập đó sẽ che giấu dấu hiệu

sai lầm và ngăn chặn bất kỳ khoản phí mặc định. Saleh và Ahmed (2005) trong nghiên

cứu của họ về các công ty mà có các khoản nợ đang đàm phán lại tại Malaysia cho

rằng các công ty có nhiều khả năng áp dụng phương pháp dồn tích thu nhập giảm.

Thậm chí đáng báo động hơn là một thực tế mà người sử dụng các báo cáo không có

khả năng phát hiện hành vi này khi không được báo cáo rõ ràng. Sau những cuộc

tranh luận thực nghiệm, rất khó để khẳng định tác động tích cực hay tiêu cực của đòn

bẩy trên lợi nhuận. Cả hai bên đã được hỗ trợ bởi lý thuyết và thực tế có lợi cho họ,

với không một câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên có thể nói rằng, tùy thuộc vào hoàn cảnh

42

tài chính của công ty và vị trí của nó muốn miêu tả, đòn bẩy có thể là một động lực

ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận.

Tại Việt Nam, trong bài nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Tú (2014) đã cho kết quả

đòn bẩy tài chính có quan hệ đồng biến với hoạt động quản trị lợi nhuận.

Trên cơ sở những nhận định trên, tác giả đưa ra giả thiết nghiên cứu là:

H1: Đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận

3.2.2. Đa dạng đầu tư

Việc đa dạng đầu tư tăng dẫn đến sự phức tạp trong cơ cấu tổ chức và dẫn đến

gia tăng sự bất đối xứng thông tin giữa chủ nợ tài chính và giám đốc doanh nghiệp.

Mặc dù các chủ nợ tài chính yêu cầu được cung cấp thông tin để kiểm tra tính chính

xác của các mục được đề cập trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là các

báo cáo thu nhập, tuy nhiên, thông tin có được của giám đốc doanh nghiệp và các chủ

nợ tài chính không giống nhau dẫn đến sự bất đối xứng thông tin giữa giám đốc và

chủ nợ tài chính. Và trong các doanh nghiệp có đa dạng đầu tư, vấn đề bất đối xứng

thông tin tăng lên do một số thông tin trình bày trên báo cáo tài chính của doanh

nghiệp có liên quan đến thông tin được công bố trong báo cáo tài chính của công ty

con hoặc công ty liên kết.

Sự đa dạng đầu tư ngày càng gia tăng vấn đề bất đối xứng thông tin giữa giám

đốc doanh nghiệp và các chủ nợ tài chính, vấn đề này tạo điều kiện cho việc quản lý

thu nhập của giám đốc doanh nghiệp và động cơ quản lý thu nhập này sẽ gia tăng rất

lớn trong trường hợp giám đốc doanh nghiệp phải đền bù liên quan đến thiệt hại của

họ. Ngoài ra, giám đốc các doanh nghiệp có sự đa dạng đầu tư và đòn bẩy tài chính

cao có xu hướng quản lý thu nhập nhằm mục đích cho thấy hiệu quả của doanh nghiệp

tốt hơn để đáp ứng niềm mong đợi của người sử dụng thông tin, đặc biệt là các chủ

nợ tài chính của doanh nghiệp.

Trong bài nghiên cứu của Kothari et al. (2005) đã cho ra kết quả hoạt động quản

trị lợi nhuận quan hệ nghịch biến với đòn bẩy tài chính và đa dạng đầu tư, trong khi

đối với biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư thì có quan hệ đồng biến.

43

Trên cơ sở những nhận định trên, tác giả đưa ra giả thiết nghiên cứu rằng:

H2: Đa dạng đầu tư có mối quan hệ đồng biến với hoạt động quản trị lợi nhuận

3.2.3. Biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư

Các nghiên cứu trước đây đã trình bày nhiều bằng chứng thực nhiệm cho thấy

vai trò đặc biệt quan trọng của đòn bẩy tài chính và đa dạng đầu tư đối với lợi ích cùa

nhà quản lý và các chủ sở hữu doanh nghiệp. Lý thuyết đại diện của Jensen và

Meckling (1976) đã chỉ ra rằng chi phí đại diện phát sinh do mâu thuẫn lợi ích của

người quản lý và người chủ sở hữu. Trong khi người chủ sở hữu muốn tối đa hóa tài

sản của mình thì người quản lý chỉ quan tâm đến lương thưởng. Chính sự mâu thuẩn

mục tiêu này đã tạo ra hành vi quản trị lợi nhuận. Trong bài nghiên cứu của Kothari

et al. (2005) đã cho ra kết quả hành vi quản trị lợi nhuận quan hệ nghịch biến với đòn

bẩy tài chính và đa dạng đầu tư, trong khi đối với biến tích hợp đòn bẩy tài chính với

đa dạng đầu tư thì có quan hệ đồng biến. Bên cạnh đó, theo Nasrollah Takhtaei et al.

(2013) thì biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư có tác động không nhỏ

đến hành vi quản trị lợi nhuận trong các doanh nghiệp.

Gần nhất có nghiên cứu của Lê Văn Thừa (2017) được tiến hành nghiên cứu

trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên kết quả nghiên

cứu lại cho thấy biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư không có tác động

đến hành vi quản trị lợi nhuận. Trên cơ sở đó, tác giả xác định được lỗ hổng nghiên

cứu đó là: nhân tố đa dạng đầu tư và nhân tố tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng

đầu tư chỉ mới được tác giả Nasrollah Takhtaei et al. (2013) nghiên cứu và chưa nhận

thấy có nghiên cứu nào trong nước khẳng định mức độ ảnh hưởng của nhân tố này

đối với hành vi quản trị lợi nhuận ở Việt Nam. Chính vì thế tác giả lựa chọn nhân tố

này nhằm đánh giá sự tương quan giữa biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng

đầu tư tác động đến biến quản trị lợi nhuận. Đây là tính mới của nghiên cứu này so

với các nghiên cứu khác trước đây được thực hiện tại Việt Nam khi nghiên cứu về

hành vi quản trị lợi nhuận.

H3: Biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư có mối quan hệ đồng

biến với hành vi quản trị lợi nhuận

44

3.2.4. Quy mô công ty

Quy mô của công ty sẽ ảnh hưởng đến các quyết định bởi vì theo như cơ cấu

của công ty, công ty càng lớn thì càng có sự tách bạch giữa quyền quản lý và quyền

sở hữu. Và sự tách rời này càng lớn thì các mối lo ngại có thể phát sinh rằng các nhà

quản lý sẽ theo đuổi lợi ích cá nhân hấp dẫn mà bỏ qua lợi ích của các cổ đông và

công ty. Một mối lo ngại đáng để quan tâm nữa là thường các công ty có quy mô càng

lớn thì kỳ vọng vào chỉ tiêu lợi nhuận dự báo càng cao. Barko và Simko (2002) chỉ

ra rằng các công ty lớn phải đối mặt với nhiều áp lực đểvượt qua yêu cầu của các nhà

phân tích. Chính mức lợi nhuận kỳ vọng này khiến các công ty niêm yết có xu hướng

điều chỉnh lợi nhuận để đảm bảo tâm lý của nhà đầu tư. Mặt khác, các công ty có quy

mô lớn thường có số lượng và khối lượng giao dịch kinh doanh cao hơn so với các

công ty nhỏ. Sốlượng và giá trị giao dịch sẽ quyết định đến mức độ biến động của lợi

nhuận khi hành động lựa chọn chính sách kế toán xảy ra hoặc khi lựa chọn thời điểm

ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Myers và Skinner (2000) đưa ra bằng chứng

thực nghiệm chứng minh các công ty lớn báo cáo lợi nhuận không chính xác.

Trên phương diện khác, quy mô công ty có liên quan đến hệ thống kiểm soát

nội bộ. Các công ty lớn có hệ thống kiểm soát nội bộ phức tạp và kiểm toán nội bộ

có thẩm quyền hơn so với các công ty nhỏ. Một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả

giúp kiểm tra việc công bố các thông tin tài chính ra công chúng. Một yếu tố quan

trọng khác là giúp hạn chế việc quản trị lợi nhuận và nâng cao chất lượng BCTC.

Theo Beasley (2000) cho rằng, các công ty lừa đảo trong lĩnh vực công nghệ, chăm

sóc sức khỏe và dịch vụ tài chính có kiểm toán nội bộ hỗ trợ ít hơn và quản trị doanh

nghiệp cũng yếu kém hơn. Do đó, các công ty lớn thường thiết kế và duy trì hệ thống

kiểm soát nội bộ hiệu quả và phức tạp hơn so với công ty nhỏ từ đó góp phần hạn chế

hoạt động quản trị lợi nhuận.

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Tú (2014) cho ra kết quả hoạt động

quản trị lợi nhuận và quy mô công ty có mối quan hệ nghịch biến trong khi nghiên

cứu của Phan Thị Thanh Trang (2015) lại có kết quả ngược lại.

Tổng hợp những nhận định trên, tác giả đưa ra giả thiết rằng:

H4: Quy mô công ty có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận.

45

3.2.5. Chất lượng kiểm toán

Chất lượng cuộc kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát quản lý,

nhằm bảo vệ lợi ích cho các cổ đông. Ban kiểm toán nên có tỷ lệ độc lập cao, có năng

lực và đạt được mức độ cao về tính trung thực. Hoạt động thuê kiểm toán độc lập sẽ

củng cố thêm niềm tin của nhà đầu tư và làm cho chất lượng thông tin trở nên có giá

trị hơn. Kinney và Martin (1994) xem xét chín nghiên cứu và kết luận rằng kiểm toán

có tác động tích cực đến thu nhập ròng và tài sản ròng. Allane (1980) cũng cho rằng

các nhà đầu tư yêu cầu BCTC phải được kiểm toán bởi vì các báo cáo tài này cung

cấp thông tin hữu ích trong quá trình ra quyết định đầu tư của họ. Điều này cho thấy

quá trình kiểm toán có giá trị như một phương tiện nâng cao chất lượng thông tin tài

chính. Vì thế, nếu chất lượng và danh tiếng của kiểm toán càng tốt thì nhà quản trị

càng phải cân nhắc và hạn chế hơn trong việc sử dụng các thủ thuật để quản trị lợi

nhuận. Mặt khác, các công ty kiểm toán nổi tiếng thường có quy trình kiểm tra chặt

chẽ, kỹ lưỡng nhằm cung cấp các báo cáo kiểm toán chất lượng để bảo vệ danh tiếng

của mình. Vì thế họ sẽ đầu tư nhiều hơn vào công tác kiểm toán của mình.

Theo DeAngelo (1981), đã chứng minh rằng quy mô công ty kiểm toán có mối

quan hệ tích cực với chất lượng cuộc kiểm toán. Sau đó, cũng có nhiều nghiên cứu

chỉ ra rằng, các công ty kiểm toán thuộc Big 4 sẽ cung cấp chất lượng cao hơn so với

các công ty còn lại. Bởi vì bằng cách này họ có thể bảo vệ danh tiếng của mình thông

qua việc thể hiện chất lượng thông tin kiểm toán. Họ không muốn kết giao với các

khách hàng mà chất lượng báo cáo tài chính kém. Một lý do khác là công ty kiểm

toán lớn và quốc tế có thể có một lợi thế cạnh tranh trong việc kiểm soát việc áp dụng

chuẩn mực kế toán quốc tế bởi vì nhân viên của họ đã có một sự đào tạo quốc tế cao

và khả năng thích ứng kịp thời về chuyên môn trong sự phát triển của chuẩn mực kế

toán quốc tế. Ngoài ra, Palmrose (1988) cho thấy một tỷ lệ các vụ kiện tụng chống

lại kiểm toán viên Big 4 thấp hơn so với người không thuộc Big 4. Becker et al. (1998)

tìm thấy rằng các công ty không được kiểm toán bởi Big 4 có khả năng quản trị lợi

nhuận cao hơn đáng kể bằng cách dồn tích có điều chỉnh so với các công ty kiểm toán

bởi Big 4.

46

Tại Việt Nam, theo VSA220, các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện

các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng để đảm bảo tất cả các cuộc kiểm toán

được tiến hành phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và chuẩn mực kiểm toán

quốc tế được Việt Nam chấp thuận nhằm nâng cao các chất lượng kiểm toán. Tuy

nhiên để đo lường chất lượng kiểm toán thì cần rất nhiều yếu tố, đồng thời gây khó

khăn cho việc đo lường. Do đó nghiên cứu này cũng như những nghiên cứu trước

đây, chất lượng kiểm toán dựa vào hai nhóm Big4 và ngoài Big4.

Trên cơ sở những nhận định trên, tác giả đưa ra giả thiết nghiên cứu rằng:

H5: Mức độ quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết có quan hệ nghịch biến

với quy mô và chất lượng công ty kiể m toán.

3.2.6. Tỷ lệ độc lập của HDQT

Fama (1980) cho rằng sự thống trị của các nhà quản lý trong Hội đồng quản trị

có thể dẫn đến sự thông đồng. Với sự thống trị của các thành viên điều hành trong

HDQT thì quản trị công ty có thể sẽ bị vô hiệu hóa, khi HDQT đồng thời cũng là Ban

giám đốc thì vai trò giám sát của HDQT sẽ mất tác dụng và khi đó sẽ trở thành Ban

giám đốc hoạt động và tự kiểm điểm. Mà hình thức này thường không hiệu quả, việc

tự kiểm điểm rút kinh nghiệm là điều khó thực hiện. Do đó, với cơ cấu HDQT gồm

nhiều thành viên không điều hành sẽ phát huy tốt vai trò giám sát của HDQT hơn là

có quá nhiều thành viên điều hành. Tại Việt Nam Bộ tài chính quy định về cơ cấu

Hội đồng quản trị tại Khoản 2, điều 11 thông tư 121/2012/TT-BTC như sau: “Cơ cấu

thành viên Hội đồng quản trị cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên kiêm điều

hành và các thành viên không điều hành, trong đó tối thiểu một phần ba (1/3) tổng số

thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên Hội đồng quản trị không điều hành”.

Theo đó, tác giả đưa ra giả thiết như sau:

H6: Tăng tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị không điều hành sẽ làm giảm hoạt

động quản trị lợi nhuận

47

3.3. Mô hình nghiên cứu và đo lường

Đòn bẩy tài chính

Đa dạng đầu tư

Tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư

H à n h v i q u ả n t r ị l ợ i n h u ậ n

Quy mô công ty

Chất lượng kiểm toán

Tính độc lập của HĐQT

Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Mô hình nghiên cứu đề xuất:

QTLN = β0 + β1 DONBAY + β2 DAUTU + β3 DONBAYDD + β4 QUYMO

+ β5 KIEMTOAN + β6 HDQT + ε

- β0: Tham số tự do

- ε: Sai số ngẫu nhiên

- QTLN: Hoạt động quản trị lợi nhuận trên BCTC

QTLN được đo lường theo mô hình Mô hình Dechow, Sloan and Sweeney

(1995) hay còn gọi là mô hình Modified Jones vì tính phổ biến, ưu việt của mô hình

với nhiều nghiên cứu liên quan trong bài hầu hết đều sử dụng mô hình này để nhận

diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như Peasnell, et al., 2000; Xie, et al., 2001; Park &

Shin 2004; Klein 2006; Lei, 2006; Cornett, et al., 2007; Gluzar &Wang, 2011;

Sukeecheep, et al., 2013. Ngoài ra, Dechow, Sloan and Sweeney (1995) đã chỉ ra rằng

mô hình Modified Jones đã phát hiện ra hoạt động quản trị lợi nhuận tốt hơn so với mô

48

hình Jones (1991) và các mô hình khác như mô hình của Healy (1985) hoặc DeAngelo

(1986). Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng hai mô hình Jones và Modified Jones đã cho

kết quả đáng tin cậy về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay, Kothari and Watts, 1996)

Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu mối quan hệ, mức độ tác động của

các biến độc lập (đề cập bên dưới) đối với hoạt động quản trị lợi nhuận nhằm tìm ra

yếu tố giám sát giúp làm giảm hoạt động quản trị lợi nhuận nên tác giả không đi sâu

vào đánh giá, kiểm định mô hình.

- DONBAY: Đòn bẩy tài chính (đo lường=Nợ phải trả / Tổng tài sản)

- DAUTU: Đa dạng đầu tư (đo lường bởi: công ty có đầu tư vào công ty con,

công ty liên doanh, liên kết sẽ nhận giá trị là 1, ngược lại là 0)

- DONBAYDD: Tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư (đo lường=

DONBAY x DAUTU)

- QUYMO: Quy mô của công ty (đo lường = Log (Tổng tài sản))

- KIEMTOAN: Chất lượng kiểm toán (đo lường bởi: Công ty kiểm toán thuộc

Big 4 (PWC - PricewaterhouseCoopers, Deloitte, E&Y - Ernst and Young và KPMG)

nhận giá trị 1 và ngược lại nhận giá trị 0)

- HDQT: Tỷ lệ độc lập của HDQT (đo lường = Tỷ số giữa số thành viên HDQT

không tham gia vào ban giám đốc / Tổng số thành viên HDQT)

3.4. Chọn mẫu và dữ liệu nghiên cứu

Đề tài thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến đề tài từ BCTC đã được kiểm

toán của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh và sàn

chứng khoán Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2019 để lấy ra các thông tin, số liệu: Tổng

tài sản, doanh thu thuần, khoản phải thu khách hàng, nguyên giá TSCĐ hữu hình, lợi

nhuận sau thuế TNDN, lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD. Từ đó, tác giả xác định Biến

phụ thuộc - Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh theo mô hình nhận diện điều chỉnh

lợi nhuận Modified Jones (1991) (cũng chính là mô hình Dechow, Sloan and Sweeney

(1995)).

49

Tiếp theo, tác giả thu thập thêm một số thông tin, số liệu khác trên BCTC đã

được kiểm toán của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Hà Nội và

Thành phố Hồ Chí Minh (Nợ phải trả, khoản đầu tư vào công ty con công ty liên kết,

công ty kiểm toán, số liệu về ban HDQT và ban giám đốc) để xác định giá trị cho các

biến độc lập.

Dữ liệu thu thập được tổng hợp thành dạng bảng (panel data) để phục vụ cho

việc nghiên cứu. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20 và Excel để xử lý bảng số liệu

thu thập được, từ đó, tác giả tiến hành kiểm định tính đa cộng tuyến, tính tương quan,

tiến hành hồi quy mô hình và phân tích các chỉ số cần thiết để đảm bảo cho mô hình

phù hợp.

3.5. Phương pháp phân tích số liệu

- Phân tích mô tả: dùng để mô tả về hiện tượng hoặc những đặc điểm, tính chất

liên quan đến tổng thể nghiên cứu. Luận văn tập trung thống kê mô tả đối với hoạt

động quản trị lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng như: Đòn bẩy tài chính, đa dạng

đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô công ty, chất lượng

kiểm toán và tỷ lệ độc lập của HDQT.

- Phân tích tương quan: dùng để kiểm định mối tương quan tuyến tính giữa các

biến trong mô hình, giữa biến phụ thuộc với từng biến độc lập và giữa từng cặp biến

độc lập với nhau. Thông qua ma trận tương quan và sử dụng hệ số tương quan Pearson

để lượng hóa mức độ chặt chẽ mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến định lượng. Giá

trị tuyệt đối của hệ số Pearson càng gần 1 thì giữa hai biến này có mối quan hệ tuyến

tính càng chặt chẽ.

- Phân tích hồi quy đa biến: dùng để xác định mối quan hệ giữa biến độc lập và

biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng. Theo Trọng Hoài

và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008): Hệ số biến thiên R2: Hệ số xác định tỷ lệ biến

thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi biến độc lập trong mô hình hồi quy. Đó

cũng là thông số đo lường độ thích hợp của đường hồi quy theo quy tắc R2 càng gần

1 thì mô hình đã xây dựng càng thích hợp, R2 càng gần 0 mô hình càng kém phù hợp

với tập dữ liệu mẫu. Tuy nhiên R2 có khuynh hướng là một ước lượng lạc quan của

thước đo sự phù hợp của mô hình đối với dữ liệu trong trường hợp có hơn 1 biến giải

50

thích trong mô hình. Trong tình huống này R2 điều chỉnh (Adjusted R square) được

sử dụng để phản ánh sát hơn mức độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính đa biến

vì nó không phụ thuộc vào độ lệch phóng đại của R2. Ngoài ra, nhân tố nào có hệ số

beta lớn hơn thì có thể nhận xét rằng nhân tố đó có mức độ ảnh hưởng lớn hơn các

nhân tố khác trong mô hình nghiên cứu.

- Phân tích kiểm định giả thiết về trị trung bình của hai tổng thể: nhằm phân tích

liên hệ giữa biến nguyên nhân định tính và biến kết quả định lượng. Trong nghiên

cứu này, biến định tính mã hóa thành hai nhóm là 0 và 1, nên phương pháp phù hợp

được sử dụng là phương pháp kiểm định Independent - samples T-test.

- Kiểm định giả thiết cho mô hình:

Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), kiểm định các giả thiết

của mô hình hồi quy là:

- Kiểm định đa cộng tuyến: Phân tích chỉ số VIF (variance inflation factor) được

sử dụng để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Các biến mà có sự đa cộng tuyến cao

có thể bóp méo kết quả và làm cho kết quả không ổn định và không có tính tổng quát

hóa. Nhiều vấn đề rắc rối nảy sinh nếu hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng tồn

tại, ví dụ như nó có thể làm tăng sai số trong tính toán hệ số beta, tạo ra hệ số hồi quy

có dấu ngược với những gì ta mong đợi. Thông thường chỉ số VIF lớn hơn 10, hiện

tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng đang tồn tại. Như vậy trong nghiên cứu này, để

không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng xảy ra trong mô hình hồi quy, các

hệ số VIF phải nhỏ hơn 10.

- Kiểm định ý nghĩa thống kê: chỉ số sig <0.05: có ý nghĩa thống kê, ngược lại

thì không.

3.6. Xử lý số liệu

Đề tài thu thập thông tin, số liệu có liên quan đến đề tài từ BCTC đã được kiểm

toán của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Hà Nội và và sàn giao

dịch chứng khoán TpHCM từ năm 2015 đến năm 2019 để lấy ra các thông tin, số

liệu: Tổng tài sản, doanh thu thuần, khoản phải thu khách hàng, nguyên giá TSCĐ

hữu hình, lợi nhuận sau thuế TNDN, lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD. Từ đó, tác giả

51

xác định Biến phụ thuộc QTLN theo mô hình nhận diện điều chỉnh lợi nhuận

Modified Jones.

Phần biến kế toán không thể điều chỉnh của công ty i năm sự kiện được xác định

theo phương trình sau

= 𝛼1 + 𝛼2 + 𝛼2 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1 𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 − 𝑅𝐸𝐶𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Trong đó:

REVit = Doanh thu thuần cuối kỳ t - Doanh thu thuần cuối kỳ t -1

RECit = Phải thu khách hàng cuối kỳ t - Phải thu khách hàng cuối kỳ t -1

Ait-1= Tổng tài sản cuối kỳ t -1

PPEit= Nguyên giá TSCĐ hữu hình cuối kỳ t

TAit= Lợi nhuận sau thuế TNDN cuối kỳ t - Lưu chuyển tiền thuần từ HĐKD

cuối kỳ t

Các tham số α1, α2, α3 ở mô hình trên được tính bằng ước lượng OLS của a1, a2,

a3 trong mô hình sau:

= 𝑎1 + 𝑎2 + 𝛼2 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑖𝑡−1 𝑅𝐸𝑉𝑖𝑡 − 𝑅𝐸𝐶𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑃𝑃𝐸𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Suy ra hoạt động quản trị lợi nhuận của công ty i năm sự kiện được xác định

theo phương trình sau:

= − 𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑇𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1 𝑁𝐷𝐴𝑖𝑡 𝐴𝑖𝑡−1

Sau khi thu thập đầy đủ số liệu trên, tác giả tiến hành lập thành bảng và nhập dữ

liệu vào phần mềm SPSS để chạy hồi quy OLS nhằm xác định các tham số α1, α2, α3.

Tiếp đó tính ra NDAit /Ait-1 rồi suy ra giá trị biến phụ thuộc QTLN = TAit /Ait-1 -

NDAit/Ait-1

Tiếp theo, tác giả thu thập thêm một số thông tin, số liệu khác trên BCTC đã

được kiểm toán của các công ty niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Hà Nội

52

(Nợ phải trả, khoản đầu tư vào công ty con công ty liên kết, công ty kiểm toán, số

liệu về ban HDQT và ban giám đốc) để xác định giá trị cho các biến độc lập nguồn

thông tin có liên quan đến hoạt động niêm yết cổ phiếu, thông tin từ kết quả kinh

doanh và dòng tiền hoạt động kinh doanh.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 3

Trong chương 3 tác giả trình bày về các phương pháp nghiên cứu, quy trình

nghiên cứu, giả thiết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và đo lường, vấn đề chọn mẫu

và thu thập dữ liệu cùng phương pháp phân tích số liệu. Tác giả đưa ra 6 giả thiết cần

kiểm định trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa 6 biến (đòn bẩy tài chính, đa dạng

đầu từ, tích hợp đòn bẩy tài chính và đa dạng đầu tư, quy mô công ty, chất lượng kiểm

toán và tỷ lệ độc lập của HDQT) đối với hoạt động quản trị lợi nhuận. Phương pháp

thu thập dữ liệu là thu thập dữ liệu tài chính và phi tài chính của các công ty niêm yết

trên HOSE và HNX giai đoạn 2015-2019 và tập hợp dữ liệu thành dạng dữ liệu bảng.

Bài nghiên cứu vận dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow

et al, (1995) cũng chính là Modified Jones để tính toán Biến phụ thuộc - Biến kế toán

dồn tích có thể điều chỉnh (QTLN). Sau khi có đầy đủ số liệu cho mô hình, tác giả

tiến hành xử lý bằng phần mềm SPSS 20 và Excel. Tiếp theo, nghiên cứu sử dụng

phương pháp phân tích dữ liệu là thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích

hồi quy.

53

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Kết quả thống kê mô tả

4.1.1. Biến phụ thuộc QTLN

Bảng 4.1: Kết quả thống kê mô tả Biến phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận

Std. N Minimum Maximum Mean Deviation

QTLN 2665 -4.40 2.61 .0276 .20324

Valid N

(listwise) 2665

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

Bảng 4.1: trình bày các số liệu thống kê tổng hợp về giá trị trung bình, giá trị

lớn nhất, nhỏ nhất và độ lệch chuẩn của biến phụ thuộc QTLN. Kết quả nghiên cứu

hoạt động quản trị lợi nhuận được quan sát nằm trong khoảng -4.40 đến 2.61% và

trung bình là 0.0276. Khoảng cách giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của hoạt

động quản trị lợi nhuận và độ lệch chuẩn lớn cho thấy sự khác biệt đáng kể về hoạt

động quản trị lợi nhuận giữa các DN.

4.1.2. Các biến độc lập, biến giả

Bảng 4.2: Kết quả thống kê mô tả các biến độc lập

Std. N Minimum Maximum Mean Deviation

KIEMTOAN .26 .439 2662 0 1

HDQT 2663 .0000 1.0000 .670448 .1693883

DAUTU .42 .494 2665 0 1

QUYMO 2665 10.1801 14.6061 11.845726 .6771772

DONBAY 2665 -13.3749 1.2945 .459770 .4546508

DONBAYDD 2665 -13.3749 1.2945 .182714 .4695742

Valid N (listwise) 12665

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

54

Từ bảng thống kê Bảng 4.2 trên cho thấy được:

- Biến HDQT - Tỷ lệ độc lập của HDQT có giá trị nhỏ nhất là 0.00 và lớn nhất

là 1, giá trị trung bình 0.670448 và độ lệch chuẩn là 0.1693883. Tại Việt Nam Bộ tài

chính quy định về cơ cấu Hội đồng quản trị tại Khoản 2, điều 11 thông tư

121/2012/TT-BTC như sau:“Cơ cấu thành viên Hội đồng quản trị cần đảm bảo sự

cân đối giữa các thành viên kiêm điều hành và các thành viên không điều hành, trong

đó tối thiểu một phần ba (1/3) tổng số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên

Hội đồng quản trị không điều hành”. Tuy nhiên, theo số liệu cho thấy giá trị nhỏ nhất

là 0.00 như vậy có nghĩa là vẫn có công ty không đảm bảo về mặt cơ cấu thành viên

HĐQT theo quy định.

- Biến QUYMO - Quy mô doanh nghiệp: có giá trị nhỏ nhất là 10.1801, lớn nhất

là 14.6061, giá trị trung bình 11.845726 và độ lệch chuẩn là 0.6771772. Quy mô của

các doanh nghiệp khá tương đồng nhau.

- Biến DONBAYDD - Tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư: có giá trị

nhỏ nhất là -13.3749, lớn nhất là 1.2945, giá trị trung bình 0.2800 và độ lệch chuẩn

là 0.28225.

- Biến DONBAY - Đòn bẩy tài chính: có giá trị nhỏ nhất là -13.3749, lớn nhất

là 1.2945, giá trị trung bình 0.459770 và độ lệch chuẩn là 0.4546508.

- Biến KIEMTOAN - Chất lượng kiểm toán có giá trị nhỏ nhất là 0, lớn nhất là

1, giá trị trung bình 0.26 và độ lệch chuẩn là 0.432.

Bảng 4.3: Kết quả bảng tần số biến độc lập (biến định tính) KIEMTOAN

Cumulative Frequency Percent Valid Percent Percent

.00 1972 74.0 74.0 74.0

1.00 693 26.0 26.0 100.0

Valid 2665 Total 100.0 100.0

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

55

Từ bảng 4.3 cho ta thấy được có 693 / 2665=26.0% mẫu quan sát là có kiểm

toán thuộc Big 4 Các công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX không chú trọng lắm

đến vấn đề kiểm toán thuộc Big 4.

- Biến DAUTU - Đa dạng đầu tư: giá trị nhỏ nhất là 0, lớn nhất là 1, giá trị trung

bình là 0.42 và độ lệch chuẩn là 0.494.

Bảng 4.4: Kết quả bảng tần số biến độc lập (biến định tính) DAUTU

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

.00 1541 57.8 57.8 57.8

1.00 1124 42.2 42.2 100.0

Valid Total 2665 100.0 100.0

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

Theo số liệu Bảng 4.4 cho thấy có 1124/2665=42.2% mẫu quan sát là có đa

dạng đầu tư (đầu tư vào công ty con, công ty liên doanh, liên kết)

4.2. Phân tích tương quan

Bảng 4.5 trình bày ma trận tương quan Pearson các biến được sử dụng trong mô

hình. Hệ số tương quan Pearson (ký hiệu r) lượng hóa mức độ chặt chẽ của mối liên

hệ tuyến tính giữa hai biến định lượng. Các chỉ số sig giữa Biến phụ thuộc - Hoạt

động quản trị lợi nhuận đối với từng biến độc lập đều <0.01.

Bảng 4.5: Ma trận tương quan giữa các biến độc lập, biến phụ thuộc

KIEM DAU QUY DON DON QTLN HDQT TOAN TU MO BAY BAYDD

Pearson 1 .014 -.015 -.006 .022 -.013 -.004

Correlation QTLN

Sig. (2-tailed) .477 .425 .741 .246 .516 .848

Pearson 1 .061** .124* .441* .034 .084** KIEM Correlation * * TOAN Sig. (2-tailed) .002 .000 .000 .076 .000

56

KIEM DAU QUY DON DON QTLN HDQT TOAN TU MO BAY BAYDD

Pearson 1 .029 .057* -.101** -.024

Correlation * HDQT

Sig. (2-tailed) .137 .003 .000 .213

Pearson 1 .357* -.050** .456** DAUT Correlation * U Sig. (2-tailed) .000 .010 .000

Pearson .152** .220** 1 QUYM Correlation O Sig. (2-tailed) .000 .000

Pearson 1 .796** DONB Correlation AY Sig. (2-tailed) .000

Pearson 1 DON

Correlation BAYD

D Sig. (2-tailed)

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

Kết quả chỉ ra rằng có mối tương quan tuyến tính nghịch biến giữa Biến phụ

thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận đối với 4 biến độc lập: tỷ lệ độc lập của HDQT,

đa dạng đầu tư, đòn bẩy tài chính, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư.

Bên cạnh đó, kết quả còn cho thấy rằng Biến phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi

nhuận có mối tương quan tuyến đồng biến biến đối với 2 biến độc lập còn lại: chất

lượng kiểm toán và quy mô công ty.

Ngoài ra, ma trận hệ số tương quan cũng cho thấy khá nhiều các cặp biến độc

lập có sig<0.01 và có hệ số tương quan cặp >0, điều này cho thấy có khả năng xảy ra

hiện tượng đa cộng tuyến, đặc biệt nhất là cặp biến độc lập Đa dạng đầu tư và Tích

hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư. Tuy nhiên dựa trên bảng này thì chưa thể

57

kết luận là có đa cộng tuyến hay không, phải đến khi chạy hồi quy, có được chỉ số F

thì mới có thể kết luận được.

4.3. Kiểm định giả thiết về trị trung bình của hai tổng thể (Independent-

samples T-test)

Nhằm phân tích liên hệ giữa biến nguyên nhân định tính và biến kết quả định

lượng, tác giả thực hiện kỹ thuật kiểm định independent - samples T-test. Trong

nghiên cứu này, kiểm định independent - samples T-test được sử dụng nhằm kiểm tra

sự tác động của biến định tính Chất lượng kiểm toán và Đa dạng đầu tư đến biến định

lượng là hoạt động quản trị lợi nhuận.

4.3.1. Biến phụ thuộc và biến Chất lượng kiểm toán

Bảng 4.6 dưới đây trình bày đại lượng thống kê mô tả cho hai nhóm kiểm toán

thuộc Big 4 (giá trị 1) và ngoài Big 4 (giá trị 0) so với toàn mẫu nghiên cứu. Trên

bảng 4.6 thể hiện kiểm định Levene's Test có sig=0.000 < 0.05 Phương sai giữa 2

nhóm kiểm toán là khác nhau và chúng ta sẽ sử dụng giá trị sig T-Test ở hàng Equal

variances not assumed để xem xét tiếp. Giá trị sig T-Test=0.361 > 0.05. Như vậy, ta

kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hoạt động quản trị lợi nhuận

giữa 2 nhóm chất lượng kiểm toán (Big 4 và ngoài Big 4). Cụ thể, theo phân tích của

bảng Group Statistics trong bảng 4.6 ta thấy giá trị Mean của nhóm 1 (Big 4) có trị

tuyệt đối Mean=0.3435 cao hơn của nhóm 0 (ngoài Big 4) nên suy ra: nhóm 1 (Big

4) có tác động lên Biến phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận nhiều hơn so với

nhóm 0 (ngoài Big 4)

Bảng 4.6: Bảng kết quả kiểm định Independent - samples T-test đánh giá sự

khác biệt quản trị lợi nhuận giữa nhóm kiểm toán thuộc Big 4 và ngoài Big 4

Group Statistics

Std. Std. Error KIEMTOAN N Mean Deviation Mean

QTLN .00 1972 .0259 .22392 .00504

1.00 693 .0323 .12720 .00483

Independent Samples Test

58

Levene's Test

for Equality t-test for Equality of Means

of Variances

95%

Confidence Mean Std. Error Sig. (2- Interval of the F Sig. t Df Differe Differen tailed) Difference nce ce

Lower Upper

Equal

variances 15.891 .000 -.712 2663 .477 -.0063 .00898 -.023 .01121

assumed

QTLN Equal

variances -.914 2132.126 .361 -.0063 .00698 -.020 .00731 not

assumed

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

4.3.2. Biến phụ thuộc và biến đa dạng đầu tư

Bảng 4.7 dưới đây trình bày đại lượng thống kê mô tả cho hai nhóm có đa dạng

đầu tư (giá trị 1) và không đa dạng đầu tư (giá trị 0) so với toàn mẫu nghiên cứu. Trên

bảng 4.7 thể hiện kiểm định Levene's Test có sig=0.997 > 0.05. Phương sai giữa 2

nhóm Đa dạng đầu tư là khác nhau và chúng ta sẽ sử dụng giá trị sig T-Test ở hàng

Equal variances assumed để xem xét tiếp. Giá trị sig T-Test=0.741 > 0.05. Như vậy,

ta kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hoạt động quản trị lợi nhuận

giữa 2 nhóm đa dạng đầu tư (nhóm có và nhóm không). Cụ thể, theo phấn tích của

bảng Group Statistics trong bảng 4.7 ta thấy giá trị Mean của nhóm 0 (không đa dạng

đầu tư) có trị tuyệt đối Mean=0.2711 cao hơn của nhóm 1 (có đa dạng đầu tư) nên

suy ra: nhóm nhóm 0 (không đa dạng đầu tư) có tác động lên Biến phụ thuộc - Hoạt

động quản trị lợi nhuận nhiều hơn so với nhóm còn lại.

59

Bảng 4.7: Bảng kết quả kiểm định Independent - samples T-test đánh giá sự

khác biệt về quản trị lợi nhuận giữa nhóm có đa dạng đầu tư (1) và nhóm không Group Statistics

DAUTU N Std. Std. Error Mean

Deviation Mean

QTL .00 1541 .0287 .18310 .00466

N 1.00 1124 .0260 .22805 .00680

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances

F Sig. t Df 95% Confidence Interval of the Difference Sig. (2- tailed) Std. Error Differe nce Mean Differe nce Lower Upper

.000 .997 .331 2663 .741 .00264 .00797 .01827 - .01300 Equal variances assumed

QTLN .320 2090.364 .749 .00264 .00825 .01881 - .01354 Equal variances not assumed

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

4.4. Phân tích hồi quy

Phần này tiến hành phân tích nhằm xây dựng mô hình hồi quy, xác định mối

quan hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận trên

BCTC của các công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX. Việc phân tích này được

thực hiện bằng cách sử dụng SPSS 20 hồi quy đa biến. Mô hình có 6 biến độc lập:

đòn bẩy tài chính, đa dạng đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, chất

lương kiểm toán, quy mô công ty, tỷ lệ độc lập HDQT và một biến phụ thuộc là

60

QTLN - Hoạt động quản trị lợi nhuận trên BCTC của các công ty niêm yết trên sàn

HOSE và HNX.

4.4.1. Kiểm định sự phù hợp của mô hình

Sau khi xây dựng xong mô hình hồi quy tuyến tính, vấn đề quan tâm đầu tiên là

ta phải xem xét độ phù hợp của mô hình đối với tập dữ liệu thông qua giá trị. Để kiểm

định độ phù hợp của mô hình hồi quy tổng thể, ta cần kiểm định giả thiết Ho: βi=0

(với βi lần lượt là hệ số hồi quy của các biến độc lập). Bảng 4.8 cho thấy giá trị thống kê

có mức ý nghĩa là 0.000 nhỏ hơn nhiều so với mức ý nghĩa 0.01 nên ta bác bỏ giả thiết

Ho với độ tin cậy 99%. Như vậy có thể kết luận các biến độc lập trong mô hình hồi quy

có quan hệ tuyến tính và giải thích được sự biến thiên của hoạt động quản trị lợi nhuận.

Bảng 4.8: Bảng ANOVA cho kiểm định F ANOVAa

Sum of Mean Df Model F Sig. Squares Square

3 Regression 9.812 3.271 79.089 .000b

2661 1 Residual 110.040 .041

2664 Total 119.852

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

a. Dependent Variable: QTLN

b. Predictors: (Constant), DONBAYDD, QUYMO, DONBAY, KIEMTOAN,

HDQT, DAUTU

Bảng 4.9 với hệ số và hiệu chỉnh (Adjust R Square) dùng để đánh giá sự phù

hợp của mô hình. Vì R2 sẽ tăng khi đưa thêm biến độc lập vào mô hình, cho nên việc

dùng R2 hiệu chỉnh sẽ an toàn khi đánh giá sự phù hợp của mô hình. R2 hiệu chỉnh

của mô hình là 0.637 có nghĩa 63.7% sự biến thiên của hành vi quản trị lợi nhuận

được giải thích bởi các biến độc lập. Như vậy, mức độ phù hợp của mô hình là tương

đối ổn. Tuy nhiên sự phù hợp này chỉ đánh giá trên mẫu dữ liệu.

61

Bảng 4.9: Kết quả đánh giá sự phù hợp của mô hình Model Summaryb

Model R R Square Adjusted R Std. Error of Durbin-

Square the Estimate Watson

1 .800a .639 .637 .20316 1.534

a. Predictors: (Constant), DONBAYDD, HDQT, KIEMTOAN, DAUTU,

QUYMO, DONBAY

b. Dependent Variable: QTLN

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

4.4.2. Kiểm định vấn đề đa cộng tuyến

Bảng 4.10 cho thấy độ chấp nhận của biến (Tolerance) và hệ số phóng đại

phương sai (Variance inflation factor - VIF) được dùng để phát hiện hiện tượng đa

cộng tuyến. Thông thường, nếu VIF của một biến độc lập nào đó lớn hơn 10, đó là

dấu hiệu của đa cộng tuyến (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Đôi

khi, cần phải xem xét các hệ số tương quan (Pearson, từng phần) của biến đó với biến

phụ thuộc để có thể so sánh chúng với trọng số hồi qui (Nguyễn Đình Thọ, 2012).

Bảng 4.10: Bảng kết quả hồi quy đa biến Coefficientsa

Unstandardized Standardized Collinearity

Coefficients Coefficients Statistics Model t Sig. Std. Beta Tolerance VIF B Error

-.085 .082 (Constant) -1.043 .297

.000 .010 KIEMTOAN -.001 -.024 .981 .794 1.260

-.030 .024 HDQT -.025 -1.268 .205 .962 1.040

-.034 .015 1 DAUTU -.083 -2.215 .027 .265 3.773

.014 .007 QUYMO .046 1.883 .060 .632 1.583

-.055 .024 DONBAY -.123 -2.301 .021 .132 7.572

.052 .025 DONBAYDD .121 2.068 .039 .109 9.153

Nguồn: Kết quả truy xuất từ SPSS 20

62

a. Dependent Variable: QTLN

Qua kết quả hồi quy cho thấy biến DAUTU, DONBAY, DONBAYDD có tác

động đến QTLN với sig < 0.05. Ngược lại các biến KIEMTOAN, HDQT, QUYMO

bị loại ra khỏi mô hình do có sig > 0.05.

Tóm lại, qua kết quả hồi quy bảng 4.10, ta biết được phương trình hồi quy giữa

hoạt động quản trị lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng. Khi các điều kiện khác không

thay đổi và chỉ có một biến độc lập thay đổi lượng một phần trăm thì hoạt động quản

trị lợi nhuận tăng lên hay giảm đi lượng βi phần trăm tùy theo dấu của giá trị βi.

4.4.3. Kiểm định Phương sai sai số thay đổi

Để kiểm định giả thiết này, đề tài sử dụng kiểm định Spearman: xác định giá

trị tuyệt đối số dư chuẩn hóa.

Kết quả kiểm định như bảng sau:

Bảng 4.11: Kết quả Kiểm định Phương sai sai số thay đổi

Correlations

ABSRES DAUTU DONBAY DONBAYDD

Pearson 1 .002 .009 .010 Correlation ABSRES Sig. (2-tailed) .916 .638 .606

N 2665 2665 2665 2665

Pearson .002 -.050** .456** 1 Correlation DAUTU Sig. (2-tailed) .916 .010 .000

2665 N 2665 2665 2665

Pearson .009 -.050** 1 .796** Correlation DONBAY Sig. (2-tailed) .638 .010 .000

N 2665 2665 2665 2665

Pearson .010 .456** .796** 1 Correlation DONBAYDD Sig. (2-tailed) .606 .000 .000

N 2665 2665 2665 2665

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

63

Qua kiểm định Spearman cho biết các biến độc lập đã qua các kiểm định bảo

đảm có mức ý nghĩa (Sig) đều lớn hơn 0,05. Như vậy kiểm định Spearman phần số

dư không thay đổi.

Kết luận: Qua phân tích, mô hình xác định có 3 biến: DAUTU, DONBAY,

DONBAYDD có tác động có ý nghĩa thông kê đối với biến QTLT.

Phương trình hồi quy luận văn xây dựng được:

QTLN = -0.83*DAUTU - 0.123*DONBAY + 0.121*DONBAYDD

4.5. Thảo luận về kết quả nghiên cứu

Ở phần trình bày trên, luận văn đã phân tích toàn bộ các nhân tố dự kiến sẽ ảnh

hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận trên BCTC của các công ty niêm yết trên sàn

HOSE, thông qua mô hình hồi quy tuyến tính bội. Tuy nhiên, sau khi phân tích ý

nghĩa các hệ số hồi quy riêng trong mô hình, tác giả nhận thấy nhân tố thật sự ảnh

hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận theo mô hình hồi quy là đòn bẩy tài chính

(với giá trị B=0.991 lớn hơn rất nhiều so với các biến khác).

Đối với giả thiết H1: Đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng đến hoạt động quản

trị lợi nhuận.

Kết quả hồi quy cho thấy biến Đòn bẩy tài chính (DONBAY) có ý nghĩa thống

kê ở mức ý nghĩa 5%. Cụ thể là biến DONBAY có ảnh hưởng đồng biến đối với Biến

phụ thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận với giá trị B=- 0.123. Đây là biến có mức

độ ảnh hưởng mạnh nhất đối với hoạt động quản trị lợi nhuận. Như vậy nghĩa là giả

thiết H1 được chấp nhận. Điều này có nghĩa là đòn bẩy tài chính của công ty càng

cao thì hoạt động quản trị lợi nhuận của công ty cũng càng cao. Kết quả này cũng

giống như nghiên cứu trước đây của Watts & Zimmerman (1986, 1990) và Trần Thị

Mỹ Tú (2014) nhưng khác với nghiên cứu trước đây của Nasrollah Takhtaei et al.

(2013) cho thấy có mối quan hệ nghịch biến

Đối với giả thiết H2: Đa dạng đầu tư có mối quan hệ đồng biến với hoạt động

quản trị lợi nhuận.

Kết quả hồi quy cho thấy biến Đa dạng đầu tư (DAUTU) có ý nghĩa thống kê ở

mức ý nghĩa 5%. Cụ thể là biến DONBAY có ảnh hưởng đồng biến đối với Biến phụ

64

thuộc - Hoạt động quản trị lợi nhuận với giá trị B=-0.83. Đây là biến có mức độ ảnh

hưởng ở mức cao so với các biến độc lập khác trong mô hình. Điều này có nghĩa là

giả thiết H2 được chấp nhận. Điều này có nghĩa là công ty càng đa dạng đầu tư vào

công ty con, công ty liên doanh, liên kết thì hoạt động quản trị lợi nhuận của công ty

cũng tăng theo. Kết quả này không giống như nghiên cứu trước đây của Nasrollah

Takhtaei et al. (2013) cho thấy có mối quan hệ nghịch biến.

Đối với giả thiết H3: Biến tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư có mối

quan hệ đồng biến với hoạt động quản trị lợi nhuận.

DONBAYDD có ảnh hưởng đồng biến đối với Biến phụ thuộc - Hoạt động quản

trị lợi nhuận với giá trị B=0.039. Đây là biến có mức độ ảnh hưởng ở mức khá so

với các biến độc lập khác trong mô hình. Điều này có nghĩa là giả thiết H3 được

chấp nhận.

TỔNG KẾT CHƯƠNG 4

Sau khi dữ liệu được xử lý trên phần mềm SPSS 20.0. Luận văn đã trình bày

được các nhân tố ảnh hưởng cũng như mức độ tác động đến hoạt động quản trị lợi

nhuận trên BCTC của các công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX. Qua đó cũng

xác định được trong 6 nhân tố ảnh hưởng được xây dựng ban đầu có tác động đến

hoạt động quản trị lợi nhuận thì chỉ có 3 đặc điểm là đòn bẩy tài chính, đa dạng đầu

tư, biến tích hợp đòn bẩy tài chính là có ảnh hưởng đến đến hoạt động quản trị lợi

nhuận đúng theo giả thuyết ban đầu mà luận văn đã đưa ra. Cùng với kết quả đó,

trong chương 4 tác giả cũng tiến hành so sánh kết quả luận văn đạt được với các

nghiên cứu trước.

65

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Chương năm sẽ tập hợp lại những điểm chính trong luận văn, tổng kết các vấn

đề đã được giải quyết và xem xét lại mục tiêu nghiên cứu có đạt được hay không.

Dựa vào kết quả, một vài đề xuất để hạn chế hoạt động quản trị lợi nhuận. Phần cuối

của chương sẽ trình bày những hạn chế trong nghiên cứu này và đề xuất các hướng

nghiên cứu mở rộng tiếp theo.

5.1. Kết luận

QTLN được xem là hành động xấu cần được kiểm soát vì chúng gây hiểu nhầm

về tình trạng hoạt động của công ty, ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan.

Nhận diện, đánh giá thực trạng và tìm ra các nhân tố tác động đến hành vi QTLN để

kiểm soát chúng để nâng cao chất lượng thông tin BCTC đóng vai trò quan trọng.

Luận văn này nghiên cứu sự ảnh hưởng của 6 nhân tố: đòn bẩy tài chính, đa dạng đầu

tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô công ty, chất lượng kiểm

toán và tỷ lệ độc lập HDQT trong 4 năm từ 2015 đến 2019. Mô hình Modified Jones

được vận dụng để đo lường hoạt động quản trị lợi nhuận. Để hiểu rõ hơn về mối quan

hệ giữa các nhân tố và hoạt động quản trị lợi nhuận, luận văn đã lược khảo các nghiên

cứu trước đây và những lý thuyết liên quan đến hoạt động quản trị lợi nhuận. Kết quả

của nghiên cứu cho thấy hầu hết các công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán

Hà Nội và sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đều thực hiện quản trị

lợi nhuận trong giai đoạn 2015-2019 và có xu hướng quản trị tăng lợi nhuận.

Với thực trạng quản trị lợi nhuận như hiện nay thì các nhà đầu tư biết đâu là thật

và đâu là giả để đặt lòng tin. Nếu đặt lòng tin sai vị trí thì có thể dẫn đến tình trạng

như các nhà đầu tư trong sự kiện công ty Cổ phần Dược Viễn Đông. Nhằm tạo ra một

công cụ đơn giản có thể giúp các nhà đầu tư có thêm sự hỗ trợ cho việc ra quyết định,

nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của các nhân tố đặc điểm công ty đến quản trị lợi

nhuận của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và sở giao

dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh trong năm tài chính gần nhất.

Sau khi tổng hợp các lý thuyết liên quan và các nghiên cứu trước, luận văn tiến

hành xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu. Với dữ liệu thứ cấp thu thập được,

66

bằng phương pháp hồi quy bội cho 6 biến độc lập là đòn bẩy tài chính (DONBAY),

đa dạng đầu tư (DAUTU), tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư

(DONBAYDD), quy mô công ty (QUYMO), chất lượng kiểm toán (KIEMTOAN)

và tỷ lệ độc lập HDQT (HDQT) với một biến phụ thuộc hoạt động quản trị lợi nhuận

(QTLN). Kết quả cho thấy hai biến có quan hệ nghịch biến với hoạt động quản trị

lợi nhuận (DAUTU và DONBAY), 1 biến quan hệ đồng biến (DONBAYDD) và 3

biến còn lại không đạt nên bị loại khỏi mô hình nghiên cứu. Phương trình hồi quy

luận văn xây dựng được:

QTLN = -0.83*DAUTU - 0.123*DONBAY + 0.121*DONBAYDD

Ngoài ra, kết quả của nghiên cứu, cùng với các kiến nghị được đề xuất bên dưới

cũng có thể là một công cụ hữu ích cho các đối tượng liên quan như cơ quan quản lý

nhà nước, công ty niêm yết, công ty kiểm toán,… trong việc ra các quyết định.

Thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển và thu hút được rất

nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Dòng vốn nhàn rỗi trong

người dân từng bước đưa vào TTCK, các tổ chức, cá nhân nước ngoài không ngừng

gia tăng vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam thể hiện rõ nét ở thanh khoản thị trường

chứng khoán ngày càng cao. Thiết nghĩ, ngoài việc tạo thêm hàng hóa tốt cho TTCK

thông qua việc thúc đẩy nhanh chóng cổ phần hóa, Việt Nam cần áp dụng đồng bộ

nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin báo cáo của CTNY, ngăn ngừa và

kiểm soát hành vi QTLN tại CTNY.

5.2. Kiến nghị

Luận văn này thực hiện với mục tiêu đo lường tác động của 6 nhân tố: đòn bẩy

tài chính, đa dạng đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô công

ty, chất lượng kiểm toán và tỷ lệ độc lập HDQT đến hoạt động quản trị lợi nhuận trên

BCTC của các công ty niêm yết trên sàn HOSE và HXN. Luận văn đã đưa ra được

cơ sở lý giải mối quan hệ giữa 6 nhân tố đó với hoạt động quản trị lợi nhuận. Do đó,

từ kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra những khuyến nghị chính sách cho các đối

tượng khác nhau: các nhà hoạch định chính sách, các DN niêm yết và nhà đầu tư. Cụ

thể các khuyến nghị về chính sách hướng đến các đối tượng như sau:

67

 Các nhà hoạch định chính sách

Trong những năm gần đầy, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ

thống pháp lý liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kế toán và kiểm toán

đã tạo ra một hành lan pháp lý ngày càng hoàn thiện cho các đơn vị kinh tế. Bằng

chứng là việc ban hành Luật kế toán số 88/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày

01/01/2017, chế độ kế toán doanh nghiệp theo thông tư 200/2014/TT-BTC áp dụng

từ ngày 01/01/2015. Luật kế toán và Chế độ kế toán thay đổi cho phù hợp tình hình

thực tế của Việt Nam nhưng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam chưa được sửa

đổi đồng bộ. Một số quy định trong chuẩn mực kế toán, thông tư hướng dẫn chuẩn

mực kế toán Việt Nam khác biệt lớn so với chế độ kế toán hiện hành, ví dụ như quy

định hạch toán chênh lệch tỷ giá hối đoái, tính lãi cơ bản trên cổ phiếu,... Khi có sự

khác biệt trong hệ thống pháp luật tham chiếu thì doanh nghiệp có thể lựa chọn chính

sách, phương pháp có lợi cho doanh nghiệp nhất, tạo cơ hội cho người quản lý thực

hiện QTLN.

Tại Việt Nam Bộ tài chính quy định về cơ cấu Hội đồng quản trị tại Khoản 2,

điều 11 thông tư 121/2012/TT-BTC như sau: “Cơ cấu thành viên Hội đồng quản trị

cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên kiêm điều hành và các thành viên không

điều hành, trong đó tối thiểu một phần ba (1/3) tổng số thành viên Hội đồng quản trị

phải là thành viên Hội đồng quản trị không điều hành”. Kết quả nghiên cứu cho thấy

tỷ lệ độc lập của HDQT càng cao thì sẽ hạn chế hoạt động quản trị lợi nhuận (nghịch

biến). Mặc khác, theo số liệu cho thấy có khá nhiều quan sát không thực hiện đảm

bảo quy định tối thiểu 1/3. Vì thế tác giả kiến nghị nhà hoạch định chính sách cần có

biện pháp chế tài nghiêm hơn với trường hợp thực hiện không đúng quy định này và

cần nâng tỷ lệ này lên cao hơn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ hoạt động quản trị lợi nhuận trung bình là

0.0276 với giá trị min là -4.40 và max là 2.61 với 100% các quan sát đều có hoạt động

quản trị lợi nhuận. Trong kết quả nghiên cứu, biến chất lượng kiểm toán tuy không

có tác động đến hoạt động quản trị lợi nhuận, tuy nhiên các nghiên cứu khác cũng chỉ

ra rằng yếu tố này có mối quan hệ với hoạt động quản trị lợi nhuận. Do vậy, Bộ Tài

chính cần thường xuyên kiểm tra, giám sát và công bố danh sách các công ty kiểm

68

toán đủ năng lực, uy tín, đảm bảo chất lượng kiểm toán. Mặt khác, cần xử phạt mạnh

hơn hoặc rút giấy phép hoạt động đối với các công ty kiểm toán độc lập nếu BCTC

mà họ kiểm toán bị phát hiện không trung thực.

Bên cạnh đó, cần tăng cường giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán, xử lý

nghiêm những vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán. Nhìn chung, khó có thể đánh giá

được chất lượng dịch vụ kiểm toán công ty niêm yết hiện nay. Với quá nhiều vụ bê

bối xảy ra cho thấy chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết là chưa cao. Có rất

nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán. Một là, mức độ

cạnh tranh gây gắt giữa các công ty kiểm toán, trong đó có cạnh tranh về phí kiểm

toán. Doanh thu bù đắp chi phí và có lãi là bài toán nan giải. Nếu giá phí dịch vụ thấp,

công ty kiểm toán sẽ cắt bớt thủ tục kiểm toán, thu thập bằng chứng kiểm toán, thậm

chí đóng dấu và thu tiền chứ không thực sự kiểm toán tại đơn vị. Hai là, áp lực công

việc khi vào mùa kiểm toán là điều khó thể tránh khỏi. Phần lớn công ty Việt Nam

chọn năm tài chính là năm dương lịch. Thời gian kiểm toán và công bố BCTC đã qua

kiểm toán phải thực hiện trong thời gian ngắn. Kiểm toán viên làm việc thâu đêm dẫn

đến sai sót là điều không thể tránh khỏi. Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp

sau: (1) Giám sát quá trình bổ nhiệm công ty kiểm toán, thủ tục kiểm toán; (2) Giám

sát tính độc lập của KTV và đặc biệt là KTV ký báo cáo kiểm toán; (3) Xử lý nghiêm

minh những hành vi vi phạm tính độc lập trong kiểm toán.

 Đối với doanh nghiệp niêm yết

Kết quả nghiên cứu cho thấy vấn đề đa dạng đầu tư gia tăng cũng làm tăng hoạt

động quản trị lợi nhuận (với mức tác động ở mức trung so với các biến độc lập khác

trong mô hình). Do đó, khi công ty có sự đa dạng đầu tư nhiều thì HDQT cần giám

sát chặt chẽ hơn để tránh hoạt động quản trị lợi nhuận của nhà quản trị.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy tỷ lệ độc lập của HDQT có quan hệ

nghịch biến với hoạt động quản trị lợi nhuận. Tuy nhiên giá trị sig > 0.05 tức không

có ảnh hưởng đến hoạt động quản trị lợi nhuận. Mặc dù vậy, tác giả vẫn lưu ý các

công ty niêm yết cần xem xét lại cơ cấu trong HDQT và ban giám đốc, nên đảm bảo

tỷ lệ độc lập của HDQT ở mức tốt nhất để có thể phần nào đó làm hạn chế hoạt động

69

quản trị lợi nhuận. Và một lưu ý nữa là các công ty niêm yết cần đảm bảo quy định

về tỷ lệ tối thiểu một phần ba (1/3) tổng số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành

viên Hội đồng quản trị không điều hành.

Các công ty niêm yết cần tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ và các cơ chế

giám sát khác đối với các hoạt động của công ty nhằm giảm việc tư lợi của các đối

tượng quản lý ảnh hưởng chung đến công ty. Ngoài ra, các công ty niêm yết cần

hướng đến các lợi ích lâu dài, nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính và minh

bạch, phản ánh đúng thực tế kinh doanh, tuân thủ đúng các quy định hiện hành, đừng

vì lợi ích ngắn hạn hấp dẫn trước mắt mà cung cấp thông tin kế toán sai lệch, làm mất

lòng tin nơi nhà đầu tư.

Công ty kiểm toán có chất lượng tốt sẽ giúp giảm hoạt động quản trị lợi nhuận,

vì vậy, các công ty niêm yết cần cân nhắc trong việc lựa chọn các công ty kiểm toán

độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính, đặt vấn đề chất lượng thay vì phí kiểm toán

lên hàng đầu. Để thu hút được nhà đầu tư mới ở trong và ngoài nước, các DNNY nên

cân nhắc khi lựa chọn công ty kiểm toán kiểm toán và công bố rộng rãi trên các

phương tiện thông tin đại chúng tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Chi phí thuê các công

ty kiểm toán thuộc Big4 khá cao, vì vậy, những doanh nghiệp có quy mô nhỏ sẽ không

đủ khả năng để chi trả. Mặc dù một số công ty kiểm toán trong nước đã có quy mô

tương đối lớn và uy tín, tuy nhiên, vẫn chưa có tài chính, do đó cần sớm xây dựng

tiêu chí, thang đo để đo lường chất lượng kiểm toán trong nước theo tiêu chí chất

lượng kiểm toán quốc tế. Trong thời gian chưa xây dựng được bộ tiêu chí, cần đánh

giá và xếp hạng các công ty kiểm toán uy tín trong nước hàng năm và công bố rộng

rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các DNNY làm căn cứ lựa chọn.

 Đối với nhà đầu tư

Các nhà đầu tư chứng khoán không chỉ quan tâm đến giá cổ phiếu DN, thông

tin chia cổ tức mà còn quan tâm đến những thông tin mà DN công bố về tình hình

quản trị, tài chính, lợi nhuận…. Một trong những quyền chính của nhà đầu tư là có

được thông tin từ các công ty mà họ đầu tư bởi vì họ ở bên ngoài công việc kinh

doanh và đưa ra quyết định phụ thuộc vào các thông tin được công bố trong các báo

70

cáo của DN. Vì vậy, cung cấp đầy đủ thông tin đặc biệt là thông tin lợi nhuận cho các

nhà đầu tư là công việc rất quan trọng. Kết quả cho thấy hai biến có quan hệ nghịch

biến với hoạt động quản trị lợi nhuận (DAUTU và DONBAY), 1 biến quan hệ đồng

biến (DONBAYDD) và 3 biến còn lại không đạt nên bị loại khỏi mô hình nghiên cứu.

Do đó, những minh chứng trong luận văn này khuyến nghị các nhà đầu tư chứng

khoán cần đánh giá sơ bộ về các nhân tố này, từ đó giúp nhà đầu tư có cái nhìn chính

xác hơn về lợi nhuận của DN và có cơ sở để phân bổ lại cổ phiếu một cách tối ưu

trong danh mục đầu tư của mình.

Bên cạnh đó, các đối tượng sử dụng thông tin nên thường xuyên cập nhật các

tin tức trên thị trường được đánh giá bởi các đối tượng có uy tín như Sở giao dịch

chứng khoán Hà Nội, như Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban

chứng khoán Nhà nước, Hiệp hội kiểm toán Việt Nam, Bộ tài chính…nhằm có thêm

công cụ để hỗ trợ việc ra quyết định của mình.

 Đối với ngân hàng

Khi xem xét vốn tài trợ cho cho các công ty, ngân hàng cần có sự kết hợp của

nhiều nguồn thông tin để đưa ra quyết định, không đơn thuần chủ yếu tập trung vào

Báo cáo tài chính của công ty. Ngoài báo cáo tài chính, một số thông tin khá quan

trọng như: Uy tín của công ty trong ngành, lịch sử tín dụng của công ty, phương án

kinh doanh và kế hoạch tài chính của công ty,…Tác giả nghĩ rằng, cán bộ tín dụng

ngân hàng xem xét kỹ báo cáo thường niên của công ty niêm yết, tham gia đại hội cổ

đông thường niên của công ty hằng năm để nắm bắt thêm nhiều thông tin như kế

hoạch sản xuất doanh, kế hoạch đầu tư, mở rộng dự án, định hướng quản trị,… giảm

bớt rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong hợp đồng tài trợ vốn cho doanh nghiệp, cần

lưu ý nhiều hơn đến tài sản đảm bảo và thật chặt chẽ trong vấn đề định giá tài sản

đảm bảo.

5.3. Hạn chế đề tài

Có một số hạn chế của luận văn mà tác giả đã tổng hợp lại như sau:

Thứ nhất, do các DN phi tài chính có cách trình bày BCTC không đồng nhất

như các loại hình DN còn lại và hạn chế về thời gian nghiên cứu, nghiên cứu này bị

71

hạn chế bởi các DN phi tài chính của các DN niêm yết trên sàn HOSE và HXN. Kết

quả nghiên cứu có thể không mở rộng cho tất cả các DN trên sàn HOSE và HXN

cũng như hạn chế trên phạm vi tổng thể cả nước.

Thứ hai, do hạn chế về thời gian nghiên cứu nên mức độ ảnh hưởng đến hoạt

động quản trị lợi nhuận trong nghiên cứu này chỉ mới dừng lại ở 6 nhân tố: đòn bẩy

tài chính, đa dạng đầu tư, tích hợp đòn bẩy tài chính với đa dạng đầu tư, quy mô

công ty, chất lượng kiểm toán và tỷ lệ độc lập HDQT. Ngoài ra còn nhiều yếu tố

khác chưa được đưa vào như ngành nghề, thuế suất thuế TNDN, các yếu tố quản trị

trong doanh nghiệp…

Thứ ba, do hạn chế về thời gian nghiên cứu nên phạm vi nghiên cứu về hoạt

động quản trị lợi nhuận chỉ dừng lại ở BCTC đã kiểm toán chưa sử dụng các kênh

thông tin khác như báo cáo thường niên, báo chí, bảng cáo bạch, cũng như là chỉ xem

xét trên tổng thể 1 năm mà chưa xem xét trong từng quý để đánh giá hoạt động quản

trị lợi nhuận Từ những hạn chế nêu trên, luận văn đề xuất hướng nghiên cứu tiếp

trong tương lai là cần mở rộng quy mô mẫu cho các công ty phi tài chính, nghiên cứu

theo quý đối với hoạt động quản trị lợi nhuận, và cần nghiên cứu thêm nhiều nhân tố

có ảnh hưởng khác: ngành nghề, thuế suất, các yếu tố thuộc quản trị công ty.

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị Tuyết Hoa (2014), Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh thu nhập

nhằm giảm thuế TNDN phải nộp: trường hợp các công ty niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh Tế TP.HCM.

2. Giáp Thị Liên (2014), Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều

chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.

Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh Tế TP.HCM.

3. Nguyễn Thị Uyên Phương (2014), Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận trong trường

hợp phát hành thêm cổ phiếu của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng

khoán Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học Kinh Tế TP.HCM.

4. Nguyễn Đình Thọ (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh: Thiết

kế và thực hiện.

5. Nguyễn Thị Minh Trang (2011), Kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị. Tạp

chí nghiên cứu khoa học, số 05.

6. Nguyễn Thị Minh Trang (2012), Vận dụng mô hình của DeAngelo và Friedland để

nhận dạng hành động điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị. Tạp chí Đông Á, số 06.

7. Phan Thị Thanh Trang (2015), Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận các công ty

niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh

Tế TP.HCM.

8. Nguyễn Trí Tri (2013), Những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chi phối thu nhập trên

báo cáo tài chính. Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, Số tháng 8 và 9/2012.

9. Trọng, H., & Ngọc, C. N. M. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. NXB

Hồng Đức.

10. Trần Thị Mỹ Tú (2014), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi

nhuận trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch

chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh Tế TP.HCM.

11. Phạm Thị Bích Vân (2012), Mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các

doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội. Tạp chí Ngân hàng, số 9.

73

12. Phạm Thị Bích Vân, 2012. Nghiên cứu mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi

nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TPHCM. Tạp chí Phát

triển kinh tế, số 258.

13. Phạm Thị Bích Vân, (2012). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành động quản

trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TPHCM. Tạp chí

Khoa học công nghệ, số 12(61), quyển 3.

14. Huỳnh Thùy Vân (2012), Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty cổ

phần trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn Thạc

sĩ. Đại học Đà Nẵng.

Tài liệu tiếng Anh

15. Ashari, N., Koh, H. C., Tan, S. L., & Wong, W. H. (1994). Factors affecting income

smoothing among listed companies in Singapore. Accounting and business research,

24(96), 291-301.

16. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., & Tatham, R. L. (1998).

Multivariate data analysis (Vol. 5, No. 3, pp. 207-219). Upper Saddle River, NJ:

Prentice hall.

17. Samuelson, P. A. (1958). An exact consumption-loan model of interest with or without

the social contrivance of money. Journal of political economy, 66(6), 467-482.

18. Swastika, D. L. T. (2013). Corporate governance, firm size, and earning management:

Evidence in Indonesia stock exchange. IOSR Journal of Business and Management,

10(4), 77-82.

19. Naz, I., Bhatti, K., Ghafoor, A., & Husein, H. (2011). Impact of firm size and capital

structure on earnings management: Evidence from Pakistan. International Journal of

Contemporary Business Studies, 2(12), 22-31.

20. Takhtaei, N., & Karimi, H. (2013). Effect of Financial Leverage and Investment

Diversification on Income-Increasing Earnings Management. Asian Journal of

Finance & Accounting, 9(1), 90-104.

ix

PHỤ LỤC 1

Descriptive Statistics

N

Minimum

Maximum

Mean

Std. Deviation

QTLN

2665

-4.40

2.61

.0276

.20324

Valid N (listwise)

2665

2

N

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

0

2665

1

.26

.439

KIEMTOAN

2665

.0000

1.0000

.670245

.1694867

HDQT

0

2665

1

.42

.494

DAUTU

2665

.6771772

10.1801

14.6061

11.845726

QUYMO

.4546508

2665

-13.3749

1.2945

.459770

DONBAY

DONBAYDDDONBAYxD

2665

-13.3749

1.2945

.182714

.4695742

AUTU

Valid N (listwise)

2665

KIEMTOAN

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

1972

74.0

74.0

74.0

0

693

26.0

26.0

100.0

1

Valid

2665

100.0

Total

100.0

DAUTU

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative

Percent

0

1541

57.8

57.8

57.8

1

1124

100.0

42.2

42.2

Valid

Total

2665

100.0

100.0

x

Correlations

QTLN KIEMTOAN HDQT DAUTU QUYMO DONBAY DONBAYDD

Pearson

1

.014

-.015

-.006

.022

-.013

-.004

Correlation

QTLN

Sig. (2-tailed)

.477

.425

.741

.246

.516

.848

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

.014

1

.061**

.124**

.441**

.034

.084**

Correlation

KIEMTOAN

Sig. (2-tailed)

.002

.000

.000

.076

.000

.477

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

-.015

.061**

1

.029

.057**

-.101**

-.024

Correlation

HDQT

Sig. (2-tailed)

.425

.137

.003

.000

.213

.002

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

-.006

.124**

.029

1

.357**

-.050**

.456**

Correlation

DAUTU

Sig. (2-tailed)

.741

.000

.000

.010

.000

.137

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

.022

.441**

.057**

.357**

1

.152**

.220**

Correlation

QUYMO

Sig. (2-tailed)

.246

.000

.003

.000

.000

.000

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

-.013

.034

-.101**

-.050**

.152**

1

.796**

Correlation

DONBAY

Sig. (2-tailed)

.516

.076

.000

.010

.000

.000

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

Pearson

-.004

.084**

-.024

.456**

.220**

.796**

1

Correlation

DONBAYDD

Sig. (2-tailed)

.848

.000

.213

.000

.000

.000

N

2665

2665

2665

2665

2665

2665

2665

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

xi

Group Statistics

KIEMTOAN

N

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

0

1972

.0259

.22392

.00504

QTLN

1

693

.0323

.12720

.00483

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test

for Equality of

Variances

F

Sig.

t

df

Sig.

Mean

Std. Error

95%

(2-

Difference

Difference

Confidence

tailed)

Interval of the

Difference

Lower Upper

Equal

-

-

variances

15.891

.000

2663

.477

-.00639

.00898

.01121

.712

.02399

assumed

QTLN

Equal

-

-

variances not

2132.126

.361

-.00639

.00698

.00731

.914

.02008

assumed

Group Statistics

DAUTU

N

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

0

1541

.0287

.18310

.00466

QTLN

1

1124

.0260

.22805

.00680

xii

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test

for Equality of

Variances

F

Sig.

t

df

Sig.

Mean

Std. Error

95%

(2-

Difference

Difference

Confidence

tailed)

Interval of the

Difference

Lower Upper

Equal

-

variances

.000

.997 .331

2663

.741

.00264

.00797

.01827

.01300

assumed

QTLN

Equal

-

variances not

.320 2090.364

.749

.00264

.00825

.01881

.01354

assumed

ANOVAa

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

Regression

9.812

3

3.271

79.089

.000b

Residual

110.040

2661

.041

1

Total

119.852

2664

a. Dependent Variable: A4

b. Predictors: (Constant), A3, A1, A2

Coefficientsa

Unstandardized

Standardized

Collinearity

Coefficients

Coefficients

Statistics

Model

t

Sig.

B

Std. Error

Beta

Tolerance

VIF

(Constant)

-.085

-1.043

.082

.297

KIEMTOAN

.000

.010

-.001

-.024

.981

.794

1.260

HDQT

-.030

.024

-.025

-1.268

.205

.962

1.040

1

DAUTU

-.034

.015

-.083

-2.215

.027

.265

3.773

QUYMO

.014

.007

.046

1.883

.060

.632

1.583

DONBAY

-.055

.024

-.123

-2.301

.021

.132

7.572

DONBAYDD

.052

.025

.121

2.068

.039

.109

9.153

a. Dependent Variable: QTLN