VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN HƯNG

TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN HƯNG

TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PSG.TS.NGUYỄN VĂN HUYÊN

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn của tôi với đề tài “Tái phạm và tái phạm

nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là kết

quả nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, nội dung bản án

được thu thập trung thực, chính xác. Nội dung luận văn chưa từng được công

bố trên các tài liệu khoa học khác.

Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2020

HỌC VIÊN

NGUYỄN TIẾN HƯNG

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM ... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm ....................... 7

1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tái phạm và tái phạm

nguy hiểm ........................................................................................................ 24

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ

TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TẠI TỈNH BẮC NINH .................................................................................. 31

2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về tái phạm và tái phạm nguy hiểm 31

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm và tái phạm

nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................ 36

2.3. Nhận xét về áp dụng pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm từ thực

tiễn tỉnh Bắc Ninh ........................................................................................... 43

CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TÁI PHẠM VÀ

TÁI PHẠM NGUY HIỂM............................................................................ 57

3.1. Yêu cầu của bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tái

phạm và tái phạm nguy hiểm .......................................................................... 57

3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về tái phạm và tái phạm nguy hiểm ................................................................ 59

KẾT LUẬN .................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

VKS: Viện kiểm sát

HĐXX: Hội đồng xét xử

NQ: Nghị quyết

HĐTP: Hội đồng thẩm phán

Tr: Trang

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực được thể hiện dưới dạng

những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được

pháp luật hình sự bảo vệ. Do đó, khi một người bị tuyên là tội phạm thì phải

chịu sự trừng phạt của pháp luật về những hành vi mà họ gây ra.

Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Theo đó, việc bị áp

dụng tình tiết tái phạm thể hiện mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi ở

lần phạm tội này là nguy hiểm hơn so với các tội phạm được thực hiện tương

tự. Tính nguy hiểm không phải chỉ thể hiện ở chỗ người phạm tội đã thực hiện

nhiều tội phạm mà quan trọng hơn đó là người phạm tội đã từng gánh chịu

trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình hoặc từng được cơ quan

chức năng giáo dục, cải tạo nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Ngoài ra, trường hợp

tái phạm nguy hiểm cũng là một dạng đặc biệt của tái phạm và mức độ nguy

hiểm cho xã hội cao hơn so với tội phạm tái phạm. Bởi vậy, tình tiết tái phạm

và tái phạm nguy hiểm là tình tiết khi được áp dụng sẽ gây bất lợi về hậu quả

pháp lý nặng nề hơn so với các tội phạm thông thường không bị áp dụng các

tình tiết trên.Điều nàythể hiện đường lối xử lý nghiêm khắc hơn đối với người

tái phạm, tái phạm nguy hiểm so với trường hợp phạm tội thông thường.

Nhận thức được tính nguy hiểm cao cho xã hội trong trường hợp tái

phạm, tái phạm nguy hiểm nên ngay trong Bộ luật hình sự lần đầu tiên của

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua ngày

27/6/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986 đã ghi nhận tái phạm và

tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Phần

1

chung vừa là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều loại tội trong

Phần riêng của Bộ luật hình sự. Chế định này tiếp tục được kế thừa những

quy định hợp lý và được sửa đổi, bổ sung trong BLHS năm 1999, tiếp tục

được sửa đổi, bổ sung ở BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Và cho đến

nay, Bộ luật Hình sự hiện hành (Bộ luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017) ra đời tiếp tục ghi nhận chế định này và được sửa đổi, bổ sung cho phù

hợp với sự phát triển của xã hội. Điều này đánh dấu một bước tiến quan trọng,

tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung và tội phạm tái phạm, tái phạm nguy hiểm nói riêng.

Tuy nhiên, kể từ khi BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có

hiệu lực cho đến nay, trong thực tế áp dụng chế định này bên cạnh những kết

quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập như: xác định

nhầm lẫn tái phạm, bỏ lọt tái phạm, không thống nhất về áp dụng tái phạm

giữa các cơ quan áp dụng pháp luật. Thực trạng này dẫn đến việc xử lý tội

phạm không chính xác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của người bị buộc tội. Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm đã được

nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý, tuy nhiên việc nghiên cứu đa

phần từ các công trình nghiên cứu theo BLHS 1999, hoặc các công trình đề

cập một số khía cạnh có liên quan mà thiếu đi tính chuyên sâu và tổng quát cả

về lý luận và thực tiễn. Do vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề

lý luận về tái phạm, tái phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng quy định này là

cấp thiết. Vì vậy, học viên xin lựa chọn nghiên cứu luận văn tốt nghiệp với đề

tài: “Tái phạm và tái phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”.

2. Tình hình nghiên cứu

2

Trong những năm trở lại đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa

học pháp lý đề cập đến nội dung tái phạm và tái phạm nguy hiểm theo pháp

luật hình sự Việt Nam. Có thể kể đến như:

Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: Lê Thị Ngọc, “Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về tái phạm theo Luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ năm

2013; Nguyễn Thanh Tùng,“Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình

sự Việt Nam năm 1999”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội năm 2014; Nguyễn Thị Thanh Phương, “Tái phạm, tái phạm nguy

hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận

văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, năm 2017; Nguyễn Văn Long, “Tái

phạm, tái phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành

phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, năm 2017…

Các sách, giáo trình nghiên cứu: Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), “Giáo

trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung”, Trường Đại học Luật Hà Nội,

Nxb. Công an nhân dân năm 2018; TSKH. PGS Lê Cảm, “Những vấn đề cơ

bản trong khoa học Luật hình sự”, phần chung, chương IV, NXB Đại học

quốc gia Hà Nội năm 2005; PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), “Nhiều tội

phạm (Chương XV, giáo trình Luật hình sự Việt Nam)”; TS. Lê Văn Đệ,

“Nhiều tội phạm”, NXB Công an nhân dân năm 2010; GS.TS. Nguyễn Ngọc

Hòa (Chủ biên), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa

đổi, bổ sung năm 2017-(Phần chung)”, Nxb. Tư pháp;Đinh Văn Quế, “Bình

luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất: Những quy định

chung”, Nxb. Thông tin và truyền thông; Đinh Văn Quế, “Chuyện pháp

đình”, Nxb. Thông tin và truyền thông…

Các tạp chí khoa học: Trương Thị Hằng (2006), Bàn về việc xác định

tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong trường hợp có quy định về định lượng

3

giá trị tài sản bị chiếm đoạt, Tạp chí kiểm sát Số 21/2006, tr. 31 – 34; Đỗ Văn

Chỉnh (2012), Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm và những nội dung

cần sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2012, tr. 24 – 34; Đỗ Văn Chỉnh

(2015), Tái phạm và những vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Tòa án nhân dân số

6/2015, tr. 19 – 26; Trần Văn Độ (1996), Vấn đề tái phạm và hoàn thiện chế

định tái phạm trong luật hình sự Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số

6/1996, tr. 47 – 49; Phạm Văn Thiệu (2001), Vấn đề tái phạm, tái phạm nguy

hiểm trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 9/2001, tr. 19; Nguyễn

Nông (2001), Về tình tiết tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong Bộ luật Hình

sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 4/2001, tr. 16 - 17, 34; Đỗ Văn Chỉnh (2009),

Xoá án tích với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, Tạp chí Tòa án

nhân dân, Số 2/2009, tr. 25 - 32, 36.

Các công trình nêu trên đa phần được phân tích theo BLHS 1999, một

số ít các công trình nghiên cứu quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

theo BLHS 2015 và thường tập trung vào các giáo trình của các trường đại

học. Có một số đề tài luận văn đề cập về quy định tái phạm, tái phạm nguy

hiểm nhưng ở phạm vi tỉnh thành khác. Hiện nay, chưa có một công trình nào

nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về tái phạm, tái phạm

nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ một tỉnh cụ thể là Bắc Ninh.

Do đó luận văn đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các đề tài đã được

công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đề xuất giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4

+ Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận chung về tái phạm và tái

phạm nguy hiểm.

+ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tái phạm, tái phạm

nguy hiểm;

+ Phân tích, đánh giá tình hình áp dụng chế định tái phạm, tái phạm

nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá những kết quả đạt được,

những hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó.

+Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi áp dụng chế định

tái phạm và tái phạm nguy hiểm.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Quy định của pháp luật hiện hành về Tái phạm

và tái phạm nguy hiểm, các báo cáo, số liệu tổng kết của tỉnh Bắc Ninh về tái

phạm và tái phạm nguy hiểm.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,

quy định BLHS 2015và thực trạng áp dụng cácquy địnhvề tái phạm, tái phạm

nguy hiểm.

+ Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu việc áp dụng quy

định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

+ Thời gian nghiên cứu: Các số liệu, kết quả thu thập trong 05 năm từ

năm 2015-2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở ý lý luận của luận văn là lý luận và lịch sử nhà nước và pháp

luật; chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng

5

về chiến lược cải cách tư pháp, về chính sách đấu tranh, phòng, chống tội

phạm; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách

chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật

hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.

Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ

bản như: phân tích tổng hợp, thống kế, khảo sát, so sánh,… nhằm làm sáng tỏ,

luận giải các nội dung nghiên cứu đề tài.

6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn

đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm.

- Ý nghĩa thực tiễn:Luận văn có giá trị tham khảo thiết thực đối với các

nhà lập pháp hình sự trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật hình

sự cũng như đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp

dụng pháp luật. Cùng đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo bổ ích trong

quá trình giảng dạy hình sự và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Nội dung của Luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam

về tái phạm và tái phạm nguy hiểm

Chương 2: Quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về tái phạm và tái

phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định

của pháp luật hình sự về tái phạm và tái phạm nguy hiểm

6

CHƯƠNG 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM

1.1. Những vấn đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về tái phạm

1.1.1.1. Khái niệm

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” được sử

dụng rộng rãi, tuy nhiên, nội dung tái phạm ở mỗi ngành luật lại được định

nghĩa, giải thích khác nhau. Cụ thể:

Tái phạm trong quan hệ hành chính được ghi nhận tại khoản 5 Điều 2

Luật xử lý vi phạm hành chính được hiểu như sau: “Tái phạm là việc cá

nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được

coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong quyết

định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc kể từ ngày

hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành

chính đã bị xử lý”.[45, khoản 5 Điều 2]

Tái phạm trong quan hệ lao động được ghi nhận tại khoản 3 Điều 125

Bộ luật lao động được hiểu như sau: “Tái phạm là trường hợp người lao động

lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy

định tại Điều 126 của Bộ luật này” [44, khoản 3 Điều 125]

Trong quan hệ pháp luật hình sự, tái phạm được ghi nhận trong tất cả

các BLHS năm 1985, 1999 và nay tiếp tục được ghi nhận trong BLHS 2015.

Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm tái phạm trong pháp luật hình sự chưa

được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, xây dựng. Theo đó, người phạm

tội bị coi là tái phạm khi có đủ các điều kiện sau:

7

Một là, người phạm tội đã bị kết án và chưa được xóa án tích. Điều

kiện đã bị kết án là điều kiện tiên quyết trước khi xem xét người đó có tái

phạm hay không, việc đã bị kết án được hiểu là một người đã bị Tòa án nhân

dân kết án mà không phân biệt tội phạm bị kết án là tội phạm ít nghiêm trọng,

nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm đó được

thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý thì đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của điều

kiện trên. Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải tất cả những người đã bị kết

án đều bị coi là có án tích. Các trường hợp đã bị kết án nhưng không bị coi là

có án tích được quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS và tại khoản 1 Điều 107

BLHS (đối với người bị kết án dưới 18 tuổi). Như vậy, người đã bị kết án mà

không thuộc các trường hợp này mới bị coi là có án tích. Tuy nhiên, án tích sẽ

được xóa theo quy định tại các điều từ khoản 1 Điều 69 đến Điều 73 và khoản

2 Điều 107 BLHS.

Hai là, người đang có án tích đã phạm tội mới và tội phạm đó là tội

phạm do cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Người đang có án tích là người vẫn đang thuộc đối tượng được quan tâm,

chăm sóc, giáo dục trong quá trình hòa nhập, tái cộng đồng, đây là giai đoạn

nhạy cảm khi tư tưởng, thái độ, ý thức pháp luật của họ dần thay đổi theo

chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực sau khi chấp hành hình phạt tù của bản án

trước. Việc họ tiếp tục phạm tội mới trong giai đoạn này sẽ được suy đoán ý

thức pháp luật của họ chưa được thay đổi theo hướng tích cực, hình phạt trước

đối với họ chưa thể giáo dục họ hoàn lương do vậy cần áp dụng hình phạt

nghiêm khắc hơn ở lần phạm tội này. Điều lưu ý là tội phạm người đang có án

tích thực hiện phải là tội phạm mới, đồng nghĩa với việc các tội phạm mà

trước đây họ thực hiện nhưng chưa bị phát hiện mà nay bị phát hiện và chưa

hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ mới bị xem xét áp dụng tái

phạm. Bên cạnh đó, ở điều kiện tiếp theo ghi nhận tội phạm mới này phải là

8

tội phạm do cố ý (không phân biệt tội phạm thực hiện mới này là loại tội

phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm

trọng) hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, khái niệm tái phạm được tiếp cận

dưới nhiều góc độ khác nhau có thể kể đến:

Quan điểm thứ nhất: Cho rằng tái phạm là tình trạng một người trước

đãbị kết án về một tội, về sau lại phạm và bị truy tố nữa [13, tr.82]. Theo

đó,cácđiều kiện của tái phạm gồm: 1) Người thực hiện hành vi phạm tội đã bị

kết ánđối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước đó; 2) Người phạm tội lại

phạmtội mới.

Quan điểm thứ hai: Tái phạm là trường hợp của người đã từng bị kết

tội

bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội

lần nữa [24, tr.12].

Quan điểm thứ ba: Tái phạm là trường hợp phạm tội sau khi đã bị xử

phạt và chưa được xoá án tích về tội đã phạm trước đó [26, tr.107].

Về bản chất các quan điểm nêu trên đều được xây dựng dựa trên quy

định của BLHS về các điều kiện áp dụng tái phạm, tuy nhiên việc luận giải,

diễn đạt và sử dụng một số thuật ngữ trong nội dung các khái niệm trên có sự

khác nhau. Từ sự phân tích trên, học viên đồng tình với khái niệm tái phạm

được ghi nhận trong BLHS 2015 đã thể hiện đầy đủ bản chất cũng như dấu

hiệu, điều kiện xác định tái phạm, đó là: Tái phạm là trường hợp người thực

hiện hành vi phạm tội mới do cố ý hoặc do vô ý về tội phạm rất nghiêm trọng,

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong thời gian chưa được xóa án tích về tội

phạm trước đã bị kết án. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm có tính

nguy hiểm cao hơn người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội lần đầu vì họ

9

đã bị kết án nhưng phạm tội lại trong thời gian chưa được xóa án tích về tội

đã bị kết án.

1.1.1.2. Đặc điểm

Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái niệm tái phạm nêu trên, có thể

thấy tái phạm có một số đặc điểm sau:

Một là, tái phạm là hành vi phạm tội lặp lại. Bản chất của tái phạm là

sự lặp lại hành vi phạm tội do đó một trong các dấu hiệu khi nhắc đến tài

phạm đó chính là hành vi phạm tội lặp lại.

Hai là, người thực hiện tội phạm trước đây đã bị kết án và bị xử phạt

theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Điều này có nghĩa là trước khi

thực hiện hành vi phạm tội lần này (tội phạm lặp lại) người phạm tội đã thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó thoả mãn các dấu diệu của

cấu thành tội phạm độc lập. Hành vi phạm tội trước đó đã bị đưa ra xét xử và

người phạm tội đã bị Toà án kết tội và bị áp dụng hình phạt.

Ba là, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới trong một

khoảng thời gian nhất định sau khi bị kết án lần thứ nhất. Về mặt lập pháp,

các nhà làm luật thường đưa ra quy định “một khoảng thời gian nhất định” kể

từ ngày bị kết án lần thứ nhất tức là khi hết thời gian đó thì người bị kết án sẽ

không bị coi là người phạm tội lần nữa và hành vi phạm tội mới sẽ không bị

coi là tái phạm hay nói cách khác, hết khoảng thời gian đó thì người phạm tội

sẽ được xoá án tích.

Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành không có quy định cụ

thể thế nào là án tích nhưng dựa trên các quan điểm khác nhau của các nhà

nghiên cứu khoa học pháp lý và sự đúc kết từ bản thân học viên, học viên cho

rằng: Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết án bị áp dụng hình phạt

theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Trong một khoảng thời gian

10

nhất định theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, người bị kết án mặc

dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung và

các quyết định khác của Toà án) nhưng vẫn chưa hết án tích hoặc chưa được

xoá án tích theo các quy định của pháp luật hình sự.

Như vậy, khi nhắc đến án tích bao giờ cũng gắn với việc một người bị

kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án và được coi là xóa án tích

khi hết thời hạn thử thách mà pháp luật quy định.

Bốn là, tái phạm là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân

người phạm tội. Tái phạm là một tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm của

hành vi phạm tội đồng thời bản thân người phạm tội cũng trở nên nguy hiểm

hơn đối với xã hội khi thực hiện hành vi phạm tội mới. Do đó, việc áp dụng

tình tiết tăng nặng TNHS là tái phạm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý theo hướng

bất lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy, việc quy định về tái phạm và áp dụng

quy định pháp luật hình sự về tái phạm không thể tùy tiện. Như vậy, việc ghi

nhận tái phạm với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS trong Bộ luật hình

sự phản ánh chính sách hình sự nghiêm khắc và công bằng của Nhà nước ta.

Đồng thời, tái phạm cũng trở thành một trong những căn cứ để phân hoá

TNHS và cá thể hoá hình phạt đối với người phạm tội.

Năm là, tái phạm là thước đo kết quả của chấp hành hình phạt của

người bị kết án. Có thể nói, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với

tình tiết tái phạm là người đã từng bị xử lý về trách nhiệm hình sự, từng bị áp

dụng hình phạt mà vẫn không ăn năn, hối cải, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi

phạm tội mới thể hiện sự chống đối lại xã hội, coi thường pháp luật. Điều này

chứng tỏ hình phạt trước đây đã áp dụng đối với họ chưa đủ sức răn đe, cải

tạo họ. Vì thế, ở lần tái phạm này, cần phải áp dụng các hình phạt nghiêm

khắc hơn để phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Đồng thời,

11

hy vọng rằng với hình phạt nghiêm khắc hơn có đủ tính răn đe để họ có thể

cải tà quy chính, quay lại trở thành công dân có ích cho xã hội.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về tái phạm nguy hiểm

1.1.2.1. Khái niệm

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đặc biệt của tái phạm, trong lịch sử

phát triển pháp luật hình sự chưa có một quy định nào đề cập, luận giải khái

niệm tái phạm nguy hiểm.

Trong dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 của liên bộ Toà án nhân dân

tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an lần đầu tiên quy định về

định nghĩa tái phạm nguy hiểm, đó là: “Trường hợp trước đã bịxử án về một

tội nghiêm trọng sau cũng phạm một tội nghiêm trọng hoặc trước đã bị xử án

về tội không nghiêm trọng nay phạm vào một tội nghiêm trọng”[54].

Theo đó, để xác định hành vi phạm tội được coi là tái phạm nguy hiểm

thì phải đáp ứng các điều kiện sau: Đã bị kết án về một tội nghiêm trọng hoặc

không nghiêm trọng và nay lại phạm tội nghiêm trọng.

Trong cuốn Hệ thống hoá luật lệ về hình sự, tập II (1975 – 1978) do

Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1979 thì trường hợp tái phạm nguy

hiểm được hiểu như sau: “Đối với những tội nghiêm trọng chỉ cần tái phạm

một lần nữa đã được coi là tái phạm nguy hiểm. Đối với những tội ít nghiêm

trọng hơn, tái phạm hai, ba lần trở lên mới coi tái phạm nguy hiểm”[54].

Theo quan điểm này, thì tái phạm nguy hiểm được coi là một trường

hợp của tái phạm, là trường hợp tái phạm nhiều lần và điều kiện của tái phạm

nguy hiểm được xác định là:người thực hiện hành vi phạm tội trước đây đã

từng phạm tội và bị kết án; nay lại tái phạm;trường hợp phạm tội ít nghiêm

12

trọng hơn thì điều kiện là phạm tội từ hai, ba lần trở lên được coi là tái phạm

nguy hiểm.

Trong góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự, tái phạm nguy

hiểm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học đưa ra nhưng tinh thần chung

đều dựa trên các điều kiện xác định tái phạm nguy hiểm, theo đó, thuộc trườn

hợp tái phạm nguy hiểm khi thuộc các một trong các trường hợp như sau:

Một là, đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm

trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Điểm khác

biệt giữa tái phạm ở trường hợp này chính là điều kiện đặt ra đối với tội phạm

trước phải là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chỉ

khi thuộc trường hợp này mới bị xem xét áp dụng tình tiết tái phạm nguy

hiểm. Bên cạnh đó, khi đáp ứng điều kiện trên, thì tương tự như tái phạm, tái

phạm nguy hiểm cũng đặt ra điều kiện đối với tội phạm mới là tội phạm rất

nguy hiểm, tội phạm đặc biệt nguy hiểm do cố ý. Qua nghiên cứu, học viên

nhận thấy, khi thỏa mãn 1 trong 2 điều kiện trên thì không thuộc trường hợp

tái phạm nguy hiểm nhưng sẽ thuộc trường hợp tái phạm.

Ví dụ 1: A đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng (hoặc tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng) do cố ý (thỏa mãn điều kiện 1), chưa được xóa án tích

mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm ít nghiêm trọng (hoặc tội phạm

nghiêm trọng, hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý)

(không thỏa mãn điều kiện 2). Trường hợp này không phải tái phạm nguy

hiểm, tuy nhiên đốichiếu với quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS thì trường

hợp này thuộc trường hợp tái phạm.

Ví dụ 2: A đã bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng (hoặc nghiêm

trọng, hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô

13

ý) (không thỏa mãn điều kiện 1), chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành

vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng (hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng) do cố ý (thỏa mãn điều kiện 2). Trường hợp này không phải tái phạm

nguy hiểm, tuy nhiên đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS thì

trường hợp này thuộc trường hợp tái phạm.

Hai là, Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

phạm tội do cố ý. Trường hợp một người đã bị kết án, mà ở bản án trước đã

áp dụng tình tiết tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

phạm tội (không phân biệt tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng,

nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) do vô ý thì đều

thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tái phạm nguy hiểm

như sau: Tái phạm nguy hiểm là một trường hợp đặc biệt của tái phạm, trong

đó, tái phạm nguy hiểm có tính nguy hiểm cao hơn trường hợp tái phạm,

vàthuộc một trong các trường hợp theo luật định.

1.1.2.2. Đặc điểm

Tái phạm nguy hiểm là một trường hợp của tái phạm. Do đó, tái phạm

nguy hiểm cũng có những đặc trưng chung của tái phạm, đó là: Tái phạm là

hành vi phạm tội lặp lại; Người thực hiện tội phạm trước đây đã bị kết án và

bị xử phạt theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam; Người phạm tội lại

thực hiện hành vi phạm tội mới trong một khoảng thời gian nhất định sau khi

bị kết án lần thứ nhất; Tái phạm là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về

nhân thân người phạm tội; Tái phạm là thước đo hiệu quả của hình phạt.

Ngoài ra, tái phạm nguy hiểm còn một số đặc trưng riêng như sau:

Một là, tái phạm nguy hiểm có tính nguy hiểm rất cao thể hiện ở việc

tội phạm mà người phạm tội thực hiện là những tội gây huy hại rất lớn hoặc

14

đặc biệt lớn cho xã hội. Tái phạm nguy hiểm không đơn giản chỉ là thực hiện

một tội phạm mà nó là một hình thức đa tội phạm. Điều này có nghĩa là người

phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cao (từ hai hành

vi phạm tội trở lên).

Hai là, người tái phạm nguy hiểm cần phải áp dụng biện pháp trừng

phạt nghiêm khắc hơn thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc, công bằng

của Nhà nước ta, đồng thời phải đủ tính răn đe đối với các đối tượng tái phạm

nguy hiểm nhằm trừng phạt họ, răn đe, giáo dục họ cải tà quy chính, trở thành

người có ích cho xã hội.

1.1.3. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với một số trường hợp

khác

1.1.3.1. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm tội 02 lần trở lên

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm và phạm tội 02 lần trở lên là những tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015.

Tuy nhiên, hai trường hợp này có sự khác nhau, sự khác biệt này sẽ giúp cơ

quan tư pháp xác định đúng trách nhiệm đối với người phạm tội.

Thật ra, trước đây, trong BLHS năm 1999, có đưa ra tình tiết phạm tội

nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 (các tình tiết tăng nặng

TNHS). Hiện nay, tại BLHS 2015 không sử dụng cụm từ “phạm tội nhiều

lần” mà thay vào đó là sử dụng cụm từ “phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm g

khoản 1 Điều 52. Tuy nhiên, cả BLHS 1999 và 2015 vẫn không nêu ra khái

niệm cụ thể đối với phạm tội 02 lần trở lên là như thế nào. Nhưng căn cứ theo

quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì phạm tội hai lần được hiểu là phạm cùng

một tội, từ 02 lần trở lên, nhưng những lần trước chưa bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội danh đó.

15

Như vậy, bản chất của phạm tội 02 lần trở lên là người phạm tội đã

thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng.

Nếu xét riêng từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi một hành vi phạm tội đó

đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập. Trong trường hợp phạm tội

02 lần trở lên thì các hành vi phạm tội này phải còn thời hạn truy cứu trách

nhiệm hình sự, chưa bị xét xử và nay phải cùng bị đưa ra xét xử một lần trong

cùng một vụ án. Ngoài ra, tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định

tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật hình sự ( có thể là cùng thuộc

tội trộm cắp, hiếp dâm...), có thể cùng một khoản, cũng có thể phạm tội ở các

khoản khác nhau của cùng một điều luật.

Còn về tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà

lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.Tội phạm mới

được thực hiện có thể cùng hoặc không cùng với với tội phạm trước tuy

nhiên, điều kiện đặt ra đối với tội phạm mới này phải là thực hiện hành vi

phạm tội do cố ý, hoặc nếu trường hợp thực hiện do vô ý thì tội phạm thực

hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong khoa học luật hình sự chưa có quy định cụ thể về tái phạm nguy

hiểm. Khi nói về tái phạm nguy hiểm các nhà làm luật thể hiện bằng phương

pháp liệt kê như sau:

(1) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

(2) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội do cố ý.

16

Như vậy, tựu chung về tái phạm và tái phạm nguy hiểm đều có đặc

điểm là: người phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tái phạm

và hành vi phạm tội mới của người phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm độc

lập.

Theo đó, người nào đã bị kết án 02 lần về tội phạm độc lập do Bộ luật

Hình sự quy định, trong lần kết án thứ hai trước đó, người này đã bị áp dụng

tình tiết tái phạm mà hành vi phạm tội này chưa được xóa án tích nay lại

phạm tội mới do lỗi cố ý, khi đó, không phân biệt tội mới mà người phạm tội

thực hiện là loại tội nào, hành vi mới của họ sẽ bị coi là tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, có thể thấy, tái phạm, tái phạm nguy hiểm khác phạm tội 02

lần trở lên ở chỗ trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội

đã bị kết án và chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới

(có thể phạm tội cũ hoặc tội phạm khác) còn phạm tội 02 lần trở lên là người

phạm tội trước đó đã phạm tội này ít nhất một lần nhưng chưa bị xét xử, vẫn

còn trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự và phải được xét xử trong

cùng một vụ án. Mặc dù có thể căn cứ vào tính chất đã kết án hoặc chưa để

phân biệt đâu là tái phạm, tái phạm nguy hiểm và đâu là phạm tội 02 lần trở

lên, tuy nhiên khi giải quyết vụ án còn phải căn cứ vào nhiều trường hợp pháp

luật quy định khác. Cụ thể tại khoản 7 Điều 91 Bộ luật Hình sự 2015 quy định

rằng án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi thì sẽ không được xem như là

đã kết án để xác định hành vi phạm tội tiếp theo của họ là tái phạm. Cho nên

để có thể đảm bảo việc xác định đúng hành vi của người phạm tội là gì, cần

xem xét đủ các yếu tố về khách thể, chủ thể để áp dụng đúng quy định dành

riêng cho từng đối tượng.

1.1.3.2. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm nhiều tội

17

Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, chưa có quy định cụ thể về khái

niệm phạm nhiều tội. Tuy nhiên theo học viên phạm nhiều tội có thể được

hiểu như sau: Người phạm tội thực hiện từ hai tội trở lên hoặc hành vi của

người đó phải có đầy đủ các dấu hiệu của từ hai CTTP độc lập trở lên; trong

tội phạm ấy được quy định tại các điều khoản khác nhau hoặc tại các khoản

khác nhau của cùng một điều luật (nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau)

trong phần các tội phạm trong BLHS.

Qua đó, có thể thấy, phạm nhiều tội có một số đặc trưng cơ bản sau:

1) Người phạm tội đã phạm ít nhất hai tội;

2) Các tội đã phạm được quy định cụ thể trong Phần các tội phạm của

BLHS ở các điều luật khác nhau hoặc ở các khoản khác nhau của cùng một

điều luật mà các tội được quy định trong những khoản ấy có đối tượng tác

động khác nhau;

3) Người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS về việc thực hiện các tội

phạm này;

4) Đối với các tội phạm này thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn.

Như vậy, có thể thấy sự khác biệt giữa tái phạm, tái phạm nguy hiểm và

phạm nhiều tội là:

Một là,về tình trạng truy cứu trách nhiệm hình sự: Đối với trường hợp

tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì dấu hiệu “đã bị kết án và chưa được xóa án

tích” là dấu hiệu bắt buộc để xác định trường hợp thuộc tái phạm, tái phạm

nguy hiểm. Còn đối với phạm tội nhiều lần thì được xác định là chưa bị truy

cứu TNHS lần nào về các tội phạm đã thực hiện.

Hai là, về thời hiệu truy cứu TNHS: Đối với trường hợp tái phạm, tái

phạm nguy hiểm thì chỉ cần lần tội phạm mới (tội phạm được thực hiện sau)

18

còn thời hạn truy cứu TNHS vì lần phạm tội trước đó đã được xét xử rồi. Còn

với phạm tội nhiều lần thì yêu cầu phải còn thời hiệu truy cứu TNHS đối với

tất cả các lần phạm tội.

Ba là, dấu hiệu án tích: Đối với trường hợp tái phạm, tái phạm nguy

hiểm thì dấu hiệu chưa được xóa án tích là bắt buộc. Đối với phạm nhiều tội

thì dấu hiệu án tích là không bắt buộc, theo đó, người phạm tội có thể mang

án tích hoặc không mang án tích.

1.1.3.3. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp liên tiếp phạm tội về

cùng một tội phạm (không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, nếu chưa

hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội

đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội

làm nguồn sống chính cho mình.

Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cứ lặp đi lặp lại nhiều lần

đều được coi là có tính chất chuyên nghiệp, mà chỉ có hành vi mà người phạm

tội coi đó là phương tiện kiếm sống thì mới được coi là phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp.

Theo đó, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có một số đặc điểm sau:

Phạm tội nhiều lần, khoảng cách giữa các lần phạm tội không lớn (mang tính

chất liên tục); mục đích phạm tội nhằm vụ lợi cho bản thân, dùng để làm

nguồn kiếm sống chính.

Trên cơ sở phân tích khái niệm và nêu một số đặc điểm của phạm tội có

tính chất chuyên nghiệp, học viên xin chỉ ra điểm khác biệt giữa tái phạm, tái

phạm nguy hiểm và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp bởi các tiêu chí sau:

19

Một là, về số lần phạm tội: Đối với tái phạm, tái phạm nguy hiểm chỉ

cần phạm tội từ hai lần trở lên. Còn riêng đối với phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp thì phạm tội nhiều lần (từ năm lần trở lên theo hướng dẫn xét

xử ở nước ta hiện nay).

Hai là, về khoảng cách giữa các lần phạm tội: Đối với tái phạm, tái

phạm nguy hiểm thì khoảng cách giữa các lần phạm tội không nhất thiết là

ngắn hay dài, liên tục hay ngắt quãng chỉ cần tội phạm đang xét xử được thực

hiện sau khi bản án kết tội về tội phạm lần trước có hiệu lực pháp luật. Còn

đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì được xác định là khoảng cách

giữa các lần phạm tội là thời gian ngắn, các lần phạm tội được thực hiện liên

tục.

Ba là, về tình trạng truy cứu TNHS: Trường hợp tái phạm, tái phạm

nguy hiểm thì ít nhất người phạm tội đã có 01 lần bị kết án. Còn đối với phạm

tội có tính chất chuyên nghiệp thì có thể đã bị truy cứu TNHS hoặc chưa bị

truy cứu TNHS.

Bốn là, về động cơ phạm tội. Trường hợp tái phạm, tái phạm nguy

hiểm không có quy định cụ thể về động cơ phạm tội của người phạm tội. Còn

riêng đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì động cơ phạm tội của

người phạm tội nhất định là vì mục đích vụ lợi, vì kiếm sống cho bản thân

người phạm tội.

1.1.3.4. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung

tăng nặng với trường hợp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Khái niệm: khái niệm tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm xảy ra

trong vụ án hình sự, có ý nghĩa làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của

20

hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo của người phạm tội hoặc hoàn

cảnh đặc biệt của người phạm tội.

Khái niệm tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng

nặng là tình tiết này làm cơ sở, làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung

hình phạt theo luật định.

Cơ sở pháp lý: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung

tăng nặng là tình tiết được quy định trong các khoản của một điều luật cụ thể,

dùng để xác định trường hợp phạm tội cụ thể nào đó có thuộc trường hợp

được quy định ở khung hình phạt tăng so với khung cơ bản. Ví dụ về tình tiết

tái phạm nguy hiểm với tính chất là định khung tăng nặng: Điểm đ khoản 2

Điều 134 BLHS; Ví dụ về tình tiết tái phạm với tính chất là định khung tăng

nặng: điểm k khoản 2 Điều 265 BLHS.

Mặc dù việc sử dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm với các

tính chất độc lập nhau, tuy nhiên để đảm bảo nguyên tắc có lợi, không làm

xấu đi tình trạng của người phạm tội thì về nguyên tắc, khi một tình tiết tái

phạm, tái phạm nguy hiểm đã được sử dụng làm tình tiết định khung tăng

nặng thì sẽ không tiếp tục sử dụng tình tiết đó làm tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự và ngược lại.

1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm

Việc quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong Bộ luật hình sự

Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với khoa học pháp lý hình sự.

Cụ thể:

Thứ nhất, việc ghi nhận tái phạm, tái phạm nguy hiểmlà tình tiết tăng

nặng TNHS phản ánh chính sách hình sự nghiêm khắc và công bằng của Nhà

nước. BLHS 2015 quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng

nặng TNHS thể hiện thái độ lên án gay gắt của nhà nước đối với người phạm

21

tội. Thật vậy, người phạm tội đã từng bị kết án và chưa được xóa án tích mà

lại tiếp tục phạm tội mới chứng tỏ người phạm tội là người rất coi thường

pháp luật. Vì vậy, đối với trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm cần thiết

phải có biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn người phạm tội lần đầu.

Những trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm thực sự đem đến mối nguy

hiểm cao hơn cho xã hội, do đó họ phải gánh chịu biện pháp TNHS nghiêm

khắc hơn trường hợp phạm tội lần đầu là điều tất yếu thể hiện chính sách

nghiêm minh, công bằng của pháp luật hình sự Việt Nam.

Thứ hai, tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là một trong những căn

cứ phân hóa TNHS. Nhắc đến vấn đề TNHS, các nhà làm luật bao giờ cũng

phải đề cập tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và

những đặc điểm nhân thân người phạm tội.

Xem xét trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, người tiến hành

tố tụng cần xem xét một cách toàn diện trong đó việc xem xét đặc điểm nhân

thân của người phạm tội cũng là một trong những yêu cầu, tiêu chí đánh giá,

xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ. Đặc điểm nhân thân mà nhà làm luật

xây dựng ở nhiều điều luật với những đặc điểm được sử dụng phản ánh tính

chất nguy hiểm thấp hơn và làm giảm trách nhiệm hình sự như: người dưới 18

tuổi phạm tội, phạm tội lần đầu, người phạm tội là phụ nữ có thai, người

phạm tội là người đủ 70 tuổi.... Bên cạnh đó, đặc điểm nhân thân cũng có thể

được sử dụng phản ánh tính chất nguy hiểm cao hơn và làm tăng trách nhiệm

hình sự trong đó có tình tiết về tái phạm và tái phạm nguy hiểm. Như vậy, khi

người phạm tội bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm đồng nghĩa

việc họ sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hậu quả pháp lý nặng nề hơn so với

người khác phạm tội với cùng một loại tội phạm.

22

Thứ ba, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là một trong những căn cứ quyết

định hình phạt. Việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong

trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhằm răn đe đối với người phạm

tội, đồng thời góp phần cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, bên cạnh

đó còn thể hiện sự giáo dục, răn đe chung đối với toàn xã hội.

Thứ tư,trong một số trường hợp nhất định, tái phạm có thể là căn cứ

định tội danh. Tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự, theo đó bên

cạnh việc đáp ứng các điều kiện như: khi một người thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội mà có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi nhất

định theo luật định thì một số trường hợp, pháp luật còn quy định về việc

người đó đã bị kết án và chưa được xóa án tích (tái phạm) làm căn cứ để định

tội danh. Trường hợp không thỏa mãn điều kiện trên sẽ không cấu thành tội

phạm. Nghiên cứu các tội phạm sử dụng tái phạm là tình tiết định tội cho thấy

tình tiết này gắn liền với các trường hợp mà định lượng truy cứu trách nhiệm

hình sự thấp hơn so với mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví

dụ: Khoản 1 Điều 321 quy định: "Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ

hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến

dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi

phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ

luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ

luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì......" [46, khoản 1 Điều

321].

Thứ năm, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là thước đo hiệu quả của hình

phạt.

Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân

thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các

23

quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp

nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm [46, Điều 31]. Qua đó, thấy rằng, người phạm tội đã từng bị kết án,

chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm, tái

phạm nguy hiểm đã thể hiện hình phạt trước đó chưa đủ tính răn đe đối với

họ. Chính vì vậy, ở lần tái phạm, tái phạm nguy hiểm này cần áp dụng biện

pháp nghiêm khắc hơn để trừng trị, răn đe cũng như giáo dục, cải tạo người

tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tái phạm và tái

phạm nguy hiểm

1.2.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Giai đoạn trước năm 1985, Luật hình sự Việt Nam được ban hành dưới

dạng các Sắc Lệnh và có sự kế thừa những quy định về hình sự của chế độ cũ.

Trong giai đoạn này, số lượng các Sắc lệnh được ban hành tương đối nhiều và

điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cụ thể:

Trong giai đoạn này, quy định về tái phạm lần đầu tiên được ghi nhận

trong Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 quy định về tội đánh bạc. Tuy

nhiên, trong Sắc lệnh này chưa nêu quy định cụ thể về khái niệm tái phạm mà

chỉ quy định về đường lối xử lý đối với trường hợp tái phạm.

Tại Sắc lệnh số 151/SL ngày 12/4/1953 thể chế hoá quyền hạn của Toà

án đặc biệt trong lĩnh vực luật hình sự. Nội dung Sắc lệnh này có quy định về

tội danh, hình phạt và chính sách hình sự đối với người phạm tội đã được

khoan hồng nhưng phạm tội trở lại. Có thể thấy, vấn đề tái phạm, tái phạm

nguy hiểm chưa được quy định một cách rõ ràng mà chỉ có quy định về

trường hợp “phạm tội trở lại” và “tiếp tục phạm tội”.

24

Năm 1954, sau sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải

phóng, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam có những thay đổi cơ bản để đáp

ứng nhu cầu của tình hình mới. Do đó, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp

đầu tiên năm 1959. Đây là Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam có ý nghĩa đối với sự phát triển nguồn pháp luật nói chung và

pháp luật hình sự nói riêng.

Trong giai đoạn này, chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm được quy

định trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân

ngày 21/10/1970. Tuy nhiên, trong Pháp lệnh này vẫn chưa có quy định cụ thể

về tái phạm, tái phạm nguy hiểm mà chỉ dừng lại ở việc quy định về tình tiết

định khung hình phạt tăng nặng.

“Tái phạm là những kẻ trước kia đã bị kết án về một tội nay phạm lại

những tội ấy; là những kẻ mà tội phạm cùng một khách thể loại (loại tội xâm

phạm tài sản, tội xâm phạm tài sản, tội xâm phạm tính mạng sức khỏe...) và

cùng một tính chất cố ý hay vô ý hoặc là những kẻ trước kia đã bị kết án về

một tội nghiêm trọng nay cũng phạm một tội nghiêm trọng, có thể cùng loại

mà cũng có thể khác loại như các tội giết người (mà không thuộc khung giảm

nhẹ), cướp của, tham ô, cướp giật, trộm cắp ...

Đối với những tội nghiêm trọng chỉ cần tái phạm một lần đã được coi

là tái phạm nguy hiểm. Đối với những tội ít nghiêm trọng hơn, tái phạm hai

ba lần trở lên mới coi là tái phạm nguy hiểm”.[47, tr.108-109].

Nhìn chung, về đường lối xét xử: Các Tòa án đều coi tái phạm, tái

phạm nguy hiểm là một tình tiết tăng nặng TNHS. Tuy nhiên, nếu bản án về

tội trước đã quá lâu và trong một thời gian tương đối dài người bị kết án đã

sống cuộc đời lương thiện, thì không nên coi tái phạm là tình tiết tăng nặng

khi lượng hình [47, tr.108-109].

25

1.2.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước khi

ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời, đây là văn bản

pháp lý quan trọng đặt nền móng phát triển cho các văn bản pháp luật hình sự

về sau kế thừa và phát triển. BLHS 1985 đã định hình phạm vi quy định về tội

phạm và hình phạt trong đó tái phạm, tái phạm nguy hiểm đã được ghi nhận

độc lập tạiĐiều 40. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm:

1. Những trường hợp sau đây thì coi là tái phạm:

a) Đã bị phạt tù vì tội do cố ý, chưa được xoá án mà lại phạm tội

nghiêm trọng do vô ý hoặc tội ítnghiêm trọng do cố ý;

b) Đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng do vô ý, chưa được xoá án mà lại

phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội do cố ý.

2- Những trường hợp sau đây thì coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án mà lại

phạm tội nghiêm trọng do cố ý;

b) Đã tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội ít nghiêm trọng do

cố ý hoặc tội nghiêm trọng”.

Theo quy định nêu trên, có thể hiểu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

như sau:

Thứ nhất, về tái phạm được xác định qua 04 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Đã bị phạt tù vì tội do cố ý, chưa được xoá án mà lại

phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội ít nghiêm trọng do cố ý.

Trường hợp 2: Đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng do vô ý, chưa được

xoá án mà lại phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội do cố ý.

26

Thứ hai, về tái phạm nguy hiểm được xác định qua 03 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng do cố ý, chưa được

xoá án mà lại phạm tội nghiêm trọng do cố ý.

Trường hợp 2: Đã tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội ít

nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm trọng.

Tại điểm i khoản 1 Điều 39Bộ luật hình sự năm 1985 còn quy định tái

phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngoài

ra, trong BLHS 1985 cũng quy định tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết

tăng nặng định khung hình phạt trong một số loại tội phạm.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 59 Bộ luật hình sự năm 1985 thì cần

lưu ý trường hợp ngoại lệ đó là: “Án đã tuyên đối với người phạm tội khi

chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy

hiểm”[41].

Theo đó,trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm không được áp dụng

đối với những bản án mà người phạm tội bị tuyên hình phạt tù khi chưa đủ 16

tuổi.

Nhận xét: Có thể thấy, việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo

kỹ thuật lập pháp tại BLHS 1985 dựa trên các tiêu chí về hình phạt, án tích,

tội phạm, và lỗi. Theo đó chỉ khi một người bị áp dụng hình phạt tù thì mới

xem xét tình tiết tái phạm, đây là điểm khác biệt căn bản so với quy định

trong BLHS 1999 và BLHS 2015, khi các văn bản về sau không sử dụng hình

phạt tù làm tiêu chí xem xét tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

1.2.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực đến trước khi

ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

27

Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi,

bổ sung một cách tương đối toàn diện BLHS năm 1985. Đặc biệt chế định tái

phạm, tái phạm nguy hiểm cũng đã được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện

mới, đáp ứng được công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai

đoạn này.

Trong BLHS năm 1999chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm được

quy định thành một chế định độc lập thể hiện tại Điều 49 BLHS như sau:

“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại

phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng

do vô ý.

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố

ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý;

b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”.

Theo đó, về tái phạm được xác định bởi 03 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do

cố ý.

Trường hợp 2: Đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất

nghiêm trọng do vô ý.

Trường hợp 3: Đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội đặc

biệt nghiêm trọng do vô ý.

Về tái phạm nguy hiểm được quy định bằng phương pháp liệt kê các

trường hợp sau:

28

Trường hợp 1: Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm

trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý;

Trường hợp 2: Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do

cố ý.

Từ sự phân tích các giai đoạn nêu trên có thể thấy được quy định về tái

phạm, tái phạm nguy hiểm được sửa đổi, bổ sung qua các thời kỳ, gắn liền với

giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước qua các dấu mốc: Từ năm 1945 (cách

mạng tháng tám thành công) đến trước lần pháp điển hóa BLHS lần đầu tiên

năm 1985, quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm nằm rải rác trong các

sắc lệnh, pháp lệnh. Đến năm 1985, tái phạm, tái phạm nguy hiểm được ghi

nhận trong BLHS đầu tiên của nước ta đánh dấu dấu mốc quan trọng trong

lịch sử phát triển pháp luật hình sự, tuy nhiên cách thiết kế nội dung điều luật

ở giai đoạn đó có phần hạn chế trong việc thể hiện nội hàm, điều kiện áp dụng

tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Điểm hạn chế này được thay đổi sâu sắc trong

BLHS 1999 và đây là cơ sở quan trọng được kế thừa trong BLHS 2015.

29

Kết luận chương 1

Tại chương 1 của luận văn, luận văn đi sâu làm rõ khái niệm và đặc

điểm tái phạm và tái phạm nguy hiểm, phân biệt chế định tái phạm và tái

phạm nguy hiểm với phạm tội từ 02 lần trở lên; tái phạm, tái phạm nguy hiểm

với phạm nhiều tội; tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp và phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định

khung tăng nặng với trường hợp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở đó, học viên chỉ ra ý nghĩa pháp lý về việc quy định về tái phạm,

tái phạm nguy hiểm.

Cũng tại chương 1, luận văn phân tích về lịch sử phát triển của quy

định pháp luật hình sự Việt Nam về chế định tái phạm và tái phạm nguy hiểm

qua các giai đoạn lịch sử cho đến hiện nay.Thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong

quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm gắn liền các dấu mốc quan trọng,

phòng hợp với tình hình thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ở từng giai

đoạn đó. Đây là cơ sở quan trọng để BLHS 2015 kế thừa những nội dung vẫn

có giá trị trong thực tiễn khi xây dựng Bộ luật.

Từ những phân tích về lý luận chung về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

tại chương 1 đã làm tiền đề, cơ sở cho học viên triển khai, phân tích tình hình

thực tiễn áp dụng quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm từ thực tiễn địa

bàn tỉnh Bắc Ninh trong chương 2.

30

CHƯƠNG 2:

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TÁI PHẠM VÀ

TÁI PHẠM NGUY HIỂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH BẮC

NINH

2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về tái phạm và tái phạm nguy

hiểm

2.1.1. Quy định về tái phạm

Tái phạm được quy định tại Điều 53 BLHS 2015, cũng như được ghi

nhận là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điểm h khoản 1 Điều 52

BLHS) và là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của một số loại tội

phạm nhất định. So sánh quy định về “tái phạm” tại khoản 1 Điều 53 BLHS

2015 với khoản 1 Điều 49 BLHS 1999 là giống nhau. Còn nếu so sánh với

quy định tại khoản 1 Điều 40 BLHS năm 1985, thì quy định về “tái phạm” tại

khoản 1 Điều 53 BLHS 2015 nhà làm luật mở rộng đối tượng là tái phạm, tức

là không có lợi cho người phạm tội. Bởi theo khoản 1 Điều 40 BLHS năm

1985 thì điều kiện để coi là tái phạm khi người phạm tội: “Đã bị phạt tù vì tội

do cố ý, chưa được xoá án mà lại phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội ít

nghiêm trọng do cố ý. Hoặc đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng do vô ý, chưa

được xoá án mà lại phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc tội do cố ý.”. Nghĩa

là, người phạm tội bị coi là tái phạm khi đã bị phạt tù…, chưa được xoá án mà

lại phạm tội…, còn theo quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015, điều kiện

để coi là “tái phạm” nếu người phạm tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích

mà lại phạm tội do cố ý…. Điều đó có nghĩa là người bị Toà án xử phạt với

bất cứ hình phạt chính nào (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,…)

chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc tội rất nghiêm trọng, tội

đặc biệt nghiêm trọng do vô ý đều bị coi là “tái phạm”. Việc xác định tội rất

31

nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng căn cứ vào mức cao nhất của khung

hình phạt được quy định trong điều luật tương ứng của BLHSnăm 2015. Cụ

thể, khoản 1 Điều 53 BLHS quy định: "Tái phạm là trường hợp đã bị kết án,

chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực

hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng do vô ý" [46, Điều 53].

Theo quy định này, có ba trường hợp được xác định là tái phạm đó là:

Trường hợp thứ nhất: Đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại thực

hiện hành vi phạm tội do cố ý. Trường hợp này được hội tụ bởi 03 tiêu chí

nhất định hợp thành.

Tiêu chí 1: Đã bị kết án là trường hợp trước khi phạm tội, người phạm

tội đã bị Toà án kết tội, tội ở đây không phân biệt là tội ít nghiêm trọng hay

nghiêm trọng, không phân biệt là tội do lỗi cố ý hay do lỗi vô ý và cũng

không phân biệt hình phạt đã áp dụng là hình phạt gì.

Tiêu chí 2: Chưa được xoá án tích là trường hợp người phạm tội đang

phải chấp hành bản án đã có hiệu lực pháp luật, mà lại phạm tội mới hoặc đã

chấp hành xong hình phạt và quyết định của bản án nhưng chưa đáp ứng được

yêu cầu về thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS là: 01 năm trong

trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng

được hưởng án treo; 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03

năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; 05 năm trong

trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã

được giảm án.

Tiêu chí 3: Tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý: Đây là trường

hợp người phạm tội đã bị kết án, chưa được xoá án tích lại phạm tội do cố ý

mà không biệt đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, hay tội đặc biệt

32

nghiêm trọng. Lỗi cố ý ở đây có thể là cố ý trực tiếp (Người phạm tội nhận

thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của

hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra[46, khoản 1 Điều 12]) hoặc cũng có

thể là lỗi cố ý gián tiếp (Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là

nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy

không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [46,

khoản 2 Điều 12]).

Trường hợp thứ hai: Đã bị kết án, chưa được xoá án tích, mà lại thực

hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý. Tương tự trường hợp trên,

trường hợp này đặt ra yêu cầu phải đáp ứng 3 tiêu chí đó là đã bị kết án, chưa

được xóa án tích và thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý.

Điểm khác biệt biệt so với trường hợp trên chính là tiêu chí thứ ba về tội

phạm thực hiện là tội rất nghiêm trọng (Tội phạm rất nghiêm trọng là tội

phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất

của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm

tù đến 15 năm tù [46, điểm c khoản 1 Điều 9]) với lỗi vô ý (Vô ý phạm tội là

phạm tội trong những trường hợp sau đây: Người phạm tội tuy thấy trước

hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng

hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Người phạm tội

không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,

mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó [46, Điều 11]).

Trường hợp thứ ba: Đã bị kết án, chưa được xoá án tích, mà lại phạm

tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Trường hợp này tương tự 02 trường hợp

trên về 2 tiêu chí đầu tiêu, chỉ khác tiêu chí thứ hai so với trường hợp 2 là tội

phạm thực hiện hành vi đặc biệt nghiêm trọng (Tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn

mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy

33

là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình [46, điểm d

khoản 1 Điều 9].)

Tuy nhiên, theo tìm hiểu của học viên thì các tội đặc biệt nghiêm trọng

hiện nay thì tội đặc biệt nghiêm trọng chỉ có do cố ý, mà không có trường hợp

do vô ý.

2.1.2. Quy định về tái phạm nguy hiểm

Tương tự như tái phạm, trong Bộ luật hình sự năm 2015 chế định tái

phạm nguy hiểm cũng được quy định thành một chế định độc lập (Điều 53),

cũng như được ghi nhận là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điểm h

khoản 1 Điều 51) và là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của một số

loại tội. Ví dụ về tình tiết tái phạm nguy hiểm với tính chất là định khung tăng

nặng: Điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thìnhững trường hợp sau đây

được coi là tái phạm nguy hiểm: - Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm

trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

- Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý [46,

khoản 2 Điều 53]. Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 viện dẫn ở trên thì có

hai trường hợp được xác định là tái phạm nguy hiểm.

Trường hợp thứ nhất: Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Trường hợp này cần

thỏa mãn 03 tiêu chí là:

Tiêu chí thứ nhất:Tội phạm đã phạm trước đây theo phân loại tội phạm

phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, do đó khi

34

người phạm tội đã bị kết án không phải về tôi phạm rất nghiệm trọng hoặc tôi

phạm đặc biệt nghiêm trọng thì không thuộc trường hợp này.

Tiêu chí thứ hai: Lỗi ở tội phạm trước đây phải được xác định là lỗi cố

ý, theo đó bên cạnh tiêu chí về tội phạm là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt

nghiêm trọng thì các tội phạm này phải kèm theo dấu hiệu là lỗi cố ý.

Tiêu chí thứba: chưa được xoá án, là trường hợp người phạm tội chưa

chấp hành hành xong quyết định của bản án tuyên xử hành vi phạm tội trước,

mà lại phạm tội mới hoặc đã chấp hành xong hình phạt và quyết định của bản

án nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại các Điều từ 70 đến Điều 73

Bộ luật hình sự mà lại phạm tội mới.

03 tiêu chí nêu trên cần phải thỏa mãn đồng thời mới đủ căn cứ xác

định tái phạm nguy hiểm, nếu thiếu 01 trong ba tiêu chí trên thì không thuộc

trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Trường hợp thứ hai: Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm

tội do cố ý. Trường hợp này có ba tiêu chí bắt buộc.

Tiêu chí thứ nhất: đã tái phạm, là trường hợp tài bản án xét xử bị cáo về

tội phạm trước đã ghi nhận và áp dụngtình tiết tái phạm theo quy định tại

khoản 1 của Điều 53 BLHS đối với bị cáo.

Tiêu chí thứ hai: chưa được xoá án tích, là trường hợp người phạm tội

chưa chấp hành hành xong quyết định của bản án tuyên xử hành vi phạm tội

trước (bản án này đã áp dụng tình tiết tái phạm đối với bị cáo), mà lại phạm

tội mới hoặc đã chấp hành xong hình phạt và quyết định của bản án nhưng

chưa được xoá án tích theo quy định tại các Điều từ 70 đến Điều 73 Bộ luật

hình sự mà lại phạm tội mới.

35

Tiêu chí thứ ba: phạm tội mới do cố ý là trường hợp người phạm tội đã

tái phạm, chưa được xoá án tích lại phạm tội do cố ý. Tội mới phạm do cố ý

không phân biệt là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng

hay đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy nếu tội mới phạm này là tội do vô ý thì

không phải là tái phạm nguy hiểm.

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm và tái

phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Khái quát chung về tình hình xét xử vụ án hình sựtrên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh

Là một tỉnh nằm gọn trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà

Nội, có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh. Bắc Ninh có tổng

diện tích 823,1 km², có 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: thành phố Bắc

Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Yên Phong, huyện Tiên Du, huyện Quế Võ,

huyện Thuận Thành, huyện Lương Tài và huyện Gia Bình; có 126 đơn vị

hành chính cấp xã. Theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc Ninh trong

05 năm giai đoạn từ 2015 đến năm 2019. TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã đưa

ra xét xử 8.875 vụ án hình sự, đối với 14.054 bị cáo. Cụ thể:

Bảng 2.1. Thống kê Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử tại TAND hai

cấp tỉnh Bắc Ninh

Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử

Năm

Số vụ án Số bị cáo

2015 1.282 1.958

2016 1.537 2.428

2017 1.745 2.924

36

2018 1.958 2.997

2019 2.353 3.747

Tổng cộng 8.875 14.054

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Biểu đồ 2.1. Biểu đồ thể hiện số vụ án, số bị cáo mà TAND hai cấp

tỉnh Bắc Ninh xét xử trong 05 năm từ 2015 - 2019

4.000 3.500 3.000 2.500 2.000 1.500 1.000 500 0

2015

2016

2017

2018

2019

Số vụ án

Số bị cáo

Biểu đồ thể hiện số vụ án, số bị cáo mà TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh xét xử trong 05 năm từ 2015 - 2019

Qua bảng số liệu và biểu đồ nêu trên, có thể thấy tình hình xét xử các

vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có sự biến động qua các năm, trong

đó diễn biến tội này có xu hướng tăng dần trong các năm từ 2015 đến 2019.

Cụ thể:

Năm 2015 xét xử 1.282 vụ án đối với 1.958 bị cáo;

Năm 2016 xét xử 1.537 vụ án đối với 2.428 bị cáo (tăng 11,98% về số

vụ án so với năm 2015);

Năm 2017 xét xử 1.745 vụ án đối với 2.924bị cáo (tăng 11,35% về số vụ

án so với năm 2016);

37

Năm 2018 xét xử 1.958 vụ án đối với 2.997bị cáo (tăng 11,22% về số vụ

án so với năm 2017);

Năm 2019 xét xử 2.353vụ án đối với 3.747bị cáo (tăng 12,01% về số vụ án so

với năm 2018).

Trong những năm qua, đời sống người dân của tỉnh Bắc Ninh nói riêng

và trong cả nước nói chung đang ngày càng được cải thiện, tốt lên, nhưng tội

phạm lại ngày càng gia tăng, thực trạng trên có thể kể đến bởi nhiều nguyên

nhân, nhưng theo học viên một phần nguyên nhân cần được xác định do tác

động tiêu cực do sự phát triển kinh tế nhanh chóng, toàn diện trong giai đoạn

này của tỉnh Bắc Ninh, theo đó các xí nghiệp, công ty, khu công nghiệp được

thành lập kéo theo nguồn lao động tập trung dồi dào từ các tỉnh thành phố tập

trung tại tỉnh Bắc Ninh khiến công tác quản lý khu vực dân cư địa bàn khó

khăn. Điển hình Nhà máy Sam Sung tại khu công nghiệp Yên Phong, Bắc

Ninh với hơn 60.000 người lao động từ trong và ngoài tỉnh tập trung làm việc.

Ngoài ra, các nguyên nhân khác có thể kể đến như do công tác lãnh đạo, quản

lý; công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả chưa cao; sự

xuống cấp trong đạo đức, tha hóa lối sống, ăn chơi, đua đòi của giới trẻ..... Tất

cả các yếu tố trên đã cộng hưởng dẫn đến sự gia tăng của tội phạm trên địa

bàn tỉnh.

* Tình hình áp dụng tái phạm, tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2015-2019 là: Theo số liệu thống kê xét

xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, kể từ năm 2015 đến năm 2019, TAND

hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong

607 vụ án (chiếm tỷ lệ 6,83% trên tổng số vụ án hình sự); đối với 695 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 4,9% trên tổng số bị cáo bị xét xử). Trong đó, tình tiết tái phạm,

tái phạm nguy hiểm được áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng đối với

38

232 vụ án, đối với 308 bị cáo; tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm được áp

dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với 185 vụ án và 237 bị

cáo; tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm được áp dụng là tình tiết định tội

đối với 90 vụ án và 150 bị cáo.

2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh

Đối với thực tiễn áp dụng quy định BLHS về tái phạm: Trong giai đoạn

05 năm từ năm 2015 -2019, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã áp dụng tình tiết

tái phạm trong 445 vụ án (chiếm tỷ lệ 73,31% so với tổng số vụ án áp dụng

tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm); đối với 525 bị cáo (chiếm tỷ lệ

75,54% so với tổng số bị cáo áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm).

Trong đó, tình tiết tái phạm được áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng

đối với 228 bị cáo; tình tiết tái phạm được áp dụng là tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự đối với 172 bị cáo; tình tiết tái phạm được áp dụng là tình tiết

định tội đối với 125 bị cáo.

Cụ thể:

Bảng 2.2. Bảng số liệu số vụ án, bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm

Năm Số vụ án áp dụng tình tiết tái Số bị cáo bị áp dụng tình tiết tái

phạm phạm

2015 60 66

2016 82 112

2017 87 97

2018 90 118

2019 126 132

39

Tổng 445 525 cộng

Bảng 2.3. Bảng số liệu thể hiện cụ thể tình tiết tái phạm được sử

dụng với tính chất định tội, định khung hình phạt và là tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự

Số bị cáo bị áp dụng tái phạm

Với tính chất tăng Với tính chất định Với tính chất định tội nặng trách nhiệm hình khung hình phạt sự

125 228 172

Biểu đồ 2.2. Biểu đồ thể hiện tình tiết tái phạm được áp dụng với

các tính chất

Với tính chất định tội

Biểu đồ thể hiện tình tiết tái phạm được áp dụng với các tính chất

24%

33%

Với tính chất định khung hình phạt

Với tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự

43%

40

Có thể thấy, trong số tổng cộng 525 bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm,

thì tình tiết tái phạm chủ yếu được sử dụng với tính chất là tình tiết định

khung hình phạt với tổng cộng 228 bị cáo (chiếm tỷ lệ 43%); với tính chất là

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là 172 bị cáo (chiếm tỷ lệ 33%); với

tính chất là tình tiết định tội 138 bị cáo (Chiếm tỷ lệ 24%).

2.2.3. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm nguy

hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Đối với thực tiễn áp dụng quy định BLHS về tái phạm nguy hiểm:

Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 -2019, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã

áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm trong 162 vụ án (chiếm tỷ lệ 26,69% so

với tổng số vụ án áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm); đối với 170

bị cáo (chiếm tỷ lệ 24,46% so với tổng số bị cáo áp dụng tình tiết tái phạm, tái

phạm nguy hiểm). Cụ thể:

Bảng 2.2. Bảng số liệu các bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy

hiểm

Năm Số vụ án áp dụng tình tiết tái Số bị cáo bị áp dụng tình tiết tái

phạm nguy hiểm phạm nguy hiểm

2015 17 17

2016 30 32

2017 25 28

2018 40 41

2019 50 52

Tổng 162 170 cộng

41

Bảng 2.3. Bảng số liệu thể hiện cụ thể tình tiết tái phạm nguy hiểm

được sử dụng với tính chất định tội, định khung hình phạt và là tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự

Số bị cáo bị áp dụng tái phạm nguy hiểm

Với tính chất tăng Với tính chất định Với tính chất định tội nặng trách nhiệm hình khung hình phạt sự

33 54 83

Biểu đồ 2.2. Biểu đồ thể hiện tình tiết tái phạm nguy hiểm được áp

dụng với các tính chất

Với tính chất định tội

Biểu đồ thể hiện tình tiết tái phạm được áp dụng với các tính chất

19%

49%

Với tính chất định khung hình phạt

32%

Với tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự

Có thể thấy, trong số tổng cộng 170 bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm

nguy hiểm, thì tình tiết tái phạm nguy hiểm chủ yếu được sử dụng với tính

42

chất là tình tiết định khung hình phạt với tổng cộng 54 bị cáo (chiếm tỷ lệ

49%); với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là 83 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 32%); với tính chất là tình tiết định tội 33 bị cáo (Chiếm tỷ lệ

19%).

2.3. Nhận xét về áp dụng pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm từ

thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

2.3.1. Kết quả đạt được

Về cơ bản, các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm được TAND hai

cấp tỉnh Bắc Ninh áp dụng đúng với tính chất giúp việc định tội, định khung

và quyết định hình phạt được chính xác. Luận điểm trên được thể hiện bởi dẫn

chứng một số bản án áp dụng đúng về tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm

như sau:

Các vụ án áp dụng tình tiết tái phạm:

Vụ án thứ nhất: Bản án số: 42/2019/HSST ngày: 27/8/2019 của

TAND tỉnh Bắc Ninh.

Nội dung vụ án: Khoảng 19h00 ngày 27/3/2019, tại đoạn đường Âu

Cơ thuộc thôn Lẽ Đông Côi, thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Cơ quan

Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Bắc Ninhphối hợp với Công an huyện T;

Công an thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Phạm Minh Đđang

chuẩn bị bán tráiphép 62,6128g ma túy Methamphetamine.

Trước đó ngày 03/11/2017, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh xử

phạt Phạm Minh Đ26 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo

chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 19/9/2018.

Nhận xét:Bản thân bị cáo Phạm Minh Đlà người có 01 tiền án ngày

03/11/2017, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Phạm Minh Đ

43

26 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành xong toàn

bộ bản án ngày 19/9/2018. Do bị cáo chưa được xóa án tích ở lần phạm tội

trước, nên ở lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS như

TAND tỉnh Bắc Ninh đã áp dụng trong Bản án số 42/2019/HSST ngày

27/8/2019 là hoàn toàn chính xác.

Vụ án thứ 2: Bản án số: 130/2019/HSST Ngày: 24/7/2019 Của

TAND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Nội dung vụ án: Lường V T không có nghề nghiệp ổn định và thường

xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên T đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài

sản của người khác để mang bán lấy tiền chi tiêu. Để thực hiện ý định, khoảng

00 giờ 30 phútngày 03/4/2019, T đi bộ lang thang quanh khu vực T thuê trọ ở

khu bờ mương thuộc địa bàn khu phố C D, phường Đ B, thị xã Từ Sơn với

mục đích tìm kiếm xem có ai để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi T đi đến khu

vực nhà ông Đỗ Mạnh Thắng, (cách nơi T thuê trọ khoảng 300m), T quan sát

thấy ở khu vực phía bên ngoài cổng nhà ông Thắng có để rất nhiều sắt vụn

cùng 01 giàn giáo và 01 tuýp sắt, xung quanh vắng vẻ, không có ai trông giữ.

Thấy điều kiện sơ hở, T liền tiến đến vị trí cổng nhà ông Thắng trộm cắp 01

thanh giàn giáo bằng kim loại hình vuông, cao 1,5m, rộng 1,2m (đã qua sử

dụng). Sau khi trộm cắp được thanh giàn giáo, T mang đến Cửa hàng thu mua

phế liệu của anh Nguyễn ĐT, sinh năm 1987, hộ khẩu thường trú: Thôn Đ C,

xã L C, huyện Y P, tỉnh Bắc Ninh, có cửa hàng đặt tại khu phố C D, phường

Đ B, thị xã Từ Sơn bán cho anh Tới được số tiền 50.000 đồng. Số tiền có

được sau đó Tđã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.Trên cơ sở yêu cầu định giá của

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Từ Sơn, ngày 08/4/2019.

44

Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự thị xã Từ Sơn đã

ban hành Bản kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐG, kết luận:

“01thanhgiàn giáo bằng kim loại có trị giá tại thời điểm ngày 03/4/2019 là

50.000đ”.

Bị cáo T có 01 tiền án: Tại Bản án số 12 ngày 19/5/2016 của Tòa án

nhân dân huyện Đ H, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội“Trộm cắp

tài sản” và tại Bản án số 14 ngày 16/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đ H,

tỉnh Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp

hình phạt với Bản án số 12 buộc T phảichấp hành hình phạt chung của 02Bản

án là 33 thángtù.Đếnngày 27/4/2018, T chấp hành xong hình phạt tù ra trại.

Nhận xét: Bị cáo D là người đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa

được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội, nên mặc dù tài sản trộm cắp có giá trị

dưới 2.000.000đ tuy nhiên bị cáo vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo

quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS là hoàn toàn phù hợp, có căn cứ.

Các vụ án áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm:

Vụ án thứ nhất: Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 24

tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

Nội dung vụ án: Hồi 12h ngày 01/10/2018 tại khu Y, phường K, thành

phố B, bị cáo Nguyễn Văn Tbị Công an thành phố Bbắt quả tang về hành vi

bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Ngọc V, sinh năm1999; trú tại: Khu 4,

Đ, TP B, tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo T là người có 3 tiền án: - Bản án số 173/2012/HSST ngày

16/8/2012của TAND thành phố B, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội

“Trộm cắp tài sản”.

45

- Bản án số 55/2015/HSST ngày 29/7/2015 của TAND huyện TD, tỉnh

Bắc Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 72/2015/HSST ngày 14/9/2015 của TAND huyện YP, tỉnh

Bắc Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày

12/01/2018.

Nhận xét: Bị cáo Nguyễn Văn Tđã có hành vi mua bán trái phép

0,4099 gam ma túy Methamphetamine.Mặc dù khối lượng ma túy của bị cáo

ở dưới mức tối thiểu về khối lượng chất ma túy là Methamphetamineđược

quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS nhưng lần phạm tội này bị cáo thuộc

trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc

tình tiết định khung hình phạt là “tái phạm nguy hiểm” tại điểm q khoản 2

Điều 251 BLHS như Bản án của thành phố B, tỉnh Bắc Ninh đã tuyên là đúng

người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

Vụ án thứ hai: Bản án số: 146/2019/HSST ngày 28/11/2019 của

TAND huyện T, tỉnh Bắc Ninh

Nội dung vụ án: Khoảng 22h ngày 21/10/2019, Tống Văn Hđiều khiển

xe mô tô nhãn hiệu WAYE INDONA sơn màu xanh bạc BKS 47P2-4866, đi

từ nhà với mục đích xem gia đình nào có sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đến

khu vực thôn HV, xã LV thấy phía trước dãy nhàcó cây to, có thể trèo lên đó

để đột nhập vào bên trong. Hđiều khiển xe mô tô để tại cánh đồng sau khu

vực nhà ở dân cư và cầm theo chiếc Tô vít, đi bộ quay lại. Khoảng 24h, quan

sát không thấy có người qua lại, H trèo lên một cây to, đi qua các mái vẩy của

gia đình anh Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hữu Hrồi đột nhập vào nhà ông Nguyễn

Văn C, bà Nguyễn Thị Ng. Hbám theo gờtrụ, bờ mi lên tầng 3.Hdùng chiếc

điện thoại mang theo bật đèn soi cửa tum thì thấy then ngang phía trong chỉ

chốt hờ, dùng ngón tay đẩy nhẹ, mở cửa và đột nhập vào bên trong.Hđi xuống

46

tầng 1, lục soát tại móc treo quần áo, phát hiện túi sau bênphải của chiếc quần

dài có một ví giả da màu nâu. Hcầm ví đút vào túi quần của mình.Htiếp tục đi

vào phòng ngủ tầng 1. Lúc này chị Đvà con nhỏ đang ngủ. Hthấy một túi xách

nữ giả da treo ở móc quần áo. Hlấy túi xách này và đi lên tầng3.H kiểm tra:

Trong ví có: 04 tờ tiền mệnh giá 500.000đồng; 01 tờ tiền mệnh giá

200.000đồng và 03 tờ tiền mệnh giá50.000đồng.Tổngcộnglà 2.350.000đồng

và một số giấy tờ khác; Trong túi xách có: một tập tiền mệnh giá

100.000đồng được buộc chun; 04 tờ tiền mệnh giá 500.000đồng; 04 tờ tiền

mệnh giá 50.000đồng và một số tờ tiền lẻ.Hlấy hết số tiền đút vào túi quần

của mình rồi cho chiếc ví vào bên trong chiếc túi xách vứt sang tầng 3 ngôi

nhà bên cạnh đang xây dựng. Htiếp tục vào tầng 2 nhà ông C, thấy không có

người trong phòng, Hdùng Tô vít mang theo cậy cánh cửa tủ để lục tìm tài

sản. Bà Ngtỉnh giấc và hô hoán. Hchạy lên tầng 3, nhảy xuống ao bơi về phía

cánh đồng để tẩu thoát. Trong khi chạy đã làm rơi chiếc điện thoại và chiếc

Tô vít mang theo. Hđã bị bắt giữ quả tang.

Tại kết luận định giá tài sản số 66/KL-ĐGTSTTHS ngày

06/11/2019của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du đã xác

địnhgiá trị còn lại của các tài sản gồm:-01 chiếc ví giả da nam màu nâu, mặt

ngoài góc dưới bên phải chiếc ví có in chìm chữ D&G FASHION là

50.000đồng;-01 chiếc túi xách nữ giả da màu nâu đen, kích thước (20,5 x

10,5) cm, có quai đeo màu đen là 50.000đồng.Tổng giá trị tài sảnmà bị cáo

chiếm đoạt của vợ chồng ông C, bà Ngvà vợ chồng anh Nh, chị Đcùng với 02

chiếc ví giả da là: 14.650.000đồng.

Bị cáo H có 02 tiền án: Bản án số 97/HSST ngày 05/4/2016 của TAND

thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninhxử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài

sản”; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/9/2016;

47

Bản án số 27/HSST ngày 12/3/2018 của TAND huyện Yên Phong, tỉnh

Bắc Ninhxử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình

phạt tù ngày 28/9/2018.

Nhận xét: Tại bản án số 97/HSST ngày 05/4/2016 của TAND thành

phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo H 06 tháng tùvề tội “Trộm cắp tài

sản”;Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/9/2016; Bản án số 27/HSST ngày

12/3/2018 của TAND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 10 tháng tù

về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án này xác định bị cáo

phạmtộithuộctrườnghợp“Tái phạm”; Chấphànhxonghìnhphạttùngày

28/9/2018; Do vậy, với lần phạm tội này hành vi của bị cáo thuộc trường hợp:

“Tái phạm nguy hiểm” thỏa mãn tình tiết định khung tăng nặng quy định tại

điểm g khoản 2Điều 173 –BLHS như bản án sơ thẩm đã xét xử là đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật. Học viên đồng tình với quyết định của Tòa án.

2.3.2. Một số vướng mắc, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, quá trình áp dụng tình tiết

tái phạm, tái phạm nguy hiểm, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh còn mắc phải

một số vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng có thể kể đến như:

Thứ nhất: Sử dụng 02 lần tình tiết tái phạm với tính chất định tội và

tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Nội dung vụ án (Bản án số: 33/2018/HS-PT Ngày: 28/6/2018 của

TAND tỉnh BN): Khoảng 00h30’ngày 27/9/2017, Dương Đình Đ đi bộ lang

thang, mục đích xem có ai sơ hở để trộm cắp điện thoại bán lấy tiền tiêu xài

cá nhân. Khi Đ đi qua nhà ông Nguyễn Xuân Chở cùng thôn, thấy nhà ông Ch

không đóng cửa tầng 2 mà chỉ khép hờ nên Đ trèo tường rào vào trong sân rồi

tiếp tục trèo lên mái tôn che ở tầng 1 và lối cửa chính của tầng 2 để vào nhà

ông Ch. Sau khi vào trong nhà Đ đi theo lối cầu thang để đi xuống tầng 1. Sau

48

khi quan sát thấy phòng khách của tầng 1 không có tài sản gì để trộm cắp nên

Đ đi vào phòng ngủ tầng 1 nhà ông Ch. Tại đây, Đ nhìn thấy ông Ch đang

ngủ, phát hiện ở đầu giường có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia

105, màu đen. Đ lại gần lấy chiếc điện thoại trên cất vào túi quần phía trước

bên phải Đ rồi đi ra phòng khách mở cửa chính của tầng 1 rồi trèo tường rào

đi ra ngoài. Sau khi ra khỏi nhà ông Ch, Đ tiếp tục đi bộ về cuối thôn Th. Tại

đây, Đ thấy nhà anh Dương Phương Kh ở cùng thôn không khóa cổng mà chỉ

cài then, cửa nhà anh Kh không đóng nên Đ mở cửa cổng rồi đi vào nhà anh

Kh theo lối cửa chính. Khi Đ đang lục tìm điện thoại của anh Kh để trộm cắp

thì bị anh Kh và chị Nguyễn Thị A (vợ anh Kh) phát hiện. Ngay lúc đó anh

Kh đã báo Công an xã Tr1 đến tiến hành lập biên bản người phạm tội quả

tang. Ngày 27/9/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Tài đã tiến hành

lập biên bản tạm giữ của anh Dương Phương Kh 01 chiếc điện thoại di động

nhãn hiệu S Galaxy S4, màu trắng đã qua sử dụng để tiến hành định giá.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 02/10/2017 và ngày 16/10/2017

của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lương Tài, kết

luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, đã qua sử

dụng, có giá trị thành tiền là 100.000 đồng. Chiếc điện thoại di động nhãn

hiệu Sam Sung Galaxy S4, màu trắng, đã qua sử dụng, có giá trị thành tiền là

2.000.000đồng.

Bị cáo Đ có 02 tiền án: Tiền án: + Bản án số 12/2015/HSST ngày

21/4/2015 của TAND huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 tháng tù

nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 12

tháng, chưa được xóa án tích.

+ Bản án số 11/2016/HSST ngày 26/4/2016 của TAND huyện Lương

Tài, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp

49

với hình phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo của bản án trước buộc bị cáo phải

chấp hành chung cho cả hai bản án là 12 tháng tù, bị cáo chấp hành xong án

phạt tù ngày 24/02/2017.

Với nội dung trên, bản án sơ thẩm và phúc thẩm đã nhận định: Trong

một buổi tối, bị cáo thực hiện liên tiếp hai hành vi trộm cắp tài sản, một lần

trộm cắp tài sản trị giá 100.000đ nhưng trước đó đã bị xử phạt 12 tháng tù

cùng về tội danh, vì vậy đây là tình tiết định tội. Ngoài ra, bị cáo còn thực

hiện hành vi trộm cắp một chiếc điện thoại trị giá 2.000.000đ nhưng chưa đạt,

như vậy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần”.

Do bị cáo có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, lần phạm tội này bị cáo bị áp

dụng tình tiết tặng nặng “tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS nên

Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với bị cáo là hoàn toàn

phù hợp.

* Nhận xét: Theo quan điểm của học viên, việc áp dụng tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với bị cáo là không chính xác, bởi

tình tiết tái phạm do trước đó bị kết án 12 tháng tù về tội trộm cắp, chưa được

xóa án tích mà tiếp tục phạm tội đây chính là tình tiết tái phạm được sử dụng

với tính chất là định tội, bởi tài sản trộm cắp mà bị cáo thực hiện chưa đến

mức chịu trách nhiệm, như vậy tình tiết tái phạm trên đã được sử dụng là tình

tiết định tội, do đó việc cả bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều áp dụng tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều

48 BLHS là không chính xác, gây bất lợi cho bị cáo.

Thứ hai, đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện hành vi phạm tội do cố ý:

Nội dung vụ án Bản án sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày

26/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh:

50

Sáng ngày 07/5/2018, Hoàng Kim Nđiều khiển xe mô tô BKS 99H3-

9951 đi uống thuốc Methadol tại trung tâm cai nghiện, sau đó Nđi về đến ngõ

54khu Đ, phường N, tp.B xem ai có tài sản sơ hở thì cướp giật để lấy tiền ăn

tiêu. Khi đi đến nơi, Ndựng xe quan sát thấy chị Nguyễn Thị Lđang mải bán

rau có để ví tiền trong chiếc ủng chị đang đi ở bên chân phải, bị cáo N quay

lại chỗ chị Ldùng tay trái giật chiếc ví tiền của chị L rồi bỏ chạy thì bị chị L

hô hoán cùng quần chúng nhân dân đuổi bắt. N bỏ chạy và để lại chiếc xe mô

tô BKS 99H3-9951 cùng chiếc ví màu tím bên trong có 852.000đ. Sau khi sự

việc xảy ra, cơ quan Công an đã thu giữ chiếc ví bên trong có 852.000đ cùng

chiếc xe mô tô trên. Khi mở cốp xe kiểm tra thì phát hiện 01 đăng ký xe mô tô

BKS 99H3-9951 mang tên Nguyễn Thị Hiếu, 01 thẻ uống thuốc Methadol

mang tên Hoàng Kim N. Ngày 08/6/2018, N đến cơ quan Công an thành phố

B đầu thú và khai báo toàn bộ hành vi phạm tội.

Tiền án đối với bị cáo: Tiền án:

+Ngày 12/8/1997 bị TAND thị xã B xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp

tài sản”, chấp hành xong ra trại ngày 15/8/1999;

+ Ngày 13/9/2000 bị TAND thị xã B xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm

cắp tài sản”, chấp hành xong ra trại ngày 25/10/2001;

+ Ngày 18/12/2002 bị TAND tỉnh Bắc Ninh xử phạt 08 năm tù về tội

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Ngày 07/6/2006bịTANDhuyện T, thành phố Hải Phòng xử phạt 15

tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt với bản án năm

2002 bị cáo N chưa thi hành là 4 năm 21 ngày, buộc N phải chấp hành hình

phạt chung cho cả hai bản án là 5 năm 3 tháng 21 ngày. Chấp hành xong ra

trại ngày 28/6/2011.

51

+Ngày22/12/2014,bịTAND thànhphốB, tỉnh Bắc Ninh

xửphạt24thángtùvềtội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ra trại ngày

20/9/2016.

* Nhận xét: Bị cáo đã 05 lần bị đưa ra xét xử, đều chưa được xóa án

tích, ở bản án trước bị cáo đã bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm do đó

bản án TAND thành phố B nhận định lần phạm tội này thuộc trường hợp tái

phạm nguy hiểm. Do vậy Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Kim N

phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm i khoản 2 Điều 171 BLHS. Học viên

hoàn toàn đồng tình với quyết định của Bản án sơ thẩm, tuy nhiên đối chiếu

với các trường hợp tái phạm liệt lê tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì đây không

thuộc trường hợp bị coi là tái phạm nguy hiểm, bởi điểm b quy định đã tái

phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tuy

nhiên bị cáo N là đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do đó nội dung này cần thiết phải hướng dẫn

cho rõ ràng để phù hợp với bản chất áp dụng, bởi thực tiễn hiện nay toàn tỉnh

Bắc Ninh đều áp dụng đối với người đã bị áp dụng tái phạm nguy hiểm chưa

được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội thì đều bị áp dụng tình tiết tái phạm

nguy hiểm, tuy nhiên đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 53 lại không

ghi nhận trường hợp này, do đó dẫn đến quy định và thực tiễn áp dụng không

thống nhất.

Thứ ba: Xác định là tình tiết tái phạm nguy hiểm không chính xác.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2017/HSST ngày 16/5/2017 của

TAND huyện Quế Võ xét xử bị cáo Nguyễn Quốc Tuấn về tội Đánh bạc theo

điểm c khoản 2 Điều 248 BLHS với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy

hiểm”.

52

Theo hồ sơ vụ án thể hiện: Tại Bản án số 57/2013/HSST ngày

22/4/2013, TAND huyện Quế Võ xử bị cáo Tuấn 12 tháng tù về tội Trộm cắp

tài sản; đến ngày 11/6/2014 bị cáo có hành vi trộm cắp 02 con gà trị giá

480.000đ, nên tại Bản án số 125/2014/HSST ngày 09/9/2014 của TAND

huyện Quế Võ xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã xác định Bản án số

57 nêu trên là tình tiết định tội của hành vi phạm tội ngày 11/6/2014, không

coi đó là tình tiết tăng nặng. Đến ngày 05/01/2017 bị cáo phạm tội mới, do

vậy lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm g

khoản 1 Điều 48 BLHS chứ không thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”

để áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248 BLHS như Tòa án cấp sơ thẩm đã áp

dụng, mà bị cáo chỉ bị áp dụng khoản 1 Điều 248 BLHS với tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Căn cứ cho lập luận trên là theo hướng

dẫn tại điểm a tiểu mục 7.3 mục 7 Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày

12/5/2006, thì: Trường hợp các tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu

cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi

phạm” thì các tiền án đó không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy

hiểm đối với bị cáo.

Thứ tư:Bản án trước thuộc trường hợp tái phạm, nhưng không xác

định trong bản án, vậy bị cáo thực hiện tiếp hành vi phạm tội có bị áp dụng

tình tiết tái phạm nguy hiểm hay không? (Bản án số:67/2019/HSST Ngày

19/6/2019 của TAND huyện T, tỉnh Bắc Ninh)

Nội dung vụ án:Hồi 20 giờ 45 phút ngày 11/02/2019 một số người dân

thị trấn Lim, huyện Tiên Du bắt quả tang một đối tượng trộm cắp xe mô tô tại

địa bàn thôn Yên Lãngvà báo Cơ quan Công an. Công an huyện Tiên Du và

Công an thị trấn Lim đã tiếp nhận và lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả

tang đối với Dương Đình Sáu đã có hành vi trộm cắp tài sản.

53

Tại bản Kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự

huyện Tiên Du kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Honda WaveBKS:36B5-495.72

có giá trị còn lại là 8.000.000đ.

Bị cáo S có 02 tiền án:

+ Tại bản án số: 56/HSST ngày 04/9/2013 bị Toà án nhân dân huyện Việt

Yên, tỉnh Bắc Giang xử phạt 12 tháng tù về tội "trộm cắp tài sản". Ra trại

ngày 11/11/2015.

+ Tại bản án số: 130/2017/HSST ngày 19/4/2017 bị Toà án nhân dân thành

phố Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội "trộm cắp tài sản". Ra trại ngày

30/4/2018 (Tại bản án này, mặc dù thuộc trường hợp tái phạm nhưng TAND

thành phố Bắc Ninh không nhận định và không áp dụng trong bản án).

Tại cả bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều nhận định việc mặc dù bản án

trước đó không áp dụng tái phạm, tuy nhiên bản chất của vụ án trước bị cáo

đã bị coi áp dụng tái phạm do đó ở lần phạm tội này bị coi là tái phạm nguy

hiểm nên đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tại điểm g khoản 2 Điều

173 BLHS đối với bị cáo. Tuy nhiên quan điểm học viên không đồng tình với

02 quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên, bởi tái phạm là tình

trạng đánh giá pháp lý đối với mỗi hành vi phạm tội và chỉ được ghi nhận

bằng quyết định hoặc bản án có hiệu lực của Tòa án. Do vậy ở bản án trước

mặc dù thuộc trường hợp tái phạm nhưng Tòa án đã thiếu sót không áp dụng

tình tiết này, thì ở lần phạm tội sau không được sử dụng tình tiết này để coi là

thuộc trường hợp điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS xác định là tái phạm nguy

hiểm, việc áp dụng như vậy gây bất lợi cho bị cáo. Ngoài ra việc thiếu sót

không áp dụng tình tiết tái phạm ở bản án trước là lỗi của người tiến hành tố

tụng, do đó cần áp dụng nguyên tắc có lợi để coi ở lần phạm tội này chỉ thuộc

54

trường hợp là tái phạm. Như vậy bị cáo chỉ bị áp dụng khung hình phạt tại

khoản 1 Điều 173 BLHS là phù hợp.

2.3.3. Nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế

Nguyên nhân khách quan:

- Một số quy định của BLHS về tái phạm, tại phạm nguy hiểm còn bất

cập, hạn chế (Nội dung này sẽ được phân tích cụ thể tại chương 3 của luận

văn) Ngoài ra, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn khiến việc áp dụng bị

lúng túng, khó khăn.

- Số lượng các vụ án phải giải quyết trong những năm qua liên tục tăng

về số lượng vụ án; tính chất vụ án ngày càng phức tạp. Trong khi đó biên chế

không tăng mà còn phải giảm tự nhiên, điều đó dẫn đến tình trạng quá tải

trong công việc đối với thẩm phán.

- Tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân còn nhiều yếu

kém; Chất lượng, kỹ năng xét xử của Hội thẩm nhân dân còn chưa đáp ứng

được yêu cầu đặt ra.

Nguyên nhân chủ quan:

- Nhận thức và khả năng phân tích, vận dụng pháp luật của một số

Thẩm phán còn hạn chế về năng lực, trình độ, kinh nghiệm; tác phong lề lối

làm việc chưa khoa học, hiệu quả; chưa thật sự chủ động trong công tác phối

hợp thực hiện nhiệm vụ; chạy theo chỉ tiêu về số lượng giải quyết nên làm

ảnh hưởng tới việc áp dụng quy định của BLHS về tái phạm, tái phạm nguy

hiểm.

- Một số Thẩm phán và Hội đồng xét xử còn chủ quan, chưa thận trọng

nghiên cứu kĩ hồ sơ, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện..

55

Kết luận chương 2

Tại chương 2, học viên đã phân tích các quy định của pháp luật hiện

hành quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đây là căn cứ để đối chiếu

việc áp dụng trong thực tiễn tại TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn

5 năm từ năm 2015 -2019. Trên cơ sở của việc thu thập các số liệu, nghiên

cứu các bản án để phân tích chỉ ra những kết quả đạt được, những vướng mắc

hạn chế và nguyên nhân của những vướng mắc hạn chế nêu trên bao gồm

nhóm các nguyên nhân về nguyên nhân khách quan từ quy định của pháp luật,

từ số lượng các vụ án, từ sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và

các nguyên nhân chủ quan từ yếu tố nhận thức, năng lực chuyên môn của

người tiến hành tố tụng đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.Những

nguyên nhân trên đây sẽ là cơ sở để học viên triển khai giải pháp được trình

bày tại chương 3 của luận văn.

56

CHƯƠNG 3:

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM

NGUY HIỂM

3.1. Yêu cầu của bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về tái phạm và tái phạm nguy hiểm

3.1.1. Yêu cầu về cải cách tư pháp

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước

dân chủ, do dân, vì dân – một Nhà nước đề cao, tôn trọng và bảo đảm thực

hiện quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện được điều đó, Nhà nước

ta phải xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp là công cụ hữu hiệu để bảo vệ

các quyền và tự do của nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất những biểu hiện

xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Qua qua trình hình thành và

phát triển đất nước, hệ thống pháp luật của nước ta cũng dần hoàn thiện hơn

qua các đợt cải cách. Chính vì vậy, việc cải cách tư pháp luôn là vấn đề hàng

đầu không các nhà làm luật mà được toàn dân trong xã hội quan tâm đến.

Việc cải cách tư pháp góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các

cơ quan tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho Nhà nước có đủ khả năng

thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và tiến tới hội nhập

nền kinh tế quốc tế.

Điều 8 Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh: “Nhà nước được tổ chức

và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và

57

pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước,

cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân

dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của

Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện

quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Theo đó, hoạt động tư pháp phải ngăn ngừa

có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt

là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có

tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền

và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

Trong thực tiễn hiện nay, việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng

các quy định của BLHS về tái phạm, tái phạm nguy hiểm còn nhiều hạn chế.

BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành ngày

01/01/2018 có nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn hiện

nay, nhưng một số số định còn bất cập. Chính vì vậy, việc cải cách tư pháp,

cụ thể là xây dựng hoàn thiện BLHS của nước Việt Nam ta là điều cấp thiết.

3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm

Thực tiễn cho thấy, các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng,

phương tiện, biện pháp mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên

các tuyến, địa bàn trọng điểm. Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta nói

chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng vẫn diễn biến rất phức tạp, trong đó có

nhiều loại tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế, một số tội phạm tái

phạm, tái phạm nguy hiểm còn lộng hành. Điều nay cho thấy, công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng

vẫn tồn tại hạn chế. Do đó, cần việc áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng

trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bởi một bản án nói chung và việc áp

dụng quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong định tội danh, định

58

khung hình phạt, quyết định hình phạt được chính xác thể hiện sự nghiêm

minh của pháp luật, dẫn đến những người đã từng phạm tội, chưa từng phạm

tội hoặc có ý định phạm tội sẽ phải từ bỏ việc thực hiện hành vi phạm tội.

3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế

Thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, một số quy định của BLHS hiện

hành đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, không còn phù hợp với tình hình kinh

tế xã hội cũng như yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm trong giai

đoạn hiện nay, trong đó có một số quy định liên quan đến tái phạm, tái phạm

nguy hiểm. BLHS cần được sửa đổi, bổ sung nhằm thực hiện hiệu quả các

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thông qua việc nội luật hóa các

quy định, các cam kết quốc tế của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho

việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế, tính tương thích với điều ước

quốc tế có liên quan như Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và

chính trị; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn

bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người và một số văn kiện pháp lý quốc tế

khác có liên quan. Đặt ra yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục rà soát

lại các quy định trong Bộ luật, các văn kiện pháp lý quốc tế có liên quan, kể

cả một số công cụ pháp lý quốc tế có quy định đề xuất phù hợp.

3.2. Một số giải phápbảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình

sự về tái phạm và tái phạm nguy hiểm

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tái phạm và tái

phạm nguy hiểm

Thứ nhất: Sửa đổi Điều 53 BLHS

Một là, Quy định chưa rõ ràng

59

Tại khoản 1 Điều 53 BLHS có quy định: “1. Tái phạm là trường hợp đã

bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý

hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do vô ý”.

Nội hàm điều luật trên sẽ dẫn đến 02 cách hiểu nếu không có văn bản

hướng dẫn, đó là cách hiểu:

Cách hiểu thứ nhất: Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được

xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi

phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng (vô ý hoặc cố ý) hoặc tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do vô ý. Theo cách hiểu này thì tội rất nghiêm trọng ở đây

có thể là cố ý hoặc vô ý.

Cách hiểu thứ hai: Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa

án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi

phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng do vô ý. Theo cách hiểu này thì tội rất nghiêm trọng ở đây là

do vô ý.

Tương tự như trên, tại điểm a khoản 2 Điều 53 quy định: “Đã bị kết án

về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa

được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm

trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”

Cách hiểu thứ nhất: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện

hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng (vô ý hoặc cố ý) hoặc tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

Cách hiểu thứ hai: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

60

phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng do cố ý.

Chính sự thiếu rõ ràng trên đã dẫn đến những khó khăn trong thực tiễn.

Ví dụ trường hợp: A phạm tội vi phạm quy định về điều khiểm tham gia giao

thông đường bộ tại khoản 2 Điều 260 là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý,

chưa được xóa án tích mà lại phạm tội Vô ý làm chết người do vi phạm quy

tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính theo khoản 2 Điều 129 BLHS là tội

phạm rất nghiêm trọng do vô ý. Vậy khi giải quyết trường hợp trên có áp

dụng tình tiết là tái phạm nguy hiểm hay không.

Hai là, theo nghiên cứu của học viên thì hiện nay BLHS 2015 quy định

về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và cũng có tội phạm rất nghiêm trọng do

vô ý. Tuy nhiên đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì không có do vô ý,

vậy khoản 1 Điều 53 quy định là không có tính khả thi.

Ba là, Về các trường hợp coi là tái phạm nguy hiểm tại khoản 2 Điều

53 BLHS, cụ thể là điểm b khoản 2 Điều 53 quy định Đã tái phạm, chưa

được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Vậy trường

hợp tại chương 2 đã nêu về việc đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án

tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý thì có bị coi là tái phạm nguy

hiểm hay không?

Chính vì những hạn chế nêu trên, theo quan điểm của học viên thì Điều

53 cần được sửa lại như sau:

Điều 53 BLHS 2015 Điều .... sau khi sửa đổi

Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy Điều ..... Tái phạm, tái phạm nguy

hiểm hiểm

61

1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết 1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết

án, chưa được xóa án tích mà lại thực án, chưa được xóa án tích mà lại thực

hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc

thực hiện hành vi phạm tội về tội thực hiện hành vi phạm tội về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc phạm rất nghiêm trọng do vô ý.

biệt nghiêm trọng do vô ý. 2. Những trường hợp sau đây được

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội phạm rất

a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa

nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do

tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội cố ý, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm hoặc tái phạm nguy

b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích hiểm chưa được xóa án tích mà lại

mà lại thực hiện hành vi phạm tội do thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

cố ý.

Thứ hai: Mâu thuẫn giữa các điều luật trong căn cứ tính thời hạn

xóa án tích:

Khoản 1 Điều 73 BLHS 2015 quy định: “1. Thời hạn để xóa án tích

quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính

đã tuyên”. Quy định này là mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 70

BLHS: “Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành

xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp

62

hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực

hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không

giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân

hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản

chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn

thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên

được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ

sung”

Có thể thấy các căn cứ để tính thời hạn trong 2 điều luật trên là không

thống nhất. Điều 73 quy định về việc tính thời hạn xóa án tích là căn cứ vào

hình phạt chính đã tuyên; còn Điều 70 là căn cứ vào từ khi chấp hành xong

hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành

xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án.

Nếu căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên quy định tại Điều 73 BLHS

thì được hiểu là kể từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính là

thời điểm bắt đầu tính thời hạn để xóa án tích.

Còn nếu căn cứ vào thời điểm từ khi chấp hành xong hình phạt chính

hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ

sung, các quyết định khác của bản án thì trường hợp này thể hiện tính nghiêm

63

khắc hơn khi yêu cầu người bị kết án phải chấp hành xong toàn bộ bản án bao

gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Thiết nghĩ, theo quan điểm của học viên thì cần sửa đổi thống nhất theo

hướng căn cứ và hình phạt chính, theo đó thời điểm chấp hành hình phạt

chính xong là thời điểm tính thời hạn xóa án tích sẽ là phù hợp, tạo điều kiện

để người bị kết án có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng khi được xóa án tích.

Thứ ba, về xác định án tích để tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm cần

có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng.

“Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình

sự:

h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc

định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng” [46, Điều 52].

Đồng thời, theo tinh thần của mục 7.3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-

HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao quy định: “Khi áp dụng tình tiết “đã bị kết án về tội này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm”, cần phân biệt: a. Trường hợp các tiền án của bị

cáo đã được xem là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này,

chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” thì các tiền án đó không được tính để

xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo”.

Theo tác giả, hướng dẫn trên có thể tạo ra sự không công bằng trong áp

dụng pháp luật và do BLHS năm 1999 đã hết hiệu lực nên cần có văn bản

hướng dẫn mới phù hợp .

Ví dụ 1: A có 04 tiền án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc theo quy

định của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích lại phạm tội đánh bạc có giá

trị dưới 5.000.000đ. Như vậy, trong trường hợp này 04 tiền án trên chỉ là yếu

64

tố định tội của tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm

2015.

Tuy nhiên, giả sử A có 02 tiền án (trong đó, có 01 tiền án về tội trộm

cắp; 01 tiền án về tội đánh bạc), đều chưa được xóa án tích, lại phạm tội đánh

bạc có giá trị dưới 5.000.000đ thì trong trường hợp này, tiền án của tội đánh

bạc được xem xét là yếu tố định tội theo khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015,

còn tiền án về tội trộm cắp được coi là tình tiết tăng nặng TNHS để áp dụng

đối với bị can, bị cáo theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 BLHS và như

vậy TNHS có thể sẽ nặng hơn so với trường hợp A có 04 tiền án về tội đánh

bạc và tổ chức đánh bạc. Do vậy, cần có hướng dẫn cụ thể trường hợp này,

bảo đảm tính công bằng trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Ví dụ 2:B có 03 tiền án, trong đó: có 02 tiền án về tội mua bán trái

phép chất ma túy vào các năm 2012 và năm 2013; 01 tiền án về tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản năm 2015 đã xác định “tái phạm nguy hiểm”,

đều chưa được xóa án tích; năm 2019, A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

có trị giá dưới 2 triệu đồng.

Căn cứ khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015 thì tiền án về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản sẽ là yếu tố định tội theo quy định tại khoản 1 điều 74

BLHS năm 2015.

Còn tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy được coi là tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS hay tình

tiết định khung theo điểm d khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015?

Do vậy, theo tác giả cũng cần có hướng dẫn cụ thể về nội dung này để

áp dụng trong thực tiễn.

Ngoài ra, theo tác giả cần thống nhất hướng dẫn cụ thể trường hợp nếu

bản án có vi phạm trong việc không xác định một người là “tái phạm hoặc tái

phạm nguy hiểm” thì lần phạm tội sau của người đó vẫn bị áp dụng tình tiết

65

“tái phạm nguy hiểm” mà không bắt buộc bản án trước đó phải xác định

người đó là “tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”, theo đúng quy định tại

khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015.

3.2.2Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tái

phạm và tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Một là, Nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của

chủ thể Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công

việc”, “Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Người tiến hành tố tụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải

quyết vụ án. Bởi lẽ, những tội phạm được đã phát hiện cần phải có biện pháp

xử lý. Các trường hợp tội phạm này có được xử lý nghiêm minh hay không

phụ thuộc vào năng lực trình độ chuyên môn cũng như bản lĩnh nghề nghiệp

của các các chủ thể này, cụ thể bao gồm các chủ thể chính là Thẩm phán và

HTND những người trực tiếp xét xử và quyết định giải quyết vụ án.

Trong lĩnh vực áp dụng các quy định pháp luật về tái phạm, tái phạm

nguy hiểm cũng đòi hỏi các cán bộ phải nắm vững các nội hàm các quy định

để việc áp dụng được khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Bên cạnh đó,

cần tăng thêm nhiều lớp tập huấn bồi dưỡng về áp dụng pháp luật cho Hội

thẩm, trong đó giải thích rõ những điểm vướng mắc và thống nhất cách hiểu

về áp dụng quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm. Bên cạnh đó, cũng

cần phải có phương hướng phân loại, sắp xếp cán bộ vào vị trí công tác phù

hợp để phát triển đúng năng lực của bản thân nhằm phát huy tốt hơn khả năng

cán bộ nói riêng và tập thể đơn vị nói chung. Đối với những cá nhân sai phạm

cần có biện pháp răn đe, xử lý theo từng mức độ để làm gương cũng như xây

dựng một đội ngũ trong sạch, vững mạnh.

66

Hai là, Thường xuyên tập huấn, tổng kết vướng mắc, kịp thời ban

hành văn bản hướng dẫn

Thứ nhất, tổ chức tập huấn cho người tiến hành tố tụng chuyên đề về

áp dụng tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Bởi vì pháp luật nói chung và pháp

luật hình sự nói riêng luôn có sự thay đổi thường xuyên. Do đó, việc tập huấn

không chỉ giúp những người tiến hành tố tụng thường xuyên cập nhập kiến

thức mới, bên cạnh đó, thông qua trao đổi còn phản ánh những vướng mắc

trong quá trình áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng quy định về tái phạm,

tái phạm nguy hiểm nói riêng trên thực tiễn.

Bên cạnh đó, thực tiễn hiện nay, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh có

nhiều đồng chí đang kiêm nhiệm công tác giảng dạy tại Học viện Tòa án, do

đó cần thiết sử dụng những người này để tổ chức các buổi tập huấn thường kỳ

cho chính những Hội thẩm nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh để giúp họ cập

nhật, bổ sung kiến thức pháp lý, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Thứ hai, tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết thực tiễn áp dụng tái

phạm, tái phạm nguy hiểm. Đó là biện pháp kiểm nghiệm các quy định của

BLHS về các trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm xem có phù hợp với

thực tiễn xét xử hay không. Thông qua công tác này rút ra những mặt đạt

được, những thiếu sót và những tồn tại còn vướng mắc về mặt lý luận, cơ sở

pháp lý và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Thông qua công tác tổng kết

kinh nghiệm xét xử còn giúp cán bộ ngành Tòa án có điều kiện tìm ra những

bất cập, vướng mắc, hạn chế phát sinh trong quá trình áp dụng chế định tái

phạm, tái phạm nguy hiểm trên thực tiễn. Từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến

nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định này trong bộ luật hình sự Việt Nam

hiện hành.

67

Bên cạnh việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, hoặc tổ chức hội

nghị tập huấn, hội nghị tổng kết trong nội bộ ngành, cần phải có sự kết hợp

với các ngành khác như Công an, Viện kiểm sát… để cán bộ các khối, ban

ngành có cơ hội giao lưu, học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp

vụ.

Trên cơ sở những tổng kết, rút kinh nghiệm trên cần chọn lọc những

quan điểm thống nhất kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản

thống nhất áp dụng pháp luật trong quy định về tái phạm, tái phạm nguy

hiểm.

Ba là, Tăng cường giám đốc, kiểm tra và tổng kết thực tiễn áp dụng

tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Tòa án nhân dân tối cao cần tăng cường làm tốt công tác đảm bảo áp

dụng thống nhất pháp luật. Triển khai thi hành các Bộ luật, luật đã được Quốc

hội thông qua từ Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đến nay, Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao cần tăng cướng ban hành các Nghị quyết hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao cần tiếp tục phối

hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng văn bản pháp luật hướng dẫn thi

hành pháp luật, đặc biệt là những quy định liên quan đến chế định hình phạt

và các hình phạt không tước tự do.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa

chọn, công bố và áp dụng án lệ, không chỉ dừng lại việc phát triển án lệ từ các

quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,

lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao khuyến khích phát hiện các bản án của các

Tòa án mang tính chuẩn mực trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình

huống thực tế phức tạp, hiện còn có những vướng mắc hoặc cách hiểu khác

nhau để đề xuất phát triển làm án lệ, đặc biệt là những án lệ liên quan đến

68

việcviệc vận dụng và áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong

thực tiễn.

TAND tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường kiểm tra nghiệp vụ đối với

TAND cấp huyện để kịp thời phát hiện, khắc phục, rút kinh nghiệm về những

sai sót nghiệp vụ trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án thường xuyên

kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao

ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên

chức ngành tư pháp. Duy trì thường xuyên công tác kiểm tra việc xét xử đối

với các Tòa án.

Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương công khai bản án, nhằm

nâng cao năng lực, trách nhiệm của các Thẩm phán, tăng tính thống nhất

trong việc áp dụng pháp luật, tạo điều kiện để nhân dân tham gia giám sát

hoạt động xét xử của Tòa án. Kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm

chất, đạo đức, lối sống để xây dựng Tòa án trong sạch, vững mạnh; ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu

hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Bốn là, Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những phương

pháp hiệu quả để nâng cao nhận thức cho người dân về kiến thức pháp luật

nói chung và quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm nói riêng. Việc

tuyên truyền, phổ biến pháp luật có ý nghĩa quan trọng không chỉ giúp cho

người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính

đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mà còn góp phần giúp các cơ

quan tiến hành tố tụng nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời

đối với những hành vi phạm tội, đồng thời đối với trường hợp có đủ căn cứ để

áp dụng quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm, qua đó thể hiện chính

69

sách nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội tái phạm,

tái phạm nguy hiểm. Điều này nhằm khuyến khích người phạm tội biết ăn năn

hối lỗi, cải sửa bản thân và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Do đó,

việc tuyên truyền pháp luật về quy định tái phạm, tái phạm nguy hiểm là cần

thiết. Như vậy, cần phải có các biện pháp tăng cường tuyên truyền, phổ biến

pháp luật trên thực tiễn cụ thể: cần xây dựng thói quen sống và làm việc theo

pháp luật của công dân; nâng cao trình độ dân trí; phổ biến, giáo dục pháp

luật trực tiếp hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng bằng các hình

thức đơn giản, dễ tiếp cận, ...

70

Kết luận chương 3

Bên cạnh các yêu cầu đặt ra trong việc áp dụng đúng quy định về tái

phạm và tái phạm nguy hiểm, tại chương 3 học viên tập trung triển khai 04

giải pháp bao gồm giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS về tái phạm, tái

phạm nguy hiểm, và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

hình sự về tái phạm và tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh bao

gồm: Một là, Nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của chủ

thể Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Hai là, Thường xuyên tập huấn, tổng kết

vướng mắc, kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn; Ba là, Tăng cường tuyên

truyền, phổ biến pháp luật. 03 giải pháp nêu trên là kết quả của việc triển khai

các nội dung tại chương 1 và chương 2 của luận văn, học viên tin rằng các

giải pháp nêu trên được triển khai đồng bộ sẽ góp phần nâng cao chất lượng

áp dụng quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh.

71

KẾT LUẬN

Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là một trong những chế định quan trọng,

thể hiện chính sách nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước ta đối với người

phạm tội nhằm giúp họ nhận thức, biết ăn năn hối lỗi và cải sửa bản thân và

giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017) được Quốc hội thông qua ngày 20/7/2017 gồm 26 chương

với 426 điều đã sửa đổi một cách cơ bản và toàn diện các quy định của Bộ

luật hình sự năm 1999 về tội phạm và hình phạt để đáp ứng yêu cầu công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, trong đó chế định tái

phạm, tái phạm nguy hiểm cũng được sửa đổi cho phù hợp với mục tiêu, yêu

cầu đấu tranh phòng, chống và phân hóa trong xử lý tội phạm.

Tuy nhiên trong quá trình áp dụng tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo

pháp luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh trong thời

gian vừa qua, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn tồn tại những vướng

mắc, hạn chế gây ảnh hưởng đến chất lượng định tội danh, định khung hình

phạt và quyết định hình phạt của HĐXX, khiến bản án bị hủy, sửa.

Trước thực trạng đó, vấn đề cấp thiết là cần phải hoàn thiện hệ thống

quy định pháp luật về tái phạm nguy hiểm; nâng cao năng lực chuyên môn,

đạo đức nghề nghiệp của cán bộ Tòa án; thường xuyên tổng kết vướng mắc,

kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn và tăng cường tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự. Đây là những biện pháp mà học viên

đề xuất tại chương 3 của luận văn nhằm đảm bảo quá trình áp dụng đúng quy

định pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm trên thực tế.

Do khả năng nhận thức và trình độ còn hạn chế, nên chắc chắn luận văn

sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, học viên rất mong nhận được ý kiến góp

ý của quý Thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn!

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2017/HSST ngày 16/5/2017 của

TAND huyện Quế Võ

2. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 24 tháng 01 năm

2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

3. Bản án số: 130/2019/HSST Ngày: 24/7/2019 Của TAND thị xã Từ

Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

4. Bản án số: 146/2019/HSST Ngày:28/11/2019 của TAND huyện T,

tỉnh Bắc Ninh.

5. Bản án số: 33/2018/HS-PT Ngày: 28/6/2018 của TAND tỉnh Bắc

Ninh.

6. Bản án số: 42/2019/HSST Ngày: 27/8/2019 của TAND tỉnh Bắc

Ninh.

7. Bản án số:67/2019/HSST Ngày 19/6/2019 của TAND huyện T, tỉnh

Bắc Ninh

8. Bản án sơ thẩm số 308/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 của Tòa án

nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh

9. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002,

Hà Nội.

73

11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

12. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

13. Đàm Trung Mộc (1961), Hình luật giảng tập, (Trung tâm huấn

luyện tu nghiệp công an cảnh sát trung cấp Sài Gòn)

14. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình

phạt theo luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đinh Văn Quế (2018), Chuyện pháp đình (bình luận án), nxb.

Thông tin truyền thông.

16. Đỗ Văn Chỉnh (2009), Xoá án tích với việc xác định tái phạm, tái

phạm nguy hiểm, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 2/2009, tr. 25 - 32, 36.

17. Đỗ Văn Chỉnh (2012), Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

và những nội dung cần sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2012, tr. 24 -

34.

18. Đỗ Văn Chỉnh (2015), Tái phạm và những vấn đề cần quan tâm,

Tạp chí Tòa án nhân dân số6/2015, tr. 19 - 26.

19. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chungTrường đại học Luật

thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, năm

2013;

20. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Trường đại học Luật

Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 2018;

21. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam: phần chung trường Học viện

khoa học xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2014;

74

22. Hoàng Thị Liên (2006), Một số kinh nghiệm trong việc xác định

tuổi, tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người chưa thành niên phạm tội, Tạp

chí kiểm sát số 21/2006, tr. 38 - 39, 44.

23. Lê Tuấn Anh (2017), Nguyên nhân, điều kiện, biện pháp và một số

giải pháp phòng ngừa tái phạm tội, Tạp chí nghề luật, Số 3/2017, tr. 51 - 58.

24. Lê Thị Ngọc, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo

Luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ năm 2013;

25. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự

- Phần chung”, Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

26. Lê Văn Đệ (2003), Chế định nhiều tội phạm – Những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Hữu Hậu (2004), Phân biệt các khái niệm "Phạm nhiều tội,

phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm" trong chế định nhiều tội

phạm, Tạp chí kiểm sát, số 7/2004, tr. 23 - 26.

28. Nguyễn Lân (2003), Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, Nxb Văn học,

Hà Nội.

29. Nguyễn Nông (2001), Về tình tiết tái phạm và tái phạm nguy hiểm

trong Bộ luật Hình sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 4/2001, tr. 16 - 17, 34.

30. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm

2015 - sửa đổi bổ sung 2017 phần chung, nxb. Tư pháp;

31. Nguyễn Thanh Tùng,“Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật

hình sự Việt Nam năm 1999”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội năm 2014;

75

32. Nguyễn Thị Mai (2003), Những quan điểm khác nhau khi xác định

tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và

Nghị quyết 32/1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2003, tr. 26 - 29.

33. Nguyễn Thị Thanh Phương, “Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”,

34. Nguyễn Văn Bường (2016), Hoàn thiện pháp luật về án treo - cần

tính tới các nhân tố làm cho người bị kết án tái phạm hoặc phạm tội mới, Tạp

chí Nghề Luật Số 2/2016, tr. 42 - 45.

35. Nguyễn Văn Long, “Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ, Học viện

khoa học xã hội, năm 2017…

36. Nguyễn Việt Cường (2011), Tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong

Luật Hình sự Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt

nghiệp trường Đại học luật Hà Nội.

37. Phạm Hồng Hải (2001), Một vài ý kiến về chế định tái phạm và tái

phạm nguy hiểm theo quy định trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí tòa án

nhân dân Số 4/2001, tr. 12 - 15.

38. Phạm Văn Tỉnh (2006), Bàn thêm về tái phạm, tái phạm nguy hiểm,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 10/2006, tr. 42 - 46.

39. Phạm Văn Tỉnh (2006), Bức tranh thực tế về tình hình tái phạm, tái

phạm nguy hiểm ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 12/2006, tr. 58

- 66.

40. Phạm Văn Thiệu (2001), Vấn đề tái phạm, tái phạm nguy hiểm

trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 9/2001, tr. 19.

41. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

76

42. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

43. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung, Hà Nội

44. Quốc Hội (2019), Bộ luật lao động, Hà Nội.

45. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

46. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

47. Toà án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hoá luật lệ về hình

sự, Hà Nội

48. Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2016, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

49. Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2017, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

50. Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2017 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2018, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

51. Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2019, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

52. Tổng hợp báo cáo tổng kết năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2020, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

53. Trần Văn Biên (chủ biên), Sách Bình Luận Khoa Học Bộ Luật Hình

Sự 2015 Sửa Đổi 2017; nxb. Thế giới;

54. Trần Văn Độ (1996), Vấn đề tái phạm và hoàn thiện chế định tái

phạm trong luật hình sự Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 6/1996, tr. 47

- 49.

77

55. Trương Thị Hằng (2006), Bàn về việc xác định tái phạm và tái

phạm nguy hiểm trong trường hợp có quy định về định lượng giá trị tài sản bị

chiếm đoạt, Tạp chí kiểm sát Số 21/2006, tr. 31 - 34.

56. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb

Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp Hà Nội.

78