ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------

VŨ THỊ TỐ UYÊN

PHONG CÁCH GIÁO DỤC CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON

TỪ 3 ĐẾN 6 TUỔI TẠI TRƢỜNG QUỐC TẾ KOALA HOUSE

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------

VŨ THỊ TỐ UYÊN

PHONG CÁCH GIÁO DỤC CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON

TỪ 3 ĐẾN 6 TUỔI TẠI TRƢỜNG QUỐC TẾ KOALA HOUSE

Chuyên ngành: Tâm lý học

Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trịnh Thị Linh

Hà Nội – 2015

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Cao đẳng CĐ

Đại học ĐH

Sau đại học SĐH

Trung học phổ thông THPT

Phong cách giáo dục PCGD

Số lượng SL

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu mà tôi đã thực

hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Trịnh Thị Linh. Các trích dẫn và tài liệu sử

dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ tin cậy cao về mặt khoa

học. Số liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn hoàn toàn trung thực và chưa

từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội Ngày 12 tháng 7 năm 2015

Người cam đoan

Vũ Thị Tố Uyên

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã

nhiệt tình giảng dạy em trong suốt quá trình học tập.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo Trịnh Thị Linh, người

đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và cổ vũ cho em trong quá trình

thực hiện luận văn.

Tôi xin cảm ơn tập thể thầy cô giáo và phụ huynh các em học sinh

trường Quốc tế Koala – House đã hợp tác với tôi trong quá trình điều tra

thực tiễn.

Tôi cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều

kiện để tôi hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2015

Tác giả

Vũ Thị Tố Uyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH GIÁO DỤC CỦA

CHA MẸ ĐỐI VỚI CON TỪ 3 ĐẾN 6 TUỔI TẠI TRƢỜNG MẦM NON

QUỐC TẾ KOALA HOUSE .......................................................................... 5

1.1. Tổng quan một vài công trình nghiên cứu về phong cách giáo dục của

cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi. .............................................................. 5

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài. ...................................... 5

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước ......................................... 10

1.2. Một số vấn đề lý luận về phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ

mẫu giáo ..................................................................................................... 14

1.2.1. Lý luận về phong cách giáo dục của cha mẹ ............................... 14

1.2.2. Lý luận về trẻ mẫu giáo ................................................................ 22

1.2.3. Phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại

trường mầm non Quốc tế Koala House.................................................. 26

1.2.4. Phong cách giáo dục của cha mẹ và sự phát triển tâm lý của trẻ 29

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách giáo dục của cha mẹ ...... 33

Tiểu kết chương1 ............................................................................................. 35

Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 36

2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................ 36

2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ...................................................... 36

2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu .................................................. 37

2.2. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................. 39

2.2.1. Tổ chức nghiên cứu về mặt lý luận ............................................. 39

2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực tiễn ....................................................... 39

2.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 41

2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ................................................. 41

2.3.2. Phương pháp chuyên gia .............................................................. 42

2.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ........................................... 42

2.3.4. Phương pháp phỏng vấn sâu ........................................................ 43

2.3.5. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý .................................... 43

2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học ..................... 44

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 46

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 47

3.1. Thực trạng phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6

tuổi tại trường Quốc tế Koala House .......................................................... 47

3.1.1. Phong cách giáo dục của cha mẹ nói chung ................................ 47

3.1.2. Phong cách giáo dục của cha mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục

gia đình .................................................................................................. 52

3.1.3. Mối liên hệ giữa PCGD của cha mẹ và tự đánh giá của cha mẹ về

vai trò của họ trong giáo dục trẻ. ........................................................... 57

3.2. Mối liên hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và sự phát triển tâm

lý của trẻ ..................................................................................................... 60

3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách giáo dục của cha mẹ .............. 70

3.3.1. Yếu tố nghề nghiệp của cha mẹ ................................................... 70

3.3.2. Yếu tố thu nhập của cha mẹ ......................................................... 72

3.3.3. Yếu tố giới tính của trẻ ................................................................. 73

3.4. Phân tích chân dung tâm lý ................................................................. 75

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... i

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1. Phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con .................................... 9

Bảng 2.1. Mẫu khách thể nghiên cứu theo nghề nghiệp và trình độ học vấn .. 38

Bảng 2.2. Mẫu khách thể nghiên cứu theo giới tính, độ tuổi và số con trong

gia đình. ........................................................................................................... 38

Bảng 2.3. Độ tin cậy của bảng hỏi về phong cách giáo dục của cha mẹ ......... 40

Bảng 3.1. Sự tương đồng trong PCGD của từng cặp bố mẹ ............................ 51

Bảng 3.2. PCGD của cha mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình ............... 53

Bảng 3.3. Phong cách giáo dục của cha mẹ và nhận định về vai trò của họ

trong giáo dục trẻ.............................................................................................. 57

Bảng 3.4. PCGD và nhận định của cha mẹ về trách nhiệm của các bên liên

quan khi trẻ có lỗi ............................................................................................. 59

Bảng 3.5. PCGD của cha mẹ và thái độ nhận lỗi của trẻ khi mắc sai phạm .... 61

Bảng 3.6. PCGD của cha mẹ và việc chia sẻ khó khăn của trẻ với họ ............ 62

Bảng 3.7. PCGD của cha mẹ và sự tự tin ở trẻ ................................................ 65

Bảng 3.8. Phong cách giáo dục của cha mẹ và khả năng tự lập của trẻ .......... 67

Bảng 3.9. Dự báo tác động của PCGD mà cha mẹ sử dụng với sự phát triển

của con. ............................................................................................................. 69

Bảng 3.10. Phong cách giáo dục của cha mẹ với nghề nghiệp của họ ............ 70

Bảng 3.11. PCGD và thu nhập của cha mẹ trong gia đình .............................. 72

Bảng 3.12. PCGD của cha mẹ và giới tính của con ......................................... 73

Biểu đồ 3.1. Phong cách giáo dục của cha mẹ nói chung ................................ 47

Biểu đồ 3.2. Phong cách giáo dục của bố và phong cách giáo dục của mẹ ..... 50

Biểu đồ 3.3. Phong cách giáo dục của bố và phong cách giáo dục của mẹ

trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình. ............................................................. 56

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

"Con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục” [2]. Điều

đó đã được đúc kết trong suốt lịch sử phát triển của nhân loại. Thực tế đã cho

thấy nếu trẻ không được sống, không được giáo dục trong môi trường gia

đình và xã hội thì khi lớn lên họ chẳng khác mấy các loài động vật. Kinh

nghiệm giáo dục truyền thống của cha ông ta cũng khẳng định:

Uốn cây từ thuở còn non

Dạy con từ thuở con còn trẻ thơ.

Có thể nói, quá trình nuôi dưỡng, giáo dục trẻ bắt đầu ngay từ khi trẻ

vẫn còn trong bào thai của mẹ. Khi trẻ cất tiếng khóc chào đời, thì chính môi

trường gia đình, đặc biệt bố mẹ là người đầu tiên thực hiện vai trò, trách

nhiệm cao cả đó. Có thể khẳng định rằng, gia đình là “trường học” đầu tiên và

cha mẹ là những nhà giáo dục đặt nền móng quan trọng đối với cuộc đời mỗi

người. Đúng như những gì mà nhà giáo dục A.X. Macarencô đã nhận định:

“Những gì mà bố mẹ đã làm cho con trước 5 tuổi, đó là 90% kết quả của quá

trình giáo dục. Nói cách khác là những phẩm chất đạo đức, tính cách, cũng

như những năng lực chuyên biệt của bố mẹ thường ảnh hưởng rất lớn đối với

con cái trong gia đình” [2]. Giáo dục gia đình, như vậy không những có tác

dụng mạnh mẽ, có ý nghĩa sâu sắc đối với tuổi trẻ thơ, mà còn có ý nghĩa đối

với cả cuộc đời của mỗi người. Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã

cho thấy tác động to lớn từ các kiểu phong cách giáo dục của cha mẹ đối với

sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. Các tác giả cũng khẳng định rằng, những gì

mà trẻ trải qua thời thơ ấu sẽ để lại dấu ấn không nhỏ cho chính họ trong việc

gia nhập vào các mối quan hệ sau này.

Ở Việt Nam, thực tế những năm gần đây, cho phép chúng tôi ghi nhận

rằng tình trạng bạo lực học đường cũng như vi phạm pháp luật của trẻ thành

niên có xu hướng gia tăng. Bên cạnh những vấn đề về giáo dục học đường,

1

giáo dục gia đình cũng được nhìn nhận như là một trong những yếu tố có tác

động không nhỏ đến thực trạng này. Không ít các bậc phụ huynh vì mải chăm

lo cho “công cuộc mưu sinh” mà “quên” đi trách nhiệm làm cha, làm mẹ của

mình. Khi trẻ còn nhỏ, họ tin tưởng người giúp việc và các cô giáo mầm non,

rồi phó thác con em mình cho họ. Khi lớn lên, với lý do rằng mình không có

kiến thức để dạy con học, họ lại tìm đến các giáo viên bộ môn cũng như các

lớp học thêm để các thầy cô kèm cặp và bảo ban con em họ. Thời gian mà các

ông bố, bà mẹ này dành cho con theo đó cũng giảm đi đáng kể.

Ngược lại, không ít các ông bố, bà mẹ do thiếu kiến thức về sự phát

triển tâm- sinh lý của trẻ, thiếu hiểu biết về các phương pháp giáo dục con nên

lại rất khắt khe, cứng nhắc, thậm chí còn đánh đập con trẻ một cách tàn bạo,

làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển tâm lý của trẻ. Từng có thời gian

làm việc ở trường mầm non Quốc tế Koala House, khi gặp gỡ các bậc phụ

huynh có con ở độ tuổi này, chúng tôi nhận thấy rằng, không ít trong số họ

đang rất băn khoăn, về việc “dạy dỗ” con em mình, thậm chí có người còn tỏ

ra vô cùng hoang mang, lo lắng. Vì vậy, họ tìm đến các lớp học “làm bạn với

con”, “dạy con không trừng phạt”, “kỷ luật không nước mắt”… với mong

muốn tìm được cách thức giáo dục con hiệu quả nhất. Điều này khiến chúng

tôi rất trăn trở. Bởi lẽ, theo ghi nhận chủ quan của chúng tôi cũng như của các

cô giáo ở đây thì trẻ ở trường Quốc tế Koala House nhìn chung khá nhanh

nhẹn và thông minh so với trẻ cùng lứa tuổi. Trong khi đó, các bậc phụ huynh

vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng về cách thức dạy con của họ. Vậy thì, họ

hiện đang sử dụng các phong cách giáo dục gì đối với trẻ? Phong cách đó có

thể chịu sự chi phối của những yếu tố nào? Và liệu có sự khác biệt hay không

giữa phong cách giáo dục của cha và mẹ đối với trẻ? Tất cả những điều này

đã thúc đẩy chúng tôi lựa chọn đề tài: “Phong cách giáo dục của cha mẹ đối

với con từ 3 đến 6 tuổi tại trường Quốc tế Koala House” để thực hiện trong

khuôn khổ của luận văn Thạc sĩ Tâm lý học.

2

2. Mục đích nghiên cứu

Xác định các phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi

đang học các lớp mẫu giáo tại trường Quốc tế Koala House .Trên cơ sở đó, đưa

ra những kiến nghị cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc, giáo

dục trẻ trong gia đình.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Các kiểu phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi

đang học các lớp mẫu giáo tại trường Quốc tế Koala House và yếu tố ảnh

hưởng tới các kiểu phong cách giáo dục này.

4. Khách thể nghiên cứu

96 cặp cha mẹ có con từ 3 đến 6 tuổi đang học các lớp mẫu giáo tại

trường Quốc tế Koala House

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận

Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu phong cách giáo dục của cha mẹ

đối với trẻ từ 3 đến 6 tuổi, cụ thể: làm rõ các khái niệm công cụ như phong

cách giáo dục, trẻ mẫu giáo, phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3

đến 6 tuổi; xác định biểu hiện của các kiểu phong cách giáo dục cũng như các

yếu tố tác động đến phong cách giáo dục được nghiên cứu.

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn

Làm rõ thực trạng các phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3

đến 6 tuổi đang học các lớp mẫu giáo tại trường Quốc tế Koala House và các yếu

tố ảnh hưởng tới thực trạng này. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị góp phần tạo

dựng phong cách giáo dục phù hợp của cha mẹ với trẻ mẫu giáo hiện nay.

6. Giả thuyết nghiên cứu

Các bậc cha mẹ có con từ 3 đến 6 tuổi đang học mẫu giáo tại trường

Quốc tế Koala House sử dụng 3 kiểu phong cách giáo dục cơ bản trong quá

3

trình giáo dục con là: phong cách giáo dục dân chủ, độc đoán và tự do. Trong

đó, phong cách giáo dục dân chủ được cha mẹ sử dụng nhiều nhất.

Có sự khác biệt giữa cha và mẹ trong việc sử dụng các kiểu phong cách

giáo dục.

Giới tính của trẻ, nghề nghiệp của cha mẹ và thu nhập của họ là những

yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê tới việc sử dụng các kiểu PCGD của

cha mẹ.

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu 3 kiểu phong cách

giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi đang học tại các lớp mẫu giáo

như: phong cách giáo dục dân chủ, độc đoán và tự do.

Về những yếu tố ảnh hưởng đến các kiểu phong cách giáo dục của cha

mẹ, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan

từ phía trẻ cũng như từ phía cha mẹ trẻ. Các yếu tố chủ quan không được

chúng tôi đề cập trong nghiên cứu này.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu

8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

8.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

8.3. Phương pháp chuyên gia

8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

8.5. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý

8.6. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học.

4

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH GIÁO DỤC CỦA CHA MẸ

ĐỐI VỚI CON TỪ 3 ĐẾN 6 TUỔI TẠI TRƢỜNG

QUỐC TẾ KOALA HOUSE

1.1. Tổng quan một vài công trình nghiên cứu về phong cách giáo dục của

cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi.

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài.

Có thể nói, phong cách giáo dục của cha mẹ từ lâu đã nhận được sự

quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học xã hội, đặc biệt là các nhà

nghiên cứu trong lĩnh vực Tâm lý học và Giáo dục học. Cụ thể:

Ở phương Tây:

Người đầu tiên phải kể đến là A. X. Macarenco (1988-1939), nhà giáo

dục Xô Viết vĩ đại. Theo ông “Con đường giáo dục của trẻ em có tác dụng

mạnh mẽ là giáo dục bằng tấm gương sáng và các phẩm chất riêng của những

người xung quanh – đặc biệt là cha mẹ” [dẫn theo 13]. Macarenco luôn đề cao

vai trò và tầm quan trọng trong giáo dục gia đình đối với trẻ lứa tuổi mầm

non. Ông khẳng định việc giáo dục trẻ mẫu giáo phải thông qua hoạt động trò

chơi và lao động. Cha mẹ chính là người đầu tiên xây dựng cho trẻ tình yêu

thương gia đình và những người xung quanh. Trong giáo dục con cái, nếu trẻ

mắc lỗi các bậc cha mẹ không nên trách phạt con mà phải làm sao cho trẻ

nhận thấy những việc làm chưa đúng để chúng có ý thức sửa sai. Và ông cũng

kịch liệt lên án việc giáo dục con bằng cách áp đặt, trừng phạt, ngăn cản và

tạo ra các loại “uy quyền” của cha mẹ. Những vấn đề nói trên được

Macarenco gói gọn trong tác phẩm: Bài ca sư phạm và Cuốn sách của những

người làm cha mẹ.

5

Đồng quan điểm với Macarenco, Schaefer (1959) cũng khẳng định rằng

mối quan hệ giữa cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình có ảnh hưởng

trực tiếp đến sự phát triển và nhận thức xã hội của trẻ. Và “chìa khóa” để các

bậc cha mẹ mở cánh cửa tương lai con em mình chính là mối quan hệ gắn bó,

thân thiện của cha mẹ với con cái trong gia đình. Ông đã đưa ra mô hình lý

thuyết về các kiểu giáo dục dựa trên 2 bình diện chính, độc lập và đối cực với

nhau là: Sự yêu thương / ghét bỏ và sự kiểm soát / tự chủ. Theo đó, các kiểu

phong cách giáo dục dân chủ, độc đoán, thờ ơ hay nuông chiều được thiết lập

(dẫn theo 22) cụ thể như sau:

Tự chủ

Dân chủ

Thờ ơ Ghét bỏ Yêu thương

Độc đoán Nuông chiều

Kiểm soát

Đặc biệt, vào những năm 60 của thế kỷ trước, Diana Baumrind chính là

người đặt dấu ấn quan trọng cho các nghiên cứu đương đại về phong cách

giáo dục của cha mẹ. Theo bà hai yếu tố tạo nên phong cách giáo dục của cha

mẹ chính là sự đáp ứng của cha mẹ và sự kỳ vọng của cha mẹ đối với con. Ở

đây, sự đáp ứng của cha mẹ được hiểu là sự trợ giúp của cha mẹ đối với con

cái nhằm thỏa mãn những nhu cầu của trẻ. Sự kỳ vọng của cha mẹ được thể

hiện thông qua sự kiểm soát của họ đối với con cái của mình làm sao chúng

trưởng thành, cư xử có trách nhiệm hơn. Sự kết hợp của hai yếu tố này làm

nên phong cách giáo dục của các bậc cha mẹ. Căn cứ vào tính chất, cường độ

của từng yếu tố mà D. Baumrind phân chia phong cách giáo dục của cha mẹ

thành 3 kiểu: phong cách giáo dục dân chủ, độc đoán và tự do [49].

6

Dựa trên công trình nghiên cứu của Baumrind, Maccoby và Martin

(1983) đã bổ sung thêm 1 phong cách giáo dục của cha mẹ với con. Theo đó,

các tác giả này đưa ra 4 kiểu phong cách giáo dục của cha mẹ là: dân chủ, độc

đoán, dễ dãi và bỏ mặc. Các tác giả này cho rằng cha mẹ bỏ mặc rất ít đáp

ứng yêu cầu của trẻ và cũng rất ít kiểm soát trẻ [55]. Như vậy, có thể nói

những nghiên cứu trên đây về các phong cách giáo dục của cha mẹ đã đặt nền

tảng quan trọng cho các nghiên cứu lý thuyết đương đại về vấn đề này.

Quá trình tìm hiểu về phong cách giáo dục của cha mẹ trong những năm

gần đây, chúng tôi ghi nhận công trình nghiên cứu của Kellerhals và Montandon

(1991). Hai ông đã phân ra 3 kiểu giáo dục chính: kiểu giáo dục mang tính “hợp

đồng” đặc trưng bởi sự ít kiểm soát, nhấn mạnh tới động cơ, tới chiến thuật quan

hệ; kiểu giáo dục theo “thể chế” cần nhiều đến sự kiểm soát hơn là đến động cơ

và quan hệ; kiểu giáo dục “gia trưởng của mẹ” đặc trưng bởi việc nhấn mạnh

đến sự điều ứng cho thích hợp hơn là tính tự chủ, tự điều chỉnh. Tương ứng với

đó là 3 phong cách giáo dục: Dân chủ, độc đoán và bao bọc [57].

Trên cơ sở nền tảng đó, năm 1993, 1999, Darling và Steinberg đã có rất

nhiều đóng góp trong quá trình nghiên cứu phong cách giáo dục của cha mẹ

đối với trẻ. Các tác giả này khẳng định rằng: Trách nhiệm của cha mẹ và yêu

cầu, đòi hỏi của cha mẹ là hai thành tố tạo nên những cha mẹ tốt. Cha mẹ có

trách nhiệm là người biết cân bằng rõ ràng giữa nhu cầu cao của cha mẹ với

sự đáp ứng tình cảm và công nhận quyền tự chủ của con cái. Đây được xem

như là một trong những yếu tố dự báo gia đình phù hợp nhất cho sự phát triển

từ thời thơ ấu tới tuổi trưởng thành của con trẻ [48].

Đồng tình với quan điểm này, Ulla Bjornberg, cũng cho rằng cha mẹ

thường sử dụng 3 kiểu phong cách giáo dục sau đây trong quá trình nuôi

dưỡng trẻ: phong cách theo luật định; phong cách gia trưởng; phong cách theo

thỏa thuận. Tác giả cho rằng không thể lơ là trong việc giáo dục con cái ở tuổi

7

mầm non. Mặc dù trẻ có đi lớp nhưng phần lớn thời gian trẻ vẫn ở nhà (thời

gian ngủ, ăn sáng, ăn tối, hai ngày cuối tuần…). Vì vậy, cha mẹ cần thu xếp

thời gian để “chơi” với trẻ một cách khoa học [56].

Cũng trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu của

D. Baumrind, nhóm tác giả Jessica M. Miller, Colleen Dilorio và William

Dudley (2002) đã chỉ ra mối liên hệ giữa phong cách giáo dục của các bà mẹ

với tính xung đột và bạo lực ở thiếu niên Mỹ. Kết quả cho thấy, ở những gia

đình cha mẹ có phong cách giáo dục dễ dãi thì con cái họ thường có phản ứng

dữ dội và tiêu cực trong những tình huống có xung đột, ít làm chủ được bản

thân khi chịu sự kích động. Trong khi đó, ở những gia đình cha mẹ có phong

cách giáo dục dân chủ hoặc độc đoán thì tính chất xung đột của trẻ thấp hơn.

Nói một cách khác, nhóm tác giả nhận thấy rằng phong cách giáo dục của mẹ

có liên quan tới các phản ứng của thanh thiếu niên trong các tình huống gây ra

xung đột [54].

Tuy nhiên, khi tìm hiểu về phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con

ở độ tuổi này, tác giả Winsler (2005) nhận thấy chỉ có một số ít bố mẹ sử

dụng phong cách giáo dục tương đồng trong quá trình giáo dục con. Đây là cơ

sở để tác giả khẳng định rằng việc thống nhất trong cách giáo dục con của

mỗi gia đình là vô cùng quan trọng và cần tìm ra những yếu tố tối ưu để có

phương pháp nuôi dạy con cho phù hợp [42].

Gần đây nhất, tại một hội thảo giáo dục của Romania năm 2010 có đề

cập đến phong cách giáo dục của cha mẹ gồm: “Phong cách lôi cuốn; phong

cách kỉ luật; phong cách gắn bó quan hệ, phong cách tự do. Ngoài ra, tại hội

thảo còn đề cập tới kỹ thuật giáo dục và 4 yếu tố tác động tới giáo dục: Sự

kiểm soát, động lực, luân lý, kỹ thuật trong các mối quan hệ. Để thực hiện tốt

vai trò giáo dục đòi hỏi cần có kỹ thuật giáo dục phù hợp với từng giai đoạn

lứa tuổi” [53].

8

Như vậy, nhìn chung các công trình nghiên cứu về phong cách giáo dục

của cha mẹ đều đề xuất 3 đến 4 kiểu phong cách giáo dục khác nhau. Tựu

chung lại, chúng tôi có thể tổng hợp trong bảng số liệu như sau:

Bảng 1.1 Phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con

Maccoby Kellerhal & Darling & Ulla Schaefer Baumrind Tác &Martin Montandon Steinberg Bjornberg (1959) (1971) giả (1983) (1991) (1993) (2001)

Dân chủ Dân chủ Dân chủ Dân chủ Dân chủ Lôi cuốn

Kiểu Độc đoán Độc đoán Độc đoán Độc đoán Độc đoán Kỉ luật PCGD

Tự do Tự do Bỏ mặc Bao bọc Tự do Tự do

Nuông Nuông Gắn bó Dễ dãi Chiều chiều quan hệ

Ở châu Á: Nếu như các công trình nghiên cứu ở phương Tây, phần lớn

tập trung tìm hiểu về các phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con và ảnh

hưởng từ các phong cách giáo dục đó đến sự phát triển của trẻ thì

ở châu Á, các công trình chủ yếu lại mang tính so sánh giữa phong cách giáo

dục của bố mẹ châu Á với phong cách giáo dục của bố mẹ châu Âu, châu Mỹ.

Năm 1994, nghiên cứu của Chao [43], Chen và cộng sự (1997) cho

thấy các bậc cha mẹ châu Á vẫn duy trì quan điểm dạy dỗ truyền thống bằng

việc sử dụng uy quyền và các phương pháp độc đoán như đánh đòn đứa trẻ,

luôn dùng mệnh lệnh để áp đặt đối với trẻ, trừng phạt trẻ nghiêm khắc... Chen

cũng khẳng định, kiểu nuôi dạy con cái theo cách chuyên quyền của các bậc

cha mẹ Trung Quốc vẫn tồn tại ở Đài Loan [47].

9

Cũng trong giai đoạn này, nghiên cứu của Chao cho biết các mô hình

của Baumrind có thể không phù hợp và có ý nghĩa đối với người châu Á do

có sự khác nhau trong quan niệm về sự kiểm soát và sự chăm sóc của cha mẹ.

Khi nghiên cứu các bà mẹ Mỹ gốc Trung Quốc về cách nuôi dạy con theo

kiểu “nghiêm khắc” hay “chuyên quyền” và thành tích của chúng tại trường

trung học, ông khẳng định người Trung Quốc nuôi dạy con theo kiểu “giáo

dục” và “quản lý” khác với phương pháp “dân chủ” và “độc đoán” của

Baumrind, lại đạt được kết quả tích cực ở trẻ [44].

Mới đây nhất, nghiên cứu của Mimi Chang (2007), cũng nhận thấy sự

khác biệt rất lớn về văn hóa trong cách sử dụng phong cách giáo dục của cha

mẹ người Mỹ gốc Trung Quốc với người Mỹ chính thống. Kết quả nghiên

cứu cho biết những cha mẹ gốc Trung Quốc hay sử dụng uy quyền của mình

để “quản lý” con cái và điều đó dẫn đến một kết quả là có sự xung đột về văn

hóa giữa bố mẹ, con cái trong gia đình người Mỹ gốc Trung quốc [46].

Có thể nói rằng, hệ thống các công trình nghiên cứu trên thế giới tương

đối đồ sộ với nhiều nội dung phong phú về phong cách giáo dục cũng như ảnh

hưởng của các phong cách đó đến sự phát triển tâm lý của trẻ lứa tuổi thanh

thiếu niên. Tuy nhiên, các nghiên công trình nghiên cứu về phong cách giáo

dục của cha mẹ đối với trẻ em lứa tuổi mầm non chưa nhắc đến nhiều và chưa

thật sự nổi trội trong lĩnh vực nghiên cứu này. Đó cũng là một trong số những

lý do gây sức hút cho các nhà khoa học tiến hành các nghiên cứu sau này

đóng góp thêm thành tựu mới cho nhân loại.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Trước hết phải kể đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục

của cha mẹ đối với trẻ mầm non. Bác nói : “Điều thứ năm trong phong trào

thi đua “năm tốt” là xây dựng gia đình, nuôi con, dạy con cái tốt”, “...Không

chỉ làm cho con cháu mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả

10

các cháu đều ngoan và khỏe”. Ngoan và khỏe là các giá trị xã hội đi liền nhau,

không thể có một giá trị đạo đức chung chung, trừu tượng mà giá trị đạo đức

phải gắn với một con người cụ thể, một đứa trẻ khỏe mạnh. Chỉ có trên nền

tảng tự nhiên, một cơ sở vật chất phát triển chín muồi thì mới xây dựng được

các giá trị xã hội khác. Bác khẳng định thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, vì

thế phải ra sức chăm lo và giáo dục cho các cháu. Và chính cha mẹ phải là

người gương mẫu thực hiện các hành vi trong mọi lĩnh vực của đời sống để

cho trẻ noi theo [24].

Trên tinh thần coi trọng giáo dục gia đình, năm 1975, các tác giả Vũ

Hạnh, Trần Truyền, Đỗ Quảng đã viết cuốn “Bàn tay người mẹ - Kinh

nghiệm giáo dục gia đình”. Tác phẩm bao gồm những câu chuyện nhỏ kể về

những kinh nghiệm giáo dục con trong gia đình. Thông qua những câu

chuyện này, các tác giả khẳng định, những người mẹ xuất thân từ những hoàn

cảnh khác nhau, làm những công việc khác nhau, song họ đều có được cách

thức giáo dục con khoa học. Đó là dùng tình yêu thương, sự cảm nhận, chia sẻ

và sống với thế giới của con để hiểu con. Thông điệp mà các tác giả của cuốn

sách muốn gửi đến người đọc là để có thể giáo dục con hiệu quả thì điều quan

trọng là cần phải hiểu đặc điểm riêng của con mình, luôn luôn lắng nghe để có

thể chia sẻ với trẻ, có như vậy mới có thể đề ra những biện pháp, phương

pháp và xây dựng cho chính mình một phong cách giáo dục phù hợp [10].

Cũng theo hướng nghiên cứu về phong cách giáo dục, năm 1993, Lê

Tiến Hùng có nghiên cứu về chủ đề “Quyền uy và việc sử dụng quyền uy của

cha mẹ trong giáo dục gia đình”. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chất lượng

giáo dục gia đình có thể được nâng cao nếu mỗi bậc cha mẹ có được định

hướng đúng đắn trong sử dụng uy quyền của mình. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ

đề cập đến khía cạnh uy quyền của cha mẹ trong gia đình mà chưa đi sâu

nghiên cứu đến ảnh hưởng của cách giáo dục đó đối với sự phát triển tâm sinh

lí của các con trong gia đình [15].

11

Đồng thuận với các quan điểm nêu trên, tác giả Ngô Công Hoàn (1993)

trong “Tâm lý học gia đình” đã đề cập tới sự tác động qua lại giữa phong cách

giáo dục con của cha mẹ với sự phát triển của trẻ. Theo ông, mối quan hệ

tốt đẹp của cha mẹ và con cái được thiết lập, có khả năng hình thành tính

độc lập, tự chủ, tính năng động, tích cực xã hội cao cho con cái. Khi cha

mẹ có phong cách giáo dục độc đoán, quyền uy quá mức, áp đặt, khắt khe

thì con cái sẽ có sự phát triển lệch lạc như dễ duy kỷ và bất lực, tách ra

khỏi bản thân, tránh tiếp xúc với thực tế, khuynh hướng muốn trốn vào mơ

mộng, mộng tưởng, khó khăn khi tiếp xúc với xã hội và những trẻ cùng

tuổi, thụ động, thiếu sáng kiến, bất lực trong tự vệ, mặc cảm tự ti, phụ

thuộc, có khuynh hướng thoái lui [11].

Kết quả nghiên cứu này đã được khẳng định thông qua tác phẩm “Gia

đình và vấn đề giáo dục gia đình” (1994) của Trung tâm nghiên cứu gia đình

và phụ nữ. Công trình nghiên cứu này khẳng định có nhiều gia đình quá

nuông chiều, thả mặc nên trẻ dễ hư hỏng, hỗn láo; ngược lại có những gia

đình cha mẹ quá thiên về việc sử dụng quyền uy, bạo lực, roi vọt cũng gặp

những thất bại do hậu quả tiêu cực của cách giáo dục đó đối với con em mình.

Từ đó, nhóm nghiên cứu thấy được tầm quan trọng trong việc sử dụng phong

cách giáo dục của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, việc kết hợp sử dụng

phương pháp nào cho hợp lý với con mình còn tùy thuộc vào nhận thức của

cha mẹ về con cái họ một cách chính xác [31].

Cùng bàn về vấn đề này, tác giả Phạm Khắc Chương (1998) đã đi sâu

nghiên cứu về “Uy quyền của bố mẹ trong giáo dục gia đình”. Ông nhận thấy

có những bậc cha mẹ khi sai bảo, yêu cầu con cái thực hiện một vấn đề nào đó

được chúng vâng lời, chấp hành, hoàn thành một cách tốt đẹp, nghiêm túc.

Nhưng cũng có những bậc cha mẹ khi sai bảo, yêu cầu hay ngăn cản con cái

về một hành động nào đó, chúng lại ương bướng, chỉ trích lại bố mẹ ở những

12

mặt thiếu sót. Điều đó phản ánh một phần vị trí uy quyền của bố mẹ trong

giáo dục gia đình. Đây chính là cơ sở để nghiên cứu vấn đề giáo dục gia đình

đối với trẻ [2].

Bên cạnh đó, nghiên cứu mới đây của Trương Thị Khánh Hà (2011)

đã góp phần làm phong phú thêm các nghiên cứu về phong cách giáo dục

của cha mẹ đối với con lứa tuổi thanh niên hiện nay. Kết quả điều tra thực

tiễn 180 sinh viên, tác giả đi đến kết luận: sinh viên có cha mẹ độc đoán

(khoảng 35% trong tổng số) có thể đạt kết quả học tập khá tốt, nhưng các

kỹ năng xã hội kém hơn và tự đánh giá thấp hơn so với những sinh viên có

cha mẹ uy tín. Theo đó, tác giả cho rằng phong cách uy tín có ảnh hưởng

tốt nhất đến sự phát triển của con trẻ về trí tuệ, tình cảm cũng như sự phát

triển các kỹ năng xã hội [8].

Khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha

mẹ ở trong nước, chúng tôi cũng ghi nhận các công trình nghiên cứu của tác

giả Vũ Thị Khánh Linh với một số công bố trên nhiều tạp chí khác nhau như:

“Phong cách giáo dục của cha mẹ trong lĩnh vực giáo dục gia đình” (tạp chí

Khoa học Giáo dục, 2011), “Một số vấn đề lý luận về phong cách giáo dục

của cha mẹ” (tạp chí Giáo Dục, 2011), “Phong cách giáo dục của người mẹ

trong các lĩnh vực giáo dục gia đình” (tạp chí Tâm lý học, 2012). Qua đó, tác

giả khẳng định rằng: Trong thực tiễn giáo dục, các bậc cha mẹ được nghiên

cứu sử dụng cả 3 loại phong cách giáo dục: dân chủ, độc đoán và tự do. Có sự

khác biệt về kiểu phong cách giáo dục giữa các bậc cha mẹ trong những gia

đình khác nhau, giữa cha mẹ trong cùng một gia đình. Các gia đình cha mẹ có

phong cách giáo dục trùng nhau chiếm tỉ lệ thấp. Phong cách giáo dục chiếm

ưu thế nhất là phong cách giáo dục dân chủ, kế đến là phong cách giáo dục

độc đoán và chiếm tỉ lệ thấp nhất là phong cách giáo dục tự do. Các yếu tố

nghề nghiệp, trình độ học vấn, độ tuổi cũng có ảnh hưởng đến phong cách

13

giáo dục của cha mẹ. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó không thật rõ rệt. Không có

phong cách nào hoàn toàn chiếm ưu thế trong một nhóm nghề nghiệp, độ tuổi

hay trình độ học vấn của cha mẹ [20].

Cũng trong thời gian này, tác giả Trần Thị Bích Trà (2012) đã thực hiện

công trình nghiên cứu với tiêu đề “Thực trạng giáo dục gia đình đối với trẻ

mầm non” [30]. Tác giả đã đề cập tới những vấn đề nổi bật là nhiều phụ

huynh chưa nhận thức hết được vai trò giáo dục của cha mẹ đối với trẻ mầm

non và những khó khăn của cha mẹ trong giáo dục trẻ tại gia đình. Tuy nhiên,

công trình nghiên cứu này chỉ tìm hiểu thực trạng giáo dục nên chưa đi sâu

xem xét phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ mầm non cũng như ảnh

hưởng của nó tới sự phát triển tâm lí của trẻ.

Tóm lại, việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước

cho phép chúng tôi ghi nhận sự đa dạng, phong phú của các nghiên cứu về

giáo dục gia đình nói chung cũng như phong cách giáo dục của cha mẹ nói

riêng. Hầu hết, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc nhấn mạnh thực

trạng cũng như tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với sự phát triển của

trẻ. Trong phạm vi hiểu biết của chúng tôi, khía cạnh các phong cách giáo dục

của cha mẹ đối với trẻ mầm non dường như vẫn chưa thu hút được nhiều sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đây chính là một trong những lý do thúc

đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này.

1.2. Một số vấn đề lý luận về phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ

từ 3 đến 6 tuổi

1.2.1. Lý luận về phong cách giáo dục của cha mẹ

1.2.1.1. Khái niệm phong cách

a. Định nghĩa

Trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2000) phong cách được

hiểu như sau:

14

- Là vẻ riêng trong lối sống, cách làm việc của 1 người hay 1 kiểu

loại người nào đó: chẳng hạn như phong cách sống, phong cách

lãnh đạo...

- Phiên dạng của ngôn ngữ có những đặc điểm trong việc lựa chọn, kết

hợp và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ liên quan đến nhiệm vụ

giao tiếp:

- Toàn bộ các thủ pháp sử dụng ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhà văn,

tác phẩm, thể loại.

- Việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc, sắc thái tu

từ, biểu cảm: chẳng hạn như phong cách trang trọng...[28].

Theo Vũ Dũng phong cách là toàn bộ những nét riêng biệt tạo nên đặc

trưng của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc trong hành vi, ứng xử và ngôn ngữ của

họ [3].

Bên cạnh cách hiểu về phong cách của Hoàng Phê, Vũ Dũng thì các Nhà

Tâm lí học Liên Xô cũ (E.A.Klimov, A.Cubanova …) cho rằng: “Phong cách

là hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp nhận phản ứng, hành động,

tương đối bền vững, ổn định của mỗi cá nhân. Chúng quy định sự khác biệt

giữa các cá nhân, giúp cá nhân thích nghi với môi trường sống (đặc biệt môi

trường xã hội) thay đổi để tồn tại và phát triển [dẫn theo 21].

Đồng thuận với quan điểm này, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cũng cho

rằng: phong cách là hệ thống những nguyên tắc, phương pháp, cách thức biểu

hiện và đặc thù của một người hay một nhóm người được thể hiện trong hoạt

động cơ bản của họ [35].

Như vậy, nhìn chung, phong cách có thể được hiểu là:

- Hệ thống các phương pháp, thủ thuật…quy định những đặc điểm

riêng biệt giữa cá nhân với cá nhân.

15

- Hệ thống những phương tiện có hiệu quả, giúp cá nhân thích nghi với

những thay đổi môi trường (nhất là môi trường xã hội), là sự linh hoạt, cơ động,

mềm dẻo của các phương pháp, thủ thuật ứng xử mà mỗi cá nhân sử dụng.

- Hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng, hành

động tương đối ổn định, bền vững của cá nhân.

Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi quan niệm rằng: phong cách là hệ

thống những nguyên tắc, phương pháp, cách thức biểu hiện tương đối ổn định

của mỗi cá nhân tạo thành sắc thái riêng trong hoạt động cơ bản của họ.

b. Đặc điểm của phong cách

Theo tác giả Ngô Công Hoàn [14], phong cách có 2 đặc điểm như sau:

Một là, tính tương đối ổn định được biểu hiện ở hai nội dung dưới đây:

Thứ nhất là cấu tạo cơ thể, hình thể, bao gồm: cấu tạo và chức năng

hoạt động của các bộ phận cơ thể, các bộ vị trên nét mặt và chức năng hoạt

động của chúng...Ví dụ cá nhân có dáng, người cao, thanh mảnh, đi đứng nhẹ

nhàng, phản ứng hành vi nhẹ nhàng, nhanh chóng...Ngược lại, cá nhân có cấu

tạo béo mập, đi đứng chậm chạp, phản ứng chậm, nói năng ấp úng...

Thứ hai là phần ổn định một số chức năng hoạt động cá nhân có thể

không liên quan gì đến cấu tạo cơ thể. Ví dụ, hành vi ngôn ngữ cá nhân

được thể hiện lưu loát, khúc chiết, rõ ràng hoặc ngược lại, không chịu sự

chi phối bởi cấu tạo cơ thể. Hoặc cách đi, đứng tiếp nhận thông tin và phản

ứng, nhanh, chậm các cá nhân ít chịu sự chi phối của cấu tạo cơ thể. Phần

ổn định này có thể kiểu hình thần kinh hoặc do thói quen tạo ra...Phần ổn

định này ở các cá nhân khác nhau, không giống nhau, từ đó làm nền tảng

vững chắc cho phong cách.

Hai là tính linh hoạt, cơ động: Phần này được biểu hiện ra bên ngoài rất

sống động, linh hoạt, tạo ra các sắc thái khác biệt hấp dẫn ở mỗi cá nhân.

Phần linh hoạt cũng có hai phần:

16

Thứ nhất là, sự linh hoạt, cơ động phụ thuộc vào lứa tuổi, nghề nghiệp,

giới tính, tình trạng sức khỏe...Ví dụ: Sự đi lại của mỗi cá nhân chịu sự chi

phối của lứa tuổi, tuổi trẻ nhanh nhẹn hơn tuổi già vẫn con người đó. Vẫn con

người đó nếu từ nghề lái xe chuyển sang kinh doanh, các phản ứng sẽ khác

nhau. Tình trạng sức khỏe tốt, trong lúc đang hưng phấn người ta có thể quyết

định hành động nhanh, chính xác, khi vẫn con người đó đang buồn chán, bệnh

tật người ta sẽ do dự, thậm chí từ chối hành động.

Thứ hai là, các thao tác, hành vi cá nhân chịu sự chi phối bởi các đối

tượng, phương tiện và điều kiện hoạt động...Chúng ta đều nhận biết rằng đối

tượng hoạt động của cá nhân thường xuyên thay đổi. Ví dụ: thầy giáo đi dạy

học bài dạy hôm nay khác bài hôm qua...Phương tiện phục vụ cho hoạt động

cũng khác (hôm nay thầy dạy có Micro hỗ trợ, hôm qua có máy chiếu...).

Điều kiện hoạt động cũng thay đổi liên tục... Từ những yếu tố, đối tượng,

phương tiện và điều kiện phân tích trên làm thay đổi các cách thể hiện thao

tác hành vi cá nhân, cách biểu đạt cảm xúc, tình cảm cá nhân.

Như vậy, phần linh hoạt, cơ động của phong cách mà các cá nhân thể

hiện trong hoạt động của mình chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, có những

yếu tố chậm thay đổi như lứa tuổi, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe. Nhưng

có nhiều yếu tố tác động rất nhanh, thay đổi nhanh, đôi khi làm cho hành

động cá nhân mang tính bột phát, ngẫu hứng...Tuy nhiên, ngay cả trong

trường hợp thiếu các thông tin, dữ liệu để hành động thì các cá nhân hành

động bột phát và ngẫu hứng cũng khác nhau. Ví dụ: có người thận trọng, có

người kèm theo các lời nói hoặc cử chỉ hài hước... Vì vậy, chỉ riêng phong

cách ngôn ngữ nói chúng ta cũng nhận thấy có các phong cách: phong cách

ngôn ngữ nói giàu chất trí tuệ; phong cách ngôn ngữ khoa học; phong cách

ngôn ngữ nói giàu hình tượng...

Sự phối hợp hai thành phần của phong cách rất cơ động, tùy thuộc

vào đối tượng, điều kiện và phương tiện hoạt động. Tuy nhiên, nhìn toàn

17

thể phong cách cá nhân chịu sự chi phối rất lớn của những định hướng

nhận thức cá nhân, vốn sống kinh nghiệm cá nhân, đặc biệt là những thói

quen, hành vi cá nhân. Trong những ảnh hưởng đến phong cách cá nhân thì

thói quen hành vi và vốn sống kinh nghiệm cá nhân chi phối mạnh nhất vào

sự khác biệt cá nhân về phong cách. Qua phong cách cá nhân, ta cũng có

thể dự liệu được phần nào vốn sống kinh nghiệm cá nhân và thói quen hành

vi của họ. Mỗi cá nhân sở hữu riêng cho mình một phong cách, phong cách

hoạt động góp phần tạo ra khác biệt cho cá nhân trong hoạt động. Đó cũng

là bản sắc cá nhân thể hiện qua hoạt động cá nhân, hoạt động xã hội, hoạt

động sinh tồn của mỗi con người.

1.2.1.2. Khái niệm giáo dục

a. Định nghĩa

Theo Vũ Dũng: Giáo dục là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm

truyền lại cho thế hệ mới những kinh nghiệm mà các thế hệ trước đó đã tích

lũy được, hình thành nhân cách của con người theo những yêu cầu của xã hội,

chuẩn bị cho họ có kiến thức, tâm thế tham gia vào cuộc sống xã hội và hoạt

động lao động sản xuất.

Giáo dục được xem là quá trình tích cực có sự tác động qua lại giữa nhà

giáo dục và người được giáo dục. Các chuyên ngành Tâm lí học khác nhau

như Tâm lý học đại cương, Tâm lý học phát triển, Tâm lý học sư phạm, Tâm

lý học nhân cách… có đóng góp rất lớn cho sự nghiệp giáo dục. Những

chuyên ngành khoa học này nghiên cứu các quy luật phát triển tâm lí người,

quá trình phát triển nhân cách, quá trình cá nhân lĩnh hội tri thức, cung cấp

những cơ sở tâm lí nhằm xây dựng các phương pháp và điều kiện tối ưu đem

lại hiệu quả giáo dục” [3].

Cũng theo cách hiểu đó, tác giả Hồ Lê định nghĩa khái quát lại như sau:

“Giáo dục là dạy dỗ, rèn luyện” [19].

18

Đồng thuận với quan điểm của các tác giả trên, tác giả Phạm Thành

Nghị khẳng định: Mỗi một nền văn hóa cố gắng truyền lại cho thế hệ sau

những kiến thức, niềm tin, kỹ năng, hành vi và thái độ có giá trị nhất. Sự

truyền đạt có chủ ý đó được gọi là giáo dục.

Theo ông, giáo dục (nghĩa rộng) bao gồm cả quá trình dạy học, cung

cấp kiến thức, phát triển tư duy, phương pháp, phát triển trí tuệ của người học

và quá trình giáo dục hình thành nhân cách về các mặt xã hội, giá trị, đạo đức,

thẩm mỹ v.v.[25].

Nói một cách khác, giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình xã hội hóa

nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các

hoạt động được tổ chức hợp lý và các quan hệ giữa người giáo dục và

người được giáo dục, nhằm giúp mỗi cá nhân chiếm lĩnh những kinh

nghiệm xã hội – lịch sử của loài người, phát triển sức mạnh vật chất và tinh

thần của họ (thế hệ và từng cá nhân), trên cơ sở phù hợp với các yêu cầu

của sự phát triển xã hội [32].

Đồng thuận với cách hiểu của các tác giả trên, tác giả Hà Thị Mai cũng

khẳng định: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của giáo dục

là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài

người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn

hoá nhân loại và dân tộc được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội

loài người không ngừng tiến lên [23].

Xuất phát từ các quan điểm nêu trên, chúng tôi cho rằng: Giáo dục là

hoạt động có mục đích, có kế hoạch, tác động qua lại giữa con người với con

người nhằm trao đổi thông tin, lĩnh hội những tri thức, kinh nghiệm xã hội

lịch sử loài người đã tích lũy được để từ đó hình thành nhân cách con người

theo yêu cầu xã hội.

b. Tính chất của giáo dục:

Theo tác giả Hà Thị Mai [23], giáo dục có 5 tính chất sau đây:

19

- Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người. Giáo

dục xuất hiện, phát triển gắn bó cùng loài người. Ở đâu có con người, ở đó có

giáo dục – giáo dục mang tính phổ biến. Khi nào còn loài người lúc đó còn

giáo dục – giáo dục mang tính vĩnh hằng.

- Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của

xã hội loài người.

+ Về bản chất, giáo dục là sự truyền đạt và tiếp thu kinh nghiệm lịch

sử xã hội của các thế hệ loài người;

+ Về mục đích, giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước cho thế hệ sau;

+ Về phương thức, giáo dục là cơ hội giúp mỗi cá nhân đạt tới hạnh

phúc và là cơ sở đảm bảo cho sự kế thừa, tiếp nối và phát triển những thành

quả văn hóa của xã hội loài người.

- Giáo dục là một hiện tượng có tính lịch sử: Giáo dục ra đời theo nhu

cầu của lịch sử xã hội. Một mặt nó phản ánh trình độ phát triển của lịch sử, bị

qui định bởi trình độ phát triển của lịch sử. Mặt khác nó lại tác động tích cực

vào sự phát triển của lịch sử.

- Giáo dục có tính giai cấp: Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử

dụng như công cụ của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình

thông qua mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.

- Giáo dục có tính dân tộc: Mỗi quốc gia đều có một truyền thống lịch

sử, có nền văn hóa riêng, cho nên giáo dục ở mỗi nước cũng có những nét độc

đáo, những sắc thái đặc trưng. Tính dân tộc của giáo dục được thể hiện trong

mục đích, nội dung, phương pháp và sản phẩm giáo dục của mình.

1.2.1.3. Khái niệm phong cách giáo dục của cha mẹ

a. Định nghĩa

Trong tiếng Anh phong cách giáo dục của cha mẹ được hiểu là

“Parenting Style”. Đây là cụm từ gồm 2 từ “Parenting” có nghĩa là việc giáo

20

dục con của cha mẹ và “Style” là phong cách, cách thức thực hiện một công

việc nào đó của mỗi cá nhân, mang nét đặc trưng riêng của cá nhân đó.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở phong cách giáo dục của cha mẹ

là một cấu trúc tâm lý thể hiện các cách thức đặc trưng của cha mẹ sử dụng

trong việc giáo dục con cái của mình [60].

Với cách hiểu cụ thể về phong cách giáo dục của cha mẹ, tác giả

Trương Thị Khánh Hà có quan điểm như sau: Giáo dục của cha mẹ là tập hợp

các hành động đặc thù, diễn ra đồng thời hay riêng lẻ, nhằm tác động một

cách có mục đích lên sự phát triển nhân cách của trẻ. Phong cách giáo dục của

cha mẹ là một cấu trúc tâm lý thể hiện các chiến lược mà cha mẹ thường sử

dụng trong việc nuôi dạy con cái [8].

Kế thừa và phát huy kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, tác giả

Vũ Thị Khánh Linh cho rằng phong cách giáo dục của cha mẹ là hệ thống thái

độ, hành động tương đối ổn định được cha mẹ sử dụng trong quá trình giáo

dục con, trở thành sắc thái riêng của mỗi bậc cha mẹ và được các con cảm

nhận và tiếp nhận hệ thống hành động đó [21].

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hoàn toàn đồng thuận

với quan điểm của các tác giả ở trên. Theo đó, chúng tôi quan niệm rằng:

Phong cách giáo dục của cha mẹ là hệ thống các nguyên tắc, phương pháp,

cách thức, biểu hiện tương đối ổn định mà cha mẹ sử dụng nhằm giáo dục

con theo cách riêng của mỗi người.

b. Phân loại phong cách giáo dục của cha mẹ

Như trong phần tổng quan các công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã

trình bày ở trên, có thể nói, có rất nhiều cách phân loại phong cách giáo dục con

của cha mẹ. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đồng thuận với

cách phân loại các phong cách giáo dục của Baumrind. Theo đó, chúng tôi cho

rằng phong cách giáo dục của cha mẹ được thể hiện cụ thể như sau:

21

+Phong cách giáo dục dân chủ: Cha mẹ có phong cách giáo dục dân

chủ thường thể hiện nhiều sự ấm áp và nồng nhiệt với trẻ, đưa ra những luật lệ

phù hợp với lứa tuổi của trẻ và sẵn sàng thảo luận những luật lệ đưa ra mặc dù

cha mẹ sẽ là người quyết định cho thảo luận đó. Những luật lệ và những

mong đợi mà cha mẹ đưa ra đối với con rất rõ ràng.

+ Phong cách giáo dục độc đoán: Ngược lại với phong cách cha mẹ dân

chủ, cha mẹ độc đoán luôn cố gắng kiểm soát, kể cả kiểm soát hành vi và cảm

xúc của trẻ; cha mẹ ít thể hiện tình cảm nồng ấm với trẻ. Cha mẹ thuộc kiểu

phong cách này thường rất quyết đoán, thích nắm quyền, nghiêm khắc có

phần cứng nhắc, hà khắc, thiếu linh hoạt. Khi trẻ làm gì sai hoặc thất bại thì

cha mẹ sẽ trừng phạt trẻ thậm chí là dùng những hình phạt về thể chất (đánh

đập trẻ). Cha mẹ độc đoán không giải thích lý do đằng sau những luật lệ họ

đưa ra và yêu cầu tre phải tuân thủ nghiêm ngặt.

+ Phong cách giáo dục tự do (dễ dãi): được mô tả bởi sự nồng ấm cao

của cha mẹ nhưng với sự kiểm soát thấp. Ở bất cứ khía cạnh nào thì cha mẹ

cũng chỉ can thiệp khi con gặp rắc rối hoặc đi chệch hướng và có rất ít những

kỷ luật dành cho trẻ. Với việc thiếu cấu trúc và thiếu kiểm soát không có

nghĩa là cha mẹ không chăm sóc hoặc bỏ mặc con cái nhưng vì cha mẹ tin

rằng trẻ sẽ phát triển và trưởng thành tốt nhất khi chúng được độc lập và học

qua cách trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống.

Đây chính là 3 kiểu phong cách giáo dục mà đề tài dựa vào để triển

khai cho phần nghiên cứu thực tiễn ở chương 3.

1.2.2. Lý luận về trẻ mẫu giáo

1.2.2.1. Định nghĩa

Theo Vũ Thị Nho, trẻ em lứa tuổi mầm non thuộc giai đoạn 3 – 6 tuổi với

hoạt động chủ đạo là trò chơi đóng vai. Nhờ các trò chơi này mà trẻ mô phỏng

lại trong trò chơi những mối quan hệ giữa con người với con người. Nhờ đó mà

trẻ dần dần phát triển nhân cách với tư cách là một thành viên của xã hội [26].

22

Trong giáo trình “Sự phát triển tâm lý trẻ em lứa tuổi mầm non” tác giả

Nguyễn Ánh Tuyết đã dựa vào lí luận của D.B.Encônin, để phân định lứa tuổi

của trẻ em theo hoạt động chủ đạo. Theo đó, trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi được gọi là

tuổi mẫu giáo với hoạt động chủ đạo là vui chơi mà trò chơi đóng vai theo chủ

đề là trung tâm. Tuổi mẫu giáo là giai đoạn phát triển mạnh mẽ với tốc độ hết

sức nhanh chóng mà sau này khó có thể tìm thấy ở bất cứ một giai đoạn phát

triển nào. Đó là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách với các

chức năng tâm lí đang được biến đổi về chất so với trước đây: từ những hoạt

động định hướng bên ngoài chuyển thành những hoạt động định hướng bên

trong; nhiều chức năng tâm lí bậc cao được hình thành và phát triển mạnh; tính

chủ định trong hoạt động tâm lí biểu hiện rõ nét…Nhưng nổi bật hơn cả là tính

dễ xúc cảm, tính đồng cảm và tính hình tượng trong hoạt động tâm lí [33].

Trong từ điển Tâm lý học, Vũ Dũng lại cho rằng lứa tuổi tiền học

đường là lứa tuổi từ 3 – 6, 7 tuổi. Hoạt động đặc trưng của lứa tuổi này là hoạt

động vui chơi. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành nhân cách của trẻ.

Giai đoạn này có thể chia thành các thời kỳ sau: Lứa tuổi tiền học đường nhỏ

3 – 4 tuổi; Lứa tuổi tiền học đường nhỡ 4 – 5 tuổi và lứa tuổi tiền học đường

lớn 5 – 7 tuổi [3].

Tóm lại, quan niệm về trẻ mẫu giáo chưa thực sự thống nhất về độ tuổi

giữa các nhà tâm lý học trẻ em. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu của

đề tài này, chúng tôi đồng thuận với quan điểm cho rằng: trẻ mẫu giáo là trẻ

còn nhỏ, có độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi.

1.2.2.2. Đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ từ 3 đến 6 tuổi

Theo Vũ Thị Nho, ở trẻ từ 3 đến 6 tuổi đã xảy ra sự trưởng thành nhanh

chóng về hình thái cũng như não bộ: trọng lượng của não tăng nhanh chóng

(từ 1.100 gram lên 1.300 gram), bộ xương được cốt hóa, cơ to ra, cơ quan hô

23

hấp và tuần hoàn phát triển. Tốc độ hình thành những phản xạ có điều kiện

tăng nhanh, hệ thống tín hiệu thứ 2 phát triển mạnh.

Về mặt môi trường xã hội, mối liên hệ giữa trẻ em và người lớn mang

tính chất mới: hoạt động cùng nhau được thay thế bằng việc thực hiện những

nhiệm vụ độc lập theo chỉ dẫn của người lớn. Quan hệ giữa trẻ với bạn bè

cùng tuổi được hình thành, nhờ có ý thức về “cái tôi” ngày càng tăng và được

củng cố. Hoạt động với đồ vật ở tuổi vườn trẻ được thay thế bằng hoạt động

trò chơi mà quan trọng nhất là trò chơi phân vai theo chủ đề tạo nên những

thay đổi về chất trong sự phát triển tâm lý trẻ.

Bên cạnh trò chơi, hoạt động có sản phẩm cụ thể cũng đóng vai trò

không kém quan trọng trong sự hình thành, phát triển tâm lý ở lứa tuổi này.

Những hoạt động như vẽ, nặn, ghép hình, xây dựng… giúp đứa trẻ lĩnh hội

được phương thức hoạt động, lĩnh hội được trình tự hoạt động, tạo ra những

rung cảm thẩm mỹ, năng lực sáng tạo cũng như nhiều phẩm chất khác.

Lứa tuổi này sự tăng trưởng về thể chất, sự phong phú về đời sống xã

hội cũng như hoạt động giúp trẻ đạt được mức độ phát triển phong phú về

nhiều mặt. Đây là giai đoạn phát triển của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, tư

duy, ngôn ngữ mạnh mẽ.

Về mặt tư duy, trước hết phải kể đến bước phát triển lớn liên quan đến

việc chuyển từ tư duy hành động định hướng bên ngoài thành những hành

động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Kiểu tư duy bằng tay (trực

quan - hành động) của thời kỳ ấu nhi đang chuyển dần sang kiểu tư duy trực

quan – hình tượng. Nó phát triển mạnh mẽ trong suốt tuổi mẫu giáo. Cùng với

nó ở trẻ hình thành tư duy mang tính suy luận, dựa trên những biểu tượng cụ

thể về thế giới khách quan.

Bước vào 5-6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh, đạt chất

lượng cao cả về mặt phát âm, vốn từ và những hình thức ngữ pháp. Ở giai

24

đoạn này đã manh nha phát triển loại tư duy “tiền khái niệm” (Piaget gọi là

“tiền thao tác”) sẽ chiếm vị trí quan trọng ở giai đoạn sau.

Thêm vào đó, quá trình tưởng tượng phát triển rất mạnh ở lứa tuổi này

thể hiện trong các trò chơi phân vai theo chủ đề. Tuy nhiên hình ảnh tưởng

tượng của trẻ còn nghèo, còn mang nặng màu sắc xúc cảm chưa thoát khỏi ý

muốn chủ quan.

Ở tuổi này “cái tôi” của trẻ đã hình thành và dần dần trở thành ý thức

về bản thân. Trẻ một mặt ngày càng tách mình ra khỏi người lớn, mặt khác

muốn bắt chước để xử sự như người lớn. Trong hoạt động chơi, nhất là chơi

đóng vai theo chủ đề, trẻ dần dần phát triển tính tự lực, tự do, chủ động. Nó

thiết lập được “một xã hội trẻ em” với bạn bè, thiết lập được mối quan hệ giữa

nó với người khác. Cũng trong sự phát triển đó, trẻ nhận ra giới của mình, vị

trí của mình trong gia đình, trong nhóm bạn… Vào cuối tuổi mẫu giáo, trẻ

nhận thức ra mình là một thành viên của xã hội. Đây là bước phát triển quan

trọng trong sự hình thành nhân cách trẻ.

Đặc điểm nổi bật về sự hình thành nhân cách ở lứa tuổi này là những

hệ thống thứ bậc động cơ hành vi ở trẻ em. Đầu tiên, ở trẻ xuất hiện những

động cơ, hành vi có liên quan đến ý thức bản ngã, đến sự hình thành “cái

tôi” với tư cách là một thành viên xã hội. Dần dần những động cơ này

chuyển thành động cơ tự khẳng định, tự ý thức thể hiện ở chỗ muốn làm

điều gì người lớn vui lòng, muốn được khen, muốn làm cái gì có ích cho

người khác (làm đồ chơi cho em bé, tặng quà cho mẹ…). Ở trẻ đã sớm hình

thành động cơ thứ bậc.

Trong khi chơi đóng vai, trẻ phải thực hiện theo những quy tắc, nhiệm

vụ nhất định, phải chơi “đúng luật” từ đó trẻ dần dần có ý thức nghĩa vụ và

tình cảm trách nhiệm được hình thành. Nhờ vui chơi, nhờ quan hệ với bè bạn,

với người lớn, ở trẻ hình thành và phát triển những phẩm chất nhân cách của

con người. Những quá trình hành động tự do không chủ định nhường chỗ cho

25

tính chủ định, tính có ý thức là đặc trưng cơ bản chuẩn bị cho trẻ bước sang

những hoạt động mới mang tính nghiêm túc, mang chất lượng mới là hoạt

động học tập ở giai đoạn sau.

Có thể nói rằng, với đặc điểm phát triển tâm – sinh lý như trên, trẻ mẫu

giáo đã hoàn toàn lĩnh hội được những yêu cầu về mặt giáo dục từ môi trường

xung quanh đối với trẻ. Khả năng chú ý có chủ định ở trẻ dần được củng cố

qua thời gian. Vì vậy, việc bố mẹ áp dụng các phong cách giáo dục phù hợp

với trẻ trong giai đoạn này sẽ có tác dụng không nhỏ đến sự hình thành và

phát triển nhân cách lành mạnh của trẻ về sau.

1.2.3. Phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại

trường Quốc tế Koala House

1.2.3.1. Định nghĩa

Xuất phát từ những gì chúng tôi đã trình bày ở trên, chúng tôi xác định

phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại trường Quốc tế

Koala House là: hệ thống các nguyên tắc, các phương pháp, cách thức hành

động độc đáo, riêng biệt, tương đối ổn định của cha mẹ phù hợp với trẻ ở độ tuổi

từ 3 đến 6 nhằm giúp trẻ lĩnh hội các mẫu hành vi trong cuộc sống.

1.2.3.2. Các tiêu chí phân loại phong cách giáo dục của cha mẹ

Dựa trên kết quả nghiên cứu của Baumrind [49, 50, 51] và Darling &

Steinberg [48] về các tiêu chí phân loại phong cách giáo dục, chúng tôi thấy

rằng các tác giả đều căn cứ vào 2 tiêu chí đó là: tính chất, mức độ kiểm soát /

yêu cầu hoặc sự giúp đỡ / đáp ứng của cha mẹ trong hành động giáo dục con

để phân loại PCGD. Những cha mẹ kiểm soát / yêu cầu cao đối với trẻ trong

khi đáp ứng / giúp đỡ thấp thuộc vào nhóm PCGD độc đoán. Ngược lại,

những cha mẹ kiểm soát / yêu cầu thấp đi đôi với đáp ứng / giúp đỡ thấp đối

với trẻ được chúng tôi xếp vào nhóm các cha mẹ có PCGD tự do. Nếu sự

26

kiểm soát / yêu cầu cân bằng với sự đáp ứng / giúp đỡ của cha mẹ đối với con

thì những bậc cha mẹ này thuộc nhóm PCGD dân chủ.

Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả của điều tra thử, trong phạm vi

nghiên cứu này chúng tôi tập trung tìm hiểu 3 kiểu phong cách giáo dục

của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại trường Quốc tế Koala House là

PCGD dân chủ, độc đoán và tự do. Ba kiểu PCGD này được thể hiện trên 2

bình diện liên quan đến việc rèn luyện nề nếp sinh hoạt, kết bạn của con và

rèn luyện ý thức kỷ luật, ứng xử của con với người lớn. Cụ thể các mặt

biểu hiện trong từng PCGD liên quan đến 2 bình diện này được thể hiện

như sau:

a. Phong cách giáo dục dân chủ

Trong ăn uống, cha mẹ luôn nhẹ nhàng nhắc nhở, hướng dẫn, động viên

con ăn ngủ theo giờ, đúng cách, đủ lượng và hợp vệ sinh theo quy định đã

được thống nhất từ trước của cả gia đình. Cha mẹ không chỉ thể hiện tình yêu

thương, chăm sóc con trong từng bữa ăn, giấc ngủ mà cha mẹ còn là người

“bạn” của con, cùng con chia sẻ và tham gia các hoạt động vui chơi với con.

Nếu con trẻ có sai phạm thì cha mẹ là người giải thích cho con hiểu và khích

lệ, động viên khi thấy con tiến bộ hơn.

Đối với việc kết bạn của con, cha mẹ tôn trọng lựa chọn của con và

luôn bên cạnh để giúp con hiểu thêm về những người bạn xung quanh, phân

biệt được những mặt tốt, mặt xấu ở bạn. Thông qua đó, xây dựng tình cảm

bạn bè trong sáng và thân thiện ở trẻ.

Song song với việc làm này, cha mẹ cũng rất quan tâm đến thái độ và

hành vi ứng xử của con với bạn bè cũng như với người lớn tuổi. Cha mẹ luôn

cố gắng giải thích và nhắc nhở, động viên con phải lễ phép chào hỏi người

lớn, biết nói lời cảm ơn khi được người lớn cho quà và giúp đỡ. Đặc biệt, khi

con nói tục, chửi bậy, cãi lại người lớn… cha mẹ luôn phê bình, nhắc nhở dứt

27

khoát để lần sau không tái phạm. Đồng thời, cha mẹ vẫn yêu cầu con phải xin

lỗi khi đã sai phạm.

Ở phong cách giáo dục dân chủ, cha mẹ chỉ là người định hướng, giúp

đỡ để con tự giải quyết khi có vấn đề chứ không làm thay cho các con. Cha

mẹ với con cái rất gần gũi, thân thiện, luôn có sự trao đổi và chia sẻ. Khi con

gặp khó khăn con có thể tâm tình, chia sẻ để cùng cha mẹ giải quyết. Tuy

nhiên, các con cũng hiểu rõ kỷ luật và chấp hành kỷ luật một cách tự nguyện,

tự giác khi được cha mẹ giải thích rõ ràng, cặn kẽ.

Cha mẹ có phong cách giáo dục dân chủ ý thức rõ vai trò trách nhiệm

của mình đối với những sai phạm của con. Đồng thời, họ cũng hiểu và đưa ra

những nhắc nhở nhẹ nhàng, giải thích dễ hiểu phù hợp với lứa tuổi khi thấy

con phạm lỗi và có hành động chống đối lại bố mẹ. Những cha mẹ có phong

cách giáo dục này, thường tạo ra ở trẻ sự vui vẻ, tự tin khi giao tiếp và hòa

đồng với mọi người.

b. Phong cách giáo dục độc đoán

Cha mẹ đòi hỏi sự vâng lời, tuân lệnh và phục tùng ở trẻ. Trong ăn, ngủ

cha mẹ thường nghiêm khắc bắt con luôn phải làm theo những chỉ định mà họ

đưa ra nếu không sẽ bị quát mắng / trừng phạt. Cha mẹ độc đoán ít khi để ý

đến thái độ và cảm giác của con.

Đối với việc kết bạn của con, cha mẹ thường là người chủ động tìm

hiểu bạn cho con, nếu thấy bạn không tốt thì nghiêm cấm ngay lập tức. Khi

con và bạn gây sự, đánh nhau…cha mẹ hay đánh, phạt con mà không hỏi rõ

con nguyên nhân vì sao.

Đặc biệt, trong cách ứng xử của con với người lớn, cha mẹ độc đoán

hay tỏ ra bực tức, khó chịu khi thấy con cư xử chưa đúng mực và nghiêm

khắc phê bình, trừng phạt con mà thường không có giải thích gì. Cụ thể, nếu

thấy con nói tục, chửi bậy, cãi lại người lớn, cha mẹ hay lớn tiếng quát /mắng,

có khi còn đánh con và bắt phải xin lỗi ngay để lần sau con không tái phạm.

28

Ở phong cách giáo dục này, cha mẹ là người quyết định mọi việc cho

con vì theo họ con vẫn còn nhỏ chưa biết gì. Tuy nhiên, họ thường yêu cầu rất

cao ở con nhưng lại không nhìn nhận vai trò, trách nhiệm của mình đối với sai

phạm của con mà bắt các con phải tự làm, tự chịu. Trong mối quan hệ với trẻ,

cha mẹ thường ít thể hiện sự nồng ấm, yêu thương nên quan hệ giữa họ và con

cái có phần xa cách. Các con thường cảm thấy sợ hãi khi chúng làm gì sai và

cũng ít tìm đến cha mẹ nếu có khó khăn. Vì vậy, trẻ có xu hướng trở nên nhút

nhát, e ngại, ít giao tiếp và hay phụ thuộc vào bố mẹ. Chúng luôn có ý thức

tuân theo quy định, luật lệ đã được cha mẹ đặt ra.

c. Phong cách giáo dục tự do

Cha mẹ có xu hướng nuông chiều, dễ dãi với con vì muốn con được sáng

tạo, con cần được động viên và khen ngợi nên cha mẹ rất ít khi đưa ra luật lệ

và bất kỳ sự trừng phạt nào đối với con. Hầu hết trong sinh hoạt của con, cha

mẹ luôn để tùy trẻ, không ép buộc. Nhiều khi cha mẹ cũng dễ chấp nhận và

ủng hộ, đáp ứng những nhu cầu của con như: cho con xem ti vi thoải mái, để

con ngủ thêm đi học muộn cũng được, để con tùy ý quyết định trong việc kết

bạn và chơi cùng bạn…

Đối với việc ứng xử của con với người lớn, cha mẹ chỉ nhắc nhở đại khái

nếu thấy con có sai phạm, cũng có khi cha mẹ để con tự do thể hiện vì cho

rằng chúng còn nhỏ, lớn lên con sẽ biết cách điều chỉnh hành vi cho phù hợp.

Vì vậy, khi trẻ có lỗi, con rất dễ dàng nhận lỗi vì không sợ bị bố mẹ trách

phạt. Những ông bố bà mẹ này cho rằng mình chỉ là người đứng quan sát con

còn quyền quyết định là ở con. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất thân

thiện, gắn bó. Cha mẹ có phong cách giáo dục này thường có xu hướng tạo ra

sự tự do, thoải mái trong mọi hoạt động ở trẻ.

1.2.4. Phong cách giáo dục của cha mẹ và sự phát triển tâm lý của trẻ

Phong cách giáo dục của cha mẹ có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát

triển của trẻ. Nghiên cứu của Baldwin, Kalhorn và Breese (1945), nhấn mạnh

29

rằng khi một đứa trẻ xuất thân từ gia đình dân chủ, đến tuổi đến trường, nó có

những tiến bộ xã hội đáng kể. Trẻ hòa đồng với mọi người và đó là một thủ

lĩnh vui vẻ; trẻ thân thiện và phóng khoáng; trẻ tự tin, thanh thản và ổn định

về mặt cảm xúc. Vì trẻ có mối quan hệ tốt với bố mẹ nên thích ứng rất nhanh

với các thầy cô giáo ở trường [dẫn theo 29].

Thomas Gordon cũng khẳng định: “Thái độ dân chủ của bố mẹ là yếu tố

thuận lợi cho sự phát triển trí tuệ. Qua nhiều năm, chỉ số thông minh của những

trẻ có bố mẹ độc đoán giảm đi. Trong khi đó, chỉ số thông minh của những trẻ có

bố mẹ dễ dãi gần như không thay đổi. Ngược lại, những trẻ có bố mẹ dân chủ, có

trí thông minh tăng lên theo thời gian. Cha mẹ dân chủ dạy dỗ con trong một bầu

không khí được xây dựng dựa trên sự tự do, yêu thương và kích thích trí tuệ. Vì

thế, ở trường con cái họ thường đạt được những điểm số cao hơn về khả năng

sáng tạo, tổ chức, tính kiên trì, sự ham hiểu biết và óc tưởng tượng. Chúng

thường giữ vị trí thủ lĩnh và tỏ ra trưởng thành về mặt tâm lý” [29].

Nghiên cứu của Erikson cho hay: nếu cha mẹ thường xuyên ngăn cấm

hoặc trừng phạt thì đứa trẻ sẽ mất lòng tin vào bản thân, trở nên sợ sệt, nhút

nhát và hay thất bại. Cảm giác thất bại có thể trở nên bền vững trong suốt

cuộc đời sau này của chúng. Còn nếu cha mẹ luôn khích lệ, ủng hộ trẻ thì dần

dần trẻ sẽ nắm vững các kỹ năng mới. Khi trẻ tự thực hiện được các hành

động cơ bản mà không cần có sự giúp đỡ của người lớn thì chúng cảm thấy tự

tin hơn [dẫn theo 9].

Trong nghiên cứu về tâm lý trẻ mẫu giáo, tác giả Trương Thị Khánh Hà

nhận thấy: “Ở giai đoạn lứa tuổi này, không phải trẻ nào cũng có đời sống

tình cảm diễn ra tốt đẹp. Giáo dục gia đình có vai trò đặc biệt đối với sự phát

triển cảm xúc ở trẻ. Một số nghiên cứu cho thấy có mối tương quan khá chặt

giữa ứng xử cảm xúc của cha mẹ và biểu hiện cảm xúc của con. Nếu cha mẹ

là những người ứng xử cảm xúc hợp lý, vui vẻ, tự tin thì con của họ cũng

30

thường tự tin, vui vẻ, ứng xử cảm xúc hợp lý hơn. Nếu cha mẹ là những người

dễ bị kích động, căng thẳng, hay dọa dẫm, đánh mắng trẻ thì đứa trẻ cũng hay

sợ hãi, hay rơi vào trạng thái căng thẳng hơn” [9].

Nghiên cứu gần đây của Vũ Thị Khánh Linh cũng khẳng định: Trong

những gia đình cha mẹ có phong cách giáo dục dân chủ thì con cái có tính

tích cực và chủ động giao tiếp cao. Nhưng lại kém tích cực trong những gia

đình cha hoặc mẹ có phong cách giáo dục độc đoán và càng kém tích cực hơn

trong những gia đình mà cả hai cha mẹ có kiểu phong cách giáo dục này [21].

Baumrind (Baumrind, 1972, 1975) và những nhà nghiên cứu sau này

đều cho thấy rằng những trẻ có cha mẹ quyền uy thường không cởi mở và có

tính nhút nhát, hầu như hoặc hoàn toàn không có ý muốn độc lập, chúng

thường cau có và dễ bực tức. Ở tuổi thiếu niên, nhất là con trai, thường có

những phản ứng gay gắt về những người xung quanh, có tính cấm đoán và

hay phạt mà ở đó chúng đã lớn lên, đôi khi chúng trở thành những đứa trẻ khó

bảo và có tính hay gây gổ. Còn với trẻ của những cha mẹ uy tín (dân chủ),

thường có khả năng thích ứng tốt hơn so với những trẻ khác. Chúng thường tự

tin, vui vẻ, có khả năng tự kiểm soát và có uy tín về mặt xã hội [dẫn theo 7].

Nghiên cứu điển hình nhất về mối tương quan giữa phong cách của

nhà giáo dục đối với các biểu hiện hung tính của trẻ do K.Lewin và các cộng

tác viên thực hiện đã chỉ ra rằng: Những đứa trẻ được giáo dục bằng phong

cách độc đoán thường có những biểu hiện hẫng hụt, gia tăng các ứng xử

hung tính. Trong bầu không khí này, hung tính hoặc mạnh hoặc gần như

không có gì (vô cảm) nếu ảnh hưởng trấn áp của nhà giáo dục có phong cách

độc đoán đủ mạnh. Những trẻ chịu ảnh hưởng của phong cách giáo dục tự

do, hung tính cũng cao, chúng cảm thấy hẫng hụt khi đón nhận những tác

động giáo dục có phần “tùy tiện” của những nhà giáo dục có phong cách tự

do. Biểu hiện hung tính ít xuất hiện nhất trong nhóm trẻ được đón nhận sự

31

giáo dục từ những nhà giáo dục có phong cách dân chủ. Hung tính được giải

tỏa đều đều và bầu không khí do phong cách giáo dục dân chủ tạo ra là có

hiệu quả nhất [dẫn theo 21].

Maccoby và Martin (1983), cũng nhận định: Kiểm soát, độc đoán hay

dễ dãi không giới hạn, đều không có lợi cho việc tự đánh giá bản thân của trẻ.

Hình ảnh bản thân của trẻ chỉ phát triển tích cực khi cha mẹ không áp đặt giới

hạn mà đưa ra yêu cầu của mình và định hướng bằng cách giao cho trẻ quyền

lựa chọn ở mức độ nhất định [dẫn theo 29].

Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác lại cho rằng những

đứa trẻ của những cha mẹ có tính quyết đoán thường thích ứng tốt hơn so

với những đứa trẻ khác. So với những đứa trẻ khác, những đứa trẻ này tự

tin hơn, hoàn toàn tự kiểm soát mình và có uy tín về mặt xã hội. Thời gian

trôi đi, sự tự đánh giá cao được phát huy ở những đứa trẻ này, còn ở trường

chúng học tập giỏi hơn so với những đứa trẻ được cha mẹ giáo dục với các

phong cách hành vi khác (Buri, Louiselle & Mueller, 1988; Dornbusch,

1987) [dẫn theo 7].

Tình hình rất bất lợi đối với những trẻ em mà cha mẹ có tính thờ ơ.

Đôi khi sự dung túng cũng kéo theo sự ghét bỏ công khai và thiếu sự nhiệt

tình, không gì có thể ngăn cản được đứa trẻ có những xung đột mang tính

hủy hoại nhất [7].

Như vậy, nhìn chung, phần lớn các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng

đa số trường hợp trẻ sống trong những gia đình cha mẹ dân chủ thì con cái

thường phát triển tình cảm tích cực đối với cha mẹ và người thân, phát triển

trí tuệ, ham hiểu biết, có năng lực học tập, có thái độ và hành vi vị tha. Trẻ có

khả năng thiết lập các quan hệ rộng rãi với người khác, phát triển khả năng tự

đánh giá bản thân, dễ dàng chấp nhận và tuân theo những quy tắc hành vi của

cha mẹ, cô giáo. Ngược lại, trẻ em trong những gia đình cha mẹ dễ dãi, tự do

có năng lực nhận thức và năng lực xã hội rất thấp [dẫn theo 21].

32

Tuy nhiên, ảnh hưởng của phong cách ứng xử của cha mẹ đối với con cái

cũng rất khác nhau ở những nền văn hóa khác nhau và chúng ta không thể nói

rằng một phong cách nào đó là tốt nhất (Darling & Steinberg, 1993). Hơn nữa,

các phương pháp mà cha mẹ có tính quyết đoán, truyền đạt các hành vi chuẩn

mực của mình có thể không giống nhau trong những nền văn hóa khác nhau [7].

Một số nhà nghiên cứu cũng nhận định rằng, phong cách giáo dục

quyền uy tuy không có tính ưu việt ở nhiều nước phương Tây nhưng lại có

tính ưu việt ở nền văn hóa châu Á. Phần lớn cha mẹ ở các quốc gia Âu, Mỹ

nhận thấy việc sử dụng phong cách giáo dục có tính quyền uy sẽ làm cho con

cảm thấy bị bó buộc, không kích thích và phát huy được khả năng sáng tạo

của trẻ. Song cha mẹ ở châu Á lại khẳng định việc giáo dục con nghiêm khắc

sẽ giúp trẻ có được những kết quả nhất định trong nhiều hoạt động. Trong đó

nổi bật là cha mẹ người Trung Quốc theo truyền thống là cha mẹ có tính

quyền uy và thực hiện kiểm soát một cách mạnh mẽ trong khi “quan điểm rèn

luyện” được cha mẹ sử dụng để giáo dục con đem lại những thành công lớn

có tính kinh điển cho con cái họ (Chao, 1994) [46]. Trẻ em ở những gia đình

độc đoán có thành tích học tập cao ở trường học và không bị mắc vào các vấn

đề hành vi nhưng lại nghèo về năng lực xã hội, tự trọng thấp và nguy cơ trầm

cảm cao hơn (Mimi Chang, 2007) [49].

Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy chưa có phong

cách giáo dục nào là hoàn toàn chiếm ưu thế vượt trội. Song, bên cạnh đó,

chúng tôi nhận thấy, từ kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và

trên thế giới thì phong cách giáo dục dân chủ được nhiều nhà nghiên cứu

đánh giá là có ảnh hưởng tích cực nhất đến sự phát triển tâm lý của trẻ.

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách giáo dục của cha mẹ

Các công trình nghiên cứu ở lĩnh vực giáo dục gia đình đã chỉ ra

rằng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng phong cách giáo dục của

33

cha mẹ. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ

đi sâu tìm hiểu một số yếu tố sau:

Yếu tố khách quan từ phía cha mẹ: Kết quả nghiên cứu của Vũ Thị

Khánh Linh cho thấy rằng, trình độ học vấn, nghề nghiệp và tuổi tác của các

bậc phụ huynh có ảnh hưởng nhất định đến việc tạo nên ở họ các phong cách

giáo dục khác nhau. Chính vì thế, sự phân bố tỉ lệ các kiểu phong cách giáo

dục trong các gia đình có trình độ văn hóa, nghề nghiệp và độ tuổi khác nhau

là khác nhau. Ba yếu tố này tạo nên nét riêng trong phong cách giáo dục của

cha mẹ. Chúng thường được bộc lộ thông qua quá trình giao tiếp giữa cha mẹ

với con cái và quá trình cha mẹ giáo dục các con [21].

Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu ở phương Tây cũng chỉ ra rằng

hoàn cảnh kinh tế - xã hội của gia đình cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới kiểu

PCGD của cha mẹ. Những bố mẹ có hoàn cảnh kinh tế - xã hội bấp bênh

thường có xu hướng thực hiện kiểu PCGD độc đoán / tự do (Lau tray, 1998;

Evans, 2004).

Yếu tố khách quan từ phía chính trẻ: Một điều dễ nhận thấy nhất là

các cha mẹ ở châu Á thường sử dụng PCGD khác nhau đối với trẻ trai và trẻ

gái. Dường như, họ có xu hướng hoặc nghiêm khắc hoặc buông lỏng đối với

trẻ trai và dân chủ hơn đối với trẻ gái. Tuy nhiên, một số công trình nghiên

cứu cũng cho thấy sự khác biệt trong PCGD này còn phụ thuộc vào các lĩnh

vực khác nhau trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong học tập của trẻ (dẫn

theo 22).

Bên cạnh đó, độ tuổi của trẻ cũng là yếu tố chi phối không nhỏ đến kiểu

PCGD của cha mẹ. Bởi lẽ, ở mỗi lứa tuổi, trẻ có những biểu hiện tâm – sinh

lý rất khác nhau. Việc cha mẹ duy trì một kiểu PCGD cứng nhắc, không thay

đổi theo thời gian có thể sẽ tạo ra những kết quả tích cực cho trẻ ở giai đoạn

này nhưng lại là tiêu cực ở giai đoạn khác.

34

Tiểu kết chƣơng1

Chương 1 đã hệ thống và khái quát toàn bộ các khái niệm công cụ làm

cơ sở lý luận cho đề tài. Quá trình nghiên cứu, chúng tôi dựa vào cách phân

loại về PCGD của Diana Baumrind làm nền tảng để xây dựng khung lý thuyết

cho luận văn. Khái niệm PCGD của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại

trường mầm non Quốc tế Koala House được hiểu là: hệ thống các nguyên tắc,

các phương pháp, cách thức hành động độc đáo, riêng biệt, tương đối ổn định

của cha mẹ phù hợp với trẻ ở độ tuổi từ 3 đến 6 nhằm giúp trẻ lĩnh hội các mẫu

hành vi trong cuộc sống.

Qua các nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy PCGD dân chủ mà cha mẹ sử

dụng để giáo dục con có nhiều ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển tâm lý

của trẻ. Bên cạnh đó, một số yếu tố như trình độ học vấn của cha mẹ, nghề

nghiệp, điều kiện kinh tế của gia đình, giới tính và độ tuổi của con...cũng ảnh

hưởng không nhỏ tới việc cha mẹ sử dụng phong cách giáo dục đối với con.

35

Chƣơng 2

TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu

2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Koala House là một trường mầm non tư thục ở Hà Nội có chất lượng cao

theo tiêu chuẩn của Mỹ. Trường được thành lập vào ngày 18 tháng 9 năm 2002.

Thời gian đầu, trường chỉ có 5 lớp mỗi lớp 8 cháu và 2 cô phụ trách. Đến nay,

trường đã có gần 50 lớp với khoảng hơn 500 cháu. Trong đó, trường đón nhận

dạy và chăm sóc cả trẻ Việt Nam và trẻ nước ngoài có độ tuổi từ 18 tháng đến 6

tuổi. Ở mỗi lớp có khoảng từ 8 đến 14 cháu với 2 giáo viên chính và một giáo

viên phụ. Khuôn viên trường rất rộng và sạch đẹp với khu vui chơi phong phú

cho các cháu ở mỗi độ tuổi khác nhau. Ngoài ra, bên trong trường còn có phòng

trưng bày tranh, tượng của chính các cháu. Phòng thư viện với nhiều sách truyện

và đồ vật mô phỏng cho các giờ học. Đặc biệt, ở mỗi lớp học đều có một phòng

học và phòng ăn riêng đảm bảo an toàn vệ sinh.

Chương trình giáo dục của trường Koala House được xây dựng dựa

trên chương trình Highscope của Mỹ, tích hợp với các ý tưởng của trường

phái Montessori, Reggio Emilia và chương trình khung của Bộ Giáo dục Việt

Nam, đảm bảo môi trường học tập hiệu quả cho trẻ. Tại trường học, trẻ không

chỉ học tiếng Việt mà còn được học thêm tiếng Anh do chính giáo viên người

Anh, Mỹ giảng dạy. Môi trường học ở đây, trẻ luôn được khích lệ để thể hiện

bản thân qua các phương thức khác nhau như: nghệ thuật, ngôn ngữ, âm nhạc,

vận động và trò chơi… Mỗi lớp học, giáo viên đều luôn chú trọng đến việc

nghiên cứu sâu về các chủ đề học tập. Qua các chủ đề đó, sẽ giúp trẻ nhận

thức về bản thân và thế giới xung quanh. Sự lựa chọn chủ đề dựa trên các mối

quan tâm, ý tưởng, sở thích của trẻ, đồng thời kết hợp với các nội dung giáo

36

dục theo yêu cầu của chương trình. Mỗi một chủ đề đều được các giáo viên

linh hoạt triển khai thông qua những hoạt động liên quan tới nhiều lĩnh vực

khác nhau như: toán, lịch sử, nghệ thuật, nấu ăn, giáo dục thể chất, tham quan

dã ngoại, khách mời…

Các cháu mới vào học ở trường thường được các cô đặc biệt quan tâm.

Những ngày đầu, gia đình có thể đưa trẻ đến lớp và cùng học với trẻ đến khi

nào cháu đã quen dần với cô giáo và các bạn thì gia đình có thể yên tâm cho

con ở lại học. Việc học của trẻ không chỉ bó buộc trong phòng mà có thể học

ngoài sân, học trong thư viện hay phòng triển lãm. Tất cả phụ thuộc vào nội

dung học của mỗi ngày.

Mỗi cháu ở đây đều có sổ theo dõi hàng ngày, cuối buổi học giáo viên

sẽ gửi lại sổ cho phụ huynh đón con để biết được tình hình học tập, sinh hoạt

của con ở lớp ra sao. Vì thế, cha mẹ và giáo viên đều có thể chia sẻ thông tin

để cùng nhau giúp trẻ tiến bộ.

Nhìn chung, các cháu ở đây đều tỏ ra rất tự tin, thông minh, hoạt bát và

có nhiều kỹ năng xã hội. Các cháu mạnh dạn tham gia biểu diễn văn nghệ và

các buổi nói chuyện với phóng viên. Khi được phỏng vấn các cháu trả lời khá

tự nhiên, không chút sợ hãi. Không chỉ hiểu và nói chuyện bằng tiếng Việt, số

không nhỏ trẻ có thể tự tin sử dụng tiếng Anh khi giao tiếp với người nước

ngoài. Khi hỏi chuyện trẻ thì gần như cháu nào cũng nói rất thích đi học ở

đây. Nếu không đi học trẻ sẽ thấy buồn vì nhớ bạn, nhớ lớp, nhớ trường.

2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng phong cách giáo dục của

240 phụ huynh có con từ 3 đến 6 tuổi tại trường Quốc tế Koala House. Trong

quá trình xử lý các thông tin thu được, có 48 phiếu trả lời không hợp lệ đã

được chúng tôi loại bỏ nhằm đảm bảo tính khách quan, khoa học của thông

tin thu được. Do đó, số lượng mẫu nghiên cứu còn lại là 192 phụ huynh (96

cặp cha mẹ). Đặc điểm của mẫu nghiên cứu được thể hiện ở bảng sau:

37

Bảng 2.1 Mẫu khách thể nghiên cứu theo nghề nghiệp và trình độ học vấn

Tiêu chí Nghề nghiệp Trình độ học vấn

Lao Kinh Giáo Cán Chính THPT CĐ, Sau

động doanh dục bộ, trị, ĐH ĐH Tổng Tổng

tự do pháp Khách Công

luật chức thể

SL 2 14 9 42 29 96 2 71 23 96 Cha % 2,0 14,6 9,4 43,8 30,2 100 2,0 74,0 24,0 100

SL 3 10 25 49 9 96 1 80 15 96 Mẹ % 3,1 10,4 26,0 51,0 9,4 100 1,0 83,3 15,6 100

SL 5 24 34 91 38 192 3 151 38 192 Tổng % 2,6 12,5 17,7 47,4 19,8 100 1,6 78,7 19,8 100

Bảng 2.2 Mẫu khách thể nghiên cứu theo giới tính, độ tuổi và số con

trong gia đình.

Tiêu Số con trong gia Giới tính Độ tuổi của con chí đình của con

Tổng Tổng Tổng

1con 2 con 3 con gái trai 3-4 4-5 5-6 Khách

thể

SL 40 55 1 96 47 49 96 42 31 23 96

% 41,7 57,3 1,0 100 49,0 51,0 100 43,8 32,2 24,0 100

38

2.2. Tổ chức nghiên cứu

2.2.1. Tổ chức nghiên cứu về mặt lý luận

Nhằm hệ thống hóa một số luận điểm cơ bản liên quan đến phong cách

giáo dục, phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ mầm non cũng như các

yếu tố ảnh hưởng tới phong cách này.

2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực tiễn

Nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng các phong cách giáo dục của cha

mẹ đối với trẻ từ 3 đến 6 tuổi tại trường mầm non Quốc tế Koala House.

Tiến trình nghiên cứu thực tiễn được thực hiện cụ thể như sau:

a) Bước 1: Thiết kế công cụ điều tra:

- Mục đích: Hình thành sơ bộ các nội dung của phiếu hỏi.

- Phương pháp: Lấy ý kiến chuyên gia, phương pháp nghiên cứu tài liệu

và phương pháp phỏng vấn.

- Cách thức tiến hành: Thăm dò bằng một số câu hỏi mở kết hợp với

các câu hỏi đóng lựa chọn phương án trả lời. Xin ý kiến trực tiếp các chuyên

gia Tâm lý học và phỏng vấn chính các bậc phụ huynh để hoàn thiện phiếu

hỏi. Nội dung sơ bộ của phiếu hỏi được cấu trúc thành 4 phần như sau:

+ Phong cách giáo dục của cha mẹ biểu hiện trong lối sống, nề nếp sinh

hoạt của con.

+ Phong cách giáo dục của cha mẹ đối với việc kết bạn của con.

+ Phong cách giáo dục của cha mẹ liên quan tới việc ứng xử của con

với người lớn.

+ Và mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ với sự phát

triển của con.

Đối với mỗi nội dung trên, chúng tôi đều xây dựng các câu hỏi nhằm tìm

hiểu phong cách giáo dục của cha mẹ ở cả 3 loại: Độc đoán, dân chủ và tự do.

b) Bước 2: Điều tra thử

39

- Mục đích: Đánh giá độ tin cậy của phiếu hỏi và hoàn thiện phiếu hỏi

để điều tra chính thức.

- Phương pháp: Phương pháp điều tra và phương pháp thống kê toán học.

- Cách thức tiến hành: Tiến hành điều tra thử 25 cặp cha mẹ có con từ 3

đến 6 tuổi tại trường Quốc tế Koala House.

Dữ liệu thu thập được xử lý bằng chương trình SPSS phiên bản 16.0.

Chúng tôi sử dụng kỹ thuật phân tích độ tin cậy thông qua hệ số Alpha của

Cronbach. Độ tin cậy của từng nội dung được coi là thấp nếu hệ số < 0,4. Độ

tin cậy của cả phiếu hỏi được coi là thấp nếu hệ số < 0,6. Kết quả kiểm định

độ tin cậy Alpha của phiếu hỏi được thực hiện dựa trên cơ sở của phép phân

tích nhân tố với phép xoay Varimax.

Cần lưu ý rằng phép phân tích nhân tố này chỉ cho phép chúng tôi thu

được 2 nhân tố tổng hợp về phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ (xem

phần phụ lục). Dựa trên nội dung của các câu hỏi trong từng nhân tố này cho

phép chúng tôi gọi tên được 2 phong cách giáo dục của cha mẹ liên quan đến

nề nếp sinh hoạt và việc kết bạn của con và phong cách giáo dục của cha mẹ

trong việc giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con. Như vậy, một

số câu hỏi không phù hợp đã được chúng tôi loại bỏ. Độ tin cậy của phiếu hỏi

cũng như của từng nội dung được thể hiện cụ thể trong bảng 2.3 dưới đây.

Bảng 2.3 Độ tin cậy của bảng hỏi về phong cách giáo dục của cha mẹ

Hệ số α Nội dung

PCGD của cha mẹ trong việc rèn luyện nề nếp sinh hoạt và việc 0.932

kết bạn của con

PCGD của cha mẹ trong việc giáo dục ý thức kỉ luật lao động 0.90

và ứng xử của con với người lớn

Phong cách giáo dục nói chung 0.954

40

Kết quả phân tích trên cho thấy các nội dung trong phiếu hỏi đảm bảo độ

tin cậy về mặt thống kê, cho phép sử dụng vào khảo sát chính thức của đề tài.

c) Bước 3: Điều tra chính thức

- Mục đích: Tìm hiểu thực trạng các phong cách giáo dục của cha mẹ

đối với trẻ và xác định các yếu tố ảnh hưởng.

- Phương pháp: Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi kết hợp

phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc nhằm thu thập thông tin cả về

mặt định lượng và định tính đối với vấn đề nghiên cứu.

- Cách thức tiến hành: Dựa vào kết quả khảo sát thử ở bước 2, chúng tôi

cấu trúc lại bảng hỏi để điều tra chính thức với nội dung cụ thể như sau:

+ Phong cách giáo dục của cha mẹ trong việc rèn luyện nề nếp sinh

hoạt (ăn, ngủ, chơi) và kết bạn của con gồm các câu c1, c2, c4, c5, c6,

c7, c8, c9, c13, c14, c15, c16.

+ Phong cách giáo dục của cha mẹ trong việc rèn luyện ý thức kỷ luật

lao động và ứng xử của con với người lớn gồm: c3, c10, c11, c12, c17,

c18, c19, c20, c21.

+ Mối liên hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ với sự phát triển

tâm lý của con gồm các câu: c22, c23, c24, c25, c26, c27.

Chúng tôi cũng tìm hiểu thêm một số thông tin của khách thể có liên

quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài như: Nghề nghiệp, trình độ học vấn,

thu nhập, độ tuổi, số con trong gia đình, giới tính của con…

c) Bước 4: Phân tích, xử lý kết quả thu được từ nghiên cứu thực tiễn.

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận cũng như các khái niệm công cụ cho

quá trình nghiên cứu của đề tài như: phong cách, giáo dục, phong cách giáo

dục của cha mẹ, trẻ mầm non, phong cách giáo dục của cha mẹ đối với trẻ

mầm non,…

41

Cách thức tiến hành:

Tìm đọc các tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tổng quan các tài liệu

liên quan tới vấn đề nghiên cứu, phân tích và rút ra kết luận về các công trình

nghiên cứu trước đây, qua đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

2.3.2. Phương pháp chuyên gia

Mục đích: Nhằm tham khảo ý kiến đóng góp của một số nhà Tâm lý

học về vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận, hoàn thiện công cụ

nghiên cứu và xử lý kết quả nghiên cứu.

Tiếp xúc và trao đổi với chuyên gia về phong cách giáo dục của cha mẹ

đối với con từ 3 đến 6 tuổi ở một số nội dung sau:

Phong cách giáo dục, phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3

đến 6 tuổi. Yếu tố ảnh hưởng đến phong cách giáo dục của cha mẹ…

2.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích: Thu thập thông tin mang tính định lượng về các kiểu PCGD

của cha mẹ cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới chúng.

Cách thức tiến hành:

Tiếp xúc, trao đổi và tạo mối quan hệ thân thiện giữa nhà nghiên cứu và

các bậc cha mẹ có con từ 3 đến 6 tuổi tại trường Quốc tế Koala House. Sau

đó, nhóm nghiên cứu gửi đến họ phiếu điều tra có kèm theo thư ngỏ và hướng

dẫn cụ thể khi trả lời phiếu.

Phiếu điều tra gồm 27 câu hỏi và phần thông tin cá nhân. Mẫu phiếu điều

tra dành cho bố và mẹ là như nhau, trong đó mẫu phiếu A dành cho bố, mẫu phiếu

B dành cho mẹ với mong muốn các bậc phụ huynh trả lời một cách độc lập.

Nội dung phiếu điều tra:

Tìm hiểu phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi

trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình cũng như mối liên hệ của các kiểu

PCGD này với sự phát triển tâm lý của trẻ; Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới

các PCGD này.

42

2.3.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

Mục đích: Thu thập thông tin mang tính định tính nhằm làm sáng tỏ

hơn các kết quả nghiên cứu định lượng thu được qua điều tra thực tiễn. Bên

cạnh đó, có thể khai thác sâu hơn một số vấn đề và khẳng định lại các kết quả

thu được từ các phương pháp khác.

Cách thức tiến hành:

- Tạo không khí thân mật, thoải mái và cởi mở giữa nhà nghiên cứu với

người được phỏng vấn.

- Khéo léo nêu ra các nội dung cần được phỏng vấn, đồng thời đặt ra

các câu hỏi bám sát những vấn đề, nội dung cần tìm hiểu. Các câu hỏi luôn

linh hoạt và phát triển theo diễn biến của cuộc trao đổi với khách thể.

- Phương pháp này được thực hiện trong quá trình nhà nghiên cứu đến

thăm gia đình của các cháu.

- Ghi lại chi tiết các thông tin cần thiết trong quá trình phỏng vấn.

Nội dung phỏng vấn:

- Tìm hiểu quan điểm của cha mẹ về việc giáo dục con cái.

- Sử dụng lại một số câu hỏi đã nêu ở phiếu trưng cầu ý kiến để phỏng vấn

nhằm tìm hiểu sâu hơn những thông tin định lượng thu được trong phiếu hỏi

điều tra thực tiễn.

- Tìm hiểu ảnh hưởng của PCGD của cha mẹ tới sự phát triển tâm lý

của trẻ.

- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng PCGD của cha mẹ.

2.3.5. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý

Mục đích: Xây dựng chân dung tâm lý điển hình nhằm làm sáng tỏ

hơn, sâu sắc hơn các kết quả đã thu được từ nghiên cứu thực tiễn.

Cách thức tiến hành:

Chúng tôi tiến hành lựa chọn 2 cặp cha mẹ đại diện có phong cách giáo

43

dục điển hình: một cặp cha mẹ có phong cách giáo dục dân chủ; một cặp cha

có phong cách giáo dục độc đoán, còn mẹ có phong cách giáo dục tự do. Trực

tiếp đến thăm gia đình và giáo viên để tìm hiểu thông tin về cha mẹ và trẻ.

Nội dung:

Tìm hiểu quan điểm về phong cách giáo dục của 2 cặp cha mẹ đối với

con từ 3 đến 6 tuổi.

Tìm hiểu mối quan hệ cha mẹ và con cái cũng như ảnh hưởng từ phong

cách giáo dục của cha mẹ đến sự phát triển của trẻ.

2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

Trong đề tài chúng tôi sử dụng chương trình SPSS phiên bản 16.0 để xử

lý và phân tích dữ liệu điều tra thu được. Chúng tôi chủ yếu sử dụng các phép

toán về thống kê mô tả và thống kê suy luận. Đối với thống kê mô tả chúng

tôi sử dụng các thuật toán sau:

- Điểm trung bình (mean): được dùng để tính điểm đạt được của từng ý

kiến và từng nhân tố cũng như từng phong cách giáo dục trong các lĩnh vực

giáo dục và phong cách giáo dục của bố mẹ nói chung.

- Phần trăm : được dùng để tính tần xuất sự phân bố của các giá trị.

- Độ lệch chuẩn để đánh giá mức độ phân tán hoặc thay đổi của điểm số

xung quanh giá trị trung bình:

Đối với phép thống kê suy luận chúng tôi sử dụng các thuật toán sau :

- So sánh giá trị trung bình, so sánh cặp để thấy có sự khác biệt hay

không giữa các biến. Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa về mặt thống kê khi

giá trị p < 0,05. Ngoài ra trong phép so sánh cặp, chúng tôi còn sử dụng

phương pháp so sánh chéo Crosstabs.

Phân tích tương quan nhị biến cũng được chúng tôi sử dụng để tìm hiểu

mối liên hệ giữa hai biến số. Mối liên hệ này được tính bằng hệ số tương quan

Pearson hoặc spearman, có giá trị từ -1 đến +1. Giá trị của r cho biết độ mạnh

44

và hướng của mối liên hệ: nếu giá trị + (r > 0) có nghĩa là giữa chúng có mối

liên hệ thuận và giá trị – (r < 0) thể hiện mối liên hệ nghịch, trong trường hợp

r = 0 thì hai biến số đó không có mối liên hệ.

Phân tích hồi qui tuyến tính đơn để xem xét mối quan hệ mang tính dự

báo giữa biến số phụ thuộc với biến số độc lập. Kết quả phân tích hồi quy cho

biết khi các biến độc lập thay đổi thì biến phụ thuộc thay đổi như thế nào.

Kiểm định Cronbach α nhằm tìm hiểu độ tin cậy của các mục được hỏi

trong phiếu hỏi. Cronbach α từ 0,6 đến cận 1 là có thể sử dụng được.

Cách tính điểm:

Trong quá trình thiết kế bảng hỏi, chúng tôi đã chia mỗi phương án trả

lời của từng câu hỏi tương ứng với từng phong cách giáo dục. Cụ thể:

Phương án trả lời a thuộc nhóm có phong cách giáo dục độc đoán được

quy đổi là 1 điểm.

Phương án trả lời b thuộc nhóm có phong cách giáo dục dân chủ được

quy đổi là 2 điểm

Phương án trả lời c thuộc nhóm có phong cách giáo dục tự do được quy đổi

là 3 điểm.

Cách đánh giá từng phong cách giáo dục biểu hiện dựa trên điểm trung

bình của các chỉ số thành phần. Kết quả xử lý được trình bày tại phụ lục.

Trên cơ sở kết quả đã xử lý, chúng tôi thu được 3 mức điểm số tương

ứng với 3 phong cách giáo dục dưới đây:

Điểm trung bình từ 1 đến 1,67 thuộc phong cách giáo dục độc đoán.

Điểm trung bình từ 1,68 đến 2,35 thuộc phong cách giáo dục dân chủ.

Điểm trung bình từ 2,36 đến 3 thuộc phong cách giáo dục tự do.

45

Tiểu kết chƣơng 2

Chương 2 đã khái quát toàn bộ tiến trình nghiên cứu và thực hiện luận

văn. Nghiên cứu đã kết hợp nhiều phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài

liệu, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu,

phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, phương pháp phân tích chân dung tâm lý,

phương pháp xử lý số liệu thống kê toán học bằng phần mềm SPSS 16.0.

Các kết quả thu được có độ tin cậy và giá trị về mặt khoa học. Kết quả

định lượng được khắc họa rõ hơn qua một số trường hợp phỏng vấn sâu. Điều

này là cơ sở để tiến hành nghiên cứu một cách khách quan và đảm bảo tính

khoa học của luận văn.

46

Chƣơng 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng phong cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6

tuổi tại trƣờng Quốc tế Koala House

3.1.1. Phong cách giáo dục của cha mẹ nói chung

Khi nghiên cứu về PCGD của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tại trường

Quốc tế Koala House, chúng tôi thu được kết quả thể hiện cụ thể ở biểu đồ

dưới đây:

PCGD của cha mẹ

10,9%

Độc đoán

28,6%

Dân chủ

Tự do

60,4%

Biểu đồ 3.1 Phong cách giáo dục của cha mẹ nói chung

Biểu đồ 3.1 cho thấy: trong tổng số 192 cha mẹ, số đông (116 người)

cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ (chiếm 60,4%), tiếp đến là PCGD độc đoán

55 người (chiếm 28,6%) và PCGD tự do chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (10,9%). Nói

một cách khác, cha mẹ thuộc nhóm khách thể nghiên cứu của đề tài có xu

hướng sử dụng PCGD dân chủ đối với con và số ít các bậc phụ huynh buông

lỏng kỷ cương để con phát triển một cách tự do. Tuy nhiên bên cạnh đó, dù

47

trẻ còn khá nhỏ nhưng cha mẹ vẫn sử dụng mệnh lệnh và uy quyền, thậm chí

có khi còn dùng biện pháp trừng phạt để giáo dục con em mình. Kết quả

nghiên cứu thu được cho thấy, phần lớn cha mẹ có phản ứng là “nhắc nhở nhẹ

nhàng, hướng dẫn con ăn đúng cách, hợp vệ sinh” khi con ăn bằng tay hay

làm rơi vãi thức ăn (chiếm 64,6%). Cùng với đó, số đông các cha mẹ “thường

động viên và khuyến khích con tham gia giúp bố mẹ làm việc nhà phù hợp

với lứa tuổi” chiếm 60,9%. Đối với việc kết bạn của con, cha mẹ cũng ý thức

được rằng nếu thấy con gây sự đánh nhau với bạn, thay vì bực tức, đánh cho

con một trận thì đại đa số (78,1%) các bố mẹ thuộc nhóm khách thể nghiên

cứu cho rằng cần “hỏi lý do và giải thích cho con rồi cùng con đi xin lỗi bạn”

đồng thời cũng có 78,6% các ông bố bà mẹ thấy rằng cần “giải thích cho con

thấy những điểm chưa tốt của bạn và hạn chế con chơi với bạn xấu”.

Đặc biệt đa phần cha mẹ có PCGD dân chủ thường giải thích cho con

thấy hành vi nói tục, chửi bậy… là không tốt và yêu cầu con lần sau không

được tái phạm, chiếm tỉ lệ khá cao (75%). Bên cạnh đó, cha mẹ dân chủ

cũng biết cách giải thích cho con hiểu việc làm chưa đúng của con khi ông,

bà, cô, bác cho quà nhưng con không nói cảm ơn (chiếm 61,5%). Dường

như, ở khía cạnh giáo dục nào cha mẹ cũng đều lựa chọn sử dụng PCGD

dân chủ với tỉ lệ khá cao (trên 50%). Điều này có thể cho chúng tôi ghi

nhận rằng cha mẹ thường “ưu tiên” sử dụng PCGD dân chủ đối với con

hơn hai PCGD còn lại.

Khi phỏng vấn sâu, chúng tôi xin lược trích một số ý kiến như sau.

Chị Đ.L (36 tuổi, Giáo viên) cho rằng: “Trong quá trình giáo dục con,

tôi luôn tôn trọng ý kiến của con và để con làm những việc chúng thích. Khi

con mắc lỗi tôi nhẹ nhàng chỉ bảo và thỏa thuận với cháu nếu nhiều lần vi

phạm không nghe lời bố mẹ thì con sẽ bị phạt. Làm như vậy cháu rất thoải

mái mà không dám mắc lỗi lần sau. Đôi khi hình phạt đưa ra chỉ để răn đe

con chứ không phải là hình thức kỉ luật cho trẻ thường xuyên.”

48

Anh Ng.C. Th (38 tuổi, Cán bộ) chia sẻ: “Đối với việc giáo dục con, vợ

chồng tôi luôn thống nhất ý kiến với nhau. Chúng tôi để con tự khẳng định và

làm những việc các con yêu thích tuy không áp đặt nhưng vẫn phải có sự đồng

tình và ủng hộ của bố mẹ. Chúng tôi rất ít khi mắng hay trừng phạt con một

cách khắt khe nhưng cũng không lơ là và để con vượt khỏi tầm kiểm soát của

mình. Có đôi khi khắt khe với bọn trẻ một chút còn tốt hơn là tự do thái quá”.

Đồng quan điểm với anh Ng.C.Th, chị T.Q (33 tuổi, Nội trợ) cũng

khẳng định: “Tôi luôn tôn trọng ý kiến của con song không vì thế mà nuông

chiều con thái quá để chúng vô tổ chức. Đôi khi mình phải cương quyết và

nghiêm khắc, tạo cho con thói quen ý thức kỷ luật trong gia đình. Có như vậy

trẻ mới không phát triển lệch lạc, a dua theo bạn bè xung quanh”

Đây cũng chính là quan điểm của chị Th.Tr (27 tuổi, Cán bộ): “Chúng

tôi rất coi trọng việc dạy con bằng tình yêu thương không kỉ luật. Song đôi lúc

vợ chồng tôi cũng vẫn phải nghiêm khắc với con vì sợ nếu trẻ luôn muốn làm

gì chúng muốn mà không theo quy định và thiếu sự kiểm soát của người lớn

thì sớm muộn trẻ cũng sẽ nhờn và khó dạy bảo”.

Hay: “Tôi nghĩ không nên lúc nào cũng nghiêm khắc với con trẻ quá.

Đôi khi phải để chúng tự do làm những gì chúng thích và nên để các con tự

khẳng định mình, bố mẹ chỉ đứng bên cạnh quan sát, cho ý kiến khi cần thiết

”(anh Tr.L 40 tuổi, Kinh doanh).

Đôi khi việc trừng phạt con lại là cách giúp trẻ có ý thức hơn, ngoan

hơn: “Tôi thấy không nên nuông chiều con quá. Đôi khi quát mắng hay phạt

đòn con sẽ làm cho trẻ biết nghe lời và ngoan hơn. Có như vậy trẻ mới trưởng

thành và vững vàng trong cuộc sống” – anh Ng. Th (38 tuổi, Thanh tra)

Như vậy, có thể nói kết quả phỏng vấn sâu một lần nữa đã khẳng định

số liệu định lượng mà chúng tôi thu được qua khảo sát thực tế. Theo đó, đa

phần cha mẹ trẻ thuộc nhóm khách thể nghiên cứu của đề tài có xu hướng sử

dụng PCGD dân chủ trong quá trình nuôi dạy trẻ.

49

Một câu hỏi đặt ra là liệu có sự khác biệt giữa PCGD của bố và của mẹ

nói chung cũng như của từng cặp bố mẹ nói riêng hay không? Phép kiểm định

T- test cho phép chúng tôi khẳng định rằng không tồn tại sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê giữa nhóm khách thể bố và nhóm khách thể mẹ trong việc sử

90

80

70

60

50

Độc đoán

Dân chủ

40

Tự do

30

20

10

0

PCGD của bố

PCGD của mẹ

dụng các kiểu phong cách giáo dục (t(190) = - 0,714, p > 0,05).

Biểu đồ 3.2 Phong cách giáo dục của bố và phong cách giáo dục của mẹ

Tuy nhiên kết quả ở biểu đồ 3.2 cũng cho phép chúng tôi ghi nhận rằng

dường như, người mẹ có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ cao hơn so với bố

(77,1% so với 43,8%). Trong khi đó, người bố dường như lại có xu hướng

thực hành PCGD độc đoán và PCGD tự do cao hơn nhiều so với mẹ. Chúng

tôi cho rằng kết quả này có thể lý giải được. Bởi thực tế cho thấy rằng đối với

trẻ mầm non thì mẹ vẫn là người gần gũi, gắn bó nhất đối với trẻ. Họ luôn dõi

theo con trong từng hành vi, hoạt động để kịp thời định hướng, uốn nắn cho

con. Và vì vậy, họ dễ dàng hòa đồng và chia sẻ với con. Nhưng với các ông

bố lại khác. Họ thường có xu hướng dùng uy quyền làm cha của mình để áp

50

đặt, dạy bảo con. Do vậy, đôi khi họ không biết con thích gì, cần gì. Họ gặp

khó khăn trong việc gần gũi và chia sẻ với con.

Ngược lại, số liệu thu được cho phép chúng tôi ghi nhận các cặp bố mẹ

thuộc nhóm khách thể nghiên cứu của đề tài dường như không có sự tương

đồng trong việc sử dụng các PCGD đối với con. Kết quả phân tích bảng chéo

trong bảng 3.1 sẽ làm sáng tỏ hơn nữa nhận định này của chúng tôi.

Bảng 3.1. Sự tương đồng trong PCGD của từng cặp bố mẹ

PCGD của mẹ

Độc đoán Dân chủ Tự do Tổng PCGD

của bố

Độc đoán 27 0 37 10

Dân chủ 6 4 42 32

Tự do 2 15 0 17

Tổng chung 96

Quan sát bảng 3.1, chúng tôi nhận thấy, số lượng cặp bố mẹ cùng sử

dụng PCGD dân chủ là 32 cặp (chiếm 33,3%), số lượng bố mẹ cùng sử

dụng PCGD độc đoán chỉ có 10 cặp (chiếm 10,4%), còn lại 57 cặp cha mẹ

không có cùng kiểu PCGD. Đặc biệt bảng 3.1 không cho phép chúng tôi

ghi nhận bất kỳ cặp bố mẹ nào cùng sử dụng PCGD tự do đối với trẻ. Có

lẽ, cả bố và mẹ đều ý thức rằng, dù trẻ còn nhỏ nhưng cha mẹ không thể lơ

là, làm ngơ trước mọi hoạt động của con. Chúng cần phải được uốn nắn,

kiểm tra, theo sát nhưng cũng không nên “gò” ép hay trừng phạt nghiêm

khắc quá đối với con trẻ.

51

Kết quả phỏng vấn sâu 5 cặp bố mẹ cũng cho thấy có tới 3 cặp bố mẹ

cùng sử dụng PCGD dân chủ đối với con, một cặp bố sử dụng PCGD độc

đoán, mẹ sử dụng PCGD dân chủ và 1 cặp bố sử dụng PCGD tự do còn mẹ sử

dụng PCGD dân chủ. Cụ thể:

Vợ chồng chị Thu.Tr (27 tuổi, Cán bộ) cho hay: “Chúng tôi luôn phải

thống nhất ý kiến khi dạy con nếu không con sẽ khó mà nghe theo. Bởi chúng

sẽ nghe bố hay nghe mẹ đây khi bố thế này mẹ thế kia. Mỗi lần chồng tôi nói

con, tôi luôn im lặng và theo dõi xem thái độ con thế nào để còn biết cách xử

lý lần sau…Và tôi cũng phải góp ý thêm với chồng về cách dạy con sao cho

hài hòa”.

Cũng quan điểm như vợ chồng chị Th.Tr, anh chị Ng.D (30 tuổi, Viên

chức) và Ng.Th (38 tuổi, Thanh tra) chia sẻ: “Các con tôi vẫn biết rằng nếu bị

bố mắng và phạt thì mẹ không thể can thiệp được. Vì thế chúng phải chấp

nhận hình phạt dù muốn hay không vì chẳng có ai để cầu cứu”.

Có thể thấy rằng, trong quá trình cha mẹ giáo dục con ở độ tuổi từ 3

đến 6, đa phần cha mẹ có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ, kế đến là PCGD

độc đoán và số rất ít lựa chọn PCGD tự do. Không tồn tại sự khác biệt trong

PCGD của cha và mẹ nói chung nhưng ở từng cặp cha mẹ lại không có sự

tương đồng trong việc sử dụng PCGD đối với con.

3.1.2. Phong cách giáo dục của cha mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình

Dựa trên kết quả phân tích nhân tố đã trình bày ở chương 2, chúng tôi

thu được PCGD của cha mẹ đối với con được thể hiện trên 2 bình diện chính

là PCGD trong rèn luyện nề nếp sinh hoạt và việc kết bạn của con, và PCGD

của bố mẹ trong rèn luyện ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con với

người lớn. Số liệu cụ thể được trình bày trong bảng 3.2 dưới đây:

52

Bảng 3.2 PCGD của cha mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình

Kiểu PCGD Độc đoán Dân chủ Tự do Tổng

PCGD trong SL % SL % SL % SL % từng lĩnh vực giáo dục

53 27,6 116 23 12,0 192 100 60,4 PCGD của cha mẹ trong rèn luyện nề nếp sinh hoạt và việc kết bạn của con

72 37,5 103 17 8,9 192 100 53,6

PCGD của cha mẹ trong rèn luyện ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con với người lớn

Kết quả của bảng 3.2 cho thấy dù là trong việc rèn luyện nề nếp sinh

hoạt và kết bạn của con hay trong rèn luyện ý thức kỷ luật lao động và ứng xử

của con với người lớn thì phần lớn cha mẹ đều có xu hướng sử dụng PCGD

dân chủ đối với con, tiếp đến là PCGD độc đoán và sau cùng là PCGD tự do.

Xét một cách cụ thể, cha mẹ có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ trong giáo

dục nề nếp sinh hoạt liên quan đến ăn, ngủ, vui chơi và việc kết bạn của con

cao hơn trong giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con (60,4% so

với 53,6%). Tỉ lệ sử dụng PCGD tự do của cha mẹ ở khía cạnh giáo dục nề

nếp sinh hoạt và kết bạn của con cũng cao hơn so với việc giáo dục ý thức kỷ

luật lao động và ứng xử (12,0% so với 8,9%).

Nói một cách khác, khi giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử cho

con dường như cha mẹ có xu hướng nghiêm khắc độc đoán hơn trong giáo

dục nề nếp sinh hoạt và kết bạn của trẻ (37,5% so với 27,6%). Phải chăng cha

mẹ nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện ý thức kỷ luật lao động

và ứng xử cho con từ nhỏ song họ lại đang lúng túng chưa biết nên giáo dục

53

con theo cách nào, vô hình chung họ buộc phải nghiêm khắc với con ngay từ

khi còn nhỏ với hi vọng sẽ đưa các con vào trong khuôn khổ mà họ nghĩ là tốt

cho con. Điều này càng được thể hiện rõ trong kết quả nghiên cứu định tính

mà chúng tôi thu được khi tiến hành phỏng vấn sâu 5 cặp cha mẹ. Cụ thể:

Anh Ng.C. Th (38 tuổi, Cán bộ) chia sẻ: “Trong ăn, uống, sinh hoạt

hay vui chơi, tôi để con tự do phát triển, để chúng được thể hiện mình. Nhưng

đối với việc thực hiện kỷ luật và ứng xử của con với người lớn, chúng tôi

phải nghiêm khắc và sát sao hơn nếu lơ là thì chúng sẽ vô tổ chức ngay lập

tức. Đặc biệt là việc ứng xử của trẻ với người lớn, tôi luôn phải dùng mệnh

lệnh cho con bắt chúng phải làm theo nguyên tắc tôi đã đề ra. Nói chung, nhẹ

nhàng con khó mà thực hiện ngay. Không biết như vậy là tốt hay xấu nhưng

trước giờ cha ông ta vẫn có câu: yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,

nên chúng tôi cũng theo đó mà làm”.

Không chỉ có anh Th mà anh Ng.B (37 tuổi, Kỹ sư) cũng có cùng quan

điểm, anh tâm sự: “Thường ngày việc ăn, ngủ, chơi …của con, chúng tôi tạo

không khí rất thoải mái, vui vẻ nhưng trong ứng xử của con với người lớn hơn

chúng tôi luôn nghiêm khắc nhắc nhở khi con sai phạm, nếu tái phạm sẽ bị

trừng phạt để lần sau còn nhớ. Tôi thiết nghĩ cứ nhẹ nhàng quá thì con cái dễ

hư hơn là mình nghiêm khắc”.

Không chỉ các ông bố mà các bà mẹ cũng đồng quan điểm như vậy. Chị

T.Q (33 tuổi, Nội trợ) bộc bạch: “Trong ăn uống, vui chơi của con, tôi và

chồng hay để con tự ăn, tự chơi không ép buộc. Nhưng việc con vô lễ, thiếu ý

thức khi được chỉ dạy mà không nghe lời thì chúng tôi phải nghiêm khắc uốn

nắn. Có như vậy trẻ mới lễ phép và sớm có trách nhiệm trong cuộc sống”.

Chị Ng.H (37 tuổi, Cán bộ) đồng thuận: “Tôi luôn tâm niệm một điều là

không cần trừng phạt hay la mắng mà con vẫn biết nghe lời. Song không vì

vậy mà tôi buông lỏng chuyện kỷ luật đối với con. Tôi luôn bám sát và thường

xuyên động viên, nhắc nhở con khi giao tiếp với người lớn đồng thời giải

thích cho con hiểu để con có ý thức tham gia lao động phù hợp với lứa tuổi”.

54

Điều này một lần nữa được Chị Ng.D (30 tuổi, Viên chức) khẳng định:

“…Việc ăn, ngủ sinh hoạt, tôi có thể để con thoải mái một chút nhưng khi con

có thái độ không ngoan với người lớn hơn thì tôi không thể làm ngơ, vì như

vậy trẻ sẽ được đà lấn tới những việc khác. Mình cần phải nghiêm khắc nhắc

nhở và uốn nắn trẻ ngay từ nhỏ, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển

tính cách của con sau này”.

Chồng chị Ng.D, anh Ng.Th (38 tuổi, Thanh tra) cũng cho hay: “Với tôi

dù ở khía cạnh nào thì cũng cần phải nghiêm khắc với con. Tuy nói tuổi của

con còn nhỏ nhưng bọn trẻ rất biết và hiểu nhiều hơn chúng ta tưởng. Vì vậy,

cần phải uốn nắn con vào khuôn phép ngay khi chúng còn nhỏ nếu không lớn

lên sẽ khó bảo. Ngày xưa mình cũng thế thì ngày nay mình phải rút kinh

nghiệm từ bản thân để dạy con tốt hơn thế hệ trước đã làm với mình”.

Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy rằng PCGD của cha mẹ trong 2

lĩnh vực này có sự tương đồng rất chặt chẽ với nhau (r = 0,725; p <

0,001). Nói cách khác, không phải cha mẹ nghiêm khắc với con ở lĩnh vực

này mà lại hoàn toàn buông lỏng con ở lĩnh vực khác. Ngược lại, họ có xu

hướng thực hành kiểu PCGD tương đồng ở các lĩnh vực khác nhau trong

cuộc sống của trẻ.

Vậy ở từng lĩnh vực giáo dục này, cha và mẹ có sự khác biệt trong việc sử

dụng PCGD đối với trẻ hay không? Kết quả kiểm định T- test cho thấy rằng:

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa PCGD của cha và PCGD của

mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục (p > 0,05).

55

80

70

60

50

40

30

Độc đoán

20

Dân chủ

10

0

PCGD của bố trong giáo dục nề nếp, sinh hoạt

PCGD của mẹ trong giáo dục nề nếp, sinh hoạt

PCGD của bố trong giáo dục ý thức kỷ luật và ứng xử

PCGD của mẹ trong giáo dục ý thức kỷ luật và ứng xử

Tự do

Biểu đồ 3.3 Phong cách giáo dục của bố và phong cách giáo dục của mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình.

Quan sát biểu đồ 3.3 chúng tôi thấy: Ở lĩnh vực giáo dục liên quan đến

rèn luyện nề nếp sinh hoạt (ăn, ngủ, vui chơi) và kết bạn của con, cả bố và mẹ

đều có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ đối với trẻ cao hơn hẳn so với 2 kiểu

PCGD còn lại. Bên cạnh đó, PCGD độc đoán và tự do cũng được bố lựa chọn

cao hơn so với mẹ.

Ở lĩnh vực giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con với

người lớn, nếu như đa số các bậc phụ huynh là mẹ trẻ có xu hướng sử dụng

PCGD dân chủ (68,8%) thì ngược lại chúng tôi ghi nhận được đa số các bậc

phụ huynh là bố trẻ có xu hướng sử dụng phong cách độc đoán (44,8%). Tỉ lệ

bố và mẹ sử dụng PCGD tự do ở lĩnh vực này là rất thấp (16,7% và 1%).

Nhìn chung, đối với việc giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử

của con với người lớn, người bố dường như có xu hướng độc đoán hơn so với

việc giáo dục nề nếp sinh hoạt và kết bạn của con. Trong khi đó, người mẹ

biểu hiện xu hướng dân chủ với con trong mọi lĩnh vực của giáo dục gia đình.

Nói một cách khác, bố sử dụng PCGD độc đoán, tự do cao hơn mẹ và

do vậy cũng ít dân chủ hơn so với mẹ. Có lẽ vì thế mà thực tế cho thấy trẻ

56

hay gần gũi và chia sẻ với mẹ hơn là với bố. Phải chăng chính sự cứng

nhắc và nghiêm khắc quá của bố cũng gây cho trẻ cảm giác sợ hãi, bất an

mỗi khi ở gần?

Tóm lại, trong quá trình giáo dục con ở độ tuổi từ 3 đến 6, chúng tôi

nhận thấy rằng với từng lĩnh vực giáo dục, cha mẹ có xu hướng dân chủ hơn

trong giáo dục nề nếp sinh hoạt và kết bạn của con. Ngược lại, họ có xu hướng

nghiêm khắc hơn trong giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con với

người lớn.

3.1.3. Mối liên hệ giữa PCGD của cha mẹ và tự đánh giá của cha mẹ về vai

trò của họ trong giáo dục trẻ

Với luận điểm cho rằng PCGD mà cha mẹ sử dụng chịu sự chi phối

không nhỏ đối với sự tự đánh giá của họ về vai trò, trách nhiệm của cha mẹ

trong quá trình nuôi dạy trẻ, chúng tôi đã tiến hành kiểm định mối liên hệ

giữa hai biến số này đối với nhóm khách thể nghiên cứu của đề tài. Kết quả

cho phép chúng tôi khẳng định mối liên hệ rất chặt chẽ giữa PCGD của cha

mẹ và sự nhìn nhận của họ về vai trò, trách nhiệm của bố mẹ trong giáo

dục con trẻ ở độ tuổi từ 3 đến 6 (r = 0,66). Số liệu cụ thể được thể hiện trong

bảng 3.3 sau đây:

Bảng 3.3 Phong cách giáo dục của cha mẹ và nhận định về vai trò của

họ trong giáo dục trẻ

Vai trò của bố mẹ trong giáo dục con ở độ tuổi từ 3 đến 6 Tổng

PCGD

Bố mẹ là người quyết định cho con vì chúng còn nhỏ Bố mẹ là người định hướng giúp đỡ chứ không làm thay con Bố mẹ chỉ là người quan sát nên để con cái tự giải quyết

SL 37 15 3 55

Độc đoán % 27,3 5,5 100 67,3

57

SL 15 94 7 116

Dân chủ % 12,9 6,0 100 81,0

SL 0 1 20 21

Tự do % 0 4,8 100 95,2

SL 52 110 30 192

Tổng % 27,1 57,3 15,6 100

Nhìn vào bảng số liệu 3.3, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng trong số

những cha mẹ có PCGD độc đoán có tới 67,3% cha mẹ cho rằng “bố mẹ là

người quyết định cho con”. Theo đó, họ ít chấp nhận việc bố mẹ chỉ là người

quan sát, để con cái tự giải quyết mọi chuyện (chiếm 5,5%). “Tôi thiết nghĩ,

khi con cái còn nhỏ, nhiều việc chúng chưa hiểu hết được nên bố mẹ phải là

người quyết định cho con. Có như vậy mới tránh được nhưng sai phạm đáng

tiếc” - Anh Ng.Th (38 tuổi, Thanh tra).

Tương tự, có tới 81% cha mẹ lựa chọn PCGD dân chủ nhận định rằng họ

chỉ là “người định hướng, giúp đỡ” chứ không làm thay các con.“ …Mình là

cha mẹ thật nhưng không vì thế mà quyết định thay con. Nếu chúng còn nhỏ, bố

mẹ phải giải thích, giúp đỡ con trong các vấn đề. Cũng không nên để con tự

mình giải quyết” – chị Th.Tr (27 tuổi, Cán bộ) cho biết.

Đặc biệt, có tới 95,2% tổng số cha mẹ sử dụng PCGD tự do tin tưởng rằng

“bố mẹ chỉ là người quan sát nên để con cái tự giải quyết”, không có bất kỳ cha

mẹ nào thuộc nhóm khách thể này đồng thuận “bố mẹ là người quyết định cho

con”. Chúng tôi xin trích dẫn chia sẻ của anh Tr. L (40 tuổi, Kinh doanh): “…

Cứ nghĩ con còn nhỏ nhưng thực tế chúng rất hiểu chuyện nên tôi nghĩ phải để

con tự giải quyết vấn đề của mình thì bố mẹ mới biết con cái sẽ trưởng thành

như thế nào. Cũng thông qua đó con sẽ tự biết khẳng định mình”.

58

Vậy là khi bố mẹ độc đoán trong giáo dục thì số đông cho rằng mình là

người có quyền quyết định thay con. Còn bố mẹ dân chủ với con nhận thấy mình

và con có thể trao đổi, chia sẻ mọi vấn đề nên cha mẹ không phải là người quyết

định mà chỉ định hướng, giúp đỡ cho trẻ. Với bố mẹ tự do thì hoàn toàn ngược

lại, họ rất tin tưởng vào con, để con thoải mái mà không ép buộc trẻ theo quy

định nên bố mẹ luôn để con tự quyết định những vấn đề của chúng.

Vậy, dù cha mẹ là người quyết định, định hướng giúp đỡ hay để trẻ tự giải

quyết mọi việc thì khi trẻ phạm lỗi, theo cha mẹ trách nhiệm này thuộc về ai?

Kết quả nghiên cứu thu được cho thấy tồn tại mối quan hệ tương đối

chặt chẽ giữa PCGD của cha mẹ và sự nhìn nhận của họ về trách nhiệm

của các bên khi trẻ có lỗi (r = 0,595).

Bảng 3.4 PCGD và nhận định của cha mẹ về trách nhiệm của các bên liên

quan khi trẻ có lỗi

Khi con có lỗi trách nhiệm thuộc về

PCGD Tổng

Các con phải tự chịu trách nhiệm Cả cha mẹ và con cái cần có trách nhiệm Trách nhiệm chính thuộc về cha mẹ

55 6 31 18 SL

Độc đoán 100 10,9 32,7 % 56,4

116 8 6 102 SL

Dân chủ 100 6,9 5,2 % 87,9

21 18 0 3 SL

Tự do 100 0 14,3 % 85,7

192 32 37 123 SL

Tổng 100 16,7 19,3 64,1 %

59

Có thể thấy rằng, hơn một nửa số cha mẹ sử dụng PCGD độc đoán

khẳng định trẻ phải tự chịu trách nhiệm khi có lỗi (chiếm 56,4%) và chỉ

10,9% cho rằng trách nhiệm chính thuộc về cha mẹ. Trong khi đó, đa số

những cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ đều cho rằng khi trẻ phạm lỗi thì cả

cha mẹ và con cái đều có trách nhiệm (chiếm 87,9%). Rất ít cha mẹ cho rằng

các con phải tự chịu trách nhiệm (chiếm 5,2%) hoặc trách nhiệm chỉ thuộc về

cha mẹ (chiếm 6,9%).

Ngược lại, với PCGD độc đoán và dân chủ, chúng tôi ghi nhận có tới

85,7% cha mẹ có PCGD tự do cho rằng khi trẻ mắc lỗi, trách nhiệm chính

thuộc về cha mẹ (chiếm 85.7%). Đặc biệt không có một ai trong số họ cho

rằng con cái phải là người chịu trách nhiệm. Phải chăng, ở đây các cha mẹ sử

dụng PCGD tự do cho rằng con cái có lỗi là do họ đã “dễ dãi, buông lỏng”

con và do vậy, chính họ chứ không ai khác là người phải chịu trách nhiệm cho

sự buông lỏng này?

3.2. Mối liên hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và sự phát triển

tâm lý của trẻ

Phong cách giáo dục của cha mẹ và thái độ nhận lỗi của trẻ khi

mắc sai phạm

Quan sát trong thực tế chúng tôi thấy rằng bên cạnh một số trẻ rất dễ

dàng thừa nhận lỗi với cha mẹ thì cũng có không ít trẻ lại rất lo lắng, thậm chí

là sợ hãi khi bố mẹ biết mình có lỗi. Trẻ sợ bị trách phạt và do đó có thể dẫn

đến nói dối bố mẹ về những điều mà trẻ đã làm. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi phần nào đã khẳng định quan sát thực tế này. Nói một cách khác,

thái độ nhận lỗi của trẻ với bố mẹ có mối liên hệ chặt chẽ với PCGD mà họ sử

dụng (r = 0,568). Cụ thể:

60

Bảng 3.5 PCGD của cha mẹ và thái độ nhận lỗi của trẻ khi mắc sai phạm

Khi con có lỗi thái độ nhận lỗi của

con với anh chị là

PCGD Tổng Bình thường Rất dễ dàng Rất khó khăn và lo sợ

42 11 2 55 SL

Độc đoán 20,0 3,6 100 % 76,4

36 66 14 116 SL

Dân chủ 31,0 12,1 100 % 56,9

0 4 17 21 SL

Tự do 0 19,0 100 % 81,0

78 81 33 192 SL

40,6 42,2 17,2 100 %

Tổng

Dễ dàng nhận thấy ở bảng 3.5 rằng có tới 76,4% trẻ không dám nhận

lỗi với cha mẹ khi họ sử dụng PCGD độc đoán. Số trẻ dễ dàng nhận lỗi khi có

bố mẹ sử dụng PCGD này chỉ chiếm 3,6%. Đồng thời với việc lo sợ khi mắc

lỗi, khi con gặp khó khăn trẻ cũng ít chia sẻ với cha mẹ. Về mặt lý thuyết,

chúng tôi cho rằng điều có thể lý giải được bởi ở lứa tuổi mầm non, tâm lý trẻ

vẫn chưa ổn định, tự đánh giá của trẻ chủ yếu vẫn dựa vào sự đánh giá của

những người xung quanh. Vì thế, khi bị trách mắng, bị phạt hay thậm chí bị

đánh đòn, trẻ sẽ rất hoang mang, lo lắng. Anh Ng.Th (38 tuổi, Thanh tra) chia

sẻ: “Mỗi lần làm hỏng đồ chơi hay mắc lỗi gì đó, nhìn thấy tôi cháu rất sợ.

Có lẽ do tôi hay phạt con nên khi làm sai con không bao giờ tự nói ra phải

đến khi mẹ cháu thông báo thì tôi mới biết”.

Đối lập với PCGD độc đoán, khi cha mẹ lựa chọn PCGD tự do có tới

81% trẻ tự nhận lỗi với cha mẹ một cách rất dễ dàng. Đặc biệt, theo sự nhìn

nhận của cha mẹ thì không có bất kỳ trẻ nào có cha mẹ sử dụng PCGD này tỏ

61

ra lo sợ và khó khăn khi nhận lỗi với họ. Chia sẻ của anh Tr.L (40 tuổi, Kinh

doanh) cho thấy: “Khi các con có lỗi tôi chưa bao giờ lớn tiếng hay trừng

phạt chúng. Bởi bản thân mình còn nhiều lỗi thì trẻ nhỏ tránh sao được. Và

khi con có lỗi, chúng thường nhận lỗi dễ dàng với bố vì chúng không sợ bị

trách phạt gì hết. Điều này đúng với cả chúng ta trong cuộc sống”.

Trong khi đó với PCGD dân chủ của bố mẹ, chúng tôi nhận thấy hơn

một nửa cha mẹ cho rằng trẻ dễ dàng nhận lỗi với họ khi mắc sai phạm. Tuy

nhiên, con số trẻ lo lắng và sợ hãi khi nhận lỗi lên tới 31%. Chúng tôi cho

rằng kết quả này phần nào phản ánh được sự “trung lập” của PCGD này so

với hai PCGD còn lại.

Cùng với thái độ nhận lỗi của con khi mắc sai phạm, chúng tôi cũng

tiến hành tìm hiểu thêm về việc chia sẻ khó khăn của con với cha mẹ? Kết quả

nghiên cứu cho chúng tôi ghi nhận PCGD của cha mẹ và việc chia sẻ khó

khăn của trẻ với họ có mối liên hệ chặt chẽ (r = 0,547). Cụ thể:

Bảng 3.6 PCGD của cha mẹ và việc chia sẻ khó khăn của trẻ với họ

Mỗi lần con gặp khó khăn con thường Tổng

PCGD Không dám nói với cha mẹ Tự mình giải quyết

Mạnh dạn chia sẻ để cha mẹ giúp đỡ

SL 40 12 3 55

Độc đoán % 21,8 5,5 100 72,7

Dân chủ SL 26 84 6 116

% 22,4 5,2 100 72,4

Tự do SL 1 7 13 21

% 4,8 33,3 100 61,9

Tổng SL 67 103 22 192

% 34,9 53,6 11,5 100

62

Kết quả nghiên cứu trong bảng 3.6, cho chúng tôi thấy rằng việc cha

mẹ nghiêm khắc, hay trừng phạt con sẽ có nguy cơ tạo khoảng cách ngày

càng lớn giữa cha mẹ và con cái. Nếu cha mẹ nghiêm khắc, độc đoán đối

với con, khi mắc lỗi trẻ lo sợ sẽ bị phạt và khi gặp phải vấn đề khó khăn,

phần nhiều trẻ không dám chia sẻ với cha mẹ (chiếm 72,7%). Số trẻ mạnh

dạn chia sẻ với cha mẹ các khó khăn để cha mẹ giúp đỡ không nhiều (chỉ

chiếm 21,8%).

Một số ý kiến phỏng vấn sâu sau đây sẽ minh chứng rõ hơn cho điều

này: “Có nhiều lần tôi thấy con mãi không lắp được bộ xếp hình nhưng khi

thấy tôi cháu cũng chẳng nói gì vội vàng đi chỗ khác…Khi tôi gọi lại hỏi thì

cháu lí nhí nói không rõ vấn đề cần được giải quyết” (anh Ng.Th, 38 tuổi,

Thanh tra). Hay: “Chồng tôi nghiêm khắc với con quá nên có chuyện gì các

con cũng chờ tôi về mới dám nói ra. Các cháu sợ bố và ít khi chia sẻ thông tin

gì với bố. Điều này tôi cũng góp ý với chồng rồi song cũng chưa được cải

thiện nhiều” (chị Ng.D, 30 tuổi, Viên chức).

Đáng lưu ý là, trong số những cha mẹ lựa chọn sử dụng PCGD dân chủ

thì con cái mạnh dạn chia sẻ khó khăn với cha mẹ chiếm đến 72,4%, chỉ một

số rất ít trẻ tự mình giải quyết vấn đề (5,2%). Với bố mẹ dân chủ, con cái

được quyền đưa ra ý kiến và được chấp nhận nếu bố mẹ thấy phù hợp. Vì thế,

trẻ có thể hào hứng, phấn khởi khi biết rằng bố mẹ luôn bên cạnh và sẵn sàng

giúp đỡ chúng khi gặp khó khăn. Trẻ không hoang mang, lo sợ bị bố mẹ trách

phạt. Do đó, chúng dễ dàng chia sẻ để mong nhận được sự giúp đỡ từ cha mẹ.

Chị Th.Tr (27 tuổi, Cán bộ) cho chúng tôi biết: “Con trai tôi vừa nghịch lại

còn bướng nên rất khó bảo. Thế nhưng ở tuổi lên 4, lên 5 cháu vẫn còn hồn

nhiên ngây thơ lắm. Mỗi khi đi học về tôi thường hỏi xem hôm nay ở lớp con

thế nào thì cháu kể hết. Nào là bạn lấy đồ chơi của con rồi con lấy lại thì bị

63

bạn đánh và con đánh lại bạn. Nào là con không thích ăn cà rốt…mẹ bảo cô

đừng cho con ăn nữa…Trong hoàn cảnh đó tôi lại phải làm mặt nghiêm để

vừa dạy con vừa giải thích cho con hiểu”.

Chị Đ.L (36 tuổi, Giáo viên) cũng nhận thấy: “Tôi luôn đặt mình vào vị

trí của con làm bạn với con, cùng nhau giải quyết mọi vấn đề. Các con

thường gọi tôi là người bạn lớn còn tôi gọi các con là người bạn nhỏ và

chúng tôi luôn luôn lắng nghe, luôn luôn chia sẻ khi gặp phải khó khăn. Tuy

gần gũi thân mật nhưng tôi vẫn đặt ra một số nguyên tắc để các con không

tùy tiện và tự do quá”.

Trường hợp cha mẹ sử dụng PCGD tự do, các con không dám nói với

cha mẹ chỉ có 4,8% còn đa phần con vẫn tự mình giải quyết vấn đề khi có rắc

rối (chiếm 61,9%).

Việc cha mẹ và con cái gần gũi có ảnh hưởng trực tiếp đến từng hoạt

động trong cuộc sống của trẻ. Nếu cha mẹ hay la mắng và quá khắt khe với

các con sẽ gây tâm lý căng thẳng, sợ hãi khi con mắc lỗi. Cùng với đó, mỗi

khi có khó khăn hay gặp rắc rối, trẻ sẽ có xu hướng lảng tránh cha mẹ và tự

mình giải quyết khó khăn gặp phải. Điều đó dẫn đến kết quả là cha mẹ không

hiểu được con và cũng không nắm rõ những vấn đề con đang trải qua.

Tương tự, chúng tôi cũng ghi nhận mối liên hệ có ý nghĩa thống kê

giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và sự tự tin của trẻ (r = 0,24). Cụ thể:

64

Bảng 3.7 PCGD của cha mẹ và sự tự tin ở trẻ

Anh chị nhận thấy con mình biểu hiện là đứa trẻ

Nhút nhát, ngại Thoải mái tự PCGD giao tiếp và hay Tự tin, vui Ý kiến do trong mọi phụ thuộc vào vẻ, hòa đồng khác hoạt động bố mẹ

SL 23 15 12 5 Độc

đoán % 16,1 26,7 45,5 53,5

SL 19 74 17 6 Dân

chủ % 44,2 37,8 54,5 79,6

SL 1 4 16 0 Tự do % 2,3 4,3 0 35,6

SL 43 93 45 11 Tổng % 100 100 100 100

Quan sát bảng 3.7 cho thấy: Trong số 43 trẻ được cha mẹ nhận định là

nhút nhát, ngại giao tiếp và hay phụ thuộc vào bố mẹ, có tới hơn một nửa

(53,5%) số trẻ này có cha mẹ thuộc PCGD độc đoán. Chị Ng.D (30 tuổi, Viên

chức), có chồng thuộc PCGD độc đoán cho hay: “Con nhà tôi hơi nhút nhát

và hay e ngại. Đi đến đâu, làm gì cũng phải mẹ. Nhiều lúc tôi muốn cho con

tham gia các chương trình sinh hoạt hè nhưng cháu cứ nói sợ nên tôi thôi”

Ngược lại, trong số 93 trẻ được đánh giá là tự tin, vui vẻ hòa đồng thì

phần lớn trẻ có cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ (chiếm 79,6%), số còn lại

thuộc PCGD độc đoán và tự do. Kết quả nghiên cứu định tính cũng phần nào

65

khẳng định thêm điều này. Trong số 10 cha mẹ được phỏng vấn thì có 6 cha

mẹ thuộc phong cách giáo dục dân chủ nhận định con mình là đứa trẻ tự tin,

vui vẻ “khi tham gia trò chuyện cũng như nhiều hoạt động khác ở ngoài,

cháu gần như không bỏ lỡ những dịp biểu diễn văn nghệ nào. Ở nhà, con luôn

là tâm điểm chú ý cho mọi người”. Bên cạnh đó, anh Ng. B (35 tuổi, PCGD

dân chủ), cũng nhận xét: “Con trai tôi thì hoạt bát và tinh nghịch lắm nhưng

cháu cũng khá tự tin khi giao tiếp bên ngoài. Cháu thích sự sôi động nên suốt

ngày thích tham gia học nhảy và võ. Tôi hi vọng học các môn đó con có thể

rèn luyện được nhiều điều khi trưởng thành”.

Điều đặc biệt là với những cha mẹ thuộc nhóm khách thể nghiên cứu

của đề tài thường sử dụng PCGD tự do thì họ “nhận thấy con mình biểu

hiện là đứa trẻ thoải mái, tự do trong mọi hoạt động” (chiếm 35,6%): “Với

các con, tôi lúc nào cũng tạo điều kiện thoải mái cho chúng vui chơi. Có

như vậy bọn trẻ mới thả sức khám phá, thể hiện bản thân. Các con tôi luôn

là những đứa trẻ tự nhiên, thoải mái khi tham gia bất kỳ hoạt động nào mà

không cần bố mẹ phải hỗ trợ” – anh Tr. L (40 tuổi, PCGD tự do). Cùng với

đó, những cha mẹ thuộc PCGD dân chủ cũng nhận thấy con mình là đứa trẻ

thoải mái, tự do trong mọi hoạt động (chiếm tỉ lệ khá cao 37,8%). Trái lại,

cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ cũng nhận định con “là nhút nhát, ngại giao

tiếp và hay phụ thuộc vào bố mẹ” chiếm tới 44,2%. Chúng tôi cho rằng kết

quả này phần nào phản ánh được sự “trung lập” của PCGD dân chủ so với

hai phong cách còn lại.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những cha mẹ nghiêm

khắc hay trừng phạt con thường có xu hướng tạo ra ở trẻ sự nhút nhát, ngại giao

tiếp và hay phụ thuộc vào bố mẹ. Ngược lại, những cha mẹ sử dụng PCGD tự do

lại có xu hướng tạo ra ở trẻ sự thoải mái, tự do trong mọi hoạt động. Còn với

những trẻ có cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ, chúng thường là những trẻ tự tin,

vui vẻ hòa đồng hay có thể thoải mái tự do trong mọi hoạt động.

66

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng ghi nhận mối liên hệ có ý nghĩa thống kê ở

mức trung bình (r = 0,27) giữa PCGD của cha mẹ và khả năng tự lập của trẻ

theo quan điểm chủ quan của bố mẹ. Cụ thể:

Bảng 3.8 Phong cách giáo dục của cha mẹ và khả năng tự lập của trẻ

Hiện nay con anh chị

PCGD của cha mẹ

Chưa thành thạo trong các công việc cá nhân Nói chung chưa tự làm được gì vì cháu còn quá nhỏ Biết chủ động trong ăn mặc cũng như vệ sinh cá nhân

SL 38 13 4 Độc đoán % 22,4 13,3 36,5

SL 59 43 14 Dân chủ % 46,7 56,7 74,1

SL 7 2 12 Tự do % 3,4 6,7 40,0

SL 104 58 30 Tổng % 100 100 100

Quan sát bảng 3.8, chúng tôi nhận thấy chỉ có rất ít trẻ (4 cháu) có cha

mẹ sử dụng PCGD độc đoán chưa tự làm được gì trong sinh hoạt cá nhân, còn

lại, phần nhiều (36,5%) chúng có khả năng tự lập hơn (biết chủ động trong ăn

mặc cũng như vệ sinh cá nhân) so với những trẻ có cha mẹ thuộc nhóm

PCGD tự do. Phải chăng khi cha mẹ nghiêm khắc con cái sẽ có ý thức nề nếp

tốt, biết chủ động hơn trong sinh hoạt cá nhân? Anh Ng. Th (38 tuổi, PCGD

độc đoán) chia sẻ: “Hầu như nhiều hoạt động cá nhân cháu đều tự động làm

hết. Bố mẹ chỉ cần nói là cháu phải làm luôn, không cần để bố mẹ thúc ép.

Con tôi đã được rèn luyện thói quen từ nhỏ là bởi tôi cũng nghiêm khắc nên

con mới được vậy. Nếu chỉ có vợ tôi thì thái độ của con sẽ khác ngay”.

67

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, ngược lại với PCGD độc đoán là

những cha mẹ có PCGD tự do, số rất ít (6,7%) cho rằng con cái họ biết chủ động

trong ăn mặc cũng như vệ sinh cá nhân. Còn lại, theo đánh giá chủ quan từ phía

cha mẹ, có gần một nửa (40%) số trẻ được nhận định là “chưa tự làm được gì vì

cháu còn quá nhỏ” có cha mẹ thuộc nhóm PCGD tự do. Khi được hỏi về vấn đề

này anh Tr.L (40 tuổi, PCGD tự do) cho biết: “Nhìn chung các con tôi chưa thể

tự làm được gì. Việc gì cũng bố, tí tí lại hỏi bố và tôi cảm thấy vì mình quá dễ

với con nên chúng hay ỷ lại vào bố”.

Riêng đối với PCGD dân chủ, chúng tôi nhận thấy khi bố mẹ sử dụng

PCGD này dường như có xu hướng tạo ra sự tự lập rất cao ở trẻ. Chị T.Q (33

tuổi, PCGD dân chủ) chia sẻ: “Nói chung mọi sinh hoạt ăn mặc cũng như vệ

sinh cá nhân của bản thân, cháu đều rất có ý thức và luôn chủ động. Rất ít khi

cháu phải nhờ giúp đỡ của bố mẹ”.

Có thể thấy, dường như PCGD dân chủ ở đây là phong cách giáo dục mà

cha mẹ có thể giúp con có được khả năng tự lập ngay từ khi trẻ còn nhỏ. Vì thế,

việc cha mẹ để trẻ phát triển tự do, quá dễ dãi với con đã ít nhiều cho thấy hệ

lụy của vấn đề. Những đứa trẻ này phần vì được nuông chiều, phần vì thiếu sự

kiểm tra giám sát của bố mẹ nên dường như chúng bị thiếu hụt kỹ năng sống.

Điều này nếu không được cải thiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xã

hội hóa sau này của trẻ.

Như vậy, có thể thấy rằng số liệu thực tế thu được từ nhóm khách thể

nghiên cứu của đề tài đã cho thấy mối liên hệ giữa PCGD của cha mẹ và sự

phát triển tâm lý của trẻ trên một số khía cạnh. Vậy liệu PCGD của cha mẹ

có dự báo được xu hướng phát triển của trẻ hay không? Kết quả hồi quy

tuyến tính đơn cho thấy rằng: Nếu chỉ thay đổi PCGD hoặc của bố, hoặc của

mẹ thì sự thay đổi này không có ý nghĩa dự báo đối với sự phát triển tâm lý

của trẻ. Song ngược lại, nếu có sự thay đổi PCGD của cả bố và mẹ thì kết

68

quả hồi quy tuyến tính cho phép chúng tôi khẳng định rằng sự thay đổi này

có thể dự báo được ít nhiều sự thay đổi ở trẻ. Số liệu cụ thể được trình bày

trong bảng 3.9 sau đây:

Bảng 3.9: Dự báo tác động của PCGD mà cha mẹ sử dụng với sự

phát triển của con.

Hệ số khi chạy hồi qui tuyến tính Biến số phụ thuộc N p r

192 98,75 0,342 0,001 0,585 Thái độ nhận lỗi của con khi mắc sai phạm 0,339

192 84,034 0,307 0,001 0,55 Sự chia sẻ khó khăn của con với cha mẹ 0,303

Sự tự tin vui vẻ của con 192 9,041 0,045 0,03 0,213 0,04

192 18,986 0,091 0,001 0,301 0,086 Sự tự chủ / độc lập của con trong sinh hoạt hàng ngày

Biến độc lập: PCGD của cha mẹ

Kết quả hồi quy tuyến tính cho thấy, nếu PCGD của cha mẹ thay đổi thì

cho phép dự báo được 33,9 % (p< 0,01) độ biến thiên về thái độ nhận lỗi của

con khi có lỗi; 30,3 % độ biến thiên về thái độ của con trong việc chia sẻ các

khó khăn hay vấn đề rắc rối với cha mẹ. Bên cạnh đó, việc thay đổi PCGD

này cũng cho phép dự báo được sự tự tin hay tính tự lập của trẻ trong cuộc

sống hàng ngày. Tuy nhiên, mức độ dự báo còn khá khiêm tốn (dưới 10% độ

biến thiên của dữ liệu).

69

3.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến phong cách giáo dục của cha mẹ

3.3.1. Yếu tố nghề nghiệp của cha mẹ

Chúng ta biết rằng, mỗi nghề đều có đặc thù riêng trong công việc. Vì

thế, không ít người chịu sự tác động không nhỏ của công việc đến cuộc sống

sinh hoạt hàng ngày của họ. Chính điều này đặt ra cho chúng tôi câu hỏi liệu

nghề nghiệp của cha mẹ có ảnh hưởng tới PCGD của họ hay không? Phép

kiểm định Khi – bình phương cho phép chúng tôi khẳng định mối liên hệ có ý

(8) = 74,320; p < 0.01) cụ thể:

nghĩa thống kê giữa 2 biến số này (x2

Bảng 3.10 Phong cách giáo dục của cha mẹ với nghề nghiệp của họ

Nghề nghiệp

PCGD Tổng

Lao động tự do Kinh doanh Giáo viên Cán bộ, công chức Luật, chính trị

S 55 4 7 2 18 24 SL

Độc đoán % 7,3 12,7 32,7 43,6 100 3,6 %

S 14 116 7 62 1 32 SL

Dân chủ % 0,9 27,6 53,4 12,1 100 6,0 %

S 0 21 0 0 11 10 SL Tự do % 52,4 0 100 0 47,6 0 %

S 24 34 91 38 192 5 SL Tổng % 2,6 12,5 17,7 47,4 19,8 100 %

Từ kết quả bảng 3.10, chúng tôi nhận thấy rằng những cha mẹ giáo dục

trẻ theo PCGD độc đoán chủ yếu thuộc nhóm ngành liên quan đến luật và

chính trị (chiếm 43,6%), sau đó là nhóm cán bộ công chức (chiếm 32,7%).

70

Chỉ có 2 người (chiếm 3,6%) là giáo viên lựa chọn kiểu PCGD này. Anh

Ng.Th (38 tuổi, Thanh tra) chia sẻ: “nhiều lúc đi làm về vừa mệt mỏi, căng

thẳng chỉ muốn yên tĩnh thư giãn nhưng con cái lại mè nheo, đòi hỏi … nên

tôi không thể nhẹ nhàng với con. Nhiều khi thấy mình chỉ vì áp lực công việc

mà cáu gắt với con thật không phải nhưng khó tránh được”.

Xu hướng lựa chọn PCGD dân chủ chủ yếu được thể hiện ở nhóm cán

bộ công chức (chiếm 53,4%) và nhóm giáo viên (chiếm 27,6%). Chị Đ.L (36

tuổi, Giáo viên) tâm sự: “Khi giáo dục con, tôi luôn phải thống nhất ý kiến

với chồng rằng không được để công việc làm ảnh hưởng tới quá trình dạy

con. Riêng với tôi, tuy không đánh, phạt con song vẫn phải có thái độ cương

quyết khi con phạm lỗi. Đôi lúc mình cũng chỉ cần nhắc nhở là trẻ đã sợ rồi.

Vì thế nên khuyến khích trẻ hơn là trừng phạt chúng”. Đồng quan điểm với

chị Đ.L trong cách giáo dục con, Chị Ng.D (30 tuổi, Viên chức) chia sẻ: “Mỗi

khi đi làm về mệt tôi cũng cảm thấy khó chịu khi con mè nheo hay nghịch phá

lung tung. Nhưng vẫn phải kìm chế vì chúng còn quá nhỏ. Nếu đánh, mắng

nhiều trẻ sẽ dạn đòn và lần sau chúng còn ngang bướng hơn. Vì vậy, tôi luôn

phải có sẵn món quà gì đó trong túi khi đi về để làm phần thưởng cho con”.

Nhóm những người làm công việc kinh doanh và lao động tự do có xu

hướng ít sử dụng PCGD dân chủ hơn cả (với tỉ lệ lần lượt là 6,0% và 0,9%).

Đối với PCGD tự do chỉ có hai nhóm phụ huynh có xu hướng lựa chọn

là nhóm các phụ huynh làm kinh doanh chiếm (47,6%) và nhóm cán bộ công

chức (52,4%). Không có bất kỳ cha mẹ nào thuộc nhóm giáo viên, luật, chính

trị hay lao động tự do lựa chọn PCGD này. Anh Tr.L (40 tuổi, kinh doanh)

tâm sự: “Công việc của tôi bận tối ngày, về đến nhà mà vẫn chưa hết việc

thì làm sao có thời gian cho con. Với lại bây giờ con còn nhỏ, thời gian

chúng gần mẹ nhiều hơn bố nên tôi để việc chăm sóc, dạy bảo con cho vợ

làm. Tôi chỉ hỗ trợ phần nào khi không có mặt vợ ở đó. Tôi muốn các con

71

được thoải mái vui chơi, tự do làm những việc chúng thích miễn không làm

ảnh hưởng đến công việc của tôi. Chính điều này làm cho bọn trẻ trở lên

khó bảo hơn khi chúng ở với mẹ mà tôi vô tình gây ra”.

Nhìn chung, kết quả nghiên cứu đã cho thấy những cha mẹ thuộc

nhóm chính trị, luật có xu hướng muốn giáo dục con theo các nguyên tắc

nhất định, không để trẻ phát triển theo hướng tự do, vô tổ chức. Trong khi

đó, những người làm kinh doanh dường như vì quá bận rộn với công việc

nên họ có xu hướng để trẻ tự do phát triển. Cũng cần ghi nhận rằng các bậc

phụ huynh làm việc trong lĩnh vực giáo dục có xu hướng sử dụng PCGD

dân chủ với mong muốn khích lệ và nhận được phản hồi tích cực từ phía

các con. Họ ít nhiều hiểu được tâm lý của trẻ và biết được những mong

muốn của trẻ nhiều hơn so với các cha mẹ thuộc nhóm ngành nghề khác.

3.3.2. Yếu tố thu nhập của cha mẹ

Bên cạnh yếu tố nghề nghiệp, kiểm định Khi – bình phương cũng cho

= 6,252; p < 0,05). Cụ thể:

phép chúng tôi khẳng định mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa thu nhập của bố

mẹ và kiểu PCGD của họ đối với trẻ (

Bảng 3.11 PCGD và thu nhập của cha mẹ trong gia đình

Thu nhập của cha mẹ PCGD Tổng Từ 10 đến 20 triệu đồng Trên 20 triệu đồng

Độc đoán SL 23 55 32

% 41,8 100 58,2

Dân chủ SL 56 116 60

% 48,3 100 51,7

Tự do SL 4 21 17

% 19,0 100 81,0

Tổng SL 83 192 109

% 43,2 100 56,8

72

Bảng số liệu 3.11 cho phép chúng tôi ghi nhận rằng dường như cha mẹ

có thu nhập càng cao càng có xu hướng thực hành kiểu PCGD độc đoán, tự

do đối với trẻ. Phải chăng thu nhập cao đồng nghĩa với việc bố mẹ phải dành

nhiều thời gian cho công việc và do đó hoặc họ buông lỏng việc chăm sóc con

cái hoặc họ lại “gò” chúng vào một khuôn khổ cứng nhắc để có thể yên tâm

dành thời gian cho công việc. Anh Tr.L (40 tuổi, Kinh doanh, có thu nhập trên

30 triệu đồng/ tháng) cho biết: “Tôi bận đi làm suốt ngày nên rất ít có thời

gian chơi với con. Vì thế nếu có thời gian ở cạnh con bao giờ tôi cũng muốn

làm cho các con vui vẻ, hài lòng để chúng được thoải mái vui chơi. Làm như

vậy, các con tôi sẽ không có cảm giác bố mải làm việc mà quên mất con”.

Ngược lại với anh Tr.L, anh Ng. Th (38 tuổi, Thanh tra gia đình có thu

nhập trên 20 triệu đồng/ tháng) chia sẻ: “Trong gia đình mà thiếu đi tiếng nói

của người bố là trẻ rất dễ vô tổ chức. Vì thế, tôi luôn muốn rèn con vào khuôn

khổ nếp nhà để khi bố vắng nhà các cháu không bị a dua theo những thói

quen xấu, vô kỷ luật”.

3.3.3. Yếu tố giới tính của trẻ

Khi tìm hiểu PCGD của cha mẹ trong mối liên hệ với giới tính của con

(2) = 20,183; p < 0,01. Kết quả này cho thấy PCGD của

chúng tôi thu được x2

cha mẹ có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với giới tính của trẻ. Cụ thể:

Bảng 3.12 PCGD của cha mẹ và giới tính của con

Giới tính của con PCGD của cha mẹ Tổng

Độc đoán

Dân chủ

Tự do

Tổng SL % SL % SL % SL % Con trai 41 74,5 52 44,8 5 23,8 98 51,0 Con gái 14 25,5 64 55,2 16 76,2 94 49,0 55 100 116 100 21 100 192 100

73

Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy rõ ràng giới tính của trẻ có tác động không

nhỏ tới việc lựa chọn kiểu PCGD của cha mẹ. Dường như, cha mẹ có xu hướng

thực hành kiểu PCGD độc đoán đối với trẻ trai (74,5%) và ngược lại, PCGD tự

do đối với trẻ gái (76,2%). Phải chăng điều đó là do trẻ gái “dễ bảo” hơn, “có ý

thức tốt hơn” trẻ trai như chia sẻ của một số phụ huynh mà chúng tôi thu được

qua phỏng vấn sâu: “Nhà tôi có hai cháu, nhưng đối với con trai tôi thường hay

khắt khe hơn. Điều đó là do con trai tôi rất tinh nghịch, không nghe lời còn con

gái rất dễ bảo và hiểu chuyện nên tôi chưa bao giờ phải to tiếng hay phàn nàn

về con gái mình” (chị Ng.H 37 tuổi, Cán bộ).

“Con trai tôi rất hiếu động. Cháu nghịch luôn tay, luôn chân nếu chỉ

nhắc nhở nhẹ nhàng thì không có tác dụng. Vì thế, tôi phải phạt con đứng

trong vòng tròn nhưng vẫn không được lâu. Những lần như vậy bực lắm mà

không dám đánh con” (chị Th.Tr 27 tuổi, Cán bộ).

“Với con trai tôi luôn nhận thấy mình phải nghiêm khắc hơn bởi nếu

nuông chiều được đà cháu dễ sinh hư. Còn con gái, cháu vừa tình cảm lại có

ý thức tốt nên tôi có chiều con cũng không lo lắng gì” (Anh Ng.C.Th 38 tuổi,

Cán bộ).

Như vậy, có thể nói, PCGD của cha mẹ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố

từ phía cha mẹ (nghề nghiệp, thu nhập) cũng như từ phía con (giới tính của trẻ).

Chúng tôi cũng đã có mong muốn tìm hiểu mối liên hệ giữa các yếu tố như trình

độ học vấn, độ tuổi của cha mẹ, độ tuổi của con, số lượng con trong gia đình

cũng như số thứ tự của trẻ trong gia đình và kiểu PCGD của cha mẹ. Tuy nhiên,

trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, kết quả kiểm định Khi – bình phương

không cho phép chúng tôi khẳng định mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa các

biến số này (xem phụ lục). Phải chăng điều này xuất phát từ chính bản thân mẫu

khách thể nghiên cứu của đề tài? Thiết nghĩ cần có một nghiên cứu chuyên sâu

hơn nữa để có thể đi đến khẳng định cho kết quả nghiên cứu thực tiễn này.

74

3.4. Phân tích chân dung tâm lý

3.4.1. Cha mẹ có cùng kiểu phong cách giáo dục dân chủ.

Gia đình anh Ng.V.Th và chị Ng.Th.H có 2 con. Con trai lớn Ng. Th. V

(5 tuổi), con gái Ng.N.H (2 tuổi). Hiện các cháu đang học tại Trường mầm

non Quốc tế Koala House. Anh Th là cán bộ công chức, năm nay 37 tuổi.

Chị H là Trưởng phòng Nhân sự, năm nay 36 tuổi. Anh chị đều là những

người khá bận rộn hay phải làm thêm giờ. Vì vậy, thời gian cho con cũng

hạn chế. Ở nhà không có người giúp việc song anh chị vẫn sắp xếp mọi sinh

hoạt ăn uống, vui chơi của con theo nề nếp nhất định. Chị H chia sẻ: “Nhiều

khi tôi phải làm thêm giờ thì anh Th bắt buộc phải về đón con trước. Sau đó,

tắm giặt, nấu nướng cho con ăn thay tôi. Cũng may có chồng thông cảm và

chia sẻ mọi việc trong gia đình nên tôi mới yên tâm làm việc mà không lo

chuyện con cái”.

Hiện hai cháu nhà anh Th và chị H đều là những đứa trẻ vui vẻ, hoạt

bát và rất tự tin trong mọi hoạt động. Các cháu có thể trò chuyện rất thoải

mái, không chút e dè khi có người lạ đến nhà chơi và hỏi chuyện. Con trai lớn

của anh chị đã học tại trường được hơn 2 năm. Từ nhỏ cháu đã hiếu động,

ngang bướng có phần khó bảo, cháu hay khám phá và thích vẽ tranh nên chị

H dựa vào sở thích của con để điều chỉnh hành vi hiếu động ấy. Ngày mới

sinh cháu thứ 2, anh chị đã rất vất vả với V. Cháu có những biểu hiện bất ổn

trong tâm lý khi có em ra đời. Cháu lầm lì ít nói hơn, hay lảng tránh mọi

người và rất khó bảo. Nhiều khi không hài lòng vấn đề gì là cháu đập phá đồ.

Bố mắng thì V bỏ đi nơi khác và khóc một mình.

Khi làm việc với cô giáo dạy V, con trai của anh chị Th – H chúng tôi

được biết cháu V là một học sinh rất hoạt bát, vui vẻ và vừa đạt giải thưởng

lớn trong cuộc thi triển lãm tranh. Ở lớp, cháu và các bạn chơi với nhau rất

thân thiện. Đôi lúc, V là người khơi mào trong các trò cho các bạn. Tuy cháu

75

V hay nghịch những vẫn biết nghe lời cô giáo. So với trước đây cháu khác rất

nhiều. Khi mới đi học, cháu hay khóc đòi mẹ. Nếu hết khóc thì cháu quay ra

nghịch phá đồ chơi và cào cấu các bạn nếu các bạn đến gần. Cô giáo nhắc nhở

thì mặt lì ra hoặc khóc lóc đòi về nhà. Phải mất một thời gian lâu sau cháu

mới quen dần với lớp học và có thái độ thân thiện với cô giáo và các bạn. Quá

trình gặp và nói chuyện với anh Th - chị H, anh chị mong muốn được giúp đỡ

và chia sẻ thêm về kiến thức tâm sinh lý trẻ em để họ có biện pháp giáo dục

con cho phù hợp.

Tiếp xúc với anh chị Th – H, chúng tôi cảm nhận họ là những người có

trình độ hiểu biết khá rộng, tính tình cởi mở, thân thiện, công việc và thu nhập

ổn định, gia đình nề nếp … Tuy nhiên, do ít có thời gian cộng thêm áp lực

công việc nên anh chị cũng khá vất vả trong việc chăm sóc 2 con. Khi biết

được mục đích công việc của chúng tôi ở đây, anh chị rất nhiệt tình hợp tác và

mong muốn có thêm kiến thức, kinh nghiệm để giáo dục con. Đề cập đến vấn

đề này, anh Th và chị H, rất vui vẻ và thoải mái. Anh Th chia sẻ: “Chúng tôi

bận rộn quá nên ít nhiều đã xao nhãng chuyện chăm sóc và dạy bảo con.

Nhiều khi chúng tôi giao phó việc dạy con cho các cô giáo ở trường và yên

tâm làm việc. Có đôi lúc, chúng tôi không hiểu con bằng các cô giáo ở

trường. Vì thế, vợ chồng tôi luôn phải thông tin liêc lạc với cô giáo dạy con

hàng ngày để biết con như thế nào… ”.

Trước tiên chúng tôi gặp gỡ và trao đổi riêng với anh chị Th – H để

hiểu thêm quan điểm của họ trong quá trình giáo dục con. Kinh nghiệm giáo

dục, những thuận lợi và khó khăn khi giáo dục các con, cảm nhận của cha mẹ

về hiệu quả trong phương pháp giáo dục của họ. Đồng thời, tìm hiểu những

nhận định của cha mẹ về con cái. Thông qua những chia sẻ của cha mẹ, chúng

tôi có thêm thông tin để đánh giá về kiểu phong cách giáo dục của cha mẹ

cũng như hiểu biết về những đặc điểm tâm lý cá nhân của con, từ đó đề ra các

biện pháp tác động hiệu quả.

76

Trong quá trình tiếp xúc với anh Th và chị H đã bộc lộ những quan

điểm và cách thức giáo dục con cái của họ. Chúng tôi nhận thấy, cả 2 anh chị

đều có kiểu phong cách giáo dục dân chủ. Chị H tâm sự: “Theo tôi, khi giáo

dục con cái chúng ta cần phải lắng nghe để hiểu con mình muốn gì, cần gì và

chúng ta chia sẻ với con như thế nào để con cảm nhận được thông tin phản

hồi từ phía cha mẹ. Không phải lúc nào bố mẹ cũng bắt con phải vâng lời,

ngoan ngoãn. Như vậy lại thành ra áp đặt với con quá”.

Anh Th cũng cho biết: “Trước đây, khi chúng tôi có thêm cháu thứ 2,

cháu V đã nghịch lại còn khó bảo nên tôi cũng rất băn khoăn không hiểu

làm thế nào với con đây? Đánh con thì không thể rồi. Còn mắng cháu thì

cũng chẳng nghe. Tôi cũng đọc sách dạy con và tham khảo từ phía bạn bè

nhiều nhưng kết quả không khả quan. Vợ chồng tôi đã quyết định cho con

đi học sớm ở trường để con vừa có môi trường mới, vừa có thể học cách tự

lập sớm”.

Khi được hỏi những biểu hiện cụ thể của V trong thời gian gần đây chị

H cho hay : “Cháu V là đứa trẻ rất tinh nghịch nhưng cũng rất nhạy cảm. Ở

lớp cháu vẫn vui vẻ và nhiệt tình tham gia các hoạt động của trường. Về nhà,

tuy có nghịch nhưng khi bố mẹ nhắc nhở và nhẹ nhàng chỉ bảo thì cháu vui vẻ

nghe theo. Cháu cũng rất hiểu chuyện. Nếu bố mẹ bận thì cháu cũng biết chơi

với em, chia sẻ đồ chơi và dỗ dành khi em khóc. Cháu không còn nghịch và

ngang bướng như trước kia nữa. Giờ đây, V đã khá tự lập trong các sinh hoạt

cá nhân”.

Nhóm nghiên cứu có đi sâu tìm hiểu thì được biết: “Khi V gần 3 tuổi

thì mẹ có thêm em bé, mẹ bận chăm em bé nên tối đến bố ngủ với V. Điều này

làm cháu ít nhiều bị thiếu hụt tình cảm của mẹ. Lại thêm hay nghịch nên V có

bị bố mắng và tách xa em bé. Có lẽ thế mà V lì lợm và bướng bỉnh hơn” - chị

H nhận định.

77

Khi nhóm nghiên cứu hỏi: Thấy con có biểu hiện như vậy thì anh chị

đã làm gì? Anh Th nói; “Tôi cũng lo lắng và sốt sắng không biết có phải vì có

em sớm mà cháu như vậy hay vì chúng tôi chưa hiểu con nên không biết cách

giáo dục con? Tôi tìm đọc các tài liệu, sách báo và cuối cùng quyết định thử

cho con đi học trường Quốc tế Koala House xem thế nào”.

Thời gian đầu “Cháu cũng vẫn không thay đổi. Có khi cháu còn ít nói

hơn. Đôi lúc, bực mình tôi cũng quát con lớn tiếng nhưng sau đó lại phải nhẹ

nhàng ngay vì tôi sợ cháu tủi thân” – anh Th chia sẻ.

Không quá nghiêm khắc song cũng không để con “muốn gì được nấy”,

chị H cho hay: “Tôi sợ vì mình có ít thời gian cho con nên chưa hiểu con

đang cần gì. Vì thế, tôi bàn với chồng buổi tối cho con ngủ chung luôn để tôi

kể chuyện hay hát cho con nghe khi nào con ngủ say thì cho con ngủ với bố.

Cứ như vậy trong thời gian mấy tháng cháu đã có nhiều thay đổi. Song vì

cháu nghịch nên đôi lúc chồng tôi cũng cáu gắt với con, bắt phải thế này thế

kia nhưng cháu không nghe theo. Chỉ khi bố mẹ nhẹ nhàng, tình cảm thì cháu

mới chấp nhận làm theo yêu cầu của chúng tôi. Chính vì vậy mà chúng tôi

thống nhất ý kiến không quát mắng con nữa mà phải nịnh cháu”. Tuy nhiên,

điều đó không có nghĩa là vợ chồng anh Th – chị H không quát mắng con bao

giờ nữa. Trái lại, nhiều khi họ cũng “đưa ra hình phạt là để uốn nắn con chứ

không phải để con phải phục tùng tuân theo mệnh lệnh của bố mẹ. Làm như

vậy trẻ sẽ không thể tự khẳng định bản thân và phát triển độc lập. Nếu bố mẹ

giáo dục con bằng đánh phạt thì trẻ rất dễ bị tổn thương và đối đầu lại với

chúng ta… ” (chị H chia sẻ).

Nói một cách khác, cả hai anh chị đều nhận định mình “có vai trò

quan trọng nhưng không vì thế mà tôi áp đặt mọi việc cho con. Tôi cũng

không tự mình quyết định mọi việc của con mà luôn hỏi xem thái độ con thế

nào trước khi cả con và bố mẹ quyết định”. Với phương châm giáo dục con

78

như vậy, anh Th – chị H đã tạo ra được sự thay đổi rõ nét ở trẻ: “Cháu V bây

giờ nhìn chững chạc hơn so với tuổi. Tuy vẫn hiếu động và thích khám phá

nhưng cháu cũng có thể tự làm nhiều việc giúp bố mẹ như chơi với em, thu

dọn quần áo, đồ đạc trong nhà cho ngăn nắp…” - chị H bộc bạch.

“Cháu là đứa trẻ rất tình cảm và cởi mở, hoạt bát. Đôi lúc cũng vô kỷ

luật nhưng khi nghe bố mẹ khuyên bảo thì cháu đã biết tự nhận lỗi và sửa sai.

Cháu có thói quen tự lập tốt, không so đo với em” (anh Th tâm sự).

Khi đến nhà anh chị Th – H, chúng tôi đã gặp và tiếp xúc với cháu V.

Chúng tôi cũng nhận thấy: V là đứa trẻ hoạt bát, sôi nổi và rất nhạy cảm.

Cháu có một phòng riêng chỉ để vẽ tranh. Phòng tranh này cháu tự trưng bày

tranh theo ý muốn và không thích ai quấy nhiễu thế giới riêng của cháu.

Chúng tôi được dẫn vào xem tranh và V đã rất hào hứng giới thiệu về các

tranh cháu đã vẽ thế nào. Cháu hồn nhiên kể cho mọi người nghe những ước

mơ sau này của mình và chúng tôi cảm nhận được hạnh phúc rạng ngời trên

khuôn mặt của một Họa sĩ tí hon Ng.Th.V. Chúng tôi có hỏi cháu có mong

ước gì cho mình thì được V trả lời: “Cháu thích được khám phá mọi thứ trên

thế giới. Cháu muốn được đi tàu vũ trụ, được lên cung trăng để ngắm trời rồi

vẽ. Như vậy mới thích chứ!”

Như vậy, rõ ràng là PCGD dân chủ, đặc biệt là sự tương hợp trong

PCGD của cha và mẹ là một trong những yếu tố quyết định tạo ra sự thay đổi

tích cực ở trẻ. Trẻ trở lên hoạt bát, tự tin biết cách thể hiện bản thân và chủ

động trong các sinh hoạt hàng ngày của cuộc sống.

3.4.2. Cha mẹ không tương đồng trong PCGD (bố độc đoán, mẹ tự do).

Gia đình anh Ng.H.T và chị Ng.H.D có 2 con trai. Cháu lớn tên

Ng.H.B.Ch gần 5 tuổi đang học tại trường mầm non Quốc tế Koala House.

Cháu nhỏ tên là Ng.H.B.Ph, 2,5 tuổi cũng đang học cùng trường với anh Ch.

Gia đình anh T – D rất khá giả. Ngôi biệt thự sang trọng nằm ngay trung tâm

79

thành phố, thuận lợi cho mọi sinh hoạt. Gia đình có người giúp việc là một

bác gái năm nay hơn 50 tuổi. Anh T là thanh tra của Bộ công An. Công việc

cũng bận rộn và giờ giấc thất thường nên thời gian ở nhà ăn cơm với gia đình

rất ít. Chị D làm kế toán của một trường Đại học tại Hà Nội. Chị chỉ làm giờ

hành chính nên hầu hết buổi tối chị ăn cơm nhà cùng các con. Buổi sáng, chị

đưa các con đi học. Chiều về, có bác giúp việc đón các con (nhà có tài xế chở

bác giúp việc đi đón trẻ). Việc ăn uống của các con đã có bác giúp việc lo nên

chị D đi làm về là ăn cơm rồi chơi với các con. Khi rảnh rỗi thì chị dành thời

gian đi chăm sóc sắc đẹp. Cuối tuần chị cho các con đi chơi quanh thành phố.

Những lúc đi chơi bao giờ cũng có bác giúp việc theo vì anh T ít có thời gian

đi cùng. Vì thế, thời gian để cả nhà anh chị đi chơi chung rất ít.

Các con anh chị đều là những đứa trẻ tinh nghịch, nhiều trò. Cháu Ch

hay nghịch dại, lì lợm và khó bảo. Cháu Ph lại thoải mái vô tổ chức. Bác giúp

việc luôn phải vừa làm việc nhà vừa canh chừng 2 cháu nhỏ khá vất vả. Còn

chị D thì cho rằng để trẻ thoải mái vui chơi mới giúp trẻ phát triển tốt. Vợ

chồng chị D có nhiều quan điểm khác nhau khi giáo dục các con. Các cháu rất

sợ bố. Khi có mặt bố, các cháu thường không dám nghịch gì. “Chỉ khi bố

vắng nhà chúng mới tự do, thoải mái” – chị D chia sẻ.

Chúng tôi có gặp gỡ và trao đổi với cô giáo dạy cháu Ch thì được biết: Ch

khá nghịch và hay trêu, đánh các bạn trong lớp. Khi được nhắc nhở, Ch thường

có những biểu hiện chống đối lại cô giáo. Càng ngày Ch càng khó bảo và lì lợm,

thích tự mình làm theo ý riêng. Cô giáo chia sẻ: “Chúng tôi cũng thường xuyên

trao đổi với mẹ của cháu nhưng không thấy Ch thay đổi là mấy”.

Tiếp xúc với anh chị T – D, chúng tôi nhận thấy anh chị đều là những

người hiểu biết và rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con cái. Ở cơ quan, anh T

rất nghiêm khắc với cấp dưới. Anh thường đặt ra những nguyên tắc rõ ràng và

có hiệu quả trong công việc. Tuy nhìn vẻ ngoài anh T là người khó gần nhưng

80

khi nói chuyện anh lại rất nhiệt tình và thẳng thắn trao đổi những tâm tư,

nguyện vọng với nhóm nghiên cứu. Anh chị đều mong muốn hiểu thêm về

phương pháp cũng như cách thức dạy con để các cháu biết nghe lời và tiến bộ

hơn mà không cần phải phạt con. Quá trình trao đổi với hai anh chị, họ đã bộc

lộ những quan điểm và cách thức giáo dục đối với các con khá rõ. Chúng tôi

nhận thấy, có sự khác biệt khá lớn trong phong cách giáo dục của anh chị đối

với con. Anh T cho rằng: “Bố mẹ cần là tấm gương cho con noi theo. Ngay

từ nhỏ, bố mẹ phải luôn kiểm tra, uốn nắn các con trong mọi việc để con dần

dần theo nề nếp. Không được nuông chiều con sẽ dễ sinh hư”. Còn chị D lại

thấy: “Bố mẹ không nên nghiêm khắc với con quá. Mình làm như vậy sẽ gây

tâm lý căng thẳng và sợ hãi đối với trẻ. Theo tôi, nên để trẻ tự do sẽ giúp

chúng bộc lộ hết những khả năng vốn có của mình. Có như vậy, chúng ta

mới biết được con mình mạnh ở đâu và yếu ở đâu”.

Vì vậy, chị cho rằng: “Trẻ con đứa nào mà chẳng nghịch, con tôi cũng

không ngoại lệ. Chúng nghịch là chúng đang tìm hiểu, khám phá thế giới xung

quanh”. Song anh T lại khác. Anh cho biết: “Nhiều khi đi làm về vừa mệt, lại

thấy bọn trẻ vừa chơi vừa phá đồ lung tung hết cả. Bực mình tôi liền quát

mắng và dọa sẽ cho ăn roi nếu lần sau tôi còn thấy vậy. Nhưng lần sau bọn

trẻ vẫn không thay đổi. Chúng bị tôi đánh phạt thật và tôi thấy con biết sợ

không còn nghịch nữa”. Nói cách khác “Khi có tôi ở nhà bọn trẻ sợ một

phép. Ăn, ngủ, chơi khá nghiêm túc. Nếu không nghe lời thì bị phạt ngay. Thế

nhưng nếu có mặt vợ tôi ở nhà, các con lại tỏ ra không theo nguyên tắc gì

hết”. Chính vì thế, khi chơi cùng con “chúng thường nói là bố làm chưa

đúng, bố không biết chơi. Được một lúc chán quá chúng đi tìm nơi khác để

chơi” – anh T chia sẻ. Có lẽ chính vì thế “nên các cháu có mấy khi dám ở gần

bố. Cứ nhắc bố là con đang làm gì cũng phải dừng lại ngay. Tôi thì lại để trẻ

81

thỏa thích chạy nhảy, chơi đùa miễn sao chúng vui vẻ là được. Tôi chỉ quan

sát con chơi nếu có gì nguy hiểm thì mình tránh cho con” – chị D giải thích.

Có lẽ chính sự mâu thuẫn trong PCGD con của anh T – chị D đã ảnh

hưởng không nhỏ tới cách hành xử của trẻ. Anh T cho hay: “Tôi thấy cách

dạy con của mình vẫn chưa ổn lắm. Có mặt bố thì chúng trở nên nhút nhát, sợ

sệt. Nhưng không có mặt thì con lại thoải mái, vô tổ chức. Có lẽ, một phần

cũng là lỗi của vợ chồng tôi chưa thật sự thống nhất trong cách dạy con”.

Như vậy, có thể thấy vợ chồng anh chị T – D không có cùng kiểu

giáo dục con. Bố có kiểu PCGD độc đoán, mẹ có kiểu PCGD tự do. Bố cho

rằng muốn giáo dục con thì cần phải nghiêm khắc theo kiểu “Thương cho

roi, cho vọt – Ghét cho ngọt, cho bùi”. Trong khi đó, mẹ lại muốn con

được tự do thể hiện bản thân, không ép buộc hay trừng phạt con mà để con

tự biết cách điều chỉnh khi khôn lớn. Việc không thống nhất trong cách

giáo dục con của anh chị đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển

của cháu Ch. Đó là việc cháu Ch đã nhận thấy, sự khác nhau trong thái độ

đối xử của bố mẹ đối với mình. Vì vậy, khi có mặt bố, cháu Ch thường tỏ

ra nghe lời hơn để tránh bị phạt. Còn khi có mẹ, cháu biết mẹ che chở nên

cứ thoải mái, tự do vô kỷ luật. Nếu cứ tiếp tục như vậy, càng ngày cháu Ch

càng khó bảo hơn và khó kiểm soát được hành vi của mình ở lớp. Điều này

cho thấy, sự khác biệt về kiểu PCGD của cha mẹ có ảnh hưởng không nhỏ

đối với sự phát triển tâm lý trẻ.

82

Tiểu kết chƣơng 3

Trong quá trình giáo dục con ở lứa tuổi từ 3-6, phần lớn cha mẹ

(60,4%) có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ đối với con, tiếp đến là PCGD

độc đoán (28,6%) sau cùng là PCGD tự do (10,9%). Phong cách giáo dục của

cha mẹ với con trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình có sự chênh lệch tỷ lệ

khá rõ. Đối với giáo dục nề nếp sinh hoạt và kết bạn của con, cha mẹ có xu

hướng dân chủ hơn và tự do hơn so với giáo dục ý thức kỷ luật lao động và

ứng xử của con. Nhưng cha mẹ lại có xu hướng độc đoán hơn và ít dân chủ

hơn khi giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử cho con.

Khi nghiên cứu các cặp cha mẹ sử dụng phong cách giáo dục đối với

con chúng tôi nhận thấy không có sự đồng thuận trong việc sử dụng PCGD

của các cặp cha mẹ.

Trong quá trình giáo dục con cái, PCGD của cha mẹ chịu ảnh hưởng

bởi một số yếu tố sau: yếu tố nghề nghiệp, điều kiện kinh tế của gia đình và

giới tính của con.

PCGD của cha mẹ có mối liên hệ với sự phát triển tâm lý của trẻ. Nhìn

chung, cha mẹ độc đoán ít nhiều gây cho trẻ tâm lý căng thẳng, lo lắng và

thiếu tự tin khi giao tiếp. PCGD tự do đôi khi lại không tạo ra được sự nề nếp,

tính kỷ luật ở trẻ. Ngược lại, PCGD dân chủ được ghi nhận là phong cách

giáo dục có tác động tích cực nhất đối với sự phát triển của trẻ từ 3 đến 6 tuổi

thuộc nhóm khách thể trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.

83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1.1. Kết luận về mặt lý luận

Qua việc nghiên cứu lý luận của đề tài, chúng tôi quan niệm phong

cách giáo dục của cha mẹ đối với con từ 3 đến 6 tuổi tại trường mầm non

Quốc tế Koala House là: hệ thống các nguyên tắc, các phương pháp, cách thức

hành động độc đáo, riêng biệt, tương đối ổn định của cha mẹ phù hợp với trẻ ở

độ tuổi từ 3 đến 6 nhằm giúp trẻ lĩnh hội các mẫu hành vi trong cuộc sống.

1.2. Kết luận về mặt thực tiễn

a, Kết quả nghiên cứu thực tiễn cho chúng tôi ghi nhận rằng, cha mẹ

thuộc nhóm khách thể nghiên cứu của đề tài sử dụng cả 3 loại PCGD: dân

chủ, độc đoán và tự do. Trong đó, PCGD dân chủ có xu hướng chiếm ưu thế

hơn cả, kế đến là PCGD độc đoán và chiếm tỷ lệ thấp nhất là PCGD tự do.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiểu PCGD giữa cha và mẹ nói

chung. Nhưng ngược lại, trong từng cặp cha mẹ lại cho thấy không có sự

tương đồng trong việc sử dụng các PCGD đối với trẻ. PCGD của người cha

và PCGD của người mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình cũng có sự

khác biệt đáng kể. Trong khi người mẹ có xu hướng sử dụng PCGD dân chủ

thì người cha thường có xu hướng sử dụng PCGD độc đoán / tự do đối với trẻ.

b, PCGD của cha mẹ và sự phát triển tâm lý của con có sự tương quan

thuận với nhau. Theo nhận định của chính cha mẹ, những người sử dụng

PCGD độc đoán có xu hướng tạo ra những trẻ hay lo lắng, sợ hãi, nhút nhát

song lại khá thành thạo trong vệ sinh cá nhân cũng như trong ăn mặc. Ngược

lại, những cha mẹ sử dụng PCGD dân chủ nhận thấy rằng con họ là những

đứa trẻ tự tin, vui vẻ, hòa đồng, có khả năng tự lập trong sinh hoạt hàng ngày.

Bên cạnh đó, số liệu cũng cho phép chúng tôi ghi nhận rằng dường như

những trẻ “chưa tự làm được gì” tập trung chủ yếu ở những trẻ có cha mẹ sử

84

dụng PCGD tự do. Những trẻ này thường thoải mái, tự do trong mọi hoạt

động. Ở góc độ nào đấy, đây cũng được xem như là một điều kiện thuận lợi

cho sự phát triển của trẻ, song chúng tôi cho rằng nếu sự tự do, thoải mái này

không diễn ra trong một khuôn khổ hay giới hạn nào cả thì có thể sẽ tạo ra

những hệ quả bất lợi cho quá trình xã hội hóa của trẻ sau này.

c, PCGD của cha mẹ chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố cụ thể như nghề

nghiệp, thu nhập trong gia đình và giới tính của con. Những người làm việc

liên quan đến luật pháp và chính trị thường có xu hướng sử dụng phong cách

giáo dục độc đoán với con và họ không tán thành quan điểm dạy con theo

kiểu tự do. Trong khi đó, những người thuộc nhóm giáo viên lại luôn gần gũi,

thân thiện và dùng tình yêu thương cho con trẻ nên họ luôn có xu hướng sử

dụng PCGD dân chủ. Chỉ có nhóm kinh doanh và nhóm cán bộ, công chức có

xu hướng lựa chọn PCGD tự do cao hơn so với các nhóm còn lại.

Đối với thu nhập, đa phần những ông bố, bà mẹ có thu nhập cao có xu

hướng lựa chọn PCGD độc đoán với con. Mặt khác, họ cũng có xu hướng sử

dụng PCGD tự do trong giáo dục con.

Bên cạnh đó, giới tính của trẻ cũng chi phối không nhỏ tới việc thực

hành các kiểu PCGD của bố mẹ. Số đông các bậc phụ huynh thuộc nhóm

khách thể nghiên cứu của đề tài có xu hướng lựa chọn PCGD độc đoán đối

với trẻ trai với mong muốn rèn trẻ đi vào nề nếp. Trong khi đó vì cho rằng trẻ

gái có ý thức tốt hơn, dễ bảo hơn nên cha mẹ có xu hướng lựa chọn kiểu

PCGD tự do cho nhóm đối tượng này.

2. Kiến nghị

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thu được, chúng tôi mạnh dạn đề xuất

một vài kiến nghị sau đây:

Về phía cha mẹ

Các bậc phụ huynh, đặc biệt là bố của trẻ nên chủ động hơn nữa trong

85

việc tìm hiểu các thông tin liên quan tới sự phát triển tâm - sinh lý của trẻ,

cũng như chủ động tham gia các lớp tập huấn dành cho phụ huynh có con trẻ

ở độ tuổi này.

Trong quá trình giáo dục con, cha mẹ không nên buông lỏng con hoàn

toàn, cũng không nên quá cứng nhắc và nghiêm khắc đối với con. Trái lại, cha

mẹ nên tạo cho con sự thoải mái, tự tin khi tham gia các hoạt động. Trẻ ở độ

tuổi này vẫn cần có “khuôn khổ” nhất định. Vì vậy, nếu cha mẹ quá dễ dãi sẽ

tạo ra những hệ lụy cho quá trình xã hội hóa sau này của trẻ.

Đồng thời, cha mẹ cần chủ động dành thời gian cho con, chia sẻ những

tâm tư tình cảm với con để từ đó gần gũi và hiểu con hơn. Hơn nữa, cha mẹ

cũng nên thống nhất trong cách dạy con tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển tâm lý lành mạnh, hài hòa ở trẻ.

Về phía giáo viên

Giáo viên cần thường xuyên trao đổi thông tin cho cha mẹ trẻ nhằm

giúp họ hiểu thêm về sinh hoạt hàng ngày ở trường của con. Cùng với đó,

giáo viên và nhà trường nên tổ chức các buổi họp phụ huynh theo từng học kỳ

để cha mẹ và cô giáo có thể chia sẻ những vấn đề của trẻ, giúp cha mẹ có thể

điều chỉnh các phương pháp giáo dục con cho phù hợp.

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. A.V Petrovski (1982), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học Sư phạm, Tập I,

NXB Giáo dục.

2. Phạm Khắc Chương (1998), Giáo dục gia đình, NXB Giáo dục.

3. Vũ Dũng (2008), Từ điển tâm lý học, Nxb Từ điển Bách khoa

4. Vũ Kim Dung (2004), Bước đầu nghiên cứu thử ứng dụng trắc nghiệm

Denver II đánh giá sự phát triển tâm vân động của trẻ em từ 2,5- 6 tuổi, Luận

văn Thạc sĩ.

5. Hồ Ngọc Đại (1991), Giải Pháp giáo dục, Nxb Giáo dục.

6. Nguyễn Văn Đồng (2012), Tâm lý học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia -

Sự thật.

7. Grace J.Craig, Don Baucum (Prentice Hall, 2001), Tâm lý học phát triển,

(Bản dịch từ tiếng Nga), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

8. Trương Thị Khánh Hà (2011), “Phong cách giáo dục của cha mẹ”, Tạp chí

khoa học ĐHQG Hà Nội (số 27), tr.162- 169.

9. Trương Thị Khánh Hà (2013), Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQG Hà Nội.

10. Vũ Hạnh, Đỗ Quảng, Trần Truyền (1975), Bàn tay người mẹ - kinh

nghiệm giáo dục gia đình, Nxb Kim Đồng.

11. Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, Nxb Trường ĐHSP Hà Nội.

12. Ngô Công Hoàn (1995), Tâm lí học trẻ em, Nxb Giáo dục.

13. Ngô Công Hoàn (2006), Giá trị đạo đức và giáo dục giá trị đạo đức cho

trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb Đại học Sư Phạm.

14. Ngô Công Hoàn (2011), Tâm lý học khác biệt, Nxb Đại học Quốc Gia

Hà Nội.

15. Lê Tiến Hùng (1993), Quyền uy và việc sử dụng quyền uy của cha mẹ

trong giáo dục gia đình, Luận án Phó Tiến Sĩ.

i

16. Phạm Trường Khang – Hoàng Lê Minh (2009), Từ điển Văn hóa gia đình,

Nxb Văn hóa Thông tin.

17. Kimura Kyuichi (2012), Thiên tài và sự giáo dục từ sớm, Nxb Tổng hợp

TP Hồ Chí Minh.

18. Khoa Tâm lý học (4/2014), Kỷ yếu hội thảo Việt Pháp về Tâm lý học,.

19. Hồ Lê (2009), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Niên.

20. Vũ Thị Khánh Linh (2007), “Thực trạng về phong cách giáo dục của cha

mẹ học sinh trường Trung học cơ sở Trần Đăng Ninh - Thành phố Nam

Định”, Tạp chí Tâm lý học (số 12), tr.17- 23.

21. Vũ Thị Khánh Linh (2012), Mối tương quan giữa phong cách giáo dục của

cha mẹ và tính tích cực giao tiếp với cha mẹ của thiếu niên, Luận án Tiến sĩ.

22. Trịnh Thị Linh (2010), Practiques éducatives parentables, estime de soi et

mobilization scolaire de éadolescent Vietnamien. La dynamique de la

représentation par éadolescent de laccompagnement scolaire parental, Luận

án Tiến Sĩ.

23. Hà Thị Mai (2013), Giáo dục học đại cương, Đại học Đà Lạt.

24. Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Bài nói tại Đại hội liên hoan

phụ nữ “năm tốt” ngày 30/4/1996, Nxb Giáo dục.

25. Phạm Thành Nghị (2011), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHQGHN.

26. Vũ Thị Nho (2008), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học QGHN.

27. Trần Thị Tuyết Oanh (2011), Giáo trình Giáo dục học, Nxb Đại học

Sư phạm.

28. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

29. Thomas Gordon (2013), Giáo dục không trừng phạt, Nxb Tri Thức.

30. Trần Thị Bích Trà (2012), “Thực trạng giáo dục gia đình đối với trẻ mầm

non”, Tạp chí Khoa học Giáo dục (số 76), tr.20- 37.

ii

31. Trung tâm nghiên cứu Khoa học về Gia đình và Phụ nữ (1994), Gia đình

và vấn đề giáo dục gia đình, Đề tài KX 07- 09.

32. Trần Anh Tuấn (2009), Giáo dục học đại cương, Nxb Đại học QGHN.

33. Nguyễn Ánh Tuyết – Nguyễn Thị Như Mai (2011), Sự phát triển tâm lý

trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb Giáo dục Việt Nam.

34. Nguyễn Quang Uẩn (1997), Bài giảng về phong cách lãnh đạo, lớp cao

học Quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Quang Uẩn (2013), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHQG Hà Nội.

36. Lê Ngọc Văn (2006), Nghiên cứu gia đình, lý thuyết nữ quyền, quan điểm

giới, Nxb Khoa học Xã hội.

37. Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội.

38. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về Tâm lý gia đình, Nxb Kim Đồng.

39. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb ĐHQG Hà Nội.

40. Vietlex, Trung tâm Từ điển học (2014), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

41. Xecmiajcơ, E.I (1991), 142 tình huống giáo dục gia đình, (Phạm Khắc

Chương dịch). Nxb Giáo dục.

Tiếng Anh

42. Adam Winsler, Amy L.Madigan, Sally A.Aquilino (2005), “Correspondence

between maternal and paternal parenting styles in early childhood”, Early

childhood research quarterly (20), p.1-12.

43. Chao.R K (1994), Beyond parental control and authoritarian parenting

style: Understanding Chinese parenting through the cultural notion of

training, Child Development (65), p.1111-1119.

44. Chao.R K (2001), Extending research on the consequences of parenting

style for Chinese Americans and European Americans, Child Development

(72), p.1832- 1843.

iii

45. Chan.J (1981), “Parenting style and children’ reading abilities: A Hong

kong study”, Journal of reading (24) p.667-675.

46. Chang Mimi (2007), Cultural Differences in Parenting Styles and their

Effects on Teens’ Self-Esteem, Perceived Parental Relationship Satisfaction,

and Self Satisfaction, p.1- 46.

47. Chen.X, Dong.Q, Zhou.H (1997), “Authoritative and authoritarian

parenting practices and social and school performance in Chinese children”,

International Journal of behavioural Development (21), p.855-874.

48. Darling.N & Steinberg.L (1993), “Parenting style as contex: An

integrative model”, Psychological Bulletin, 113 (3), p.487- 496.

49. Diana Baumrind (1966), “Effects of Authoritative parental control on

child behavior”, Child Development (37), p.887-907.

50. Diana Baumrind (1971), “Current patterns of parental authority”,

Developmental Psychology Monographs, part II, p. 24-40.

51. Diana Baumrind (1991), “The influence of parenting style on adolescent

competence and substance use”, Journal of Early Adolescence (11), p. 56-95.

52. Earl S.Schaefer (1959), “A circumplex model for maternal behavior”, The

Journal of Abnormal and Social Psychology 59 (2), p. 226-235.

53. Education Facing Contemporaly World Issues (2010), Pitesti, Romania.

54. Jessica M Miller, Colleen Dilorio, William Dudley (2002), “Parenting

style and adolescent’s reaction to conflict: is there a relationship?” Journal of

Adolescent Health (31), p.463-468.

55. Maccoby, E.E., & Martin, J.A. (1983), “Socialization in the context of the

family: Parent-child interaction. In P. H. Mussen (Ed.), Handbook of child

psychology”, Socialization, personality, and social development, New York:

Wiley (4), p. 1–101.

56. Ulla Bjornberg and Lillemor Dahlgren (1990 – 2000), European parents in

the 1990s, Sweden.

iv

Tiếng Pháp

57. Kellerhals et Montandon (1991), Les stratégies ésducatives des familles,

Paris Neuchâtel.

Trang web

58. www.tamly.com.vn (ngày 20/12/2013)

59. www.thanhnien.com.vn (ngày 8/12/2012)

50.www.wikipedia.org (ngày 5/6/2013)

61.www. The - positive - parenting - centre.com (ngày 2/10/2014).

v

PHỤ LỤC

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Khoa Tâm lý học -------------

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Anh/chị thân mến!

Chúng tôi là nhóm nghiên cứu thuộc khoa Tâm lý học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Chúng tôi gửi tới anh/chị phiếu trưng cầu ý kiến này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng giáo dục con trong độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi của các bậc phụ huynh trên địa bàn Hà Nội. Ý kiến của anh/chị (bằng cách khoanh tròn vào phương án trả lời mà anh/chị cho là phù hợp nhất với mình ở mỗi câu) là rất quan trọng, là cơ sở để nhóm nghiên cứu đánh giá tình hình một cách khách quan và đưa ra một số kiến nghị xác đáng trong việc giáo dục trẻ ở độ tuổi này. Chúng tôi cam kết việc trưng cầu ý kiến đảm bảo nguyên tắc khuyết danh và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học.

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các anh/chị!

----------

Câu 1. Khi con ăn bằng tay hay làm rơi vãi thức ăn thì phản ứng của anh

/chị là:

A Bực tức, quát con . □

B Nhắc nhở nhẹ nhàng, hướng dẫn con ăn đúng cách, hợp vệ sinh. □

C Không sao cả, con còn nhỏ, lớn lên tự con sẽ biết cách điều chỉnh □

Câu 2. Trong quá trình ăn uống, con thường chê bai thức ăn không

ngon, con không thích, anh/ chị phản ứng như thế nào?: A Yêu cầu con ăn hết khẩu phần dù con thích hay không. □

B Tìm cách động viên, thậm chí “đánh lạc hướng” để con có thể ăn một □

phần nào đấy.

C Tùy con, nếu con không thích thì thôi. □

Câu 3. Trước khi ăn cơm, anh/ chị thường:

a Yêu cầu con phải tự rửa tay. □

b Rửa tay cho con và hướng dẫn con rửa tay đúng cách. □

c Không quan trọng việc con đã rửa tay hay chưa. □

Câu 4. Ngoài những bữa chính, con có thể ăn thêm đồ ăn khác (bánh,

quả, sữa chua...):

A Theo giờ qui định □

B Theo khẩu phần mà anh/ chị đã thống nhất với con từ trước. □

C Lúc nào con thích □

Câu 5. Đến giờ đi ngủ mà con vẫn còn mải chơi, anh/chị thường:

A Yêu cầu con phải đi ngủ ngay lập tức. □

B Nhắc con đi ngủ rồi cùng hát hay kể chuyện cho con nghe để con dần □

dần vào giấc ngủ.

C Để con chơi khi nào buồn ngủ con sẽ đi ngủ. □

Câu 6. Trước khi đi ngủ, con không muốn làm vệ sinh cá nhân (đánh

rằng, đi vệ sinh…) anh/chị thường:

a. Nghiêm khắc bắt con phải làm ngay lập tức. □

b. Nhắc nhở rồi cùng làm với con để con có thói quen hàng ngày. □

c. Tôn trọng sự lựa chọn của con. □

Câu 7. Khi con mè nheo, không chịu dậy đi học vào buổi sáng, anh/ chị

làm thế nào?

A Khó chịu và lôi ngay con dậy để kịp giờ đến trường. □

B Bật bài hát/ làm trò mà con thích để con dần tỉnh giấc. □

C Cho con ngủ thêm một chút rồi sẽ gọi con dậy, muộn cũng không sao. □

Câu 8. Khi con muốn mua đồ chơi mới, anh/ chị thường:

A Mua cho con đồ chơi mà anh/ chị cảm thấy phù hợp và cần thiết. □

B Cho con cùng lựa chọn và anh/ chị sẽ định hướng cho con nên chơi đồ □

chơi nào.

C Để con tự lựa chọn những đồ con thích. □

Câu 9. Con mải xem tivi, máy tính, chơi trò chơi...phản ứng của anh/ chị

sẽ là:

A Yêu cầu con tắt tivi/ máy tính/ trò chơi ngay lập tức. □

B Nhắc nhở con không nên xem tivi/ máy tính/ trò chơi quá nhiều và phải □

tắt tivi/ máy tính/ trò chơi khi chương trình đang xem kết thúc.

C Để con thoải mái, miễn sao con ngoan là được. □

Câu 10. Khi con chơi đồ chơi xong, anh/ chị thường:

A Yêu cầu con phải thu dọn ngay lập tức nếu không sẽ bị phạt. □

B Cùng con thu dọn đồng thời giải thích cho các con hiểu rõ việc làm đó. □

C Nhắc nhở con nhưng không quan trọng con có làm hay không vì con □

còn nhỏ.

Câu 11. Khi con mang đồ chơi của bạn về nhà, anh/ chị thường:

A Bắt con phải trả lại ngay khi có thể. □

B Giải thích cho con như vậy là không nên và cùng con mang đồ trả bạn. □

C Không nói gì vì đó là chuyện trẻ con. □

Câu 12. Anh/ chị thường:

A Yêu cầu con thực hiện một số việc nhà như: sắp xếp quần áo, lấy bát, đũa □

dọn cơm...

B Động viên và khuyến khích con tham gia giúp bố mẹ làm việc nhà phù □

hợp với lứa tuổi của con.

C Không bắt con làm gì cả vì con còn nhỏ. □

Câu 13. Đối với việc kết bạn của con anh/ chị thường:

A Chỉ cho con chơi với những cháu mà anh/ chị thấy ngoan và phù hợp với □

con mình.

B Tôn trọng sự lựa chọn của con và cùng con tìm hiểu về người bạn đó. □

C Không quá quan trọng vì con còn nhỏ, chơi với ai cũng được. □

Câu 14. Anh/chị thường phản ứng thế nào khi con gây sự (đánh, cào,

cấu…) với bạn:

A Đánh cho con một trận vì dám cả gan đánh người khác. □

B Hỏi con lý do và giải thích cho con rồi cùng con xin lỗi bạn □

C Mặc kệ, trẻ con đánh nhau là bình thường. □

Câu 15. Nếu con xin phép sang nhà bạn chơi mà anh/ chị chưa biết rõ

về bạn đó thì anh/ chị sẽ:

A Hỏi con để biết thêm thông tin về bạn. Nếu chắc chắn thì mới yên tâm cho □

con đi chơi.

B Đồng ý cho con đi nhưng anh/ chị sẽ dẫn con đi để trực tiếp được gặp bạn □

của con.

C Đồng ý cho con tự đi chơi vì anh/ chị tin tưởng vào con mình. □

Câu 16. Khi con chơi với những bạn mà anh/ chị thấy là không tốt, anh /

chị sẽ:

A Cấm không cho con tiếp tục chơi với bạn đó. □

B Giải thích cho con thấy những điểm chưa tốt của bạn và hạn chế con □

trong việc chơi với bạn này.

C Tùy con quyết định miễn là con thấy thoải mái. □

Câu 17. Khi thấy con có hành vi cư xử chưa đúng mực như nói tục,

chửi bậy, lấy đồ của người khác mà không hỏi… anh/ chị sẽ:

A Quát/ đánh để con phải chấm dứt ngay việc làm đó. □

B Giải thích cho con thấy rằng điều đó là không tốt và yêu cầu con lần □

sau không được tái phạm.

C Để con tự do, lớn lên con sẽ biết phải cư xử thế nào. □

Câu 18. Anh / chị thường phản ứng thế nào khi con nói trống không với

ông bà, bố mẹ hay những người lớn tuổi hơn:

A Quát/ mắng và nghiêm khắc phê bình con, nếu tái phạm sẽ bị phạt ngay □

lập tức.

B Phê bình và nhắc nhở con □

C Để con được tự do thể hiện vì con đang tuổi học nói. □

Câu 19. Khi thấy con cãi lại người lớn, anh/ chị thường hành động như

thế nào?

A Nghiêm khắc phê bình và bắt con phải xin lỗi ngay lập tức. □

B Giải thích cho con và yêu cầu con xin lỗi mọi người. □

C Nhắc nhở đại khái vì con vẫn còn nhỏ, chưa biết gì. □

Câu 20. Khi Ông bà, cô bác… cho quà nhưng con không nói cảm ơn,

anh/ chị thường:

A Yêu cầu con phải cảm ơn ngay nếu không sẽ bị thu lại quà. □

B Giải thích cho con hiểu việc làm của con là chưa đúng, phải biết cảm □

ơn mọi người khi nhận quà.

C Để con được tự do thể hiện, từ từ con sẽ thay đổi. □

Câu 21. Con không chào người lớn trong nhà khi đi học về, anh/chị

phản ứng thế nào?

A Yêu cầu con phải chào mọi người ngay lập tức nếu không sẽ bị phạt. □

B Nhắc nhở, động viên con chào mọi người cho lễ phép. □

C Không để ý, vì con còn quá nhỏ. □

Câu 22. Theo anh/chị, bố mẹ có vai trò như thế nào trong việc giáo dục

con ở độ tuổi mẫu giáo:

A Bố mẹ là người quyết định cho con cái vì chúng còn quá nhỏ. □

B Bố mẹ là người định hướng, giúp đỡ khi thấy cần thiết, chứ không làm □

thay các con.

C Bố mẹ là người quan sát, nên để con cái tự giải quyết mọi vấn đề, để □

con sớm tự lập.

Câu 23. Khi con phạm lỗi, theo anh/chị trách nhiệm thuộc về:

A Các con phải tự chịu trách nhiệm về bản thân mình. □

B Cả cha mẹ và con cái đều cần có trách nhiệm. □

C Trách nhiệm chính thuộc về cha mẹ. □

Câu 24. Khi các con có lỗi, thái độ nhận lỗi của con với anh/chị

thường là:

A Rất khó khăn và lo sợ. □

B Bình thường. □

C Rất dễ dàng. □

Câu 25. Mỗi lần con gặp khó khăn hay vấn đề gì rắc rối, con thường:

A Không dám nói với anh/ chị. □

B Mạnh dạn chia sẻ cùng anh/ chị để anh/ chị giúp đỡ. □

C Tự mình giải quyết. □

Câu 26. Anh/ chị nhận thấy con của mình biểu hiện là đứa trẻ:

a Nhút nhát, ngại giao tiếp, và hay phụ thuộc vào bố mẹ. □

b Tự tin, vui vẻ, hòa đồng với mọi người □

Thoải mái, tự do trong mọi hoạt động. c □

d Ý kiếnkhác:………………………………………………………………

Câu 27. Hiện nay con anh/ chị:

a Biết chủ động trong việc ăn mặc cũng như vệ sinh cá nhân (đánh răng, □

rửa mặt, rửa tay...).

b Chưa thành thạo trong các công việc cá nhân (vệ sinh cá nhân, ăn, □

mặc...).

c Nói chung chưa tự làm được gì vì cháu còn quá nhỏ. □

Câu 28. Xin anh/ chị vui lòng cho biết một số thông tin sau đây:

- Trình độ học vấn: THPT □ CĐ, Đại Học □ Sau Đại Học □ - Nghề nghiệp:............................................................... - Năm sinh:.................................................................... - Thu tháng quân/ nhập đình anh của gia

bình chị:....................................VNĐ/ tháng

- Anh/ chị có mấy con:................................................... - Cháu đang học mầm non là: Con trai □ Con gái □

+ Cháu là con thứ mấy trong gia đình anh/chị?

□ con đầu □ con thứ hai □ con thứ ba □ ý kiến khác

+ Tuổi của cháu:........tuổi

Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của anh/chị!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TÂM LÝ HỌC -----------

THƢ NGỎ

Thưa Quý Anh/Chị!

Chúng tôi là nhóm nghiên cứu thuộc Khoa tâm lý học, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chúng tôi xin gửi

tới anh và chị hai bảng hỏi nhằm mục đích trưng cầu ý kiến của anh/chị về

thực trạng giáo dục của cha mẹ đối với con trong độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi trên

địa bàn Hà Nội. Ý kiến của anh/chị có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp

chúng tôi có được cái nhìn khách quan và sát thực nhất về lĩnh vực này.

Trong quá trình trả lời bảng hỏi (Mẫu phiếu A dành cho bố, mẫu phiếu B

dành cho mẹ), xin anh chị vui lòng trả lời một cách độc lập, không tham khảo

ý kiến của nhau. Sau khi hoàn thiện, chúng tôi mong rằng anh/chị có thể gửi

lại phiếu trưng cầu ý kiến này cho các giáo viên phụ trách lớp học của các

con. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn! Anh/chị có thể liên hệ với chúng tôi

qua số điện thoại 0934363799 hoặc email: uyengtsen@yahoo.com. Nếu

anh/chị thấy có bất kỳ điều gì cần trao đổi với nhóm nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu hi vọng sẽ nhận được phiếu trưng cầu hoàn thiện từ

phía anh/chị trong thời gian 2-3 ngày tới và xin cam kết việc trưng cầu ý kiến

này được đảm bảo nguyên tắc khuyết danh và chỉ phục vụ mục đích nghiên

cứu khoa học.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Quý Anh/Chị!

Thay mặt cho nhóm nghiên cứu Vũ Thị Tố Uyên

STT Factor 1

PCGD

Factor 2

PCGD

PCGD chung

PCGD

1.00 độc đoán

1.00 độc đoán

1.00 độc đoán

1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.25 độc đoán 1.25 độc đoán 1.25 độc đoán 1.25 độc đoán 1.25 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.42 độc đoán 1.42 độc đoán 1.42 độc đoán 1.50 độc đoán 1.50 độc đoán 1.50 độc đoán

1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.11 độc đoán 1.22 độc đoán 1.22 độc đoán 1.22 độc đoán 1.22 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán 1.33 độc đoán

1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.00 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.04 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.08 độc đoán 1.10 độc đoán 1.11 độc đoán 1.14 độc đoán 1.14 độc đoán 1.17 độc đoán 1.17 độc đoán 1.18 độc đoán 1.18 độc đoán 1.18 độc đoán 1.18 độc đoán 1.25 độc đoán 1.26 độc đoán 1.28 độc đoán 1.31 độc đoán 1.32 độc đoán 1.33 độc đoán 1.36 độc đoán 1.38 độc đoán 1.40 độc đoán 1.47 độc đoán 1.47 độc đoán 1.50 độc đoán

ĐIỂM TRUNG BÌNH

40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79

1.50 độc đoán 1.58 độc đoán 1.58 độc đoán 1.58 độc đoán 1.58 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.75 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ

1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.44 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.56 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.67 độc đoán 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ

1.51 độc đoán 1.54 độc đoán 1.54 độc đoán 1.54 độc đoán 1.60 độc đoán 1.60 độc đoán 1.61 độc đoán 1.61 độc đoán 1.61 độc đoán 1.63 độc đoán 1.63 độc đoán 1.63 độc đoán 1.64 độc đoán 1.65 độc đoán 1.65 độc đoán 1.67 độc đoán 1.68 dân chủ 1.68 dân chủ 1.69 dân chủ 1.69 dân chủ 1.71 dân chủ 1.72 dân chủ 1.72 dân chủ 1.72 dân chủ 1.74 dân chủ 1.74 dân chủ 1.74 dân chủ 1.75 dân chủ 1.78 dân chủ 1.79 dân chủ 1.79 dân chủ 1.79 dân chủ 1.79 dân chủ 1.79 dân chủ 1.81 dân chủ 1.81 dân chủ 1.81 dân chủ 1.81 dân chủ 1.81 dân chủ 1.81 dân chủ

80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119

1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ

1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.78 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ

1.81 dân chủ 1.81 dân chủ 1.82 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.83 dân chủ 1.85 dân chủ 1.85 dân chủ 1.85 dân chủ 1.85 dân chủ 1.85 dân chủ 1.85 dân chủ 1.86 dân chủ 1.86 dân chủ 1.86 dân chủ 1.88 dân chủ 1.88 dân chủ 1.88 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.90 dân chủ 1.90 dân chủ 1.90 dân chủ 1.90 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.92 dân chủ 1.93 dân chủ 1.93 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ

120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159

2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.08 dân chủ 2.17 dân chủ 2.17 dân chủ

1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 1.89 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.11 dân chủ 2.11 dân chủ

1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.94 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.96 dân chủ 1.99 dân chủ 1.99 dân chủ 1.99 dân chủ 1.99 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.00 dân chủ 2.01 dân chủ 2.01 dân chủ 2.01 dân chủ 2.03 dân chủ 2.04 dân chủ 2.04 dân chủ 2.06 dân chủ 2.07 dân chủ 2.08 dân chủ

2.08 dân chủ 2.10 dân chủ 2.10 dân chủ 2.13 dân chủ 2.14 dân chủ 2.14 dân chủ 2.15 dân chủ 2.19 dân chủ 2.21 dân chủ 2.24 dân chủ 2.25 dân chủ 2.28 dân chủ 2.42 2.43 2.44 2.50 2.58 2.60 2.61 2.64 2.68 2.74 2.76 2.78 2.78 2.78 2.81 2.89 2.90 2.92 2.96 3.00 3.00

tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do

2.17 dân chủ 2.17 dân chủ 2.17 dân chủ 2.25 dân chủ 2.25 dân chủ 2.25 dân chủ 2.25 dân chủ 2.25 dân chủ 2.25 dân chủ 2.33 dân chủ 2.42 2.50 2.50 2.58 2.58 2.67 2.67 2.67 2.67 2.67 2.75 2.75 2.75 2.83 2.83 2.83 2.92 2.92 3.00 3.00 3.00 3.00 3.00

tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do

2.11 dân chủ 2.11 dân chủ 2.11 dân chủ 2.11 dân chủ 2.11 dân chủ 2.11 dân chủ 2.22 dân chủ 2.22 dân chủ 2.22 dân chủ 2.22 dân chủ 2.22 dân chủ 2.22 dân chủ 2.33 dân chủ 2.33 dân chủ 2.33 dân chủ 2.33 dân chủ 2.44 2.56 2.56 2.56 2.67 2.78 2.78 2.78 2.78 2.78 2.89 2.89 2.89 3.00 3.00 3.00 3.00

tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do tự do

160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192

Kết quả xử lý SPSS

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

.946

Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square

2808.705

df

231

Sig.

.000

Rotated Component Matrixa

Component 2

1 .753 .663

.697

.505

.558 .595 .650 .686 .641 .742

.608 .560 .612

.528 .632 .649

.574

.649

.715

.752

.716 .723 .705

con an bang tay con thuong che thuc an ve sinh truoc khi an ngoai bua chinh con co the an them do an khac den gio di ngu ma con van mai choi truoc khi di ngu con khong muon lam ve sinh ca nhan neu con me nheo khong chiu day di hoc sang khi con muon mua do choi moi phan ung cua anh chi khi con mai xem tivi, may tinh khi con choi do choi xong,anh chi thuong phan ung cua anh chi khi con mang do choi cua ban ve nha anh chi thuong anh chi thuong ung xu the nao doi voi viec ket ban cua con anh chi thuong phan ung the nao khi con gay su voi ban anh chi se lam gi neu con xin phep sang nha ban choi ma anh chi chua biet ro ve ban do con choi voi ban ma anh chi thay la khong tot anh chi se thay con co hanh vi cu xu chua dung muc nhu noi tuc chui bay… anh chi thuong phan ung khi con noi trong khong voi ong ba, bo me hay nhung nguoi lon tuoi thay con cai lai nguoi lon, anh chi thuong hanh dong nhu the nao khi ong ba, co bac cho qua ma con khong noi cam on con khong chao nguoi loi trong nha khi di hoc ve anh chi phan ung Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 3 iterations.

PCGD của cha mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục.

Rfactor1

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

27.6 88.0 100.0

Valid doc doan dan chu tu do Total

Frequency 53 116 23 192

27.6 60.4 12.0 100.0

27.6 60.4 12.0 100.0

Rfactor2

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

37.5 91.1 100.0

Valid doc doan dan chu tu do Total

Frequency 72 103 17 192

37.5 53.6 8.9 100.0

37.5 53.6 8.9 100.0

RDTBtonghopPCGDN

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

28.6 89.1 100.0

Valid doc doan dan chu tu do Total

Frequency 55 116 21 192

28.6 60.4 10.9 100.0

28.6 60.4 10.9 100.0

PCGD của bố và PCGD của mẹ trong từng lĩnh vực giáo dục gia đình.

PCGD của bố trong giáo dục nề nếp sinh hoạt và việc kết bạn của con.

Rfactor1

Frequency Percent Valid Percent Cumulative

Percent

doc doan

36

37.5

37.5

37.5

dan chu

43

82.3

44.8

44.8

Valid

tu do

17

100.0

17.7

17.7

Total

96

100.0

100.0

PCGD của mẹ trong giáo dục nề nếp sinh hoạt và việc kết bạn của con

Rfactor1

Frequency Percent Valid Percent Cumulative

Percent

doc doan

17.7

17.7

17.7

17

dan chu

93.8

76.0

76.0

73

Valid

tu do

100.0

6.3

6.3

6

Total

100.0

100.0

96

PCGD của mẹ trong giáo dục ý thức kỷ luật lao động và ứng xử của con với người lớn.

Rfactor2

Frequency Percent Valid Percent Cumulative

Percent

1.00

30.2

29

30.2

30.2

2.00

68.8

66

99.0

68.8

Valid

3.00

1.0

1

100.0

1.0

Total

96

100.0

100.0

PCGD của bố trong giáo dục ý thức kỷ luật, lao động và ứng xử của con với người lớn.

Rfactor2

Frequency Percent Valid Percent Cumulative

Percent

doc doan

43

44.8

44.8

44.8

dan chu

37

83.3

38.5

38.5

Valid

tu do

16

100.0

16.7

16.7

Total

96

100.0

100.0

T-Test

Paired Samples Correlations

N

Correlation

Sig.

96

.161

.117

Pair 1

PCGDcuaB & PCGDcuaM

Paired Samples Test

Paired Differences

t

df

Sig. (2-

tailed)

Mean

Std.

Std. Error

95% Confidence

Deviation

Mean

Interval of the Difference

Lower

Upper

PCGDcuaB -

-.06250

.79223

.08086

-.22302

.09802 -.773

95

.441

Pair 1

PCGDcuaM

Crosstabs

Total

PCGDcuaB * PCGDcuaM Crosstabulation PCGDcuaM dan chu

tu do

doc doan

10

0

27 27.0% 73.0%

37 0.0% 100.0%

doc doan

55.6% 36.5%

0.0% 38.5%

6

4

PCGDcua B

10.4% 28.1% 32 14.3% 76.2%

0.0% 38.5% 42 9.5% 100.0%

dan chu

33.3% 43.2% 100.0% 43.8%

Count % within PCGDcuaB % within PCGDcuaM % of Total Count % within PCGDcuaB % within PCGDcuaM % of Total Count

tu do

6.3% 33.3% 15

2

4.2% 43.8% 17

0

11.8% 88.2%

0.0% 100.0%

11.1% 20.3%

0.0% 17.7%

18

4

2.1% 15.6% 74 18.8% 77.1%

0.0% 17.7% 96 4.2% 100.0%

Total

100.0% 100.0% 100.0% 100.0%

% within PCGDcuaB % within PCGDcuaM % of Total Count % within PCGDcuaB % within PCGDcuaM % of Total

18.8% 77.1%

4.2% 100.0%

T-Test

Group Statistics

Gioitinh

N

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

nam

96

1.7917

.72427

.07392

RDTBtonghopPCG DN

nu

96

1.8542

.45835

.04678

Independent Samples Test

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

95% Confidence Interval of the Difference

Sig. (2- tailed)

Mean Differe nce

Std. Error Differen ce

Lower

Upp er

F

Sig.

t

df

31.689

.000

-.714

190

.476 -.06250

.08748 -.23506

.110 06

RDTBt onghop PCGD N

Equal varianc es assume d

-.714

.476 -.06250

.08748 -.23526

.110 26

160.5 77

Equal varianc es not assume d

Phong cách giáo dục của mẹ và phong cách giáo dục của bố nói chung

PCGDcuaM

Frequenc

Percent

Valid

Cumulative

y

Percent

Percent

18

9.4

18.8

18.8

doc doan

dan chu

95.8

74

38.5

77.1

Valid

tu do

100.0

4

2.1

4.2

Total

96

50.0

100.0

96

50.0

Missing System

Total

192

100.0

PCGDcuaB

Percent

Frequenc y

Valid Percent

Cumulative Percent

37

19.3

38.5

38.5

doc doan

dan chu

82.3

42

21.9

43.8

Valid

tu do

100.0

17

8.9

17.7

Total

96

50.0

100.0

96

50.0

Missing System

Total

192

100.0

T-Test

Group Statistics

Gioitinh

N

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

96 1.8021

.71994

.07348

nam

Rfactor 1

nu

96 1.8854

.47837

.04882

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances

F

Sig.

t

df Sig.

Mean Differ ence

Std. Error Differ ence

(2- tailed )

95% Confidence Interval of the Difference

Lowe r

Uppe r

.000

190

.346

28.22 3

.0882 2

.0906 8

Equal variances assumed

- .94 5

- .0833 3

- .2573 5

.346

Rfacto r1

.0882 2

.0908 5

- .94 5

165 .20 2

- .0833 3

- .2575 2

Equal variances not assumed

Group Statistics

N

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

Gioitin h

96 1.7188

.73561

.07508

nam

Rfacto r2

96 1.7083

.47940

.04893

nu

Independent Samples Test

t-test for Equality of Means

Levene's Test for Equality of Variances

F

Sig.

t

df

Sig. (2- tailed)

Mean Differe nce

Std. Error Differe nce

95% Confidence Interval of the Difference

Lower Upper

.000 .116 190

.908 .01042 .08961

.18718

- .16635

26.81 4

Equal variances assumed

.908 .01042 .08961

.18737

Rfactor 2

.116 163. 365

- .16653

Equal variances not assumed

Correlations

Rfactor1 Rfactor2

1

.725**

Pearson Correlation

Rfactor1

Sig. (2-tailed) N

192 .725**

.000 192 1

Pearson Correlation

Rfactor2

Sig. (2-tailed) N

.000 192

192

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2- tailed).

Mối liên hệ giữa PCGD của cha mẹ và tự đánh giá của cha mẹ về vai trò trong

giáo dục trẻ.

Correlations

Correlations

theo anh chi bo me co vai

tro nhu the

nao trong viec giao duc con

RDTBtonghop

do tuoi mau

PCGDN

giao

RDTBtonghopPCGDN

Pearson Correlation

1

.672**

.000

Sig. (2-tailed)

192

192

N

.672**

1

Pearson Correlation

theo anh chi bo me co vai tro nhu the nao trong viec

.000

Sig. (2-tailed)

giao duc con do tuoi mau

N

192

192

giao

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTBtonghopPCGDN * theo anh chi bo me co vai tro nhu the nao trong viec giao duc con do tuoi mau giao Crosstabulation

theo anh chi bo me co vai tro nhu the nao trong viec giao duc con do tuoi mau giao

bo me la nguoi dinh

bo me la nguoi

bo me la nguoi

huong giup

quan sat

quyet dinh cho con vi cung con nho

do chu khong lam thay cac con

nen de con cai tu giai quyet moi

Total

chuyen

doc doan

Count

37

15

3

55

RDTBtonghop PCGDN

% within

100.0

67.3%

27.3%

5.5%

%

RDTBtonghopP CGDN

% within theo anh chi bo me co

71.2%

13.6%

10.0%

vai tro nhu the nao trong viec

28.6 %

giao duc con do

tuoi mau giao

% of Total

19.3%

7.8%

1.6%

28.6 %

dan chu

Count

15

94

7

116

% within RDTBtonghopP

12.9%

81.0%

6.0%

100.0 %

CGDN

% within theo anh chi bo me co

vai tro nhu the

28.8%

85.5%

23.3%

nao trong viec

60.4 %

giao duc con do

tuoi mau giao

% of Total

60.4

7.8%

49.0%

3.6%

%

21

tu do

Count

0

1

20

.0%

4.8%

95.2%

100.0 %

% within RDTBtonghopP CGDN

.0%

.9%

66.7%

% within theo anh chi bo me co

10.9 %

vai tro nhu the

nao trong viec

giao duc con do

tuoi mau giao

% of Total

.5%

10.4%

.0%

10.9 %

Total

Count

110

30

192

52

% within RDTBtonghopP

27.1%

57.3%

15.6%

100.0 %

CGDN

% within theo anh chi bo me co

vai tro nhu the

100.0%

100.0%

100.0%

nao trong viec

100.0 %

giao duc con do

tuoi mau giao

% of Total

27.1%

57.3%

15.6%

100.0 %

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2- sided)

Value

df

Pearson Chi-Square

172.901a

4

.000

Likelihood Ratio

135.756

4

.000

Linear-by-Linear Association

86.210

1

.000

N of Valid Cases

192

a. 1 cells (11.1%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 3.28.

Correlations

Correlations

khi con pham

loi trach nhiem thuoc ve

RDTBtonghop PCGDN

RDTBtonghopPCGDN

Pearson Correlation

1

.607**

Sig. (2-tailed)

.000

N

192

192

Pearson Correlation

.607**

1

khi con pham loi trach nhiem thuoc ve

Sig. (2-tailed)

.000

N

192

192

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTBtonghopPCGDN * khi con pham loi trach nhiem thuoc ve Crosstabulation

khi con pham loi trach nhiem thuoc ve

ca cha me

cac con phai

trach nhiem

va con cai

tu chiu trach

deu can co

chinh thuoc

nhiem

trach nhiem

ve cha me

Total

RDTBtonghop

doc doan Count

31

18

6

55

PCGDN

% within

56.4%

32.7%

10.9% 100.0%

RDTBtonghopPCG

DN

% within khi con

83.8%

14.6%

18.8%

28.6%

pham loi trach

nhiem thuoc ve

16.1%

9.4%

3.1%

28.6%

% of Total

dan chu Count

6

102

8

116

% within

RDTBtonghopPCG

5.2%

87.9%

6.9% 100.0%

DN

% within khi con

16.2%

82.9%

25.0%

60.4%

pham loi trach

nhiem thuoc ve

% of Total

3.1%

53.1%

4.2%

60.4%

tu do

Count

0

3

18

21

% within

.0%

14.3%

85.7% 100.0%

RDTBtonghopPCG

DN

% within khi con

.0%

2.4%

56.3%

10.9%

pham loi trach

nhiem thuoc ve

.0%

1.6%

9.4%

10.9%

% of Total

37

123

32

192

Count

Total

% within

RDTBtonghopPCG

19.3%

64.1%

16.7% 100.0%

DN

% within khi con

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

pham loi trach

nhiem thuoc ve

% of Total

19.3%

64.1%

16.7% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig.

Value

df

(2-sided)

Pearson Chi-Square

149.957a

4

.000

Likelihood Ratio

121.930

4

.000

70.291

1

.000

Linear-by-Linear Association

N of Valid Cases

192

a. 2 cells (22.2%) have expected count less than 5. The

minimum expected count is 3.50.

Mối liên hệ giữa PCGD của cha mẹ và sự phát triển tâm lý của trẻ.

Correlations

Correlations

khi con co loi

thai do nhan

loi cua con voi anh chi thuong

la

RDTBtonghop PCGDN

RDTBtonghopPCGDN

Pearson Correlation

1

.585**

.000

Sig. (2-tailed)

192

192

N

.585**

1

Pearson Correlation

.000

Sig. (2-tailed)

khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

192

192

N

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTBtonghopPCGDN * khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la Crosstabulation

khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

rat kho khan va lo so

binh thuong

rat de dang

Total

Count

42

11

2

55

RDTBtonghopP CGDN

doc doan

76.4%

20.0%

3.6% 100.0%

53.8%

13.6%

6.1%

28.6%

% within RDTBtonghopPCGDN % within khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

21.9%

5.7%

1.0%

28.6%

% of Total

dan chu Count

36

66

14

116

31.0%

56.9%

12.1% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

46.2%

81.5%

42.4%

60.4%

% within khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

% of Total

18.8%

34.4%

7.3%

60.4%

tu do

Count

0

4

17

21

.0%

19.0%

81.0% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

.0%

4.9%

51.5%

10.9%

% within khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

.0%

2.1%

8.9%

10.9%

% of Total

78

81

33

192

Count

Total

40.6%

42.2%

17.2% 100.0%

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

40.6%

42.2%

17.2% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN % within khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la % of Total

Chi-Square Tests

Asymp. Sig.

Value

df

(2-sided)

Pearson Chi-Square

100.805a

4

.000

Likelihood Ratio

86.903

4

.000

65.320

1

.000

Linear-by-Linear Association

N of Valid Cases

192

a. 1 cells (11.1%) have expected count less than 5. The

minimum expected count is 3.61.

Correlations

Correlations

moi lan con gap kho khan

RDTBtonghop PCGDN

con thuong

RDTBtonghopPCGDN

Pearson Correlation

1

.554**

Sig. (2-tailed)

.000

N

192

192

.554**

1

Pearson Correlation

moi lan con gap kho khan con thuong

.000

Sig. (2-tailed)

N

192

192

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTBtonghopPCGDN * moi lan con gap kho khan con thuong Crosstabulation

moi lan con gap kho khan con

thuong

khong

manh dan

dam noi

chia se de

voi anh

anh chi

tu minh

chi

giup do

giai quyet

Total

RDTB tong hop

doc

Count

40

12

3

55

PCGDN

doan

% within RDTB tong

72.7%

21.8%

5.5% 100.0%

hop PCGDN

% within moi lan con

59.7%

11.7%

13.6%

28.6%

gap kho khan con

thuong

20.8%

6.3%

1.6%

28.6%

% of Total

dan chu Count

26

84

6

116

% within RDTB tong

22.4%

72.4%

5.2% 100.0%

hop PCGDN

% within moi lan con

38.8%

81.6%

27.3%

60.4%

gap kho khan con

thuong

13.5%

43.8%

3.1%

60.4%

% of Total

tu do

Count

1

7

13

21

% within RDTB tong

4.8%

33.3%

61.9% 100.0%

hop PCGDN

% within moi lan con

gap kho khan con

1.5%

6.8%

59.1%

10.9%

thuong

.5%

3.6%

6.8%

10.9%

% of Total

Total

Count

67

103

22

192

% within RDTB tong

34.9%

53.6%

11.5% 100.0%

hop PCGDN

% within moi lan con

gap kho khan con

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

thuong

% of Total

34.9%

53.6%

11.5% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

Value

df

Pearson Chi-Square

105.189a

4

.000

Likelihood Ratio

83.750

4

.000

58.571

1

.000

Linear-by-Linear Association

N of Valid Cases

192

a. 1 cells (11.1%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2.41.

Correlations

Correlations

anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

RDTBtonghop PCGDN

.213**

RDTBtonghopPCGDN

Pearson Correlation

1

.003

Sig. (2-tailed)

192

N

1

192 .213**

Pearson Correlation

anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

.003

Sig. (2-tailed)

192

192

N

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTB tong hop PCGDN * anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre Crosstabulation

anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

y kien khac

tu tin, vui ve, hoa dong

thoai mai tu do trong moi hoat dong

Total

nhut nhat, ngai giao tiep va hay phu thuoc vao bo me 23

15

12

5

55

doc doan

41.8%

27.3%

21.8%

9.1% 100.0%

RDTB tong hop PCGDN

53.5%

16.1%

26.7% 45.5%

28.6%

12.0% 19

7.8% 74

6.3% 17

2.6% 6

28.6% 116

dan chu

16.4%

63.8%

14.7%

5.2% 100.0%

44.2%

79.6%

37.8% 54.5%

60.4%

Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre % of Total

9.9% 1

38.5% 4

8.9% 16

3.1% 0

60.4% 21

tu do Count

4.8%

19.0%

76.2%

.0% 100.0%

2.3%

4.3%

35.6%

.0%

10.9%

.5% 43

2.1% 93

8.3% 45

.0% 11

10.9% 192

Total

22.4%

48.4%

23.4%

5.7% 100.0%

100.0% 100.0%

100.0%

100.0%

100.0 %

22.4%

48.4%

23.4%

5.7% 100.0%

% within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre % of Total

Chi-Square Tests

Asymp. Sig.

Value

df

(2-sided)

Pearson Chi-Square

59.697a

6

.000

Likelihood Ratio

53.229

6

.000

8.676

1

.003

Linear-by-Linear Association

N of Valid Cases

192

a. 4 cells (33.3%) have expected count less than 5. The

minimum expected count is 1.20.

Correlations

Correlations

RDTB tong hop PCGDN

hien nay con anh chi

RDTB tong hop

Pearson Correlation

1

.301**

PCGDN

Sig. (2-tailed)

.000

192

192

N

hien nay con anh chi Pearson Correlation

.301**

1

Sig. (2-tailed)

.000

192

192

N

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

Crosstabs

RDTB tong hop PCGDN * hien nay con anh chi Crosstabulation

hien nay con anh chi

biet tu chu dong trong viec an mac cung nhu ve sinh ca nhan

chua thanh thao trong cac cong viec ca nhan

noi chung chua tu lam duoc gi vi chau con qua nho

Total

Count

38

13

4

55

RDTB tong hop PCGDN

doc doan

69.1%

23.6%

7.3% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

36.5%

22.4%

13.3%

28.6%

% within hien nay con anh chi

% of Total

19.8%

6.8%

2.1%

28.6%

Count

59

43

14

116

dan chu

50.9%

37.1%

12.1% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

56.7%

74.1%

46.7%

60.4%

% within hien nay con anh chi

% of Total

30.7%

22.4%

7.3%

60.4%

tu do Count

7

2

12

21

33.3%

9.5%

57.1% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

6.7%

3.4%

40.0%

10.9%

% within hien nay con anh chi

% of Total

3.6%

1.0%

6.3%

10.9%

Count

104

58

30

192

Total

54.2%

30.2%

15.6% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

% within hien nay con anh chi

% of Total

54.2%

30.2%

15.6% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig.

Value

df

(2-sided)

Pearson Chi-Square

36.308a

4

.000

Likelihood Ratio

28.647

4

.000

17.352

1

.000

Linear-by-Linear Association

N of Valid Cases

192

a. 1 cells (11.1%) have expected count less than 5. The

minimum expected count is 3.28.

Kết quả dự báo của sự thay đổi trong PCGD của cả bố mẹ

Model Summary

Model

R

R Square Adjusted R

Square

Std. Error of the Estimate

.585a

.342

.339

.49229

1

a. Predictors: (Constant), khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

ANOVAa

Model

df

F

Sig.

Sum of Squares

Mean Square

23.932

1

.000b

Regressi on

23.932 98.75 0

1

Residual

46.047

190

.242

Total

69.979

191

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

b. Predictors: (Constant), khi con co loi thai do nhan loi cua

con voi anh chi thuong la

Coefficientsa

Model

Unstandardi

Standardi

t

Si

g.

zed

zed

Coefficients

Coefficie

nts

Beta

Std.

B

Error

.094

.00 0

.96 1

(Constant)

10. 25 5

1

.049

.585

9.9 37

.00 0

.48 8

khi con co loi thai do nhan loi cua con voi anh chi thuong la

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

Model Summary

R

Mod el

R Square

Adjusted R Square

Std. Error of the Estimate

1

.554a

.307

.303

.50534

a. Predictors: (Constant), moi lan con gap kho khan con thuong

ANOVAa

Model

df

F

Sig.

Sum of Squares

Mean Square

21.459

1

21.459 84.034

.000b

Regressi on

1

Residual

48.520

190

.255

Total

69.979

191

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

b. Predictors: (Constant), moi lan con gap kho khan con thuong

Coefficientsa

Model

t

Sig.

Unstandardized Coefficients

Standardiz ed Coefficients

B

Std. Error

Beta

.899

.107

8.396

.000

(Constant)

1

.523

.057

.554 9.167

.000

moi lan con gap kho khan con thuong

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

Model Summary

R

Mod el

R Square

Adjusted R Square

Std. Error of the

Estimate

1

.213a

.045

.040

.59294

a. Predictors: (Constant), anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

ANOVAa

Model

df

F

Sig.

Sum of Squares

Mean Square

3.179

1

3.179 9.041

.003b

Regressi on

1

Residual

66.800

190

.352

Total

69.979

191

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

b. Predictors: (Constant), anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

Coefficientsa

Model

t

Sig.

Unstandardized Coefficients

Standard ized Coefficie nts

Beta

B

Std. Error

1.489

.119

.000

(Constant)

12.52 6

1

.157

.052

.213 3.007

.003

anh chi nhan thay con minh bieu hien la dua tre

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

Model Summary

R

Mod el

R Square

Adjusted R Square

Std. Error of the Estimate

1

.301a

.091

.086

.57866

a. Predictors: (Constant), hien nay con anh chi

ANOVAa

Model

df

F

Sig.

Sum of Squares

Mean Square

Regressi

6.358

1

6.358 18.986

.000b

on

1

Residual

63.622

190

.335

Total

69.979

191

a. Dependent Variable: RDTBtonghopPCGDN

b. Predictors: (Constant), hien nay con anh chi

Coefficientsa

Model

t

Sig.

Unstandardized Coefficients

Standardiz ed Coefficient s

B

Std. Error

Beta

1.427

.100

14.251

.000

(Constant)

1

.246

.056

.301 4.357

.000

hien nay con anh chi

a. Dependent Variable: RDTB tong hop PCGDN

Các yếu tố ảnh hƣởng đến PCGD của cha mẹ

RDTB tong hop PCGDN * trinh do hoc van Crosstabulation trinh do hoc van cao dang,dai hoc

thpt

sau dai hoc

Total

2

46

7

55

RDTBtonghopPCG DN

doc doan

3.6%

83.6%

12.7% 100.0%

66.7%

30.5%

18.4%

28.6%

Count % within RDTBtonghopPCGDN % within trinh do hoc van % of Total

dan chu Count

1.0% 1

24.0% 86

3.6% 29

28.6% 116

.9%

74.1%

25.0% 100.0%

33.3%

57.0%

76.3%

60.4%

tu do

.5% 0

44.8% 19

15.1% 2

60.4% 21

.0%

90.5%

9.5% 100.0%

.0%

12.6%

5.3%

10.9%

.0% 3

9.9% 151

1.0% 38

10.9% 192

Total

1.6%

78.6%

19.8% 100.0%

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

% within RDTBtonghopPCGDN % within trinh do hoc van % of Total Count % within RDTBtonghopPCGDN % within trinh do hoc van % of Total Count % within RDTBtonghopPCGDN % within trinh do hoc van % of Total

1.6%

78.6%

19.8% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

df

Value 7.149a 7.464

4 4

.128 .113

.806

.369

1

192

Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases a. 4 cells (44.4%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .33.

Symmetric Measures

Approx. Sig.

Value

Asymp. Std. Errora

Approx. Tb

Phi

.128

.193

Nominal by Nominal

.128

.136

Cramer's V Pearson's R

.062

.897

.371c

.065

.063

1.012

.313c

.073

Spearman Correlation

Interval by Interval Ordinal by Ordinal N of Valid Cases

192

a. Not assuming the null hypothesis. b. Using the asymptotic standard error assuming the null hypothesis.

c. Based on normal approximatio n.

RDTB tong hop PCGDN * tuoi cua anh chi Crosstabulation

tuoi cua anh chi

24 25

27

28

29

30

31

32

33 34

35

36

37

38

39

40

41

43

44

45

47

Tot al

Count

0

0

0

1

2

3

4

3

4

4

6

7

8

5

3

1

1

1

1

1

0 55

doc doa n

RDTBt onghop PCGD N

.0 %

1.8 %

3.6 %

5.5 %

7.3 %

5.5 %

7.3 %

7.3 %

10. 9%

12. 7%

14. 5%

9.1 %

5.5 %

1.8 %

1.8 %

1.8 %

1.8 %

1.8 %

.0 %

.0 %

.0 %

10 0.0 %

% within RDTBtong hopPCGD N

16. 7%

14. 3%

16. 7%

30. 8%

23. 1%

22. 2%

19. 0%

31. 6%

35. 0%

50. 0%

62. 5%

42. 9%

33. 3%

50. 0%

.0 %

.0 %

.0 %

28. 6%

.0 %

% within tuoi cua anh chi

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

% of Total

.5 %

1.0 %

1.6 %

2.1 %

1.6 %

2.1 %

2.1 %

3.1 %

3.6 %

4.2 %

2.6 %

1.6 %

.5 %

.5 %

.0 %

.0 %

.0 %

28. 6%

.0 %

.5 %

.5 %

.5 %

Count

1

1

7

5

12

14

7

7

9 15

13

9

6

3

3

1

1

0

0

0

2

dan chu

11 6

.9 %

.9 %

6.0 %

4.3 %

10. 3%

12. 1%

6.0 %

6.0 %

7.8 %

12. 9%

11. 2%

7.8 %

5.2 %

2.6 %

2.6 %

.9 %

.9 %

.0 %

1.7 %

.0 %

.0 %

10 0.0 %

% within RDTBtong hopPCGD N

83. 3%

85. 7%

77. 8%

53. 8%

53. 8%

50. 0%

71. 4%

68. 4%

45. 0%

37. 5%

37. 5%

42. 9%

33. 3%

50. 0%

60. 4%

.0 %

.0 %

.0 %

% within tuoi cua anh chi

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

100 .0 %

% of Total

.5 %

.5 %

3.6 %

2.6 %

6.3 %

7.3 %

3.6 %

3.6 %

4.7 %

7.8 %

6.8 %

4.7 %

3.1 %

1.6 %

1.6 %

.5 %

.5 %

60. 4%

.0 %

.0 %

1.0 %

.0 %

Count

0

0

0

0

0

1

2

3

5

2

0

4

2

0

1

1

0

0

0

0

0 21

tu do

% within RDTBtong

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

4.8 %

9.5 %

14. 3%

23. 8%

9.5 %

.0 %

19. 0%

9.5 %

.0 %

4.8 %

4.8 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

10 0.0

%

hopPCGD N

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

5.6 %

15. 4%

23. 1%

27. 8%

9.5 %

.0 %

20. 0%

12. 5%

.0 %

14. 3%

33. 3%

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

10. 9%

% within tuoi cua anh chi

% of Total

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.5 %

1.0 %

1.6 %

2.6 %

1.0 %

.0 %

2.1 %

1.0 %

.0 %

.5 %

.5 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

.0 %

Total

Count

1

1

7

6

14

18

13

13

18 21

19

20

16

8

7

3

2

1

1

1

2

10. 9% 19 2

.5 %

.5 %

3.6 %

3.1 %

7.3 %

9.4 %

6.8 %

6.8 %

9.4 %

10. 9%

9.9 %

10. 4%

8.3 %

4.2 %

3.6 %

1.6 %

1.0 %

.5 %

.5 %

.5 %

1.0 %

10 0.0 %

% within RDTBtong hopPCGD N

% within tuoi cua anh chi

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

10 0.0 %

100 .0 %

10 0.0 %

% of Total

.5 %

.5 %

3.6 %

3.1 %

7.3 %

9.4 %

6.8 %

6.8 %

9.4 %

10. 9%

9.9 %

10. 4%

8.3 %

4.2 %

3.6 %

1.6 %

1.0 %

.5 %

.5 %

.5 %

1.0 %

10 0.0 %

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

df

Value 48.085a 54.149

40 40

.178 .067

5.934

1

.015

192

Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases a. 49 cells (77.8%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .11.

Symmetric Measures

Value

Approx. Sig.

Asymp. Std. Errora

Approx. Tb

.500 .354 -.176

.063

-2.468

.178 .178 .014c

-.201

.068

-2.833

.005c

Phi Nominal by Nominal Cramer's V Interval by Interval Pearson's R Ordinal by Ordinal Spearman Correlation

192

N of Valid Cases a. Not assuming the null hypothesis. b. Using the asymptotic standard error assuming the null hypothesis.

c. Based on normal approximation.

Total

RDTB tong hop PCGDN * anh chi co may con Crosstabulation anh chi co may con mot con hai con ba con 0

16

39

55

RDTB tong hop PCGDN

doc doan

29.1%

70.9%

.0% 100.0%

20.0%

35.5%

.0%

28.6%

Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi co may con % of Total

dan chu Count

8.3% 56

20.3% 59

.0% 1

28.6% 116

48.3%

50.9%

.9% 100.0%

70.0%

53.6%

50.0%

60.4%

tu do

29.2% 8

30.7% 12

.5% 1

60.4% 21

38.1%

57.1%

4.8% 100.0%

10.0%

10.9%

50.0%

10.9%

4.2% 80

6.3% 110

.5% 2

10.9% 192

Total

41.7%

57.3%

1.0% 100.0%

100.0% 100.0% 100.0% 100.0%

% within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi co may con % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi co may con % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within anh chi co may con % of Total

41.7%

57.3%

1.0% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

df

Value 9.384a 8.744

4 4

.052 .068

1.256

1

.262

192

Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases

a. 3 cells (33.3%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .22.

Symmetric Measures

Value

Approx. Sig.

Asymp. Std. Errora

Approx. Tb

.221 .156 -.081

.073

-1.122

.052 .052 .263c

-.103

.071

-1.433

.154c

Phi Nominal by Nominal Cramer's V Interval by Interval Pearson's R Ordinal by Ordinal Spearman Correlation

192

N of Valid Cases a. Not assuming the null hypothesis. b. Using the asymptotic standard error assuming the null hypothesis. c. Based on normal approximation.

RDTB tong hop PCGDN * chau la con thu may trong gia dinh anh chi Crosstabulation

chau la con thu may trong gia dinh anh chi con thu hai

Total

con dau 26

con thu 3 0

29

55

RDTB tong hop PCGDN

doc doan

47.3%

52.7%

.0% 100.0%

24.1%

35.4%

.0% 28.6%

Count % within RDTB tong hop PCGDN % within chau la con thu may trong gia dinh anh chi % of Total

13.5% 72

15.1% 43

.0% 28.6% 116

1

dan chu Count

62.1%

37.1%

.9% 100.0%

66.7%

52.4%

50.0% 60.4%

37.5% 10

22.4% 10

.5% 60.4% 21

1

% within RDTB tong hop PCGDN % within chau la con thu may trong gia dinh anh chi % of Total Count

tu do

47.6%

47.6%

4.8% 100.0%

9.3%

12.2%

50.0% 10.9%

5.2% 108

5.2% 82

.5% 10.9% 192

2

Total

56.3%

42.7%

1.0% 100.0%

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

% within RDTB tong hop PCGDN % within chau la con thu may trong gia dinh anh chi % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within chau la con thu may trong gia dinh anh chi % of Total

56.3%

42.7%

1.0% 100.0%

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

df

Value 7.438a 6.685

4 4

.114 .154

.166

1

.683

192

Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases a. 3 cells (33.3%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .22.

Symmetric Measures

Approx. Sig.

Value

Asymp. Std. Errora

Approx. Tb

.114 .114

.197 .139

Phi Cramer's V Pearson's R

.076

-.407

.685c

-.030

.075

-.750

.454c

-.054

Spearman Correlation

192

Nominal by Nominal Interval by Interval Ordinal by Ordinal N of Valid Cases

a. Not assuming the null hypothesis. b. Using the asymptotic standard error assuming the null hypothesis. c. Based on normal approximation.

RDTB tong hop PCGDN * tuoi cua chau Crosstabulation

tuoi cua chau hon 4 den 5

hon 5 den 6

tu 3 den 4

Total

17

20

18

55

RDTB tong hop PCGDN

doc doan

30.9%

36.4%

32.7% 100.0%

20.2%

32.3%

39.1% 28.6%

Count % within RDTB tong hop PCGDN % within tuoi cua chau % of Total

8.9% 54

10.4% 37

9.4% 28.6% 116

25

dan chu Count

46.6%

31.9%

21.6% 100.0%

64.3%

59.7%

54.3% 60.4%

28.1% 13

19.3% 5

13.0% 60.4% 21

3

tu do

61.9%

23.8%

14.3% 100.0%

15.5%

8.1%

6.5% 10.9%

6.8% 84

2.6% 62

1.6% 10.9% 192

46

Total

43.8%

32.3%

24.0% 100.0%

100.0%

100.0%

100.0% 100.0%

43.8%

32.3%

24.0% 100.0%

% within RDTB tong hop PCGDN % within tuoi cua chau % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within tuoi cua chau % of Total Count % within RDTB tong hop PCGDN % within tuoi cua chau % of Total

Chi-Square Tests

Asymp. Sig. (2-sided)

df

Value 7.485a 7.540

4 4

.112 .110

7.005

1

.008

192

Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Association N of Valid Cases a. 0 cells (.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 5.03.

Symmetric Measures

Value

Approx. Sig.

Asymp. Std. Errora

Approx. Tb

.197 .140 -.192

.070

-2.689

.112 .112 .008c

-.195

.070

-2.734

.007c

Phi Nominal by Nominal Cramer's V Interval by Interval Pearson's R Ordinal by Ordinal Spearman Correlation

192

N of Valid Cases a. Not assuming the null hypothesis. b. Using the asymptotic standard error assuming the null hypothesis. c. Based on normal approximation.