BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
********************* *********************
NGUYỄN THẾ KHANG NGUYỄN THẾ KHANG
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006 TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006
1 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
*********************
NGUYỄN THẾ KHANG
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành : Kinh tế tài chính – ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006
2
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài 2. Mục tiêu nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Kết cấu của luận văn CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA 1.1. Quan niệm về công tác thanh tra 1.1.1. Khái niệm về thanh tra 1.1.2. Đặc điểm và vai trò của công tác thanh tra 1.1.3. Mục tiêu của công tác thanh tra 1.2. Phân loại hoạt động thanh tra 1.2.1. Thanh tra hành chính 1.2.2. Thanh tra chuyên ngành 1.3. Công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 1.3.1. Khái niệm thanh tra thu chi ngân sách nhà nước 1.3.2. Nội dung của thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 1.3.3. Mục tiêu của thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 1.3.4. Yêu cầu về nguyên tắc công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 2 2 4 5 5 5 6 6 6 7 8 10 11 11 12 12 13 16 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA THU
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Nai 2.1.1. Về điều kiện tự nhiên, dân số, tiềm năng và thế mạnh 2.1.2. Về kinh tế, xã hội 2.1.3. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 2.2. Tổ chức, bộ máy thanh tra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 2.2.1. Các cơ quan hành chính và các cơ quan chuyên môn 2.2.2. Tổ chức bộ máy thanh tra tỉnh Đồng Nai 2.3. Thực trạng về thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 2.3.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về công tác thanh tra 2.3.2. Những cơ quan có chức năng thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước 2.3.3. Tình hình thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 2.3.4. Kết quả thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 18 18 18 19 21 22 22 24 24 24 27 28 31
3
2.3.4.1. Những thành tựu đã đạt được 2.3.4.2. Những dạng sai phạm phát hiện qua thanh tra 2.3.5. Những hạn chế, tồn tại về công tác thanh tra 2.3.5.1. Những hạn chế, tồn tại 2.3.5.2. Nguyên nhân khách quan 2.3.5.3. Nguyên nhân chủ quan 31 34 40 40 42 44
46
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI 3.1. Những yêu cầu phải tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân
sách nhà nước tỉnh Đồng Nai
46 47 48 49 49
3.1.1. Yêu cầu từ việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước 3.1.2. Yêu cầu từ mục tiêu kinh tế xã hội 3.1.3. Yêu cầu từ công cuộc phòng chống tham nhũng 3.1.4. Yêu cầu từ quá trình hội nhập 3.2 Các giải pháp tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước
tỉnh Đồng Nai
51 51
51 52 52 53
3.2.1. Nhóm giải pháp tăng số lượng cuộc thanh tra 3.2.1.1. Bổ sung quyền và nhiệm vụ cho Thanh tra tỉnh, đẩy mạnh công tác thanh tra hành chính của các cơ quan thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh. 3.2.1.2. Tăng cường nhân sự cho các tổ chức thanh tra 3.2.1.3. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác thanh tra 3.2.1.4. Thiết lập đường dây nóng tại cơ quan Thanh tra tỉnh 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả cuộc thanh tra 54
54 55 56 57 58
3.2.2.1. Xây dựng kênh thông tin về các văn bản pháp luật và tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo 3.2.2.2. Xây dựng chuẩn mực về công tác thanh tra. 3.2.2.3. Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo về công tác thanh tra. 3.2.2.4. Nâng cao hiệu lực của kết luận thanh tra 3.2.2.5. Nâng cao trình độ, phẩm chất của người làm công tác thanh tra. 3.2.2.6. Bổ sung nội dung kiểm tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội bộ của đơn vị được thanh tra trong quá trình thanh tra tài chính. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 61 63
4
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
KCHT: Kết cấu hạ tầng
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
XDCB: Xây dựng cơ bản
CTXH: Chính trị xã hội
GDP: Giá trị sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
UBND: Ủy ban nhân dân
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á ( Association of South-East Asian
Nations)
APEC: Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bì̀nh Dương ( Asia-Pacific
Economic Co-operation)
WTO: Tổ chức mậu dịch quốc tế ( World Trade Organization)
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( Organization for Economic Co-
operation and Development)
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank )
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý Nhà nước,
đồng thời là một công cụ kiểm tra kiểm soát nhằm bảo vệ pháp luật, tăng cường
pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước và
thực hiện dân chủ xã hội.
Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, với một cơ chế
chính sách quản lý tài chính chưa được chuyển biến kịp thời để đáp ứng cho yêu
cầu quản lý ngân sách nhà nước thì hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, thất
thoát đang diễn ra một cách công khai, trầm trọng, gây nên những thiệt rất lớn cho
đất nước. Ngân sách nhà nước chúng ta có được từ nguồn thu trong nước và từ
nguồn thu do được tài trợ hoặc đi vay ở nước ngoài. Do vậy, nếu như tệ nạn tham ô,
tham nhũng lãng phí, thất thoát không bị đẩy lùi, thì ngân sách của nhà nước bỏ ra
không những không tạo hiệu quả kinh tế để phát triển đất nước mà còn tạo ra một
sự bất tín nhiệm từ các nước trên thế giới, ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, đồng thời làm giảm những nguồn tài trợ của nước phát triển dành
cho Việt Nam, tạo gánh nặng trả nợ cho thế hệ mai sau.
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác
xây dựng Đảng tại Đại hội X của Đảng, tại phần phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới có nêu: “......đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Ðảng, nhiệm vụ
trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ
chức Đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu
tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong
Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội; có hệ thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và có hiệu
lực về tuyên truyền, giáo dục về hành chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về
thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Ðảng...”
Diễn văn bế mạc đại hội X của Đảng có đoạn: “...Chúng ta đặc biệt coi trọng các
biện pháp có hiệu quả nhằm phát huy cao nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa; xây dựng
sự vững mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, đẩy mạnh đồng bộ cuộc đấu tranh
6
phòng ngừa và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi các tệ nạn này làm lành mạnh tổ chức và bộ máy của chúng ta. Chúng ta nhất
quyết tạo nên một sự chuyển biến rõ rệt và đạt tới chất lượng cao hơn trong việc
thực hiện nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta luôn xứng đáng là
đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân...”.
Trong báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 và phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu 2006-2010 được trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng bộ
Đồng Nai lần thứ VIII nhiệm kỳ 2006-2010, một trong những giải pháp để đạt được
các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2010 là: “...Nâng cao năng lực và hiệu quả
giám sát tài chính bằng các biện pháp kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo
thông tin đảm bảo mọi hoạt động tài chính đều công khai minh bạch...”
Như vậy, việc phòng chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát hiện nay được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm, xem như đây làm nhiệm vụ để bảo vệ sự sống còn của
Đảng, của Nhà nước và của cả dân dân tộc. Đồng thời, qua đó ta cũng thấy được
rằng ngành thanh tra đóng góp một phần không thể thiếu được trong việc thực hiện
các biện pháp để đạt được các mục tiêu về kinh tế xã hội.
Ngành thanh tra được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ như là một công cụ
quan trọng trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát, những
vấn đề mà trong thời gian qua gây bức xúc, làm xói mòn niềm tin của quần chúng
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của của mình trong công cuộc phòng chống tham
nhũng, lãng phí và thất thoát mà Đảng và Nhà nước đang quyết tâm thực hiện, cũng
như để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ X đã đưa ra, tác giả chọn đề tài: “TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THANH
TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI” để làm đề tài
cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt các mục tiêu cụ thể như:
- Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về công tác thanh tra ngân sách
nhà nước. Nêu lên các cơ quan có chức năng thanh tra ngân sách nhà nước, mục
tiêu, nội dung và yêu cầu của công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước.
7
- Phân tích thực trạng về công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tại
tỉnh Đồng Nai trong những năm qua. Trong đó nêu lên kết quả thanh tra đã đạt
được, những hạn chế, tồn tại về công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước.
- Phân tích những yêu cầu phải tăng cường công tác thanh tra thu, chi ngân
sách nhà nước, từ đó đề xuất những giải pháp khả thi nhằm kiến nghị nhà nước tăng
cường công tác thanh tra thu, chi ngân sách, làm cho công tác thanh tra có hiệu quả
hơn, góp phần nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt công tác phòng
chống tham nhũng, lãng phí và thất thoát.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác thanh tra hoạt động thu, chi
ngân sách nhà nước của các cơ quan có chức năng thanh tra đối với những đơn vị
thực hiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước. Từ đó đi sâu nghiên cứu những sai
phạm, gian lận chủ yếu của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước trong thời gian
vừa qua, từ đó chỉ ra các hạn chế trong công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà
nước cần khắc phục kịp thời.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong thực tiễn công tác thanh tra
thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Số liệu thống kê, tài liệu
nghiên cứu, chủ yếu tham khảo từ những cơ quan quản lý nhà nước ở Đồng Nai
trong thời gian từ năm 2003-2005 và một số sách báo, tài liệu khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu của luận văn như đã trình bày, tuỳ vào đối tượng,
nội dung nghiên cứu cụ thể, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, tổng
hợp, so sánh và phân tích.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về công tác thanh tra
Chương II: Thực trạng công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước tỉnh
Đồng Nai.
Chương III: Giải pháp tăng cường công tác thanh tra thu, chi ngân sách nhà
nước tỉnh Đồng Nai.
8
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC THANH TRA
1.1. Quan niệm về công tác thanh tra
1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La-tinh (in-spectare) có nghĩa là “nhìn
vào bên trong” chỉ một sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng
nhất định. Là sự kiểm soát đối với đối tượng bị thanh tra trên cơ sở thẩm quyền
(quyền hạn và nghĩa vụ) được giao nhằm đạt được mục đích nhất định. Thanh tra
mang tính quyền lực, thông qua công tác thanh tra thường là phát hiện, ngăn chặn
những gì trái với quy định.
Theo Từ điển tiếng Việt (năm 1992) thì thanh tra là kiểm soát, xem xét tại
chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp.
Từ khái niệm trên cho thấy, thanh tra không đồng nhất với hoạt động điều
hành, quản lý, khác với hoạt động kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ. Trong hoạt
động, thanh tra thực thi quyền lực của Nhà nước, tác động đến đối tượng bị quản lý,
nhằm mang lại cho chủ thể quản lý những thông tin chính xác, khách quan, để từ đó
có biện pháp chấn chỉnh hoạt động quản lý. Hoạt động thanh tra không chỉ xem xét
tính hợp pháp, mà còn xem xét tính hợp lý của hành vi của đối tượng quản lý. Bản
chất của hoạt động thanh tra không phải chỉ là phát hiện, xử lý vi phạm, mà điều
quan trọng hơn là tìm ra nguyên nhân vi phạm để từ đó đề xuất các giải pháp phòng
ngừa, ngăn chặn vi phạm. Nếu cho rằng, thanh tra là phát hiện hành vi vi phạm và
áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính thì đó là việc nhận thức không đúng
với bản chất của hoạt động thanh tra. Ngược lại, thanh tra phải chỉ ra được những
việc làm được, những thiếu sót, khuyết điểm và nguyên nhân của nó và phải thực sự
trở thành ''tai mắt của trên, là người bạn của dưới''.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của công tác thanh tra
Thanh tra là một nội dung, một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, khi có quản lý là phải có thanh tra.
Lênin nói “Thanh tra và quản lý là một chứ không phải là hai”. Người cho rằng mục
9
đích của thanh tra là nhằm xây dựng “khả năng biết làm, biết thành thạo trong quản
lý”. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra cũng dựa trên
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin. Người nói: “Thanh tra là tai mắt
của trên, là người bạn của dưới” và “Thanh tra là để theo dõi, xem xét kế hoạch, chỉ
thị, chính sách đó, các địa phương đã chấp hành như thế nào”, “nếu họ làm sai hay
gặp khó khăn, còn giúp họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa
xuống”.
Mặt khác, các nghị quyết của Đảng đều khẳng định vai trò quan trọng của
công tác thanh tra đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý. Đảng ta cho rằng: “Tổ
chức Thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng và chính quyền trong việc kiểm tra sự
chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà nước”. Gần
đây, trong các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng ta đã nhấn mạnh quan điểm
coi thanh tra là một nội dung quan trọng của quản lý, nhằm “thiết lập kỷ cương xã
hội, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước”.
Thanh tra là một phương thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng: Một nét đặc
thù của hệ thống chính trị ở nước ta là có sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện đối với
toàn bộ đời sống xã hội và toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo
thông qua các chỉ thị, nghị quyết. Các chỉ thị, nghị quyết này được Nhà nước thể
chế hoá thành các văn bản pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động thanh tra việc chấp
hành chính sách, pháp luật, suy cho cùng, cũng là nhằm đảm bảo cho các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Cũng chính vì vậy, hoạt động thanh tra với
tư cách là một phương diện hoạt động của bộ máy nhà nước phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Thanh tra là một phương thức bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân: Nhà
nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong các văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc đều khẳng định mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn gắn với mục tiêu phát huy quyền dân chủ của
nhân dân. Mối quan hệ giữa công tác thanh tra với việc bảo đảm quyền dân chủ của
nhân dân thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thanh tra góp phần ngăn ngừa những hành vi vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân xuất phát từ các hoạt động công quyền.
10
- Thanh tra góp phần tạo lập một môi trường pháp lý lành mạnh cho quá
trình thực hiện quyền dân chủ.
- Thanh tra đóng vai trò là “chiếc cầu nối” giữa nhân dân với Nhà nước.
Nói tóm lại, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta (được hình thành trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin) thì thanh tra là một nội dung, là một chức
năng của quản lý nhà nước. Thanh tra là phương thức thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng và đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân.
1.1.3. Mục tiêu của công tác thanh tra
Tại điều 3 của Luật Thanh tra ghi rõ: Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong
cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Quy định này cho thấy hoạt động thanh tra có những mục tiêu cụ thể sau
đây:
- Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đây là mục
tiêu chủ yếu, trực tiếp của hoạt động thanh tra. Thanh tra là hoạt động thường xuyên
của cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo cho các quyết định quản lý được chấp
hành, bảo đảm mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân tuân thủ đúng quy định của pháp
luật. Chính tính chất thường xuyên của hoạt động thanh tra có tác dụng phòng ngừa
các hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì các cuộc thanh tra thường chỉ rõ những sai
phạm, lệch lạc cần phải chấn chỉnh trong hoạt động của đối tượng thanh tra, kể cả
những việc chưa xảy ra nhưng đang có nguy cơ hoặc dấu hiệu của sự vi phạm.
- Phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật cũng là mục tiêu quan trọng của hoạt
động thanh tra. Chúng ta đang hướng đến một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mà một trong những yêu cầu quan trọng của nó là phải tăng cường pháp chế,
kỷ cương pháp luật trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức và trong cách thức
hành xử của mọi công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện
nhanh chóng và xử lý nghiêm minh. Hoạt động thanh tra là xem xét việc làm của
các tổ chức, cá nhân trên cơ sở những quy định của pháp luật và tìm ra những việc
11
làm vi phạm và những người sai phạm để đánh giá tính chất, mức độ vi phạm, từ đó
kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những vi phạm đó.
- Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật để kiến
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục. Hoạt động thanh
tra không chỉ nhằm phát hiện và xử lý những vi phạm pháp l uật, mà còn giúp cho
cơ quan quản lý nhà nước đánh giá lại bản thân cơ chế, chính sách, các quy định
của pháp luật, các quyết định quản lý của mình xem nó đã phù hợp với thực tiễn
cuộc sống hay chưa, để kịp thời thay đổi, bổ sung nhằm khắc phục các sơ hở,
khuyết điểm đó.
- Phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đây là
những mục tiêu gián tiếp nhưng cũng không kém phần quan trọng của hoạt động
thanh tra.
1.2. Phân loại hoạt động thanh tra
Tại Điều 4 Luật Thanh tra ghi rõ: “Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh
giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình
tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp luật. Thanh
tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”.
Quy định trên đây đã đưa ra những đặt trưng quan trọng của thanh tra nhà
nước như sau:
- Về chủ thể: Đó là các cơ quan quản lý nhà nước. Thanh tra được coi là
chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là công cụ quan trọng của quản
lý nhà nước. Hoạt động đó có thể do thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định hoặc do
một loại cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước tiến hành, đó là các
cơ quan thanh tra nhà nước.
- Về đối tượng: Đó là các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý. Có thể
thấy đối tượng thanh tra là rất rộng, tương ứng theo đối tượng quản lý.
- Về nội dung thanh tra: Đó là xem xét, đánh giá, xử lý việc thực hiện chính
sách, pháp luật. Như vậy, nội dung thanh tra là khá toàn diện, nó bao gồm từ việc
xem xét làm rõ hoạt động hay hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đánh giá
12
những hoạt động và hành vi đó, đồng thời đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời
bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý.
1.2.1. Thanh tra hành chính
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước
theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra hành chính có những trưng cơ bản như sau:
- Về tổ chức: Thanh tra hành chính là hoạt động được đảm nhiệm bởi các cơ
quan thanh tra được tổ chức theo cấp hành chính. Ở trung ương là Thanh tra Chính
phủ; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi là thanh tra tỉnh; ở huyện, quận, thị
xã thuộc tỉnh là thanh tra huyện.
- Về nội dung thanh tra: Ngoài thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật,
thanh tra hành chính còn thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp
1.2.2. Thanh tra chuyên ngành
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước
theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp
luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực
thuộc thẩm quyền quản lý.
Thanh tra chuyên ngành có những đặc điểm sau đây:
- Về chủ thể: Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực. Ở cấp trung ương có thanh tra của Bộ và
cơ quan ngang bộ; ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có thanh tra của
Sở và các Ban, ngành.
- Về nội dung thanh tra chuyên ngành: Đó là việc thanh tra chấp hành pháp
luật, chấp hành những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của
ngành, lĩnh vực.
1.3. Công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước
1.3.1. Khái niệm thanh tra thu chi ngân sách nhà nước.
Thanh tra thu chi ngân sách nhà nước là một phần trong hoạt động thanh tra
tài chính, thuộc lĩnh vực thanh tra nhà nước. Trong thời gian qua, xã hội đã chứng
kiến rất nhiều vụ án với giá trị sai phạm rất lớn, mà chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực
13
chi tiêu ngân sách nhà nước, gây thiệt hại rất lớn cho ngân sách nhà nước. Đồng tiền
của Nhà nước chi ra đã không mang lại hiệu quả phục vụ cho sự phát triển của đất
nước, bị thất thoát và lãng phí rất nhiều. Từ những thực trạng đó, Đảng và Nhà
nước ta hiện nay rất quan tâm đến công tác thanh tra tài chính, trong đó thanh tra
thu, chi ngân sách nhà nước được dư luận đặt biệt quan tâm và là một đòi hỏi cần
thiết nhất đối với công cuộc phòng chống tham nhũng hiện nay ở nước ta.
Tại điều 1 và 2 của Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa XI kỳ họp
thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002 có nêu: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản
thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước. Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, các
khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức
và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi
ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, chi trả nợ của Nhà
nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thanh tra thu chi ngân sách nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử
lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của
nhà nước về công tác thu ngân sách và chi ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo công
tác thu chi ngân sách nhà nước của các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời có kiến nghị chấn chỉnh hoặc xử lý
những sai phạm nếu có.
1.3.2. Nội dung của thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước
Nội dung thu, chi ngân sách nhà nước được ghi rõ tại điều 2 và 3, Nghị định
60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết thi hành Luật Ngân sách nhà nước
như sau:
- Thu ngân sách nhà nước gồm:
- Thuế do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Phần nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của pháp luật, gồm : * Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
14
* Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi);
* Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi
nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của các tổ chức kinh tế có sự tham gia góp
vốn của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
- Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các hoạt động sự nghiệp. - Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích.
- Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước.
- Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước. - Thu từ huy động vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo
quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước.
- Phần nộp ngân sách nhà nước theo quy dịnh của pháp luật từ tiền bán hoặc
cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá
nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các tổ chức nhà nước thuộc địa
phương theo quy định .
- Thu từ Quỹ dự trữ tài chính theo quy định.
- Thu kết dư ngân sách theo quy định
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, gồm :
* Các khoản di sản nhà nước được hưởng;
* Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản phạt, tịch thu; * Thu hồi dự trữ nhà nước;
* Thu chênh lệch giá, phụ thu;
* Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên;
* Thu chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách năm trước chuyển sang;
* Các khoản thu khác.
- Chi ngân sách nhà nước bao gồm:
- Chi đầu tư phát triển về: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế- xã hội không có khả năng thu hồi vốn; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần,
liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà
15
nước theo quy định của pháp luật; Chi bổ sung dự trữ nhà nước; Chi đầu tư phát
triển thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước; Các khoản chi đầu
tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
- Chi thường xuyên về: Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã
hội, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,
các sự nghiệp xã hội khác; Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, Quốc phòng, an ninh
và trật tự an toàn xã hội; Hoạt động của các cơ quan nhà nước; Hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam; Hoạt động của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam; Trợ giá theo
chính sách của Nhà nước; Phần chi thường xuyên thuộc các Chương trình mục tiêu
quốc gia, dự án Nhà nước; Hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội; Trợ cấp cho các đối tượng
chính sách xã hội; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định
của pháp luật.
- Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
- Chi viện trợ của ngân sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức ngoài nước. - Chi cho vay của ngân sách trung ương.
- Chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo
quy định.
- Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính theo quy định.
- Chi bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
- Chi chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách năm trước sang ngân sách năm
sau.
Như vậy, với những nội dung thu, chi ngân sách nhà nước theo quy định như
trên, thực hiện chức năng quản lý nhà nước, các cơ quan có chức năng thanh tra thu,
chi ngân sách nhà nước phải thực hiện thanh tra theo những nội dung thu, chi như
trên nhằm xem xét, đánh giá việc tuân thủ pháp luật đối với việc thực hiện các
khoản thu, chi đó của các đơn vị, cơ quan có liên quan.
1.3.3. Mục tiêu của thanh tra thu, chi ngân sách
Từ những mục tiêu chung của công tác thanh tra, mục tiêu cụ thể của thanh
tra thu, chi ngân sách được xác định như sau:
16
Hoạt động thanh tra thu, chi ngân sách nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước; phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chi tiêu ngân sách. Phát hiện và kết
luận được những sai phạm trong việc phân phối quản lý, sử dụng các nguồn kinh
phí ngân sách nhà nước cấp, nguồn thu phí lệ phí, viện trợ, hoạt động sản xuất kinh
doanh dịch vụ, tài sản công và các loại quỹ khác....Phân tích tìm rõ nguyên nhân,
quy trách nhiệm và có những kiến nghị xử lý cụ thể đối với từng sai phạm.
1.3.4. Yêu cầu về nguyên tắc công tác thanh tra thu, chi ngân sách.
Tại điều 3, Nghị định 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra và tại điều 4, Quyết định số
32/2006/QĐ-BTC ngày 6/6/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính quy định về quy chế
hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính nêu rõ:
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính phải tuân theo pháp luật; bảo đảm
chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở
đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra,
kiểm tra.
- Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra người ra quyết định thanh tra, kiểm tra,
Trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra, thanh tra viên, thành viên đoàn thanh tra, kiểm tra
phải thực hiện đúng các qui định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra và phải chịu
trách nhiệm cá nhân về hành vi, quyết định của mình.
- Sau khi kết thúc thanh tra, phải có Kết luận thanh tra; các Đoàn thanh tra tài
chính phải bàn giao đủ hồ sơ, tài liệu, chứng lý cho cơ quan quyết định thanh tra
theo đúng qui định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Đây là những yêu cầu cụ thể về nguyên tắc hoạt động thanh tra nói chung và
hoạt động thanh tra thu, chi ngân sách nói riêng. Các cuộc thanh tra, đoàn viên đoàn
thanh tra phải tuân thủ đúng nguyên tắc này trong quá trình hoạt động, thực hiện
nhiệm vụ, đảm bảo đoàn thanh tra thực hiện đúng chức năng theo pháp luật quy
định.
17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế xã hội của tỉnh
Đồng Nai.
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên, dân số, tiềm năng và thế mạnh
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có diện tích 5.862,73 km2, chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của
vùng Đông Nam Bộ, tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Dương, Lâm Đồng, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai nằm trong
địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, là trọng điểm đầu tư của Chính phủ. Trung
tâm của tỉnh là Thành phố Biên Hoà, cách TP. Hồ Chí Minh 30 km về phía Tây,
một trung tâm kinh tế-khoa học kỹ thuật - văn hoá giáo dục lớn nhất cả nước. Với
dân số trên 5 triệu người của TP.Hồ Chí Minh có thu nhập bình quân cao nhất nước
cùng với dân số trên 2,2 triệu người của Đồng Nai là thị trường tiêu thụ rộng lớn và
nguồn cung cấp lao động đạt chất lượng cao, dồi dào cho nền sản xuất công nghiệp
của Đồng Nai.
Đồng Nai có hệ thống giao thông rất thuận lợi với các quốc lộ 1, 51, 20 với
tổng chiều dài 244,5 km đã và đang được mở rộng nâng cấp theo tiêu chuẩn đường
cấp I, II đồng bằng ( Quốc lộ 1, 51), cấp III đồng bằng (Quốc lộ 20) có nhiều tuyến
đường liên tỉnh, tuyến đường sắt Bắc-Nam và hệ thống các cảng ở Đồng Nai cùng
với cảng ở TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu và sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất
...và trong tương lai gần, Chính phủ sẽ xây dựng một sân bay Quốc tế với quy mô
5.000 ha tại Đồng Nai, đáp ứng tốt cho nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá.
Trong tương lai hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh sẽ tiếp tục được nâng
cấp, mở rộng và đầu tư mới như trục đường bộ các nước khu vực Đông Nam Á,
đường cao tốc nối TP. Hồ Chí Minh với Bà Rịa-Vũng Tàu, hệ thống đường sắt Biên
Hòa - Vũng Tàu, kế hoạch nối mạng đường sắt Singapore-Côn Minh (Trung quốc)
có 50 km chạy qua Đồng Nai để hòa vào mạng lưới đường sắt Bắc-Nam được cải
tạo theo tiêu chuẩn quốc tế.
18
Nông nghiệp tỉnh Đồng Nai với diện tích 292.000ha đất trồng trọt với gần
1,4 triệu dân số, lao động cần cù, chịu khó và có nhiều kinh nghiệm cả trồng trọt và
chăn nuôi nên là một thị trường tiềm năng cả về tiêu thụ và nguyên liệu rộng lớn
của công nghiệp. Mặt khác nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai phát triển theo hướng
tập trung chuyên canh nên có khối lượng nông sản, hàng hoá lớn và cây công
nghiệp có thể đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp chế biến như : cà phê, cao su, mía,
bông, khoai mỳ, bắp, đậu nành, thuốc lá, điều, cây ăn quả ...
2.1.2. Về kinh tế, xã hội
Kinh tế trên địa bàn tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng cao, mức tăng trưởng GDP
bình quân trong 5 năm (2001-2005) là 12,8%, gấp 1,7 lần mức tăng chung của cả
nước (cả nước tăng 7,5%). GDP các khu vực kinh tế có mức tăng trưởng tốt: Khu
vực công nghiệp xây dựng tăng 16% ; dịch vụ tăng 12,1%; nông lâm thủy tăng
4,6%. GDP bình quân đầu người theo USD (1 USD=11.000 VND) đến năm 2005
đạt 785 USD. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn tiếp tục chuyển dịch theo hướng: Công
nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Đến năm 2005 cơ cấu kinh tế trên địa bàn là Công
nghiệp xây dựng 57%, dịch vụ 28%, nông lâm thủy 15%. Dân số tỉnh Đồng Nai
khoảng trên 2,2 triệu người, tỷ lệ nam chiếm 49,52%. Lao động trong độ tuổi đạt
trên 1 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,24%.
Công tác qui hoạch phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn thực hiện và
đạt kết quả tốt. Tỉnh đã quy hoạch tổng thể 32 khu công nghiệp với tổng diện tích
11.189 ha; trong đó có 17 khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt với diện tích
5.124 ha, diện tích đã cho thuê chiếm 58,7% diện tích đất dùng cho thuê.
Đồng thời với quá trình phát triển các Khu công nghiệp, tỉnh đã có bước đi
mới trong quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp địa phương dành cho các
doanh nghiệp trong nước của địa phương.
Tính đến cuối 2005, về thu hút đầu tư trong nước, có 3.936 doanh nghiệp
đang hoạt động, vốn đăng ký 9.780 tỷ đồng. Toàn tỉnh hiện có trên 740 dự án đầu
tư nước ngoài với vốn đăng ký 8,4 tỷ USD, vốn thực hiện trên 4,8 tỷ USD, chiếm
57,14% vốn đăng ký. Các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp (90% dự án), về hình thức đầu tư có 70% dự án đầu tư 100% vốn nước
ngoài. Hiện đã có 32 Quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Đồng Nai trong
đó dẫn đầu là Đài Loan, tiếp theo là Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…Đồng Nai
19
đứng hàng thứ 3 trong cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài sau Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội.
Kết quả thu ngân sách hàng năm đều vượt chỉ tiêu dự toán trung ương giao,
đạt và vượt kế hoạch của tỉnh đề ra. Tăng trưởng thu ngân sách hàng năm đạt
27%/năm, tỷ lệ thu ngân sách trên GDP hàng năm đạt 23,3%. Thu ngân sách nhà
nước trên địa bàn đạt trên 7.500 tỷ đồng một năm, được xếp vào những tỉnh dẫn đầu
về thu ngân sách trong cả nước.
2.1.3. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010
Mục tiêu tổng quát của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006 -2010 là tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ và đồng bộ hơn, phát huy cao độ mọi nguồn lực, tạo bước bức phá về
chất lượng và nhịp độ phát triển, xây dựng Đồng Nai thành một tỉnh công nghiệp
vào năm 2010. Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội cụ thể như sau:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm 2006-2010 tăng bình quân từ 14-
14,5%/năm. Trong đó: Giá trị tăng thêm (GDP) của ngành công nghiệp và xây dựng
tăng từ 16%-16,5%; Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng từ 15%-15,5%;
Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng từ 4%-4,5% .
- GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt khoảng 1.400-1.450 USD
(gấp gần 2 lần năm 2005).
- Cơ cấu kinh tế đến năm 2010: Ngành công nghiệp-xây dựng chiếm 57%;
ngành dịch vụ chiếm 34%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 9%.
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn tăng từ 20-22%/năm.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm 2006-2010 chiếm 42% GDP.
- Nâng độ che phủ cây xanh trên diện tích toàn tỉnh đến năm 2005 đạt 50%,
trong đó tỷ lệ che phủ của rừng đạt 30%.
- Tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm chiếm 23-25% GDP. Tốc độ tăng
thu ngân sách bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 đạt 25,7%/năm. Tỷ trọng
đầu tư phát triển trong tổng chi năm 2010 chiếm 38%. Tốc độ tăng chi đầu tư phát
triển bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 11,45%/năm.
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2010 là 1,15%, quy mô dân số là
2,4 triệu người, trong đó dân thành thị chiếm trên 45% dân số.
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 2,8%. Nâng tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề trên phạm vi toàn tỉnh đến năm 2010 đạt trên 50%.
20
- Số máy điện thoại trên 100 dân đến năm 2010 đạt 30 máy.
(Nguồn: Nghị quyết Đại Hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần VIIII)
2.2. Tổ chức, bộ máy thanh tra trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Các cơ quan hành chính và cơ quan chuyên môn trực thuộc
Tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính trực thuộc và 29 cơ quan chuyên
môn trực thuộc UBND tỉnh. Tổng số biên chế cán bộ công nhân viên chức là 30.367
người.Trong đó:
- Biên chế hành chính : 2.383 người.
- Biên chế sự nghiệp : 27.984 người.
+ Sự nghiệp Y tế : 3.551 người.
+ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo : 23.235 người.
+ Sự nghiệp văn hóa thông tin, thể dục thể thao : 420 người.
+ Sự nghiệp khác : 778 người.
Số liệu trên chỉ bao gồm số biên chế chính thức, không tính đến số cán bộ
đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động tại các đơn vị.
Sau đây là biểu đồ chi tiết các cơ quan hành chính và các cơ quan chuyên
môn trực thuộc UBND tỉnh Đồng Nai (xem sơ đồ trang sau)
21
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH VÀ CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH
CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
1. Thành phố Biên Hòa 2. Thị xã Long Khánh 3. Huyện Tân Phú 4. Huyện Định Quán 5. Huyện Xuân Lộc 6. Huyện Thống Nhất 7. Huyện Trảng Bom 8. Huyện Cẩm Mỹ 9. Huyện Vĩnh Cửu 10. Huyện Long Thành 11. Huyện Nhơn Trạch
1. Văn phòng UBND và HĐND 2. Sở Nội Vụ 3. Sở Tài Chính 4. Sở Kế hoạch & Đầu tư 5. Sở Nông nghiệp & PTNT 6. Sở Công nghiệp 7. Sở Xây dựng 8. Sở Giao thông Vận tải 9. Sở Tài nguyên & Môi trường 10. Sở Thương mại & Du lịch 11. Sở Khoa học & Công nghệ 12. Sở Giáo dục & Đào tạo 13. Sở Y tế 14. Sở Văn hóa – Thông tin 15. Sở Lao động & TBXH 16. Sở Tư pháp 17. Sở Bưu chính, viễn thông 18. Sở Ngoại vụ 19. Sở Thể dục, thể thao 20. Thanh tra tỉnh 21. Ủy ban dân số, Gia đình và trẻ em 22. Ban Tôn giáo Dân tộc 23. Cục Hải Quan 24. Cục Thuế 25. Công An tỉnh 26. Kho Bạc Nhà nước 27. Ngân hàng Nhà nước 28. Ban Quản lý các KCN 29. Cục Thống Kê
22
2.2.2. Tổ chức bộ máy thanh tra tỉnh Đồng Nai
Căn cứ vào Luật thanh tra và đặc điểm của tỉnh, bộ máy ngành thanh tra tỉnh
Đồng Nai được phân chia theo 2 cấp: Cấp hành chính và cấp chuyên ngành.
Cấp hành hành chính có cơ quan Thanh tra tỉnh, là cơ quan chuyên môn trực
thuộc UBND tỉnh và 11 cơ quan thanh tra trực thuộc Thành phố Biên Hòa, thị xã
Long Khánh và 09 huyện (gọi là Thanh tra huyện), là cơ quan chuyên môn trực
thuộc UBND Thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh UBND các huyện. Các cơ
quan thanh tra cấp hành chính có trách nhiệm tham mưu cho UBND cùng cấp thực
hiện công tác quản lý nhà nước về thanh tra trên từng địa bàn.
Cấp chuyên ngành: Toàn tỉnh có 29 cơ quan sở, ban, ngành. Trong đó có 25
cơ quan thanh tra các sở, ban, ngành chuyên môn tham mưu cho sở, ban, ngành
thực hiện công tác thanh tra theo lĩnh vực quản lý nhà nước do sở, ban ngành đảm
nhiệm (Văn phòng UBND và HĐND tỉnh, Sở Ngọai vụ và Ban Tôn giáo Dân tộc
chưa có bộ phận thanh tra).
Thanh tra tỉnh là đầu mối quản lý công tác thanh tra trên toàn tỉnh. Thanh tra
tỉnh có nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác thanh tra. Hướng
dẫn về mặt chuyên môn nghiệp vụ cho thanh tra các huyện và các sở, ban ngành,
xây dựng chương trình kế họach thanh tra và phân bổ nhiệm vụ thanh tra cho từng
huyện, sở ban ngành.
2.3. Thực trạng về hoạt động thanh tra thu, chi ngân sách nhà nước
2.3.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về công tác thanh tra
ngân sách nhà nước
Hiện nay, văn bản luật cao nhất quy định về công tác thanh tra là Luật Thanh
tra số 22/2004/QH11 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 24/6/2004 và có hiệu
lực từ ngày 01/10/2004. Căn cứ vào Luật Thanh tra, Chính phủ và các bộ ngành ban
hành một số văn bản quy phạm pháp luật về công tác thanh tra như:
- Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.
- Nghị định số 55/2005/NĐ-CP ngày 25/4/2005 của Chính phủ về quy định
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn và tổ chức của Thanh tra Chính phủ.
23
- Nghị định 81/2005/NĐ-CP ngày 22/6/2005 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của thanh tra tài chính.
- Nghị định số 99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005 của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
- Quyết định số 202/2005/QĐ-TTg ngày 9/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Thanh tra viên.
- Quyết định số 32/2006/QĐ-BTC ngày 6/6/2006 của Bộ Tài Chính về việc
ban hành quy chế về hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính.
- Thông tư liên tịch số 42/2006/TTLT-BTC-TTCP ngày 15/5/2006 về hướng
dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo hoạt động thanh tra.
- Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP ngày
23/5/2006 của Thanh tra Chính phủ, Viện kiểm soát tối cao, Bộ Công an và Bộ
Quốc phòng về trách nhiệm phối hợp trong công tác thanh tra, điều tra, xét xử.
Trong việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước, công tác thanh tra ngân sách
nhà nước được quy định cụ thể tại điều 70 của Luật ngân sách nhà nước số
01/2002/QH11 có hiệu lực từ năm 2004. Nội dung điều 70 thể hiện như sau: “...
Thanh tra Tài chính có nhiệm vụ thanh tra việc chấp hành pháp luật về thu, chi và
quản lý ngân sách, quản lý tài sản nhà nước của tổ chức, cá nhân. Khi thực hiện
thanh tra, Thanh tra Tài chính có quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân xuất trình các
hồ sơ, tài liệu liên quan; nếu phát hiện vi phạm, có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền thu hồi vào ngân sách nhà nước những khoản chi sai chế độ, những khoản
phải thu theo quy định. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, Thanh tra Tài chính có
quyền xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Thanh tra Tài chính phải chịu trách
nhiệm về kết luận thanh tra. Chính phủ quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thanh tra Tài chính trong việc thanh tra quản lý, sử dụng ngân sách
và tài sản của Nhà nước....”
Trong thời gian qua, nhằm củng cố đội ngũ thanh tra, Chính phủ đã ban hành
các nghị định nhằm kiện toàn cũng như thành lập bộ phận thanh tra cho các Bộ,
Ngành. Theo đó thanh tra các bộ nganh vừa thực hiện thanh tra chuyên ngành, vừa
thực hiện thanh tra hành chính theo ngành lĩnh vực mà Bộ, Ngành đó quản lý.
24
Ngoài ra, nhằm đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm chống lãng phí, Quốc hội khóa 11 trong năm 2005 đã ban hành 02 văn bản
Luật:
- Luật Phòng chống tham nhũng số 55/2005/QH11 có hiệu lực 1/6/2006.
- Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí số 48/2005/QH11 có hiệu lực
1/6/2006.Hai văn bản luật này đã gắn kết công tác thanh tra như là một bộ phận,
một công cụ thiết yếu, không thể thiếu được trong công cuộc phòng chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2.3.2. Những cơ quan có chức năng thanh tra thu, chi ngân sách
Các văn bản quy phạm pháp luật về công tác thanh tra cơ bản tương đối đầy
đủ, đảm bảo tốt về cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra. Đây là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thanh tra.
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về công tác thanh tra hiện nay,
các cơ quan có chức năng thanh tra thu chi ngân sách được hệ thống như sau:
- Ở cấp Trung ương:
+ Thanh tra Chính phủ: Phạm vị thanh tra thuộc quyền quản lý nhà nước của
Chính phủ.
+ Thanh tra các Bộ, Ngành: Vừa thực hiện thanh tra chuyên ngành vừa thực
hiện thanh tra hành chính (tức là có chức năng thanh tra thu chi ngân sách) trong
phạm vi thuộc quyền quản lý nhà nước mà Bộ, Ngành đó đảm trách.
- Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:
+ Thanh tra tỉnh, thành phố: Phạm vi thanh tra thuộc quyền quản lý nhà nước
của UBND tỉnh.
+ Thanh tra các sở, ngành: Các cơ quan thanh tra của sở, ngành vừa thực
hiện thanh tra chuyên ngành vừa thực hiện thanh tra hành chính (có chức năng
thanh tra thu chi ngân sách) trong phạm vi quản lý nhà nước do sở, ngành mình
quản lý.
- Ở cấp huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố: Có thanh tra huyện, quận,
thị xã có chức năng thanh tra thu chi ngân sách nhà nước trong phạm vị quản lý nhà
nước của UBND quận, huyện, thị xã.
Qua khảo sát, nghiên cứu về công tác thanh tra tại Đồng Nai cho thấy: Về
công tác thanh tra thu ngân sách hiện do Thanh tra cục Thuế, Thanh tra Hải quan,
25
2.3.3. Tình hình thu chi ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Sau đây là số liệu thu chi ngân sách nhà nước thực hiện trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai qua các năm 2003, 2004 và 2005 (xem biểu 2.1)
26
Đơn vị: Triệu đồng
BIỂU 2.1: TÌNH HÌNH THU CHI NGÂN SÁCH TỈNH ĐỒNG NAI
Nội dung thu chi
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1. Tổng thu ngân sách trên địa bàn
4.417.967
6.558.112
7.538.310
- Thu từ hoạt động trong nước
2.619.000
3.849.521
4.573.000
- Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
1.750.500
2.465.243
2.700.000
- Thu từ huy động xây dựng KCHT
619
243.181
- Thu từ nguồn đóng góp của nhân dân
48.467
242.729
22.129
2. Chi ngân sách tỉnh Đồng Nai
1.695.798
2.656.729
2.847.317
2.1. Chi đầu tư, phát triển
540.699
709.522
1.459.068
- Chi đầu tư XDCB
525.199
703.806
1.449.768
- Chi đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp
15.500
5.716
9.300
2.2. Chi thường xuyên
953.310
1.251.523
1.264.605
- Chi trợ giá các mặt hàng chính sách
3.000
1.925
1.990
- Chi sự nghiệp kinh tế
134.331
161.320
154.606
- Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo
491.131
535.943
609.876
- Chi sự nghiệp y tế
81.210
99.460
120.795
- Chi sự nghiệp khoa học công nghệ
12.000
14.138
14.000
- Chi sự nghiệp văn hóa thông tin
14.186
24.512
25.805
- Chi sự nghiệp phát thanh truyền hình
10.537
14.212
13.023
- Chi sự nghiệp thể dục thể thao
9.200
10.782
12.961
- Chi đảm bảo xã hội
36.008
43.660
53.802
- Chi quản lý hành chính nhà nước
92.422
190.618
156.374
- Chi của cơ quan Đảng, đoàn thể ....
50.585
83.764
67.288
- Chi an ninh quốc phòng
18.700
71.189
34.085
201.78
695.6
123.
84
9
2.3. Chi khác 644 (Nguồn: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa VI và VII) Số liệu dự toán năm 2006 về thu chi ngân sách được Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng
Nai thông qua tại Nghị quyết số 57/2005/NQ-HĐND7 ngày 8/12/2005 như sau
(xem biểu 2.2)
27
BIỂU 2.2: DỰ TÓAN THU CHI NGÂN SÁCH NĂM 2006 CỦA TỈNH
ĐỒNG NAI
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm 2006 Nội dung thu chi
8.782.000 1. Tổng thu ngân sách trên địa bàn
- Thu từ sản xuất kinh doanh trong nước 5.732.000
- Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 3.050.000
- Thu từ huy động xây dựng KCHT 0
- Thu từ nguồn đóng góp của nhân dân 0
2. Chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai 3.404.387
2.1. Chi đầu tư, phát triển 1.278.255
- Chi đầu tư XDCB 1.268.955
- Chi đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp 9.300
2.2. Chi thường xuyên 1.688.325
- Chi trợ giá các mặt hàng chính sách 3.500
- Chi sự nghiệp kinh tế 182.258
- Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo, dạy nghề 866.919
- Chi sự nghiệp y tế 161.148
- Chi sự nghiệp khoa học công nghệ 19.104
- Chi sự nghiệp văn hóa thông tin 26.417
- Chi sự nghiệp phát thanh truyền hình 15.533
- Chi sự nghiệp thể dục thể thao 15.924
- Chi đảm bảo xã hội 57.060
218.347
- Chi quản lý hành chính nhà nước - Chi hoạt động của cơ quan Đảng, đoàn thể tổ chức CTXH 81.483
40.632 - Chi an ninh quốc phòng
437.807 2.3. Chi khác
(Nguồn: Nghị quyết Hội đồng Nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa VII)
Từ các số liệu thu chi ngân sách nhà nước qua các năm cho ta thấy: Tình
hình thu ngân sách nhà nước tăng trưởng cao qua từng năm, thu từ hoạt động trong
nước chiếm trên 50% trong tổng nguồn thu. Các khoản chi tăng qua từng năm.
Trong các khoản chi ngân sách, chi về đầu tư XDCB chiếm tỷ trong cao trong tổng
28
các khoản chi. Đồng Nai hiện đang đứng thứ 3 trong cả nước chỉ sau Thành phố Hồ
chí Minh và Hà Nội về thu ngân sách nhà nước.
2.3.4. Kết quả thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng
Nai trong thời gian qua
2.3.4.1. Những thành tựu đã đạt được
Trong những năm qua, cùng với việc kiện toàn các văn bản quy phạm pháp
luật về công tác thanh tra đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, ngành thanh tra tỉnh
Đồng Nai đã bám chặt chương trình nhiệm vụ công tác được Thanh tra Chính phủ
và UBND tỉnh giao đã triển khai công tác thanh tra kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh
vực.
Trong lĩnh vực thanh tra về tài chính doanh nghiệp đã thực hiện một số cuộc
thanh tra tài chính doanh nghiệp mang tính chất trọng tâm, trọng điểm. Qua thanh
tra, đã có những kiến nghị, đề xuất đối với UBND tỉnh trong việc chấn chỉnh hoạt
động của các đơn vị, xử lý thu hồi kịp thời các khoản tiền vi phạm. Công tác thanh
tra, kiểm tra của ngành Thuế cũng như các cuộc thanh tra của Thanh tra tỉnh, nổi lên
các sai phạm về nợ đọng thuế dây dưa kéo dài, ẩn lậu thuế, hạch toán thiếu doanh
thu, chi phí không đúng chế độ, thực hiện sai quy định về xuất nhập khẩu, không
thực hiện đúng quy định về chế độ bảo hiểm của người lao động. Thanh tra tỉnh
thực hiện tốt công tác điều phối thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp theo Quy chế
thanh tra kiểm tra do UBND tỉnh ban hành, vừa tạo thuận lợi cho các đơn vị có
chức năng thanh tra, kiểm tra, vừa đảm bảo hạn chế sự phiền hà và chồng chéo, ảnh
hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp luôn thường xuyên duy trì, góp phần lành mạnh hóa hoạt động sản xuất kinh
doanh, đảm bảo tính nghiêm minh của Pháp luật.
Thanh tra đầu tư xây dựng, được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh,
Thanh tra tỉnh, ngành thanh tra tỉnh đã triển khai thanh tra diện rộng trên toàn tỉnh.
Qua thanh tra, đã phát hiện nhiều sai phạm, thiếu sót, tồn tại trong công tác quản lý
đầu tư xây dựng của từng ngành, từng cấp, song nổi lên là những sai phạm qua
thanh tra các công trình giao thông, thủy lợi. Qua đó đã có những kiến nghị chấn
chỉnh, xử lý những cá nhân để xay ra sai phạm và thu hồi về cho ngân sách những
khoản kinh phí bị thất thoát. Bước đầu công tác thanh tra đã có hiệu quả trong việc
chấn chỉnh, uốn nắn những sai phạm của các đối tượng thanh tra.
29
Trong lĩnh vực thanh tra thu chi ngân sách đã tổ chức nhiều cuộc thanh tra từ
các đơn vị cấp tỉnh, huyện, xã. Qua công tác thanh tra đã giúp cho đơn vị chấn
chỉnh công tác thu chi ngân sách, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm để ngăn
ngừa, thu hồi về cho ngân sách những khoản tiền lớn từ những sai phạm đồng thời
kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ hoặc điều chỉnh những văn bản quy phạm pháp
luật cho đúng với tình hình thực tế và đúng với các văn bản Luật.
Trong 3 năm 2003, 2004 và 2005, về mặt thanh tra kinh tế, tài chính, ngành
thanh tra tỉnh Đồng Nai đã thực hiện được 938 cuộc thanh tra. Số sai phạm phát
hiện qua thanh tra là 161,97 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi nộp về ngân sách nhà nước
là 153,01 tỷ đồng, đã thu được 104,07 tỷ đồng (tính đến thời điểm cuối năm 2005).
Trong đó: Có 740 cuộc thanh tra các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, phát hiện sai
phạm 150,43 tỷ đồng, kiến nghị thu 146,54 tỷ đồng, đã thu hồi nộp vào ngân sách
99,02 tỷ đồng; số cuộc thanh tra về lĩnh vực tài chính nhà nước là 125 cuộc, số sai
phạm phát hiện là 5,86 tỷ đồng, kiến nghị thu 3,27 tỷ đồng, đã thu 2,58 tỷ đồng; và
73 cuộc thanh tra về đầu tư xây dựng cơ bản với giá trị sai phạm phát hiện qua
thanh tra là 5,68 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi 3,2 tỷ đồng và đã thu được 2,46 tỷ đồng.
Như vậy về cơ cấu số lượng các cuộc thanh tra thì phần lớn là các cuộc thanh
tra về các doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Chiếm khoảng 79% tổng số cuộc thanh
tra của toàn ngành thanh tra. Còn lại số cuộc thanh tra về đầu tư xây dựng cơ bản và
tài chính nhà nước chỉ chiếm có 21% trong tổng số cuộc thanh tra.
Ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai đạt được những kết quả như trên do những
điều kiện như sau:
- UBND tỉnh Đồng Nai thường xuyên quan tâm, chỉ đạo đến hoạt động công
tác thanh tra. Ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã xem xét và phê duyệt chương trình
kế hoạch công tác năm, làm cơ sở cho Thanh tra tỉnh tổ chức thực hiện và điều
hành hoạt động ngành Thanh tra tỉnh. Các văn bản Luật về thanh tra, về khiếu nại tố
cáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành, UBND tỉnh đã kịp thời chỉ đạo triển khai
quán triệt đến các ngành, địa phương, đơn vị và nhân dân, đồng thời đã quan tâm xử
lý các kết luận, kiến nghị sau thanh tra.
- Thanh tra Chính phủ thường xuyên quan tâm chỉ đạo đối với Thanh tra các
Bộ ngành, các tỉnh, thành phố nói chung và ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai nói
riêng. Thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ quy định trong Luật Thanh tra, Thanh
30
tra Chính phủ có văn bản hướng dẫn Thanh tra các Bộ ngành, tỉnh, thành phố xây
dựng chương trình kế hoạch công tác năm. Trong quá trình chỉ đạo, điều hành của
mình, Thanh tra Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn Thanh tra các tỉnh, thành
phố về nghiệp vụ, công tác tổ chức cán bộ, đào tạo bồi dưỡng...
- Về phía Thanh tra tỉnh, Ban lãnh đạo bám sát vào chương trình kế hoạch
công tác năm để chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra. Công tác quản lý nhà nước
về Thanh tra đã được tăng cường nhằm nắm chắc tình hình phát sinh để có chỉ đạo
điều hành phù hợp và sát với thực tế. Chế độ giao ban được duy trì thường xuyên
qua đó kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, tồn tại trong công tác thanh tra; trao đổi
và tìm giải pháp để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc của các đơn vị; chỉ đạo
những biện pháp cụ thể để thực hiện hoàn thành nhiệm vụ đề ra trong chương trình
công tác năm.
2.3.4.2. Những dạng sai phạm phát hiện qua thanh tra
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác quản
lý, thu chi ngân sách. Nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực này được ban hành
nhằm kiểm soát các khoản thu và chi ngân sách để đạt được mục đích thu đúng, thu
đủ, chi đúng, chi hiệu quả. Mặc dù chính sách pháp luật ngày càng chặt chẽ trong
việc kiểm soát các khoản thu chi ngân sách, nhưng qua quan sát, xem xét, tổng hợp
và đánh giá kết quả thanh tra trong 3 năm 2003, 2004 và năm 2005 tại tỉnh Đồng
Nai thể hiện những dạng sai phạm phổ biến trong lĩnh vực thu, chi ngân sách như
sau:
- Trên lĩnh vực thanh tra thu ngân sách thể hiện sai phạm như:
+ Các công ty, đơn vị hạch toán lãi vay cao hơn rất nhiều so thực tế lãi vay
phát sinh bằng cách lập các hợp đồng vay của những công ty, những cá nhân ngoài
xã hội để bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh. Khi Đoàn thanh tra đi xác minh các
đối tượng cho vay, do đã có thông đồng từ trước nên đều công nhận có cho vay,
nhưng thực tế họ không cho vay. Đây là một dạng sai phạm trong việc cố tình nâng
khống chi phí nhằm giảm khoản thuế phải nộp cho ngân sách.
+ Trong hạch toán kế toán, các đối tượng nộp thuế không hạch toán các
khoản doanh thu và thu nhập kịp thời mà hạch toán treo những khoảng doanh thu và
thu nhập đó vào một tài khoản công nợ phải trả, trong khi vẫn hạch toán phần giá
vốn hay chi phí phát sinh trong kỳ, dẫn đến cuối kỳ kế toán doanh thu không tương
31
ứng với chi phí, làm cho kết quả kinh doanh không chính xác, cụ thể là lãi từ quá
trình kinh doanh thấp hơn thực tế rất nhiều, thậm chí bị lỗ.
+ Một số công ty, đơn vị lợi dụng chính sách ân hạn thuế nhập khẩu đã cố
tình dây dưa, kéo dài hoặc có thể bỏ trốn không chịu nộp thuế, gây thất thu rất lớn
cho ngân sách nhà nước.
+ Một số công ty lợi dụng chính sách hoàn thuế, khấu trừ thuế giá trị gia tăng
của nhà nước mà lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế hoặc giảm thuế phải
nộp cho nhà nước.
+ Lợi dụng chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế trong ngành xây dựng và
ngành sản xuất, một số đơn vị, công ty đã lập ra công ty con để nhằm hưởng ưu đã
về miễn giảm thuế, mà thực chất tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh do chính
công ty mẹ thực hiện, nhưng về mặt hồ sơ pháp lý lại đứng tên là công ty con. Đây
là dạng lách luật, thể hiện là một hình thức trốn thuế tinh vi.
+ Cố tình thực hiện sai nguyên tắc kế toán như thay đổi cách tính giá hạch
toán hàng xuất hoặc thay đổi cách tính giá thành sản phẩm, trích khấu hao sai quy
định theo hướng tăng chi chí hoặc tăng giá thành sản phẩm trên mặt sổ sách.
+ Không thực hiện kê khai đầy đủ các hóa đơn bán hàng, hoặc các liên của
một hóa đơn bán hàng ghi nhiều thông tin khác nhau theo hướng có lợi cho doanh
nghiệp, làm cho việc thanh tra kiểm tra rất khó khăn.
+ Hiện tại, người dân chưa có nhu cầu và ý thức trong việc nhận hóa đơn bán
hàng khi mua hàng hóa, do vậy tạo một kẽ hở rất lớn trong việc quản lý doanh số
bán hàng thực tế của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý không thể biết chính xác
được doanh số bán của đơn vị là bao nhiêu, chỉ căn cứ vào việc khai báo của đơn vị
nộp thuế là chủ yếu. Điều này, hiện tại gây thất thu cho ngân sách rất lớn.
+ Hợp thức hóa các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ, hoặc muốn nâng
khống chi phí bằng cách mua hóa đơn giá trị gia tăng và hợp thức hóa về mặt chứng
từ. Đây là một dạng sai phạm phố biến hiện nay.
+ Kê khai thuế giá trị gia tăng đầu ra với thuế suất thấp hơn quy định.
+ Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu thường phát sinh những
dạng sai phạm như:
• Thu thấp hoặc cao hơn quy định do không cập nhật văn bản quy định kịp
thời hoặc hiểu sai nội dung của quy định về thu hoặc cố tình thu cao hơn quy định
32
• Việc kiểm soát nội bộ về các khoản thu không được lãnh đạo đơn vị quan
tâm dẫn đến xảy ra tình trạng nhân viên đơn vị lợi dụng sự lỏng lẻo mà chiếm đoạt
tiền và tài sản từ các nguồn thu của đơn vị.
• Các khoản thu bị bỏ ngoài sổ sách, không thực hiện nộp theo quy định của
Luật ngân sách. Có trường hợp đơn vị thực hiện thu, nhưng lại không hạch toán vào
sổ sách theo tài khoản doanh thu hoặc thu nhập, mà hạch toán vào tài khoản phải
trả. Tất nhiên tài khoản phải trả này là không có đối tượng để trả. Đến một thời gian
nào đó, đơn vị sẽ thực hiện bút toán chi trả nợ, nhưng thực chất là chiếm đoạt tiền
của ngân sách.
- Trên lĩnh vực thanh tra chi ngân sách thể hiện những dạng sai phạm nổi bật
điển hình như:
+ Về các khoản chi thường xuyên: Công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên
có tác dụng giúp cho các đơn vị chấn chỉnh những thiếu sót, tồn tại trong quản lý và
sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; chấp hành tốt Luật Ngân sách và các quy
định khác về quản lý tài chính ngân sách. Việc thực hiện khoán kinh phí đối với các
cơ quan hành chính, sự nghiệp đã nâng cao tính chủ động của thủ trưởng các đơn vị
trong việc sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm kinh phí nhà nước, nâng cao đời sống
cán bộ. Tuy nhiên, qua thanh tra, việc quản lý và sử dụng kinh phí nhà nước ở một
số đơn vị cũng còn nhiều thiếu sót, tồn tại, vi phạm cần chấn chỉnh và xử lý kịp
thời. Sai phạm trong việc quản lý và sử dụng kinh phí nhà nước nổi lên: Chi sai chế
độ, vượt chế độ, chi khống, chi phí không hợp lệ hoặc không đầy đủ chứng từ, ghi
chép sổ sách kế toán không chính xác. Đây là những sai phạm rất phổ biến tại các
đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách.
+ Về khoản chi đầu tư phát triển: Qua báo cáo công tác thanh tra trong 3 năm
2003, 2004 và 2005, trong công tác thanh tra các khoản chi về đầu tư phát triển,
ngành thanh tra tỉnh Đồng Nai tập trung chủ yếu thanh tra các công trình XDCB,
mua sắm máy móc thiết bị từ nguồn vốn ngân sách nhà nước của các đơn vị trên địa
bàn tỉnh. Qua công tác thanh tra nổi lên những sai phạm như sau:
• Trong đầu tư XDCB các dự án, công trình phát hiện những vấn đề như :
* Việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi không xác với thực tế, hoặc làm theo
hình thức chỉ là thủ tục để được phê duyệt thực hiện dự án, công trình, dẫn đến sau
33
khi công trình hoàn thành đã không thể mang lại hiệu quả như yêu cầu ban đầu đưa
ra, gây lãng phí tài sản của nhà nước, gây bất bình trong nhân dân.
* Khảo sát thiết kế không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, không khảo sát địa chất
thủy văn công trình dẫn đến phải thay đổi thiết kế, phát sinh khối lượng, chậm tiến
độ thi công, thậm chí có công trình chất lượng không đảm bảo.
* Công tác lập và thẩm định dự toán cũng có những sai sót, áp sai đơn giá,
tăng khối lượng không cần thiết, làm tăng giá trị công trình, làm cho công tác xét
thầu chấm thầu và thông báo kết quả trúng thầu không đạt được mục đích là chọn
nhà thầu với giá thấp nhất với chất lượng công trình tốt nhất, gây thiệt hại đến kinh
phí ngân sách Nhà nước.
* Có những công trình, đơn vị dự toán không tính đầy đủ khối lượng các hạn
mục của công trình, nên khi đấu thầu phát sinh trường hợp là sau khi có giá trúng
thầu, đơn vị trúng thầu lập hồ sơ đề nghị bổ sung kinh phí những phần khối lượng
bị thiếu, không có trong dự toán, do vậy những khoản kinh phí đề nghị bổ sung này
đã không được đấu thầu.
* Việc thực hiện Quy chế đấu thầu tại một số dự án có những vi phạm như:
Có những công trình theo quy định phải tổ chức đấu thầu rộng rãi nhưng các chủ
đầu tư lại không không tổ chức đấu thầu mà tiến hành xét thầu hoặc chỉ định thầu
không đúng quy định. Hoặc có những dự án, công trình, chủ đầu tư tổ chức đấu thầu
công khai nhưng lại bị các nhà dự thầu tổ chức thông thầu nhằm đạt được mục đích
là giá trúng thầu cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế thi công công trình. Có
những trường hợp đơn vị trúng thầu lại tiến hành bán thầu cho đơn vị khác, không
những công trình bị bán thầu một lần mà còn bị bán thầu qua nhiều lần để các đơn
vị trung gian hưởng chênh lệch giá, làm cho đơn vị thực hiện thi công cuối cùng
phải làm cách nào đó nhằm bớt xén vật tư, mua vật tư không đúng tiêu chuẩn quy
định để thực hiện công trình và tất nhiên chất lượng công trình không đảm bảo, có
những công trình vừa thi công xong đã không thể đưa vào sử dụng được, gây lãnh
phí, thất thoát rất lớn cho Nhà nước.
* Lợi dụng những hạn mục ẩn, đơn vị thi công thực hiện thi công thiếu khối
lượng vật tư, chất lượng vật tư không đảm bảo. Hoặc khi đang thi công tiến hành
khai báo những hạn mục phát sinh khống để quyết toán với ngân sách nhà nước.
34
* Thay đổi chủng loại vật tư có giá thấp hơn giá dự toán ban đầu, hoặc phát
sinh giảm khối lượng thi công những vẫn lập hồ sơ quyết toán như dự toán ban đầu.
* Một số sai phạm khác: Các công trình thường được thi công trước khi ký
kết hợp đồng thi công, thậm chí có công trình thi công trước khi có thiết kế kỹ thuật
thi công - dự toán được duyệt, trước khi phê duyệt đơn vị được chỉ định thầu.
Những công trình thuộc diện được miễn các loại thuế theo quy định, nhưng đơn vị
dự toán không loại trừ ra khỏi giá trị công trình, chủ đầu tư không kiểm tra mà
thanh toán hết các khoản thuế cho bên thi công.
• Trong công tác mua sắm máy móc thiết bị phát hiện những sai phạm như:
* Việc mua máy móc, thiết bị không được chủ đầu tư tìm kiếm những nhà
cung cấp trong nước mà chủ đầu tư tìm mua từ nước ngoài về, với những lý do như
chất lượng, hoặc độ an toàn của máy móc tiết bị, làm cho giá máy móc thiết bị cao
hơn thực tế sản xuất trong nước rất nhiều.
* Các cơ quan thẩm định hồ sơ đã không thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ làm
thiệt hại ngân sách rất nhiều. Có những trường hợp máy móc thiết bị thuộc diện
miễn thuế GTGT và thuế nhập khấu khi nhập khẩu, nhưng các cơ quan thẩm định,
tư vấn giám sát và chủ đầu tư đã không xem xét các quy định của pháp luật dẫn đến
thanh quyết toán các khoản thuế trên cho nhà cung cấp.
* Mua sắm máy móc thiết bị không phù hợp, đánh giá không chính xác về
hiệu quả hoạt động của máy, nên khi đầu tư vào thì không thể đưa vào sử dụng
được, hoặc khi sử dụng thì hiệu quả kinh tế không cao, không thể cạnh tranh được
nên ngưng hoạt động.
+ Về khoản chi khác: Đây là những chi mang tính đột xuất, ngoài kế hoạch
chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển như trong thời gian vừa qua chi các
khoản như hỗ trợ các hộ nông dân nuôi gia súc, gia cầm, hỗ trợ gia đình bị thiên tai,
gia đình chính sách, các chương trình mục tiêu của trung ương và của tỉnh....Qua
công tác kiểm tra cũng đã phát hiện ra những sai phạm phổ biến như chi không
đúng đối tượng, lập hồ sơ để chi không nhằm chiếm đoạt, chi vươt, chi sai chế độ,
chi không hiệu quả gây lãng phí....
Tuy nhiên, đánh giá về mặt tổng thể, ngành thanh tra tỉnh Đồng nai còn
nhiều mặt hạn chế trong công tác, làm cho chức năng thanh tra chưa được phát huy
tối đa, những sai phạm vẫn còn tiếp diễn với mức độ ngày càng trầm trọng hơn,
35
những sai phạm lớn bị phát hiện không phải từ công tác thanh tra mà từ quần chúng
nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng....
2.3.5. Những hạn chế, tồn tại trong công tác thanh tra.
2.3.5.1. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động công tác thanh tra trong những năm
qua cũng còn nhiều những hạn chế, tồn tại như:
- Việc chấp hành chỉ đạo của trung ương và của tỉnh về thanh tra đầu tư và
xây dựng tiến hành còn chậm. Đây là một chủ trương lớn, song chưa được sự quan
tâm chỉ đạo của các địa phương và các sở, ban, ngành. Kết quả thanh tra về đầu tư
và xây dựng còn hạn chế so với đánh giá của trung ương về những sai phạm, tiêu
cực trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Công tác thanh tra đầu tư xây dựng tiến độ
triển khai còn chậm so với kế hoạch đề ra, trong đó có nguyên nhân chủ quan một
số đơn vị Thanh tra huyện chưa chấp hành tốt chỉ đạo của UBND tỉnh và Thanh tra
tỉnh, chưa tham mưu đề xuất kịp thời cho lãnh đạo để triển khai theo kế hoạch.
- Việc xử lý kết luận, kiến nghị sau thanh tra từng lúc, từng nơi còn chưa kịp
thời, làm hạn chế đến hiệu quả của công tác thanh tra; việc theo dõi, đôn đốc thực
hiện các kết luận, kiến nghị cũng có nơi còn chưa tốt, kết quả thu hồi còn đạt thấp,
chủ yếu tập trung ở cấp huyện và sở ngành. Việc thực hiện kiến nghị xử lý kinh tế
sau thanh tra toàn ngành nhìn chung có hiệu quả, đạt tỷ lệ cao, song từng cấp, từng
ngành thì tỷ lệ thu hồi còn đạt thấp. Tồn tại này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong
đó có việc theo dõi, đôn đốc, tham mưu cho lãnh đạo cùng cấp xử lý tồn đọng này
chưa tốt.
- Đội ngũ cán bộ thanh tra viên của ngành trình độ còn bất cập so với yêu cầu
nhiệm vụ và chưa đồng đều; bên cạnh đó, trang bị phương tiện, điều kiện vật chất
phục vụ cho công tác thanh tra còn thiếu, chưa tiếp cận được với công nghệ thông
tin và các phương tiện kỹ thuật khác áp dụng cho hoạt động của ngành, từ đó hạn
chế đến hiệu quả công tác thanh tra kinh tế xã hội. Công tác xây dựng ngành trong
thời gian qua cũng còn có những khó khăn và tồn tại, đó là: Một số đơn vị Thanh tra
huyện, sở còn chậm được củng cố, nhất là vấn đề thực hiện biên chế, ảnh hưởng
phần nào đến kết quả thực hiện nhiệm vụ, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra
cho cán bộ ngành Thanh tra tỉnh theo quy định của ngành còn có khó khăn, hiện còn
khoảng trên 90 cán bộ, công chức chưa qua bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra.
36
- Đối với công tác chống tham nhũng: Mặc dù công tác thanh tra, kiểm tra
trong những năm qua đã tập trung trên các lĩnh vực trọng điểm về tham nhũng, tiêu
cực, đã phát hiện nhiều vụ việc sai phạm, song số vụ việc tham nhũng phát hiện
chưa nhiều. Các vụ việc tham nhũng phát hiện trên địa bàn trong những năm qua,
đối tượng vi phạm cũng chủ yếu là những cán bộ, nhân viên cấp cơ sở.
- Những vụ việc tham nhũng tiêu cực lớn bị phát hiện chủ yếu từ các cơ quan
truyền thông đại chúng và quần chúng nhân dân, rất ít trường hợp bị phát hiện qua
công tác thanh tra. Đây là tồn tại thể hiện sự yếu kém của bộ máy thanh tra.
2.3.5.2. Nguyên nhân khách quan
Đánh giá tình hình ngành thanh tra trong tỉnh và ngành thanh tra trong cả
nước, có một số nguyên nhân khách quan dẫn đến hạn chế trong công tác thanh tra
như sau :
- Tại điều 18 của Luật Thanh tra quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của
Thanh tra tỉnh, thì Thanh tra tỉnh chỉ thực hiện thanh tra hành chính cấp sở, ban
ngành, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Do vậy, từ khi thi hành Luật thanh tra,
Thanh tra tỉnh không thể chủ động thực hiện các cuộc thanh tra tài chính ngân sách
của các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành trong tỉnh. Trong khi đó, hiện nay, thanh tra
các sở, ban ngành chưa đủ lực lượng thực hiện các cuộc thanh tra tài chính ngân
sách trong phạm vi các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành mình quản lý.
- Chưa có cơ chế khen thưởng nhằm khích lệ hoặc động viện lực lượng thanh
tra trong quá trình làm nhiệm vụ. Một thực tế trước đây là việc đòan thanh tra phát
hiện sai phạm kiến nghị thu hồi tiền hoặc tài sản nộp vào ngân sách nhà nước, thì
đòan thanh tra cũng như cán bộ trực tiếp phát hiện sai phạm không được trích hoặc
thưởng từ khỏan tiền thu hồi đó. Do vậy rất dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình
thực hiện thanh tra, hoặc không là động lực phát huy tinh thần sáng tạo, nhiệt tình
của các cán bộ làm công tác thanh tra. Từ tháng 5/2006, Bộ Tài chính và Thanh tra
Chính phủ có thông tư liên tịch số 42/2006/TTLT-BTC-TTCP ngày 15/5/2006 về
hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo hoạt động thanh
tra, trong đó cho phép cơ quan thanh tra trích 30% từ tiền thu được trong quá trình
thanh tra để bổ sung vào kinh phí họat động của cơ quan. Tuy nhiên, thông tư chưa
nói cụ thể được việc sử dụng 30% này như thế nào, ví dụ như : Trích cho đòan
37
thanh tra phát hiện sai phạm là bao nhiêu, thưởng cho cán bộ trực tiếp phát hiện vụ
việc là bao nhiêu…..
- Hiện nay ngành thanh tra chưa được quyền thực hiện các biện pháp chế tài
đủ mạnh để các đối tượng thanh tra nghiêm túc thực hiện đầy đủ các kiến nghị sau
thanh tra. Thực tế thời gian qua, sau khi kết thúc thanh tra, đòan thanh tra có kết
luận kiến nghị xử lý sau thanh tra, nhưng có trường hợp các đối tượng thanh tra
không thực hiện các kiến nghị của Đòan thanh tra. Trong trường hợp này, cơ quan
thanh tra chỉ có biện pháp là báo cáo sự việc lên Ủy ban nhân dân cùng cấp đề nghị
xử lý. Do vậy, hiệu lực của kết luận thanh tra hiện nay chưa có chế tài để đảm bảo
đối tượng thanh tra phải thực hiện nghiêm túc các kiến nghị xử lý.
- Cơ quan Thanh tra chính phủ chưa thực hiện việc tổ chức thường xuyên các
cuộc hội thảo, họp giao ban giữ thanh tra các tỉnh để có sự phối hợp, chia sẽ thông
tin, hoặc học hỏi nâng cao nghiệp vụ để ngành thanh tra từng tỉnh cập nhật các
thông tin mới nhất về công tác thanh tra hoặc tình hình diễn biến của tội phạm, đặc
biệt là tội phạm kinh tế.
- Khối lượng công việc đề ra chương trình kế hoạch công tác năm hết sức
nặng nề, ngoài ra còn có các công việc đột xuất do lãnh đạo giao; lực lượng cán bộ,
công chức của nhiều đơn vị Thanh tra cấp huyện và sở ngành chưa đủ theo biên chế
được duyệt, hoặc chưa đáp ứng theo yêu cầu công việc, nên có ảnh hưởng đến tiến
độ thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, cụ thể là tiến độ triển khai các cuộc thanh tra tài
chính, ngân sách.
- Công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ thanh tra không được tổ
chức thường xuyên, các cán bộ, thanh tra viên không được cập nhật các kiến thức
chuyên môn mới nhất về lĩnh vực của mình. Điều này làm hạn chế rất nhiều đến
chất lượng các cuộc thanh tra.
2.3.5.3 Nguyên nhân chủ quan
Qua nghiên cứu, xem xét thực tế tại tỉnh Đồng Nai, để xảy ra những hạn chế
trong công tác thanh tra trong những năm qua tập trung chủ yếu vào những nguyên
nhân chủ quan sau :
- Một số Sở, ngành chưa có bộ phân thanh tra Sở, hoặc nếu có thì hoạt động
không hiệu quả, còn bị động trong công tác, chủ yếu chờ ý kiến chỉ đạo từ cấp trên.
38
Do vậy, những sai phạm, những việc làm chưa đúng ở những bộ phận do Sở mình
quản lý chưa được uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời.
- Thanh tra các Sở, ngành hiện nay tập trung thực hiện thanh tra chuyên
ngành là chủ yếu, chưa chú trọng vào công tác thanh tra hành chính ở lĩnh vực do
Sở, ngành mình phụ trách. Trong khi đó, Thanh tra tỉnh và Thanh tra Sở Tài chính
không thể đảm đương hết việc thanh tra công tác thu chi ngân sách của tất các các
sở ngành, các huyện trên địa bàn tỉnh.
- Thanh tra huyện hiện nay chủ yếu thực hiện công tác giải quyết khiếu nại
và tố cáo, chưa quan tâm lĩnh vực thanh tra tài chính, ngân sách trên địa bàn huyện.
Đồng thời lực lượng thanh tra huyện hiện nay đa phần không có chuyên môn
về lĩnh vực tài chính một cách chính quy. Do vậy, khi triển khai các cuộc thanh tra
tài chính, ngân sách trên địa bàn thường đạt hiệu quả thấp.
- Việc tổ chức giao ban khối sở, ngành, huyện còn chưa thường xuyên; ngoài
ra việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo của Thanh tra các sở, ngành còn chưa
nghiêm (không báo cáo hoặc báo cáo không đúng thời gian quy định), chất lượng
báo cáo chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng phần nào đến công tác chỉ đạo, điều hành của
Thanh tra tỉnh đối với hoạt động thanh tra các sở, ngành.
- Lực lượng thanh tra tòan tỉnh hiện nay đa phần là chuyển ngành từ các cơ
quan khác với độ tuổi trung bình từ 40 trở lên. Do vậy, trong việc học tập nâng cao
trình độ còn hạn chế rất nhiều.
- Lãnh đạo các cấp, các ngành chưa quan tâm đến kết luận, xử lý các vụ việc
sau thanh tra nên việc kết luận thanh tra, xử lý kiến nghị sau thanh tra còn chậm so
với thời gian quy định của Luật thanh tra. Đồng thời kết luận, quyết định xử lý sau
thanh tra còn chưa được các đơn vị được thanh tra chấp hành nghiêm túc dẫn đến
còn tồn đọng; bên cạnh đó, cũng còn có nguyên nhân là việc theo dõi, đôn đốc của
một số cơ quan thanh tra còn chưa thường xuyên, chưa kịp thời báo cáo, tham mưu
đề xuất lãnh đạo xử lý dứt điểm.
39
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC
THANH TRA THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Những yêu cầu phải tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước : Tăng cường công tác thanh tra là một đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn hiện nay. Tăng cường công tác thanh tra
phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu tăng cường công tác thanh tra phải dựa trên cơ sở tổng kết một
cách có hệ thống thực tiễn công tác thanh tra trong những năm qua, đặc biệt là
những năm gần đây để có phương hướng đổi mới phù hợp với tình hình và nhiệm
vụ của giai đoạn hiện nay.
- Tăng cường công tác thanh tra dựa trên cơ sở quán triệt những quan điểm
của Đảng, Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, về cải cách bộ máy nhà nước và cải cách một bước nền hành chính
nhà nước; xác định rõ vị trí, vai trò của công tác thanh tra trong quá trình đổi mới,
phải đảm bảo tăng cường hiệu quả công tác thanh tra trong điều kiện phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải tạo các điều kiện, môi
trường thuận lợi, lành mạnh để mọi thành phần kinh tế phát huy hết tiềm năng xây
dựng và phát triển đất nước.
- Hoàn thiện tăng cường công tác thanh tra phải trên cơ sở phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các tổ chức Thanh tra nhà nước với các cơ quan, tổ
chức khác, nhất là những cơ quan, tổ chức có chức năng kiểm tra, thanh tra, giám
sát; tạo ra cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát hữu hiệu, nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, đấu tranh chống các tệ tham nhũng, cửa
quyền, phòng và chống các hành vi vi phạm pháp luật, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội; phải nhằm vào mục tiêu
thiết lập được một hệ thống tổ chức cơ quan Thanh tra nhà nước tinh gọn, bảo đảm
tăng cường sự chỉ đạo tập trung, thống nhất trong hoạt động từ Trung ương đến cơ
40
sở, có phương thức hoạt động linh hoạt, đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời và có
hiệu quả, không chồng chéo, trùng lặp và cũng không bỏ sót đối tượng cần thanh
tra, kiểm tra, giám sát.
- Tăng cường thanh tra phải trên cơ sở sửa đổi một số điều của Hiến pháp
năm 1992 và các luật về tổ chức, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các văn
bản pháp luật và có bước đi thích hợp, phù hợp với yêu cầu cải cách cơ chế quản lý
kinh tế, cải cách một bước nền hành chính nhà nước, đáp ứng được các bước đi
trong lộ trình hội nhập quốc tế của nước ta.
3.1.1. Yêu cầu từ việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước
Trong những qua, tình hình tội phạm về lĩnh vực kinh tế diễn biến rất phức
tạp, có chiều hướng tăng lên về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Các vụ án lớn bị
phát hiện liên quan đến rất nhiều bộ phận, nhiều lĩnh vực trong hệ thống chính trị
của nước ta. Tuy các vụ án bị phát hiện và các cơ quan bảo vệ pháp luật tiến hành
xử lý những sai phạm, nhưng một điều thực tế là việc khắc phục hậu quả rất khó
thực hiện, gây tổn thất nghiêm trọng đến tiền bạc, tài sản của quốc gia. Qua những
vụ án lớn và nổi bật trong thời gian vừa qua cho ta thấy một điều là việc phanh
phui, phát hiện ra những sai phạm được thực hiện bởi lực lượng quần chúng nhân
dân và các lực lượng báo chí, thông tin đại chúng. Từ những thông tin đó, các cơ
quan chức năng mới vào cuộc. Điều này khẳng định rằng, công tác thanh tra, kiểm
tra để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mặt kinh tế đã không mang lại hiệu
quả cao trong vấn đề phòng ngừa và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Từ
những thực trạng đó, việc nâng cao chức năng quản lý nhà nước thông qua viêc
tăng cường công tác thanh tra là một đòi hỏi tất yếu, một việc cần phải làm ngay để
thực hiện nhà một nhà nước pháp quyền XHCN đích thực.
3.1.2. Yêu cầu từ mục tiêu kinh tế xã hội
Với mục tiêu kinh tế xã hội phải đạt được đến năm 2010 như Đại hội Đảng
bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VIII đã vạch ra và đặc biệt là mục tiêu đến năm 2020 thì
Đồng Nai trở thành tỉnh công nghiệp là những áp lực năng nề mà các cấp, các
ngành của tỉnh cần phải có những nỗ lực, phấn đấu cao mới có khả năng hoàn thành
các mục tiêu đề ra.
Thực tiễn đã chứng minh, với vai trò và vị trí của công tác thanh tra, kiểm
soát tốt đã góp phần đáng kể đến sự phát triển của một lĩnh vực, một địa phương.
41
Từ yêu cầu của mục tiêu kinh tế xã hội, ngành thanh tra phải thực sự phát
huy tối đa vai trò và trách nhiệm của mình để thực tốt chức năng quản lý nhà nước.
Mục tiêu qua công tác thanh tra là phát huy những nhân tốt tích cực, uốn nắn, chấn
chỉnh những yếu tố tiêu cực, góp phần làm lành mạnh hóa công tác quản lý tài chính
ngân sách nhà nước, làm cho ngân sách nhà nước đạt mục tiêu thu đúng thu đủ, chi
có hiệu quả góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế đã đề ra.
Thực tiễn công tác thanh tra trong những năm qua cho thấy, số lượng các
cuộc thanh tra về tài chính, ngân sách nhà nước chưa xứng với tầm vóc của của tỉnh
như Đồng Nai, chất lượng và hiệu quả các cuộc thanh tra chưa đảm bảo, làm ảnh
hưởng nhiều đến mục tiêu kinh tế xã hội chung của tỉnh.
Từ những vấn đề trên, tăng cường công tác thanh tra là một trong những yếu
tố quyết định đến việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra.
3.1.3. Yêu cầu từ công cuộc phòng chống tham nhũng
Tham nhũng hiện nay được Đảng và Nhà nước xác định là một quốc nạn,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại của một chế độ, một nhà nước. Từ thực tế
đó, trong thời gian vừa qua, nhà nước ta đã có rất nhiều những chương trình hành
động nhằm giải quyết nạn tham nhũng. Trong việc giải quyết tình trạng tham nhũng
thì vấn đề phòng ngừa tham những được đặt lên hàng đầu. Do vậy, từ năm 2004 đến
nay, Quốc hội ban hành một số Luật có liên quan đến công tác phòng chống, ngừa
ngăn chặn hành vi tham nhũng lãng phí, trong đó, công tác thanh tra được xác định
như một trong những công tác then chốt để phòng ngừa và phát hiện hành vi tham
nhũng lãng phí.
Như vậy, để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của Đảng và Nhà nước trong
công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí hiện nay, ngành thanh tra tỉnh Đồng
Nai nói riêng và thanh tra cả nước nói chung phải xác định trách nhiệm của mình
đối với nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ đó, phải có những đổi mới,
những chương trình hành động, những nỗ lực, những biện pháp của ngành để có thể
đáp ứng được các yêu cầu trong tình hình đất nước hiện nay.
3.1.4. Yêu cầu từ quá trình hội nhập
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống
tham nhũng có ý nghĩa, tác dụng to lớn trên nhiều mặt. Làm tốt công tác phòng
chống tham nhũng trước hết sẽ góp phần xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán
42
bộ công chức ngày càng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, công tác
phòng chống tham nhũng còn có vai trò, đóng góp nhất định trong việc đẩy mạnh
tiến trình hội nhập quốc tế, cụ thể là:
- Thông qua việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, các cơ quan,
tổ chức, đơn vị sẽ góp phần xây dựng một môi trường đầu tư lành mạnh, hấp dẫn,
giành được lòng tin, sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích họ
tích cực bỏ vốn đầu tư, kinh doanh, làm ăn ở nước ta. Từ đó thu hút vốn, tài chính,
công nghệ, kỹ thuật quản lý của nước ngoài, thực hiện tốt chủ trương của Đảng về
phát huy nội lực, khai thác, tận dụng ngoại lực phục vụ cho công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Hiện tại, nước ta đang là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế đa phương,
nhiều thể chế, diễn đàn hợp tác kinh tế ở phạm vi khu vực và thế giới như: Liên
Hợp Quốc, ASEAN, APEC... và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Tham gia vào nỗ lực chung của cộng đồng thế giới
trong đấu tranh chống tham nhũng. Nước ta đã ký kết công ước của Liên hiệp quốc
về chống tham nhũng; tham gia chương trình hành động chống tham nhũng khu vực
châu Á – Thái Bình Dương do tổ chức các nước công nghiệp phát triển (OECD) và
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) khởi xướng, bảo trợ. Nước ta còn tham gia
chương trình hành động chống tham nhũng trong khuôn khổ APEC. Đặc biệt trong
công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng đã quy định và đề ra hàng loạt các
yêu cầu đối với các quốc gia thành viên về phòng ngừa tham nhũng, hình sự hóa
hành vi tham nhũng, hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, đẩy
mạnh công tác phòng chống tham nhũng hiện nay chính là nhằm đáp ứng các yêu
cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Mặt khác, thông qua quá trình này, chúng ta cũng có được cơ hội, điều kiện
tiếp thu, tham khảo, học tập được nhiều kinh nghiệm hữu ích của cộng đồng thế
giới và có được sự hợp tác quốc tế chặt chẽ trên những lĩnh vực như: Dẫn độ người
phạm tội tham nhũng, tịch thu, thu hồi tài sản tham nhũng, trao đổi thông tin về
tham nhũng, các biện pháp hỗ trợ pháp lý trong việc phòng, chống tham
nhũng...để đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn tham nhũng đang diễn biến phức tạp với
những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
43
3.2. Các giải pháp tăng cường công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước tỉnh Đồng Nai. Từ những thực trạng về công tác thanh tra hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai và những đòi hỏi phải tăng cường công tác thanh tra trong tình hình mới, tác giả
đề nghị một số nhóm giải pháp để thực hiện như sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp tăng số lượng cuộc thanh tra
3.2.1.1. Bổ sung quyền và nhiệm vụ cho Thanh tra tỉnh. Đẩy mạnh công
tác thanh tra hành chính của các cơ quan thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh.
Hiện nay, để thực hiện công tác thanh tra thu chi ngân sách nhà nước ở cấp
tỉnh được thực hiện chủ yếu từ Thanh tra tỉnh và thanh tra Sở Tài chính, ở cấp
huyện có Thanh tra huyện. Do vậy, chỉ với các cơ quan này thì không thể đảm nhận
toàn bộ công tác thanh tra thu chi ngân sách của toàn tỉnh môt cách đầy đủ, có hiệu
quả. Trong khi đó, thanh tra các sở ngành hiện nay chỉ thực hiện các cuộc thanh tra
chuyên ngành mà ít quan tâm đến các cuộc thanh tra hành chính về lĩnh vực ngân
sách theo thẩm quyền. Do vậy, Thanh tra tỉnh phải chủ trì chỉ đạo cho thanh tra các
sở, ban, ngành phải tăng cường thanh tra hành chính về lĩnh vực thu chi ngân sách
theo thẩm quyền. Hàng năm, trên cơ sở đặc điểm, thẩm quyền của từng sở, ban,
ngành, các huyện, Thanh tra tỉnh phải giao kế hoạch thanh tra hành chính về lĩnh
vực thanh tra thu chi ngân sách cho thanh tra các sở ngành, và các huyện một cách
cụ thể, đặt biệt là công tác thanh tra chi ngân sách. Định kỳ hàng quý, Thanh tra tỉnh
tiến hành họp giao ban để theo dõi tiến độ, đôn đốc, cũng như hỗ trợ cho thanh tra
sở ban, ngành, các huyện hoàn thành các cuộc thanh tra theo kế hoạch, hoặc giải
quyết các vướng mắc phát sinh.
Đồng thời, để góp phần làm tốt công tác thanh tra tài chính ngân sách, Chính
phủ phải tăng quyền hạn cho Thanh tra tỉnh theo hướng được quyền thanh tra tài
chính ngân sách của các đơn vị trực thuộc sở, ban ngành của tỉnh nhằm làm cho
Thanh tra tỉnh chủ động hơn trong công tác thanh tra tài chính ngân sách, đồng thời
công tác thanh tra sẽ được thường xuyên, khách quan hơn (bổ sung quyền hạn của
Thanh tra tỉnh tại điều 18 Luật Thanh tra).
3.2.1.2. Tăng cường nhân sự cho các tổ chức thanh tra
Hiện nay, nhân sự ở các tổ chức thanh tra không đáp ứng được những yêu
cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Có những đơn vị thanh tra sở, ngành
chi có 3 cán bộ làm công tác thanh tra. Với lực lượng như thế thì không thể đảm bảo
44
tốt công tác thanh tra chuyên ngành và thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý
của mình. Thanh tra tỉnh phải tiến hành rà soát lại đội ngũ nhân sự của các tổ chức
thanh tra trong toàn tỉnh, trên cở sở đặc điểm của từng sở, ban, ngành, huyện mà đề
xuất các cấp lãnh đạo về bố trí nhân sự cho phù hợp với những yêu cầu nhiệm vụ.
Từ đó, mới có thể tăng số lượng các cuộc thanh tra theo yêu cầu.
3.2.1.3. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với người làm công tác thanh tra
Theo quy định hiện hành, Thanh tra viên của hệ thống Thanh tra Nhà nước
hưởng lương theo bảng lương riêng, thuộc hệ thống tiền lương của cơ quan hành
chính. So với bảng lương của chuyên viên thì hệ số lương của ngạch Thanh tra viên
không cao hơn. Ngoài tiền lương, hiện tại ngạch Thanh tra viên được hưởng phụ
cấp nghề với mức 25% trên tiền lương. Ngoài ra thanh tra viên thuộc hệ Thanh tra
Nhà nước không được hưởng trích thưởng như một số chức danh khác.
Xét về tính chất, đặc điểm công việc hiện tại và những yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, cho thấy chế độ tiền lương và phụ cấp nghề theo như quy định
hiện nay đối với bậc thanh tra viên là còn bất hợp lý. Những khoản lương và phụ
cấp nghề hiện tại chưa đảm bảo cho Thanh tra viên yên tâm công tác, chưa tạo động
lực, động cơ để thanh tra viên tận tâm, tận lực trong công tác. Cụ thể như việc phát
hiện ra những sai phạm, thu hồi tài sản tiền bạc về cho ngân sách, thì bản thân
Thanh tra viên không trích thưởng hoặc được hưởng gì từ những khoản thu hồi đó.
Đây là một trong những yếu tố làm cho ngành thanh tra chưa thu hút được nhân lực
có trình độ, có tâm huyến phục vụ với ngành.
Thanh tra Chính phủ hiện tại đang xây dựng quy chế làm việc của đoàn
thanh tra để phù hợp với tình hình mới và phù hợp với những quy định pháp luật
hiện hành. Tuy nhiên, trong quy chế đang dự thảo chưa nêu lên vấn đề về việc trích
thưởng cho đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra đối với các khoản tiền, tài sản
thu hồi. Do vậy, để tạo động lực, phát huy sáng tạo, khích lệ tinh thần làm việc cũng
như tạo mội trường thu hút nhân tài cho hoạt động của ngành thì trong quy chế làm
việc của đoàn thanh tra phải nêu rõ những khoản tiền được trích thưởng cho đoàn
thanh tra và thành viên đoàn thanh tra trong việc phát hiện những sai phạm, thất
thoát.
3.2.1.4. Thiết lập đường dây nóng tại cơ quan Thanh tra tỉnh
45
Công tác phòng chống tham nhũng hiện nay được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Trong đó, lực lượng thanh tra là một trong những lực lượng nòng cốt
để thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, hiện nay người dân khi muốn phản ánh những
sai phạm, tiêu cực, có dấu hiệu tham ô, tham nhũng thì thường báo cho các cơ quan
thông tin đại chúng để phản ánh mà không biết phải báo cho cơ quan chức năng nào
theo số điện thoại nào cho phù hợp tính chất của sai phạm. Dẫn đến, hiện nay việc
xử lý tin báo tội phạm trong lĩnh vực kinh tế còn chồng chéo, hoặc khi nhận tin báo
mà không đúng với chức năng của cơ quan mình thì các cơ quan nhận tin cũng
không thông báo đến những cơ quan đúng thẩm quyền, làm cho việc phát hiện xử lý
tội phạm về lĩnh vực kinh tế bị hạn chế rất nhiều. Do vậy, Thanh tra tỉnh phải chủ trì
phối hợp với cơ quan công an, viện kiểm soát để phân loại những dạng sai phạm
trong lĩnh vực kinh tế, từ đó sẽ xác định trách nhiệm xử lý tin báo của từng cơ quan
và thiết lập nên đường dây nóng cho các cơ quan. Thanh tra tỉnh phải lập bộ phận
để nhận tin báo từ quần chúng nhân dân. Số điện thoại đường dây nóng phải dễ nhớ,
được thông tin tuyên truyền phổ biến đến người dân một cách công khai, thường
xuyên và mang tính khích lệ người dân tham gia tố giác tội phạm, tham gia cung
cấp thông tin những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Làm được như thế thì công tác phòng chống tham nhũng cũng như hiệu quả
hoạt động của ngành thanh tra được nâng lên, đồng thời Thanh tra tỉnh có chỉ đạo
kịp thời trong việc thực hiện các cuộc thanh tra nhằm ngăn ngừa, phòng chống
những sai phạm có thể xảy ra, góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước
của mình.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cuộc thanh tra 3.2.2.1. Xây dựng kênh thông tin về các văn bản pháp luật và tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo giữa thanh tra các tỉnh. Thanh tra Chính phủ đã có trang web chuyên ngành. Trong đó đã có cập nhật
các văn bản có liên quan đến ngành thanh tra. Tuy nhiên, đa số các cơ quan thanh
tra trong tỉnh hiện nay chưa kết nối được với mạng thông tin internet. Do vậy, việc
cập nhật thông tin về các văn bản pháp luật hiện nay chủ yếu từ báo chí, công báo,
mà đặc điểm của công tác thanh tra là phải nắm những văn bản pháp luật thời điểm
trước đây (thời điểm phát sinh vụ việc thanh tra), không phải hiện tại. Chính vì thế,
người làm công tác thanh tra phải tra cứu những văn bản cũ từ công báo, sách,
46
báo chí. Điều này làm mất rất nhiều thời gian, đôi khi lại không tìm thấy, khó khăn
cho việc kết luận, xử lý vụ việc.
Việc trang bị phương tiện kết nối Internet là một yêu cầu tất yếu, khách
quan, qua đó người làm công tác thanh tra dễ dàng tiếp cận với các văn bản pháp
luật qua từng thời kỳ, nâng cao kiến thức trình độ pháp luật của cán bộ thanh tra,
thuận lợi trong quá trình kết luận, kiến nghị xử lý. Đồng thời Thanh tra Chính phủ
phải cung cấp địa chỉ trang web một cách rộng rãi, công khai và thường xuyên trên
phương tiện thông tin đại chúng. Trong trang web của Thanh tra Chính phủ phải bố
trí cơ sở dữ liệu pháp luật không chỉ trong lĩnh vực thanh tra mà toàn bộ các lĩnh
vực trong xã hội để cung cấp kịp thời việc tra cứu văn bản của các cơ quan thuộc hệ
thống.
Thanh tra Chính phủ phải thường xuyên chủ trì tổ chức các cuộc hội thảo
chuyên ngành nhằm cung cấp những thông tin mới nhất về họat động của ngành,
chia sẽ những kinh nghiệm cũng như diễn biến của tình hình tội phạm kinh tế, nhằm
làm cho kiến thức của thanh tra các tỉnh nâng lên, tạo mối đòan kết thống nhất trong
cả hệ thống thanh tra.
3.2.2.2.Xây dựng chuẩn mực về công tác thanh tra. Trong thực hiện nghiệp vụ công tác hiện nay, từng thanh tra viên thực hiện
nghiệp vụ theo cách mình nhận định, suy nghĩ và đưa ra phương pháp thanh tra cho
từng loại đối tượng. Do đó, để đánh giá hiệu quả của một cuộc thanh tra là rất khó.
Hiện tại chưa có một quy định chung nhất về cách thức tiến hành thanh tra cho
các loại nghiệp vụ thanh tra. Do vậy, để đảm bảo một cuộc thanh tra có hiệu quả,
đồng thời để đánh giá công việc của thanh tra viên đã làm thì cần phải có một chuẩn
mực chung về công tác thanh tra, trong đó hướng dẫn cụ thể thanh tra viên xử lý
những tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra cũng như hướng dẫn các
bước, trình tự và công việc cụ thể mà thanh tra viên phải làm khi tiến hành thanh tra
một khoản mục nào đó.
Việc xây dựng chuẩn mực thanh tra phải được thực hiện bởi Thanh tra Chính
phủ, nơi mà có thể tổng hợp được các dạng, loại hình thanh tra phát sinh trong thực
tế. Khi xây dựng được chuẩn mực thanh tra, thì sẽ nâng cao vai trò của người làm
công tác thanh tra, nếu như quá trình thực hiện các cuộc thanh tra mà người thanh
tra viên không làm đúng và đủ các bước, công việc như theo chuẩn mực quy định
47
thì sau này nếu có những sai phạm phát sinh mà qua thanh tra không phát hiện được
thì việc xử lý trách nhiệm của người thanh tra viên được thuận lợi dễ dàng. Thực tế
hiện nay có những trường hợp qua thanh tra không phát hiện ra được những sai
phạm, nhưng một thời gian sau, sai phạm bị phát hiện ra. Lúc này, vì không có
chuẩn mực chung để xem xét thanh tra viên đã làm hết trách nhiệm chưa, có khách
quan không trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Do đó việc xử lý gặp khó khăn. Khi
có được chuẩn mực chung thì thanh tra viên phải thực hiện hết trách nhiệm của
mình, tuân thủ đúng những bước, công việc, trình tự mà chuẩn mực đã quy định. Có
được như vậy thì hiệu quả công tác thanh tra mới được nâng lên.
3.2.2.3. Tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo về công tác thanh tra. Trong những năm qua, có những dạng vi phạm pháp luật mới phát sinh, các
cơ quan thanh tra trở nên lúng túng trong nghiệp vụ thanh tra. Trong khi đó Thanh
tra Chính phủ không thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về công tác
thanh tra để người làm công tác thanh tra có cơ hội trao đổi, học tập kinh nghiệp
lẫn nhau nhằm nâng cao nghiệp vụ, trình độ, phục vu tốt hơn trong tình hình mới.
Thanh tra tỉnh Đồng nai có chế độ giao ban hàng quý đối với thanh tra các huyện và
sở ban ngành. Tuy nhiên, các cuộc họp giao ban chủ yếu nắm tình hình công tác
thanh tra, chưa đi sâu vào việc phân tích các hình thức sai phạm hoặc trao đổi
nghiệp vụ thanh tra để từ đó nâng cao nhận thức và kiến thức cho thanh tra viên.
Ở địa phương, Thanh tra tỉnh phải thường xuyên mở các lớp tập huấn hoặc
các cuộc hội thảo chuyên ngành về lĩnh vực thanh tra mới phát sinh để các cán bộ
thanh tra có dịp học hỏi, nắm bắt những kiến thức, nhận dạng những hình thức sai
phạm mới nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thanh tra.
3.2.2.4. Nâng cao hiệu lực của kết luận thanh tra Thực tế cho thấy, cơ quan thanh tra sau khi thanh tra xong chỉ có quyền kiến
nghị xử lý đến cấp có thẩm quyền. Nhưng có trường hợp cấp thẩm quyền không
muốn xử lý theo như kết luận và kiến nghị của cơ quan thanh tra thì các kiến nghị
đó cũng không được thực thi. Và như thế kết luận thanh tra không mang tính hiệu
lực cao. Cơ quan thanh tra hiện chưa có quyền thực hiện các hình thức chế tài nếu
như đối tượng thanh tra hoặc cơ quan đơn vị có trách nhiện thực hiện kiến nghị
thanh tra không thực hiện đúng như kiến nghị xử lý của Đoàn thanh tra. Do đó, hiện
nay tính hiệu lực của kết luận thanh tra chưa phát huy hiệu quả cao.
48
Chính vì vậy, để tăng cường công tác thanh tra thì cơ quan hành chính địa
phương như UBND tỉnh phải chỉ đạo sâu sát và có biện pháp xử lý đủ mạnh để các
kiến nghị của thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc. Ở cấp Thanh tra Chính
phủ phải có kiến nghị về mặt văn bản pháp luật để Chính phủ ban hành quy định chi
tiết, cụ thể về trách nhiệm của các đơn vị thực hiện các kiến nghị sau thanh tra và
quyền hạn của cơ quan thanh tra trong việc xử lý các trường hợp không chấp
hành kiến nghị của thanh tra. Quyền hạn của cơ quan thanh tra trong vấn đề này
phải được quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tăng quyền hạn
về hình thức thực hiện chế tài của cơ quan thanh tra.
Đối với cơ quan Thanh tra tỉnh, có cơ chế phải tăng cường công tác kiểm tra
việc thực hiện các kiến nghị xử lý sau thanh tra trong phạm vi của tỉnh để từ đó đôn
đốc, kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị của các đơn vị có liên quan cũng như xử
lý kịp thời những trường hợp không thực hiện nghiêm các kiến nghị của đòan thanh
tra, nhằm gióp phần làm cho các kiến nghị sau thanh tra được thực thi hơn.
3.2.2.5.Nâng cao trình độ, phẩm chất của người làm công tác thanh tra. Qua xem xét thực tế, lực lượng thanh tra hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Để
đáp ứng với nhiệm vụ và yêu cầu trong tình hình hiện nay, lực lượng thanh tra
không chỉ tăng lên về số lượng mà phải tăng về chất lượng, trình độ phù hợp với
đặc điểm của từng ngành, từng địa phương. Có Sở chỉ có lực lượng thanh tra
chuyên ngành mà không có lực lượng có trình độ để làm công tác thanh tra hành
chính. Tại một số huyện, cán bộ thanh tra trình độ chủ yếu là ngành Luật. Do vậy,
khi thực hiện các cuộc thanh tra về lĩnh vực tài chính thì không có người làm hoặc
nếu làm thì cũng không có hiệu quả cao. Thanh tra tỉnh phải chủ trì phối hợp với
các ngành, các huyện rà soát lại, bổ sung đội ngũ thanh tra viên, bố trí lực lượng
thanh tra cân bằng về trình độ theo hướng có trình độ về luật, về tài chính…để làm
sao một tổ chức thanh tra ở huyện hoặc sở, ban, ngành có đủ lực lượng để thanh tra
chuyên ngành và thanh tra hành chính, góp phần thực hiện tốt, có hiệu quả các cuộc
thanh tra tài chính ngân sách ở ngành, địa phương của mình.
Công tác đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra chưa được các cấp quan
tâm đúng mức, hàng năm số lượng cán bộ thanh tra viên đi học các lớp nghiệp vụ
thanh tra không nhiều. Trung bình trong 1 năm có khoảng 7 đến 10 cán bộ đi học,
trong khi lực lượng thanh tra viên toàn tỉnh là 123 người, trong đó khoảng 95
49
thanh tra viên chưa được học qua lớp nghiệp vụ thanh tra. Điều này làm cho chất
lượng các cuộc thanh tra chưa mang lại hiệu quả cao.
Thanh tra tỉnh phải chủ động phối hợp với Trường cán bộ thanh tra thường
xuyên mở các lớp nghiệp vụ thanh tra cơ bản, nâng cao để từng bước nâng cao chất
lượng của đội ngũ thanh tra trong toàn tỉnh, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
3.2.2.6. Bổ sung nội dung kiểm tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội bộ của đơn vị được thanh tra trong quá trình thanh tra tài chính. Các nội dung chủ yếu trong quá trình thanh tra tài chính, ngân sách của các
đoàn thanh tra tập trung vào các vấn đề như: Kiểm tra các nguồn thu, các khoản chi,
xem xét xem các khoản thu có thu đúng thu đủ hay không, các khoản chi đảm bảo
có chi hợp lý, hợp lệ hay không. Đây là những nội dung thanh tra chủ yếu trong thời
gian qua của các đoàn thanh tra tài chính, ngân sách. Tuy nhiên, uốn nắn, chấn
chỉnh và phòng ngừa sai phạm là mục tiêu hàng đầu trong công tác thanh tra. Do
vậy, để làm tốt công tác phòng chống tham nhũng như hiện nay, trong quyết định
thành lập đoàn thanh tra tài chính ngân sách phải bổ sung thêm nội dung kiểm tra
việc bố trí nhân sự và quá trình thực hiện kiểm soát nội bộ để từ đó có kiến nghị
chấn chỉnh đơn vị đề phòng những sai phạm sẽ phát sinh sau này.
Thực tế cho thấy, có những trường hợp, đơn vị bố trí người vừa làm kế toán,
vừa làm thủ quỹ, không thực hiện đối chiếu công nợ hoặc kiểm kê quỹ tiền mặt định
kỳ. Các đoàn thanh tra qua quá trình thanh tra không quan tâm xem xét vấn đề này
vì không nằm trong nội dung thanh tra để có kiến nghị đơn vị chấn chỉnh kịp thời
đúng theo quy định quản lý tài chính hiện thời. Đến một thời điểm nào đó, do việc
bố trí nhân sự như thế và do không quan tâm đến kiểm soát nội bộ như kiểm tra đối
chiếu công nợ phải thu, phải trả, kiểm kê quỹ tiền mặt hoặc đối chiếu với ngân
hàng và kho bạc đã xảy ra việc nhân viên của đơn vị lợi dụng kẽ hở mà chiếm đoạt
tiền và tài sản của nhà nước. Khi phát hiện ra thì đã quá muộn, không có khả năng
khắc phục được, gây tổn thất cho ngân sách nhà nước.
Do vậy, phải bổ sung nội dung thanh tra việc bố trí nhân sự và kiểm soát nội
bộ trong việc thanh tra tài chính ngân sách là một việc làm hết sức cần thiết trong
công tác phòng ngừa, chống tham nhũng, đồng thời giúp cho đơn vị được thanh tra
quản lý tốt hơn nửa trong quản lý tài chính của mình.
50
KẾT LUẬN
Kể từ khi Ban Thanh tra đặt biệt được Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập ngày
23/11/1945 đến nay, ngành thanh tra Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm xây dựng và
trưởng thành. Qua mỗi thời kỳ của đất nước, tổ chức và hoạt động thanh tra lại có
những bước phát triển mới, và qua mỗi thời kỳ, ngành thanh tra có những đóng góp
quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh tra, ngay sau ngày thống
nhất đất nước, đầu năm 1976, Thanh tra tỉnh Đồng Nai được hình thành. Ngày
15/9/1977, UBND tỉnh Đồng Nai có các quyết định 758, 759, 760 chính thức thành
lập Ủy ban Thanh tra tỉnh, Thanh tra các huyện và sở ngành, tạo thành một hệ thống
gồm 3 cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp sở, ngành.
Gần 30 năm qua, ngành Thanh tra Đồng Nai đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ chính trị của mình. Thực sự là “tai mắt của trên, là bạn của dưới”. Kết quả hoạt
động của ngành Thanh tra đã góp phần tích cực nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Công tác thanh tra kinh tế- xã hội đã được đẩy mạnh trên các lĩnh vực tài
chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, đất đai, đầu tư xây dựng, văn hóa, giáo
dục, y tế, chế độ chính sách về lao động, bảo vệ môi trường, an ninh, quốc phòng,…
và đặc biệt đã triển khai những cuộc thanh tra lớn theo chỉ đạo của Thanh tra Chính
phủ, như: thanh tra ngành tài chính (năm 1991); thanh tra tài chính tín dụng (năm
1996); thanh tra đầu tư xây dựng và quản
lý đất đai theo Quyết định 273 của Thủ tướng Chính phủ (năm 2002 - 2005).
Qua công tác thanh tra kinh tế xã hội, ngành đã có những kiến nghị kịp thời sửa đổi
về cơ chế chính sách, chấn chỉnh công tác quản lý của các cơ quan, đơn vị; góp
51
phần lập lại trật tự kỷ cương pháp luật, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng, lãng phí, các
hành vi vi phạm trên các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội; chấn chỉnh những thiếu
sót tồn tại của các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị cơ sở; xử lý nghiêm túc
những hành vi vi phạm.
Trong công tác đấu tranh chống tham nhũng, các cơ quan Thanh tra của tỉnh
là thành viên trong Ban chỉ đạo chống tham nhũng các cấp, các ngành; chủ động
tham mưu đề xuất trong việc củng cố kiện toàn Ban chỉ đạo chống tham nhũng
nhằm đưa hoạt động của Ban đi vào nề nếp, phối hợp tốt giữa các cơ quan chức
năng để kịp thời thông tin và xử lý nghiêm túc những hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Các vụ việc sai phạm phát hiện, ngành Thanh tra kịp thời kiến nghị cấp có thẩm
quyền xử lý, có theo dõi đôn đốc để xử lý dứt điểm.
Trong giai đoạn mới hiện nay của quá trình phát triển đất nước và của tỉnh,
nhiệm vụ của ngành Thanh tra hết sức năng nề, đòi hỏi phải có những bước phát
triển, đột phá vượt bậc về số lượng và chất lượng của đội ngũ Thanh tra viên cũng
như phải tăng cường chất lượng hiệu quả các cuộc thanh tra để có thể đáp ứng đươc
những yêu cầu trong nước và yêu cầu từ quá trình hội nhập quốc tế. Với những giải
pháp kiến nghị như trên, tác giả hy vọng sẽ góp phần vào trong công cuộc xây
dựng ngành Thanh tra vững mạnh về mọi mặt, góp phần cùng với các ngành, các
cấp trong hệ thống chính trị nước ta xây dựng một nước Việt nam giàu mạnh, thực
hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh”.
52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Minh, Tìm hiểu Luật Thanh tra năm 2004, NXB Chính trị Quốc Gia
2005.
2. TS. Vũ Phạm Quyết Thắng, Những nội dung cơ bản của Luật Thanh tra năm
2004, Thanh tra Nhà nước.
3. PGS.TS. Trần Hậu Kiêm, Một số vấn đề về quản lý nhà nước, NXB Thống kê
2001.
4. TS. Vũ Phạm Quyết Thắng, Hỏi – Đáp về phòng chống tham nhũng, Tạp chí
Thanh tra 2006.
5. Thanh tra Chính phủ, Lịch sử Thanh tra Việt Nam 1945-2005, NXB Chính trị
Quốc gia 2005.
6. Kỷ yếu các kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai các khóa VI và VII.
7. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra tài chính do Trung tâm bồi dưỡng cán bộ
tài chính - Bộ Tài chính phát hành năm 2000.
8. Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
16/12/2002.
9. Tạp chí Thanh tra các số năm 2005, 2006
10. Báo thanh tra các số năm 2005, 2006
11. Trang web Thanh tra Chính phủ: www.thanhtra.gov.vn
12. Trang web của tỉnh Đồng Nai: www.dongnai.gov.vn