ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ TRANG
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA HỒ ANH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ TRANG
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC
CỦA HỒ ANH THÁI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Ngày 22 tháng 6năm 2016
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Trang
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, biết
ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý-
người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu với tất
cả tấm lòng và trách nhiệm của người thầy.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban giám hiệu; Phòng
Đào tạo; Khoa Ngữ văn; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Tôi xin ơn sâu sắc các bạn đồng nghiệp cùng người thân, gia đình đã
giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Ngày 22 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Trang
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 6
4. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
6. Tư liệu nghiên cứu ........................................................................................... 7
7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
8. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
9. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 9
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ..................................... 10
1.1. Khái quát về thành ngữ, tục ngữ ................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ ................................................................. 10
1.1.2. Một số nét tương đồng của thành ngữ, tục ngữ ....................................... 12
1.1.3. Một số nét dị biệt giữa thành ngữ, tục ngữ .............................................. 21
1.2. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự nghiệp sáng tác của Hồ Anh Thái ...... 24
1.2.1. Sơ lược về tiểu sử .................................................................................... 24
1.2.2. Quan niệm sáng tác .................................................................................. 25
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28
Chương 2. CÁCH THỨC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI ................................................. 29
2.1. Khái quát chung về việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ
Anh Thái ............................................................................................................ 29
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.2. Cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ Anh Thái ....... 32
2.2.1. Vị trí đặt ................................................................................................... 32
2.2.2. Các kiểu vận dụng ................................................................................... 40
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 53
Chương 3. GIÁ TRỊ CỦA VIỆC SỬ DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN HỒ ANH THÁI ............................. 54
3.1. Giá trị của việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ vào phản ánh nội dung
sáng tác ................................................................................................... 54
3.1.1. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần hiển lộ xã hội hiện đại ........ 54
3.1.2. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần khắc họa chân dung và nhân
cách của con người hiện đại .............................................................................. 57
3.1.3. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần bộc lộ quan điểm nhìn đời sâu
sắc của nhà văn .................................................................................................. 63
3.2. Giá trị của việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong nghệ thuật biểu hiện của
các tác phẩm ...................................................................................................... 66
3.2.1. Tạo ra lớp ngôn từ gần gũi nhưng rất sâu sắc ......................................... 66
3.2.2. Tăng sự linh hoạt và hình ảnh cho câu văn ............................................. 70
3.2.3. Góp phần làm đậm rõ giọng điệu châm biếm của nhà văn ..................... 75
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 79
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
PHỤ LỤC
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.1. Bảng thống kê số lượng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ
Anh Thái ............................................................................................ 29
Bảng 2.1.2. Bảng thống kê tần số sử dụng thành ngữ, tục ngữ ở từng thể loại
trong sáng tác của Hồ Anh Thái ........................................................ 30
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tiếng Việt là một thứ ngôn ngữ giàu đẹp. Sự giàu đẹp ấy sẽ không
thể đầy đủ nếu thiếu đi thành ngữ, tục ngữ. Thành ngữ và tục ngữ là những câu
nói dân gian luôn đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình giao tiếp của
người dân nước Việt từ xưa tới nay. Bởi người Việt ưa sử dụng những câu nói
ngắn gọn nhưng sâu sắc. Người Việt cũng ưa sử dụng những kinh nghiệm,
những tri thức đã được đúc kết để lồng vào cuộc trò chuyện khiến cho lời nói
ngắn gọn nhưng hàm súc và giàu hình ảnh. Thành ngữ, tục ngữ đã đáp ứng
được yêu cầu ấy. Thế nên, dù chẳng ai bảo ai nhưng chúng ta đều sử dụng
thành ngữ, tục ngữ như một thói quen không thể thiếu trong khi giao tiếp.
Tục ngữ là những kho kinh nghiệm của nhân dân về các hiện tượng tự
nhiên, các ứng xử xã hội. Đó là nơi bộc lộ khá tập trung lối sống, đặc điểm tư
duy, lối nói của dân tộc. Nói cách khác, tục ngữ biểu hiện khá rõ văn hóa của
dân tộc. Văn hóa là dòng chảy tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Theo cùng dòng chảy ấy, tục ngữ cũng tồn tại từ quá khứ cho tới tận ngày hôm
nay. Đến nay, người Việt vẫn coi tục ngữ là “túi trí khôn” của chung dân tộc, ai
cũng có quyền sử dụng và có trách nhiệm giữ gìn.
Trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc, thành ngữ cũng là một lựa chọn quen
thuộc trong quá trình giao tiếp. Chúng ta thích dùng những ý, những mẫu có
sẵn để lời nói ngắn gọn nhưng súc tích. Thế hệ trước tạo ra ý, mẫu sẵn và thế hệ
sau sử dụng như một thói quen. Vậy nên, thành ngữ cũng có vai trò quan trọng
giúp nâng cao hiệu quả giao tiếp và có sức sống bền bỉ cho tới ngày nay.
1.2. Xã hội hiện đại đã đánh dấu sự xuất hiện của thành ngữ, tục ngữ phổ
biến trong văn chương và báo chí. Đặc biệt là trong văn chương hiện đại. Các
1
nhà văn ưa sử dụng thành ngữ, tục ngữ để tạo sức biểu cảm cao cho các câu
văn, hình ảnh, tạo sự cuốn hút người đọc. Hầu như các nhà văn hiện đại nào ít
nhiều cũng sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác. Trong đội ngũ các nhà
văn nổi bật lên có Hồ Anh Thái - một đại diện tiêu biểu cho văn học Việt Nam
đương đại. Đây là một nhà văn mang phong cách văn chương độc đáo đầy sự
lôi cuốn; lối viết văn tự nhiên trơn lướt; ngôn ngữ văn chương tổng hòa nhiều
màu sắc, trong đó nổi bật lên là màu của ngôn ngữ đời thường. Bởi nhà văn
muốn thông qua ngôn ngữ bình dân để vẽ nên thực trạng xã hội một cách chân
thật nhất để hướng tới miêu tả hiện thực như nó vốn có. Nhà văn muốn thu hẹp
khoảng cách giữa truyện kể và những chuyện của đời thực. Sử dụng lời ăn tiếng
nói bình dân chính là phương thức để thu hẹp khoảng cách ấy. Đó là nguyên
nhân lí giải vì sao trong các sáng tác của Hồ Anh Thái lại chứa một số lượng
lớn thành ngữ và tục ngữ.
1.3. Xét thấy vấn đề sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm
của Hồ Anh Thái là một vấn đề rất thú vị nhưng đến nay vẫn chưa có một
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu, lí giải một cách hệ thống. Vậy nên người
viết mạnh dạn chọn đề tài “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ Anh
Thái”. Mong rằng qua đề tài này, người viết có thêm đóng góp để giúp người
đọc có thể thấy rõ hơn nữa sức sống lâu bền của thành ngữ, tục ngữ trong xã
hội hiện đại; thấy rõ hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa thành ngữ, tục ngữ
với văn chương hiện đại và phần nào lí giải được cái thú vị cuốn hút người
đọc đến với các sáng tác của Hồ Anh Thái- một trong những nhà văn tiêu
biểu của văn học hiện đại ở Việt Nam một phần là nhờ chất dân gian còn lưu
dấu trên nhiều trang viết của ông.
2
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu về văn học dân gian hiện đại nói chung và tục ngữ
mới nói riêng đã được quan tâm đến trong một số giáo trình, bài viết.
Giáo trình "Văn học dân gian Việt Nam" của tác giả: Đinh Gia Khánh,
Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn đã khẳng định tục ngữ phát triển, biến đổi
theo sự phát triển của trình độ kỹ thuật, xã hội. Vì vậy mà sau Cách mạng tháng
Tám, những câu tục ngữ mới ra đời đã phản ánh được phần nào cuộc cách
mạng khoa học ở nước ta. Các tác giả còn khẳng định "Tục ngữ mới vẫn đang
trên đường phát triển". Như vậy, trong giáo trình này, các tác giả đã ít nhiều đề
cập tới sự phát triển, vận động của tục ngữ và vị trí của nó trong xã hội mới.
Ở Việt Nam cuối những năm 60 của thế kỷ 20, trên "Tạp chí văn học"
cũng có một diễn đàn bàn về văn học dân gian hiện đại. Các tác giả nghiên cứu
văn học dân gian như: Đinh Gia Khánh, Vũ Ngọc Phan, Trần Gia Linh,... đều
khẳng định sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại và vai trò của nó trong đời
sống. Đã có ý kiến lập luận về tục ngữ: "Tục ngữ chỉ là một trong những thể
loại chứng minh sức sống của văn học dân gian trong thời đại mới". Lời khẳng
định này đã cho thấy sức sống trường tồn của văn học dân gian hiện đại nói
chung và của thể loại tục ngữ nói riêng.
Tác giả Trần Gia Linh với bài viết "Những biến đổi quan trọng của thể
loại tục ngữ trong thời đại mới"(1991). Trong bài viết này, tác giả đã khẳng
định những vấn đề quan trọng của tục ngữ mới. Tục ngữ mới đã sử dụng tục
ngữ cổ truyền gắn với việc thông tin những tư tưởng cách mạng, tục ngữ xuất
hiện trên nhiều môi trường khác nhau của cuộc sống mới. Tục ngữ mới hướng
về những kinh nghiệm có tính chất mũi nhọn của cuộc sống, tục ngữ mới khái
quát nhanh chóng thói hư tật xấu để phê phán và phủ nhận.
3
Mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ với văn chương hiện đại cũng được
đề cập tới trong nhiều nghiên cứu:
Công trình nghiên cứu Tìm trong tục ngữ nét văn hóa Việt (PGS.TS. Ngô
Thị Thanh Quý- 2010) đã chỉ ra sự tồn tại của tục ngữ trong xã hội hiện đại.
Tác giả đã chú ý tới sự tồn tại của tục ngữ trong sáng tác của một số nhà văn
hiện đại như: Nam Cao, Đào Vũ, Nguyễn Khắc Trường. Trong công trình
nghiên cứu này, tác giả cũng nhận thấy sự hiện diện của những câu tục ngữ
được sáng tạo mới phù hợp với thời hiện đại.
Chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong truyện đồng thoại của Tô Hoài
(Lê Nhật Ký- 2011) đi khảo sát nghiên cứu những câu thành ngữ, tục ngữ trong
truyện đồng thoại của Tô Hoài. Qua đó, thấy được vai trò của thành ngữ, tục
ngữ trong việc hình thành tứ truyện và trong miêu tả, nhận xét nhân vật.
Chuyên khảo Tìm hiểu cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm
của Sơn Nam (Dương Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở- 2012) đã khảo sát và
chỉ ra những giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ có hiệu quả trong
sáng tác của Sơn Nam.
Tác giả Lâm Thị Thiên Lan với chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (2012) đã quan tâm tới các phương thức vận
dụng thành ngữ, tục ngữ để tìm hiểu sắc thái độc đáo trong ngôn ngữ ở truyện
ngắn của Nguyễn Quang Sáng.
Luận văn Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao của
Lương Mai Hiếu (2012) đã nghiên cứu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong
sáng tác của Nam Cao. Tác giả đã nghiên cứu tỉ mỉ các cách thức mà nhà văn
Nam Cao sử dụng và đánh giá được hiệu quả của việc vận dụng đó ở cả
phương diện nội dung và nghệ thuật.
4
Qua những công trình nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của
một số nhà văn hiện đại kể trên, phần nào đã cho thấy thành ngữ, tục ngữ đem
đến hiệu quả diễn đạt rất lớn cho văn chương hiện đại nói chung. Mối quan hệ
giữa thành ngữ, tục ngữ với văn chương hiện đại rất gắn bó, khăng khít.
Vấn đề vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm của Hồ Anh
Thái cũng đã được quan tâm tới trong một số bài viết, luận văn:
Bài viết Dấu ấn dân gian trong ngôn ngữ truyện ngắn Hồ Anh Thái
(2014) (Trung Thu, Biên Thùy) đã quan tâm tới việc vận dụng thành ngữ, tục
ngữ trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Hồ Anh Thái. Các tác giả đã khảo
sát, liệt kê và chỉ ra các phương thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong các tác
phẩm này để thấy Hồ Anh Thái cũng ưa sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong khi
sáng tác. Tuy nhiên vấn đề nghiên cứu mới dừng lại ở phạm vi truyện ngắn chứ
chưa khai thác sâu toàn bộ các tác phẩm của nhà văn.
Tác giả Lê Thị Bích Diệp với luận văn Cách sử dụng thành ngữ trong
tác phẩm của Hồ Anh Thái và Dương Thụy (2012) cũng đã quan tâm đến việc
sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của Hồ Anh Thái về mặt ngữ pháp và ngữ
nghĩa. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu một vài
tác phẩm tiêu biểu. Luận văn cũng chỉ quan tâm đến sử dụng thành ngữ chứ
chưa chỉ ra việc sử dụng tục ngữ trong các tác phẩm này.
Như vậy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chương
hiện đại nói chung và trong sáng tác của Hồ Anh Thái nói riêng cũng đã được
quan tâm song vẫn chưa thể khai thác một cách toàn diện ở mọi khía cạnh nội
dung của nó. Kế thừa những thông tin có tính chất gợi mở ở những công trình
trên, cùng với những phát hiện mới mẻ của cá nhân người viết, hi vọng đề tài
này sẽ mang đến cái nhìn tổng quan và sâu sắc về vấn đề sử dụng thành ngữ,
tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Hồ Anh Thái.
5
3. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu đề tài “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ Anh
Thái” chúng tôi hướng tới mục đích:
- Khảo sát và rút ra nhận xét về hiệu quả sử dụng thành ngữ, tục ngữ
trong các tác phẩm của nhà văn Hồ Anh Thái để thấy được giá trị trường tồn và
sức sống bền bỉ của thành ngữ, tục ngữ và thấy được việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ là một trong những cách thức giúp cho tác phẩm của ông có sức cuốn
hút mạnh mẽ với người đọc.
- Thấy được sự vận động của tục ngữ nói riêng và văn học dân gian nói
chung trong xã hội hiện đại.
- Bồi đắp thêm tư liệu cho việc giảng dạy bộ môn ngữ văn ở trường
phổ thông:
+ Giáo viên có thêm tư liệu để giảng dạy bài tục ngữ, thành ngữ trong
chương trình để giúp học sinh có thêm hiểu biết về giá trị của thành ngữ, tục
ngữ gắn với thời đại của mình. Từ đó cũng thấy được sự vận động của thành
ngữ, tục ngữ.
+ Làm rõ thêm mối quan hệ giữa văn chương hiện đại và thành ngữ, tục
ngữ. Qua đây, giúp học sinh định hướng thêm một đặc điểm của nghệ thuật
ngôn từ trong các tác phẩm văn học hiện đại: vận dụng thành ngữ tục ngữ trong
lời nhân vật và trong lời dẫn truyện để tăng hiệu quả thẫm mĩ cho tác phẩm.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng tới nghiên cứu những câu thành ngữ, tục ngữ có trong các
tiểu thuyết và các tập truyện ngắn của Hồ Anh Thái; cách nhà văn sử dụng
những câu thành ngữ, tục ngữ và hiệu quả thẩm mĩ đạt được.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ
trong sáng tác của Hồ Anh Thái
6
- Khảo sát và nhận xét về cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong
sáng tác của Hồ Anh Thái
- Nghiên cứu tìm ra những giá trị đạt được khi vận dụng thành ngữ, tục
ngữ trong sáng tác của Hồ Anh Thái
6. Tư liệu nghiên cứu
Luận văn sử dụng nguồn tư liệu bao gồm: 9 tiểu thuyết, 5tập truyện ngắn.
Về tiểu thuyết gồm có:
1. Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Lao Động, 2009.
2. Dấu về gió xóa, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
3. Đức phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
4. Mười lẻ một đêm, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2014.
5. Những đứa con rải rác trên đường, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2014.
6. Người đàn bà trên đảo, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
7. Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
8. SBC là săn bắt chuột, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
9. Trong sương hồng hiện ra, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2015.
Về truyện ngắn gồm có các tập:
1. Bốn lối vào nhà cười, Nxb Đà Nẵng, 2006.
2. Mảnh vỡ của đàn ông, Nxb Đà Nẵng, 2006.
3. Người bên này trời bên ấy, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2014.
4. Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2014.
5. Tự sự 265 ngày, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2014.
Để thực hiện được luận văn này, chúng tôi căn cứ trên tư liệu khảo sát
chính là cuốn “Kho tàng tục ngữ Việt Nam” do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ
biên, in năm 2002, NXB văn hóa thông tin. Cuốn sách này gồm 16.098 câu tục
ngữ được tập hợp từ 52 đầu sách khác nhau. Cuốn sách đã chú giải một số
7
lượng lớn những câu tục ngữ theo từng chủ đề giúp việc tra cứu rất thuận lợi.
Vì thế chúng tôi dựa vào cuốn sách để phân biệt và nhận diện thành ngữ, tục
ngữ trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái.
7. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Dựa trên những nghiên cứu lý thuyết về thể loại thành ngữ tục ngữ để
làm cơ sở lý luận cho đề tài và làm cơ sở để luận giải những vần đề tài đề
cập tới.
7.2. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
Để việc phân tích so sánh đánh giá có căn cứ xác thục khi cần thiết,
chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê để định lượng các câu thành ngữ tục ngữ
trong phạm vi sử dụng.
7.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Các phương pháp phân tích so sánh sẽ được sử dụng để đối chiếu các
kiểu vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong luận văn.
7.4. Phương pháp phân loại
Phương pháp này được dùng để phân loại các kiểu vận dụng một cách hệ
thống, ngoài ra còn dùng phương pháp này để phân loại bảng kết quả khảo sát
thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ Anh Thái.
8. Đóng góp của luận văn
Đề tài của chúng tôi hướng tới việc định lượng được cụ thể số lượng
thành ngữ, tục ngữ được Hồ Anh Thái vận dụng trong sáng tác của mình, để
nhằm bổ sung hướng nghiên cứu về hiệu quả của cách sử dụng kho tàng dân
gian vào quá trình sáng tác của các nhà văn. Qua đây, chúng tôi muốn khẳng
định mối quan hệ khăng khít giữa thành ngữ, tục ngữ và văn chương, nhất là
8
văn học hiện đại. Nghiên cứu, vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo hướng này
cũng là cách bảo tồn và lưu truyền thành ngữ, tục ngữ trong xã hội hiện đại một
cách hiệu quả nhất.
9. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm ba phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung
Chương 2: Cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của
Hồ Anh Thái
Chương 3: Giá trị của việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác
của Hồ Anh Thái
Phần 3: Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái quát về thành ngữ, tục ngữ
1.1.1. Khái niệm thành ngữ, tục ngữ
1.1.1.1. Khái niệm tục ngữ
Khái niệm "tục ngữ" đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới trong các
giáo trình, tài liệu như: Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Hoàng Tiến
Tựu; Văn học dân gian Việt Nam, tập 2 của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên;
Văn học dân gian Việt Nam của Đỗ Bình Trị. Các quan điểm cơ bản là giống
nhau. Họ đều nhất trí rằng: Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, giàu
tri thức, có vần, có nhịp, tương đối bền vững về cấu trúc, được sử dụng trong
lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhằm nêu lên những kinh nghiệm của nhân dân về
mọi mặt đời sống (tự nhiên và xã hội). "Tục ngữ là những câu ngắn gọn có ý
nghĩa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Nó phản ánh đúc kết mọi mặt tri thức đời sống của nhân dân thông qua những
hình tượng nghệ thuật độc đáo" [35, tr.239]. Tục ngữ là sản phẩm tinh thần của
nhân dân lao động, kết tinh trí tuệ của người lao động trong quá trình lao động
sản xuất và đấu tranh. Tục ngữ trở thành cuốn sách tri thức khổng lồ về tự
nhiên và xã hội. Tục ngữ là tài sản của cả cộng đồng và kỷ niệm riêng của tộc
người từ trước cho tới nay.
1.1.1.2. Khái niệm thành ngữ
Giống như tục ngữ, thành ngữ cũng là đối tượng được rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm để tìm và đưa ra được khái niệm hoàn chỉnh và phù hợp
nhất. Mỗi nhà nghiên cứu lại đưa ra một khái niệm về thành ngữ theo cách hiểu
riêng. Họ đều cố gắng tìm ra khái niệm nhằm diễn tả đúng nhất bản chất của
10
thành ngữ. Trong rất nhiều các khái niệm, có thể chỉ ra một số khái niệm tiêu
biểu của một số nhà nghiên cứu văn học và nghiên cứu ngôn ngữ có kinh
nghiệm như Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Cù Đình Tú, Đái Xuân Ninh,
Nguyễn Thiện Giáp.
Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận định: “Thành ngữ là những lời
nói do nhiều tiếng ghép lại đã lập thành sẵn, ta có thể mượn để diễn tả một ý
tưởng của ta khi nói chuyện hoặc viết văn” [9, 6].
Nguyễn Thiện Giáp đã đưa ra một khái niệm về thành ngữ theo cách hiểu
riêng: “Thành ngữ là cụm từ cố định, vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có
tính gợi cảm. Bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng kèm theo
sắc thái, bình giá, cảm xúc, nhận định hoặc là kính trọng tán thành; hoặc là
chê bai khinh rẻ; hoặc là ái ngại xót thương” [7, tr.80].
Đái Xuân Ninh thì nhận định: “Thành ngữ là cụm từ cố định mà các yếu
tố tạo thành đã mất tính độc lập ở mức độ nào đó và kết hợp lại thành một khối
tương đối vững chắc và hoàn chỉnh” [32, tr.212].
Vũ Ngọc Phan quan niệm: “Thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là
một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không
diễn đạt được một ý trọn vẹn” [35, tr.31].
Theo quan niệm của nhà nghiên cứu ngôn ngữ Cù Đình Tú: “Thành ngữ
là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, nói cách khác đi, dùng để
gọi tên sự vật, tính chất, hành động” và “thành ngữ là những đơn vị tương
đương như từ” [61, tr.27].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cố gắng đưa ra những định nghĩa có
tính khoa học và thuyết phục. Tuy nhiên, vẫn chưa có một định nghĩa nào có
thể kiến giải được đầy đủ nhất, hoàn chỉnh nhất bản chất của thành ngữ. Song
tất cả những định nghĩa trên đã có đóng góp rất lớn phục vụ cho việc nghiên
11
cứu về thành ngữ, nhất là trong việc góp phần tìm ra một định nghĩa chính xác
nhất về thành ngữ.
Dựa trên cơ sở khoa học của các định nghĩa trên, cùng với hiểu biết của
bản thân về thành ngữ, người viết xin mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về thành
ngữ: Thành ngữ là những cụm từ cố định về hình thái cấu trúc, có tính hoàn
chỉnh về nghĩa và mang sắc thái biểu cảm cao.
1.1.2. Một số nét tương đồng của thành ngữ, tục ngữ
1.1.2.1. Về nguồn gốc
Khi nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ, có thể rút ra nhận xét: Thành ngữ,
tục ngữ có nét tương đồng nhau về nguồn gốc hình thành. Trong quá trình
nghiên cứu, sưu tầm, người thực hiện đề tài nhận thấy cả thành ngữ và tục ngữ
đều được hình thành từ các nguồn gốc sau: Vay mượn từ thành ngữ, tục ngữ
nước ngoài (trong đó chủ yếu là từ thành ngữ, tục ngữ Hán); thành ngữ, tục ngữ
hình thành từ trong tác phẩm văn chương; thành ngữ, tục ngữ hình thành từ
trong thực tế cuộc sống hàng ngày của người dân.
* Vay mượn từ thành ngữ, tục ngữ nước ngoài
Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ Việt, số lượng thành ngữ, tục ngữ vay
mượn từ thành ngữ, tục ngữ nước ngoài chủ yếu là từ thành ngữ, tục ngữ Hán.
Hai nước Việt Nam và Trung Hoa có mối quan hệ với nhau từ rất sớm. Mối
quan hệ này bắt nguồn từ đặc điểm địa lý, lịch sử. Trong đó, có mối quan hệ về
văn hóa và ngôn ngữ. Ngay từ đầu công nguyên, từ khi có sự đô hộ của phương
Bắc, ngôn ngữ Hán đã được sử dụng ở nước Việt với tư cách là một ngôn ngữ
chính thống. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, văn hóa, văn học Trung
Hoa cũng đã du nhập phần nào vào cuộc sống của dân tộc Việt. Chính vì vậy,
thành ngữ, tục ngữ Hán cũng theo đó hiện diện trên đất nước ta và được nhân
dân vay mượn để làm phong phú thêm lời ăn tiếng nói hàng ngày. Thế nên,
12
việc vay mượn thành ngữ, tục ngữ Hán để hình thành nên các câu thành ngữ,
tục ngữ Việt là có cơ sở lí giải của nó.
Với trí tuệ thông minh, người Việt đã vay mượn thành ngữ, tục ngữ Hán
một cách khéo léo, sáng tạo theo nhiều cách thức khác nhau để phù hợp với văn
hóa dân tộc.
Đầu tiên là vay mượn hoàn toàn các câu thành ngữ, tục ngữ Hán bằng
cách giữ nguyên hình thái cấu trúc và giữ nguyên ngữ nghĩa. Thông qua khảo
sát, thấy trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ có khoảng 354 câu thành ngữ, tục
ngữ mượn từ tiếng Hán. Trong đó có khoảng 71 thành ngữ, tục ngữ giữ nguyên
hình thái cấu trúc, chiếm khoảng 20%.
Ví dụ: “Dĩ hòa vi quí”
“An cư lạc nghiệp”
“Phú quí sinh lễ nghĩa”
“Bách niên giai lão”
“Bán tín bán nghi”
Vay mượn và dịch một bộ phận ra tiếng Việt. Cách sáng tạo này ít
hơn cả.
Ví dụ:
“Ôn cũ tri tân” thành “Ôn cũ biết mới”
“Văn võ kiêm toàn” thành “Văn võ song toàn”
“Đa mưu túc kế” thành “Đa mưu túc trí”
Vay mượn và dịch toàn bộ các yếu tố ra tiếng Việt nhưng vẫn giữ
nguyên cấu trúc. Đây là một cách vay mượn sáng tạo và thể hiện ý thức gìn giữ
phát triển ngôn ngữ dân tộc của người Việt rất rõ nét.
13
Ví dụ:
“Giá áo túi cơm” dịch từ câu “Y giá phạn nang”
“Bới lông tìm vết” dịch từ câu “Xuy mao cầu tùy”
“Ngậm máu phun người” dịch từ câu “Hàm huyết phun nhân”
“Môi hở răng lạnh” dịch từ câu “Thần phong sỉ hàn”
Vay mượn bằng cách sáng tạo các câu thành ngữ, tục ngữ có nét nghĩa
tương tự.
Ví dụ:
“Gậy ông đập lưng ông” tương tự với nghĩa của câu “Dĩ độc trị độc”
“Nuôi ong tay áo” tương tự với nghĩa của câu “Dưỡng hổ di họa”
“Bứt dây động rừng” tương tự với nghĩa của câu “Đả thảo kinh xà”
“Quá tam ba bận” tương tự với nghĩa của câu “Sự bất quá tam”
*Thành ngữ, tục ngữ hình thành từ trong tác phẩm văn chương
Tác phẩm văn chương vừa là nơi lưu giữ để thành ngữ, tục ngữ được
trường tồn lâu dài, lại vừa là nguồn gốc hình thành của nhiều câu thành ngữ,
tục ngữ. Có những câu thành ngữ, tục ngữ được hình thành từ trong các tác
phẩm văn chương cổ như: “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét
nàng Bân” (dựa trên tích truyện nàng Bân may áo rét cho chồng); hay câu
“Ông chẳng bà chuộc” được rút từ tích truyện cổ: có người đánh rơi viên ngọc,
vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý nhưng
chồng nhất định không nghe. Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, dưới trí
sáng tạo của dân gian, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống
nhất, không ăn khớp. Nhiều thành ngữ như “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược”,
“Ông nói gà bà nói vịt” cũng diễn đạt ý này.
14
Cũng có nhiều câu thành ngữ, tục ngữ được hình thành từ các tác phẩm
văn học quen thuộc với người dân. Trong đó phải kể tới “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du. Truyện Kiều sử dụng nhiều chất liệu của ca dao, tục ngữ nhưng
cũng từ tác phẩm này, nhân dân ta có thêm nhiều thành ngữ mới trong đời sống
hàng ngày.Ví dụ:
“Chết đứng như Từ Hải”
“Chữ tài liền với chữ tai một vần”
“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”
Hay một câu thành ngữ rất quen thuộc được hình thành từ tác phẩm “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố: “Tối như tiền đồ của chị Dậu” được dân gian quen dùng
để chỉ cuộc sống khổ sở bế tắc không có lối thoát.
* Thành ngữ, tục ngữ hình thành từ trong thực tế cuộc sống hàng ngày
của người dân.
Tục ngữ của người Việt chủ yếu có nguồn gốc hình thành từ con đường
chiêm nghiệm cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Theo nghiên cứu, có thể
thấy trên 3/4 số câu tục ngữ có nguồn gốc từ trong thực tế đời sống. Qua thực tế
cuộc sống hàng ngày, nhân dân quan sát, chiêm nghiệm và rút ra những đúc kết
mang tính kinh nghiệm và trở thành bài học cho bao người, bao đời thông qua
sự lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đó có thể là sự đúc rút các hiện tượng
thiên nhiên để hình thành kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Vậy nên tìm
trong kho tàng tục ngữ Việt sẽ thấy đầy đủ các bước hướng dẫn sản xuất từ
trồng lúa nước đến hoa màu. Nhưng phổ biến hơn và giá trị hơn nữa là từ sự
chiêm nghiệm thực tế đời sống mà dân gian đã tạo nên một kho tàng các câu
tục ngữ thể hiện kinh nghiệm ứng xử trong mọi mối quan hệ: Ứng xử giữa con
người với tự nhiên, giữa con người với xã hội và giữa con người với chính bản
15
thân mình. Sự ra đời của các câu tục ngữ ấy xuất phát từ chính nhu cầu nhận
thức giới tự nhiên và xã hội, về đạo đức thực tiễn của nhân dân.
Thành ngữ cũng có con đường hình thành chủ yếu từ thực tế đời sống
của dân gian. Thông qua sự quan sát, nhân dân miêu tả lại những hiện tượng tự
nhiên xã hội có tính chất lặp đi lặp lại để cô đúc thành những khái niệm ngắn
gọn qua sự dồn nén câu chữ súc tích. Từ đó hình thành nên kho tàng thành ngữ
độc đáo, phong phú, có khả năng tạo hình ảnh rõ nét cho câu nói.
1.1.2.2. Về nội dung
* Tính dân tộc
Theo cuốn từ điển văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, tính dân tộc “chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân
tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung
cho các sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển
lịch sử và phân biệt với văn học của các dân tộc khác” [8, tr. 347]. Thành ngữ,
tục ngữ mang tính dân tộc vì khi soi vào đó, chúng ta có thể hình dung được
lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam một cách toàn diện, phong phú và sâu
sắc. Đặc biệt là nội dung của tục ngữ cho thấy rất rõ điều đó. Bởi “tục ngữ diễn
đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử, xã hội của
nhân dân” [26, tr.270].
Tục ngữ ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội ghi lại một vài kí ức về
thời kỳ lịch sử xa xưa của dân tộc: "Ăn lông ở lỗ”, "Chồng chung vợ chạ”,
"Con dại cái mang”...; ghi lại một số hiện tượng và nhân vật lịch sử cá biệt,
một số biến đổi về kinh tế, chính trị ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân:
"Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong”...
Đại bộ phận các câu tục ngữ ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội ở thời kỳ
phong kiến. Đó là những tập tục sinh hoạt hàng ngày về mọi mặt như ăn, ở,
16
mặc, cưới xin, ma chay, hội hè đình đám: "Tương cà Gia Bản”, "Đói cho chết,
ngày tết cũng lo”, "Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên”, "Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, "Cha đưa, mẹ đón”, "Gái hơn hai, trai hơn một”... Đó còn là những câu
tục ngữ ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của xã thôn: "Phép vua
thua lệ làng”, "Sống lâu lên lão làng”, "Một miếng giữa làng bằng một sàng
xó bếp”...; phản ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân tộc của nhân
dân ta: "Một người làm quan cả họ được nhờ”, "Thế gian một vợ một chồng,
chẳng như vua bếp hai ông một bà”...; phản ánh đời sống của các giai cấp và
các tầng lớp nhân dân khác nhau (chủ yếu là của nhân dân lao động) và tình
hình đấu tranh giai cấp: "Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết”, "Con vua thì
lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, "Cá lớn nuốt cá bé”, "Con giun xéo
lắm cũng oằn”...
Tục ngữ phản ánh truyền thống tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao
động Việt Nam với những câu tục ngữ thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa
chân chính của nhân dân lao động. Tư tưởng nhân đạo này trước hết thể hiện ở
sự quý trọng con người: "Người ta hoa đất”, "Người như hoa ở đâu thơm
đó”...; thể hiện lòng tự hào của nhân dân ta đối với đất nước giàu đẹp và con
người tài hoa: "Chè Vân Thái, gái Tiên Lữ”, "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố
Hiến”, "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, chẳng lịch cũng thể là người Tràng
An”...Tục ngữ phản ánh khá đầy đủ những đức tính của nhân dân lao động như
cần cù, kiên trì, tinh thần lạc quan, óc thực tế, lòng chung thủy, nết thật thà...:
"Còn nước còn tát”, "Có thực mới vực được đạo”, "Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ”, "Thật thà là cha quỷ quái”... Nhiều câu tục ngữ thể hiện tinh thần đấu tranh
không khoan nhượng của nhân dân lao động chống áp bức bóc lột: "Được làm
vua, thua làm giặc”, "Bà tiền bà thóc bà cóc gì ai”... Điều kiện sống và lao động
trong xã hội cũ đã làm nảy ra một cách tự phát trong nhân dân lao động Việt
17
Nam những yếu tố của tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa: "Ăn cho đều, kêu
cho sòng”, "Hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra mình trần ai cũng như ai”..
Tính dân tộc của thành ngữ lại được thể hiện qua các hình ảnh biểu trưng
gần gũi, thân quen với người Việt, là nét văn hóa Việt ghi dấu trong đó: Tránh
vỏ dưa gặp vỏ dừa; Ếch ngồi đáy giếng; Vịt nghe sấm; Nhạt như nước ốc; Lên
voi xuống chó; Lọt sàng xuống nia…Những hình ảnh được sử dụng đều là
những sản vật quen thuộc của nền văn hóa nông nghiệp; chúng là những con
vật, đồ vật gắn bó hàng ngày với cuộc sống của người Việt Nam.
Nội dung của thành ngữ, tục ngữ đã phản ánh rõ “màu sắc” của dân tộc:
từ thiên nhiên tới đời sống của con người (bao gồm cả đời sống vật chất và đời
sống tinh thần). Đặc biệt là tinh thần dân tộc không lẫn với bất kì dân tộc nào.
Vì thế, nhìn vào kho tàng thành ngữ, tục ngữ thấy rất rõ đây là dân tộc Việt chứ
không phải bất kì dân tộc nào khác. Mặc dù các dân tộc khác cũng có thành
ngữ, tục ngữ như chúng ta.
* Tính đại chúng
Đại chúng có thể hiểu là số đông hoặc có tính chất phù hợp với đông
đảo quần chúng và nhằm phục vụ quyền lợi của số đông. Nội dung của thành
ngữ, tục ngữ Việt mang tính đại chúng. Tính đại chúng của thành ngữ, tục ngữ
được thể hiện ở đội ngũ tác giả và đối tượng mà thành ngữ, tục ngữ hướng đến.
Đội ngũ tác giả sáng tạo nên thành ngữ, tục ngữ là đông đảo quần chúng
nhân dân, không phân biệt tầng lớp, giai cấp, địa vị, học thức. Trong đó, người
sáng tạo chủ yếu là tầng lớp lao động bình dân. Vậy nên, tìm trong kho tàng
thành ngữ, tục ngữ sẽ thấy đại đa số các câu đều là lời ăn tiếng nói của quần
chúng nhân dân. Một thứ ngôn ngữ giản dị nhưng không kém phần gợi cảm.
Tính đại chúng của thành ngữ, tục ngữ còn được thể hiện ở chỗ, nó được
sử dụng rộng rãi với mọi đối tượng: bất kể là người trí thức hay bình dân;
18
người biết chữ hay không biết chữ; từ già đến trẻ; từ nam đến nữ; không kể già
hay trẻ…Tất cả mọi người đều có quyền sở hữu, sử dụng kho tàng thành ngữ,
tục ngữ để biểu hiện tâm tư tình cảm, dụng ý nói năng của mình. Bởi thành
ngữ, tục ngữ là những khuôn ngôn ngữ cố định được lưu truyền từ đời này sang
đời khác, nên mọi người đều có thể hiểu dụng ý của nó, ngay cả khi không biết
đọc biết viết. Thành ngữ, tục ngữ là tài sản chung của xã hội. Nhân dân đã sáng
tạo ra và yêu cầu toàn thể xã hội phải chung tay góp sức để bảo tồn, duy trì và
phát triển thêm kho tàng quý báu ấy của dân tộc.
Thành ngữ, tục ngữ không chỉ dành để miêu tả riêng cho một đối tượng
nào mà nó hướng tới mọi đối tượng trong xã hội. Nó có thể hướng tới đối
tượng là những “ông hoàng bà chúa” sống trong giàu sang hay những kiếp sống
“đầu tắt mặt tối” của những người lao động khổ cực. Khi thì chúng hướng tới
những người tốt, lúc lại trở thành “vũ khí” để lột tả bộ mặt của những kẻ xấu,
kẻ ác …Tóm lại, mọi đối tượng có trong xã hội đều có mặt trong kho tàng
thành ngữ, tục ngữ của cha ông.
1.1.2.3. Về hình thức biểu hiện
* Tính biểu trưng
Biểu trưng là từ những hình ảnh về vật thực, việc thực để nêu lên những
đặc điểm, hoạt động, hiện tượng, tính chất…có tính trừu tượng, khái quát.
Thành ngữ, tục ngữ mang tính biểu trưng rõ nét. Tính biểu trưng của thành ngữ,
tục ngữ có được nhờ vào các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ,
nhân cách hóa, tỉ dụ…Thường tính biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ tồn tại ở
hai mức độ: Mức độ biểu trưng thấp và mức độ biểu trưng cao.
Mức độ biểu trưng thấp là những thành ngữ, tục ngữ có nghĩa dường như
hiện rõ ở cấu trúc bề mặt ngôn từ. Những câu thành ngữ, tục ngữ này chỉ có
một bộ phận nhỏ mang tính biểu trưng. Vì thế, chúng ta có thể hiểu được ý
19
nghĩa của nó một cách dễ dàng mà không cần suy luận. Ví dụ: “Rách như tổ
đỉa”, “Đẹp như tiên”, “ Sắc như dao”, “Hôi như cú”…
Mức độ biểu trưng cao là những thành ngữ, tục ngữ mà ý nghĩa của nó
ẩn đằng sau cấu trúc bề mặt ngôn từ, phải thông qua tư duy, hiểu biết, thậm chí
là kinh nghiệm thì mới hiểu được. Những câu thành ngữ, tục ngữ này thường
được hình thành thông qua hai phương thức là ẩn dụ và hoán dụ.
Ví dụ: Ẩn dụ: “Gió táp mưa sa”: chỉ sự phũ phàng, vùi dập của cuộc đời
với những phụ nữ yếu đuối; “Sắc nước hương trời” là chỉ dung nhan vô cùng
xinh đẹp của người phụ nữ…
Hoán dụ: “Ruộng cả ao liền”: biểu trưng cho sự giàu có; “Thêm dầu vào
lửa” biểu trưng cho hành động nhấn mạnh, tiếp thêm vào cái có sẵn…
Biểu trưng là một cơ chế tất yếu để giúp thành ngữ, tục ngữ đảm nhiệm
được vai trò khái quát, biểu hiện những nội dung tinh tế, phức tạp và đa dạng.
* Tính hàm súc
Tính hàm súc của thành ngữ, tục ngữ biểu hiện ở hình thức ngắn gọn, cô
đọng nhưng lại chuyển tải được nội dung ý nghĩa sâu sắc. Lời ít ý nhiều. Lời
nén chặt mà nghĩa mở tung. Hình thức ngắn gọn có được là nhờ các đặc điểm
về vần, nhịp.
-Vần:
Vần thực hiện chức năng giữ nhịp cho câu và góp phần làm nổi bật
những từ có ý nghĩa quan trọng trong câu. Vần tạo âm hưởng mượt mà để
thành ngữ, tục ngữ thuận miệng, xuôi tai, dễ học, dễ nhớ. Dân gian gieo vần rất
đa dạng. Có thể là vần liền: “Bóp cổ mổ họng”, “Cho một lột mười”, “Giỏ nhà
ai quai nhà nấy”; hoặc vần cách: “Ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”; “Bán tín bán
nghi”; “Người sống hơn đống vàng”…
20
- Nhịp:
Nhịp trong thành ngữ, tục ngữ được thể hiện ở những điểm ngừng giọng
khi nói. Cách tổ chức nhịp điệu của thành ngữ, tục ngữ rất linh hoạt. Có khi là
ngắt nhịp 2/2: “Mẹ tròn/ con vuông”, “Ăn miếng/ trả miếng”, “Con dại/cái
mang”; "Ăn vóc/học hay”; hay 3/3: "Buôn có bạn/bán có phường”, "Giàu đổi
bạn/sang đổi vợ”; "Được làm vua/thua làm giặc”; hay nhịp 3/4: "Muốn xem
hội/phải đi đến chùa”; "Phí của trời/mười đời chẳng có”… Nhịp điệu tạo nên
tính nhạc, chất thơ biến thành ngữ, tục ngữ từ những câu nói triết lý, những
khái niệm trở nên mượt mà, truyền cảm và tạo ấn tượng cho giác quan khi con
người tiếp xúc với chúng.
Tính hàm súc của thành ngữ, tục ngữ chính là một yếu tố quan trọng để
thành ngữ, tục ngữ dễ lưu truyền và có sức lan truyền rộng rãi. Với hình thức
ngắn gọn nhưng lượng thông tin cao là một lợi thế để thành ngữ, tục ngữ khái
quát được những vấn đề trong đời sống. Vì thế, ngay cả trong thời đại mới,
chúng vẫn giữ được sức sống, sự trường tồn và giá trị vẹn nguyên.
1.1.3. Một số nét dị biệt giữa thành ngữ, tục ngữ
Trước đây, trong khi nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ, giới nghiên cứu
thường có xu hướng gộp chung mà không có sự phân biệt giữa chúng. Tuy
nhiên, cách đây gần bảy thập kỉ, vấn đề phân biệt thành ngữ, tục ngữ đã được
cả nhà nghiên cứu ngôn ngữ học lẫn nhà nghiên cứu văn học dân gian quan
tâm trên nhiều tiêu chí, nhiều bình diện khác nhau.
Đầu tiên, giáo sư Dương Quảng Hàm nhận định trong cuốn “Việt Nam văn
học sử yếu” (1943): “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên
răn, hoặc chỉ bảo điều gì. Còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà
diễn tả một ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho màu mè” [9, tr. 15]. Như vậy, theo
ông, thành ngữ chỉ là một phương tiện để diễn đạt ý tưởng người nói mà chưa
21
mang đầy đủ đặc điểm nội dung. Còn tục ngữ là những câu nói đã mang đầy đủ
nội dung để diễn tả ý của người nói.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có cùng quan niệm như vậy. Ông viết:
“Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, kinh nghiệm, một
luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu
sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự
riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn”. Theo ông, trong tục ngữ còn có
cả thành ngữ.
Các tác giả Chu xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri trong cuốn
“Tục ngữ Việt Nam”(1975) lại đưa ra tiêu chí phân biệt như sau: “Thành ngữ là
khái niệm và tục ngữ là những phán đoán” [3, tr27-28] và “ những tri thức ấy
khi ta rút lại thành những khái niệm thì ta có thành ngữ, còn khi được trình
bày, được diễn đạt bằng những phán đoán thì ta có tục ngữ” [3, tr73].
Nhà ngôn ngữ học Cù Đình Tú đưa ra nhận định: “Sự khác nhau cơ bản
giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng”. Tác giả chỉ rõ: “Thành
ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh” còn “tục ngữ (…) có
chức năng khác hẳn, đảm nhiệm sự thông báo (…) thông báo một nhận định, một
kết luận về một phương diện nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mỗi tục ngữ
đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng” [61].
Tổng hợp các ý kiến của các nhà nghiên cứu trên, có thể thấy, sự phân
biệt giữa thành ngữ và tục ngữ không có sự thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu. GS Dương Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan chú ý phân biệt về hình thức mà
chưa chú ý tới nội dung. Ngược lại, các tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn
Đang, Phương Tri lại chú ý phân biệt ở mặt nội dung hơn là hình thức. Nhà
ngôn ngữ học Cù Đình Tú thì sử dụng chức năng làm tiêu chí khu biệt thành
ngữ, tục ngữ nhưng chưa đề cập được đến nét trung gian giữa chúng.
22
Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu các nhận định phân biệt thành ngữ
và tục ngữ, chúng tôi nhận thấy nhận định sau của Nguyễn Văn Mệnh đã phần
nào khắc phục được những thiếu sót của các nhà nghiên cứu đi trước, khi ông
nhận định: “Có thể nói nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tượng, còn
nội dung tục ngữ nói chung là mang tính chất quy luật. Về hình thức ngữ pháp,
nói chung mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu” [29, tr. 13]. Mặc dù
chưa thể coi đây là một nhận định mẫu mực, tuy nhiên đây được coi là một
trong những nhận định dễ tiếp nhận và có giá trị khu biệt. Tác giả đã quan tâm
phân biệt thành ngữ, tục ngữ cả về mặt nội dung lẫn hình thức.
Dựa trên những nhận định có tính chất gợi mở trên, chúng tôi có được
cái nhìn tổng hợp để có thể đưa ra sự phân tích nét khác biệt của thành ngữ và
tục ngữ như sau:
Xét về mặt nội dung ý nghĩa: Tục ngữ là những kinh nghiệm, những
phán đoán, những tri thức của dân gian được đúc kết sẵn và lưu truyền. Những
tri thức ấy bao gồm: tri thức ứng xử với tự nhiên và tri thức ứng xử với xã hội.
Thành ngữ chỉ là những khái niệm, chưa mang nội dung ý nghĩa trọn vẹn như
tục ngữ. Thành ngữ chỉ là sự miêu tả những hiện tượng tự nhiên xã hội bằng
đơn vị nghĩa có sẵn. Nghĩa của thành ngữ thường không thể giải thích được
một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó. Nó thể hiện một lối nói
mang tính biểu trưng, thường là từ những từ ngữ cụ thể kết hợp với nhau để
mang một ý nghĩa ẩn dụ mới.
Xét về mặt kết cấu và chức năng ngữ pháp: Thành ngữ là cụm từ, tổ hợp
từ cố định đã quen dùng. Kết cấu của thành ngữ nằm ở bậc dưới câu nhưng lại
ở trên từ. Vì vậy, mỗi thành ngữ ít nhất phải có ba âm tiết trở lên. Thành ngữ có
chức năng định danh. Tục ngữ mang kết cấu là một câu hoàn chỉnh, có nội
23
dung ý nghĩa trọn vẹn. Tục ngữ có chức năng thông báo, và là những câu được
nói nhằm đưa ra một nhận định, một tổng kết mang tính kinh nghiệm thông qua
việc đúc kết từ chính đời sống thực tế của con người.
Như vậy thành ngữ và tục ngữ có phần giống nhau về hình thức cấu tạo.
Chúng đều là những tổ hợp từ cố định, kết hợp với nhau theo một cấu trúc chặt
chẽ, có vần điệu hoặc đối ứng (Về số lượng âm tiết). Nhưng thành ngữ và tục
ngữ hoàn toàn khác nhau về nội dung ngữ nghĩa và chức năng sử dụng.
Về cơ bản, thành ngữ là hiện tượng ngôn ngữ, thuộc phạm trù ngôn
ngữ học. Còn tục ngữ là một thể loại của văn học dân gian. Tục ngữ mang
nội dung phản ánh suy nghĩ, kinh nghiệm ứng xử của con người trong cuộc
sống hiện thực.
1.2. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự nghiệp sáng tác của Hồ Anh Thái
1.2.1. Sơ lược về tiểu sử
Nhà văn Hồ Anh Thái sinh ngày 18 tháng 10 năm 1960 tại Hà Nội. Quê
gốc ông ở Nghệ An. Ông tốt nghiệp đại học ngành Quan hệ quốc tế và sau đó
làm việc tại Bộ Ngoại giao, từng công tác tại nhiều quốc gia Âu-Mỹ và đặc biệt
có khoảng thời gian làm việc tương đối lâu tại Ấn Độ.
Hồ Anh Thái thông thạo ngoại ngữ, đã tốt nghiệp bằng tiến sỹ về Văn
hóa phương Đông. Ông được biết đến không chỉ với vai trò là một nhà văn mà
trước hết là vai trò một nhà ngoại giao. Ông còn được biết đến là một giảng
viên, một nhà Ấn Độ học, Đông phương học. Với những nền tảng có sẵn cùng
với sự hiểu biết văn hóa Phương Đông rất sâu sắc, Hồ Anh Thái đã tạo được
thành công khi viết được những tác phẩm văn chương thật sự có giá trị và gây
được tiếng vang: Tiếng thở dài qua rừng kim tước (1998); Tự sự 265 ngày
(2001); Cõi người rung chuông tận thế (2002); Bốn lối vào nhà cười (2005);
Mười lẻ một đêm (2006); Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2007); Namaskar! Xin
chào ấn Độ (2008); Hướng nào Hà Nội cũng sông (2009); SBC là săn bắt
chuột (2011)…
24
Hồ Anh Thái khởi nghiệp viết văn từ rất sớm và gây sự chú ý bởi những
tác phẩm có cách viết mới lạ, giọng điệu riêng. Khi còn đang là sinh viên Đại
học Ngoại giao, Hồ Anh Thái đã có truyện ngắn đăng đều trên các báo Văn
Nghệ, Văn nghệ Quân đội...Nó minh chứng cho một tài năng sớm nở trên văn
đàn. Ông bắt đầu cuộc đời văn chương từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
với một bút pháp thực sự mới mẻ, độc đáo, đầy sự mê hoặc. Tính độc đáo trong
văn phẩm Hồ Anh Thái có thể phân tích từ nhiều góc độ như: cấu trúc tác
phẩm, đề tài, ngôn ngữ… tuy nhiên dấu ấn rõ nhất chính là giọng điệu tác phẩm
không lẫn với bất cứ tác giả nào. Hồ Anh Thái rất đặc trưng với giọng hài
hước, giễu nhại. Nhiều nhà phê bình văn học đã nhận định, văn chương Việt
Nam, bao nhiêu năm sau khi Vũ Trọng Phụng mất, lại mới xuất hiện một cây
bút với giọng điệu trào phúng hóm hỉnh đến thế.
Với những nỗ lực không ngừng, với sự sáng tạo dồi dào hiếm có, nhà
văn Hồ Anh Thái không chỉ nổi tiếng trong nước mà tác phẩm của ông còn
được dịch ra hơn 10 thứ tiếng. Nổi bật có tiểu thuyết Cõi người rung chuông
tận thế (2002) sau khi đã được in và tái bản hơn vạn cuốn ở trong nước đã được
NXB Đại học Tổng hợp Texas phát hành dưới dạng cả sách in lẫn sách điện tử
trong toàn bộ hệ thống hiệu sách toàn quốc, trên mạng amazon.com và hệ thống
các trường đại học trong và ngoài nước Mỹ. Tác phẩm này đã được sử dụng
làm tư liệu nghiên cứu, giảng dạy.
Với những thành công vang dội cả trong và ngoài nước như vậy, năm
2000, Hồ Anh Thái được đông đảo các bạn viết tôn vinh và bầu giữ chức Chủ
tịch Hội nhà văn Hà Nội.
1.2.2. Quan niệm sáng tác
Hồ Anh Thái từng quan niệm tiểu thuyết là một giấc mơ dài, với những
điều mà đời thực không có. Vì thế ông đã dùng tài năng, nhiệt huyết, sự trải
nghiệm vốn có của mình để diễn tả lại “giấc mơ dài” ấy một cách sáng tạo mới
25
mẻ. Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái khi xuất hiện trên văn đàn đương đại đã
mang một đặc điểm riêng với những đường nét, hương vị rất độc đáo, mới lạ và
đầy sự lôi cuốn.
Hồ Anh Thái đã từng phát biểu: “Nhà văn đích thực phải là người tử tế”.
Sự “tử tế” thể hiện ngay ở việc không ham quyền chức mà chỉ cần được sáng
tạo văn chương một cách thỏa thích. Thế nên, khi được bầu giữ chức vụ Chủ
tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ông vẫn tâm sự thật lòng rằng ông thích “làm nhà
văn thuần túy là sướng nhất, ta có thể tùy thích ngồi viết suốt ngày chứ không
phải chỉ có trích ra vài ba tiếng đồng hồ như bây giờ. Nhưng một khi được hội
viên tin cậy “bắt ra” làm quản lí hội, thì cũng cần phải hi sinh, phải biết làm
cái việc của một ông từ giữ đền, dọn dẹp cho sạch sẽ để thiện nam tín nữ ra
vào ngôi đền văn học mà họ giao cho mình coi sóc” (Theo Ngọc Lan, Thể thao
và văn hóa, 15-4- 2006). Quan niệm này cho thấy nhà văn có nguyện vọng
được toàn tâm toàn ý với nghề viết. Xuất phát từ nguyện vọng này, nhà văn đã
thể hiện là một cây bút chuyên nghiệp hiếm có. Ông đọc nhiều, đi nhiều, tìm
hiểu nhiều để có một bút lực dồi dào. Ông nghiêm túc tìm tòi những hướng thể
hiện mới mẻ, hiệu quả. Tìm về với ngọn nguồn văn hóa, văn học dân gian qua
những câu thành ngữ, tục ngữ là một trong những hướng đi hay và đạt hiệu quả
lớn cho các tác phẩm của ông.
Hồ Anh Thái từng tâm sự rằng: “Dù anh có đổi giọng thế nào thì vẫn
trên cái nền tảng văn hóa của anh, trên tầm nhìn của anh vào thế giới và nhân
sinh mà thôi” (trả lời phỏng vấn báo Người lao động). Tâm sự này đã hé lộ một
ý thức trở về văn hóa cội nguồn của nhà văn. Với vai trò là một tiến sĩ văn hóa
kiêm một nhà ngoại giao, Hồ Anh Thái đã trang bị được một vốn ngoại ngữ rất
thông thạo. Thế nhưng, nhà văn không hề lạm dụng thế mạnh ấy vào quá trình
sáng tạo tác phẩm. Đối với ông, không lạm dụng tiếng nước ngoài là một thái
độ bảo vệ cái hồn văn hóa, văn học Việt Nam. Ông tâm niệm một điều, quá
trình sáng tạo giọng điệu phải dựa trên cái nền tảng văn hóa của anh. Cái nền
26
tảng văn hóa ấy là cái truyền thống đã được cha ông tạo dựng nên. Đó là lí do
để nhà văn tìm đến kho tàng tri thức dân gian qua những câu thành ngữ, tục
ngữ để vận dụng chúng vào sáng tác. Bởi thành ngữ, tục ngữ chính là nơi “cất
giấu” những đặc điểm văn hóa của dân tộc Việt.
27
Tiểu kết chương 1
Thành ngữ, tục ngữ là hai thành tố khác nhau trong bộ phận văn học dân
gian. Thế nhưng, từ xưa tới nay chúng vẫn luôn song hành cùng nhau trong đời
sống cũng như trong văn chương. Có điều đó là bởi thành ngữ, tục ngữ vừa
mang những nét tương đồng lại vừa có những lợi thế riêng để tạo nên giá trị
cho lời nói.
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chương thực chất là
kết quả của quá trình lấy văn học dân gian làm chất liệu cho sáng tác văn
chương. Rất nhiều cây bút đương đại đã tìm về với thành ngữ, tục ngữ để coi
đó như một lợi thế để tạo nên sức nặng cho các sáng tác của họ. Thành ngữ, tục
ngữ tuy ra đời trong một xã hội có nhiều điểm khác so với xã hội thời nay
nhưng cho đến nay thành ngữ, tục ngữ vẫn hiện diện như một người bạn đồng
hành tin cậy của mọi người trong đời sống hiện đại. Tục ngữ "len lỏi" trong
những trang văn của những tác phẩm văn chương hiện đại để khẳng định sức
sống bền bỉ của mình.
Hồ Anh Thái là nhà văn rất có trách nhiệm khi cầm bút. Ông luôn cố
gắng tìm tòi để tìm ra lối đi riêng cho các tác phẩm của mình. Sự nỗ lực không
ngừng nghỉ đã đem đến cho ông thành công lớn. Tác phẩm của ông không chỉ
thành công ở trong nước mà còn vươn xa đến với bạn đọc quốc tế. Có được
thành quả ấy một phần nhờ vào ý thức quay trở về với nền tảng văn hóa, văn
học của dân tộc để sáng tạo văn chương của nhà văn.
28
Chương 2
CÁCH THỨC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI
2.1. Khái quát chung về việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác
của Hồ Anh Thái
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 9 tiểu thuyết và 5 tập truyện ngắn. Số
liệu chúng tôi thống kê được như sau: tổng số thành ngữ, tục ngữ được sử dụng
là 483 câu với tần số xuất hiện là 678 lần. Chúng tôi đã đưa ra 2 bảng khảo sát,
phân loại cụ thể:
Bảng 2.1.1. Bảng thống kê số lượng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác
của Hồ Anh Thái
Đối tượng thống kê Số lượng Tần số sử dụng
Thành ngữ 310 434
Tục ngữ 173 244
Qua số liệu trên cho thấy, trong sáng tác của Hồ Anh Thái, tác giả sử
dụng thành ngữ nhiều hơn tục ngữ. Nhiều hơn cả về số câu và tần số sử dụng.
Đáng chú ý là trong tổng số 678 lần sử dụng thành ngữ tục ngữ thì chỉ có 36 lần
sử dụng thành ngữ, 4 lần sử dụng tục ngữ là thành ngữ, tục ngữ Hán Việt. Còn
lại 638 lần sử dụng đều là thành ngữ, tục ngữ thuần Việt do ông cha ta sáng tạo
từ thực tiễn đời sống hàng ngày, bằng chính lời ăn tiếng nói bình dị của mình.
Dù là thành ngữ, tục ngữ thuần Việt hay Hán Việt thì trong các sáng tác
của Hồ Anh Thái, chúng cũng được đưa vào sử dụng một cách hợp lý, tạo hiệu
quả nghệ thuật cao. Có nhiều câu thành ngữ, tục ngữ được Hồ Anh Thái sử
dụng lặp đi lặp lại trong tác phẩm, như: Mặt hoa da phấn (5 lần); Lọt sàng
xuống nia (3 lần); Thân tàn ma dại (7 lần); Lòng người khó đoán nông sâu (3
lần); Con chăm cha không bằng bà chăm ông (3 lần); Tấc đất tấc vàng (4 lần);
Lá rụng về cội (3 lần); Một giọt máu đào hơn ao nước lã (5 lần); Của thiên trả
29
địa (5 lần); Ăn đời ở kiếp (4 lần); Suy bụng ta ra bụng người (3 lần); Ngựa
quen đường cũ (5 lần); Lao tâm khổ tứ (3 lần); Bán tín bán nghi (2
lần)….Những câu thành ngữ, tục ngữ giống nhau được lặp đi lặp lại ở những
tác phẩm khác nhau, với những cách sử dụng không giống nhau nhưng đều
mang lại hiệu quả cao cho những trang văn của tác giả. Điều đó cho thấy sức
sống và sức mạnh kì diệu của kho tàng trí khôn dân tộc đối với văn chương của
Hồ Anh Thái nói riêng và của văn chương đương đại nói chung.
Cũng từ kết quả khảo sát 9 tiểu thuyết và 5 tập truyện ngắn, người viết đã
thống kê được tần số sử dụng thành ngữ, tục ngữ cụ thể ở từng thể loại như sau:
Bảng 2.1.2. Bảng thống kê tần số sử dụng thành ngữ, tục ngữ
ở từng thể loại trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Tỉ lệ tính
Tần số
Số
Thể loại
Tên tác phẩm
trên trang
sử dụng
trang
văn bản
Cõi người rung chuông tận thế
25
241
0,1
Dấu về gió xóa
37
215
0,17
Đức Phật, nàng Savitri và tôi
67
403
0,16
Mười lẻ một đêm
73
240
0,3
Những đứa con rải rác trên đường
76
426
0,17
Tiểu thuyết
Người đàn bà trên đảo
20
187
0,1
Người và xe chạy dưới ánh trăng
24
325
0,07
SBC là săn bắt chuột
124
343
0,36
Trong sương hồng hiện ra
17
181
0,09
Bốn lối vào nhà cười
68
210
0,32
Truyện
Mảnh vỡ của đàn ông
24
290
0,08
ngắn
Người bên này trời bên ấy
23
239
0,09
(tập truyện
Tiếng thở dài qua rừng kim tước
30
242
0,12
ngắn)
Tự sự 265 ngày
70
219
0,31
30
Qua bảng khảo sát thống kê 2.1.2, chúng tôi nhận thấy Hồ Anh Thái sử
dụng thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết nhiều hơn gấp 3 lần sử dụng trong
truyện ngắn (Tổng số sử dụng trong tiểu thuyết là 463 lần, trong truyện của 5
tập truyện ngắn là 215 lần).
Tần số xuất hiện của thành ngữ, tục ngữ tính theo trang văn bản trong
các tác phẩm là chưa đồng đều. Có tác phẩm tần số cao nhưng cũng có tác
phẩm tần số vẫn còn thấp. Tỉ lệ xuất hiện tính trên trang văn bản, ở một số tác
phẩm cao. Bao gồm các tác phẩm: Mười lẻ một đêm; SBC là săn bắt chuột;
Bốn lối vào nhà cười; Tự sự 265 ngày. Các tác phẩm có tỉ lệ thấp bao gồm:
Người và xe chạy dưới ánh trăng; Trong sương hồng hiện ra; Mảnh vỡ của đàn
ông; Người bên này trời bên ấy.
Trong tổng số 9 tiểu thuyết chỉ có duy nhất tiểu thuyết “Trong sương
hồng hiện ra” có dưới 20 lần sử dụng thành ngữ, tục ngữ. Ngay ở cả tiểu
thuyết viết về đề tài đức Phật cao siêu là tác phẩm “Đức phật, nàng Sivitri và
tôi”, số lần sử dụng thành ngữ, tục ngữ cũng tới 67 lần. Chính vì dùng chất
liệu dân gian của dân tộc mình như vậy khiến người đọc có cảm giác gần gũi
thân quen như chính tác giả đang viết về văn hóa dân tộc mình chứ không
thấy quá xa lạ, huyền bí. Đặc biệt, trong quá trình khảo sát, chúng tôi cũng
nhận thấy rằng, ở cuốn tiểu thuyết nào mà tác giả viết về con người, xã hội
với giọng trào lộng hài hước thì ở đó số lượng thành ngữ, tục ngữ xuất hiện
nhiều hơn hẳn. Đó là các tiểu thuyết: “Mười lẻ một đêm”; “Những đứa con
rải rác trên đường”; “SBC là săn bắt chuột”. Việc vận dụng thành ngữ, tục
ngữ đã góp phần tạo nên giọng điệu riêng của Hồ Anh Thái trong các tác
phẩm này. Chúng góp phần giúp cho ngòi bút của tác giả cứ “trơn lướt” mà
tả, mà vẽ để tạo nên thành công cho các tiểu thuyết của ông.
31
Trong tổng số 5 tập truyện ngắn, gồm tổng là 63 truyện, chúng tôi nhận
thấy số lượng truyện ngắn không sử dụng thành ngữ, tục ngữ, so với tổng số
truyện, là ít. Cụ thể: Tập “Bốn lối vào nhà cười” có 2/11 truyện; “Mảnh vỡ của
đàn ông” có 5/12 truyện; “Người bên này trời bên ấy” có 5/18 truyện; “Tiếng
thở dài qua rừng kim tước” có 2/11truyện; “Tự sự 265 ngày” có 1/11 truyện.
Qua số liệu trên cho thấy, Hồ Anh Thái thường xuyên sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong khi sáng tạo tác phẩm văn chương. Dù viết về nhiều đề tài, khai thác
nhiều câu chuyện cuộc sống khác nhau, nhưng lúc nào Hồ Anh Thái cũng dành
sự “ưu ái” cho thành ngữ, tục ngữ của dân tộc một chỗ đứng đặc biệt để góp
phần tạo nên sự cuốn hút riêng trong giọng văn của mình.
Nhìn vào kết quả thống kê, chúng ta thấy tần số sử dụng thành ngữ, tục
ngữ trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái khá cao. Điều này cho thấy vấn đề sử
dụng thành ngữ, tục ngữ ở nhà văn là một tín hiệu nghệ thuật ổn định trong quá
trình sáng tạo. Chắc chắn nhà văn đã ý thức được những giá trị mà thành ngữ,
tục ngữ mang lại khi được sử dụng phù hợp trong tác phẩm văn chương hiện
đại. Cho nên, vấn đề chúng tôi quan tâm không đơn giản chỉ ở tần số sử dụng
thành ngữ, tục ngữ mà còn là ở giá trị thẩm mỹ, giá trị biểu đạt, sự thể hiện của
phong cách nhà văn, quan niệm của nhà văn thông qua đó.
2.2. Cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Hồ Anh Thái
2.2.1. Vị trí đặt
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy Hồ Anh Thái vận dụng thành ngữ, tục
ngữ với hai vị trí đặt là: thành ngữ, tục ngữ được đặt trong câu và thành ngữ,
tục ngữ được đặt thành câu riêng biệt trong đoạn văn. Trong đó, thành ngữ, tục
ngữ được đặt trong câu là 514 lượt; thành ngữ, tục ngữ là một câu riêng biệt là
164 lượt
32
2.2.1.1. Thành ngữ, tục ngữ được đặt trong câu
Với cách vận dụng này, nhà văn thể hiện sự linh hoạt khi liên tục thay
đổi vị trí đặt cho thành ngữ, tục ngữ. Tùy thuộc vào vị trí đặt, thành ngữ, tục
ngữ đã đảm nhận những chức năng cú pháp khác nhau. Chúng góp phần làm
nên giá trị thẩm mĩ cho câu văn, đoạn văn mà tác giả đang muốn thể hiện. Kết
quả khảo sát cho thấy, ở kiểu vận dụng này, thành ngữ, tục ngữ đảm nhận chức
năng cú pháp trong câu khi chúng đóng vai trò làm cả thành phần chính và
thành phần phụ trong câu; đồng thời chúng cũng đảm nhận vai trò làm thành
phần phụ trong cụm từ.
*Thành ngữ, tục ngữ làm thành phần chính; phụ trong câu
Trong vai trò là thành phần chính, thành ngữ, tục ngữ giữ cả vai trò là
chủ ngữ và vị ngữ; trong đó số lượng thành ngữ, tục ngữ giữ vai trò là vị ngữ
phổ biến hơn là chủ ngữ. Khi được dùng với vai trò là thành phần phụ, nhà văn
chỉ để thành ngữ, tục ngữ giữ vai trò trạng ngữ trong câu. Chúng tôi đã khảo sát
và đưa ra bảng kết quả phân loại như sau:
Thành ngữ, tục ngữ Thành ngữ, tục ngữ Thành ngữ, tục ngữ
làm chủ ngữ làm vị ngữ làm trạng ngữ
15 48 71
Thành ngữ, tục ngữ giữ vai trò là chủ ngữ được đặt ở đầu câu để chỉ ra
đối tượng mà câu văn hướng đến, các thành phần còn lại trong câu có nhiệm vụ
làm rõ nội dung liên quan đến đối tượng ấy.
Ví dụ:
Cây không trái, gái không con là giống điếc mù điếc tịt, là quân ăn hại
nhà tôi [46, tr.18)
Cáo mượn oai hùm cũng làm cho thiên hạ khối kẻ kinh sợ [48, tr.292]
Ba máu sáu cơn nổi lên [49, tr.170)
33
Trong khi số lượng câu thành ngữ, tục ngữ đảm nhận chức năng là chủ
ngữ có số lượng rất hạn chế thì thành ngữ, tục ngữ đảm nhận chức năng là vị
ngữ lại khá phổ biến trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Chúng được đặt đứng
sau chủ ngữ, có quan hệ đến chủ ngữ.
Ví dụ:
Nàng vẫn ngựa quen đường cũ mà đột nhập tư dinh của đạo sư [43, tr.156]
Thầy cây ngay không sợ chết đứng [45, tr.11]
Đoàn phó đã no xôi chán chè, đoàn phó thải cô múa ra, lấy cô đơn ca vào
thay thế [45, tr.221]
Chúng nó thân lươn chẳng quản lấm đầu [46, tr.210]
Câu thành ngữ ngựa quen đường cũ được dùng để chỉ hành động lặp đi
lặp lại của đối tượng “nàng”; Câu tục ngữ cây ngay không sợ chết đứng được
đặt sau chủ ngữ “thầy” để chỉ rõ suy nghĩ của đối tượng là rất bình tĩnh và tin
tưởng vào hành động của mình. Tương tự như vậy, hai câu thành ngữ no xôi
chán chè và thân lươn bao quản lấm đầu được đặt sau chủ ngữ “đoàn phó” và
“chúng nó” để chỉ rõ suy nghĩ và hành động của đối tượng một cách cụ thể.
Thành ngữ, tục ngữ khi đảm nhận vai trò là trạng ngữ thường xuất
hiện ở đầu câu để biểu thị các ý nghĩa về thời gian, mục đích, điều kiện,
cách thức...Trong đó, các câu thành ngữ, tục ngữ làm trạng ngữ biểu thị ý
nghĩa về cách thức chiếm số lượng nhiều hơn cả. Chúng tôi dẫn ra một số
ví dụ tiêu biểu sau:
Dao sắc không gọt được chuôi, sau này anh chẳng định hướng được gì
cho thằng Phũ, chỉ đơn giản là khi thời thế thay đổi, anh chuyển cho nó từ tiếng
Nga sang khoa tiếng Anh mà thôi [41, tr.104]
Lâu lâu quá mù ra mưa, mẹ lại đi lấy chồng một bận [44, tr.16]
Ăn cơm trước kẻng, Kễnh nghĩ [46 , tr.190]
34
Đã đâm lao thì theo lao cho chót, Tường nhảy từ trên cửa sổ xuống,
đàng hoàng bước vào cửa chính [47, tr.33]
Với lợi thế hàm súc, ngắn gọn và giàu hình ảnh, thành ngữ, tục ngữ đảm
nhận là thành phần chính hay thành phần phụ của câu đều đem lại hiệu quả diễn
đạt rất lớn cho câu văn. Chúng đã tạo ra những câu văn vừa diễn tả được chính
xác đối tượng hay vấn đề mà tác giả muốn đề cập vừa giàu hình ảnh liên tưởng.
Vì thế giúp cho câu văn có một giá trị biểu cẩm rất lớn mà nếu thay thế bằng
những từ hay cụm từ bình thường sẽ không thể có được.
* Thành ngữ, tục ngữ làm thành phần phụ trong cụm từ
Theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy thành ngữ, tục ngữ được Hồ Anh
Thái sử dụng đặt làm thành phần phụ trong cụm từ khá phổ biến và rất đa dạng.
Chúng được đảm nhận vai trò là bổ ngữ và định ngữ. Chúng tôi xin đưa ra bảng
thống kê số lượng cụ thể dưới đây:
Thành ngữ, tục ngữ làm bổ ngữ Thành ngữ, tục ngữ làm định ngữ
121 259
Cũng giống như các từ ngữ thông thường, khi giữ vai trò là bổ ngữ,
thành ngữ, tục ngữ sẽ được đặt sau động từ và tính từ để bổ sung ý nghĩa cho
động từ, tính từ ấy. Chúng tôi xin trích dẫn ví dụ cụ thể:
- Đất nước còn nghèo, phải thắt lưng buộc bụng, tiết kiệm từng xu
[46, tr.119]
Thành ngữ thắt lưng buộc bụng đứng sau động từ phải để bổ sung ý
nghĩa cho động từ này. Thành ngữ này ý nói việc tiết kiệm chi tiêu là rất
cần thiết.
- Nhưng ở đâu cũng phải theo đất lề quê thói [46, tr.14]
35
Thành ngữ đất lề quê thói bổ sung ý nghĩa cho động từ phải theo. Nó
mang ý nghĩa muốn nói cái gì cũng có luật định của nó, cần phải tuân theo.
- Chuyện gì rồi cũng phải tức nước vỡ bờ [47, tr.22]
Thành ngữ Tức nước vỡ bờ được dùng để bổ sung ý nghĩa cho động từ
đứng trước nó. Thành ngữ này dùng để chỉ việc áp bức người ta quá đến mức
không chịu nổi, người ta phải vùng dậy chống lại.
- Đống kiến thức xốp nổi váng mỡ bọt bèo ta phải biết gạt ra tìm vào góc
khuất [48, tr.56]
Được đặt sau tính từ, thành ngữ Váng mỡ bọt bèo bổ sung ý nghĩa cho
tính từ với nội dung chỉ những thứ không có giá trị.
- Hay là họ sẽ không phân biệt nổi đâu là viên ngọc đâu là hòn sỏi, đâu
là vàng đâu là thau? [49, tr.219]
Ở đây, thành ngữ lại được dùng dưới dạng thành ngữ cải biến. Từ thành
ngữ nguyên dạng Vàng thau lẫn lộn, tác giả vừa thay thế một số từ lại vừa
chêm xen một số từ mới để đưa vào câu thành ngữ gốc. Thành ngữ biến thể đã
nhấn mạnh được ý diễn đạt của nhà văn: Chê người đời không tinh, không phân
biệt được tốt và xấu.
Khi tham gia vào làm định ngữ cho câu, các thành ngữ, tục ngữ vẫn sẽ
đảm nhận chức năng ngữ pháp như định ngữ thông thường, tức là nó sẽ bổ sung
ý nghĩa cho danh từ. Chúng tôi xin trích dẫn ví dụ cụ thể:
- Mới bày vẽ ra từ cái thời kinh tế thị trường phú quý sinh lễ nghĩa mà
thôi [48, tr.65]
Câu tục ngữ trên được đặt sau cụm danh từ cái thời kinh tế thị trường để
bổ sung ý nghĩa và làm sáng rõ bản chất của thời kinh tế thị trường: Cuộc sống
đầy đủ, giàu sang, có tiền của, có điều kiện thì hay bày vẽ nhiều chuyện phiền
phức, cầu kỳ, tốn kém để cố tỏ ra lễ nghĩa hơn người. Cụ thể trong tác phẩm
36
này là việc bày vẽ sáng tạo ra chiếc quan tài có ô kính trên mặt để người đi
viếng có thể nhìn thấy người chết.
- Ngày trước ông bô đã từng là viên chức nhà đoan, quen đấu khẩu với
những con mụ mồm năm miệng mười để thu thuế, về già cứ vô cớ quàng quạc
suốt ngày như một mụ gà mái [51, tr. 101]
Câu thành ngữ mồm năm miệng mười được đặt sau để chỉ những mụ đàn
bà lắm lời nhiều chuyện nói hết phần của người khác.
- Một chu trình lành làm gáo vỡ làm muôi, cái gì cũng dùng được [52, tr.59]
Với vị trí đứng sau danh từ một chu trình, câu tục ngữ lành làm gáo vỡ
làm muôi bổ sung ý nghĩa cho danh từ đó để tạo thành trạng ngữ chỉ cách thức
khéo lợi dụng tất cả không bỏ phí.
Qua kết quả thống kê phân tích ở trên, có thể nhận thấy Hồ Anh Thái rất
biết cách tận dụng hiệu quả thẩm mĩ mà chỉ có thành ngữ, tục ngữ mới có được
để tạo sự hấp dẫn cho câu văn cả về hình thức lẫn nội dung ý nghĩa. Sử dụng
thành ngữ, tục ngữ làm thành phụ bổ sung ý nghĩa cho cụm từ là một lối xử lý
khá thông minh. Nó vừa bổ sung được đầy đủ ý nghĩa lại vừa ngắn gọn, sâu
sắc. Để vận dụng được thành ngữ, tục ngữ hiệu quả như vậy, cho thấy Hồ Anh
Thái là một nhà văn có kĩ thuật viết văn khá chắc tay khi có thể vận dụng kho
tàng dân gian để nói chuyện mới một cách trơn lướt như thế.
2.2.1.2. Thành ngữ, tục ngữ được đặt tách thành một câu độc lập trong
đoạn văn
Đây là kiểu vận dụng thành ngữ, tục ngữ rất phổ biến trong các tác phẩm
của nhà văn Hồ Anh Thái. Hầu như trong tác phẩm nào có sự xuất hiện của
thành ngữ, tục ngữ, nhà văn đều có đặt tách thành ngữ, tục ngữ thành một câu
hoàn toàn độc lập riêng biệt. Cách vận dụng này phổ biến cả trong tiểu thuyết lẫn
truyện ngắn. Các câu thành ngữ, tục ngữ được đặt riêng biệt trong đoạn văn
37
thường có chức năng: hoặc nối kết ý của câu trước; hoặc dùng làm tiền đề để mở
ra ý của câu sau; hoặc mượn ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ để tiếp nối ý nói ở
câu văn trước nhưng đồng thời lại mở ra ý cho câu sau tiếp nối. Nhà văn sử dụng
thành ngữ, tục ngữ để cho lời văn được nối tiếp liền mạch, ý nghĩa của câu văn,
đoạn văn được mở rộng hơn một cách dễ dàng, không chút gò bó. Chúng tôi xin
dẫn ví dụ minh chứng:
- “Đúng như cái huyền thoại rằng tôi nghèo là vì tôi sống ở một nước
nghèo, ra nước ngoài, nơi vỉa hè lát bằng vàng, thì túi tôi sẽ lấp lánh ánh kim.
Thôi, chẳng nói dài, ai cũng biết đấy chỉ là huyền thoại, chỉ là đồn đại, chỉ là ảo
tưởng, chỉ là nhầm lẫn, chỉ là ngộ nhận. Con sãi ở chùa lại quét lá đa. Ra nước
ngoài thì vẫn quét lá phong lá sồi” [45, tr. 55]
Con sãi ở chùa lại quét lá đa là câu tục ngữ chỉ sự tiếp nối theo kiểu cha
truyền con nối không thể thay đổi. Ở đây nghiêng về ý nghĩa những người
nghèo khổ, xuất thân thấp kém thì vẫn chỉ là thấp kém nghèo khổ. Nhà văn
mượn câu tục ngữ này để nói chuyện mới trong xã hội hiện đại. Đó là câu
chuyện về những chàng công tử được gửi đi du học tự túc. Ra nước ngoài thì
được phép huênh hoang với thiên hạ. Nhưng thực chất khi so với sinh viên
nước ngoài thì chỉ là thân phận con sãi mà thôi. Câu tục ngữ này được dùng với
thái độ châm biếm những du học sinh bất tài nhưng huênh hoang ấy. Câu tục
ngữ được sử dụng để tiếp nối ý nghĩa cho câu văn trước và sau nó.
-“Miến gà này hai con tranh nhau một bát thì sao cũng có rạch mặt đổ
máu. Miến gà sẽ thành cuộc chiến của con khúc khích và con đứt tay. Trâu bò
đánh nhau ruồi muỗi chết. Chú chàng sẽ thành ruồi muỗi chịu tai họa của hai
con trâu bò này. Phải cứu” [45, tr. 120]
Trong trường hợp này, nhà văn dùng câu thành ngữ trâu bò đánh nhau
ruồi muỗi chết để nối ý cho cuộc chiến giữa hai cô tình nhân và nạn nhân chịu
38
trận là người yêu của hai cô. Nhưng cái hay ở đây là nhà văn đã khéo léo tách
các yếu tố của câu thành ngữ nguyên vẹn này để tạo thành một câu văn tiếp nối
vừa rõ ý, vừa hấp dẫn về hình thức lại tạo ra giọng văn hóm hỉnh.
“Rốt cục con mười năm chỗ bị bỏ lại. Tự vận động tìm cách mà đi tiếp. Đi
hồ núi Cốc hay quay vào làng ngủ nhờ hay về Hà Nội, tùy tâm. Xe con đưa sếp và
cơ chế ba mặt về trước. Chết cả đống không bằng sống mấy người” [50, tr.192]
Trong đoạn văn này, nhà văn lại để câu tục ngữ ở cuối đoạn văn để kết
lại nội dung của cả đoạn văn này. Nó có liên quan trực tiếp đến câu văn trước
nó để nhấn mạnh ý nghĩa của hành động xe con trở các lãnh đạo của công ty về
trước là một hành động hợp lý và cần thiết trong hoàn cảnh đó.
Trong nhiều trường hợp, trong cùng một câu văn độc lập, nhà văn đặt liên
tiếp hai câu thành ngữ hoặc tục ngữ; hoặc xen kẽ một câu thành ngữ, một câu tục
ngữ. Thường thì tác giả lựa chọn những câu thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng:
- “Nhân nào quả ấy, gieo gió thì phải gặt bão”
- “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại, ăn miếng trả miếng”
- “Nhất tự vi sư bán tự vi sư, dạy một chữ là thầy mà nửa chữ cũng là thầy”
- “Lấy ngắn nuôi dài, tha lâu đầy tổ, thân lươn bao quản lấm đầu”
- “Giỏ nhà ai quai nhà nấy, rau nào sâu ấy”
- “Giẻ cùi tốt mã miệng câm như hến”
- “Danh gia vọng tộc, lá ngọc cành vàng”
- “Lao như thiêu thân, mật ngọt chết ruồi”
Qua các ví dụ trên, có thể thấy, nhà văn thường lựa chọn những câu
thành ngữ, tục ngữ có nghĩa tương đương nhau để đặt cạnh nhau trong cùng
một câu. Khi đó, các câu thành ngữ, tục ngữ đặt sau có nhiệm vụ nhấn mạnh ý
nghĩa của các câu thành ngữ, tục ngữ đặt trước. Với cách đặt liên tiếp như thế
đã tạo nên tính nhạc cho câu văn.
39
Với cách lồng ghép liên tiếp các câu thành ngữ, tục ngữ trong cùng một
câu văn, Hồ Anh Thái đã bộc lộ ngòi bút sắc sảo của mình. Việc lựa chọn một
câu thành ngữ, tục ngữ đã khó. Sử dụng liên tiếp các câu thành ngữ, tục ngữ
trong cùng một câu còn khó hơn rất nhiều. Phải lựa chọn làm sao để tạo ra sự
ăn khớp cả về hình thức lẫn ý nghĩa là một thành công không thể phủ nhận của
nhà văn Hồ Anh Thái.
2.2.2. Các kiểu vận dụng
2.2.2.1. Vận dụng nguyên dạng câu thành ngữ, tục ngữ truyền thống
Trong tổng số 678 lượt, số lượt xuất hiện của thành ngữ, tục ngữ truyền
thống nguyên dạng là 568 lượt, chiếm 83,7%. Số liệu trên đã minh chứng, Hồ
Anh Thái vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống là chủ yếu.
Vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ là lấy nguyên văn, nguyên
dạng những câu thành ngữ, tục ngữ vốn có trong kho tàng dân gian để đưa vào
tác phẩm. Vận dụng nguyên dạng là không làm thay đổi hình thức của thành
ngữ, tục ngữ truyền thống. Vỏ ngữ âm, kết cấu, vần, nhịp vẫn được giữ nguyên.
Nội dung ý nghĩa cũng được giữ nguyên. Tuy nhiên, nội dung ý nghĩa ấy đã
được nhà văn vận dụng linh hoạt để phù hợp với vấn đề mà nhà văn đang đề
cập tới. Hay nói cách khác, vỏ ngữ âm của thành ngữ, tục ngữ không đổi,
nhưng chúng đã được cấp cho ý nghĩa mới nhờ đặt trong một ngữ cảnh cụ thể
của xã hội hiện đại.
Chẳng hạn, trong tác phẩm “SBC là săn bắt chuột”, nhà văn viết:
- “Hoa hậu rồi, vua biết mặt chúa biết tên, đại gia biết từ A đến Zét, cả nước
biết mặt trên truyền hình, ong bướm dập dìu đón rước học hành gì” [48, tr.128]
Thành ngữ “Vua biết mặt chúa biết tên” có nghĩa: Tiếng tăm của người
nào đó được các bậc vua chúa biết đến, thường chỉ người nổi tiếng. Tuy nhiên,
trong ngữ cảnh này, thành ngữ trên lại mang ý nghĩa mới: Để trở thành hoa hậu
40
cô gái đã được các đại gia để ý đến trước. Cô ta phải nhờ sự nâng đỡ của những
đại gia này để đạt được danh hiệu, được nổi tiếng. Đương nhiên, để đạt được
mục đích ấy, cô gái cũng phải đánh đổi bằng chính thân xác hoa hậu của
mình.Vì vậy, thành ngữ trên cùng nghĩa với từ “cặp bồ”. Thái độ giễu nhại của
nhà văn đã bộc lộ khá rõ qua thành ngữ đặt trong câu văn trên.
- “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Tức là thầy mới là mục đích còn
yêu là biện pháp để đạt mục đích” [48, tr.128]
Người việt có câu: “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ
thì yêu lấy thầy”. Có thể thấy câu này như một câu tục ngữ của cha ông
khuyên các thế hệ cha mẹ học sinh phải biết quý mến, kính trọng người
thầy. Từ cha mẹ con cái sẽ noi theo. Tuy nhiên trong ngữ cảnh trên, ý nghĩa
của câu tục ngữ này đã biến đổi hoàn toàn: Thầy là mục đích cuối cùng để
đạt tới, còn yêu chỉ là biện pháp để đạt mục đích đó chứ không còn là sự
kính trọng yêu mến người thầy.
- “Ông cốp thỉnh thoảng tiền hô hậu ủng về đấy cúng lễ, cảm thấy bệnh
vơi đi, người hưng phấn hẳn” [48, tr.313]
Thành ngữ tiền hô hậu ủng vốn là thành ngữ gốc Hán, có nghĩa là hộ
tống rầm rộ oai phong nhưng nó đã được cấp thêm nghĩa mới: Thái độ giễu
nhại của tác giả. Ông cốp là người làm việc nhà nước, có chức sắc, được vị nể.
Nhưng ông lại đi cúng bái, làm công việc mê tín dị đoan, có tính riêng tư nội bộ
gia đình. Vậy mà có sự hộ tống rẩm rộ của một đội quân đông đảo những người
đi kèm đầy oai vệ.
2.2.2.2. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ ở dạng cải biến, sáng tạo
Đây là kiểu vận dụng tuy không chiếm đa số trong sáng tác của Hồ Anh
Thái nhưng nó lại đảm nhiệm được lợi thế tạo lên giá trị nghệ thuật lớn cho tác
41
phẩm của nhà văn. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã thống kê các dạng cải
biến, sáng tạo như sau:
Sử dụng
Mở rộng cấu
Đảo trật tự cú
Thay thế bằng
Mượn ý thành
một vế
trúc câu
yếu tố mới
ngữ, tục ngữ gốc
pháp
17
30
32
21
10
* Sử dụng một vế
Ở dạng cải biến này, nhà văn chỉ sử dụng một vế của tục ngữ truyền
thống để vận dụng vào tác phẩm. Tục ngữ truyền thống có từ hai vế trở lên
thường nêu ra từ hai đối tượng hoặc hai vấn đề trở lên. Thường thì mỗi vế của
câu tục ngữ nếu tách riêng ra vẫn có thể hiểu được nội dung như một câu tục
ngữ hoàn chỉnh. Vế được tách ra đó vẫn đảm bảo tính ngắn gọn, súc tích, hình
ảnh và đầy đủ nội dung thông tin. Sỡ dĩ tác giả dân gian gộp lại thành một câu
gồm hai vế để phản ánh cùng một lúc được nhiều đối tượng hơn, nhiều vấn đề
hơn. Đây cũng chính là một nét đặc sắc mà chỉ tục ngữ mới có. Dù tách vế hay
gộp vế thì vẫn đảm bảo thành một câu tục ngữ hoàn chỉnh, người nghe vẫn có
thể hiểu và nhận được thông tin. Chính sự cố định này trong khuôn hình của tục
ngữ đã tạo cơ sở để Hồ Anh Thái vận dụng một vế trong khi sáng tạo tác phẩm
văn chương. Sự vận dụng một vế của nhà văn cũng rất linh hoạt, khi dùng vế
trước, khi dùng vế sau, nhưng vẫn đảm bảo được nội dung ý nghĩa của cả câu
tục ngữ.
“Kệ cô. Khuynh giằn giọng- Con hư tại mẹ. Chiều chuộng cho lắm vào”
[47, tr.266]
Trong đoạn đối thoại trên, nhà văn vận dụng một vế của câu tục ngữ
“con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Tuy nhiên, ông chỉ sử dụng vế đầu vì đối
tượng tiếp nhận câu nói ở đây là Diệu, vợ Khuynh và là mẹ của thằng Sa- con
của hai người. Qua vế được vận dụng, ta thấy rất rõ thái độ trách mắng đầy bực
42
tức của người chồng trước hành động gây chuyện của thằng con. Ông ta đang
đổ lỗi cho vợ mình đã quá nuông chiều con mới nên nỗi.
Kiểu vận dụng này còn được nhà văn sử dụng trong một số tác phẩm khác:
“Kịch bản đại gia và chân dài đã thành công thức. Vợ ông cũng biết,
nhưng cái siêu lợi nhuận của doanh nghiệp gia đình khiến bà chỉ sôi sục
trong lòng. Chỉ bên trong. Bề ngoài thơn thớt nói cười. Miễn đi đâu cho
khuất mắt bà” [48, tr.129]
Trong trường hợp này, câu tục ngữ “Bề ngoài thơn thớt nói cười, bên
trong nham hiểm giết người không dao” được nhà văn lựa chọn vận dụng vế
đầu. Tuy nhiên, đọc toàn bộ đoạn văn trên, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra cái
bề ngoài thơn thớt nói cười của người vợ chỉ là giả tạo, còn sự căm thù tình
nhân của chồng bên trong là điều tất yếu. Vậy nên, dù chỉ sử dụng một vế đầu
nhưng trong quá trình đọc, nhà văn đã giúp người đọc đồng thời tái hiện luôn
vế còn lại trong suy nghĩ, mặc dù nó không tồn tại trên trang viết. Đây chính là
cách khai thác hiệu quả tục ngữ truyền thống để phục vụ cho dụng ý nghệ thuật
của nhà văn Hồ Anh Thái.
Khi sử dụng một vế, Hồ Anh Thái thường sử dụng vế chính, tức là vế
quyết định nghĩa khái quát của câu tục ngữ để vận dụng vào hành văn sao cho
phù hợp với ngữ cảnh, đối tượng. Ngoài những ví dụ nêu ở trên, còn thấy một
số câu tiêu biểu:
Trong câu “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, nhà
văn đã sử dụng vế sau: “Đúng như cái huyền thoại rằng tôi nghèo là vì tôi sống
ở một nước nghèo, ra nước ngoài, nơi vỉa hè lát bằng vàng, thì túi tôi sẽ lấp
lánh ánh kim. Thôi, chẳng nói dài, ai cũng biết đấy chỉ là huyền thoại, chỉ là
đồn đại, chỉ là ảo tưởng, chỉ là nhầm lẫn, chỉ là ngộ nhận. Con sãi ở chùa lại
quét lá đa” [45, tr. 55]. Vế sau của câu tục ngữ phù hợp với đối tượng đang nói
43
đến là một du học sinh sang từ một đất nước nghèo giống như thân phận con
sãi xuất thân nghèo khổ.
Hay trong ngữ cảnh sau, nhà văn viết: “Riêng việc chị đi ăn cháo lòng tiết
canh thì phải bí mật (…). Chị bạn bảo thì cứ rủ nó đi luôn, nó không ăn được cái
này thì ăn cái khác. Chị thở dài. Dễ đâu mụ ơi. Mỗi nhà mỗi cảnh” [52, tr. 9].
Trong đoạn đối thoại này, nhân vật chỉ sử dụng vế sau của câu tục ngữ “Mỗi cây
mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Bởi trong trường hợp này, vế trước không cần
thiết, chỉ cần một vế sau thì người đọc đã hiểu được dụng ý mà người nói đang
nhắc tới là hoàn cảnh của nhân vật “chị” khác với người bạn của “chị”.
* Mở rộng cấu trúc:
Cải biến câu theo hướng mở rộng cấu trúc tức là trên cơ sở giữ lại các
yếu tố gốc, Hồ Anh Thái cho thêm vào cấu trúc thành ngữ, tục ngữ các yếu tố
mới nhằm nêu rõ ý tưởng mà tác giả định thể hiện. Các yếu tố mới có thể nằm
ở các vị trí khác nhau xét theo quan hệ với thành ngữ, tục ngữ gốc nhưng chủ
yếu là trong nội tại cấu trúc của nó với vai trò chêm xen. Các yếu tố mới chêm
xen có thể là một từ hoặc một cụm từ. Sự chêm xen ấy phụ thuộc vào ý đồ sáng
tạo của nhà văn sao cho phù hợp với nội dung ngữ cảnh.
Đây là một kiểu cải biến sáng tạo được Hồ Anh Thái sử dụng nhiều, nhất
là trong các tiểu thuyết. Sự chêm xen để mở rộng cấu trúc câu được nhà văn cải
biến rất linh hoạt, đa dạng, tạo hứng thú cho người đọc:
Ông chêm xen từ vào giữa cấu trúc của thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng:
Cơm chẳng lành canh chẳng ngọt (Cơm lành canh ngọt)
Nhân nào thì quả ấy (Nhân nào, quả ấy)
Văn phải ôn võ phải luyện (Văn ôn võ luyện)
Chết trẻ nên khỏe ma (Chết trẻ khỏe ma)
Ở hiền không bao giờ gặp lành (Ở hiền gặp lành)
44
Hay có thể chêm xen yếu tố mới vào cuối câu để mở rộng cấu trúc cho
thành ngữ, tục ngữ nguyên dạng:
Con thầy vợ bạn gái cơ quan (Con thầy vợ bạn)
Nuôi ong tay áo nuôi cáo trong nhà nuôi ma trong máy tính (Nuôi ong
tay áo nuôi cáo trong nhà)
Của thiên trả địa trả thủy (Của thiên trả địa)
Nhất dáng nhì da thứ ba là cái bên trong quần bơi (Nhất dáng nhì da)
Có khi nhà văn lại chêm xen yếu tố mới vừa vào giữa vừa vào cuối của
cấu trúc câu nguyên dạng:
Tấc đất không còn là tấc vàng mà là tấc ngàn vàng, tấc kim cương (Tấc
đất tấc vàng)
Râu ông nọ một tí cắm cằm bà kia một tẹo (Râu ông nọ cắm cằm bà kia)
Cọc đến mà tìm trâu vậy (Cọc tìm trâu)
Một giọt máu đào quả có hơn ao nước lã thật (Một giọt máu đào hơn ao
nước lã)
Cải biến câu theo hướng mở rộng cấu trúc đã phá vỡ cấu trúc gốc của
một câu thành ngữ, tục ngữ truyền thống. Đó là sự thay đổi về kết cấu, về vần
và nhịp. Xét về nội dung ý nghĩa, có những câu đã chêm xen nhưng vẫn giữ
nguyên được nội dung ý nghĩa so với thành ngữ, tục ngữ gốc. Việc chêm xen
chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh thêm nội dung của câu nguyên dạng. Nhưng có nhiều
câu khi chêm xen yếu tố mới thì đã mang một nội dung mới hoàn toàn so với
câu nguyên dạng. Tuy nhiên, dù chêm xen theo cách nào thì vẫn nâng cao được
giá trị của câu thành ngữ, tục ngữ truyền thống để nó mang đậm hơi thở của
thời đại mới.
* Đảo trật tự cú pháp:
Trong quá trình vận dụng, nhà văn Hồ Anh Thái đã có ý thức đảo trật tự
cú pháp của thành ngữ, tục ngữ truyền thống để tạo hiệu quả cho lối hành văn
45
của mình. Nhà văn đã dựa trên đặc điểm đối xứng, mối quan hệ đẳng kết của
thành ngữ, tục ngữ để làm cơ sở cho kiểu sáng tạo này. Khi các yếu tố bị hoán
đổi vị trí sẽ làm biến đổi nội dung ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ gốc.
Có khi nhà văn đảo trật tự của hai vế trong câu cho nhau:
“Gã rút hộ con dao. Vẫn chưa hiểu ý. Cắt c ái gì. Cô gái chỉ tay về phía
dưới, khúc ruột thòng lòng. Hai người bạn học, một trai một gái, tự cắt rốn
chôn rau” [48, tr. 115]
Hai thành tố của câu thành ngữ gốc là chôn rau cắt rốn đã được đảo trật
tự cho nhau khi nhà văn viết thành cắt rốn chôn rau. Theo đó, ý nghĩa của câu
thành ngữ gốc đã thay đổi hoàn toàn. Ý nghĩa của câu thành ngữ gốc chỉ nơi
con người ta sinh ra, chỉ cội nguồn quê hương của mỗi người. Thế nhưng, khi
đảo trật tự các yếu tố, nghĩa của thành ngữ gốc đã biến mất hoàn toàn. Nó đã
mang hai nét nghĩa mới. Nghĩa đen chỉ hành động phải làm sau khi sinh nở là
cắt rốn đứa trẻ; nghĩa hàm ẩn là cô gái đã sinh con một cách vụng trộm, che
giấu mọi người.
Tương tự như vậy, có các câu:
Xuống chó lên voi - Lên voi xuống chó (Đời con bọ)
Tài cao học rộng- Học rộng tài cao (Đức phật, nàng Savitri và tôi)
Vùng gà ăn sỏi, chó ăn đá - Chó ăn đá, gà ăn sỏi (Maratong ở Tam Đảo
xứ lạnh)
Có khi nhà văn vẫn giữ nguyên khung ngữ pháp của câu thành ngữ, tục
ngữ gốc nhưng lại đảo trật tự các thành tố đối ứng nhau trong câu. Cách đảo
này vẫn đảm bảo được tính cấu trúc cân đối, nhịp nhàng về mặt hình thức của
câu gốc. Tuy nhiên, nội dung ý nghĩa đã có sự thay đổi mang hơi thở của xã hội
hiện đại ở trong đó:
46
“Mỗi lần giải quyết một vụ việc là mỗi lần vợ ông lại rên lên đủ cho
chồng nghe: Thật là con nào cha ấy” [45, tr. 53]
“Đếm hết tập tiền bà già thì luật sư phán gọn một tiếng. Thiếu. Mày đừng có
vu oan giá họa nhé. Thiếu, bà nộp nốt ra đây. Con nào mẹ ấy” [48, tr. 251]
Trong hai ngữ cảnh trên, nhà văn không sử dụng hai câu tục ngữ nguyên
dạng: cha nào con ấy và mẹ nào con ấy. Ông lựa chọn cách hoán chuyển giữa
hai từ đối xứng trong câu để tạo thành: Con nào cha ấy và Con nào mẹ ấy. Bởi
đối tượng nhà văn đang hướng tới trong ngữ cảnh này là những thằng con bất
hiếu, tính cách bẩn thỉu nhưng đặc điểm đó lại được thừa hưởng từ chính những
ông bố, bà mẹ không ra gì. Với cách hoán đổi như vậy, cùng một lúc nhà văn
phản ánh được hai đối tượng mà lại nhấn mạnh được hơn đối tượng chính ở
đây là những đứa con hư.
* Thay thế yếu tố cũ bằng yếu tố mới
Thay thế yếu tố cũ bằng yếu tố mới là cách thức giữ nguyên gốc câu
thành ngữ, tục ngữ nhưng trong đó có một hoặc một số yếu tố nào đó được thay
bằng các yếu tố mới do tác giả nghĩ ra. Việc thay thế các yếu tố không nhất
thiết phải theo quan hệ 1-1 mà nó có thể được dựa vào nhiều hơn các yếu tố bị
cắt đi. Nhưng thông thường thì kiểu quan hệ 1-1 là kiểu thay thế phổ biến. Hồ
Anh Thái khéo léo cắt bỏ yếu tố này để thay vào yếu tố khác cho phù hợp với ý
đồ sáng tạo của mình. Các yếu tố mới được đưa vào thay thế không mang một
đặc điểm chung nhất định nào. Nhà văn muốn viết gì, viết như thế nào thì tự
nghĩ ra một yếu tố để thay thế cho phù hợp với mục đích, nội dung, đối tượng.
Vậy nên, yếu tố mới có khả năng bộc lộ được giọng điệu của nhà văn một cách
rõ nét. Khác với kiểu cải biến mở rộng cấu trúc câu, kiểu thay thế không làm
thay đổi kết cấu, vần và nhịp của câu thành ngữ, tục ngữ truyền thống. Các đặc
điểm hình thức vẫn giữ nguyên dạng chỉ thay đổi nét nghĩa của câu.
47
Hồ Anh Thái đã đưa vào trong sáng tác của mình những câu thành ngữ,
tục ngữ được cải biến như:
-“Cô hăm hở lên đường. Từ truyền thần sang thư kí, từ thư kí sang đá
quý, từ đá quý sang chứng khoán, không có việc gì khó chỉ sợ đầu ta nhỏ. Đầu
cô không nhỏ, ý chí quyết tâm của cô không nhỏ” [45, tr.267]
- “Tạo ra một kẽ hở. Đủ rộng để cho chuột trùm dồn sức từ bên trong hỗ
trợ. Cùng nâng. Vừa kịp. Chuột trùm nghiêng mình lăn qua kẽ hở. Cái lồng bàn
lăn xuống đánh sầm. Hai con chuột lao phốc đi. Tránh người chẳng xấu mặt
nào” [48, tr. 141]
- “Một đời mẹ vất vả. (…). Sinh được hai anh em tôi. Gái một con trông
mòn con mắt, gái hai con mòn axit ” [50, tr.92]
Trong các ngữ cảnh trên, các câu thành ngữ, tục ngữ gốc đã được cải
biến thay thế bằng các yếu tố mới:
Không có việc gì khó chỉ sợ đầu ta nhỏ thay cho Không có việc gì khó
chỉ sợ lòng không bền
Tránh người chẳng xấu mặt nào thay cho Tránh voi chẳng xấu mặt nào
Gái một con trông mòn con mắt, gái hai con mòn axit thay cho Gái một
con trông mòn con mắt, gái hai con vú quặt đằng sau
Các yếu tố mới được thay thế vừa phù hợp với ngữ cảnh, lột tả rất rõ đối
tượng lại vừa thể hiện được giọng văn rất riêng của nhà văn Hồ Anh Thái: một
giọng văn vừa hài hước, vừa sắc sảo, châm biếm mà cứ nhẹ nhàng, tửng tưng.
Có thể liệt kê một số câu thành ngữ, tục ngữ khác được cải biến trong
sáng tác của nhà văn: Cơm gà cá gỡ (gỡ thay cho gỏi); Của thử trả thử (thử
thay cho thiên và địa); Lời nói gió tạt (tạt thay cho bay); Được voi đòi hai bà
Trưng (hai bà Trưng thay cho tiên); Rối tinh rối xòe (xòe thay cho mù)…
48
*Mượn ý của thành ngữ, tục ngữ gốc
Cách thức sử dụng này khá phổ biến trong sáng tác của Hồ Anh Thái.
Mượn ý tức là nhà văn không vận dụng khuôn hình của thành ngữ, tục ngữ
nguyên dạng mà chỉ mượn ý của nó và triển khai theo dụng ý sáng tạo nghệ
thuật của mình. Theo khảo sát của chúng tôi, thành ngữ, tục ngữ ở dạng mượn
ý chỉ được dùng trong lời dẫn truyện chứ không xuất hiện trong lời thoại của
nhân vật. Hồ Anh Thái chỉ mượn ý thuận chiều với thành ngữ, tục ngữ gốc để
diễn đạt theo năng lực, sở trường viết văn của ông. Mượn ý thuận chiều nghĩa
là ý của câu thành ngữ, tục ngữ mới cùng có nội dung ý nghĩa giống như thành
ngữ, tục ngữ truyền thống.
- “Cái cửa sổ mở ra dễ dàng. May. Không phải lúc nào trong cái rủi
cũng gặp toàn cái rủi” [45, tr. 29]
- “Tôi rất khó xử, mỗi khi nghĩ đến cô, tôi lại thấy day dứt và ân hận.
Nhưng con ngựa đã quen đường, đổi sang lối khác thật khó” [47, tr. 79]
- “Ăn cơm thành phố gần ba chục năm không thấy mở miệng cảm ơn
điện nước thành phố. Hễ có thời gian là chống cằm ngồi mơ tưởng về quê
hương bán sơn địa, đá sỏi là thức ăn chính cho chó cho gà” [50, tr. 188]
Vẫn là cách mượn ý như trên, nhưng nhiều trường hợp, nhà văn vừa
mượn ý thành ngữ, tục ngữ gốc vừa biến đổi cấu trúc tạo một cách sáng tạo
gây ấn tượng cho người đọc. Sự sáng tạo này tạo ra những câu văn rất giàu
hình ảnh:
“Còn là mèo già nữa. Đã thành cáo” (Mèo già hóa cáo)
“Cờ đến tay. Phải phất” (Cờ đến tay ai người ấy phất)
“Theo tinh thần mẹ hát ….và các con khen hay (Mẹ hát con khen hay)
Lối mượn ý tách rời cấu trúc câu thành ngữ, tục ngữ truyền thống như
trên tuy chỉ chiếm số lượng rất ít trong các sáng tác của Hồ Anh Thái nhưng nó
49
lại góp phần tạo nên sự đặc sắc, mới mẻ và thể hiện được sự tinh quái trong
cách “điều khiển” chất liệu dân gian vào văn chương hiện đại của nhà văn.
2.2.2.3. Chế tác các thành ngữ, tục ngữ mới theo kết cấu của thành ngữ, tục
ngữ truyền thống
Đây là một cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ khá lí thú trong sáng tác
của nhà văn Hồ Anh Thái. Dựa vào khuôn hình kết cấu của thành ngữ, tục ngữ
nguyên dạng, sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống hiện đại, nhà văn đã chế tác ra
những câu thành ngữ, tục ngữ mới đủ sức biểu hiện lối sống của con người thời
đại mới.
Những câu thành ngữ, tục ngữ mới này mang đầy đủ đặc điểm hình thức
giống như thành ngữ, tục ngữ truyền thống: Sự cân xứng về kết cấu, vần, nhịp.
Tuy nhiên, nội dung ý nghĩa lại bám sát thực tế của xã hội ở thời điểm mà tác
phẩm ra đời và bám sát ngữ cảnh:
- “Hai lần trong phòng bà viện phó. Gã tập tễnh từ trong đó đi ra, đến
mức thành tục ngữ chị viện phó em chó què” [54, tr.46]
Câu chị viện phó em chó què có khuôn hình giống tục ngữ truyền thống:
Kết cấu gồm hai vế; ngắt nhịp 3/3 cân đối; gieo vần phó- chó. Tất cả kết hợp
tạo nên tính nhạc cho câu. Hình thức tương tự như câu tục ngữ truyền thống
nhưng ý nghĩa nội dung lại gắn liền với đời sống hiện đại. Đặt câu tục ngữ mới
ở đoạn văn này đã tạo ra nhiều hiệu quả: Nó vừa khái quát được một thực trạng
có thực ở trong xã hội hiện đại là sự lợi dụng nhau bằng xác thịt để đạt được sự
tiến thân trong công việc; vừa vẽ nên chân dung hài hước của nhân vật “em”;
khái quát được mối quan hệ của bà viện phó và cậu nhân viên trẻ và kết quả
của mối quan hệ ấy; thấy rõ sự châm biếm nhà văn với những con người này.
Như vậy, chỉ một câu tục ngữ mới được đặt đúng chỗ đã tạo ra hiệu quả rất lớn
cho việc chuyển tải nội dung ý nghĩa của nhà văn.
Tương tự như vậy, có các ví dụ:
50
- “Thế rồi lặn tít mít đến tận chiều tối đấy, ngủ Gia Lâm đâm Thái Hà,
chó Nhật Tân vần Hồ Tây” [54, tr. 48]
- “Gà mua để chiêu đãi đám gà lạc, rồi chính gã lại xơi đám gà lạc thơm
thịt ấy. Cho gà ăn thịt gà đã là một câu thành ngữ” [54, tr. 67]
Chỉ qua hai câu thành ngữ, tục ngữ sáng tạo, nhà văn đã vẽ ra được lối
sống, nhân cách của một bộ phận con người hiện đại: Những địa điểm ăn chơi
phù hợp, nổi tiếng ở Hà Nội thời hiện đại được tái hiện một cách hóm hỉnh;
một số người hiện đại bị tha hóa nhân cách khi lợi dụng và tiêu diệt “đồng loại”
một cách không khoan nhượng.
Những câu thành ngữ mới được sáng tạo trong các trường hợp trên đã
góp phần tái hiện lại thực tế cuộc sống thời hiện đại với những thói quen mà chỉ
có con người hiện đại mới có. Trong bài viết “Cấu tạo thành ngữ mới” đăng
trên báo Văn nghệ, nhà văn đã bày tỏ: “Lắng nghe dân gian, học theo dân gian,
người viết văn có thể tự tạo ra những câu thành ngữ tục ngữ của riêng mình”.
Nhưng xã hội liên tục phát triển hiện đại, nên nhiều câu thành ngữ, tục ngữ cần
được cải biên, chế tác để phù hợp với nhận thức và hiểu biết của người hiện
đại. Bởi theo nhà văn: “Dân gian Việt Nam nói: Chia uyên rẽ thúy, chia loan rẽ
phượng.Tôi cho rằng người đọc thời nay không phải ai cũng hiểu điển cố,
không phải ai cũng biết uyên với thúy, loan với phượng. Tôi nối tiếp vào đấy
một thành ngữ hiện đại: Chia uyên rẽ thúy, chia loan rẽ phượng, chia sim rẽ dế.
Dế là cái điện thoại di động theo cách gọi thời thượng. Cái điện thoại di động
mà bị chia cách với cái sim thì đúng là sự chia rẽ tàn ác. Cũng ngại người đọc
chưa hình dung được con ong, rồi con cáo nữa, giống như rồi có lúc không biết
con gà con vịt nguyên vẹn nó ra làm sao, tôi phải thêm vào câu tục ngữ một
vế: Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà, nuôi ma trong máy tính”.
51
Hồ Anh Thái đã chứng tỏ mình là một nhà văn rất nhạy cảm với từng
thay đổi của cuộc sống. Ông tỉ mỉ quan sát và đúc kết những cái mới sao cho
phù hợp với sự thay đổi của thời đại. Từ đó, ông sáng tạo ra những câu thành
ngữ, tục ngữ mang khuôn hình của thành ngữ, tục ngữ truyền thống nhưng có
nội dung mới của cuộc sống xã hội mới. Những kinh nghiệm được đúc kết lại
hay những khái niệm mới ra đời đã tiếp nối thêm để kho tàng thành ngữ, tục
ngữ của dân tộc được nối dài thêm và phù hợp hơn với thời đại.
Đó là cơ sở để nhiều câu thành ngữ, tục ngữ sáng tạo mới ra đời trong
sáng tác của nhà văn:
Mẹ dại con lang thang (Con dại cái mang)
Móng tay nhọn có bấm móng tay sắc (Vỏ quýt dày có móng tay nhọn)
Đào mỏ sẽ chết vì sập hầm
Để là hòn đất, cất thành thần linh (Để thành hòn đất cất thành ông bụt)
Một người làm thơ cả họ bơ phờ… (Một người làm quan cả họ được nhờ)
Chia sim rẽ dế (Chia loan rẽ phượng)
Nhà văn học cách ngắt nhịp, gieo vần, kết cấu theo thành ngữ, tục ngữ
truyền thống. Nhưng ông đã thổi vào khuôn hình cũ ấy những vấn đề mới,
những suy nghĩ mới, những vật dụng mới quen thuộc với con người và xã hội
hiện đại.Vì thế, những câu thành ngữ, tục ngữ được chế tác mới vẫn đảm bảo
được hình thức hấp dẫn và nội dung gần gũi, sâu sắc.
Những câu thành ngữ, tục ngữ mới mà nhà văn chế tác đã tạo ra một lối
nói mới, lạ tai, tạo nên sự bất ngờ hứng thú cho người đọc. Đặc biệt, những câu
thành ngữ, tục ngữ mới rất gần gũi thân quen với bạn đọc hiện đại, với xã hội
hiện đại. Bởi vậy, chúng dễ dàng tạo được thiện cảm với bạn đọc. Với cách chế
tác này, nhà văn đã tạo nên được sự độc đáo riêng cho lối viết của mình.
52
Tiểu kết chương 2
Mặc dù Hồ Anh Thái thông thạo một số ngôn ngữ nước ngoài, nhưng
nhà văn luôn dành một tình yêu tha thiết cho tiếng mẹ đẻ. Ông say mê và
nghiền ngôn ngữ của dân tộc. Sử dụng kho tàng thành ngữ, tục ngữ của cha ông
trong các sáng tác của ông là một minh chứng cho nhận định đó. Ông thường
sử dụng nguyên vẹn thành ngữ, tục ngữ truyền thống để đưa vào các tác phẩm
của mình. Tuy nhiên để phù hợp với sự vận động của xã hội hiện đại, nhà văn
cũng khéo léo vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách sáng tạo với nhiều cách
thức khác nhau: Sử dụng một vế; mở rộng cấu trúc; đảo trật tự cú pháp; thay
thế yếu tố cũ bằng yếu tố mới; mượn ý thành ngữ, tục ngữ gốc. Dù vận dụng
theo cách thức nào thì nhà văn cũng phát huy tối đa giá trị thẩm mĩ mà thành
ngữ, tục ngữ mang lại.
Nhà văn đã lựa chọn, vay mượn, thanh lọc ngôn ngữ dân gian để đưa
vào tác phẩm. Vừa vận dụng nguyên vẹn kho tàng dân gian quý báu của cha
ông, vừa vận dụng cải biến sáng tạo để phù hợp với vấn đề mới, thời đại mới.
Nhờ có thành ngữ, tục ngữ truyền thống, văn chương của Hồ Anh Thái có được
tính chất “tân cổ giao duyên”. Sự đan cài giữa xưa và nay, giữa cái truyền
thống và hiện đại đã tạo nên những tác phẩm rất gần gũi nhưng không lỗi mốt.
Chúng vẫn rất phù hợp với sự tiếp nhận của độc giả đương đại.
Dưới bàn tay khéo léo của một nhà văn có cá tính sáng tạo rõ nét, thành
ngữ, tục ngữ truyền thống đã được cải biến đầy bất ngờ, thú vị. Hồ Anh Thái đã
biết nhào nặn những cái mới vào cái cũ mượn được. Vì thế, với ông, trở về với
lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân không phải đơn thuần là lặp lại cái cũ
một cách khuôn mòn mà sáng tạo cái cũ một cách tinh tế để tạo ra hiệu ứng thú
vị, hiệu quả cho từng trang viết của ông.
53
Chương 3
GIÁ TRỊ CỦA VIỆC SỬ DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
TRONG SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN HỒ ANH THÁI
3.1. Giá trị của việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ vào phản ánh nội dung
sáng tác
3.1.1. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần hiển lộ xã hội hiện đại
Hồ Anh Thái là nhà văn trưởng thành từ thời hậu chiến. Các sáng tác của
ông phản ánh xã hội Việt Nam sau khi chiến tranh đã kết thúc. Nếu xâu chuỗi
các sáng tác của ông, ta thấy nhà văn đã bám sát hiện thực đời sống xã hội từ
khi chiến tranh kết thúc đến cuộc sống thời tiền đổi mới và hậu đổi mới. Nhà
văn đã nỗ lực để đem đến cho người đọc cái nhìn bao quát nhất và toàn diện
nhất về cuộc sống xã hội lúc chiến tranh đã lùi xa. Đọc các sáng tác của ông,
người đọc có cảm giác đang được trải nghiệm cảm giác thực của cuộc sống thời
hậu chiến và cuộc sống của xã hội hiện đại.
Mỗi một tiểu thuyết hoặc truyện ngắn của nhà văn là một mảng khai thác
một phần của hiện thực xã hội. Vậy nên, muốn thấy được một hiện thực toàn
vẹn, chúng ta cần phải nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau trong các
tác phẩm của nhà văn. Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ
nghiên cứu hiện thực xã hội hiện đại hé lộ trong các sáng tác của nhà văn thông
qua hệ thống các câu thành ngữ, tục ngữ được sử dụng trong các tác phẩm.
Thành ngữ, tục ngữ trong các sáng tác của nhà văn đã phần nào khái quát
được hiện thực của xã hội hiện đại: “Một xã hội thời mở cửa với tất cả những
gì làm nên khuôn mặt thật của nó. Hồ Anh Thái đã "lật", đã "khơi", đã "phơi", đã
"quật" bao thói xấu, bao điều chướng mắt, bao thứ lập lờ trắng đen cứ hàng ngày
hàng giờ hiện hữu đầy nhức nhối trong xã hội. Chuyện học thuật, phong cấp
54
phong hàm, chuyện gái trai, nhà nghỉ, chuyện hát hò, vẽ tranh, nặn tượng, chuyện
đạo văn, đạo công trình nghiên cứu, tình yêu, danh vọng trong thời mở cửa, …, tất
cả được Hồ Anh Thái chuyển tải thật hấp dẫn trong tác phẩm bởi một hệ thống
ngôn ngữ giàu sức tạo hình” (Luận văn Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết
mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái- Nguyễn Thị Minh Hoa). Góp phần không
nhỏ trong hệ thống ngôn ngữ ấy chính là kho tàng thành ngữ, tục ngữ truyền thống
được nhà văn vận dụng rất khéo léo.
Khi khảo sát hệ thống các câu thành ngữ, tục ngữ mà Hồ Anh Thái sử dụng
trong các tác phẩm, chúng tôi nhận thấy bộ mặt của xã hội hiện đại thời mở cửa với
các đặc điểm nổi trội mà chỉ đến thời đại mới nó mới trở nên phổ biến.
Đó là một xã hội mà con người ta rất coi trọng tài sản, nhất là đất đai. Thời
buổi đất chật người đông, đất đai là thứ quý hiếm. Vậy nên, con người coi đây là
thứ tài sản có giá trị to lớn. Hồ Anh Thái đã hé lộ điều này qua sự lặp đi lặp lại câu
tục ngữ “Tấc đất tấc vàng”, với các biến thể của nó:
- Thế mà, tấc đất tấc vàng [48, tr.14]
-Tấc đất ngàn vàng [48, tr.25]
- Tấc đất không còn là tấc vàng nữa mà là tấc ngàn vàng, tấc kim cương
[48, tr.108]
- Một lô đất ở bãi tắm mới mở. Tấc đất tấc vàng [48, tr.292]
Xét kĩ các ví dụ, thấy thú vị là nhà văn sử dụng câu tục ngữ trên để nhấn
mạnh vai trò và sự quý giá của đất đai với sự nhấn mạnh tăng cấp dần: Ban đầu
là vàng, sau đến ngàn vàng, cao nhất là kim cương. Nghĩa là trong xã hội hiện
đại ấy, giá trị của đất đai được nâng cao từng ngày, càng ngày nó càng được coi
trọng. Đây là cái khéo léo mà nhà văn diễn tả thông qua câu tục ngữ. Người
đọc vừa nhận ra bộ mặt của xã hội hiện đại, vừa cảm thấy hứng thú với cách
nhào nặn tục ngữ dân gian để đem đến cho nó hơi thở của thời đại mới.
55
Nhà văn cũng đã thẳng thắn nhìn nhận để lật tẩy một khía cạnh khác của
xã hội hiện đại- đó là một xã hội mà mọi thứ đều phải sòng phẳng, mọi thứ đều
vận hành trên qui luật “tiền trao cháo múc”. Không ít lần nhà văn đã dùng câu
thành ngữ trên để chỉ rõ điều đó. Có thể là mua bán hàng hóa sòng phẳng: Tiền trao
cháo múc. “Có tiền mặt, cô nhân viên nào cũng vui vẻ phục vụ [48, tr.215].
Nhưng đáng suy ngẫm hơn là trong xã hội này, tình cảm của con người cũng
phải được cân đong đo đếm để “trao”, “múc” cho cân. Đó là bởi sự tác động
không nhỏ của thời buổi kinh tế thị trường- thời buổi mà đồng tiền thống trị tất
cả và chi phối tất cả. Đó là thời buổi mà “Mạnh vì gạo bạo vì tiền”, đạo đức của
con người đang xuống cấp một cách trầm trọng. Vì thế, nhà văn mới sáng tạo ra
một câu thành ngữ phù hợp với cách ứng xử của con người trong xã hội hiện
đại “Cho gà ăn thịt gà”- con người bằng cách này hay cách khác đang lợi dụng
nhau, tiêu diệt nhau mà sống.
Thông qua hệ thống thành ngữ, tục ngữ mà nhà văn sử dụng, chúng ta
còn nhận thấy xã hội hiện đại là một xã hội người với nhiều loại người, nhiều
lớp người, nhiều quan hệ chằng chịt. Xã hội Việt Nam đang trong thời kỳ
chuyển biến từ bao cấp sang kinh tế thị trường, bên cạnh những cái đổi mới, cái
hiện đại, thì cũng bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, nhiều cái đáng khóc, đáng cười,
nhiều thói hư tật xấu của con người cũng có dịp nảy sinh nhanh chóng. Mượn
xã hội loài cá mà nhà văn viết trong “SBC là săn bắt chuột” để khái quát xã hội
hiện đại: “Bình yên vỏ ngoài mà thôi. Đứa trầm tĩnh chín chắn tính toán khôn
ngoan. Đứa nóng nảy vội vàng lập cập lanh chanh ngu đần. Đứa mưu mô thủ
đoạn thâm hiểm lừa lọc. Đứa trịch thượng hung bạo ác bá chỉ ưa tàn sát. Xem
xã hội cá cũng rút ra được kinh nghiệm để sống với xã hội người” [48, tr. 137].
Một xã hội với đủ sự ganh đua hơn thiệt. Một xã hội sẵn sàng đổ máu vì lợi ích
cá nhân: “Máu người quý hơn nước lã nhưng để có nước lã nhiều khi phải đổ
56
máu người” [48, tr. 337]. Nhà văn mượn ý câu tục ngữ “Một giọt máu đào hơn
ao nước lã”, vận dụng một cách sáng tạo để bao hàm một nội dung mới. Câu
tục ngữ cải biến của nhà văn không nói tới ý nghĩa mối quan hệ cùng chung
huyết thống như câu tục ngữ gốc. “Nước lã” ở đây đã được ngầm hiểu là lợi ích
mà con người theo đuổi. Và xã hội hiện đại là xã hội mà người ta có thể đổ máu
để đạt được mục đích. Sự tranh giành, ganh đua rất quyết liệt. Con người sẵn
sàng “chơi” lại con người trong sự tính toán thiệt hơn.
Chỉ qua một vài câu thành ngữ, tục ngữ được nhà văn vận dụng, người
đọc đã phần nào thấy được bộ mặt của xã hội hiện đại có sự chuyển biến khác
thế nào so với thời chiến. Hồ Anh thái đã đi sâu vào các mặt xấu để lột tả nhằm
đem đến một cách nhìn toàn diện về cuộc sống xung quanh chúng ta. Quan
trọng hơn là giúp mỗi người nhận ra sự hạn chế để khắc phục nhằm mang lại
một cuộc sống tốt đẹp hơn.
3.1.2. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần khắc họa chân dung và
nhân cách của con người hiện đại
Để nhân vật hiện lên một cách rõ nét và sinh động, nhà văn chọn sử dụng
nhiều cách thức khác nhau như: miêu tả, tái hiện nhân vật qua hành động, qua
nhận xét của nhân vật khác…và sử dụng thành ngữ, tục ngữ để khắc họa ngoại
hình, tâm trạng nhân vật.
Để khắc họa chân dung ngoại hình, nhà văn chỉ cần vài nét vẽ tiêu biểu:
- “Cô thuộc loại người này. Xinh xắn cao ráo. Nhưng lưng hơi thẳng
người hơi khô. Khô chân gân mặt. Hơi nghiêm” [43, tr. 32]
- “Cô phó chủ nhiệm tuổi bốn bảy, không có hơi hớm đàn ông, người cứ
đét ra như con cá mắm” [48, tr. 18]
- “Không viết thì phờ phạc héo hon thân tàn ma dại” [48, tr. 107]
57
- “Một chàng trai cao to, mặt hoa da phấn, cặp kính trắng đầy vẻ trí
thức” [49, tr. 83]
Với lợi thế ngắn gọn nhưng giàu hình ảnh, các câu thành ngữ, tục ngữ
Khô chân gân mặt; Gầy đét như cá mắm; Thân tàn ma dại; Mặt hoa da phấn
đã khắc họa ngoại hình của nhân vật một cách đầy thú vị và mỗi nhân vật mang
một nét riêng. Riêng câu “Khô chân gân mặt” ngoài miêu tả ngoại hình nhân
vật còn đủ sức gợi cả tính cách của nhân vật đó là một người đàn bà nghiêm
nghị, khó tính.
Nhà văn còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ để miêu tả tâm trạng của nhân
vật rất thành công:
- “Ta đã sống dở chết dở với tay đạo sư mấy bận” [44, tr. 63]
Câu thành ngữ sống dở chết dở miêu tả tâm trạng bối rối chưa tìm ra
cách xử lí của nhân vật.
- “Chuyện trò với người đàn bà vui như tết” [43, tr. 45]
- “Đám làm ăn mừng như bắt được vàng vì công việc không bị phập phù
cầm chừng” [48, tr. 310]
Cùng là nói đến tâm trạng vui mừng nhưng hai câu thành ngữ vui như tết
và mừng như bắt được vàng lại thể hiện hai sắc thái khác nhau. Đấy là cái hay
mà thành ngữ, tục ngữ đem lại so với từ ngữ miêu tả thông thường.
-“Ông già chết đứng như Từ Hải giữa nhà” [51, tr. 162]
Câu thành ngữ chết đứng như Từ Hải biểu thị rất rõ tâm trạng bất ngờ,
đột ngột nên chưa biết phản ứng như thế nào của nhân vật “ông già”.
Thành ngữ, tục ngữ truyền thống vốn được dùng để miêu tả con người
truyền thống. Thế nhưng, Hồ Anh Thái đã dùng chất liệu dân gian này để
góp phần làm sáng rõ nhân cách của con người trong xã hội hiện đại. Vì thế,
mặc dù có khi vẫn mang đặc điểm hình thức cũ nhưng những câu thành ngữ,
58
tục ngữ đã vẽ nên một cách chân thực cách nghĩ và lối sống của những con
người thời đại mới.
“Tôi thầm xúi họ đừng có lao vào tôi như thiêu thân, mật ngọt chết ruồi,
chim khôn mới càng chết mệt vì mồi,… Suy bụng ta ra bụng người, từ ấy nhìn
những danh thủ những chàng minh tinh màn bạc được chị em si mê, tôi dám
chắc trông họ mặt hoa da phấn thế thôi chứ những trang nam tử ấy trong cũng
lục đục thối hoăng” (Chạy quanh công viên mất một tháng). Chỉ một đoạn văn
ngắn nhưng nhà văn chêm xen đến 5 câu thành ngữ, tục ngữ. Những câu được
sử dụng trong đoạn văn này đã hé lộ phần nào đặc điểm con người hiện đại.
Con người trong thời đại mới thật giả lẫn lộn. Không thể đơn thuần dựa vào bề
ngoài để đánh giá họ tốt hay xấu. Đừng thấy người bảnh bao, sang trọng thì vội
đánh giá nhân cách họ tốt và ngược lại. Có khi chỉ là sự sáng sủa giả tạo như
hình ảnh của các anh minh tinh màn bạc kia mà thôi. Trong truyện ngắn
“Những cuộc kiếm tìm”, người viết thấy tâm đắc với một câu thành ngữ truyền
thống mà nhà văn sử dụng: “cưa sừng làm nghé” khi nói về cô gái tên Ly. Câu
thành ngữ này vốn hay được dùng để chỉ sự cố tình làm ra vẻ ngây thơ non dại
của những người đã có tuổi. Thế nhưng, trong văn cảnh này, nhà văn đã khéo
léo sử dụng câu thành ngữ trên để cho thấy bộ mặt thật trong nhân cách của
nhân vật hơn là vẻ bề ngoài. Tâm hồn của cô ta thì quá là già dặn và có khi là
mưu mô. Thế nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một cô bé ngây thơ và giàu tình
thương vô bờ bến. Giả vờ thương xót chú gà con, ghê khi phải thịt gà nhưng
món khoái khẩu lại là gà xé phay! Đặt vào ngữ cảnh của truyện, câu thành ngữ
lúc này được dùng để chế nhạo những con người giả nhân giả nghĩa. Mà trong
xã hội mới thì kiểu người này không hiếm, nếu không muốn nói là rất phổ biến.
Trước đây tục ngữ có câu “Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có
nhau” để nói tới sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau của những người sống cạnh
59
nhau. Thế nhưng, trong thời đại mới, cách nghĩ của con người có sự chi phối
của đồng tiền nhiều hơn, con người đã thay đổi cách nghĩ và cách sống. Vậy
nên, mối quan hệ láng giềng trong thời đại mới cũng mang nét mới: “Khi
thường hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn lá lành đùm lá rách; cũng có khi
lấn đất bờ rào, tranh giành miếng đất…” [42, tr. 230]. Mở rộng ý nghĩa của
câu tục ngữ này, nhà văn muốn nói tới lối sống ích kỉ của một số người quá
coi trọng lợi ích cá nhân mà phớt lờ đi tình cảm quý báu với những người
xung quanh.
Xâu chuỗi các câu thành ngữ, tục ngữ mà nhà văn sử dụng, kết hợp với
các tố khác trong văn bản, người đọc dễ nhận thấy lối sống và cách nghĩ của
con người hiện đại đã thoáng hơn rất nhiều. Thoáng đến mức trở thành sống
buông thả, dễ dãi và có phần dị hợm ở một số người. Trong tiểu thuyết “Mười
lẻ một đêm”, nhà văn có so sánh “khách sạn nhà nghỉ mọc lên như nấm”. Câu
thành ngữ mọc lên như nấm có cách hiểu thông thường là chỉ số lượng và tốc
độ - nhiều và nhanh. Tuy nhiên trong trường hợp này, hiệu quả về diễn tả số
lượng và tốc độ chưa phải là cái đích câu thành ngữ này hướng tới. Mượn một
câu thành ngữ truyền thống quen thuộc của dân gian, tác giả thể hiện một thái
độ lo ngại, một lời cảnh báo về một hiện tượng tiêu cực liên quan đến cách
sống dễ dãi, buông thả của không ít người trong xã hội đương đại đã, đang lan
tràn đến chóng mặt. Có được ý nghĩa đó bởi câu thành ngữ còn được đặt kèm
với những câu văn giúp nhà văn giải thích rõ: “Chuyện ấy ngày nay hơi bị dễ.
Thời gian địa điểm hơi bị dễ”. Mặt trái của xã hội hiện ra thật nhức nhối. Nhân
cách của một số người đang đi xuống nhanh chóng.
Con người hiện đại, ở một số người, đã biết lợi dụng cái dễ của xã hội
mà thỏa mãn ham muốn của mình. Ham muốn đi liền với dục vọng. Ví dụ rõ nét
là hình ảnh một người đàn bà trong “ Mười lẻ một đêm”. Một người luôn hành
60
động theo bản năng, tràn đầy ham muốn dục vọng cá nhân. Cách thức sống, cách
thức tồn tại của chị ta là các chiến thuật “tia”,“cưa”, “ngửi”, “đánh hơi”, “chén”
… luôn được mang ra áp dụng với đàn ông. Mục đích cuối cùng là lấy được đất,
nhà của họ. Thế nên, bà ta coi đàn ông cùng với đất đai tài sản của họ giống một
miếng mồi, hay giống như một thứ thức ăn để có thể ngửi, chén ngon lành: “mẹ
ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được” [43, tr.68]. Chưa dừng lại ở
đó, nhà văn tiếp tục lột tả bản chất của người đàn bà ấy qua các hành động trơ
tráo khác: “cô đánh hơi được cơ quan có kế hoạch phân nhà cho nhân viên” [43,
tr.61] ; rồi “Cưa ngay anh chàng huấn luyện viên ba sáu tuổi chưa vợ » [43,
tr.74]. Những động từ “ngửi”, “chén”, “đánh hơi”, “cưa” được nhà văn sử dụng
một cách linh hoạt, liên tục. Người đọc dường như thấy nhà văn đang dồn hết
những động từ mạnh để ào ạt lột tả cái ma lanh, sự tính toán thực dụng của người
đàn bà này. Kết quả là « Cái bản năng của người đàn bà này đã gây ra bao tai
họa cho những người xung quanh: “Anh đang yên đang lành thì cô ta nhảy bổ
vào anh, đè gí anh vào giá sách thư viện chiếm đoạt anh. Anh cũng đang yên
đang lành gia thất thì cô ta nhảy vọt ra khỏi nhà, bỏ đi lấy người khác”. Sự tấn
công trơ tráo, sự giũ bỏ gia đình một cách quá mau lẹ, không một chút phân vân
của người đàn bà này được chuyển tải trong hai từ giản dị mà độc đáo. “Nhảy
bổ”, “nhảy vọt” là hai từ chỉ cách thức hành động tạo khoảng cách với động tác
nhanh, mạnh, bất ngờ, quyết liệt được dùng để nói về hành vi của con người,
một hành vi bản năng hoang dã đã gợi lên rõ rệt cái ngang nhiên, vô trách
nhiệm của người đàn bà, sự sửng sốt, phẫn nộ của người trong cuộc trước
hoàn cảnh phũ phàng, trớ trêu » (Luận văn Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu
thuyết mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái- Nguyễn Thị Minh Hoa). Còn
người phụ nữ trong tác phẩm (sau này là vợ ông Víp), để chiếm được tình
cảm của người đàn ông có thế lực đã tìm đường đi khôn ngoan nhất là lấy
lòng thằng Cá- con riêng của ông Víp. Cô đi bằng con đường “muốn cha thì
61
phải yêu con”. Vậy nên cô ta đã làm mọi cách để chiếm được cảm tình của
thằng bé. Nhưng cách cô ta làm là diễn kịch với đủ sự tính toán để miễn sao
lấy được lòng của chú bé tật nguyền ngây thơ ấy. Tác giả đã diễn tả tâm địa
của người đàn bà bằng nhận xét chứa đầy thái độ mỉa mai: “cô đang làm xiếc
trên dây” [43, tr.287]. Cô ta diễn đủ trò để thằng bé nghĩ rằng đây là một
người mẹ kế yêu thương mình thực sự. Nhưng người đọc thì hiểu ngay cái cô
ta yêu thực sự là tiền và quyền của bố thằng bé kia. Ẩn dưới khuôn mặt có
vẻ hồn nhiên thánh thiện là tâm hồn một con ác quỷ đầy mưu mô toan tính.
Tuy nhiên, trong xã hội này, không chỉ những người đàn bà mới thực dụng.
Những bậc nam nhi cũng không thoát khỏi sự cám dỗ của của cải, danh
vọng. Thế nên, nhiều « Sở Khanh » đã xuất hiện. Nhà văn đã từng chỉ ra
những người đàn ông như thế: «Con cá tươi nhất là con một ông tướng.
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Tức thầy mới là mục đích, còn yêu là biện
pháp để đạt mục đích. Yêu cha mà lấy con» [48, tr.185].
Qua đây, tác giả phơi bày một thực trạng nữa trong nhân cách của người
hiện đại: Con người sẵn sàng làm mọi thứ để đạt mục đích sống. Tình cảm con
người là thứ thiêng liêng đáng được trân trọng thì nay đã trở thành thứ vũ khí
đắc lực để người ta trao đổi, tính toán, đạt được mục đích một cách nhanh nhất.
Người ta có thể làm xiếc trên dây và cũng có thể có những pha diễn ngoạn mục
trong cuộc sống. Người với người sống với nhau bằng thứ mặt nạ trá hình chứ
không còn đối xử với nhau bằng trái tim. Đây là một thực tế không còn là hiếm
trong xã hội hiện đại, thậm chí nó còn trở nên hết sức bình thường trong cách
nhìn nhận của không ít người. Con người giống như những diễn viên xiếc đại
tài. Vậy nên, lòng dạ của con người thật khó đoán. Không ít lần nhà văn đã nêu
ra thực tế này thông qua các câu tục ngữ: Lòng con mình mà mình còn không
62
đo được nữa là lòng người đời; Ai mà đo được nông sâu lòng người; những lúc
này mới thấy lòng người khó đoán như thế nào.
Nếu nghiên cứu các sáng tác của Hồ Anh Thái một cách toàn diện sẽ
thấy sáng rõ hơn nữa bóng dáng của con người hiện đại. Bởi nhà văn đã khai
thác nhân vật rất đa dạng với mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi ngành nghề, mọi
lứa tuổi. Từ những thị dân đến viên chức nhỏ, từ những sếp lớn cho đến những
người dân thường làm xe ôm, osin, thợ sửa móng tay…Nhà văn tiếp cận để lật
tẩy những mặt trái trong suy nghĩ và lối sống của con người hiện đại. Nhưng
không có nghĩa là ở xã hội ấy không có người tốt. Trong xã hội ấy vẫn có
những con người đầy bản lĩnh và đầy khát vọng như Hòa (Người đàn bà trên
đảo), trong sáng như cậu bé Tân (Trong sương hồng hiện ra), và cũng có
những số phận bất hạnh luôn khao khát hạnh phúc lứa đôi như những người
đàn bà trong Đội Năm (Người đàn bà trên đảo). Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên
cứu của đề tài, người viết nhận thấy thành ngữ, tục ngữ chủ yếu được nhà văn
sử dụng để góp phần làm hiển lộ thói hư tật xấu của con người trong xã hội
hiện đại. Qua đó để mọi người tự soi vào để nhận ra rõ bản chất của xã hội
mình đang sống. Soi vào đấy, và biết đâu, có mình trong đó. Giống như nhà
văn đã từng trả lời trong một bài phỏng vấn “Tự biết mình là thực sự tiến bộ cơ
mà. Và như vậy, sự biết mình ấy dù có day dứt, dằn vặt sâu cay quá cũng là
cần thiết”. Như vậy, thành ngữ, tục ngữ đã góp phần quan trọng, thể hiện rõ vai
trò của chúng trong xã hội hiện đại. Chúng đã góp phần hiển lộ con người với
những hạn chế cần thiết phải tự biết mình, rồi biết người, để tiến bộ.
3.1.3. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ góp phần bộc lộ quan điểm nhìn đời sâu
sắc của nhà văn
Quan điểm có thể được hiểu đơn giản là cách nhìn nhận, đánh giá của cá
nhân. Mỗi nhà văn, trước khi cầm bút đều có những quan điểm riêng chi phối
63
cho cách viết và nội dung viết trong tác phẩm. Người đọc lại tiếp nhận tác
phẩm theo hướng ngược lại. Đi từ nội dung và nghệ thuật biểu hiện của tác
phẩm để tìm ra quan điểm mà nhà văn thể hiện trong đó. Theo cách tiếp cận
trên, dựa trên sự đánh giá về nội dung của những câu thành ngữ, tục ngữ mà
nhà văn sử dụng, chúng tôi nhận thấy, thông qua đó, quan điểm nhìn đời và
nhận người của nhà văn đã hé lộ phần nào.
Hồ Anh Thái thể hiện là một nhà văn rất nhạy cảm với những biến đổi
của cuộc sống xã hội thời kì đổi mới. Được ví là giống Vũ Trọng Phụng, Hồ
Anh Thái nhạy cảm hơn cả với mặt trái nhức nhối bên trong xã hội tưởng là
bình yên, hạnh phúc. Ông bóc tách những thói hư tật xấu, những hạn chế trong
cách ứng xử của con người thời đại mới. Ông đưa ra cách để người ta soi vào
mà biết đúng sai và ứng xử sao cho đúng. Cách đơn giản mà lại hiệu quả chính
là mượn kho tàng kinh nghiệm ứng xử quý báu của thành ngữ, tục ngữ để làm
bài học, làm minh chứng. Qua đó cũng thể hiện được quan điểm nhìn nhận
cuộc đời và con người của nhà văn.
Mặc dù mỗi câu thành ngữ, tục ngữ được sử dụng ứng với từng hoàn
cảnh cụ thể, thế nhưng sức khái quát của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của hoàn
cảnh ấy. Nhà văn mượn lời nhận xét của một nàng công chúa Ấn Độ để khái
quát sự thật đang diễn ra trong xã hội mới: “Thôi thì ở hiền gặp lành (…). Hiền
không bao giờ gặp lành” [43, tr.42]. Nhà văn khá tỉnh táo khi đánh giá sự thật
đi trái với bài học của cha ông đã đúc kết. Gắn với xã hội mới, rõ ràng chúng ta
thấy không phải bao giờ ở hiền cũng gặp lành. Thậm chí, những kẻ mưu mô
toan tính, độc ác lại gặp nhiều may mắn, được hưởng cuộc sống giàu sang. Vì
xã hội đã đổi thay. Đồng tiền khiến con người ta trở nên giả dối và toan tính
nhiều. Đến một cô osin ở quê lên thành phố, học thức kém, còn nhận thấy rõ
“Đói thì khó sạch rách thì khó thơm” [50, tr. 47]. Nghĩa là cách sống và lối
64
nghĩ của con người đã thay đổi rất nhiều. Hồ Anh Thái đã nhận ra điều đó.
Chính vì vậy mà nhà văn mới sử dụng câu tục ngữ cải biến “Tránh người
chẳng xấu mặt nào” để khuyên con người cách ứng xử thông minh trong xã hội
nhiều mưu mô toan tính này.
Bản chất xã hội đổi khác, những con người suy đồi về nhân cách thì hay
được vươn lên thành những ông Kễnh, ông Víp, ông Cốp. Nó tương tự như
kiểu Xuân tóc đỏ gặp may bước chân vào xã hội thượng lưu và được xã hội ấy
nâng đỡ dần lên trên từng bước danh vọng. Nhà văn đã cho thấy sự đi lên một
cách dễ dàng này: “Cứ thế ông lên như diều gặp gió” [48, tr. 152]. Thế nhưng
cái gì dễ dàng đến thì thường không bền lâu. Nhà văn đã chỉ ra hậu quả của quá
trình ấy là sự trở về với điểm xuất phát ban đầu. Mọi toan tính của con người,
dù có khôn ngoan thế nào cũng không lại được với sự sắp đặt của ông trời. Thế
nên “Khôn ngoan chẳng lại với giời” [48, tr. 66]. Những toan tính, mưu mô đạt
được kết quả nhưng cũng nhanh chóng tiêu tan. Điều này được thể hiện qua nội
dung của câu thành ngữ “Của thiên trả địa” mà nhà văn sử dụng nhiều lần.
Tổng số có 5 lần nhà văn sử dụng câu thành ngữ này ở cả dạng nguyên vẹn và
dạng cải biến:
“Của thiên phải trả cho thiên, của địa phải trả cho địa” [42, tr. 96]
“Của thiên lại trả địa” [44, tr. 52]
“Của thiên trả địa trả thủy” [48, tr. 52]
“Của thiên trả địa” [48, tr. 249]
“Của thiên trả địa” [48, tr. 330]
Sự lặp lại câu thành ngữ này thể hiện quan điểm nhìn đời sâu sắc của nhà
văn: Mọi thứ trong cuộc đời, nếu không có được bằng chính sự nỗ lực, cố gắng
một cách chân chính thì dù đạt được dễ dàng nhưng không bền vững. Quan
điểm này hoàn toàn phù hợp với cuộc sống thời đại mới, nhất là thời kì bắt đầu
65
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Người đọc từ đó có thể tự rút ra bài học để
tự tìm cho mình một lối sống trong sạch, tự tin vươn lên bằng chính bản thân để
tìm được những giá trị sống tích cực, lâu bền.
3.2. Giá trị của việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong nghệ thuật biểu hiện
của các tác phẩm
3.2.1. Tạo ra lớp ngôn từ gần gũi nhưng rất sâu sắc
Hồ Anh Thái luôn có khát vọng bao quát toàn diện hiện thực cuộc sống.
Đặc biệt, ông có khát vọng diễn đạt chân thật đời sống nhiều chiều của xã hội
hiện đại. Đó là động lực thúc đẩy để ông tìm đến một phong cách ngôn ngữ phù
hợp. Tìm đến kho tàng thành ngữ tục ngữ là một trong những nỗ lực của nhà
văn để định ra được hướng khai thác hiện thực.
“Điểm qua các tiểu thuyết gần đây của Hồ Anh Thái, sẽ không võ đoán
khi cho rằng tác giả là người ưa sử dụng lời ăn tiếng nói bình dân hơn những
lời nói quyền uy cao đạo. Sở nguyện này thông lối để phương ngữ, khẩu ngữ
(…) ùa vào tác phẩm, thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và những chuyện
của đời thực” (Bài viết Tổng hòa nhiều sắc độ ngôn ngữ, Bùi Thanh Truyền-
Lê Biên Thùy). Trong màu sắc tổng hòa của nhiều ngôn ngữ khác nhau, thành
ngữ, tục ngữ vẫn có một vị trí nhất định để tạo nên sự tổng hòa đa sắc điệu đó.
Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ đã tạo ra một lớp ngôn từ gần gũi với người
đọc. Bởi thành ngữ, tục ngữ là sản phẩm trí tuệ của chính người dân. Chúng đã
quá quen thuộc với tất cả mọi người. Vậy nên, thành ngữ tục ngữ tạo nên lớp từ
bình dân rất gần gũi với các độc giả, không phân biệt trình độ cao thấp. Thứ
ngôn ngữ ấy chính là ngôn ngữ của đời sống được tái hiện một cách sinh động
và chân thật nhất. Nhà văn không tô vẽ gọt giũa mà cứ thể hiện một cách tự
nhiên, trơn lướt trên từng trang viết. Một phần là nhờ vào sự góp mặt của các
câu thành ngữ, tục ngữ kết hợp với sự điều khiển chữ nghĩa một cách tài tình:
66
“Cô chủ trương thân này ví xẻ làm trăm được, sự nghiệp anh hùng há
bấy nhiêu. Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm. Ở vậy chơi xuân kẻo hết xuân
đi. Bướm lượn rồi bướm ối a nó bay”. Chỉ trong hai câu nhưng tác giả kết hợp
cả nhại thơ văn Hồ Xuân Hương, thơ Mới và bài nhạc dân ca, kết hợp với một
vế của câu tục ngữ “chồng con là cái nợ nần, thà rằng ở vậy nuôi thân béo
mầm”. Tuyệt nhiên không có sự tô vẽ nào cho ngôn ngữ. Tất cả hiện lên một
cách tự nhiên. Người đọc thấy ngôn ngữ thật gần gũi, hài hước, hấp dẫn vô
cùng. Bản chất của nhân vật cũng hiển lộ một cách rõ ràng mà không cần tốn
quá nhiều công suy luận.
“Lấy nhau chín năm cô đã đẻ tuồn tuột ra ba cô con gái, sắp sửa đứa thứ
tư, siêu âm rồi, cũng con gái nốt (…). Như một cái máy đẻ. Lại còn triết lí đúng
kiểu Á Đông rằng trời sinh voi trời sinh cỏ (…). Việc đi kiếm cỏ cho voi đổ
sang cho chồng. Ba con voi con và một con voi mẹ cứ thế mà ăn rào rào, việc
đi kiếm miếng ăn là việc của kẻ nô lệ da vàng mà cô may mắn bắt được”. Câu
tục ngữ trời sinh voi trời sinh cỏ đặt trong hoàn cảnh này đã hiển lộ rõ cách
nghĩ lạc quan của người Á đông. Tuy nhiên trong hoàn cảnh này nó lại mang
nghĩa châm biếm người vợ Tây vô tư hồn nhiên lạc quan đến vô tâm. Nhà văn
đã dùng chính ý, câu chữ của câu tục ngữ để triển khai các câu văn tiếp theo
vừa dễ hiểu với người đọc lại vừa hứng thú. Nó nói lên rất rõ tình cảnh khốn
khổ của ông chồng khi một mình gánh vác trên vai năm miệng ăn và một đứa
con nữa sắp chào đời.
Thành ngữ, tục ngữ, đặc biệt là tục ngữ, có sự hoà đồng của nhiều phong
cách ngôn ngữ khác nhau. Nó vừa có phong cách ngôn ngữ sinh hoạt lại vừa
mang phong cách ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách ngôn ngữ khoa học. Tục
ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân. Những sản phẩm sáng tạo từ lời ăn tiếng
nói không quá chau chuốt mượt mà. Tục ngữ vì thế mang tính khẩu ngữ rất cao.
67
Nó ít sử dụng những từ ngữ gọt giũa bóng bẩy, những từ ngữ mang tính bác
học khó hiểu. Ngôn ngữ trong tục ngữ là một thứ ngôn ngữ hiện thực, sinh
động, gắn chặt với cuộc sống phong phú, nhiều màu vẻ của dân tộc. Nay chúng
lại được nhà văn giao một trọng trách mới là tái hiện hơi thở của cuộc sống thời
đại mới. Vì thế, chúng phải gần gũi với bạn đọc mới, những công dân của xã
hội hiện đại. Hồ Anh Thái đã nắm bắt được yêu cầu này và vận dụng thành
ngữ, tục ngữ hiệu quả tạo nên lớp ngôn từ rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của những người hiện đại. Đặc biệt là gần với ngôn ngữ thị dân- một tầng
lớp mà nhà văn đặc biệt chú ý tới ở xã hội mới. Thành ngữ, tục ngữ được cải
biến giúp nhà văn tái hiện lại ngôn ngữ đường phố đầu thế kỉ hai mốt với sự
hoạt kê tạo ra sự tếu táo, trào lộng, quen thuộc như cách nói hàng ngày của
những bà nội trợ, những bác xe ôm, những công nhân viên chức nhà nước…:
Chết trẻ khỏe ma, chết già ma lọm khọm (Chết trẻ khỏe ma); Của thiên phải trả
cho thiên, của địa phải trả cho địa (Của thiên trả địa); Cha mẹ ki cóp cho cọp
con xơi (Ki cóp cho cọp nó xơi); Một người làm quan cả họ được nhờ, một
người làm thơ cả họ bơ phờ (Một người làm quan cả họ được nhờ); Giàu có
nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội (Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê thành
phố); Không có việc gì khó chỉ sợ đầu ta nhỏ (Không có việc gì khó chỉ sợ lòng
không bền); Định vuốt mặt hãy biết nể cái mũi (Vuốt mặt nể mũi); Con thầy vợ
bạn gái cơ quan; vỏ quýt dày có móng tay nhọn, móng tay nhọn có bấm móng
tay sắc (Vỏ quýt dày có móng tay nhọn); Văn ôn võ luyện luật thì phải xào nấu
hàng ngày (Văn ôn võ luyện); Người ta túm kẻ nhuộm tóc không ai túm kẻ đen
đầu (Túm kẻ có tóc không ai túm kẻ trọc đầu)…
Với sự sáng tạo không ngừng nghỉ, nhà văn Hồ Anh Thái đã dùng thành
ngữ, tục ngữ để tạo ra sự đổi mới trong ngôn ngữ. Sự đổi mới này đã giúp nhà
văn thâm nhập vào đời sống để tìm thấy vấn đề mới, hơi thở mới. Qua những
68
câu thành ngữ, tục ngữ được cải biến này, người đọc thấy gần gũi với thế hệ
của mình. Những vấn đề mới của thời đại cứ hiện ra “ngồn ngộn” hết vấn đề
này đến vấn đề khác, hết câu chuyện này đến câu chuyện khác thông qua sự
đúc kết trong những câu thành ngữ, tục ngữ ấy. Chúng ta cảm thấy thân quen
và chắc chắn là những gì nhà văn khái quát trong những câu thành ngữ, tục ngữ
trên là ở thời đại mới, ở xã hội hiện đại- xã hội mà hàng ngày chúng ta đang
sống và trải nghiệm.
Thành ngữ, tục ngữ không chỉ tạo ra lớp ngôn từ gần gũi mà còn tạo ra
ngôn từ sâu sắc. Thành ngữ, tục ngữ sử dụng rất nhiều các biện pháp tu từ. Đó
có thể là nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ, tượng trưng...Tất cả
những biện pháp tu từ này được sử dụng đắc lực. Từ ngôn ngữ mang tính khẩu
ngữ cao nhờ sử dụng các biện pháp tu từ mà ngôn ngữ trong thành ngữ, tục ngữ
bóng bẩy hơn, giàu sức gợi hơn, hình ảnh rõ nét hơn, biểu đạt được ý của người
nói sâu sắc.
“Quý phi mới được vua rước vào cung, còn sắc nước hương trời” [ 43, tr. 295].
Thành ngữ “sắc nước hương trời” gợi một dung nhan trẻ đẹp, hiếm người sánh
bằng. Nếu như chỉ dùng ngôn ngữ thông thường để miêu tả nhan sắc của quý
phi thì sẽ không đạt được sự gợi hình sắc nét như thế.
“Nó xui cậu lên đây để đe dọa tôi phải không. Nó quên rằng nó miền đù
thì tôi đây cũng miền đù. Bên ấy tám lạng bên này nửa kí” [45, tr. 223]. Câu
thành ngữ Bên ấy tám lạng bên này nửa kí được cải biến từ câu thành ngữ gốc
“người tám lạng kẻ nửa cân” đã biểu đạt được sự ngang tài ngang sức của hai
nhân vật anh xe và đoàn phó.
Hay một đoạn tác giả mượn lời nhân vật để chiêm nghiệm cuộc đời:
“Nếu có chuyện gì không hay xảy ra cho em thì anh cũng đừng ngạc
nhiên. Nhân nào quả ấy, em gieo gió thì phải gặt bão. Thằng Phũ và hai đứa
69
bạn nó cũng vậy thôi (…). Không ai phải chịu trách nhiệm trong những tai họa
này hết. Cái ác phải chịu trách nhiệm về những hành vi tàn ác của chính nó”
[41, tr.179]. Hai câu tục ngữ quen thuộc: Nhân nào quả ấy và Gieo gió gặt bão
đã được nhà văn vận dụng trong đoạn văn tạo nên giá trị biểu cảm sâu sắc. Đây
là những bài học kinh nghiệm, là trí tuệ của nhân dân được đúc kết từ xa xưa
nhưng đến xã hội nay giá trị của chúng là nguyên vẹn. Nhờ sự góp mặt của hai
câu tục ngữ này mà sự chiêm nghiệm về cuộc đời của nhân vật có cơ sở lí giải
rõ ràng, cách nói bóng bấy, hợp tình hợp lí.
Thành ngữ, tục ngữ nói chung, đặc biệt là tục ngữ, là những tri thức dân
gian được đúc kết từ ngàn đời và cũng được lưu truyền từ ngàn đời đến nay.
Với những lợi thế về cả nội dung và hình thức, thành ngữ, tục ngữ là lựa chọn
quen thuộc để các nhà văn hiện đại dùng để thay thế từ ngữ thông thường trong
diễn đạt. Qua đó, họ tạo ra được lớp ngôn từ vừa gần gũi với độc giả lại vừa
mang hiệu quả biểu đạt sâu sắc. Trong đội ngũ những nhà văn ấy, có Hồ Anh
Thái. Nhà văn đã biết tận dụng một cách thông minh trí khôn của dân tộc, kho
tàng tinh hoa của dân tộc để làm mới cho ngôn từ trong các sáng tác của mình.
Sự kết hợp khôn khéo giữa truyền thống và hiện đại một cách nhuần nhị chính
là thành công không thể phủ nhận mà nhà văn đã gây dựng được.
3.2.2. Tăng sự linh hoạt và hình ảnh cho câu văn
Thành ngữ, tục ngữ là những câu nói dễ tạo được hiệu quả nghệ thuật
khi chúng hiện diện trong các tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, không phải
hễ được sử dụng, các đơn vị ngôn ngữ này tất yếu phát huy hiệu quả nghệ
thuật của chúng. Điều này tùy thuộc vào năng lực ngôn ngữ của người viết.
Thực tế, bên cạnh những trường hợp thành công, cũng có không ít trường
hợp thất bại khi vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Người viết không thể đưa
thành ngữ, tục ngữ vào lời văn của mình một cách tùy tiện. Bởi mỗi câu
70
thành ngữ, tục ngữ họ mượn của dân gian đưa vào văn mình phải đặc sắc
hơn đơn vị ngôn từ do chính mình tạo ra để đặt vào vị trí thích hợp trong lời
văn. Làm được điều này không hề dễ. Nó yêu cầu nhà văn phải có sự chau
truốt, tính toán kĩ càng. Hồ Anh Thái thực sự là một nhà văn thành công
trong cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Ông đã vận dụng thành ngữ, tục
ngữ một cách tinh tế để tạo ra những câu văn linh hoạt và giàu hình ảnh.
Thường thì các nhà văn khác hay vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong lời
của nhân vật. Nhưng Hồ Anh Thái lại lựa chọn vận dụng chúng trong lời trần
thuật là chính. Khi đó, thành ngữ, tục ngữ đã góp phần tạo nên những câu văn
hấp dẫn, sâu sắc, nhiều ý vị, giàu hình ảnh. Nhất là khi những câu thành ngữ
tục ngữ quen thuộc được nhà văn nhào nặn vận dụng linh hoạt, sáng tạo:
“Chẳng việc gì mà phải nhận con nuôi. Khác máu tanh lòng. Công anh
bắt tép nuôi cò, cò ăn cò lớn cò dò lên cây. Có nuôi thì nuôi con cháu trong
nhà, lọt sàng xuống nia, chẳng đi đâu mà thiệt” [48, tr.21]. Câu tục ngữ Khác
máu tanh lòng và câu thành ngữ lọt sàng xuống nia được đặt xen kẽ trong câu
văn, đoạn văn tạo ra tính nhạc cho đoạn văn. Người đọc nhận ra giọng điệu của
nhà văn đồng thời cũng nhận ra tính cách “khôn ngoan” của cô Mắm, người
đưa ra kết luận không nên nhận con nuôi. Hai câu thành ngữ, tục ngữ này còn
tô đậm thêm hình ảnh cho câu văn khi chúng có tác dụng nhấn mạnh ý đứng
trước, chúng có vai trò làm cơ sở chắc chắn để chứng minh ý trước đưa ra là
đúng. Vì “khác máu tanh lòng” nên không nhận con nuôi là đúng. Vì “lọt sàng
xuống nia” nên nhận nuôi con cháu trong nhà hợp lí hơn nhiều nhận con cháu
người dưng. Câu văn trở nên giàu hình ảnh, bóng bẩy và đưa đẩy hơn khi có
hai câu thành ngữ, tục ngữ được đặt xen kẽ như vậy.
“Hai nàng nhân vật chính của tôi phải được tả là một mắt nhìn núi Đôi
một mắt nhìn sông Nhị, một thân hình rắn giả lươn một thân hình cá trắm lai
71
cá chép trứng, một khuôn mặt sủi cảo một khuôn mặt mưng mưng thủ lợn thiu,
răng cửa phi nước đại, răng hàm đi nước kiệu” [50, tr.21]. Khi đọc đến đây,
hẳn ai cũng phải bật cười trước cách miêu tả của nhà văn về dung nhan của một
người phụ nữ xấu. Câu thành ngữ rắn giả lươn xen vào giữa câu văn làm tăng
thêm nhịp điệu cho câu, làm đậm rõ hơn dung nhan của hai nhân vật mà nhà
văn đặt là Cá Sấu 1 và Cá Sấu 2.
Đặc biệt, trong lời trần thuật, nhà văn Hồ Ạnh Thái ưa sử dụng trùng
điệp thành ngữ, tục ngữ. Đó có thể là vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ
trong một câu văn, đoạn văn hoặc đặt liên tiếp các câu thành ngữ, tục ngữ
thành một câu độc lập đứng liền kề nhau. Cách vận dụng này đã làm tăng
tính nhạc cho câu văn, đoạn văn. Đồng thời nó tạo ra những câu văn rất sâu
sắc, giàu hình ảnh.
“Chẳng phải con mình mang nặng đẻ đau mà cũng hôn hít xuýt xoa
cũng ôm trước bụng cũng địu sau lưng cũng che ô che nắng của đau con
xót” [45, tr. 43]
“Từ lâu nay anh ta đã ghét cái thằng dân thủ đô mồm miệng hoạt bát
như tép nhảy, thấy gái là như mèo thấy mỡ” [45, tr. 190]
“Thôi thì ở hiền gặp lành. Một nàng bảo. Hiền không bao giờ gặp lành.
Nàng khác bảo. Hiền bao giờ cũng kèm theo đần. Một nàng nữa bảo” [43, tr.42]
Giả sử những câu văn, đoạn văn trên được lược bỏ thành ngữ, tục ngữ
hoặc thay thế bằng những từ ngữ thông thường:
“Chẳng phải con mình đẻ ra mà cũng hôn hít xuýt xoa cũng ôm trước
bụng cũng địu sau lưng cũng che ô che nắng”
“Từ lâu nay anh ta đã ghét cái thằng dân thủ đô mồm miệng hoạt bát,
thấy gái là thích thú”
72
“Thôi thì ở hiền sẽ gặp may mắn. Một nàng bảo. Hiền không bao giờ gặp
may mắn. Nàng khác bảo. Hiền bao giờ cũng kèm theo đần. Một nàng nữa bảo”
Dễ dàng nhận thấy: Những câu văn, đoạn văn trên nếu không có các câu
thành ngữ, tục ngữ chêm xen mà dùng những từ ngữ thông thường thì nó đã
mất đi sự khái quát, câu văn không có hình ảnh, sức liên tưởng nghèo nàn và
mất đi nhạc điệu trong câu. Câu văn, đoạn văn trở nên khô cứng, mất đi sự liền
mạch tự nhiên trong diễn đạt. Đặc biệt là nó làm mất đi hoàn toàn cái “tưng
tửng” trong giọng điệu- một nét đặc trưng trong văn phong của Hồ Anh Thái.
Cách đặt các câu thành ngữ, tục ngữ liên tiếp liền kề nhau còn làm tăng
hiệu quả diễn đạt hơn nữa cho đoạn văn:
“Xung đột không chấm dứt. Nó tiếp tục ngấm ngầm dai dẳng. Hòn đất
ném đi hòn chì ném lại. Ăn miếng trả miếng” [43, tr. 299]
“Đi đâm đơn xin đầu tư sáng tạo, xin hỗ trợ xóa đói giảm nghèo mà
chồng lái xe hơi đưa vợ đến. Chỗ nào thơm thì được dăm bảy triệu. Chỗ nào
bèo cũng được một triệu. Lấy ngắn nuôi dài. Tha lâu đầy tổ. Thân lươn bao
quản lấm đầu” [48, tr.15]
“Hai thằng cháu đầu trộm đuôi cướp thì bà hiểu giỏ nhà ai quai nhà nấy,
rau nào sâu ấy” [48, tr. 304]
“Như là bãi đất các nhà liên doanh xí phần để buôn đất chuyền tay, chó
ăn đá gà ăn sỏi, trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết” [ 52, tr. 26]
Các câu thành ngữ, tục ngữ được đặt liên tiếp thường là có cùng trường
nghĩa. Nhà văn vận dụng như vậy để nhấn mạnh nội dung của câu văn một
cách ấn tượng. Người đọc có cảm giác như câu chữ đang tràn trên ngòi bút. Nó
tạo ra những câu văn tự nhiên, mượt mà hấp dẫn.
Hồ Anh Thái là một nhà văn luôn làm mới mình. Ông luôn có ý thức
khai phá những cái mới mang dấu ấn cá nhân để không bị hòa lẫn vào thế giới
73
văn chương đương đại. Vì thế, việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ cũng được
ông biến hóa linh hoạt để viết nên những câu văn giàu sự sáng tạo. Bên cạnh
các câu thành ngữ, tục ngữ được vận dụng nguyên vẹn là những câu thành ngữ,
tục ngữ được cải biến theo nhiều phương thức đa dạng. Chính sự cải biến ấy đã
đem đến những câu văn hấp dẫn cả về ý và lời:
“Đùng một cái người ta điều về một anh chàng cũng làm phó. Trẻ hơn,
lại là điển hình tiên tiến của toàn ngành. Nhưng một nữ cán bộ duy lí đầy mình
không còn là mèo già nữa. Đã thành cáo” [48, tr.193]. Cách vận dụng tách câu
đầy sáng tạo đã đem đến một câu văn giàu hình ảnh và hình thức độc đáo. Câu
“mèo già hóa cáo” được tách ra để nhấn mạnh ý “đã thành cáo”, tức là những
mưu mô ranh mãnh của nữ cán bộ già với anh phó trẻ. Câu thành ngữ cũng làm
tiền đề để nhà văn khẳng định ý sau “Thỉnh thoảng sếp phó trẻ giật thót, thấy
mình đã sập bẫy của phó già”.
Tương tự như vậy, ta thấy có rất nhiều câu văn hấp dẫn, giàu hình ảnh:
“Một con sên vô tình đang chậm chạp. Một con rùa vô tình mang trên
mai nó cả một núi xót ruột” để diễn tả sự chậm chạp của công việc khiến người
ta cảm thấy khó chịu.
“Nhưng con ngựa đã quen đường đổi sang lối khác thật khó” [47, tr. 79]
để khẳng định sự từ bỏ công việc cũ là rất khó khăn.
“Chị em cắp nhau đi hội thảo mấy bận, rồi bận ấy, gã đủ lông đủ cánh gã
đi một mình. Người vặt lông vặt cánh gã là chồng bà viện phó (…). Gã tập tễnh
từ trong đó đi ra, đến mức thành tục ngữ, chị viện phó em chó què” [54, tr. 46].
Câu thành ngữ đủ lông đủ cánh được nhà văn tách ra để triển khai ý của câu
sau. Nó tạo ra những liên tưởng giàu hình ảnh cho người đọc. Kết hợp với câu
tục ngữ mới sáng tạo của nhà văn chị viện phó em chó què, nhà văn đã vẽ nên
74
đầy đủ quá trình dan díu giữa chị viện phó và chàng nhân viên, hiện rõ luôn cả
kết quả của mối quan hệ ấy mà không tốn quá nhiều công triển khai.
Qua một số dẫn giải ở trên, phần nào người đọc đã thấy được vai trò của
thành ngữ, tục ngữ trong quá trình sáng tạo các câu văn hay, ý nghĩa. Những
câu thành ngữ, tục ngữ được nhà văn vận dụng một cách khéo léo để nó phù
hợp với nội dung câu văn. Nhưng quan trọng hơn là chúng đã góp phần tăng sự
linh hoạt cho câu văn đoạn văn. Với lợi thế về hình thức có sự cân xứng về kết
cấu, cách gieo vần dễ nhớ, thành ngữ, tục ngữ đã tạo ra tính nhạc cho câu văn,
đoạn văn. Chính nhạc điệu ấy đã khiến cho câu văn, đoạn văn trở nên hấp dẫn,
dễ đi vào lòng người đọc.
3.2.3. Góp phần làm đậm rõ giọng điệu châm biếm của nhà văn
Theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu trong “Từ điển thuật ngữ văn
học”, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng
hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành
kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm….” [8, tr.134]. Giọng điệu là yếu tố
quan trọng thuộc tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, một trong những nhân tố
cần thiết tạo tính hấp dẫn cho tác phẩm và góp phần hình thành phong cách nhà
văn. Hồ Anh Thái là một nhà văn đa giọng điệu. Tuy nhiên, giọng điệu nổi bật
và gây ấn tượng nhất với người đọc có lẽ là giọng điệu châm biếm của nhà văn.
“Châm biếm” có thể hiểu là chế giễu một cách hóm hỉnh nhằm phê phán
một thói hư tật xấu hay một đối tượng nào đó. Châm biếm thường đi liền với
sắc thái mỉa mai, giễu cợt. Chính giọng điệu này, sắc thái này đã chi phối cách
sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm để thông qua ngôn ngữ ấy, nhà văn làm nổi
bật được cái chế giễu, mỉa mai hóm hỉnh. Thành ngữ, tục ngữ đã tận dụng được
75
lợi thế của mình để góp phần làm sáng rõ, tô đậm giọng điệu châm biếm của
nhà văn.
Giới thiệu tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười, báo điện tử
Vietnamnet.vnn.vn viết: “Cuộc đời theo Hồ Anh Thái như một cái nhà cười mà
bốn con đường đi vào ngôi nhà ấy là Sinh - Lão - Bệnh - Tử”, “Hồ Anh Thái
viết như để giảm stress bởi bốn con đường vào nhà cười của anh đều lát đá
hoạt kê. Cái giọng văn hài hước, ngôn ngữ đường phố, chợ búa đầu thế kỷ XXI
đọc để giải sầu”. Báo Sài Gòn tiếp thị nêu nhận xét: “Ở Bốn lối vào nhà cười,
tiếng cười thật chua chát, bật lên được ý thức tự trào của một người Việt tự
trào. Từ những chuyện vặt nhưng khả năng phóng chiếu, châm biếm của nó thì
không vặt chút nào”. Để làm nên được cái tự trào, cái châm biếm bằng giọng
văn hài hước, thành ngữ, tục ngữ đã góp phần không nhỏ. Những câu thành
ngữ, tục ngữ được đặt đúng lúc, đúng chỗ như một nét kẻ đen tô đậm nên giọng
châm biếm giễu cợt hóm hỉnh mà sâu sắc:
Châm biếm những người làm thơ theo kiểu: “Thơ thì râu ông nọ một tí
cắm cằm bà kia một tẹo. Từ ca dao cho đến thơ quốc nội cho đến thơ quốc
ngoại” [48, tr. 261]. Câu thành ngữ râu ông nọ cắm cằm bà kia đã được nhà
văn cải biến sáng tạo để châm biếm những kẻ làm thơ theo kiểu góp nhặt “ hổ
lốn”. Nó thể hiện thái độ mỉa mai những kẻ không hiểu gì về thơ nhưng cũng
học đòi làm thơ. Không dưới một lần nhà văn châm biếm những người như
vậy. Trong một văn cảnh khác, nhà văn cũng khiễn cho người đọc bật cười
chua chát với kiểu làm thơ này: “Một thứ thơ lang thang trong vườn cảm xúc,
có thể nổ máy bắt đầu từ bất kì đâu, có thể dừng lại hái hoa bắt bướm ở bất kì
đâu cũng được (…). Một người làm quan cả họ được nhờ, một người làm thơ
cả họ bơ phờ” [50, tr. 96].
76
Châm biếm những giáo sư “rởm”, những trí thức giấy phổ biến trong xã
hội hiện đại, nhà văn lựa chọn thành ngữ, tục ngữ để dẫn người đọc thấy rõ
những kẻ mang danh trí thức nhưng hành xử và suy nghĩ thì không có chút lịch
thiệp và văn hóa: “Rắm rởm nhiều nên nhỡ có cái thứ thiệt cũng khó phân biệt.
Kêu to đích thị là thùng rỗng, rắm kêu cũng như chó sủa thì không cắn, vô hại”
[54, tr. 13]. Người đọc sẽ bật cười vì sự châm biếm dí dỏm của nhà văn. Mượn
tiếng kêu của “rắm” để chửi xéo những kẻ đầu óc rỗng tuếch. Cứ tưởng mình
quan trọng nhưng thực ra là “vô hại”. Nếu như không có sự góp mặt của hai
câu thành ngữ trên thì nhà văn khó mà cô đọng được ý châm biếm một cách sâu
sắc như vậy.
Thành ngữ, tục ngữ cùng nhà văn đi sâu khám phá lật tẩy tật xấu của con
người xã hội mới với lối sống thực dụng và đầy toan tính. Tật xấu ấy được diễn
tả bằng giọng châm biếm giễu cợt hóm hỉnh. Chẳng hạn, cách so sánh tấc đất
tấc vàng khi nói đến khu phố cổ: “Năm ba hộ gia đình chung nhau một cái nhà
vệ sinh, sáng sớm một người đi bộ ở trong là cả mấy người xếp hàng chờ tắc cả
lối đi ở ngoài. (…). Thế mà tấc đất tấc vàng.” [44, tr.13]. Cái tấc đất như tấc
vàng ở đây không còn là sự so sánh giá trị của đất với vàng nữa. Trong ngữ
cảnh này, câu tục ngữ trên đang nhấn mạnh đến sự châm biếm của nhà văn đối
với những người thiển cận trong việc xác lập giá trị. Đất đai ở phố cổ thì chật
hẹp đến khó thở “thế mà” vẫn chen nhau giành giật và quý trọng như vàng. Ở
một chỗ khác, cũng so sánh này tác giả viết: “… Ông giám đốc sở địa chính đưa
tay nhận tờ đơn ký xoẹt một cái. Một lô đất ở bãi tắm mới mở. Tấc đất tấc vàng.”
[44,tr. 307] . “Tấc đất tấc vàng” là sự mỉa mai những kẻ coi trọng vật chất mà
đánh mất tự trọng. Ở đây là ông cậu họ xa của người phụ nữ có chồng là ông
Víp. Ông ta “thấy người sang bắt quàng làm họ”. “Bắt quàng” một cách trơ
trẽn: Khi nào cần giải quyết việc cá nhân là ông ta lại lôi tấm ảnh chụp cùng ông
77
Víp ra để làm thứ dọn đường. Lần này cũng vậy. Dựa hơi ông Víp mà ông ta
nhanh chóng có được lô đất giá trị ở bãi tắm mới mở.
Châm biếm những kẻ lợi dụng sự sụp đổ của người khác để tỏa sáng “Ông
phó đến muộn cứ ngớ cả ra (…). Nhưng mà chuyển bại thành thắng rất nhanh.
Đây là cơ hội đầu tiên ông hiện diện ở cương vị trưởng. Không được để tuột mất
cơ hội. Cờ đến tay. Phải phất” [50, tr. 200]. Với kiểu vận dụng tách câu dùng ý
của câu tục ngữ “cờ đến tay ai người đó phất”, nhà văn đã khiến người đọc phải
“nhếch mép” với hành động của ông phó. Ông ta khéo léo tận dụng đám tang
sếp của mình để một lần được làm trưởng, được người khác thán phục, nể trọng.
Ông ta tự hào với điều đó. Câu tục ngữ đã cho thấy ông phó coi việc đó là điều
đương nhiên mà không hề cảm thấy xấu hổ một chút nào. Như vậy, nhờ có câu
tục ngữ ấy mà sự châm biếm của nhà văn trở nên rõ nét.
Chỉ qua một vài ví dụ ở trên, có thể thấy, việc vận dụng thành ngữ, tục
ngữ đã góp phần làm đậm rõ giọng điệu châm biếm giễu cợt của nhà văn. Chúng
giúp nhà văn có thể thể hiện giọng điệu này một cách dễ dàng hơn và thông minh
hơn. Nhờ có thành ngữ, tục ngữ mà châm biếm vừa đạt hiệu quả lại không quá
đà. Người đọc có cảm giác thích thú với giọng điệu này của nhà văn.
78
Tiểu kết chương 3
Vận dụng thành ngữ, tục ngữ đã đáp ứng được mục đích sáng tác của Hồ
Anh Thái. Việc vận dụng đã tạo ra giá trị cho tác phẩm ở cả hai mặt nội dung
và nghệ thuật. Các câu thành ngữ, tục ngữ giúp cho nhà văn có thể chuyển tải
nội dung của tác phẩm một cách sáng rõ hơn. Thông qua những câu thành ngữ,
tục ngữ mà nhà văn sử dụng, người đọc bổ sung thêm được những khía cạnh
mới trong nội dung của tác phẩm. Từ đó, làm phong phú thêm cách tiếp cận
những vấn đề trong tác phẩm. Bên cạnh đó, sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong
các trang viết đã khẳng định được tài năng nghệ thuật già dặn của nhà văn Hồ
Anh Thái. Bởi vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác không phải là dễ,
vận dụng để đạt hiệu quả thẩm mĩ lại càng khó. Nhưng nhà văn đã vận dụng
thành công kho tàng dân gian quý báu để tạo ra được những trang viết ấn tượng
tạo được hiệu ứng tốt cho quá trình tiếp nhận tác phẩm của ông đến với độc giả.
Vì thế, hiệu quả tích cực mà thành ngữ, tục ngữ đem đến trong quá trình sáng
tạo văn chương của Hồ Anh Thái là một thành công đáng được ghi nhận.
Với những giá trị mà thành ngữ, tục ngữ đem lại cho các tác phẩm của
Hồ Anh Thái, một lần nữa đã khẳng định sức sống bền bỉ và giá trị trường tồn
của thành ngữ, tục ngữ truyền thống trong thời đại mới. Kho tàng thành ngữ,
tục ngữ hiện đại đã và đang phát huy vai trò của mình trong việc phản ánh các
vấn đề xã hội mới; phê phán, phủ nhận những thói hư tật xấu của con người. Từ
đó, nhà văn góp sức vào việc “thanh lọc” xã hội để tiến bộ và phát triển hơn,
văn minh hơn.
Với tất cả những điều nhận thấy ở trên, cho thấy thành ngữ, tục ngữ đã
có bước chuyển mình độc đáo "Những câu tục ngữ mới đã tiếp tục tinh hoa của
tục ngữ truyền thống để làm nên mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Từ
79
trong cái bếp lò tinh thần của cha ông chúng ta còn lấy ra không phải nắm tro
đã nguội lạnh mà là ngọn lửa đang bốc cháy" [26, tr47]. Đó là sự vận động
không ngừng nghỉ của tục ngữ để tục ngữ luôn được mới mẻ không bị lạc hậu,
lãng quên. Từ những câu nói truyền miệng có đời sống trôi nổi nay tục ngữ đã
có một bến đỗ mới vững chắc hơn ở trong các tác phẩm văn chương.
80
KẾT LUẬN
1. Thành ngữ, tục ngữ có giá trị rất lớn trong việc biểu hiện ý tưởng, lời
nói giữa con người với con người. Chúng được coi như là sự diễn đạt tiêu biểu
của triết lí dân gian. Thành ngữ, tục ngữ mang tính nhật dụng khá cao, có nhiều
điều trong cuộc sống mà người ta không thể nói ra, lúc đó người ta phải viện
đến câu thành ngữ, tục ngữ làm ngụ ý. Vì thành ngữ, tục ngữ ngắn gọn, phong
phú, có vần điệu, giàu hình ảnh nên đã đáp ứng được nhu cầu ứng dụng trong
thực tế giao tiếp. Khả năng tư duy của con người ngày càng được nâng cao thì
tục ngữ phát triển càng dồi dào. Cuộc sống vẫn luôn vận động không ngừng,
nhiều thế hệ đã đi qua, tục ngữ vẫn cứ chảy theo dòng chảy của cuộc sống, ra
đời để tạo thành sự phát triển liền mạch từ xưa cho đến nay.
2. Thành ngữ, tục ngữ được Hồ Anh Thái sử dụng trong hầu hết các thể
loại, từ truyện ngắn cho tới tiểu thuyết. Điều đó chứng minh nhà văn rất tin
tưởng vào giá trị mà thành ngữ, tục ngữ mang lại. Nhà văn vận dụng thành ngữ,
tục ngữ cả ở dạng nguyên dạng truyền thống và ở dạng cải biến sáng tạo. Sự
vận dụng linh hoạt trong nhiều trường hợp đã tạo nên những “biến thể”, “dị
bản” khá mới lạ. Những dị bản ấy phù hợp và thích nghi với những vấn đề mới
của thời đại và làm đậm rõ phong cách nhà văn. Việc vận dụng đã tạo ra những
giá trị về nội dung và nghệ thuật. Thông qua thành ngữ, tục ngữ, nội dung ngữ
nghĩa được chuyển tải một cách sinh động và thú vị. Nhờ có thành ngữ, tục
ngữ, câu văn tăng thêm giá trị biểu cảm, lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh và đặc
biệt là góp phần làm đậm rõ sự giễu cợt hài hước rất hóm hỉnh của nhà văn.
3. Nhờ có sự vận dụng hiệu quả thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác, Hồ
Anh Thái đã nối tiếp một nhịp cầu nối giữa văn học truyền thống với văn học
hiện đại. Văn chương của Hồ Anh Thái vừa mang nét truyền thống kế thừa từ
81
văn học dân gian và văn học trung đại lại vừa mang nét mới của văn học hiện
đại. Cái truyền thống chính là sự kế thừa và tiếp nối kho tàng dân gian của cha
ông để vận dụng trong sáng tác. Sự vận dụng này là một quá trình nối tiếp nhau
của các thế hệ nhà văn, nhà thơ. Từ thời văn học trung đại, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ rất thành
công để chuyển tải nội dung của tác phẩm. Chuyển sang giai đoạn giao thời,
thành ngữ, tục ngữ cũng được vận dụng trong nhiều tác phẩm của nhiều nhà
văn khác nhau: Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu, Lê Hoàng Mưu,
Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh… Giai đoạn văn học hiện đại, hầu hết các
nhà văn đều có sử dụng thành ngữ, tục ngữ khi sáng tác. Chỉ khác nhau ở mức
độ sử dụng nhiều hay ít. Có thể kể đến một số nhà văn tiêu biểu: Ngô Tất Tố,
Nam Cao, Tô Hoài, Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng…Nhà văn Hồ Anh Thái đã
nối dài thêm vào sợi dây kế thừa này để tạo ra sự liên tục, liền mạch cho sự
sống của thành ngữ, tục ngữ trong thời đại mới. Bởi ông vừa kế thừa lại vừa
sáng tạo để thành ngữ, tục ngữ truyền thống phù hợp với xã hội hiện đại, con
người hiện đại. Ông đã góp sức vào việc giữ gìn và phát triển tinh hoa của văn
hóa, văn học Việt.
4. Với những vấn đề nghiên cứu ở đề tài, chúng ta có thể thấy kho tàng
thành ngữ, tục ngữ của dân tộc đã phát huy ưu thế trong mọi thời đại. Văn học
dân gian một lần nữa đã thể hiện sự đóng góp to lớn để đem đến giá trị thẩm mĩ
cho văn học viết. Thành ngữ, tục ngữ góp phần thúc đẩy văn chương phát triển.
Với những đặc điểm nổi trội của mình, thành ngữ, tục ngữ đã được các nhà văn
sử dụng đắc lực trong sáng tác với nhiều kiểu vận dụng khác nhau tuỳ theo sự
sáng tạo của từng người. Trí khôn của tục ngữ kết hợp với trí tuệ và sự khéo léo
của nhà văn đã phát huy được giá trị rất lớn để đem đến thành công cho những
trang viết. Vì vậy, việc sử dụng tục ngữ trong văn chương hiện đại khá phổ
82
biến. Ngoài Hồ Anh Thái còn có rất nhiều nhà văn hiện đại ưa sử dụng thành
ngữ, tục ngữ trong sáng tác. Ngược lại, các tác phẩm văn học đã trở thành
phương tiện để chắp cánh cho sự phát triển, vận động không ngừng của thành
ngữ, tục ngữ. Văn chương đã đưa thành ngữ, tục ngữ đến với mọi người. Nhờ
có văn chương, thành ngữ, tục ngữ sẽ được phổ biến rộng rãi hơn nữa, mới mẻ
hơn nữa để "không bao giờ lỗi thời". Mối quan hệ qua lại giữa tục ngữ và văn
học là mối quan hệ khăng khít, tích cực, cần được quan tâm đúng mức.
5. Từ góc độ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi hi vọng rằng những vấn
đề được đặt ra sẽ đem đến một góc nhìn nữa bổ sung cho việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ với văn chương hiện đại. Qua sự tìm
hiểu đó, khẳng định sự tồn tại và vận động của thành ngữ, tục ngữ trong đời
sống đương đại và hệ quả của nó đối với văn chương nói riêng, với văn hoá
nói chung trong xã hội hiện đại, từ đó cần có định hướng bảo tồn thành ngữ,
tục ngữ cho mai sau.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên, "Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại" (1969),
Tạp chí văn học, (số 4).
2. Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân
gian Việt Nam, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ 10.
3. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam,
NXB KHXH, tái bản lần thứ 10.
4. Lê Thị Bích Diệp (2012), Cách sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của Hồ
Anh Thái và Dương Thụy, Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh.
5. Phan Thị Đào (1997), “Tỉnh lược như là một yếu tố cấu thành thi pháp tục
ngữ”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (Số 3), tr. 88- 90.
6. Phan Thị Đào (2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ, Nxb Thuận Hóa.
7. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng việt, Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp Hà Nội.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
10. Dương Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở (2012), “Tìm hiểu cách vận dụng
thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam”, http://ctu.edu.vn, ngày
02/01/2012.
11. Nguyễn Thái Hòa (1997), Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Việt Hương (2000), Tục ngữ Việt Nam bản chất thể loại qua hệ
thống phân loại, Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.
84
13. Lương Mai Hiếu (2012), Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn
Nam Cao, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
14. Nguyễn Xuân Kính (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Tập 1, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
15. Lê Nhật Ký (2011), Thành ngữ, tục ngữ trong truyện đồng thoại của Tô
Hoài, http://lenhatky.vnweblogs.com, ngày 15/4/2011.
16. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
17. Lâm Thị Thiên Lan (2012), Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn
Quang Sáng, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày 03/03/2012.
18. Mã Giang Lân (1993), Tục ngữ ca dao Việt Nam tuyển chọn và giới thiệu,
Nxb giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Lân (2006), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn
học, Hà Nội.
20. Nguyễn Bá Lương (2003), “Để hiểu đúng nội dung một câu tục ngữ”, Tạp
chí ngôn ngữ và đời sống, (số 7).
21. Hà Thị Liễu (2007), Ảnh hưởng của văn học dân gian trong truyện ngắn
Vi Hồng, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
22. Đỗ Quang Lưu (1979), “Tục ngữ - châm ngôn và thời đại”, Tạp chí văn
học, (số 5), tr. 101- 108.
23. Đặng Văn Lung (1969), "Điểm qua ý kiến của một số tác giả xung quanh
vấn đề văn học dân gian hiện đại”, Tạp chí văn học, (số 6), trang 57- 70.
24. Trần Gia Linh, "Những biến đổi quan trọng của thể loại tục ngữ trong thời
đại mới", Văn học dân gian, (số 1).
25. Trần Gia Linh (1991), "Văn học dân gian hiện nay”, Tạp chí văn học, (số 2),
trang 44- 46.
85
26. Macxim Goorki (1970) (Tác giả dịch), Bàn về văn học, tập I, Nxb Văn
học, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam chân dung và phong cách,
Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
29. Nguyễn Văn Mệnh (1972), “Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ”, Tạp
chí ngôn ngữ, Số 3, tr. 12- 72.
30. Lê Hồng My, Nguyễn Thị Huệ (2010), Thành ngữ trong sáng tác của Ngô
Tất Tố và Nam Cao, http://dlu.edu.vn, ngày 22/11/2010.
31. Nguyễn Văn Nở (2005), "Vấn đề nghĩa của tục ngữ”, Nguồn sáng dân
gian, (số 4/ 2005).
32. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
33. Bùi Văn Nguyên (1983), "Sức sống dân tộc và tục ngữ Việt Nam”, Tạp
chí Văn học, (số 3), trang 83- 93.
34. Triều Nguyên (2006), "Phương thức tạo nghĩa của tục ngữ”, Văn hóa dân
gian, (số 1/2006).
35. Vũ Ngọc Phan (1971), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
36. Hoàng Phê (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
37. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1990), Văn học dân gian,
Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
39. Ngô Thị Thanh Quý (2010), Tìm trong tục ngữ nét văn hóa Việt, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội.
86
40. Nguyễn Quý Thành (1998), "Dấu ấn văn hóa trong tục ngữ”, Văn hóa dân
gian, (số 4), trang 76- 79.
41. Hồ Anh Thái (2009), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Lao Động.
42. Hồ Anh Thái (2015), Dấu về gió xóa, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
43. Hồ Anh Thái (2015), Đức phật, nàng Savitri và tôi, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
44. Hồ Anh Thái (2014), Mười lẻ một đêm, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
45. Hồ Anh Thái (2014), Những đứa con rải rác trên đường, Nxb Trẻ TP Hồ
Chí Minh.
46. Hồ Anh Thái (2015), Người đàn bà trên đảo, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
47. Hồ Anh Thái (2015), Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb Trẻ TP Hồ
Chí Minh
48. Hồ Anh Thái (2015), SBC là săn bắt chuột, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
49. Hồ Anh Thái (2015), Trong sương hồng hiện ra, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
50. Hồ Anh Thái (2006), Bốn lối vào nhà cười, tập truyện ngắn, Nxb Đà Nẵng.
51. Hồ Anh Thái (2006), Mảnh vỡ của đàn ông, tập truyện ngắn, Nxb Đà Nẵng.
52. Hồ Anh Thái (2014), Người bên này trời bên ấy, tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
TP Hồ Chí Minh.
53. Hồ Anh Thái (2014), Tiếng thở dài qua rừng kim tước, tập truyện ngắn,
Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
54. Hồ Anh Thái (2014), Tự sự 265 ngày, tập truyện ngắn, Nxb Trẻ TP Hồ
Chí Minh.
55. Đỗ Bình Trị (1999), "Những đặc điểm thi pháp của tục ngữ”, Những đặc
điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, H, trang
138- 163.
56. Hoàng Trinh (1990), "Tục ngữ Việt Nam và các hình thể ngôn từ”, Tạp
chí văn học, (số 5), trang 52- 59.
87
57. Vũ Anh Tuấn (2012), “Văn học dân gian”, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
58. Lê Công Tuấn (2005), “Về hiện tượng cải biên hay chơi chữ trong tục
ngữ”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống, (số 9), tr. 119.
59. Đỗ Minh Tuấn (1998), "Trí khôn ngoan ứng xử của người Việt trong tục
ngữ”, Tạp chí Nguồn sáng, (số 2), trang 12- 13.
60. Hoàng Tiến Tựu, (1990) "Tục ngữ"- Văn học dân gian, tập 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
61. Cù Đình Tú (1983), “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt ”, Nxb
ĐH và THCN .
88
PHỤ LỤC
BẢNG KHẢO SÁT THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC HỒ ANH THÁI