i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
PHẠM THỊ LUYẾN
THẾ GIỚI LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Luyến
iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà văn Vũ Hùng
và giảng viên hướng dẫn TS. Lê Thị Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Luyến
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... iii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
5. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
6. Bố cục ............................................................................................................ 5
7. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 6
NỘI DUNG ........................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ NHÀ VĂN VŨ
HÙNG ................................................................................................................... 7
1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam .................................................................... 7
1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi .................................... 7
1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu
nhi ở Việt Nam ............................................................................................. 10
1.2. Nhà văn Vũ Hùng – cuộc đời và sự nghiệp .............................................. 20
1.2.1 Cuộc đời nhà văn Vũ Hùng ................................................................. 20
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vũ Hùng .......................................... 23
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN KỲ THÚ VÀ NHỮNG BÀI HỌC CUỘC SỐNG
TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG 29
2.1. Tình yêu và cuộc sống .............................................................................. 29
2.1.1. Những trật tự rừng xanh ..................................................................... 29
2.1.2. Phong tục tập quán những vùng miền đi qua ..................................... 35
2.2. Đời sống của loài vật ................................................................................ 44
v
2.2.1. Bản năng sinh tồn ............................................................................... 44
2.2.2. Thế giới nội tâm ................................................................................. 49
2.3. Những triết lí mang bóng dáng con người ............................................................ 65
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC
VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG ............................................ 73
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật .......................................................... 73
3.1.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 73
3.1.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 83
3.2. Phương thức xây dựng nhân vật ............................................................... 99
3.2.1. Cách đặt tên các nhân vật loài vật ...................................................... 99
3.2.2. Xây dựng chân dung nhân vật loài vật ............................................. 102
3.3. Giọng điệu ............................................................................................... 105
3.3.1. Giọng điệu triết lí, suy tư ................................................................. 105
3.3.2. Giọng điệu trữ tình ........................................................................... 111
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 120
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học thiếu nhi là một bộ phận thiết yếu của nền văn học Việt Nam
nói riêng và văn học thế giới nói chung. Với vai trò trong việc nuôi dưỡng tâm
hồn và định hình nhân cách cho trẻ thơ, văn học thiếu nhi ngày càng trở nên
quan trọng. Nằm trong văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật luôn là đề tài
thu hút và gây ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc nói chung và trẻ em nói riêng.
Mảng đề tài truyện viết về loài vật có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển
đa dạng và phong phú của văn học thiếu nhi. Tâm hồn trẻ thơ luôn hướng tới
những điều kì diệu và huyền bí. Chính vì lẽ đó, chúng luôn cảm thấy thích thú
trước sự mới mẻ. Như Hwang – sun – mi – nhà văn Hàn Quốc nổi tiếng về
truyện thiếu nhi đã từng chia sẻ: “Loài vật gần gũi, thân thuộc với trẻ nhỏ
nhưng cũng lại là một thế giới bí mật mà các em muốn khám phá... Những cảm
xúc, tình yêu thương và ứng xử trong cộng đồng loài vật luôn có nét tương đồng
với con người. Động vật nếu biết cách khai thác luôn có thể truyền tải những
cảm xúc rất mạnh mẽ...”.[57]. Thiên nhiên kỳ ảo với những loài vật sống động
là điểm sáng để phát triển trí tưởng tượng và thu hút khả năng tìm tòi, khám phá
của trẻ thơ.
1.2. Trong quá trình phát triển, Văn học thiếu nhi xuất hiện với nhiều nhà
văn tên tuổi như: Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Hổ, Võ Quảng... Mỗi nhà văn mang
cho mình những đề tài, đối tượng và phương thức phản ánh riêng. Nếu như
Nguyễn Nhật Ánh được coi là “Hoàng tử bé” trong thế giới trẻ thơ với bức
tranh đa màu sắc của tình yêu thương và gắn bó nghĩa tình; Phạm Hổ là những
vần thơ tươi mát, trẻ trung cùng nhiều yếu tố bất ngờ, ngộ nghĩnh; Võ Quảng
với hồn thơ sôi động và mang ý nghĩ giáo dục mạnh mẽ, thì văn chương Vũ
Hùng là những chiêm nghiệm và triết lí….
1.3. Nhưng xét về mặt nhu cầu của trẻ thơ và những gì văn học đã dành cho
lứa tuổi thần tiên này, trong bối cảnh xã hội và văn học hiện nay, văn học viết
cho thiếu nhi nói chung và truyện viết về loài vật nói riêng hầu như chưa được
sự quan tâm và đầu tư đúng như nó cần phải có. Các cây bút dường như ít để
2
tâm đến thế giới trẻ thơ đầy màu sắc. Chính vì lẽ đó, văn học thiếu nhi với mảng
đề tài loài vật đã và đang để lại nhiều khoảng trống cần lấp đầy.
1.4. Nhà văn Vũ Hùng với những tác phẩm văn học thiếu nhi nổi danh từ
những năm 60 của thế kỷ XX đã và đang hấp dẫn được thế hệ trẻ thơ bằng
những hình ảnh về thế giới thiên nhiên vừa kỳ ảo vừa chân thực nhưng lại làm
lay động trái tim con người. Một khoảng trời lung linh, rực rỡ sắc màu với cuộc
sống sôi động và náo nhiệt của thiên nhiên, muôn thú. Qua những tác phẩm của
mình, nhà văn Vũ Hùng đã tạo cho độc giả thiếu nhi nói riêng và chúng ta nói
chung hiểu biết thêm về một thời thiên nhiên, đất nước tươi đẹp và hiền hòa.
Trong bối cảnh văn học hiện nay, những trang văn của Vũ Hùng dành cho thiếu
nhi thật đáng trân trọng.
1.5. Bằng tâm huyết và tình cảm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã gắn bó và
dành cho thiếu nhi những tác phẩm mang dấu ấn riêng. Việc đánh giá và ghi
nhận vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi
nói riêng là thực sự cần thiết. Nó không chỉ ghi nhận vị trí của Vũ Hùng trong
dòng văn học dành cho thiếu nhi, mà còn làm rõ hơn những tâm tư nguyện vọng
của trẻ thơ qua sự say mê tác phẩm của ông để tìm ra những hướng tiếp cận đối
tượng đặc biệt này của văn học. Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định triển
khai đề tài nghiên cứu: Thế giới loài vật trong truyện viết cho thiếu nhi của
nhà văn Vũ Hùng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhà văn Vũ Hùng và các tác phẩm của ông đã được các nhà nghiên cứu,
phê bình văn học quan tâm:
- Bài “Nguyễn Thị Châu Giang xúc động khi đọc sách Vũ Hùng”của nhà báo
Dương Vân. Bà Nguyễn Thị Châu Giang là người biên soạn trực tiếp cho bộ
truyện của nhà văn Vũ Hùng. Bà nhận xét: “Càng đọc, tôi càng bất ngờ. Từng
trang sách dẫn tôi vào một thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn. Văn phong của
ông nhẹ nhàng, bảng lảng chuyển tải được lối sống gần gũi, giao hòa giữa con
người và tự nhiên. Đó là lối sống chậm, tuy có khi khó khăn vất vả nhưng rất
bình yên, sâu sắc. Tôi nghĩ nếu các đầu sách này đến được với bạn đọc nhỏ
tuổi hôm nay sẽ góp phần giúp ích cho các em rất nhiều trong việc hình thành
3
trí tưởng tượng, óc sáng tạo, hình thành tư duy ngôn ngữ, cũng như giữ gìn
một tâm hồn đẹp”[58]
- Bài “Nhà văn Vũ Hùng ẩn sau thiên nhiên là những bài học cuộc đời” đăng
trên báo An ninh thủ đô ngày 26/9/2015 của nhà báo Mai Anh đã khẳng định:
“Vũ Hùng là một con người với trái tim nhân ái, đôn hậu và có tình yêu sâu sắc
với thiên nhiên”. Bà cũng dẫn lời nhận xét của nhà nghiên cứu Vân Thanh:
“truyện của Vũ Hùng hấp dẫn thiếu nhi vì ông đã tạo nên cả thế giới vừa kỳ ảo,
vừa rất thực, đủ sức lay động trái tim của độc giả. Còn nhà báo Nguyễn Như
Mai thì cho rằng, đọc sách Vũ Hùng thấy cả một thế giới động vật cựa quậy,
sống động trong đó”[59]. Và ẩn sau thế giới của muông thú, những bầy hươu
nai, bầy voi, những con bò tót hùng dũng, lũ báo gấm uyển chuyển… là cả
những bài học sâu sắc của cuộc đời, dạy trẻ em yêu thiên nhiên, yêu quê hương
và yêu đất nước.
- Bài “Vũ Hùng: Nhà văn của rừng – thiên nhiên – muôn thú” của nhà báo Tân
An đã đưa ra các nhận xét của một số nhà văn: Trần Đức Tiến, Nguyễn Như
Mai, Trần Quốc Toản, Vương Trí Nhàn. Tất cả các lời nhận xét đều khẳng định
Vũ Hùng là một nhà văn có một vị trí đặc biệt trong mảng văn học thiếu nhi.
- Bài “Những bài học cuộc sống qua thiên nhiên trong các tác phẩm của nhà
văn Vũ Hùng” của nhà văn Tuyết Loan đăng trên báo Nhân dân ngày 28/9/2015
cũng đưa ra nhiều ý kiến đánh giá của các nhà văn về Vũ Hùng. Nhà văn Viết
Linh đánh giá cao sự hiểu biết của Vũ Hùng về phong tục của nhiều dân tộc, về
tập tính và cuộc sống thiên nhiên nhiều loài thú. Nhà văn Hà Phạm Phú nhận
xét: “Cuốn sách đầu tiên của Vũ Hùng mà tôi được đọc là “Mùa săn chim”, và
tôi đã có ấn tượng rất mạnh mẽ. Cách viết về thiên nhiên, về con vật trong các
tác phẩm của ông rất tinh tế và luôn có những bài học sâu sắc”[61]. Bà Lê Thị
Dắt, nguyên Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng chỉ ra bài học về tình yêu
thiên nhiên, đất nước đối với thiếu nhi qua những tác phẩm về muông thú của
nhà văn Vũ Hùng. Nhà văn Lê Phương Liên đưa ra một nét đặc biệt của Vũ
Hùng: để cho nhân vật của mình có cái nhìn trẻ em trong một môi trường người
lớn với cách kể chuyện rất bình dị nhưng rất hấp dẫn.
- Bài “Nhà văn Vũ Hùng – Người lưu giữ ký ức thiên nhiên Việt Nam” đăng trên
tạp chí Văn nghệ ngày 30/9/2015của nhà báo Phi Hà đã khẳng định rằng chính
4
những năm tháng sống tại đất nước Lào đã cho nhà văn Vũ Hùng những trải
nghiệm thực tế và vốn sống dồi dào để viết nên được những tác phẩm về thiên
nhiên, loài vật có giá trị sâu sắc.
- Bài “Tượng đài văn học thiếu nhi Vũ Hùng tái xuất” của nhà báo Tiểu Quyên
đăng trên báo Phụ Nữ online ngày 19/3/2015 đã chỉ ra bằng việc quan sát thiên
nhiên và tiếp cận thường xuyên với nhiều loài động vật nơi hoang dã, nhà văn
Vũ Hùng đã có được những câu chuyện về loài vật đầy sức cuốn hút.
- Bài “Nhà văn Vũ Hùng - Người kể chuyện thiên nhiên và muôn thú” đăng trên
báo Đại đoàn kết ngày 6/10/2015 của nhà báo Thư Hoàng, bài “Thiên nhiên bí
ẩn và kỳ thú qua trang sách của nhà văn Vũ Hùng”của báo Tin tức đăng ngày
24/9/2015 của nhà báo Mỹ Bình cũng đã đề cập tới vấn đề về tình yêu thiên
nhiên của nhà văn Vũ Hùng, lòng nhân ái và cuộc sống bình dị .
Các bài viết trên đưa ra nhiều ý kiến đánh giá tác phẩm của nhà văn Vũ
Hùng mới chỉ ở góc độ sơ lược về thiên nhiên và thế giới động vật mà chưa
thành hệ thống và chưa có cái nhìn tổng thể về sự nghiệp sáng tác cũng như nét
riêng trong mảng truyện viết về thế giới loài vật của nhà văn Vũ Hùng so với
các nhà văn khác. Tuy nhiên, đây là những ý kiến hết sức quí giá của những nhà
văn, nhà nghiên cứu, giúp cho tác giả đề tài có thêm sự định hướng trong quá
trình nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về thế giới loài vật trong sáng tác của nhà văn
Vũ Hùng và những triết lý cuộc sống được ông gửi qua những hình tượng nhân
vật đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Những tác phẩm đã xuất bản của nhà văn Vũ Hùng:
- Chú ngựa đồng cỏ, Nxb Kim Đồng, 2015
- Giữ lấy bầu mật, Nxb Kim Đồng, 2015
- Mái nhà xưa, Nxb Kim Đồng, 2015
- Bầy voi đen, Nxb Kim Đồng, 2015
- Con culi của tôi, Nxb Kim Đồng, 2015
- Sao sao, Nxb Kim Đồng, 2015
5
- Sống giữa bầy voi, Nxb Kim Đồng, 2015
- Con voi xa đàn, Nxb Kim Đồng, 2015
- Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Nxb Kim Đồng, 2015
- Những kẻ lưu lạc, Nxb Kim Đồng, 2015
- Biển bạc, Nxb Kim Đồng, 2015
- Các bạn của Đam Đam, Nxb Kim Đồng, 2015
- Phía Tây Trường Sơn, Nxb Kim Đồng, 2015
- Chim mùa, Nxb Kim Đồng, 2015
- Bí mật của rừng già, Nxb Kim Đồng, 2015
- Mùa săn trên núi, Nxb Kim Đồng, 2015
- Phượng hoàng đất Nxb Kim Đồng, 2015
- Vườn chim, Nxb Kim Đồng, 2015
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên việc phân tích các văn bản và từ
các ý kiến nhận xét để tổng hợp và đưa ra nhận định về từng vấn đề.
- Phương pháp liên ngành (Văn học – Văn hóa học): để thấy được tính liên
kết giữa văn học và đời sống thực tiễn.
- Thao tác nghiên cứu tài liệu, giải thích, bình giảng, phân tích để khám phá
vẻ đẹp và ý nghĩa của các tác phẩm.
5. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu như trên, luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu
sau đây:
- Tìm hiểu về văn học thiếu nhi nói chung, truyện viết về thế giới loài vật
nói riêng và quá trình sáng tác của nhà văn Vũ Hùng
- Chỉ ra được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật mà nhà văn Vũ
Hùng đưa ra trong tác phẩm của mình.
Trên cơ sở đó, đánh giá và khẳng định những đóng góp của ông trong nền
văn học nước nhà. Đặc biệt là văn học thiếu nhi với mảng đề tài truyện viết về
loài vật.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái lược về văn học thiếu nhi và nhà văn Vũ Hùng
6
Chương 2: Thiên nhiên kỳ thú và những bài học cuộc sống trong các tác phẩm
viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng
Chương 3: Những đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác viết cho thiếu nhi của nhà văn
Vũ Hùng
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài chỉ ra những đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong truyện viết về loài
vật của nhà văn Vũ Hùng. Từ những tìm hiểu về sự thành công của Vũ Hùng
trong dòng văn học này, tìm ra những hướng tiếp cận của văn chương dành cho
đối tượng thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần làm tư liệu
tham khảo cho việc tìm hiểu về văn học thiếu nhi và mảng đề tài truyện loài vật.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI
VÀ NHÀ VĂN VŨ HÙNG
1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam
1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn học thiếu nhi được hiểu là: “Theo
nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa
học dành cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao
gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường cho người lớn
đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi”[12;385]. Ở đây, khái niệm văn học thiếu
nhi được đưa ra một các mơ hồ, mới chỉ xác định được đối tượng đó là thiếu nhi.
Theo cuốn Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam do hai tác giả
Vân Thanh và Nguyên An biên soạn, văn học thiếu nhi được hiểu như sau:
“Văn học thiếu nhi bao gồm:
- Những tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo
dục bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là
thiếu nhi và nhiều khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay
một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các
em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.
- Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm
thấy ở trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách
nghĩ cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở
trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích
lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong quá trình hoàn thiện tính cách của
mình. Như thế, văn học thiếu nhi là người bạn thông minh, mẫn cảm của thiếu
nhi [49;68]. Theo cách hiểu này, đối tượng của văn học thiếu nhi cũng đã được
xác định và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo dục, bồi dưỡng, định hướng
cho các em thiếu nhi. Người sáng tác văn học thiếu nhi là các nhà văn thuộc
mọi lứa tuổi.
Trong chuyên luận Thi pháp văn học thiếu nhi (2007), Bùi Thanh Truyền
cho rằng, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là
thiếu nhi hoặc được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, với tất cả những xúc cảm, tình
8
cảm mãnh liệt, tinh tế, ngây thơ, hồn nhiên. Tác giả đã nhận định nhân vật trung
tâm trong văn học thiếu nhi là trẻ em và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo
dục, bồi dưỡng và hoàn thiện tính cách. Vậy hai khía cạnh mà ông chỉ ra đó là
thẩm mỹ và giáo dục.
Vậy qua rất nhiều định nghĩa về văn học thiếu nhi, chúng ta có thể rút ra
được những đặc điểm chung như sau: Đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi
đó là trẻ em, đối tượng sáng tác là người lớn và trẻ em, mục đích sáng tác là giáo
dục, nuôi dưỡng tâm hồn, định hình tính cách cho trẻ em, điểm nhìn trần thuật là
điểm nhìn của thiếu nhi, thành phần bao gồm văn học viết cho thiếu nhi văn học
dành cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi hoặc văn học được thiếu nhi lựa chọn. Văn
học thiếu nhi đa dạng về thể loại và nội dung, nó cũng mang đầy đủ những đặc
điểm của sáng tác nghệ thuật ngôn từ và thực hiện các chức năng chung của văn
học. Do đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi chủ yếu là trẻ em nên nó có
những đặc trưng riêng dành cho trẻ em. Những đặc trưng này được quy định bởi
lứa tuổi trẻ em. Tổng hợp tài liệu ở các nguồn khác nhau, một là Giáo trình Văn
học hiện đại Việt Nam do tác giả Nguyễn Văn Long chủ biên, hai là bài viết Đặc
trưng của văn học cho thiếu nhi từ góc độ tiếp nhận (trích từ sách Văn học cho
thiếu nhi của hai tác giả Châu Minh Thùy và Lê Nhật Ký), ba là Giáo trình văn
học thiếu nhi của tác giả Lã Thị Bắc Lý, bốn là “Văn học thiếu nhi và những yêu
cầu đổi mới của sinh viên cao đẳng sư phạm”, chúng tôi xin tổng hợp đưa ra các
đặc trưng cơ bản nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam như sau:
- Sáng tác cho trẻ em phải được “nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ” phải xuất
phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên và trí tưởng tượng mãnh liệt của
trẻ em.
- Văn học thiếu nhi là tác phẩm mà các em “thấy” mình trong đó hoặc
“nói hộ mình”. Cách viết và cái hồn trong từng lời văn, từng câu thơ mới là nhịp
cầu thực sự để các em bước vào tác phẩm, bước vào thế giới của chính mình.
Phải viết bằng ngôn ngữ của các em thì các em mới dễ hiểu, dễ thuộc và ghi nhớ
lâu bền.
- Văn học thiếu nhi “có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện
nhân cách trẻ em về cả đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ”. Chính vì lẽ đó,
Văn học thiếu nhi không chỉ xây dựng nhân cách, nâng cao trí tuệ, tình cảm
9
thẩm mĩ mà còn giáo dục thiếu nhi về tư tưởng, rèn luyện lập trường kiên định,
vững chắc thông qua các câu truyện từ đời sống xã hội.
- Văn học thiếu nhi mang tính định hướng. Đời sống xã hội, tự nhiên là
tất cả những gì mới mẻ đối với trẻ em. Vì tâm lý các em về cơ bản là rất yêu cái
đẹp, cái tốt, cái thực nên các nhà văn cần nắm bắt tâm lí của các em để định
hướng các em thỏa mãn nhu cầu khám phá của mình một các tự nhiên nhất. Tâm
hồn trẻ thơ sẽ được gây ấn tượng bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị
nhân văn từ đó tác động đến nhận thức, tư tưởng và quan điểm của trẻ em.
- Bắt nguồn từ bản chất ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ em, văn học thiếu
nhi không thể thiếu đặc trưng về sự hồn nhiên, vô tư và trong sáng. Đặc tính này
tồn tại vĩnh cửu trong thế giới trẻ thơ, nếu mất đi trẻ thơ không còn là trẻ thơ
nữa. Những tác phẩm thơ, truyện do chính các em sáng tác bao giờ cũng thể
hiện những xúc cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo,…như chính bản tính của
trẻ thơ.
- Trẻ em nào cũng thơ mộng và lãng mạn. Đó là thiên tính rõ nét nhất của
lứa tuổi từ ấu thơ cho đến lúc thành niên. Chính vì vậy, Văn học Thiếu nhi sẽ
phản ánh đặc tính thơ mộng và lãng mạn đó của trẻ em một cách gần gũi với
hiện thực nhất.
- Một đặc trưng quan trọng đối với văn học thiếu nhi là tính li kỳ, ấn
tượng bởi trẻ em rất thích tìm tòi, khám phá, hiếu kì và phiêu lưu. M.Gorki đã
từng nhận định “bản chất của trẻ em là đặc biệt yêu thích những cái gì chói lọi,
phi thường”. Dưới con mắt trẻ thơ, chúng luôn yêu thích và muốn khám phá
những điều mới lạ. Văn học thiếu nhi mang tính li kỳ và ấn tượng sẽ rèn luyện
cho trẻ em khả năng tìm tòi và phát hiện cái mới. Đồng thời kích thích trí tưởng
tượng của trẻ thơ, đưa trẻ thơ đến với thế giới nhiều màu sắc của chân - thiện –
mĩ và nhiều ý nghĩa.
- Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Vì vậy tiếp xúc với văn học thiếu nhi, trẻ em sẽ được học tập một lượng ngôn
ngữ dồi dào. Từ đó các em sẽ hình thành và phát triển khả năng diễn đạt của
mình theo hướng tự hoàn chỉnh.
- Để có sức lôi cuốn và hấp dẫn trẻ em, Văn học thiếu nhi phải mang đậm chất
thơ và truyện. Những điều kì lạ sẽ có sức cảm hóa các em bởi chất thơ lấp lánh
10
và chất truyện thu hút. Tâm hồn, tình cảm, ước mơ và khát vọng của các em sẽ
được bồi dưỡng từng ngày theo tính thơ và tính truyện trong mỗi tác phẩm.
- Văn học thiếu nhi phải có tính hài hước, dí dỏm. Mỗi một tác phẩm viết cho
các em đều chứa đựng những tiếng cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và
trong sáng.
- Văn học thiếu nhi phải ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu. Nếu như thơ, văn viết
cho người lớn thường hướng tới cái gì đó cao xa, trừu tượng thì thơ, văn viết cho
trẻ em phải ngắn gọn, súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể
hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Trong
văn xuôi thường sử dụng những câu đơn, ngắn, vừa sức với khả năng tiếp nhận
của trẻ nhỏ; còn trong thơ, các nhà văn thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5
chữ, rất gần với đồng dao, vui nhộn, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dễ nhớ.
- Văn học thiếu nhi phải giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu. Những hình ảnh
đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh
động và có sức lôi cuốn, hấp dẫn các em.
Với các tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã đưa đến cho thiếu nhi
những tác phẩm có giá trị sâu sắc, đúng với những đặc trưng cơ bản của văn
học thiếu nhi. Qua đó giáo dục, định hướng phát triển tâm hồn và nhân cách
của trẻ thơ.
1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu
nhi ở Việt Nam
1.1.2.1. Thực trạng văn học thiếu nhi
Đối với mọi dân tộc, văn học thiếu nhi luôn là một bộ phận không thể
thiếu của văn học dân tộc. Trải qua thời gian, bộ phận văn học này dần dần thay
đổi toàn diện về cả nội dung lẫn hình thức. Theo nhà nghiên cứu Bùi Thanh
Tuyền có dẫn: “Văn học hiện đại viết cho thiếu nhi Việt Nam bắt đầu manh nha
từ những năm 20 của thế kỷ XX nhưng thực sự phát triển và trở thành một bộ
phận của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình
văn học thiếu nhi hiện đại có thể phân chia thành các giai đoạn chính sau đây:
- Trong những ngày đầu cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống
Pháp, lực lượng viết cho các em mới chỉ có một số nhà văn chuyên nghiệp thỉnh
11
thoảng có sách cho thiếu nhi như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn
Tuân...
- Từ năm 1954, đội ngũ viết cho thiếu nhi ngày càng phát triển nhanh... Đây là
chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam”. Có thể nói rằng,
cùng với sự thay đổi của điều kiện xã hội, văn học thiếu nhi cũng có những khởi
sắc mới mẻ và đạt được nhiều thành tựa to lớn.”. [55;42]
Các nhà nghiên cứu khoa học khác cũng khẳng định, văn học thiếu nhi manh
nha từ những năm trước cách mạng tháng Tám: “Văn học trẻ em Việt Nam thực sự
được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ
khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhưng sự chuẩn bị thì có từ trước đó”
[23;38]. Dựa vào các tài liệu tham khảo tìm hiểu được, văn học thiếu nhi chia làm
các giai đoạn sau đây:
a. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Đây là giai đoạn manh nha của văn học thiếu nhi. Trước khi có chữ quốc ngữ,
văn học dân gian có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển tâm lí của trẻ em. Những câu
truyện thần thoại, cổ tích như: Tấm Cám, Cây khế, Thạch Sanh... đã đưa trẻ thơ đến
với một thế giới tưởng tượng giàu sắc màu và lý thú. Bên cạnh đó, những lời hát ru
của mẹ cũng góp phần không nhỏ để nuôi dưỡng tâm hồn thế hệ thiếu nhi. Sau khi
chữ quốc ngữ ra đời và được sử dụng rộng rãi, văn học thiếu nhi có điều kiện để phát
triển:“Từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. Những
cuốn sách đầu tiên thuộc loại này là những cuốn sách có nội dung khoa giáo và đạo
lí: Sách học vần, sách bách khoa, sách về các quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện
ở Châu Âu thế kỷ XIV – XVI và đặc biệt phát triển ở thời khai sáng. Tính giáo huấn
được người ta coi là những đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho
đến giữa thế kỷ XIX, những tác phẩm viết dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài
phạm vi của văn học. Trong khi đó, những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại
đi vào phạm vi đọc của trẻ em, nhất là loại truyện viết theo các môtip dân gian, loại
cổ tích, một số tiểu thuyết và truyện thuộc thể loại phiêu lưu” [55;58]. Nhà nghiên
cứu Lã Thị Bắc Lý cũng khẳng định rằng, trong chế độ phong kiến, nước ta chưa có
sáng tác văn học dành cho thiếu nhi. Mãi đến đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân
phong kiến, qua những cuộc cách tân văn học theo xu hướng hiện đại hóa, văn học
cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Một số tác phẩm văn học nước ngoài được dịch
12
ra tiếng Việt như: Thơ ngụ ngôn của La Phôngten, truyện ngắn Peron... trong
nước cũng bắt đầu xuất hiện một vài tác phẩm như: Lên sáu, Lên tám (Tả Đà),
Đông Tây ngụ ngôn; Nhi đồng lạc viên (Nguyễn Văn Ngọc)... Những cuốn sách
này đều đưa ra những đạo lí làm người và định hướng nhân cách cho trẻ em. Đến
những năm 30 của thế kỷ XX, hai khuynh hướng văn học viết cho trẻ em được hình
thành. Thứ nhất là nhóm của Tự lực văn đoàn với các loại sách: Hoa hồng, Hoa
mai, Hoa xuân... nhưng những tác phẩm này gặp nhiều hạn chế trong phạm vi phản
ánh và xa rời thực tế. Thứ hai là nhóm hiện thực với các tác giả tiêu biểu: Nguyễn
Công Hoan, Tô Hoài, Tú Mỡ, Nam Cao... với các tác phẩm như: Tấm lòng vàng của
Nguyễn Công Hoan; Đám cưới chuột, Võ sĩ bọ ngựa, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô
Hoài; Người thợ rèn, Bài học quét nhà của Nam Cao... Nhóm hai đã có ý thức viết
cho trẻ em những tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nhìn chung, trước cách
mạng tháng Tám, các tác phẩm viết cho thiếu nhi mới xuất hiện tản mạn, lẻ tẻ và
chưa có phong trào. Nền văn học thiếu chi lúc này chưa được hình thành mà mới chỉ
đang ở những bước sơ khai ban đầu.
b. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
Văn học thiếu nhi được quan tâm phát triển từ sau khi cách mạng tháng
Tám thành công. Đảng và nhà nước đã định hướng cho văn học thiếu nhi đạt
được những thành tựu đầu tiên. Trong tờ Thiếu sinh – tiền thân của báo Thiếu
niên tiền phong, ra số đầu tiên vào 1946, bác Hồ đã chỉ đạo rõ: “Báo trẻ em ra
đời, báo đó là của trẻ em. Vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi tin tức, tranh vẽ
và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho báo
phát triển”. Tháng 12/1946, số báo đặc biệt của báo Thiếu sinh ra đời với chủ đề
“Các em viết, các em vẽ”. Tờ báo này đã đánh dấu một dấu mốc quan trọng cho
lịch sử của văn học thiếu nhi Việt Nam. Bắt đầu từ đây, trẻ em đã có tờ báo dành
riêng cho mình. Tiếp theo đó là sự ra đời của một số tờ báo khác như: Thiếu
niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non, sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến...
những người bạn mới nhưng thân thiết của các em nhỏ, góp phần bồi dưỡng, rèn
luyện và giáo dục tư tưởng, tình cảm, vốn sống, đức tính và nhân cách cho thiếu
nhi. Với một nền văn học thiếu nhi non trẻ, sự ra đời của những tờ báo dành cho
trẻ em có giá trị to lớn. Trong giai đoạn văn học thiếu nhi vẫn còn thô sơ và ít ỏi,
nội dung chủ yếu hướng đến tấm gương thiếu nhi dũng cảm trong kháng chiến.
13
Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu như: Khen tặng hai cháu liên lạc trong
bộ đội chiến khu II (1947); Thư Trung thu (1952), Gửi các cháu nhi đồng
nhân dịp tết Trung thu (1953) của chủ tịch Hồ Chí Minh; Chiến sĩ canô của
Nguyễn Huy Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân cầu Mây của Nguyên
Hồng; Đời em đến của Đỗ Cao Đáng; Phác Kim Tố của Nguyễn Xuân Sanh…
Gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình phát triển nhưng giai đoạn này là chặng
đường mở đầu quan trọng và ý nghĩa đồng thời khẳng định văn học thiếu nhi sẽ
phát triển vượt bậc trong giai đoạn tiếp theo.
c. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955 – 1964)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc tiến vào thời
kì khôi phục kinh tế, hàn gắn viết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa Xã
hội, miền Nam thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống lại đến quốc
Mỹ và tay sai. Miền Bắc được hòa bình, đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển văn học thiếu nhi nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Một tiểu
ban Văn học thiếu nhi trong Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật được thành lập.
Ngày 17/6/1957, nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập. Chính điều đó đã mở
ra bước ngoặt mới cho văn học thiếu nhi. Đội ngũ sáng tác có chỗ dựa về tinh
thần. Vấn đề sáng tác các tác phẩm giá trị cho thiếu nhi cũng được quan tâm. Từ
đây, đã xuất hiện những tác phẩm văn học có giá trị như: Đất rừng phương
Nam của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía của Bắc Thôn, Em bé bên
bờ sông Lai Vu của Vũ Cao, Cái Thăng của Võ Quảng, Vừ A Dính của Tô
Hoài… Đội ngũ sáng tác lẫn số lượng tác phẩm viết cho các em cũng đông đảo
hơn, phong phú hơn. Bên cạnh đề tài kháng chiến, đề tài lịch sử (Lá cờ thêu sáu
chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng, Sóng gió Bạch Đằng – An Cương, Quận He
khởi nghĩa – Hà Ân,…) các tác giả còn khai thác đề tài sinh hoạt, lao động, học
tập (Ngày công đầu tiên của cu Tí – Bùi Hiển, Những mẩu chuyện về bé Ly –
Bùi Minh Quốc, Đàn chim gáy – Tô Hoài…). Trong thời kì này, đội ngũ nhà
thơ viết cho các em rất hùng hậu, đặc biệt là Võ Quảng và Phạm Hổ. Nhìn
chung, trong thời kì này, văn học thiếu nhi Việt Nam đã phát triển khá toàn diện
và phong phú. Vào năm 1961, tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi lần đầu xuất bản.
Đó là tín hiệu mừng, báo hiệu sự khởi sắc của văn học thiếu nhi nước nhà. Số
lượng các tác phẩm ngày càng phong phú với các đề tài đa dạng:
14
+ Đề tài lịch sử: Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Kể chuyện Quang Trung
của Nguyễn Huy Tưởng; Sóng gió Bạch Đằng và Bố cái đại vương của An
Cương; Nhụy Kiều tướng quân của Yến Hồng, Hoài Ban...
+ Đề tài sinh hoạt, lao động, học tập: Đàn chim gáy của Tô Hoài; Nơi xa
của Văn Linh; Tổ tâm giao của Trần Thanh Địch; Ngày công đầu tiên của cu Tí
của Bùi Hiển...
+ Truyện đồng thoại: Cái tết của Mèo con của Nguyễn Đình Thi; Chú đất
nung của Nguyễn Kiên; Bê và sáo của Phạm Hổ...
Ngoài ra, một đội ngũ hùng hậu về thơ thiếu nhi cũng xuất hiện: Vũ Ngọc
Bình, Huy Cận, Nguyễn Bá Dậu, Thanh Hải, Tế Hanh, Thái Hoàng Linh, Võ
Quảng, Xuân Tửu, Nhược Thủy, Phương Hoa... Năm 1961, Nhà xuất bản văn
học cho ra đời Tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi 1945 – 1960 tuyển chọn và giới
thiệu 50 tác giả tiêu biểu, xuất sắc.
d. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975)
Trong bối cảnh đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng máy bay, văn học thiếu nhi bước vào chặng đường mới và phát triển mạnh
mẽ. Nhiều cây bút tài năng và các tác phẩm có giá trị xuất hiện nhằm mục đích
biểu dương, khích lệ, cổ vũ tinh thần học tập và chiến đấu của thiếu nhi. Các đề
tài không chỉ gói gọn như ở giai đoạn trước mà mở rộng và phong phú hơn.
- Đề tài kháng chiến chống Pháp: Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của
Xuân Sách; Quê nội của Võ Quảng; Kim Đồng của Tô Hoài...
- Đề tài kháng chiến chống Mỹ: Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng
nhà của Nguyễn Thi; Chú bé Cả Xên của Minh Khoa; Đàm Văn Luyện của
Phạm Hổ; Út Tám của Ngô Thông; Em bé sông Yên của Vũ Cận...
- Đề tài lịch sử: Sát Thát của Lê Văn, Nguyễn Bích; Trăng nước Chương
Dương của Hà Ân...
- Đề tài cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động: Chú bé sợ toán của Hải
Hồ; Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan; Năm thứ nhất của Minh Giang;
Những tia nắng đầu tiên của Lê Phương Liên; Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị
Như Trang; Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh Tú...
15
- Đề tài nông thôn: Cơn bão số bốn của Nguyễn Quỳnh; Xã viên mới của
Minh Giang; Những cô tiên áo nâu của Hoàng Anh Đường; Kể chuyện nông
thôn của Nguyễn Kiên; Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài...
- Truyện đồng thoại: Chú gà trống choai của Hải Hồ; Cô bé 20 của Văn
Biển...
- Mảng sách khoa học: Ông than đá và quả trứng vuông của Viết Linh;
Thảm xanh trên ruộng của Thế Dũng; Bí mật một khu rừng của Hoàng Bình
Trọng...
- Thơ cho trẻ em cũng tiếp tục phát triển mạnh mẽ với các tác giả mới
như: Đinh Hải, Xuân Quỳnh, Ngô Viết Dinh, Trần Nguyên Đào...
e. Thời kỳ đất nước thống nhất và đổi mới (sau năm 1975)
Xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới có nhiều tác động lớn đến văn học
thiếu nhi. Toàn Đảng toàn dân bắt tay xây dựng lại đất nước. Ở giai đoạn này,
văn học thiếu nhi phát triển mạnh mẽ và phong phú, đặc biệt từ dấu mốc năm
1986 khi Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam kêu gọi “cởi trói” đã
tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Qua
mỗi giai đoạn phát triển, văn học thiếu nhi có những đặc trưng riêng nhưng luôn
kế thừa những thành tựa ở giai đoạn trước. Trong giai đoạn 1975 – 1985, văn
học thiếu nhi với những kiếm tìm và chuẩn bị cho sự đổi mới. Đề tài kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống Mĩ vẫn chiếm ưu thế: Quê nội của Võ
Quảng; Cơn giông tố của Thu Bồn; Đội thiếu niên tình báo Bát Sát của Phạm
Thắng, Hồi đó ở Sa Kì của Bùi Minh Quốc; Cát cháy của Thanh Quế... Bên
cạnh đó, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú trọng đế vấn đề
đạo đức con người. Một số tác phẩm như: Tình thương của Phạm Hổ; Bến tàu
trong thành phố của Xuân Quỳnh; Chú bé có tài mở khóa của Nguyễn Quang
Thân; Hành trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương...
Đề tài lịch sử ở giai đoạn trước thường khai thác lịch sử gắn với nhân vật
anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm nay được nhà văn Tô
Hoài mở ra một hướng nghiên cứu mới là hướng khai thác lịch sử gắn với huyền
thoại, phong tục, tập quán. Về thơ, giai đoạn này gần như bế tắc khi không tìm
được hướng đi mới. Bước sáng giai đoạn năm 1986 đến nơi, nhiều cây bút trẻ
xuất hiện: Trần Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn
16
Nhật Ánh, Hà Lâm Kì, Quách Liêu, Phan Hồn Nhiên, Phùng Ngọc Hùng,
Trương Hữu Lợi, Dương Thuấn, Mai Văn Hai, Thu Trân, Quế Hương, Nguyễn
Thị Châu Giang, Nguyễn Thúy Loan... Văn học thiếu nhi giai đoạn này thực sự
mang bộ mặt trẻ trung, tươi tắn, đầy sức sống và nhiệt huyết. Bên cạnh đó, làm
phong phú thêm cho đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi chính là các em thiếu
nhi. Có thể nói, đây là giai đoạn phát triển hùng hậu về đội ngũ sáng tác cũng
như đề tài sáng tác. Các tác phẩm văn học thiếu nhi với hướng tiếp cận mới mẻ,
sáng tạo và ngày càng đi sâu vào đời sống nội tâm của trẻ em.
+ Đề tài cách mạng và kháng chiến bên cạnh việc kế thừa và phát huy các
thành tựu cũ còn nhìn nhận và khai thác vấn đề ở chiều sâu mới, thực hơn, toàn
diện hơn. Ý nghĩa nhân văn của các tác phẩm hướng đến đời sống tinh thần và
nhân cách của con người. Chiến tranh qua đi, ý thức về cái tôi bên cạnh việc đổi
mới tư duy của Đảng cộng sản. Văn học từ chỗ lấy điểm nhìn xã hội làm hệ quy
chiếu chuyển sang cái nhìn đời tư, thế sự, số phận con người để đánh giá hiện
thực. Một số tác phẩm tiêu biểu: Tuổi thơ im lặng của Duy Khán; Dòng sông
thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng; Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán; Đường về
với mẹ chữ của Vi Hồng; Bà và cháu của Đặng Thị Hạnh; Miền xanh thẳm của
Trần Hoài Dương; Tiếng vọng tuổi thơ của Vũ Bão...
Trong giai đoạn này, mối quan tâm của các tác giả là trẻ em trong quan hệ
gia đình. Hàng loạt các tác phẩm ra đời: Út Quyên và tôi, Em gái của Nguyễn
Nhật Ánh; Năm đêm với bé Su của Nguyễn Thị Minh Ngọc; Kẻ thù của Quế
Hương, Chị của Cao Xuân Sơn, Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn; Mảnh vỡ
của Lê Cảnh Nhạc; Ngày xưa của Trần Thiên Hương; Nhà không có bố của
Nguyễn Thị Mai...
Đối với trẻ em ở thành phố, các nhà văn quan tâm đến hai mảng hiện
thực: Cuộc sống của những trẻ em trong các gia đình khá giả và cuộc sống của
trẻ em trong các gia đình nghèo: Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh; Hoa trên
đường phố của Thu Trần; Kiềng ba chân của Đoàn Lư; Ngày khai trường
trong mơ của Kim Hài; Quả thị đi chơi của Nguyễn Hoàng Sơn; Bờ ve ran của
Mai Văn Hai; Con trâu của Thanh Thản; Nhà bác trống tía của Nguyễn Ngọc
Hưng; Làng em có điện của Lê Bính...
17
+ Đề tài miền núi phát triển với nhiều thành tựu: Y leng của Đào Vũ; Kỉ
vật cuối cùng của Hà Lâm Kì; Một lớp trưởng khác thường của Lương Tố
Nga; Truyền thuyết trong mây của Đào Hữu Phương; Chú bé thổi khèn của
Quách Liêu...
+ Viết cho lứa tổi hoa học trò là mảng đề tài khởi sắc. Các tác giả đã đi
sâu vào thế giới nội tâm phong phú, sâu kín cùng những rung động đầu đời (tình
yêu tuổi học trò) của trẻ em. Nhiều tác phẩm tiêu biểu: Bây giờ bạn ở đâu và
Hoa cỏ may ngày xưa của Trần Thiên Hương; Hương sữa đầu mùa của Lê
Cảnh Nhạc; Có gì không mà tặng bông hồng của Hồ Việt Khuê; Cô gái đến từ
hôm qua, Thằng quỷ nhỏ, Nữ sinh, Hoa hồng xứ khác...của Nguyễn Nhật
Ánh. Văn học thiếu nhi ngày càng được đề cao và mang tính chuyên nghiệp.
Bên cạnh đội ngũ sáng tác có ý thức, có lý luận còn có những nhà nghiên cứu
chuyên về văn học thiếu nhi. Tuy đội ngũ này chưa nhiều nhưng họ đã ra mắt
độc giả những công trình lí luận, nghiên cứu đáng trân trọng: Truyện viết cho
thiếu nhi dưới chế độ mới và Văn học thiếu nhi như tôi được biết của Vân
Thanh; Đôi điều tâm đắc của Vũ Ngọc Bình; Hoa trái mùa đầu và Mười năm
ghi nhận của Văn Hồng; Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 của Lã Thị
Bắc Kỳ; Thơ với tuổi thơ của Trúc Chi...
Bên cạnh sự đa dạng về đề tài, thể loại, văn học thiếu nhi còn đa dạng về
giọng điệu: “Trước năm 1975, văn học thiếu nhi khá nhất quán về giọng điệu...
đó là giọng văn xuôi theo xu hướng ngợi ca hướng về hiện thực cách mạng và
đại chúng nhân dân, diễn đạt kinh nghiệm cộng đồng với mong muốn giáo dục
các em trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, biết yêu tổ quốc, yêu
đồng bào,... Quá trình đổi mới đất nước, đổi mới văn học, đề cao ý thức cá nhân
đã tác động mạnh mẽ tới văn học thiếu nhi... Mặt khác, do cách tiếp cận đời
sống đa dạng, không bị khuôn vào một hướng duy nhất, văn học đòi hỏi cũng
phải đa dạng về giọng điệu mới có thể thể hiện được nhiều sắc thái khác nhau
của cuộc sống”[41;46]. Giọng điệu của văn học thiếu nhi sau 1975 khá đa dạng:
Giọng báo chí thông tấn, giọng suy tư triết lí, giọng tinh nghịch hóm hỉnh...
Từ giai đoạn này trở đi, hàng loạt các cuộc thi sáng tác văn học cho thiếu
nhi được tổ chức: Cuộc vận động sáng tác truyện và tranh truyện cho thiếu nhi
do NXB Kim Đồng tổ chức năm 1993 – 1995; Cuộc thi sáng tác truyện ngắn và
18
thơ cho trẻ em do ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam hội Nhà văn Việt
Nam kết hợp tổ chức với UNESCO tại Việt Nam phối hợp tổ chức... Trong giai
đoạn này, bên cạnh những tác phẩm viết trong nước, các nhà văn đã nhanh
chóng cập nhật theo lối viết truyện tranh, truyện nhiều tập... của nước ngoài. Có
thể thấy, văn học thiếu nhi Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựa đáng ghi nhận.
1.1.2.2. Thực trạng truyện viết về loài vật dành cho thiếu nhi ở Việt Nam
Một bộ phận quan trọng của Văn học thiếu nhi là truyện viết về loài vật. Xuất
phát từ những câu chuyện truyền miệng, truyện viết về loài vật còn được gọi là
truyện cổ tích loài vật hoặc truyện ngụ ngôn loài vật. Với sự phát triển của văn học
thiếu nhi, truyện viết về loài vật cũng có một lịch sử phát triển lâu dài và để lại nhiều
thành tựa trên các phương diện về nội dung và nghệ thuật. Vì là một bộ phận của văn
học thiếu nhi nên truyện viết về loài vật cũng có những giai đoạn phát triển của văn
học thiếu nhi.
Trước cách mạng tháng Tám, truyện viết về loài vật bắt đầu được chú ý mà
nổi bật nhất là các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài với truyện đồng thoại về loài vật:
Dế mèn phiêu lưu kí, Đám cưới chuột, Dê và Lợn, Trê và Cóc, Võ sĩ bọ ngựa, O
chuột... những truyện của ông có ý nghĩa đặc biệt mà theo giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh từng nhận xét: “là hình ảnh phản chiếu thế giới loài người” hay như Vũ Ngọc
Phan từng nói: “Truyện loài vật của Tô Hoài là những truyện tâm tình loài vật, của
những loài vật thấp hơn loài người... Nhưng truyện loài vật của Tô Hoài thường
phản chiếu cảnh sống của dân nghèo thôn quê... những tâm hồn giản dị, cả tâm hồn
vật lẫn tâm hồn người...”. Bên cạnh đó, cũng có các tác phẩm tiêu biểu khác như:
Con mèo mắt ngọc của Nam Cao; Vợ cóc, Con rắn, Cóc tía của Khái Hưng; Hang
thuồng luồng, Con rắn trắng của Ngọc Giao... Ở giai đoạn đầu, truyện viết về loài
vật mới chỉ là những câu chuyện loài vật với cốt truyện đơn giản và ít tình tiết.
Sau cách mạng tháng Tám, văn học thiếu nhi được quan tâm và phát triển
kéo theo sự phát triển của truyện viết về loài vật. Các tờ báo bắt đầu xuất hiện, tạo
chỗ đứng cho văn học thiếu nhi nói chung và truyện viết về loài vật nói riêng. Một
số nhà văn có đóng góp to lớn như: Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ, Thy Thy Tống
Ngọc... Nhưng ở giai đoạn này, mới có một số ít các tác phẩm truyện về loài vật
được đăng báo.
19
Sang giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, truyện loài vật tăng nhanh về số lượng
các tác phẩm xuất sắc. Có nhiều tác phẩm trong nước và cả nước ngoài. Đội ngũ nhà
văn đông đảo và bắt đầu chú ý đến nội dung, đề tài phản ánh. Truyện viết về loài vật
vẫn giữ đúng được phong độ phát triển. Các tác phẩm: Chú bò tìm bạn, Bê và sáo
của Phạm Hổ, Gà mái hoa của Võ Quảng, Cái tết của mèo con của Nguyễn Đình
Thi, Chú đất nung của Nguyễn Kiên...
Từ những năm 1975 đến đầu thập kỷ 80, xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ
đổi mới, văn học vì thế cũng có những chuyển biến đáng kể, truyện viết về loài vật
có những tìm tòi sáng tạo trên nội dung và hình thức. Một số tác phẩm tiêu biểu như:
Chuyến đi thứ hai, Bài học tốt, Trong một hồ nước, Hòn đá, Mèo tắm, Trai và Ốc
gai... của Võ Quảng, Đề tài được mở rộng, chính vì thế cuộc sống của con người
được khai thác thông qua thế giới nghệ thuật của loài vật. Ở giai đoạn này, truyện
viết về loài vật còn được thể hiện dưới hình thức truyện tranh với các tác phẩm tiêu
biểu như: Cá rô ron không vâng lời mẹ của Văn Hồng và Mai Long; Chú lợn đất
của Thy Thy Tống Ngọc...
Từ năm 1980 trở lại đây, hàng loạt các nhà văn tên tuổi trình làng tác phẩm
của mình về đề tài viết về loài vật: Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm Hổ, Ma Văn Kháng, Trần
Mạnh Hảo, Vũ Tú Nam, Nguyễn Nhật Ánh... Truyện viết về loài vật giai đoạn này
đạt được nhiều thành tựu về lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm, đề tài, nội dung,
phương diện phản ánh, độc giả với những tác phẩm có cốt truyện thú vị, chi tiết sinh
động và tiếp cận sâu với đời sống của con người. Trong quá trình sáng tác truyện loài
vật, các nhà văn rất chú ý đến việc nhân hóa loài vật. Chính vì lẽ đó, truyện viết về
loài vật trở nên li kỳ, thơ mộng và hấp dẫn bạn đọc. Thế giới loài vật mang tính đa
diện, vừa phản ánh đời sống loài vật, vừa là hệ quy chiếu cuộc sống của con người.
Trong chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật có nhiều
biến chuyển. Từ chỗ đơn giản về nội dung, cốt truyện đến sự đa dạng, sinh động về
đề tài, chi tiết truyện. Truyện viết về loài vật mang đậm tính nhân văn cao đẹp với
những suy nghĩ ngây thơ, trong trẻo và thánh thiện. Với sự đổi mới về nội dung, hình
thức, đề tài, thể loại đã giúp truyện viết về loài vật đạt được nhiều thành tựu đáng kể
góp phần vào diện mạo của văn học thiếu nhi.
20
1.2. Nhà văn Vũ Hùng – cuộc đời và sự nghiệp
1.2.1 Cuộc đời nhà văn Vũ Hùng
Nhà văn Vũ Hùng sinh 1931, quê tại làng Láng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Hồi nhỏ, gia đình Vũ Hùng có một ngôi nhà nhỏ bên lưng dốc Cầu Giấy đông
vui tuy là vùng ngoại thành, cách xa cửa ô Kim Mã của Hà Nội tới ba cây số.
Nơi ông sống gần nghĩa trang Phúc Thiện nay là công viên Thủ Lệ. Bọn trẻ con
trong vùng không khiếp sợ trước bãi tha ma, mộ địa này mà chúng còn hứng thú
với những đêm rằm tháng Bảy với lễ chạy Đàn Tràng cầu siêu cho các vong
hồn. Quanh khu vực nhà ông có những quán hàng nước, hàng cơm, hàng tạp
hóa, tiệm vá chữa quần áo, tiệm sửa xe đạp... và trang trại có tên Arnaud của
một người Pháp. Quanh khu Cầu Giấy là một vùng di tích nổi tiếng với đền Voi
Phục, chùa Láng, chùa Hà, Mộ viên quan ba... Quãng thời gian gia đình sống ở
Cầu Giấy không lưu lại nhiều ký ức trong ông. Vũ Hùng chỉ nhớ có một lần vào
mùa đông nhà bị cháy, người vú em trông nom ông quấn ông vào một tấm chăn
chạy sang bên kia đường đứng dưới chân trang trại Arnaud. Năm 1939, gia đình
Vũ Hùng rời căn nhà chật hẹp bên lề Cầu Giấy để dọn về căn nhà mới xây ở đầu
đường Láng, bên bờ sông Tô Lịch. Vùng đất mới này rộng rãi và cao ráo hơn
nơi ở cũ, dốc thoai thoải xuống những luống rau muống ven sông, nơi sau vụ hè
nở đầy những vầng hoa trắng. Hồi ấy, sông Tô Lịch là một dòng sông tuy nhỏ
hẹp nhưng lại trong xanh và thơ mộng. Ngôi nhà mới của nhà văn Vũ Hùng chỉ
có một tầng triệt nhưng không còn chật hẹp mà nhiều phòng, có vườn rộng và
sân rộng, có giếng nước và một khu vực dành cho kinh doanh sản xuất. Mẹ của
nhà văn mướn một số thợ sản xuất vàng giấy, một loại vàng mã để đốt cho
người đã khuất, dưới cõi âm. Đó là nghề nghiệp chính của mẹ ông. Mẹ ông kinh
doanh nghề này 5 năm, chẳng những nâng cao thu nhập cho gia đình mà còn mở
cho nhà văn Vũ Hùng những chân trời mới: hè đến nhà văn Vũ Hùng được cùng
chị cả vào Nghệ An, Huế để thu tiền giúp mẹ và nghiên cứu thị trường. Ngôi
nhà mới của ông ở đối diện ngôi nhà của một người Ấn Độ có người vợ là người
Việt và một đứa con gái mang dòng máu lai. Cách đó, xuôi về phía chùa Láng là
nhà của ông Tú Mỡ. Việc kinh doanh của mẹ ông rất thuận lợi và phát đạt. Năm
1940, cha mẹ ông quyết định xây khu nhà mới trên một vùng đất trên lề đường Láng rộng chừng 1000m2. Khu nhà mới của gia đình ông gồm một ngôi nhà lớn
21
hai tầng mang tên biệt thự Song An và một ngôi nhà một tầng cho nhà thơ Thế
Lữ thuê và được nhà thơ đặt tên là biệt thự Gió bốn phương: “Ngôi nhà mới
khang trang và khoáng đạt. Tầng dưới có mái hiên rộng rãi, tầng trên có buồng
học mở ra gác sân... Ngôi nhà nằm trong khu vườn rộng thênh thang, cổng
ngoài được treo biển Song An, giữa giàn hoa tigon phơn phớt hồng rồi sau thay
bằng dàn hoa ớt lung linh màu vàng đỏ. Đường vào tới bậc cửa lên phòng
khách trồng một hàng tường vi, mùa tháng năm nở hoa rực rỡ. Giàn hoa móng
rồng che phủ hàng hiên phía Tây...” [20;6].
Từ năm 1939 – 1942, Vũ Hùng học lớp Đồng Ấu đến Sơ đẳng tại trường
tiểu học Phủ Hoài Đức. Đây là trường duy nhất trong vùng Cầu Giấy, cách nhà
ông 2 km. Năm 1942 – 1944, học hết lớp Sơ đẳng ông thi đậu bằng Sơ học yếu
lược rồi vào học trường tiểu học Sinh Từ I ở ngoài Hà Nội (Nay là trường tiểu
học Lý Thường Kiệt). Tháng 9 – 1944, Vũ Hùng đậu khóa tuyển sinh cuối cùng
vào trường Bưởi (sau đổi tên thành trường Chu Văn An), học lớp Đệ Lục ngành
cổ điển. Mùa hè năm 1944, quân lính Nhật chiếm biệt thự Song An. Gia đình Vũ
Hùng phải đi ở nhờ khắp nơi. Ba tháng sau, lính Nhật kéo đi, để lại ngôi nhà bừa
bộn, bẩn thỉu. Mùa Đông năm sau, quân Tàu Tưởng sang. Trên đường hành quân,
trước khi vào thành phố, chúng thường tạm nghỉ tại ngôi nhà Song An. Đêm 19
tháng 12 năm 1946, cuộc trường kỳ kháng chiến bùng nổ: “Pháo đài Láng bắn
những quả đại bác đầu tiên vào các vị trí quân Pháp trong thành Hà Nội. Từ phía
Láng Trung nơi đặt pháo đài, chớp bùng lên, tiếp sau là những tiếng nổi như sấm
sét làm rung chuyển các khung cửa kính...”[20;16]. Mẹ ông cùng chị hai và các
em nhỏ tản cư lên phía Tây Sơn, cha ông theo cơ quan sơ tán về phía Khúc Thủy.
Chỉ có anh em Hoàng và con chó Nica ở lại Song An. Hồi ấy, anh em Hoàng
được phân công đi vận động người làng tản cư, không ở lại với địch và đi kẻ khẩu
hiệu địch vận: “Suốt ngày tay xách thùng vôi, tay mang chổi lông, họ đi kẻ những
khẩu hiệu rất lớn trên mặt đường và trên các bức tường chưa đổ”. [20;20]. Sau
đó, anh trai Vũ Hùng gia nhập đoàn thanh niên xung phong còn Vũ Hùng đến nơi
tản cư với gia đình: “Song An, ngôi nhà hai lần bình an, vẫn còn trơ trơ đứng đó.
Tường bê tông dày quá, Song An không đổ. Tạm biệt Song An! Tạm biệt! Chỉ là
tạm biệt thôi! Hẹn ngày trở lại!”. [20;23].
22
Chín năm sau, kháng chiến thắng lợi, gia đình Vũ Hùng trở về ngôi nhà
cũ: “Cây phù dung trước ngõ không còn nữa, thay vào đó ai đã trồng một cây
xoan. Giàn hoa ớt, rặng tường vi và giàn móng rồng đều đã chết nhưng trong
góc sân cây ngâu lấm tấm hoa vàng vẫn đứng đó, bình thản nhìn cuộc đời biến
động. Vắng giàn hoa ớt, cổng ngõ Song An hiu hắt buồn trong ngày đông giá
lạnh, khi cây xoan – cây sầu đông - rụng lá, chỉ còn trơ lại những cành khô. Mẹ
Hoàng thuê trát các hốc tường ngày xưa bị đục vỡ. Các cửa sổ được xây kín
bằng cót. Ngôi nhà loang lổ vì không được quét vôi lại. Mẹ chỉ có khả năng làm
đến đó. Bên trong những vết rộp trên nền và trên tường vẫn y nguyên. Tay vịn
cầu thang cháy rụi, không thay mới được, lên lầu phải đi sát một bên mép tường
cho khỏi ngã. May sao trên lầu, bàn thờ và mọi đồ thờ còn nguyên, chỉ thiếu tấm
chân dung khảm sà cừ của ông nội. Tủ sách vẫn còn tuy đã mất hết sách. Cha
mẹ Hoàng không nghĩ tới việc treo lại biển Song An. Dạo ấy vùng ngoại thành
sắp cải cách ruộng đất và nội thành rục rịch cải tạo công thương nghiệp”.
[20;25]. Giai đoạn này, Vũ Hùng học thêm được hai năm, đậu Trung học phổ
thông và học dở dang năm thứ hai Chuyên khoa Toán, Lý, Hóa...
Năm 1950, ông nhập ngũ và học tại trường Thủy quân Việt Nam sau đó
thuyên chuyển sang Cục thông tin liên lạc. Vì đã được huấn luyện quân sự, Vũ
Hùng được cử chỉ huy một tiểu đội thuộc lớp Cán sự Trung cấp Vô tuyến điện.
Tiểu đội do ông phụ trách có ba đội viên nữa. Sau này một trong ba đội viên nữ
đó đã giúp ông biên tập lại những cuốn sách mà ông gửi in tại nhà xuất bản Kim
Đồng. Năm 1951, Vũ Hùng chuyển sang trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn.
Năm 1952 – 1956, Từ Việt Bắc, đại đội của ông được tung đi các chiến trường.
Ông được đi sang Lào để tăng cường cho điện đài trung Đoàn quân Tình nguyện
Việt Nam tại trung Lào: “Những cánh rừng mịt mùng phủ kín sườn núi, đầy gai
góc và chằng chịt dây leo, nhường chỗ cho rừng phẳng bát ngát, xen lẫn những
khoảng ruộng lúa nước. Tầm mắt rộng thênh thang, thỉnh thoảng mới bị vướng
vì một dãy lèn đá chơ vơ nhô lên từ đâu đó. Chỉ vượt khỏi Trường Sơn, bề ngang
không quá 100 cây số, Hoàng đã bước vào một nền văn hóa rất khác biệt. Nền
văn hóa của một vùng đất cổ sơ, chưa bị các cuộc chiến tranh liên miên xâu xé,
tàn phá. Nền văn hóa của Bình Yên, của Nghỉ Ngơi, của Yêu Đương”[20, 96].
Năm 1956, Vũ Hùng xin giải ngũ và về đi học. Ngày 24/11/1956, Vũ Hùng lập
23
gia đình và thế hệ mới được ra đời trong biệt thự Song An. Năm 1984, ông làm
Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Văn hóa. Từ 1989 ông định cư tại Pháp và
tháng 5.2014 về nước sống những năm cuối đời. Nhà văn nhiều lần định về thăm
mộ bố mẹ nhưng chưa đi được vì bệnh tim.
Cuộc đời ông đã từng trải những biến động thăng trầm. Từ tuổi niên thiếu
14,15 đã chứng kiến những biến động của thời cuộc, gia đình ly tán. Tuổi thanh
niên đã trải qua đời chiến sĩ, đi học trong nhà trường của quân đội bên nước bạn
Trung Quốc, rồi từng làm chiến sĩ điện báo, sống ở Lào, ở Trường Sơn, ở vùng
núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Hòa bình lập lại, có thời gian làm kỹ sư điện, có khi
làm nhà văn, nhà báo, biên tập viên… từng có lúc là cán bộ quản lý cấp vụ ở Bộ
Văn hóa, rồi lại sống ở trời Tây, làm đủ mọi nghề trong 20 năm ở Pháp. Ông đã
dành tất cả sự nghiệp của mình để viết cho trẻ em, về muông thú, thiên nhiên.
Trải qua đời lính đã chứng kiến biết bao sự mất mát, hy sinh nhưng ông không
viết về chiến tranh mà dùng hết tài năng và tâm huyết để miêu tả đời sống của
những con vật hoang dã để dành cho thiếu nhi một món quà quý giá nhất. Văn
thơ ông cũng mang những nét duyên và sự tình cờ như chính cuộc đời ông....
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vũ Hùng
Mỗi trang văn của nhà văn Vũ Hùng là một bài học quý giá để khơi gợi và
phát huy những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Từ 1960 đến 1989, ông in
40 đầu sách tại nhiều NXB trong nước. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra
tiếng Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc… Cuốn sách đầu tay, Mùa săn trên núi do
NXB Kim Đồng ấn hành năm 1960; Sao Sao (1982) và Sống giữa bầy voi
(1986) từng đoạt giải Văn học thiếu nhi. Tháng 8.2014, nhà văn Vũ Hùng đã ký
kết bản quyền với NXB Kim Đồng về việc xuất bản hơn 30 tác phẩm của nhà
văn Vũ Hùng, trong đó có nhiều tác phẩm được coi là kinh điển của văn học
thiếu nhi Việt Nam như: Mùa săn trên núi, Giữ lấy bầu mật, Con cu li của tôi,
Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Sao Sao, Các bạn của Đam Đam, Sống
giữa bầy voi, Chú ngựa đồng cỏ, Những kẻ lưu lạc, Con voi xa đàn, Vườn
chim, Phượng hoàng đất, Biển bạc... Các tác phẩm truyện của ông đều hướng
tới thiên nhiên và muôn thú. Nhưng qua đó là những triết lý và bài học cuộc
sống. Bộ 18 tác phẩm văn học thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng được vinh danh
tại giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2017. Bộ sách viết về muôn thú, rừng núi
24
và thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. Những tác phẩm của ông còn có giá trị
giáo dục cho trẻ em nhiều thế hệ. Bộ sách của nhà văn Vũ Hùng từng nhận giải
thưởng Sách Việt Nam do Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức năm 2016. Lúc đó,
bộ sách mới xuất bản được 12 cuốn, và nhận giải ở hạng mục Giải Vàng Sách
hay – Giải thưởng Sách Việt Nam 2016 với điểm cao tuyệt đối – 100 điểm. Có
thể khái quát nội dung 18 tác phẩm đã đạt giải thưởng của Vũ Hùng như sau:
Truyện Phía Tây Trường Sơn là hành trình đầy hiểm nguy, gian nan
nhưng thú vị của những người lính trẻ để đi sang nước bạn Lào học làm quản
tượng – điều khiển voi. Qua cuộc hành trình này, người đọc được ngắm nhìn
thiên nhiên Trường Sơn ở góc độ hùng vĩ, thơ mộng qua cái nhìn của ba người
lính đồng thời được hòa tâm hồn mình vào các phong tục, tập quán của người
dân bản địa mà cụ thể là dân tộc Lào. Trải qua thời gian, họ đã trở thành những
người quản tượng giỏi, có lòng yêu thương và thấu hiểu loài voi.
Truyện Các bạn của Đam Đam là câu chuyện tình bạn xúc động giữa cậu
bé Đam Đam 13 tuổi và chú chó Phay Phay. Cả hai lớn lên bên nhau và bắt đầu
những cuộc đi săn trong rừng sâu hoang dã. Rồi Đam Đam và Phay Phay cứu
sống chú khỉ Xa – ni thoát khỏi nguy hiểm. Cả ba đã trở thành bạn bè và cùng
nhau có những kỉ niệm khó quên. Bên cạnh câu chuyện tình bạn giữa người và
vật sống động, tác phẩm còn khắc họa sắc nét cuộc sống gắn bó với thiên nhiên
của con người Tây Nguyên.
Truyện Chim mùa là cuộc sống, sinh hoạt, nếp nghĩ, ước mơ của trẻ em
dân tộc hiện lên vô cùng phong phú, chân thực và sống động. Không những thế,
theo từng dòng văn tài hoa, độc giả sẽ được dẫn vào khung cảnh thiên nhiên kì
vĩ, thơ mộng để thêm một lần mến yêu hơn, say mê hơn với thiên nhiên và con
người trên dải đất Trường Sơn.
Truyện Bí ẩn rừng già: Bằng vốn kiến thức sâu rộng về thiên nhiên
muông thú của mình, nhà văn Vũ Hùng khắc họa thật chi tiết những nguyên tắc
và bí ẩn của rừng – cách để các loài vật sinh tồn, phát triển và sống nương tựa
cùng nhau trong một môi trường thiên nhiên hoang dã mà cụ thể là đời sống của
loài voi, bầy hươu nai, hổ báo, tê giác...
Truyện Phượng hoàng đất là những câu truyện về loài vật trong trẻo và
nên thơ đến lạ kì. Từng câu từng chữ của nhà văn Vũ Hùng thấm đượm hơi thở
25
núi rừng từ cành cây ngọn cỏ, hòa mình vào đời sống thật kì thú và đáng yêu của
loài vật.
Truyện Biển bạc nói về vùng Biển Việt Nam với biết bao nhiêu điều kì bí.
Mỗi một loài như: trai, ốc, đồi mồi, cua, tôm…. đều là những câu chuyện độc
đáo và bất ngờ. Biển bạc không chỉ cung cấp lượng kiến thức dồi dào về sinh vật
biển Việt Nam, mà còn mở ra những khung cảnh kì vĩ, đầy chất thơ cùng chân
dung những con người gắn bó cuộc đời với biển cả quê hương.
Truyện Mùa săn trên núi: Hình ảnh về một thời rừng núi còn hoang sơ
với đời sống săn bắt và “du canh, du cư” của những con người miền núi sống
động, hào hùng, có lúc nghẹt thở trong cuộc chiến tay đôi giữa người và thú dữ,
nhưng vẫn thấm đẫm một bầu không khí trong veo, đầy thơ mộng, cuốn sách đã
lột tả được cuộc sống của người miền núi một cách tinh tế và chân thực.
Truyện Chú ngựa đồng cỏ là câu truyện kể về Antai – chú ngựa non vùng
thảo nguyên Mông Cổ, đang sống một cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của
mình thì bỗng một ngày bị bán cho một rạp xiếc ở Việt Nam. Antai đã phải học
cách thích nghi với môi trường sống mới và những người bạn mới.
Truyện Người quản tượng và con voi chiến sĩ kể về vùng núi Trường
Sơn. Một đêm mưa bão. Ông cháu Đik may mắn bắt được con voi con lạc đàn.
Tên nó là Lôm – Luông. Nó rất khôn và thông minh. Sau một thời gian dạy dỗ,
Lôm – Luông đã biết nghe hiệu lệnh người và biết làm việc, đi săn. Đik cũng
trưởng thành và trở thành người quản tượng thực thụ. Họ cùng nhau đi qua chiến
tranh, làm công tác vận tải trong vai trò là người quản tượng và con voi chiến sĩ.
Truyện Những kẻ lưu lạc là câu chuyện về Kratiê, cô chó Nhật – lưu lạc
đầy tài năng. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình chủ lương thiện, Kratiê sống
hạnh phúc, bình an bên cạnh mẹ và anh trai. Thế nhưng sóng gió đã xảy đến
khiến cô phải rời xa gia đình và sống một cuộc đời lang bạt, khó khăn. Rồi cô
được nhận vào một rạp xiếc và trở thành một cô chó xiếc giỏi.
Truyện Sao sao: Rời quê nhà, nơi nguồn thức ăn đã bắt đầu cạn kiệt, Sao
Sao và người bạn thân Nai Bông lên đường với mong ước tìm ra được một vùng
đất mới màu mỡ, tươi xanh hơn để đưa dân làng hươu tới trú ngụ. Cuộc ra đi trải
qua bao gian khổ, đắng cay, có cả máu và nước mắt với nhiều nguy hiểm rình
26
rập. Cuối cùng Sao Sao cũng tìm được một vùng đất mới, màu mỡ cho bầy đàn
của mình sinh tồn.
Truyện Giữ lấy bầu mật là hình ảnh về cuộc sống của những người đồng
bào dân tộc miền núi mộc mạc, chân chất. Qua đó thấy được cách sinh hoạt, tập
tục, những thói quen, những khung cảnh vô cùng sống động, dữ dội mà rất nên
thơ của thiên nhiên, núi rừng.
Truyện Bầy voi đen kể về cuộc sống sinh tồn và hành trình của một bầy
voi trên dải đất Trường Sơn qua đó thấy được thiên nhiên kì bí, động vật hoang
dã dữ dội và nguy hiểm.
Truyện Con cu li của tôi là một câu chuyện xúc động về tình cảm của một
người chiến sĩ với con cu li – người bạn rừng đã theo chân anh đi khắp nẻo, gắn
bó với anh và giúp anh vượt qua nhiều nguy hiểm. Thế nhưng, tiếng gọi của
thiên nhiên từ nơi hoang dã luôn luôn là tiếng gọi da diết nhất, quyến rũ nhất.
Cuối cùng con cu li bé bỏng đã chạy theo tiếng gọi tha thiết của núi rừng và bỏ
lại sau lưng tình cảm chân thành của người lính trẻ.
Truyện Vườn chim là câu chuyện về những loài chim khác nhau. Qua đó
thấy được sự đa dạng và phong phú của chúng đồng thời người đọc sẽ hiểu thêm
về bản năng kiếm ăn, đặc tính và môi trường sống của mỗi loài chim.
Truyện Con voi xa đàn: Sống một tuổi thơ hạnh phúc nhưng ngắn ngủi,
con voi Bê đã mất mẹ và phải sống nương tựa vào bầy đàn của mình. Trải qua
bao thăng trầm, trải qua bao bất hạnh, cuối cùng nó cũng tìm thấy được hạnh
phúc và vinh quang.
Truyện Mái nhà xưa là những câu truyện kể về chính gia đình của nhà
văn Vũ Hùng. Ông đã đặt hết tình yêu thương, lòng nhiệt huyết để nói về gia
đình mình một cách chân thực và sống động. Những cảm xúc bồi hồi, da diết
của một con người đã trưởng thành, trải qua thời cuộc và cuối con đường muốn
dừng chân nhìn ngắm lại quá khứ được thể hiện một cách day dứt, buồn thương
và rất nên thơ.
Truyện Sống giữa bầy voi là cuốn sách được viết bằng trải nghiệm sâu
sắc, tình cảm nhân hậu của tác giả gửi gắm vào thiên nhiên, núi rừng Trường
Sơn. Cuộc sống của con người bên cạnh loài voi yêu quí đã khắc họa một thế
27
giới loài voi rất chân thực, sinh động và mang đến bài học ý nghĩa, những thông
điệp rất người.
Các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng mang những giá trị về đạo đức to lớn
đúng như nhà nghiên cứu Lê Phương Liên đã từng nhận định: “Nhà văn Vũ
Hùng sống giữa thời gian khó khăn của lịch sử đất nước, ông đã biết tìm ra cho
mình một hướng đi đúng đắn cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Từ những trang
văn đầu tiên và chắc là đến những trang văn cuối cùng, ông trung thành với con
đường đi của mình, con đường yêu thương tha thiết thiên nhiên và muôn loài,
con đường đề cao phẩm chất Thiện, cái Đẹp nội tâm của con người hồn nhiên
gắn bó với loài vật nguyên sơ. Văn của ông nhẹ nhàng như sợi tơ mà sức mạnh
có thể như cơn gió lớn khiến cả rừng sâu, núi thẳm rung vang lên tiếng”. [65]
28
* Tiểu kết:
Ở mỗi giai đoạn của xã hội, văn học thiếu nhi nói chung và truyện viết về
loài vật lại có những nét riêng phù hợp với từng bối cảnh cuộc sống. Trong hành
trình phát triển của mình, văn học thiếu nhi ngày một đổi mới về nội dung, ý
tưởng, cách thức, phương thức biểu đạt với đội ngũ sáng tác đông đảo. Mỗi tác
phẩm là cả một thế giới diệu kì để trẻ em hoàn thiện tâm hồn và nhân cách. Vũ
Hùng là nhà văn với nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị dành cho thiếu nhi.
Ông là một “hiện tượng” đầy trân trọng trong bối cảnh nền văn học thiếu nhi
đang thiếu vắng những cây bút mới có khả năng hấp dẫn người đọc.
29
CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN KỲ THÚ VÀ NHỮNG BÀI HỌC
CUỘC SỐNG TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG
2.1. Tình yêu và cuộc sống
2.1.1. Những trật tự rừng xanh
Trong thế giới loài người, “Trật tự hay trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự
hoạt động ổn định hài hòa của các thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật
tự xã hội nhằm duy trì sự phát triển xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội
là các thiết chế xã hội. Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội,
tính chuẩn mực của các hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội
đạt được sự ổn định, cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác
động của các yếu tố bên trong và bên ngoài.”[66]. Có trật tự, con người mới làm
việc, hoạt động và sinh sống một cách khuôn khổ, ổn định. Từ “Trật tự” trong
từ điển Tiếng Việt theo hướng danh từ có nghĩa là sự sắp xếp theo một thứ tự,
quy tắc nhất định, là tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỉ luật. Còn theo hướng
tính từ là có trật tự, ổn định, không ồn ào. Một tổ chức muốn hoạt động được
hiệu quả cần phải có trật tự, một tập thể muốn phát huy hết sức mạnh cũng cần
có trật tự. Đấy là trong thế giới con người, còn thế giới loài vật thì sao? Trật tự
có được hình thành và sắp đặt?
Luật lệ, nói khái quát là “pháp luật và những điều đã thành lệ mà mọi
người trong xã hội phải tuân theo”. Trong tự nhiên, “Luật tự nhiên hay luật của
tự nhiên (tiếng Latinh lex naturalis) là hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên,
do đó có tính phổ quát”[66]. Đây là quy luật tồn tại độc lập với luật lệ được đặt
ra bởi một trật tự chính trị, xã hội hay một quốc gia. Đây là một thuật ngữ vừa
được sử dụng trong triết học vừa sử dụng trong luật học. Lý thuyết về luật của tự
nhiên được Aristotle đề cập lần đầu tiên. Ông cho rằng trong tự nhiên đã có sẵn
những quy luật, luật lệ và công lý, và con người tốt nhất là phải soạn thảo những
quy luật tuân theo luân lý của tự nhiên. Mặc dù ông cho rằng một xã hội chính
trị hoàn hảo có thể không cần đến pháp luật, nhưng nếu cần đến pháp luật thì
pháp luật tự nhiên sẽ là pháp luật tốt nhất.
30
Học thuyết luật tự nhiên được tiếp tục phát triển trong bối cảnh Ki-tô
giáo bởi Thánh Thomas Aquinas. Ông gắn quan điểm về luật tự nhiên với Thiên
chúa giáo. Theo ông, luật có bốn loại: Ý Chúa, Luật tự nhiên, Luật của con
người. Luật thiêng liêng St Thomas Aquinas cho rằng Luật ý Chúa là luật có giá
trị cao nhất, quyết định sự tồn tại của vạn vật. Luật Tự nhiên là sự tham gia của
con người vào Luật ý Chúa. Do vậy, Luật Tự nhiên phải tuân thủ theo nguyên
tắc: cái xấu phải tránh, cái tốt phải được thực hiện. Luật của con người là sự áp
dụng Luật Tự nhiên của các Chính phủ vào Xã hội. Luật Thiêng liêng là những
gì được ghi ở Kinh Thánh.
Nhà văn Vũ Hùng cho rằng:“Cuộc sống nào cũng có những luật lệ riêng.
Cuộc sống trong rừng cũng vậy. Do lấy những nền tảng của xã hội loài người
làm thước đo để suy đoán, lâu nay người ta vẫn cho luật rừng là luật lệ tàn khốc
của sự hỗn độn, của cuộc giành giật để sinh tồn, một cuộc đấu tranh quyết liệt
đến mức không dung tha để giành lấy khoảng không gian và những ưu thế tồn
tại, thú dữ ăn thịt thú lành, thú lớn lất át và tiêu diệt thú bé”[32;15]. Con người
dựa vào những suy đoán chủ quan của mình để áp đặt lên thiên nhiên những suy
nghĩ có phần hơi tiêu cực, “người ta quen coi luật rừng là luật của sức mạnh”.
Luật rừng không hẳn chỉ có như thế. Sự cạnh tranh sinh tồn là một đặc
tính của rừng xanh nhưng bên cạnh đó còn có những khía cạnh, đặc tính khác đã
được nhà văn Vũ Hùng nhìn nhận theo góc độ văn chương của mình khi nghiên
cứu về loài vật. Theo ông, luật rừng trước hết là sự khôn ngoan và sự khôn
ngoan này nhằm mục đích duy trì sự tồn tại của chính mình và dòng giống.
Không giống như loài người, “loài thú không có máu anh hùng, không bị ngoại
cảnh kích động. Kể cả những loài có sức mạnh nhất bao giờ cũng muốn nhìn
thấy kẻ khác nhưng lại không muốn kẻ khác nhìn thấy mình. Vì thế không khi
nào chúng gây gổ vô ích để lộ sự có mặt của chúng”[32,58]. Có thể thấy chúng
khác so với loài người. Loài người thường thích gây chú ý và hiếu chiến. Dù yếu
hay mạnh, họ cũng tỏ ra là mình quan trọng nên xã hội loài người thường mang
màu sắc của sự đố kỵ. Đến cả những con hổ trong truyện của Vũ Hùng cũng đều
khôn ngoan: “Nó không bao giờ ỷ vào sức mạnh để cho phép mình làm những
việc mù quáng, nó lảng tránh bầy voi, lảng tránh những con báo, lảng tránh cả
con người và chỉ nhận sự đối đầu trong trường hợp bắt buộc”[32;46]. Sự khôn
31
ngoan giúp các loài động vật tránh được những tổn thất đáng kể. Nếu sự gây gổ
là vô ích, chúng sẽ luôn tránh xa để bảo toàn tính mạng và bảo vệ bầy đàn của
mình. Rơi vào trường hợp bắt buộc, chúng mới đối đầu. Bên cạnh đó, “trong
rừng không có những cuộc chiến tranh cùng loài như trong xã hội loài người.
Một bầy voi không bao giờ đánh nhau với một bầy voi. Một gia đình cọp (cọp
sống đơn độc nhưng mùa sinh sản thì sống thành từng gia đình) không bao giờ
xung đột với một gia đình cọp khác”.[32;58] Tuy vậy, “đôi khi cũng xảy ra
tranh giành giữa hai cá thể cùng loài nhưng trừ những bầy sói, không bao giờ
cuộc xung đột dẫn đến sự tiêu diệt đối thủ. Ngay trong cơn giận dữ, do bản năng
bảo tồn dòng giống, chúng biết khi nào thì nên thôi. Khi hai con cọp đánh nhau
– chúng không bao giờ đánh nhau để tranh mồi mà chỉ để tranh giành con cái –
chỉ một lúc sau con yếu sẽ nhảy ra ngoài vòng chiến, nằm rạp xuống để tỏ ý
khuất phục, lập tức con mạnh hơn sẽ ngừng lại và bỏ đi. Khi hai con voi đọ sức
để tranh giành thứ bậc trong bầy cũng vậy. Con yếu thế sẽ lùi bước, buông
thõng vòi. Đó là dấu hiệu đầu hàng, con mạnh hơn thấy dấu hiệu đó sẽ ngừng
lại”. [32;59]. Hay như loài hổ “Nó không bao giờ gầm thét ra oai, như người đi
rừng chưa có kinh nghiệm tưởng tượng về nó, trừ vào mùa ghép đôi nó cất tiếng
gọi hổ cái. Tiếng gần thét làm lộ rõ sự có mặt của hổ, làm con mồi biết trước sự
nguy hiểm mà phóng chạy. Vì thế thói quen của hổ là im lặng. Nó săn mồi trong
im lặng và giết chết con mồi trong im lặng”[32;46]. Sự khôn ngoan còn thể hiện
ở chỗ đánh giá đúng con người: “Một con hổ đang độ dồi dào sức lực, có thể
kiếm đủ mồi trong các đàn thú hoang, luôn luôn tuân theo một quy luật đã hình
thành trong rừng là xa lánh con người, không đụng chạm đến những gì thuộc về
con nguời. Những con hổ như vậy thường được thợ săn để yên. Họ nghĩ rằng nó
cũng có quyền được tồn tại như bất cứ thú rừng nào khác, miễn nó không làm
điều gì có hại đến họ”[32;46]. Qua đó ta có thể thấy, thế giới loài vật là sự khôn
ngoan đến triệt để để duy trì sự tồn tại. Các con vật không hề muốn đối đầu và
cạnh tranh dù là trong hay ngoài bầy. Chúng không bao giờ gây gổ vô ích mà
luôn tìm đường lảng tránh. Ngay trong bầy, dù có sự tranh giành nhưng cũng chỉ
là tranh giành con cái. Chúng hiểu rằng, đánh nhau trong cùng bầy sẽ là mối
nguy hại để tiêu diệt sự tồn tại của cả bầy. Chúng cũng hiểu rõ rằng, sự tồn tại
của mỗi cá thể trong bầy là tổng thể cho bầy đàn phát triển, sinh tồn. Tiêu diệt cá
32
thể bầy là một việc làm không thể chấp nhận được. Đó là sự đoàn kết, gắn bó mà
xã hội loài người phải nhìn lại mình.
Thứ hai, luật rừng là sự cố gắng thích nghi với hoàn cảnh sống. Hoàn
cảnh sống tác động trực tiếp đến lối sống và thói quen của loài vật nhưng bằng
sự khôn ngoan của mình, chúng biết khi nào nên thay đổi và thích nghi. Nhà văn
Vũ Hùng đã dẫn ra rằng: “Từ trước thập niên của thế kỷ XX - một thợ săn già
từng nói lại – các bầy voi trên Trường Sơn vẫn có thói quen giống trâu bò rừng
khi ngủ đêm. Chúng hợp thành vòng tròn, bên trong là voi con, voi mẹ và voi già
yếu, bên ngoài là voi đực. Hồi đó voi cũng bị săn lùng – đôi ngà của chúng đối
với thợ săn là cả một tài sản – nhưng bằng ngọn lao và chiếc nỏ, thợ săn không
tiêu diệt được bao nhiêu. Từ khi trong rừng xuất hiện những người đi săn mang
cây súng khác. Họ có thể dễ dàng giết chết một con voi ở khoảng cách rất xa, xa
gấp bốn năm tầm tên của người thợ săn bản địa. Lũ voi đực càng bị săn lùng
ráo riết và chẳng bao lâu sau mỗi bầy voi chỉ còn vài ba con đực. Các bầy bắt
buộc phải thay đổi tập tính dể bảo tồn dòng giống. Ngày nay những người đi
rừng đều nhận thấy thói quen cũ của các bầy voi đã biến đổi. Ban đêm chúng
vẫn họp thành vòng tròn nhưng ở bên trong đáng lẽ là lũ voi con và voi mẹ thì
bây giờ là những con voi đực cuối cùng của bầy. Khi gặp nguy lũ voi cái sẽ
xông ra chặn đường cho chúng chạy trốn. Bây giờ muốn săn voi đực phải đi vào
giữa bầy voi. Đều đó không người thợ săn đơn độc nào dám làm và cũng không
người thợ săn nào làm nổi”[32;60]. Những chú ngựa đồng cỏ, khi bị chuyển từ
môi trường sống thảo nguyên tự do đến không gian hẹp của những chiếc lồng sắt
đã mất một khoảng thời gian nhất định để làm quen và thay đổi. Từ đám lông
dài thượt để chắn gió, chắn tuyết ở vùng thảo nguyên khắc nghiệt, chúng đã
ngắn đi và thưa lại ở vùng nhiệt đới: “Đến vụ thay lông, đám lông che tuyết lượt
thượt tự nó mọc thưa và ngắn lại cho hợp với khí hậu”. [18;94]. Có thể thấy, tùy
điều kiện và hoàn cảnh sống vào những giai đoạn khác nhau, loài vật sử dụng sự
khôn ngoan của mình để thay đổi tập tính và thích ứng với mục đích cuối cùng
là bảo tồn giống loài – một yêu cầu cao nhất trong quần thể loài vật. Loài vật
thay đổi tập tính và thói quen sinh hoạt theo sự thay đổi của môi trường sống.
Thứ ba, luật rừng là giữ gìn sinh cảnh: “Sinh cảnh là một vùng sinh thái
hay môi trường có các loài động, thực vật đặc biệt hoặc các sinh vật khác sinh
33
sống ở đó. Nó là môi trường tự nhiên mà các sinh vật sinh sống, hoặc môi
trường vật lý bao bọc xung quanh quần thể loài”[66]. Bản thân loài vật sống
trong sinh cảnh nhưng với sự khôn ngoan, chúng sử dụng sinh cảnh nhưng
cũng biết giữ gìn sinh cảnh – môi trường giúp chúng tồn tại và phát triển:
“Không con thú nào tàn phá môi trường nó sống. Hãy thả một con hổ hoặc
một con báo vào một đàn hươu nai. Chúng sẽ chỉ giết một con mồi và chừng
nào chưa ăn hết thức ăn chúng sẽ không giết thêm con mồi khác. Bản năng giữ
gìn sinh cảnh tồn tại ngay cả ở những bầy thú ghê gớm như lũ chồn ma. Chừng
nào còn thức ăn chúng không bao giờ săn đuổi con mồi khác...”[32;60];“Mồi
săn của hổ thường là hươu nai, lợn rừng... với những con mồi lớn như vậy, hổ
phải ăn nhiều lần mới hết. Sau khi ăn no, nó biết cách cất chỗ mồi còn lại,
không chịu để mất một mẩu cho lũ sói rừng và bầy quạ diều. Hổ thường tha
mồi đến một quãng suối sâu, một đầm lầy, ăn xong vừa có nước uống vừa có
chỗ giấu mồi. Nó quẳng mồi xuống nước và bữa sau trở lại vần chỗ thịt ăn dở
lên bờ”[32;46]. Đó chính là biểu hiện cho sự khôn ngoan của các loài động
vật. Khi còn thức ăn, loài vật sẽ không giết hại thêm con mồi. Vì thức ăn dư
thừa sẽ chồng chất vừa phá hủy môi trường sống, vừa gây suy giảm nguồn thức
ăn khiến cho loài vật tự làm hại mình.
Thứ tư, luật rừng là sự họp đàn và sự cứu giúp, cưu mang. Trong thế giới
loài vật, chúng phân thành hai cấp: Loài yếu thế và loài mạnh. Nhưng luật rừng
không chỉ là sự hỗn độn, tàn sát lẫn nhau. Mà là sự giúp đỡ, tương trợ nhau cùng
sinh tồn. Những con vật yếu thế và thiếu phương tiện tự vệ không bao giờ sống
đơn độc. Chúng sẽ họp lại thành từng bầy và bầy đàn sẽ giúp chúng sống an toàn
hơn. Một con nai sẽ sống mạnh mẽ và lợi thế hơn trong một bầy nai. Chúng sẽ
nương tựa vào nhau để phát hiện kẻ thù và trốn chạy kẻ thù. Bầy đàn giúp các
thành viên trong đàn cùng nhau sinh tồn. Ngoài ra bầy đàn còn có ích cho các
loài khác: “Con nai non lạc bầy khi đêm xuống có thể dễ dàng tìm nơi ẩn náu an
toàn trong một bầy trâu hoặc bò rừng. Bầy ấy sẽ để mặc nó ngủ ở vòng trong,
nơi dành cho lũ nghé và bê non và sớm mai, khi nguy cơ bị tiêu diệt đã hết, con
nai sẽ lững thững tìm về với bầy đàn của nó. Cheo cheo là con vật yếu ớt, không
có vũ khí để phòng thân. Nó rất nhiều kẻ thù, gồm: Chồn ma, sói, mèo rừng, hổ,
báo... Gặp kẻ thù nó run lên, chân khuỵu xuống. Nó chỉ biết nằm run rẩy chờ
34
chết. Vậy mà loài cheo cheo không bị tiêu diệt. Ta đã biết, nó có những kẻ bảo
trợ đắc lực là bọn bò tót”[32;62]. Chúng ta thường thấy bên cạnh bầy bò tót
thường có vài ba chú cheo cheo. Cheo cheo có họ hàng với hươu nai nhưng bé
nhỏ và yếu ớt. Chúng không có sừng để chống cự kẻ thù cũng không có đôi chân
chạy nhanh để thoát hiểm, chúng chỉ có duy nhất là những chiếc nanh nhọn chỉ
để gặm măng: “Cheo cheo biết mình yếu ớt cần nơi nương tựa. Bản năng của
chúng mách bảo, quanh những rừng tre nứa nơi chúng sinh sống giang sơn của
bọn bò tót là yên ổn nhất. Ở càng gần nơi bò tót ngủ đêm thì càng yên ổn. Sự có
mặt của chúng không làm cho bọn bò tót phiền lòng. Chúng được chấp nhận”
[32;27]. Hay như trâu rừng, chúng là những con thú khỏe mạnh lại có tinh thần
họp bầy và tinh thần cảnh giác cao. Bầy đàn của chúng cũng được kiêng dè và
lảng tránh như bầy voi:“Trâu rừng là chỗ dựa của những con thú ăn cỏ yếu ớt.
Ban ngày, bọn thú nhỏ đó ngủ trong những hang ổ bí mật, ban đêm đến kiếm ăn
gần bầy trâu. Thấy hơi thú dữ, khi bầy trâu đồng loạt đứng lên trong tư thế
phòng ngự, bọn thú nhỏ không ngần ngại gì mà không lẻn vào giữ vòng tròn,
run rẩy đứng lẫn trong đám nghé non. Bầy trâu hào hiệp không bao giờ xua
đuổi chúng”[53;28]. Loài voi cũng là những con vật hào hiệp, chúng hay che
chở cho các loài động vật yếu thế khác: “Mỗi năm khi mùa mưa đến, bầy voi lại
trở về đồng cỏ và các bầy thú ở đó lại được sống một thời kì an toàn. Đêm đêm
khi đã ăn no chúng thường kéo đến gần chỗ bầy voi ngủ, nương bóng những con
vật to lớn này. Sự có mặt không làm bầy voi khó chịu. Chúng được chấp nhận và
bầy voi vui lòng làm nhiệm vụ bảo trợ”[32;50]. Với sức mạnh vốn có của các
loài động vật, chúng che chở và giúp đỡ những loài yếu đuối hơn. Sự có mặt của
những loài yếu không làm chúng khó chịu. Nghĩa là chúng chấp nhận cho loài
yếu nương tựa vào mình để tránh kẻ thù. Chưa bao giờ chúng xua đuổi các loài
yếu có thiện chí muốn giúp đỡ. Có phải đây là sự hài hòa giữa các quần thể sống
trong cùng một một trường sống. Ngoài sự canh tranh nhau, các loài động vật
còn sống hài hòa để cùng nhau sinh tồn và phát triển. Vì nếu luật rừng nếu chỉ là
sự hỗn độn, tiêu diệt và tàn sát nhau thì sẽ không thể có những loài vật yếu thế
sinh tồn, không có bầy nai, bầy hươu, bầy cheo cheo và các con thú lành. Sinh
cảnh bị phá hủy, loài vật bị tiêu diệt và diệt vong. Môi trường thiên nhiên sẽ
biến mất.
35
Có thể thấy rằng, luật rừng – luật của tự nhiên là sự khôn ngoan, thích
nghi, giữ gìn sinh cảnh và là sự giúp đỡ, nương tựa lẫn nhau của tất cả các bầy
thú. Mọi loài vật đều mang trong mình sự khôn ngoan, chúng biết giấu mình để
tránh nguy hiểm, chúng luôn thích nghi được với mọi hoàn cảnh và luôn biết giữ
gìn môi trường sống để bảo tồn giống nòi. Đồng thời, chúng còn sống hài hòa,
giúp đỡ lẫn nhau tránh mọi nguy hiểm trước không gian rừng hoang dã.
2.1.2. Phong tục tập quán những vùng miền đi qua
Truyện ngắn của nhà văn Vũ Hùng không phải là truyện ngắn viết về đề
tài dân tộc miền núi mà chủ yếu là truyện về loài vật. Những câu truyện xoay
quanh đời sống sinh tồn của các con vật là mối quan tâm chính của ông. Thế
nhưng, trong truyện của ông, người đọc thấy hiện lên những giá trị văn hóa của
những vùng đất mà ông đặt chân đến. Phải nói rằng, Vũ Hùng đã có một nhãn
quan phong tục nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục của những miền đất mới
được miêu tả sinh động nhưng cũng rất gần gũi với đời sống con người. Vũ
Hùng đã khéo léo trong cách viết của mình để bạn đọc có thể cảm nhận những
phong tục tập quán một cách nhẹ nhàng và hứng khởi nhất.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời sống
xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”[36;355]. Còn Bách khoa toàn
thư mở lại định nghĩa về phong tục một cách cụ thể như sau: “Phong tục là toàn
bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch
sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi
thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó
trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.
Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chí
một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia
thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người,
như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ
thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời
tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con
người...”[66]. Phong tục là đặc trưng văn hóa dân tộc, là niềm tự hào của một
cộng đồng người từng quần tụ với nhau hàng nghìn năm trong một vùng lãnh
36
thổ. Đó là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận
và làm theo. Việc thể hiện phong tục trong tác phẩm đem đến cho người đọc
những tri thức bổ ích về đời sống, những hiểu biết thú vị về những vùng trời xa
lạ hay về một thời kì lịch sử không còn vang bóng. Thông qua những trang viết
đậm màu sắc phong tục, người đọc biết được ở thời kì ấy, miền đất ấy, dân tộc
ấy có những thói quen sinh hoạt, cách ăn mặc, nói năng, vui chơi, lao động, cách
giao tiếp, ứng xử, những nghi lễ tôn giáo... như thế nào.
Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ngoài bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ, thơ mộng là những nét đẹp về phong tục, tập quán, tục lệ của người dân
bản địa nơi mà nhà văn đã đặt chân tới. Chủ yếu ở đây là những tục lệ của đồng
bào dân tộc Lào cư trú ở phía Tây dãy Trường Sơn – nơi mà nhà văn Vũ Hùng
đã gắn bó suốt những năm tháng cuộc đời.
Tết Lào – những cái Tết đậm đà bản sắc của dân tộc Lào. Người dân háo
hức và rộn rã chuẩn bị cho những ngày Tết: “Chỉ còn một ngày nữa là đến Tết.
Một năm mới lại bắt đầu. Cả làng Vông – xay đã nghỉ việc từ mấy hôm trước...
Mong có dịp vui chơi sum họp, đó là thói quen của mọi người ở làng Vông –
xay. Mỗi khi có hội, làng bản đang im lìm như vụt dậy. Vì thế ai nấy đều tìm hết
cách để mở những cuộc vui. Có người muốn dựng một căn nhà mới. Việc bình
thường như thế cũng đủ làm làng bản tưng bừng. Ở các làng Lào không có tục
thuê mướn người làm vì không ai có tiền để trả công. Mọi việc đều nhờ bà con
làm giúp. Người chủ thu thập gỗ tre rồi gọi người làng đến dựng. Tối hôm trước
họ cùng vợ con mặc quần áo mới, đi tới từng nhà. Hôm sau cả làng vui vẻ kéo
đến làm việc dưới quyền một bác phó cả. Vợ con người chủ cùng các bà các cô
trong làng nấu một bữa cơm ngon mời khách. Buổi tối khi công việc đã xong,
mọi người ăn uống no say rồi mở một đêm hội nhỏ mừng nhà mới. Đốt đuốc
sáng trưng. Các cô gái ngồi khép nép trên những chiếc chiếu, miệng nhau trầu.
Dàn nhạc nổi lền, trai làng thổi những cây khèn dìu dặt. Một ông già hát theo
một bài nhạc “lăm”, kể lại một câu truyện gì đó từ ngàn xưa....”[30;16]. Ngày
Tết của những người dân Lào thật tấp nập, họ không ăn Tết theo gia đình riêng
mà sinh hoạt cộng đồng sum họp, quây quần. Lũ trẻ cũng như người lớn luôn
háo hức và khao khát hội hè. Chúng chờ từng ngày để được đến Tết. Những đứa
con gái thì bận rộn suốt ngày với chậu nước thơm. Chúng cùng bạn bè đi hái hoa
37
rừng, lau cẩn thận từng cánh rồi ngâm vào chiếc bình lớn. Khi màu nước ngả
sang màu của những cánh hoa, chúng đổ ra những thau bạc xinh xắn. Những
người phụ nữ trong gia đình thì quét dọn nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm, xếp ra sàn
những chiếc mâm mây mới và những tấm đệm rực rỡ để tiếp khách. Những đứa
con trai thì bận rộn với đàn voi và cho chim, cá ăn. Những người đàn ông trụ cột
của gia đình thì sửa soạn bữa tối thay cho vợ và con gái để họ mang chim, cá ra
bãi sông phóng sinh. Hàng năm vào dịp Tết, người dân Lào đem thả cá, thả chim
để cầu phúc, chuộc lại những lỗi làm mà họ đã mắc phải trong năm cũ. Tâm hồn
người dân ở đây thật trong trẻo và cao đẹp: “Các lồng chim đặt thành một hàng
dài trên bờ cát trăng. Lũ chim thấy đông người, nhảy loạn trên những cắng tre
trong lồng. Một ông già trong làng đi đến chiếc lồng đầu tiên. Lồng nhốt một
đôi khướu bạc má. Ông mở cửa và đứng tránh sang một bên. Đôi chim ló đầu ra
khỏi cái cửa lồng chật hẹp, đứng bỡ ngỡ một lúc rồi bay lên cao. Mọi người
nheo nheo mắt nhìn chúng bay đi. Ông già nói theo:
- Bay về rừng mà sống nhé! Lúc nào đi kiếm ăn qua làng thì đỗ xuống hót cho
chúng tao nghe”[30;64]. Ngoài việc phóng sinh các loài vật, người dân Lào còn
đi chùa để chuộc lỗi và cầu phúc. Họ mặc quần áo đẹp rồi dắt nhau ra chùa: “Ở
ngoài chùa, các tượng Phật được bày trên một bục lớn. Gia đình bác Bun – mi
cùng dân làng nghe các sư thuyết pháp và dự lễ tắm cho Phật. Nước tắm ngâm
hoa thơm được giữ lại và ông sư cả nhúng một nhành lá vào đó, rảy cho mọi
người”[30;63]. Không gian chùa chiền thật thiêng liêng. Những người dân được
gột rửa tâm hồn bằng những bài thuyết pháp. Họ tự tin và bình tĩnh để đón chào
một năm mới tiếp đến. Theo họ, một năm trải qua đều mang những gánh nặng
về lỗi lầm. Việc xóa đi những lỗi lầm của một năm là điều cần thiết nhất trước
khi cầu phúc, cầu lộc. Từ chùa về nhà, vợ chồng con cái lại ngồi quây quần cùng
nhau để xin lỗi nhau về các lỗi lầm và sự xô xát trong một năm qua. Rồi họ cùng
hứa với nhau sẽ sống một năm mới hòa thuận hơn, êm ấm hơn. Sau đó họ đi
thăm các nhà và rảy nước chúc phúc cho bà con làng bản. Tết của người Lào mở
đầu cho mùa mưa và mùa mưa là khởi đầu cho mùa cày cấy: “Trong mấy ngày
Tết, người ta té nước đón mùa cày, tin rằng càng té nước trời càng mưa to, mùa
màng càng tươi tốt và ai được té ướt nhiều trong năm sẽ được hưởng nhiều phúc
lộc...”[30;65]. Họ rảy nước vào người nhau, trai gái và lũ trẻ thì nghịch ngợm
38
hơn, họ hắt từng thau nước vào nhau. Hết nước thơm, họ hắt nước sông. Ai nấy
cũng ướt lớt thớt và phải thay quần áo liên tục, những người quản tượng thì
phun nước bằng ống thụt còn lũ voi thì hít nước ở bồn và phun vào người dân
như những cơn mưa. Người dân Lào vui chơi như những đứa trẻ để quên đi
những vất vả, gian khổ của năm cũ và đón chào năm mới bằng những tiếng cười.
Họ đôn hậu, hồn nhiên và trong sáng, họ sống một cuộc đời bình yên và nhiều
hạnh phúc.
Dân tộc Lào ngày xưa cũng giống dân tộc Việt Nam, là một dân tộc
nghèo. Họ không có nhiều tiền bạc nên việc trao đổi hàng hóa là điều rất yếu để
phục vụ cuộc sống và điều đó đã trở thành tục lệ: tục trao đổi. Họ đổi cho nhau
những món quà của chính thiên nhiên – nơi họ sinh sống. Ai nấy cũng vui vì đổi
được muốn đồ mà mình yêu thích hoặc món đồ mà gia đình mình cần cho sinh
hoạt. Bà cháu nhà Phựng trong truyện Giữ lấy bầu mật đã có bao nhiêu dự định
về việc trao đổi. Anh em nhà Nựng rất yêu bà, thấy bà hay đau xương, Phựng
muốn lên làng Maca đổi xương cao hổ cho bà: “Làng Maca là một làng săn của
người Khạ trên lưng núi. Sau mỗi mùa mật, Phựng thường lên đó đổi lấy thịt
khô của họ”[19;32]. Hoạt động trao đổi hàng hóa được điễn ra giữa các làng với
nhau và giữa những người trong cùng một bản làng. Mỗi khi đổi được những
món đồ ưng ý, người dân Lào thường rất phấn khởi. Và mỗi khi nghe tin có
người qua đổi hàng hóa, người dân lại thấy rộn ràng, háo hức: “Người làng đã
tỉnh dậy từ khi nghe nổi tiếng mõ thứ nhất. Lũ trẻ chạy ra đứng nhìn ở ngoài
sàn. Chúng là những người đầu tiên thấy khách vì chúng không ngủ trưa. Rồi
chúng chạy thụt vào nhà để đánh thức cha mẹ, vừa gọi vừa hớn hở khoe mình
thấy khách trước. Khách đến! Khách đến! Tin truyền từ nhà này đến nhà khác.
Làng bản bỗng tấp nập. Có những bà vơ vội lấy gọi thịt khô, ống mật và sai con
cháu đi bắt gà vịt.
- Mau lên các cháu! – Họ giục giã – May quá! Nhà đang cần muối, cần dầu lửa,
đá lửa... Họ lầm tưởng khách là những người đi đổi hàng”[30;33]. Đối với họ,
khách đến đồng nghĩa với việc đổi hàng. Họ vui mừng và phấn khởi biết bao.
Cũng giống như dân tộc Việt Nam, người dân Lào rất mến khách: “Trên
đất Lào, người đi đường xa với cái túi rỗng cũng có thể đến mọi nơi. Người Lào
mến khách và không vụ lợi, nhiều khi nuôi khách hàng tháng trong nhà. Họ làm
39
việc đó vì lòng nhân đức, không đắn đo, không mong được đền ơn dù họ cũng
rất nghèo. Chỉ cần bước lên sàn là đã được họ mời ăn, khách lỡ đường không
cần phải cầu xin. Khi ra đi, chỉ cần vài lời cảm ơn hoặc nếu có vật gì đó tặng
cho họ thì họ đã lấy làm sung sướng lắm”[30;9]. Khi có khách đến nhà, họ buộc
vào tay khách những sợi dây xe bằng bông, mỗi người được buộc đến bốn, năm
sợi đầy cả cổ tay. Đó là dấu hiệu để chúc phúc. Ở đây, người dân Lào “sống
cách biệt với mọi nơi, không có báo chí, không có phương tiện liên lạc. Cuộc
sống cứ đều đều, phẳng lặng. Mọi nhà săn bắn và cày cấy chút ít, vừa đủ cho
nhu cầu, rồi sống trong cảnh an nhàn, không ham muốn gì hơn. Người ta chỉ
làm lụng cốt cho đủ ăn, đủ mặc, có một ngôi nhà để ra vào và thỉnh thoảng có
một vài món ăn ngon để đưa ra chùa cho các sư. Còn những cái khác, họ coi là
cái xa hoa mà muốn đổi lấy thì mất cả nghỉ ngơi, yên tĩnh”[30;35] và “Người
Lào luôn muốn sống một cuộc đời yên ả không bận tâm suy nghĩ về bất cứ điều
gì. Đối với họ niềm vui và nỗi buồn đều rất mau qua” [24;58]. Họ còn là những
con người vô cùng giản đơn và dễ tính: “Người đi xa trên đất Lào vẫn làm như
thế: những vườn mía, nương dưa vắng chủ, nếu cần thiết thì cứ việc ăn rồi treo
đâu đó, ở chỗ dễ nhìn, một món quà. Không ai lấy trộm những món quà ấy”
[51;46]. Thời gian rảnh rỗi, họ thường “làm chua” mời mọi người cùng ăn. Món
chua này rất giản dị, chỉ gồm: Trái me, muối ớt, cà dại và lá thơm đem giã. Họ
vừa ăn vừa trò chuyện: “Món ăn tầm thường nhưng theo thói quen của người
Lào, thiếu nó câu truyện sẽ bớt mặn mà”[30;77]. Họ ngồi lại với nhau để kể cho
nhau nghe những câu chuyện giản dị của đời sống hàng ngày và cùng nhau thư
thái trong những giây phút an nhàn. Họ thanh thản ngay trong chính những ngôi
nhà tối và ít cửa mà họ dựng lên: “Người Lào có dụng ý: nhà là nơi để nghỉ
ngơi mà ở nước Lào thì trời nắng quá, lúc nào cũng chói chang” [30;34]. Ở các
làng Lào thời ấy không có trường học, “họ vào chùa theo tục lệ để học chữ và
học những bổn phận làm người. Họ học kinh kệ, học các truyền thuyết của đạo
Phật, học đọc, học viết, học yêu thương ông bà, cha mẹ và bạn bè, học chia sẻ
buồn vui với những người bất hạnh, học yêu thương súc vật... Ba năm sau, tới
tuổi mười lăm, mười sáu, khi đã đọc thông viết thạo, họ ra khỏi chùa để trở về
sống lại với gia đình” [24;63]. Khi họ đã lớn, thoạt đầu cuộc đời trần thế khiến
họ trở nên nghiêm nghị, đăm chiều dù tuổi đời còn nhỏ. Nhưng rồi cuộc sống,
40
công việc và bầy voi cuốn hút họ: họ dần quên kinh kệ và những nỗi khổ hạnh
trong chùa, chỉ còn nhớ chữ nghĩa và lòng nhân ái. Những người con trong gia
đình khá giả thì được học cao lên rồi trưởng thành và đi làm ở một nơi xa. Còn
những đứa trẻ nhà nghèo thì về phụ việc cho ông/ cha, họ học cách chăm sóc lũ
voi, điều khiển nó làm việc, lăn lộn trong những cuộc săn... Khi chắc chắn đứa
con của mình đã thành thạo trong nghề, người cha trao cho con cây đòng. Họ
chuyển vị trí ngồi trên đầu con voi cho chúng, người cha lui về ngồi ở phía sau.
Những người dân Lào không chỉ hiếu khách mà họ còn là những con người của
sự biết ơn. Khi được người khác giúp đỡ để làm một việc gì đó, họ thường trả ơn
bằng những món quà, đó có thể là những con mồi mà họ săn bắt được hoặc là
những món quà mà họ tự tay làm ra. Ví dụ như, khi người Lào được tặng một
chú chó, người được tặng sẽ mang con mồi đầu tiên mà chú chó đó săn được
biếu cho người tặng. Hoặc khi được người khác cứu sống con vật nuôi của mình,
họ sẽ tặng lại chúng...
Dân tộc Lào có tinh thần cố kết cộng đồng rất cao. Đối với họ, niềm hạnh
phúc được hình thành khi giúp đỡ và đùm bọc nhau. Họ cùng nhau săn bắn và
chia sẻ những thành quả đạt được: “Mùa nhung năm nay được to, mỗi người
đàn ông đã cắt được hai ba cặp. Họ cúi mình, hai cánh tay vạm vỡ xốc từng con
nai còn nóng hổi lên vai đem về vứt giữa trại. Đàn bà chặt củi, nhóm những
đống lửa ngùn ngụt. Đàn ông xả thịt. Họ cắt ra từng tảng thịt đỏ tươi, thớ còn
rần rật. Cả trại nom như một cái chợ bán thịt, kì lạ, đầy những đùi, lườn, bắp,
vai, móc lủng lẳng vào giàn sấy cạnh ngọn lửa. Những giọt mỡ nhỏ xuống than,
cháy xèo xèo, tỏa lên một mùi thơm ngậy. Khói bốc nghi ngút làm màu đỏ ám
dần và thịt quắt lại. Lũ đàn bà gỡ những tảng thịt đã khô cong xếp bỏ gùi và
treo thay vào đó những tảng thịt tươi. Những cái gùi cứ đầy lên. Khi đi, gùi của
họ rỗng không. Đến khi tàn mùa nhung, trở về bản, lưng ai cũng trĩu xuống vì
gùi thịt đầy ụ”[33;32]. Họ sống rất hòa thuận với nhau mà không toan tính, ích
kỉ. Ví như: khi đi rừng, nếu thấy bầu mật to đã được đánh dấu – có thể các dấu
là khác nhau do mỗi người tạo ra, người dân Lào đều nhận biết được các dấu của
mỗi người trong bản làng – họ sẽ bỏ đi và không bao giờ lấy những bầu mật đã
được đánh dấu. Họ săn bắt, khai thác thiên nhiên là thế, nhưng người dân Lào là
những con người có ý thức giữ gìn thiên nhiên, sinh cảnh. Họ chỉ săn đủ lượng
41
thức ăn cần thiết. Khi đi săn hươu, họ luôn đem theo một gói thuốc độc và một
gói thuốc giải. Họ thả xuống những vũng nước thuốc độc rồi khi thấy số lượng
con vật đã đủ, họ sẽ thả thuốc giải xuống những vũng nước độc đó. Họ dành mồi
cho những mùa săn tiếp theo. Để giữ lại những con mồi, họ còn sáng tạo ra
những câu chuyện thú vị, bí ẩn: “Một truyền thuyết dễ thương đã được thêu dệt
quanh tiếng nước rơi từ các thạch nhũ: mùa xuân, thần gió căng những dây đàn
trên cặp gạc của bọn cà tong và bọn hươu nai, đánh lên thánh thót theo tiếng
chim, cho muôn loài vui chơi ca hát. Cứ lắng nghe đi, sẽ thấy tiếng đàn ấy giữa
muôn thứ tiếng rừng. Vì thế mà vào mùa xuân, bọn cà tong và hươu nai được
coi là những con vật thiêng. Không ai săn bắn chúng trong những ngày ấy. Mà
có săn bắt thì cũng trượt mồi... Ai cũng biết đấy là chuyện hoang đường vậy mà
vẫn cứ tuân theo, Đó là một tục lệ để giữ mồi săn: mùa xuân là mùa chúng sinh
sản”[30;15].
Tuy là những người dân hiếu khách, hiền hòa và thân thiện nhưng trong
cộng đồng người Lào cũng có những tục lệ riêng được quy định chặt chẽ. Căn
buồng của những cô gái là điều cấm kỵ người lạ bước chân vào: “Theo phong
tục Lào, buồng cô gái là nơi thiêng liêng, không một người lạ nào được bước
vào. Người ta tin rằng các cô gái không giữ được như vậy sẽ không được trời
phật ban phúc và sẽ bị mọi người khinh rẻ”[30;51]. Hay như để xin vào các hội
săn của làng hoặc xin được làm quản tượng, người ta cũng phải thực hiện đúng
như tục lệ đã đặt ra. Người bố phải đến từng nhà mời người làng sang uống
rượu. Từ già làng, các tay săn lão luyện và bọn trẻ đều có thể đến dự. Người mẹ
phải chuẩn bị xôi thịt đầy đủ: “Rượu cần được làm bằng nếp thơm trộn men, bỏ
vò và chôn sâu dưới đất. Trên làng Khạ, nhà nào cũng có sẵn dăm vò, khách
đến mới đào lên... Hàng năm, làng săn nhận vào phường săn một lứa con trai
đến tuổi... Bố mẹ chúng đang giã gạo, hong thêm thịt, sửa soạn mời mọi người
đến uống một bữa rượu mừng”[30;36]. Trong bữa tiệc rượu, những người già
lão luyện lần lượt đến bên cạnh đứa trẻ để chúc cho nó nhiều điều tốt lành trên
chặng đường săn sắp tới.
Tục xin làm quản tượng thì khó khăn và nhiều thủ tục hơn. Người xin
phải trải qua một cuộc thử thách của quản tượng cao tuổi nhất làng - người được
các quản tượng trao quyền trong cuộc họp quản tượng. Vượt qua được, họ sẽ
42
được làm quản tượng. Thời gian chuẩn bị là ba tháng, người xin làm quản tượng
sẽ phải học cách điều khiển con voi của mình, hiểu tâm lý nó và biết cách chữa
bệnh cho nó. Cuộc thử thách được diễn ra căng thẳng và gay cấn trước sự chứng
kiến của các quản tượng, các bậc bô lão và toàn bộ dân làng. Người nào hoàn
thành tốt bài thử thách sẽ được làm quản tượng và được người quản tượng cao
tuổi nhất trao cho cây đòng – biểu tượng của sự chiến thắng và uy quyền. Ngoài
ra, quá trình huấn luyện một con voi cũng vô cùng chặt chẽ. Khi bắt được một
con voi hoang, người dân Lào sẽ xích chúng ở bìa rừng bỏ cho đói khát vài hôm,
đến khi nào chúng chịu ăn thức ăn mà con người mang cho và không có biểu
hiện phản kháng, bứt phá nữa mới được rong chúng về làng để rèn luyện: “Ngày
xưa theo lệ thường, khi bắt đầu rèn voi, quản tượng nung đỏ miếng sắt đốt cháy
da con vật ở phía sau tai nó, làm thành hai vết thương. Hai vết thương này họ
bắt con vật phải mang suốt đời để khi con vật trở chứng, không chịu nghe lời,
thì đâm đòng vào đó” [26;23]. Không những thế, trong các cuộc săn voi cũng
diễn ra rất gay cấn. Các quản tượng và voi được triệu tập: “Trước hết là việc
chọn người. Mỗi con voi có một người quản tượng chính và một quản tượng
phụ. Dù con voi có thạo săn, có dũng cảm nhưng người điều khiển tồi thì hiệu
quả của cuộc săn cũng sẽ rất kém. Hơn nữa có thể xảy ra chết người, chết voi.
Vì vậy chỉ các quản tượng tài năng mới được chọn làm người điều khiển. Những
quản tượng bình thường thì bị đưa xuống hàng phụ việc”[24;65]. Sau đó, quản
tượng và voi được chia làm các tổ riêng biệt với những nhiệm vụ khác nhau.
Trước khi đi săn, người ta tổ chức tiệc rượu vui vẻ: “Ăn xong đoàn thợ săn
chuẩn bị lên đường. Mỗi người đốt một đôi nến nhỏ gắn lên cặp ngà con voi của
mình. Bên đống lửa đã cháy gần tàn, những cặp nến sáng lung linh như những
vì sao”[24;66]. Người quản tượng già cả nhất sẽ ngồi xếp trước lư trầm tỏa khói,
thành kính chắp tay trước ngực và cầu nguyện: “Bác nguyện với thần của rừng
và thần của các loài voi chỉ bắt những con voi tới tuổi làm việc và sẽ hết sức
tránh gây đổ máu cho lũ voi hoang” [24;60]. Những cuộc đi săn thường diễn ra
ác liệt và dữ dội. Đó là sự chống chọi giữa tự do và nô lệ, quyết liệt hơn cả sự
chống chọi giữa cái sống và cái chết. Đối với người Lào, con voi là tài sản riêng
vô cùng quý giá của mỗi gia đình: “Từ bao lâu nay, “tiểu sử” của lũ voi nhà
được người các làng voi ghi trên lá “bay lan” để truyền lại từ đời cha ông đến
43
đời con cháu. Không phải người làng voi thiếu giấy nhưng họ đã quen dùng thứ
lá rừng này từ ngày xưa vì chỉ có nó mới giữ được bền, thích hợp với đời sống
lâu dài của loài voi”[30;133]. Nếu con voi sang tay một người quản tượng khác,
người đó sẽ được tiếp nhận tập lá “bay lan” để viết thêm những trang sử hào
hùng của con voi đó và truyền lại cho thế hệ nối tiếp. Cứ như thế, cuộc đời của
mỗi con voi được ghi chép rất cẩn thận trong từng tập lá và được gìn giữ chu
đáo. Có thể thấy rằng, nhà văn Vũ Hùng không giống như những nhà văn khác,
ông chọn lựa viết về tục lệ của người dân tộc Lào – cộng đồng người mà ông đã
gắn bó trong suốt một chặng đường đời. Ông yêu quý và trân trọng họ trên từng
trang văn, giúp người đọc có thể nhận ra rằng: tình yêu thương xuất phát ở mọi
nơi và luôn tồn tại trong tâm hồn những con người đôn hậu. Nhà văn Vũ Hùng
chia sẻ, những cuộc hành quân dài dặc, vất vả trong đời lính đã mang lại cho
ông nhiều khám phá về thiên nhiên, đất nước, về phong tục tập quán của các dân
tộc Việt – Lào anh em bao đời từng chung sống trên một dải Trường Sơn. Vùng
biên giới phía Bắc hùng vĩ, với “những ngọn núi mây phủ triền miên, những
rừng thông vi vút” hay vùng biên giới phía Tây, trong lòng dãy Trường Sơn với
“những cánh rừng chưa hề in dấu chân người, những ngọn núi tím biếc với
những hồ nước trong vắt trên đỉnh, những đồi lau và đồi tranh vàng rực dưới
nắng thu, những bầy thú mà ta dễ dàng gặp trên đường: những con tê giác cuối
cùng, những bầy hươu nai, bầy voi, những con bò tót hùng tráng, lũ báo gấm
uyển chuyển”[30;70] và câu chuyện của những người đi rừng lão luyện với
“một ngôn ngữ giản dị, ít lời nhưng nhiều hình ảnh, thứ ngôn ngữ riêng chỉ có
trong rừng”[30;70] chính là nguồn cảm hứng để ông viết những tác phẩm ấy.
Qua những tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hũng muốn các độc giả thiếu
nhi hiện nay hiểu về một thời chưa xa lắm, thiên nhiên đất nước ta tươi đẹp,
trong lành như thế, muông thú phong phú như thế, và con người hiền hòa như
thế. Dân tộc Lào, một dân tộc anh hùng với những tục lệ đậm bản sắc như: Tết
Lào, tục trao đổi, tinh thần mến khách, hào hiệp và tính cố kết cộng đồng cao là
những hình ảnh đẹp xuất hiện nổi bật và rực rỡ trong từng trang văn của ông.
44
2.2. Đời sống của loài vật
2.2.1. Bản năng sinh tồn
Mỗi loài động vật đều có một đời sống sinh tồn và phát triển khác biệt.
Bằng khả năng quan sát tinh tế và tài tình, nhà văn Vũ Hùng đã mang đến cho
độc giả trẻ thơ nói riêng và chúng ta nói chung một cái nhìn toàn diện về đặc
điểm sống và sinh hoạt của các loài động vật. Ông như một nhà nghiên cứu động
vật học. Bởi nhờ chính cái nhìn của ông, một thế giới loài vật hiện lên rất chân
thực và sâu sắc. Ông quan sát và miêu tả loài vật đồng thời dưới con mắt của
một nhà nghiên cứu và một nhà văn. Qua đó, các em nhỏ có những hiểu biết lý
thú và mới mẻ về thế giới loài vật.
Mỗi tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng là một cách thức sinh hoạt, cách
kiếm sống và duy trì nòi giống của các loài động vật khác nhau. Hình ảnh của
chú ngựa Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ đang ở vùng thảo nguyên Mông
Cổ với cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của mình thì bất chợt gặp sự thay đổi.
Đó là một chú ngựa sinh ra trên một đồng cỏ thuộc miền Nam nước Mông Cổ,
kéo dài từ chân núi Antai cửa ngõ của sa mạc Gôbi. Tác giả đã miêu tả đây là
vùng thiên nhiên khắc nghiệt của thế giới. Với mùa hè chói chang, nóng bức và
gió bụi, cây cối khô cằn; Mùa đông lạnh lẽo, ảm đạm và bị tuyết phủ kín; Mùa
thu đẹp đẽ, trong sáng nhưng ngắn ngủi; mùa xuân gió lốc, tuyết tan, bão tuyết
và lụt lội nặng nề: “Đây chỉ là một vùng nửa sa mạc mênh mông, lác đác những
cồn cát và phủ một lớp cỏ lưa thưa hầu như cằn cỗi quanh năm. Không một bụi
cây nào có thể sống ở nơi này, trừ một loài cây không lá, thân khẳng khiu như
chiếc gậy, chọc rễ xuống tầng đất sâu thẳm để hút những giọt nước hiếm
hoi”[18;15]. Nơi mà chú ngựa Antai ra đời và sinh sống là một nơi khắc nghiệt
với điều kiện thiên nhiên khó khăn. Tuy vậy nơi đó vẫn nuôi sống chú ngựa
cùng bầy đàn của mình. Nhà văn Vũ Hùng đã miêu tả chi tiết về đặc điểm của
Antai: “Loài ngựa của tôi khảnh ăn, nhặt từng nhánh cỏ non, đi lướt ở phía
trước. Theo sau chúng tôi là những bầy dê: họ vốn nhanh nhẹn, thiên nhiên
cũng đã phú cho họ những cẳng chân nhẹ tênh, chẳng khác gì loài ngựa. Tiếp
sau đó đến các bác bò yak lực lưỡng, mang bộ lông rậm rịt, lòa xòa. Cuối cùng
là những đàn lạc đà và những đàn cừu chậm chạp. Họ lầm lũi, kiên nhẫn nhặt
nhạnh những cọng cỏ còn vương lại và khi bầy đàn chúng tôi lướt qua, cỏ của
45
một vùng đã bị gặm trụi, phải mất nhiều tháng sau mới mọc lại”[18;15]. Chỉ
bằng một đoạn văn ngắn, độc giả đã hiểu được cách thức kiến ăn của một cộng
đồng loài vật: ngựa, bò yak, lạc đà, dê, cừu... trên một vùng thảo nguyên rộng
lớn. Chúng chia sẻ với nhau chút thức ăn ít ỏi trên thảo nguyên với đặc tính
riêng của từng loài.
Những đặc điểm khác của loài ngựa được Vũ Hùng miêu tả một cách cụ
thể. Loài ngựa là một loài động vật có trí nhớ lâu bền, có tuổi thọ khoảng ba
mươi và ngựa thảo nguyên sẽ sống lâu hơn ngựa nuôi vì nó được sống trong môi
trường hoang dã, trong lành: “Thiên nhiên không bắt chúng tôi phải chịu một
thời sơ sinh kéo dài và một tuổi già triền miên dai dẳng. Thời bất lực của chúng
tôi – thời phải nhờ cậy mẹ cha che chở - không vượt quá hai năm. Tuổi già đến
đột ngột nhưng mau chóng”[18;22]. Xung quanh chú ngựa Antai không chỉ có
bầy đàn của nó mà còn có rất nhiều các loài động vật khác: “...các bác bò yak
với những tấm áo lòa xòa màu đen hoặc nâu sẫm, đàn lạc đà đứng cao lêu
nghêu với những chiếc bướu to phồng trên lưng, dê và cừu chen chúc ở phía
dưới”[18;22]. Những chú ngựa non được sinh ra bị ẩm ướt và rét mướt làm cho
yếu đuối. Còn những con bò yak mới sinh “nhờ có bộ lông dày nên không thấy
rét, đứng vững trên những cặp chân ngắn, đang thở phì phì. Họ có dáng dữ tợn
ngay từ thưở lọt lòng. Bọn lạc đà con, cao lêu nghêu như bố mẹ họ, trông chẳng
cân đối chút nào: chân và cổ họ quá dài nhưng mình lại quá ngắn và bụng sớm
to tròn. Đó là một đặc điểm bẩm sinh: họ cần chứa nhiều cỏ trong mùa hè để
sản xuất nhiều mỡ dành cho mùa đông... Họ có cặp mắt rất đen và rất lớn, nhìn
đâu thì đăm đăm, lộ bao vẻ ngơ ngác, rụt rè...”[18;22]. Khi có bão tuyết nổi lên
trên thảo nguyên, các loài động vật cùng quy tụ nhau lại để cùng giúp nhau tồn
tại. Đó là sự đoàn kết: “Đàn bò yak, đàn lạc đà và cả bầy ngựa của tôi cũng tìm
về sau dãy đá. Tất cả không giữ riêng bầy như mọi khi mà chen chúc lẫn lộn làm
thành một khối đông cho ấm. Cừu và dê nằm ở vòng trong, rồi đến ngựa và lạc
đà. Cuối cùng là các bác bò yak, họ luôn luôn ở vòng ngoài vì họ có tấm áo ấm
rất dày. Tất cả đều nằm xuống để tránh gió”[18;28]. Những chú ngựa mẹ thì
“tựa lưng và vùi đầu vào nhau, làm thành một vòm mái để che cho bọn ngựa
con”[18;28]. Đó là kinh nghiệm trong bầy ngựa, nếu ngựa mẹ cũng nằm xuống
thì bầy con sẽ bị tuyết vùi cho chết ngạt hoặc chết cóng. Khi gặp bất ngờ hoặc
46
không vừa ý điều gì đó, những chú ngựa lập tức hí vang và dựng hai chân trước
lên, khua khua trong gió. Những chú ngựa đồng cỏ vốn quen với môi trường
sống mênh mông trên đồng cỏ thảo nguyên với thức ăn là cỏ gai và lúa mạch
nay bị giam cầm trong những chiếc lồng sắt: “Người ta nhốt chúng tôi trong cái
chuồng chật hẹp, bốn phía là những gióng gỗ ngổn ngang. Ngày đêm chúng tôi
thiếu khoảng rộng, thiếu không khí và thiếu gió”[18;91] sẽ làm cho chú ngựa
bức bối và khó chịu. Có thể thấy đời sống của loài ngựa ưa chuộng sự tự do và
phóng khoáng.
Trong truyện Bí ẩn của rừng già, nhà văn Vũ Hùng đã miêu tả tỉ mỉ về
đời sống sinh hoạt của một số loài động vật. Hươu nai vốn là những con vật hiền
lành và can đảm. Chúng làm tổ và ẩn náu trong những bờ lau, bản năng sinh tồn
đã khiến chúng chọn bờ lau là nơi để tránh kẻ thù: “Đường vào ổ bừa bộn lá
khô, không một kẻ thù nào đến gần mà chúng lại không biết trước để phóng
chạy”[32;12]. Hươu nai là những con vật cân đối, nặng không quá 60 ki lô gam,
“bộ lông mịm màng thay đổi tùy theo con từ màu vàng tươi sang màu vàng
sậm”[32;12]. Chúng cũng thường sống ở gần vùng đầm lầy với đặc tính bơi lội
giỏi và không ngần ngại đánh bại lũ chó săn. Một loại khác trong bầy Hươu nai
là bọn Cà tong, chúng là những con vật thanh mảnh và có bốn cẳng chân nhẹ
tênh: “Khi mới ra đời, chúng mặc một bộ áo vàng chi chít những đồng tiền
trắng. Năm tháng qua đi, những dấu trắng ấy bay dần như sao đêm rời khỏi bầu
trời buổi sớm và khi chúng bay hết thì con thú bước vào tuổi trưởng thành. Cà
tong sống ở những trảng cỏ xa vắng nên ít gặp người, chúng rất vụng dại”.
[32;14]. Chúng không nhận ra rằng con người là mối nguy hại đối với chúng.
Khi chú nai con ra đời được chừng mười tháng, cặp gạc đầu tiên bắt đầu
mọc:“Mầm non của cặp gạc gây cho chú nai biết bao đau đớn. Nó ốm khặc khừ.
Nó tìm vào một nơi tĩnh vắng, nằm phục trên một nệm lá, chờ cho cặp gạc trồi
ra. Cuối cùng, sau cơn đau đớn, ở hai bên trán của chú nai con mọc ra hai
chiếc sừng non. Người ta gọi chúng là nhung vì chúng được bọc trong một lớp
da lông mịn như nhung. Cặp nhung thường chia nhánh và rắn lại thành đôi gạc.
Chú nai con trưởng thành”[32;15]. Nhờ đôi gạc, chúng có khả năng tự bảo vệ
mình khỏi thú dữ đồng thời kiếm ăn một cách dễ dàng.
47
Ba yếu tố tạo nên sức mạnh trong rừng. Đó là sức khỏe, tinh thần họp bầy
và tinh thần cảnh giác. Trâu rừng là những con thú hội tụ đủ ba yếu tố đó. Trâu
rừng sinh sống ở những đồng cỏ dưới núi: “Chúng chỉ di chuyển khi nào có hạn
hán, đồng cỏ bị nắng hun khô cháy và khi có mưa chúng lại trở về. Nơi chúng
sinh sống bao giờ cũng là một đầm nước hoặc một dòng sông. Đó là nơi chúng
ngâm mình sau khi đã ăn no”[32;21]. Chúng có tinh thần đoàn kết cao độ:
“Chúng đi kiếm ăn rồi trở về nơi ngủ đêm nằm thành vòng tròn, bên trong là
trâu già, trâu mẹ và nghé con, bên ngoài là trâu mộng”[31;22]. Khi ngủ, chúng
phân chia nhau canh gác nghiêm ngặt: “Con trâu đầu đàn, con trâu mộng vạm
vỡ, nặng suýt soát một tấn, canh giữ an toàn trong những giờ đầu tiên. Lúc ngửi
thấy hơi lạ, nó đứng phắt dậy, hét ầm ĩ và lúc lắc cặp sừng nhọn. Chỉ khi nào
thấy yên tâm nó mới lại nằm xuống và thong thả nhai lại mớ cỏ kiếm được từ
buổi chiều. Sau đó đến lượt một con trâu mộng khác canh. Con đầu đàn thở phì
phì báo hiệu và con kia cũng thờ phì phì để đáp lại là nó đã nhận nhiệm vụ. Cứ
thế nhiệm vụ canh gác được truyền nhau trong lũ trâu mộng, từ con này đến con
khác ở vòng ngoài”[32;24]. Những con trâu mộng đầu đàn gánh vác nhiệm vụ
to lớn là bảo vệ đàn khỏi thú dữ ăn thịt. Nó có tinh thần quả cảm cao và sẽ
không bao giờ bỏ chạy hay bỏ cuộc: “Con trâu mộng đầu đàn sẽ đối địch với hổ
trong lúc đàn trâu đứng cả dậy và con trâu mộng thứ hai đã nghênh sừng lên
sẵn sàng. Không bao giờ con đầu đàn bỏ chạy. Nó chiến đấu tới chết và khi nó
gục xuống thì ngay lập tức con trâu mộng thứ hai sẽ xông vào thay thế. Trong
trận quyết đấu, phần thắng thường nghiêng về phía trâu mộng vì nó dai sức và
chịu đòn giỏi hơn”[32;25].
Tê giác là con thú đồ sộ, nặng chừng hai tấn, nó di chuyển chậm chạp và
để lại những dấu chân in hằn trên đất rừng: “Nó khoác bộ da có nếp gấp trông
tựa chiếc áo giáp và mang chiếc sừng nghênh ngang trên sống mũi”[32;29].
Thời xưa và cả thời nay, Tê giác luôn bị săn lùng gắt gao nên giống loài ngày
một hao hụt. Nó là con vật cổ sơ và cô độc. Nó lang thang đi tìm bầy đàn của
mình ở khắp nơi để duy trì giống nòi: “Nó đi suốt đêm, đuổi theo cái bóng của
đồng loại không bao giờ tìm thấy, vừa đi vừa kiếm ăn, sáng ở đâu thì tìm một
chỗ rậm rạp để giấu mình ở đó rồi tối đến lại lên đường”[32;30]. Cùng giống
như hươu nai, tê giác là một loài vật hiền lành:“Nhưng nó phàm ăn, ăn cả gai
48
góc nên nước dãi lúc nào cũng rớm máu”[32;30]. Nó còn là một con vật đần
độn chuyên uống nước đục :“Nhìn dòng nước trong, nhìn thấy bóng biến dạng
của chính mình, nó tưởng kẻ thù liền nhảy xuống húc và giẫm đạp. Tới khi nước
đục ngầu và không trông thấy cái bóng đâu nữa, nó tưởng đã đuổi được kẻ thù
đi xa và lúc ấy mới yên tâm vục mõm xuống uống những hớp nước đầy bùn”
[32;30].
Hổ được coi là loài hắc ám trong rừng, nó uyển chuyển, nhanh nhẹn,
mạnh mẽ và hùng tráng: “Con vật thường mang bộ lông vàng với những vằn
đen, bộ lông hòa hợp với rừng. Khi hổ rình nấp thì rất khó phát hiện. Bộ lông
của nó biết đánh lừa, màu lông vàng hòa vào nền đất đầy lá úa và những vằn
đen lẫn với những cành củi khô. Trông con vật giống một mô đất có gác những
cành củi”.[32;44]. Cũng như tất cả các con thú có sức mạnh, hổ không bao giờ
sợ bị tấn công bất ngờ. Nó ngủ suốt ngày nhưng lại đi săn mồi vào ban đêm:
“Nó có cặp mắt xuyên bóng đêm, thấy rõ con người trong những căn nhà đã tắt
lửa. Cặp mắt ấy có sức thôi miên, nhìn con vật nào thì con vật ấy không đủ can
đảm và sức lực để chạy trốn. Tai hổ tinh tường, nghe rõ những bàn định của thợ
săn, dù nó đang ở rất xa trong rừng”[32;45]. Nhà văn Vũ Hùng còn đưa ra
những nhận định rất thú vị: “Hổ coi con người là kẻ thù truyền kiếp. Mỗi đêm,
bắt đầu cuộc săn, bao giờ nó cũng nghĩ trước hết đến việc báo thù con người.
Nhưng hổ lại rất hay quên. Khi tai nó chạm vào lá rừng, nó quên hết mọi chuyện
và thế là chẳng bao giờ nó thực hiện được ý định đó”[32;45].
Báo là loài thú dữ thứ hai đứng sau hổ. Chúng có hai loại là báo gấm và
báo đen:“Báo leo dây giỏi hơn mèo, đi từ cành nọ sang cành kia nhẹ lâng không
một tiếng động. Nó mềm mại nằm rình trên cao làm người thợ săn rất khó nhìn
rồi bất thình lình nhảy xuống. So với loài hổ thì báo tàn bạo, dữ tợn và nham
hiểm”[32;50]. Chó sói cũng là nỗi ám ảnh đối với các loài thú lành: “Trên
Trường Sơn, chó sói hợp thành bầy, bầy nhỏ ba bốn con, bầy lớn mươi con.
Chúng sống phân tán trong những hang hốc tối tăm, ban ngày ngủ, ban đêm
hợp đàn đi kiếm mồi. Trông chúng xấu xí, bộ lông màu xám hoặc màu vàng rơm
lúc nào cũng khô xác và lởm chởm. Chúng có cặp mắt nảy lửa và tiếng tru gọi
săn đầy uy lực. Người ta bảo nhiều khi lũ sói ngồi dưới những tàng cây nơi bọn
khỉ và vượn ngủ đêm, ngửa cổ lên tru những hồi ghê rợn. Chúng không phải làm
49
gì hơn, hiệu lực tinh thần đã thừa đủ. Lũ khỉ và vượn non giật mình, rời tay bám
cành, rơi lả tả xuống mõm chúng”[32;52].
Lũ thú lành còn có một kẻ thù nữa là chồn ma. Giống như báo, chồn ma
leo trèo giỏi và chạy nhanh như hươu nai: “Chồn ma thường rình bọn hươu nai
ở ven rừng, con thì nằm nép trên những tàng cây đầy chồi non, con thì ẩn náu
dưới những bụi rậm bên cạnh. Bất hạnh cho con hươu nai nào bị những chồi
non hấp dẫn đến gần chỗ chồn ma rình nấp. Từ trên cao chúng nhảy xuống,
bám chặt và cắn vào cổ nơi có động mạch lớn, bọn trong bụi rậm thì nhảy lên
cắn vào khoeo chân”[32;55].
Nhờ có vốn kiến thức sâu rộng về thiên nhiên và muôn thú cùng khả năng
quan sát tinh tế, nhà văn Vũ Hùng đã giúp cho người đọc hiểu và biết thêm về
bản năng sinh tồn cùng cách sống khác nhau của mỗi loài động vật.
2.2.2. Thế giới nội tâm
Trong truyện của nhà văn Vũ Hùng, mỗi con vật không chỉ hiện lên với
vẻ đẹp của ngoại hình và đặc tính riêng mà còn mang đời sống tâm hồn phong
phú. Chúng sống và sinh tồn theo những đạo lý riêng và có sức hấp dẫn với trẻ
thơ cũng như người lớn bởi những tính cách cao đẹp. Tình mẫu tử là tình cảm
thiêng liêng và cao quý đối với xã hội loài người. Không chỉ có vậy, giữa quần
thể các loài động vật, tình mẫu cũng tồn tại. Ở đây, tình cảm này không được thể
hiện qua hệ ngôn ngữ nói mà thông qua hành động, sự chăm sóc và dạy dỗ của
các loài động vật.
Chú ngựa đồng cỏ Antai được hưởng dòng máu cường tráng, hoang dã
của cha – một con ngựa hoang dã và dáng dấp đẹp đẽ của mẹ – một con ngựa
nuôi. Vào một buổi đầu xuân, tuyết chưa tan và cỏ vẫn bị vùi lấp trong những
lớp tuyết dày, Antai được sinh ra, chú đứng bỡ ngỡ vì chưa quen ánh sáng với
bộ lông ẩm ướt khiến chú rét run: “Gió đồng nội lùa qua bộ lông đang còn ẩm
ướt của tôi, khiến tôi rét run”[18;21], mẹ chú ngựa dù còn đang rất yếu nhưng
vẫn lo lắng cho đứa con của mình: “có lẽ vì trời quá lạnh và vì đã sinh đẻ nhiều
lần, mẹ tôi mệt rũ. Mẹ đứng thở hổn hển, hơi thở trông rõ thành từng luồng khói
trắng trong không khí giá buốt... mẹ cúi xuống liếm những hạt muối. Hơi thở
nóng hổi của mẹ luồn qua đám lông, phả trên làn da của tôi khiến nó săn lại rất
mau. Mẹ tôi được muối làm hồi sức, còn tôi thì được hơi thở của mẹ làm ấm áp
50
dễ chịu”[18;22]. Tình yêu thương của những người mẹ còn được kết tinh từ
dòng sữa ngọt ngào: “Tôi bú chộp chộp, khoan khoái nuốt từng giọt sữa ngọt
ngào và lát sau tôi đã no căng”[18;22]. Nhờ sự chăm sóc của ngựa mẹ, Antai
dần quen với ánh sáng của cuộc sống bên ngoài, chú thong thả ngắm nhìn và
cảm nhận về thế giới xung quanh.
Nuôi dưỡng và dạy dỗ đứa con của mình là một điều tuyệt vời nhất.
Không có người mẹ nào lại mong muốn con cái của mình gặp những bất hạnh và
nguy hiểm trong cuộc sống. Dạy bảo con cái là điều khó khăn nhưng họ luôn
hướng chúng theo một con đường ít sai trái nhất có thể. Loài vật cũng như vậy.
Chúng cũng dạy bảo con cái của chúng theo những luật lệ riêng biệt của từng
loài. Mẹ của Antai theo sát mọi hoạt động của chú, khi Antai mải rong chơi,
ngựa mẹ vừa lo lắng vừa nghiêm khấc nhắc nhở: “Từ nay tới ngày các con khôn
lớn, đừng làm một việc gì mà không hỏi ý mẹ. Con không thấy gió lạnh đang nổi
hay sao? Nó từ phương Bắc xuống, mang theo bão tuyết. Đêm nay bão tuyết sẽ
tới”[18;27]. Và cũng chính dưới trời bão tuyết đó, ngựa mẹ đã che chắn gió
tuyết cho Antai, nhờ hơi ấm của ngựa mẹ và sự giúp đỡ của ông chủ, chú ngựa
Antai đã sống sót. Ngoài ra ta có thể thấy, tình cảm của những đứa con dành cho
mẹ của mình như hình ảnh của chú lạc đà Mic trong câu truyện. Mic bị bão tuyết
làm cho lạnh cóng và cứng queo như một khúc củi. Ông chủ đã mang Mic vào
nhà và sưởi ấm. Khi Mic tỉnh dậy, chú kêu lên: “Mẹ tôi đâu?, tôi phải “về với
mẹ”; “bão tôi cũng về, tôi không muốn để mẹ ở một mình ngoài ấy”[18;32] rồi
Antai cũng nhớ tới mẹ và bầy đàn cũng đang run rẩy ngoài trời giông bão.
Những người mẹ đang run rẩy ngoài trận bão tuyết kia hẳn sẽ cảm động lắm khi
biết những đứa con yêu quý cũng đang lo lắng cho mình. Để giúp Antai sinh tồn
và chống chọi được với điều kiện khí hậu vùng thảo nguyên khắc nghiệt, ngựa
mẹ đã dạy bảo chúng rất nhiều điều: “Một con ngựa thảo nguyên cần phải khỏe
mạnh, nhanh nhẹn và thông thạo các luật lệ của cuộc sống rừng. Mẹ đã dạy tôi
những luật lệ đó. Nhờ mẹ, tôi đã phân tích được những cơn gió để đoán nhận sự
biến chuyển của thời tiết. Tôi biết lắng nghe để hiểu gió nói gì: nó là kẻ truyền
tin của thú rừng. Hãy nhìn đàn ngựa đang ăn trên thảo nguyên. Tất cả đều quay
về hướng gió. Gió là bạn chúng tôi. Gió nói với chúng tôi bằng tiếng rì rào và
mang đến cho chúng tôi hơi lạ để chúng tôi đề phòng”[18;42]. Ngựa mẹ còn
51
dạy ngựa con nhận biết các loài cây, cây nào ăn được, cây nào cần tránh xa:
“Vào những bữa đi ăn, mẹ dạy tôi nhận biết các loại cây cỏ, thứ nào ăn được,
thứ nào độc, cây cỏ nào có thể dùng làm thuốc cho loài ngựa...”[18;42] Dù có
vóc dáng lực lưỡng, cường tráng và quen với nắng, mưa, gió, bão, tuyết nhưng
những chú ngựa đồng cỏ cũng hay bị ốm đau. Tuy nhiên, chúng sẽ tự chữa lành
cho mình bằng những loại thuốc có sẵn trên đồng cỏ bao la nhờ sự hướng dẫn
của ngựa mẹ. Loài ngựa cần có trí nhớ lâu bền, ngựa mẹ cũng thường xuyên
giúp con rèn luyện điều đó: “Sau những bữa ăn no, mẹ thường dạy tôi luyện trí
nhớ và nhận hơi. Loài ngựa chúng tôi rất nhớ chủ cũ, nhớ nơi ăn ở, không bao
giờ lạc đường, ngay cả trong đêm tối. Đó không phải là một khả năng tự nhiên.
Muốn có nó phải rèn tập”[18;43]. Những con ngựa mẹ vạch ra những bài tập để
giúp ngựa con tập luyện: “Tôi rất ham những buổi tập cùng Xam. Mẹ Xam và
mẹ tôi đi những vòng rộng trên thảo nguyên. Dấu chân của họ lẫn vào muôn
ngàn dấu chân bừa bộn khác, nhưng vạch thành những con đường mà chúng tôi
nhận biết được tuy đó chỉ là những vết tích vô hình... Công việc bước đầu thật
khó khăn! Dấu chân chi chít nhiều đến nỗi dấu chân mẹ đôi khi chìm đi, tôi
không nhận ra được”[18;43] nhưng ngựa mẹ luôn theo sát quá trình tập luyện
của Antai để chỉ bảo và hướng dẫn: “Antai, con lầm rồi! Sao lại thế? Rà mũi
xuống thấp chút nữa đi!”[18;43]. Cứ như vậy, chẳng bao lâu những chú ngựa đã
quen với cách nhận biết dấu vết và các bài học rèn luyện trí nhớ. Ngựa mẹ cũng
luôn dạy ngựa con biết thích ứng với những đòi hỏi của đồng cỏ, không được đi
chơi xa và không ngủ một mình trên thảo nguyên dù là ban ngày. Lời dạy bảo
của mẹ là đúng đắn nhất. Nhưng chú ngựa Antai cũng hay nghịch ngợm và nông
nổi: “Một bữa tôi rủ Xam chạy thi tới một vùng xa tít, xa đến nỗi ngoảnh lại
nhìn mãi mà không thấy bóng dáng của bầy. Tới một vũng nước, chúng tôi đã
mệt lử. Uống xong tôi rủ Xam nằm xuống. Cả hai cùng thiu thiu. Lúc này tôi
chợt nhớ tới lời mẹ nhưng không chống lại được giấc ngủ. Mẹ lo xa đấy thôi, tôi
tự bảo mình. Giờ này làm gì có sói trên thảo nguyên. Trước khi nằm xuống,
chúng tôi đã cẩn thận nhìn khắp nơi, không thấy một điều gì khác thường: gió
thổi tới không mang một chút hơi lạ. Thế là chúng tôi yên tâm nhắm mắt và cả
hai cùng ngủ thiếp đi”[18;44]. Chính vì không nghe lời mẹ, Antai và bạn đã
phải nhận lấy hậu quả và một bài học nhớ đời. Trong lúc Antai và bạn ngủ thiếp
52
đi, đàn đại bàng, kền kền, chim ó,... đã đến. Chúng tưởng những chú ngựa là xác
chết và sà xuống rỉa thịt. Trong lúc vội vàng chạy trốn, đầu Antai đã đập mạnh
vào mắt bạn khiến con mắt u lên và lồi to: “nhử mắt kéo đầy. Gió thảo nguyên
cuốn cát bụi rắc vào con mắt Xam khiến nó càng sưng húp. Vừa nhắm một bên
mắt vừa đi, đầu Xam như nghẹo hẳn về một bên”[18;46] Còn về phần Antai, chú
bị một vết thương trên bụng, mãi mới lành và đóng sẹo. Mỗi khi nhìn vết sẹo đó,
Antai đều ân hận về việc làm của mình và chú đã có một bài học thích đáng.
Tình mẹ còn được nhà văn Vũ Hùng thể hiện sâu sắc trong các câu truyện. Khi
đàn sói kéo đến rình đàn gia súc, những con vật bị đe dọa, đặc biệt là những con
non. Sói dùng cách hăm dọa tinh thần để tách các con non ra khỏi vòng vây bảo
vệ, những con vật non yếu vì không cưỡng lại được sự hăm dọa của sói đã bỏ
bầy chạy trốn và thiệt mạng. Trong bầy đàn gia súc, một chú lạc đà non đã bị sói
ăn thịt. Lạc đà mẹ vì mất con nên kêu thất thanh, rền rĩ: “Loài lạc đà yêu con
đến chừng nào! Có những bác lạc đà mẹ mất con thổn thức suốt mùa đông. Họ
không chịu ăn uống đến nỗi bướu mỡ xẹp xuống, thân hình gầy rạc, chỉ còn da
bọc xương. Phải chờ đến mùa xuân, mùa sinh sản, họ mới nguôi nỗi buồn và
chịu ăn uống chút đỉnh để chờ đợi một đứa con khác sắp ra đời”.[18;64]. Mất
con là một sự mất mát và đau thương quá lớn đối với những người mẹ. Tấm
lòng những người mẹ trong mỗi loài vật đã cảm hóa được tâm hồn trẻ thơ.
Chú chó mẹ trong truyện Các bạn của Đam Đam tuy chỉ hiện lên qua vài
dòng miêu tả của tác giả, nhưng chúng ta cũng đã cảm nhận được tình yêu
thương và bảo vệ con cái của nó. Khi bị người lạ mang nguy hiểm đến gần đàn
con: “Chó mẹ chồm ngay dậy. Nó nhe nanh, gầm gừ và giận dữ nhìn kẻ gây sự
với nó bằng cặp mắt sáng quắc. Người chủ suỵt một tiếng dài. Con chó mẹ nhẫn
nhục cúi xuống. Nó lẫy mõm dũi vào bầy con, hẩy những con bám ở trên và cắn
gáy một con nằm dưới, bước ra khỏi ổ... con chó mẹ đặt nó xuống sàn rồi nhanh
nhẹn bước vào ổ lần lượt tha những con khác ra ngoài đặt kề bên”[29;15]. Chó
mẹ bảo vệ, chăm non và tránh nguy hiểm cho những đứa con. Đó là tình mẫu tử.
Hay như loài chim gáy trong truyện Phượng Hoàng Đất hy sinh thân
mình lao vào nguy hiểm để bảo vệ đàn con: “Một buổi chiều khi chim bố và
chim mẹ đi kiếm mồi, một con diều hâu đã nhìn thấy lũ chim nhỏ. Nó liệng vòng
giữa trời, cái đầu nghiêng ngó xuống khắp rừng. Từ trên cao thẳm nhìn xuống
53
như thế thì còn cái gì mà đôi mắt soi mói của nó chẳng nhìn thấy. Diều hâu sà
xuống đỗ bên cái tổ của đôi chim gáy. Lũ chim non thấy động, tưởng chim bố và
chim mẹ đã về, vội mở mắt vương cổ lên đòi ăn. Gặp đôi mắt nảy lửa của diều
hâu, chúng sợ quá, gục đầu lên lưng nhau và run bần bật...”[34;3]. Thấy bóng
dáng diều hâu, vợ chồng chim gáy vội vã bỏ mồi quay về tổ. Chúng lao đi vun
vút như những mũi tên. Diều hâu đang cà vuốt cho sắc để cắp chim gáy con.
Chim bố và chim mẹ không lao vào đánh diều hâu vì chúng biết chỉ một mỏ của
diều hâu là đủ giết chết chúng. Chúng nghĩ mưu lừa diều hâu: “Chim mẹ và
chim bố cùng sã cánh, bay chập chờn trước mặt kẻ thù. Trông chúng vật vờ như
đôi chim ốm, diều hâu chỉ việc giơ vuốt là cắp được... Thế là diều hâu dang
cánh bay lên. Đôi chim gáy vụt trở lên nhanh nhẹn. Chim mẹ vội lao xuống, bay
ngay về tổ trong lúc chim bố xập xòe bay đi, lấy thân mình làm mồi cho kẻ thù
đuổi theo. Nó bị bám riết vì diều hâu thấy nó to và béo hơn chim mái. Mỗi lần
diều hâu sà tới, nó lao vút đi rồi lại bay chập chờn, chờ kẻ thù đến gần. Cuộc
săn đuổi rất ác liệt. Nhiều lúc chim bố tưởng đã nguy, những chiếc vuốt nhọn
của diều hâu đã mấy lần quờ trên lưng nó làm những sợi lông nâu rơi xuống lả
tả”[34;4]. Cuối cùng chim bố đã nhử kẻ thù đi xa tổ chim non, nó len lỏi vào
những vòm cây và trở về: “Về đến tổ, chim bố đã thấy lũ con đã được mớm ăn
no. Chúng đang bình yên nằm nghếch đầu lên lưng nhau mà ngủ dưới chân
chim mẹ. Thấy chim bố về, chim mẹ chơm chớp đôi mắt nâu mở rất to... Nhìn
đàn con nguyên vẹn, chim bố cất tiếng gáy dồn vui vẻ”[34;5]. Chim gáy quên
ngay cuộc săn đuổi với diều hâu dù trải qua nhiều cơn nguy hiểm như vậy. Bằng
sự khôn ngoan của mình và tình yêu thương con, chim gáy đã đánh bại được
diều hâu để bảo vệ tổ và những đứa con thân yêu.
Chúng ta còn thấy sự hy sinh của voi mẹ thật đáng nể. Loài voi không có
hang ổ, vì ăn khỏe và bầy đông nên chúng phải thường xuyên di chuyển để tìm
kiếm đủ thức ăn cho cả bầy. Voi mẹ thể hiện tình cảm âu yếm với voi con bằng
cách vỗ vòi nhè nhè vào lưng voi con. Vừa di chuyển, voi mẹ vừa quơ vòi ngắt
vội những chồi lá non trên đường. Khi bầy voi đến một bờ sông mênh mông,
chảy siết với những tảng đá ngổn ngang. Chúng quyết định qua sông khi nhìn
thấy những rừng chuối bát ngát. Chú voi con hoảng sợ khi thấy nước cuộn dưới
chân. Voi mẹ nhẹ nhàng lắc lư cái đầu: “Đừng sợ! Ngậm lấy đuôi mẹ mà đi cho
54
vững”[34;33]. Nó ngúc ngoắc cái đuôi ngắn nhưng mập. Voi con ngậm lấy, nó
cẩn thận lấy vòi cuốn chặt phần trên cái đuôi rồi bước xuống nước: “Nước ngập
tới bụng nó. Hai con voi đực to lớn kèm hai bên, dìu nó đi”[34;33]. Đá dưới
sông trơn và nước chảy siết, mỗi lúc trượt chân, cái đuôi voi mẹ lại căng ra vào
kêu khục khục: “Đã đến giữa sông. Nước càng chảy siết, đá càng gập ghềnh,
voi con loạng choạng... rồi bỗng con voi chúi hẳn xuống. Phựt! Cái đuôi voi mẹ
không chịu nổi nữa, đứt rời ra. Voi con ngã lăn xuống nước giữa các tảng đá,
vòi còn cuộn chiếc đuôi rỉ máu. Voi mẹ vội quay lại và rống lên. Nó kêu không
phải vì đau mà là vì lo sợ. Tiếng rống thảng thốt làm cả bầy voi dừng lại. Mấy
con voi đi gần vội vàng xô đến cứu voi con. Chúng bước vội làm nước sông bắn
tung tóe. Voi mẹ lấy vòi cuốn lấy voi con. Nó gượng nhẹ nâng bổng con lên, mặc
cho dòng máu từ cái đuôi cụt chảy chan hòa xuống nước” [34;34]. Nhà văn Vũ
Hùng đã khẳng định ở cuối câu truyện của mình rằng: Mọi voi mẹ trên Trường
Sơn đều là voi cụt đôi và sự cụt đuôi là biểu hiện của tình mẹ.
Bầy ri cũng là những người cha, người mẹ mẫu mực khi dạy cho con
những đạo lí thường tình. Bầy ri non muốn đi dự hội theo lũ sáo xuống tận đồng
bằng. Chúng nhao nhao đòi mẹ mượn cho đôi cánh của bọn sáo. Ri mẹ kêu lên
lạ lùng và giải thích cặn kẽ cho đàn con hiểu: “Các con nói gì thế? Chẳng ai bay
xa được với đôi cánh mượn của người khác đâu... Không phải cứ cánh to mới
bay được xa. Mẹ đã xuống đồng bằng, khi bay qua các sân nhà mẹ gặp bọn gà
và ngỗng. Họ có những đôi cánh rộng chẳng kém gì cánh phượng hoàng vậy mà
họ vẫn không bay được”[34;7]. Ri bố đồng tình với ri mẹ và nó còn khẳng định:
“Chẳng mấy ai có đôi cánh khỏe như cánh chim ri nhà ta. Các con cứ bay đi,
bay mãi, bay mãi rồi cũng tới được đồng bằng như bọn sáo”[34;8].
Cũng giống như ngựa mẹ, các loài thú dữ cũng dạy con theo các đặc điểm
riêng biệt của loài. Với bản năng khắc nghiệt của hổ, chúng lựa chọn và dạy dỗ
bọn hổ con theo những luật lệ tàn khốc: “...Không bao giờ hổ mẹ để sống
những con hổ con thiếu sức mạnh, không đủ khả năng săn mồi. Khi bọn hổ
con tập nhảy xa và cào xé, lúc chúng được chừng ba bốn tháng tuổi, hổ mẹ
dẫn chúng ra bãi rộng. Nó nằm xuống, bắt lũ hổ con đứng từ xa lấy đà nhảy
qua. Con nào nhảy được nó để sống, con nào rơi trên mình nó, nó vả chết
liền”[32;47]. Cũng giống hổ, báo có cách dạy con hà khắc: “báo mẹ thường
55
hất lũ con non từ trên cao xuống đất và đòi hỏi con nào chạm đất cũng phải
tung được chân và nảy lên như một chú mèo. Hãy coi chừng những đứa con
nằm khuỵ xuống. Báo mẹ nhảy xuống và đứa con đó hết đời”[32;50] ;“Truyền
thống của loài báo là câm lặng. Một con báo không bao giờ kêu dù trong lúc
rình đợi hoặc giận dữ, trong lúc đói mồi hay đã no nê. Để rèn tập cho bầy
con thói quen đó, báo mẹ bấu chúng bằng những vuốt thép. Vuốt cắm vào thịt
lõa máu nhưng không con nào hé miệng. Báo mẹ chỉ cho phép chúng nhìm
bằng cặp mắt chất chứa căm hờn. Những con nào kêu vang rên rỉ hãy coi
chừng, chúng có thể không trở về sau buổi tập”[32;50]. Luật lệ dạy con của
các loài thú dữ thật khốc liêt. Tuy vậy, chúng muốn rèn luyện cho con mình
sự gan dạ và bản lĩnh kiên cường để săn mồi.
Thế giới loài vật trong truyện của nhà văn Vũ Hùng thật phong phú và
ngộ nghĩnh. Ở đó ta không chỉ bắt gặp tình mẫu tử thiêng liêng mà còn có tình
bạn cao cả. Trẻ thơ sẽ thấy bóng dáng của mình ở đâu đó trong từng trang truyện
của ông. Đó là hình ảnh của về những người bạn tốt.
Sao Sao – chú hươu con út trong gia đình Hươu Xám trong truyện Sao
sao đã có một tình bạn thật đẹp với sao Bông. Chú ra đời vào một ngày nắng ấm
tháng ba:“Vừa lọt lòng, được liếm khô bộ lông, hươu con đã sục tìm vú mẹ. Bú
no, nó bỗng thấy da săn, chân cứng. Nó nhỏm dậy, ngơ ngác dịu dàng. Ngả
người trên những cặp chân thanh thanh, nó lướt cái mõm ẩm ướt trên lưng, nơi
mọc rất nhiều những vì sao trắng”[23;1]. Nhìn những dấu vết trắng muốt trên
lưng, bố mẹ đặt tên cho nó là Sao Sao. Ngày xưa, ở làng Hươu thật sung túc,
thức ăn dồi dào “ra khỏi nhà một bước đã thấy thức ăn, nước uống”[23;2]
Nhưng do sinh đẻ quá nhiều, thức ăn ngày càng trở nên khan hiếm. Và làng
hươu đã có một luật lệ, các chàng hươu trưởng thành sẽ đi khám phá và tìm
kiếm những vùng đất mới tốt hơn để dời làng. Các anh lớn nhà Sao Sao đã đều
lên đường, dưới con mắt của những chú hươu làng hươu và Sao Sao, những
chàng hươu đi tìm vùng đất tươi tốt thật can đảm và dũng cảm. Sao Sao cũng ao
ước được lên đường như các anh của mình. Sao Sao có rất nhiều bạn, đều là
những cô cậu hươu đẻ cùng lứa với nó. Nhưng lứa đó, có một cậu hươu còi cọc
và cộc đuôi:“Cộc đuôi là bất hạnh lớn đối với thú rừng”[23;3] và cậu hươu đó
không may mắn khi mới sinh ra đã chịu tật nguyền. Cậu bị gọi là Hươu Cộc.
56
Sao Sao thấy hươu Cộc rất buồn vì điều đó: “Sao sao sớm nhận ra cậu hươu
bạn tuy còi cọc và cụt đuôi nhưng rất tốt bụng. Đôi mắt trìu mến của cậu lúc
nào cũng nhìn đăm đăm... vì người nhỏ, cậu có thể dễ dàng lách vào những chỗ
rậm rạp, vì thế luôn tìm được những vạt nấm ngon để gọi bạn đến ăn cùng. Cậu
còn rất can đảm. Không ai luồn qua gai góc tài bằng cậu. Một lần bầy hươu gặp
thú dữ, chính cậu đã nhử con thú đói mồi đuổi theo vào bụi rậm để bầy bạn chạy
thoát”[23;5]. Một cậu hươu tốt bụng như thế cần có một cái tên đẹp – Sao Sao
nghĩ vậy và chú đặt cho bạn một cái tên mới: Nai Bông. Biết bạn đặt tên mới
cho mình, Nai Bông thầm nhủ phải nhớ ơn Sao Sao mãi mãi. Sao Sao và Nai
Bông chơi với nhau rất vui vẻ, chúng rất thích trò chơi đuổi bắt. Đó cũng là bài
học mà loài hươu cần rèn luyện để trốn chạy kẻ thù. Mùa mưa đến, thời tiết mát
dịu, cây cối mơn mởn cũng là lúc hai chú hươu và những người bạn cùng lứa
mọc trên đầu những chiếc gạc để đánh dấu rằng họ đã lớn: “Hươu Sao và Nai
Bông cùng chồm hai chân trước, họ ngoắc mạnh hai cái gạc vào nhau. Đó là
dấu hiệu tỏ lòng chung thủy trong tình bạn của những chàng trai hươu. Họ đứng
như vậy hồi lâu rồi mới gỡ gạc ra và buông chân xuống”[23;8]. Rồi hươu Sao
nói: “Chúng ta sẽ cùng chia sẻ mọi thứ, từ chiếc nấm, chiếc măng cho đến nỗi
vui buồn. Chúng ta sẽ tìm vùng đất mới để dời làng”[23;8]. Nai Bông trả lời:
“Chúng ta thương nhau, tin nhau từ nhỏ, chúng ta sẽ là đôi bạn đường
dài”[23;8]. Dù bị bố mẹ ngăn cản nhưng Hươu Sao và Nai Bông vẫn quyết định
lên đường:“Nó khỏe mạnh, tâm hồn nó thảnh thơi. Nó đinh ninh về một nơi nó
và Nai Bông sẽ đến: những cánh đồng tốt tươi, thức ăn không bao giờ cạn mà
chưa một chàng hươu nào đặt chân tới, nguồn hy vọng chảy rộn trong máu
nó”[44;10]. Cả làng hươu tiễn Hươu Sao và Nai Bông lên đường với những lời
dặn dò bịn rịn. “Đến ngọn đồi cuối cùng, Hươu Sao và Nai Bông chậm bước.
Trèo lên một tảng đá, họ bâng khuâng quay nhìn quê hương. Trời mây bao la.
Cánh đồng rộng đỏ úa một màu cỏ héo. Đồi tranh nơi họ cất giấu những cặp
gạc đã rụng, vàng hoe vì nắng hun”[23;11]. Lòng hai chú hươu se lại, họ lưu
luyến quê hương và gia đình. Đôi bạn cùng lên đường. Cảnh vật vui tươi hiện ra
trên đường khiến họ vơi nhẹ nỗi nhớ thương. Họ gặp rất nhiều loài vật trên hành
trình của mình. Đó là Hươu Xạ, gia đình chồn Gio, gia đình hoẵng Nâu... và
những trở ngại, khó khăn, thử thách:“Lối lên núi chưa từng có ai qua lại. Dây
57
leo và gai góc mọc kín đường. Rễ cây chồi lên cao, khiến nhiều lúc hươu sao và
nai bông vấp ngã, dù họ sinh ra đã quen với đất rừng. Những thân cây chen
nhau chi chít, chật chội đến nỗi không một kẽ hở lách qua. Cành cây chìa ra
khắp nơi như những mũi tên, chích vào mình hai chàng hươu như những con
mòng. Hươu sao và nai bông lấy gạc rẽ lối mà đi. Khi qua những nơi quá rậm
rạp, họ ngả cặp gạc ra phía sau để che lưng. Chỉ như thế họ mới đi được: Lưng
họ bớt bị gai cào và bộ gạc kềnh càng mới lách qua cành cây. Vậy mà chiều
chiều, khi đến chỗ ngủ, lưng họ vẫn đầy vết xước và đôi chân họ sưng phồng,
rớm máu”[23;25]. Có những đoạn đường, thành núi dựng đứng, hai chàng hươu
không nản lòng mà tìm mọi cách để vượt qua, họ leo dần leo dần cho tới đỉnh
núi, nhưng hết dãy núi này đến dãy núi khác nối tiếp nhau. Mãi mà họ chưa tìm
được vùng đất mới như mong muốn. Rồi mùa đông đã đến, nước bám trên dây
leo đã đóng thành băng, gió bấc thổi hun hút. Dưới cái giá lạnh, hươu sao và nai
bông quên cả ăn uống. Họ lại lên đường. Đường đi lần này dẫn đến một thung
lũng sâu thẳm. Dường như có một mối nguy hiểm nào đó đang rình rập họ:
“Hươu sao và nai bông bước những bước rón rén, đặt chân thật nhẹ trên con
đường ngập lá mục để bớt gây tiếng động. Mũi họ phập phồng đánh hơi, tai
vểnh cao để lắng nghe. Chợt Hươu Sao và Nai Bông cùng đứng sững lại vì một
hơi lạ phả ra từ đâu đó từ sau một tảng đá. Mùi ấy hôi hám và mỗi lúc một nồng
nặc. Đó là mùi của Cọp Vằn. Nhưng khi hai chàng hươu nhận ra thì đã
muộn”[23;27]. Với bộ lông vàng lẫn vào nền đất phủ lá úa, những vằn đen như
những cành củi, Cọp Vằn trườn đến gần hai chàng hươu. Thấy vậy, Nai Bông
kêu to và giục giã bạn mình hãy chạy đi: “Hươu Sao ngả đầu ra sau, lấy cặp
gạc để che vai và lưng rồi chạy đi vun vút. Người nó như bốc cao khỏi mặt đất
và chỉ trong khoảnh khắc, nó đã biến mất sau bờ lau”[23;28]. Còn Nai Bông ở
lại, nó nhìn Cọp trân trân khiến Cọp ngạc nhiên. Tại sao một con hươu mà giám
nhìn cọp như vậy? Cọp Vằn trừng mắt nhìn lại, Nai Bông vì không chịu đựng
ánh mắt dữ dội đó, nó cúi xuống và tập tễnh bỏ đi – nhử con thú theo mình:
“Cọp Vằn chụm chân nhảy vọt tới. Lập tức Nai Bông trở nên nhanh nhẹn. Theo
thói quen của loài hươu, nó hất ngược cặp gạc về phía sau và lấy hết sức phóng
về phía trước khiến cọp vồ trượt. Nai Bông chạy đi như bay. Nhưng để cứu
Hươu Sao, nó đã dành con đường dễ chạy cho bạn. Còn nó, nó rẽ vào một ngả
58
đường rậm rạp. Vóc dáng nhỏ bé lúc này chẳng có ích gì cho nó lắm...”[23;28].
Cọp Vằn đã đến gần, nó giơ tay vả mạnh khiến Nai Bông văng xa. Rồi nó cắn
gáy Nai Bông tha vào sau tảng đá. Về phần Hươu Sao, nó đã biết chuyện gì xảy
ra với bạn mình. Con đường dài thăm thẳm, nó không biết mình có tiếp tục đi
nữa không vì nó cô đơn quá: “Chàng hươu như kiệt sức, nó chui vào một bụi
rậm. Ép đầu xuống hai cẳng chân trước, nó nằm gọi bạn và khóc thầm... Từ hai
khóe mắt nó, hai dòng nước trong veo rỏ xuống ướt đẫm cả hai chân”[23;29].
Rừng cây lạnh lẽo, khắc khoải, Hươu Sao thiếp đi, giấc ngủ nó nặng nề và luôn
chập chờn hình bóng của Nai Bông: “Sao bao nhiêu buồn thương, bao kỷ niệm
khiến nó trằn trọc giở mình sột soạt trên nệm lá”[23;29]. Nó tiếp tục lên đường
với tâm trạng buồn thương. Mất bạn là một điều khủng khiếp đối với nó – nhưng
vẫn phải lên đường. Cuối cùng nó cũng tìm được một vùng đất mới, ở đó có đủ
lượng thức ăn và điều kiện sống cho các loài vật sinh sống. Bằng sự hy sinh của
Nai Bông, nỗ lực của Hươu Sao và sự giúp đỡ của các loài vật, công cuộc tìm
kiếm vùng đất mới đã hoàn thành. Kết quả đạt được tuy ngọt ngào nhưng phải
đánh đổi bằng rất nhiều thứ trong đó có mạng sống của Nai Bông, những vất vả,
gian khổ và cô đơn của Hươu Sao. Qua đó, ta thấy được tình bạn cao đẹp giữa
hai chú Hươu. Nai Bông đã không mảy may suy nghĩ mà đứng ra che chở, giúp
bạn chạy trốn – Đó là biểu tượng của tình bạn thiêng liêng, không suy tính thiệt
hơn, không đắn đo dò xét.
“Nai Bông! Nai Bông!
Ăn nấm, ăn măng
Lớn nhanh như thổi”
Mỗi khi nghe tiếng hát, Hươu Sao lại nhớ tới người bạn rồi nó buột miệng
gọi tên Nai Bông, mắt giàn giụa, chớp chớp đôi mi, cố gắng nén nỗi buồn: “Nếu
còn Nai Bông thì ngày trở về này vui trọn vẹn biết bao”[23;42]. Hươu Sao luôn
nghĩ tới việc Nai Bông đã giúp mình thoát chết và luôn nhớ tới bạn như một sự
biết ơn.
Tình bạn ngọt ngào giữa chú ngựa đồng cỏ Antai với Xam: “Tôi và nó
tiến lại gần nhau. Những bước đi đầu tiên của chúng tôi là những bước đi tới
tình bạn...Chúng tôi gặp nhau giữ đường. Chú ngựa hồng âu yếm cọ đầu vào
sườn tôi, hí bằng một giọng non nớt thanh thanh. Tôi gác đầu lên lưng nó và hí
59
theo khe khẽ”[18;25]. Từ đó họ trở thành bạn. Chúng đã trải qua những trận bão
tuyết, những buổi học dưới thảo nguyên xanh mênh mông, những kỷ niệm êm
đẹp của tuổi thơ, những dại dột... “Xam và tôi đã sống một mùa xuân sung
sướng. Dạo ấy chúng tôi đã đủ sức chạy những quãng dài trên thảo nguyên...
Chúng tôi phi nước đại bên nhau dưới nắng lấp lánh, mặc cho gió thổi tung
những sợi bờm và bộ lông đuôi... Cũng có khi chúng tôi thử sức xem ai chạy
nhanh hơn...”[18;36]. Antai rất hay tự hào về bạn: “Xam có một nước phi tuyệt
diệu. “Phi như tên”, “Phi như gió”, những chữ này hình như vẫn chứ xứng với
Xam. Mặc dù chân rất cao, mỗi khi phi nước đại nó xoải dài ra, tưởng chừng
bụng sắp chạm tới ngọn cỏ...”[18;37]. Antai và Xam cùng trải qua những nguy
hiểm thường trực trên đồng cỏ. Đàn sói tới, “Mùi sói nồng nặc làm tôi và Xam
rùng mình. Bọn tôi chỉ là những chú ngựa non chưa đủ sức lực và khôn ngoan
để đối chọi với chúng. Nhưng dù sao chúng tôi cũng yên tâm, tin vào sự che chở
của bầy. Khi cần chúng tôi có thể chạy thoát nhờ những cặp chân...”. [18;45].
Chúng lo lắng cho chú lạc đà non Mic sẽ vì hoảng loạn mà bỏ bầy và mắc mưu
bọn sói. Antai và Xam tìm cách cứu bạn. Antai chạy về hí gọi ông chủ để cứu
bầy bạn. Tinh thần đồng loại được nâng cao trong nguy hiểm.
Trong cuộc sống thường ngày, Antai và Xam luôn chia sẻ buồn vui: “Tôi
và Xam tính từng ngày chờ Mic...Tôi và Xam vẫn thấy một niềm vui lấp lánh
trong đôi mắt của Mic... Mic đem về cho chúng tôi bao nhiêu quà. Đó là những
câu chuyện đường xa... Chúng tôi lắng nghe, tâm hồn như đang bay khỏi thảo
nguyên theo bước đoàn lữ hành tới những vùng xa xôi mà bầy ngựa chúng tôi
chưa hề một ai biết đến. Biết bao nhiêu là chuyện lạ... Xam và tôi rất thích
những chuyện Mic kể về các thành phố gần kề sa mạc và thủ đô. Đó là những
nơi xa lạ đầy sức lôi cuốn mà không biết bao giờ chúng tôi mới được đặt chân
tới...”[18;72]. Hai chú ngựa đều có những mơ ước xa xôi và mơ mộng: “Xam và
tôi thích nhất câu chuyện về những vòi nước và khi nghe Mic, chúng tôi như
thấy rõ tiếng nước chảy róc rách bên tai. Sao mà hoài phí! Có lẽ chỉ chúng tôi,
những kẻ quen sống trên thảo nguyên mới biết giọt nước quý đến chừng nào”.
[18;77]. Chúng cũng muốn mình được đặt chân tới những nơi xa hơn ngoài đồng
cỏ để phóng tầm mắt ra khỏi thảo nguyên, đến những nơi mới lạ.
60
Tình bạn là sự giúp đỡ nhau. Cô hươu tàn tật trong truyện Phượng hoàng
đất đã được những người bạn giúp đỡ hăng hái: “Bầy hươu con rong chơi thỏa
thích. Có việc gì phải lo đâu: họ chỉ tìm ăn thôi. Mùa đông, kiếm được miếng ăn
thật vất vả nhưng sang xuân thì khác. Bầy cùng đủng đỉnh vươn cổ lên, chỉ bứt
những chồi non. Suốt ngày họ rong ruổi hết bụi này sang bụi khác. Thỉnh
thoảng họ lại xuống suối uống nước. Uống xong, họ lên bờ đứng liếm bộ lông
cho thêm mượt. Rồi họ lại đi, lại chạy, lại nhảy tới những bụi cây có những mầm
lá mới nhú”[34;10]. Cô hươu bé bỏng, tập tễnh xuất hiện trông thật vất vả:
“Một chân sau của cô bị liệt. Bộ lông của cô xơ xác, đầy những vết
bùn”[34;11]. Cô nói với bầy hươu bằng giọng khẩn khoản: “Các bạn ơi! Cho
tôi đi ăn cùng với nhé!”[34;11]. Các cậu hươu tranh nhau đứng vươn hai chân
lên tảng đá và chém rụng mấy cái chồi bằng chiếc gạc của mình. Rồi họ mời cô
hươu tàn tật ăn: “Bạn ăn đi! Ăn đi rồi chúng tôi lấy thêm mấy chiếc búp nữa thật
non”[34;11]. Cô hươu non ăn ngon lành. Mùa đông là mùa khó khăn đối với
bọn thú lành. Những đêm đông giá rét, lũ thú dữ đến rình mồi bên các ổ hươu.
Cô hươu con tàn tật sống nhờ các bác trâu rừng: “Đêm đêm, khi những con hươu
lành lặn tìm ra trú ở những bụi lau giữa đồng và sẵn sàng phóng chạy thì cô
hươu non tàn tật tìm đến với bầy trâu. Cô nằm chen trong đám nghé con, bộ áo
của cô dính đầy bùn vì thế. Các bác trâu già trông non lũ nghé con cẩn thận
lắm. Họ nằm vây lấy chúng, sừng chĩa cả ra ngoài, giữ cho chúng ngủ yên.
Chiều vừa xuống, bác trâu đầu đàn đã đi đếm lại lũ nghé...”[34;12]. Thấy hươu
con, bác không xua đuổi. Còn bọn hươu khi thấy cô hươu non tàn tật, chân bị
liệt, chúng thấy thương cô vô cùng. Chúng chém nhiều chồi non thành đống cho
bạn ăn. Đó là sự giúp đỡ của bọn thú lành với những số phận bất hạnh. Hay như
tình bạn của con tê giác già với lũ sáo sậu. Con tê giác già bị lũ bọ ve, bọ mát
hành hạ: “Bọn tê giác có một bộ giáp rất dày. Ai chẳng tưởng có bộ giáp ấy thì
sung sướng: con vật chẳng còn sợ gì tên đạn và gai rừng. Ngờ đâu, ở kẽ những
mảng giáp, lớp da của nó chẳng dày gì hơn da trâu. Không hiểu vì sao mà bọ ve
và bọ mát biết được điều đó. Bọn chúng thật ranh mãnh. Chúng ẩn náu sau
những nếp gấp của da. Được hơi nóng sưởi ấm, chúng sinh nở đầy đàn và thỏa
thích hút máu”[34;36]. Tê giác bị bọ ve, bọ mát đốt, nó ngứa ran nhưng chẳng
làm cách nào được: “Con vật cuồng lên, thở hồng hộc, giận dữ lao qua các lùm
61
cây, chiếc sừng bướng bỉnh mọc trên mũi nó chĩa ra phía trước để mở đường.
Cành cây gãy răng rắc, lá khô và sỏi đá bắn vung dưới chân nó. Nhưng cơn
ngứa vẫn không hết. Tê giác đứng lại, cà mình vào thân cây. Cây rung bần bật.
Vỏ cây nhẫn đi, da con vật bị mài mòn song cơn ngứa thì không bao giờ
dứt”[34;36]. Mùa đông qua đi, rồi mùa xuân đến, rừng lại xanh lá và tràn đầy
thức ăn. Bọn sáo đen và sáo sậu trở về, tê giác già sung sướng: “Đời đẹp biết
bao nếu có bạn bè để yêu mến và trông đợi. Nó chơm chớp cặp mắt nhỏ ... giọng
ồm ồm nhưng đầy thương mến... Các bạn đi những đâu mà biền biệt
thế?”[34;37]. Sự mong đợi của tê giác được đáp trả. Bọn sáo sà xuống đậu trên
lưng tê giác rồi chúng luồn mỏ vào các nếp da, giúp tê giác bắt những con bọ ve,
bọ mát béo căng. Cuối truyện, nhà văn Vũ Hùng đã khẳng định: “Trong rừng
không thiếu những cặp bạn bè như vậy. Tê giác và trâu rừng kết bạn với bọn
sáo. Lũ heo vòi có cái vòi ngắn ngủn thì kết bạn với bọn cò gà. Heo vòi thường
kiếm ăn trên các bờ suối và đầm lầy, có bọn cò gà đỗ trên lưng. Nếu kẻ thù lại
gần khi chúng đang ăn, cò ngà sẽ bay túa lên báo cho chúng biết. Từ bao đời
nay, tình bạn giữa chúng vẫn khăng khít và bền chặt”[34;39]. Đó là sự tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau của các loài động vật.
“Tự do” là một điều có ý nghĩa rất lớn đối với con người. Loài vật cũng
vậy. Không một loài vật nào ưa sự bó buộc và kìm hãm. Sống cùng con người là
một cực hình đối với chúng. Nếu có cơ hội, chúng sẽ tìm cách đi đến “tự do”.
Rừng, cỏ cây, hoa lá, gió, nắng, mưa...là môi trường sống ưa thích của các loài
động vật. Đối với vẹt, thiên nhiên đất trời là chỗ ở thích hợp nhất. Chính vì vậy,
khi bị cậu bé Đam Đam trong truyện Các bạn của Đam Đam bắt về nhà nuôi,
chú vẹt đã phản kháng dữ dội. Nhà văn Vũ Hùng đã nhìn thấy nỗi khổ đau khi bị
kìm hãm của chú vẹt xanh. Dù được cậu bé Đam Đam nâng niu, chăm sóc
nhưng chú vẹt xanh vẫn bức bối và luôn muốn “xổ lồng”: “Đam Đam lau
những giọt mồi hôi long lanh trên trán... rồi cậu nâng niu lấy con vẹt từ trong
gùi ra, vuốt lên đầu lên lưng nó và buộc vào chạc cây. Khi cậu buông tay, con
chim chợt tung cánh, vụt bay lên như một ánh chớp xanh. Bị giữ lại, nó rùng
mình rơi xuống, chân treo lủng liểng dưới sợi dây buộc. Đam Đam đỡ nó dậy,
đặt lên chạc cây... cậu vuốt lên đầu, lên lưng nó và an ủi... nhưng Đam Đam vừa
buông tay thì con vẹt lại vút bay lên và rơi xuống. Cứ thế, đến lượt thứ chín, thứ
62
mười, nó mới biết mình đã bị xiềng xích và chịu đứng yên. Vét! Vét! Nó tuyệt
vọng gọi bầy, tiếng kêu lanh lảnh xa xăm...”[29;7]. Bà Xi Ta – mẹ của Đam
Đam – không vừa ý với hành động của con trai mình, “một nỗi buồn thương
thoáng hiện trên khuôn mặt bình thản của bà. Bà không chia sẻ niềm vui của
con trai”[29;8]. Bà khuyên Đam Đam hãy thả nó về rừng vì nó sẽ không sống
được trong môi trường kìm hãm. Ông Xi Ta không gay gắt như vợ, ông chỉ hỏi
con trai mình rằng Đam Đam có yêu thương chú vẹt không? Có đảm bảo không
để chú vẹt đói không? Rồi ông Xi Ta chỉ cho Đam Đam thấy những phản kháng
của chú vẹt: “Cả nhà ông Xi Ta vào đứng sau một vách nứa, không còn ai trước
mắt nhưng con vẹt của bầy Vẹt xanh vẫn cúi đầu. Nó lấy đà để cất cánh. Nhưng
vừa định bay lên thì nó chợt thấy chân đã bị vướng dây. Thế là nó đành ép chặt
cánh vào mình và ngẩng lên. Một lát sau, quên mất tình trạng trói buộc, con vẹt
lại cúi đầu lấy đà. Nhưng rồi tức khắc nhận ra cảnh ngộ của mình, nó vội ngẩng
đầu lên. Cứ thế con vẹt gật gù hoài”... “Nó đòi về với bầy trong núi”[29;10].
Con vẹt bị xích luôn muốn dựt xích để bay lên. Cũng giống như con người, khi
bị kìm hãm, tù đầy đều luôn phản kháng và bứt phá để tìm lại tự do. Dù đã hứa
với bố nhưng do mải say sưa bên chú chó nhỏ, Đam Đam lãng quên chú vẹt
xanh. Cậu không còn hứng thú dạy chú học tiếng người:“Nhiều lần cái ống nứa
đựng nước treo trên chạc cây đã cạn, trái bắp buộc bằng lớp bẹ chỉ còn trơ lõi.
Chú vẹt gầy rạc đi. Nhưng càng gầy, nó kêu “Vét! Vét!” càng to. Tiếng kêu vang
vọng như lời trách móc”[29;26]. Bối rối khi nghe tiếng kêu của chú vẹt, cậu
động lòng thương, cậu đã trói buộc nó, lại mải vui đến nỗi để chú vẹt xanh đói
khát. Đam Đam quyết định thả chú về rừng: “Cậu tháo sợi dây, tung nó lên trời.
Con chim bay lên đậu trên ngọn cây dẻ đầu xóm. Nó kêu “Vét! Vét!” dò hỏi.
Tiếng trên cao, tiếng gọi tưởng chừng như vang vọng tới những vách núi. Con
vẹt nghiêng đầu lắng nghe. Nó thoang thoảng thấy tiếng trả lời từ phía xa xăm
vọng về, một thứ tiếng mỏng manh mơ hồ mà chỉ riêng mình nó nhận ra. Nó
tung cánh, vút bay về phía đó”[29;26]. Chú vẹt đã được giải phóng, chú bay lên
gọi bầy và trở về với “tự do” mà chú hằng ao ước. Nhà văn Vũ Hùng đã giải
phóng cho thể xác và tâm hồn chú vẹt xanh.
Chú vượn con Xa – ni trong truyện Các bạn của Đam Đam, dù được
sống trong sự yêu thương của gia đình Xi Ta nhưng vẫn cồn cào nhớ núi rừng và
63
bầy đàn của mình. Khi Đam Đam thấy nó dưới một gốc cây, non nớt và run rẩy,
lòng Đam Đam xao xuyến trước nỗi cô đơn của con vượn: “Cậu vuốt lên lưng
nó. Lớp lông tơ trên mình nó êm mịn. Thân hình bé nhỏ của nó rung lên. Nó
buông hai tay và hé nhìn bằng cặp mắt van xin. Cái mũi hếch ướt át của nó thở
phập phồng... Thân thể vượn con thoảng mùi sữa mẹ và của những búp lá non.
Được ấp ủ, nó bình tĩnh lại. Nó choàng hai tay, ôm lấy cổ Đam Đam như khi ôm
cổ mẹ”[29;58]. Rồi cậu bé đưa Xa – ni về nhà. Cũng giống lần trước, bà Xi Ta
không bằng lòng chuyện đó. Vì bà biết rằng, mọi loài vật đều muốn sống ở rừng,
chúng không sống được ở một môi trường khác. Nhưng bằng tình yêu và lòng
thương của mình, bà Xi Ta và gia đình vẫn chăm sóc chú vượn con yếu đối và
đơn độc. Năm tháng trôi qua, Xa – ni đã trưởng thành, nó rạo rực trong lòng khi
nghe tiếng chim kêu, tiếng ong vỗ cánh. Nó đã trưởng thành và nó cần có một
gia đình riêng. Đã đến lúc nó cần trở về rừng. Mọi người trong nhà Xi Ta đều
buồn khi phải xa nó. Nhưng “hình như Xa – ni không muốn đi. Dưới mái nhà
của Đam Đam nó đã tìm được cuộc sống yên lành. Dù không bị xiềng xích, nó
cũng không đi đâu quá xa. Chưa bao giờ nó vượt khỏi rặng cây và con suối dưới
chân làng”[29;58]. Có phải chính tình yêu thương mà gia đình Đam Đam dành
cho nó, mà nó lại quyến luyến đến vậy! Tuy vậy, bản năng yêu tự do của nó vẫn
trỗi dậy: “Đam Đam đặt Xa – ni lên một cành cây. Con vượn mở tròn mắt nhìn
những cái đã từng in vào ký ức nó: vòm lá xanh, những tảng đá và cái hang sâu,
những sợi dây leo đu đưa, con suối trong reo chảy... Nó nhận ra tất cả, bàng
hoàng như tỉnh dậy sau một giấc ngủ quá dài. Trở về nơi rừng thẳm, nó sống lại
với mọi bản chất thầm kín và bí hiểm của nó. Nó ngồi trên cành cao nhìn rất lâu
xuống Đam Đam, Tha No và con chó. Nhưng tất cả những cái ấy vẫn không đủ
sức giữ nó lại. Con vật kêu “Hu! Hu!” và đu bổng lên cao rồi cứ thế đu mãi đi
xa”[29; 69]. Bản năng muốn sống trong tự do là của tất cả mọi loài vật. Cho dù
được sống trong một cuộc sống đầy yêu thương của con người, thì chúng vẫn
luôn muốn được trở về với rừng, với thiên nhiên và với bầy đàn.
Lôm luông – chú voi trong truyện Người quản tượng và con voi chiến sĩ
cũng mang những nỗi buồn khi xa bầy và giam hãm. Bị lạc bầy trong một con
bão, Lôm Luông bị Ông cháu Đik và dân làng bắt. Chú voi non gào lên để gọi
bầy nhưng bầy đã đi quá xa. Nó bị xích và đứng lắc lư cả ngày bên cái cột gỗ:
64
“Có những bữa, nó không động đến một sợi cỏ, cứ đứng lặng như một tảng đá.
Nó nhớ bầy, nhớ những ngày sống tự do. Nhìn ra rừng, nó rống từng hồi thảm
thiết... Nhiều khi rống đã chán, con voi ngoái đầu lại, hít hơi cây cột gỗ. Không
còn thấy cái mùi hoang dại của rừng già, chỉ thấy mùi mồ hôi mặn như muối
của con người. Đâu đâu cũng chỉ thấy mùi con người: trên cái cột, trên các
vòng xích, trên các dấu chân dưới đất”[26;6]. Không thấy mùi rừng quen thuộc,
nó nổi khùng, quật vòi chan chát vào những vòng xích dưới chân và vung vòi
dọa đánh người qua lại nhưng không đánh được. Nó thở hồng hộc và tỏ vẻ bất
lực. Mang nỗi buồn u ám, Lôm luông luôn tìm cách để tự giải thoát. Vào một
buổi chiều, nó giằng xích và đuổi theo ông già Rem. Mắt nó đỏ như máu. Con
voi điên cuồng cuộn vòi lồng lên, bốn chân nó cuốn bụi... và tung vòi quật ông
già Rem. Vì muốn thoát khỏi sự kìm hãm, con voi đã lồng lên phản kháng. Khi
bị bắt lại, con voi tỏ ra khó chịu, “nó khịt khịt, giẫm châm và tung vòi dọa đánh.
Dọa không được, nó đập vòi bình bịch xuống đất tỏ ý tức giận. Như mọi con voi
rừng mới bị bắt, nó ghét hơi người và tiếng người.”[26;8]. Rồi với sự kiên nhẫn
của ông cháu Đik, con voi đã quen với cuộc sống mới. Hay như những chú voi
trong Bí ẩn của rừng già cũng khao khát tự do: “Những con voi hoang không
dễ gì quen cuộc sống với con người. Vì nó sinh ra trong tự do và đã sống tự do.
Có những con voi đã quen với cuộc sống rừng nên không sao có thể phù hợp với
cuộc sống dưới làng”[32;28]. Chúng kháng cự bằng cách nhịn ăn, nhịn uống
đến gầy rạc: “chỉ còn là khung xương bọc trong bộ da nhăn nhúm, khiến các
quản tượng phải mủi lòng mà thả chúng đi. Có những con quyết liệt hơn, co hai
chân trước lên để nút thòng lòng thít chặt vào cổ. Chúng chọn cái chết chứ
không chấp nhận cuộc đời tù hãm”[26;43].
Cũng giống như con người, các loài động vật cũng có một đời sống nội
tâm phong phú bao gồm tình yêu thương, tình cảm gia đình, tình bạn và khao
khát được tự do, những xung đột trong tâm lí và nhận thức... Đó không phải
là ý kiến chủ quan của nhà văn Vũ Hùng mà là những nhận định được rút ra
từ con mắt quan sát tinh tế của ông thông qua hiện thực trong đời sống các
loài động vật.
65
2.3. Những triết lí mang bóng dáng con người
Thông qua thế giới loài vật, nhà văn Vũ Hùng muốn gửi gắm những triết
lí sống đến với con người. Mỗi trang sách của ông là một câu truyện, một khía
cạnh nhỏ của thế giới thiên nhiên. Cách sinh tồn của mỗi loài vật là một bài học
rút ra từ những kinh nghiệm quan sát thực tế. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân
văn trong từng đời sống các cá thể loài vật.
Con người có câu: “An cư lạc nghiệp”. Nếu cuộc sống được yên ổn thì
chúng ta mới có điều kiện để phát triển. Loài vật cũng như vậy. Cả loài thú lành
và thú dữ đều muốn có một cuộc sống bình yên. Trong truyện Giữ lấy bầu mật
đã thể hiện triết lí đầu tiên của nhà văn Vũ Hùng: “Con gấu không có nhà. Thú
rừng biết lo xa: Cuộc sống của chúng chập chờn những lo âu nên chúng không
bao giờ dám ở yên một chỗ”[19;25]. Thông qua hình ảnh con gấu, Vũ Hùng
muốn khẳng định cái cốt của cuộc sống chính là sự bình yên và an nhiên. Nếu
không có sự bình yên, chúng sẽ không ở cố định. Chúng luôn lo âu, sợ hãi về
nơi sống của mình. Ở cố định một chỗ không có sự bình an là tự hủy hoại giống
nòi của mình. Nên bằng sự khôn ngoan, chúng di chuyển liên tục để tránh kẻ thù
và hạn chế thương vong. Đối với những loài thú dữ, chúng sẽ không sống ở nơi
nào cố định cả. Sẽ khó lòng biết được hang ổ của chúng vì chúng luôn bị con
người săn lùng nên dấu hang ổ rất kĩ: “Không ai biết bầy sói trú ở đâu. Khó
lòng mà tìm thấy hang ổ của chúng trên thảo nguyên dù nơi này mênh mông trơ
trụi. Chỉ biết rằng chúng ở rất xa, mỗi đêm chúng đi kiếm mồi tới vài ba chục
cây số. Vì thế chúng thường xuất hiện vào lúc nửa đêm sau khi vượt qua những
quãng đường dài. Chủ yếu chúng đi tìm những bầy cừu” [18;52].
Trong cuộc săn gấu của ông Poông, B’ru và Phựng, nhà văn Vũ Hùng đã
đưa ra một chân lý: “Người thợ săn già không bao giờ muốn thi sức với thú
rừng. Dùng sức đơn thuần thường thất bại”; “Khi còn ánh sáng ban ngày thì
rừng chưa thuộc về loài thú” và “Con thú nào khi đói cũng rất hung dữ nhưng
lúc no rồi thì đâm ra nhút nhát, lười biếng”[19;59]. Qua đó ta thấy hình ảnh về
sự khôn ngoan và bản năng của thú rừng. Chúng không bao giờ gây sự với nhau
trừ trường hợp bắt buộc. Mọi loài thú đều muốn nhìn thấy con khác chứ không
bao giờ muốn con khác nhìn thấy mình. Người thợ săn cũng chỉ muốn rình theo
con mồi chứ không muốn đấu sức với con mồi. Vì đấu sức đơn thuần sẽ luôn
66
luôn thất bại. Có phải bóng dáng xã hội tiềm ẩn trong mỗi câu truyện của nhà
văn! Bọn sói hoang muốn săn mồi, chúng không lao vào đánh nhau với con mồi
mà hú kêu làm con mồi hoảng loạn: “Bọn sói ít khi săn một con ngựa non.
Chúng biết việc đó là vô ích. Một con ngựa dù còn non cũng có thể chạy nhanh
gấp đôi chúng. Vả lại ngựa non được bảo vệ kỹ. Vì thế khi rình rập một bầy
ngựa bao giờ chúng cũng tìm cách tách rời một chị ngựa cái đang mang bầu ra
khỏi đàn. Chúng đuổi cho chị chạy hết hơi trên đồng cỏ, con này mệt thì con
khác thay phiên, tới khi cái thai sảy ra ngoài mới thôi. Thế là chúng ngừng lại
cắn xé con mồi, để mặc cho con ngựa cái trở về đàn”[18;33]. Chúng không đối
đầu với đám đông mà luôn tách riêng từng cá thể: “Trái lại đối với các bầy lạc
đà, bọn sói thường săn đuổi các con non, tách họ ra khỏi sự che chở của mẹ...
Nhưng bọn lạc đà con thì khác. Họ nhút nhát, vụng về lại chạy chậm nên khi bị
tách khỏi đàn thì hết cách chống cự. Bọn sói sẽ xúm xít lại, cắn vào chân kéo họ
ngã xuống”[18;58]. Bọn sói kéo đến, “chúng không vội vàng, không tru, không
sủa vì biết đối với bọn lạc đà non hiệu lực tinh thần là thừa đủ. Mùi sói sẽ làm
họ hốt hoảng và lúc nào không còn chịu đựng được nữa, họ sẽ rời đàn bỏ chạy.
Lúc đấy đàn sói sẽ đuổi theo”[18;59]. Có phải chính qua cách săn mồi của loài
vật, ta thấy bóng dáng trong cách săn mồi của con người!
Trong truyện Chú ngựa đồng cỏ ta lại thấy những triết lý của nhà văn Vũ
Hùng về khía cạnh tình bạn: “Thật vui thích biết bao khi được tâm sự với những
người thân quen”[18;14]. Tâm sự với những người quen, người bạn là một nhu
cầu của con người cũng như loài vật. Các loài thú có thể giao tiếp với nhau bằng
bộ ngôn ngữ riêng của chúng. Và bao giờ chúng cũng thích thú khi nói chuyện
với những con vật cùng loài. Ông còn khẳng định: “Cái gì tách ra khỏi mối liên
quan của nó mà chẳng mất mát đi ít nhiều giá trị”[18;17]. Các mặt của cuộc
sống đều được liên quan, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Mặt này bổ trợ mặt
kia. Nhưng nếu bị tách ra khỏi mối quan hệ, các mặt sẽ bị giảm sút giá trị của
mình. Giống như một bầy voi, bầy trâu, bò... khi bị tách biệt từng cá thể, chúng
sẽ không còn đủ sức mạnh để chống lại kẻ thù. Chính vì vậy tính đoàn kết sẽ
giúp chúng tránh khỏi thương vong.
Vũ Hùng đã khẳng định: “Ở nơi hoang dã trong lành, người ta sống dài
lâu hơn ở nơi tù hãm”[18;21]. Những loài vật trong truyện có một đời sống nội
67
tâm phong phú. Nhưng có một nét chung ở chúng đó là sự ham thích tự do.
Chúng không muốn sống trong nơi tù đầy. Dù có được yêu thương, chăm sóc,
nâng niu và che chở bằng bàn tay con người thì chúng vẫn muốn được sống
trong thiên nhiên. Giữa cá thể trong cùng một loài và giữa các cá thể khác loài
thì sự kết bạn là một điều quan trọng. Bạn bè sẽ giúp đỡ, bảo vệ nhau trong
những lúc khó khăn và nguy hiểm: “Sống ở thảo nguyên người ta không thể
không có bạn, không có bầy đàn”[18;25]. Không chỉ rêng ở thảo nguyên mà dù
trong môi trường sống nào, loài vật đều cần có bạn bè. Giống như sự che chở
của bầy trâu đối với con hươu tàn tật trong truyện Phượng hoàng đất, tình bạn
giữa con tê giác già với bầy sáo, tình bạn giữa bầy voi với đàn hươu.v.v... Muốn
cùng nhau sinh tồn phải cùng nhau đoàn kết.
Mùa xuân là mùa đâm chồi nảy lộc cũng là mùa có nguồn thức ăn dồi dào
nhất cho các loài vật. Vạn vật sinh sôi vào mùa xuân do điều kiện thời tiết thích
hợp. Nhưng nhà văn Vũ Hùng khẳng định: “Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng
sung sướng như thế”[18;38]. Đúng vậy! Cuộc đời của con vật cũng giống như
con người, có lúc thăng, lúc trầm, biến động lên xuống. Có sung sướng thì cũng
có khổ đau. Không ai biết trước cuộc đời sẽ ra sao nhưng chắc chắn thăng trầm
là sẽ có. Làm sao lũ hươu, nai, lạc đà, ngựa, cừu... biết mình sắp bị sói ăn thịt.
Làm sao báo, bổ, cọp... biết mình sắp bị giết. Qua hình tượng các con vật, chúng
ta nhận thức ra một điều là phải sống thích ứng theo từng hoàn cảnh và cảm
nhận cuộc sống theo những màu sắc khác nhau để không tự cao và cám
dỗ:“Những bài học phải mua bằng giá đắt”[18;46]. Con vật đôi khi ngờ nghệch
đến nỗi không biết những nguy hiểm đang rình rập, vây quanh. Chúng bị giết mà
không hề nhận thức được chuyện gì đang xảy ra. Cũng giống như con người.
Chúng ta hay vô tình, sơ suất mà mắc phải lỗi lầm. Có những lỗi lầm dễ dàng
được bỏ qua, nhưng cũng có những lỗi lầm để lại cho cuộc đời chúng ta những
bài học và kinh nghiệm đắt giá. Tác giả còn đưa ra một loạt các triết lí: “Chỉ
trong lúc phải chờ đợi mới thấy thời gian trôi chậm”; “Muốn thay đổi một thói
quen cũ bằng một thói quen mới cần có nhiều thời gian”. Qua chú ngựa đồng cỏ
Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ, Vũ Hùng đã chứng minh cho triết lý này.
Khi bị chuyển từ vùng thảo nguyên đến đất nước Việt Nam, mọi lối sinh hoạt
của chú ngựa bị thay đổi. Thức ăn lạ, không khí bí bách, ồn ào, không gian bức
68
bối... khiến chú bỏ ăn: “Cỏ Việt Nam rất xanh, rất tươi, thóc Việt Nam rất chắc,
nhưng chúng tôi không quen ăn. Tuần đầu chúng tôi được ăn hoàn toàn cỏ thảo
nguyên và lúc mạch. Tuần thứ hai, cỏ thảo nguyên rút xuống chỉ còn hai phần
ba, chúng tôi phải ăn thêm một phần ba cỏ Việt Nam. Từ những chàng ngựa háu
ăn chúng tôi trở nên khó tính: ai cũng uể oải lấy mõm bới tung đám thức ăn để
nhặt những sợi cỏ gai thơm mùi của những vị thuốc. Tuần sau, lượng cỏ thảo
nguyên rút xuống chỉ còn một nửa. Chúng tôi phải ăn thêm nhiều cỏ Việt Nam.
Từ lúa mạch chúng tôi chuyển dần sang ăn thóc. Thức ăn lạ làm cả đoàn đau
ốm. Người ta phải cho chúng tôi ăn thêm cám, lá tre, rơm khô, cà rốt, bầu bí và
các loại rau. Những thứ đó không hề có trên đồng cỏ nhưng không phải vì thế
mà chúng tôi ưa thích. Cuối cùng cỏ gai và lúa mạch đã hết. Đàn chúng tôi bắt
đầu bỏ ăn. Cả đàn gầy sút trong đám lông bơ phờ”[18;91]. Thức ăn lạ khiến
bầy ngựa ốm yếu, gầy hao. Tuy vậy chúng vẫn chỉ nhớ đến cỏ của thảo nguyên,
không loại rau cỏ nào làm chúng thích thú. Thói quen ăn uống là thói quen khó
bỏ và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bầy ngựa. Bên cạnh đó, không gian
sống khác biệt cũng làm cho bầy ngựa khốn khổ: “Chỗ ở của chúng tôi cũng
không thích hợp. Người ta nhốt mỗi chúng tôi trong một cái chuồng chật hẹp,
bốn phía là những gióng gỗ ngổn ngang. Ngày đêm chúng tôi thiếu khoảng
rộng, thiếu không khí và thiếu gió. Khí hậu ở nơi này đâu có nóng bức bằng cái
nắng thiêu đốt của mùa hè đồng cỏ nhưng vì vắng những cơn gió, chúng tôi luôn
thấy bức bối khó chịu. Chúng tôi thở hồng hộc trong chuồng. Mồ hôi rỏ ròng
ròng, ướt đẫm bộ lông dày, không phải thứ mồ hôi sủi bọt nhưng chóng khô sau
những chặng đường dài mà là thứ mồ hồi nhớp nhúa, ngứa ngáy và dai dẳng...
Thức ăn lạ, tiếng ồn và những đêm trằn trọc làm chúng tôi gầy guộc...”[18;92].
Thói quen là một thứ khó bỏ nhất trong cuộc sống của con người, đối với động
vật cũng vậy. Từ bỏ nó, chúng ta cần phải có thời gian và sự nỗ lực để thích
ứng. Bầy ngựa cũng cần có thời gian, Nhưng nếu không rèn luyện đúng phương
pháp thì sẽ không có kết quả: “Không ai biết chữa chạy cho chúng tôi bằng
cách gì. Người ta quá coi thường sức mạnh của thói quen. Ở loài người các bạn,
có thể dễ dàng phá bỏ một tập quán nhưng ở loài ngựa chúng tôi thì
khác”[18;93]. Rất may người chủ của bầy ngựa đã có cách giải quyết. Một bữa
anh mang đến hai hòn đá lớn rồi đánh mạnh vào nhau. Tia lửa khét lẹt – mùi của
69
thảo nguyên giông bão: “Người chủ mới vứt hai hòn đá xuống đống cỏ dưới
chân tôi. Tôi hít ngửi mãi: Đó chính là thứ đá của thảo nguyên mà dòng giống
chúng tôi thường liếm sau bữa ăn để có thêm chất khoáng. Cỏ có mùi của đá
bỗng phảng phất một hương vị thân quen. Thế là tôi bắt đầu ăn và sau khi đã ăn
no, theo thói quen tôi liếm trên những hòn đá. Chẳng bao lâu đá bị liếm mòn
vẹt, nhưng nhờ đó bầy chúng tôi bắt đầu quen với cỏ và thức ăn Việt Nam. Mọi
thứ, trước kia xa lạ, giờ đây đã trở thành những món ăn ngon: hàng ngày tôi ăn
mười lăm cân cỏ, một bó lá ngô, một bó mía, năm cân thóc, một cân cám... Theo
lời khuyên từ đồng cỏ, người ta đã mở rộng chuồng và cắt lông cho chúng tôi. Ở
phía sau chuồng, người thợ điện đặt những chiếc quạt gió rất mạnh. Ngày đêm
gió thổi vù vù làm bộ lông không nhớp nhúa mồ hôi...”[18;94]. Thói quen và đặc
điểm sống của bầy ngựa đã được thay đổi nhưng theo cách chậm rãi. Từ bỏ thói
quen là điều có thể làm được tuy nhiên cần thời gian và phương pháp. Nhà văn
Vũ Hùng đã cho chúng ta thấy rằng, ở loài vậy cũng có những thói quen và lối
sống nhất định. Để thích ứng với nơi ở mới, cần thời gian. Qua bầy ngựa thảo
nguyên, ông còn thể hiện nhiều triết lý rất sâu sắc. Tính cách của mỗi con người
một phần cũng do hoàn cảnh sống tạo nên. Loài vật cũng hình thành tính cách từ
mỗi hoàn cảnh sống. Trong đàn ngựa có con ngựa Sêk hung hăng và ngang
bướng: “Ngay từ buổi đầu mới gặp tôi đã thấy ở nó một điều gì không bình
thường. Nó cứ nhởn nhơ trong lúc chúng tôi nhớ quê đến buồn rũ. Hỏi thì nó
nói: Người ta gắn bó với quê hương không vì những tình cảm mơ hồ. Cậu nghĩ
sao nếu ở đó cậu bị ngược đãi?...Trong hoàn cảnh khó khăn người ta sẽ bộc lộ
những đức tính hoặc tật xấu. Sêk đã bộc lỗ nhiều đức tính”[18;98]. Dù thức ăn
được chia ít ỏi, nhưng Sêk không bao giờ ăn tranh thức ăn của các con khác, nó
chỉ ăn đúng nắm cỏ người ta chia cho nó: “Sêk không thích giành giật cái gì của
ai. Trái lại nó thích bênh vực kẻ yếu. Trong bọn tôi có Mi là đứa chập chạp,
hiền lành. Các chàng ngựa háu ăn, sau khi ăn hết phần, thường lén lút luồn đầu
qua bụng Mi để khều những nắm cỏ của nó. Tệ hơn có chàng còn cướp đoạt
công khai. Những lúc đó Sêk không ngần ngại và hục hặc giậm vó, hí vang
những lời cảnh cáo”[18;99]. Chú ngựa Sêk ngang bướng và hung hăng là do có
một tuổi thơ ấu cay cực: “Đồng cỏ quê của Sêk cằn cỗi, bầy đàn thì đông nên ai
cũng đói khát. Sêk không được mẹ dạy dỗ như chúng tôi vì suốt ngày bà còn lo
70
chạy ăn. Chủ của Sêk là một người tàn bạo: ông ta nghiện rượu, không bao giờ
cho Sêk ăn no và đã nhiều lần đánh đập Sêk bằng roi da. Tất cả những điều đó
biến Sêk thành con ngựa bướng bỉnh hay ngờ vực và ưa gây gổ”[18;99]. Nhà
văn Vũ Hùng đã chỉ ra được, điều kiện sống tốt có vai trò to lớn đối với sự hình
thành và phát triển của loài vật. Điều kiện sống khó khăn, khắc nghiệt và tàn bạo
sẽ biến loài vật thành những kẻ thô bỉ và tàn ác. Môi trường sống tốt sẽ giúp
định hình tính cách tốt cho loài vật. Đây có phải chính là ý nghĩa về hoàn cảnh
sống của con người. Mỗi chúng ta, từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, nếu
chúng ta được sống trong môi trường tốt, nhân cách chúng ta được tôi luyện, rèn
giũa và trưởng thành. Môi trường sống là điều kiện đầu tiên để định hình nhân
cách cho mỗi con người.
Bên cạnh đó, nhà văn Vũ Hùng còn đưa ra nhiều triết lí khác như: “Một
con ngựa béo sẽ trở nên trì trệ: nó còn chạy, còn phi làm sao được nữa”; “Con
ngựa không biết nói. Khi thấy nó cưỡng lệnh thì phải tìm ngay lí do vì sao.
Đừng bao giờ trừng phạt nó một cách độc đoán và oan uổng”; “Đối với loài
ngựa là thế: thà không trừng phạt còn hơn là trừng phạt muộn”[18;102]... các
triết lí ông đưa ra đều thấp thoáng bóng dáng của xã hội con người, từ cách
sống, cách làm việc hay cách dạy dỗ. Hình như thông qua đó, ông muốn nhắc
nhở và gửi gắm một điều gì đó đến với con người!
Để rút ra những triết lý về cuộc sống, nhà văn Vũ Hùng cũng thông qua
đặc tính sinh hoạt của loài vật. Mọi loài vật đều thích sống tự do trong môi
trường thiên nhiên và chỉ có ở môi trường thiên nhiên, chúng mới sống đúng
theo bản năng của mình. Khi Đam Đam trong Các bạn của Đam Đam bắt một
con vẹt trong bầy vẹt xanh mang về nhà, mẹ của Đam Đam đã khuyên cậu thả
nó:“Thả chúng đi! Ở đây chúng kêu van, nhưng về rừng thì chúng sẽ ca
hát”[29;9]. Ở rừng, loài vật sẽ sinh sống và tồn tại theo cách riêng. Chúng vui
với môi trường tự nhiên. Ngoài những triết lí rút ra từ cuộc sống loài vật, nhà
văn Vũ Hùng còn đưa trực tiếp những triết lí của con người vào câu chuyện của
ông. Ông khẳng định tuổi thơ không dài lâu, đã là trẻ con thì phải biết rong chơi
rồi đến một ngày nào đó chúng sẽ chán những trò đuổi chim bắt bướm và
chuyên tâm vào chuyện làm ăn. Tuy nhiên ông cũng cho rằng, rong chơi nhưng
cũng đừng bỏ quên những gì quan trọng cần quan tâm. Bà Xi – ta trong truyện
71
được Vũ Hùng gửi gắm nhiều triết lí: “Bà Xi Ta cho rằng yêu thương là cái quí
nhất của người ta. Bà muốn ai tới dưới mái nhà của bà cũng sẽ gặp được những
điều tốt lành. Bà lo sợ việc làm của Đam Đam đem lại rủi ro: Núi rừng biết
thưởng phạt, ai làm điều lành sẽ được gặp phước lộc, ai gây hận thù lại sẽ gặp
hận thù”[29;61]. Cưu mang là điều tốt mà con người nên làm. “Can đảm cũng
là một thói quen” mà chúng ta phải rèn luyện hàng ngày để có được và hiền lành
cũng sẽ bị sự tăm tối làm cho độc ác nếu không vững tâm... Những triết lí vô
cùng sâu sắc muốn nhắc nhở con người cần quan tâm hơn đến cuộc sống của
mình và nhìn nhận vấn đề theo hướng đa chiều. Bầy ri non trong truyện Phượng
hoàng đất được mẹ dạy cho cách bay tự lập, không cần dựa dẫm vào ai: “Chẳng
ai bay xa được với đôi cánh mượn của người khác”[34;8]. Chúng ta phải tự
mình làm mọi chuyện, muốn đi xa phải tự lượng sức mình, những đồ đi mượn sẽ
không làm nên giá trị cho bản thân mỗi con người: “Chúng bay xa vì bay bằng
đôi cánh của chính mình”[34;9]. Cuộc sống vốn nhiều màu sắc với nhiều cung
bậc cảm xúc. Chính vì thế nó không chỉ tồn tại những mặt tích cực mà luôn song
hành cả những mặt tiêu cực:“Cuộc sống không phải chỉ toàn ngày hội”[34;51].
Vì thế con người phải biết tận dụng mọi niềm vui và hạnh phúc để giảm bớt nỗi
đau buồn. Con người đôi khi rất khó hiểu, họ chỉ muốn phô bày những điều tốt
đẹp ngay cả trước mắt con vật nhưng “nhiều khi người ta cũng hành hạ hoặc
giết chết một con người trước mắt những con người khác và cũng sẽ chẳng có
điều gì xảy ra”[24;42]. Có phải nhà văn Vũ Hùng đã lên án thói thờ ơ, vô cảm
trong xã hội loài người không! Con người luôn muốn thể hiện điều tốt đẹp
nhưng cũng sẵn sàng chà đạp, tàn sát đồng loại của mình. Đó là điều mà Vũ
Hùng muốn lên án gay gắt.
Với sự trải nghiệm và vốn sống phong phú, thông qua cuộc sống và bản năng
sinh tồn của các loài động vật, nhà văn Vũ Hùng đã khái quát nên những bài học và
triết lí mang bóng dáng của cuộc sống con người. Không phải tự nhiên, ông áp đặt
các bài học triết lí vào loài vật mà qua đó ông muốn gửi gắm đến trẻ em nói riêng và
độc giả nói chung về lối sống và cách ứng xử với đồng loại mình.
* Tiểu kết:
Qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ta thấy hiện lên một bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Trên nền thiên nhiên hoang dã đó là sự sống của các loài
động vật. Bằng sự hiểu biết, kiến thức và khả năng quan sát tài tình, Vũ Hùng đã mở
72
ra cho người đọc một không gian sinh tồn độc đáo và mới mẻ. Các loài vật sống với
nhau thông qua một quy luật thiên nhiên được quy định sẵn mà nhà văn gọi là “trật
tự rừng xanh”. Đời sống loài vật được hiện lên thông qua hai khía cạnh: Bản năng
sinh tồn và đời sống nội tâm. Không chỉ có thế, mỗi trang văn của Vũ Hùng còn hiện
lên nét đẹp về phong tục, tập quán vùng miền – nơi mà ông đã đặt chân và gắn bó
một thời gian dài trong cuộc đời của mình. Đồng thời thông qua cuộc sống của thế
giới nhân vật loài vật, ông còn phản ánh xã hội loài người một cách chân thực, sâu
sắc bằng việc khái quát những bài học cuộc sống mang bóng dáng con người.
73
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT
TRONG SÁNG TÁC VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật
3.1.1. Không gian nghệ thuật
Theo cuốn Thi pháp học của Phạm Ngọc Hiển, khái niệm không gian được
hiểu theo hai phương diện: Không gian vũ trụ và không gian trong tác phẩm nghệ
thuật. Tuy nhiên không phải không gian nào trong tác phẩm nghệ thuật đều là không
gian nghệ thuật. Vậy khái niệm không gian nghệ thuật và không gian trong tác phẩm
nghệ thuật là khác nhau: “Không gian trong tác phẩm nghệ thuật bao gồm hai loại
lớn: không gian lý tính và không gian cảm tính. Không gian lý tính được gọi là
không gian vật lý và địa lý. Đó là không gian hiện thực có thể đo đếm được một cách
cụ thể, chính xác, tồn tại khách quan và có tính phổ biến... Không gian cảm tính
được gọi là không gian tâm lí và nghệ thuật (gọi chung là không gian nghệ thuật).
Đó là không gian phi hiện thực, không thể đo đếm chính xác được, tồn tại trong cảm
nhận chủ quan. Không gian nghệ thuật là loại không gian cảm tính, thể hiện cách
nhìn, cách cảm độc đáo của tác giả và nhân vật. Không gian nghệ thuật có đặc điểm
giàu hình ảnh sinh động, nhiều ẩn ý, thể hiện đời sống con người một cách sáng tạo.
Nó có thể được khắc họa cụ thể hoặc trìu tượng, mơ hồ, tượng trưng, ước lệ, phi
logic... tùy theo cảm nhận của nhân vật và dụng ý của nhà văn”. [14;28].
Trần Đình Sử quan niệm: “Không gian nghệ thuật không giản đơn là tái hiện
không gian của thực tại mà thể hiện quan niệm không gian của con người và mở
rộng ra là cả một nền văn hóa trong một thời kì lịch sử. Không gian nghệ thuật là
sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện sự cảm nhận không gian của con người, có
chức năng hiểu nghĩa và có giá trị thẩm mĩ. Không gian nghệ thuật là thuộc tính của
tất cả mọi loại hình nghệ thuật, kể cả âm nhạc. Không gian nghệ thuật thể hiện cấu
trúc bên trong của tác phẩm nghệ thuật, sâu sắc hơn nhiều so với khái niệm kết cấu,
dường như là thiên về tổ chức bên ngoài của văn bản”[48;16].
Còn theo tiến sĩ Hoàng Trọng Quyền thì cho rằng“Không gian nghệ thuật
trong văn học là một dạng hình tượng nghệ thuật, là một sự biểu hiện hình thức bên
trong của tác phẩm, góp phần thể hiện tính xác định và tính chính thể của tác phẩm.
Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con
74
người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, thể hiện nhà văn nhìn nhận
và phản ánh con người, sự vật trong những khoảng cách, góc nhìn và kênh thẩm mĩ
nào đó” [28;10].
Như vậy, có thể khẳng định không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo
của người nghệ sĩ nhằm thể hiện cuộc sống con người thông qua những hình
tượng nghệ thuật cụ thể trong sự thống nhất và toàn vẹn của tác phẩm văn học.
Đó không phải là không gian vật chất đơn thuần mà là không gian được tinh
thần hóa, sáng tạo hóa và mang tính chủ quan của người nghệ sĩ. Tìm hiểu được
không gian nghệ thuật là cơ sở để hiểu thế giới tác phẩm và nhân vật.
Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, hai không gian nghệ thuật nổi
bật nhất là: Không gian rừng núi và không gian làng bản.
* Không gian rừng núi
Những cánh rừng bạt ngàn trên dải Trường Sơn. Các ngôi làng của những
con người chân chất, đượm tình. Thế giới loài voi kì bí, mạnh mẽ nhưng tràn
đầy cảm xúc. Hành trình của ba người lính trẻ vào lòng nước bạn Lào là hành
trình khám phá thiên nhiên hùng vĩ, “những cánh rừng có những vân màu xanh
xám” hòa vào các phong tục, tập quán mới mẻ của người dân bản địa, trải
nghiệm quá trình học hỏi kiên trì để trở thành những người quản tượng yêu
thương và thấu hiểu loài voi. Đó là nội dung trong tác phẩm Phía Tây Trường
Sơn. Và chính ở đó, chúng ta sẽ thấy được một không gian núi rừng hùng vĩ và
thơ mộng: “Trời mới tang tảng sáng, Hưng đã cựa mình tỉnh dậy. Nằm trên nệm
lá khô anh ngỡ mình vẫn đang ở giữa làng quê. Gió rì rào chung quanh, như
bên những khóm tre làng. Một con gà vỗ cánh gáy đâu đó, trong những bờ bụi
còn vương vất bóng đêm”[30;10]. Cảm nhận không gian núi rừng của nhân vật
Hưng trong truyện, một không gian yên bình, trong trẻo như làng quê anh sống.
Những không gian núi rừng thơ mộng được hiện ra trong từng lời văn. Đi qua
từng vùng, ba chiến sĩ trẻ được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng
Trường Sơn. Những hình ảnh đó được hiện lên rõ nét và chân thực. Đó là cảnh
đẹp sau những đêm mưa, mặt đất ẩm ướt với những đám rêu xanh bám dày, các
loài động vật đua nhau bừng tỉnh để rủ nhau đi kiếm mồi. Sau trận mưa rào,
rừng như trút bỏ được những lưu luyến của mùa đông để khoác lên mình bộ áo
mới – bộ áo rực rỡ và đầy sức sống của mùa xuân. Vạn vật như trẻ lại, tươi mới
75
và rộn ràng hơn. Tất cả như thay đổi, chuyển mình. Tưởng như qua cơn mưa, bộ
áo trầm cũ của núi rừng được thay thế:“Trời tạnh ráo, ấm áp, sau những cơn
lạnh kéo dài. Bướm bay đầy trên những khoảng đất còn ẩm, nơi có những đám
rêu xanh. Chim đi tìm sâu, nhảy lách tách trong bụi rậm. Từng bầy sóc ngồi ăn
trên các cành cây, thỉnh thoảng lại lấy chân trước đập đập lên những sợi râu và
chơm chớp cặp mắt đen láy để nhìn người. Rừng đã trút bỏ tấm áo mùa đông và
mặc xong tấm áo rực rỡ của mùa xuân. Các đồi gianh dạt dào dưới xa, xanh
rờn. Đâu đâu cũng thấy hoa lá tươi non. Những lớp rêu mới mịn như nhung phủ
kín các vách núi trước đây xám ngắt. Cả đến các cây cổ thụ già nua cũng trẻ lại.
Chúng rũ hết những chiếc lá úa màu vàng chanh xuống đầy dưới gốc và từ
những cành trước đây còn khẳng khiu trơ trụi đã nảy ra những vầng lá non bát
ngát. Không còn thấy những con thú đói ăn gầy gộc của mùa đông, lưng mang
bộ lông đang rụng, bạc màu và xơ xác. Cây cỏ đầy chồi xanh, thức ăn thừa thãi,
con vật nào cũng no béo. Bọn thú có gạc đã thay xong bộ lông mới. Chúng lũ ba
lũ bảy rong ruổi rừng xuân, cứ như trời sinh ra mùa xuân là cốt để cho chúng
thỏa thích chơi bời. Có khi chúng đưa nhau đến sát đường đi. Bạo dạn nhất
trong bọn có lẽ là lũ cà tong. Chúng có những cặp tai to bên trong phủ lông
trắng muốt, những cặp sừng nhiều nhánh dài và mảnh dẻ. Bộ áo của chúng làm
chúng lẫn hẳn vào khung cảnh chung quanh: màu lông nâu lẫn vào màu đất
rừng và những dấu sao trắng trên lưng lẫn với những đốm nắng lọt qua các kẽ
lá” [30;13]. Loài vật, cây cối trở nên sinh động hơn qua cái nhìn của nhà văn Vũ
Hùng. Ông đã nhìn thiên nhiên bằng con mắt tinh tế, nhạy cảm và cảm nhận
thiên nhiên bằng các giác quan. Tiếng lá, tiếng chim, tiếng giọt nước rơi từ các
nhũ đá, tiếng róc rách của suối nguồn rồi đến tiếng cựa mình của loài cà tong.
Khe khẽ, êm dịu và nhẹ nhàng:“Tiếng lá rì rào, tiếng chim hót ở xa, tiếng róc
rách của những con suối chớm có nước, tiếng khua của những cặp sừng cà tong
và tiếng móng của chúng bước nhẹ trên đường”[30;14] hay như “tiếng rừng lao
xao, có những tiếng gì đó thỉnh thoảng lại rung lên khe khẽ, như tiếng rung của
những dây tơ giữa tiếng chim kêu thoang thoảng. Đó là tiếng của các giọt nước
rơi từ thạch nhũ xuống vũng. Chúng ngân vang trong những hang động sâu
thẳm, dội đi dội lại nhiều lần qua các vách đá trước lúc bay ra ngoài”[30;14].
Sau cơn mưa, không gian núi rừng như tươi mới và rạng rỡ hơn còn vẻ đẹp của
76
rừng trong không gian của những buổi chiều lại ấm áp với những tia nắng sót
lại: “Vào những buổi chiều xuân ấm áp, rừng Trường Sơn tràn đầy ánh nắng.
Nắng vàng hoe trên những cây cổ thụ cao ngất, tán chạm trời xanh. Từng đàn
chim về tổ vỗ những cặp cánh sặc sỡ, vẽ trong nắng những đường bay lấp
lánh”[30;16]. Vượt qua những chặng đường rừng, các chiến sĩ trẻ đã có những
giây phút dừng chân nghỉ ngơi để được ngắm nhìn khoảng không trước mắt. Từ
điểm nhìn trên cao của đỉnh núi, hướng tầm mắt ra xa và cảm nhận không gian
bao trùm trước mắt, dễ dàng lầm tưởng ngày hãy còn sớm, nắng vẫn long lanh,
con suối nhỏ với dòng nước lấp lánh uốn mình qua từng chân núi, rừng chuối
trải rộng mênh mang tận chân trời và những đường nét uốn lượn của các đỉnh
núi xa xa. Không gian như mở rộng và trải dài ra vô tận: “Đứng trên cao chót
vót, tưởng như chiều còn sớm. Nắng vẫn long lanh đầu núi, sương lam đã bắt
đầu buông. Mọi người cùng nhìn xuống những sườn núi thoai thoải đổ về phía
Tây... Trời phía Tây vẫn còn vàng rực. Không thấy làng bản, có lẽ chúng ở lấp
đâu đó dưới các vòm cây, mà vẫn chỉ thấy rừng rừng núi núi trùng điệp. Các
rừng chuối trải rộng mênh mông, xanh ngát màu lá non, đôi chỗ bắt đầu điểm
vài bông hoa đỏ. Những dòng suối lấp lánh, len lỏi dưới chân các trái núi. Xa
tắp, sát chân trời, thấy nét lượn nhấp nhô của những dãy đồi”[30;29]. Rồi bóng
chiều bao phủ khắp nơi:“Nắng thong thả tắt. Sườn núi phía Tây chìm dần trong
bóng chiều”[30;29]. Nắng lên, sương tan dần, rừng núi trùng điệp hiện lên trước
mắt, khung cảnh thật đẹp và lãng mạn. Và rồi nắng tắt, dãy núi Trường Sơn
chìm trong bóng tối. Cảnh vật hiện lên rực rỡ và cũng ẩn đi một cách chân thực.
Đi trên các con đường rừng và sống giữa thiên nhiên thơ mộng, những
người lính đã nhận ra nhiều điều từ không gian họ đi qua. Đó là những con
đường thênh thang đều dẫn đến các con suối. Mỗi con suối có một vẻ đẹp riêng
nhưng đều ấm áp, bốc khói, tỏa mùi lưu huỳnh và hằn lên những dấu vết mà lũ
voi để lại cùng những thân cây, tảng đá bị mài mòn: “Nước trong vắt, sủi tăm,
chảy qua những tảng đá làm thành muôn vàn chiếc bong bóng, long lanh dưới
các tia nắng lọt qua vòm cây. Lũ voi hoang để lại ở đây bao vết tích: những vết
chân lui tới hằn rõ trên mặt đất, có dấu đã rắn đanh, có dấu còn mới, những
thân cây bị mài mòn, những tảng đá bị cọ nhẵn, những bến tắm kín đáo dưới
những vòm cây cao lớn hoang sơ và nguyên vẹn: lũ voi không bao giờ tìm thức
77
ăn ở bên những bờ suối này, giữ bí mật nơi chúng chữa bệnh trước những cặp
mắt tọc mạch của các loài thú”[30;99]. Không gian rừng núi hoang sơ nhưng
sống động cũng được lột tả rõ nét, tinh tế và chân thực: “Xa xa về phía đông,
những đỉnh đồi lượn sóng bắt đầu vàng hoe như viền một dải nắng. Mặt trời
chưa nhô lên nhưng đã hắt một vầng sáng rực rỡ sang các mỏm núi cao bên
phía tây...”[33;9]. Nhà văn Vũ Hùng còn tinh tế khi theo dõi thiên nhiên qua
từng chi tiết nhỏ, ông không bỏ lỡ dù chỉ là những giọt sương hay những cử
động nhỏ của mỗi loài động vật để lột tả được khung cảnh trước mắt:“Dọc hàng
cây ven đường, con sóc cong cái đuôi sum sê như bông lau, nhảy thoăn thoắt
làm rụng xuống những hạt sương. Con bìm bịp thỉnh thoảng lại cất tiếng kêu,
đứng ló cái mình nửa nâu nửa đen ra khỏi bụi rậm. Trên cây kỳ nam, bầy khướu
bạc má chuyền cành, hót say sưa. Rừng nhộn nhịp đón bình minh”[33;10].
“Vách đá xám đục vì dầm mưa, dãi nắng, đôi chỗ phủ từng mảng rêu xanh.
Chót vót tận trên đỉnh núi, một con sơn dương đứng ngất ngưởng, in bóng lên
nền trời. Đôi lúc nó nhảy thoăn thoắt qua các mỏn đá, cúi xuống nhấm vài ngọn
lá”[33;29].
Bên cạnh khoảng không gian hoang sơ, thơ mộng của rừng núi là không
gian hiểm trở, kì bí được nhà văn Vũ Hùng miêu tả qua các hình ảnh độc đáo.
Những con đường gai góc mà chỉ có loài vật mới dám đi qua, những vệt nước
chảy hằn sâu qua năm tháng, vách núi cao ngất xen kẽ là những vực thẳm hun
hút, đáng sợ. Một không gian kỳ bí hiện ra:“Đường càng lên cao, càng gai góc,
hiểm trở. Dần dần đó chỉ còn là dấu vết những lối đi mơ hồ của loài thú và
những vệt nước chảy kéo dài của mùa mưa năm trước. Ông già Cao và các
chiến sĩ cứ nhằm phía mặt trời lặn mà leo. Khắp nơi là những cánh rừng hoang
vu, những vách núi cao ngất và giữa chúng là những vực sâu thẳm. Từ vách núi
có thể nhìn thấy dưới xa, những túp lều đã sụp đổ, những nương rẫy bỏ hoang
lâu ngày nay đã rậm rì, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng con người”[33;26].
Rồi sự khắc nghiệt của thiên nhiên cũng được nhà văn Vũ Hùng miêu tả rõ nét
qua thời tiết: “Chỉ cách Việt Nam có mấy vách núi mà thời tiết đã thay đổi hẳn.
Nắng chang chang. Trời lúc nào cũng sáng bừng bừng, chừng như mặt trời luôn
luôn ở trên đỉnh đầu, không có giờ lặn. Cây cổ thụ thân mốc bạc, cao vút và
thưa lá, để lọt xuống mặt đường những vầng nắng gay gắt. Ve kêu ran và chim
78
gáy gù “cúc cu” đều đều trong các vòm lá lấp lánh”[33;32]. Không gian những
miền đất mới nằm phía bên kia dãy Trường Sơn cũng hiện lên chân thực. Nắng
chói chang, gay gắt như đốt cháy mọi vật, vẳng lại là tiếng rìu chặt gỗ cũng với
tiếng rì rầm của tre nứa bị nắng làm cho nứt vỡ nhưng đằng sau những cảnh vật
đó là những không gian bí ẩn hiện ra: “Đất Lào hình như không có mùa xuân.
Càng rời xa chân núi, nắng càng gay gắt. Đâu đâu cũng thấy vẻ hoang sơ. Các
lòng suối vẫn khô cạn. Trên những đường mòn dài vô tận, thỉnh thoảng lại nghe
tiếng tre nứa nứt vỡ vì nắng và tiếng rìu chặt gỗ vang vang. Cảnh vật đơn điệu
như nhắc lại những chặng đường họ mới vượt qua. Nhưng càng đi, các chiến sĩ
càng thấy những điều kì lạ. Bất kỳ ở đâu, sau một vòm cây, một ngách núi, họ
đều có thể gặp cái bất ngờ”[33;37]...
Qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, chúng ta thấy bao trùm lên là
không gian kì bí nhưng đầy vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng. Ông đã từng đặt
chân và gắn bó cuộc đời mình với thiên nhiên nên ông cảm nhận về chúng
một cách chân thực và tinh tế nhất. Không phải bằng sự tưởng tượng hay
phóng đại, mà bằng những trải nghiệm gần gũi, Vũ Hùng đã thu gọn khung
cảnh thiên nhiên vào trong tâm hồn nhạy cảm để viết nên những trang văn
đẹp và lôi cuốn đến vậy!
* Không gian làng bản
Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, song hành cùng không gian núi
rừng là không gian của các làng bản dân tộc. Một không gian đơn sơ, mộc mạc của
những người dân tộc thiểu số được hiện lên rõ nét qua cảnh vật và nếp sống, sinh
hoạt của họ. Rừng già như lui dần về phía sau nhường chỗ cho khung cảnh gần gũi,
ấm áp trong cuộc sống của con người. Hình ảnh đầu tiên xâm nhập vào tâm trí của
người đọc là hình ảnh của những dải ruộng đan xen lẫn nhau như những dải lụa
mỏng. Các bản làng nằm xen giữa những dải ruộng và cây cối như một bức tranh
phong cảnh hữu tình: “Phút chốc rừng thưa lùi sau lưng và trước mặt đã thấy
ruộng. Những rải ruộng hẹp và dài, viền quanh rìa núi, mảnh nọ chồng lên
mảnh kia như những bậc thang. Dưới xa là làng, nằm trong những đám dừa,
cau cùng những cây xoài xanh thẫm đã lác đác quả non. Nhà dựng chênh vênh
trên những dãy cột, trước sàn là những cây hoa đại lác đác hoa trắng. Giữa
79
làng thấy một ngôi nhà gỗ rất lớn, mái nhiều lớp xếp lên nhau cong
vút,...”[30;32].
Không gian bản làng còn được thể hiện qua hình ảnh họp chợ của người
dân. Chợ là nơi giao lưu buôn bán của con người, đó cũng là nơi thể hiện rõ nét
nhất bản sắc dân tộc của từng vùng – miền. Mọi thứ đồ vật, loài vật mà người
dân kiếm được đều được họ mang ra chợ bày bán: “Chợ Na – Cai. Một chợ lớn
trên bến dưới thuyền. Từ những con thuyền độc mộc, nhiều người ì ạch vác
những chiếc ngà voi và những sọt hàng lên bờ. Người bán hàng cắm ô hoặc cắm
những tàu lá cọ làm mái che. Khách chợ ở xa ba bốn ngày đường cũng tới. Các
cô gái, cô nào cũng xòe một chiếc dù lụa trên đầu. Chợ bán bánh tráng và rất
nhiều hoa, từ các túm hoa ngào ngạt để cài đầu, các dây hoa để đeo cổ đến
những bắp hoa chuối làm rau ghém. Khu hàng thịt rừng. Dăm ba người thợ săn
dựng một giàn bằng những cây cột lớn, treo ngược một chú heo vòi. Mấy chú cá
sấu gớm guốc, mõm và chân đã bị trói chặt, nằm trên những chiếc sạp lớn. Một
phản thịt gấu ngồn ngộn, bên cạnh bầy bốn bàn chân gấu để làm tin. Rất nhiều
hàng trầu cao. Các bà già và các cô gái hình như ai cũng ăn trầu. Dãy lâm sản
đầy hàng quý: da thú, cánh kiến, mật ong và sáp, trầm hương và quế... có một
dãy hàng đặc biệt: người bán ngồi sau một chiếc mâm mây, trên bày vài chiếc
đĩa nhỏ xíu, đựng những mảnh vụn li ti, lấp lánh. Thỉnh thoảng có những vụn
lớn bằng nửa cái mày ngô, phản chiếu ánh nắng rực rỡ. Đó là những vụn vàng,
sàng được ở những bờ cát ngoài suối. Các cô gái trẻ đến mua vàng về để đúc
bông tay hoặc bịt răng. Ở đây ai cũng thích có những chiếc răng vàng óng
ánh”[30;41]. Không gia bản làng còn là không gian thiêng liêng của nếp nhà khi
chào đón một đứa trẻ ra đời: “Nhà đầy người. Một ban nhạc ngồi bên những
dụng cụ ngổn ngang. Những chiếc khèn ghép bằng mười sáu ống sậy. Vài chiếc
trống. Một khung tre bịt da, có đính một hàng lục lạc, một dàn cồng mười sáu
chiếc, đặt thành một hình bán nguyệt và đôi dùi đầu bọc da voi. Cây đàn thuyền
với một dãy những mảnh gỗ dày mỏng khác nhau có hai que gõ gác chéo trên
mặt. Những cây nhị, bầu là những chiếc gáo dừa. Đám thiếu nữ mặc xiêm áo
ngày hội ngồi cạnh người trùm phường đã đứng tuổi. Đó là những người hát
của dàn nhạc. Im ắng. Khách không giám động mạnh, rón rén đi lên. Không ai
chú ý đến khách. Mọi người nhìn đăm đăm vào một căn buồng khép kín, từ đó
80
có tiếng thở và tiếng lục đục vẳng ra khe khẽ. Bỗng cửa buồng mở tung. Có
tiếng trẻ khóc oa oa... Gian nhà ồn ào hẳn. Các cô gái đứng dậy, sửa lại váy và
bắt đầu múa. Thân thể và tay chân họ mềm như những dây rừng. Tiếng trống
bập bùng, tiếng cồng lanh lảnh và tiếng lục lạc rung rinh hòa với tiếng hát ngân
cao...”[30;43]. Những nương ngô, nương lúa cũng được miêu tả tỉ mỉ. Với điều
kiện thời tiết khắc nghiệt, cây cối khó ươm chồi nảy lộc nhưng không phải vì thế
mà người dân nơi đây họ bỏ thói quen vỡ hoang. Họ vẫn cần mẫn lao động hàng
ngày để tạo nguồn lương thực cho gia đình. Không gian nương ngô cháy nắng
đã cho người đọc cảm nhận được sự vất vả, gian lao của những con người dân
tộc miền núi. Nhưng qua đó cũng thấy được họ là những con người kiên cường,
nhẫn nại, dám chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt để sống và yêu đời:
“Nương vắng ngắt, chỉ thấy những cây gỗ cháy dở nằm ngổn ngang. Ngô đã
gieo nhưng chưa nảy mầm được vì nắng quá. Từng dòng kiến rừng đông nghịt
tha những hạt cơm khô. Trong lúc chờ ngô nảy mầm, cứ vài ngày một lần, người
ta phải rắc cơm khô trên lối kiến đi để chúng khỏi bới và tha mất hạt
giống”[30;46].
Nhà văn Vũ Hùng không chỉ dẫn người đọc đến với không gian bản làng
chung chung mà còn miêu tả chi tiết vào không gian bên trong những ngôi nhà
sàn nhỏ bé, đơn xơ. Ở trong những ngôi nhà sàn này, mọi cảnh vật đều gần gũi
và nên thơ: “Căn buồng tràn ngập ánh sáng và không khí, mọi vật ở đó đều
thơm tho trong trắng. Ở một góc buồng, lưng chừng vách treo một tấm gương
lồng trong chiếc khung tre. Dưới gương là chiếc bàn nhỏ, có một giỏ mây đựng
trâm lược. Lược không bằng sừng như những chiếc lược vẫn bán ở chợ mà gọt
bằng gỗ, rất khéo. Cạnh giỏ mây có một bó hoa rừng mới hái, cắm trong một
ống tre cưa ngắn và chạm những đường chỉ. Cao trên vách còn thấy treo một
chiếc dù chỉ xòe một nửa, giấu bớt những cánh hoa in trên lụa nhưng cũng đủ
làm tăng vẻ đẹp trẻ trung của gian buồng”[30;58]. Không gian sinh hoạt của
những người dân tộc cũng là nét đặc trưng trong tác phẩm của nhà văn Vũ
Hùng. Ông không chỉ miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà còn phản ánh nhiều nét
văn hóa của đồng bào nơi đây. Đầu tiên có thể thấy đó là không gian lễ hội. Lễ
hội của người dân tộc được chuẩn bị và tổ chức khá chu đáo. Đây là khoảng thời
gian thư giãn, nghỉ ngơi của họ. Họ đắm chìm trong những điệu nhạc. Cũng
81
giống như người lớn, lũ trẻ con khao khát lễ hội. Vì đó là lúc chúng được chơi
vui thỏa thích.“Buổi tối, khi công việc đã xong, mọi người ăn uống no say rồi
mở một đêm hội nhỏ mừng nhà mới. Đốt đuốc sáng trưng. Các cô gái ngồi khép
nép trên những chiếc chiếu, miệng nhai trầu. Dàn nhạc nổi lên, trai làng thổi
những cây khèn dìu dặt. Một ông già hát theo nhạc một bài “lăm”, kể lại một
câu chuyện gì đó từ ngày xưa... Sống trong khung cảnh này, lũ trẻ cũng như
người lớn, khao khát hội hè. Cả năm, chúng tính từng ngày, từng ngày, chờ Tết.
Cham – pa, con gái bác Bun – mi, bận rộn suốt ngày với những chậu nước
thơm. Từ mấy hôm trước, cô đã cùng bạn bè đi hái hoa: hoa hồng, hoa nhài và
các loại hoa rừng. Cô đem hoa về, cẩn thận lau sạch từng cánh rồi ngâm vào
một chiếc bình lớn. Vài ngày sau, nước ngả dần sang màu hồng của những cánh
hoa và thoảng mùi thơm. Chăm – pa đánh bóng những chậu thau bạc đầy những
hình chạm, xinh xinh như những chiếc đĩa, cẩn thận rót nước từ trong bình vào
đó. Sau đấy cùng với bác Bun – mi gái, cô quyét dọn nhà cửa, xếp ra sàn những
chiếc mâm mới và những tâm đệm sặc sỡ, làm chỗ tiếp khách.”[30;62]. Sau
những ngày lễ hội, nếp sống sinh hoạt được lặp lại. Không gian của bản làng
được khắc họa rõ nét qua các thời điểm trong ngày. Đó là không gian tĩnh mịch,
yên bình của buổi sáng sớm với sương đêm còn vương trên lá và các loài động
vật bắt đầu thức giấc: “Trời còn sớm, sương đục như sữa vương trên các ngọn
cây. Bầy vượn bắt đầu nổi tiếng hú. Chúng thức giấc gọi nhau dậy sắp sửa đi
ăn. Tuút! Tuút! Tu...út! Tiếng hú của chúng lanh lảnh, dù không có con gà gọi
sáng, người Khạ cũng không thể ngủ quên được”[33;1]. Và những công việc
nhộn nhịp, hối hả của một ngày lại được bắt đầu: “Bà Pôông vác một ống tre ra
suối lấy nước đổ vào nồi, bắc bếp hong xôi. Ở các nhà khác cũng có tiếng lục
đục khe khẽ: đàn bà đang nấu nướng cho đàn ông ăn sớm đi rừng. Lửa từ các
bếp hắt ra, rọi những quầng sáng mơ hồ trong sương dày. Lũ con gái thì thầm
gọi nhau xuống đâm gạo, bước nhanh trên thang gỗ, làm những bậc thang cựa
mình cót két. Họ vừa vần cối, vừa rúc rích cười. Tiếng chày đâm gạo bỗng theo
nhau nổi lên. Từng bọn ba cô gái xúm quanh cái cốt khoét bằng thân cây. Họ
nắm những cái chày cao gần tầm người, rướn mình giơ lên đâm xuống. Nhịp
chày ba rộn rã: thịch thịch thịch...thịch thịch thịch... Cả làng Khạ bừng
tỉnh”[33;2]. Đến buổi trưa, “nắng chang chang và vắng vẻ. Cây vẫn lặng gió, ve
82
không kêu, làng bản im lìm”[33;80]. Sang đến chiều, nhịp sống như chập dần
nhưng vẫn đọng lại không gian là màu “Nắng chói chang. Nhịp sống ở làng
Vông – xay như lắng xuống. Im ắng. Bầy voi sau phiên việc buổi sáng, đứng gà
gật dưới bóng cây. Các quản tượng và các chiến sĩ ngồi bên khung cửa, cố chờ
một cơn gió hiếm hoi thoảng qua. Từ khung cửa, nhìn thấy cánh đồng chạy đến
chân núi. Một vài lầu gạo, nơi các gia đình cất những bó lúa, đứng chơ vơ dưới
nắng. Không tiếng chim kêu, tiếng lá động. Buổi trưa Lào trống trải và xa vắng
lạ thường”[33;76]. Dần dần, bóng nắng đã lặng:“Buổi chiều, nắng ngả. Cây
dừa cao lênh khênh, nghêng cái bóng dài trên mái nhà B’ru. Những tấm phiên
vây quanh khu vườn nhỏ đổ xuống thành một mạng lưới mắt cáo phủ lên các
luống rau. Nắng hắt vàng vào các bồn gỗ trồng mấy cây hành hoa đặt trên
sàn”[33;13]. Mọi công việc gần như đang vận động theo nhịp hối hả, gấp rút để
kết thúc một ngày: “Lác đác đã thấy vài người đàn ông váo lao mải miết đi về
bản. Đàn trâu tìm về chuồng, vừa đi vừa gạt sừng vào dãy cà dại mọc bên
đường, làm những trái cà tròn và đỏ rực như lửa rụng xuống, lăn bon bon.
Chúng đủng đỉnh bước, lúc lắc khua mỏ. Trên lưng những con trâu mộng, mấy
đứa trẻ ngồi choãng chân hát véo von” [33;14];“Ngoài xa, trên lõng gỗ, những
con trâu mộng nối đuôi nhau kìn kìn kéo nốt chuyến gỗ cuối cùng của một ngày.
Một lúc cây gỗ tụt xuống ổ gà, thợ gỗ hò nhau bẩy đỡ sức trâu. Đàn trâu gò
lưng, rướn cổ, cố kéo. Trên bờ suối xếp đống những lim, gụ, táu, sến, giổi, gié...
vết chặt còn mới. Giữa dòng, một bè gỗ đang trôi xuôi, nước gầm thét hắt bọt
trắng lên những người chân sào. Lũ con gái ngừng tay dệt. Cả khung cửi lại
nằm yên một chỗ dưới sàn, con thoi im tiếng lách cách. Tiếng hát từ trên nương
bay về lâng lâng”[33;18]. Màn đêm kéo xuống, không gian tĩnh mịch và yên
bình:“Từ trong nhà đã thấy vầng trăng non lơ lửng ngoài trời. Vài ngôi sao tím
biếc bắt đầu lấp lánh trên những đỉnh núi xa”[33;22]. Không chỉ miêu tả không
gian sinh hoạt trong một ngày của đồng bào dân tộc, nhà văn Vũ Hùng còn miêu
tả không gian theo vòng tuần hoàn của các mùa trong năm: “Tháng tám, trời
mát dễ chịu. Nắng đã dịu bớt cái gay gắt, không còn làm rộp da bọn trẻ như
ngày hè. Rừng vắng vẻ. Mùa quả đã hết. bầy vẹt ngày nào còn kêu ầm ĩ trong
các rừng quả, nay đã bỏ đi tìm nơi khác kiếm ăn. Gió lùa qua những ống bương
trên mái nhà, ngày đêm hát vi vu. Gió làm mặt suối gợn những vết lăn lăn, làm
83
đồi gianh cuộn sóng rồi lướt trên ngọn cây, cuốn những chiếc lá úa để rắc vàng
lả tả. Bọn trẻ bồn chồn chờ đợi dịp này từ bữa nắng oi ả. Khi đi dưới gốc cây,
ngửa mặt thấy những chiếc lá úa đang rơi, chúng reo lên sung sướng. Cả năm
quanh quẩn bên những đồi nương gần nhà, vào dịp này chúng mới có một
chuyến đi dài. Chúng theo người lớn lên núi, vượt đèo, lội suối, đến tận xứ sở
của loài nai để kiếm nhung”[33;23]. Rồi bắt đầu “Trời nổi gió may. Gió xào xạc
lướt trên đồi gianh và lùa qua kẽ vách. Mùa rét đã bắt đầu... mưa phùn bay mờ
mịt, che khuất đồi núi. Làng Khạ ngày đêm chìm trong sương”[33;60]. Mùa
đông tới:“Vào mùa đông, làng Khạ thường ngủ sớm. Gió bấc hun hút đem theo
mưa phùn giá buốt xoa lên vách, làm ngấm cái lạnh thấu xương vào nhà. Gia
đình nào cũng trữ sẵn hàng đống củi từ ngày còn nắng ấm. Chiều chiều, mọi
nhà hạ cửa sớm và đốt lửa rừng rực trong bếp. Rét lắm, chỉ rời cái bếp vài bước
đã thấy tê tái. Ông già bà lão co ro... Không ai cười, không ai nói. Mùa đông
trên làng Khạ trống trải và rất lạnh”[33;61].
Đan xen trong khung cảnh của thiên nhiên, núi rừng là không gian làng
bản đầm ấm và gần gũi. Cộng đồng dân tộc đã cùng nhau sinh sống và chia ngọt
sẻ bùi. Họ an nhiên trong mỗi nếp nhà sàn đỏ lửa và tận hưởng một cuộc sống
yên bình, hạnh phúc.
3.1.2. Thời gian nghệ thuật
Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật để thể hiện tính chỉnh thể của
nó”[12;36]. Còn Giáo trình Lý luận văn học đã khẳng định: “Thời gian nghệ
thuật là thời gian do nhà văn sáng tạo ra, vừa thể hiện trạng thái con người
trong thời gian, sự cảm thụ thời gian, vừa mở ra lộ trình để người đọc đi vào thế
giới tác phẩm”. [48;47]
Giáo trình Văn học 2 thi pháp văn học thiếu nhi khẳng định: “...Thời
gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của
nhà văn về cuộc đời và con người... Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có
thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó,
với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương
lai...”[55;24]. Thời gian nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo
của tác giả bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức
84
cảm nhận được: Hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc chìm đắm
vào quá khứ.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đi tìm hiểu về thời gian tâm lý của
các nhân vật. Đó là thời gian được cảm nhận qua nhân vật ở những thời điểm
khác nhau. Thời gian tâm lý có vai trò quan trọng trong việc thể hiện diễn biến
tâm lý của nhân vật. Trong truyện ngắn Phía Tây Trường Sơn, các nhân vật
được khắc họa tâm lí rõ nét. Đầu tiên là ba chiến sĩ gồm: Tiểu đội trưởng Hưng
và hai đội viên: Sơn, Đức. Họ được cấp trên giao nhiệm vụ hết sức khó khăn và
nguy hiểm. Được các chiến sĩ nước bạn Lào trao tặng ba chú voi làm phương
tiện vận tải nên các chiến sĩ Hưng, Sơn, Đức phải đi sang nước bạn Lào để học
điều khiển voi và giong voi về nước. Khi nhận được lệnh, ba chiến sĩ đều băn
khoăn, lo lắng, tuy nhiên họ đều sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao:“Các chiến
sĩ lặng im. Lệnh đột ngột quá. Có lẽ không ai thích làm quản tượng vì đã ai biết
làm quản tượng là gì đâu. Ở đơn vị với anh em, sống chết vui buồn có nhau đã
quen nên chẳng ai muốn đi xa. Nhưng các chiến sĩ vốn yêu mến người chỉ huy
và quen phục tùng mệnh lệnh. Họ sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, chỉ mong khi
đánh giặc xong, ai nấy được trở lại với những công việc của mình. Thế là họ ra
về, chuẩn bị lên đường”[30;2]. Ba chiến sĩ nhận nhiệm vụ một cách đột ngột
nhưng không phải vì thế mà họ lề là, chậm chạp. Họ bắt tay ngay vào công việc
chuẩn bị của mình. Mỗi người mang theo gạo, muối, thức ăn, một số vật dụng
cần thiết và đi theo ông già Cao - người dẫn đường, lên đường. Trên suốt hành
trình, ba chiến sĩ đã gặp rất nhiều điều bất ngờ. Đó là vẻ đẹp kì vĩ, bí ẩn và thơ
mộng của núi rừng Trường Sơn cùng những phút nguy hiểm đến nghẹt thở.
Nhưng bằng kinh nghiệm và tấm lòng của những người dẫn đường, họ đều vượt
qua được. Trải qua hình trình vất vả trong rừng rậm hiểm nguy, ba chiến sĩ cũng
đã bắt đầu thấy dấu vết của con người: “Đó là vết bấm móng tay trên các cây
nấm, những miếng bã trầu do các cô gái đi kiếm nấm để lại, những mẩu thuốc
thừa của thợ gỗ, đã nát mủn, lấp trong đám lá dưới chân... Mọi người trầm trồ
nhìn ngắm, tưởng như họ phải xa cách xã hội loài người đã từ lâu lắm”[30;31].
Nơi đầu tiên họ dừng lại nghỉ ngơi là buôn làng của ông Pa – than. Ở đây, dân
bản mừng vui và háo hức vì có khách tới. Người lớn thì giục giã con cháu bắt gà
vịt để đãi khách, trẻ con thì cười rộ lên. Các chiến sĩ làm quà cho người làng đủ
85
thứ chuyện ở Việt Nam. Ai cũng vui mừng và phấn khởi khi được nghe những
câu chuyện ở một đất nước bạn. Chia tay ông già Cao, các chiến sĩ lại lên
đường, “Đường bắt đầu qua nhiều bản làng, với những cánh đồng nho nhỏ,
nằm giữa rừng phẳng bao la. Cứ buổi chiều, người đưa đường lại đưa các chiến
sĩ vào ăn ngủ ở trong làng và trao họ cho một người dẫn đường mới”[30;37]. Đi
qua các bản làng, ba chiến sĩ được tiếp xúc với những tục lệ, phong tục và tập
quán. Trên đường đi, bất ngờ các chiến sĩ và người dẫn đường rơi vào tay một ổ
phục kích. Bằng sự nhạy bén và nhanh nhẹn của mình, ba chiến sĩ cùng người
dẫn đường đã thoát khỏi nguy hiểm. Cuối cùng, họ cũng đến được với buôn làng
Vông – xay, nơi mà các quản tượng đang chờ đợi để hướng dẫn và dạy họ trở
thành các quản tượng: “Tiếp xúc với các quản tượng, các chiến sĩ đã thấy ngay
họ là những người từng trải. Do công việc họ phải đi lại khắp nơi. Đời họ cũng
như đời con voi, là những chuyến đi dài. Hình như ở đâu cũng có dấu chân của
họ... Những câu chuyện của những người quản tượng kể bên bếp lửa dần dần
đưa các chiến sĩ vào sống giữa bầy voi, mới đây còn xa lạ với họ. Mỗi câu
chuyện đem lại bao điều kì lạ, bao kiến thức”[30;70]. Rồi họ được tiếp xúc với
công việc của mình. Mỗi chiến sĩ được giao cho một quản tượng hướng dẫn
cách tiếp xúc và điều khiển voi. Ai cũng mang trong mình tâm lý lo lắng và đôi
chút sợ hãi. Nhưng được các quản tượng chỉ bảo tận tình, họ quen dần với công
việc. Được sống và làm việc cùng những người dân bản trong một thời gian dài,
ba chiến sĩ bộ đội đã dần hiểu được đức tính và tâm hồn của con người nơi đây.
Họ là những con người có lòng nhân hậu, mến khách và chu đáo. Họ đã chỉ cho
các chiến sĩ cách trở thành một quản tượng tốt. Và quan trọng nhất, các chiến sĩ
đã học được ở họ lòng nhân từ trong cách đối xử với loài vật, đặc biệt là loài voi.
Rời làng Vông – xay nhưng tâm hồn của các chiến sĩ còn vấn vương mãi ở đó –
nơi mà các chiến sĩ đã sống và làm việc trong suốt một quãng thời gian ý nghĩa
của cuộc đời mình. Như vậy, qua thời gian, các chiến sĩ từ những cảm xúc bỡ
ngỡ, hoang mang và lo lắng khi mới nhận nhiệm vụ đã trở nên bản lĩnh, gan dạ
và gắn bó với mảnh đất Lào thân yêu.
Ba chú voi: Bạc – heng, Sao - nọi và Bạc – mày trong truyện Phía Tây
Trường Sơn cũng được khắc họa tâm lí rõ nét qua thời gian. Bạc – heng là một
chú voi trẻ đẹp, khỏe mạnh và tràn đầy sức sống. Nó cũng rất tinh nghịch không
86
lúc nào chịu đứng yên một chỗ. Bạc – heng ở với gia đình bác Bun – mi khoảng
chục năm và giúp đỡ gia đình bác rất nhiều. Chiến sĩ Hưng được giao tiếp xúc
và dạy dỗ chú voi Bạc – heng. Khi Hưng lại gần Bạc – heng, “Mới đầu con voi
nhìn Hưng bằng cặp mắt dò hỏi. Nhưng rồi nhìn thấy quả dứa trên tay Hưng, nó
biết anh đến cho nó ăn. Anh chưa bước tới nơi, con vật đã vươn vòi ra. Nó cuốn
ngay quả dứa, khẽ mở đôi môi đỏ hòng hình tam giác, thả vào đó và nhai ngon
lành... Ăn xong, nó buông vòi xuống và hít hơi anh thật lâu”[30;84]. Khi nó đã
quen chiến sĩ Hưng, Bạc – heng được tháo xích, nó lẽo đẽo theo Hưng: “Có lúc
nó đứng lại, mải tung vòi lên cây bẻ một cành lá non, nhưng khi Hưng gọi tên
nó thì con vật lại đủng đỉnh đi tới”[30;84]. Chẳng bao lâu, Bạc – heng đã quen
chiến sĩ Hưng, mỗi khi Hưng đến dù không mang theo thức ăn cho nó, nó vẫn tỏ
vẻ vui mừng. Tuy nhiên, đến lúc Hưng muốn trèo lên cổ con voi, “dù đã quen
hơi anh, con voi vẫn không muốn để Hưng trèo lên người nó...cứ hất hất chân
như muốn đá Hưng đi”[30;85]. Khi người quản tượng hát bài hát dỗ voi quen
thuộc, “con voi liền hếch cặp ngà và xòe ngang cả hai tai để lắng nghe”, Bạc –
heng cọ cọ cái vòi xù xì vào vai người quản tượng và nâng chân lên cho Hưng
trèo lên: “Hưng trèo lên chân con vật. Nó co chân rất cao để anh có thể dễ dàng
leo lên đầu nó”[30;86]. Dần dần, Bạc – heng quen với tiếng của chiến sĩ Hưng,
anh bảo gì nó cũng làm theo: “Con vật không bao giờ vội vàng, cứ đủng đỉnh và
im lặng cho tới khi công việc đã làm xong”.[30;87]. Sau một ngày làm việc vất
vả, Bạc – heng được thả tự do đi tắm dưới con suối chảy ven làng: “Nhiều bữa
Bạc – heng cùng bầy voi đặt các trò vui trên bãi cát rộng, chơi đùa cho bõ một
ngày vất vả. Bạc – heng đi lại, tung vòi cuốn lấy vòi một anh voi đực lực lưỡng,
ra sức kéo co. Cả bầy liền tản rộng, nhìn cuộc vui bằng những cặp mắt lim dim
tinh nghịch”[30;88]. Nó đùa vui với những chú voi khác. Đùa nghịch chán, nó
nằm im, khoan khoái tận hưởng cái mát mẻ, yên tĩnh của buổi chiều cho đến khi
làng nổi trống gọi thì con vật mới đủng đỉnh, thong thả lên bờ và lững thững đi
về. Có thể thấy, Bạc – heng là một chú voi tinh nghịch, thông minh. Còn Sao -
nọi là một cô voi cái xinh đẹp, hiền lành và dễ gần. Chiến sĩ Sơn được giao để
tiếp xúc với Sao - nọi. Khi Sơn đến gần, Sao - nọi lập tức vươn vòi lên, rà khắp
người Sơn để ngửi hơi, đôi mắt nó chớp liên hồi. Chỉ vài ngày sao, nó đã quen
với chiến sĩ Sơn. Sao nọi là một cô voi sáng dạ. Khi Sơn thấy nó thường nhặt
87
một cành cây khua trên lưng để đuổi ruồi muỗi nhưng không tìm được cành cây
vừa ý, nó bứt rứt, khó chịu và cong vòi lên lưng mà xì hơi: “Sơn làm cho Sao -
nọi một cái quạt. Anh ghép hai tàu lá gồi, nẹp tre cho cứng rồi đưa Sao - nọi.
Con voi xua quạt trên lưng và thấy cái quạt đuổi ruồi tốt hơn những cành cây
mà nó từng nhặt được, nó lim dim đôi mắt tỏ ý vui thích. Hết buổi trưa, khi
xuống giong Sao - nọi đi làm, Sơn lấy cái quạt ở vòi nó, cắm xuống một khe đất
bên cái cột xích voi. Hôm sau Sao - nọi bắt chước Sơn và từ đó thành một thói
quen: mỗi khi quạt xong, con vật lại cắm cái quạt vào chỗ cũ”[30;90]. Sao - nọi
cũng rất nữ tính và biết ơn. Một buổi đi làm về, nó dẫn Sơn đến một gốc phượng
rừng đầy những trùm hoa vàng. Nó tìm một chùm hoa đẹp nhất, nhẹ nhàng bẻ
lấy và đưa lên đầu Sơn. Con vật muốn dành tặng món quà nhỏ cho Sơn để trả ơn
Sơn, người quản tượng đã hết lòng vì nó. Quả là một cô voi dễ gần, dễ thương
và thông minh. Cũng giống như Bạc – heng và Sao - nọi, thoạt đầu Bạc – mày là
một chú voi dễ bảo. Chỉ sau vài tháng, con vật cũng đã quen và lưu luyến với
chiến sĩ Đức: “Năm nay, Bạc – mày hai mươi tuổi, đó là tuổi thanh xuân của
loài voi. Bạc – mày cũng hồn nhiên và tinh nghịch như con người vào tuổi ấy.
Nó thường âu yếm hít hơi những ai qua lại, có khi phun một tia nước vào họ rồi
nheo nheo cặp mắt ra chừng thích thú”[30; 90]. Nhưng đột nhiên con vật bỏ ăn
và thay đổi tính nết: “Nó trở nên hiếu động và hung hãn. Con vật giằng xích,
bồn chồn đi lại quanh cái cột, hệt như một con gấu. Cái chuông ở cổ nó không
ngừng kêu reng reng. Từ khi nó bắt đầu trái tính, Đức đeo cho nó một cái
chuông, cũng như người ta treo chiếc mõ ở cổ trâu, phòng khi con vật giật xích
chạy trốn thì theo tiếng chuông mà tìm nó về. Chốc chốc Bạc – mày lại rống lên.
Tiếng rống dữ tợn như tiếng một con voi độc giữa rừng hoang, át cả nhịp
chuông lanh lảnh”[30;91]. Khi khắc họa Bạc – mày, nhà văn Vũ Hùng đã đưa
người đọc từ thời gian quá khứ cho đến hiện tại. Bạc – mày được sinh ra trên
một nệm rơm êm ấm ở giữa làng Vông – xay mà không phải ở khu rừng hoang
dại cây cao bóng cả, nơi tổ tiên của nó ra đời. Lớn lên ở dưới làng, tính tình của
Bạc – mày rất thuần, nó được đối xử tốt, được ăn no và làm những công việc
vừa sức. Thế nhưng bất chợt, tính tình của nó thay đổi: “Trước hết nó im lặng.
Nó từ chối mọi sự săn sóc của Đức: khi anh vuốt ve nó thì nó đạp đạp chân, tỏ ý
bực bội. Rồi con vật trở nên khó tính: hơi trái ý là nó nhìn gờm gờm, cong lưng,
88
đập tai và huơi đuôi ngà lên một cách gây gổ, sẵn sàng nổi giận. Nhiều lúc nó
đứng u uất, nhìn đăm đăm về phía chân trời. Mắt nó như đóng đanh vào các
rừng cây và những ngọn núi biếc, từ đó bay về mùi thơm của lá cơm xôi và
những ngọn thông già. Một nỗi khao khát về sự buông thả mà nó chưa bao giờ
được hưởng cháy bỏng trong người nó. Nó thèm được đi lại tự do dưới những
vòm cây hoang dại, không xiềng xích nặng nề ở dưới chân, bên một con voi bạn
cũng không xiềng xích như nó.” [30;92]. Bạc – mày khao khát được tự do, cái tự
do của hiện tại mà nó chưa bao giờ được trải qua: “Nỗi khao khát kéo dài đến
mức con vật thấy ngứa ran trong các thớ thịt. Da nó đau đớn và run lên rùng
rùng, như bị chích bởi muôn nghìn ruồi muỗi vô hình. Đến đêm, khi trăng rừng
xanh biếc rọi vào mắt nó thì con vật không còn chịu đựng được nữa. Nó đứng
dựng dậy, hai chân sau căng thẳng, hai chân trước chới với. Bụng nó như thót
lại, bao sức lực dồn lên cả đôi vai để sẵn sàng chồm ra phía trước. Rồi nó vươn
vòi lên cao, thở hổn hển và rống những tiếng rồn vang, vừa buồn thảm vừa hung
hãn”. [30;93]. Bạc – mày đang trải qua giai đoạn khủng hoảng về tinh thần, nó
muốn đi đến với tự do của thiên nhiên, rừng núi mà bao nhiêu năm qua nó chưa
một lần được biết đến. Tiếng gọi của rừng già như thôi thúc, giục giã làm cho nó
bứt rứt, bồn chồn. Ở ngoài kia, rừng núi vô tận đang mê hoặc và quyến rũ nó.
Mang trong mình sự kìm hãm, trói buộc, Bạc – mày muốn phá tan mọi thứ. Nó
giận giữ gào lên cho bản năng bị vùi lấp bấy lâu được sống dậy trong người nó
rồi đứng dựng lên như con ngựa bất kham, đôi mắt giận giữ, đỏ ngầu. Nó giật
xích khiến dây xích căng bần bật. Bạc – mày gồng lên chống cự những con voi
đang cố gắng giữ nó. Trước sự chống cự gay gắt của Bạc – mày, các quản tượng
cũng thả nó đi. Trước khi thả nó, các quản tượng đã cho nó uống thuốc để trấn
an tinh thần. Được thả bất ngờ, nó đạp đạp chân rồi rảo bước đi ngay ra khỏi
làng. Mấy hôm sau, khi cơn khủng hoảng của Bạc – mày chấm dứt, nó lại quay
trở về làng. Có lẽ, con vật đã tự nhận ra nó không thích hợp với cuộc sống bí ẩn
nơi rừng già. Tâm lý không ổn định của Bạc – mày chính là minh chứng cho sự
khủng hoảng của loài vật. Chúng giống như con người cũng trải qua những giai
đoạn hoảng loạn, ham muốn và bất ổn định. Qua thời gian, tâm lý của chúng
được củng cố, mọi vết thương trong tâm hồn được chữa lành.
89
Thời gian trôi qua, tâm lý loài vật cũng thay đổi theo. Có thể theo chiều
hướng tích cực hoặc ngược lại. Chú vẹt trong truyện ngắn Các bạn của Đam
Đam đã rơi vào tình cảnh trói buộc khi đang sống một cuộc đời tự do. Chú vẹt
non đang vùng vẫy thỏa thích ở vũng nước trong veo giữa đám đá cuội trắng
trên bờ suối: “Chú mở to đôi mắt: nó nhìn thấy mây trời và bóng nó in dưới
vũng nước trong”[29;4]. Nó có đôi mắt sáng và thông minh. Đang vui đùa với
bạn, bất chợt chú vẹt trúng mũi tên của cậu bé Đam Đam: “Chú vẹt non nhảy
lên lấy đà: nó cũng muốn bay theo bầy. Nhưng vì không mở được đôi cánh, nó
rơi xuống, ngã nhào trên đất”[29;5]. Chú vẹt bị Đam Đam bắt mang về nhà, nó
được buộc vào một chạc cây. Theo bản năng, khi cậu bé Đam Đam buông tay,
chú vẹt tung cánh bay lên như ánh chớp nhưng bị giữ lại, nó rơi xuống và lủng
liểng dưới sợi dây buộc. Với tâm lí bất ổn và không quen trói buộc, chú vẹt cứ
hết lần này đến lần khác cố gắng vút bay nhưng lại rơi xuống. Cứ thế đến lượt
thứ chín, thứ mười, con vật biết mình bị xiềng xích mới chịu đứng yên và kêu
những tiếng kêu thảm thiết. Nó tuyệt vọng gọi bầy. Tưởng rằng con vẹt đã bất
lực nhưng nó lại lấy đà để cất cánh “nhưng vừa định bay lên thì nó chợt thấy
chân mình đã bị vướng dây. Thế là nó ép chặt cánh vào mình và ngẩng lên. Một
lát sau, quên mất tình trạng trói buộc, con vẹt lại cúi đầu lấy đà. Nhưng rồi tức
khắc nhận ra cảnh ngộ của mình, nó vội ngẩng đầu lên. Cứ thế con vẹt gật gù
hoài”[29;10]. Mọi sự cố gắng của nó dường như vô ích. Nó đã bị giam hãm.
Qua thời gian, con vẹt gầy rạc đi vì bị Đam Đam lãng quên. Nhưng càng gầy
tiếng kêu của nó càng thảm thiết. Có thể thấy, khao khát tự do và được hòa nhập
với bầy luôn thôi thúc trong tâm hồn chú vẹt. Chú luôn muốn được giải thoát.
Tiếng kêu đau đớn, vang vọng như lời trách móc. Cuối cùng, Đam Đam cũng
thả chú vẹt. Được tháo sợi dây, nó bay vút lên đậu trên ngọn cây dẻ đầu xóm và
kêu những tiếng kêu dò hỏi: “Từ trên cao, tiếng gọi tưởng chừng như vang vọng
tới những vách núi. Con vẹt nghêng đều lắng nghe. Nó thoang thoáng thấy tiếng
trả lời từ phía xa xăm vọng về, một thứ tiếng mỏng manh mơ hồ mà chỉ riêng
mình nó nhận ra. Nó tung cánh vút bay về phía đó”[29;26]. Con vẹt đã được tự
do. Tuy trải qua một quãng thời gian dài bị trói buộc nhưng bản năng của con
vật vẫn không bị đồng hóa và mất đi. Thay vào đó cái bản năng ấy trở nên mãnh
liệt và thôi thúc hơn.
90
Chú chó Phay Phay trong truyện Các bạn của Đam Đam cũng có bước
trưởng thành mạnh mẽ. Phay Phay là một chú chó ngoan ngoãn, khi đi theo
người bạn mới Đam Đam về nhà, nó không cần dây trói. Từ ngày có nó, nhân
vật Phay Phay cũng đã có những sự thay đổi về nhận thức. Từ khi có Phay Phay,
Đam Đam như quên mọi việc, suốt ngày cậu quấn quýt bên con chó. Mọi ánh
mắt, cử chỉ của Đam Đam, con chó đều hiểu: “Ngày ngày, đôi bạn đưa nhau lên
nương. Đam Đam hái củi, kiếm quả, nhặt nấm, con chó lẽo đẽo đi theo. Buổi
chiều, họ cùng nhau xuống nương tắm, lúc trở về, con chó tha hồ vui đùa. Nó
sủa vang dưới chân bò ngựa, nhảy chồm lên trên đàn gà khiến chúng chạy táo
tác. Rồi con chó nhảy dài lên thang, nhìn ông bà Xi Ta, sủa vài tiếng vui
mừng”[29;24]. Nó theo Đam Đam đi học nhưng chẳng bao giờ chịu nằm im, nó
bị tiếng rừng quyến rũ. Từ một chú chó nhỏ nhắn, Phay Phay cao vổng lên và rõ
ra là một chú chó tơ. Bộ lông của nó chuyển từ màu vàng rơm sang màu vàng
lửa. Đã đến lúc nó được huấn luyện để trở thành một chú chó săn. Hàng ngày,
ông Xi – Ta và Đam Đam rèn dạy nó. Ban đầu, nó cũng lưỡng lự, non nớt.
Nhưng với bản tính thông minh, sáng dạ, Phay Phay học tập rất nhanh. Hoạt
động nhiều giúp nó nhanh nhẹn và trí thông minh được rèn luyện. Ngoài việc
dạy nó tập nhảy cao, Đam Đam còn dạy nó bơi. Vào những buổi chiều, Đam
Đam đưa nó đi bơi. Mới đầu, nó bị sặc sụa trong nước đến nỗi “phải vớt lên
mảng”. Dần dần, nó quen với môi trường nước và bơi nhanh như một con rái cá.
Phay Phay được rèn luyện để trở thành một chú chó tinh khôn và dũng cảm. Để
tập luyện tính dũng cảm, ông Xi ta đã nhặt những túm lông của các loài thú dữ
cho Phay Phay ngửi: “Lông cọp làm nó khiếp sợ. Một nỗi khiếp sợ ghê gớm và
bẩm sinh khiến nó co quắp và khuỵu xuống... Con chó đã bỏ ăn. Nó tìm nằm
trong xó tối, sút đi rất nhanh như bị bệnh. Ông Xi ta cho nó nghỉ, vỗ béo nó và
khi con vật đã trở lại bình thường, ông cho nó ngửi tiếp túm lông của Cọp Vàng.
Phay Phay lại xỉu đi”[29;32]. Đây là thời kỳ gian khổ đối với Phay Phay. Rồi
con vật cũng quen dần với mùi của các loài thú dữ. Qua thời gian rèn luyện,
Phay Phay đã trở thành một con chó khôn ngoan, thông minh và can đảm. Và
cũng đến lúc nó được thử sức mình bằng những cuộc đi săn. Mỗi lần đi săn,
Phay Phay luôn tỏ rõ sự nhanh trí, thông minh và dũng cảm của mình. Thời gian
đã giúp nó rèn luyện và trưởng thành. Từ một chú chó nhỏ, Phay Phay đã trở
91
thành một chú chó săn can đảm. Con khỉ Xa ni cũng được được thời gian giúp
cho thay đổi về ngoại hình cũng như tính cách. Xa ni là một con khỉ non nớt,
yếu đuối đã được Đam Đam và Phay Phay cứu sống trong một cuộc đi săn. Ban
đầu, nó hoảng loạn, sợ hãi, “thân hình nhỏ bé của nó rung lên. Nó buông hai tay
và nhìn bằng cặp mắt van xin. Cái mũi hếch của nó thở phập phồng”[50;58].
Thân thể của nó vẫn còn thoảng mùi sữa mẹ và những búp lá non. Khi được đưa
về nhà bằng bàn tay chăm sóc chu đáo của gia đình Đam Đam, con khỉ lớn
nhanh và nghịch ngợm:“Nó đi chập chững trên sàn, hoặc nhảy lên mái đu từ sà
này sang sà khác. Nó chơi nghịch suốt ngày. Mỗi vật rơi vào tay nó đều biến
thành một thứ đồ chơi”[29;63]. Xa ni ngày một nhanh nhẹn và rắn rỏi. Nó học
hỏi và bắt chước rất nhanh. Năm tháng trôi qua, “hoa đồng lại nở đầy lối đi và
thoang thoảng mùi thơm. Cây rừng xanh rờn từ mùa xuân, sau cơn mưa hè càng
như căng nhựa và đầy lá. Chim gáy, chim sáo ríu rít... Ong xôn xao tìm
hoa”[29;67]. Bản năng thức dậy, Xa ni cảm thấy rạo rực như chưa bao giờ được
cảm thấy. Bây giờ nó đã lớn, nó cần trở về với rừng già. Ý chí của nó bị rừng già
quyến rũ nhưng nó vẫn lưu luyến với gia đình Đam Đam – nơi mà nó đã được
sống bình yên. Rồi không thắng nổi tiếng gọi nơi hoang giã, Xa ni đã bỏ đi:
“Đam Đam đặt Xa ni lên một cành cây. Con vượn mở tròn mắt nhìn những cái
đã từng in vào kí ức nó... Nó nhận ra tất cả, bàng hoàng như tỉnh dậy sau một
giấc ngủ quá dài. Trở về với rừng thẳm, nó sống lại với mọi bản chất thầm kín
và bí hiểm của nó. Nó ngửi những lớp vỏ cây và đu lên đu xuống. Đúng rồi: Có
một cái gì đã thức tỉnh trong lòng nó. Nó ngồi trên cao nhìn rất lâu xuống Đam
Đam... Nhưng tất cả những cái ấy vẫn không giữ được nó lại. Con vật kêu “Hu!
Hu!” và đu bổng lên cao rồi cứ thể đu mãi đi xa”[29;69]. Nhưng rồi bỗng một
buổi chiều, Xa ni trở về trên ngọn cây muỗm cổ. Phải chăng nó đã không tìm lại
được bầy đàn của mình? Phải chăng hoang giã đã không đủ sức mạnh để giữ
chân một con vật khi nó có tình cảm gắn bó với con người? Không một ai giải
thích được. Chỉ biết rằng, cuộc đấu tranh tâm lí của Xa ni là sự đấu tranh giữa
bản năng và thói quen. Và khía cạnh nào thắng cũng không quan trọng. Điều
quan trọng nhất đó là sống ở đâu cũng được, loài vật thấy bình yên là đủ.
Chú ngựa Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ là một chú ngựa non
vùng thảo nguyên Mông Cổ. Chú đang có cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của
92
mình thì bỗng nhiên bị bán cho một rạp xiếc ở Việt Nam. Môi trường sống xa lạ
đã khiến tâm lí của chú thay đổi rõ rệt. Mở đầu tác phẩm, là cuộc sống hiện tại
của chú ngựa Antai. Chú đã giới thiệu về bản thân mình một cách khái quát và
rõ ràng: “Tôi là một con ngựa xiếc. Bạn có thể gặp tôi hàng ngày trong khu nhà
bạt của Hà Nội... Tôi mang bộ yên cương lấp lánh, đặt trên lưng tấm đệm dệt
bằng những sợi chỉ bạc, chỉ vàng”[18;11]. Chú ngựa rất tự tin về khả năng của
bản thân mình, chú khoe rằng chú có thể mang được bốn người hoặc sáu người
trên lưng mà vẫn chạy nước kiệu một cách nhẹ nhàng. Chú còn tự hào về vùng
đất mà chú được sinh ra và lớn lên. Đó là vùng đất Mông Cổ. Sau đó, chú kể lại
câu chuyện của cuộc đời mình. Dù tự hào về vùng quê Mông Cổ nhưng chú
ngựa Antai cùng thừa nhận đây là vùng khắc nghiệt trên trái đất. Mùa hè nóng
bỏng và chói chang. Mùa đông lạnh buốt và ảm đạm. Không có một loài cây nào
sống được ở đây trừ một vài loài cây không lá, thân khẳng khiu. Tuy vậy, đồng
cỏ vẫn đủ nuôi sống bầy đàn của chú và các bầy đàn khác. Trên đồng cỏ ấy, chú
ngựa Antai cùng các loài vật sống bình yên, hòa thuận và che chở cho nhau.
Chúng giúp đỡ nhau cùng vượt qua những nguy hiển của cuộc sống thảo
nguyên. Ngoài việc tự hào về quên hương, chú ngựa Antai còn tự hào về gia
đình ngựa của mình. Bố chú là một loài ngựa rừng hoang dã nổi tiếng trong
vùng. Ông rất tinh nhanh, chưa bao giờ chịu sự chói buộc. Ông có bốn cẳng
chân thần kỳ và quen chống chọi với bão giông, thú dữ. “Ông can đảm và có
sức chịu đựng không bờ bến”[18;16]. Mẹ Antai thì trái ngược lại, bà là giống
ngựa nuôi: “Mẹ là một kì công của thiên nhiên. Những cặp chân thanh tú tận
cùng bằng một bộ móng đen như huyền, một bộ ngực đầy đặn hứng gió thảo
nguyên, một khuôn mặt nhẹ nhõm với đôi mắt đen to, những sợi bờm mảnh dẻ
như những sợi tóc...”[18;17]. Chú ngựa Antai được hưởng dòng máu hoang dã,
cường tráng của cha và dáng dấp đẹp đẽ của mẹ. Khi vừa mới được ra đời, chú
lạ lẫm, non nớt và ẩm ướt. Được mẹ và ông chủ chăm sóc chu đáo, chú dần khỏe
mạnh và lanh lẹ. Khi sống trên thảo nguyên, chú ngựa Antai và người bạn Xam
đã qua nhiều cuộc vui chơi và trở nên gắn bó với nhau. Sống trong bầy đàn lớn,
chú ngựa Antai nhận ra sự giúp đỡ, đoàn kết của các thành viên trong bầy đàn để
chống lại giông bão và thú dữ. Tình cảm gắn bó với bầy đàn được nhen nhóm
trong tâm hồn của Antai. Sống giữa sự yêu thương, đùm bọc của bầy đàn, Antai
93
nhận ra rằng, cuộc đời của một chú ngựa sống trên đồng cỏ hay bất kỳ loài vật
nào cũng cần phải có bạn bè, gia đình và đồng loại. Trải qua những trận bão
tuyết hay những trận chiến đấu ác liệt với thú dữ, chú ngựa thêm yêu và khâm
phục ý chí đồng loại của mình. Đang sống một cuộc sống yên ả và hạnh phúc,
bất ngờ Antai phải xa gia đình. Chú đến một nơi cách xa quê hương Mông Cổ
thân yêu để sống và làm việc. Chú buồn thảm, thất vọng và đau đớn. Phải chăng,
quê hương – nơi gắn bó yêu thương đã trở nên xa xỉ với chú. Tiếng hí buồn đau
vang vọng khắp đồng cỏ. Giờ đây, thảo nguyên mênh mông đã xa vời với Antai.
Chiếc xe tải đưa chú vượt thảo nguyên về thủ đô nước Việt Nam. Trong những
ngày sống trên thảo nguyên, điều mà Antai nhìn thấy chỉ là gió, bụi, tuyết, cát,
những bầy lạc đà, những dòng xe bò chậm chạp lăn bánh... giờ đây, trước mắt
Antai là những nhà máy, ruộng đồng xanh mênh mông, đoàn oto, tàu hỏa lao
vun vút... chân trời mới rộng mở trước mắt Antai, nhưng chú không hề cảm thấy
vui. Trên hành trình di chuyển, chú được ở chung chuồng với những giống ngựa
khác nhau. Điều đó cũng là một niềm an ủi với Antai vì có nghĩa là chú không
cô đơn. Đến nơi ở mới, điều kiện thiên nhiên khác biệt, thức ăn lạ, môi trường
sống lạ khiến chú đau ốm và gầy sút. Chú ngựa Antai đã phải trải qua một giai
đoạn hết sức khó khăn. Khí hậu nóng bức tuy không khắc nghiệt như ở thảo
nguyên nhưng lại thiếu những cơn gió làm cho chú bức bội, khó chịu. Bộ lông
dài với mồ hôi nhớp nhúa gây cảm giác khó chịu. Chiếc chuồng chật hẹp và ồn
ào khiến không gian càng thêm bức bối. Trong chính hoàn cảnh này, chú lại
càng thêm nhớ gia đình, chú nhớ thảo nguyên mênh mông, rộng lớn và những
người bạn. Rồi mọi chuyện cũng qua đi, chú ngựa Antai đã thích ứng với môi
trường sống, quen với thức ăn, nếp sinh hoạt và những người bạn mới. Thời gian
đã giúp chú trưởng thành và nhận thức được nhiều điều mới mẻ.
Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ta thấy các nhân vật loài vật
đang sống ở hiện tại nhưng quá khứ lại thỉnh thoảng hiện về. Kratiê, cô chó Nhật
tài năng trong truyện ngắn Những kẻ lưu lạc là một ví dụ điển hình. Mở đầu câu
truyện, là buổi biểu diễn xiếc nghệ thuật của Kratiê. Cũng giống như những buổi
biểu diễn xiếc khác, cô chó luôn hồi hội và bồn chồn. Nhưng cuối cùng, nó cũng
hoàn thành xuất sắc tiết mục của mình. Sau buổi biểu diễn, Kratiê kể lại cuộc
đời lưu lạc của chính mình. Đầu tiên, người chủ của Kratiê là một cô gái người
94
Khơme, con một ông giáo tỉnh Krachiê. Nó được cô gái chăm sóc cẩn thận và
chu đáo ngay từ khi mới lọt lòng: “Tôi ra đời trên một ổ bông gòn, đặt trong
một cái phòng của cô. Khi đôi mắt còn nhắm nghiền và đầu còn nặng trĩu, tôi
vẫn thấy bàn tay nhỏ bé của cô nhè nhẹ vuốt lên lớp lông mịn màng trên lưng
tôi. Tôi ngẩng cao đầu và cố mở mắt nhưng cặp mi khép chặt quá khiến tôi chỉ
nhìn thấy mờ mờ hình cô chủ trong một vầng sáng màu hồng”[27;22]. Anh em
nhà Kratiê không những được cô chủ chăm sóc mà còn được chính chó mẹ nâng
niu mỗi ngày. Nó được bú no và chơi đùa thỏa thích mà không phải suy nghĩ
nhiều vì gia đình nhà cô chủ đều là những người tốt bụng và lương thiện. Mẹ
Kratiê còn dạy nó cách ăn ở sạch sẽ và cách cư xử đúng mực. Kratiê là một cô
chó thông minh và sáng dạ. Nó biết cách làm theo những hướng dẫn của cô chủ.
Bên cạnh đó, nó còn là một cô chó ham thích khám phá: “Căn buồng của cô chủ
đối với chúng tôi mỗi ngày một trở nên chật hẹp, tù túng. Chúng tôi thuộc từng
ngóc ngách đến mức có thể nhắm mắt đuổi nhau mà vẫn không va chạm vào các
đồ đạc để trong phòng. Chúng tôi ước muốn thấy những cái khác vì chúng tôi đã
lớn... chúng tôi muốn khám phá căn nhà chúng tôi ở”[27;34]. Và rồi, anh em
Kratiê cũng được xuống dưới sân chơi. Ở đây, chúng gặp hai con chó săn cao
lớn và hung dữ. Bị chúng chế nhạo, anh em nhà Kratiê rất bực bội, buồn và căm
ghét. Khi được mẹ giải thích và khuyên răn, Kratiê và anh đã hiểu ra mọi
chuyện. Tâm lí của anh em nhà Kratiê đã dần được định hình trước những xô xát
nhỏ của cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ không êm đềm, những khó khăn và tại họa
bất chợt ập đến. Việc đầu tiên, Kratiê đã phải chấp dứt tuổi thơ ấu để đối đầu với
nỗi buồn và sự vĩnh biệt. Kratiê đã phải rời xa người anh trai của mình. Gia đình
ông chủ đã tặng anh trai Kratiê cho một gia đình người bạn. Lần đầu tiền trong
cuộc đời, Kratiê bị rơi vào tình trạng xa cách: “Tôi chui vào các gầm giường,
gầm bàn, xó tủ nơi chúng tôi vẫn chơi đùa với nhau, để tìm Khla. Tôi bỏ ăn, tôi
kêu, tôi khóc, tôi gọi...tất cả đều vô ích. Khla đã biệt tăm rồi”[27;46]. Nỗi buồn
mất anh trai chưa kịp nguôi, Kratiê đã phải trải qua một nỗi buồn ghê gớm, một
cơn ác mộng và một nỗi kinh hoàng không bao giờ quên được. Chiến tranh đã
tạo nên sự mất mát cao độ. Gia đình nhà cô chủ bị bọn giặc đuổi ra khỏi nhà, mẹ
của Kratiê bị giết hại một cách tàn bạo và thảm thương: “Tôi nghe nhức nhối
trong mình, như thể chính xương thịt của tôi đang bị đè nát. Nước mắt ứa ra từ
95
đôi mắt nhắm nghiền của tôi”[27;53]. May mắn, cô chủ giấu được Kratiê trong
chiếc làn quần áo của mình, Kratiê thoát khỏi bàn tay tàn bạo của bọn giặc. Chỉ
có mẹ Kratiê bị bọn giặc phát hiện và giết hại. Cuộc sống của Kratiê và gia đình
cô chủ được thay đổi từ đây. Họ phải từ bỏ ngôi nhà thân yêu của mình và lang
thang đi tìm nơi trú chân. Họ được ở nhờ trong nhà của một bà chủ hiền hòa sát
vùng biên giới Việt Nam. Cô chủ giấu Kratiê rất kỹ nhưng vẫn bị phát hiện. Lão
trưởng thôn và bọn mật vụ đến bắt Kratiê đi. Từ đó Kratiê phải sống một cuộc
đời bất hạnh và khổ cực. Nó bị lão trưởng thôn cùng con trai lão hành hạ và bắt
ép phải làm những điều mà lão muốn. Lão huấn luyện cho Kratiê những bài học
vô đạo đức để biến Kratiê thành tay sai. Lão trưởng thôn trói Kratiê vào một cái
cột, vì chưa bị trói bao giờ, Kratiê luôn giãy giụa để phản kháng. Lão bỏ cho nó
đói và dọa không giãy mới cho nó ăn. Kratiê xỉu dần vì kiệt sức. Lão dùng roi để
điều khiển và dạy Kratiê những trò bỉ ổi. Kratiê đã phản kháng gay gắt. Lão
trưởng thôn thấy Kratiê không làm được việc nên đã đánh đập nó dã man. Cô
chó chưa bao giờ khuất phục lão, nó hằn sâu mối thù trong lòng. Mùa màng đói
kém, lão trưởng thôn cắt luôn phần cơm cho Kratiê, nó phải lang thang đi kiếm
ăn khắp nơi. Thấy Kratiê vắng nhà thường xuyên, lão càng đánh đập nó tàn bạo.
Roi vọt và cái đói làm cho Kratiê hình thành ý định bỏ trốn. Nhưng cái ý định bỏ
trốn đấy mới chỉ nhen nhóm trong lòng con chó. Nó vẫn bị sợ hãi ngoài kia làm
cho nao núng: “Đã bao lần tôi cân nhắc giữa tự do và yên ổn. Tôi tự bào chữa
cho sự hèn nhát của tôi và tự bảo mình: dù sao thì tôi cũng đang sống yên ổn.
Dù bị roi vọt, tôi vẫn có cơm ăn khi đói và một chỗ ngủ yên lành mỗi khi đêm
xuống. Roi vọt làm nhục nhằn đau đớn những không làm ta chết. Còn những
nguy hiểm của cuộc sống trong rừng thì hoàn toàn khác, có thể giết chết một
con chó nhỏ bé và yếu đuối như tôi bất cứ lúc nào”[27;81]. Kratiê tuy bị đòn roi
và đau đớn thường xuyên nhưng nó vẫn không giám bỏ đi vì nó sợ cuộc sống
ngoài kia còn đáng sợ và nguy hiểm hơn là sống với bố con lão trưởng thôn.
Phải đến khi rơi vào hoàn cảnh thúc bách và sự khao khát mạnh mẽ về một cuộc
đời không xiềng xích, Kratiê mới dám dũng cảm bỏ trốn. Khi lão trưởng thôn và
con trai lão âm mưu dùng Kratiê để làm mồi nhử bẫy con báo rừng. Kratiê đã bỏ
trốn trước khi bị đặt vào ống bẫy: “Tôi chạy rất xa, xa biệt hẳn cái làng mà tôi
ghê sợ. Tôi chỉ ngừng lại khi thấy không khí yên tĩnh làm tôi bình tâm... Tôi
96
không còn thấy cây roi cài trên vách, sợi dây thừng và chiếc ống tre nằm thõng
dưới chân cột, mà chỉ thấy những bụi cây thơm mùi nhựa và mùi hoa
lá”[27;83]. Kratiê đã phải sống một cuộc đời đau đớn trong nhà lão trưởng thôn
nhưng nó không có dũng khí để bỏ trốn vì nó sợ. Nó sợ bị bắt lại, nó sợ đối diện
với cuộc sống mới. Nhưng hoàn cảnh ép buộc, giữa sự sống và cái chết, nó phải
dũng cảm chọn lựa. Và Kratiê đã chọn việc bỏ trốn. Thế nhưng nó lại bị lão
trưởng thôn bắt được và dùng làm mồi cho báo. Rất may, Kratiê được đoàn
người dạy thú Việt Nam giải cứu. Từ đây, cuộc đời của Kratiê đã chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn của sự bình yên. Kratiê được đoàn người dạy thú
dạy học một vài tiết mục xiếc. Vốn bản tính thông minh, sáng dạ. Nó học rất
nhanh. Người chủ mới rất vừa lòng với nó. Kratiê đã cùng đoàn người dạy thú
đi khắp mọi nơi để tìm những con thú mới cho đoàn xiếc. Cuối cùng, Kratiê đã
có một gia đình mới với rất nhiều con thú. Cuộc sống mới của Kratiê là những
buổi tập luyện và trình diễn xiếc. Một cuộc sống bình dị và yên ả. Trải qua nhiều
sóng gió và lưu lạc. Cô chó Kratiê đã dần hoàn thiện mình về tính cách và tâm
hồn. Nó biết suy nghĩ những điều chín chắn và dũng cảm hơn. Mỗi khi nhớ về
quá khứ, nói nhớ gia đình, niềm đau mất mát luôn thường trực và day dứt trong
tâm hồn nó. Thời gian đã dạy cho Kratiê nhiều thứ, đó là phải mạnh mẽ và kiên
định với cuộc sống của chính bản thân. Ý chí vững bền thì mới có cuộc sống
bình yên.
Truyện ngắn Con cu li của tôi là một câu truyện xúc động người đọc về
tình cảm của một người chiến sĩ với con cu li tên là Lili, người bạn đồng hành
trên chặng đường chiến đấu đầy nguy hiểm của anh. Qua thời gian, những tưởng
tình cảm của người chiến sĩ sẽ giữ được chân con vật bên mình mãi mãi. Nhưng
không, tiếng gọi da diết, quyến rũ của hoang dã luôn tha thiết và cháy bỏng
trong tâm hồn con Lili nhỏ bé. Trên chặng đường hành quân, người chiến sĩ
cùng động đội đã nghỉ chân tại một làng săn của những người thợ săn Sêk – nằm
bên kia dãy núi Trường Sơn. Họ được người thợ săn thiết đãi nhiều món ăn từ
thú rừng của thiên nhiên. Trước khi chia tay, để cảm ơn tấm lòng hào hiệp của
bác thợ săn, người chiến sĩ đã tặng bác mảnh vài dù để bác dùng nó làm tấm
chăn khi ngủ hoặc choàng ngoài chiếc áo đã quá rách của bác. Người thợ săn
xúc động và tặng lại cho anh chiến sĩ một con cu li xinh xắn, nhút nhát. Anh
97
chiến sĩ bị đôi mắt đăm đăm của nó làm cho thương mến. Và anh đã đưa nó
đồng hành trên chặng đường hành quân của mình. Đi cùng anh chiến sĩ, ban đầu
con culi cũng gặp rất nhiều điều khó khăn. Nó không quen với thức ăn nên gầy
rộc đi nhanh chóng. Cặp mắt trong veo của nó trở nên u tối và ngơ ngác. Bộ
lông bắt đầu khô cứng lại. Anh chiến sĩ đắn đo không biết tìm kiếm thức ăn ở
đâu cho con culi. Dần dần nó quen ăn cơm. Đến những vùng đất mới, gặp những
buổi đốt rẫy, thức ăn cho culi rất dễ kiếm. Có đủ thức ăn, con cu li lại béo mập
lên. Lông nó mượt và êm dịu. Con cu li rất hiền lành và dễ thương, nó thường
mở cặp mắt long lanh nhìn anh chiến sĩ rồi đưa bàn tay xinh xắn cầm mồi đưa
lên miệng. Mắt nó hay ánh lên sự thỏa mãn khi được ăn no: “Con cu li của tôi
còn non. Nhìn nó là biết ngay điều đó. Vào những lúc nắng sớm chưa chói
chang, nó chơi đùa như một đứa trẻ. Nó mân mê những chiếc khuy và những
chiếc khóa ba lô với vẻ mải mê thích thú”[22;28]. Con cu li được anh chiến sĩ
chăm sóc rất chu đáo. Anh san sẻ phần cơm của mình cho nó, anh luôn dành
thời gian rảnh rỗi của mình để tìm kiếm thức ăn cho nó. Trên chặng đường hành
quân, đã nhiều lần con cu li cứu thoát các chiến sĩ khỏi những nguy hiểm rình
rập. Đầu tiên, nó cứu sống đội trưởng quân báo khi phát hiện ra con rắn lục
trong balo của anh. Sau sự việc đó, nó được mọi người quan tâm hơn. Thứ hai,
con cu li đã cứu sống hai chiến sĩ làm nhiệm vụ canh gác đêm trước sự rình rập
của con báo đốm. Sau khi lập những chiến công, con cu li đã được mọi người
chú ít và chăm chút hơn xưa. Đa số mọi người đều yêu quí nó nhưng bản thân
nó vẫn không có gì thay đổi. Nó vẫn sống thầm lặng trên nắp balo của người
chiến sĩ đài trưởng. Con cu li đã trải qua cuộc sống gắn bó với người chiến sĩ.
Giữa anh và nó đã có sự thấu hiểu và đồng cảm. Cũng giống như con người, loài
vật cũng bị thời gian làm thay đổi tâm sinh lí: “Những rạo rực bí ẩn ảnh hưởng
đến cả con culi... Nó không thích ngồi trong bóng tối âm thầm. Suốt ngày nó bò
lên bò xuống không yên. Tôi nhận ra ngay không phải nó sợ hãi. Xung quanh
hoàn toàn yên tĩnh, chẳng có gì để nó phải khiếp sợ. Nó đang trong cơn tìm
kiếm một bạn đồng loại mà lẽ ra nó sẽ gặp nếu được buông thả trong
rừng”[22;134]. Con cu li đã thay đổi, nhiều bữa nó bỏ ăn, cặp mắt trong veo
ngày nào nổi lên những vằn đỏ dữ dằn, nó lấy tay giật sợi dây buộc. Nó hiểu
rằng nó đang bị trói buộc và nó muốn được tự do, “nó đưa sợi dây vào miệng
98
nhay nhay với tất cả nỗi bực dọc”[22;135]. Con cu li đang trải qua bước biến
đổi và chuyển mình của những sinh vật trưởng thành. Cái giày vò nó là nỗi trăn
trở của sự sinh sản. Người chiến sĩ đã nhận ra những biến đổi về thể xác và tâm
hồn của con culi, anh nhận thấy sự tàn nhẫn của mình khi trói buộc nó. Anh tự
hứa với mình rằng sẽ thả con culi về với thiên nhiên. Con cu li đồng hành cùng
người chiến sĩ thêm năm năm nữa. Và rồi anh nhận ra sự khắc khoải của nó
không chỉ diễn ra trong mùa sinh sản mà là triền miên. Nó hoàn toàn suy sụp và
mất đi cái nhạy cảm vốn có. Nó trở nên thảm thương, mắt thường lờ đờ, đầu
luôn gục trước ngực và hai tay buông thõng không động đậy. Nó hững hờ với
mọi sự ân cần và vuốt ve của người chiến sĩ. Anh nhớ lại nỗi trăn trở của nó
trong những mùa xuân đã qua, anh nhớ lại lời hứa sẽ thả nó. Người chiến sĩ
muốn giữ lại những kỷ niệm về nó trong tâm trí mình chứ không muốn trói buộc
và áp đặt nó vào cuộc đời mình. Anh đã quyết định thả con culi về với rừng
xanh. Đặt nó trên một cành cây, anh chiến sĩ quay lưng bỏ đi. Nhưng rồi như
tiếc nuối, anh quay lại gọi nó xuống: “Tôi rút trong ống nứa đựng thức ăn của
nó mấy con châu chấu nhử nó xuống. Lili thong thả nhô ra khỏi hốc. Nó chúc
đầu bò xuống với tôi. Nhưng được vài bước, nó bỗng ngừng lại. Nó cứ ngập
ngừng nửa như muốn bò xuống, nửa như lại muốn quay lên. Chừng như những
con mồi hấp dẫn Lili. Chừng như sau những năm tháng sống với tôi, Lili nhận
ra sự yếu đuối của nó, nó cần người che chở... Nhưng con cu li của tôi sau một
hồi dao động vẫn im phăng phắc. Nó trở nên trơ trơ với mọi thứ tôi đưa ra để
gọi nó trở về. Những lời van xin của tôi không còn thuyết phục. Cả đến mồi nhử
và những phản xạ do sự gọi ăn gây ra cũng không còn tác dụng. Hình như với
Lili mọi cái đó giờ đây đều đã hết thân quen”[22;145]. Con cu li biết nó đã về
với rừng râm mát, nơi nó ra đời: “Nó nhận thức được điều này nhờ cặp mắt
không còn bị nhức, nhờ bộ lông không còn làm nó bức bối khó chịu, nhờ hương
của hoa lá, của nấm, của măng, của nhựa thơm đọng trên chiếc móng nó dùng
để bấu vào vỏ cây”[22;145]. Tiếng gọi của hoang dã, dòng giống đã văng vẳng
trong đầu nó, cuối cùng nó trở về với chính nó, với bản năng, với rừng già. Nó
thấu hiểu được rằng, đây mới là cuộc sống của nó. Nó từ chối sự gọi mời của
người chiến sĩ vì nó nhận ra rằng: tự do cao quý hơn miếng ăn, hơn sự che chở...
99
hơn tất cả mọi thứ. Con cu li đã về với rừng già thân yêu, nơi mà nó tìm được sự
bình yên và bản năng vốn có.
Qua khảo sát các tác phẩm truyện của nhà văn Vũ Hùng, ta nhận thấy nhà
văn luôn đặt nhân vật loài vật của mình trong những diễn biến của thời gian tâm
lí và các nhân vật loài vật đều thoát li được hiện thực và hoàn cảnh sống để tìm
kiếm những điều tốt đẹp, làm chủ cuộc đời mình và sinh tồn có ý nghĩa.
3.2. Phương thức xây dựng nhân vật
3.2.1. Cách đặt tên các nhân vật loài vật
Các nhân vật loài vật trong truyện của nhà văn Vũ Hùng gây ấn tượng với
người đọc thông qua tên gọi. Mỗi cái tên gắn với những đặc điểm về ngoại hình,
tính cách, số phận hoặc kỉ niệm của từng loài vật. Trong truyện Những kẻ lưu
lạc, nhân vật loài vật đã trải qua nhiều lần đặt tên: “Khác với những lứa trước,
lứa nào cũng đông, lứa này mẹ tôi chỉ sinh hai đứa chúng tôi: anh tôi và tôi. Mẹ
tôi gọi anh tôi là Cún Anh và tôi là Cún Út”[27;22]. Còn cô chủ của các chú chó
lại đặt tên chúng theo tính cách và diện mạo mà chúng đang sở hữu: “Cô chủ
bảo tôi xinh đẹp như một con thỏ mà hàng năm cô vẫn làm vào ngày hội của trẻ
con, bằng cách dán những miếng bông nõn trên một chiếc vỏ trứng. Cô đặt tên
cho tôi là Côpbal. Trong tiếng Khơme của cô, Côpbal có nghĩa là nắm bông.
Còn anh tôi vì tính hiếu động và nghịch ngợm, được cô đặt tên là Khla. Khla là
con vật ghê gớm nhất trong rừng rậm Campuchia: Con Cọp”[27;24]. Hai cái
tên của hai con chó đã diễn tả đúng về ngoại hình của chúng. Một con chó thì
xinh đẹp, dịu dàng như cục bông; một con chó thì nghịch ngợm, hiếu động. Rồi
khi Côpbal rơi vào tay lão chủ mới, nó được đổi tên là Chô, tiếng Khơme có
nghĩa là “xông lên trước”. Với mong muốn huấn luyện con chó làm tay sai đắc
lực cho mình trong những chuyến “săn”, lão chủ mới đặt tên cho nó như vậy.
Rồi sau đó, khi được những người chủ mới cứu thoát khỏi tay lão chủ độc ác,
Chô lại được đổi tên mới:
“Ông hỏi:
- Con chó tên là gì?
- Chô. Con Chô
- Chà “Xung Phong”. Con “Xung Phong”. Cái tên chẳng hợp với con
chó tí nào. Nó nhỏ nhắn, xinh xẻo, hiền lành thế kia!”[27;94]
100
Người chủ mới đặt tên cho con chó dựa vào nơi nó đã từng sinh ra: “Vậy
thì tôi đặt lại tên cho con chó này là Kratiê. Để nó nhớ đến quê hương của
nó”[27;94]. Và các nhân vật loài vật khác với những cái tên nghộ nghĩnh thể
hiện từng đặc điểm của chúng: “Chó mẹ, ưa dịu ngọt hễ bị mắng là biết hờn
dỗi, được đặt tên là Cam. Anh chó đực đầu lứa tính tình nghịch ngợm và háu
ăn, chưa làm xong các động tác mà cô giáo tôi yêu cầu đã vội vội vàng vàng
đòi phần thưởng, được đặt tên là Láo. Anh chó đực thứ hai là Hấp, anh này
gàn dở, tự nhiên đang yên lành anh cũng vặc với người khác và rất hay gây sự
cãi nhau. Trái với hai anh, cô chó út là một cô chó ngoan ngoãn, dịu dàng,
được cả người lẫn nết: dáng cô thanh mảnh, bộ lông vàng hồng êm dịu, lại
thông minh và học rất chăm. Vì thế cô được cô giáo đặt tên là Khôn”[27;114].
Ngoài gia đình Cam, còn một đàn chó Nhật được đưa tới: “Ngày mới về, họ
cũng gầy yếu xơ xác, nhưng được chăm chút, họ béo lên rất nhanh. Lông họ lại
mượt mà, mắt họ lại rực sáng. Cô giáo tôi lấy tên những trái cây đặt cho họ:
Mận, Na, Táo... Trông họ cũng xinh xinh như những trái cây nhỏ nhắn
đó”[27;114]. Truyện Con cu li của tôi, người chiến sĩ rất khó khăn trong việc
đặt tên cho con culi của mình: “Tôi đã mất nhiều thời giờ để chọn cho con cu
li của tôi. Tôi muốn tìm một cái tên hay và đẹp, đúng với tính cách của nó.
Cuối cùng tôi gọi nó là Lili. Một cái tên cũng có đôi chút âm điệu và dễ gọi”
[27;94]. Chú chó của Đam Đam trong truyện Các bạn của Đam Đam được đặt
tên là Phay Phay, có nghĩa là lửa. Con vượn mà Đam Đam cứu trong rừng cũng
được cậu đặt tên là Xa ni, tiếng Lào Xa ni có nghĩa là con vượn. Các nhân vật
loài vật trong truyện Phía Tây Trường Sơn cũng được đặt tên theo đặc điểm
ngoại hình. Đầu tiên là Ông Một, con voi dữ tợn và xông xáo ra trận với chiếc
ngà duy nhất; Sao Nọi là “Cô bé voi”, đó là một con voi cái đẹp và hiền lành;
Bạc Mày là con voi hưng dữ và hiếu động. Chú ngựa trong Chú ngựa đồng cỏ
thuộc miền Nam nước Mông Cổ mang dòng máu hoang dã của ngựa rừng
hoang và dáng dấp đẹp đẽ của ngựa nuôi được đặt tên là Antai, tên rặng núi
chất ngất và thảo nguyên mênh mông nơi chú sinh sống. Chú ngựa hồng, non
nớt và nhút nhát tên là Xam. Sau đó chú ngựa Antai được người chủ mới đặt
tên là Tai: “Tai đây là cái tai để nghe. Anh đặt cho tôi tên này vì trong một
trận ẩu đả, loài ngựa chúng tôi cũng hay sinh sự đánh nhau lộn bậy, tôi đã bị
101
cắn sứt một bên tai” ngoài ra còn có “Lip, béo mập và hơi lùn; giống hạt mít
được gọi là Mi. Ram, cao và gầy; giống Đông Ky Sốt được gọi là Sốt. Trai,
chàng ngựa bất kham nhất trong chúng tôi, lúc nào cũng đã hậu vun vút, được
gọi là Sêk, tên một điệu nhảy: dưới con mắt giàu tưởng tượng của các diễn
viên xiếc ngựa, chàng ta nhảy sêk suốt ngày. Còn Mo, vóc dáng vạm vỡ và bệ
vệ chẳng khác gì một người dân đồng cỏ, được gọi là Bo”[18;96]. Hay như
chú hươu non trong truyện Sao Sao với bộ lông mang nhiều ngôi sao nhỏ xinh
đẹp nên được đặt tên là Sao Sao: “Bố mẹ đặt tên em là Sao Sao, bao nhiêu ông
sao trên lưng em. Thế là hươu con mang cái tên xinh đẹp Sao Sao. Chú đi đâu
dân làng Hươu cũng gọi “Sao Sao! Sao Sao!” với một giọng chan chứa
thương mến” [23;3]. Các bạn của Hươu Sao cũng được đặt tên theo những tính
cách và ngoài hình bên ngoài: “Các cô Hươu mang những cái tên thật đẹp.
Người thế nào thì cái tên thế ấy: cô Ngơ Ngác, cô Bình Yên, cô Dịu Dàng...
Tên các cậu hươu thì hùng dũng hơn. Cậu nào có tài nhảy thường mang tên
Chớp Lửa hoặc Gió Lốc. Cậu nào chăm chỉ luyện tập thân hình rắn chắc nở
nang thì mang tên các trái núi trong vùng hoặc tên các loài gỗ: Núi Lam, Đá
Bạc, Gụ Nâu, Lim Đen...”[23;5]. Cùng lứa của Sao Sao có một cậu hươu vừa
còi cọc lại vừa cộc đuôi nên được đặt tên là Hươu Cộc: “Cậu không may mắn,
mới sinh ra đã chịu tật nguyền: cộc đuôi là một bất hạnh rất lớn đối với thú
rừng, cậu hươu ấy chẳng gì xua đuổi ruồi muỗi. Cậu bị gọi là Hươu Cộc. Bạn
bè gọi thế để đùa vui thôi, cũng chẳng ai có ý gì độc ác”[44;5]. Sao Sao thấy
cậu hươu xấu số thật đáng thương. Chú nhận ra cậu hươu bạn tuy còi cọc và
cộc đuôi nhưng rất tốt bụng. Cậu ấy có một đôi mắt trìu mến, “một hươu con
tốt bụng và can đảm như thế xứng đáng mang cái tên thật đẹp. Sao sao tự hỏi
“hay gọi bạn ấy là hươu Mắt Đen. Mà không, vì bạn ấy nhỏ nhắn, phải gọi là
Nai Bông... Nai Bông là cái tên mà các bác nai mẹ vẫn dùng ở nhà để gọi
những đứa con bé bỏng xinh xinh của họ”[23;5]. Chú voi tinh nghịch trong
truyện Sống giữa bầy voi được đặt tên là Bạc Nọi. Trong tiếng Lào, Bạc Nọi
có nghĩa là thằng Cu Non. Đúng với bản tính ham chơi và nghịch ngợm của
chú voi Bạc - Nọi mà nhà văn Vũ Hùng đặt tên cho nó. Khác với các nhân vật
loài vật khác, chú voi chiến sĩ trong truyện Người quản tượng và con voi
chiến sĩ được đặt tên theo hoàn cảnh xuất hiện của nó. Trong một trận mưa
102
bão, có một con voi bị lạc bầy vào làng Ta – khan và bị ông cháu Đik bắt được.
Đó là một chú voi đẹp. Ban đầu, ông già Rem muốn đặt tên nó là Kham – toốc.
Tiếng Lào có nghĩa là Vàng rơi. Đối với ông già Rem, chú voi quý hơn vàng vì
phải vất vả lắm mới bắt được nó. Nhưng người cháu Đik lại muốn đặt tên nó là
Luôm – luông, có nghĩa là giông bão.
Việc đặt tên các nhân vật loài vật theo tính cách, diện mạo, đặc điểm
ngoại hình hoặc hoàn cảnh xuất hiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp
nhận tác phẩm nói chung và nhân vật nói riêng. Qua tên gọi, độc giả đã định
hình được rõ ràng nhất về tính cách và diện mạo của nhân vật loài vật, giúp cho
quá trình tiếp nhận nội dung tác phẩm được dễ dàng hơn.
3.2.2. Xây dựng chân dung nhân vật loài vật
Nhân vật loài vật trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng không chỉ gây
ấn tượng mạnh mẽ thông qua tên gọi mà còn hiện lên cụ thể, sinh động và rõ nét
nhờ vào những chi tiết miêu tả về ngoại hình. Từ các nhân vật loài vật phụ đến
chân dung các nhân vật loài vật chính đều được cụ thể hóa bằng các biện pháp
nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả đặc trưng được Vũ Hùng sử dụng nhiều trong
các tác phẩm của mình. Mà cụ thể hơn là nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành
động của nhân vật – đây là nghệ thuật mà ông sử dụng nhiều trong các tác phẩm.
Con cu li trong truyện Con cu li của tôi được miêu tả qua vẻ ngoài xinh xắn và
hành động nhút nhát: “Bộ lông của nó màu vàng pha những sợi bạc lấp lánh,
mịn và cực đẹp. Nó ghé đôi mắt rất to nhìn những cây gỗ đang cháy trong bếp
rồi chừng như bị chói, nó rúc rúc cái đầu nhỏ nhắn vào tay áo tôi. Tôi vuốt lên
lưng nó, cảm thấy những luồng run rẩy làm tay tôi rung động”[22;19]...; “Đôi
mắt rất to, nhìn mọi thứ với vẻ ngạc nhiên thơ trẻ... đôi mắt con cu li màu vàng,
cũng giống đôi mắt con cú mèo, con cầy hương...”[22;25]; “Bộ lông của nó rất
mượt, vuốt lên thật êm mịn, chẳng khác gì đặt tay lên một chiếc cổ áo bằng
nhung”[22;27]. Rồi “nó mở to cặp mắt long lanh, nó nhìn tôi đăm đăm, chìa
bàn tay xinh xắn cầm lấy mồi, đưa lên miệng. Ăn xong nó lại đưa bàn tay ra đòi
nữa, van vỉ bằng đôi mắt vì không biết kêu. Ai mà nỡ từ chối khi nhìn cặp mắt
khẩn khoản của nó... cặp mắt nó ánh lên một vẻ thỏa mãn bình yên rồi từ từ
khép lại”[22;27]. Chỉ qua vài chi tiết miêu tả, chúng ta đã cảm nhận được đó là
một con vật bé bỏng, ngây thơ và hiền lành. Chân dung con cu li còn được xuất
103
hiện qua lời kể của các nhân vật khác: “Con cu li hiền lành, ít lời lắm”[22;22].
Con cu li còn rất non, nó mân mê những chiếc khuy và mải mê thích thú với
những chiếc khóa ba lô. Khi miêu tả các nhân vật, nhà văn Vũ Hùng dùng thêm
biện pháp nghệ thuật so sánh: “Con rắn quấn đuôi quanh cây xà, thõng đầu
xuống. Nó đu đưa cái đầu với hai chấm mắt nhỏ bắt ánh điện, sáng long lanh
như hai hạt cườm. Mình nó cứ duỗi dần ra...” [22;42]. Cô chó Kratiê thì lại
“xinh đẹp như một con thỏ, nó có bộ lông trắng muốt với những mảng xám ở
ngực và hai chân trước, nó trắng và xốp hơn cả lớp bông gòn mà cô chủ đã
dùng để lót ổ”[27;23]. Hay như những chú chó trong Những kẻ lưu lạc được
miêu tả rõ ràng: “Một anh khoác chiếc áo vàng ươm như tơ, một anh mang bộ
lông vàng đậm với những vệt đen, nom rất dữ tợn. Chàng vện ấy giống một con
hổ vằn... Cả hai đều còn trẻ, có lẽ cũng chỉ đạt năm sáu tháng tuổi... nhưng
trông họ to lớn. Tai họ nhọn và vểnh thẳng... mõm họ dài, mũi rất ướt, cái mũi
ấy đánh hơi thì tinh phải biết. Bụng họ thon thon, bốn chân cao cao khiến họ có
cái dáng dấp thanh mảnh không bao giờ thấy ở loài chó Nhật. Họ chạy với một
nước kiểu nhẹ nhàng, giống như hai con ngựa mà người ta đã thu nhỏ lại”
[27;40]. Khi sử dụng biện pháp so sánh, mọi đặc điểm của con vật được hiện lên
rõ nét: “Đó là một con gấu con, cao và mập..., mang bộ lông đen như than, có
một khoảng trắng trước ngực. Cái móng chân của nó đã bị mài cùn...” [19;106];
“Một chú khỉ non, hiếu động, nhanh nhẹn. Nó không để yên chân, yên tay lúc
nào... Con khỉ thứ hai đã già. Mí mắt nó đã sụp và hai khóe mắt thì đầy nhử.
Mặt nó nhăn nhúm, bùng nhùng. Nó không động đậy, chỉ muốn được ngồi yên...
nó chậm chạp... gượng gạo nhấm nháp tưởng như hai hàm răng của nó đã rụng
hết”[27;107]. Hay như khi tác giả miêu tả con cu li lùn: “Khắp rừng chẳng có
con thú nào nhỏ nhắn, hiền lành và đáng thương bằng nó. Nó mặc một chiếc áo
rất mượt màu vàng rơm điểm những chiếc lông dài màu trắng. Vì thế chiếc áo
của nó lúc nào cũng lấp lánh như dát bạc. Đầu nó ngắn, đôi mắt long lanh và
rất to, phải lật hai bàn tay úp trên mặt mới nhìn thấy. Đôi mắt lúc nào cũng như
thầm hỏi: Thế nào? Thế này là thế nào? Cu li lùn sợ ánh sáng. Suốt ngày nó
ngồi ngủ gục trong hốc cây, hai tay ôm đầu, lưng cong như lưng tôm. Nó giấu
mặt trong đám lông ngực để khỏi phải nhìn nắng. Có khi treo ngược mình dưới
một cành cây mặt úp vào đó, hai tai cụp chặt để khỏi nghe tiếng động xung
104
quanh”[22;14]. Có thể thấy rằng, nhà văn Vũ Hùng không khái quát về đặc
điểm của các nhân vật loài vật mà miêu tả cụ thể từng chi tiết của chúng để bộc
lộ ngoại hình, diện mạo cũng như tính cách của từng loài. Xuyên suốt những tác
phẩm của ông, ta thấy ngòi bút xây dựng nhân vật điển hình đó là miêu tả chi
tiết, cụ thể. Ví như nhân vật loài vật con voi Luôm luông trong truyện Người
quản tượng và con voi chiến sĩ cũng được miêu tả như vậy. Vẫn là phương thức
xây dựng nhân vật và biện pháp nghệ thuật so sánh: “Thật là một con voi đẹp.
Trán nó gồ cao, đôi mắt linh lợi lúc nào cũng hấp háy trên cái đầu gọn gàng
thanh thoát. Cặp ngà của nó óng chuốt, đang độ lớn, mập và nhọn như hai búp
măng, cái vòi thì mềm mại chọn những mớ cỏ non khéo chẳng khác gì bàn tay
người”[26;16]. Những hình ảnh mà nhà văn Vũ Hùng lựa chọn để so sánh đều
được ông mượn từ chất liệu của thiên nhiên hoang dã. Tác dụng của biện pháp
so sánh làm nổi bật sự vật, hiện tượng. Ở đây, các nhân vật loài vật của ông xuất
hiện một cách rõ nét, cụ thể và sống động. Nó không mang những đặc điểm
chung chung của giống loài mà hiện lên một cách riêng lẻ và ấn tượng. Hình ảnh
những con voi, con chó, con báo, con cu li... là hình ảnh mang tính cá biệt. Nó
khác với các con vật khác và mang dấu ấn riêng của nhà văn Vũ Hùng.
Ngoài việc sử dụng kết hợp nghệ thuật miêu tả và biện pháp so sánh, nhà
văn Vũ Hùng còn miêu tả theo biện pháp nghệ thuật liệt kê. Các đặc điểm của
nhân vật loài vật được xuất hiện lần lượt để định hình diện mạo và tính cách cho
nhân vật. Chú cún – anh trai của cô chó Kratiê trong truyện Những kẻ lưu lạc
cũng được miêu tả rõ nét: “Anh có một cái đầu tròn tròn, một đôi tai buông rủ
xuống gần đến má, một bộ lông xù rất êm. Tính anh hiếu động, không mấy khi
nằm yên. Lúc thì anh quào tôi bằng những móng chân mềm, lúc thì vì ngứa lợi,
anh táp đôi tai của tôi rồi nhay bằng hai hàm răng mới nhú”[27;23]. Thông qua
các đặc điểm của cơ thể, nhà văn còn giúp người đọc nhận ra tâm hồn của loài
vật. Ví dụ như, khi ông miêu tả loài chó: “Cặp mắt của chúng tôi thì khác. Cũng
như cặp mắt người, nó là tấm gương phản ánh tâm hồn. Nó thiết tha khi chúng
tôi nhìn người chủ mà chúng tôi yêu mến, dửng dưng khi nhìn kẻ xa lạ, long
lanh khi chúng tôi đang hy vọng, rực rỡ khi chúng tôi sung sướng thảnh thơi, xa
thẳm khi chúng tôi đang có điều gì phải bận tâm, u ám khi chúng tôi buồn, sáng
quắc khi chúng tôi giận dữ, tăm tối khi chúng tôi thù hận...”[27;25]. Không phải
105
chỉ qua ánh mắt, cái đuôi của chúng cũng muốn nói lên nhiều điều: “Khi chúng
tôi dựng cái đuôi gần như thẳng đứng lên trời là chúng tôi đang ngờ vực, cần
tìm hiểu. Nếu cái đuôi được thả xuống cong cong là chúng tôi đang yên tâm:
mọi công việc phải làm, chúng tôi đã làm xong, tâm tư chúng tôi hoàn toàn yên
tính. Đuôi cụp xuống thật thấp là biểu hiện của nỗi buồn phiền, lo sợ. Còn nếu
chúng tôi kẹp chặt cái đuôi ở giữa hai chân sau thì các bạn hãy coi chừng:
chúng tôi đang tức giận, đang sẵn sàng xông lại để cắn xé”[27;26]. Vũ Hùng
phải là một con người có khả năng quan sát tỉ mỉ mới miêu tả được về đặc tính,
tính cách của loài vật qua từng chi tiết nhỏ như vậy.
Thông qua thế giới loài vật, nhà văn Vũ Hùng muốn mở ra cho độc giả
nói chung và trẻ em nói riêng về sự muôn màu của thế giới tự nhiên. Đồng thời
đưa ra những phát hiện mới mẻ về diện mạo, tính cách của mỗi loài vật. Những
nét tính cách riêng, chung không bị trộn lẫn đã gây ấn tượng sâu sắc và mạnh
mẽ. Mỗi chân dung loài vật là một tính cách riêng biệt không bị trộn lẫn với
đồng loại.
3.3. Giọng điệu
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện
trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách
cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm,...”[12;13]. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng, giọng điệu là sự biểu hiện lập
trường, tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lý giải và chiếm lĩnh hiện thực
của thi nhân. Trong văn học, các nhà thơ, nhà văn luôn muốn xác lập giọng điệu
của cá nhân mình. Giọng điệu nghệ thuật vai trò quan trọng trong quá trình sáng
tạo của người nghệ sĩ để tạo ra đứa con tinh thần của mình. Qua đó người nghệ
sĩ thể hiện cái nhìn, bày tỏ thái độ, tình cảm, cảm xúc trước cuộc sống. Đồng
thời giúp người đọc khám phá thế giới tâm hồn của người nghệ sĩ.
3.3.1. Giọng điệu triết lí, suy tư
Sở dĩ các trang văn của nhà văn Vũ Hùng được đông đảo độc giả người
lớn tiếp nhận không chỉ vì thế giới loài vật nhiều gam màu sinh động mà còn bởi
những triết lí sâu sắc của ông được gửi gắn vào trong từng câu chuyện. Đằng sau
những câu chuyện tưởng như đơn giản về việc sinh tồn của các loài vật, là
106
những bài học mang nét suy tư của cuộc sống, tình yêu thương và sự gắn bó
giữa con người với loài vật và giữa loài vật với nhau. Trẻ em với bản tính ngây
thơ và trong sáng, luôn bị thu hút bởi những điều mới mẻ. Nhưng không chỉ
dừng lại ở việc đưa sự kì thú trong đời sống thiên nhiên hoang dã cho các em
khám phá, nhà văn Vũ Hùng còn muốn dạy các em nhiều điều. Việc tiếp nhận
những bài học bổ ích của ông còn dựa vào sự tự phân tích, chọn lọc và khả năng
cảm thụ của mỗi em. Những triết lí trong truyện loài vật của Vũ Hùng không
phải là những chiêm nghiệm, nhận định, khái quát được đúc kết qua nhiều thăng
trầm, trăn trở của cuộc đời mà xuất phát từ những câu chuyện đời thường trong
đời sống sinh hoạt của mỗi loài vật theo hướng ngẫu nhiên. Các triết lí được
phát ngôn qua lời của các nhân vật loài vật hoặc ẩn sau những tình tiết, hành
động và suy nghĩ của chúng. Để có được giọng điệu triết lí, suy ngẫm có tính
chất phổ quát và điển hình cao thì yêu cầu đặt ra cho mỗi nhà văn là họ phải có
những suy nghĩ sâu sắc, cảm nhận thấu đáo, tâm hồn rộng mở và nhạy cảm.
Khảo sát các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, giọng điệu triết lí mà ông gửi gắm
đều giản dị nhưng sâu sắc. Bởi lẽ, đối tượng độc giả của ông là thiếu nhi. Đối
với các em, mọi bài học triết lý cần dễ hiểu, dễ cảm. Nó giúp cho các em có cái
nhìn và đánh giá về mọi vấn đề trong cuộc sống một cách chân thực nhất.
Những triết lí sẽ giúp các em nhìn thấy được thế giới phức tạp mà các em sẽ gặp
trong tương lai đồng thời tạo niềm tin và định hình nhân cách sống giúp các em
có niềm tin và hy vọng để xây dựng cuộc sống cho bản thân mình.
Trước hết, giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí được thể hiện qua phát ngôn
của các con vật trong truyện. Thế giới loài vật được nhân hóa thành con người,
chúng giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của con người, có suy nghĩ, tâm trạng,
cảm xúc như của con người. Trong truyện ngắn Những kẻ lưu lạc, cái nhìn về
cuộc sống được nhà văn Vũ Hùng gửi gắm qua cô chó Kratiê. Mở đầu tác phẩm,
là suy nghĩ, nhận xét của Kratiê về cô giáo dạy xiếc của mình: “Cô giáo chúng
tôi là một diễn viên rất yêu nghề. Cô muốn cống hiến trọn đời mình cho đường
băng của khu nhà bạt. Thế nhưng cô biết chắc chắn sẽ có lúc phải rời bỏ những
tiết mục mà cô biểu diễn rất thành công. Cô sẽ phải trả lại chúng cho những
diễn viên trẻ bởi sức khỏe, sự khéo léo và cả lòng dũng cảm mà cô đang có, sẽ
mỗi ngày một tàn phai theo tuổi tác. Ai đã từng biểu diễn đều biết: phải xa rời
107
sân khấu, người nghệ sỹ đau khổ biết chừng nào!”[27;16]. Có lẽ, đây là cái nhìn
chân thật nhất của một nhân vật loài vật gần gũi với cô giáo dạy xiếc hàng ngày,
hàng giờ. Kratiê nhận ra nỗi niềm của cô giáo và khẳng định chắc chắn về
những nỗi buồn mà cô phải mang theo khi xa rời sân khấu. Đó không phải chỉ là
niềm trăn trở của cô giáo dạy Kratiê mà còn là của tất cả những người nghệ sĩ
đứng trên sân khấu. Nhà văn Vũ Hùng đã thấy được nỗi khổ tâm của những con
người có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, xã hội để có một giọng văn nhiều trân
trọng đến như vậy. Ông không để Kratiê gọi cô giáo của mình bằng tên thật mà
chỉ dùng từ xưng hô “Cô giáo” từ đầu đến cuối tác phẩm truyện. Ngầm ý của
nhà văn muốn nói rằng: “Cô giáo” ở đây không phải là một cá nhân cụ thể nào
mà được khái quát, trở thành biểu tượng của thế hệ những người nghệ sĩ có tâm
huyết với nghề. Theo tiến trình của câu chuyện, cô chó Kratiê còn dẫn người đọc
đến nhiều bổ ích thông qua giọng điệu triết lí. Kratiê bộc lộ thái độ gay gắt khi
không tán thành những ai nói rằng: bẩn như chó: “Không, loài chó chúng tôi
không bẩn. Con người giữ ngôi nhà của mình sạch sẽ ra sao thì chúng tôi giữ
cái ổ của mình như thế”. [27;24]. Hay giọng điệu khẳng định chắc nịch về việc
học tập: “...mẹ dạy chúng tôi cách cư xử. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng tôi
phải biết cách biểu hiện những ý tưởng, những cảm xúc của mình hoặc tiếp thu
những ý tưởng, những cảm xúc của kẻ khác” [27;25]. Cũng giống như con
người, loài vật cũng cần phải được dạy dỗ để học cách đối xử với nhau. Trong
cuộc trò chuyện giữa anh em nhà Kratiê với mẹ, mẹ Kratiê cũng dạy dỗ anh em
chúng nhiều bài học. Qua đó, ta thấy rõ được giọng điệu triết lí của nhà văn Vũ
Hùng. Khi Anh trai Kratiê thắc mắc với mẹ rằng: “Mẹ ơi! Sao mẹ lại sinh ra
chúng con là chó cảnh thế này! Nếu như chúng con là chó săn...”, mẹ chúng đã
giải thích: “Không ai có thể lựa chọn nơi mình sinh ra. Nếu lựa chọn được thì
có lẽ không có kẻ khốn khổ trên đời, ai cũng sung sướng và mãn
nguyện...”[27;44]. Mẹ khuyên chúng đừng xấu hổ với hoàn cảnh của mình:
“Chó săn có việc của họ thì bọn chó cảnh chúng tôi cũng có việc của chúng
tôi... Nỗi phiền muộn thường đến với ta do ta ao ước thân phận của kẻ khác. Sự
viển vông đó làm ta mất hết nghị lực. Tốt nhất hãy gây dựng đời mình từ thân
phận đã sẵn có của mình...Đời chúng tôi còn dài, chúng tôi còn sống đến hai
mươi năm nữa, ai mà đoán trước được rồi sau này chúng tôi sẽ ra sao. Cái
108
chính là phải cố gắng hết sức mình...kẻ nào biết gắng sức bao giờ cũng gặp
nhiều dịp may mắn hơn kẻ khác”[27;44]. Nhà văn Vũ Hùng đã dùng rất nhiều từ
mang màu sắc triết lí như: lựa chọn, khốn khổ, sung sướng, mãn nguyện, nỗi
phiền muộn, ao ước, thân phận, viển vông, nghị lực, cố gắng, may mắn... nhưng
từ này đã làm cho triết lí của Vũ Hùng thêm sâu sắc. Ông thông qua lời dạy dỗ
của chó mẹ mà muốn nói với chúng ta về việc phải biết chấp nhận hoàn cảnh
của bản thân, nghị lực và sự may mắn sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời có ý
nghĩa. Trải qua thời gian, nhận thức của Kratiê ngày càng trưởng thành. Nhà văn
Vũ Hùng đã đưa ra các triết lí sâu sắc hơn vào cái nhìn của nó: “Roi vọt và thói
quen thật ghê gớm: ta có thể quen với nếp sống đàng hoàng tử tế, nhưng cũng
có thể quen với một nếp sống hèn hạ, tối tăm” [27;68]. Qua đây, Vũ Hùng muốn
ca ngợi cách sống của mỗi con người: Hãy sống đàng hoàng và tử tế. Khi Kratiê
bị lão trưởng thôn Men – khen bắt, nó đã bị lão đánh đập và hành hạ. Tuy nhiên
việc đó hoàn toàn vô ích: “Thật ra loài chó chúng tôi là những con vật phụ
thuộc ghê gớm vào người nuôi, được tự do nhiều hay ít là tùy thuộc lòng tốt, no
đói là tùy độ lượng của con người. Ngay cả việc sinh đẻ, chúng tôi cũng phụ
thuộc vào ý muốn của chủ. Thế nhưng bao giờ cũng vậy, đối xử với kẻ khác thế
nào sẽ nhận được một sự đối xử y hệt như thế đáp lại. Tôi đã dành cho lão
trưởng thôn tất cả lòng căm giận của tôi. Tất nhiên tôi không cắn xé được lão
nhưng tôi khinh bỉ lão theo cách của mình. Tôi không bao giờ nhìn lão bằng cặp
mắt thiết tha mà tôi vẫn dùng để nhìn cô chủ cũ của tôi. Không bao giờ tôi vẫy
đuôi mừng và liếm hai bàn tay đen đúa của lão. Cứ thấy lão về là tôi lảng đi, tìm
vào nằm trong một xó tối”[48;72]. Qua đó, tác giả Vũ Hùng thể hiện cái nhìn
gay gắt và châm biếm trước cách đối xử của con người với các loài động vật.
Nếu chúng ta đối xử tốt với loài vật thì sẽ nhận được sự đối xử tốt và ngược lại
nếu chúng ta tàn nhẫn với chúng thì chúng cũng sẵn sàng tàn nhẫn với chúng ta.
Đó là điều mà nhà văn muốn chúng ta – những bạn đọc lớn tuổi và thiếu nhi
hiểu được để có cách đối xử tốt với loài vật. Ở mỗi độ nhận thức của nhân vật,
Vũ Hùng lại tăng cấp độ giọng điệu triết lí lên một mức cao hơn: “Tôi nghiệm
ra ở nơi nào hạt gạo càng khan hiếm và quý giá thì ở đó con người càng ti tiện,
xẻn xo. Họ tranh giành, tàn nhẫn cả với nhau, nói chi đối với những con vật
nuôi trong nhà”[27;75]. Đặt nhân vật vào những tình huống cụ thể, Vũ Hùng
109
muốn chúng nhận thức được giá trị của sự tự do: “Nhưng đường đến tự do có
bao giờ dễ dàng như thế. Tôi đã từng thấy: khi người ta đã quá quen với cuộc
sống trói buộc thì tự do làm cho người ta ngợp và hốt hoảng”[27;79]; “Đã bao
lần tôi cân nhắc giữa tự do và yên ổn. Tôi tự bào chữa cho sự hèn nhát của tôi
và tự bảo mình: dù sao thì tôi cũng đang sống yên ổn. Dù bị roi vọt, tôi vẫn có
cơm ăn khi đói và có một chỗ ngủ yên lành mỗi khi đêm xuống. Roi vọt làm nhục
nhằn đau đớn nhưng không làm ta chết. Còn những nguy hiểm của cuộc sống
trong rừng thì hoàn toàn khác, có thể dễ dàng giết chết một con chó nhỏ bé và
yếu đuối như tôi bất cứ lúc nào”[27;81]. Nhân vật loài vật của Vũ Hùng, khi
đứng trước ranh giới của tự do và yên ổn thì lại rút rè, nhút nhát và lưỡng lự.
Bằng giọng điệu đầy chất triết lí, ông giúp chúng ta nhận ra được rằng: thói quen
rất khó bỏ và muốn bỏ nó cần phải cố gắng rất nhiều. Ông giúp nhân vật nhận ra
nhiều khía cạnh hơn của cuộc sống: “Khi no đủ, người ta càng thích rong chơi”
nhưng “cái trước hết phải yên tâm là mình sống sót rồi mới nói tới chuyện rong
chơi”[27;85]; “Những kẻ lưu lạc sống nay đây mai đó, có bao giờ ăn ở lâu dài
với ai mà cần tên”[27;114]...
Trong truyện ngắn Chú ngựa đồng cỏ, giọng điệu triết lí của nhà văn Vũ
Hùng được gửi gắm qua cách nhìn nhận của chú ngựa Antai. Mở đầu tác phẩm
là sự hào hứng của Antai khi kể về cuộc sống của mình: “Thật vui thích biết bao
khi được tâm sự với những người thân quen”[18;14]. Antai đã dẫn người đọc đi
dần vào cuộc sống trên thảo nguyên mênh mông qua những sự việc và hành
động cụ thể. Những suy ngẫm của Vũ Hùng được người đọc thẩm thấu qua mỗi
nhận định của chú ngựa Antai: “Sống ở thảo nguyên người ta không thể không
có bạn, không có bầy đàn”[18;25]. Hay như tình cảm mẫu tử cũng được ông
khái quát bằng giọng điệu triết lí: “Ít ra được ở chỗ ấm áp, chúng tôi phải suy
nghĩ tới mẹ và bầy đàn đang run rẩy ở người trời giông bão”[18;33]. Qua đây,
chúng ta thấy cái nhìn nghiêm khắc của nhà văn Vũ Hùng về tình cảm gia đình.
Nhân vật chú ngựa Antai đã thể hiện nhiều triết lí của ông thông qua các lời trần
thuật ngắn: “Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng sung sướng như thế” [18;38].
Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư của nhà văn Vũ Hùng thể hiện rõ ràng qua
những nhận định của ông đối với các sự vật, sự việc của cuộc sống: “Chỉ trong
lúc phải chờ đợi mới thấy thời gian trôi chậm”[18;72]. Những nhận định của
110
ông điều rất chính xác và phù hợp với tâm lí của con người. Nhưng khác với các
tác giả khác, ông gửi gắm nhận định, thông điệp vào các nhân vật loài vật chứ
không phải con người. Xét theo cấp độ cấu trúc câu, kiểu giọng điệu triết lí
thường được thể hiện qua tính chất khẳng định/phủ định để nhấn mạnh những
vấn đề mà tác giả cần triết luận và thông điệp với người đọc. Như vậy, điểm nổi
bật của giọng điệu là qua nó nhà văn thể hiện thái độ, tư tưởng, tình cảm của
chính mình. Thông qua thế giời của loài vật, nhà văn Vũ Hùng thể hiện một
giọng điệu phân tích xã hội, mang những suy tư, chiêm nghiệm về thế sự, nhân
sinh. Những triết lý của ông được tạo nên từ nhiều nguồn cảm hứng: cảm hứng
thương cảm và cảm hứng phê phán. Mọi chất liệu của cuộc sống được Vũ Hùng
đúc kết trong từng câu chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện là một nhận định và suy
ngẫm mà qua thời gian ông khái quát được trong tác phẩm của mình.
Nhà văn Vũ Hùng mang trong mình những tâm tư và tình cảm phức tạp
chính vì lẽ đó ông có cái nhìn đa dạng, đa chiều. Ông gửi chọn những suy nghĩ
sâu sa của mình vào đời sống của các loài động vật. Phải chăng dưới mỗi câu
truyện là một sự phản ánh về đời sống con người. Nét giao hòa và đồng cảm
giữa loài vật và con người được thể hiện sâu sắc: “Người ta quá coi thường sức
mạnh của thói quen. Ở loài người các bạn, có thể phá bỏ dễ dàng một tập quán
nhưng ở loài ngựa chúng tôi khác. Muốn thay đổi một thói quen cũ bằng một
thói quen mới, chúng tôi cần có nhiều thời gian”[18;93]. Thói quen là đặc tính
của con người cũng như loài vật. Nhưng thói quen lại mang tính cố hữu, khó có
thể thay đổi được. Không riêng gì con người, loài vật muốn thay đổi thói quen
cũng cần phải có thời gian. Ngoài thói quen, tên gọi cũng gắn liền với con
người, loài vật. Nó luôn gợi nhớ những kí ức, kỷ niệm: “Với loài ngựa, tên
không phải chỉ để gọi. Nó mang trong đó bao sức sống, bao kỉ niệm. Mỗi khi
người ta kêu “Antai”, lòng tôi lại xao xuyến vì cái tên ấy gợi lại những hình ảnh
đồng cỏ và dãy núi quê nhà. Với những ngựa khác trong đàn cũng vậy. Tên họ
khi gọi lên sẽ âm vang, sẽ làm sống lại những kỉ niệm gì đó trong tâm trí họ mà
chỉ riêng họ biết. Vì thế tốt nhất là đừng gợi cho chúng tôi những kỉ niệm
cũ”[18;95]. Đối với những kỉ niệm đẹp, tên gọi sẽ có tác dụng nhắc nhở và khơi
gợi những giá trị mang ý nghĩa nhân văn. Còn nếu tên gọi gợi nhớ những kí ức
buồn thì nó lại khắc khoải những thảm thương. Cũng giống như nói về quê
111
hương, Vũ Hùng nhấn mạnh, loài vật gắn bó với quê hương bằng những tình
cảm chân thành, tha thiết chứ không phải từ những cảm xúc thoáng qua, hời hợt
hay như những hoàn cảnh khó khăn sẽ tạo điều kiện khiến đức tính hoặc mặt xấu
được bộc lộ: “Người ta gắn bó với quê hương không vì những tình cảm mơ hồ.
Cậu nghĩ sao, nếu ở đó cậu bị ngược đãi? ...Trong hoàn cảnh khó khăn, người
ta sẽ bộc lộ những đức tính hoặc tật xấu”[18;98]. Nhà văn Vũ Hùng còn căn cứ
vào những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội để thể hiện giọng điệu của mình.Ví
như: “Ngựa sinh ra là để phi, để chạy. Một con ngựa béo sẽ trở nên trì trệ: nó
còn chạy, còn phi làm sao được nữa”[18;103]. Có nghĩa là, bản tính tự nhiên
của loài vật là cái tất yếu nhưng hoàn cảnh xã hội, đời sống sẽ tác động và làm
thay đổi những cái tất yếu đó.
Không phân tích, phát biểu về những điều vĩ mô, Vũ Hùng suy tư, chiêm
nghiệm, nhận định về những điều bình thường diễn ra trong thực tế, gắn với hiện
thực đời sống và số phận của loài vật để đưa ra những chiêm nghiệm về cuộc
sống của con người.
3.3.2. Giọng điệu trữ tình
Đối với nhà văn Vũ Hùng, giọng điệu trong các tác phẩm của ông rất đa
dạng và phong phú. Bên cạnh giọng điệu giàu sự triết lí, suy tư thì ở một khía
cạnh khác, giọng điệu của ông được thể hiện rõ ràng hơn đó là một giọng văn
giản dị và gần gũi với đời sống hàng ngày. Điều đó cho thấy bút lực dồi dào
trong cách viết của ông. Giọng điệu trữ tình được thể hiện ấn tượng trong những
trang văn tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh đời sống sinh hoạt của những người đồng
bào miền núi.
Thiên nhiên trong truyện của ông không phải là những bức tranh thiên
nhiên xa vời với thực tế cuộc sống mà là những gì gần gũi, thân thuộc với con
người. Đó là những sông, những núi, những ruộng đồng, rừng cây... gắn bó với
con người từ khi sinh ra đến khi chết đi. Đó là trang văn viết về quang cảnh
thiên nhiên: “Sau những cơn mưa lạnh mùa đông, trời long lanh nắng, chồi non
nảy khắp rừng. Đâu đâu cũng xanh. Ngoài bãi, hoa dại bắt đầu nở: hoa vông
vang màu vàng tươi, hoa cúc áo lăn tăn và hoa lạc tiên trắng muốt với những
nhị tím”[31;10]. Cơn mưa mùa đông đã gột rửa đi tất thẩy những âm u, mơ hồ
để ban tặng thiên nhiên những trong xanh của nắng trời, chồi non và sự rực rỡ
112
của sắc hoa. Câu văn chân thực với những lớp lang màu sắc đan xen và hòa
quyện vào nhau. Một cảm giác tươi mới xuất hiện trên bức tranh phong cảnh và
xuất hiện ngay trong chính tâm hồn người đọc. Trước khi có được sự trong trẻo
đó, thì khi “Mùa đông tới. Gió bấc thổi ào ào. Rừng xám và ảm đạm. Mặt trời
bỏ đi suốt những ngày đông. Thiếu ánh nắng, các dòng suối không còn lấp lánh.
Dưới những lùm cây, hơi đá từ các hang núi bay ra rét buốt. Cây cối khẳng
khiu, lá xanh xám lại vì lạnh”[35;35]. Trái ngược với thiên nhiên thơ mộng sau
mùa đông, cảnh vật vào đông được thể hiện rõ nét qua giọng điệu chân thực.
Cảnh vật dường như đìu hiu và tĩnh lặng, từng cơn gió ào ào lướt tới, rừng xanh
xám, những dòng suối tĩnh lặng không còn lấp lánh, hơi rét buốt bao chùm khắp
nơi. Có thể thấy cảnh vật dường như lắng đọng lại trong những câu văn tả kết
hợp với kể. Mùa đông trôi qua, “Mùa xuân rừng đầy hoa lá... mùa hè quả chín
ngọt ngào. Vải hoang chín đỏ một góc núi. Quả lấp lánh từng chùm như những
chùm lửa”[35;48]. Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình cùng hình ảnh ví von so
sánh, cảnh vật thiên nhiên hiện lên sống động. Giọng điệu văn gần gũi nhưng
không phải vì thế mà mất đi chất thơ sâu lắng: “Trời tạnh ráo, ấm áp, sau
những cơn mưa lạnh kéo dài. Bướm bay đầy trên những khoảng đất còn ẩm, nơi
có những đám rêu xanh. Chim đi tìm sâu, nhảy lách tách trong bụi rậm. Từng
bầy sóc ngồi ăn trên các cành cây, thỉnh thoảng lại lấy chân trước đập đập lên
những sợi râu và chơm chớp cặp mắt để nhìn người. Rừng đã trút bỏ tấm áo
mùa đông và mặc xong tấm áo rực rỡ của mùa xuân. Các đồi gianh dạt dào
dưới xa, xanh rờn. Đâu đâu cũng thấy hoa lá tươi non. Những lớp rêu mới mịn
như nhung phủ kín các vách núi trước đây xám ngắt. Cả đến các cây cổ thụ già
nua cũng trẻ lại. Chúng rũ hết những chiếc lá úa màu vàng chanh xuống dưới
gốc và từ những cành trước đây còn khẳng khiu, trơ trụi đã nảy ra những vầng
lá non bát ngát”[30;13]. Bức tranh thiên nhiên hiện ra trên dòng chảy êm dịu
của ngôn từ, bầu không khí thênh thang, khoáng đạt. Thiên nhiên không xuất
hiện âm thầm và lặng lẽ mà hòa lẫn với sự sôi động, giàu sức sống của đời sống
các loài vật: “Tiếng rừng lao xao... như tiếng rung của những dây tơ giữa tiếng
chim kêu thoang thoảng... ngân vang”[30;14]. Một thiên nhiên êm dịu, chân
thực và thơ mộng. Cái thơ mộng xuất phát từ sự chân thuật của cuộc sống nhưng
lại được miêu tả qua giọng điệu mộc mạc của nhà văn Vũ Hùng. Rồi những
113
cảnh rừng chiều lấp lánh ánh nắng dịu ngọt: “Vào những buổi chiều xuân ấm
áp, rừng Trường Sơn tràn đầy ánh nắng. Nắng vàng hoe trên những cây cổ thụ
cao ngất, tán chạm trời xanh. Từng đàn chim về tổ vỗ những cặp cánh sặc sỡ, vẽ
trong nắng những đường bay lấp loáng”[30;16]. Sử dụng những từ ngữ chọn
lọc tinh tế, bằng sự trải nghiệm của bản thân mình, nhà văn Vũ Hùng đã mang
vào trong những trang văn của mình hình ảnh của một thiên nhiên hoang dã
chân thực, mộc mạc, gần gũi những không thiếu chất thơ, chất lãng mạn xuất
phát từ chính tâm hồn trong trẻo, mộng mơ của nhà thơ. Cùng với khả năng
quan sát và miêu tả tinh tế, các trang văn của Vũ Hùng giúp người đọc cảm giác
như đang được đứng trước một bức họa thiên nhiên rực rỡ: “...rừng rừng núi núi
trùng điệp. Các rừng chuối trải rộng mênh mang, xanh ngắt màu lá non, đôi chỗ
bắt đầu điểm vài bông hoa đỏ. Những dòng suối lấp lánh, len lỏi dưới chân các
trái núi. Xa tắp, sát chân trời, thấy nét lượm nhấp nhô của những dãy đồi”
[30;29]. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng thiên nhiên ở Phía Tây
Trường Sơn dân dã, tự nhiên và đầy quyến rũ. Những câu văn mộc mạc nhưng
vẫn đủ sức hấp dẫn người đọc: “Trời đã về chiều mà nắng vẫn chói chang. Nóng
bỏng lưng, chừng như càng xuống phía nam thì nắng càng gay gắt. Những tràn
ruộng quanh làng ngập nước phù sa, hơi nóng phả lên hầm hập. Cua bò lổm
ngổm đầy bờ...”[30;113]. Tác giả đã tái hiện cái nóng bức, gay gắt của thiên
nhiên, sự bức bối thể hiện khắp khung cảnh xung quanh. Ông không hề bỏ xót
một chi tiết nhỏ nào của thiên nhiên: “Hoa đồng lại nở đầy lối đi và thoang
thoảng mùi thơm. Cây rừng xanh rờn từ mùa xuân, sau những cơn mưa hè càng
như căng nhựa và đầy lá. Chim gáy ríu rít về làm tổ ở những khóm cây...”
[29;67]. Bằng giọng văn gần gũi, mộc mạc và dung dị khung cảnh đời sống sinh
hoạt của đồng bào miền núi và bức tranh không gian làng bản được nhà văn Vũ
Hùng thể hiện rất tinh tế. Đó không phải là cuộc sống gian lao, vất vả và khổ
cực của những người dân tộc mà là một cuộc đời bình yên, giản dị, chân chất
nhưng đầy niềm vui và tình yêu thương. Đó cũng không phải là một không gian
làng bản heo hút, ảm đạm mà là một khung cảnh mang nhiều chất thơ. Bức tranh
thiên nhiên của rừng già hoang dã không xuất hiện đơn độc mà còn đan xen, hòa
lẫn vào những bức tranh về cuộc sống sinh hoạt. Những mái nhà ẩn hiện sau mỗi
rặng cây: “Phút chốc rừng thưa lùi sau lưng và trước mặt đã thấy ruộng. Những
114
dải ruộng hẹp và dài, viền quanh rìa núi, mảnh nọ chồng lên mảnh kia như
những bậc thang. Dưới xa là làng, nằm trong những đám dừa cau cùng với
những cây xoài xanh thẫm đã lác đác quả non. Nhà dựng chênh vênh trên
những dãy cột, trước sàn là những cây đại lác đác hoa trắng...”[31;32]. Cuộc
sống sinh hoạt của người dân được diễn tả thật bình thản: “Nhạc nổi lên, họ chờ
một đứa trẻ ra đời. Gian nhà ồn ào hẳn. Các cô gái đứng dậy, sửa lại váy áo và
bắt đầu múa. Thân thể và chân tay họ mềm như những dây rừng. Tiếng trống
bập bùng, tiếng cồng lanh lảnh và tiếng lục lạc rung rinh hòa với tiếng hát ngân
cao”[30;43]. Những buổi lễ hội hay những dịp đặc biệt được diễn ra trong
không khí hồi hộp và náo nức thông qua giọng văn nhẹ nhàng: “...bản làng nhộn
nhịp, tưng bừng. Mọi người tấp nập chuẩn bị. Sớm ngày hội, bác Bun – mi lấy
bộ lễ phục lâu nay bác vẫn cất kỹ trong hòm. Bác mặc sang như một quản tượng
ở kinh đô: áo cánh trắng tinh với hàng khuy đồng chóe cài đến tận cổ, quấn bên
ngoài quần chiếc “phá sà lùng” bằng lụa óng ánh mua bên nước Thái... Đám
phụ nữa còn ăn mặc rực rỡ hơn: những chiếc châm bạc chạm đá quý lấp lánh
trên đầu, khăn tơ mềm quàng chéo ngực, thắt lưng bạc sáng ngời ngang lưng...”
[30;128]. Khác với những nhà văn khác, hình ảnh con người trong văn của Vũ
Hùng không xuất hiện với những gian lao, vất vả và hiu quạnh mà luôn tràn trề
sức sống và bộc lộ từng nét đẹp trong tâm hồn. Họ là những con người giản dị,
yêu đời và ham sống một cuộc đời bình lặng: “Bác Bun – mi đang ngồi bên bếp.
Từ chiếc tẩu bên môi bác, một dòng khói lam mảnh dẻ bay lên. Bác mải nhìn các
con, quên cả rít thuốc. Lũ trẻ đang chuẩn bị đón ngày Tết, vừa làm vừa sung
sướng hát khe khẽ. Tiếng hát của chúng làm lòng bác Bun – mi náo nức, như
đưa bác trở về sống lại cái thời trẻ trung, lúc nào cũng chờ đợi hội hè”[30;61].
Bằng giọng văn dung dị, nhà văn Vũ Hùng còn lột tả những cảm xúc yêu đời
của người đồng bào dân tộc: “...những buổi trò chuyện trở thành dịp để người ta
mơ mộng, Ai cũng mong mỏi có lúc tìm thấy phần hạnh phúc xứng đáng của
mình. Hạnh phúc ấy thật đơn xơ... Buổi trưa vẫn nắng chang chang và vắng vẻ.
Cây vẫn lặng gió, ve không kêu, làng bản im lìm”[30;80]. Có thể thấy, cái im
lìm, yên ắng ở đây chỉ là khung cảnh bề ngoài của làng bản còn ẩn sâu bên trong
là những khao khát, ước vọng rạo rực của những người đồng bào miền núi. Qua
giọng điệu văn Vũ Hùng, ta thấy những mong ước của họ trở nên gần gũi và
115
chân thực. Ngoài những buổi lễ hội, cảnh sinh hoạt của người dân được tái hiện
chân phương nhất. Đó là những cuộc vui chơi của lũ trẻ: “Chung quanh nhà là
những cây thốt nốt, cao vượt khỏi tầng cây dưới thấp, trên ngọn xòe một tán lá
xanh. Một vài đứa trẻ, ống tre dắt lủng liểng quanh lưng, leo thoăn thoắt lên
ngọn cây. Thấy khách lạ đi qua, chúng nhìn xuống gật đầu chào mỉm cười, hàm
răng trắng lóa trên khuôn mặt rất nâu”[30;114]. Ngoài cảnh sinh hoạt của
người dân đồng bào được diễn tả qua giọng văn nhẹ nhàng của Vũ Hùng, khung
cảnh thiên nhiên nơi bản làng ẩn cư cũng xuất hiện bằng giọng văn nhẹ nhàng và
thanh thoát: “Mùa hè trôi rất nhanh. Đã chấm dứt những đêm mưa tầm tã, chấm
dứt những ngày nóng bỏng, nắng chói chang và hầm hập gió Lào. Trời sang thu
se lạnh, trong veo. Những dây lạc tiên trên bờ dậu đã rụng hết hoa và điểm lá
vàng. Các đồi gianh quanh làng cùng vàng hoe một màu dịu mát của nắng
chiều. Đàn chim di cư sớm đã từ phương Bắc bay tới. Đêm đêm khi bay qua
làng, nhìn thấy những vầng lửa bếp hắt ra ngoài các khung cửa, chúng bỗng kêu
lanh lảnh giữa trời”[30;128]. Khung cảnh thiên nhiên bản làng cũng hiền hòa
và dịu dàng như những con người đồng bào nơi đây. Hay là những không gian
thơ mộng: “Trăng sáng quá! Trăng lơ lửng trên bầu trời đầy sao, rọi lên sàn
những khoảng sáng vuông vắn qua các khung cửa... những tảng đá lớn phản
chiếu ánh trăng trắng như bạc. Hàng cây cao và thưa lá ngả xuống mặt đất từng
khoảng bóng lung linh. Con suối trôi trước thềm nhà, từ mặt nước sóng sánh tỏa
lên một nỗi vắng lặng êm đềm. Phía xa, nơi con suối luồn qua những tảng đá
chắn đường, nước chảy phảng phất, nhẹ như hơi thở của rừng đêm. Từ những
cây đại dưới sàn, mùi hoa lâng lâng thoảng bay...”[31;14]. Bức tranh thiên
nhiên trước mắt trở nên thơ mộng và dịu ngọt. Giọng điệu văn tự nhiên được trôi
chảy từ vốn sống của chính nhà văn. Đã từng gắn bó, đồng cảm và chia sẻ với
cuộc sống của đồng bào dân tộc nên nhà văn Vũ Hùng đã có cái nhìn sâu sắc về
con người nơi đây với giọng điệu văn trữ tình. Ngoài ra, theo cảm quan của
người nghiên cứu, giọng điệu văn của Vũ Hùng còn là giọng văn thật thà, chân
chất. Nhà văn nhìn mọi khía cạnh của cuộc sống một cách hiện thực nhất: “Làng
tôi ở lưng Trường Sơn, giữa vùng núi non trùng điệp. Thế mà bây giờ ở đó đã có
cả một trường cấp một. Trường là ngôi nhà nhỏ ngăn đôi, có hai thầy dạy. Vì
thiếu thầy, trường phải học hai buổi và mỗi thầy phải dạy hai lớp. Các bạn sẽ
116
bảo, một trường như thế thì có gì đáng nói. Nó kém xa một trường làng ở dưới
xuôi. Ấy thế mà trong vòng bốn năm cây số đường núi, mọi em bé ở các bản
làng chung quanh đều đến học ở trường này. Đến nay, việc học hành ở vùng tôi
đã được mở mang như vậy, nhưng mười năm trước, tôi là người duy nhất trong
làng được đi học. Hồi đó, đi học còn vô cùng khó khăn. Muốn học phải xuống
trường huyện, mà huyện thì ở mãi chân núi, cách làng tôi gần một ngày đường.
Tôi phải trọ học, lâu lâu mới về làng một lần thăm nhà và lấy lương ăn”
[31;26]. Hay như: “Trước đây ở các bản hẻo lánh không có trường. Con trai
muốn biết đọc, biết viết thì đi tu: nhà chùa dạy chữ. Vì thế hầu hết con trai Lào
đều ở chùa vài bốn năm. Đi tu vừa là nghĩa vụ, vừa được học, bao giờ đọc thông
viết thạo, họ mới trở về làm ruộng. Ngày nay việc học được mở rộng, bản làng
nào cũng có lớp học buổi tối. Thầy giáo là cán bộ cơ sở, bộ đội. Cả làng đi học.
Các cụ già đầu bạc, các bà mẹ ôm con, các cô, cậu bé măng sữa, tất cả cắm cúi
trên những cuốn vở nhàu nát, dưới ánh lửa những cây “cà boong” (nến trám)
đầy khói” [30;45]. Bằng vốn sống phong phú cùng sự trải nghiệm thực tế và đức
tính giản dị, gần gũi, thân thiện, đồng thời được sống và làm việc cùng với
người đồng bào dân tộc hiền lành, chất phát mà nhà văn Vũ Hùng có một giọng
điệu văn thành thật, dung dị và chân chất đến thế. Có thể thấy rằng, giọng văn
trong các tác phẩm của ông không chỉ phản ánh cuộc sống và thiên nhiên của
những vùng đất mà ông từng đặt chân tới mà còn thể hiện chính những đức tính
cao đẹp trong cách sống và tâm hồn của ông.
117
* Tiểu kết:
Với khả năng quan sát tinh tế, sự nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, Vũ Hùng
đã dựng lên bức tranh thiên nhiên, cuộc sống loài vật sinh động, chân thực và rõ
nét. Trẻ thơ sẽ khám phá được một thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và sự đa dạng
của đời sống các loài động vật. Ông sử dụng những phương thức xây dựng nhân
vật loài vật một cách độc đáo từ tên gọi, miêu tả ngoại hình, đến diễn biến trong
nội tâm và tâm lí các nhân vật loài vật. Không gian thiên nhiên hùng vĩ, thời
gian tâm lí nhân vật loài vật đã góp phần thể hiện cuộc sống nhân vật sinh động
và sâu sắc. Giọng điệu trong tác phẩm Vũ Hùng đa dạng, khi thì mang chất
chiêm nghiệm, triết lí, suy tư, khi thì trữ tình, giàu chất thơ.
118
KẾT LUẬN
1. Một nhà văn đã từng nhận định rằng viết văn đã khó, người viết văn cho
thiếu nhi lại càng khó hơn. Với những nhà văn viết cho thiếu nhi, ta nên kính
trọng họ. Đó là một lời khẳng định sâu sắc về tâm huyết của các nhà văn đã
dành cả sự nghiệp để sáng tác những tác phẩm cho thiếu nhi. Viết cho thiếu nhi
là đem lại cho các em niềm vui, cảm hứng và những bài học nhân sinh mà chúng
ta đã trải qua. Mỗi người lớn, đọc tác phẩm dành cho thiếu nhi, là được một
“tấm vé trở về tuổi thơ” ngọt lành. Nhà văn Vũ Hùng đã chọn gắn bó cuộc đời
mình với thiếu nhi và coi đó là duyên may của mình trong cuộc sống. Ngòi bút
của ông đã chọn thiên nhiên, muôn thú để trải lòng.
2. Bằng tình yêu thương dành cho trẻ thơ và vốn sống cùng tài năng của mình,
Vũ Hùng đã đem đến cho độc giả các thế hệ một không gian thiên nhiên hùng vĩ,
một thế giới động vật nhiều sắc diện, phong phú và sống động. Không chỉ có vậy,
truyện của ông còn cung cấp cho độc giả nói chung và trẻ em nói riêng những bài
học cuộc sống về đạo đức ứng xử vô cùng sâu sắc và trân quý. Qua sự chiêm nghiệm
và những triết lí mà ông đã khái quát, chúng ta hiểu thêm phần nào về cuộc đời với
nhiều biến động mà ông đã trải qua. Những phong tục, tập quán và tục lệ của người
đồng bào dân tộc được hiện lên rõ nét qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng. Nếp
sống, nếp sinh hoạt và tâm hồn họ được nhà văn miêu tả sinh động và chân thực. Có
thể nói rằng, những năm tháng sống, chiến đấu ở chiến trường, sống cùng thiên
nhiên và con người ở những miền đất khác nhau đã giúp ông có một cái nhìn tinh tế
và sâu sắc về đời.
3. Lấy cảm hứng từ những chất liệu cuộc sống, truyện của Vũ Hùng đã tạo
được sự gần gũi cho người đọc. Không phải từ những thứ xa rời với thực tế mà bằng
những hình ảnh của thiên nhiên, loài vật mà người đọc cảm nhận trong tác phẩm của
ông những khía cạnh của chính đời sống loài người. Bóng dáng xã hội con người
hiện hữu qua hình ảnh, cách sinh tồn và mối quan hệ giữa các loài động vật. Đời
sống hàng ngày, nội tâm sâu sắc, bản tính khôn ngoan, tinh thần nương tự và giúp đỡ
lẫn nhau của các loài động vật được thể hiện rõ nét trong từng trang văn của ông:
“Nhà văn Vũ Hùng đã nhận ra ánh mắt “thản nhiên” của loài vật mà soi thấu
vào tâm địa của con người, bởi “bọn thú rừng ấy chưa biết gì về con người…”.
Sống giữa những con vật hoang dã trong một cuộc chiến tranh nên Vũ Hùng có
119
được sự tỉnh thức mang tính nhân văn từ rất sớm, có lẽ từ khi ông bắt đầu cầm
bút viết những trang sách đầu tiên cho trẻ nhỏ, ông tôn trọng loài vật, tôn trọng
sự bình đẳng giữa con người và con vật, ông nâng niu những tình cảm hồn
nhiên nhất mà chỉ có những người dân dã sống cùng với thiên nhiên hoang dại
mới có thể giữ gìn nguyên vẹn trong tâm hồn”[65]. Quan lăng kính muôn màu
của trẻ thơ được tô vẽ với những gam màu sôi động và giàu sắc thái, người đọc thấy
được tình yêu thiên nhiên, đất nước và con người trong ông.
4. Giá trị nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng được thể
hiện trước nhất là không gian và thời gian nghệ thuật. Đó là nét thơ mộng, hùng
vĩ, trùng điệp của núi rừng cùng với thời gian tâm lí của các loài động vật.
Phương thức xây dựng nhân vật độc đáo từ tên gọi đến việc khắc họa chân dung
nhân vật đã tạo nên những trang văn sống động. Giọng điệu mà ông sử dụng đa
dạng, khi thì triết lý, sâu sắc, khi thì trữ tình, ngọt ngào. Mỗi trang văn của Vũ
Hùng đều hiện lên những tầng giá trị và bài học về cuộc sống.
120
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam – phần câu, Nxb Đại học sư
phạm Hà Nội
3. Lê Biên (2007), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.
4. Đỗ Hữu Châu (2011), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Mai Ngọc Chừ (Chủ biên) (2008), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục
Việt Nam
6. Mai Ngọc Chừ (Chủ biên) (2008), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
7. Nguyễn Đăng Điệp (2008), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội
nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội
8. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.
9. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
10. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ điển khái niệm Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục
11. Võ Vân Hà (2009), Ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Tuân trước Cách mạng tháng tám 1945, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn
chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
12. Lê Bá Hán (Chủ biên) (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
13. Phạm Thị Hằng, (2015), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học
Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh
14. Phạm Ngọc Hiển (2009), Thi pháp học, Nxb Văn học
15. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.
16. Cao Hồng (2012), Lý luận văn học Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 -2011),
Nxb Hội nhà văn
17. Châu Minh Hùng (Chủ biên) (2003), Văn học cho thiếu nhi, Đại học Quy
Nhơn, Bình Định.
18. Vũ Hùng (2015), Chú ngựa đồng cỏ, Nxb Kim Đồng.
19. Vũ Hùng (2015), Giữ lấy bầu mật, Nxb Kim Đồng.
20. Vũ Hùng (2015), Mái nhà xưa, Nxb Kim Đồng.
121
21. Vũ Hùng (2015), Bầy voi đen, Nxb Kim Đồng.
22. Vũ Hùng (2015), Con culi của tôi, Nxb Kim Đồng.
23. Vũ Hùng (2015), Sao sao, Nxb Kim Đồng.
24. Vũ Hùng(2015), Sống giữa bầy voi, Nxb Kim Đồng.
25. Vũ Hùng (2015), Con voi xa đàn, Nxb Kim Đồng.
26. Vũ Hùng (2015), Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Nxb Kim Đồng.
27. Vũ Hùng (2015), Những kẻ lưu lạc, Nxb Kim Đồng.
28. Vũ Hùng (2015), Biển bạc, Nxb Kim Đồng.
29. Vũ Hùng (2015), Chim mùa, Nxb Kim Đồng.
30. Vũ Hùng (2015), Phía Tây Trường Sơn, Nxb Kim Đồng.
31. Vũ Hùng (2015), Chim mùa, Nxb Kim Đồng.
32. Vũ Hùng (2015), Bí mật của rừng già, Nxb Kim Đồng.
33. Vũ Hùng (2015), Mùa săn trên núi, Nxb Kim Đồng.
34. Vũ Hùng (2015), Phượng hoàng đất, Nxb Kim Đồng.
35. Vũ Hùng (2015), Vườn chim, Nxb Kim Đồng.
36. Lê Thị Huyền (Chủ biên) (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh niên
37. Phong Lê (1977), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
38. Nguyễn Văn Long (Chủ biên) (2006), Văn học Việt Namsau 1975 Những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.
39. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2012), Giáo trình văn học ViệtNam hiện đại
tập II, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.
40. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
41. Lã Thị Bắc Lý (2008), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư Phạm Hà
Nội.
42. Lã Thị Bắc Lý (2008), Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội
43. Phương Lựu (chủ biên) (2011), Lý luận văn học Nxb Giáo dục Hà Nội.
44. Nhiều tác giả (2009), Kỷ yếu Hội thảo Những ảnh hưởng của văn học thiếu
nhi đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc
tế, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.
122
45. Võ Quảng (1987), Mấy suy nghĩ về đặc trưng và chức năng giáo dục của
văn học thiếu nhi, Tạp chí Văn học, số 1.
46. Hoàng Trọng Quyền (2008), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Quốc Gia
thành phố Hồ Chí Minh
47. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
48. Trần Đình Sử (2008), Giáo trình lý luận văn học tập II, Nxb Đại học sư
phạm Hà Nội.
49. Vân Thanh (Chủ biên) (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam
tập 1 Tổng quan Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội, Nxb Giáo dục
50. Lê Thời Tân (2010), Giáo trình Dẫn luận tự sự học, Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội,
51. Nguyễn Kim Thản (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
52. Dương Ngọc Thùy(2014), TG nghệ thuật trong truyện Tôi thấy hoa vàng
trên cỏ xanh, Khóa luận Tốt nghiệp Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên
53. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội.
54. Bùi Minh Toán (2008), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Sư
Phạm
55. Bùi Thanh Truyền (Chủ biên) (2009), Giáo trình Văn học 2 Thi Pháp Văn
học Thiếu Nhi, Nxb Đại học Huế
56. Trần Thanh Xuân ( 2016), Bản sắc thiên nhiên trong truyện Kiều, Nxb Văn
hóa dân tộc.
* Các trang web:
57. Bài viết: “Khoảng trắng” văn học về loài vật
(http://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/khoang-trang-van-hoc-ve-loai-
vat-90395/)
58. Bài viết: Nguyễn Thị Châu Giang xúc động khi đọc sách Vũ Hùng
(https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-thi-chau-giang-xuc-
dong-khi-doc-sach-vu-hung-3146230.html)
59. Bài viết “Nhà văn Vũ Hùng ẩn sau thiên nhiên là những bài học cuộc đời”
123
(http://anninhthudo.vn/giai-tri/nha-van-vu-hung-an-sau-thien-nhien-la-nhung-
bai-hoc-cuoc-doi/635353.antd)
60. Bài viết“Vũ Hùng: Nhà văn của rừng – thiên nhiên – muôn thú”
(http://tonvinhvanhoadoc.vn/vu-hung-nha-van-cua-rung-thien-nhien-muong-
thu.html/)
61. Bài “Những bài học cuộc sống qua thiên nhiên trong các tác phẩm của nhà
văn Vũ Hùng”
(http://www.nhandan.com.vn/nation_news/item/27548802-nhung-bai-hoc-cuoc-
song-qua-thien-nhien-trong-tac-pham-cua-nha-van-vu-hung.html)
62. Bài “Nhà văn Vũ Hùng – Người lưu giữ ký ức thiên nhiên Việt Nam”
(http://vovworld.vn/vi-VN/tap-chi-van-nghe/nha-van-vu-hung-nguoi-luu-giu-
ky-uc-thien-nhien-viet-nam-372335.vov)
63. Bài “Tượng đài văn học thiếu nhi Vũ Hùng tái xuất”
(http://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/tuong-dai-van-hoc-thieu-nhi-vu-
hung-tai-xuat-7536/)
64. Bài “Nhà văn Vũ Hùng - Người kể chuyện thiên nhiên và muôn thú”
(http://daidoanket.vn/dan-toc/nha-van-vu-hung-nguoi-ke-chuyen-thien-nhien-
va-muong-thu-tintuc69156)
65. Bài viết: Nhà văn Vũ Hùng - tươi thắm tình yêu tuổi thơ và thiên nhiên
(https://news.zing.vn/nha-van-vu-hung-tuoi-tham-tinh-yeu-tuoi-tho-va-thien-
nhien-post709146.html)
66. Bách khoa toàn thư mở
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_t%E1%BB%A5c)
67. Bài viết: Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đổi mới của sinh viên cao đẳng
sư phạm
(http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-trinh/van-hoc-thieu-nhi-va-
nhung-yeu-cau-doi-voi-sinh-vien-cao-dang-su-pham-mam-non-376.html)
68. Bài viết Về định nghĩa văn học thiếu nhi, tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương
(http://vhnt.org.vn/tin-tuc/thuong-thuc-hoi-dap/29857/ve-dinh-nghia-van-hoc-
thieu-nhi)