i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM THỊ LUYẾN

THẾ GIỚI LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Phạm Thị Luyến

iii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,

Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực

tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà văn Vũ Hùng

và giảng viên hướng dẫn TS. Lê Thị Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo

trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Luyến

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... iii

MỤC LỤC ............................................................................................................ iv

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 4

3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

5. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5

6. Bố cục ............................................................................................................ 5

7. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 6

NỘI DUNG ........................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ NHÀ VĂN VŨ

HÙNG ................................................................................................................... 7

1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam .................................................................... 7

1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi .................................... 7

1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu

nhi ở Việt Nam ............................................................................................. 10

1.2. Nhà văn Vũ Hùng – cuộc đời và sự nghiệp .............................................. 20

1.2.1 Cuộc đời nhà văn Vũ Hùng ................................................................. 20

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vũ Hùng .......................................... 23

CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN KỲ THÚ VÀ NHỮNG BÀI HỌC CUỘC SỐNG

TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG 29

2.1. Tình yêu và cuộc sống .............................................................................. 29

2.1.1. Những trật tự rừng xanh ..................................................................... 29

2.1.2. Phong tục tập quán những vùng miền đi qua ..................................... 35

2.2. Đời sống của loài vật ................................................................................ 44

v

2.2.1. Bản năng sinh tồn ............................................................................... 44

2.2.2. Thế giới nội tâm ................................................................................. 49

2.3. Những triết lí mang bóng dáng con người ............................................................ 65

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC

VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG ............................................ 73

3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật .......................................................... 73

3.1.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 73

3.1.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 83

3.2. Phương thức xây dựng nhân vật ............................................................... 99

3.2.1. Cách đặt tên các nhân vật loài vật ...................................................... 99

3.2.2. Xây dựng chân dung nhân vật loài vật ............................................. 102

3.3. Giọng điệu ............................................................................................... 105

3.3.1. Giọng điệu triết lí, suy tư ................................................................. 105

3.3.2. Giọng điệu trữ tình ........................................................................... 111

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 118

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 120

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn học thiếu nhi là một bộ phận thiết yếu của nền văn học Việt Nam

nói riêng và văn học thế giới nói chung. Với vai trò trong việc nuôi dưỡng tâm

hồn và định hình nhân cách cho trẻ thơ, văn học thiếu nhi ngày càng trở nên

quan trọng. Nằm trong văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật luôn là đề tài

thu hút và gây ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc nói chung và trẻ em nói riêng.

Mảng đề tài truyện viết về loài vật có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển

đa dạng và phong phú của văn học thiếu nhi. Tâm hồn trẻ thơ luôn hướng tới

những điều kì diệu và huyền bí. Chính vì lẽ đó, chúng luôn cảm thấy thích thú

trước sự mới mẻ. Như Hwang – sun – mi – nhà văn Hàn Quốc nổi tiếng về

truyện thiếu nhi đã từng chia sẻ: “Loài vật gần gũi, thân thuộc với trẻ nhỏ

nhưng cũng lại là một thế giới bí mật mà các em muốn khám phá... Những cảm

xúc, tình yêu thương và ứng xử trong cộng đồng loài vật luôn có nét tương đồng

với con người. Động vật nếu biết cách khai thác luôn có thể truyền tải những

cảm xúc rất mạnh mẽ...”.[57]. Thiên nhiên kỳ ảo với những loài vật sống động

là điểm sáng để phát triển trí tưởng tượng và thu hút khả năng tìm tòi, khám phá

của trẻ thơ.

1.2. Trong quá trình phát triển, Văn học thiếu nhi xuất hiện với nhiều nhà

văn tên tuổi như: Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Hổ, Võ Quảng... Mỗi nhà văn mang

cho mình những đề tài, đối tượng và phương thức phản ánh riêng. Nếu như

Nguyễn Nhật Ánh được coi là “Hoàng tử bé” trong thế giới trẻ thơ với bức

tranh đa màu sắc của tình yêu thương và gắn bó nghĩa tình; Phạm Hổ là những

vần thơ tươi mát, trẻ trung cùng nhiều yếu tố bất ngờ, ngộ nghĩnh; Võ Quảng

với hồn thơ sôi động và mang ý nghĩ giáo dục mạnh mẽ, thì văn chương Vũ

Hùng là những chiêm nghiệm và triết lí….

1.3. Nhưng xét về mặt nhu cầu của trẻ thơ và những gì văn học đã dành cho

lứa tuổi thần tiên này, trong bối cảnh xã hội và văn học hiện nay, văn học viết

cho thiếu nhi nói chung và truyện viết về loài vật nói riêng hầu như chưa được

sự quan tâm và đầu tư đúng như nó cần phải có. Các cây bút dường như ít để

2

tâm đến thế giới trẻ thơ đầy màu sắc. Chính vì lẽ đó, văn học thiếu nhi với mảng

đề tài loài vật đã và đang để lại nhiều khoảng trống cần lấp đầy.

1.4. Nhà văn Vũ Hùng với những tác phẩm văn học thiếu nhi nổi danh từ

những năm 60 của thế kỷ XX đã và đang hấp dẫn được thế hệ trẻ thơ bằng

những hình ảnh về thế giới thiên nhiên vừa kỳ ảo vừa chân thực nhưng lại làm

lay động trái tim con người. Một khoảng trời lung linh, rực rỡ sắc màu với cuộc

sống sôi động và náo nhiệt của thiên nhiên, muôn thú. Qua những tác phẩm của

mình, nhà văn Vũ Hùng đã tạo cho độc giả thiếu nhi nói riêng và chúng ta nói

chung hiểu biết thêm về một thời thiên nhiên, đất nước tươi đẹp và hiền hòa.

Trong bối cảnh văn học hiện nay, những trang văn của Vũ Hùng dành cho thiếu

nhi thật đáng trân trọng.

1.5. Bằng tâm huyết và tình cảm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã gắn bó và

dành cho thiếu nhi những tác phẩm mang dấu ấn riêng. Việc đánh giá và ghi

nhận vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi

nói riêng là thực sự cần thiết. Nó không chỉ ghi nhận vị trí của Vũ Hùng trong

dòng văn học dành cho thiếu nhi, mà còn làm rõ hơn những tâm tư nguyện vọng

của trẻ thơ qua sự say mê tác phẩm của ông để tìm ra những hướng tiếp cận đối

tượng đặc biệt này của văn học. Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định triển

khai đề tài nghiên cứu: Thế giới loài vật trong truyện viết cho thiếu nhi của

nhà văn Vũ Hùng.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nhà văn Vũ Hùng và các tác phẩm của ông đã được các nhà nghiên cứu,

phê bình văn học quan tâm:

- Bài “Nguyễn Thị Châu Giang xúc động khi đọc sách Vũ Hùng”của nhà báo

Dương Vân. Bà Nguyễn Thị Châu Giang là người biên soạn trực tiếp cho bộ

truyện của nhà văn Vũ Hùng. Bà nhận xét: “Càng đọc, tôi càng bất ngờ. Từng

trang sách dẫn tôi vào một thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn. Văn phong của

ông nhẹ nhàng, bảng lảng chuyển tải được lối sống gần gũi, giao hòa giữa con

người và tự nhiên. Đó là lối sống chậm, tuy có khi khó khăn vất vả nhưng rất

bình yên, sâu sắc. Tôi nghĩ nếu các đầu sách này đến được với bạn đọc nhỏ

tuổi hôm nay sẽ góp phần giúp ích cho các em rất nhiều trong việc hình thành

3

trí tưởng tượng, óc sáng tạo, hình thành tư duy ngôn ngữ, cũng như giữ gìn

một tâm hồn đẹp”[58]

- Bài “Nhà văn Vũ Hùng ẩn sau thiên nhiên là những bài học cuộc đời” đăng

trên báo An ninh thủ đô ngày 26/9/2015 của nhà báo Mai Anh đã khẳng định:

“Vũ Hùng là một con người với trái tim nhân ái, đôn hậu và có tình yêu sâu sắc

với thiên nhiên”. Bà cũng dẫn lời nhận xét của nhà nghiên cứu Vân Thanh:

“truyện của Vũ Hùng hấp dẫn thiếu nhi vì ông đã tạo nên cả thế giới vừa kỳ ảo,

vừa rất thực, đủ sức lay động trái tim của độc giả. Còn nhà báo Nguyễn Như

Mai thì cho rằng, đọc sách Vũ Hùng thấy cả một thế giới động vật cựa quậy,

sống động trong đó”[59]. Và ẩn sau thế giới của muông thú, những bầy hươu

nai, bầy voi, những con bò tót hùng dũng, lũ báo gấm uyển chuyển… là cả

những bài học sâu sắc của cuộc đời, dạy trẻ em yêu thiên nhiên, yêu quê hương

và yêu đất nước.

- Bài “Vũ Hùng: Nhà văn của rừng – thiên nhiên – muôn thú” của nhà báo Tân

An đã đưa ra các nhận xét của một số nhà văn: Trần Đức Tiến, Nguyễn Như

Mai, Trần Quốc Toản, Vương Trí Nhàn. Tất cả các lời nhận xét đều khẳng định

Vũ Hùng là một nhà văn có một vị trí đặc biệt trong mảng văn học thiếu nhi.

- Bài “Những bài học cuộc sống qua thiên nhiên trong các tác phẩm của nhà

văn Vũ Hùng” của nhà văn Tuyết Loan đăng trên báo Nhân dân ngày 28/9/2015

cũng đưa ra nhiều ý kiến đánh giá của các nhà văn về Vũ Hùng. Nhà văn Viết

Linh đánh giá cao sự hiểu biết của Vũ Hùng về phong tục của nhiều dân tộc, về

tập tính và cuộc sống thiên nhiên nhiều loài thú. Nhà văn Hà Phạm Phú nhận

xét: “Cuốn sách đầu tiên của Vũ Hùng mà tôi được đọc là “Mùa săn chim”, và

tôi đã có ấn tượng rất mạnh mẽ. Cách viết về thiên nhiên, về con vật trong các

tác phẩm của ông rất tinh tế và luôn có những bài học sâu sắc”[61]. Bà Lê Thị

Dắt, nguyên Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng chỉ ra bài học về tình yêu

thiên nhiên, đất nước đối với thiếu nhi qua những tác phẩm về muông thú của

nhà văn Vũ Hùng. Nhà văn Lê Phương Liên đưa ra một nét đặc biệt của Vũ

Hùng: để cho nhân vật của mình có cái nhìn trẻ em trong một môi trường người

lớn với cách kể chuyện rất bình dị nhưng rất hấp dẫn.

- Bài “Nhà văn Vũ Hùng – Người lưu giữ ký ức thiên nhiên Việt Nam” đăng trên

tạp chí Văn nghệ ngày 30/9/2015của nhà báo Phi Hà đã khẳng định rằng chính

4

những năm tháng sống tại đất nước Lào đã cho nhà văn Vũ Hùng những trải

nghiệm thực tế và vốn sống dồi dào để viết nên được những tác phẩm về thiên

nhiên, loài vật có giá trị sâu sắc.

- Bài “Tượng đài văn học thiếu nhi Vũ Hùng tái xuất” của nhà báo Tiểu Quyên

đăng trên báo Phụ Nữ online ngày 19/3/2015 đã chỉ ra bằng việc quan sát thiên

nhiên và tiếp cận thường xuyên với nhiều loài động vật nơi hoang dã, nhà văn

Vũ Hùng đã có được những câu chuyện về loài vật đầy sức cuốn hút.

- Bài “Nhà văn Vũ Hùng - Người kể chuyện thiên nhiên và muôn thú” đăng trên

báo Đại đoàn kết ngày 6/10/2015 của nhà báo Thư Hoàng, bài “Thiên nhiên bí

ẩn và kỳ thú qua trang sách của nhà văn Vũ Hùng”của báo Tin tức đăng ngày

24/9/2015 của nhà báo Mỹ Bình cũng đã đề cập tới vấn đề về tình yêu thiên

nhiên của nhà văn Vũ Hùng, lòng nhân ái và cuộc sống bình dị .

Các bài viết trên đưa ra nhiều ý kiến đánh giá tác phẩm của nhà văn Vũ

Hùng mới chỉ ở góc độ sơ lược về thiên nhiên và thế giới động vật mà chưa

thành hệ thống và chưa có cái nhìn tổng thể về sự nghiệp sáng tác cũng như nét

riêng trong mảng truyện viết về thế giới loài vật của nhà văn Vũ Hùng so với

các nhà văn khác. Tuy nhiên, đây là những ý kiến hết sức quí giá của những nhà

văn, nhà nghiên cứu, giúp cho tác giả đề tài có thêm sự định hướng trong quá

trình nghiên cứu

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu về thế giới loài vật trong sáng tác của nhà văn

Vũ Hùng và những triết lý cuộc sống được ông gửi qua những hình tượng nhân

vật đó.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Những tác phẩm đã xuất bản của nhà văn Vũ Hùng:

- Chú ngựa đồng cỏ, Nxb Kim Đồng, 2015

- Giữ lấy bầu mật, Nxb Kim Đồng, 2015

- Mái nhà xưa, Nxb Kim Đồng, 2015

- Bầy voi đen, Nxb Kim Đồng, 2015

- Con culi của tôi, Nxb Kim Đồng, 2015

- Sao sao, Nxb Kim Đồng, 2015

5

- Sống giữa bầy voi, Nxb Kim Đồng, 2015

- Con voi xa đàn, Nxb Kim Đồng, 2015

- Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Nxb Kim Đồng, 2015

- Những kẻ lưu lạc, Nxb Kim Đồng, 2015

- Biển bạc, Nxb Kim Đồng, 2015

- Các bạn của Đam Đam, Nxb Kim Đồng, 2015

- Phía Tây Trường Sơn, Nxb Kim Đồng, 2015

- Chim mùa, Nxb Kim Đồng, 2015

- Bí mật của rừng già, Nxb Kim Đồng, 2015

- Mùa săn trên núi, Nxb Kim Đồng, 2015

- Phượng hoàng đất Nxb Kim Đồng, 2015

- Vườn chim, Nxb Kim Đồng, 2015

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên việc phân tích các văn bản và từ

các ý kiến nhận xét để tổng hợp và đưa ra nhận định về từng vấn đề.

- Phương pháp liên ngành (Văn học – Văn hóa học): để thấy được tính liên

kết giữa văn học và đời sống thực tiễn.

- Thao tác nghiên cứu tài liệu, giải thích, bình giảng, phân tích để khám phá

vẻ đẹp và ý nghĩa của các tác phẩm.

5. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài nghiên cứu như trên, luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu

sau đây:

- Tìm hiểu về văn học thiếu nhi nói chung, truyện viết về thế giới loài vật

nói riêng và quá trình sáng tác của nhà văn Vũ Hùng

- Chỉ ra được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật mà nhà văn Vũ

Hùng đưa ra trong tác phẩm của mình.

Trên cơ sở đó, đánh giá và khẳng định những đóng góp của ông trong nền

văn học nước nhà. Đặc biệt là văn học thiếu nhi với mảng đề tài truyện viết về

loài vật.

6. Bố cục

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được chia làm ba chương:

Chương 1: Khái lược về văn học thiếu nhi và nhà văn Vũ Hùng

6

Chương 2: Thiên nhiên kỳ thú và những bài học cuộc sống trong các tác phẩm

viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng

Chương 3: Những đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác viết cho thiếu nhi của nhà văn

Vũ Hùng

7. Đóng góp của đề tài

Đề tài chỉ ra những đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong truyện viết về loài

vật của nhà văn Vũ Hùng. Từ những tìm hiểu về sự thành công của Vũ Hùng

trong dòng văn học này, tìm ra những hướng tiếp cận của văn chương dành cho

đối tượng thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần làm tư liệu

tham khảo cho việc tìm hiểu về văn học thiếu nhi và mảng đề tài truyện loài vật.

7

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI

VÀ NHÀ VĂN VŨ HÙNG

1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam

1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn học thiếu nhi được hiểu là: “Theo

nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa

học dành cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao

gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường cho người lớn

đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi”[12;385]. Ở đây, khái niệm văn học thiếu

nhi được đưa ra một các mơ hồ, mới chỉ xác định được đối tượng đó là thiếu nhi.

Theo cuốn Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam do hai tác giả

Vân Thanh và Nguyên An biên soạn, văn học thiếu nhi được hiểu như sau:

“Văn học thiếu nhi bao gồm:

- Những tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo

dục bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là

thiếu nhi và nhiều khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay

một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các

em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.

- Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm

thấy ở trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách

nghĩ cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở

trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích

lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong quá trình hoàn thiện tính cách của

mình. Như thế, văn học thiếu nhi là người bạn thông minh, mẫn cảm của thiếu

nhi [49;68]. Theo cách hiểu này, đối tượng của văn học thiếu nhi cũng đã được

xác định và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo dục, bồi dưỡng, định hướng

cho các em thiếu nhi. Người sáng tác văn học thiếu nhi là các nhà văn thuộc

mọi lứa tuổi.

Trong chuyên luận Thi pháp văn học thiếu nhi (2007), Bùi Thanh Truyền

cho rằng, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là

thiếu nhi hoặc được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, với tất cả những xúc cảm, tình

8

cảm mãnh liệt, tinh tế, ngây thơ, hồn nhiên. Tác giả đã nhận định nhân vật trung

tâm trong văn học thiếu nhi là trẻ em và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo

dục, bồi dưỡng và hoàn thiện tính cách. Vậy hai khía cạnh mà ông chỉ ra đó là

thẩm mỹ và giáo dục.

Vậy qua rất nhiều định nghĩa về văn học thiếu nhi, chúng ta có thể rút ra

được những đặc điểm chung như sau: Đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi

đó là trẻ em, đối tượng sáng tác là người lớn và trẻ em, mục đích sáng tác là giáo

dục, nuôi dưỡng tâm hồn, định hình tính cách cho trẻ em, điểm nhìn trần thuật là

điểm nhìn của thiếu nhi, thành phần bao gồm văn học viết cho thiếu nhi văn học

dành cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi hoặc văn học được thiếu nhi lựa chọn. Văn

học thiếu nhi đa dạng về thể loại và nội dung, nó cũng mang đầy đủ những đặc

điểm của sáng tác nghệ thuật ngôn từ và thực hiện các chức năng chung của văn

học. Do đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi chủ yếu là trẻ em nên nó có

những đặc trưng riêng dành cho trẻ em. Những đặc trưng này được quy định bởi

lứa tuổi trẻ em. Tổng hợp tài liệu ở các nguồn khác nhau, một là Giáo trình Văn

học hiện đại Việt Nam do tác giả Nguyễn Văn Long chủ biên, hai là bài viết Đặc

trưng của văn học cho thiếu nhi từ góc độ tiếp nhận (trích từ sách Văn học cho

thiếu nhi của hai tác giả Châu Minh Thùy và Lê Nhật Ký), ba là Giáo trình văn

học thiếu nhi của tác giả Lã Thị Bắc Lý, bốn là “Văn học thiếu nhi và những yêu

cầu đổi mới của sinh viên cao đẳng sư phạm”, chúng tôi xin tổng hợp đưa ra các

đặc trưng cơ bản nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam như sau:

- Sáng tác cho trẻ em phải được “nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ” phải xuất

phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên và trí tưởng tượng mãnh liệt của

trẻ em.

- Văn học thiếu nhi là tác phẩm mà các em “thấy” mình trong đó hoặc

“nói hộ mình”. Cách viết và cái hồn trong từng lời văn, từng câu thơ mới là nhịp

cầu thực sự để các em bước vào tác phẩm, bước vào thế giới của chính mình.

Phải viết bằng ngôn ngữ của các em thì các em mới dễ hiểu, dễ thuộc và ghi nhớ

lâu bền.

- Văn học thiếu nhi “có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện

nhân cách trẻ em về cả đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ”. Chính vì lẽ đó,

Văn học thiếu nhi không chỉ xây dựng nhân cách, nâng cao trí tuệ, tình cảm

9

thẩm mĩ mà còn giáo dục thiếu nhi về tư tưởng, rèn luyện lập trường kiên định,

vững chắc thông qua các câu truyện từ đời sống xã hội.

- Văn học thiếu nhi mang tính định hướng. Đời sống xã hội, tự nhiên là

tất cả những gì mới mẻ đối với trẻ em. Vì tâm lý các em về cơ bản là rất yêu cái

đẹp, cái tốt, cái thực nên các nhà văn cần nắm bắt tâm lí của các em để định

hướng các em thỏa mãn nhu cầu khám phá của mình một các tự nhiên nhất. Tâm

hồn trẻ thơ sẽ được gây ấn tượng bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị

nhân văn từ đó tác động đến nhận thức, tư tưởng và quan điểm của trẻ em.

- Bắt nguồn từ bản chất ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ em, văn học thiếu

nhi không thể thiếu đặc trưng về sự hồn nhiên, vô tư và trong sáng. Đặc tính này

tồn tại vĩnh cửu trong thế giới trẻ thơ, nếu mất đi trẻ thơ không còn là trẻ thơ

nữa. Những tác phẩm thơ, truyện do chính các em sáng tác bao giờ cũng thể

hiện những xúc cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo,…như chính bản tính của

trẻ thơ.

- Trẻ em nào cũng thơ mộng và lãng mạn. Đó là thiên tính rõ nét nhất của

lứa tuổi từ ấu thơ cho đến lúc thành niên. Chính vì vậy, Văn học Thiếu nhi sẽ

phản ánh đặc tính thơ mộng và lãng mạn đó của trẻ em một cách gần gũi với

hiện thực nhất.

- Một đặc trưng quan trọng đối với văn học thiếu nhi là tính li kỳ, ấn

tượng bởi trẻ em rất thích tìm tòi, khám phá, hiếu kì và phiêu lưu. M.Gorki đã

từng nhận định “bản chất của trẻ em là đặc biệt yêu thích những cái gì chói lọi,

phi thường”. Dưới con mắt trẻ thơ, chúng luôn yêu thích và muốn khám phá

những điều mới lạ. Văn học thiếu nhi mang tính li kỳ và ấn tượng sẽ rèn luyện

cho trẻ em khả năng tìm tòi và phát hiện cái mới. Đồng thời kích thích trí tưởng

tượng của trẻ thơ, đưa trẻ thơ đến với thế giới nhiều màu sắc của chân - thiện –

mĩ và nhiều ý nghĩa.

- Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Vì vậy tiếp xúc với văn học thiếu nhi, trẻ em sẽ được học tập một lượng ngôn

ngữ dồi dào. Từ đó các em sẽ hình thành và phát triển khả năng diễn đạt của

mình theo hướng tự hoàn chỉnh.

- Để có sức lôi cuốn và hấp dẫn trẻ em, Văn học thiếu nhi phải mang đậm chất

thơ và truyện. Những điều kì lạ sẽ có sức cảm hóa các em bởi chất thơ lấp lánh

10

và chất truyện thu hút. Tâm hồn, tình cảm, ước mơ và khát vọng của các em sẽ

được bồi dưỡng từng ngày theo tính thơ và tính truyện trong mỗi tác phẩm.

- Văn học thiếu nhi phải có tính hài hước, dí dỏm. Mỗi một tác phẩm viết cho

các em đều chứa đựng những tiếng cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và

trong sáng.

- Văn học thiếu nhi phải ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu. Nếu như thơ, văn viết

cho người lớn thường hướng tới cái gì đó cao xa, trừu tượng thì thơ, văn viết cho

trẻ em phải ngắn gọn, súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể

hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Trong

văn xuôi thường sử dụng những câu đơn, ngắn, vừa sức với khả năng tiếp nhận

của trẻ nhỏ; còn trong thơ, các nhà văn thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5

chữ, rất gần với đồng dao, vui nhộn, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dễ nhớ.

- Văn học thiếu nhi phải giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu. Những hình ảnh

đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh

động và có sức lôi cuốn, hấp dẫn các em.

Với các tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã đưa đến cho thiếu nhi

những tác phẩm có giá trị sâu sắc, đúng với những đặc trưng cơ bản của văn

học thiếu nhi. Qua đó giáo dục, định hướng phát triển tâm hồn và nhân cách

của trẻ thơ.

1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu

nhi ở Việt Nam

1.1.2.1. Thực trạng văn học thiếu nhi

Đối với mọi dân tộc, văn học thiếu nhi luôn là một bộ phận không thể

thiếu của văn học dân tộc. Trải qua thời gian, bộ phận văn học này dần dần thay

đổi toàn diện về cả nội dung lẫn hình thức. Theo nhà nghiên cứu Bùi Thanh

Tuyền có dẫn: “Văn học hiện đại viết cho thiếu nhi Việt Nam bắt đầu manh nha

từ những năm 20 của thế kỷ XX nhưng thực sự phát triển và trở thành một bộ

phận của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình

văn học thiếu nhi hiện đại có thể phân chia thành các giai đoạn chính sau đây:

- Trong những ngày đầu cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống

Pháp, lực lượng viết cho các em mới chỉ có một số nhà văn chuyên nghiệp thỉnh

11

thoảng có sách cho thiếu nhi như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn

Tuân...

- Từ năm 1954, đội ngũ viết cho thiếu nhi ngày càng phát triển nhanh... Đây là

chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam”. Có thể nói rằng,

cùng với sự thay đổi của điều kiện xã hội, văn học thiếu nhi cũng có những khởi

sắc mới mẻ và đạt được nhiều thành tựa to lớn.”. [55;42]

Các nhà nghiên cứu khoa học khác cũng khẳng định, văn học thiếu nhi manh

nha từ những năm trước cách mạng tháng Tám: “Văn học trẻ em Việt Nam thực sự

được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ

khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhưng sự chuẩn bị thì có từ trước đó”

[23;38]. Dựa vào các tài liệu tham khảo tìm hiểu được, văn học thiếu nhi chia làm

các giai đoạn sau đây:

a. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945

Đây là giai đoạn manh nha của văn học thiếu nhi. Trước khi có chữ quốc ngữ,

văn học dân gian có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển tâm lí của trẻ em. Những câu

truyện thần thoại, cổ tích như: Tấm Cám, Cây khế, Thạch Sanh... đã đưa trẻ thơ đến

với một thế giới tưởng tượng giàu sắc màu và lý thú. Bên cạnh đó, những lời hát ru

của mẹ cũng góp phần không nhỏ để nuôi dưỡng tâm hồn thế hệ thiếu nhi. Sau khi

chữ quốc ngữ ra đời và được sử dụng rộng rãi, văn học thiếu nhi có điều kiện để phát

triển:“Từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. Những

cuốn sách đầu tiên thuộc loại này là những cuốn sách có nội dung khoa giáo và đạo

lí: Sách học vần, sách bách khoa, sách về các quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện

ở Châu Âu thế kỷ XIV – XVI và đặc biệt phát triển ở thời khai sáng. Tính giáo huấn

được người ta coi là những đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho

đến giữa thế kỷ XIX, những tác phẩm viết dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài

phạm vi của văn học. Trong khi đó, những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại

đi vào phạm vi đọc của trẻ em, nhất là loại truyện viết theo các môtip dân gian, loại

cổ tích, một số tiểu thuyết và truyện thuộc thể loại phiêu lưu” [55;58]. Nhà nghiên

cứu Lã Thị Bắc Lý cũng khẳng định rằng, trong chế độ phong kiến, nước ta chưa có

sáng tác văn học dành cho thiếu nhi. Mãi đến đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân

phong kiến, qua những cuộc cách tân văn học theo xu hướng hiện đại hóa, văn học

cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Một số tác phẩm văn học nước ngoài được dịch

12

ra tiếng Việt như: Thơ ngụ ngôn của La Phôngten, truyện ngắn Peron... trong

nước cũng bắt đầu xuất hiện một vài tác phẩm như: Lên sáu, Lên tám (Tả Đà),

Đông Tây ngụ ngôn; Nhi đồng lạc viên (Nguyễn Văn Ngọc)... Những cuốn sách

này đều đưa ra những đạo lí làm người và định hướng nhân cách cho trẻ em. Đến

những năm 30 của thế kỷ XX, hai khuynh hướng văn học viết cho trẻ em được hình

thành. Thứ nhất là nhóm của Tự lực văn đoàn với các loại sách: Hoa hồng, Hoa

mai, Hoa xuân... nhưng những tác phẩm này gặp nhiều hạn chế trong phạm vi phản

ánh và xa rời thực tế. Thứ hai là nhóm hiện thực với các tác giả tiêu biểu: Nguyễn

Công Hoan, Tô Hoài, Tú Mỡ, Nam Cao... với các tác phẩm như: Tấm lòng vàng của

Nguyễn Công Hoan; Đám cưới chuột, Võ sĩ bọ ngựa, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô

Hoài; Người thợ rèn, Bài học quét nhà của Nam Cao... Nhóm hai đã có ý thức viết

cho trẻ em những tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nhìn chung, trước cách

mạng tháng Tám, các tác phẩm viết cho thiếu nhi mới xuất hiện tản mạn, lẻ tẻ và

chưa có phong trào. Nền văn học thiếu chi lúc này chưa được hình thành mà mới chỉ

đang ở những bước sơ khai ban đầu.

b. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)

Văn học thiếu nhi được quan tâm phát triển từ sau khi cách mạng tháng

Tám thành công. Đảng và nhà nước đã định hướng cho văn học thiếu nhi đạt

được những thành tựu đầu tiên. Trong tờ Thiếu sinh – tiền thân của báo Thiếu

niên tiền phong, ra số đầu tiên vào 1946, bác Hồ đã chỉ đạo rõ: “Báo trẻ em ra

đời, báo đó là của trẻ em. Vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi tin tức, tranh vẽ

và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho báo

phát triển”. Tháng 12/1946, số báo đặc biệt của báo Thiếu sinh ra đời với chủ đề

“Các em viết, các em vẽ”. Tờ báo này đã đánh dấu một dấu mốc quan trọng cho

lịch sử của văn học thiếu nhi Việt Nam. Bắt đầu từ đây, trẻ em đã có tờ báo dành

riêng cho mình. Tiếp theo đó là sự ra đời của một số tờ báo khác như: Thiếu

niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non, sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến...

những người bạn mới nhưng thân thiết của các em nhỏ, góp phần bồi dưỡng, rèn

luyện và giáo dục tư tưởng, tình cảm, vốn sống, đức tính và nhân cách cho thiếu

nhi. Với một nền văn học thiếu nhi non trẻ, sự ra đời của những tờ báo dành cho

trẻ em có giá trị to lớn. Trong giai đoạn văn học thiếu nhi vẫn còn thô sơ và ít ỏi,

nội dung chủ yếu hướng đến tấm gương thiếu nhi dũng cảm trong kháng chiến.

13

Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu như: Khen tặng hai cháu liên lạc trong

bộ đội chiến khu II (1947); Thư Trung thu (1952), Gửi các cháu nhi đồng

nhân dịp tết Trung thu (1953) của chủ tịch Hồ Chí Minh; Chiến sĩ canô của

Nguyễn Huy Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân cầu Mây của Nguyên

Hồng; Đời em đến của Đỗ Cao Đáng; Phác Kim Tố của Nguyễn Xuân Sanh…

Gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình phát triển nhưng giai đoạn này là chặng

đường mở đầu quan trọng và ý nghĩa đồng thời khẳng định văn học thiếu nhi sẽ

phát triển vượt bậc trong giai đoạn tiếp theo.

c. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955 – 1964)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc tiến vào thời

kì khôi phục kinh tế, hàn gắn viết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa Xã

hội, miền Nam thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống lại đến quốc

Mỹ và tay sai. Miền Bắc được hòa bình, đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự

phát triển văn học thiếu nhi nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Một tiểu

ban Văn học thiếu nhi trong Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật được thành lập.

Ngày 17/6/1957, nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập. Chính điều đó đã mở

ra bước ngoặt mới cho văn học thiếu nhi. Đội ngũ sáng tác có chỗ dựa về tinh

thần. Vấn đề sáng tác các tác phẩm giá trị cho thiếu nhi cũng được quan tâm. Từ

đây, đã xuất hiện những tác phẩm văn học có giá trị như: Đất rừng phương

Nam của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía của Bắc Thôn, Em bé bên

bờ sông Lai Vu của Vũ Cao, Cái Thăng của Võ Quảng, Vừ A Dính của Tô

Hoài… Đội ngũ sáng tác lẫn số lượng tác phẩm viết cho các em cũng đông đảo

hơn, phong phú hơn. Bên cạnh đề tài kháng chiến, đề tài lịch sử (Lá cờ thêu sáu

chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng, Sóng gió Bạch Đằng – An Cương, Quận He

khởi nghĩa – Hà Ân,…) các tác giả còn khai thác đề tài sinh hoạt, lao động, học

tập (Ngày công đầu tiên của cu Tí – Bùi Hiển, Những mẩu chuyện về bé Ly –

Bùi Minh Quốc, Đàn chim gáy – Tô Hoài…). Trong thời kì này, đội ngũ nhà

thơ viết cho các em rất hùng hậu, đặc biệt là Võ Quảng và Phạm Hổ. Nhìn

chung, trong thời kì này, văn học thiếu nhi Việt Nam đã phát triển khá toàn diện

và phong phú. Vào năm 1961, tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi lần đầu xuất bản.

Đó là tín hiệu mừng, báo hiệu sự khởi sắc của văn học thiếu nhi nước nhà. Số

lượng các tác phẩm ngày càng phong phú với các đề tài đa dạng:

14

+ Đề tài lịch sử: Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Kể chuyện Quang Trung

của Nguyễn Huy Tưởng; Sóng gió Bạch Đằng và Bố cái đại vương của An

Cương; Nhụy Kiều tướng quân của Yến Hồng, Hoài Ban...

+ Đề tài sinh hoạt, lao động, học tập: Đàn chim gáy của Tô Hoài; Nơi xa

của Văn Linh; Tổ tâm giao của Trần Thanh Địch; Ngày công đầu tiên của cu Tí

của Bùi Hiển...

+ Truyện đồng thoại: Cái tết của Mèo con của Nguyễn Đình Thi; Chú đất

nung của Nguyễn Kiên; Bê và sáo của Phạm Hổ...

Ngoài ra, một đội ngũ hùng hậu về thơ thiếu nhi cũng xuất hiện: Vũ Ngọc

Bình, Huy Cận, Nguyễn Bá Dậu, Thanh Hải, Tế Hanh, Thái Hoàng Linh, Võ

Quảng, Xuân Tửu, Nhược Thủy, Phương Hoa... Năm 1961, Nhà xuất bản văn

học cho ra đời Tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi 1945 – 1960 tuyển chọn và giới

thiệu 50 tác giả tiêu biểu, xuất sắc.

d. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975)

Trong bối cảnh đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc

bằng máy bay, văn học thiếu nhi bước vào chặng đường mới và phát triển mạnh

mẽ. Nhiều cây bút tài năng và các tác phẩm có giá trị xuất hiện nhằm mục đích

biểu dương, khích lệ, cổ vũ tinh thần học tập và chiến đấu của thiếu nhi. Các đề

tài không chỉ gói gọn như ở giai đoạn trước mà mở rộng và phong phú hơn.

- Đề tài kháng chiến chống Pháp: Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của

Xuân Sách; Quê nội của Võ Quảng; Kim Đồng của Tô Hoài...

- Đề tài kháng chiến chống Mỹ: Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng

nhà của Nguyễn Thi; Chú bé Cả Xên của Minh Khoa; Đàm Văn Luyện của

Phạm Hổ; Út Tám của Ngô Thông; Em bé sông Yên của Vũ Cận...

- Đề tài lịch sử: Sát Thát của Lê Văn, Nguyễn Bích; Trăng nước Chương

Dương của Hà Ân...

- Đề tài cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động: Chú bé sợ toán của Hải

Hồ; Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan; Năm thứ nhất của Minh Giang;

Những tia nắng đầu tiên của Lê Phương Liên; Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị

Như Trang; Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh Tú...

15

- Đề tài nông thôn: Cơn bão số bốn của Nguyễn Quỳnh; Xã viên mới của

Minh Giang; Những cô tiên áo nâu của Hoàng Anh Đường; Kể chuyện nông

thôn của Nguyễn Kiên; Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài...

- Truyện đồng thoại: Chú gà trống choai của Hải Hồ; Cô bé 20 của Văn

Biển...

- Mảng sách khoa học: Ông than đá và quả trứng vuông của Viết Linh;

Thảm xanh trên ruộng của Thế Dũng; Bí mật một khu rừng của Hoàng Bình

Trọng...

- Thơ cho trẻ em cũng tiếp tục phát triển mạnh mẽ với các tác giả mới

như: Đinh Hải, Xuân Quỳnh, Ngô Viết Dinh, Trần Nguyên Đào...

e. Thời kỳ đất nước thống nhất và đổi mới (sau năm 1975)

Xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới có nhiều tác động lớn đến văn học

thiếu nhi. Toàn Đảng toàn dân bắt tay xây dựng lại đất nước. Ở giai đoạn này,

văn học thiếu nhi phát triển mạnh mẽ và phong phú, đặc biệt từ dấu mốc năm

1986 khi Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam kêu gọi “cởi trói” đã

tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Qua

mỗi giai đoạn phát triển, văn học thiếu nhi có những đặc trưng riêng nhưng luôn

kế thừa những thành tựa ở giai đoạn trước. Trong giai đoạn 1975 – 1985, văn

học thiếu nhi với những kiếm tìm và chuẩn bị cho sự đổi mới. Đề tài kháng

chiến chống thực dân Pháp và chống Mĩ vẫn chiếm ưu thế: Quê nội của Võ

Quảng; Cơn giông tố của Thu Bồn; Đội thiếu niên tình báo Bát Sát của Phạm

Thắng, Hồi đó ở Sa Kì của Bùi Minh Quốc; Cát cháy của Thanh Quế... Bên

cạnh đó, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú trọng đế vấn đề

đạo đức con người. Một số tác phẩm như: Tình thương của Phạm Hổ; Bến tàu

trong thành phố của Xuân Quỳnh; Chú bé có tài mở khóa của Nguyễn Quang

Thân; Hành trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương...

Đề tài lịch sử ở giai đoạn trước thường khai thác lịch sử gắn với nhân vật

anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm nay được nhà văn Tô

Hoài mở ra một hướng nghiên cứu mới là hướng khai thác lịch sử gắn với huyền

thoại, phong tục, tập quán. Về thơ, giai đoạn này gần như bế tắc khi không tìm

được hướng đi mới. Bước sáng giai đoạn năm 1986 đến nơi, nhiều cây bút trẻ

xuất hiện: Trần Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn

16

Nhật Ánh, Hà Lâm Kì, Quách Liêu, Phan Hồn Nhiên, Phùng Ngọc Hùng,

Trương Hữu Lợi, Dương Thuấn, Mai Văn Hai, Thu Trân, Quế Hương, Nguyễn

Thị Châu Giang, Nguyễn Thúy Loan... Văn học thiếu nhi giai đoạn này thực sự

mang bộ mặt trẻ trung, tươi tắn, đầy sức sống và nhiệt huyết. Bên cạnh đó, làm

phong phú thêm cho đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi chính là các em thiếu

nhi. Có thể nói, đây là giai đoạn phát triển hùng hậu về đội ngũ sáng tác cũng

như đề tài sáng tác. Các tác phẩm văn học thiếu nhi với hướng tiếp cận mới mẻ,

sáng tạo và ngày càng đi sâu vào đời sống nội tâm của trẻ em.

+ Đề tài cách mạng và kháng chiến bên cạnh việc kế thừa và phát huy các

thành tựu cũ còn nhìn nhận và khai thác vấn đề ở chiều sâu mới, thực hơn, toàn

diện hơn. Ý nghĩa nhân văn của các tác phẩm hướng đến đời sống tinh thần và

nhân cách của con người. Chiến tranh qua đi, ý thức về cái tôi bên cạnh việc đổi

mới tư duy của Đảng cộng sản. Văn học từ chỗ lấy điểm nhìn xã hội làm hệ quy

chiếu chuyển sang cái nhìn đời tư, thế sự, số phận con người để đánh giá hiện

thực. Một số tác phẩm tiêu biểu: Tuổi thơ im lặng của Duy Khán; Dòng sông

thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng; Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán; Đường về

với mẹ chữ của Vi Hồng; Bà và cháu của Đặng Thị Hạnh; Miền xanh thẳm của

Trần Hoài Dương; Tiếng vọng tuổi thơ của Vũ Bão...

Trong giai đoạn này, mối quan tâm của các tác giả là trẻ em trong quan hệ

gia đình. Hàng loạt các tác phẩm ra đời: Út Quyên và tôi, Em gái của Nguyễn

Nhật Ánh; Năm đêm với bé Su của Nguyễn Thị Minh Ngọc; Kẻ thù của Quế

Hương, Chị của Cao Xuân Sơn, Bỏ trốn của Phan Thị Thanh Nhàn; Mảnh vỡ

của Lê Cảnh Nhạc; Ngày xưa của Trần Thiên Hương; Nhà không có bố của

Nguyễn Thị Mai...

Đối với trẻ em ở thành phố, các nhà văn quan tâm đến hai mảng hiện

thực: Cuộc sống của những trẻ em trong các gia đình khá giả và cuộc sống của

trẻ em trong các gia đình nghèo: Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh; Hoa trên

đường phố của Thu Trần; Kiềng ba chân của Đoàn Lư; Ngày khai trường

trong mơ của Kim Hài; Quả thị đi chơi của Nguyễn Hoàng Sơn; Bờ ve ran của

Mai Văn Hai; Con trâu của Thanh Thản; Nhà bác trống tía của Nguyễn Ngọc

Hưng; Làng em có điện của Lê Bính...

17

+ Đề tài miền núi phát triển với nhiều thành tựu: Y leng của Đào Vũ; Kỉ

vật cuối cùng của Hà Lâm Kì; Một lớp trưởng khác thường của Lương Tố

Nga; Truyền thuyết trong mây của Đào Hữu Phương; Chú bé thổi khèn của

Quách Liêu...

+ Viết cho lứa tổi hoa học trò là mảng đề tài khởi sắc. Các tác giả đã đi

sâu vào thế giới nội tâm phong phú, sâu kín cùng những rung động đầu đời (tình

yêu tuổi học trò) của trẻ em. Nhiều tác phẩm tiêu biểu: Bây giờ bạn ở đâu và

Hoa cỏ may ngày xưa của Trần Thiên Hương; Hương sữa đầu mùa của Lê

Cảnh Nhạc; Có gì không mà tặng bông hồng của Hồ Việt Khuê; Cô gái đến từ

hôm qua, Thằng quỷ nhỏ, Nữ sinh, Hoa hồng xứ khác...của Nguyễn Nhật

Ánh. Văn học thiếu nhi ngày càng được đề cao và mang tính chuyên nghiệp.

Bên cạnh đội ngũ sáng tác có ý thức, có lý luận còn có những nhà nghiên cứu

chuyên về văn học thiếu nhi. Tuy đội ngũ này chưa nhiều nhưng họ đã ra mắt

độc giả những công trình lí luận, nghiên cứu đáng trân trọng: Truyện viết cho

thiếu nhi dưới chế độ mới và Văn học thiếu nhi như tôi được biết của Vân

Thanh; Đôi điều tâm đắc của Vũ Ngọc Bình; Hoa trái mùa đầu và Mười năm

ghi nhận của Văn Hồng; Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 của Lã Thị

Bắc Kỳ; Thơ với tuổi thơ của Trúc Chi...

Bên cạnh sự đa dạng về đề tài, thể loại, văn học thiếu nhi còn đa dạng về

giọng điệu: “Trước năm 1975, văn học thiếu nhi khá nhất quán về giọng điệu...

đó là giọng văn xuôi theo xu hướng ngợi ca hướng về hiện thực cách mạng và

đại chúng nhân dân, diễn đạt kinh nghiệm cộng đồng với mong muốn giáo dục

các em trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, biết yêu tổ quốc, yêu

đồng bào,... Quá trình đổi mới đất nước, đổi mới văn học, đề cao ý thức cá nhân

đã tác động mạnh mẽ tới văn học thiếu nhi... Mặt khác, do cách tiếp cận đời

sống đa dạng, không bị khuôn vào một hướng duy nhất, văn học đòi hỏi cũng

phải đa dạng về giọng điệu mới có thể thể hiện được nhiều sắc thái khác nhau

của cuộc sống”[41;46]. Giọng điệu của văn học thiếu nhi sau 1975 khá đa dạng:

Giọng báo chí thông tấn, giọng suy tư triết lí, giọng tinh nghịch hóm hỉnh...

Từ giai đoạn này trở đi, hàng loạt các cuộc thi sáng tác văn học cho thiếu

nhi được tổ chức: Cuộc vận động sáng tác truyện và tranh truyện cho thiếu nhi

do NXB Kim Đồng tổ chức năm 1993 – 1995; Cuộc thi sáng tác truyện ngắn và

18

thơ cho trẻ em do ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam hội Nhà văn Việt

Nam kết hợp tổ chức với UNESCO tại Việt Nam phối hợp tổ chức... Trong giai

đoạn này, bên cạnh những tác phẩm viết trong nước, các nhà văn đã nhanh

chóng cập nhật theo lối viết truyện tranh, truyện nhiều tập... của nước ngoài. Có

thể thấy, văn học thiếu nhi Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựa đáng ghi nhận.

1.1.2.2. Thực trạng truyện viết về loài vật dành cho thiếu nhi ở Việt Nam

Một bộ phận quan trọng của Văn học thiếu nhi là truyện viết về loài vật. Xuất

phát từ những câu chuyện truyền miệng, truyện viết về loài vật còn được gọi là

truyện cổ tích loài vật hoặc truyện ngụ ngôn loài vật. Với sự phát triển của văn học

thiếu nhi, truyện viết về loài vật cũng có một lịch sử phát triển lâu dài và để lại nhiều

thành tựa trên các phương diện về nội dung và nghệ thuật. Vì là một bộ phận của văn

học thiếu nhi nên truyện viết về loài vật cũng có những giai đoạn phát triển của văn

học thiếu nhi.

Trước cách mạng tháng Tám, truyện viết về loài vật bắt đầu được chú ý mà

nổi bật nhất là các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài với truyện đồng thoại về loài vật:

Dế mèn phiêu lưu kí, Đám cưới chuột, Dê và Lợn, Trê và Cóc, Võ sĩ bọ ngựa, O

chuột... những truyện của ông có ý nghĩa đặc biệt mà theo giáo sư Nguyễn Đăng

Mạnh từng nhận xét: “là hình ảnh phản chiếu thế giới loài người” hay như Vũ Ngọc

Phan từng nói: “Truyện loài vật của Tô Hoài là những truyện tâm tình loài vật, của

những loài vật thấp hơn loài người... Nhưng truyện loài vật của Tô Hoài thường

phản chiếu cảnh sống của dân nghèo thôn quê... những tâm hồn giản dị, cả tâm hồn

vật lẫn tâm hồn người...”. Bên cạnh đó, cũng có các tác phẩm tiêu biểu khác như:

Con mèo mắt ngọc của Nam Cao; Vợ cóc, Con rắn, Cóc tía của Khái Hưng; Hang

thuồng luồng, Con rắn trắng của Ngọc Giao... Ở giai đoạn đầu, truyện viết về loài

vật mới chỉ là những câu chuyện loài vật với cốt truyện đơn giản và ít tình tiết.

Sau cách mạng tháng Tám, văn học thiếu nhi được quan tâm và phát triển

kéo theo sự phát triển của truyện viết về loài vật. Các tờ báo bắt đầu xuất hiện, tạo

chỗ đứng cho văn học thiếu nhi nói chung và truyện viết về loài vật nói riêng. Một

số nhà văn có đóng góp to lớn như: Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ, Thy Thy Tống

Ngọc... Nhưng ở giai đoạn này, mới có một số ít các tác phẩm truyện về loài vật

được đăng báo.

19

Sang giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, truyện loài vật tăng nhanh về số lượng

các tác phẩm xuất sắc. Có nhiều tác phẩm trong nước và cả nước ngoài. Đội ngũ nhà

văn đông đảo và bắt đầu chú ý đến nội dung, đề tài phản ánh. Truyện viết về loài vật

vẫn giữ đúng được phong độ phát triển. Các tác phẩm: Chú bò tìm bạn, Bê và sáo

của Phạm Hổ, Gà mái hoa của Võ Quảng, Cái tết của mèo con của Nguyễn Đình

Thi, Chú đất nung của Nguyễn Kiên...

Từ những năm 1975 đến đầu thập kỷ 80, xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ

đổi mới, văn học vì thế cũng có những chuyển biến đáng kể, truyện viết về loài vật

có những tìm tòi sáng tạo trên nội dung và hình thức. Một số tác phẩm tiêu biểu như:

Chuyến đi thứ hai, Bài học tốt, Trong một hồ nước, Hòn đá, Mèo tắm, Trai và Ốc

gai... của Võ Quảng, Đề tài được mở rộng, chính vì thế cuộc sống của con người

được khai thác thông qua thế giới nghệ thuật của loài vật. Ở giai đoạn này, truyện

viết về loài vật còn được thể hiện dưới hình thức truyện tranh với các tác phẩm tiêu

biểu như: Cá rô ron không vâng lời mẹ của Văn Hồng và Mai Long; Chú lợn đất

của Thy Thy Tống Ngọc...

Từ năm 1980 trở lại đây, hàng loạt các nhà văn tên tuổi trình làng tác phẩm

của mình về đề tài viết về loài vật: Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm Hổ, Ma Văn Kháng, Trần

Mạnh Hảo, Vũ Tú Nam, Nguyễn Nhật Ánh... Truyện viết về loài vật giai đoạn này

đạt được nhiều thành tựu về lực lượng sáng tác, số lượng tác phẩm, đề tài, nội dung,

phương diện phản ánh, độc giả với những tác phẩm có cốt truyện thú vị, chi tiết sinh

động và tiếp cận sâu với đời sống của con người. Trong quá trình sáng tác truyện loài

vật, các nhà văn rất chú ý đến việc nhân hóa loài vật. Chính vì lẽ đó, truyện viết về

loài vật trở nên li kỳ, thơ mộng và hấp dẫn bạn đọc. Thế giới loài vật mang tính đa

diện, vừa phản ánh đời sống loài vật, vừa là hệ quy chiếu cuộc sống của con người.

Trong chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật có nhiều

biến chuyển. Từ chỗ đơn giản về nội dung, cốt truyện đến sự đa dạng, sinh động về

đề tài, chi tiết truyện. Truyện viết về loài vật mang đậm tính nhân văn cao đẹp với

những suy nghĩ ngây thơ, trong trẻo và thánh thiện. Với sự đổi mới về nội dung, hình

thức, đề tài, thể loại đã giúp truyện viết về loài vật đạt được nhiều thành tựu đáng kể

góp phần vào diện mạo của văn học thiếu nhi.

20

1.2. Nhà văn Vũ Hùng – cuộc đời và sự nghiệp

1.2.1 Cuộc đời nhà văn Vũ Hùng

Nhà văn Vũ Hùng sinh 1931, quê tại làng Láng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

Hồi nhỏ, gia đình Vũ Hùng có một ngôi nhà nhỏ bên lưng dốc Cầu Giấy đông

vui tuy là vùng ngoại thành, cách xa cửa ô Kim Mã của Hà Nội tới ba cây số.

Nơi ông sống gần nghĩa trang Phúc Thiện nay là công viên Thủ Lệ. Bọn trẻ con

trong vùng không khiếp sợ trước bãi tha ma, mộ địa này mà chúng còn hứng thú

với những đêm rằm tháng Bảy với lễ chạy Đàn Tràng cầu siêu cho các vong

hồn. Quanh khu vực nhà ông có những quán hàng nước, hàng cơm, hàng tạp

hóa, tiệm vá chữa quần áo, tiệm sửa xe đạp... và trang trại có tên Arnaud của

một người Pháp. Quanh khu Cầu Giấy là một vùng di tích nổi tiếng với đền Voi

Phục, chùa Láng, chùa Hà, Mộ viên quan ba... Quãng thời gian gia đình sống ở

Cầu Giấy không lưu lại nhiều ký ức trong ông. Vũ Hùng chỉ nhớ có một lần vào

mùa đông nhà bị cháy, người vú em trông nom ông quấn ông vào một tấm chăn

chạy sang bên kia đường đứng dưới chân trang trại Arnaud. Năm 1939, gia đình

Vũ Hùng rời căn nhà chật hẹp bên lề Cầu Giấy để dọn về căn nhà mới xây ở đầu

đường Láng, bên bờ sông Tô Lịch. Vùng đất mới này rộng rãi và cao ráo hơn

nơi ở cũ, dốc thoai thoải xuống những luống rau muống ven sông, nơi sau vụ hè

nở đầy những vầng hoa trắng. Hồi ấy, sông Tô Lịch là một dòng sông tuy nhỏ

hẹp nhưng lại trong xanh và thơ mộng. Ngôi nhà mới của nhà văn Vũ Hùng chỉ

có một tầng triệt nhưng không còn chật hẹp mà nhiều phòng, có vườn rộng và

sân rộng, có giếng nước và một khu vực dành cho kinh doanh sản xuất. Mẹ của

nhà văn mướn một số thợ sản xuất vàng giấy, một loại vàng mã để đốt cho

người đã khuất, dưới cõi âm. Đó là nghề nghiệp chính của mẹ ông. Mẹ ông kinh

doanh nghề này 5 năm, chẳng những nâng cao thu nhập cho gia đình mà còn mở

cho nhà văn Vũ Hùng những chân trời mới: hè đến nhà văn Vũ Hùng được cùng

chị cả vào Nghệ An, Huế để thu tiền giúp mẹ và nghiên cứu thị trường. Ngôi

nhà mới của ông ở đối diện ngôi nhà của một người Ấn Độ có người vợ là người

Việt và một đứa con gái mang dòng máu lai. Cách đó, xuôi về phía chùa Láng là

nhà của ông Tú Mỡ. Việc kinh doanh của mẹ ông rất thuận lợi và phát đạt. Năm

1940, cha mẹ ông quyết định xây khu nhà mới trên một vùng đất trên lề đường Láng rộng chừng 1000m2. Khu nhà mới của gia đình ông gồm một ngôi nhà lớn

21

hai tầng mang tên biệt thự Song An và một ngôi nhà một tầng cho nhà thơ Thế

Lữ thuê và được nhà thơ đặt tên là biệt thự Gió bốn phương: “Ngôi nhà mới

khang trang và khoáng đạt. Tầng dưới có mái hiên rộng rãi, tầng trên có buồng

học mở ra gác sân... Ngôi nhà nằm trong khu vườn rộng thênh thang, cổng

ngoài được treo biển Song An, giữa giàn hoa tigon phơn phớt hồng rồi sau thay

bằng dàn hoa ớt lung linh màu vàng đỏ. Đường vào tới bậc cửa lên phòng

khách trồng một hàng tường vi, mùa tháng năm nở hoa rực rỡ. Giàn hoa móng

rồng che phủ hàng hiên phía Tây...” [20;6].

Từ năm 1939 – 1942, Vũ Hùng học lớp Đồng Ấu đến Sơ đẳng tại trường

tiểu học Phủ Hoài Đức. Đây là trường duy nhất trong vùng Cầu Giấy, cách nhà

ông 2 km. Năm 1942 – 1944, học hết lớp Sơ đẳng ông thi đậu bằng Sơ học yếu

lược rồi vào học trường tiểu học Sinh Từ I ở ngoài Hà Nội (Nay là trường tiểu

học Lý Thường Kiệt). Tháng 9 – 1944, Vũ Hùng đậu khóa tuyển sinh cuối cùng

vào trường Bưởi (sau đổi tên thành trường Chu Văn An), học lớp Đệ Lục ngành

cổ điển. Mùa hè năm 1944, quân lính Nhật chiếm biệt thự Song An. Gia đình Vũ

Hùng phải đi ở nhờ khắp nơi. Ba tháng sau, lính Nhật kéo đi, để lại ngôi nhà bừa

bộn, bẩn thỉu. Mùa Đông năm sau, quân Tàu Tưởng sang. Trên đường hành quân,

trước khi vào thành phố, chúng thường tạm nghỉ tại ngôi nhà Song An. Đêm 19

tháng 12 năm 1946, cuộc trường kỳ kháng chiến bùng nổ: “Pháo đài Láng bắn

những quả đại bác đầu tiên vào các vị trí quân Pháp trong thành Hà Nội. Từ phía

Láng Trung nơi đặt pháo đài, chớp bùng lên, tiếp sau là những tiếng nổi như sấm

sét làm rung chuyển các khung cửa kính...”[20;16]. Mẹ ông cùng chị hai và các

em nhỏ tản cư lên phía Tây Sơn, cha ông theo cơ quan sơ tán về phía Khúc Thủy.

Chỉ có anh em Hoàng và con chó Nica ở lại Song An. Hồi ấy, anh em Hoàng

được phân công đi vận động người làng tản cư, không ở lại với địch và đi kẻ khẩu

hiệu địch vận: “Suốt ngày tay xách thùng vôi, tay mang chổi lông, họ đi kẻ những

khẩu hiệu rất lớn trên mặt đường và trên các bức tường chưa đổ”. [20;20]. Sau

đó, anh trai Vũ Hùng gia nhập đoàn thanh niên xung phong còn Vũ Hùng đến nơi

tản cư với gia đình: “Song An, ngôi nhà hai lần bình an, vẫn còn trơ trơ đứng đó.

Tường bê tông dày quá, Song An không đổ. Tạm biệt Song An! Tạm biệt! Chỉ là

tạm biệt thôi! Hẹn ngày trở lại!”. [20;23].

22

Chín năm sau, kháng chiến thắng lợi, gia đình Vũ Hùng trở về ngôi nhà

cũ: “Cây phù dung trước ngõ không còn nữa, thay vào đó ai đã trồng một cây

xoan. Giàn hoa ớt, rặng tường vi và giàn móng rồng đều đã chết nhưng trong

góc sân cây ngâu lấm tấm hoa vàng vẫn đứng đó, bình thản nhìn cuộc đời biến

động. Vắng giàn hoa ớt, cổng ngõ Song An hiu hắt buồn trong ngày đông giá

lạnh, khi cây xoan – cây sầu đông - rụng lá, chỉ còn trơ lại những cành khô. Mẹ

Hoàng thuê trát các hốc tường ngày xưa bị đục vỡ. Các cửa sổ được xây kín

bằng cót. Ngôi nhà loang lổ vì không được quét vôi lại. Mẹ chỉ có khả năng làm

đến đó. Bên trong những vết rộp trên nền và trên tường vẫn y nguyên. Tay vịn

cầu thang cháy rụi, không thay mới được, lên lầu phải đi sát một bên mép tường

cho khỏi ngã. May sao trên lầu, bàn thờ và mọi đồ thờ còn nguyên, chỉ thiếu tấm

chân dung khảm sà cừ của ông nội. Tủ sách vẫn còn tuy đã mất hết sách. Cha

mẹ Hoàng không nghĩ tới việc treo lại biển Song An. Dạo ấy vùng ngoại thành

sắp cải cách ruộng đất và nội thành rục rịch cải tạo công thương nghiệp”.

[20;25]. Giai đoạn này, Vũ Hùng học thêm được hai năm, đậu Trung học phổ

thông và học dở dang năm thứ hai Chuyên khoa Toán, Lý, Hóa...

Năm 1950, ông nhập ngũ và học tại trường Thủy quân Việt Nam sau đó

thuyên chuyển sang Cục thông tin liên lạc. Vì đã được huấn luyện quân sự, Vũ

Hùng được cử chỉ huy một tiểu đội thuộc lớp Cán sự Trung cấp Vô tuyến điện.

Tiểu đội do ông phụ trách có ba đội viên nữa. Sau này một trong ba đội viên nữ

đó đã giúp ông biên tập lại những cuốn sách mà ông gửi in tại nhà xuất bản Kim

Đồng. Năm 1951, Vũ Hùng chuyển sang trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn.

Năm 1952 – 1956, Từ Việt Bắc, đại đội của ông được tung đi các chiến trường.

Ông được đi sang Lào để tăng cường cho điện đài trung Đoàn quân Tình nguyện

Việt Nam tại trung Lào: “Những cánh rừng mịt mùng phủ kín sườn núi, đầy gai

góc và chằng chịt dây leo, nhường chỗ cho rừng phẳng bát ngát, xen lẫn những

khoảng ruộng lúa nước. Tầm mắt rộng thênh thang, thỉnh thoảng mới bị vướng

vì một dãy lèn đá chơ vơ nhô lên từ đâu đó. Chỉ vượt khỏi Trường Sơn, bề ngang

không quá 100 cây số, Hoàng đã bước vào một nền văn hóa rất khác biệt. Nền

văn hóa của một vùng đất cổ sơ, chưa bị các cuộc chiến tranh liên miên xâu xé,

tàn phá. Nền văn hóa của Bình Yên, của Nghỉ Ngơi, của Yêu Đương”[20, 96].

Năm 1956, Vũ Hùng xin giải ngũ và về đi học. Ngày 24/11/1956, Vũ Hùng lập

23

gia đình và thế hệ mới được ra đời trong biệt thự Song An. Năm 1984, ông làm

Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Văn hóa. Từ 1989 ông định cư tại Pháp và

tháng 5.2014 về nước sống những năm cuối đời. Nhà văn nhiều lần định về thăm

mộ bố mẹ nhưng chưa đi được vì bệnh tim.

Cuộc đời ông đã từng trải những biến động thăng trầm. Từ tuổi niên thiếu

14,15 đã chứng kiến những biến động của thời cuộc, gia đình ly tán. Tuổi thanh

niên đã trải qua đời chiến sĩ, đi học trong nhà trường của quân đội bên nước bạn

Trung Quốc, rồi từng làm chiến sĩ điện báo, sống ở Lào, ở Trường Sơn, ở vùng

núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Hòa bình lập lại, có thời gian làm kỹ sư điện, có khi

làm nhà văn, nhà báo, biên tập viên… từng có lúc là cán bộ quản lý cấp vụ ở Bộ

Văn hóa, rồi lại sống ở trời Tây, làm đủ mọi nghề trong 20 năm ở Pháp. Ông đã

dành tất cả sự nghiệp của mình để viết cho trẻ em, về muông thú, thiên nhiên.

Trải qua đời lính đã chứng kiến biết bao sự mất mát, hy sinh nhưng ông không

viết về chiến tranh mà dùng hết tài năng và tâm huyết để miêu tả đời sống của

những con vật hoang dã để dành cho thiếu nhi một món quà quý giá nhất. Văn

thơ ông cũng mang những nét duyên và sự tình cờ như chính cuộc đời ông....

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vũ Hùng

Mỗi trang văn của nhà văn Vũ Hùng là một bài học quý giá để khơi gợi và

phát huy những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Từ 1960 đến 1989, ông in

40 đầu sách tại nhiều NXB trong nước. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra

tiếng Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc… Cuốn sách đầu tay, Mùa săn trên núi do

NXB Kim Đồng ấn hành năm 1960; Sao Sao (1982) và Sống giữa bầy voi

(1986) từng đoạt giải Văn học thiếu nhi. Tháng 8.2014, nhà văn Vũ Hùng đã ký

kết bản quyền với NXB Kim Đồng về việc xuất bản hơn 30 tác phẩm của nhà

văn Vũ Hùng, trong đó có nhiều tác phẩm được coi là kinh điển của văn học

thiếu nhi Việt Nam như: Mùa săn trên núi, Giữ lấy bầu mật, Con cu li của tôi,

Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Sao Sao, Các bạn của Đam Đam, Sống

giữa bầy voi, Chú ngựa đồng cỏ, Những kẻ lưu lạc, Con voi xa đàn, Vườn

chim, Phượng hoàng đất, Biển bạc... Các tác phẩm truyện của ông đều hướng

tới thiên nhiên và muôn thú. Nhưng qua đó là những triết lý và bài học cuộc

sống. Bộ 18 tác phẩm văn học thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng được vinh danh

tại giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2017. Bộ sách viết về muôn thú, rừng núi

24

và thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. Những tác phẩm của ông còn có giá trị

giáo dục cho trẻ em nhiều thế hệ. Bộ sách của nhà văn Vũ Hùng từng nhận giải

thưởng Sách Việt Nam do Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức năm 2016. Lúc đó,

bộ sách mới xuất bản được 12 cuốn, và nhận giải ở hạng mục Giải Vàng Sách

hay – Giải thưởng Sách Việt Nam 2016 với điểm cao tuyệt đối – 100 điểm. Có

thể khái quát nội dung 18 tác phẩm đã đạt giải thưởng của Vũ Hùng như sau:

Truyện Phía Tây Trường Sơn là hành trình đầy hiểm nguy, gian nan

nhưng thú vị của những người lính trẻ để đi sang nước bạn Lào học làm quản

tượng – điều khiển voi. Qua cuộc hành trình này, người đọc được ngắm nhìn

thiên nhiên Trường Sơn ở góc độ hùng vĩ, thơ mộng qua cái nhìn của ba người

lính đồng thời được hòa tâm hồn mình vào các phong tục, tập quán của người

dân bản địa mà cụ thể là dân tộc Lào. Trải qua thời gian, họ đã trở thành những

người quản tượng giỏi, có lòng yêu thương và thấu hiểu loài voi.

Truyện Các bạn của Đam Đam là câu chuyện tình bạn xúc động giữa cậu

bé Đam Đam 13 tuổi và chú chó Phay Phay. Cả hai lớn lên bên nhau và bắt đầu

những cuộc đi săn trong rừng sâu hoang dã. Rồi Đam Đam và Phay Phay cứu

sống chú khỉ Xa – ni thoát khỏi nguy hiểm. Cả ba đã trở thành bạn bè và cùng

nhau có những kỉ niệm khó quên. Bên cạnh câu chuyện tình bạn giữa người và

vật sống động, tác phẩm còn khắc họa sắc nét cuộc sống gắn bó với thiên nhiên

của con người Tây Nguyên.

Truyện Chim mùa là cuộc sống, sinh hoạt, nếp nghĩ, ước mơ của trẻ em

dân tộc hiện lên vô cùng phong phú, chân thực và sống động. Không những thế,

theo từng dòng văn tài hoa, độc giả sẽ được dẫn vào khung cảnh thiên nhiên kì

vĩ, thơ mộng để thêm một lần mến yêu hơn, say mê hơn với thiên nhiên và con

người trên dải đất Trường Sơn.

Truyện Bí ẩn rừng già: Bằng vốn kiến thức sâu rộng về thiên nhiên

muông thú của mình, nhà văn Vũ Hùng khắc họa thật chi tiết những nguyên tắc

và bí ẩn của rừng – cách để các loài vật sinh tồn, phát triển và sống nương tựa

cùng nhau trong một môi trường thiên nhiên hoang dã mà cụ thể là đời sống của

loài voi, bầy hươu nai, hổ báo, tê giác...

Truyện Phượng hoàng đất là những câu truyện về loài vật trong trẻo và

nên thơ đến lạ kì. Từng câu từng chữ của nhà văn Vũ Hùng thấm đượm hơi thở

25

núi rừng từ cành cây ngọn cỏ, hòa mình vào đời sống thật kì thú và đáng yêu của

loài vật.

Truyện Biển bạc nói về vùng Biển Việt Nam với biết bao nhiêu điều kì bí.

Mỗi một loài như: trai, ốc, đồi mồi, cua, tôm…. đều là những câu chuyện độc

đáo và bất ngờ. Biển bạc không chỉ cung cấp lượng kiến thức dồi dào về sinh vật

biển Việt Nam, mà còn mở ra những khung cảnh kì vĩ, đầy chất thơ cùng chân

dung những con người gắn bó cuộc đời với biển cả quê hương.

Truyện Mùa săn trên núi: Hình ảnh về một thời rừng núi còn hoang sơ

với đời sống săn bắt và “du canh, du cư” của những con người miền núi sống

động, hào hùng, có lúc nghẹt thở trong cuộc chiến tay đôi giữa người và thú dữ,

nhưng vẫn thấm đẫm một bầu không khí trong veo, đầy thơ mộng, cuốn sách đã

lột tả được cuộc sống của người miền núi một cách tinh tế và chân thực.

Truyện Chú ngựa đồng cỏ là câu truyện kể về Antai – chú ngựa non vùng

thảo nguyên Mông Cổ, đang sống một cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của

mình thì bỗng một ngày bị bán cho một rạp xiếc ở Việt Nam. Antai đã phải học

cách thích nghi với môi trường sống mới và những người bạn mới.

Truyện Người quản tượng và con voi chiến sĩ kể về vùng núi Trường

Sơn. Một đêm mưa bão. Ông cháu Đik may mắn bắt được con voi con lạc đàn.

Tên nó là Lôm – Luông. Nó rất khôn và thông minh. Sau một thời gian dạy dỗ,

Lôm – Luông đã biết nghe hiệu lệnh người và biết làm việc, đi săn. Đik cũng

trưởng thành và trở thành người quản tượng thực thụ. Họ cùng nhau đi qua chiến

tranh, làm công tác vận tải trong vai trò là người quản tượng và con voi chiến sĩ.

Truyện Những kẻ lưu lạc là câu chuyện về Kratiê, cô chó Nhật – lưu lạc

đầy tài năng. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình chủ lương thiện, Kratiê sống

hạnh phúc, bình an bên cạnh mẹ và anh trai. Thế nhưng sóng gió đã xảy đến

khiến cô phải rời xa gia đình và sống một cuộc đời lang bạt, khó khăn. Rồi cô

được nhận vào một rạp xiếc và trở thành một cô chó xiếc giỏi.

Truyện Sao sao: Rời quê nhà, nơi nguồn thức ăn đã bắt đầu cạn kiệt, Sao

Sao và người bạn thân Nai Bông lên đường với mong ước tìm ra được một vùng

đất mới màu mỡ, tươi xanh hơn để đưa dân làng hươu tới trú ngụ. Cuộc ra đi trải

qua bao gian khổ, đắng cay, có cả máu và nước mắt với nhiều nguy hiểm rình

26

rập. Cuối cùng Sao Sao cũng tìm được một vùng đất mới, màu mỡ cho bầy đàn

của mình sinh tồn.

Truyện Giữ lấy bầu mật là hình ảnh về cuộc sống của những người đồng

bào dân tộc miền núi mộc mạc, chân chất. Qua đó thấy được cách sinh hoạt, tập

tục, những thói quen, những khung cảnh vô cùng sống động, dữ dội mà rất nên

thơ của thiên nhiên, núi rừng.

Truyện Bầy voi đen kể về cuộc sống sinh tồn và hành trình của một bầy

voi trên dải đất Trường Sơn qua đó thấy được thiên nhiên kì bí, động vật hoang

dã dữ dội và nguy hiểm.

Truyện Con cu li của tôi là một câu chuyện xúc động về tình cảm của một

người chiến sĩ với con cu li – người bạn rừng đã theo chân anh đi khắp nẻo, gắn

bó với anh và giúp anh vượt qua nhiều nguy hiểm. Thế nhưng, tiếng gọi của

thiên nhiên từ nơi hoang dã luôn luôn là tiếng gọi da diết nhất, quyến rũ nhất.

Cuối cùng con cu li bé bỏng đã chạy theo tiếng gọi tha thiết của núi rừng và bỏ

lại sau lưng tình cảm chân thành của người lính trẻ.

Truyện Vườn chim là câu chuyện về những loài chim khác nhau. Qua đó

thấy được sự đa dạng và phong phú của chúng đồng thời người đọc sẽ hiểu thêm

về bản năng kiếm ăn, đặc tính và môi trường sống của mỗi loài chim.

Truyện Con voi xa đàn: Sống một tuổi thơ hạnh phúc nhưng ngắn ngủi,

con voi Bê đã mất mẹ và phải sống nương tựa vào bầy đàn của mình. Trải qua

bao thăng trầm, trải qua bao bất hạnh, cuối cùng nó cũng tìm thấy được hạnh

phúc và vinh quang.

Truyện Mái nhà xưa là những câu truyện kể về chính gia đình của nhà

văn Vũ Hùng. Ông đã đặt hết tình yêu thương, lòng nhiệt huyết để nói về gia

đình mình một cách chân thực và sống động. Những cảm xúc bồi hồi, da diết

của một con người đã trưởng thành, trải qua thời cuộc và cuối con đường muốn

dừng chân nhìn ngắm lại quá khứ được thể hiện một cách day dứt, buồn thương

và rất nên thơ.

Truyện Sống giữa bầy voi là cuốn sách được viết bằng trải nghiệm sâu

sắc, tình cảm nhân hậu của tác giả gửi gắm vào thiên nhiên, núi rừng Trường

Sơn. Cuộc sống của con người bên cạnh loài voi yêu quí đã khắc họa một thế

27

giới loài voi rất chân thực, sinh động và mang đến bài học ý nghĩa, những thông

điệp rất người.

Các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng mang những giá trị về đạo đức to lớn

đúng như nhà nghiên cứu Lê Phương Liên đã từng nhận định: “Nhà văn Vũ

Hùng sống giữa thời gian khó khăn của lịch sử đất nước, ông đã biết tìm ra cho

mình một hướng đi đúng đắn cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Từ những trang

văn đầu tiên và chắc là đến những trang văn cuối cùng, ông trung thành với con

đường đi của mình, con đường yêu thương tha thiết thiên nhiên và muôn loài,

con đường đề cao phẩm chất Thiện, cái Đẹp nội tâm của con người hồn nhiên

gắn bó với loài vật nguyên sơ. Văn của ông nhẹ nhàng như sợi tơ mà sức mạnh

có thể như cơn gió lớn khiến cả rừng sâu, núi thẳm rung vang lên tiếng”. [65]

28

* Tiểu kết:

Ở mỗi giai đoạn của xã hội, văn học thiếu nhi nói chung và truyện viết về

loài vật lại có những nét riêng phù hợp với từng bối cảnh cuộc sống. Trong hành

trình phát triển của mình, văn học thiếu nhi ngày một đổi mới về nội dung, ý

tưởng, cách thức, phương thức biểu đạt với đội ngũ sáng tác đông đảo. Mỗi tác

phẩm là cả một thế giới diệu kì để trẻ em hoàn thiện tâm hồn và nhân cách. Vũ

Hùng là nhà văn với nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị dành cho thiếu nhi.

Ông là một “hiện tượng” đầy trân trọng trong bối cảnh nền văn học thiếu nhi

đang thiếu vắng những cây bút mới có khả năng hấp dẫn người đọc.

29

CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN KỲ THÚ VÀ NHỮNG BÀI HỌC

CUỘC SỐNG TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT CHO THIẾU NHI

CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG

2.1. Tình yêu và cuộc sống

2.1.1. Những trật tự rừng xanh

Trong thế giới loài người, “Trật tự hay trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự

hoạt động ổn định hài hòa của các thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật

tự xã hội nhằm duy trì sự phát triển xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội

là các thiết chế xã hội. Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội,

tính chuẩn mực của các hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội

đạt được sự ổn định, cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác

động của các yếu tố bên trong và bên ngoài.”[66]. Có trật tự, con người mới làm

việc, hoạt động và sinh sống một cách khuôn khổ, ổn định. Từ “Trật tự” trong

từ điển Tiếng Việt theo hướng danh từ có nghĩa là sự sắp xếp theo một thứ tự,

quy tắc nhất định, là tình trạng ổn định, có tổ chức, có kỉ luật. Còn theo hướng

tính từ là có trật tự, ổn định, không ồn ào. Một tổ chức muốn hoạt động được

hiệu quả cần phải có trật tự, một tập thể muốn phát huy hết sức mạnh cũng cần

có trật tự. Đấy là trong thế giới con người, còn thế giới loài vật thì sao? Trật tự

có được hình thành và sắp đặt?

Luật lệ, nói khái quát là “pháp luật và những điều đã thành lệ mà mọi

người trong xã hội phải tuân theo”. Trong tự nhiên, “Luật tự nhiên hay luật của

tự nhiên (tiếng Latinh lex naturalis) là hệ thống luật được xác định bởi tự nhiên,

do đó có tính phổ quát”[66]. Đây là quy luật tồn tại độc lập với luật lệ được đặt

ra bởi một trật tự chính trị, xã hội hay một quốc gia. Đây là một thuật ngữ vừa

được sử dụng trong triết học vừa sử dụng trong luật học. Lý thuyết về luật của tự

nhiên được Aristotle đề cập lần đầu tiên. Ông cho rằng trong tự nhiên đã có sẵn

những quy luật, luật lệ và công lý, và con người tốt nhất là phải soạn thảo những

quy luật tuân theo luân lý của tự nhiên. Mặc dù ông cho rằng một xã hội chính

trị hoàn hảo có thể không cần đến pháp luật, nhưng nếu cần đến pháp luật thì

pháp luật tự nhiên sẽ là pháp luật tốt nhất.

30

Học thuyết luật tự nhiên được tiếp tục phát triển trong bối cảnh Ki-tô

giáo bởi Thánh Thomas Aquinas. Ông gắn quan điểm về luật tự nhiên với Thiên

chúa giáo. Theo ông, luật có bốn loại: Ý Chúa, Luật tự nhiên, Luật của con

người. Luật thiêng liêng St Thomas Aquinas cho rằng Luật ý Chúa là luật có giá

trị cao nhất, quyết định sự tồn tại của vạn vật. Luật Tự nhiên là sự tham gia của

con người vào Luật ý Chúa. Do vậy, Luật Tự nhiên phải tuân thủ theo nguyên

tắc: cái xấu phải tránh, cái tốt phải được thực hiện. Luật của con người là sự áp

dụng Luật Tự nhiên của các Chính phủ vào Xã hội. Luật Thiêng liêng là những

gì được ghi ở Kinh Thánh.

Nhà văn Vũ Hùng cho rằng:“Cuộc sống nào cũng có những luật lệ riêng.

Cuộc sống trong rừng cũng vậy. Do lấy những nền tảng của xã hội loài người

làm thước đo để suy đoán, lâu nay người ta vẫn cho luật rừng là luật lệ tàn khốc

của sự hỗn độn, của cuộc giành giật để sinh tồn, một cuộc đấu tranh quyết liệt

đến mức không dung tha để giành lấy khoảng không gian và những ưu thế tồn

tại, thú dữ ăn thịt thú lành, thú lớn lất át và tiêu diệt thú bé”[32;15]. Con người

dựa vào những suy đoán chủ quan của mình để áp đặt lên thiên nhiên những suy

nghĩ có phần hơi tiêu cực, “người ta quen coi luật rừng là luật của sức mạnh”.

Luật rừng không hẳn chỉ có như thế. Sự cạnh tranh sinh tồn là một đặc

tính của rừng xanh nhưng bên cạnh đó còn có những khía cạnh, đặc tính khác đã

được nhà văn Vũ Hùng nhìn nhận theo góc độ văn chương của mình khi nghiên

cứu về loài vật. Theo ông, luật rừng trước hết là sự khôn ngoan và sự khôn

ngoan này nhằm mục đích duy trì sự tồn tại của chính mình và dòng giống.

Không giống như loài người, “loài thú không có máu anh hùng, không bị ngoại

cảnh kích động. Kể cả những loài có sức mạnh nhất bao giờ cũng muốn nhìn

thấy kẻ khác nhưng lại không muốn kẻ khác nhìn thấy mình. Vì thế không khi

nào chúng gây gổ vô ích để lộ sự có mặt của chúng”[32,58]. Có thể thấy chúng

khác so với loài người. Loài người thường thích gây chú ý và hiếu chiến. Dù yếu

hay mạnh, họ cũng tỏ ra là mình quan trọng nên xã hội loài người thường mang

màu sắc của sự đố kỵ. Đến cả những con hổ trong truyện của Vũ Hùng cũng đều

khôn ngoan: “Nó không bao giờ ỷ vào sức mạnh để cho phép mình làm những

việc mù quáng, nó lảng tránh bầy voi, lảng tránh những con báo, lảng tránh cả

con người và chỉ nhận sự đối đầu trong trường hợp bắt buộc”[32;46]. Sự khôn

31

ngoan giúp các loài động vật tránh được những tổn thất đáng kể. Nếu sự gây gổ

là vô ích, chúng sẽ luôn tránh xa để bảo toàn tính mạng và bảo vệ bầy đàn của

mình. Rơi vào trường hợp bắt buộc, chúng mới đối đầu. Bên cạnh đó, “trong

rừng không có những cuộc chiến tranh cùng loài như trong xã hội loài người.

Một bầy voi không bao giờ đánh nhau với một bầy voi. Một gia đình cọp (cọp

sống đơn độc nhưng mùa sinh sản thì sống thành từng gia đình) không bao giờ

xung đột với một gia đình cọp khác”.[32;58] Tuy vậy, “đôi khi cũng xảy ra

tranh giành giữa hai cá thể cùng loài nhưng trừ những bầy sói, không bao giờ

cuộc xung đột dẫn đến sự tiêu diệt đối thủ. Ngay trong cơn giận dữ, do bản năng

bảo tồn dòng giống, chúng biết khi nào thì nên thôi. Khi hai con cọp đánh nhau

– chúng không bao giờ đánh nhau để tranh mồi mà chỉ để tranh giành con cái –

chỉ một lúc sau con yếu sẽ nhảy ra ngoài vòng chiến, nằm rạp xuống để tỏ ý

khuất phục, lập tức con mạnh hơn sẽ ngừng lại và bỏ đi. Khi hai con voi đọ sức

để tranh giành thứ bậc trong bầy cũng vậy. Con yếu thế sẽ lùi bước, buông

thõng vòi. Đó là dấu hiệu đầu hàng, con mạnh hơn thấy dấu hiệu đó sẽ ngừng

lại”. [32;59]. Hay như loài hổ “Nó không bao giờ gầm thét ra oai, như người đi

rừng chưa có kinh nghiệm tưởng tượng về nó, trừ vào mùa ghép đôi nó cất tiếng

gọi hổ cái. Tiếng gần thét làm lộ rõ sự có mặt của hổ, làm con mồi biết trước sự

nguy hiểm mà phóng chạy. Vì thế thói quen của hổ là im lặng. Nó săn mồi trong

im lặng và giết chết con mồi trong im lặng”[32;46]. Sự khôn ngoan còn thể hiện

ở chỗ đánh giá đúng con người: “Một con hổ đang độ dồi dào sức lực, có thể

kiếm đủ mồi trong các đàn thú hoang, luôn luôn tuân theo một quy luật đã hình

thành trong rừng là xa lánh con người, không đụng chạm đến những gì thuộc về

con nguời. Những con hổ như vậy thường được thợ săn để yên. Họ nghĩ rằng nó

cũng có quyền được tồn tại như bất cứ thú rừng nào khác, miễn nó không làm

điều gì có hại đến họ”[32;46]. Qua đó ta có thể thấy, thế giới loài vật là sự khôn

ngoan đến triệt để để duy trì sự tồn tại. Các con vật không hề muốn đối đầu và

cạnh tranh dù là trong hay ngoài bầy. Chúng không bao giờ gây gổ vô ích mà

luôn tìm đường lảng tránh. Ngay trong bầy, dù có sự tranh giành nhưng cũng chỉ

là tranh giành con cái. Chúng hiểu rằng, đánh nhau trong cùng bầy sẽ là mối

nguy hại để tiêu diệt sự tồn tại của cả bầy. Chúng cũng hiểu rõ rằng, sự tồn tại

của mỗi cá thể trong bầy là tổng thể cho bầy đàn phát triển, sinh tồn. Tiêu diệt cá

32

thể bầy là một việc làm không thể chấp nhận được. Đó là sự đoàn kết, gắn bó mà

xã hội loài người phải nhìn lại mình.

Thứ hai, luật rừng là sự cố gắng thích nghi với hoàn cảnh sống. Hoàn

cảnh sống tác động trực tiếp đến lối sống và thói quen của loài vật nhưng bằng

sự khôn ngoan của mình, chúng biết khi nào nên thay đổi và thích nghi. Nhà văn

Vũ Hùng đã dẫn ra rằng: “Từ trước thập niên của thế kỷ XX - một thợ săn già

từng nói lại – các bầy voi trên Trường Sơn vẫn có thói quen giống trâu bò rừng

khi ngủ đêm. Chúng hợp thành vòng tròn, bên trong là voi con, voi mẹ và voi già

yếu, bên ngoài là voi đực. Hồi đó voi cũng bị săn lùng – đôi ngà của chúng đối

với thợ săn là cả một tài sản – nhưng bằng ngọn lao và chiếc nỏ, thợ săn không

tiêu diệt được bao nhiêu. Từ khi trong rừng xuất hiện những người đi săn mang

cây súng khác. Họ có thể dễ dàng giết chết một con voi ở khoảng cách rất xa, xa

gấp bốn năm tầm tên của người thợ săn bản địa. Lũ voi đực càng bị săn lùng

ráo riết và chẳng bao lâu sau mỗi bầy voi chỉ còn vài ba con đực. Các bầy bắt

buộc phải thay đổi tập tính dể bảo tồn dòng giống. Ngày nay những người đi

rừng đều nhận thấy thói quen cũ của các bầy voi đã biến đổi. Ban đêm chúng

vẫn họp thành vòng tròn nhưng ở bên trong đáng lẽ là lũ voi con và voi mẹ thì

bây giờ là những con voi đực cuối cùng của bầy. Khi gặp nguy lũ voi cái sẽ

xông ra chặn đường cho chúng chạy trốn. Bây giờ muốn săn voi đực phải đi vào

giữa bầy voi. Đều đó không người thợ săn đơn độc nào dám làm và cũng không

người thợ săn nào làm nổi”[32;60]. Những chú ngựa đồng cỏ, khi bị chuyển từ

môi trường sống thảo nguyên tự do đến không gian hẹp của những chiếc lồng sắt

đã mất một khoảng thời gian nhất định để làm quen và thay đổi. Từ đám lông

dài thượt để chắn gió, chắn tuyết ở vùng thảo nguyên khắc nghiệt, chúng đã

ngắn đi và thưa lại ở vùng nhiệt đới: “Đến vụ thay lông, đám lông che tuyết lượt

thượt tự nó mọc thưa và ngắn lại cho hợp với khí hậu”. [18;94]. Có thể thấy, tùy

điều kiện và hoàn cảnh sống vào những giai đoạn khác nhau, loài vật sử dụng sự

khôn ngoan của mình để thay đổi tập tính và thích ứng với mục đích cuối cùng

là bảo tồn giống loài – một yêu cầu cao nhất trong quần thể loài vật. Loài vật

thay đổi tập tính và thói quen sinh hoạt theo sự thay đổi của môi trường sống.

Thứ ba, luật rừng là giữ gìn sinh cảnh: “Sinh cảnh là một vùng sinh thái

hay môi trường có các loài động, thực vật đặc biệt hoặc các sinh vật khác sinh

33

sống ở đó. Nó là môi trường tự nhiên mà các sinh vật sinh sống, hoặc môi

trường vật lý bao bọc xung quanh quần thể loài”[66]. Bản thân loài vật sống

trong sinh cảnh nhưng với sự khôn ngoan, chúng sử dụng sinh cảnh nhưng

cũng biết giữ gìn sinh cảnh – môi trường giúp chúng tồn tại và phát triển:

“Không con thú nào tàn phá môi trường nó sống. Hãy thả một con hổ hoặc

một con báo vào một đàn hươu nai. Chúng sẽ chỉ giết một con mồi và chừng

nào chưa ăn hết thức ăn chúng sẽ không giết thêm con mồi khác. Bản năng giữ

gìn sinh cảnh tồn tại ngay cả ở những bầy thú ghê gớm như lũ chồn ma. Chừng

nào còn thức ăn chúng không bao giờ săn đuổi con mồi khác...”[32;60];“Mồi

săn của hổ thường là hươu nai, lợn rừng... với những con mồi lớn như vậy, hổ

phải ăn nhiều lần mới hết. Sau khi ăn no, nó biết cách cất chỗ mồi còn lại,

không chịu để mất một mẩu cho lũ sói rừng và bầy quạ diều. Hổ thường tha

mồi đến một quãng suối sâu, một đầm lầy, ăn xong vừa có nước uống vừa có

chỗ giấu mồi. Nó quẳng mồi xuống nước và bữa sau trở lại vần chỗ thịt ăn dở

lên bờ”[32;46]. Đó chính là biểu hiện cho sự khôn ngoan của các loài động

vật. Khi còn thức ăn, loài vật sẽ không giết hại thêm con mồi. Vì thức ăn dư

thừa sẽ chồng chất vừa phá hủy môi trường sống, vừa gây suy giảm nguồn thức

ăn khiến cho loài vật tự làm hại mình.

Thứ tư, luật rừng là sự họp đàn và sự cứu giúp, cưu mang. Trong thế giới

loài vật, chúng phân thành hai cấp: Loài yếu thế và loài mạnh. Nhưng luật rừng

không chỉ là sự hỗn độn, tàn sát lẫn nhau. Mà là sự giúp đỡ, tương trợ nhau cùng

sinh tồn. Những con vật yếu thế và thiếu phương tiện tự vệ không bao giờ sống

đơn độc. Chúng sẽ họp lại thành từng bầy và bầy đàn sẽ giúp chúng sống an toàn

hơn. Một con nai sẽ sống mạnh mẽ và lợi thế hơn trong một bầy nai. Chúng sẽ

nương tựa vào nhau để phát hiện kẻ thù và trốn chạy kẻ thù. Bầy đàn giúp các

thành viên trong đàn cùng nhau sinh tồn. Ngoài ra bầy đàn còn có ích cho các

loài khác: “Con nai non lạc bầy khi đêm xuống có thể dễ dàng tìm nơi ẩn náu an

toàn trong một bầy trâu hoặc bò rừng. Bầy ấy sẽ để mặc nó ngủ ở vòng trong,

nơi dành cho lũ nghé và bê non và sớm mai, khi nguy cơ bị tiêu diệt đã hết, con

nai sẽ lững thững tìm về với bầy đàn của nó. Cheo cheo là con vật yếu ớt, không

có vũ khí để phòng thân. Nó rất nhiều kẻ thù, gồm: Chồn ma, sói, mèo rừng, hổ,

báo... Gặp kẻ thù nó run lên, chân khuỵu xuống. Nó chỉ biết nằm run rẩy chờ

34

chết. Vậy mà loài cheo cheo không bị tiêu diệt. Ta đã biết, nó có những kẻ bảo

trợ đắc lực là bọn bò tót”[32;62]. Chúng ta thường thấy bên cạnh bầy bò tót

thường có vài ba chú cheo cheo. Cheo cheo có họ hàng với hươu nai nhưng bé

nhỏ và yếu ớt. Chúng không có sừng để chống cự kẻ thù cũng không có đôi chân

chạy nhanh để thoát hiểm, chúng chỉ có duy nhất là những chiếc nanh nhọn chỉ

để gặm măng: “Cheo cheo biết mình yếu ớt cần nơi nương tựa. Bản năng của

chúng mách bảo, quanh những rừng tre nứa nơi chúng sinh sống giang sơn của

bọn bò tót là yên ổn nhất. Ở càng gần nơi bò tót ngủ đêm thì càng yên ổn. Sự có

mặt của chúng không làm cho bọn bò tót phiền lòng. Chúng được chấp nhận”

[32;27]. Hay như trâu rừng, chúng là những con thú khỏe mạnh lại có tinh thần

họp bầy và tinh thần cảnh giác cao. Bầy đàn của chúng cũng được kiêng dè và

lảng tránh như bầy voi:“Trâu rừng là chỗ dựa của những con thú ăn cỏ yếu ớt.

Ban ngày, bọn thú nhỏ đó ngủ trong những hang ổ bí mật, ban đêm đến kiếm ăn

gần bầy trâu. Thấy hơi thú dữ, khi bầy trâu đồng loạt đứng lên trong tư thế

phòng ngự, bọn thú nhỏ không ngần ngại gì mà không lẻn vào giữ vòng tròn,

run rẩy đứng lẫn trong đám nghé non. Bầy trâu hào hiệp không bao giờ xua

đuổi chúng”[53;28]. Loài voi cũng là những con vật hào hiệp, chúng hay che

chở cho các loài động vật yếu thế khác: “Mỗi năm khi mùa mưa đến, bầy voi lại

trở về đồng cỏ và các bầy thú ở đó lại được sống một thời kì an toàn. Đêm đêm

khi đã ăn no chúng thường kéo đến gần chỗ bầy voi ngủ, nương bóng những con

vật to lớn này. Sự có mặt không làm bầy voi khó chịu. Chúng được chấp nhận và

bầy voi vui lòng làm nhiệm vụ bảo trợ”[32;50]. Với sức mạnh vốn có của các

loài động vật, chúng che chở và giúp đỡ những loài yếu đuối hơn. Sự có mặt của

những loài yếu không làm chúng khó chịu. Nghĩa là chúng chấp nhận cho loài

yếu nương tựa vào mình để tránh kẻ thù. Chưa bao giờ chúng xua đuổi các loài

yếu có thiện chí muốn giúp đỡ. Có phải đây là sự hài hòa giữa các quần thể sống

trong cùng một một trường sống. Ngoài sự canh tranh nhau, các loài động vật

còn sống hài hòa để cùng nhau sinh tồn và phát triển. Vì nếu luật rừng nếu chỉ là

sự hỗn độn, tiêu diệt và tàn sát nhau thì sẽ không thể có những loài vật yếu thế

sinh tồn, không có bầy nai, bầy hươu, bầy cheo cheo và các con thú lành. Sinh

cảnh bị phá hủy, loài vật bị tiêu diệt và diệt vong. Môi trường thiên nhiên sẽ

biến mất.

35

Có thể thấy rằng, luật rừng – luật của tự nhiên là sự khôn ngoan, thích

nghi, giữ gìn sinh cảnh và là sự giúp đỡ, nương tựa lẫn nhau của tất cả các bầy

thú. Mọi loài vật đều mang trong mình sự khôn ngoan, chúng biết giấu mình để

tránh nguy hiểm, chúng luôn thích nghi được với mọi hoàn cảnh và luôn biết giữ

gìn môi trường sống để bảo tồn giống nòi. Đồng thời, chúng còn sống hài hòa,

giúp đỡ lẫn nhau tránh mọi nguy hiểm trước không gian rừng hoang dã.

2.1.2. Phong tục tập quán những vùng miền đi qua

Truyện ngắn của nhà văn Vũ Hùng không phải là truyện ngắn viết về đề

tài dân tộc miền núi mà chủ yếu là truyện về loài vật. Những câu truyện xoay

quanh đời sống sinh tồn của các con vật là mối quan tâm chính của ông. Thế

nhưng, trong truyện của ông, người đọc thấy hiện lên những giá trị văn hóa của

những vùng đất mà ông đặt chân đến. Phải nói rằng, Vũ Hùng đã có một nhãn

quan phong tục nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục của những miền đất mới

được miêu tả sinh động nhưng cũng rất gần gũi với đời sống con người. Vũ

Hùng đã khéo léo trong cách viết của mình để bạn đọc có thể cảm nhận những

phong tục tập quán một cách nhẹ nhàng và hứng khởi nhất.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời sống

xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”[36;355]. Còn Bách khoa toàn

thư mở lại định nghĩa về phong tục một cách cụ thể như sau: “Phong tục là toàn

bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch

sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi

thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó

trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.

Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chí

một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia

thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người,

như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ

thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời

tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con

người...”[66]. Phong tục là đặc trưng văn hóa dân tộc, là niềm tự hào của một

cộng đồng người từng quần tụ với nhau hàng nghìn năm trong một vùng lãnh

36

thổ. Đó là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận

và làm theo. Việc thể hiện phong tục trong tác phẩm đem đến cho người đọc

những tri thức bổ ích về đời sống, những hiểu biết thú vị về những vùng trời xa

lạ hay về một thời kì lịch sử không còn vang bóng. Thông qua những trang viết

đậm màu sắc phong tục, người đọc biết được ở thời kì ấy, miền đất ấy, dân tộc

ấy có những thói quen sinh hoạt, cách ăn mặc, nói năng, vui chơi, lao động, cách

giao tiếp, ứng xử, những nghi lễ tôn giáo... như thế nào.

Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ngoài bức tranh thiên nhiên

hùng vĩ, thơ mộng là những nét đẹp về phong tục, tập quán, tục lệ của người dân

bản địa nơi mà nhà văn đã đặt chân tới. Chủ yếu ở đây là những tục lệ của đồng

bào dân tộc Lào cư trú ở phía Tây dãy Trường Sơn – nơi mà nhà văn Vũ Hùng

đã gắn bó suốt những năm tháng cuộc đời.

Tết Lào – những cái Tết đậm đà bản sắc của dân tộc Lào. Người dân háo

hức và rộn rã chuẩn bị cho những ngày Tết: “Chỉ còn một ngày nữa là đến Tết.

Một năm mới lại bắt đầu. Cả làng Vông – xay đã nghỉ việc từ mấy hôm trước...

Mong có dịp vui chơi sum họp, đó là thói quen của mọi người ở làng Vông –

xay. Mỗi khi có hội, làng bản đang im lìm như vụt dậy. Vì thế ai nấy đều tìm hết

cách để mở những cuộc vui. Có người muốn dựng một căn nhà mới. Việc bình

thường như thế cũng đủ làm làng bản tưng bừng. Ở các làng Lào không có tục

thuê mướn người làm vì không ai có tiền để trả công. Mọi việc đều nhờ bà con

làm giúp. Người chủ thu thập gỗ tre rồi gọi người làng đến dựng. Tối hôm trước

họ cùng vợ con mặc quần áo mới, đi tới từng nhà. Hôm sau cả làng vui vẻ kéo

đến làm việc dưới quyền một bác phó cả. Vợ con người chủ cùng các bà các cô

trong làng nấu một bữa cơm ngon mời khách. Buổi tối khi công việc đã xong,

mọi người ăn uống no say rồi mở một đêm hội nhỏ mừng nhà mới. Đốt đuốc

sáng trưng. Các cô gái ngồi khép nép trên những chiếc chiếu, miệng nhau trầu.

Dàn nhạc nổi lền, trai làng thổi những cây khèn dìu dặt. Một ông già hát theo

một bài nhạc “lăm”, kể lại một câu truyện gì đó từ ngàn xưa....”[30;16]. Ngày

Tết của những người dân Lào thật tấp nập, họ không ăn Tết theo gia đình riêng

mà sinh hoạt cộng đồng sum họp, quây quần. Lũ trẻ cũng như người lớn luôn

háo hức và khao khát hội hè. Chúng chờ từng ngày để được đến Tết. Những đứa

con gái thì bận rộn suốt ngày với chậu nước thơm. Chúng cùng bạn bè đi hái hoa

37

rừng, lau cẩn thận từng cánh rồi ngâm vào chiếc bình lớn. Khi màu nước ngả

sang màu của những cánh hoa, chúng đổ ra những thau bạc xinh xắn. Những

người phụ nữ trong gia đình thì quét dọn nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm, xếp ra sàn

những chiếc mâm mây mới và những tấm đệm rực rỡ để tiếp khách. Những đứa

con trai thì bận rộn với đàn voi và cho chim, cá ăn. Những người đàn ông trụ cột

của gia đình thì sửa soạn bữa tối thay cho vợ và con gái để họ mang chim, cá ra

bãi sông phóng sinh. Hàng năm vào dịp Tết, người dân Lào đem thả cá, thả chim

để cầu phúc, chuộc lại những lỗi làm mà họ đã mắc phải trong năm cũ. Tâm hồn

người dân ở đây thật trong trẻo và cao đẹp: “Các lồng chim đặt thành một hàng

dài trên bờ cát trăng. Lũ chim thấy đông người, nhảy loạn trên những cắng tre

trong lồng. Một ông già trong làng đi đến chiếc lồng đầu tiên. Lồng nhốt một

đôi khướu bạc má. Ông mở cửa và đứng tránh sang một bên. Đôi chim ló đầu ra

khỏi cái cửa lồng chật hẹp, đứng bỡ ngỡ một lúc rồi bay lên cao. Mọi người

nheo nheo mắt nhìn chúng bay đi. Ông già nói theo:

- Bay về rừng mà sống nhé! Lúc nào đi kiếm ăn qua làng thì đỗ xuống hót cho

chúng tao nghe”[30;64]. Ngoài việc phóng sinh các loài vật, người dân Lào còn

đi chùa để chuộc lỗi và cầu phúc. Họ mặc quần áo đẹp rồi dắt nhau ra chùa: “Ở

ngoài chùa, các tượng Phật được bày trên một bục lớn. Gia đình bác Bun – mi

cùng dân làng nghe các sư thuyết pháp và dự lễ tắm cho Phật. Nước tắm ngâm

hoa thơm được giữ lại và ông sư cả nhúng một nhành lá vào đó, rảy cho mọi

người”[30;63]. Không gian chùa chiền thật thiêng liêng. Những người dân được

gột rửa tâm hồn bằng những bài thuyết pháp. Họ tự tin và bình tĩnh để đón chào

một năm mới tiếp đến. Theo họ, một năm trải qua đều mang những gánh nặng

về lỗi lầm. Việc xóa đi những lỗi lầm của một năm là điều cần thiết nhất trước

khi cầu phúc, cầu lộc. Từ chùa về nhà, vợ chồng con cái lại ngồi quây quần cùng

nhau để xin lỗi nhau về các lỗi lầm và sự xô xát trong một năm qua. Rồi họ cùng

hứa với nhau sẽ sống một năm mới hòa thuận hơn, êm ấm hơn. Sau đó họ đi

thăm các nhà và rảy nước chúc phúc cho bà con làng bản. Tết của người Lào mở

đầu cho mùa mưa và mùa mưa là khởi đầu cho mùa cày cấy: “Trong mấy ngày

Tết, người ta té nước đón mùa cày, tin rằng càng té nước trời càng mưa to, mùa

màng càng tươi tốt và ai được té ướt nhiều trong năm sẽ được hưởng nhiều phúc

lộc...”[30;65]. Họ rảy nước vào người nhau, trai gái và lũ trẻ thì nghịch ngợm

38

hơn, họ hắt từng thau nước vào nhau. Hết nước thơm, họ hắt nước sông. Ai nấy

cũng ướt lớt thớt và phải thay quần áo liên tục, những người quản tượng thì

phun nước bằng ống thụt còn lũ voi thì hít nước ở bồn và phun vào người dân

như những cơn mưa. Người dân Lào vui chơi như những đứa trẻ để quên đi

những vất vả, gian khổ của năm cũ và đón chào năm mới bằng những tiếng cười.

Họ đôn hậu, hồn nhiên và trong sáng, họ sống một cuộc đời bình yên và nhiều

hạnh phúc.

Dân tộc Lào ngày xưa cũng giống dân tộc Việt Nam, là một dân tộc

nghèo. Họ không có nhiều tiền bạc nên việc trao đổi hàng hóa là điều rất yếu để

phục vụ cuộc sống và điều đó đã trở thành tục lệ: tục trao đổi. Họ đổi cho nhau

những món quà của chính thiên nhiên – nơi họ sinh sống. Ai nấy cũng vui vì đổi

được muốn đồ mà mình yêu thích hoặc món đồ mà gia đình mình cần cho sinh

hoạt. Bà cháu nhà Phựng trong truyện Giữ lấy bầu mật đã có bao nhiêu dự định

về việc trao đổi. Anh em nhà Nựng rất yêu bà, thấy bà hay đau xương, Phựng

muốn lên làng Maca đổi xương cao hổ cho bà: “Làng Maca là một làng săn của

người Khạ trên lưng núi. Sau mỗi mùa mật, Phựng thường lên đó đổi lấy thịt

khô của họ”[19;32]. Hoạt động trao đổi hàng hóa được điễn ra giữa các làng với

nhau và giữa những người trong cùng một bản làng. Mỗi khi đổi được những

món đồ ưng ý, người dân Lào thường rất phấn khởi. Và mỗi khi nghe tin có

người qua đổi hàng hóa, người dân lại thấy rộn ràng, háo hức: “Người làng đã

tỉnh dậy từ khi nghe nổi tiếng mõ thứ nhất. Lũ trẻ chạy ra đứng nhìn ở ngoài

sàn. Chúng là những người đầu tiên thấy khách vì chúng không ngủ trưa. Rồi

chúng chạy thụt vào nhà để đánh thức cha mẹ, vừa gọi vừa hớn hở khoe mình

thấy khách trước. Khách đến! Khách đến! Tin truyền từ nhà này đến nhà khác.

Làng bản bỗng tấp nập. Có những bà vơ vội lấy gọi thịt khô, ống mật và sai con

cháu đi bắt gà vịt.

- Mau lên các cháu! – Họ giục giã – May quá! Nhà đang cần muối, cần dầu lửa,

đá lửa... Họ lầm tưởng khách là những người đi đổi hàng”[30;33]. Đối với họ,

khách đến đồng nghĩa với việc đổi hàng. Họ vui mừng và phấn khởi biết bao.

Cũng giống như dân tộc Việt Nam, người dân Lào rất mến khách: “Trên

đất Lào, người đi đường xa với cái túi rỗng cũng có thể đến mọi nơi. Người Lào

mến khách và không vụ lợi, nhiều khi nuôi khách hàng tháng trong nhà. Họ làm

39

việc đó vì lòng nhân đức, không đắn đo, không mong được đền ơn dù họ cũng

rất nghèo. Chỉ cần bước lên sàn là đã được họ mời ăn, khách lỡ đường không

cần phải cầu xin. Khi ra đi, chỉ cần vài lời cảm ơn hoặc nếu có vật gì đó tặng

cho họ thì họ đã lấy làm sung sướng lắm”[30;9]. Khi có khách đến nhà, họ buộc

vào tay khách những sợi dây xe bằng bông, mỗi người được buộc đến bốn, năm

sợi đầy cả cổ tay. Đó là dấu hiệu để chúc phúc. Ở đây, người dân Lào “sống

cách biệt với mọi nơi, không có báo chí, không có phương tiện liên lạc. Cuộc

sống cứ đều đều, phẳng lặng. Mọi nhà săn bắn và cày cấy chút ít, vừa đủ cho

nhu cầu, rồi sống trong cảnh an nhàn, không ham muốn gì hơn. Người ta chỉ

làm lụng cốt cho đủ ăn, đủ mặc, có một ngôi nhà để ra vào và thỉnh thoảng có

một vài món ăn ngon để đưa ra chùa cho các sư. Còn những cái khác, họ coi là

cái xa hoa mà muốn đổi lấy thì mất cả nghỉ ngơi, yên tĩnh”[30;35] và “Người

Lào luôn muốn sống một cuộc đời yên ả không bận tâm suy nghĩ về bất cứ điều

gì. Đối với họ niềm vui và nỗi buồn đều rất mau qua” [24;58]. Họ còn là những

con người vô cùng giản đơn và dễ tính: “Người đi xa trên đất Lào vẫn làm như

thế: những vườn mía, nương dưa vắng chủ, nếu cần thiết thì cứ việc ăn rồi treo

đâu đó, ở chỗ dễ nhìn, một món quà. Không ai lấy trộm những món quà ấy”

[51;46]. Thời gian rảnh rỗi, họ thường “làm chua” mời mọi người cùng ăn. Món

chua này rất giản dị, chỉ gồm: Trái me, muối ớt, cà dại và lá thơm đem giã. Họ

vừa ăn vừa trò chuyện: “Món ăn tầm thường nhưng theo thói quen của người

Lào, thiếu nó câu truyện sẽ bớt mặn mà”[30;77]. Họ ngồi lại với nhau để kể cho

nhau nghe những câu chuyện giản dị của đời sống hàng ngày và cùng nhau thư

thái trong những giây phút an nhàn. Họ thanh thản ngay trong chính những ngôi

nhà tối và ít cửa mà họ dựng lên: “Người Lào có dụng ý: nhà là nơi để nghỉ

ngơi mà ở nước Lào thì trời nắng quá, lúc nào cũng chói chang” [30;34]. Ở các

làng Lào thời ấy không có trường học, “họ vào chùa theo tục lệ để học chữ và

học những bổn phận làm người. Họ học kinh kệ, học các truyền thuyết của đạo

Phật, học đọc, học viết, học yêu thương ông bà, cha mẹ và bạn bè, học chia sẻ

buồn vui với những người bất hạnh, học yêu thương súc vật... Ba năm sau, tới

tuổi mười lăm, mười sáu, khi đã đọc thông viết thạo, họ ra khỏi chùa để trở về

sống lại với gia đình” [24;63]. Khi họ đã lớn, thoạt đầu cuộc đời trần thế khiến

họ trở nên nghiêm nghị, đăm chiều dù tuổi đời còn nhỏ. Nhưng rồi cuộc sống,

40

công việc và bầy voi cuốn hút họ: họ dần quên kinh kệ và những nỗi khổ hạnh

trong chùa, chỉ còn nhớ chữ nghĩa và lòng nhân ái. Những người con trong gia

đình khá giả thì được học cao lên rồi trưởng thành và đi làm ở một nơi xa. Còn

những đứa trẻ nhà nghèo thì về phụ việc cho ông/ cha, họ học cách chăm sóc lũ

voi, điều khiển nó làm việc, lăn lộn trong những cuộc săn... Khi chắc chắn đứa

con của mình đã thành thạo trong nghề, người cha trao cho con cây đòng. Họ

chuyển vị trí ngồi trên đầu con voi cho chúng, người cha lui về ngồi ở phía sau.

Những người dân Lào không chỉ hiếu khách mà họ còn là những con người của

sự biết ơn. Khi được người khác giúp đỡ để làm một việc gì đó, họ thường trả ơn

bằng những món quà, đó có thể là những con mồi mà họ săn bắt được hoặc là

những món quà mà họ tự tay làm ra. Ví dụ như, khi người Lào được tặng một

chú chó, người được tặng sẽ mang con mồi đầu tiên mà chú chó đó săn được

biếu cho người tặng. Hoặc khi được người khác cứu sống con vật nuôi của mình,

họ sẽ tặng lại chúng...

Dân tộc Lào có tinh thần cố kết cộng đồng rất cao. Đối với họ, niềm hạnh

phúc được hình thành khi giúp đỡ và đùm bọc nhau. Họ cùng nhau săn bắn và

chia sẻ những thành quả đạt được: “Mùa nhung năm nay được to, mỗi người

đàn ông đã cắt được hai ba cặp. Họ cúi mình, hai cánh tay vạm vỡ xốc từng con

nai còn nóng hổi lên vai đem về vứt giữa trại. Đàn bà chặt củi, nhóm những

đống lửa ngùn ngụt. Đàn ông xả thịt. Họ cắt ra từng tảng thịt đỏ tươi, thớ còn

rần rật. Cả trại nom như một cái chợ bán thịt, kì lạ, đầy những đùi, lườn, bắp,

vai, móc lủng lẳng vào giàn sấy cạnh ngọn lửa. Những giọt mỡ nhỏ xuống than,

cháy xèo xèo, tỏa lên một mùi thơm ngậy. Khói bốc nghi ngút làm màu đỏ ám

dần và thịt quắt lại. Lũ đàn bà gỡ những tảng thịt đã khô cong xếp bỏ gùi và

treo thay vào đó những tảng thịt tươi. Những cái gùi cứ đầy lên. Khi đi, gùi của

họ rỗng không. Đến khi tàn mùa nhung, trở về bản, lưng ai cũng trĩu xuống vì

gùi thịt đầy ụ”[33;32]. Họ sống rất hòa thuận với nhau mà không toan tính, ích

kỉ. Ví như: khi đi rừng, nếu thấy bầu mật to đã được đánh dấu – có thể các dấu

là khác nhau do mỗi người tạo ra, người dân Lào đều nhận biết được các dấu của

mỗi người trong bản làng – họ sẽ bỏ đi và không bao giờ lấy những bầu mật đã

được đánh dấu. Họ săn bắt, khai thác thiên nhiên là thế, nhưng người dân Lào là

những con người có ý thức giữ gìn thiên nhiên, sinh cảnh. Họ chỉ săn đủ lượng

41

thức ăn cần thiết. Khi đi săn hươu, họ luôn đem theo một gói thuốc độc và một

gói thuốc giải. Họ thả xuống những vũng nước thuốc độc rồi khi thấy số lượng

con vật đã đủ, họ sẽ thả thuốc giải xuống những vũng nước độc đó. Họ dành mồi

cho những mùa săn tiếp theo. Để giữ lại những con mồi, họ còn sáng tạo ra

những câu chuyện thú vị, bí ẩn: “Một truyền thuyết dễ thương đã được thêu dệt

quanh tiếng nước rơi từ các thạch nhũ: mùa xuân, thần gió căng những dây đàn

trên cặp gạc của bọn cà tong và bọn hươu nai, đánh lên thánh thót theo tiếng

chim, cho muôn loài vui chơi ca hát. Cứ lắng nghe đi, sẽ thấy tiếng đàn ấy giữa

muôn thứ tiếng rừng. Vì thế mà vào mùa xuân, bọn cà tong và hươu nai được

coi là những con vật thiêng. Không ai săn bắn chúng trong những ngày ấy. Mà

có săn bắt thì cũng trượt mồi... Ai cũng biết đấy là chuyện hoang đường vậy mà

vẫn cứ tuân theo, Đó là một tục lệ để giữ mồi săn: mùa xuân là mùa chúng sinh

sản”[30;15].

Tuy là những người dân hiếu khách, hiền hòa và thân thiện nhưng trong

cộng đồng người Lào cũng có những tục lệ riêng được quy định chặt chẽ. Căn

buồng của những cô gái là điều cấm kỵ người lạ bước chân vào: “Theo phong

tục Lào, buồng cô gái là nơi thiêng liêng, không một người lạ nào được bước

vào. Người ta tin rằng các cô gái không giữ được như vậy sẽ không được trời

phật ban phúc và sẽ bị mọi người khinh rẻ”[30;51]. Hay như để xin vào các hội

săn của làng hoặc xin được làm quản tượng, người ta cũng phải thực hiện đúng

như tục lệ đã đặt ra. Người bố phải đến từng nhà mời người làng sang uống

rượu. Từ già làng, các tay săn lão luyện và bọn trẻ đều có thể đến dự. Người mẹ

phải chuẩn bị xôi thịt đầy đủ: “Rượu cần được làm bằng nếp thơm trộn men, bỏ

vò và chôn sâu dưới đất. Trên làng Khạ, nhà nào cũng có sẵn dăm vò, khách

đến mới đào lên... Hàng năm, làng săn nhận vào phường săn một lứa con trai

đến tuổi... Bố mẹ chúng đang giã gạo, hong thêm thịt, sửa soạn mời mọi người

đến uống một bữa rượu mừng”[30;36]. Trong bữa tiệc rượu, những người già

lão luyện lần lượt đến bên cạnh đứa trẻ để chúc cho nó nhiều điều tốt lành trên

chặng đường săn sắp tới.

Tục xin làm quản tượng thì khó khăn và nhiều thủ tục hơn. Người xin

phải trải qua một cuộc thử thách của quản tượng cao tuổi nhất làng - người được

các quản tượng trao quyền trong cuộc họp quản tượng. Vượt qua được, họ sẽ

42

được làm quản tượng. Thời gian chuẩn bị là ba tháng, người xin làm quản tượng

sẽ phải học cách điều khiển con voi của mình, hiểu tâm lý nó và biết cách chữa

bệnh cho nó. Cuộc thử thách được diễn ra căng thẳng và gay cấn trước sự chứng

kiến của các quản tượng, các bậc bô lão và toàn bộ dân làng. Người nào hoàn

thành tốt bài thử thách sẽ được làm quản tượng và được người quản tượng cao

tuổi nhất trao cho cây đòng – biểu tượng của sự chiến thắng và uy quyền. Ngoài

ra, quá trình huấn luyện một con voi cũng vô cùng chặt chẽ. Khi bắt được một

con voi hoang, người dân Lào sẽ xích chúng ở bìa rừng bỏ cho đói khát vài hôm,

đến khi nào chúng chịu ăn thức ăn mà con người mang cho và không có biểu

hiện phản kháng, bứt phá nữa mới được rong chúng về làng để rèn luyện: “Ngày

xưa theo lệ thường, khi bắt đầu rèn voi, quản tượng nung đỏ miếng sắt đốt cháy

da con vật ở phía sau tai nó, làm thành hai vết thương. Hai vết thương này họ

bắt con vật phải mang suốt đời để khi con vật trở chứng, không chịu nghe lời,

thì đâm đòng vào đó” [26;23]. Không những thế, trong các cuộc săn voi cũng

diễn ra rất gay cấn. Các quản tượng và voi được triệu tập: “Trước hết là việc

chọn người. Mỗi con voi có một người quản tượng chính và một quản tượng

phụ. Dù con voi có thạo săn, có dũng cảm nhưng người điều khiển tồi thì hiệu

quả của cuộc săn cũng sẽ rất kém. Hơn nữa có thể xảy ra chết người, chết voi.

Vì vậy chỉ các quản tượng tài năng mới được chọn làm người điều khiển. Những

quản tượng bình thường thì bị đưa xuống hàng phụ việc”[24;65]. Sau đó, quản

tượng và voi được chia làm các tổ riêng biệt với những nhiệm vụ khác nhau.

Trước khi đi săn, người ta tổ chức tiệc rượu vui vẻ: “Ăn xong đoàn thợ săn

chuẩn bị lên đường. Mỗi người đốt một đôi nến nhỏ gắn lên cặp ngà con voi của

mình. Bên đống lửa đã cháy gần tàn, những cặp nến sáng lung linh như những

vì sao”[24;66]. Người quản tượng già cả nhất sẽ ngồi xếp trước lư trầm tỏa khói,

thành kính chắp tay trước ngực và cầu nguyện: “Bác nguyện với thần của rừng

và thần của các loài voi chỉ bắt những con voi tới tuổi làm việc và sẽ hết sức

tránh gây đổ máu cho lũ voi hoang” [24;60]. Những cuộc đi săn thường diễn ra

ác liệt và dữ dội. Đó là sự chống chọi giữa tự do và nô lệ, quyết liệt hơn cả sự

chống chọi giữa cái sống và cái chết. Đối với người Lào, con voi là tài sản riêng

vô cùng quý giá của mỗi gia đình: “Từ bao lâu nay, “tiểu sử” của lũ voi nhà

được người các làng voi ghi trên lá “bay lan” để truyền lại từ đời cha ông đến

43

đời con cháu. Không phải người làng voi thiếu giấy nhưng họ đã quen dùng thứ

lá rừng này từ ngày xưa vì chỉ có nó mới giữ được bền, thích hợp với đời sống

lâu dài của loài voi”[30;133]. Nếu con voi sang tay một người quản tượng khác,

người đó sẽ được tiếp nhận tập lá “bay lan” để viết thêm những trang sử hào

hùng của con voi đó và truyền lại cho thế hệ nối tiếp. Cứ như thế, cuộc đời của

mỗi con voi được ghi chép rất cẩn thận trong từng tập lá và được gìn giữ chu

đáo. Có thể thấy rằng, nhà văn Vũ Hùng không giống như những nhà văn khác,

ông chọn lựa viết về tục lệ của người dân tộc Lào – cộng đồng người mà ông đã

gắn bó trong suốt một chặng đường đời. Ông yêu quý và trân trọng họ trên từng

trang văn, giúp người đọc có thể nhận ra rằng: tình yêu thương xuất phát ở mọi

nơi và luôn tồn tại trong tâm hồn những con người đôn hậu. Nhà văn Vũ Hùng

chia sẻ, những cuộc hành quân dài dặc, vất vả trong đời lính đã mang lại cho

ông nhiều khám phá về thiên nhiên, đất nước, về phong tục tập quán của các dân

tộc Việt – Lào anh em bao đời từng chung sống trên một dải Trường Sơn. Vùng

biên giới phía Bắc hùng vĩ, với “những ngọn núi mây phủ triền miên, những

rừng thông vi vút” hay vùng biên giới phía Tây, trong lòng dãy Trường Sơn với

“những cánh rừng chưa hề in dấu chân người, những ngọn núi tím biếc với

những hồ nước trong vắt trên đỉnh, những đồi lau và đồi tranh vàng rực dưới

nắng thu, những bầy thú mà ta dễ dàng gặp trên đường: những con tê giác cuối

cùng, những bầy hươu nai, bầy voi, những con bò tót hùng tráng, lũ báo gấm

uyển chuyển”[30;70] và câu chuyện của những người đi rừng lão luyện với

“một ngôn ngữ giản dị, ít lời nhưng nhiều hình ảnh, thứ ngôn ngữ riêng chỉ có

trong rừng”[30;70] chính là nguồn cảm hứng để ông viết những tác phẩm ấy.

Qua những tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hũng muốn các độc giả thiếu

nhi hiện nay hiểu về một thời chưa xa lắm, thiên nhiên đất nước ta tươi đẹp,

trong lành như thế, muông thú phong phú như thế, và con người hiền hòa như

thế. Dân tộc Lào, một dân tộc anh hùng với những tục lệ đậm bản sắc như: Tết

Lào, tục trao đổi, tinh thần mến khách, hào hiệp và tính cố kết cộng đồng cao là

những hình ảnh đẹp xuất hiện nổi bật và rực rỡ trong từng trang văn của ông.

44

2.2. Đời sống của loài vật

2.2.1. Bản năng sinh tồn

Mỗi loài động vật đều có một đời sống sinh tồn và phát triển khác biệt.

Bằng khả năng quan sát tinh tế và tài tình, nhà văn Vũ Hùng đã mang đến cho

độc giả trẻ thơ nói riêng và chúng ta nói chung một cái nhìn toàn diện về đặc

điểm sống và sinh hoạt của các loài động vật. Ông như một nhà nghiên cứu động

vật học. Bởi nhờ chính cái nhìn của ông, một thế giới loài vật hiện lên rất chân

thực và sâu sắc. Ông quan sát và miêu tả loài vật đồng thời dưới con mắt của

một nhà nghiên cứu và một nhà văn. Qua đó, các em nhỏ có những hiểu biết lý

thú và mới mẻ về thế giới loài vật.

Mỗi tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng là một cách thức sinh hoạt, cách

kiếm sống và duy trì nòi giống của các loài động vật khác nhau. Hình ảnh của

chú ngựa Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ đang ở vùng thảo nguyên Mông

Cổ với cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của mình thì bất chợt gặp sự thay đổi.

Đó là một chú ngựa sinh ra trên một đồng cỏ thuộc miền Nam nước Mông Cổ,

kéo dài từ chân núi Antai cửa ngõ của sa mạc Gôbi. Tác giả đã miêu tả đây là

vùng thiên nhiên khắc nghiệt của thế giới. Với mùa hè chói chang, nóng bức và

gió bụi, cây cối khô cằn; Mùa đông lạnh lẽo, ảm đạm và bị tuyết phủ kín; Mùa

thu đẹp đẽ, trong sáng nhưng ngắn ngủi; mùa xuân gió lốc, tuyết tan, bão tuyết

và lụt lội nặng nề: “Đây chỉ là một vùng nửa sa mạc mênh mông, lác đác những

cồn cát và phủ một lớp cỏ lưa thưa hầu như cằn cỗi quanh năm. Không một bụi

cây nào có thể sống ở nơi này, trừ một loài cây không lá, thân khẳng khiu như

chiếc gậy, chọc rễ xuống tầng đất sâu thẳm để hút những giọt nước hiếm

hoi”[18;15]. Nơi mà chú ngựa Antai ra đời và sinh sống là một nơi khắc nghiệt

với điều kiện thiên nhiên khó khăn. Tuy vậy nơi đó vẫn nuôi sống chú ngựa

cùng bầy đàn của mình. Nhà văn Vũ Hùng đã miêu tả chi tiết về đặc điểm của

Antai: “Loài ngựa của tôi khảnh ăn, nhặt từng nhánh cỏ non, đi lướt ở phía

trước. Theo sau chúng tôi là những bầy dê: họ vốn nhanh nhẹn, thiên nhiên

cũng đã phú cho họ những cẳng chân nhẹ tênh, chẳng khác gì loài ngựa. Tiếp

sau đó đến các bác bò yak lực lưỡng, mang bộ lông rậm rịt, lòa xòa. Cuối cùng

là những đàn lạc đà và những đàn cừu chậm chạp. Họ lầm lũi, kiên nhẫn nhặt

nhạnh những cọng cỏ còn vương lại và khi bầy đàn chúng tôi lướt qua, cỏ của

45

một vùng đã bị gặm trụi, phải mất nhiều tháng sau mới mọc lại”[18;15]. Chỉ

bằng một đoạn văn ngắn, độc giả đã hiểu được cách thức kiến ăn của một cộng

đồng loài vật: ngựa, bò yak, lạc đà, dê, cừu... trên một vùng thảo nguyên rộng

lớn. Chúng chia sẻ với nhau chút thức ăn ít ỏi trên thảo nguyên với đặc tính

riêng của từng loài.

Những đặc điểm khác của loài ngựa được Vũ Hùng miêu tả một cách cụ

thể. Loài ngựa là một loài động vật có trí nhớ lâu bền, có tuổi thọ khoảng ba

mươi và ngựa thảo nguyên sẽ sống lâu hơn ngựa nuôi vì nó được sống trong môi

trường hoang dã, trong lành: “Thiên nhiên không bắt chúng tôi phải chịu một

thời sơ sinh kéo dài và một tuổi già triền miên dai dẳng. Thời bất lực của chúng

tôi – thời phải nhờ cậy mẹ cha che chở - không vượt quá hai năm. Tuổi già đến

đột ngột nhưng mau chóng”[18;22]. Xung quanh chú ngựa Antai không chỉ có

bầy đàn của nó mà còn có rất nhiều các loài động vật khác: “...các bác bò yak

với những tấm áo lòa xòa màu đen hoặc nâu sẫm, đàn lạc đà đứng cao lêu

nghêu với những chiếc bướu to phồng trên lưng, dê và cừu chen chúc ở phía

dưới”[18;22]. Những chú ngựa non được sinh ra bị ẩm ướt và rét mướt làm cho

yếu đuối. Còn những con bò yak mới sinh “nhờ có bộ lông dày nên không thấy

rét, đứng vững trên những cặp chân ngắn, đang thở phì phì. Họ có dáng dữ tợn

ngay từ thưở lọt lòng. Bọn lạc đà con, cao lêu nghêu như bố mẹ họ, trông chẳng

cân đối chút nào: chân và cổ họ quá dài nhưng mình lại quá ngắn và bụng sớm

to tròn. Đó là một đặc điểm bẩm sinh: họ cần chứa nhiều cỏ trong mùa hè để

sản xuất nhiều mỡ dành cho mùa đông... Họ có cặp mắt rất đen và rất lớn, nhìn

đâu thì đăm đăm, lộ bao vẻ ngơ ngác, rụt rè...”[18;22]. Khi có bão tuyết nổi lên

trên thảo nguyên, các loài động vật cùng quy tụ nhau lại để cùng giúp nhau tồn

tại. Đó là sự đoàn kết: “Đàn bò yak, đàn lạc đà và cả bầy ngựa của tôi cũng tìm

về sau dãy đá. Tất cả không giữ riêng bầy như mọi khi mà chen chúc lẫn lộn làm

thành một khối đông cho ấm. Cừu và dê nằm ở vòng trong, rồi đến ngựa và lạc

đà. Cuối cùng là các bác bò yak, họ luôn luôn ở vòng ngoài vì họ có tấm áo ấm

rất dày. Tất cả đều nằm xuống để tránh gió”[18;28]. Những chú ngựa mẹ thì

“tựa lưng và vùi đầu vào nhau, làm thành một vòm mái để che cho bọn ngựa

con”[18;28]. Đó là kinh nghiệm trong bầy ngựa, nếu ngựa mẹ cũng nằm xuống

thì bầy con sẽ bị tuyết vùi cho chết ngạt hoặc chết cóng. Khi gặp bất ngờ hoặc

46

không vừa ý điều gì đó, những chú ngựa lập tức hí vang và dựng hai chân trước

lên, khua khua trong gió. Những chú ngựa đồng cỏ vốn quen với môi trường

sống mênh mông trên đồng cỏ thảo nguyên với thức ăn là cỏ gai và lúa mạch

nay bị giam cầm trong những chiếc lồng sắt: “Người ta nhốt chúng tôi trong cái

chuồng chật hẹp, bốn phía là những gióng gỗ ngổn ngang. Ngày đêm chúng tôi

thiếu khoảng rộng, thiếu không khí và thiếu gió”[18;91] sẽ làm cho chú ngựa

bức bối và khó chịu. Có thể thấy đời sống của loài ngựa ưa chuộng sự tự do và

phóng khoáng.

Trong truyện Bí ẩn của rừng già, nhà văn Vũ Hùng đã miêu tả tỉ mỉ về

đời sống sinh hoạt của một số loài động vật. Hươu nai vốn là những con vật hiền

lành và can đảm. Chúng làm tổ và ẩn náu trong những bờ lau, bản năng sinh tồn

đã khiến chúng chọn bờ lau là nơi để tránh kẻ thù: “Đường vào ổ bừa bộn lá

khô, không một kẻ thù nào đến gần mà chúng lại không biết trước để phóng

chạy”[32;12]. Hươu nai là những con vật cân đối, nặng không quá 60 ki lô gam,

“bộ lông mịm màng thay đổi tùy theo con từ màu vàng tươi sang màu vàng

sậm”[32;12]. Chúng cũng thường sống ở gần vùng đầm lầy với đặc tính bơi lội

giỏi và không ngần ngại đánh bại lũ chó săn. Một loại khác trong bầy Hươu nai

là bọn Cà tong, chúng là những con vật thanh mảnh và có bốn cẳng chân nhẹ

tênh: “Khi mới ra đời, chúng mặc một bộ áo vàng chi chít những đồng tiền

trắng. Năm tháng qua đi, những dấu trắng ấy bay dần như sao đêm rời khỏi bầu

trời buổi sớm và khi chúng bay hết thì con thú bước vào tuổi trưởng thành. Cà

tong sống ở những trảng cỏ xa vắng nên ít gặp người, chúng rất vụng dại”.

[32;14]. Chúng không nhận ra rằng con người là mối nguy hại đối với chúng.

Khi chú nai con ra đời được chừng mười tháng, cặp gạc đầu tiên bắt đầu

mọc:“Mầm non của cặp gạc gây cho chú nai biết bao đau đớn. Nó ốm khặc khừ.

Nó tìm vào một nơi tĩnh vắng, nằm phục trên một nệm lá, chờ cho cặp gạc trồi

ra. Cuối cùng, sau cơn đau đớn, ở hai bên trán của chú nai con mọc ra hai

chiếc sừng non. Người ta gọi chúng là nhung vì chúng được bọc trong một lớp

da lông mịn như nhung. Cặp nhung thường chia nhánh và rắn lại thành đôi gạc.

Chú nai con trưởng thành”[32;15]. Nhờ đôi gạc, chúng có khả năng tự bảo vệ

mình khỏi thú dữ đồng thời kiếm ăn một cách dễ dàng.

47

Ba yếu tố tạo nên sức mạnh trong rừng. Đó là sức khỏe, tinh thần họp bầy

và tinh thần cảnh giác. Trâu rừng là những con thú hội tụ đủ ba yếu tố đó. Trâu

rừng sinh sống ở những đồng cỏ dưới núi: “Chúng chỉ di chuyển khi nào có hạn

hán, đồng cỏ bị nắng hun khô cháy và khi có mưa chúng lại trở về. Nơi chúng

sinh sống bao giờ cũng là một đầm nước hoặc một dòng sông. Đó là nơi chúng

ngâm mình sau khi đã ăn no”[32;21]. Chúng có tinh thần đoàn kết cao độ:

“Chúng đi kiếm ăn rồi trở về nơi ngủ đêm nằm thành vòng tròn, bên trong là

trâu già, trâu mẹ và nghé con, bên ngoài là trâu mộng”[31;22]. Khi ngủ, chúng

phân chia nhau canh gác nghiêm ngặt: “Con trâu đầu đàn, con trâu mộng vạm

vỡ, nặng suýt soát một tấn, canh giữ an toàn trong những giờ đầu tiên. Lúc ngửi

thấy hơi lạ, nó đứng phắt dậy, hét ầm ĩ và lúc lắc cặp sừng nhọn. Chỉ khi nào

thấy yên tâm nó mới lại nằm xuống và thong thả nhai lại mớ cỏ kiếm được từ

buổi chiều. Sau đó đến lượt một con trâu mộng khác canh. Con đầu đàn thở phì

phì báo hiệu và con kia cũng thờ phì phì để đáp lại là nó đã nhận nhiệm vụ. Cứ

thế nhiệm vụ canh gác được truyền nhau trong lũ trâu mộng, từ con này đến con

khác ở vòng ngoài”[32;24]. Những con trâu mộng đầu đàn gánh vác nhiệm vụ

to lớn là bảo vệ đàn khỏi thú dữ ăn thịt. Nó có tinh thần quả cảm cao và sẽ

không bao giờ bỏ chạy hay bỏ cuộc: “Con trâu mộng đầu đàn sẽ đối địch với hổ

trong lúc đàn trâu đứng cả dậy và con trâu mộng thứ hai đã nghênh sừng lên

sẵn sàng. Không bao giờ con đầu đàn bỏ chạy. Nó chiến đấu tới chết và khi nó

gục xuống thì ngay lập tức con trâu mộng thứ hai sẽ xông vào thay thế. Trong

trận quyết đấu, phần thắng thường nghiêng về phía trâu mộng vì nó dai sức và

chịu đòn giỏi hơn”[32;25].

Tê giác là con thú đồ sộ, nặng chừng hai tấn, nó di chuyển chậm chạp và

để lại những dấu chân in hằn trên đất rừng: “Nó khoác bộ da có nếp gấp trông

tựa chiếc áo giáp và mang chiếc sừng nghênh ngang trên sống mũi”[32;29].

Thời xưa và cả thời nay, Tê giác luôn bị săn lùng gắt gao nên giống loài ngày

một hao hụt. Nó là con vật cổ sơ và cô độc. Nó lang thang đi tìm bầy đàn của

mình ở khắp nơi để duy trì giống nòi: “Nó đi suốt đêm, đuổi theo cái bóng của

đồng loại không bao giờ tìm thấy, vừa đi vừa kiếm ăn, sáng ở đâu thì tìm một

chỗ rậm rạp để giấu mình ở đó rồi tối đến lại lên đường”[32;30]. Cùng giống

như hươu nai, tê giác là một loài vật hiền lành:“Nhưng nó phàm ăn, ăn cả gai

48

góc nên nước dãi lúc nào cũng rớm máu”[32;30]. Nó còn là một con vật đần

độn chuyên uống nước đục :“Nhìn dòng nước trong, nhìn thấy bóng biến dạng

của chính mình, nó tưởng kẻ thù liền nhảy xuống húc và giẫm đạp. Tới khi nước

đục ngầu và không trông thấy cái bóng đâu nữa, nó tưởng đã đuổi được kẻ thù

đi xa và lúc ấy mới yên tâm vục mõm xuống uống những hớp nước đầy bùn”

[32;30].

Hổ được coi là loài hắc ám trong rừng, nó uyển chuyển, nhanh nhẹn,

mạnh mẽ và hùng tráng: “Con vật thường mang bộ lông vàng với những vằn

đen, bộ lông hòa hợp với rừng. Khi hổ rình nấp thì rất khó phát hiện. Bộ lông

của nó biết đánh lừa, màu lông vàng hòa vào nền đất đầy lá úa và những vằn

đen lẫn với những cành củi khô. Trông con vật giống một mô đất có gác những

cành củi”.[32;44]. Cũng như tất cả các con thú có sức mạnh, hổ không bao giờ

sợ bị tấn công bất ngờ. Nó ngủ suốt ngày nhưng lại đi săn mồi vào ban đêm:

“Nó có cặp mắt xuyên bóng đêm, thấy rõ con người trong những căn nhà đã tắt

lửa. Cặp mắt ấy có sức thôi miên, nhìn con vật nào thì con vật ấy không đủ can

đảm và sức lực để chạy trốn. Tai hổ tinh tường, nghe rõ những bàn định của thợ

săn, dù nó đang ở rất xa trong rừng”[32;45]. Nhà văn Vũ Hùng còn đưa ra

những nhận định rất thú vị: “Hổ coi con người là kẻ thù truyền kiếp. Mỗi đêm,

bắt đầu cuộc săn, bao giờ nó cũng nghĩ trước hết đến việc báo thù con người.

Nhưng hổ lại rất hay quên. Khi tai nó chạm vào lá rừng, nó quên hết mọi chuyện

và thế là chẳng bao giờ nó thực hiện được ý định đó”[32;45].

Báo là loài thú dữ thứ hai đứng sau hổ. Chúng có hai loại là báo gấm và

báo đen:“Báo leo dây giỏi hơn mèo, đi từ cành nọ sang cành kia nhẹ lâng không

một tiếng động. Nó mềm mại nằm rình trên cao làm người thợ săn rất khó nhìn

rồi bất thình lình nhảy xuống. So với loài hổ thì báo tàn bạo, dữ tợn và nham

hiểm”[32;50]. Chó sói cũng là nỗi ám ảnh đối với các loài thú lành: “Trên

Trường Sơn, chó sói hợp thành bầy, bầy nhỏ ba bốn con, bầy lớn mươi con.

Chúng sống phân tán trong những hang hốc tối tăm, ban ngày ngủ, ban đêm

hợp đàn đi kiếm mồi. Trông chúng xấu xí, bộ lông màu xám hoặc màu vàng rơm

lúc nào cũng khô xác và lởm chởm. Chúng có cặp mắt nảy lửa và tiếng tru gọi

săn đầy uy lực. Người ta bảo nhiều khi lũ sói ngồi dưới những tàng cây nơi bọn

khỉ và vượn ngủ đêm, ngửa cổ lên tru những hồi ghê rợn. Chúng không phải làm

49

gì hơn, hiệu lực tinh thần đã thừa đủ. Lũ khỉ và vượn non giật mình, rời tay bám

cành, rơi lả tả xuống mõm chúng”[32;52].

Lũ thú lành còn có một kẻ thù nữa là chồn ma. Giống như báo, chồn ma

leo trèo giỏi và chạy nhanh như hươu nai: “Chồn ma thường rình bọn hươu nai

ở ven rừng, con thì nằm nép trên những tàng cây đầy chồi non, con thì ẩn náu

dưới những bụi rậm bên cạnh. Bất hạnh cho con hươu nai nào bị những chồi

non hấp dẫn đến gần chỗ chồn ma rình nấp. Từ trên cao chúng nhảy xuống,

bám chặt và cắn vào cổ nơi có động mạch lớn, bọn trong bụi rậm thì nhảy lên

cắn vào khoeo chân”[32;55].

Nhờ có vốn kiến thức sâu rộng về thiên nhiên và muôn thú cùng khả năng

quan sát tinh tế, nhà văn Vũ Hùng đã giúp cho người đọc hiểu và biết thêm về

bản năng sinh tồn cùng cách sống khác nhau của mỗi loài động vật.

2.2.2. Thế giới nội tâm

Trong truyện của nhà văn Vũ Hùng, mỗi con vật không chỉ hiện lên với

vẻ đẹp của ngoại hình và đặc tính riêng mà còn mang đời sống tâm hồn phong

phú. Chúng sống và sinh tồn theo những đạo lý riêng và có sức hấp dẫn với trẻ

thơ cũng như người lớn bởi những tính cách cao đẹp. Tình mẫu tử là tình cảm

thiêng liêng và cao quý đối với xã hội loài người. Không chỉ có vậy, giữa quần

thể các loài động vật, tình mẫu cũng tồn tại. Ở đây, tình cảm này không được thể

hiện qua hệ ngôn ngữ nói mà thông qua hành động, sự chăm sóc và dạy dỗ của

các loài động vật.

Chú ngựa đồng cỏ Antai được hưởng dòng máu cường tráng, hoang dã

của cha – một con ngựa hoang dã và dáng dấp đẹp đẽ của mẹ – một con ngựa

nuôi. Vào một buổi đầu xuân, tuyết chưa tan và cỏ vẫn bị vùi lấp trong những

lớp tuyết dày, Antai được sinh ra, chú đứng bỡ ngỡ vì chưa quen ánh sáng với

bộ lông ẩm ướt khiến chú rét run: “Gió đồng nội lùa qua bộ lông đang còn ẩm

ướt của tôi, khiến tôi rét run”[18;21], mẹ chú ngựa dù còn đang rất yếu nhưng

vẫn lo lắng cho đứa con của mình: “có lẽ vì trời quá lạnh và vì đã sinh đẻ nhiều

lần, mẹ tôi mệt rũ. Mẹ đứng thở hổn hển, hơi thở trông rõ thành từng luồng khói

trắng trong không khí giá buốt... mẹ cúi xuống liếm những hạt muối. Hơi thở

nóng hổi của mẹ luồn qua đám lông, phả trên làn da của tôi khiến nó săn lại rất

mau. Mẹ tôi được muối làm hồi sức, còn tôi thì được hơi thở của mẹ làm ấm áp

50

dễ chịu”[18;22]. Tình yêu thương của những người mẹ còn được kết tinh từ

dòng sữa ngọt ngào: “Tôi bú chộp chộp, khoan khoái nuốt từng giọt sữa ngọt

ngào và lát sau tôi đã no căng”[18;22]. Nhờ sự chăm sóc của ngựa mẹ, Antai

dần quen với ánh sáng của cuộc sống bên ngoài, chú thong thả ngắm nhìn và

cảm nhận về thế giới xung quanh.

Nuôi dưỡng và dạy dỗ đứa con của mình là một điều tuyệt vời nhất.

Không có người mẹ nào lại mong muốn con cái của mình gặp những bất hạnh và

nguy hiểm trong cuộc sống. Dạy bảo con cái là điều khó khăn nhưng họ luôn

hướng chúng theo một con đường ít sai trái nhất có thể. Loài vật cũng như vậy.

Chúng cũng dạy bảo con cái của chúng theo những luật lệ riêng biệt của từng

loài. Mẹ của Antai theo sát mọi hoạt động của chú, khi Antai mải rong chơi,

ngựa mẹ vừa lo lắng vừa nghiêm khấc nhắc nhở: “Từ nay tới ngày các con khôn

lớn, đừng làm một việc gì mà không hỏi ý mẹ. Con không thấy gió lạnh đang nổi

hay sao? Nó từ phương Bắc xuống, mang theo bão tuyết. Đêm nay bão tuyết sẽ

tới”[18;27]. Và cũng chính dưới trời bão tuyết đó, ngựa mẹ đã che chắn gió

tuyết cho Antai, nhờ hơi ấm của ngựa mẹ và sự giúp đỡ của ông chủ, chú ngựa

Antai đã sống sót. Ngoài ra ta có thể thấy, tình cảm của những đứa con dành cho

mẹ của mình như hình ảnh của chú lạc đà Mic trong câu truyện. Mic bị bão tuyết

làm cho lạnh cóng và cứng queo như một khúc củi. Ông chủ đã mang Mic vào

nhà và sưởi ấm. Khi Mic tỉnh dậy, chú kêu lên: “Mẹ tôi đâu?, tôi phải “về với

mẹ”; “bão tôi cũng về, tôi không muốn để mẹ ở một mình ngoài ấy”[18;32] rồi

Antai cũng nhớ tới mẹ và bầy đàn cũng đang run rẩy ngoài trời giông bão.

Những người mẹ đang run rẩy ngoài trận bão tuyết kia hẳn sẽ cảm động lắm khi

biết những đứa con yêu quý cũng đang lo lắng cho mình. Để giúp Antai sinh tồn

và chống chọi được với điều kiện khí hậu vùng thảo nguyên khắc nghiệt, ngựa

mẹ đã dạy bảo chúng rất nhiều điều: “Một con ngựa thảo nguyên cần phải khỏe

mạnh, nhanh nhẹn và thông thạo các luật lệ của cuộc sống rừng. Mẹ đã dạy tôi

những luật lệ đó. Nhờ mẹ, tôi đã phân tích được những cơn gió để đoán nhận sự

biến chuyển của thời tiết. Tôi biết lắng nghe để hiểu gió nói gì: nó là kẻ truyền

tin của thú rừng. Hãy nhìn đàn ngựa đang ăn trên thảo nguyên. Tất cả đều quay

về hướng gió. Gió là bạn chúng tôi. Gió nói với chúng tôi bằng tiếng rì rào và

mang đến cho chúng tôi hơi lạ để chúng tôi đề phòng”[18;42]. Ngựa mẹ còn

51

dạy ngựa con nhận biết các loài cây, cây nào ăn được, cây nào cần tránh xa:

“Vào những bữa đi ăn, mẹ dạy tôi nhận biết các loại cây cỏ, thứ nào ăn được,

thứ nào độc, cây cỏ nào có thể dùng làm thuốc cho loài ngựa...”[18;42] Dù có

vóc dáng lực lưỡng, cường tráng và quen với nắng, mưa, gió, bão, tuyết nhưng

những chú ngựa đồng cỏ cũng hay bị ốm đau. Tuy nhiên, chúng sẽ tự chữa lành

cho mình bằng những loại thuốc có sẵn trên đồng cỏ bao la nhờ sự hướng dẫn

của ngựa mẹ. Loài ngựa cần có trí nhớ lâu bền, ngựa mẹ cũng thường xuyên

giúp con rèn luyện điều đó: “Sau những bữa ăn no, mẹ thường dạy tôi luyện trí

nhớ và nhận hơi. Loài ngựa chúng tôi rất nhớ chủ cũ, nhớ nơi ăn ở, không bao

giờ lạc đường, ngay cả trong đêm tối. Đó không phải là một khả năng tự nhiên.

Muốn có nó phải rèn tập”[18;43]. Những con ngựa mẹ vạch ra những bài tập để

giúp ngựa con tập luyện: “Tôi rất ham những buổi tập cùng Xam. Mẹ Xam và

mẹ tôi đi những vòng rộng trên thảo nguyên. Dấu chân của họ lẫn vào muôn

ngàn dấu chân bừa bộn khác, nhưng vạch thành những con đường mà chúng tôi

nhận biết được tuy đó chỉ là những vết tích vô hình... Công việc bước đầu thật

khó khăn! Dấu chân chi chít nhiều đến nỗi dấu chân mẹ đôi khi chìm đi, tôi

không nhận ra được”[18;43] nhưng ngựa mẹ luôn theo sát quá trình tập luyện

của Antai để chỉ bảo và hướng dẫn: “Antai, con lầm rồi! Sao lại thế? Rà mũi

xuống thấp chút nữa đi!”[18;43]. Cứ như vậy, chẳng bao lâu những chú ngựa đã

quen với cách nhận biết dấu vết và các bài học rèn luyện trí nhớ. Ngựa mẹ cũng

luôn dạy ngựa con biết thích ứng với những đòi hỏi của đồng cỏ, không được đi

chơi xa và không ngủ một mình trên thảo nguyên dù là ban ngày. Lời dạy bảo

của mẹ là đúng đắn nhất. Nhưng chú ngựa Antai cũng hay nghịch ngợm và nông

nổi: “Một bữa tôi rủ Xam chạy thi tới một vùng xa tít, xa đến nỗi ngoảnh lại

nhìn mãi mà không thấy bóng dáng của bầy. Tới một vũng nước, chúng tôi đã

mệt lử. Uống xong tôi rủ Xam nằm xuống. Cả hai cùng thiu thiu. Lúc này tôi

chợt nhớ tới lời mẹ nhưng không chống lại được giấc ngủ. Mẹ lo xa đấy thôi, tôi

tự bảo mình. Giờ này làm gì có sói trên thảo nguyên. Trước khi nằm xuống,

chúng tôi đã cẩn thận nhìn khắp nơi, không thấy một điều gì khác thường: gió

thổi tới không mang một chút hơi lạ. Thế là chúng tôi yên tâm nhắm mắt và cả

hai cùng ngủ thiếp đi”[18;44]. Chính vì không nghe lời mẹ, Antai và bạn đã

phải nhận lấy hậu quả và một bài học nhớ đời. Trong lúc Antai và bạn ngủ thiếp

52

đi, đàn đại bàng, kền kền, chim ó,... đã đến. Chúng tưởng những chú ngựa là xác

chết và sà xuống rỉa thịt. Trong lúc vội vàng chạy trốn, đầu Antai đã đập mạnh

vào mắt bạn khiến con mắt u lên và lồi to: “nhử mắt kéo đầy. Gió thảo nguyên

cuốn cát bụi rắc vào con mắt Xam khiến nó càng sưng húp. Vừa nhắm một bên

mắt vừa đi, đầu Xam như nghẹo hẳn về một bên”[18;46] Còn về phần Antai, chú

bị một vết thương trên bụng, mãi mới lành và đóng sẹo. Mỗi khi nhìn vết sẹo đó,

Antai đều ân hận về việc làm của mình và chú đã có một bài học thích đáng.

Tình mẹ còn được nhà văn Vũ Hùng thể hiện sâu sắc trong các câu truyện. Khi

đàn sói kéo đến rình đàn gia súc, những con vật bị đe dọa, đặc biệt là những con

non. Sói dùng cách hăm dọa tinh thần để tách các con non ra khỏi vòng vây bảo

vệ, những con vật non yếu vì không cưỡng lại được sự hăm dọa của sói đã bỏ

bầy chạy trốn và thiệt mạng. Trong bầy đàn gia súc, một chú lạc đà non đã bị sói

ăn thịt. Lạc đà mẹ vì mất con nên kêu thất thanh, rền rĩ: “Loài lạc đà yêu con

đến chừng nào! Có những bác lạc đà mẹ mất con thổn thức suốt mùa đông. Họ

không chịu ăn uống đến nỗi bướu mỡ xẹp xuống, thân hình gầy rạc, chỉ còn da

bọc xương. Phải chờ đến mùa xuân, mùa sinh sản, họ mới nguôi nỗi buồn và

chịu ăn uống chút đỉnh để chờ đợi một đứa con khác sắp ra đời”.[18;64]. Mất

con là một sự mất mát và đau thương quá lớn đối với những người mẹ. Tấm

lòng những người mẹ trong mỗi loài vật đã cảm hóa được tâm hồn trẻ thơ.

Chú chó mẹ trong truyện Các bạn của Đam Đam tuy chỉ hiện lên qua vài

dòng miêu tả của tác giả, nhưng chúng ta cũng đã cảm nhận được tình yêu

thương và bảo vệ con cái của nó. Khi bị người lạ mang nguy hiểm đến gần đàn

con: “Chó mẹ chồm ngay dậy. Nó nhe nanh, gầm gừ và giận dữ nhìn kẻ gây sự

với nó bằng cặp mắt sáng quắc. Người chủ suỵt một tiếng dài. Con chó mẹ nhẫn

nhục cúi xuống. Nó lẫy mõm dũi vào bầy con, hẩy những con bám ở trên và cắn

gáy một con nằm dưới, bước ra khỏi ổ... con chó mẹ đặt nó xuống sàn rồi nhanh

nhẹn bước vào ổ lần lượt tha những con khác ra ngoài đặt kề bên”[29;15]. Chó

mẹ bảo vệ, chăm non và tránh nguy hiểm cho những đứa con. Đó là tình mẫu tử.

Hay như loài chim gáy trong truyện Phượng Hoàng Đất hy sinh thân

mình lao vào nguy hiểm để bảo vệ đàn con: “Một buổi chiều khi chim bố và

chim mẹ đi kiếm mồi, một con diều hâu đã nhìn thấy lũ chim nhỏ. Nó liệng vòng

giữa trời, cái đầu nghiêng ngó xuống khắp rừng. Từ trên cao thẳm nhìn xuống

53

như thế thì còn cái gì mà đôi mắt soi mói của nó chẳng nhìn thấy. Diều hâu sà

xuống đỗ bên cái tổ của đôi chim gáy. Lũ chim non thấy động, tưởng chim bố và

chim mẹ đã về, vội mở mắt vương cổ lên đòi ăn. Gặp đôi mắt nảy lửa của diều

hâu, chúng sợ quá, gục đầu lên lưng nhau và run bần bật...”[34;3]. Thấy bóng

dáng diều hâu, vợ chồng chim gáy vội vã bỏ mồi quay về tổ. Chúng lao đi vun

vút như những mũi tên. Diều hâu đang cà vuốt cho sắc để cắp chim gáy con.

Chim bố và chim mẹ không lao vào đánh diều hâu vì chúng biết chỉ một mỏ của

diều hâu là đủ giết chết chúng. Chúng nghĩ mưu lừa diều hâu: “Chim mẹ và

chim bố cùng sã cánh, bay chập chờn trước mặt kẻ thù. Trông chúng vật vờ như

đôi chim ốm, diều hâu chỉ việc giơ vuốt là cắp được... Thế là diều hâu dang

cánh bay lên. Đôi chim gáy vụt trở lên nhanh nhẹn. Chim mẹ vội lao xuống, bay

ngay về tổ trong lúc chim bố xập xòe bay đi, lấy thân mình làm mồi cho kẻ thù

đuổi theo. Nó bị bám riết vì diều hâu thấy nó to và béo hơn chim mái. Mỗi lần

diều hâu sà tới, nó lao vút đi rồi lại bay chập chờn, chờ kẻ thù đến gần. Cuộc

săn đuổi rất ác liệt. Nhiều lúc chim bố tưởng đã nguy, những chiếc vuốt nhọn

của diều hâu đã mấy lần quờ trên lưng nó làm những sợi lông nâu rơi xuống lả

tả”[34;4]. Cuối cùng chim bố đã nhử kẻ thù đi xa tổ chim non, nó len lỏi vào

những vòm cây và trở về: “Về đến tổ, chim bố đã thấy lũ con đã được mớm ăn

no. Chúng đang bình yên nằm nghếch đầu lên lưng nhau mà ngủ dưới chân

chim mẹ. Thấy chim bố về, chim mẹ chơm chớp đôi mắt nâu mở rất to... Nhìn

đàn con nguyên vẹn, chim bố cất tiếng gáy dồn vui vẻ”[34;5]. Chim gáy quên

ngay cuộc săn đuổi với diều hâu dù trải qua nhiều cơn nguy hiểm như vậy. Bằng

sự khôn ngoan của mình và tình yêu thương con, chim gáy đã đánh bại được

diều hâu để bảo vệ tổ và những đứa con thân yêu.

Chúng ta còn thấy sự hy sinh của voi mẹ thật đáng nể. Loài voi không có

hang ổ, vì ăn khỏe và bầy đông nên chúng phải thường xuyên di chuyển để tìm

kiếm đủ thức ăn cho cả bầy. Voi mẹ thể hiện tình cảm âu yếm với voi con bằng

cách vỗ vòi nhè nhè vào lưng voi con. Vừa di chuyển, voi mẹ vừa quơ vòi ngắt

vội những chồi lá non trên đường. Khi bầy voi đến một bờ sông mênh mông,

chảy siết với những tảng đá ngổn ngang. Chúng quyết định qua sông khi nhìn

thấy những rừng chuối bát ngát. Chú voi con hoảng sợ khi thấy nước cuộn dưới

chân. Voi mẹ nhẹ nhàng lắc lư cái đầu: “Đừng sợ! Ngậm lấy đuôi mẹ mà đi cho

54

vững”[34;33]. Nó ngúc ngoắc cái đuôi ngắn nhưng mập. Voi con ngậm lấy, nó

cẩn thận lấy vòi cuốn chặt phần trên cái đuôi rồi bước xuống nước: “Nước ngập

tới bụng nó. Hai con voi đực to lớn kèm hai bên, dìu nó đi”[34;33]. Đá dưới

sông trơn và nước chảy siết, mỗi lúc trượt chân, cái đuôi voi mẹ lại căng ra vào

kêu khục khục: “Đã đến giữa sông. Nước càng chảy siết, đá càng gập ghềnh,

voi con loạng choạng... rồi bỗng con voi chúi hẳn xuống. Phựt! Cái đuôi voi mẹ

không chịu nổi nữa, đứt rời ra. Voi con ngã lăn xuống nước giữa các tảng đá,

vòi còn cuộn chiếc đuôi rỉ máu. Voi mẹ vội quay lại và rống lên. Nó kêu không

phải vì đau mà là vì lo sợ. Tiếng rống thảng thốt làm cả bầy voi dừng lại. Mấy

con voi đi gần vội vàng xô đến cứu voi con. Chúng bước vội làm nước sông bắn

tung tóe. Voi mẹ lấy vòi cuốn lấy voi con. Nó gượng nhẹ nâng bổng con lên, mặc

cho dòng máu từ cái đuôi cụt chảy chan hòa xuống nước” [34;34]. Nhà văn Vũ

Hùng đã khẳng định ở cuối câu truyện của mình rằng: Mọi voi mẹ trên Trường

Sơn đều là voi cụt đôi và sự cụt đuôi là biểu hiện của tình mẹ.

Bầy ri cũng là những người cha, người mẹ mẫu mực khi dạy cho con

những đạo lí thường tình. Bầy ri non muốn đi dự hội theo lũ sáo xuống tận đồng

bằng. Chúng nhao nhao đòi mẹ mượn cho đôi cánh của bọn sáo. Ri mẹ kêu lên

lạ lùng và giải thích cặn kẽ cho đàn con hiểu: “Các con nói gì thế? Chẳng ai bay

xa được với đôi cánh mượn của người khác đâu... Không phải cứ cánh to mới

bay được xa. Mẹ đã xuống đồng bằng, khi bay qua các sân nhà mẹ gặp bọn gà

và ngỗng. Họ có những đôi cánh rộng chẳng kém gì cánh phượng hoàng vậy mà

họ vẫn không bay được”[34;7]. Ri bố đồng tình với ri mẹ và nó còn khẳng định:

“Chẳng mấy ai có đôi cánh khỏe như cánh chim ri nhà ta. Các con cứ bay đi,

bay mãi, bay mãi rồi cũng tới được đồng bằng như bọn sáo”[34;8].

Cũng giống như ngựa mẹ, các loài thú dữ cũng dạy con theo các đặc điểm

riêng biệt của loài. Với bản năng khắc nghiệt của hổ, chúng lựa chọn và dạy dỗ

bọn hổ con theo những luật lệ tàn khốc: “...Không bao giờ hổ mẹ để sống

những con hổ con thiếu sức mạnh, không đủ khả năng săn mồi. Khi bọn hổ

con tập nhảy xa và cào xé, lúc chúng được chừng ba bốn tháng tuổi, hổ mẹ

dẫn chúng ra bãi rộng. Nó nằm xuống, bắt lũ hổ con đứng từ xa lấy đà nhảy

qua. Con nào nhảy được nó để sống, con nào rơi trên mình nó, nó vả chết

liền”[32;47]. Cũng giống hổ, báo có cách dạy con hà khắc: “báo mẹ thường

55

hất lũ con non từ trên cao xuống đất và đòi hỏi con nào chạm đất cũng phải

tung được chân và nảy lên như một chú mèo. Hãy coi chừng những đứa con

nằm khuỵ xuống. Báo mẹ nhảy xuống và đứa con đó hết đời”[32;50] ;“Truyền

thống của loài báo là câm lặng. Một con báo không bao giờ kêu dù trong lúc

rình đợi hoặc giận dữ, trong lúc đói mồi hay đã no nê. Để rèn tập cho bầy

con thói quen đó, báo mẹ bấu chúng bằng những vuốt thép. Vuốt cắm vào thịt

lõa máu nhưng không con nào hé miệng. Báo mẹ chỉ cho phép chúng nhìm

bằng cặp mắt chất chứa căm hờn. Những con nào kêu vang rên rỉ hãy coi

chừng, chúng có thể không trở về sau buổi tập”[32;50]. Luật lệ dạy con của

các loài thú dữ thật khốc liêt. Tuy vậy, chúng muốn rèn luyện cho con mình

sự gan dạ và bản lĩnh kiên cường để săn mồi.

Thế giới loài vật trong truyện của nhà văn Vũ Hùng thật phong phú và

ngộ nghĩnh. Ở đó ta không chỉ bắt gặp tình mẫu tử thiêng liêng mà còn có tình

bạn cao cả. Trẻ thơ sẽ thấy bóng dáng của mình ở đâu đó trong từng trang truyện

của ông. Đó là hình ảnh của về những người bạn tốt.

Sao Sao – chú hươu con út trong gia đình Hươu Xám trong truyện Sao

sao đã có một tình bạn thật đẹp với sao Bông. Chú ra đời vào một ngày nắng ấm

tháng ba:“Vừa lọt lòng, được liếm khô bộ lông, hươu con đã sục tìm vú mẹ. Bú

no, nó bỗng thấy da săn, chân cứng. Nó nhỏm dậy, ngơ ngác dịu dàng. Ngả

người trên những cặp chân thanh thanh, nó lướt cái mõm ẩm ướt trên lưng, nơi

mọc rất nhiều những vì sao trắng”[23;1]. Nhìn những dấu vết trắng muốt trên

lưng, bố mẹ đặt tên cho nó là Sao Sao. Ngày xưa, ở làng Hươu thật sung túc,

thức ăn dồi dào “ra khỏi nhà một bước đã thấy thức ăn, nước uống”[23;2]

Nhưng do sinh đẻ quá nhiều, thức ăn ngày càng trở nên khan hiếm. Và làng

hươu đã có một luật lệ, các chàng hươu trưởng thành sẽ đi khám phá và tìm

kiếm những vùng đất mới tốt hơn để dời làng. Các anh lớn nhà Sao Sao đã đều

lên đường, dưới con mắt của những chú hươu làng hươu và Sao Sao, những

chàng hươu đi tìm vùng đất tươi tốt thật can đảm và dũng cảm. Sao Sao cũng ao

ước được lên đường như các anh của mình. Sao Sao có rất nhiều bạn, đều là

những cô cậu hươu đẻ cùng lứa với nó. Nhưng lứa đó, có một cậu hươu còi cọc

và cộc đuôi:“Cộc đuôi là bất hạnh lớn đối với thú rừng”[23;3] và cậu hươu đó

không may mắn khi mới sinh ra đã chịu tật nguyền. Cậu bị gọi là Hươu Cộc.

56

Sao Sao thấy hươu Cộc rất buồn vì điều đó: “Sao sao sớm nhận ra cậu hươu

bạn tuy còi cọc và cụt đuôi nhưng rất tốt bụng. Đôi mắt trìu mến của cậu lúc

nào cũng nhìn đăm đăm... vì người nhỏ, cậu có thể dễ dàng lách vào những chỗ

rậm rạp, vì thế luôn tìm được những vạt nấm ngon để gọi bạn đến ăn cùng. Cậu

còn rất can đảm. Không ai luồn qua gai góc tài bằng cậu. Một lần bầy hươu gặp

thú dữ, chính cậu đã nhử con thú đói mồi đuổi theo vào bụi rậm để bầy bạn chạy

thoát”[23;5]. Một cậu hươu tốt bụng như thế cần có một cái tên đẹp – Sao Sao

nghĩ vậy và chú đặt cho bạn một cái tên mới: Nai Bông. Biết bạn đặt tên mới

cho mình, Nai Bông thầm nhủ phải nhớ ơn Sao Sao mãi mãi. Sao Sao và Nai

Bông chơi với nhau rất vui vẻ, chúng rất thích trò chơi đuổi bắt. Đó cũng là bài

học mà loài hươu cần rèn luyện để trốn chạy kẻ thù. Mùa mưa đến, thời tiết mát

dịu, cây cối mơn mởn cũng là lúc hai chú hươu và những người bạn cùng lứa

mọc trên đầu những chiếc gạc để đánh dấu rằng họ đã lớn: “Hươu Sao và Nai

Bông cùng chồm hai chân trước, họ ngoắc mạnh hai cái gạc vào nhau. Đó là

dấu hiệu tỏ lòng chung thủy trong tình bạn của những chàng trai hươu. Họ đứng

như vậy hồi lâu rồi mới gỡ gạc ra và buông chân xuống”[23;8]. Rồi hươu Sao

nói: “Chúng ta sẽ cùng chia sẻ mọi thứ, từ chiếc nấm, chiếc măng cho đến nỗi

vui buồn. Chúng ta sẽ tìm vùng đất mới để dời làng”[23;8]. Nai Bông trả lời:

“Chúng ta thương nhau, tin nhau từ nhỏ, chúng ta sẽ là đôi bạn đường

dài”[23;8]. Dù bị bố mẹ ngăn cản nhưng Hươu Sao và Nai Bông vẫn quyết định

lên đường:“Nó khỏe mạnh, tâm hồn nó thảnh thơi. Nó đinh ninh về một nơi nó

và Nai Bông sẽ đến: những cánh đồng tốt tươi, thức ăn không bao giờ cạn mà

chưa một chàng hươu nào đặt chân tới, nguồn hy vọng chảy rộn trong máu

nó”[44;10]. Cả làng hươu tiễn Hươu Sao và Nai Bông lên đường với những lời

dặn dò bịn rịn. “Đến ngọn đồi cuối cùng, Hươu Sao và Nai Bông chậm bước.

Trèo lên một tảng đá, họ bâng khuâng quay nhìn quê hương. Trời mây bao la.

Cánh đồng rộng đỏ úa một màu cỏ héo. Đồi tranh nơi họ cất giấu những cặp

gạc đã rụng, vàng hoe vì nắng hun”[23;11]. Lòng hai chú hươu se lại, họ lưu

luyến quê hương và gia đình. Đôi bạn cùng lên đường. Cảnh vật vui tươi hiện ra

trên đường khiến họ vơi nhẹ nỗi nhớ thương. Họ gặp rất nhiều loài vật trên hành

trình của mình. Đó là Hươu Xạ, gia đình chồn Gio, gia đình hoẵng Nâu... và

những trở ngại, khó khăn, thử thách:“Lối lên núi chưa từng có ai qua lại. Dây

57

leo và gai góc mọc kín đường. Rễ cây chồi lên cao, khiến nhiều lúc hươu sao và

nai bông vấp ngã, dù họ sinh ra đã quen với đất rừng. Những thân cây chen

nhau chi chít, chật chội đến nỗi không một kẽ hở lách qua. Cành cây chìa ra

khắp nơi như những mũi tên, chích vào mình hai chàng hươu như những con

mòng. Hươu sao và nai bông lấy gạc rẽ lối mà đi. Khi qua những nơi quá rậm

rạp, họ ngả cặp gạc ra phía sau để che lưng. Chỉ như thế họ mới đi được: Lưng

họ bớt bị gai cào và bộ gạc kềnh càng mới lách qua cành cây. Vậy mà chiều

chiều, khi đến chỗ ngủ, lưng họ vẫn đầy vết xước và đôi chân họ sưng phồng,

rớm máu”[23;25]. Có những đoạn đường, thành núi dựng đứng, hai chàng hươu

không nản lòng mà tìm mọi cách để vượt qua, họ leo dần leo dần cho tới đỉnh

núi, nhưng hết dãy núi này đến dãy núi khác nối tiếp nhau. Mãi mà họ chưa tìm

được vùng đất mới như mong muốn. Rồi mùa đông đã đến, nước bám trên dây

leo đã đóng thành băng, gió bấc thổi hun hút. Dưới cái giá lạnh, hươu sao và nai

bông quên cả ăn uống. Họ lại lên đường. Đường đi lần này dẫn đến một thung

lũng sâu thẳm. Dường như có một mối nguy hiểm nào đó đang rình rập họ:

“Hươu sao và nai bông bước những bước rón rén, đặt chân thật nhẹ trên con

đường ngập lá mục để bớt gây tiếng động. Mũi họ phập phồng đánh hơi, tai

vểnh cao để lắng nghe. Chợt Hươu Sao và Nai Bông cùng đứng sững lại vì một

hơi lạ phả ra từ đâu đó từ sau một tảng đá. Mùi ấy hôi hám và mỗi lúc một nồng

nặc. Đó là mùi của Cọp Vằn. Nhưng khi hai chàng hươu nhận ra thì đã

muộn”[23;27]. Với bộ lông vàng lẫn vào nền đất phủ lá úa, những vằn đen như

những cành củi, Cọp Vằn trườn đến gần hai chàng hươu. Thấy vậy, Nai Bông

kêu to và giục giã bạn mình hãy chạy đi: “Hươu Sao ngả đầu ra sau, lấy cặp

gạc để che vai và lưng rồi chạy đi vun vút. Người nó như bốc cao khỏi mặt đất

và chỉ trong khoảnh khắc, nó đã biến mất sau bờ lau”[23;28]. Còn Nai Bông ở

lại, nó nhìn Cọp trân trân khiến Cọp ngạc nhiên. Tại sao một con hươu mà giám

nhìn cọp như vậy? Cọp Vằn trừng mắt nhìn lại, Nai Bông vì không chịu đựng

ánh mắt dữ dội đó, nó cúi xuống và tập tễnh bỏ đi – nhử con thú theo mình:

“Cọp Vằn chụm chân nhảy vọt tới. Lập tức Nai Bông trở nên nhanh nhẹn. Theo

thói quen của loài hươu, nó hất ngược cặp gạc về phía sau và lấy hết sức phóng

về phía trước khiến cọp vồ trượt. Nai Bông chạy đi như bay. Nhưng để cứu

Hươu Sao, nó đã dành con đường dễ chạy cho bạn. Còn nó, nó rẽ vào một ngả

58

đường rậm rạp. Vóc dáng nhỏ bé lúc này chẳng có ích gì cho nó lắm...”[23;28].

Cọp Vằn đã đến gần, nó giơ tay vả mạnh khiến Nai Bông văng xa. Rồi nó cắn

gáy Nai Bông tha vào sau tảng đá. Về phần Hươu Sao, nó đã biết chuyện gì xảy

ra với bạn mình. Con đường dài thăm thẳm, nó không biết mình có tiếp tục đi

nữa không vì nó cô đơn quá: “Chàng hươu như kiệt sức, nó chui vào một bụi

rậm. Ép đầu xuống hai cẳng chân trước, nó nằm gọi bạn và khóc thầm... Từ hai

khóe mắt nó, hai dòng nước trong veo rỏ xuống ướt đẫm cả hai chân”[23;29].

Rừng cây lạnh lẽo, khắc khoải, Hươu Sao thiếp đi, giấc ngủ nó nặng nề và luôn

chập chờn hình bóng của Nai Bông: “Sao bao nhiêu buồn thương, bao kỷ niệm

khiến nó trằn trọc giở mình sột soạt trên nệm lá”[23;29]. Nó tiếp tục lên đường

với tâm trạng buồn thương. Mất bạn là một điều khủng khiếp đối với nó – nhưng

vẫn phải lên đường. Cuối cùng nó cũng tìm được một vùng đất mới, ở đó có đủ

lượng thức ăn và điều kiện sống cho các loài vật sinh sống. Bằng sự hy sinh của

Nai Bông, nỗ lực của Hươu Sao và sự giúp đỡ của các loài vật, công cuộc tìm

kiếm vùng đất mới đã hoàn thành. Kết quả đạt được tuy ngọt ngào nhưng phải

đánh đổi bằng rất nhiều thứ trong đó có mạng sống của Nai Bông, những vất vả,

gian khổ và cô đơn của Hươu Sao. Qua đó, ta thấy được tình bạn cao đẹp giữa

hai chú Hươu. Nai Bông đã không mảy may suy nghĩ mà đứng ra che chở, giúp

bạn chạy trốn – Đó là biểu tượng của tình bạn thiêng liêng, không suy tính thiệt

hơn, không đắn đo dò xét.

“Nai Bông! Nai Bông!

Ăn nấm, ăn măng

Lớn nhanh như thổi”

Mỗi khi nghe tiếng hát, Hươu Sao lại nhớ tới người bạn rồi nó buột miệng

gọi tên Nai Bông, mắt giàn giụa, chớp chớp đôi mi, cố gắng nén nỗi buồn: “Nếu

còn Nai Bông thì ngày trở về này vui trọn vẹn biết bao”[23;42]. Hươu Sao luôn

nghĩ tới việc Nai Bông đã giúp mình thoát chết và luôn nhớ tới bạn như một sự

biết ơn.

Tình bạn ngọt ngào giữa chú ngựa đồng cỏ Antai với Xam: “Tôi và nó

tiến lại gần nhau. Những bước đi đầu tiên của chúng tôi là những bước đi tới

tình bạn...Chúng tôi gặp nhau giữ đường. Chú ngựa hồng âu yếm cọ đầu vào

sườn tôi, hí bằng một giọng non nớt thanh thanh. Tôi gác đầu lên lưng nó và hí

59

theo khe khẽ”[18;25]. Từ đó họ trở thành bạn. Chúng đã trải qua những trận bão

tuyết, những buổi học dưới thảo nguyên xanh mênh mông, những kỷ niệm êm

đẹp của tuổi thơ, những dại dột... “Xam và tôi đã sống một mùa xuân sung

sướng. Dạo ấy chúng tôi đã đủ sức chạy những quãng dài trên thảo nguyên...

Chúng tôi phi nước đại bên nhau dưới nắng lấp lánh, mặc cho gió thổi tung

những sợi bờm và bộ lông đuôi... Cũng có khi chúng tôi thử sức xem ai chạy

nhanh hơn...”[18;36]. Antai rất hay tự hào về bạn: “Xam có một nước phi tuyệt

diệu. “Phi như tên”, “Phi như gió”, những chữ này hình như vẫn chứ xứng với

Xam. Mặc dù chân rất cao, mỗi khi phi nước đại nó xoải dài ra, tưởng chừng

bụng sắp chạm tới ngọn cỏ...”[18;37]. Antai và Xam cùng trải qua những nguy

hiểm thường trực trên đồng cỏ. Đàn sói tới, “Mùi sói nồng nặc làm tôi và Xam

rùng mình. Bọn tôi chỉ là những chú ngựa non chưa đủ sức lực và khôn ngoan

để đối chọi với chúng. Nhưng dù sao chúng tôi cũng yên tâm, tin vào sự che chở

của bầy. Khi cần chúng tôi có thể chạy thoát nhờ những cặp chân...”. [18;45].

Chúng lo lắng cho chú lạc đà non Mic sẽ vì hoảng loạn mà bỏ bầy và mắc mưu

bọn sói. Antai và Xam tìm cách cứu bạn. Antai chạy về hí gọi ông chủ để cứu

bầy bạn. Tinh thần đồng loại được nâng cao trong nguy hiểm.

Trong cuộc sống thường ngày, Antai và Xam luôn chia sẻ buồn vui: “Tôi

và Xam tính từng ngày chờ Mic...Tôi và Xam vẫn thấy một niềm vui lấp lánh

trong đôi mắt của Mic... Mic đem về cho chúng tôi bao nhiêu quà. Đó là những

câu chuyện đường xa... Chúng tôi lắng nghe, tâm hồn như đang bay khỏi thảo

nguyên theo bước đoàn lữ hành tới những vùng xa xôi mà bầy ngựa chúng tôi

chưa hề một ai biết đến. Biết bao nhiêu là chuyện lạ... Xam và tôi rất thích

những chuyện Mic kể về các thành phố gần kề sa mạc và thủ đô. Đó là những

nơi xa lạ đầy sức lôi cuốn mà không biết bao giờ chúng tôi mới được đặt chân

tới...”[18;72]. Hai chú ngựa đều có những mơ ước xa xôi và mơ mộng: “Xam và

tôi thích nhất câu chuyện về những vòi nước và khi nghe Mic, chúng tôi như

thấy rõ tiếng nước chảy róc rách bên tai. Sao mà hoài phí! Có lẽ chỉ chúng tôi,

những kẻ quen sống trên thảo nguyên mới biết giọt nước quý đến chừng nào”.

[18;77]. Chúng cũng muốn mình được đặt chân tới những nơi xa hơn ngoài đồng

cỏ để phóng tầm mắt ra khỏi thảo nguyên, đến những nơi mới lạ.

60

Tình bạn là sự giúp đỡ nhau. Cô hươu tàn tật trong truyện Phượng hoàng

đất đã được những người bạn giúp đỡ hăng hái: “Bầy hươu con rong chơi thỏa

thích. Có việc gì phải lo đâu: họ chỉ tìm ăn thôi. Mùa đông, kiếm được miếng ăn

thật vất vả nhưng sang xuân thì khác. Bầy cùng đủng đỉnh vươn cổ lên, chỉ bứt

những chồi non. Suốt ngày họ rong ruổi hết bụi này sang bụi khác. Thỉnh

thoảng họ lại xuống suối uống nước. Uống xong, họ lên bờ đứng liếm bộ lông

cho thêm mượt. Rồi họ lại đi, lại chạy, lại nhảy tới những bụi cây có những mầm

lá mới nhú”[34;10]. Cô hươu bé bỏng, tập tễnh xuất hiện trông thật vất vả:

“Một chân sau của cô bị liệt. Bộ lông của cô xơ xác, đầy những vết

bùn”[34;11]. Cô nói với bầy hươu bằng giọng khẩn khoản: “Các bạn ơi! Cho

tôi đi ăn cùng với nhé!”[34;11]. Các cậu hươu tranh nhau đứng vươn hai chân

lên tảng đá và chém rụng mấy cái chồi bằng chiếc gạc của mình. Rồi họ mời cô

hươu tàn tật ăn: “Bạn ăn đi! Ăn đi rồi chúng tôi lấy thêm mấy chiếc búp nữa thật

non”[34;11]. Cô hươu non ăn ngon lành. Mùa đông là mùa khó khăn đối với

bọn thú lành. Những đêm đông giá rét, lũ thú dữ đến rình mồi bên các ổ hươu.

Cô hươu con tàn tật sống nhờ các bác trâu rừng: “Đêm đêm, khi những con hươu

lành lặn tìm ra trú ở những bụi lau giữa đồng và sẵn sàng phóng chạy thì cô

hươu non tàn tật tìm đến với bầy trâu. Cô nằm chen trong đám nghé con, bộ áo

của cô dính đầy bùn vì thế. Các bác trâu già trông non lũ nghé con cẩn thận

lắm. Họ nằm vây lấy chúng, sừng chĩa cả ra ngoài, giữ cho chúng ngủ yên.

Chiều vừa xuống, bác trâu đầu đàn đã đi đếm lại lũ nghé...”[34;12]. Thấy hươu

con, bác không xua đuổi. Còn bọn hươu khi thấy cô hươu non tàn tật, chân bị

liệt, chúng thấy thương cô vô cùng. Chúng chém nhiều chồi non thành đống cho

bạn ăn. Đó là sự giúp đỡ của bọn thú lành với những số phận bất hạnh. Hay như

tình bạn của con tê giác già với lũ sáo sậu. Con tê giác già bị lũ bọ ve, bọ mát

hành hạ: “Bọn tê giác có một bộ giáp rất dày. Ai chẳng tưởng có bộ giáp ấy thì

sung sướng: con vật chẳng còn sợ gì tên đạn và gai rừng. Ngờ đâu, ở kẽ những

mảng giáp, lớp da của nó chẳng dày gì hơn da trâu. Không hiểu vì sao mà bọ ve

và bọ mát biết được điều đó. Bọn chúng thật ranh mãnh. Chúng ẩn náu sau

những nếp gấp của da. Được hơi nóng sưởi ấm, chúng sinh nở đầy đàn và thỏa

thích hút máu”[34;36]. Tê giác bị bọ ve, bọ mát đốt, nó ngứa ran nhưng chẳng

làm cách nào được: “Con vật cuồng lên, thở hồng hộc, giận dữ lao qua các lùm

61

cây, chiếc sừng bướng bỉnh mọc trên mũi nó chĩa ra phía trước để mở đường.

Cành cây gãy răng rắc, lá khô và sỏi đá bắn vung dưới chân nó. Nhưng cơn

ngứa vẫn không hết. Tê giác đứng lại, cà mình vào thân cây. Cây rung bần bật.

Vỏ cây nhẫn đi, da con vật bị mài mòn song cơn ngứa thì không bao giờ

dứt”[34;36]. Mùa đông qua đi, rồi mùa xuân đến, rừng lại xanh lá và tràn đầy

thức ăn. Bọn sáo đen và sáo sậu trở về, tê giác già sung sướng: “Đời đẹp biết

bao nếu có bạn bè để yêu mến và trông đợi. Nó chơm chớp cặp mắt nhỏ ... giọng

ồm ồm nhưng đầy thương mến... Các bạn đi những đâu mà biền biệt

thế?”[34;37]. Sự mong đợi của tê giác được đáp trả. Bọn sáo sà xuống đậu trên

lưng tê giác rồi chúng luồn mỏ vào các nếp da, giúp tê giác bắt những con bọ ve,

bọ mát béo căng. Cuối truyện, nhà văn Vũ Hùng đã khẳng định: “Trong rừng

không thiếu những cặp bạn bè như vậy. Tê giác và trâu rừng kết bạn với bọn

sáo. Lũ heo vòi có cái vòi ngắn ngủn thì kết bạn với bọn cò gà. Heo vòi thường

kiếm ăn trên các bờ suối và đầm lầy, có bọn cò gà đỗ trên lưng. Nếu kẻ thù lại

gần khi chúng đang ăn, cò ngà sẽ bay túa lên báo cho chúng biết. Từ bao đời

nay, tình bạn giữa chúng vẫn khăng khít và bền chặt”[34;39]. Đó là sự tương

trợ, giúp đỡ lẫn nhau của các loài động vật.

“Tự do” là một điều có ý nghĩa rất lớn đối với con người. Loài vật cũng

vậy. Không một loài vật nào ưa sự bó buộc và kìm hãm. Sống cùng con người là

một cực hình đối với chúng. Nếu có cơ hội, chúng sẽ tìm cách đi đến “tự do”.

Rừng, cỏ cây, hoa lá, gió, nắng, mưa...là môi trường sống ưa thích của các loài

động vật. Đối với vẹt, thiên nhiên đất trời là chỗ ở thích hợp nhất. Chính vì vậy,

khi bị cậu bé Đam Đam trong truyện Các bạn của Đam Đam bắt về nhà nuôi,

chú vẹt đã phản kháng dữ dội. Nhà văn Vũ Hùng đã nhìn thấy nỗi khổ đau khi bị

kìm hãm của chú vẹt xanh. Dù được cậu bé Đam Đam nâng niu, chăm sóc

nhưng chú vẹt xanh vẫn bức bối và luôn muốn “xổ lồng”: “Đam Đam lau

những giọt mồi hôi long lanh trên trán... rồi cậu nâng niu lấy con vẹt từ trong

gùi ra, vuốt lên đầu lên lưng nó và buộc vào chạc cây. Khi cậu buông tay, con

chim chợt tung cánh, vụt bay lên như một ánh chớp xanh. Bị giữ lại, nó rùng

mình rơi xuống, chân treo lủng liểng dưới sợi dây buộc. Đam Đam đỡ nó dậy,

đặt lên chạc cây... cậu vuốt lên đầu, lên lưng nó và an ủi... nhưng Đam Đam vừa

buông tay thì con vẹt lại vút bay lên và rơi xuống. Cứ thế, đến lượt thứ chín, thứ

62

mười, nó mới biết mình đã bị xiềng xích và chịu đứng yên. Vét! Vét! Nó tuyệt

vọng gọi bầy, tiếng kêu lanh lảnh xa xăm...”[29;7]. Bà Xi Ta – mẹ của Đam

Đam – không vừa ý với hành động của con trai mình, “một nỗi buồn thương

thoáng hiện trên khuôn mặt bình thản của bà. Bà không chia sẻ niềm vui của

con trai”[29;8]. Bà khuyên Đam Đam hãy thả nó về rừng vì nó sẽ không sống

được trong môi trường kìm hãm. Ông Xi Ta không gay gắt như vợ, ông chỉ hỏi

con trai mình rằng Đam Đam có yêu thương chú vẹt không? Có đảm bảo không

để chú vẹt đói không? Rồi ông Xi Ta chỉ cho Đam Đam thấy những phản kháng

của chú vẹt: “Cả nhà ông Xi Ta vào đứng sau một vách nứa, không còn ai trước

mắt nhưng con vẹt của bầy Vẹt xanh vẫn cúi đầu. Nó lấy đà để cất cánh. Nhưng

vừa định bay lên thì nó chợt thấy chân đã bị vướng dây. Thế là nó đành ép chặt

cánh vào mình và ngẩng lên. Một lát sau, quên mất tình trạng trói buộc, con vẹt

lại cúi đầu lấy đà. Nhưng rồi tức khắc nhận ra cảnh ngộ của mình, nó vội ngẩng

đầu lên. Cứ thế con vẹt gật gù hoài”... “Nó đòi về với bầy trong núi”[29;10].

Con vẹt bị xích luôn muốn dựt xích để bay lên. Cũng giống như con người, khi

bị kìm hãm, tù đầy đều luôn phản kháng và bứt phá để tìm lại tự do. Dù đã hứa

với bố nhưng do mải say sưa bên chú chó nhỏ, Đam Đam lãng quên chú vẹt

xanh. Cậu không còn hứng thú dạy chú học tiếng người:“Nhiều lần cái ống nứa

đựng nước treo trên chạc cây đã cạn, trái bắp buộc bằng lớp bẹ chỉ còn trơ lõi.

Chú vẹt gầy rạc đi. Nhưng càng gầy, nó kêu “Vét! Vét!” càng to. Tiếng kêu vang

vọng như lời trách móc”[29;26]. Bối rối khi nghe tiếng kêu của chú vẹt, cậu

động lòng thương, cậu đã trói buộc nó, lại mải vui đến nỗi để chú vẹt xanh đói

khát. Đam Đam quyết định thả chú về rừng: “Cậu tháo sợi dây, tung nó lên trời.

Con chim bay lên đậu trên ngọn cây dẻ đầu xóm. Nó kêu “Vét! Vét!” dò hỏi.

Tiếng trên cao, tiếng gọi tưởng chừng như vang vọng tới những vách núi. Con

vẹt nghiêng đầu lắng nghe. Nó thoang thoảng thấy tiếng trả lời từ phía xa xăm

vọng về, một thứ tiếng mỏng manh mơ hồ mà chỉ riêng mình nó nhận ra. Nó

tung cánh, vút bay về phía đó”[29;26]. Chú vẹt đã được giải phóng, chú bay lên

gọi bầy và trở về với “tự do” mà chú hằng ao ước. Nhà văn Vũ Hùng đã giải

phóng cho thể xác và tâm hồn chú vẹt xanh.

Chú vượn con Xa – ni trong truyện Các bạn của Đam Đam, dù được

sống trong sự yêu thương của gia đình Xi Ta nhưng vẫn cồn cào nhớ núi rừng và

63

bầy đàn của mình. Khi Đam Đam thấy nó dưới một gốc cây, non nớt và run rẩy,

lòng Đam Đam xao xuyến trước nỗi cô đơn của con vượn: “Cậu vuốt lên lưng

nó. Lớp lông tơ trên mình nó êm mịn. Thân hình bé nhỏ của nó rung lên. Nó

buông hai tay và hé nhìn bằng cặp mắt van xin. Cái mũi hếch ướt át của nó thở

phập phồng... Thân thể vượn con thoảng mùi sữa mẹ và của những búp lá non.

Được ấp ủ, nó bình tĩnh lại. Nó choàng hai tay, ôm lấy cổ Đam Đam như khi ôm

cổ mẹ”[29;58]. Rồi cậu bé đưa Xa – ni về nhà. Cũng giống lần trước, bà Xi Ta

không bằng lòng chuyện đó. Vì bà biết rằng, mọi loài vật đều muốn sống ở rừng,

chúng không sống được ở một môi trường khác. Nhưng bằng tình yêu và lòng

thương của mình, bà Xi Ta và gia đình vẫn chăm sóc chú vượn con yếu đối và

đơn độc. Năm tháng trôi qua, Xa – ni đã trưởng thành, nó rạo rực trong lòng khi

nghe tiếng chim kêu, tiếng ong vỗ cánh. Nó đã trưởng thành và nó cần có một

gia đình riêng. Đã đến lúc nó cần trở về rừng. Mọi người trong nhà Xi Ta đều

buồn khi phải xa nó. Nhưng “hình như Xa – ni không muốn đi. Dưới mái nhà

của Đam Đam nó đã tìm được cuộc sống yên lành. Dù không bị xiềng xích, nó

cũng không đi đâu quá xa. Chưa bao giờ nó vượt khỏi rặng cây và con suối dưới

chân làng”[29;58]. Có phải chính tình yêu thương mà gia đình Đam Đam dành

cho nó, mà nó lại quyến luyến đến vậy! Tuy vậy, bản năng yêu tự do của nó vẫn

trỗi dậy: “Đam Đam đặt Xa – ni lên một cành cây. Con vượn mở tròn mắt nhìn

những cái đã từng in vào ký ức nó: vòm lá xanh, những tảng đá và cái hang sâu,

những sợi dây leo đu đưa, con suối trong reo chảy... Nó nhận ra tất cả, bàng

hoàng như tỉnh dậy sau một giấc ngủ quá dài. Trở về nơi rừng thẳm, nó sống lại

với mọi bản chất thầm kín và bí hiểm của nó. Nó ngồi trên cành cao nhìn rất lâu

xuống Đam Đam, Tha No và con chó. Nhưng tất cả những cái ấy vẫn không đủ

sức giữ nó lại. Con vật kêu “Hu! Hu!” và đu bổng lên cao rồi cứ thế đu mãi đi

xa”[29; 69]. Bản năng muốn sống trong tự do là của tất cả mọi loài vật. Cho dù

được sống trong một cuộc sống đầy yêu thương của con người, thì chúng vẫn

luôn muốn được trở về với rừng, với thiên nhiên và với bầy đàn.

Lôm luông – chú voi trong truyện Người quản tượng và con voi chiến sĩ

cũng mang những nỗi buồn khi xa bầy và giam hãm. Bị lạc bầy trong một con

bão, Lôm Luông bị Ông cháu Đik và dân làng bắt. Chú voi non gào lên để gọi

bầy nhưng bầy đã đi quá xa. Nó bị xích và đứng lắc lư cả ngày bên cái cột gỗ:

64

“Có những bữa, nó không động đến một sợi cỏ, cứ đứng lặng như một tảng đá.

Nó nhớ bầy, nhớ những ngày sống tự do. Nhìn ra rừng, nó rống từng hồi thảm

thiết... Nhiều khi rống đã chán, con voi ngoái đầu lại, hít hơi cây cột gỗ. Không

còn thấy cái mùi hoang dại của rừng già, chỉ thấy mùi mồ hôi mặn như muối

của con người. Đâu đâu cũng chỉ thấy mùi con người: trên cái cột, trên các

vòng xích, trên các dấu chân dưới đất”[26;6]. Không thấy mùi rừng quen thuộc,

nó nổi khùng, quật vòi chan chát vào những vòng xích dưới chân và vung vòi

dọa đánh người qua lại nhưng không đánh được. Nó thở hồng hộc và tỏ vẻ bất

lực. Mang nỗi buồn u ám, Lôm luông luôn tìm cách để tự giải thoát. Vào một

buổi chiều, nó giằng xích và đuổi theo ông già Rem. Mắt nó đỏ như máu. Con

voi điên cuồng cuộn vòi lồng lên, bốn chân nó cuốn bụi... và tung vòi quật ông

già Rem. Vì muốn thoát khỏi sự kìm hãm, con voi đã lồng lên phản kháng. Khi

bị bắt lại, con voi tỏ ra khó chịu, “nó khịt khịt, giẫm châm và tung vòi dọa đánh.

Dọa không được, nó đập vòi bình bịch xuống đất tỏ ý tức giận. Như mọi con voi

rừng mới bị bắt, nó ghét hơi người và tiếng người.”[26;8]. Rồi với sự kiên nhẫn

của ông cháu Đik, con voi đã quen với cuộc sống mới. Hay như những chú voi

trong Bí ẩn của rừng già cũng khao khát tự do: “Những con voi hoang không

dễ gì quen cuộc sống với con người. Vì nó sinh ra trong tự do và đã sống tự do.

Có những con voi đã quen với cuộc sống rừng nên không sao có thể phù hợp với

cuộc sống dưới làng”[32;28]. Chúng kháng cự bằng cách nhịn ăn, nhịn uống

đến gầy rạc: “chỉ còn là khung xương bọc trong bộ da nhăn nhúm, khiến các

quản tượng phải mủi lòng mà thả chúng đi. Có những con quyết liệt hơn, co hai

chân trước lên để nút thòng lòng thít chặt vào cổ. Chúng chọn cái chết chứ

không chấp nhận cuộc đời tù hãm”[26;43].

Cũng giống như con người, các loài động vật cũng có một đời sống nội

tâm phong phú bao gồm tình yêu thương, tình cảm gia đình, tình bạn và khao

khát được tự do, những xung đột trong tâm lí và nhận thức... Đó không phải

là ý kiến chủ quan của nhà văn Vũ Hùng mà là những nhận định được rút ra

từ con mắt quan sát tinh tế của ông thông qua hiện thực trong đời sống các

loài động vật.

65

2.3. Những triết lí mang bóng dáng con người

Thông qua thế giới loài vật, nhà văn Vũ Hùng muốn gửi gắm những triết

lí sống đến với con người. Mỗi trang sách của ông là một câu truyện, một khía

cạnh nhỏ của thế giới thiên nhiên. Cách sinh tồn của mỗi loài vật là một bài học

rút ra từ những kinh nghiệm quan sát thực tế. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân

văn trong từng đời sống các cá thể loài vật.

Con người có câu: “An cư lạc nghiệp”. Nếu cuộc sống được yên ổn thì

chúng ta mới có điều kiện để phát triển. Loài vật cũng như vậy. Cả loài thú lành

và thú dữ đều muốn có một cuộc sống bình yên. Trong truyện Giữ lấy bầu mật

đã thể hiện triết lí đầu tiên của nhà văn Vũ Hùng: “Con gấu không có nhà. Thú

rừng biết lo xa: Cuộc sống của chúng chập chờn những lo âu nên chúng không

bao giờ dám ở yên một chỗ”[19;25]. Thông qua hình ảnh con gấu, Vũ Hùng

muốn khẳng định cái cốt của cuộc sống chính là sự bình yên và an nhiên. Nếu

không có sự bình yên, chúng sẽ không ở cố định. Chúng luôn lo âu, sợ hãi về

nơi sống của mình. Ở cố định một chỗ không có sự bình an là tự hủy hoại giống

nòi của mình. Nên bằng sự khôn ngoan, chúng di chuyển liên tục để tránh kẻ thù

và hạn chế thương vong. Đối với những loài thú dữ, chúng sẽ không sống ở nơi

nào cố định cả. Sẽ khó lòng biết được hang ổ của chúng vì chúng luôn bị con

người săn lùng nên dấu hang ổ rất kĩ: “Không ai biết bầy sói trú ở đâu. Khó

lòng mà tìm thấy hang ổ của chúng trên thảo nguyên dù nơi này mênh mông trơ

trụi. Chỉ biết rằng chúng ở rất xa, mỗi đêm chúng đi kiếm mồi tới vài ba chục

cây số. Vì thế chúng thường xuất hiện vào lúc nửa đêm sau khi vượt qua những

quãng đường dài. Chủ yếu chúng đi tìm những bầy cừu” [18;52].

Trong cuộc săn gấu của ông Poông, B’ru và Phựng, nhà văn Vũ Hùng đã

đưa ra một chân lý: “Người thợ săn già không bao giờ muốn thi sức với thú

rừng. Dùng sức đơn thuần thường thất bại”; “Khi còn ánh sáng ban ngày thì

rừng chưa thuộc về loài thú” và “Con thú nào khi đói cũng rất hung dữ nhưng

lúc no rồi thì đâm ra nhút nhát, lười biếng”[19;59]. Qua đó ta thấy hình ảnh về

sự khôn ngoan và bản năng của thú rừng. Chúng không bao giờ gây sự với nhau

trừ trường hợp bắt buộc. Mọi loài thú đều muốn nhìn thấy con khác chứ không

bao giờ muốn con khác nhìn thấy mình. Người thợ săn cũng chỉ muốn rình theo

con mồi chứ không muốn đấu sức với con mồi. Vì đấu sức đơn thuần sẽ luôn

66

luôn thất bại. Có phải bóng dáng xã hội tiềm ẩn trong mỗi câu truyện của nhà

văn! Bọn sói hoang muốn săn mồi, chúng không lao vào đánh nhau với con mồi

mà hú kêu làm con mồi hoảng loạn: “Bọn sói ít khi săn một con ngựa non.

Chúng biết việc đó là vô ích. Một con ngựa dù còn non cũng có thể chạy nhanh

gấp đôi chúng. Vả lại ngựa non được bảo vệ kỹ. Vì thế khi rình rập một bầy

ngựa bao giờ chúng cũng tìm cách tách rời một chị ngựa cái đang mang bầu ra

khỏi đàn. Chúng đuổi cho chị chạy hết hơi trên đồng cỏ, con này mệt thì con

khác thay phiên, tới khi cái thai sảy ra ngoài mới thôi. Thế là chúng ngừng lại

cắn xé con mồi, để mặc cho con ngựa cái trở về đàn”[18;33]. Chúng không đối

đầu với đám đông mà luôn tách riêng từng cá thể: “Trái lại đối với các bầy lạc

đà, bọn sói thường săn đuổi các con non, tách họ ra khỏi sự che chở của mẹ...

Nhưng bọn lạc đà con thì khác. Họ nhút nhát, vụng về lại chạy chậm nên khi bị

tách khỏi đàn thì hết cách chống cự. Bọn sói sẽ xúm xít lại, cắn vào chân kéo họ

ngã xuống”[18;58]. Bọn sói kéo đến, “chúng không vội vàng, không tru, không

sủa vì biết đối với bọn lạc đà non hiệu lực tinh thần là thừa đủ. Mùi sói sẽ làm

họ hốt hoảng và lúc nào không còn chịu đựng được nữa, họ sẽ rời đàn bỏ chạy.

Lúc đấy đàn sói sẽ đuổi theo”[18;59]. Có phải chính qua cách săn mồi của loài

vật, ta thấy bóng dáng trong cách săn mồi của con người!

Trong truyện Chú ngựa đồng cỏ ta lại thấy những triết lý của nhà văn Vũ

Hùng về khía cạnh tình bạn: “Thật vui thích biết bao khi được tâm sự với những

người thân quen”[18;14]. Tâm sự với những người quen, người bạn là một nhu

cầu của con người cũng như loài vật. Các loài thú có thể giao tiếp với nhau bằng

bộ ngôn ngữ riêng của chúng. Và bao giờ chúng cũng thích thú khi nói chuyện

với những con vật cùng loài. Ông còn khẳng định: “Cái gì tách ra khỏi mối liên

quan của nó mà chẳng mất mát đi ít nhiều giá trị”[18;17]. Các mặt của cuộc

sống đều được liên quan, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Mặt này bổ trợ mặt

kia. Nhưng nếu bị tách ra khỏi mối quan hệ, các mặt sẽ bị giảm sút giá trị của

mình. Giống như một bầy voi, bầy trâu, bò... khi bị tách biệt từng cá thể, chúng

sẽ không còn đủ sức mạnh để chống lại kẻ thù. Chính vì vậy tính đoàn kết sẽ

giúp chúng tránh khỏi thương vong.

Vũ Hùng đã khẳng định: “Ở nơi hoang dã trong lành, người ta sống dài

lâu hơn ở nơi tù hãm”[18;21]. Những loài vật trong truyện có một đời sống nội

67

tâm phong phú. Nhưng có một nét chung ở chúng đó là sự ham thích tự do.

Chúng không muốn sống trong nơi tù đầy. Dù có được yêu thương, chăm sóc,

nâng niu và che chở bằng bàn tay con người thì chúng vẫn muốn được sống

trong thiên nhiên. Giữa cá thể trong cùng một loài và giữa các cá thể khác loài

thì sự kết bạn là một điều quan trọng. Bạn bè sẽ giúp đỡ, bảo vệ nhau trong

những lúc khó khăn và nguy hiểm: “Sống ở thảo nguyên người ta không thể

không có bạn, không có bầy đàn”[18;25]. Không chỉ rêng ở thảo nguyên mà dù

trong môi trường sống nào, loài vật đều cần có bạn bè. Giống như sự che chở

của bầy trâu đối với con hươu tàn tật trong truyện Phượng hoàng đất, tình bạn

giữa con tê giác già với bầy sáo, tình bạn giữa bầy voi với đàn hươu.v.v... Muốn

cùng nhau sinh tồn phải cùng nhau đoàn kết.

Mùa xuân là mùa đâm chồi nảy lộc cũng là mùa có nguồn thức ăn dồi dào

nhất cho các loài vật. Vạn vật sinh sôi vào mùa xuân do điều kiện thời tiết thích

hợp. Nhưng nhà văn Vũ Hùng khẳng định: “Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng

sung sướng như thế”[18;38]. Đúng vậy! Cuộc đời của con vật cũng giống như

con người, có lúc thăng, lúc trầm, biến động lên xuống. Có sung sướng thì cũng

có khổ đau. Không ai biết trước cuộc đời sẽ ra sao nhưng chắc chắn thăng trầm

là sẽ có. Làm sao lũ hươu, nai, lạc đà, ngựa, cừu... biết mình sắp bị sói ăn thịt.

Làm sao báo, bổ, cọp... biết mình sắp bị giết. Qua hình tượng các con vật, chúng

ta nhận thức ra một điều là phải sống thích ứng theo từng hoàn cảnh và cảm

nhận cuộc sống theo những màu sắc khác nhau để không tự cao và cám

dỗ:“Những bài học phải mua bằng giá đắt”[18;46]. Con vật đôi khi ngờ nghệch

đến nỗi không biết những nguy hiểm đang rình rập, vây quanh. Chúng bị giết mà

không hề nhận thức được chuyện gì đang xảy ra. Cũng giống như con người.

Chúng ta hay vô tình, sơ suất mà mắc phải lỗi lầm. Có những lỗi lầm dễ dàng

được bỏ qua, nhưng cũng có những lỗi lầm để lại cho cuộc đời chúng ta những

bài học và kinh nghiệm đắt giá. Tác giả còn đưa ra một loạt các triết lí: “Chỉ

trong lúc phải chờ đợi mới thấy thời gian trôi chậm”; “Muốn thay đổi một thói

quen cũ bằng một thói quen mới cần có nhiều thời gian”. Qua chú ngựa đồng cỏ

Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ, Vũ Hùng đã chứng minh cho triết lý này.

Khi bị chuyển từ vùng thảo nguyên đến đất nước Việt Nam, mọi lối sinh hoạt

của chú ngựa bị thay đổi. Thức ăn lạ, không khí bí bách, ồn ào, không gian bức

68

bối... khiến chú bỏ ăn: “Cỏ Việt Nam rất xanh, rất tươi, thóc Việt Nam rất chắc,

nhưng chúng tôi không quen ăn. Tuần đầu chúng tôi được ăn hoàn toàn cỏ thảo

nguyên và lúc mạch. Tuần thứ hai, cỏ thảo nguyên rút xuống chỉ còn hai phần

ba, chúng tôi phải ăn thêm một phần ba cỏ Việt Nam. Từ những chàng ngựa háu

ăn chúng tôi trở nên khó tính: ai cũng uể oải lấy mõm bới tung đám thức ăn để

nhặt những sợi cỏ gai thơm mùi của những vị thuốc. Tuần sau, lượng cỏ thảo

nguyên rút xuống chỉ còn một nửa. Chúng tôi phải ăn thêm nhiều cỏ Việt Nam.

Từ lúa mạch chúng tôi chuyển dần sang ăn thóc. Thức ăn lạ làm cả đoàn đau

ốm. Người ta phải cho chúng tôi ăn thêm cám, lá tre, rơm khô, cà rốt, bầu bí và

các loại rau. Những thứ đó không hề có trên đồng cỏ nhưng không phải vì thế

mà chúng tôi ưa thích. Cuối cùng cỏ gai và lúa mạch đã hết. Đàn chúng tôi bắt

đầu bỏ ăn. Cả đàn gầy sút trong đám lông bơ phờ”[18;91]. Thức ăn lạ khiến

bầy ngựa ốm yếu, gầy hao. Tuy vậy chúng vẫn chỉ nhớ đến cỏ của thảo nguyên,

không loại rau cỏ nào làm chúng thích thú. Thói quen ăn uống là thói quen khó

bỏ và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của bầy ngựa. Bên cạnh đó, không gian

sống khác biệt cũng làm cho bầy ngựa khốn khổ: “Chỗ ở của chúng tôi cũng

không thích hợp. Người ta nhốt mỗi chúng tôi trong một cái chuồng chật hẹp,

bốn phía là những gióng gỗ ngổn ngang. Ngày đêm chúng tôi thiếu khoảng

rộng, thiếu không khí và thiếu gió. Khí hậu ở nơi này đâu có nóng bức bằng cái

nắng thiêu đốt của mùa hè đồng cỏ nhưng vì vắng những cơn gió, chúng tôi luôn

thấy bức bối khó chịu. Chúng tôi thở hồng hộc trong chuồng. Mồ hôi rỏ ròng

ròng, ướt đẫm bộ lông dày, không phải thứ mồ hôi sủi bọt nhưng chóng khô sau

những chặng đường dài mà là thứ mồ hồi nhớp nhúa, ngứa ngáy và dai dẳng...

Thức ăn lạ, tiếng ồn và những đêm trằn trọc làm chúng tôi gầy guộc...”[18;92].

Thói quen là một thứ khó bỏ nhất trong cuộc sống của con người, đối với động

vật cũng vậy. Từ bỏ nó, chúng ta cần phải có thời gian và sự nỗ lực để thích

ứng. Bầy ngựa cũng cần có thời gian, Nhưng nếu không rèn luyện đúng phương

pháp thì sẽ không có kết quả: “Không ai biết chữa chạy cho chúng tôi bằng

cách gì. Người ta quá coi thường sức mạnh của thói quen. Ở loài người các bạn,

có thể dễ dàng phá bỏ một tập quán nhưng ở loài ngựa chúng tôi thì

khác”[18;93]. Rất may người chủ của bầy ngựa đã có cách giải quyết. Một bữa

anh mang đến hai hòn đá lớn rồi đánh mạnh vào nhau. Tia lửa khét lẹt – mùi của

69

thảo nguyên giông bão: “Người chủ mới vứt hai hòn đá xuống đống cỏ dưới

chân tôi. Tôi hít ngửi mãi: Đó chính là thứ đá của thảo nguyên mà dòng giống

chúng tôi thường liếm sau bữa ăn để có thêm chất khoáng. Cỏ có mùi của đá

bỗng phảng phất một hương vị thân quen. Thế là tôi bắt đầu ăn và sau khi đã ăn

no, theo thói quen tôi liếm trên những hòn đá. Chẳng bao lâu đá bị liếm mòn

vẹt, nhưng nhờ đó bầy chúng tôi bắt đầu quen với cỏ và thức ăn Việt Nam. Mọi

thứ, trước kia xa lạ, giờ đây đã trở thành những món ăn ngon: hàng ngày tôi ăn

mười lăm cân cỏ, một bó lá ngô, một bó mía, năm cân thóc, một cân cám... Theo

lời khuyên từ đồng cỏ, người ta đã mở rộng chuồng và cắt lông cho chúng tôi. Ở

phía sau chuồng, người thợ điện đặt những chiếc quạt gió rất mạnh. Ngày đêm

gió thổi vù vù làm bộ lông không nhớp nhúa mồ hôi...”[18;94]. Thói quen và đặc

điểm sống của bầy ngựa đã được thay đổi nhưng theo cách chậm rãi. Từ bỏ thói

quen là điều có thể làm được tuy nhiên cần thời gian và phương pháp. Nhà văn

Vũ Hùng đã cho chúng ta thấy rằng, ở loài vậy cũng có những thói quen và lối

sống nhất định. Để thích ứng với nơi ở mới, cần thời gian. Qua bầy ngựa thảo

nguyên, ông còn thể hiện nhiều triết lý rất sâu sắc. Tính cách của mỗi con người

một phần cũng do hoàn cảnh sống tạo nên. Loài vật cũng hình thành tính cách từ

mỗi hoàn cảnh sống. Trong đàn ngựa có con ngựa Sêk hung hăng và ngang

bướng: “Ngay từ buổi đầu mới gặp tôi đã thấy ở nó một điều gì không bình

thường. Nó cứ nhởn nhơ trong lúc chúng tôi nhớ quê đến buồn rũ. Hỏi thì nó

nói: Người ta gắn bó với quê hương không vì những tình cảm mơ hồ. Cậu nghĩ

sao nếu ở đó cậu bị ngược đãi?...Trong hoàn cảnh khó khăn người ta sẽ bộc lộ

những đức tính hoặc tật xấu. Sêk đã bộc lỗ nhiều đức tính”[18;98]. Dù thức ăn

được chia ít ỏi, nhưng Sêk không bao giờ ăn tranh thức ăn của các con khác, nó

chỉ ăn đúng nắm cỏ người ta chia cho nó: “Sêk không thích giành giật cái gì của

ai. Trái lại nó thích bênh vực kẻ yếu. Trong bọn tôi có Mi là đứa chập chạp,

hiền lành. Các chàng ngựa háu ăn, sau khi ăn hết phần, thường lén lút luồn đầu

qua bụng Mi để khều những nắm cỏ của nó. Tệ hơn có chàng còn cướp đoạt

công khai. Những lúc đó Sêk không ngần ngại và hục hặc giậm vó, hí vang

những lời cảnh cáo”[18;99]. Chú ngựa Sêk ngang bướng và hung hăng là do có

một tuổi thơ ấu cay cực: “Đồng cỏ quê của Sêk cằn cỗi, bầy đàn thì đông nên ai

cũng đói khát. Sêk không được mẹ dạy dỗ như chúng tôi vì suốt ngày bà còn lo

70

chạy ăn. Chủ của Sêk là một người tàn bạo: ông ta nghiện rượu, không bao giờ

cho Sêk ăn no và đã nhiều lần đánh đập Sêk bằng roi da. Tất cả những điều đó

biến Sêk thành con ngựa bướng bỉnh hay ngờ vực và ưa gây gổ”[18;99]. Nhà

văn Vũ Hùng đã chỉ ra được, điều kiện sống tốt có vai trò to lớn đối với sự hình

thành và phát triển của loài vật. Điều kiện sống khó khăn, khắc nghiệt và tàn bạo

sẽ biến loài vật thành những kẻ thô bỉ và tàn ác. Môi trường sống tốt sẽ giúp

định hình tính cách tốt cho loài vật. Đây có phải chính là ý nghĩa về hoàn cảnh

sống của con người. Mỗi chúng ta, từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, nếu

chúng ta được sống trong môi trường tốt, nhân cách chúng ta được tôi luyện, rèn

giũa và trưởng thành. Môi trường sống là điều kiện đầu tiên để định hình nhân

cách cho mỗi con người.

Bên cạnh đó, nhà văn Vũ Hùng còn đưa ra nhiều triết lí khác như: “Một

con ngựa béo sẽ trở nên trì trệ: nó còn chạy, còn phi làm sao được nữa”; “Con

ngựa không biết nói. Khi thấy nó cưỡng lệnh thì phải tìm ngay lí do vì sao.

Đừng bao giờ trừng phạt nó một cách độc đoán và oan uổng”; “Đối với loài

ngựa là thế: thà không trừng phạt còn hơn là trừng phạt muộn”[18;102]... các

triết lí ông đưa ra đều thấp thoáng bóng dáng của xã hội con người, từ cách

sống, cách làm việc hay cách dạy dỗ. Hình như thông qua đó, ông muốn nhắc

nhở và gửi gắm một điều gì đó đến với con người!

Để rút ra những triết lý về cuộc sống, nhà văn Vũ Hùng cũng thông qua

đặc tính sinh hoạt của loài vật. Mọi loài vật đều thích sống tự do trong môi

trường thiên nhiên và chỉ có ở môi trường thiên nhiên, chúng mới sống đúng

theo bản năng của mình. Khi Đam Đam trong Các bạn của Đam Đam bắt một

con vẹt trong bầy vẹt xanh mang về nhà, mẹ của Đam Đam đã khuyên cậu thả

nó:“Thả chúng đi! Ở đây chúng kêu van, nhưng về rừng thì chúng sẽ ca

hát”[29;9]. Ở rừng, loài vật sẽ sinh sống và tồn tại theo cách riêng. Chúng vui

với môi trường tự nhiên. Ngoài những triết lí rút ra từ cuộc sống loài vật, nhà

văn Vũ Hùng còn đưa trực tiếp những triết lí của con người vào câu chuyện của

ông. Ông khẳng định tuổi thơ không dài lâu, đã là trẻ con thì phải biết rong chơi

rồi đến một ngày nào đó chúng sẽ chán những trò đuổi chim bắt bướm và

chuyên tâm vào chuyện làm ăn. Tuy nhiên ông cũng cho rằng, rong chơi nhưng

cũng đừng bỏ quên những gì quan trọng cần quan tâm. Bà Xi – ta trong truyện

71

được Vũ Hùng gửi gắm nhiều triết lí: “Bà Xi Ta cho rằng yêu thương là cái quí

nhất của người ta. Bà muốn ai tới dưới mái nhà của bà cũng sẽ gặp được những

điều tốt lành. Bà lo sợ việc làm của Đam Đam đem lại rủi ro: Núi rừng biết

thưởng phạt, ai làm điều lành sẽ được gặp phước lộc, ai gây hận thù lại sẽ gặp

hận thù”[29;61]. Cưu mang là điều tốt mà con người nên làm. “Can đảm cũng

là một thói quen” mà chúng ta phải rèn luyện hàng ngày để có được và hiền lành

cũng sẽ bị sự tăm tối làm cho độc ác nếu không vững tâm... Những triết lí vô

cùng sâu sắc muốn nhắc nhở con người cần quan tâm hơn đến cuộc sống của

mình và nhìn nhận vấn đề theo hướng đa chiều. Bầy ri non trong truyện Phượng

hoàng đất được mẹ dạy cho cách bay tự lập, không cần dựa dẫm vào ai: “Chẳng

ai bay xa được với đôi cánh mượn của người khác”[34;8]. Chúng ta phải tự

mình làm mọi chuyện, muốn đi xa phải tự lượng sức mình, những đồ đi mượn sẽ

không làm nên giá trị cho bản thân mỗi con người: “Chúng bay xa vì bay bằng

đôi cánh của chính mình”[34;9]. Cuộc sống vốn nhiều màu sắc với nhiều cung

bậc cảm xúc. Chính vì thế nó không chỉ tồn tại những mặt tích cực mà luôn song

hành cả những mặt tiêu cực:“Cuộc sống không phải chỉ toàn ngày hội”[34;51].

Vì thế con người phải biết tận dụng mọi niềm vui và hạnh phúc để giảm bớt nỗi

đau buồn. Con người đôi khi rất khó hiểu, họ chỉ muốn phô bày những điều tốt

đẹp ngay cả trước mắt con vật nhưng “nhiều khi người ta cũng hành hạ hoặc

giết chết một con người trước mắt những con người khác và cũng sẽ chẳng có

điều gì xảy ra”[24;42]. Có phải nhà văn Vũ Hùng đã lên án thói thờ ơ, vô cảm

trong xã hội loài người không! Con người luôn muốn thể hiện điều tốt đẹp

nhưng cũng sẵn sàng chà đạp, tàn sát đồng loại của mình. Đó là điều mà Vũ

Hùng muốn lên án gay gắt.

Với sự trải nghiệm và vốn sống phong phú, thông qua cuộc sống và bản năng

sinh tồn của các loài động vật, nhà văn Vũ Hùng đã khái quát nên những bài học và

triết lí mang bóng dáng của cuộc sống con người. Không phải tự nhiên, ông áp đặt

các bài học triết lí vào loài vật mà qua đó ông muốn gửi gắm đến trẻ em nói riêng và

độc giả nói chung về lối sống và cách ứng xử với đồng loại mình.

* Tiểu kết:

Qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ta thấy hiện lên một bức tranh thiên

nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Trên nền thiên nhiên hoang dã đó là sự sống của các loài

động vật. Bằng sự hiểu biết, kiến thức và khả năng quan sát tài tình, Vũ Hùng đã mở

72

ra cho người đọc một không gian sinh tồn độc đáo và mới mẻ. Các loài vật sống với

nhau thông qua một quy luật thiên nhiên được quy định sẵn mà nhà văn gọi là “trật

tự rừng xanh”. Đời sống loài vật được hiện lên thông qua hai khía cạnh: Bản năng

sinh tồn và đời sống nội tâm. Không chỉ có thế, mỗi trang văn của Vũ Hùng còn hiện

lên nét đẹp về phong tục, tập quán vùng miền – nơi mà ông đã đặt chân và gắn bó

một thời gian dài trong cuộc đời của mình. Đồng thời thông qua cuộc sống của thế

giới nhân vật loài vật, ông còn phản ánh xã hội loài người một cách chân thực, sâu

sắc bằng việc khái quát những bài học cuộc sống mang bóng dáng con người.

73

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT

TRONG SÁNG TÁC VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG

3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật

3.1.1. Không gian nghệ thuật

Theo cuốn Thi pháp học của Phạm Ngọc Hiển, khái niệm không gian được

hiểu theo hai phương diện: Không gian vũ trụ và không gian trong tác phẩm nghệ

thuật. Tuy nhiên không phải không gian nào trong tác phẩm nghệ thuật đều là không

gian nghệ thuật. Vậy khái niệm không gian nghệ thuật và không gian trong tác phẩm

nghệ thuật là khác nhau: “Không gian trong tác phẩm nghệ thuật bao gồm hai loại

lớn: không gian lý tính và không gian cảm tính. Không gian lý tính được gọi là

không gian vật lý và địa lý. Đó là không gian hiện thực có thể đo đếm được một cách

cụ thể, chính xác, tồn tại khách quan và có tính phổ biến... Không gian cảm tính

được gọi là không gian tâm lí và nghệ thuật (gọi chung là không gian nghệ thuật).

Đó là không gian phi hiện thực, không thể đo đếm chính xác được, tồn tại trong cảm

nhận chủ quan. Không gian nghệ thuật là loại không gian cảm tính, thể hiện cách

nhìn, cách cảm độc đáo của tác giả và nhân vật. Không gian nghệ thuật có đặc điểm

giàu hình ảnh sinh động, nhiều ẩn ý, thể hiện đời sống con người một cách sáng tạo.

Nó có thể được khắc họa cụ thể hoặc trìu tượng, mơ hồ, tượng trưng, ước lệ, phi

logic... tùy theo cảm nhận của nhân vật và dụng ý của nhà văn”. [14;28].

Trần Đình Sử quan niệm: “Không gian nghệ thuật không giản đơn là tái hiện

không gian của thực tại mà thể hiện quan niệm không gian của con người và mở

rộng ra là cả một nền văn hóa trong một thời kì lịch sử. Không gian nghệ thuật là

sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện sự cảm nhận không gian của con người, có

chức năng hiểu nghĩa và có giá trị thẩm mĩ. Không gian nghệ thuật là thuộc tính của

tất cả mọi loại hình nghệ thuật, kể cả âm nhạc. Không gian nghệ thuật thể hiện cấu

trúc bên trong của tác phẩm nghệ thuật, sâu sắc hơn nhiều so với khái niệm kết cấu,

dường như là thiên về tổ chức bên ngoài của văn bản”[48;16].

Còn theo tiến sĩ Hoàng Trọng Quyền thì cho rằng“Không gian nghệ thuật

trong văn học là một dạng hình tượng nghệ thuật, là một sự biểu hiện hình thức bên

trong của tác phẩm, góp phần thể hiện tính xác định và tính chính thể của tác phẩm.

Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con

74

người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, thể hiện nhà văn nhìn nhận

và phản ánh con người, sự vật trong những khoảng cách, góc nhìn và kênh thẩm mĩ

nào đó” [28;10].

Như vậy, có thể khẳng định không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo

của người nghệ sĩ nhằm thể hiện cuộc sống con người thông qua những hình

tượng nghệ thuật cụ thể trong sự thống nhất và toàn vẹn của tác phẩm văn học.

Đó không phải là không gian vật chất đơn thuần mà là không gian được tinh

thần hóa, sáng tạo hóa và mang tính chủ quan của người nghệ sĩ. Tìm hiểu được

không gian nghệ thuật là cơ sở để hiểu thế giới tác phẩm và nhân vật.

Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, hai không gian nghệ thuật nổi

bật nhất là: Không gian rừng núi và không gian làng bản.

* Không gian rừng núi

Những cánh rừng bạt ngàn trên dải Trường Sơn. Các ngôi làng của những

con người chân chất, đượm tình. Thế giới loài voi kì bí, mạnh mẽ nhưng tràn

đầy cảm xúc. Hành trình của ba người lính trẻ vào lòng nước bạn Lào là hành

trình khám phá thiên nhiên hùng vĩ, “những cánh rừng có những vân màu xanh

xám” hòa vào các phong tục, tập quán mới mẻ của người dân bản địa, trải

nghiệm quá trình học hỏi kiên trì để trở thành những người quản tượng yêu

thương và thấu hiểu loài voi. Đó là nội dung trong tác phẩm Phía Tây Trường

Sơn. Và chính ở đó, chúng ta sẽ thấy được một không gian núi rừng hùng vĩ và

thơ mộng: “Trời mới tang tảng sáng, Hưng đã cựa mình tỉnh dậy. Nằm trên nệm

lá khô anh ngỡ mình vẫn đang ở giữa làng quê. Gió rì rào chung quanh, như

bên những khóm tre làng. Một con gà vỗ cánh gáy đâu đó, trong những bờ bụi

còn vương vất bóng đêm”[30;10]. Cảm nhận không gian núi rừng của nhân vật

Hưng trong truyện, một không gian yên bình, trong trẻo như làng quê anh sống.

Những không gian núi rừng thơ mộng được hiện ra trong từng lời văn. Đi qua

từng vùng, ba chiến sĩ trẻ được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng

Trường Sơn. Những hình ảnh đó được hiện lên rõ nét và chân thực. Đó là cảnh

đẹp sau những đêm mưa, mặt đất ẩm ướt với những đám rêu xanh bám dày, các

loài động vật đua nhau bừng tỉnh để rủ nhau đi kiếm mồi. Sau trận mưa rào,

rừng như trút bỏ được những lưu luyến của mùa đông để khoác lên mình bộ áo

mới – bộ áo rực rỡ và đầy sức sống của mùa xuân. Vạn vật như trẻ lại, tươi mới

75

và rộn ràng hơn. Tất cả như thay đổi, chuyển mình. Tưởng như qua cơn mưa, bộ

áo trầm cũ của núi rừng được thay thế:“Trời tạnh ráo, ấm áp, sau những cơn

lạnh kéo dài. Bướm bay đầy trên những khoảng đất còn ẩm, nơi có những đám

rêu xanh. Chim đi tìm sâu, nhảy lách tách trong bụi rậm. Từng bầy sóc ngồi ăn

trên các cành cây, thỉnh thoảng lại lấy chân trước đập đập lên những sợi râu và

chơm chớp cặp mắt đen láy để nhìn người. Rừng đã trút bỏ tấm áo mùa đông và

mặc xong tấm áo rực rỡ của mùa xuân. Các đồi gianh dạt dào dưới xa, xanh

rờn. Đâu đâu cũng thấy hoa lá tươi non. Những lớp rêu mới mịn như nhung phủ

kín các vách núi trước đây xám ngắt. Cả đến các cây cổ thụ già nua cũng trẻ lại.

Chúng rũ hết những chiếc lá úa màu vàng chanh xuống đầy dưới gốc và từ

những cành trước đây còn khẳng khiu trơ trụi đã nảy ra những vầng lá non bát

ngát. Không còn thấy những con thú đói ăn gầy gộc của mùa đông, lưng mang

bộ lông đang rụng, bạc màu và xơ xác. Cây cỏ đầy chồi xanh, thức ăn thừa thãi,

con vật nào cũng no béo. Bọn thú có gạc đã thay xong bộ lông mới. Chúng lũ ba

lũ bảy rong ruổi rừng xuân, cứ như trời sinh ra mùa xuân là cốt để cho chúng

thỏa thích chơi bời. Có khi chúng đưa nhau đến sát đường đi. Bạo dạn nhất

trong bọn có lẽ là lũ cà tong. Chúng có những cặp tai to bên trong phủ lông

trắng muốt, những cặp sừng nhiều nhánh dài và mảnh dẻ. Bộ áo của chúng làm

chúng lẫn hẳn vào khung cảnh chung quanh: màu lông nâu lẫn vào màu đất

rừng và những dấu sao trắng trên lưng lẫn với những đốm nắng lọt qua các kẽ

lá” [30;13]. Loài vật, cây cối trở nên sinh động hơn qua cái nhìn của nhà văn Vũ

Hùng. Ông đã nhìn thiên nhiên bằng con mắt tinh tế, nhạy cảm và cảm nhận

thiên nhiên bằng các giác quan. Tiếng lá, tiếng chim, tiếng giọt nước rơi từ các

nhũ đá, tiếng róc rách của suối nguồn rồi đến tiếng cựa mình của loài cà tong.

Khe khẽ, êm dịu và nhẹ nhàng:“Tiếng lá rì rào, tiếng chim hót ở xa, tiếng róc

rách của những con suối chớm có nước, tiếng khua của những cặp sừng cà tong

và tiếng móng của chúng bước nhẹ trên đường”[30;14] hay như “tiếng rừng lao

xao, có những tiếng gì đó thỉnh thoảng lại rung lên khe khẽ, như tiếng rung của

những dây tơ giữa tiếng chim kêu thoang thoảng. Đó là tiếng của các giọt nước

rơi từ thạch nhũ xuống vũng. Chúng ngân vang trong những hang động sâu

thẳm, dội đi dội lại nhiều lần qua các vách đá trước lúc bay ra ngoài”[30;14].

Sau cơn mưa, không gian núi rừng như tươi mới và rạng rỡ hơn còn vẻ đẹp của

76

rừng trong không gian của những buổi chiều lại ấm áp với những tia nắng sót

lại: “Vào những buổi chiều xuân ấm áp, rừng Trường Sơn tràn đầy ánh nắng.

Nắng vàng hoe trên những cây cổ thụ cao ngất, tán chạm trời xanh. Từng đàn

chim về tổ vỗ những cặp cánh sặc sỡ, vẽ trong nắng những đường bay lấp

lánh”[30;16]. Vượt qua những chặng đường rừng, các chiến sĩ trẻ đã có những

giây phút dừng chân nghỉ ngơi để được ngắm nhìn khoảng không trước mắt. Từ

điểm nhìn trên cao của đỉnh núi, hướng tầm mắt ra xa và cảm nhận không gian

bao trùm trước mắt, dễ dàng lầm tưởng ngày hãy còn sớm, nắng vẫn long lanh,

con suối nhỏ với dòng nước lấp lánh uốn mình qua từng chân núi, rừng chuối

trải rộng mênh mang tận chân trời và những đường nét uốn lượn của các đỉnh

núi xa xa. Không gian như mở rộng và trải dài ra vô tận: “Đứng trên cao chót

vót, tưởng như chiều còn sớm. Nắng vẫn long lanh đầu núi, sương lam đã bắt

đầu buông. Mọi người cùng nhìn xuống những sườn núi thoai thoải đổ về phía

Tây... Trời phía Tây vẫn còn vàng rực. Không thấy làng bản, có lẽ chúng ở lấp

đâu đó dưới các vòm cây, mà vẫn chỉ thấy rừng rừng núi núi trùng điệp. Các

rừng chuối trải rộng mênh mông, xanh ngát màu lá non, đôi chỗ bắt đầu điểm

vài bông hoa đỏ. Những dòng suối lấp lánh, len lỏi dưới chân các trái núi. Xa

tắp, sát chân trời, thấy nét lượn nhấp nhô của những dãy đồi”[30;29]. Rồi bóng

chiều bao phủ khắp nơi:“Nắng thong thả tắt. Sườn núi phía Tây chìm dần trong

bóng chiều”[30;29]. Nắng lên, sương tan dần, rừng núi trùng điệp hiện lên trước

mắt, khung cảnh thật đẹp và lãng mạn. Và rồi nắng tắt, dãy núi Trường Sơn

chìm trong bóng tối. Cảnh vật hiện lên rực rỡ và cũng ẩn đi một cách chân thực.

Đi trên các con đường rừng và sống giữa thiên nhiên thơ mộng, những

người lính đã nhận ra nhiều điều từ không gian họ đi qua. Đó là những con

đường thênh thang đều dẫn đến các con suối. Mỗi con suối có một vẻ đẹp riêng

nhưng đều ấm áp, bốc khói, tỏa mùi lưu huỳnh và hằn lên những dấu vết mà lũ

voi để lại cùng những thân cây, tảng đá bị mài mòn: “Nước trong vắt, sủi tăm,

chảy qua những tảng đá làm thành muôn vàn chiếc bong bóng, long lanh dưới

các tia nắng lọt qua vòm cây. Lũ voi hoang để lại ở đây bao vết tích: những vết

chân lui tới hằn rõ trên mặt đất, có dấu đã rắn đanh, có dấu còn mới, những

thân cây bị mài mòn, những tảng đá bị cọ nhẵn, những bến tắm kín đáo dưới

những vòm cây cao lớn hoang sơ và nguyên vẹn: lũ voi không bao giờ tìm thức

77

ăn ở bên những bờ suối này, giữ bí mật nơi chúng chữa bệnh trước những cặp

mắt tọc mạch của các loài thú”[30;99]. Không gian rừng núi hoang sơ nhưng

sống động cũng được lột tả rõ nét, tinh tế và chân thực: “Xa xa về phía đông,

những đỉnh đồi lượn sóng bắt đầu vàng hoe như viền một dải nắng. Mặt trời

chưa nhô lên nhưng đã hắt một vầng sáng rực rỡ sang các mỏm núi cao bên

phía tây...”[33;9]. Nhà văn Vũ Hùng còn tinh tế khi theo dõi thiên nhiên qua

từng chi tiết nhỏ, ông không bỏ lỡ dù chỉ là những giọt sương hay những cử

động nhỏ của mỗi loài động vật để lột tả được khung cảnh trước mắt:“Dọc hàng

cây ven đường, con sóc cong cái đuôi sum sê như bông lau, nhảy thoăn thoắt

làm rụng xuống những hạt sương. Con bìm bịp thỉnh thoảng lại cất tiếng kêu,

đứng ló cái mình nửa nâu nửa đen ra khỏi bụi rậm. Trên cây kỳ nam, bầy khướu

bạc má chuyền cành, hót say sưa. Rừng nhộn nhịp đón bình minh”[33;10].

“Vách đá xám đục vì dầm mưa, dãi nắng, đôi chỗ phủ từng mảng rêu xanh.

Chót vót tận trên đỉnh núi, một con sơn dương đứng ngất ngưởng, in bóng lên

nền trời. Đôi lúc nó nhảy thoăn thoắt qua các mỏn đá, cúi xuống nhấm vài ngọn

lá”[33;29].

Bên cạnh khoảng không gian hoang sơ, thơ mộng của rừng núi là không

gian hiểm trở, kì bí được nhà văn Vũ Hùng miêu tả qua các hình ảnh độc đáo.

Những con đường gai góc mà chỉ có loài vật mới dám đi qua, những vệt nước

chảy hằn sâu qua năm tháng, vách núi cao ngất xen kẽ là những vực thẳm hun

hút, đáng sợ. Một không gian kỳ bí hiện ra:“Đường càng lên cao, càng gai góc,

hiểm trở. Dần dần đó chỉ còn là dấu vết những lối đi mơ hồ của loài thú và

những vệt nước chảy kéo dài của mùa mưa năm trước. Ông già Cao và các

chiến sĩ cứ nhằm phía mặt trời lặn mà leo. Khắp nơi là những cánh rừng hoang

vu, những vách núi cao ngất và giữa chúng là những vực sâu thẳm. Từ vách núi

có thể nhìn thấy dưới xa, những túp lều đã sụp đổ, những nương rẫy bỏ hoang

lâu ngày nay đã rậm rì, nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng con người”[33;26].

Rồi sự khắc nghiệt của thiên nhiên cũng được nhà văn Vũ Hùng miêu tả rõ nét

qua thời tiết: “Chỉ cách Việt Nam có mấy vách núi mà thời tiết đã thay đổi hẳn.

Nắng chang chang. Trời lúc nào cũng sáng bừng bừng, chừng như mặt trời luôn

luôn ở trên đỉnh đầu, không có giờ lặn. Cây cổ thụ thân mốc bạc, cao vút và

thưa lá, để lọt xuống mặt đường những vầng nắng gay gắt. Ve kêu ran và chim

78

gáy gù “cúc cu” đều đều trong các vòm lá lấp lánh”[33;32]. Không gian những

miền đất mới nằm phía bên kia dãy Trường Sơn cũng hiện lên chân thực. Nắng

chói chang, gay gắt như đốt cháy mọi vật, vẳng lại là tiếng rìu chặt gỗ cũng với

tiếng rì rầm của tre nứa bị nắng làm cho nứt vỡ nhưng đằng sau những cảnh vật

đó là những không gian bí ẩn hiện ra: “Đất Lào hình như không có mùa xuân.

Càng rời xa chân núi, nắng càng gay gắt. Đâu đâu cũng thấy vẻ hoang sơ. Các

lòng suối vẫn khô cạn. Trên những đường mòn dài vô tận, thỉnh thoảng lại nghe

tiếng tre nứa nứt vỡ vì nắng và tiếng rìu chặt gỗ vang vang. Cảnh vật đơn điệu

như nhắc lại những chặng đường họ mới vượt qua. Nhưng càng đi, các chiến sĩ

càng thấy những điều kì lạ. Bất kỳ ở đâu, sau một vòm cây, một ngách núi, họ

đều có thể gặp cái bất ngờ”[33;37]...

Qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, chúng ta thấy bao trùm lên là

không gian kì bí nhưng đầy vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng. Ông đã từng đặt

chân và gắn bó cuộc đời mình với thiên nhiên nên ông cảm nhận về chúng

một cách chân thực và tinh tế nhất. Không phải bằng sự tưởng tượng hay

phóng đại, mà bằng những trải nghiệm gần gũi, Vũ Hùng đã thu gọn khung

cảnh thiên nhiên vào trong tâm hồn nhạy cảm để viết nên những trang văn

đẹp và lôi cuốn đến vậy!

* Không gian làng bản

Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, song hành cùng không gian núi

rừng là không gian của các làng bản dân tộc. Một không gian đơn sơ, mộc mạc của

những người dân tộc thiểu số được hiện lên rõ nét qua cảnh vật và nếp sống, sinh

hoạt của họ. Rừng già như lui dần về phía sau nhường chỗ cho khung cảnh gần gũi,

ấm áp trong cuộc sống của con người. Hình ảnh đầu tiên xâm nhập vào tâm trí của

người đọc là hình ảnh của những dải ruộng đan xen lẫn nhau như những dải lụa

mỏng. Các bản làng nằm xen giữa những dải ruộng và cây cối như một bức tranh

phong cảnh hữu tình: “Phút chốc rừng thưa lùi sau lưng và trước mặt đã thấy

ruộng. Những rải ruộng hẹp và dài, viền quanh rìa núi, mảnh nọ chồng lên

mảnh kia như những bậc thang. Dưới xa là làng, nằm trong những đám dừa,

cau cùng những cây xoài xanh thẫm đã lác đác quả non. Nhà dựng chênh vênh

trên những dãy cột, trước sàn là những cây hoa đại lác đác hoa trắng. Giữa

79

làng thấy một ngôi nhà gỗ rất lớn, mái nhiều lớp xếp lên nhau cong

vút,...”[30;32].

Không gian bản làng còn được thể hiện qua hình ảnh họp chợ của người

dân. Chợ là nơi giao lưu buôn bán của con người, đó cũng là nơi thể hiện rõ nét

nhất bản sắc dân tộc của từng vùng – miền. Mọi thứ đồ vật, loài vật mà người

dân kiếm được đều được họ mang ra chợ bày bán: “Chợ Na – Cai. Một chợ lớn

trên bến dưới thuyền. Từ những con thuyền độc mộc, nhiều người ì ạch vác

những chiếc ngà voi và những sọt hàng lên bờ. Người bán hàng cắm ô hoặc cắm

những tàu lá cọ làm mái che. Khách chợ ở xa ba bốn ngày đường cũng tới. Các

cô gái, cô nào cũng xòe một chiếc dù lụa trên đầu. Chợ bán bánh tráng và rất

nhiều hoa, từ các túm hoa ngào ngạt để cài đầu, các dây hoa để đeo cổ đến

những bắp hoa chuối làm rau ghém. Khu hàng thịt rừng. Dăm ba người thợ săn

dựng một giàn bằng những cây cột lớn, treo ngược một chú heo vòi. Mấy chú cá

sấu gớm guốc, mõm và chân đã bị trói chặt, nằm trên những chiếc sạp lớn. Một

phản thịt gấu ngồn ngộn, bên cạnh bầy bốn bàn chân gấu để làm tin. Rất nhiều

hàng trầu cao. Các bà già và các cô gái hình như ai cũng ăn trầu. Dãy lâm sản

đầy hàng quý: da thú, cánh kiến, mật ong và sáp, trầm hương và quế... có một

dãy hàng đặc biệt: người bán ngồi sau một chiếc mâm mây, trên bày vài chiếc

đĩa nhỏ xíu, đựng những mảnh vụn li ti, lấp lánh. Thỉnh thoảng có những vụn

lớn bằng nửa cái mày ngô, phản chiếu ánh nắng rực rỡ. Đó là những vụn vàng,

sàng được ở những bờ cát ngoài suối. Các cô gái trẻ đến mua vàng về để đúc

bông tay hoặc bịt răng. Ở đây ai cũng thích có những chiếc răng vàng óng

ánh”[30;41]. Không gia bản làng còn là không gian thiêng liêng của nếp nhà khi

chào đón một đứa trẻ ra đời: “Nhà đầy người. Một ban nhạc ngồi bên những

dụng cụ ngổn ngang. Những chiếc khèn ghép bằng mười sáu ống sậy. Vài chiếc

trống. Một khung tre bịt da, có đính một hàng lục lạc, một dàn cồng mười sáu

chiếc, đặt thành một hình bán nguyệt và đôi dùi đầu bọc da voi. Cây đàn thuyền

với một dãy những mảnh gỗ dày mỏng khác nhau có hai que gõ gác chéo trên

mặt. Những cây nhị, bầu là những chiếc gáo dừa. Đám thiếu nữ mặc xiêm áo

ngày hội ngồi cạnh người trùm phường đã đứng tuổi. Đó là những người hát

của dàn nhạc. Im ắng. Khách không giám động mạnh, rón rén đi lên. Không ai

chú ý đến khách. Mọi người nhìn đăm đăm vào một căn buồng khép kín, từ đó

80

có tiếng thở và tiếng lục đục vẳng ra khe khẽ. Bỗng cửa buồng mở tung. Có

tiếng trẻ khóc oa oa... Gian nhà ồn ào hẳn. Các cô gái đứng dậy, sửa lại váy và

bắt đầu múa. Thân thể và tay chân họ mềm như những dây rừng. Tiếng trống

bập bùng, tiếng cồng lanh lảnh và tiếng lục lạc rung rinh hòa với tiếng hát ngân

cao...”[30;43]. Những nương ngô, nương lúa cũng được miêu tả tỉ mỉ. Với điều

kiện thời tiết khắc nghiệt, cây cối khó ươm chồi nảy lộc nhưng không phải vì thế

mà người dân nơi đây họ bỏ thói quen vỡ hoang. Họ vẫn cần mẫn lao động hàng

ngày để tạo nguồn lương thực cho gia đình. Không gian nương ngô cháy nắng

đã cho người đọc cảm nhận được sự vất vả, gian lao của những con người dân

tộc miền núi. Nhưng qua đó cũng thấy được họ là những con người kiên cường,

nhẫn nại, dám chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt để sống và yêu đời:

“Nương vắng ngắt, chỉ thấy những cây gỗ cháy dở nằm ngổn ngang. Ngô đã

gieo nhưng chưa nảy mầm được vì nắng quá. Từng dòng kiến rừng đông nghịt

tha những hạt cơm khô. Trong lúc chờ ngô nảy mầm, cứ vài ngày một lần, người

ta phải rắc cơm khô trên lối kiến đi để chúng khỏi bới và tha mất hạt

giống”[30;46].

Nhà văn Vũ Hùng không chỉ dẫn người đọc đến với không gian bản làng

chung chung mà còn miêu tả chi tiết vào không gian bên trong những ngôi nhà

sàn nhỏ bé, đơn xơ. Ở trong những ngôi nhà sàn này, mọi cảnh vật đều gần gũi

và nên thơ: “Căn buồng tràn ngập ánh sáng và không khí, mọi vật ở đó đều

thơm tho trong trắng. Ở một góc buồng, lưng chừng vách treo một tấm gương

lồng trong chiếc khung tre. Dưới gương là chiếc bàn nhỏ, có một giỏ mây đựng

trâm lược. Lược không bằng sừng như những chiếc lược vẫn bán ở chợ mà gọt

bằng gỗ, rất khéo. Cạnh giỏ mây có một bó hoa rừng mới hái, cắm trong một

ống tre cưa ngắn và chạm những đường chỉ. Cao trên vách còn thấy treo một

chiếc dù chỉ xòe một nửa, giấu bớt những cánh hoa in trên lụa nhưng cũng đủ

làm tăng vẻ đẹp trẻ trung của gian buồng”[30;58]. Không gian sinh hoạt của

những người dân tộc cũng là nét đặc trưng trong tác phẩm của nhà văn Vũ

Hùng. Ông không chỉ miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà còn phản ánh nhiều nét

văn hóa của đồng bào nơi đây. Đầu tiên có thể thấy đó là không gian lễ hội. Lễ

hội của người dân tộc được chuẩn bị và tổ chức khá chu đáo. Đây là khoảng thời

gian thư giãn, nghỉ ngơi của họ. Họ đắm chìm trong những điệu nhạc. Cũng

81

giống như người lớn, lũ trẻ con khao khát lễ hội. Vì đó là lúc chúng được chơi

vui thỏa thích.“Buổi tối, khi công việc đã xong, mọi người ăn uống no say rồi

mở một đêm hội nhỏ mừng nhà mới. Đốt đuốc sáng trưng. Các cô gái ngồi khép

nép trên những chiếc chiếu, miệng nhai trầu. Dàn nhạc nổi lên, trai làng thổi

những cây khèn dìu dặt. Một ông già hát theo nhạc một bài “lăm”, kể lại một

câu chuyện gì đó từ ngày xưa... Sống trong khung cảnh này, lũ trẻ cũng như

người lớn, khao khát hội hè. Cả năm, chúng tính từng ngày, từng ngày, chờ Tết.

Cham – pa, con gái bác Bun – mi, bận rộn suốt ngày với những chậu nước

thơm. Từ mấy hôm trước, cô đã cùng bạn bè đi hái hoa: hoa hồng, hoa nhài và

các loại hoa rừng. Cô đem hoa về, cẩn thận lau sạch từng cánh rồi ngâm vào

một chiếc bình lớn. Vài ngày sau, nước ngả dần sang màu hồng của những cánh

hoa và thoảng mùi thơm. Chăm – pa đánh bóng những chậu thau bạc đầy những

hình chạm, xinh xinh như những chiếc đĩa, cẩn thận rót nước từ trong bình vào

đó. Sau đấy cùng với bác Bun – mi gái, cô quyét dọn nhà cửa, xếp ra sàn những

chiếc mâm mới và những tâm đệm sặc sỡ, làm chỗ tiếp khách.”[30;62]. Sau

những ngày lễ hội, nếp sống sinh hoạt được lặp lại. Không gian của bản làng

được khắc họa rõ nét qua các thời điểm trong ngày. Đó là không gian tĩnh mịch,

yên bình của buổi sáng sớm với sương đêm còn vương trên lá và các loài động

vật bắt đầu thức giấc: “Trời còn sớm, sương đục như sữa vương trên các ngọn

cây. Bầy vượn bắt đầu nổi tiếng hú. Chúng thức giấc gọi nhau dậy sắp sửa đi

ăn. Tuút! Tuút! Tu...út! Tiếng hú của chúng lanh lảnh, dù không có con gà gọi

sáng, người Khạ cũng không thể ngủ quên được”[33;1]. Và những công việc

nhộn nhịp, hối hả của một ngày lại được bắt đầu: “Bà Pôông vác một ống tre ra

suối lấy nước đổ vào nồi, bắc bếp hong xôi. Ở các nhà khác cũng có tiếng lục

đục khe khẽ: đàn bà đang nấu nướng cho đàn ông ăn sớm đi rừng. Lửa từ các

bếp hắt ra, rọi những quầng sáng mơ hồ trong sương dày. Lũ con gái thì thầm

gọi nhau xuống đâm gạo, bước nhanh trên thang gỗ, làm những bậc thang cựa

mình cót két. Họ vừa vần cối, vừa rúc rích cười. Tiếng chày đâm gạo bỗng theo

nhau nổi lên. Từng bọn ba cô gái xúm quanh cái cốt khoét bằng thân cây. Họ

nắm những cái chày cao gần tầm người, rướn mình giơ lên đâm xuống. Nhịp

chày ba rộn rã: thịch thịch thịch...thịch thịch thịch... Cả làng Khạ bừng

tỉnh”[33;2]. Đến buổi trưa, “nắng chang chang và vắng vẻ. Cây vẫn lặng gió, ve

82

không kêu, làng bản im lìm”[33;80]. Sang đến chiều, nhịp sống như chập dần

nhưng vẫn đọng lại không gian là màu “Nắng chói chang. Nhịp sống ở làng

Vông – xay như lắng xuống. Im ắng. Bầy voi sau phiên việc buổi sáng, đứng gà

gật dưới bóng cây. Các quản tượng và các chiến sĩ ngồi bên khung cửa, cố chờ

một cơn gió hiếm hoi thoảng qua. Từ khung cửa, nhìn thấy cánh đồng chạy đến

chân núi. Một vài lầu gạo, nơi các gia đình cất những bó lúa, đứng chơ vơ dưới

nắng. Không tiếng chim kêu, tiếng lá động. Buổi trưa Lào trống trải và xa vắng

lạ thường”[33;76]. Dần dần, bóng nắng đã lặng:“Buổi chiều, nắng ngả. Cây

dừa cao lênh khênh, nghêng cái bóng dài trên mái nhà B’ru. Những tấm phiên

vây quanh khu vườn nhỏ đổ xuống thành một mạng lưới mắt cáo phủ lên các

luống rau. Nắng hắt vàng vào các bồn gỗ trồng mấy cây hành hoa đặt trên

sàn”[33;13]. Mọi công việc gần như đang vận động theo nhịp hối hả, gấp rút để

kết thúc một ngày: “Lác đác đã thấy vài người đàn ông váo lao mải miết đi về

bản. Đàn trâu tìm về chuồng, vừa đi vừa gạt sừng vào dãy cà dại mọc bên

đường, làm những trái cà tròn và đỏ rực như lửa rụng xuống, lăn bon bon.

Chúng đủng đỉnh bước, lúc lắc khua mỏ. Trên lưng những con trâu mộng, mấy

đứa trẻ ngồi choãng chân hát véo von” [33;14];“Ngoài xa, trên lõng gỗ, những

con trâu mộng nối đuôi nhau kìn kìn kéo nốt chuyến gỗ cuối cùng của một ngày.

Một lúc cây gỗ tụt xuống ổ gà, thợ gỗ hò nhau bẩy đỡ sức trâu. Đàn trâu gò

lưng, rướn cổ, cố kéo. Trên bờ suối xếp đống những lim, gụ, táu, sến, giổi, gié...

vết chặt còn mới. Giữa dòng, một bè gỗ đang trôi xuôi, nước gầm thét hắt bọt

trắng lên những người chân sào. Lũ con gái ngừng tay dệt. Cả khung cửi lại

nằm yên một chỗ dưới sàn, con thoi im tiếng lách cách. Tiếng hát từ trên nương

bay về lâng lâng”[33;18]. Màn đêm kéo xuống, không gian tĩnh mịch và yên

bình:“Từ trong nhà đã thấy vầng trăng non lơ lửng ngoài trời. Vài ngôi sao tím

biếc bắt đầu lấp lánh trên những đỉnh núi xa”[33;22]. Không chỉ miêu tả không

gian sinh hoạt trong một ngày của đồng bào dân tộc, nhà văn Vũ Hùng còn miêu

tả không gian theo vòng tuần hoàn của các mùa trong năm: “Tháng tám, trời

mát dễ chịu. Nắng đã dịu bớt cái gay gắt, không còn làm rộp da bọn trẻ như

ngày hè. Rừng vắng vẻ. Mùa quả đã hết. bầy vẹt ngày nào còn kêu ầm ĩ trong

các rừng quả, nay đã bỏ đi tìm nơi khác kiếm ăn. Gió lùa qua những ống bương

trên mái nhà, ngày đêm hát vi vu. Gió làm mặt suối gợn những vết lăn lăn, làm

83

đồi gianh cuộn sóng rồi lướt trên ngọn cây, cuốn những chiếc lá úa để rắc vàng

lả tả. Bọn trẻ bồn chồn chờ đợi dịp này từ bữa nắng oi ả. Khi đi dưới gốc cây,

ngửa mặt thấy những chiếc lá úa đang rơi, chúng reo lên sung sướng. Cả năm

quanh quẩn bên những đồi nương gần nhà, vào dịp này chúng mới có một

chuyến đi dài. Chúng theo người lớn lên núi, vượt đèo, lội suối, đến tận xứ sở

của loài nai để kiếm nhung”[33;23]. Rồi bắt đầu “Trời nổi gió may. Gió xào xạc

lướt trên đồi gianh và lùa qua kẽ vách. Mùa rét đã bắt đầu... mưa phùn bay mờ

mịt, che khuất đồi núi. Làng Khạ ngày đêm chìm trong sương”[33;60]. Mùa

đông tới:“Vào mùa đông, làng Khạ thường ngủ sớm. Gió bấc hun hút đem theo

mưa phùn giá buốt xoa lên vách, làm ngấm cái lạnh thấu xương vào nhà. Gia

đình nào cũng trữ sẵn hàng đống củi từ ngày còn nắng ấm. Chiều chiều, mọi

nhà hạ cửa sớm và đốt lửa rừng rực trong bếp. Rét lắm, chỉ rời cái bếp vài bước

đã thấy tê tái. Ông già bà lão co ro... Không ai cười, không ai nói. Mùa đông

trên làng Khạ trống trải và rất lạnh”[33;61].

Đan xen trong khung cảnh của thiên nhiên, núi rừng là không gian làng

bản đầm ấm và gần gũi. Cộng đồng dân tộc đã cùng nhau sinh sống và chia ngọt

sẻ bùi. Họ an nhiên trong mỗi nếp nhà sàn đỏ lửa và tận hưởng một cuộc sống

yên bình, hạnh phúc.

3.1.2. Thời gian nghệ thuật

Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là hình

thức nội tại của hình tượng nghệ thuật để thể hiện tính chỉnh thể của

nó”[12;36]. Còn Giáo trình Lý luận văn học đã khẳng định: “Thời gian nghệ

thuật là thời gian do nhà văn sáng tạo ra, vừa thể hiện trạng thái con người

trong thời gian, sự cảm thụ thời gian, vừa mở ra lộ trình để người đọc đi vào thế

giới tác phẩm”. [48;47]

Giáo trình Văn học 2 thi pháp văn học thiếu nhi khẳng định: “...Thời

gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của

nhà văn về cuộc đời và con người... Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có

thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó,

với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương

lai...”[55;24]. Thời gian nghệ thuật là hình tượng nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo

của tác giả bằng các phương tiện nghệ thuật nhằm làm cho người thưởng thức

84

cảm nhận được: Hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc chìm đắm

vào quá khứ.

Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đi tìm hiểu về thời gian tâm lý của

các nhân vật. Đó là thời gian được cảm nhận qua nhân vật ở những thời điểm

khác nhau. Thời gian tâm lý có vai trò quan trọng trong việc thể hiện diễn biến

tâm lý của nhân vật. Trong truyện ngắn Phía Tây Trường Sơn, các nhân vật

được khắc họa tâm lí rõ nét. Đầu tiên là ba chiến sĩ gồm: Tiểu đội trưởng Hưng

và hai đội viên: Sơn, Đức. Họ được cấp trên giao nhiệm vụ hết sức khó khăn và

nguy hiểm. Được các chiến sĩ nước bạn Lào trao tặng ba chú voi làm phương

tiện vận tải nên các chiến sĩ Hưng, Sơn, Đức phải đi sang nước bạn Lào để học

điều khiển voi và giong voi về nước. Khi nhận được lệnh, ba chiến sĩ đều băn

khoăn, lo lắng, tuy nhiên họ đều sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao:“Các chiến

sĩ lặng im. Lệnh đột ngột quá. Có lẽ không ai thích làm quản tượng vì đã ai biết

làm quản tượng là gì đâu. Ở đơn vị với anh em, sống chết vui buồn có nhau đã

quen nên chẳng ai muốn đi xa. Nhưng các chiến sĩ vốn yêu mến người chỉ huy

và quen phục tùng mệnh lệnh. Họ sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, chỉ mong khi

đánh giặc xong, ai nấy được trở lại với những công việc của mình. Thế là họ ra

về, chuẩn bị lên đường”[30;2]. Ba chiến sĩ nhận nhiệm vụ một cách đột ngột

nhưng không phải vì thế mà họ lề là, chậm chạp. Họ bắt tay ngay vào công việc

chuẩn bị của mình. Mỗi người mang theo gạo, muối, thức ăn, một số vật dụng

cần thiết và đi theo ông già Cao - người dẫn đường, lên đường. Trên suốt hành

trình, ba chiến sĩ đã gặp rất nhiều điều bất ngờ. Đó là vẻ đẹp kì vĩ, bí ẩn và thơ

mộng của núi rừng Trường Sơn cùng những phút nguy hiểm đến nghẹt thở.

Nhưng bằng kinh nghiệm và tấm lòng của những người dẫn đường, họ đều vượt

qua được. Trải qua hình trình vất vả trong rừng rậm hiểm nguy, ba chiến sĩ cũng

đã bắt đầu thấy dấu vết của con người: “Đó là vết bấm móng tay trên các cây

nấm, những miếng bã trầu do các cô gái đi kiếm nấm để lại, những mẩu thuốc

thừa của thợ gỗ, đã nát mủn, lấp trong đám lá dưới chân... Mọi người trầm trồ

nhìn ngắm, tưởng như họ phải xa cách xã hội loài người đã từ lâu lắm”[30;31].

Nơi đầu tiên họ dừng lại nghỉ ngơi là buôn làng của ông Pa – than. Ở đây, dân

bản mừng vui và háo hức vì có khách tới. Người lớn thì giục giã con cháu bắt gà

vịt để đãi khách, trẻ con thì cười rộ lên. Các chiến sĩ làm quà cho người làng đủ

85

thứ chuyện ở Việt Nam. Ai cũng vui mừng và phấn khởi khi được nghe những

câu chuyện ở một đất nước bạn. Chia tay ông già Cao, các chiến sĩ lại lên

đường, “Đường bắt đầu qua nhiều bản làng, với những cánh đồng nho nhỏ,

nằm giữa rừng phẳng bao la. Cứ buổi chiều, người đưa đường lại đưa các chiến

sĩ vào ăn ngủ ở trong làng và trao họ cho một người dẫn đường mới”[30;37]. Đi

qua các bản làng, ba chiến sĩ được tiếp xúc với những tục lệ, phong tục và tập

quán. Trên đường đi, bất ngờ các chiến sĩ và người dẫn đường rơi vào tay một ổ

phục kích. Bằng sự nhạy bén và nhanh nhẹn của mình, ba chiến sĩ cùng người

dẫn đường đã thoát khỏi nguy hiểm. Cuối cùng, họ cũng đến được với buôn làng

Vông – xay, nơi mà các quản tượng đang chờ đợi để hướng dẫn và dạy họ trở

thành các quản tượng: “Tiếp xúc với các quản tượng, các chiến sĩ đã thấy ngay

họ là những người từng trải. Do công việc họ phải đi lại khắp nơi. Đời họ cũng

như đời con voi, là những chuyến đi dài. Hình như ở đâu cũng có dấu chân của

họ... Những câu chuyện của những người quản tượng kể bên bếp lửa dần dần

đưa các chiến sĩ vào sống giữa bầy voi, mới đây còn xa lạ với họ. Mỗi câu

chuyện đem lại bao điều kì lạ, bao kiến thức”[30;70]. Rồi họ được tiếp xúc với

công việc của mình. Mỗi chiến sĩ được giao cho một quản tượng hướng dẫn

cách tiếp xúc và điều khiển voi. Ai cũng mang trong mình tâm lý lo lắng và đôi

chút sợ hãi. Nhưng được các quản tượng chỉ bảo tận tình, họ quen dần với công

việc. Được sống và làm việc cùng những người dân bản trong một thời gian dài,

ba chiến sĩ bộ đội đã dần hiểu được đức tính và tâm hồn của con người nơi đây.

Họ là những con người có lòng nhân hậu, mến khách và chu đáo. Họ đã chỉ cho

các chiến sĩ cách trở thành một quản tượng tốt. Và quan trọng nhất, các chiến sĩ

đã học được ở họ lòng nhân từ trong cách đối xử với loài vật, đặc biệt là loài voi.

Rời làng Vông – xay nhưng tâm hồn của các chiến sĩ còn vấn vương mãi ở đó –

nơi mà các chiến sĩ đã sống và làm việc trong suốt một quãng thời gian ý nghĩa

của cuộc đời mình. Như vậy, qua thời gian, các chiến sĩ từ những cảm xúc bỡ

ngỡ, hoang mang và lo lắng khi mới nhận nhiệm vụ đã trở nên bản lĩnh, gan dạ

và gắn bó với mảnh đất Lào thân yêu.

Ba chú voi: Bạc – heng, Sao - nọi và Bạc – mày trong truyện Phía Tây

Trường Sơn cũng được khắc họa tâm lí rõ nét qua thời gian. Bạc – heng là một

chú voi trẻ đẹp, khỏe mạnh và tràn đầy sức sống. Nó cũng rất tinh nghịch không

86

lúc nào chịu đứng yên một chỗ. Bạc – heng ở với gia đình bác Bun – mi khoảng

chục năm và giúp đỡ gia đình bác rất nhiều. Chiến sĩ Hưng được giao tiếp xúc

và dạy dỗ chú voi Bạc – heng. Khi Hưng lại gần Bạc – heng, “Mới đầu con voi

nhìn Hưng bằng cặp mắt dò hỏi. Nhưng rồi nhìn thấy quả dứa trên tay Hưng, nó

biết anh đến cho nó ăn. Anh chưa bước tới nơi, con vật đã vươn vòi ra. Nó cuốn

ngay quả dứa, khẽ mở đôi môi đỏ hòng hình tam giác, thả vào đó và nhai ngon

lành... Ăn xong, nó buông vòi xuống và hít hơi anh thật lâu”[30;84]. Khi nó đã

quen chiến sĩ Hưng, Bạc – heng được tháo xích, nó lẽo đẽo theo Hưng: “Có lúc

nó đứng lại, mải tung vòi lên cây bẻ một cành lá non, nhưng khi Hưng gọi tên

nó thì con vật lại đủng đỉnh đi tới”[30;84]. Chẳng bao lâu, Bạc – heng đã quen

chiến sĩ Hưng, mỗi khi Hưng đến dù không mang theo thức ăn cho nó, nó vẫn tỏ

vẻ vui mừng. Tuy nhiên, đến lúc Hưng muốn trèo lên cổ con voi, “dù đã quen

hơi anh, con voi vẫn không muốn để Hưng trèo lên người nó...cứ hất hất chân

như muốn đá Hưng đi”[30;85]. Khi người quản tượng hát bài hát dỗ voi quen

thuộc, “con voi liền hếch cặp ngà và xòe ngang cả hai tai để lắng nghe”, Bạc –

heng cọ cọ cái vòi xù xì vào vai người quản tượng và nâng chân lên cho Hưng

trèo lên: “Hưng trèo lên chân con vật. Nó co chân rất cao để anh có thể dễ dàng

leo lên đầu nó”[30;86]. Dần dần, Bạc – heng quen với tiếng của chiến sĩ Hưng,

anh bảo gì nó cũng làm theo: “Con vật không bao giờ vội vàng, cứ đủng đỉnh và

im lặng cho tới khi công việc đã làm xong”.[30;87]. Sau một ngày làm việc vất

vả, Bạc – heng được thả tự do đi tắm dưới con suối chảy ven làng: “Nhiều bữa

Bạc – heng cùng bầy voi đặt các trò vui trên bãi cát rộng, chơi đùa cho bõ một

ngày vất vả. Bạc – heng đi lại, tung vòi cuốn lấy vòi một anh voi đực lực lưỡng,

ra sức kéo co. Cả bầy liền tản rộng, nhìn cuộc vui bằng những cặp mắt lim dim

tinh nghịch”[30;88]. Nó đùa vui với những chú voi khác. Đùa nghịch chán, nó

nằm im, khoan khoái tận hưởng cái mát mẻ, yên tĩnh của buổi chiều cho đến khi

làng nổi trống gọi thì con vật mới đủng đỉnh, thong thả lên bờ và lững thững đi

về. Có thể thấy, Bạc – heng là một chú voi tinh nghịch, thông minh. Còn Sao -

nọi là một cô voi cái xinh đẹp, hiền lành và dễ gần. Chiến sĩ Sơn được giao để

tiếp xúc với Sao - nọi. Khi Sơn đến gần, Sao - nọi lập tức vươn vòi lên, rà khắp

người Sơn để ngửi hơi, đôi mắt nó chớp liên hồi. Chỉ vài ngày sao, nó đã quen

với chiến sĩ Sơn. Sao nọi là một cô voi sáng dạ. Khi Sơn thấy nó thường nhặt

87

một cành cây khua trên lưng để đuổi ruồi muỗi nhưng không tìm được cành cây

vừa ý, nó bứt rứt, khó chịu và cong vòi lên lưng mà xì hơi: “Sơn làm cho Sao -

nọi một cái quạt. Anh ghép hai tàu lá gồi, nẹp tre cho cứng rồi đưa Sao - nọi.

Con voi xua quạt trên lưng và thấy cái quạt đuổi ruồi tốt hơn những cành cây

mà nó từng nhặt được, nó lim dim đôi mắt tỏ ý vui thích. Hết buổi trưa, khi

xuống giong Sao - nọi đi làm, Sơn lấy cái quạt ở vòi nó, cắm xuống một khe đất

bên cái cột xích voi. Hôm sau Sao - nọi bắt chước Sơn và từ đó thành một thói

quen: mỗi khi quạt xong, con vật lại cắm cái quạt vào chỗ cũ”[30;90]. Sao - nọi

cũng rất nữ tính và biết ơn. Một buổi đi làm về, nó dẫn Sơn đến một gốc phượng

rừng đầy những trùm hoa vàng. Nó tìm một chùm hoa đẹp nhất, nhẹ nhàng bẻ

lấy và đưa lên đầu Sơn. Con vật muốn dành tặng món quà nhỏ cho Sơn để trả ơn

Sơn, người quản tượng đã hết lòng vì nó. Quả là một cô voi dễ gần, dễ thương

và thông minh. Cũng giống như Bạc – heng và Sao - nọi, thoạt đầu Bạc – mày là

một chú voi dễ bảo. Chỉ sau vài tháng, con vật cũng đã quen và lưu luyến với

chiến sĩ Đức: “Năm nay, Bạc – mày hai mươi tuổi, đó là tuổi thanh xuân của

loài voi. Bạc – mày cũng hồn nhiên và tinh nghịch như con người vào tuổi ấy.

Nó thường âu yếm hít hơi những ai qua lại, có khi phun một tia nước vào họ rồi

nheo nheo cặp mắt ra chừng thích thú”[30; 90]. Nhưng đột nhiên con vật bỏ ăn

và thay đổi tính nết: “Nó trở nên hiếu động và hung hãn. Con vật giằng xích,

bồn chồn đi lại quanh cái cột, hệt như một con gấu. Cái chuông ở cổ nó không

ngừng kêu reng reng. Từ khi nó bắt đầu trái tính, Đức đeo cho nó một cái

chuông, cũng như người ta treo chiếc mõ ở cổ trâu, phòng khi con vật giật xích

chạy trốn thì theo tiếng chuông mà tìm nó về. Chốc chốc Bạc – mày lại rống lên.

Tiếng rống dữ tợn như tiếng một con voi độc giữa rừng hoang, át cả nhịp

chuông lanh lảnh”[30;91]. Khi khắc họa Bạc – mày, nhà văn Vũ Hùng đã đưa

người đọc từ thời gian quá khứ cho đến hiện tại. Bạc – mày được sinh ra trên

một nệm rơm êm ấm ở giữa làng Vông – xay mà không phải ở khu rừng hoang

dại cây cao bóng cả, nơi tổ tiên của nó ra đời. Lớn lên ở dưới làng, tính tình của

Bạc – mày rất thuần, nó được đối xử tốt, được ăn no và làm những công việc

vừa sức. Thế nhưng bất chợt, tính tình của nó thay đổi: “Trước hết nó im lặng.

Nó từ chối mọi sự săn sóc của Đức: khi anh vuốt ve nó thì nó đạp đạp chân, tỏ ý

bực bội. Rồi con vật trở nên khó tính: hơi trái ý là nó nhìn gờm gờm, cong lưng,

88

đập tai và huơi đuôi ngà lên một cách gây gổ, sẵn sàng nổi giận. Nhiều lúc nó

đứng u uất, nhìn đăm đăm về phía chân trời. Mắt nó như đóng đanh vào các

rừng cây và những ngọn núi biếc, từ đó bay về mùi thơm của lá cơm xôi và

những ngọn thông già. Một nỗi khao khát về sự buông thả mà nó chưa bao giờ

được hưởng cháy bỏng trong người nó. Nó thèm được đi lại tự do dưới những

vòm cây hoang dại, không xiềng xích nặng nề ở dưới chân, bên một con voi bạn

cũng không xiềng xích như nó.” [30;92]. Bạc – mày khao khát được tự do, cái tự

do của hiện tại mà nó chưa bao giờ được trải qua: “Nỗi khao khát kéo dài đến

mức con vật thấy ngứa ran trong các thớ thịt. Da nó đau đớn và run lên rùng

rùng, như bị chích bởi muôn nghìn ruồi muỗi vô hình. Đến đêm, khi trăng rừng

xanh biếc rọi vào mắt nó thì con vật không còn chịu đựng được nữa. Nó đứng

dựng dậy, hai chân sau căng thẳng, hai chân trước chới với. Bụng nó như thót

lại, bao sức lực dồn lên cả đôi vai để sẵn sàng chồm ra phía trước. Rồi nó vươn

vòi lên cao, thở hổn hển và rống những tiếng rồn vang, vừa buồn thảm vừa hung

hãn”. [30;93]. Bạc – mày đang trải qua giai đoạn khủng hoảng về tinh thần, nó

muốn đi đến với tự do của thiên nhiên, rừng núi mà bao nhiêu năm qua nó chưa

một lần được biết đến. Tiếng gọi của rừng già như thôi thúc, giục giã làm cho nó

bứt rứt, bồn chồn. Ở ngoài kia, rừng núi vô tận đang mê hoặc và quyến rũ nó.

Mang trong mình sự kìm hãm, trói buộc, Bạc – mày muốn phá tan mọi thứ. Nó

giận giữ gào lên cho bản năng bị vùi lấp bấy lâu được sống dậy trong người nó

rồi đứng dựng lên như con ngựa bất kham, đôi mắt giận giữ, đỏ ngầu. Nó giật

xích khiến dây xích căng bần bật. Bạc – mày gồng lên chống cự những con voi

đang cố gắng giữ nó. Trước sự chống cự gay gắt của Bạc – mày, các quản tượng

cũng thả nó đi. Trước khi thả nó, các quản tượng đã cho nó uống thuốc để trấn

an tinh thần. Được thả bất ngờ, nó đạp đạp chân rồi rảo bước đi ngay ra khỏi

làng. Mấy hôm sau, khi cơn khủng hoảng của Bạc – mày chấm dứt, nó lại quay

trở về làng. Có lẽ, con vật đã tự nhận ra nó không thích hợp với cuộc sống bí ẩn

nơi rừng già. Tâm lý không ổn định của Bạc – mày chính là minh chứng cho sự

khủng hoảng của loài vật. Chúng giống như con người cũng trải qua những giai

đoạn hoảng loạn, ham muốn và bất ổn định. Qua thời gian, tâm lý của chúng

được củng cố, mọi vết thương trong tâm hồn được chữa lành.

89

Thời gian trôi qua, tâm lý loài vật cũng thay đổi theo. Có thể theo chiều

hướng tích cực hoặc ngược lại. Chú vẹt trong truyện ngắn Các bạn của Đam

Đam đã rơi vào tình cảnh trói buộc khi đang sống một cuộc đời tự do. Chú vẹt

non đang vùng vẫy thỏa thích ở vũng nước trong veo giữa đám đá cuội trắng

trên bờ suối: “Chú mở to đôi mắt: nó nhìn thấy mây trời và bóng nó in dưới

vũng nước trong”[29;4]. Nó có đôi mắt sáng và thông minh. Đang vui đùa với

bạn, bất chợt chú vẹt trúng mũi tên của cậu bé Đam Đam: “Chú vẹt non nhảy

lên lấy đà: nó cũng muốn bay theo bầy. Nhưng vì không mở được đôi cánh, nó

rơi xuống, ngã nhào trên đất”[29;5]. Chú vẹt bị Đam Đam bắt mang về nhà, nó

được buộc vào một chạc cây. Theo bản năng, khi cậu bé Đam Đam buông tay,

chú vẹt tung cánh bay lên như ánh chớp nhưng bị giữ lại, nó rơi xuống và lủng

liểng dưới sợi dây buộc. Với tâm lí bất ổn và không quen trói buộc, chú vẹt cứ

hết lần này đến lần khác cố gắng vút bay nhưng lại rơi xuống. Cứ thế đến lượt

thứ chín, thứ mười, con vật biết mình bị xiềng xích mới chịu đứng yên và kêu

những tiếng kêu thảm thiết. Nó tuyệt vọng gọi bầy. Tưởng rằng con vẹt đã bất

lực nhưng nó lại lấy đà để cất cánh “nhưng vừa định bay lên thì nó chợt thấy

chân mình đã bị vướng dây. Thế là nó ép chặt cánh vào mình và ngẩng lên. Một

lát sau, quên mất tình trạng trói buộc, con vẹt lại cúi đầu lấy đà. Nhưng rồi tức

khắc nhận ra cảnh ngộ của mình, nó vội ngẩng đầu lên. Cứ thế con vẹt gật gù

hoài”[29;10]. Mọi sự cố gắng của nó dường như vô ích. Nó đã bị giam hãm.

Qua thời gian, con vẹt gầy rạc đi vì bị Đam Đam lãng quên. Nhưng càng gầy

tiếng kêu của nó càng thảm thiết. Có thể thấy, khao khát tự do và được hòa nhập

với bầy luôn thôi thúc trong tâm hồn chú vẹt. Chú luôn muốn được giải thoát.

Tiếng kêu đau đớn, vang vọng như lời trách móc. Cuối cùng, Đam Đam cũng

thả chú vẹt. Được tháo sợi dây, nó bay vút lên đậu trên ngọn cây dẻ đầu xóm và

kêu những tiếng kêu dò hỏi: “Từ trên cao, tiếng gọi tưởng chừng như vang vọng

tới những vách núi. Con vẹt nghêng đều lắng nghe. Nó thoang thoáng thấy tiếng

trả lời từ phía xa xăm vọng về, một thứ tiếng mỏng manh mơ hồ mà chỉ riêng

mình nó nhận ra. Nó tung cánh vút bay về phía đó”[29;26]. Con vẹt đã được tự

do. Tuy trải qua một quãng thời gian dài bị trói buộc nhưng bản năng của con

vật vẫn không bị đồng hóa và mất đi. Thay vào đó cái bản năng ấy trở nên mãnh

liệt và thôi thúc hơn.

90

Chú chó Phay Phay trong truyện Các bạn của Đam Đam cũng có bước

trưởng thành mạnh mẽ. Phay Phay là một chú chó ngoan ngoãn, khi đi theo

người bạn mới Đam Đam về nhà, nó không cần dây trói. Từ ngày có nó, nhân

vật Phay Phay cũng đã có những sự thay đổi về nhận thức. Từ khi có Phay Phay,

Đam Đam như quên mọi việc, suốt ngày cậu quấn quýt bên con chó. Mọi ánh

mắt, cử chỉ của Đam Đam, con chó đều hiểu: “Ngày ngày, đôi bạn đưa nhau lên

nương. Đam Đam hái củi, kiếm quả, nhặt nấm, con chó lẽo đẽo đi theo. Buổi

chiều, họ cùng nhau xuống nương tắm, lúc trở về, con chó tha hồ vui đùa. Nó

sủa vang dưới chân bò ngựa, nhảy chồm lên trên đàn gà khiến chúng chạy táo

tác. Rồi con chó nhảy dài lên thang, nhìn ông bà Xi Ta, sủa vài tiếng vui

mừng”[29;24]. Nó theo Đam Đam đi học nhưng chẳng bao giờ chịu nằm im, nó

bị tiếng rừng quyến rũ. Từ một chú chó nhỏ nhắn, Phay Phay cao vổng lên và rõ

ra là một chú chó tơ. Bộ lông của nó chuyển từ màu vàng rơm sang màu vàng

lửa. Đã đến lúc nó được huấn luyện để trở thành một chú chó săn. Hàng ngày,

ông Xi – Ta và Đam Đam rèn dạy nó. Ban đầu, nó cũng lưỡng lự, non nớt.

Nhưng với bản tính thông minh, sáng dạ, Phay Phay học tập rất nhanh. Hoạt

động nhiều giúp nó nhanh nhẹn và trí thông minh được rèn luyện. Ngoài việc

dạy nó tập nhảy cao, Đam Đam còn dạy nó bơi. Vào những buổi chiều, Đam

Đam đưa nó đi bơi. Mới đầu, nó bị sặc sụa trong nước đến nỗi “phải vớt lên

mảng”. Dần dần, nó quen với môi trường nước và bơi nhanh như một con rái cá.

Phay Phay được rèn luyện để trở thành một chú chó tinh khôn và dũng cảm. Để

tập luyện tính dũng cảm, ông Xi ta đã nhặt những túm lông của các loài thú dữ

cho Phay Phay ngửi: “Lông cọp làm nó khiếp sợ. Một nỗi khiếp sợ ghê gớm và

bẩm sinh khiến nó co quắp và khuỵu xuống... Con chó đã bỏ ăn. Nó tìm nằm

trong xó tối, sút đi rất nhanh như bị bệnh. Ông Xi ta cho nó nghỉ, vỗ béo nó và

khi con vật đã trở lại bình thường, ông cho nó ngửi tiếp túm lông của Cọp Vàng.

Phay Phay lại xỉu đi”[29;32]. Đây là thời kỳ gian khổ đối với Phay Phay. Rồi

con vật cũng quen dần với mùi của các loài thú dữ. Qua thời gian rèn luyện,

Phay Phay đã trở thành một con chó khôn ngoan, thông minh và can đảm. Và

cũng đến lúc nó được thử sức mình bằng những cuộc đi săn. Mỗi lần đi săn,

Phay Phay luôn tỏ rõ sự nhanh trí, thông minh và dũng cảm của mình. Thời gian

đã giúp nó rèn luyện và trưởng thành. Từ một chú chó nhỏ, Phay Phay đã trở

91

thành một chú chó săn can đảm. Con khỉ Xa ni cũng được được thời gian giúp

cho thay đổi về ngoại hình cũng như tính cách. Xa ni là một con khỉ non nớt,

yếu đuối đã được Đam Đam và Phay Phay cứu sống trong một cuộc đi săn. Ban

đầu, nó hoảng loạn, sợ hãi, “thân hình nhỏ bé của nó rung lên. Nó buông hai tay

và nhìn bằng cặp mắt van xin. Cái mũi hếch của nó thở phập phồng”[50;58].

Thân thể của nó vẫn còn thoảng mùi sữa mẹ và những búp lá non. Khi được đưa

về nhà bằng bàn tay chăm sóc chu đáo của gia đình Đam Đam, con khỉ lớn

nhanh và nghịch ngợm:“Nó đi chập chững trên sàn, hoặc nhảy lên mái đu từ sà

này sang sà khác. Nó chơi nghịch suốt ngày. Mỗi vật rơi vào tay nó đều biến

thành một thứ đồ chơi”[29;63]. Xa ni ngày một nhanh nhẹn và rắn rỏi. Nó học

hỏi và bắt chước rất nhanh. Năm tháng trôi qua, “hoa đồng lại nở đầy lối đi và

thoang thoảng mùi thơm. Cây rừng xanh rờn từ mùa xuân, sau cơn mưa hè càng

như căng nhựa và đầy lá. Chim gáy, chim sáo ríu rít... Ong xôn xao tìm

hoa”[29;67]. Bản năng thức dậy, Xa ni cảm thấy rạo rực như chưa bao giờ được

cảm thấy. Bây giờ nó đã lớn, nó cần trở về với rừng già. Ý chí của nó bị rừng già

quyến rũ nhưng nó vẫn lưu luyến với gia đình Đam Đam – nơi mà nó đã được

sống bình yên. Rồi không thắng nổi tiếng gọi nơi hoang giã, Xa ni đã bỏ đi:

“Đam Đam đặt Xa ni lên một cành cây. Con vượn mở tròn mắt nhìn những cái

đã từng in vào kí ức nó... Nó nhận ra tất cả, bàng hoàng như tỉnh dậy sau một

giấc ngủ quá dài. Trở về với rừng thẳm, nó sống lại với mọi bản chất thầm kín

và bí hiểm của nó. Nó ngửi những lớp vỏ cây và đu lên đu xuống. Đúng rồi: Có

một cái gì đã thức tỉnh trong lòng nó. Nó ngồi trên cao nhìn rất lâu xuống Đam

Đam... Nhưng tất cả những cái ấy vẫn không giữ được nó lại. Con vật kêu “Hu!

Hu!” và đu bổng lên cao rồi cứ thể đu mãi đi xa”[29;69]. Nhưng rồi bỗng một

buổi chiều, Xa ni trở về trên ngọn cây muỗm cổ. Phải chăng nó đã không tìm lại

được bầy đàn của mình? Phải chăng hoang giã đã không đủ sức mạnh để giữ

chân một con vật khi nó có tình cảm gắn bó với con người? Không một ai giải

thích được. Chỉ biết rằng, cuộc đấu tranh tâm lí của Xa ni là sự đấu tranh giữa

bản năng và thói quen. Và khía cạnh nào thắng cũng không quan trọng. Điều

quan trọng nhất đó là sống ở đâu cũng được, loài vật thấy bình yên là đủ.

Chú ngựa Antai trong truyện Chú ngựa đồng cỏ là một chú ngựa non

vùng thảo nguyên Mông Cổ. Chú đang có cuộc sống hạnh phúc bên bầy đàn của

92

mình thì bỗng nhiên bị bán cho một rạp xiếc ở Việt Nam. Môi trường sống xa lạ

đã khiến tâm lí của chú thay đổi rõ rệt. Mở đầu tác phẩm, là cuộc sống hiện tại

của chú ngựa Antai. Chú đã giới thiệu về bản thân mình một cách khái quát và

rõ ràng: “Tôi là một con ngựa xiếc. Bạn có thể gặp tôi hàng ngày trong khu nhà

bạt của Hà Nội... Tôi mang bộ yên cương lấp lánh, đặt trên lưng tấm đệm dệt

bằng những sợi chỉ bạc, chỉ vàng”[18;11]. Chú ngựa rất tự tin về khả năng của

bản thân mình, chú khoe rằng chú có thể mang được bốn người hoặc sáu người

trên lưng mà vẫn chạy nước kiệu một cách nhẹ nhàng. Chú còn tự hào về vùng

đất mà chú được sinh ra và lớn lên. Đó là vùng đất Mông Cổ. Sau đó, chú kể lại

câu chuyện của cuộc đời mình. Dù tự hào về vùng quê Mông Cổ nhưng chú

ngựa Antai cùng thừa nhận đây là vùng khắc nghiệt trên trái đất. Mùa hè nóng

bỏng và chói chang. Mùa đông lạnh buốt và ảm đạm. Không có một loài cây nào

sống được ở đây trừ một vài loài cây không lá, thân khẳng khiu. Tuy vậy, đồng

cỏ vẫn đủ nuôi sống bầy đàn của chú và các bầy đàn khác. Trên đồng cỏ ấy, chú

ngựa Antai cùng các loài vật sống bình yên, hòa thuận và che chở cho nhau.

Chúng giúp đỡ nhau cùng vượt qua những nguy hiển của cuộc sống thảo

nguyên. Ngoài việc tự hào về quên hương, chú ngựa Antai còn tự hào về gia

đình ngựa của mình. Bố chú là một loài ngựa rừng hoang dã nổi tiếng trong

vùng. Ông rất tinh nhanh, chưa bao giờ chịu sự chói buộc. Ông có bốn cẳng

chân thần kỳ và quen chống chọi với bão giông, thú dữ. “Ông can đảm và có

sức chịu đựng không bờ bến”[18;16]. Mẹ Antai thì trái ngược lại, bà là giống

ngựa nuôi: “Mẹ là một kì công của thiên nhiên. Những cặp chân thanh tú tận

cùng bằng một bộ móng đen như huyền, một bộ ngực đầy đặn hứng gió thảo

nguyên, một khuôn mặt nhẹ nhõm với đôi mắt đen to, những sợi bờm mảnh dẻ

như những sợi tóc...”[18;17]. Chú ngựa Antai được hưởng dòng máu hoang dã,

cường tráng của cha và dáng dấp đẹp đẽ của mẹ. Khi vừa mới được ra đời, chú

lạ lẫm, non nớt và ẩm ướt. Được mẹ và ông chủ chăm sóc chu đáo, chú dần khỏe

mạnh và lanh lẹ. Khi sống trên thảo nguyên, chú ngựa Antai và người bạn Xam

đã qua nhiều cuộc vui chơi và trở nên gắn bó với nhau. Sống trong bầy đàn lớn,

chú ngựa Antai nhận ra sự giúp đỡ, đoàn kết của các thành viên trong bầy đàn để

chống lại giông bão và thú dữ. Tình cảm gắn bó với bầy đàn được nhen nhóm

trong tâm hồn của Antai. Sống giữa sự yêu thương, đùm bọc của bầy đàn, Antai

93

nhận ra rằng, cuộc đời của một chú ngựa sống trên đồng cỏ hay bất kỳ loài vật

nào cũng cần phải có bạn bè, gia đình và đồng loại. Trải qua những trận bão

tuyết hay những trận chiến đấu ác liệt với thú dữ, chú ngựa thêm yêu và khâm

phục ý chí đồng loại của mình. Đang sống một cuộc sống yên ả và hạnh phúc,

bất ngờ Antai phải xa gia đình. Chú đến một nơi cách xa quê hương Mông Cổ

thân yêu để sống và làm việc. Chú buồn thảm, thất vọng và đau đớn. Phải chăng,

quê hương – nơi gắn bó yêu thương đã trở nên xa xỉ với chú. Tiếng hí buồn đau

vang vọng khắp đồng cỏ. Giờ đây, thảo nguyên mênh mông đã xa vời với Antai.

Chiếc xe tải đưa chú vượt thảo nguyên về thủ đô nước Việt Nam. Trong những

ngày sống trên thảo nguyên, điều mà Antai nhìn thấy chỉ là gió, bụi, tuyết, cát,

những bầy lạc đà, những dòng xe bò chậm chạp lăn bánh... giờ đây, trước mắt

Antai là những nhà máy, ruộng đồng xanh mênh mông, đoàn oto, tàu hỏa lao

vun vút... chân trời mới rộng mở trước mắt Antai, nhưng chú không hề cảm thấy

vui. Trên hành trình di chuyển, chú được ở chung chuồng với những giống ngựa

khác nhau. Điều đó cũng là một niềm an ủi với Antai vì có nghĩa là chú không

cô đơn. Đến nơi ở mới, điều kiện thiên nhiên khác biệt, thức ăn lạ, môi trường

sống lạ khiến chú đau ốm và gầy sút. Chú ngựa Antai đã phải trải qua một giai

đoạn hết sức khó khăn. Khí hậu nóng bức tuy không khắc nghiệt như ở thảo

nguyên nhưng lại thiếu những cơn gió làm cho chú bức bội, khó chịu. Bộ lông

dài với mồ hôi nhớp nhúa gây cảm giác khó chịu. Chiếc chuồng chật hẹp và ồn

ào khiến không gian càng thêm bức bối. Trong chính hoàn cảnh này, chú lại

càng thêm nhớ gia đình, chú nhớ thảo nguyên mênh mông, rộng lớn và những

người bạn. Rồi mọi chuyện cũng qua đi, chú ngựa Antai đã thích ứng với môi

trường sống, quen với thức ăn, nếp sinh hoạt và những người bạn mới. Thời gian

đã giúp chú trưởng thành và nhận thức được nhiều điều mới mẻ.

Trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, ta thấy các nhân vật loài vật

đang sống ở hiện tại nhưng quá khứ lại thỉnh thoảng hiện về. Kratiê, cô chó Nhật

tài năng trong truyện ngắn Những kẻ lưu lạc là một ví dụ điển hình. Mở đầu câu

truyện, là buổi biểu diễn xiếc nghệ thuật của Kratiê. Cũng giống như những buổi

biểu diễn xiếc khác, cô chó luôn hồi hội và bồn chồn. Nhưng cuối cùng, nó cũng

hoàn thành xuất sắc tiết mục của mình. Sau buổi biểu diễn, Kratiê kể lại cuộc

đời lưu lạc của chính mình. Đầu tiên, người chủ của Kratiê là một cô gái người

94

Khơme, con một ông giáo tỉnh Krachiê. Nó được cô gái chăm sóc cẩn thận và

chu đáo ngay từ khi mới lọt lòng: “Tôi ra đời trên một ổ bông gòn, đặt trong

một cái phòng của cô. Khi đôi mắt còn nhắm nghiền và đầu còn nặng trĩu, tôi

vẫn thấy bàn tay nhỏ bé của cô nhè nhẹ vuốt lên lớp lông mịn màng trên lưng

tôi. Tôi ngẩng cao đầu và cố mở mắt nhưng cặp mi khép chặt quá khiến tôi chỉ

nhìn thấy mờ mờ hình cô chủ trong một vầng sáng màu hồng”[27;22]. Anh em

nhà Kratiê không những được cô chủ chăm sóc mà còn được chính chó mẹ nâng

niu mỗi ngày. Nó được bú no và chơi đùa thỏa thích mà không phải suy nghĩ

nhiều vì gia đình nhà cô chủ đều là những người tốt bụng và lương thiện. Mẹ

Kratiê còn dạy nó cách ăn ở sạch sẽ và cách cư xử đúng mực. Kratiê là một cô

chó thông minh và sáng dạ. Nó biết cách làm theo những hướng dẫn của cô chủ.

Bên cạnh đó, nó còn là một cô chó ham thích khám phá: “Căn buồng của cô chủ

đối với chúng tôi mỗi ngày một trở nên chật hẹp, tù túng. Chúng tôi thuộc từng

ngóc ngách đến mức có thể nhắm mắt đuổi nhau mà vẫn không va chạm vào các

đồ đạc để trong phòng. Chúng tôi ước muốn thấy những cái khác vì chúng tôi đã

lớn... chúng tôi muốn khám phá căn nhà chúng tôi ở”[27;34]. Và rồi, anh em

Kratiê cũng được xuống dưới sân chơi. Ở đây, chúng gặp hai con chó săn cao

lớn và hung dữ. Bị chúng chế nhạo, anh em nhà Kratiê rất bực bội, buồn và căm

ghét. Khi được mẹ giải thích và khuyên răn, Kratiê và anh đã hiểu ra mọi

chuyện. Tâm lí của anh em nhà Kratiê đã dần được định hình trước những xô xát

nhỏ của cuộc sống. Cuộc sống vốn dĩ không êm đềm, những khó khăn và tại họa

bất chợt ập đến. Việc đầu tiên, Kratiê đã phải chấp dứt tuổi thơ ấu để đối đầu với

nỗi buồn và sự vĩnh biệt. Kratiê đã phải rời xa người anh trai của mình. Gia đình

ông chủ đã tặng anh trai Kratiê cho một gia đình người bạn. Lần đầu tiền trong

cuộc đời, Kratiê bị rơi vào tình trạng xa cách: “Tôi chui vào các gầm giường,

gầm bàn, xó tủ nơi chúng tôi vẫn chơi đùa với nhau, để tìm Khla. Tôi bỏ ăn, tôi

kêu, tôi khóc, tôi gọi...tất cả đều vô ích. Khla đã biệt tăm rồi”[27;46]. Nỗi buồn

mất anh trai chưa kịp nguôi, Kratiê đã phải trải qua một nỗi buồn ghê gớm, một

cơn ác mộng và một nỗi kinh hoàng không bao giờ quên được. Chiến tranh đã

tạo nên sự mất mát cao độ. Gia đình nhà cô chủ bị bọn giặc đuổi ra khỏi nhà, mẹ

của Kratiê bị giết hại một cách tàn bạo và thảm thương: “Tôi nghe nhức nhối

trong mình, như thể chính xương thịt của tôi đang bị đè nát. Nước mắt ứa ra từ

95

đôi mắt nhắm nghiền của tôi”[27;53]. May mắn, cô chủ giấu được Kratiê trong

chiếc làn quần áo của mình, Kratiê thoát khỏi bàn tay tàn bạo của bọn giặc. Chỉ

có mẹ Kratiê bị bọn giặc phát hiện và giết hại. Cuộc sống của Kratiê và gia đình

cô chủ được thay đổi từ đây. Họ phải từ bỏ ngôi nhà thân yêu của mình và lang

thang đi tìm nơi trú chân. Họ được ở nhờ trong nhà của một bà chủ hiền hòa sát

vùng biên giới Việt Nam. Cô chủ giấu Kratiê rất kỹ nhưng vẫn bị phát hiện. Lão

trưởng thôn và bọn mật vụ đến bắt Kratiê đi. Từ đó Kratiê phải sống một cuộc

đời bất hạnh và khổ cực. Nó bị lão trưởng thôn cùng con trai lão hành hạ và bắt

ép phải làm những điều mà lão muốn. Lão huấn luyện cho Kratiê những bài học

vô đạo đức để biến Kratiê thành tay sai. Lão trưởng thôn trói Kratiê vào một cái

cột, vì chưa bị trói bao giờ, Kratiê luôn giãy giụa để phản kháng. Lão bỏ cho nó

đói và dọa không giãy mới cho nó ăn. Kratiê xỉu dần vì kiệt sức. Lão dùng roi để

điều khiển và dạy Kratiê những trò bỉ ổi. Kratiê đã phản kháng gay gắt. Lão

trưởng thôn thấy Kratiê không làm được việc nên đã đánh đập nó dã man. Cô

chó chưa bao giờ khuất phục lão, nó hằn sâu mối thù trong lòng. Mùa màng đói

kém, lão trưởng thôn cắt luôn phần cơm cho Kratiê, nó phải lang thang đi kiếm

ăn khắp nơi. Thấy Kratiê vắng nhà thường xuyên, lão càng đánh đập nó tàn bạo.

Roi vọt và cái đói làm cho Kratiê hình thành ý định bỏ trốn. Nhưng cái ý định bỏ

trốn đấy mới chỉ nhen nhóm trong lòng con chó. Nó vẫn bị sợ hãi ngoài kia làm

cho nao núng: “Đã bao lần tôi cân nhắc giữa tự do và yên ổn. Tôi tự bào chữa

cho sự hèn nhát của tôi và tự bảo mình: dù sao thì tôi cũng đang sống yên ổn.

Dù bị roi vọt, tôi vẫn có cơm ăn khi đói và một chỗ ngủ yên lành mỗi khi đêm

xuống. Roi vọt làm nhục nhằn đau đớn những không làm ta chết. Còn những

nguy hiểm của cuộc sống trong rừng thì hoàn toàn khác, có thể giết chết một

con chó nhỏ bé và yếu đuối như tôi bất cứ lúc nào”[27;81]. Kratiê tuy bị đòn roi

và đau đớn thường xuyên nhưng nó vẫn không giám bỏ đi vì nó sợ cuộc sống

ngoài kia còn đáng sợ và nguy hiểm hơn là sống với bố con lão trưởng thôn.

Phải đến khi rơi vào hoàn cảnh thúc bách và sự khao khát mạnh mẽ về một cuộc

đời không xiềng xích, Kratiê mới dám dũng cảm bỏ trốn. Khi lão trưởng thôn và

con trai lão âm mưu dùng Kratiê để làm mồi nhử bẫy con báo rừng. Kratiê đã bỏ

trốn trước khi bị đặt vào ống bẫy: “Tôi chạy rất xa, xa biệt hẳn cái làng mà tôi

ghê sợ. Tôi chỉ ngừng lại khi thấy không khí yên tĩnh làm tôi bình tâm... Tôi

96

không còn thấy cây roi cài trên vách, sợi dây thừng và chiếc ống tre nằm thõng

dưới chân cột, mà chỉ thấy những bụi cây thơm mùi nhựa và mùi hoa

lá”[27;83]. Kratiê đã phải sống một cuộc đời đau đớn trong nhà lão trưởng thôn

nhưng nó không có dũng khí để bỏ trốn vì nó sợ. Nó sợ bị bắt lại, nó sợ đối diện

với cuộc sống mới. Nhưng hoàn cảnh ép buộc, giữa sự sống và cái chết, nó phải

dũng cảm chọn lựa. Và Kratiê đã chọn việc bỏ trốn. Thế nhưng nó lại bị lão

trưởng thôn bắt được và dùng làm mồi cho báo. Rất may, Kratiê được đoàn

người dạy thú Việt Nam giải cứu. Từ đây, cuộc đời của Kratiê đã chuyển sang

một giai đoạn mới, giai đoạn của sự bình yên. Kratiê được đoàn người dạy thú

dạy học một vài tiết mục xiếc. Vốn bản tính thông minh, sáng dạ. Nó học rất

nhanh. Người chủ mới rất vừa lòng với nó. Kratiê đã cùng đoàn người dạy thú

đi khắp mọi nơi để tìm những con thú mới cho đoàn xiếc. Cuối cùng, Kratiê đã

có một gia đình mới với rất nhiều con thú. Cuộc sống mới của Kratiê là những

buổi tập luyện và trình diễn xiếc. Một cuộc sống bình dị và yên ả. Trải qua nhiều

sóng gió và lưu lạc. Cô chó Kratiê đã dần hoàn thiện mình về tính cách và tâm

hồn. Nó biết suy nghĩ những điều chín chắn và dũng cảm hơn. Mỗi khi nhớ về

quá khứ, nói nhớ gia đình, niềm đau mất mát luôn thường trực và day dứt trong

tâm hồn nó. Thời gian đã dạy cho Kratiê nhiều thứ, đó là phải mạnh mẽ và kiên

định với cuộc sống của chính bản thân. Ý chí vững bền thì mới có cuộc sống

bình yên.

Truyện ngắn Con cu li của tôi là một câu truyện xúc động người đọc về

tình cảm của một người chiến sĩ với con cu li tên là Lili, người bạn đồng hành

trên chặng đường chiến đấu đầy nguy hiểm của anh. Qua thời gian, những tưởng

tình cảm của người chiến sĩ sẽ giữ được chân con vật bên mình mãi mãi. Nhưng

không, tiếng gọi da diết, quyến rũ của hoang dã luôn tha thiết và cháy bỏng

trong tâm hồn con Lili nhỏ bé. Trên chặng đường hành quân, người chiến sĩ

cùng động đội đã nghỉ chân tại một làng săn của những người thợ săn Sêk – nằm

bên kia dãy núi Trường Sơn. Họ được người thợ săn thiết đãi nhiều món ăn từ

thú rừng của thiên nhiên. Trước khi chia tay, để cảm ơn tấm lòng hào hiệp của

bác thợ săn, người chiến sĩ đã tặng bác mảnh vài dù để bác dùng nó làm tấm

chăn khi ngủ hoặc choàng ngoài chiếc áo đã quá rách của bác. Người thợ săn

xúc động và tặng lại cho anh chiến sĩ một con cu li xinh xắn, nhút nhát. Anh

97

chiến sĩ bị đôi mắt đăm đăm của nó làm cho thương mến. Và anh đã đưa nó

đồng hành trên chặng đường hành quân của mình. Đi cùng anh chiến sĩ, ban đầu

con culi cũng gặp rất nhiều điều khó khăn. Nó không quen với thức ăn nên gầy

rộc đi nhanh chóng. Cặp mắt trong veo của nó trở nên u tối và ngơ ngác. Bộ

lông bắt đầu khô cứng lại. Anh chiến sĩ đắn đo không biết tìm kiếm thức ăn ở

đâu cho con culi. Dần dần nó quen ăn cơm. Đến những vùng đất mới, gặp những

buổi đốt rẫy, thức ăn cho culi rất dễ kiếm. Có đủ thức ăn, con cu li lại béo mập

lên. Lông nó mượt và êm dịu. Con cu li rất hiền lành và dễ thương, nó thường

mở cặp mắt long lanh nhìn anh chiến sĩ rồi đưa bàn tay xinh xắn cầm mồi đưa

lên miệng. Mắt nó hay ánh lên sự thỏa mãn khi được ăn no: “Con cu li của tôi

còn non. Nhìn nó là biết ngay điều đó. Vào những lúc nắng sớm chưa chói

chang, nó chơi đùa như một đứa trẻ. Nó mân mê những chiếc khuy và những

chiếc khóa ba lô với vẻ mải mê thích thú”[22;28]. Con cu li được anh chiến sĩ

chăm sóc rất chu đáo. Anh san sẻ phần cơm của mình cho nó, anh luôn dành

thời gian rảnh rỗi của mình để tìm kiếm thức ăn cho nó. Trên chặng đường hành

quân, đã nhiều lần con cu li cứu thoát các chiến sĩ khỏi những nguy hiểm rình

rập. Đầu tiên, nó cứu sống đội trưởng quân báo khi phát hiện ra con rắn lục

trong balo của anh. Sau sự việc đó, nó được mọi người quan tâm hơn. Thứ hai,

con cu li đã cứu sống hai chiến sĩ làm nhiệm vụ canh gác đêm trước sự rình rập

của con báo đốm. Sau khi lập những chiến công, con cu li đã được mọi người

chú ít và chăm chút hơn xưa. Đa số mọi người đều yêu quí nó nhưng bản thân

nó vẫn không có gì thay đổi. Nó vẫn sống thầm lặng trên nắp balo của người

chiến sĩ đài trưởng. Con cu li đã trải qua cuộc sống gắn bó với người chiến sĩ.

Giữa anh và nó đã có sự thấu hiểu và đồng cảm. Cũng giống như con người, loài

vật cũng bị thời gian làm thay đổi tâm sinh lí: “Những rạo rực bí ẩn ảnh hưởng

đến cả con culi... Nó không thích ngồi trong bóng tối âm thầm. Suốt ngày nó bò

lên bò xuống không yên. Tôi nhận ra ngay không phải nó sợ hãi. Xung quanh

hoàn toàn yên tĩnh, chẳng có gì để nó phải khiếp sợ. Nó đang trong cơn tìm

kiếm một bạn đồng loại mà lẽ ra nó sẽ gặp nếu được buông thả trong

rừng”[22;134]. Con cu li đã thay đổi, nhiều bữa nó bỏ ăn, cặp mắt trong veo

ngày nào nổi lên những vằn đỏ dữ dằn, nó lấy tay giật sợi dây buộc. Nó hiểu

rằng nó đang bị trói buộc và nó muốn được tự do, “nó đưa sợi dây vào miệng

98

nhay nhay với tất cả nỗi bực dọc”[22;135]. Con cu li đang trải qua bước biến

đổi và chuyển mình của những sinh vật trưởng thành. Cái giày vò nó là nỗi trăn

trở của sự sinh sản. Người chiến sĩ đã nhận ra những biến đổi về thể xác và tâm

hồn của con culi, anh nhận thấy sự tàn nhẫn của mình khi trói buộc nó. Anh tự

hứa với mình rằng sẽ thả con culi về với thiên nhiên. Con cu li đồng hành cùng

người chiến sĩ thêm năm năm nữa. Và rồi anh nhận ra sự khắc khoải của nó

không chỉ diễn ra trong mùa sinh sản mà là triền miên. Nó hoàn toàn suy sụp và

mất đi cái nhạy cảm vốn có. Nó trở nên thảm thương, mắt thường lờ đờ, đầu

luôn gục trước ngực và hai tay buông thõng không động đậy. Nó hững hờ với

mọi sự ân cần và vuốt ve của người chiến sĩ. Anh nhớ lại nỗi trăn trở của nó

trong những mùa xuân đã qua, anh nhớ lại lời hứa sẽ thả nó. Người chiến sĩ

muốn giữ lại những kỷ niệm về nó trong tâm trí mình chứ không muốn trói buộc

và áp đặt nó vào cuộc đời mình. Anh đã quyết định thả con culi về với rừng

xanh. Đặt nó trên một cành cây, anh chiến sĩ quay lưng bỏ đi. Nhưng rồi như

tiếc nuối, anh quay lại gọi nó xuống: “Tôi rút trong ống nứa đựng thức ăn của

nó mấy con châu chấu nhử nó xuống. Lili thong thả nhô ra khỏi hốc. Nó chúc

đầu bò xuống với tôi. Nhưng được vài bước, nó bỗng ngừng lại. Nó cứ ngập

ngừng nửa như muốn bò xuống, nửa như lại muốn quay lên. Chừng như những

con mồi hấp dẫn Lili. Chừng như sau những năm tháng sống với tôi, Lili nhận

ra sự yếu đuối của nó, nó cần người che chở... Nhưng con cu li của tôi sau một

hồi dao động vẫn im phăng phắc. Nó trở nên trơ trơ với mọi thứ tôi đưa ra để

gọi nó trở về. Những lời van xin của tôi không còn thuyết phục. Cả đến mồi nhử

và những phản xạ do sự gọi ăn gây ra cũng không còn tác dụng. Hình như với

Lili mọi cái đó giờ đây đều đã hết thân quen”[22;145]. Con cu li biết nó đã về

với rừng râm mát, nơi nó ra đời: “Nó nhận thức được điều này nhờ cặp mắt

không còn bị nhức, nhờ bộ lông không còn làm nó bức bối khó chịu, nhờ hương

của hoa lá, của nấm, của măng, của nhựa thơm đọng trên chiếc móng nó dùng

để bấu vào vỏ cây”[22;145]. Tiếng gọi của hoang dã, dòng giống đã văng vẳng

trong đầu nó, cuối cùng nó trở về với chính nó, với bản năng, với rừng già. Nó

thấu hiểu được rằng, đây mới là cuộc sống của nó. Nó từ chối sự gọi mời của

người chiến sĩ vì nó nhận ra rằng: tự do cao quý hơn miếng ăn, hơn sự che chở...

99

hơn tất cả mọi thứ. Con cu li đã về với rừng già thân yêu, nơi mà nó tìm được sự

bình yên và bản năng vốn có.

Qua khảo sát các tác phẩm truyện của nhà văn Vũ Hùng, ta nhận thấy nhà

văn luôn đặt nhân vật loài vật của mình trong những diễn biến của thời gian tâm

lí và các nhân vật loài vật đều thoát li được hiện thực và hoàn cảnh sống để tìm

kiếm những điều tốt đẹp, làm chủ cuộc đời mình và sinh tồn có ý nghĩa.

3.2. Phương thức xây dựng nhân vật

3.2.1. Cách đặt tên các nhân vật loài vật

Các nhân vật loài vật trong truyện của nhà văn Vũ Hùng gây ấn tượng với

người đọc thông qua tên gọi. Mỗi cái tên gắn với những đặc điểm về ngoại hình,

tính cách, số phận hoặc kỉ niệm của từng loài vật. Trong truyện Những kẻ lưu

lạc, nhân vật loài vật đã trải qua nhiều lần đặt tên: “Khác với những lứa trước,

lứa nào cũng đông, lứa này mẹ tôi chỉ sinh hai đứa chúng tôi: anh tôi và tôi. Mẹ

tôi gọi anh tôi là Cún Anh và tôi là Cún Út”[27;22]. Còn cô chủ của các chú chó

lại đặt tên chúng theo tính cách và diện mạo mà chúng đang sở hữu: “Cô chủ

bảo tôi xinh đẹp như một con thỏ mà hàng năm cô vẫn làm vào ngày hội của trẻ

con, bằng cách dán những miếng bông nõn trên một chiếc vỏ trứng. Cô đặt tên

cho tôi là Côpbal. Trong tiếng Khơme của cô, Côpbal có nghĩa là nắm bông.

Còn anh tôi vì tính hiếu động và nghịch ngợm, được cô đặt tên là Khla. Khla là

con vật ghê gớm nhất trong rừng rậm Campuchia: Con Cọp”[27;24]. Hai cái

tên của hai con chó đã diễn tả đúng về ngoại hình của chúng. Một con chó thì

xinh đẹp, dịu dàng như cục bông; một con chó thì nghịch ngợm, hiếu động. Rồi

khi Côpbal rơi vào tay lão chủ mới, nó được đổi tên là Chô, tiếng Khơme có

nghĩa là “xông lên trước”. Với mong muốn huấn luyện con chó làm tay sai đắc

lực cho mình trong những chuyến “săn”, lão chủ mới đặt tên cho nó như vậy.

Rồi sau đó, khi được những người chủ mới cứu thoát khỏi tay lão chủ độc ác,

Chô lại được đổi tên mới:

“Ông hỏi:

- Con chó tên là gì?

- Chô. Con Chô

- Chà “Xung Phong”. Con “Xung Phong”. Cái tên chẳng hợp với con

chó tí nào. Nó nhỏ nhắn, xinh xẻo, hiền lành thế kia!”[27;94]

100

Người chủ mới đặt tên cho con chó dựa vào nơi nó đã từng sinh ra: “Vậy

thì tôi đặt lại tên cho con chó này là Kratiê. Để nó nhớ đến quê hương của

nó”[27;94]. Và các nhân vật loài vật khác với những cái tên nghộ nghĩnh thể

hiện từng đặc điểm của chúng: “Chó mẹ, ưa dịu ngọt hễ bị mắng là biết hờn

dỗi, được đặt tên là Cam. Anh chó đực đầu lứa tính tình nghịch ngợm và háu

ăn, chưa làm xong các động tác mà cô giáo tôi yêu cầu đã vội vội vàng vàng

đòi phần thưởng, được đặt tên là Láo. Anh chó đực thứ hai là Hấp, anh này

gàn dở, tự nhiên đang yên lành anh cũng vặc với người khác và rất hay gây sự

cãi nhau. Trái với hai anh, cô chó út là một cô chó ngoan ngoãn, dịu dàng,

được cả người lẫn nết: dáng cô thanh mảnh, bộ lông vàng hồng êm dịu, lại

thông minh và học rất chăm. Vì thế cô được cô giáo đặt tên là Khôn”[27;114].

Ngoài gia đình Cam, còn một đàn chó Nhật được đưa tới: “Ngày mới về, họ

cũng gầy yếu xơ xác, nhưng được chăm chút, họ béo lên rất nhanh. Lông họ lại

mượt mà, mắt họ lại rực sáng. Cô giáo tôi lấy tên những trái cây đặt cho họ:

Mận, Na, Táo... Trông họ cũng xinh xinh như những trái cây nhỏ nhắn

đó”[27;114]. Truyện Con cu li của tôi, người chiến sĩ rất khó khăn trong việc

đặt tên cho con culi của mình: “Tôi đã mất nhiều thời giờ để chọn cho con cu

li của tôi. Tôi muốn tìm một cái tên hay và đẹp, đúng với tính cách của nó.

Cuối cùng tôi gọi nó là Lili. Một cái tên cũng có đôi chút âm điệu và dễ gọi”

[27;94]. Chú chó của Đam Đam trong truyện Các bạn của Đam Đam được đặt

tên là Phay Phay, có nghĩa là lửa. Con vượn mà Đam Đam cứu trong rừng cũng

được cậu đặt tên là Xa ni, tiếng Lào Xa ni có nghĩa là con vượn. Các nhân vật

loài vật trong truyện Phía Tây Trường Sơn cũng được đặt tên theo đặc điểm

ngoại hình. Đầu tiên là Ông Một, con voi dữ tợn và xông xáo ra trận với chiếc

ngà duy nhất; Sao Nọi là “Cô bé voi”, đó là một con voi cái đẹp và hiền lành;

Bạc Mày là con voi hưng dữ và hiếu động. Chú ngựa trong Chú ngựa đồng cỏ

thuộc miền Nam nước Mông Cổ mang dòng máu hoang dã của ngựa rừng

hoang và dáng dấp đẹp đẽ của ngựa nuôi được đặt tên là Antai, tên rặng núi

chất ngất và thảo nguyên mênh mông nơi chú sinh sống. Chú ngựa hồng, non

nớt và nhút nhát tên là Xam. Sau đó chú ngựa Antai được người chủ mới đặt

tên là Tai: “Tai đây là cái tai để nghe. Anh đặt cho tôi tên này vì trong một

trận ẩu đả, loài ngựa chúng tôi cũng hay sinh sự đánh nhau lộn bậy, tôi đã bị

101

cắn sứt một bên tai” ngoài ra còn có “Lip, béo mập và hơi lùn; giống hạt mít

được gọi là Mi. Ram, cao và gầy; giống Đông Ky Sốt được gọi là Sốt. Trai,

chàng ngựa bất kham nhất trong chúng tôi, lúc nào cũng đã hậu vun vút, được

gọi là Sêk, tên một điệu nhảy: dưới con mắt giàu tưởng tượng của các diễn

viên xiếc ngựa, chàng ta nhảy sêk suốt ngày. Còn Mo, vóc dáng vạm vỡ và bệ

vệ chẳng khác gì một người dân đồng cỏ, được gọi là Bo”[18;96]. Hay như

chú hươu non trong truyện Sao Sao với bộ lông mang nhiều ngôi sao nhỏ xinh

đẹp nên được đặt tên là Sao Sao: “Bố mẹ đặt tên em là Sao Sao, bao nhiêu ông

sao trên lưng em. Thế là hươu con mang cái tên xinh đẹp Sao Sao. Chú đi đâu

dân làng Hươu cũng gọi “Sao Sao! Sao Sao!” với một giọng chan chứa

thương mến” [23;3]. Các bạn của Hươu Sao cũng được đặt tên theo những tính

cách và ngoài hình bên ngoài: “Các cô Hươu mang những cái tên thật đẹp.

Người thế nào thì cái tên thế ấy: cô Ngơ Ngác, cô Bình Yên, cô Dịu Dàng...

Tên các cậu hươu thì hùng dũng hơn. Cậu nào có tài nhảy thường mang tên

Chớp Lửa hoặc Gió Lốc. Cậu nào chăm chỉ luyện tập thân hình rắn chắc nở

nang thì mang tên các trái núi trong vùng hoặc tên các loài gỗ: Núi Lam, Đá

Bạc, Gụ Nâu, Lim Đen...”[23;5]. Cùng lứa của Sao Sao có một cậu hươu vừa

còi cọc lại vừa cộc đuôi nên được đặt tên là Hươu Cộc: “Cậu không may mắn,

mới sinh ra đã chịu tật nguyền: cộc đuôi là một bất hạnh rất lớn đối với thú

rừng, cậu hươu ấy chẳng gì xua đuổi ruồi muỗi. Cậu bị gọi là Hươu Cộc. Bạn

bè gọi thế để đùa vui thôi, cũng chẳng ai có ý gì độc ác”[44;5]. Sao Sao thấy

cậu hươu xấu số thật đáng thương. Chú nhận ra cậu hươu bạn tuy còi cọc và

cộc đuôi nhưng rất tốt bụng. Cậu ấy có một đôi mắt trìu mến, “một hươu con

tốt bụng và can đảm như thế xứng đáng mang cái tên thật đẹp. Sao sao tự hỏi

“hay gọi bạn ấy là hươu Mắt Đen. Mà không, vì bạn ấy nhỏ nhắn, phải gọi là

Nai Bông... Nai Bông là cái tên mà các bác nai mẹ vẫn dùng ở nhà để gọi

những đứa con bé bỏng xinh xinh của họ”[23;5]. Chú voi tinh nghịch trong

truyện Sống giữa bầy voi được đặt tên là Bạc Nọi. Trong tiếng Lào, Bạc Nọi

có nghĩa là thằng Cu Non. Đúng với bản tính ham chơi và nghịch ngợm của

chú voi Bạc - Nọi mà nhà văn Vũ Hùng đặt tên cho nó. Khác với các nhân vật

loài vật khác, chú voi chiến sĩ trong truyện Người quản tượng và con voi

chiến sĩ được đặt tên theo hoàn cảnh xuất hiện của nó. Trong một trận mưa

102

bão, có một con voi bị lạc bầy vào làng Ta – khan và bị ông cháu Đik bắt được.

Đó là một chú voi đẹp. Ban đầu, ông già Rem muốn đặt tên nó là Kham – toốc.

Tiếng Lào có nghĩa là Vàng rơi. Đối với ông già Rem, chú voi quý hơn vàng vì

phải vất vả lắm mới bắt được nó. Nhưng người cháu Đik lại muốn đặt tên nó là

Luôm – luông, có nghĩa là giông bão.

Việc đặt tên các nhân vật loài vật theo tính cách, diện mạo, đặc điểm

ngoại hình hoặc hoàn cảnh xuất hiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp

nhận tác phẩm nói chung và nhân vật nói riêng. Qua tên gọi, độc giả đã định

hình được rõ ràng nhất về tính cách và diện mạo của nhân vật loài vật, giúp cho

quá trình tiếp nhận nội dung tác phẩm được dễ dàng hơn.

3.2.2. Xây dựng chân dung nhân vật loài vật

Nhân vật loài vật trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng không chỉ gây

ấn tượng mạnh mẽ thông qua tên gọi mà còn hiện lên cụ thể, sinh động và rõ nét

nhờ vào những chi tiết miêu tả về ngoại hình. Từ các nhân vật loài vật phụ đến

chân dung các nhân vật loài vật chính đều được cụ thể hóa bằng các biện pháp

nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả đặc trưng được Vũ Hùng sử dụng nhiều trong

các tác phẩm của mình. Mà cụ thể hơn là nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành

động của nhân vật – đây là nghệ thuật mà ông sử dụng nhiều trong các tác phẩm.

Con cu li trong truyện Con cu li của tôi được miêu tả qua vẻ ngoài xinh xắn và

hành động nhút nhát: “Bộ lông của nó màu vàng pha những sợi bạc lấp lánh,

mịn và cực đẹp. Nó ghé đôi mắt rất to nhìn những cây gỗ đang cháy trong bếp

rồi chừng như bị chói, nó rúc rúc cái đầu nhỏ nhắn vào tay áo tôi. Tôi vuốt lên

lưng nó, cảm thấy những luồng run rẩy làm tay tôi rung động”[22;19]...; “Đôi

mắt rất to, nhìn mọi thứ với vẻ ngạc nhiên thơ trẻ... đôi mắt con cu li màu vàng,

cũng giống đôi mắt con cú mèo, con cầy hương...”[22;25]; “Bộ lông của nó rất

mượt, vuốt lên thật êm mịn, chẳng khác gì đặt tay lên một chiếc cổ áo bằng

nhung”[22;27]. Rồi “nó mở to cặp mắt long lanh, nó nhìn tôi đăm đăm, chìa

bàn tay xinh xắn cầm lấy mồi, đưa lên miệng. Ăn xong nó lại đưa bàn tay ra đòi

nữa, van vỉ bằng đôi mắt vì không biết kêu. Ai mà nỡ từ chối khi nhìn cặp mắt

khẩn khoản của nó... cặp mắt nó ánh lên một vẻ thỏa mãn bình yên rồi từ từ

khép lại”[22;27]. Chỉ qua vài chi tiết miêu tả, chúng ta đã cảm nhận được đó là

một con vật bé bỏng, ngây thơ và hiền lành. Chân dung con cu li còn được xuất

103

hiện qua lời kể của các nhân vật khác: “Con cu li hiền lành, ít lời lắm”[22;22].

Con cu li còn rất non, nó mân mê những chiếc khuy và mải mê thích thú với

những chiếc khóa ba lô. Khi miêu tả các nhân vật, nhà văn Vũ Hùng dùng thêm

biện pháp nghệ thuật so sánh: “Con rắn quấn đuôi quanh cây xà, thõng đầu

xuống. Nó đu đưa cái đầu với hai chấm mắt nhỏ bắt ánh điện, sáng long lanh

như hai hạt cườm. Mình nó cứ duỗi dần ra...” [22;42]. Cô chó Kratiê thì lại

“xinh đẹp như một con thỏ, nó có bộ lông trắng muốt với những mảng xám ở

ngực và hai chân trước, nó trắng và xốp hơn cả lớp bông gòn mà cô chủ đã

dùng để lót ổ”[27;23]. Hay như những chú chó trong Những kẻ lưu lạc được

miêu tả rõ ràng: “Một anh khoác chiếc áo vàng ươm như tơ, một anh mang bộ

lông vàng đậm với những vệt đen, nom rất dữ tợn. Chàng vện ấy giống một con

hổ vằn... Cả hai đều còn trẻ, có lẽ cũng chỉ đạt năm sáu tháng tuổi... nhưng

trông họ to lớn. Tai họ nhọn và vểnh thẳng... mõm họ dài, mũi rất ướt, cái mũi

ấy đánh hơi thì tinh phải biết. Bụng họ thon thon, bốn chân cao cao khiến họ có

cái dáng dấp thanh mảnh không bao giờ thấy ở loài chó Nhật. Họ chạy với một

nước kiểu nhẹ nhàng, giống như hai con ngựa mà người ta đã thu nhỏ lại”

[27;40]. Khi sử dụng biện pháp so sánh, mọi đặc điểm của con vật được hiện lên

rõ nét: “Đó là một con gấu con, cao và mập..., mang bộ lông đen như than, có

một khoảng trắng trước ngực. Cái móng chân của nó đã bị mài cùn...” [19;106];

“Một chú khỉ non, hiếu động, nhanh nhẹn. Nó không để yên chân, yên tay lúc

nào... Con khỉ thứ hai đã già. Mí mắt nó đã sụp và hai khóe mắt thì đầy nhử.

Mặt nó nhăn nhúm, bùng nhùng. Nó không động đậy, chỉ muốn được ngồi yên...

nó chậm chạp... gượng gạo nhấm nháp tưởng như hai hàm răng của nó đã rụng

hết”[27;107]. Hay như khi tác giả miêu tả con cu li lùn: “Khắp rừng chẳng có

con thú nào nhỏ nhắn, hiền lành và đáng thương bằng nó. Nó mặc một chiếc áo

rất mượt màu vàng rơm điểm những chiếc lông dài màu trắng. Vì thế chiếc áo

của nó lúc nào cũng lấp lánh như dát bạc. Đầu nó ngắn, đôi mắt long lanh và

rất to, phải lật hai bàn tay úp trên mặt mới nhìn thấy. Đôi mắt lúc nào cũng như

thầm hỏi: Thế nào? Thế này là thế nào? Cu li lùn sợ ánh sáng. Suốt ngày nó

ngồi ngủ gục trong hốc cây, hai tay ôm đầu, lưng cong như lưng tôm. Nó giấu

mặt trong đám lông ngực để khỏi phải nhìn nắng. Có khi treo ngược mình dưới

một cành cây mặt úp vào đó, hai tai cụp chặt để khỏi nghe tiếng động xung

104

quanh”[22;14]. Có thể thấy rằng, nhà văn Vũ Hùng không khái quát về đặc

điểm của các nhân vật loài vật mà miêu tả cụ thể từng chi tiết của chúng để bộc

lộ ngoại hình, diện mạo cũng như tính cách của từng loài. Xuyên suốt những tác

phẩm của ông, ta thấy ngòi bút xây dựng nhân vật điển hình đó là miêu tả chi

tiết, cụ thể. Ví như nhân vật loài vật con voi Luôm luông trong truyện Người

quản tượng và con voi chiến sĩ cũng được miêu tả như vậy. Vẫn là phương thức

xây dựng nhân vật và biện pháp nghệ thuật so sánh: “Thật là một con voi đẹp.

Trán nó gồ cao, đôi mắt linh lợi lúc nào cũng hấp háy trên cái đầu gọn gàng

thanh thoát. Cặp ngà của nó óng chuốt, đang độ lớn, mập và nhọn như hai búp

măng, cái vòi thì mềm mại chọn những mớ cỏ non khéo chẳng khác gì bàn tay

người”[26;16]. Những hình ảnh mà nhà văn Vũ Hùng lựa chọn để so sánh đều

được ông mượn từ chất liệu của thiên nhiên hoang dã. Tác dụng của biện pháp

so sánh làm nổi bật sự vật, hiện tượng. Ở đây, các nhân vật loài vật của ông xuất

hiện một cách rõ nét, cụ thể và sống động. Nó không mang những đặc điểm

chung chung của giống loài mà hiện lên một cách riêng lẻ và ấn tượng. Hình ảnh

những con voi, con chó, con báo, con cu li... là hình ảnh mang tính cá biệt. Nó

khác với các con vật khác và mang dấu ấn riêng của nhà văn Vũ Hùng.

Ngoài việc sử dụng kết hợp nghệ thuật miêu tả và biện pháp so sánh, nhà

văn Vũ Hùng còn miêu tả theo biện pháp nghệ thuật liệt kê. Các đặc điểm của

nhân vật loài vật được xuất hiện lần lượt để định hình diện mạo và tính cách cho

nhân vật. Chú cún – anh trai của cô chó Kratiê trong truyện Những kẻ lưu lạc

cũng được miêu tả rõ nét: “Anh có một cái đầu tròn tròn, một đôi tai buông rủ

xuống gần đến má, một bộ lông xù rất êm. Tính anh hiếu động, không mấy khi

nằm yên. Lúc thì anh quào tôi bằng những móng chân mềm, lúc thì vì ngứa lợi,

anh táp đôi tai của tôi rồi nhay bằng hai hàm răng mới nhú”[27;23]. Thông qua

các đặc điểm của cơ thể, nhà văn còn giúp người đọc nhận ra tâm hồn của loài

vật. Ví dụ như, khi ông miêu tả loài chó: “Cặp mắt của chúng tôi thì khác. Cũng

như cặp mắt người, nó là tấm gương phản ánh tâm hồn. Nó thiết tha khi chúng

tôi nhìn người chủ mà chúng tôi yêu mến, dửng dưng khi nhìn kẻ xa lạ, long

lanh khi chúng tôi đang hy vọng, rực rỡ khi chúng tôi sung sướng thảnh thơi, xa

thẳm khi chúng tôi đang có điều gì phải bận tâm, u ám khi chúng tôi buồn, sáng

quắc khi chúng tôi giận dữ, tăm tối khi chúng tôi thù hận...”[27;25]. Không phải

105

chỉ qua ánh mắt, cái đuôi của chúng cũng muốn nói lên nhiều điều: “Khi chúng

tôi dựng cái đuôi gần như thẳng đứng lên trời là chúng tôi đang ngờ vực, cần

tìm hiểu. Nếu cái đuôi được thả xuống cong cong là chúng tôi đang yên tâm:

mọi công việc phải làm, chúng tôi đã làm xong, tâm tư chúng tôi hoàn toàn yên

tính. Đuôi cụp xuống thật thấp là biểu hiện của nỗi buồn phiền, lo sợ. Còn nếu

chúng tôi kẹp chặt cái đuôi ở giữa hai chân sau thì các bạn hãy coi chừng:

chúng tôi đang tức giận, đang sẵn sàng xông lại để cắn xé”[27;26]. Vũ Hùng

phải là một con người có khả năng quan sát tỉ mỉ mới miêu tả được về đặc tính,

tính cách của loài vật qua từng chi tiết nhỏ như vậy.

Thông qua thế giới loài vật, nhà văn Vũ Hùng muốn mở ra cho độc giả

nói chung và trẻ em nói riêng về sự muôn màu của thế giới tự nhiên. Đồng thời

đưa ra những phát hiện mới mẻ về diện mạo, tính cách của mỗi loài vật. Những

nét tính cách riêng, chung không bị trộn lẫn đã gây ấn tượng sâu sắc và mạnh

mẽ. Mỗi chân dung loài vật là một tính cách riêng biệt không bị trộn lẫn với

đồng loại.

3.3. Giọng điệu

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập

trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách

cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm,...”[12;13]. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng, giọng điệu là sự biểu hiện lập

trường, tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lý giải và chiếm lĩnh hiện thực

của thi nhân. Trong văn học, các nhà thơ, nhà văn luôn muốn xác lập giọng điệu

của cá nhân mình. Giọng điệu nghệ thuật vai trò quan trọng trong quá trình sáng

tạo của người nghệ sĩ để tạo ra đứa con tinh thần của mình. Qua đó người nghệ

sĩ thể hiện cái nhìn, bày tỏ thái độ, tình cảm, cảm xúc trước cuộc sống. Đồng

thời giúp người đọc khám phá thế giới tâm hồn của người nghệ sĩ.

3.3.1. Giọng điệu triết lí, suy tư

Sở dĩ các trang văn của nhà văn Vũ Hùng được đông đảo độc giả người

lớn tiếp nhận không chỉ vì thế giới loài vật nhiều gam màu sinh động mà còn bởi

những triết lí sâu sắc của ông được gửi gắn vào trong từng câu chuyện. Đằng sau

những câu chuyện tưởng như đơn giản về việc sinh tồn của các loài vật, là

106

những bài học mang nét suy tư của cuộc sống, tình yêu thương và sự gắn bó

giữa con người với loài vật và giữa loài vật với nhau. Trẻ em với bản tính ngây

thơ và trong sáng, luôn bị thu hút bởi những điều mới mẻ. Nhưng không chỉ

dừng lại ở việc đưa sự kì thú trong đời sống thiên nhiên hoang dã cho các em

khám phá, nhà văn Vũ Hùng còn muốn dạy các em nhiều điều. Việc tiếp nhận

những bài học bổ ích của ông còn dựa vào sự tự phân tích, chọn lọc và khả năng

cảm thụ của mỗi em. Những triết lí trong truyện loài vật của Vũ Hùng không

phải là những chiêm nghiệm, nhận định, khái quát được đúc kết qua nhiều thăng

trầm, trăn trở của cuộc đời mà xuất phát từ những câu chuyện đời thường trong

đời sống sinh hoạt của mỗi loài vật theo hướng ngẫu nhiên. Các triết lí được

phát ngôn qua lời của các nhân vật loài vật hoặc ẩn sau những tình tiết, hành

động và suy nghĩ của chúng. Để có được giọng điệu triết lí, suy ngẫm có tính

chất phổ quát và điển hình cao thì yêu cầu đặt ra cho mỗi nhà văn là họ phải có

những suy nghĩ sâu sắc, cảm nhận thấu đáo, tâm hồn rộng mở và nhạy cảm.

Khảo sát các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng, giọng điệu triết lí mà ông gửi gắm

đều giản dị nhưng sâu sắc. Bởi lẽ, đối tượng độc giả của ông là thiếu nhi. Đối

với các em, mọi bài học triết lý cần dễ hiểu, dễ cảm. Nó giúp cho các em có cái

nhìn và đánh giá về mọi vấn đề trong cuộc sống một cách chân thực nhất.

Những triết lí sẽ giúp các em nhìn thấy được thế giới phức tạp mà các em sẽ gặp

trong tương lai đồng thời tạo niềm tin và định hình nhân cách sống giúp các em

có niềm tin và hy vọng để xây dựng cuộc sống cho bản thân mình.

Trước hết, giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí được thể hiện qua phát ngôn

của các con vật trong truyện. Thế giới loài vật được nhân hóa thành con người,

chúng giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của con người, có suy nghĩ, tâm trạng,

cảm xúc như của con người. Trong truyện ngắn Những kẻ lưu lạc, cái nhìn về

cuộc sống được nhà văn Vũ Hùng gửi gắm qua cô chó Kratiê. Mở đầu tác phẩm,

là suy nghĩ, nhận xét của Kratiê về cô giáo dạy xiếc của mình: “Cô giáo chúng

tôi là một diễn viên rất yêu nghề. Cô muốn cống hiến trọn đời mình cho đường

băng của khu nhà bạt. Thế nhưng cô biết chắc chắn sẽ có lúc phải rời bỏ những

tiết mục mà cô biểu diễn rất thành công. Cô sẽ phải trả lại chúng cho những

diễn viên trẻ bởi sức khỏe, sự khéo léo và cả lòng dũng cảm mà cô đang có, sẽ

mỗi ngày một tàn phai theo tuổi tác. Ai đã từng biểu diễn đều biết: phải xa rời

107

sân khấu, người nghệ sỹ đau khổ biết chừng nào!”[27;16]. Có lẽ, đây là cái nhìn

chân thật nhất của một nhân vật loài vật gần gũi với cô giáo dạy xiếc hàng ngày,

hàng giờ. Kratiê nhận ra nỗi niềm của cô giáo và khẳng định chắc chắn về

những nỗi buồn mà cô phải mang theo khi xa rời sân khấu. Đó không phải chỉ là

niềm trăn trở của cô giáo dạy Kratiê mà còn là của tất cả những người nghệ sĩ

đứng trên sân khấu. Nhà văn Vũ Hùng đã thấy được nỗi khổ tâm của những con

người có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, xã hội để có một giọng văn nhiều trân

trọng đến như vậy. Ông không để Kratiê gọi cô giáo của mình bằng tên thật mà

chỉ dùng từ xưng hô “Cô giáo” từ đầu đến cuối tác phẩm truyện. Ngầm ý của

nhà văn muốn nói rằng: “Cô giáo” ở đây không phải là một cá nhân cụ thể nào

mà được khái quát, trở thành biểu tượng của thế hệ những người nghệ sĩ có tâm

huyết với nghề. Theo tiến trình của câu chuyện, cô chó Kratiê còn dẫn người đọc

đến nhiều bổ ích thông qua giọng điệu triết lí. Kratiê bộc lộ thái độ gay gắt khi

không tán thành những ai nói rằng: bẩn như chó: “Không, loài chó chúng tôi

không bẩn. Con người giữ ngôi nhà của mình sạch sẽ ra sao thì chúng tôi giữ

cái ổ của mình như thế”. [27;24]. Hay giọng điệu khẳng định chắc nịch về việc

học tập: “...mẹ dạy chúng tôi cách cư xử. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng tôi

phải biết cách biểu hiện những ý tưởng, những cảm xúc của mình hoặc tiếp thu

những ý tưởng, những cảm xúc của kẻ khác” [27;25]. Cũng giống như con

người, loài vật cũng cần phải được dạy dỗ để học cách đối xử với nhau. Trong

cuộc trò chuyện giữa anh em nhà Kratiê với mẹ, mẹ Kratiê cũng dạy dỗ anh em

chúng nhiều bài học. Qua đó, ta thấy rõ được giọng điệu triết lí của nhà văn Vũ

Hùng. Khi Anh trai Kratiê thắc mắc với mẹ rằng: “Mẹ ơi! Sao mẹ lại sinh ra

chúng con là chó cảnh thế này! Nếu như chúng con là chó săn...”, mẹ chúng đã

giải thích: “Không ai có thể lựa chọn nơi mình sinh ra. Nếu lựa chọn được thì

có lẽ không có kẻ khốn khổ trên đời, ai cũng sung sướng và mãn

nguyện...”[27;44]. Mẹ khuyên chúng đừng xấu hổ với hoàn cảnh của mình:

“Chó săn có việc của họ thì bọn chó cảnh chúng tôi cũng có việc của chúng

tôi... Nỗi phiền muộn thường đến với ta do ta ao ước thân phận của kẻ khác. Sự

viển vông đó làm ta mất hết nghị lực. Tốt nhất hãy gây dựng đời mình từ thân

phận đã sẵn có của mình...Đời chúng tôi còn dài, chúng tôi còn sống đến hai

mươi năm nữa, ai mà đoán trước được rồi sau này chúng tôi sẽ ra sao. Cái

108

chính là phải cố gắng hết sức mình...kẻ nào biết gắng sức bao giờ cũng gặp

nhiều dịp may mắn hơn kẻ khác”[27;44]. Nhà văn Vũ Hùng đã dùng rất nhiều từ

mang màu sắc triết lí như: lựa chọn, khốn khổ, sung sướng, mãn nguyện, nỗi

phiền muộn, ao ước, thân phận, viển vông, nghị lực, cố gắng, may mắn... nhưng

từ này đã làm cho triết lí của Vũ Hùng thêm sâu sắc. Ông thông qua lời dạy dỗ

của chó mẹ mà muốn nói với chúng ta về việc phải biết chấp nhận hoàn cảnh

của bản thân, nghị lực và sự may mắn sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời có ý

nghĩa. Trải qua thời gian, nhận thức của Kratiê ngày càng trưởng thành. Nhà văn

Vũ Hùng đã đưa ra các triết lí sâu sắc hơn vào cái nhìn của nó: “Roi vọt và thói

quen thật ghê gớm: ta có thể quen với nếp sống đàng hoàng tử tế, nhưng cũng

có thể quen với một nếp sống hèn hạ, tối tăm” [27;68]. Qua đây, Vũ Hùng muốn

ca ngợi cách sống của mỗi con người: Hãy sống đàng hoàng và tử tế. Khi Kratiê

bị lão trưởng thôn Men – khen bắt, nó đã bị lão đánh đập và hành hạ. Tuy nhiên

việc đó hoàn toàn vô ích: “Thật ra loài chó chúng tôi là những con vật phụ

thuộc ghê gớm vào người nuôi, được tự do nhiều hay ít là tùy thuộc lòng tốt, no

đói là tùy độ lượng của con người. Ngay cả việc sinh đẻ, chúng tôi cũng phụ

thuộc vào ý muốn của chủ. Thế nhưng bao giờ cũng vậy, đối xử với kẻ khác thế

nào sẽ nhận được một sự đối xử y hệt như thế đáp lại. Tôi đã dành cho lão

trưởng thôn tất cả lòng căm giận của tôi. Tất nhiên tôi không cắn xé được lão

nhưng tôi khinh bỉ lão theo cách của mình. Tôi không bao giờ nhìn lão bằng cặp

mắt thiết tha mà tôi vẫn dùng để nhìn cô chủ cũ của tôi. Không bao giờ tôi vẫy

đuôi mừng và liếm hai bàn tay đen đúa của lão. Cứ thấy lão về là tôi lảng đi, tìm

vào nằm trong một xó tối”[48;72]. Qua đó, tác giả Vũ Hùng thể hiện cái nhìn

gay gắt và châm biếm trước cách đối xử của con người với các loài động vật.

Nếu chúng ta đối xử tốt với loài vật thì sẽ nhận được sự đối xử tốt và ngược lại

nếu chúng ta tàn nhẫn với chúng thì chúng cũng sẵn sàng tàn nhẫn với chúng ta.

Đó là điều mà nhà văn muốn chúng ta – những bạn đọc lớn tuổi và thiếu nhi

hiểu được để có cách đối xử tốt với loài vật. Ở mỗi độ nhận thức của nhân vật,

Vũ Hùng lại tăng cấp độ giọng điệu triết lí lên một mức cao hơn: “Tôi nghiệm

ra ở nơi nào hạt gạo càng khan hiếm và quý giá thì ở đó con người càng ti tiện,

xẻn xo. Họ tranh giành, tàn nhẫn cả với nhau, nói chi đối với những con vật

nuôi trong nhà”[27;75]. Đặt nhân vật vào những tình huống cụ thể, Vũ Hùng

109

muốn chúng nhận thức được giá trị của sự tự do: “Nhưng đường đến tự do có

bao giờ dễ dàng như thế. Tôi đã từng thấy: khi người ta đã quá quen với cuộc

sống trói buộc thì tự do làm cho người ta ngợp và hốt hoảng”[27;79]; “Đã bao

lần tôi cân nhắc giữa tự do và yên ổn. Tôi tự bào chữa cho sự hèn nhát của tôi

và tự bảo mình: dù sao thì tôi cũng đang sống yên ổn. Dù bị roi vọt, tôi vẫn có

cơm ăn khi đói và có một chỗ ngủ yên lành mỗi khi đêm xuống. Roi vọt làm nhục

nhằn đau đớn nhưng không làm ta chết. Còn những nguy hiểm của cuộc sống

trong rừng thì hoàn toàn khác, có thể dễ dàng giết chết một con chó nhỏ bé và

yếu đuối như tôi bất cứ lúc nào”[27;81]. Nhân vật loài vật của Vũ Hùng, khi

đứng trước ranh giới của tự do và yên ổn thì lại rút rè, nhút nhát và lưỡng lự.

Bằng giọng điệu đầy chất triết lí, ông giúp chúng ta nhận ra được rằng: thói quen

rất khó bỏ và muốn bỏ nó cần phải cố gắng rất nhiều. Ông giúp nhân vật nhận ra

nhiều khía cạnh hơn của cuộc sống: “Khi no đủ, người ta càng thích rong chơi”

nhưng “cái trước hết phải yên tâm là mình sống sót rồi mới nói tới chuyện rong

chơi”[27;85]; “Những kẻ lưu lạc sống nay đây mai đó, có bao giờ ăn ở lâu dài

với ai mà cần tên”[27;114]...

Trong truyện ngắn Chú ngựa đồng cỏ, giọng điệu triết lí của nhà văn Vũ

Hùng được gửi gắm qua cách nhìn nhận của chú ngựa Antai. Mở đầu tác phẩm

là sự hào hứng của Antai khi kể về cuộc sống của mình: “Thật vui thích biết bao

khi được tâm sự với những người thân quen”[18;14]. Antai đã dẫn người đọc đi

dần vào cuộc sống trên thảo nguyên mênh mông qua những sự việc và hành

động cụ thể. Những suy ngẫm của Vũ Hùng được người đọc thẩm thấu qua mỗi

nhận định của chú ngựa Antai: “Sống ở thảo nguyên người ta không thể không

có bạn, không có bầy đàn”[18;25]. Hay như tình cảm mẫu tử cũng được ông

khái quát bằng giọng điệu triết lí: “Ít ra được ở chỗ ấm áp, chúng tôi phải suy

nghĩ tới mẹ và bầy đàn đang run rẩy ở người trời giông bão”[18;33]. Qua đây,

chúng ta thấy cái nhìn nghiêm khắc của nhà văn Vũ Hùng về tình cảm gia đình.

Nhân vật chú ngựa Antai đã thể hiện nhiều triết lí của ông thông qua các lời trần

thuật ngắn: “Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng sung sướng như thế” [18;38].

Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư của nhà văn Vũ Hùng thể hiện rõ ràng qua

những nhận định của ông đối với các sự vật, sự việc của cuộc sống: “Chỉ trong

lúc phải chờ đợi mới thấy thời gian trôi chậm”[18;72]. Những nhận định của

110

ông điều rất chính xác và phù hợp với tâm lí của con người. Nhưng khác với các

tác giả khác, ông gửi gắm nhận định, thông điệp vào các nhân vật loài vật chứ

không phải con người. Xét theo cấp độ cấu trúc câu, kiểu giọng điệu triết lí

thường được thể hiện qua tính chất khẳng định/phủ định để nhấn mạnh những

vấn đề mà tác giả cần triết luận và thông điệp với người đọc. Như vậy, điểm nổi

bật của giọng điệu là qua nó nhà văn thể hiện thái độ, tư tưởng, tình cảm của

chính mình. Thông qua thế giời của loài vật, nhà văn Vũ Hùng thể hiện một

giọng điệu phân tích xã hội, mang những suy tư, chiêm nghiệm về thế sự, nhân

sinh. Những triết lý của ông được tạo nên từ nhiều nguồn cảm hứng: cảm hứng

thương cảm và cảm hứng phê phán. Mọi chất liệu của cuộc sống được Vũ Hùng

đúc kết trong từng câu chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện là một nhận định và suy

ngẫm mà qua thời gian ông khái quát được trong tác phẩm của mình.

Nhà văn Vũ Hùng mang trong mình những tâm tư và tình cảm phức tạp

chính vì lẽ đó ông có cái nhìn đa dạng, đa chiều. Ông gửi chọn những suy nghĩ

sâu sa của mình vào đời sống của các loài động vật. Phải chăng dưới mỗi câu

truyện là một sự phản ánh về đời sống con người. Nét giao hòa và đồng cảm

giữa loài vật và con người được thể hiện sâu sắc: “Người ta quá coi thường sức

mạnh của thói quen. Ở loài người các bạn, có thể phá bỏ dễ dàng một tập quán

nhưng ở loài ngựa chúng tôi khác. Muốn thay đổi một thói quen cũ bằng một

thói quen mới, chúng tôi cần có nhiều thời gian”[18;93]. Thói quen là đặc tính

của con người cũng như loài vật. Nhưng thói quen lại mang tính cố hữu, khó có

thể thay đổi được. Không riêng gì con người, loài vật muốn thay đổi thói quen

cũng cần phải có thời gian. Ngoài thói quen, tên gọi cũng gắn liền với con

người, loài vật. Nó luôn gợi nhớ những kí ức, kỷ niệm: “Với loài ngựa, tên

không phải chỉ để gọi. Nó mang trong đó bao sức sống, bao kỉ niệm. Mỗi khi

người ta kêu “Antai”, lòng tôi lại xao xuyến vì cái tên ấy gợi lại những hình ảnh

đồng cỏ và dãy núi quê nhà. Với những ngựa khác trong đàn cũng vậy. Tên họ

khi gọi lên sẽ âm vang, sẽ làm sống lại những kỉ niệm gì đó trong tâm trí họ mà

chỉ riêng họ biết. Vì thế tốt nhất là đừng gợi cho chúng tôi những kỉ niệm

cũ”[18;95]. Đối với những kỉ niệm đẹp, tên gọi sẽ có tác dụng nhắc nhở và khơi

gợi những giá trị mang ý nghĩa nhân văn. Còn nếu tên gọi gợi nhớ những kí ức

buồn thì nó lại khắc khoải những thảm thương. Cũng giống như nói về quê

111

hương, Vũ Hùng nhấn mạnh, loài vật gắn bó với quê hương bằng những tình

cảm chân thành, tha thiết chứ không phải từ những cảm xúc thoáng qua, hời hợt

hay như những hoàn cảnh khó khăn sẽ tạo điều kiện khiến đức tính hoặc mặt xấu

được bộc lộ: “Người ta gắn bó với quê hương không vì những tình cảm mơ hồ.

Cậu nghĩ sao, nếu ở đó cậu bị ngược đãi? ...Trong hoàn cảnh khó khăn, người

ta sẽ bộc lộ những đức tính hoặc tật xấu”[18;98]. Nhà văn Vũ Hùng còn căn cứ

vào những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội để thể hiện giọng điệu của mình.Ví

như: “Ngựa sinh ra là để phi, để chạy. Một con ngựa béo sẽ trở nên trì trệ: nó

còn chạy, còn phi làm sao được nữa”[18;103]. Có nghĩa là, bản tính tự nhiên

của loài vật là cái tất yếu nhưng hoàn cảnh xã hội, đời sống sẽ tác động và làm

thay đổi những cái tất yếu đó.

Không phân tích, phát biểu về những điều vĩ mô, Vũ Hùng suy tư, chiêm

nghiệm, nhận định về những điều bình thường diễn ra trong thực tế, gắn với hiện

thực đời sống và số phận của loài vật để đưa ra những chiêm nghiệm về cuộc

sống của con người.

3.3.2. Giọng điệu trữ tình

Đối với nhà văn Vũ Hùng, giọng điệu trong các tác phẩm của ông rất đa

dạng và phong phú. Bên cạnh giọng điệu giàu sự triết lí, suy tư thì ở một khía

cạnh khác, giọng điệu của ông được thể hiện rõ ràng hơn đó là một giọng văn

giản dị và gần gũi với đời sống hàng ngày. Điều đó cho thấy bút lực dồi dào

trong cách viết của ông. Giọng điệu trữ tình được thể hiện ấn tượng trong những

trang văn tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh đời sống sinh hoạt của những người đồng

bào miền núi.

Thiên nhiên trong truyện của ông không phải là những bức tranh thiên

nhiên xa vời với thực tế cuộc sống mà là những gì gần gũi, thân thuộc với con

người. Đó là những sông, những núi, những ruộng đồng, rừng cây... gắn bó với

con người từ khi sinh ra đến khi chết đi. Đó là trang văn viết về quang cảnh

thiên nhiên: “Sau những cơn mưa lạnh mùa đông, trời long lanh nắng, chồi non

nảy khắp rừng. Đâu đâu cũng xanh. Ngoài bãi, hoa dại bắt đầu nở: hoa vông

vang màu vàng tươi, hoa cúc áo lăn tăn và hoa lạc tiên trắng muốt với những

nhị tím”[31;10]. Cơn mưa mùa đông đã gột rửa đi tất thẩy những âm u, mơ hồ

để ban tặng thiên nhiên những trong xanh của nắng trời, chồi non và sự rực rỡ

112

của sắc hoa. Câu văn chân thực với những lớp lang màu sắc đan xen và hòa

quyện vào nhau. Một cảm giác tươi mới xuất hiện trên bức tranh phong cảnh và

xuất hiện ngay trong chính tâm hồn người đọc. Trước khi có được sự trong trẻo

đó, thì khi “Mùa đông tới. Gió bấc thổi ào ào. Rừng xám và ảm đạm. Mặt trời

bỏ đi suốt những ngày đông. Thiếu ánh nắng, các dòng suối không còn lấp lánh.

Dưới những lùm cây, hơi đá từ các hang núi bay ra rét buốt. Cây cối khẳng

khiu, lá xanh xám lại vì lạnh”[35;35]. Trái ngược với thiên nhiên thơ mộng sau

mùa đông, cảnh vật vào đông được thể hiện rõ nét qua giọng điệu chân thực.

Cảnh vật dường như đìu hiu và tĩnh lặng, từng cơn gió ào ào lướt tới, rừng xanh

xám, những dòng suối tĩnh lặng không còn lấp lánh, hơi rét buốt bao chùm khắp

nơi. Có thể thấy cảnh vật dường như lắng đọng lại trong những câu văn tả kết

hợp với kể. Mùa đông trôi qua, “Mùa xuân rừng đầy hoa lá... mùa hè quả chín

ngọt ngào. Vải hoang chín đỏ một góc núi. Quả lấp lánh từng chùm như những

chùm lửa”[35;48]. Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình cùng hình ảnh ví von so

sánh, cảnh vật thiên nhiên hiện lên sống động. Giọng điệu văn gần gũi nhưng

không phải vì thế mà mất đi chất thơ sâu lắng: “Trời tạnh ráo, ấm áp, sau

những cơn mưa lạnh kéo dài. Bướm bay đầy trên những khoảng đất còn ẩm, nơi

có những đám rêu xanh. Chim đi tìm sâu, nhảy lách tách trong bụi rậm. Từng

bầy sóc ngồi ăn trên các cành cây, thỉnh thoảng lại lấy chân trước đập đập lên

những sợi râu và chơm chớp cặp mắt để nhìn người. Rừng đã trút bỏ tấm áo

mùa đông và mặc xong tấm áo rực rỡ của mùa xuân. Các đồi gianh dạt dào

dưới xa, xanh rờn. Đâu đâu cũng thấy hoa lá tươi non. Những lớp rêu mới mịn

như nhung phủ kín các vách núi trước đây xám ngắt. Cả đến các cây cổ thụ già

nua cũng trẻ lại. Chúng rũ hết những chiếc lá úa màu vàng chanh xuống dưới

gốc và từ những cành trước đây còn khẳng khiu, trơ trụi đã nảy ra những vầng

lá non bát ngát”[30;13]. Bức tranh thiên nhiên hiện ra trên dòng chảy êm dịu

của ngôn từ, bầu không khí thênh thang, khoáng đạt. Thiên nhiên không xuất

hiện âm thầm và lặng lẽ mà hòa lẫn với sự sôi động, giàu sức sống của đời sống

các loài vật: “Tiếng rừng lao xao... như tiếng rung của những dây tơ giữa tiếng

chim kêu thoang thoảng... ngân vang”[30;14]. Một thiên nhiên êm dịu, chân

thực và thơ mộng. Cái thơ mộng xuất phát từ sự chân thuật của cuộc sống nhưng

lại được miêu tả qua giọng điệu mộc mạc của nhà văn Vũ Hùng. Rồi những

113

cảnh rừng chiều lấp lánh ánh nắng dịu ngọt: “Vào những buổi chiều xuân ấm

áp, rừng Trường Sơn tràn đầy ánh nắng. Nắng vàng hoe trên những cây cổ thụ

cao ngất, tán chạm trời xanh. Từng đàn chim về tổ vỗ những cặp cánh sặc sỡ, vẽ

trong nắng những đường bay lấp loáng”[30;16]. Sử dụng những từ ngữ chọn

lọc tinh tế, bằng sự trải nghiệm của bản thân mình, nhà văn Vũ Hùng đã mang

vào trong những trang văn của mình hình ảnh của một thiên nhiên hoang dã

chân thực, mộc mạc, gần gũi những không thiếu chất thơ, chất lãng mạn xuất

phát từ chính tâm hồn trong trẻo, mộng mơ của nhà thơ. Cùng với khả năng

quan sát và miêu tả tinh tế, các trang văn của Vũ Hùng giúp người đọc cảm giác

như đang được đứng trước một bức họa thiên nhiên rực rỡ: “...rừng rừng núi núi

trùng điệp. Các rừng chuối trải rộng mênh mang, xanh ngắt màu lá non, đôi chỗ

bắt đầu điểm vài bông hoa đỏ. Những dòng suối lấp lánh, len lỏi dưới chân các

trái núi. Xa tắp, sát chân trời, thấy nét lượm nhấp nhô của những dãy đồi”

[30;29]. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng thiên nhiên ở Phía Tây

Trường Sơn dân dã, tự nhiên và đầy quyến rũ. Những câu văn mộc mạc nhưng

vẫn đủ sức hấp dẫn người đọc: “Trời đã về chiều mà nắng vẫn chói chang. Nóng

bỏng lưng, chừng như càng xuống phía nam thì nắng càng gay gắt. Những tràn

ruộng quanh làng ngập nước phù sa, hơi nóng phả lên hầm hập. Cua bò lổm

ngổm đầy bờ...”[30;113]. Tác giả đã tái hiện cái nóng bức, gay gắt của thiên

nhiên, sự bức bối thể hiện khắp khung cảnh xung quanh. Ông không hề bỏ xót

một chi tiết nhỏ nào của thiên nhiên: “Hoa đồng lại nở đầy lối đi và thoang

thoảng mùi thơm. Cây rừng xanh rờn từ mùa xuân, sau những cơn mưa hè càng

như căng nhựa và đầy lá. Chim gáy ríu rít về làm tổ ở những khóm cây...”

[29;67]. Bằng giọng văn gần gũi, mộc mạc và dung dị khung cảnh đời sống sinh

hoạt của đồng bào miền núi và bức tranh không gian làng bản được nhà văn Vũ

Hùng thể hiện rất tinh tế. Đó không phải là cuộc sống gian lao, vất vả và khổ

cực của những người dân tộc mà là một cuộc đời bình yên, giản dị, chân chất

nhưng đầy niềm vui và tình yêu thương. Đó cũng không phải là một không gian

làng bản heo hút, ảm đạm mà là một khung cảnh mang nhiều chất thơ. Bức tranh

thiên nhiên của rừng già hoang dã không xuất hiện đơn độc mà còn đan xen, hòa

lẫn vào những bức tranh về cuộc sống sinh hoạt. Những mái nhà ẩn hiện sau mỗi

rặng cây: “Phút chốc rừng thưa lùi sau lưng và trước mặt đã thấy ruộng. Những

114

dải ruộng hẹp và dài, viền quanh rìa núi, mảnh nọ chồng lên mảnh kia như

những bậc thang. Dưới xa là làng, nằm trong những đám dừa cau cùng với

những cây xoài xanh thẫm đã lác đác quả non. Nhà dựng chênh vênh trên

những dãy cột, trước sàn là những cây đại lác đác hoa trắng...”[31;32]. Cuộc

sống sinh hoạt của người dân được diễn tả thật bình thản: “Nhạc nổi lên, họ chờ

một đứa trẻ ra đời. Gian nhà ồn ào hẳn. Các cô gái đứng dậy, sửa lại váy áo và

bắt đầu múa. Thân thể và chân tay họ mềm như những dây rừng. Tiếng trống

bập bùng, tiếng cồng lanh lảnh và tiếng lục lạc rung rinh hòa với tiếng hát ngân

cao”[30;43]. Những buổi lễ hội hay những dịp đặc biệt được diễn ra trong

không khí hồi hộp và náo nức thông qua giọng văn nhẹ nhàng: “...bản làng nhộn

nhịp, tưng bừng. Mọi người tấp nập chuẩn bị. Sớm ngày hội, bác Bun – mi lấy

bộ lễ phục lâu nay bác vẫn cất kỹ trong hòm. Bác mặc sang như một quản tượng

ở kinh đô: áo cánh trắng tinh với hàng khuy đồng chóe cài đến tận cổ, quấn bên

ngoài quần chiếc “phá sà lùng” bằng lụa óng ánh mua bên nước Thái... Đám

phụ nữa còn ăn mặc rực rỡ hơn: những chiếc châm bạc chạm đá quý lấp lánh

trên đầu, khăn tơ mềm quàng chéo ngực, thắt lưng bạc sáng ngời ngang lưng...”

[30;128]. Khác với những nhà văn khác, hình ảnh con người trong văn của Vũ

Hùng không xuất hiện với những gian lao, vất vả và hiu quạnh mà luôn tràn trề

sức sống và bộc lộ từng nét đẹp trong tâm hồn. Họ là những con người giản dị,

yêu đời và ham sống một cuộc đời bình lặng: “Bác Bun – mi đang ngồi bên bếp.

Từ chiếc tẩu bên môi bác, một dòng khói lam mảnh dẻ bay lên. Bác mải nhìn các

con, quên cả rít thuốc. Lũ trẻ đang chuẩn bị đón ngày Tết, vừa làm vừa sung

sướng hát khe khẽ. Tiếng hát của chúng làm lòng bác Bun – mi náo nức, như

đưa bác trở về sống lại cái thời trẻ trung, lúc nào cũng chờ đợi hội hè”[30;61].

Bằng giọng văn dung dị, nhà văn Vũ Hùng còn lột tả những cảm xúc yêu đời

của người đồng bào dân tộc: “...những buổi trò chuyện trở thành dịp để người ta

mơ mộng, Ai cũng mong mỏi có lúc tìm thấy phần hạnh phúc xứng đáng của

mình. Hạnh phúc ấy thật đơn xơ... Buổi trưa vẫn nắng chang chang và vắng vẻ.

Cây vẫn lặng gió, ve không kêu, làng bản im lìm”[30;80]. Có thể thấy, cái im

lìm, yên ắng ở đây chỉ là khung cảnh bề ngoài của làng bản còn ẩn sâu bên trong

là những khao khát, ước vọng rạo rực của những người đồng bào miền núi. Qua

giọng điệu văn Vũ Hùng, ta thấy những mong ước của họ trở nên gần gũi và

115

chân thực. Ngoài những buổi lễ hội, cảnh sinh hoạt của người dân được tái hiện

chân phương nhất. Đó là những cuộc vui chơi của lũ trẻ: “Chung quanh nhà là

những cây thốt nốt, cao vượt khỏi tầng cây dưới thấp, trên ngọn xòe một tán lá

xanh. Một vài đứa trẻ, ống tre dắt lủng liểng quanh lưng, leo thoăn thoắt lên

ngọn cây. Thấy khách lạ đi qua, chúng nhìn xuống gật đầu chào mỉm cười, hàm

răng trắng lóa trên khuôn mặt rất nâu”[30;114]. Ngoài cảnh sinh hoạt của

người dân đồng bào được diễn tả qua giọng văn nhẹ nhàng của Vũ Hùng, khung

cảnh thiên nhiên nơi bản làng ẩn cư cũng xuất hiện bằng giọng văn nhẹ nhàng và

thanh thoát: “Mùa hè trôi rất nhanh. Đã chấm dứt những đêm mưa tầm tã, chấm

dứt những ngày nóng bỏng, nắng chói chang và hầm hập gió Lào. Trời sang thu

se lạnh, trong veo. Những dây lạc tiên trên bờ dậu đã rụng hết hoa và điểm lá

vàng. Các đồi gianh quanh làng cùng vàng hoe một màu dịu mát của nắng

chiều. Đàn chim di cư sớm đã từ phương Bắc bay tới. Đêm đêm khi bay qua

làng, nhìn thấy những vầng lửa bếp hắt ra ngoài các khung cửa, chúng bỗng kêu

lanh lảnh giữa trời”[30;128]. Khung cảnh thiên nhiên bản làng cũng hiền hòa

và dịu dàng như những con người đồng bào nơi đây. Hay là những không gian

thơ mộng: “Trăng sáng quá! Trăng lơ lửng trên bầu trời đầy sao, rọi lên sàn

những khoảng sáng vuông vắn qua các khung cửa... những tảng đá lớn phản

chiếu ánh trăng trắng như bạc. Hàng cây cao và thưa lá ngả xuống mặt đất từng

khoảng bóng lung linh. Con suối trôi trước thềm nhà, từ mặt nước sóng sánh tỏa

lên một nỗi vắng lặng êm đềm. Phía xa, nơi con suối luồn qua những tảng đá

chắn đường, nước chảy phảng phất, nhẹ như hơi thở của rừng đêm. Từ những

cây đại dưới sàn, mùi hoa lâng lâng thoảng bay...”[31;14]. Bức tranh thiên

nhiên trước mắt trở nên thơ mộng và dịu ngọt. Giọng điệu văn tự nhiên được trôi

chảy từ vốn sống của chính nhà văn. Đã từng gắn bó, đồng cảm và chia sẻ với

cuộc sống của đồng bào dân tộc nên nhà văn Vũ Hùng đã có cái nhìn sâu sắc về

con người nơi đây với giọng điệu văn trữ tình. Ngoài ra, theo cảm quan của

người nghiên cứu, giọng điệu văn của Vũ Hùng còn là giọng văn thật thà, chân

chất. Nhà văn nhìn mọi khía cạnh của cuộc sống một cách hiện thực nhất: “Làng

tôi ở lưng Trường Sơn, giữa vùng núi non trùng điệp. Thế mà bây giờ ở đó đã có

cả một trường cấp một. Trường là ngôi nhà nhỏ ngăn đôi, có hai thầy dạy. Vì

thiếu thầy, trường phải học hai buổi và mỗi thầy phải dạy hai lớp. Các bạn sẽ

116

bảo, một trường như thế thì có gì đáng nói. Nó kém xa một trường làng ở dưới

xuôi. Ấy thế mà trong vòng bốn năm cây số đường núi, mọi em bé ở các bản

làng chung quanh đều đến học ở trường này. Đến nay, việc học hành ở vùng tôi

đã được mở mang như vậy, nhưng mười năm trước, tôi là người duy nhất trong

làng được đi học. Hồi đó, đi học còn vô cùng khó khăn. Muốn học phải xuống

trường huyện, mà huyện thì ở mãi chân núi, cách làng tôi gần một ngày đường.

Tôi phải trọ học, lâu lâu mới về làng một lần thăm nhà và lấy lương ăn”

[31;26]. Hay như: “Trước đây ở các bản hẻo lánh không có trường. Con trai

muốn biết đọc, biết viết thì đi tu: nhà chùa dạy chữ. Vì thế hầu hết con trai Lào

đều ở chùa vài bốn năm. Đi tu vừa là nghĩa vụ, vừa được học, bao giờ đọc thông

viết thạo, họ mới trở về làm ruộng. Ngày nay việc học được mở rộng, bản làng

nào cũng có lớp học buổi tối. Thầy giáo là cán bộ cơ sở, bộ đội. Cả làng đi học.

Các cụ già đầu bạc, các bà mẹ ôm con, các cô, cậu bé măng sữa, tất cả cắm cúi

trên những cuốn vở nhàu nát, dưới ánh lửa những cây “cà boong” (nến trám)

đầy khói” [30;45]. Bằng vốn sống phong phú cùng sự trải nghiệm thực tế và đức

tính giản dị, gần gũi, thân thiện, đồng thời được sống và làm việc cùng với

người đồng bào dân tộc hiền lành, chất phát mà nhà văn Vũ Hùng có một giọng

điệu văn thành thật, dung dị và chân chất đến thế. Có thể thấy rằng, giọng văn

trong các tác phẩm của ông không chỉ phản ánh cuộc sống và thiên nhiên của

những vùng đất mà ông từng đặt chân tới mà còn thể hiện chính những đức tính

cao đẹp trong cách sống và tâm hồn của ông.

117

* Tiểu kết:

Với khả năng quan sát tinh tế, sự nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, Vũ Hùng

đã dựng lên bức tranh thiên nhiên, cuộc sống loài vật sinh động, chân thực và rõ

nét. Trẻ thơ sẽ khám phá được một thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và sự đa dạng

của đời sống các loài động vật. Ông sử dụng những phương thức xây dựng nhân

vật loài vật một cách độc đáo từ tên gọi, miêu tả ngoại hình, đến diễn biến trong

nội tâm và tâm lí các nhân vật loài vật. Không gian thiên nhiên hùng vĩ, thời

gian tâm lí nhân vật loài vật đã góp phần thể hiện cuộc sống nhân vật sinh động

và sâu sắc. Giọng điệu trong tác phẩm Vũ Hùng đa dạng, khi thì mang chất

chiêm nghiệm, triết lí, suy tư, khi thì trữ tình, giàu chất thơ.

118

KẾT LUẬN

1. Một nhà văn đã từng nhận định rằng viết văn đã khó, người viết văn cho

thiếu nhi lại càng khó hơn. Với những nhà văn viết cho thiếu nhi, ta nên kính

trọng họ. Đó là một lời khẳng định sâu sắc về tâm huyết của các nhà văn đã

dành cả sự nghiệp để sáng tác những tác phẩm cho thiếu nhi. Viết cho thiếu nhi

là đem lại cho các em niềm vui, cảm hứng và những bài học nhân sinh mà chúng

ta đã trải qua. Mỗi người lớn, đọc tác phẩm dành cho thiếu nhi, là được một

“tấm vé trở về tuổi thơ” ngọt lành. Nhà văn Vũ Hùng đã chọn gắn bó cuộc đời

mình với thiếu nhi và coi đó là duyên may của mình trong cuộc sống. Ngòi bút

của ông đã chọn thiên nhiên, muôn thú để trải lòng.

2. Bằng tình yêu thương dành cho trẻ thơ và vốn sống cùng tài năng của mình,

Vũ Hùng đã đem đến cho độc giả các thế hệ một không gian thiên nhiên hùng vĩ,

một thế giới động vật nhiều sắc diện, phong phú và sống động. Không chỉ có vậy,

truyện của ông còn cung cấp cho độc giả nói chung và trẻ em nói riêng những bài

học cuộc sống về đạo đức ứng xử vô cùng sâu sắc và trân quý. Qua sự chiêm nghiệm

và những triết lí mà ông đã khái quát, chúng ta hiểu thêm phần nào về cuộc đời với

nhiều biến động mà ông đã trải qua. Những phong tục, tập quán và tục lệ của người

đồng bào dân tộc được hiện lên rõ nét qua các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng. Nếp

sống, nếp sinh hoạt và tâm hồn họ được nhà văn miêu tả sinh động và chân thực. Có

thể nói rằng, những năm tháng sống, chiến đấu ở chiến trường, sống cùng thiên

nhiên và con người ở những miền đất khác nhau đã giúp ông có một cái nhìn tinh tế

và sâu sắc về đời.

3. Lấy cảm hứng từ những chất liệu cuộc sống, truyện của Vũ Hùng đã tạo

được sự gần gũi cho người đọc. Không phải từ những thứ xa rời với thực tế mà bằng

những hình ảnh của thiên nhiên, loài vật mà người đọc cảm nhận trong tác phẩm của

ông những khía cạnh của chính đời sống loài người. Bóng dáng xã hội con người

hiện hữu qua hình ảnh, cách sinh tồn và mối quan hệ giữa các loài động vật. Đời

sống hàng ngày, nội tâm sâu sắc, bản tính khôn ngoan, tinh thần nương tự và giúp đỡ

lẫn nhau của các loài động vật được thể hiện rõ nét trong từng trang văn của ông:

“Nhà văn Vũ Hùng đã nhận ra ánh mắt “thản nhiên” của loài vật mà soi thấu

vào tâm địa của con người, bởi “bọn thú rừng ấy chưa biết gì về con người…”.

Sống giữa những con vật hoang dã trong một cuộc chiến tranh nên Vũ Hùng có

119

được sự tỉnh thức mang tính nhân văn từ rất sớm, có lẽ từ khi ông bắt đầu cầm

bút viết những trang sách đầu tiên cho trẻ nhỏ, ông tôn trọng loài vật, tôn trọng

sự bình đẳng giữa con người và con vật, ông nâng niu những tình cảm hồn

nhiên nhất mà chỉ có những người dân dã sống cùng với thiên nhiên hoang dại

mới có thể giữ gìn nguyên vẹn trong tâm hồn”[65]. Quan lăng kính muôn màu

của trẻ thơ được tô vẽ với những gam màu sôi động và giàu sắc thái, người đọc thấy

được tình yêu thiên nhiên, đất nước và con người trong ông.

4. Giá trị nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng được thể

hiện trước nhất là không gian và thời gian nghệ thuật. Đó là nét thơ mộng, hùng

vĩ, trùng điệp của núi rừng cùng với thời gian tâm lí của các loài động vật.

Phương thức xây dựng nhân vật độc đáo từ tên gọi đến việc khắc họa chân dung

nhân vật đã tạo nên những trang văn sống động. Giọng điệu mà ông sử dụng đa

dạng, khi thì triết lý, sâu sắc, khi thì trữ tình, ngọt ngào. Mỗi trang văn của Vũ

Hùng đều hiện lên những tầng giá trị và bài học về cuộc sống.

120

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam – phần câu, Nxb Đại học sư

phạm Hà Nội

3. Lê Biên (2007), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.

4. Đỗ Hữu Châu (2011), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

5. Mai Ngọc Chừ (Chủ biên) (2008), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục

Việt Nam

6. Mai Ngọc Chừ (Chủ biên) (2008), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb

Giáo dục.

7. Nguyễn Đăng Điệp (2008), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội

nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội

8. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.

9. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

10. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ điển khái niệm Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục

11. Võ Vân Hà (2009), Ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn

Tuân trước Cách mạng tháng tám 1945, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn

chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

12. Lê Bá Hán (Chủ biên) (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

13. Phạm Thị Hằng, (2015), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học

Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh

14. Phạm Ngọc Hiển (2009), Thi pháp học, Nxb Văn học

15. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.

16. Cao Hồng (2012), Lý luận văn học Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 -2011),

Nxb Hội nhà văn

17. Châu Minh Hùng (Chủ biên) (2003), Văn học cho thiếu nhi, Đại học Quy

Nhơn, Bình Định.

18. Vũ Hùng (2015), Chú ngựa đồng cỏ, Nxb Kim Đồng.

19. Vũ Hùng (2015), Giữ lấy bầu mật, Nxb Kim Đồng.

20. Vũ Hùng (2015), Mái nhà xưa, Nxb Kim Đồng.

121

21. Vũ Hùng (2015), Bầy voi đen, Nxb Kim Đồng.

22. Vũ Hùng (2015), Con culi của tôi, Nxb Kim Đồng.

23. Vũ Hùng (2015), Sao sao, Nxb Kim Đồng.

24. Vũ Hùng(2015), Sống giữa bầy voi, Nxb Kim Đồng.

25. Vũ Hùng (2015), Con voi xa đàn, Nxb Kim Đồng.

26. Vũ Hùng (2015), Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Nxb Kim Đồng.

27. Vũ Hùng (2015), Những kẻ lưu lạc, Nxb Kim Đồng.

28. Vũ Hùng (2015), Biển bạc, Nxb Kim Đồng.

29. Vũ Hùng (2015), Chim mùa, Nxb Kim Đồng.

30. Vũ Hùng (2015), Phía Tây Trường Sơn, Nxb Kim Đồng.

31. Vũ Hùng (2015), Chim mùa, Nxb Kim Đồng.

32. Vũ Hùng (2015), Bí mật của rừng già, Nxb Kim Đồng.

33. Vũ Hùng (2015), Mùa săn trên núi, Nxb Kim Đồng.

34. Vũ Hùng (2015), Phượng hoàng đất, Nxb Kim Đồng.

35. Vũ Hùng (2015), Vườn chim, Nxb Kim Đồng.

36. Lê Thị Huyền (Chủ biên) (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh niên

37. Phong Lê (1977), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.

38. Nguyễn Văn Long (Chủ biên) (2006), Văn học Việt Namsau 1975 Những

vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.

39. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2012), Giáo trình văn học ViệtNam hiện đại

tập II, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.

40. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

41. Lã Thị Bắc Lý (2008), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư Phạm Hà

Nội.

42. Lã Thị Bắc Lý (2008), Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội

43. Phương Lựu (chủ biên) (2011), Lý luận văn học Nxb Giáo dục Hà Nội.

44. Nhiều tác giả (2009), Kỷ yếu Hội thảo Những ảnh hưởng của văn học thiếu

nhi đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc

tế, Nxb Đại học Sư Phạm Hà Nội.

122

45. Võ Quảng (1987), Mấy suy nghĩ về đặc trưng và chức năng giáo dục của

văn học thiếu nhi, Tạp chí Văn học, số 1.

46. Hoàng Trọng Quyền (2008), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Quốc Gia

thành phố Hồ Chí Minh

47. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

48. Trần Đình Sử (2008), Giáo trình lý luận văn học tập II, Nxb Đại học sư

phạm Hà Nội.

49. Vân Thanh (Chủ biên) (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam

tập 1 Tổng quan Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội, Nxb Giáo dục

50. Lê Thời Tân (2010), Giáo trình Dẫn luận tự sự học, Nxb Đại học Quốc Gia

Hà Nội,

51. Nguyễn Kim Thản (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Khoa

học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

52. Dương Ngọc Thùy(2014), TG nghệ thuật trong truyện Tôi thấy hoa vàng

trên cỏ xanh, Khóa luận Tốt nghiệp Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên

53. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã

hội.

54. Bùi Minh Toán (2008), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Sư

Phạm

55. Bùi Thanh Truyền (Chủ biên) (2009), Giáo trình Văn học 2 Thi Pháp Văn

học Thiếu Nhi, Nxb Đại học Huế

56. Trần Thanh Xuân ( 2016), Bản sắc thiên nhiên trong truyện Kiều, Nxb Văn

hóa dân tộc.

* Các trang web:

57. Bài viết: “Khoảng trắng” văn học về loài vật

(http://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/khoang-trang-van-hoc-ve-loai-

vat-90395/)

58. Bài viết: Nguyễn Thị Châu Giang xúc động khi đọc sách Vũ Hùng

(https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-thi-chau-giang-xuc-

dong-khi-doc-sach-vu-hung-3146230.html)

59. Bài viết “Nhà văn Vũ Hùng ẩn sau thiên nhiên là những bài học cuộc đời”

123

(http://anninhthudo.vn/giai-tri/nha-van-vu-hung-an-sau-thien-nhien-la-nhung-

bai-hoc-cuoc-doi/635353.antd)

60. Bài viết“Vũ Hùng: Nhà văn của rừng – thiên nhiên – muôn thú”

(http://tonvinhvanhoadoc.vn/vu-hung-nha-van-cua-rung-thien-nhien-muong-

thu.html/)

61. Bài “Những bài học cuộc sống qua thiên nhiên trong các tác phẩm của nhà

văn Vũ Hùng”

(http://www.nhandan.com.vn/nation_news/item/27548802-nhung-bai-hoc-cuoc-

song-qua-thien-nhien-trong-tac-pham-cua-nha-van-vu-hung.html)

62. Bài “Nhà văn Vũ Hùng – Người lưu giữ ký ức thiên nhiên Việt Nam”

(http://vovworld.vn/vi-VN/tap-chi-van-nghe/nha-van-vu-hung-nguoi-luu-giu-

ky-uc-thien-nhien-viet-nam-372335.vov)

63. Bài “Tượng đài văn học thiếu nhi Vũ Hùng tái xuất”

(http://m.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/tuong-dai-van-hoc-thieu-nhi-vu-

hung-tai-xuat-7536/)

64. Bài “Nhà văn Vũ Hùng - Người kể chuyện thiên nhiên và muôn thú”

(http://daidoanket.vn/dan-toc/nha-van-vu-hung-nguoi-ke-chuyen-thien-nhien-

va-muong-thu-tintuc69156)

65. Bài viết: Nhà văn Vũ Hùng - tươi thắm tình yêu tuổi thơ và thiên nhiên

(https://news.zing.vn/nha-van-vu-hung-tuoi-tham-tinh-yeu-tuoi-tho-va-thien-

nhien-post709146.html)

66. Bách khoa toàn thư mở

(https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_t%E1%BB%A5c)

67. Bài viết: Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đổi mới của sinh viên cao đẳng

sư phạm

(http://spmamnon.edu.vn/ho-tro-thuc-hien-chuong-trinh/van-hoc-thieu-nhi-va-

nhung-yeu-cau-doi-voi-sinh-vien-cao-dang-su-pham-mam-non-376.html)

68. Bài viết Về định nghĩa văn học thiếu nhi, tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương

(http://vhnt.org.vn/tin-tuc/thuong-thuc-hoi-dap/29857/ve-dinh-nghia-van-hoc-

thieu-nhi)