ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG THỊ VÂN

THẾ GIỚI NHÂN VẬT

TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG THỊ VÂN

THẾ GIỚI NHÂN VẬT

TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS. PHONG LÊ

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn

Thi dưới sự hướng dẫn của GS. Phong Lê là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, kết

quả trong Luận văn là trung thực, chưa được công bố. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn

trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Người thực hiện

Đặng Thị Vân

i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam được hoàn thành tại Đại học

Sư phạm Thái Nguyên. Có được Luận văn này em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành

và sâu sắc tới GS. Phong Lê, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, dìu dắt em với

những chỉ dẫn khoa học quý báu trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn

thành Luận văn Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi.

Em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên,

Ban chủ nhiệm khoa, phòng sau Đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên, Thư viện trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Trung tâm học liệu

- Đại học Thái Nguyên, Thư viện quốc gia Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ em

trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và truyền đạt

những kiến thức khoa học chuyên ngành Văn học Việt Nam cho em trong thời gian

qua.

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và các bạn học viên lớp Văn

học Việt Nam K23 trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã động viên, giúp

đỡ em trong thời gian thực hiện Luận văn.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện Luận văn hoàn chỉnh nhất song do còn

nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót

nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy Cô giáo để Luận văn được

hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả Luận văn

Đặng Thị Vân

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 2

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 5

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 6

5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 6

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 7

7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 7

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN .... 8

1.1. Nguyễn Thi trong toàn cảnh văn xuôi chống Mỹ .................................................. 8

1.2. Chân dung nhà văn và phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi ................................ 16

1.2.1. Chân dung nhà văn ........................................................................................... 16

1.2.2. Phong cách nghệ thuật ...................................................................................... 18

1.3. Nhân vật và thế giới nhân vật trong văn học ....................................................... 20

1.3.1. Khái niệm nhân vật ........................................................................................... 20

1.3.2. Thế giới nhân vật .............................................................................................. 22

1.3.3. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ................................................... 22

1.3.4. Phân loại nhân vật văn học ............................................................................... 24

Tiểu kết ....................................................................................................................... 27

Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................ 29

2.1. Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi là bức tranh chân thực của chiến

tranh nhân dân thần kỳ ..................................................................................... 29

2.1.1. Bức chân dung của cả một tập thể anh hùng .................................................... 29

2.1.2. Chân dung những nhân vật phản diện .............................................................. 45

2.2. Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi mang đậm dấu ấn Nam Bộ ......... 47

iii

2.2.1. Một không gian đậm chất Nam Bộ ................................................................... 47

2.2.2.Tính cách những con người Nam Bộ ................................................................. 51

Tiểu kết ....................................................................................................................... 59

Chương 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ......................................................... 61

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .............................................................. 62

3.1.1. Chân thực, gần gũi ............................................................................................ 62

3.1.2. Hài hòa giữa miêu tả trực tiếp và gián tiếp ....................................................... 64

3.2. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật ................................................................. 69

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong xây dựng nhân vật ...................................... 71

3.3.1. Ngôn ngữ độc thoại ........................................................................................... 71

3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................................... 74

3.3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ ............................................................................................ 78

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 88

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã qua đi trên một phần ba thế kỷ nhưng âm vang

hào hùng của nó vẫn vọng đến tận bây giờ và mãi mãi về sau. Văn học đã ghi lại một

thời kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Những chiến công hiển hách, những tấm gương

anh dũng, những mối tình thủy chung son sắt, tình yêu quê hương đất nước....cả những

đau thương mất mát không gì bù đắp nổi cũng được tái hiện trong văn học.

Hậu quả chiến tranh để lại thật tàn khốc bởi vì nó là những dư âm xót xa, mất

mát đọng lại trong những tháng năm hòa bình. Chiến tranh không phải là định mệnh

nhưng nó đã khiến cho bao người phải chịu đựng những số phận nghiệt ngã. Dư ba của

chiến tranh như những con sóng nối tiếp nhau cứ lan mãi đến ngày sau…. Tất cả những

điều ấy được các nhà thơ, nhà văn thời chống Mỹ và những cây bút thời hậu chiến tập

trung sức viết để ngưỡng vọng, đồng cảm, sẻ chia về một thời quá khứ in đậm dấu ấn

cuộc sống của dân tộc. Văn học góp phần thể hiện mọi thăng trầm của lịch sử. Sức khái

quát hiện thực của văn chương thật mạnh mẽ, sâu rộng, đã phản ánh lịch sử một thời

mà thấm suốt không gian, thời gian của bao thời đại sau này. Đọc những trang văn của

Nguyên Ngọc, Phan Tứ hay của Nguyễn Minh Châu… không chỉ là hiện thực về cuộc

chiến đấu trường kì của dân tộc mà hơn thế nữa, ở đó còn là những con người sống,

chiến đấu trong chiến tranh, những con người với đầy đủ tâm trạng, đầy đủ mọi khuôn

mặt. Là một nhà văn chiến sĩ, Nguyễn Thi viết không nhiều, chỉ hơn hai mươi truyện

ngắn cùng vài tiểu thuyết và bút kí nhưng những gì nhà văn để lại thì không hề nhỏ.

Chính những trang viết làm cho biết bao trái tim phải xốn xang nghiền ngẫm ấy đã làm

chúng ta không thể nào quên được. Đọc tác phẩm của Nguyễn Thi ta bắt gặp lối văn kể

chuyện cô đọng duyên dáng, giọng văn phảng phất tính dân gian nhưng cũng không

kém phần hiện đại. Nguyễn Thi đã tái hiện lại bức tranh sinh động của cuộc sống lao

động - chiến đấu của những con người “chân lấm tay bùn”, suốt đời chỉ biết ruộng đồng

nhưng khi cần thiết thì những đôi tay ấy cũng biết cầm súng để chiến đấu bảo vệ từng

bờ tre, liếp cỏ. Những con người ấy đã đi vào trang văn của Nguyễn Thi rất tự nhiên,

tự nhiên như nó vốn có. Nguyễn Thi đã xây dựng thành công hệ thống nhân vật trong

tác phẩm của mình, từ những con người bình thường, giản dị đến những người chiến

1

sĩ kiên gan đều được nhà văn khắc họa một cách đầy đủ, trọn vẹn. Nhưng tiếc thay khi

tài năng đang ở độ chín thì người nghệ sĩ tài hoa ấy đã anh dũng hy sinh trên chiến

trường với khẩu súng trên tay và trên lưng vẫn còn mang theo nhiều bản thảo cùng bao

nhiêu dự định lớn lao còn chưa kịp thực hiện. Những tác phẩm như Ước mơ của đất,

Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa, Người mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa….đã ghi

lại dấu ấn nhà văn Nguyễn Thi trên văn đàn và gây ngạc nhiên cho bao người: một nhà

văn gốc Bắc lại am hiểu về mảnh đất và con người Nam Bộ như đã từng được sinh ra

và lớn lên trên chính mảnh đất này.Đã có nhiều tác phẩm hay viết về con người Miền

Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng các tác phẩm của Nguyễn

Thi không hề bị mờ nhạt mà càng theo thời gian càng chứa đựng giá trị lịch sử, giá trị

nhân văn sâu sắc, thấm đẫm tình người.

Trân trọng và ngưỡng vọng tài năng của Nguyễn Thi nên với luận văn này,

chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nhân vật - một thế giới nhân vật vô

cùng phong phú trong văn xuôi Nguyễn Thi. Nghiên cứu nhân vật chính là nghiên cứu

cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào trong

văn chương của mình. Trong thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời

và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi nhưng chưa có công trình chuyên biệt nào đi sâu

vào nghiên cứu thế giới nhân vật cũng như biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Với mong muốn được góp thêm tiếng nói một lần nữa để khẳng định tài năng cũng như

những đóng góp của Nguyễn Thi cho nền văn họ dân tộc, chúng tôi đã lựa chọn đề tài

Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nguyễn Thi sống không lâu, viết cũng không nhiều, nhưng gần 40 năm sống và

viết ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng về lý tưởng sống đẹp của một nhà

văn chiến sĩ. Những tác phẩm của ông đã phản ánh được cả một giai đoạn hào hùng

của dân tộc nên được giới nghiên cứu, phê bình và độc giả quan tâm. Cho đến nay có

khoảng hàng trăm công trình nghiên cứu có quy mô lớn nhỏ khác nhau xoay quanh

những sáng tác của Nguyễn Thi. Trong số đó có những bài viết rất đáng tin cậy và có

giá trị của những nhà nghiên cứu phê bình có tên tuổi được đăng tải trên nhiều sách

báo và tạp chí.

2

Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng Nguyễn Thi dành phần lớn sự quan tâm

của mình vào việc khám phá những con người trên nhiều bình diện khác nhau với cái

nhìn đa chiều. Bởi dù thế nào đi chăng nữa thì con người vẫn luôn là mối quan tâm

hàng đầu của nhà văn. Đầu tiên phải kể đến Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh với quyển

Nhà văn, tư tưởng và phong cách (Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội - 1979) có bài viết Sức

sống ngòi bút Nguyễn Thi điểm qua về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, trong đó tác

giả đã có những nhận xét về sức sống của những sáng tác và phong cách sáng tác của

Nguyễn Thi.

GS Phong Lê và PGS.TS Lưu Khánh Thơ với tác phẩm Nguyễn Thi - Viết ở

chiến trường. Cuốn sách giới thiệu khá kĩ về niên biểu Nguyễn Thi với những danh

mục sáng tác của ông trong lời mở đầu. Phần một viết về tiểu sử và sự nghiệp của

Nguyễn Thi.Phần hai nghiên cứu về tấc giả Nguyễn Thi. Phần ba nghiên cứu kĩ về

phong cách dân gian, thời gian, không gian nghệ thuật ở một số tác phẩm tiêu biểu như:

Người mẹ cầm súng, Ở xã Trung Nghĩa, Những đứa con trong gia đình. Cuối cùng giới

thiệu về những hồi ức và kỉ niệm của nhiều người về nhà văn liệt sĩ này.

Phan Nhân trong Suy nghĩ về khả năng của thể kí đã nhận xét về Nguyễn Thi và

tùy bút Dòng kinh quê hương của ông:“Nguyễn Thi, một cây bút vốn giàu chất thơ,

trước cảnh quê hương bị tàn phá, đã truyền cho ta những rung cảm đậm đà tình thương

và lòng tự hào bằng những hình ảnh quen thuộc của đất nước rất nên thơ”.

Hà Minh Đức, trong bài viết chung về kí trong thời kì chống Mỹ cứu nước:

“Nguyễn Thi có nhiều cảm xúc đẹp trên những trang tùy bút dòng kinh quê hương,

nhưng dường như anh muốn tập trung và ưu tiên giành những trang viết để ghi chép

về những người anh hùng đẹp của đất nước quê hương”.

Ngô Thảo có Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi Toàn tập, là một bộ sách tập hợp

khá đầy đủ các sáng tác của Nguyễn Thi từ lúc mới bắt đầu cầm bút cho đến những tác

phẩm sau cùng còn chưa kịp hoàn thành. Bên cạnh đó cũng có giới thiệu, phân tích một

số tác phẩm tiêu biểu, chỉ ra các mặt hạn chế và tích cực đồng thời khẳng định tài năng

sáng tác của nhà văn chiến sĩ Nguyễn Thi.

Năm 1983 Nhị Ca viết quyển Gương mặt còn lại, Nguyễn Thi (Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội - 1983). Với tác phẩm khảo cứu này ông đã nhận được Giải thưởng của

3

Hội nhà văn Việt Nam.Trong công trình này Nhị Ca đã đi vào khảo cứu những tác

phẩm tiêu biểu còn lại của nhà văn. Sau này trong quyển Dọc đường văn học (Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội -1997) Nhị Ca viết tiếp về Nguyễn Thi, chủ yếu là viết

về vai trò và đóng góp của Nguyễn Thi cho nền văn học Việt Nam trong giai đoạn

chống Mỹ.

Trong quyển Văn học Việt Nam 1945- 1975 (tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội -

1990) do Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên cũng có bài giới thiệu về cuộc đời, sự

nghiệp và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi qua một số tác phẩm cụ thể.

Nhân kỉ niệm70 năm ngày sinh, 30 năm ngày mất của Nguyễn Thi, Nguyễn

Trọng Oánh đã có bài viết Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi, con người và sự nghiệp

(Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 5-1998). Cũng như những công trình trước, Nguyễn

Trọng Oánh viết về những đặc điểm nổi bật của con người và quá trình sự nghiệp sáng

tác của Nguyễn Thi. Viết về con người Nguyễn Thi, Nguyễn Trọng Oánh có đoạn: “Im

lặng là một nét đặc biệt của Nguyễn Thi; im lặng mà viết, im lặng mà đọc sách, im lặng

mà quan sát, im lặng mà suy nghĩ, im lặng để nói rất ít về mình” [27,tr.2 ].

GS Phong Lê với quyển Vẫn chuyện văn và người đề cập đến nhiều nhà văn

trong đó có nói đến Nguyễn Thi và đặc sắc nghệ thuật Nguyễn Thi. Nội dung bài viết

giới thiệu những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi những năm gắn

bó với Miền Nam như: chọn bối cảnh xây dựng tác phẩm, xây dựng nhân vật đậm chất

sử thi, cuối cùng khẳng định vị trí của Nguyễn Thi trên văn đàn văn học dân tộc.

Ngô Thảo với bài viết Nhà văn anh hùng Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi đăng

trên báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khi tin nhà văn - liệt sĩ Nguyễn

Thi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ nhân dân năm 2011.

Bài viết đã khái quát được cả một hành trình dài sống, chiến đấu và viết cùng những

tác phẩm để lại đã ghi dấu ấn của một nhà văn – chiến sĩ trên văn đàn văn học cách

mạng.

Ngoài ra còn có những công trình biên soạn tập họp lại những tác phẩm của

Nguyễn Thi như: Truyện ký Nguyễn Thi (Nxb Giải phóng, Hà Nội - 1969), Truyện ngắn

4

Nguyễn Thi (Nxb Hội nhà văn, Hà Nội - 1996), Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi Toàn

tập (Nxb Văn học, Hà Nội - 1996).

Bên cạnh những công trình nghiên cứu của các nhà phê bình có tên tuổi, tác

phẩm của Nguyễn Thi còn được sự quan tâm của nhiều thế hệ sinh viên, học viên ở các

trường Đại học. Đã có nhiều công trình khoa học, công trình nghiên cứu liên quan đến

nhà văn Nguyễn Thi và các tác phẩm của ông:

Hoàng Thị Sâm với Đặc điểm lời thoại nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn

Thi, luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh. Trong đó có thống kê, phân loại tất cả các lời thoại

của những nhân vật nữ xuất hiện trong tác phẩm của Nguyễn Thi dựa trên cơ sở ngôn

ngữ học. Từ đó rút ra những đóng góp của Nguyễn Thi trong quá trình sáng tạo ngôn

ngữ văn chương nghệ thuật.

Nguyễn Thị Kim Quyên, Nguyễn Thị Thơ với đề tài Hình tượng người nữ chiến

sĩ cách mạng trong văn xuôi Nguyễn Thi. Đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề:

vẻ đẹp hình tượng người nữ chiến sĩ cách mạng và đặc trưng nghệ thuật xây dựng vẻ

đẹp hình tượng người nữ chiến sĩ cách mạng trong văn xuôi Nguyễn Thi.

Qua việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp cũng

như những sáng tác của Nguyễn Thi, chúng tôi nhận thấy những bài viết của các tác

giả trên đã làm sáng tỏ được nội dung sáng tác, phong cách nghệ thuật và những đóng

góp của Nguyễn Thi đối với nền văn học cách mạng Việt Nam thời kỳ kháng chiến

chống Mỹ. Bên cạnh đó cũng đã có một vài tác giả đã dành sự quan tâm đến nhân vật

và cách thức thể hiện nhân vật trong một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi, đặc

biệt là hình tượng người phụ nữ. Tuy nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở cảm nhận,

đánh giá chung qua một số truyện ngắn và tiểu thuyết mà chưa đi sâu vào tìm hiểu thế

giới nhân vật trong toàn bộ các tác phẩm của Nguyễn Thi. Chúng tôi hết sức trân trọng

những ý kiến đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu đi trước và xem đó là những

gợi ý quý giá để chúng tôi triển khai, hoàn thiện tốt đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

5

Chúng tôi chọn đề tài Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi nhằm làm

nổi bật sự phong phú về thế giới nhân vật và nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân

vật. Từ đó, chúng tôi muốn khẳng định chiều sâu tư tưởng, giá trị nhân văn và những

đóng góp của nhà văn chiến sĩ Nguyễn Thi đối với nền văn học dân tộc.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.2.1. Dựa trên những lý luận về nhân vật văn học đã được các công trình nghiên cứu

chuyên biệt xây dựng, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu yếu tố nhân vật văn học trong

các sáng tác của Nguyễn Thi từ góc độ lý thuyết để thấy được sự đa dạng, phong phú

các kiểu loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Thi.

3.2.2.Trên cơ sở những lý thuyết đã có, chúng tôi tiến hành phân tích, khảo sát toàn

bộ các tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi, đặt chúng trong mối tương

quan với các sáng tác của các tác giả cùng thời điểm đó hoặc sau này. Qua đó, để thấy

được những đặc sắc trong thế giới nhân vật, và cả những dấu ấn mang đậm màu sắc

địa phương làm nên sự khác biệt riêng chỉ có ở Nguyễn Thi so với các nhà văn khác.

3.2.3. Phát hiện, phân tích những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật

chỉ có trong các sáng tác của Nguyễn Thi. Để đi đến khẳng định một phong cách nghệ

thuật với cá tính mới lạ của một nghệ sĩ tài ba.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu thế giới nhân vật trong toàn bộ các sáng

tác của Nguyễn Thi những năm kháng chiến chống Mỹ.

4.2.Phạm vi nghiên cứu

Đề tài không giới hạn ở một hay vài tác phẩm tiêu biểu mà đi sâu vào tìm hiểu,

nghiên cứu, khái quát toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Thi ở tất cả các thể loại từ

truyện ngắn, tiểu thuyết cho đến tùy bút, kí, ghi chép…. Đối chiếu, so sánh với một số

tác phẩm tiêu biểu khác của các tác giả cùng thời.

5. Phương pháp nghiên cứu

Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận dụng

một số phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích: phương pháp phân tích được sử dụng nhiều trong quá

trình khảo sát để đi sâu vào tìm hiểu nhân vật, từ đó khái quát lên thành những đặc

điểm nổi bật của nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi.

6

Phương pháp so sánh: phương pháp so sánh được sử dụng để khu biệt những

đặc điểm của nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi với nhân vật của các nhà văn khác

cùng thời và viết cùng đề tài.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội: phương pháp này được sử dụng để

làm rõ sự ra đời và đặc điểm của nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi trong tương quan

với hoàn cảnh xã hội và văn học.

Ngoài ra, các phương pháp và thao tác khác cũng được sử dụng trong quá trình

thực hiện đề tài như: tổng hợp, thống kê, phân loại…..

6. Đóng góp của luận văn

Với đề tài Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi luận văn nhằm khám

phá, phân tích sự đa dạng, phong phú về thế giới nhân vật trong toàn bộ các sáng tác

của ông trong những năm tháng chống Mỹ, cũng như sự độc đáo, sáng tạo trong việc

vận dụng các phương thức nghệ thuật để xây dựng nên thế giới nhân vật sống mãi với

thời gian. Qua đó khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn và những

đóng góp về tư tưởng, giá trị nhân văn của các tác phẩm.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn

được triển khai thành ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề liên quan đến đề tài và cơ sở lý luận

Chương 2: Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi nhìn từ phương diện

nội dung

Chương 3: Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi nhìn từ phương diện

nghệ thuật

7

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Nguyễn Thi trong toàn cảnh văn xuôi chống Mỹ

Trên bản đồ thế giới, hình ảnh đất nước Việt Nam nhỏ bé nơi ghi dấu biết bao

thăng trầm của lịch sử.Trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh đã phải đương đầu với

các thế lực xâm lược lớn nhất thế giới. Chúng ta đã chiến đấu bằng ý chí, bằng sức

mạnh đoàn kết toàn dân tộc để giành lấy chiến thắng; hơn nữa những chiến thắng đó

đã gây nên biết bao nhiêu chấn động lớn, không những chỉ làm kinh ngạc loài người

mà còn ảnh hưởng sâu xa đến tình hình thế giới.

Và cũng không biết có nền văn học nào, suốt hơn ba mươi năm trời đã được xây

dựng dưới bom đạn, không ngừng phát triển dưới bom đạn; mặc dù phải chịu đựng biết

bao nhiêu khó khăn trở ngại thế nhưng nền văn học ấy đã trở thành một trong những

nền văn học tiên phong chống đế quốc trong thời đại ngày nay. Bài học chiến đấu của

ngày hôm qua được kể cả bằng văn học vẫn còn nguyên giá trị với cuộc chiến đấu của

ngày hôm nay. Cả một chặng đường dài lịch sử của dân tộc, ba mươi năm đấu tranh

chống đế quốc thực dân xâm lược có cả những mất mát, đau thương, cả những chiến

công lẫy lừng, những phút giây thẫm đẫm tình quân dân….tất cả đều được phản ánh

trọn vẹn trong văn học.

Ngược dòng thời gian, trở về quá khứ hào hùng vàng son của dân tộc, làm sao

có thể quên được những năm kháng chiến chống Pháp từ1945 - 1954 là giai đoạn có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền cho văn học mới vừa là

bước chuyển tiếp của lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để và sâu sắc, từ quan niệm

nghệ thuật cho tới thực tế sáng tác. Vượt qua những thử thách khắc nghiệt của hoàn

cảnh chiến tranh, văn học chín năm kháng chiến chống Pháp đã khẳng định sự tồn tại

và phát triển với tầm vóc xứng đáng. Tuy những thành tựu còn ở mức độ ban đầu nhưng

đóng góp chính của nó là mang đến một sắc thái độc đáo, làm bừng lên khí thế mới

chưa từng có trong đời sống văn học dân tộc và đặt được nền móng vững chắc, đảm

bảo sự phát triển rực rỡ của văn học cách mạng những năm về sau. Để khi bước sang

thời kỳ chống Mỹ cứu nước, giai đoạn những năm 1960 - 1975, chúng ta không còn bỡ

ngỡ, lúng túng nữa. Những bài học của cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp chúng ta

8

rất nhiều. Hơn thế nữa từ sau 1954 đến 1975, chúng ta đã có một miền Bắc xã hội chủ

nghĩa, một hậu phương lớn để vừa xây dựng, vừa chiến đấu, không ngừng tạo ra những

lực lượng văn học mới bổ sung cho tiền tuyến. Bởi vậy, văn xuôi giai đoạn này đã khái

quát được trọn vẹn bộ mặt cuộc sống đó là: tiền tuyến lớn và tầm vóc mới của cuộc

chiến đấu.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả hai miền từ tháng 8 năm 1964 khi đế quốc

Mỹ đem bom đánh phá miền Bắc, đã đem lại một chuyển biến mạnh mẽ trong sáng tác,

mà biểu hiện nổi bật là sự tập trung thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng của mọi

tầng lớp nhân dân trong chiến đấu và sản xuất, nhằm bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã

hội trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, hoàn thành thống nhất nước nhà.

Tính từ thời điểm lịch sử đó, có thể nói hầu hết các nhà văn đều hướng ngòi bút của

mình, bằng tinh thần hoàn toàn tự nguyện, không có chút băn khoăn, ngần ngại nào.

Tất cả là vì tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định

không chịu làm nô lệ”như lời Hồ chủ tịch đã dạy, vốn là một lẽ sống, một ý thức thường

trực trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Đặt trong bối cảnh lịch sử hiện tại

khi nhân dân ta ở miền Nam sau bao năm dưới ách kìm kẹp của Mỹ - Ngụy đã vươn

mình lên trong một cuộc Đồng khởi vĩ đại năm 1960; và giờ đây thừa thắng xông lên

vững vàng bước vào một giai đoạn thử thách mới, khi quân Mỹ cùng với quân đồng

minh đang ngày đêm giày xéo trên mảnh đất quê hương. Cả nước đứng lên đối mặt với

quân thù và những chiến công vang dột đầu tiên của quân và dân miền Nam với Bình

Giã, Ba Gia, Ấp Bắc, Vạn Tường…và liên tiếp tin vui từ miền Bắc báo về từ Hồng

Gai, Lạch Trường, Vĩnh Linh, Cồn Cỏ,… đã chứng minh một cách rực rỡ cho sức mạnh

vô địch của tình yêu đất nước và niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.

Tình yêu lớn đối với Tổ quốc trở thành chủ đề, nguồn cảm hứng vô tận cho

những sáng tạo, trở thành máu thịt trong mọi tác phẩm. Vốn đã là một chủ đề quen

thuộc, trở thành mảng đậm trong văn học hiện đại, nhưng đến lúc này bỗng hiện lên

như một nội dung nổi bật, vì sức dồn tụ của nó, và vì sự ngân lên ở một cung bậc cao

hơn.Tổ quốc - giờ đây, sau Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chín năm chống

Pháp, dòng sông Bến Hải mặc định trở thành ranh giới chia cắt đất nước,một nửa là

miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, một nửa là miền Nam đang chiến đấu chống

9

đế quốc Mỹ xâm lược. Nỗi nhớ miền Nam, nỗi đau đất nước bị chia cắt trong lòng mỗi

người dân Việt Nam vốn cùng chung một gốc, không lúc nào không nung nấu suốt từ

năm 1954 cho đến lúc này. Đó là tình yêu, là mơ ước Tổ quốc - thống nhất, một Tổ

quốc liền một dải từ Lạng Sơn đến Minh Hải. Sự gắn bó giữa hai miền và tình cảm Bắc

Nam ruột thịt đã từng là chủ đề nổi bật trong nhiều sáng tác về đề tài kháng chiến chống

Pháp trước đây như Một truyện chép ở bệnh viện (1959) của Bùi Đức Ái; Hoa hướng

dương (1960) của Đoàn Giỏi; bên cạnh đó, đáng chú ý là hình ảnh những người con

miền Nam trên đất Bắc đang quyết tâm góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cơ

sở cho công cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất nước nhà, với những sáng tác

trong hai tập Trăng sáng(1960)và Đôi bạn (1962) của Nguyễn Ngọc Tấn; hay trong

Rẻo cao (1961) của Nguyên Ngọc…

Nếu “miền Nam trong lòng miền Bắc” đã là một chủ đề sâu đậm trong văn xuôi

những năm 60, thì “miền Bắc trong lòng miền Nam” cũng trở thành một nguồn sáng

trong biết bao trang viết của nhân dân, của cán bộ miền Nam những ngày nước sôi lửa

bỏng, những ngày diễn ra biết bao vụ thảm sát tố cộng, diệt cộng, những ngày luật 10-

59 và máy chém của Mỹ - Diệm kéo lê khắp nơi đàn áp đẫm máu những người yêu

nước kháng chiến, những người mong muốn đất nước thống nhất.Quên sao được những

trang thư, hồi ký Từ tuyến đầu tổ quốc(1963) của nhiều tác giả mà ở đó tình cảm riêng

tư cá nhân lại gắn rất chặt với tình yêu Tổ quốc, trở thành tình cảm chung của quần

chúng cách mạng.Những ngày tháng sau này, đế quốc Mỹ với tham vọng của mình đã

mở rộng chiến tranh trên phạm vi cả nước, chúng cho ném bom Hồng Gai, Lạch

Trường, Vĩnh Linh, Cồn Cỏ…Cũng từ đây một loạt bút ký, phóng sự, ghi chép xuất

hiện đã kịp thời thông báo tin vui chiến thắng dồn dập của nhân dân ta, như Nguyễn

Khải với Họ sống và chiến đấu (1965); Tuyến lửa (1966) của nhiều tác giả hay Chúng

tôi ở Cồn Cỏ (1966) –Hồ Phương…Đây không chỉ đơn thuần là những chiến công, hơn

nữa còn là khuôn mặt chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Bộ mặt đất nước với

những con sông, những nhịp cầu, những bến phà và cả bầu trời, mặt biển…đi vào văn

xuôi rất tự nhiên và dường như mọi vẻ đẹp vốn có của nó lại một lần nữa được người

viết phát hiện, dù trong mưa bom bão đạn thì vẫn cứ đắm say lòng người.

10

Cùng với mốc lịch sử năm 1965, đánh dấu thời kỳ cả nước chống Mỹ, hơn bất

cứ giai đoạn nào trước đây, văn xuôi đã kịp thời ghi lại khá rõ những dấu ấn của cuộc

sống, của thời đại. Nếu văn xuôi miền Bắc, dấu ấn đó là chất chơ, chất trữ tình nồng

đậm, ngân lên từ tình yêu Tổ quốc, với hình ảnh đất nước - con người chưa bao giờ gắn

bó với nhau tha thiết đến thế trong một cuộc ra trận lớn lao, thì văn xuôi cách mạng

miền Nam đó là một cơn phẫn nộ lớn, một tiếng thét căm thù vang dội, vút lên từ trong

bóng đêm tăm tối của một chế độ tàn bạo, từ trong sự kìm kẹp dã man đến tột cùng của

kẻ thù, để ngay sau đó là niềm vui, niềm hạnh phúc vô giá khi con người được cầm

súng đi chiến đấu. Đó còn là niềm vui được giải phóng, là niềm tin vào miền Bắc xã

hội chủ nghĩa mà từ lâu đã trở thành niềm hy vọng, là ước nguyện tương lai của miền

Nam đi trước về sau. Cả một chặng đường dài, chúng ta dần được chứng kiến sự triển

khai của văn xuôi trên tiền tuyến lớn theo hai hướng.

Trước hết đó là sự mở rộng nhanh chóng phạm vi miêu tả để trong một thời gian

ngắn, văn xuôi có thể nhanh chóng bám được vào những vùng đất nóng bỏng các chiến

công và sự tích anh hùng. Đồng thời gắn bó với quá trình mở rộng phạm vi miêu tả đó

là quá trình nâng cao dần sức khái quát, khả năng đúc kết, để từ những phác thảo, những

ghi chép, những quan sát riêng lẻ, bộ phận, tiến lên xây dựng những bức tranh lớn, nắm

bắt được đặc sắc riêng của cuộc chiến đấu từng vùng, đánh dấu những chuyển biến lớn

trên mỗi giai đoạn. Chưa bao giờ, hình ảnh cuộc sống lại thâm nhập vào văn xuôi với

đầy đủ những đường nét nổi rõ như vậy.Đó là một cuộc chiến tranh với rất nhiều hy

sinh, văn xuôi cũng không hề giấu giếm điều đó.Mô tả cuộc chiến đấu dữ dội của dân

tộc, không chỉ có những hy sinh mất mát, văn xuôi còn đề cập đến bộ mặt của kẻ thù.

Qua đó khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam trong thời

đại đánh Mỹ, đặc biệt là hình ảnh con người trong sự đối mặt với mọi loại kẻ thù.

Nếu chủ nghĩa anh hùng cách mạng là một trong những chủ đề lớn xuyên suốt

trong văn xuôi những năm kháng chiến chống Mỹ, thì chiến đấu và sản xuất - Tổ quốc

và chủ nghĩa xã hội là nền tảng, cơ sở của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đây cũng là

một phần của bộ mặt cuộc sống được văn xuôi phản ánh. Mặc dù chiến tranh diễn ra

trên cả nước, nhưng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn đang tiếp tục từng ngày,

từng giờ và trên cơ sở nhận thức miền Bắc là hậu phương lớn, là căn cứ địa của cả nước

11

thì càng phải được xây dựng vững mạnh hơn bất cứ bao giờ. Nắm vững phương châm

vừa sản xuất vừa chiến đấu, sự gắn bó khăng khít giữa tình yêu đất nước và tình yêu

chủ nghĩa xã hội chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh dù trong bom đạn vẫn giữ được

niềm tin, ý chí vững vàng để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đây cũng là nhiệm vụ, yêu

cầu đặt ra cho văn xuôi giai đoạn này là phải làm sáng tỏ được hiện thực miền Bắc vừa

chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đâu chỉ có những chiến công của những

người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu nơi tuyến lửa, nơi trận địa, ở một bến phà hay

một nhịp cầu nào đó…Mà ở đây, phạm vi mô tả được mở rộng để kịp thời phản ánh và

ca ngợi nồng nhiệt những chiến công của nhân dân trên khắp các vùng quê, ở mọi thời

điểm. Anh hùng không chỉ xuất hiện trong đấu tranh, trong cuộc đọ súng hay phút giáp

mặt với kẻ thù mà trong cuộc sống đời thường chúng ta vẫn bắt gặp, đâu chỉ có một Tạ

Thị Kiều từ vùng đất nóng bỏng Bến Tre, để sau đó lại có biết bao nhiêu Tạ Thị Kiều

khác từ một góc phố, một vườn hoa. Hay một Thái Văn A trên Cồn Cỏ, để tiếp theo

sau đó là bao nhiêu Thái Văn A khác…Chưa bao giờ trong văn xuôi, chủ nghĩa anh

hùng cách mạng lại nổi lên đậm nét với nhiều biểu hiện phong phú như vậy, nó làm

thành dấu ấn nổi bật của một thời kỳ, như có sức hút mãnh liệt và lắm khi còn gắn bó

với chất thơ, chất trữ tình làm say lòng người. Và cố nhiên chất thơ chỉ có giá trị khi

nó không làm mờ đi mọi đường nét, góc cạnh của đời sống chiến đấu vốn lúc nào cũng

khẩn trương, quyết liệt. Cái chất thơ ở đây phải nói lên được chất anh hùng cũng như

nâng tầm sử thi của đời sống, vốn luôn là nguyện vọng bức thiết của người viết. Bên

cạnh đó những khía cạnh mới mẻ của đời sống đang đòi hỏi được nêu ra trong một mối

liên quan rằng buộc: Tiền tuyến và hậu phương, chiến đấu và sản xuất, cái chung và

cái riêng, đất nước và gia đình, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội…. Từ sự gắn bó khăng

khít giữa các mặt vốn là điểm mới của cuộc sống sẽ là cơ sở cho sự ra đời của không ít

sáng tác mà ở đó chân dung con người được soi chiếu dưới nhiều góc độ: Đó là Chuyện

nhà của Dương Thị Xuân Qúy, Gia đình những người đi xa của Đỗ Chu, Trong một

gia đình của Vũ Cao… Sự gắn bó giữa sản xuất và chiến đấu, hình ảnh một cuộc sống

vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương, câu chuyện bắn tàu bay Mỹ, bắt phi công… lồng

vào câu chuyện làm ăn, củng cố hợp tác, cải tiến kĩ thuật, xây dựng cánh đồng năm tấn,

mười tấn, với phân gio, hoa bèo… cùng trăm thứ việc bận rộn khác mà lại thú vị biết

12

bao. Những công việc nông vụ vốn đã trở nên quen thuộc, gắn bó với nhà nông, nay đặt

trong bối cảnh đất nước có chiến tranh thì lại mang một màu sắc khác.Nhân dân ta vừa

cầm súng chiến đấu bảo vệ những thành quả đã đạt được vừa tay cuốc tay liềm lao động

hăng say làm tròn trách nhiệm của hậu phương lớn.Mọi mặt của đời sống chiến đấu và

sản xuất nền tảng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đều được ghi lại trên không ít tác

phẩm của những cây bút từ lâu chuyên viết về đề tài nông thôn như Vụ mùa chưa gặt

(1965), Vùng quê yên tĩnh (1974) của Nguyễn Kiên; Đất làng (1974) của Nguyễn Thị

Ngọc Tú; Hương cau - hoa lim (1971) của Chu Văn…

Hướng về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhằm nói cho được cái mới

đang làm nên bộ mặt của đời sống thường ngày. Do vậy, trong văn xuôi giai đoạn này

tập trung đi vào phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội như một nền tảng cơ

bản của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng càng về sau chính bản thân những vấn

đề của chủ nghĩa xã hội với cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai con đường, giữa cái mới

và cái cũ, với sự nghiệp công nghiệp hóa và hợp tác hóa, với quá trình tiến hành đồng

thời ba cuộc cách mạng …. sẽ dần dần có sức chi phối lớn, sẽ là nguồn cảm hứng lớn

đối với không ít nhà văn, đem đến những thành công nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn

tồn tại một số hạn chế không đáng kể. Đặc biệt ở mảng đề tài viết về nông thôn,chúng

ta thấy tinh thần xây dựng chủ nghĩa xã hội được phản ánh một cách sôi nổi và cụ thể

nhất. Trong Mùa lạc của Nguyễn Khải viết những năm 1960, qua những nhân vật tích

cực như Lâm, Quang, Cừ, và nhất là những con người từng là nạn nhân của xã hội dưới

những dạng khác nhau như bé Tâm, Đào, Thoa,… nhà văn cho thấy vấn đề đấu tranh

cho một quan niệm đạo đức mới, cho một lối sống mới, lối sống vì lợi ích chung, mình

vì mọi người, phù hợp với yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cuộc đấu

tranh cho cái mới đó ngày càng gay go vất vả vì sự có mặt của những bóng đen, có thể

là những quan niệm, tư tưởng của xã hội cũ còn lẩn khuất trong đời cản trở quá trình

đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ thời điểm 1960, sau cuộc Đồng khởi vĩ đại của nhân dân miền Nam và sự ra

đời Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam và trong thời điểm thiêng liêng như thế;

thời điểm hình thành rất nhanh chóng một đội ngũ người viết ưu tú, gồm những người

con tập kết ra Bắc theo Hiệp định Geneve về Đông Dương năm 1954, hoặc những

13

người ở lại miền Nam trong tư cách những người yêu nước - kháng chiến. Tất cả đều

sẵn sàng trở về chiến trường, trở lại với đội ngũ để trước hết làm một người lính “cùng

xương thịt với nhân dân”, và sau đó, hoặc cùng lúc làm một người viết - chiến sĩ, để

ghi lại cuộc chiến đấu của nhân dân. Với đội ngũ người viết trong giai đoạn chống Mỹ,

điều đáng lưu ý là tất cả họ đều đã có trải nghiệm trong chín năm chống Pháp (1945 -

1954) và cũng đã có hơn năm năm góp sức xây dựng nền văn nghệ mới miền Bắc trong

bối cảnh hòa bình (1954-1959). Từ các thành tựu trong kháng chiến chống Pháp và từ

hoạt động sáng tác liên tục sau 1954, đã hình thành nhanh chóng một đội quân chủ lực

của Văn học Giải phóng miền Nam, như Nguyễn Văn Bổng (Trần Hiếu Minh), Lê

Khâm (Phan Tứ), Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành), Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn

Thi), Bùi Đức Ái (Anh Đức), Nguyễn Quang Sáng (Nguyễn Sáng), Trúc Hà (Nam

Hà)….trong văn xuôi. Và Viễn Phương, Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh

Xuân…trong thơ. Trở lại chiến trường, tất cả mọi người viết đều đã sẵn sàng chuẩn bị

cho mình tư cách của một người lính, người công dân, người cán bộ để cùng sống, cùng

chiến đấu, cùng đồng cam cộng khổ với nhân dân. Có biết bao người đã hy sinh khi

chưa kịp viết, hoặc khi mới chỉ bắt đầu viết được ít như Nguyễn Mỹ, Nguyễn Trọng

Định, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong…Dẫu cuộc chiến đấu rất khốc liệt, và

dẫu thời gian không dài lắm, số lớn các nhà văn vào chiến trường đều viết được ngay

và viết nhanh, viết hay trên hiện thực nóng bỏng và in đậm dấu ấn thời sự. Đó là Sống

như anh (1965) của Trần Đình Vân. Là Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc,

Rừng xà nu (1969), Đất Quảng (1971) của Nguyễn Trung Thành. Là Gió vịnh Cam

Ranh (1969) của Nam Hà. Là Cửu Long cuộn sóng (1965), Rừng U Minh (1970) của

Trần Hiếu Minh. Là Bức thư Cà Mau (1965), Hòn đất (1966), Đứa con của đất (1976)

của Anh Đức…Chỉ trên dưới mười năm đã tạo nên một cuộc ra quân rộn ràng, sôi nổi

trên tất cả các binh chủng làm nên diện mạo hoành tráng của một nến văn học chiến

đấu, thậm chí làm nên gương mặt chính của văn học Việt Nam trong thời đại chống

Mỹ. Và để có được thành tựu như trên công đầu tiên có lẽ thuộc về đội ngũ nhà viết,

bởi họ đã được chuẩn bị chu đáo cho hành trình nghề nghiệp của mình. Trước hết đó

là lòng yêu nước - một lòng yêu nước gắn với ý chí quyết tâm không trở lại thân phận

nô lệ, dẫu dưới bất kì hình thức nào, và cả cái khát khao giành độc lập, thống nhất đất

14

nước. Một lòng yêu nước gắn với viễn cảnh là chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng bước

đầu với biết bao ước vọng trên miền Bắc từ những năm 1960…Cùng với lòng yêu nước

vốn là của cải tinh thần chung của đội ngũ, mỗi người viết vào chiến trường đều đã

được trang bị về tri thức, về kỹ năng, về kinh nghiệm nghề nghiệp,….sau hơn mười

năm hành trình cùng nhân dân, cùng cách mạng. Không có vùng đất nào của miền Nam

- tiền tuyến lớn, nơi đâu cũng chịu những thử thách cao nhất trong đối mặt với kẻ thù,

mà không có mặt trên trang viết của một hay mấy thế hệ người viết từ sau năm 1954.

Với Thanh Hải, Tô Nhuận Vĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn

Khải, Xuân Thiều, Hồ Phương, Hữu Mai…ở chiến trường Trị Thiên, Đường 9-Nam

Lào. Với Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Dương Hương Ly, Chu Cẩm Phong… ở

chiến trường Liên khu Năm và Tây Nguyên. Với Giang Nam, Nguyễn Chí Trung,

Nguyễn Trọng Oánh, Triệu Bôn…ở khu Sáu và Đông Nam bộ. Còn với Lý Văn Sâm,

Trần Hiếu Minh, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Sáng, Lê Văn Thảo, Trang Thế Hy,

Lê Anh Xuân, Hoài Vũ…chọn dừng chân ở chiến trường vùng ven Sài Gòn và Nam

Bộ.

Trong đội ngũ đông đảo và nhiều thế hệ ấy, văn xuôi những năm chống Mỹ ghi

tên Nguyễn Thi bên cạnh những cây bút chủ lực của giai đoạn này. Vốn là một người

con đất Bắc, nhưng quá nửa cuộc đời Nguyễn Thi giành trọn cho miền Nam. Cũng như

bao thế hệ nhà văn khác cùng thời, nghe theo tiếng gọi của Đảng, của tiền tuyến lên

đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu, Nguyễn Thi chọn dừng chân ở chiến trường vùng

ven Sài Gòn và Nam Bộ làm nơi sống, chiến đấu và viết. Chính nơi đây đã cho ra đời

biết bao tác phẩm đưa tên tuổi Nguyễn Thi vào đội ngũ nhà văn tiêu biểu nhất của văn

xuôi chống Mỹ. Bởi gần 40 năm sống và chiến đấu, người con gốc Bắc ấy, đã giành

trọn trái tim, tình cảm của mình cho miền Nam thân yêu, đã từng hy sinh cả hạnh phúc

cá nhân của riêng mình cho mảnh đất nơi này đến tận những giây phút cuối cùng của

cuộc đời vẫn ôm khẩu súng trên tay chiến đấu, trên lưng đeo cái bòng đựng bản thảo.

Những tác phẩm của Nguyễn thi đa phần còn ở dạng bản thảo, là những ghi chép tản

mạn nhưng trong đó lại phản ánh được cái không khí sục sôi, hào hùng của cả một thời

kỳ chống Mỹ oanh liệt. Phải là một người có biệt tài quan sát, khả năng cảm nhận tinh

tế, nắm bắt thực tế nhanh, đặc biệt là am hiểu cuộc sống, bản chất của con người nơi

đây nên đọc văn của Nguyễn Thi chất Nam Bộ thấm sâu như được viết ra bởi một

15

người con sinh ra tại mảnh đất này vậy. Từng lời ăn tiếng nói, tính cách, cả những thói

quen sinh hoạt vốn dĩ đã trở thành đặc trưng riêng đều đi vào những trang văn một cách

tự nhiên. Đó là hình ảnh của chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng, của Hạnh trong

Ước mơ của đất; ngay cả những đứa trẻ như Đực và Bỉnh trong Chuyện xóm tôi…Với

cây súng và cây bút trong tay, Nguyễn Thi đã hoàn thành nhiệm vụ một cách suất sắc.

Không khí cách mạng đâu chỉ có ở chiến trường, mặt trận, tiền tuyến mà ngay trong từng

mái nhà, từng xóm nhỏ, trong tâm thức của mỗi người kể cả những đứa trẻ lúc nào cũng

thường trực trong mình tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Hơn nữa, nhà văn còn khắc họa

thành công bức chân dung con người mới trong thời đại mới, đặc biệt là hình ảnh người

phụ nữ Nam Bộ đảm việc nước, giỏi việc nhà. Họ chính là bức tượng đài tôn vinh vẻ đẹp

của người con gái Việt tồn tại mãi theo năm tháng. Như vậy, với những thành công và

đóng góp quan trọng Nguyễn Thi xứng đáng là một trong những nhà văn hàng đầu của

văn xuôi chống Mỹ những năm 1960 - 1975.

1.2. Chân dung nhà văn và phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi

1.2.1. Chân dung nhà văn

Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca,sinh ngày 15-5-1928, quê ở xã Quần

Phương Thượng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Cha của Nguyễn Thi là ông Nguyễn

Bội Quỳnh - một nhà giáo có tinh thần yêu nước, mẹ là bà Thành Thị Du một phụ nữ

tài sắc lại có học. Cuộc đời Nguyễn Thi sớm trải qua nhiều thăng trầm, bất hạnh. Cuộc

sống đầm ấm cùng gia đình không được bao lâu, lúc Nguyễn Thi lên 9 tuổi gia đình sa

sút, cha qua đời, mẹ đi thêm bước nữa, từ đó cậu bé Nguyễn Hoàng Ca bắt đầu dấn

thân vào những ngày tháng gian truân, lận đận.

Mặc dù sinh ra ở đất Bắc nhưng lại sớm gắn bó với miền Nam. Từ trước Cách

mạng tháng Tám, Nguyễn Hoàng Ca đã theo anh trai (con bà cả) vào miền Nam, 15

tuổi đã có mặt ở Sài Gòn, cũng chính ở miền đất này đã tạo điều kiện cho ông học hỏi

nhiều thứ như học vẽ, học đàn, học ca, học sáng tác. Và cũng chính nơi đây đã khơi

nguồn cho ngòi bút của Nguyễn Thi. Cũng như bao thanh niên thời ấy, Nguyễn Thi

vốn có lòng yêu nước nên năm 17 tuổi ông tham gia cách mạng. Với nhiệt huyết tuổi

trẻ, Nguyễn Thi đã tích cực hoạt động và chọn cách mạng làm con đường “chân lí” của

mình trong cuộc sống và cả trong văn chương. Nguyễn Thi còn là đội viên đội cảm tử

quân Nguyễn Bình với những trận đánh sôi nổi, dũng cảm của những ngày đầu kháng

16

chiến. Năm 19 tuổi khi đã trải qua thực tiễn chiến đấu, đã rèn luyện cho mình về lý tưởng,

về mục đích sống và chiến đấu - Nguyễn Thi được chính thức kết nạp Đảng vào ngày

25-9-1947.

Con người Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, nhưng làm việc lại rất tập trung và

cật lực. Ông là một nhà văn cóý thức trách nhiệm rất cao đối với ngòi bút của

mình.Nguyễn Thi bước đầu rèn luyện ngòi bút của mình bằng thói quen ghi chép. Chính

thói quen ấy đã tập cho Nguyễn Thi khả năng quan sát và ghi nhận, biết lắng nghe và

biết nhìn vấn đề bằng nhiều góc độ khác nhau. Nguyễn Thi vào nghề bằng bút danh

đầu tiên là Nguyễn Ngọc Tấn với tập thơ Hương đồng nội gồm 20 bài. Tuy không mấy

thành công, và không gây tiếng vang lớn nhưng qua tập thơ, bạn đọc cũng đã có cái

nhìn ban đầu về Nguyễn Ngọc Tấn, một nhà văn có tâm hồn trong sáng, có cái nhìn

đôn hậu.

Tập kết ra Bắc, sau một thời gian làm cán bộ tuyên huấn ở tiểu đoàn 302 rồi trợ

lý văn nghệ Sư đoàn 330, đến tháng 12 năm 1956, Nguyễn Ngọc Tấn được điều về Tạp

chí Văn nghệ quân đội, cơ quan tập hợp và đào tạo các nhà văn mặc áo lính cho đến

ngày nay. Trong thời gian này Nguyễn Ngọc Tấn dành nhiều thời gian cho việc làm

báo, đi thực tế đến các cơ sở, đơn vị vừa mới được xây dựng trong bước đầu miền Bắc

đi lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này ông rất vất vả, vừa học tập,vừa công tác, vừa viết

văn. Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tấn ở miền Bắc là hai tập truyện ngắn Trăng

sáng (1960) và Đôi bạn (1962); mỗi tập gồm 7 truyện. Tuy chưa thật sự gặt hái được

thành công to lớn nhưng với những trang viết ban đầu ấy, Nguyễn Ngọc Tấn đã làm

nên những dấu hiệu tốt đẹp của một tài năng đầy triển vọng, là những nét cơ bản để

định hình cho một phong cách nghệ thuật vừa hiện thực đến chân thực nhưng cũng vừa

giàu chất trữ tình lãng mạn. Cũng chính phong cách ấy đã làm cho tác phẩm Nguyễn

Ngọc Tấn có sức hấp dẫn, thuyết phục riêng đối với người đọc. Không có cái sắc sảo

trong đối thoại, sự rạch ròi trong phân tích tâm lí của Nguyễn Khải, cũng không có cái

hào hùng của Nguyên Ngọc nhưng ngược lại Nguyễn Ngọc Tấn chiếm ưu thế với giọng

điệu tâm tình trong đối thoại, trong nội tâm, trong cả lời kể.

Tháng 5-1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam để lại đứa con trai mới

sinh sáu tháng để trở về với chiến trường quen thuộc. Mảnh đất miền Nam thân thương

17

đã nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Ngọc Tấn thành người lính và người nghệ sĩ. Trở lại

miền Nam lúc này Nguyễn Ngọc Tấn là thành viên tích cực của lực lượng Văn

NghệQuân giải phóng. Nhà văn sẵn sàng và tận tụylàm mọi việc mà cuộc sống và chiến

đấu đang yêu cầu, đang đặt ra: “Ở chiến trường là phải làm liền, không viết nhanh thì

việc mới người mới ào tới, chuyện sự vụ chồng chất, cuối cùng tất cả sẽ mãi mãi chỉ là

những dự định”. Hai năm đầu trở lại miền Nam hầu như Nguyễn Ngọc Tấn không sáng

tác mà tập trung vào công tác cách mạng, có lẽ đây là thời gian nhà văn chững lại chuẩn

bị cho giai đoạn sáng tác mới, như con tằm đang giai đoạn cuốn mình trong kén để

chuẩn bị nhả ra những sợi tơ lóng lánh cho đời, Nguyễn Ngọc Tấn bắt đầu cho giai

đoạn sáng tác mới này bằng bút danh mới - Nguyễn Thi (bút danh là tên của đứa con

traitrong xa cách của nhà văn). Về lại Nam Bộ với tư cách là một nhà văn chuyên

nghiệp, những trang viết của Nguyễn Thi trở nên có ý nghĩa hơn, trưởng thành hơn.Với

hoài vọng sẽ viết thật nhiều, viết thật hay, thật có ý nghĩa, Nguyễn Thi đã bắt đầu bằng

thể ký, một thể loại có sức phản ánh nhanh nhạy hiện thực, bắt kịp sự sống đang trôi chảy

từng ngày từng giờ trong cuộc chiến đấu ở miền Nam. Nguyễn Thi viết về những anh hùng

và chiến sĩ thi đua trong Đại hội anh hùng như: Nguyễn Thị Út, Nguyễn Thị Hạnh, Phạm

Văn Cội…cùng một số truyện ngắn khác. Phần lớn những sáng tác này được tập hợp in

trong tập Truyện và ký Nguyễn Thi (Nhà xuất bản Giải Phóng xuất bản năm 1969), đó là

những trang viết hết sức đặc sắc về Nam Bộ của nhà văn và là một trong những thành tựu

xuất sắc của nền Văn học Giải phóng miền Nam. Truyện và ký Nguyễn Thi gồm 11 tác

phẩm trong đó có: 4 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 2 ký, 1 ghi chép và 3 tùy bút. Ông tham

gia Tổng tấn công Mậu Thân (đợt 2) và hy sinh trên đường Minh Phụng thành phố Sài

Gòn ngày 24 tháng 5 năm 1968 khi mới tròn 40 tuổi.

1.2.2. Phong cách nghệ thuật

Phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi mang đặc điểm chung của những nghệ sĩ -

chiến sĩ trong thời kỳ chống Mỹ. Nhắc đến Nguyễn Thi, người ta không quên nhắc đến

một nhà văn đã sống, chiến đấu và sáng tác như một người chiến sĩ-nghệ sĩ.Vì thế ở

ông luôn có sự hài hòa tuyệt vời giữa sống -chiến đấu-sáng tác. Khuynh hướng sử thi

ảnh hưởng quyết định, tạo nên nét gần gũi giữa phong cách Nguyễn Thi với phong cách

18

thời đại. Nguyễn Thi đã từng tuyên bố: “Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người

lính, nếu gặp lúc gay go tôi có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm súng và bóp cò. Tôi

cần cái không khí của chiến dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được, tai tôi nghe được.

Trước sự kiện lịch sử trọng đại như thế này, nhà văn không thể đứng ngoài mà ngó…”.

Nguyễn Thi đến với văn học không chỉ bằng niềm say mê nghệ thuật, bằng một tài

năng đã trải qua sự tôi luyện mà Nguyễn Thi còn đến với văn chương một cách tự

nguyện, bằng mồ hôi nước mắt và cả trái tim mình. Trong tác phẩm Nguyễn Thi ta bắt

gặp một thái độ dứt khoát, lập trường tư tưởng vững vàng. Với Nguyễn Thi cả văn học

và cách mạng đều có chung một mục đích là vì nhân dân, vì Tổ quốc. Sắc thái đặc biệt

trong phong cách Nguyễn Thi còn là sự hài hòa giữa nhiều mặt đối lập trong nội dung

và cả hình thức nghệ thuật. Trang văn Nguyễn Thi luôn có sự cân đối, phù hợp giữa

chất thơ trong sáng trữ tình và một hiện thực nóng bỏng, có tính sử thi. Đọc văn Nguyễn

Thi ta hay bắt gặp những đoạn văn đầy chất thơ và nhiều lời so sánh, ví von mang đậm

chất Nam Bộ mộc mạc đến chân thành: “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài

như sông, để rồi chú sẽ cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con

sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng

sinh ra từ đó, lòng tốt con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con

sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi

sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”(Những đứa con trong gia đình).

Đó còn là sự hài hòa giữa hình thức bên ngoài ngắn gọn với nội dung bên trong phong

phú dồi dào. Truyện và ký của Nguyễn Thi ngắn gọn về diễn biến, về số trang nhưng

đa dạng trong việc xây dựng tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật là một cá tính riêng, sinh

động, không ai giống ai. Cũng là bé con, nhưng Đực, Bỉnh và mấy đứa con chị Út Tịch

không em nào giống em nào, cũng là nữ du kích trong một tiểu đội mà các o Ngọt, o

Thơm, o Mận, mỗi người một vẻ. Những nhân vật chính ở những truyện khác nhau đều

khác nhau tuy cùng một phẩm chất anh hùng. Chị Út Tịch khác chị Tư và không giống

chị Hạnh.

Cũng như Nam Cao tâm niệm“Sống đã, rồi hãy viết”, Nguyễn Thi đi nhiều nơi,

sống trong nhiều hoàn cảnh và tập thích nghi với mọi thứ, nhà văn đã viết bằng tất cả

vốn sống của mình,vì thế những tác phẩm Nguyễn Thi luôn đi sâu, đi sát vào từng ngõ

ngách tâm hồn, con người và cả quê hương Nam Bộ. Nguyễn Thi không chỉ khắc họa

19

thành công bức tranh nông thôn Nam Bộ sinh động, chân thực đến bất ngờ. Mà cả ngôn

ngữ cũng được nhà văn lựa chọn, chắt lọc tinh tế tạo nên câu văn giàu chất tạo hình

mang đậm phong vị Nam Bộ như những gì mà nhân vật chú Năm ghi lại trong cuốn sổ

gia đình của chị em Việt: “Thím Năm bơi xuồng đi rọc lá chuối bị ca-nông Mỏ Cày

bắn bể xuồng chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc… Ông nội nghe

súng nổ, sợ bò đứt dây ra nắm giàm bò, lính Tổng Phòng vào nói: “mày là du kích!”

rồi bắn giữa bụng ông nội, giỗ nhằm ngày…” (Những đứa con trong gia đình); hay

cách so sánh mang nhiều hình tượng “Cái việc sửa lại hầm nó cũng gấp như rượt bò

ăn mạ vậy” (Chuyện xóm tôi).

Nguyễn Thi có sở trường về phân tích tâm lý, nội tâm nhân vật. Mỗi nhân vật

trong tác phẩm của ông mang một thế giới nội tâm mênh mông, hấp dẫn người đọc.

Tính cách nhân vật được Nguyễn Thi khắc họa phong phú khi được đặt trong nhiều

mối quan hệ phức tạp giữa địch và ta, bạn bè, làng xóm, vợ chồng, mẹ con… Nhân

vật của Nguyễn Thi cho ta cảm giác gần gũi thân thuộc như đã từng bắt gặp từ cuộc

sống hằng ngày. Nguyễn Thi đã sống, chiến đấu và sáng tác như một người chiến

sĩ-nghệ sĩ.

1.3. Nhân vật và thế giới nhân vật trong văn học

1.3.1. Khái niệm nhân vật

Nếu coi hiện thực là đối tượng chung của văn học, bao gồm toàn bộ thế giới

khách quan, từ thiên nhiên xã hội đến con người thì hiện thực thiết yếu nhất đối với

sáng tạo văn học chính là con người với tất cả ngoại hình và nội tâm, tâm lý và số phận

trên mọi sắc thái đa dạng và phức tạp.

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, có viết: “Nhân vật văn học là một thuật ngữ

chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại của

con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn

là các nhân vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm

giống với con người…[1, tr241].

Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Trần Đình Sử: “Nhân vật văn học là những

con người cụ thể được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó

là những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thúc Sinh, Kim Trọng…Đó là những nhân

vật không có tên như thằng bán tơ, một mụ nào đó trong truyện Kiều…Đó là những

20

con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh,

ma quỷ, những con vật mang đặc điểm và tính cách con người…” [11, tr.115].

Còn theo Giáo sư Phương Lựu tác giả cuốn Giáo trình lý luận văn học thì nhân

vật văn học được quan niệm với phạm vi rộng hơn. Nhân vật có thể được thể hiện bằng

nhiều hình thức khác nhau. Đó có thể là những con người được miêu tả đầy đặn cả

ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, tiểu sử thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch

như: nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, nhân vật Nguyệt

trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, nhân vật Trương Phi, Lưu Bị,

Quan Vân Trường trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung…Hay có khi nhân

vật cũng có thể là những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng lại có tiếng nói, giọng

điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ,

cảm nhận như nhân vật trữ tình, trong thơ trữ tình như nhân vật “tôi” trong bài thơ Vội

vàng của Xuân Diệu; hoặc chỉ hiện ra thấp thoáng trong tác phẩm như hình ảnh người

câu cá trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến. [20, tr.277].

Tìm hiểu nhân vật văn học cũng cần lưu ý rằng: “Nhân vật trong văn học là một

hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi

tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển

hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…”. Vẫn biết rằng nhà văn thường xây dựng

nhân vật từ những nguyên mẫu ngoài đời, có khi là những điển hình xã hội mà ai cũng

biết đến. Ví dụ như: nhân vật Núp trong Đất nước đứng lên, Chị Tư Hậu trong Một

truyện chép ở bệnh viện….Song không phải nhà văn cứ bê nguyên mẫu ngoài đời ấy

vào trong tác phẩm mình, mà bằng trí tưởng tượng phong phú và tài năng của nghệ sĩ,

các nguyên mẫu đã được nhà văn “nhào nặn” trở thành nhân vật văn học, phục vụ cho

ý đồ sáng tạo của mình và mang phong cách riêng của mình. Đúng như cách nói của

văn hào M.Gorki: “Hiện thực cuộc sống là chất quặng thô, người nghệ sĩ phải sàng lọc

sáng tạo, tôi luyện chất quặng thô đó thành chất thép sáng ngời. Chất thép đó chính là

nhân vật văn học. Do đó không được hiểu nhân vật văn học như con người thật, yêu

mến và phán xét nó như những kẻ ngoài đời”.

Tóm lại: Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn sáng tạo

nên bằng tài nghệ của mình. Nhân vật văn học rất phong phú, nó có thể là loài vật, đồ

21

vật…. Nhưng chủ yếu vẫn là con người. Sự thể hiện nhân vật cũng ở những hình thức

đa dạng. Dù nhân vật là thế giới loài người hay loài vật, được mô tả đầy đặn hoặc chỉ

một góc cạnh nhưng mỗi nhân vật đều có vai trò rất quan trọng trong sáng tác của nhà

văn, nó làm nên linh hồn của tác phẩm văn học.

1.3.2. Thế giới nhân vật

Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ thống nhân vật được xây dựng theo

quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang

tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn và có sức sống riêng, phụ thuộc

vào ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, thế giới nhân vật

cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng, sáng tạo của nhà văn và chỉ

xuất hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Thế giới nhân vật là cảm

nhận một cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật

xuất hiện trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của nhân vật, ý nghĩ, tư

tưởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu với xã hội và gia

đình…Thế giới nhân vật vì thế có phạm vi bao quát rộng hơn hình tượng nhân vật.

Trong lịch sử văn học, có thể nói, mỗi tác giả đều xây dựng cho mình một thế giới nhân

vật mang đậm dấu ấn cá nhân, phong cách riêng của mình. Chẳng hạn đến với sáng tác

của nhà văn Nam Cao, thế giới nhân vật của ông chủ yếu đề cập đến số phận những

người nông dân nghèo và người tri thức tiểu tư sản. Qua đó thấy được bi kịch cuộc đời

đến với số phận những người nông dân nghèo khổ, thấp cổ bé họng, và niềm thương

cảm của nhà văn với số phận bạc bẽo ấy, đồng thời nhà văn cũng cất tiếng nói lên án,

tố cáo thực trạng xã hội thực dân nửa phong kiến đang đày đọa con người. Riêng với

Nguyễn Thi, trong sự nghiệp sáng tác của mình, đã xây dựng được một hệ thống thế

giới nhân vật phong phú, đa dạng từ những người lính, người phụ nữ, cho đến cụ già,

trẻ nhỏ. Nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Thi là những đại diện tiêu biểu cho cả một

tập thể anh hùng mang những phẩm chất tốt đẹp của lý tưởng cách mạng. Qua thế giới

nhân vật, người đọc nhận ra những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống, về con

người. Đối với Nguyễn Thi, thế giới nhân vật phản ánh trung thành, rõ nét quan điểm

tư tưởng nghệ thuật về hiện thực và con người của tác giả.

1.3.3. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học

22

Tác phẩm văn học không thể không có nhân vật. Bởi nhân vật là linh hồn của

tác phẩm, là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực. Nhà văn sáng tạo ra

nhân vật là để thể hiện nhận thức về con người cũng như những quy luật về cuộc sống.

Thực tế đã chứng minh rằng một tác phẩm văn chương được đánh giá là có giá trị, có

chiều sâu,có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực, sinh động

hình tượng các nhân vật trong tác phẩm. Có lẽ vì vậy mà người đọc không dễ gì quên

được hình ảnh một nàng Kiều, một chị Dậu, một Chí Phèo….bởi họ đã trở thành những

điển hình bất hủ trong văn học. Vì vậy, nhân vật có vai trò quan trọng trong việc tạo

nên sức sống lâu bền cho một tác phẩm văn học .

Nhân vật trong tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo, là kết quả của quá trình

khám phá, chiêm nghiệm. Cũng bởi vậy mà nó mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra

nó. Khi dấu ấn ấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều sáng tác của nhà văn, sẽ dần

dần hình thành nên phong cách nghệ thuật và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn ấy.Bởi

vậy giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Trong thế giới nghệ thuật của nhà

văn thường có một hình tượng tâm huyết cứ trở đi trở lại nhiều lần như là một “ám

ảnh” đối với nhà văn. Những hình tượng như thế càng có tính phổ biến bao nhiêu,

càng có ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và cơ bản bấy nhiêu”.[22]. Như vậy, nhân vật chính

là căn cứ quan trọng giúp người đọc có thể hiểu được phong cách nghệ thuật và tư

tưởng nghệ thuật của nhà văn, điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi nghiên cứu

tác phẩm cũng như tác gia văn học.

Các nhà văn lớn bao giờ cũng tạo cho mình một thế giới nhân vật mang đậm

dấu ấn cá nhân. Chẳng hạn đến với thế giới nhân vật của nhà văn Nguyễn Tuân là

những nho sĩ cuối mùa, những đào hát, họa sĩ…rất mực tài hoa, có thiên lương trong

sáng, sống ngông nghênh, kiêu bạc. Đó là ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao trong

Vang bóng một thời. Ông Thông Phu, cô Đào Tâm trong Chiếc lư đồng mắt cua hay

là anh chàng Hổ chữa xe đạp trong Hai tấm vé số chơi đàn cải lương nổi tiếng…Qua

những nhân vật tài hoa tài tử, có thiên lương trong sáng, sống ngông nghênh khinh bạc

trước cuộc đời, không chịu hòa mình vào môi trường sống tầm thường, phàm tục luôn

săn tìm cái đẹp ở quá khứ “vang bóng một thời” chúng ta còn thêm phần hiểu được tư

tưởng nghệ thuật của nhà văn đó chính là tinh thần yêu nước, tinh thần ấy bộc lộ ở thái

độ bất hòa, bất mãn với xã hội thực dân, ở chỗ ca ngợi vẻ đẹp tinh vi độc đáo đầy tự

23

hào của những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Đến với thế giới nhân vật của

Thạch Lam phần lớn là những con người ở địa vị thấp bé, có cuộc sống nghèo khổ, vất

vả, thường có đời sống thường nhật đơn điệu, nhàm chán (những người công chức nhỏ,

người buôn bán vặt vãnh, làm thuê, ở mướn). Nghèo khổ về vật chất đã đành, song

nhiều nhân vật của Thạch Lam còn bị đày đọa về mặt tinh thần. Qua hệ thống nhân vật,

chúng ta có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đó là tấm lòng luôn hướng

về những người nghèo khổ với một niềm cảm thông sâu sắc, niềm thương cảm trân

trọng ở tâm hồn những con người nhỏ bé, thầm lặng, đồng thời qua đó thể hiện một

chủ nghĩa nhân đạo thống thiết mang phong cách riêng của Thạch Lam.Còn với Vũ

Trọng Phụng - nhà văn bậc thầy của nghệ thuật trào phúng lại sáng tạo trong thế giới

nghệ thuật của mình một loạt những nhân vật phản diện, tàn bạo, dâm ô, đểu cáng.

Chính hệ thống nhân vật phản diện này giúp cho người đọc hiểu được tư tưởng nghệ

thuật của nhà văn đó là niềm phẫn uất với xã hội thực dân, tư sản tàn ác, lố bịch, đểu

giả, thối nát.

Như vậy, nhân vật văn học thể hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo

một quan điểm nhất định, là nơi để nhà văn gửi gắm, kí thác những tâm tư, ước vọng

cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. Qua hệ thống nhân vật, người đọc thấy được tư

tưởng nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Cùng nói về con người miền

Nam anh hùng trong những năm tháng chống Mỹ, những sáng tác của Anh Đức, nhân

vật nào cũng có sự gắn bó khăng khít với quê hương, xóm làng, nhân vật có cách biểu

hiện lòng căm thù giặc sâu sắc, mang sắc thái Việt Nam đậm nét. Riêng Nguyễn Trung

Thành lại gắn mình với mảnh đất Tây Nguyên. Cũng từ đây nhà văn xây dựng thành

công một tập thể nhân vật anh hùng mang trong mình những phẩm chất kiên cường,

bất khuất, gan dạ, bản lĩnh, gan góc và có ý chí quyết tâm cao. Họ là những đại diện

tiêu biểu của vùng đất Tây Nguyên giàu truyền thống lịch sử đấu tranh. Nguyễn Thi

với một phong cách riêng đã thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người qua

một thế giới nhân vật độc đáo.

1.3.4. Phân loại nhân vật văn học

Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú với nhiều phương diện loại hình. Dựa vào

ý kiến của các tác giả trong cuốn Lý luận văn học năm 2002- Nxb Giáo dục, chúng ta

24

tiến hành tìm hiểu, phân loại nhân vật ở những khía cạnh sau đây: Kết cấu, ý thức hệ

và cấu trúc.

Dựa vào vai trò của nhân vật trong việc tổ chức tác phẩm ta có: Nhân vật chính,

nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Có sự phân chia như vậy là vì tác phẩm văn học

thường có nhiều nhân vật, đặc biệt là các tác phẩm tự sự và kịch.

Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt trong tác phẩm, xuất hiện nhiều

lần, giữ vị trí quan trọng của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên

quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm. Bởi vậy nhân vật này thường được nhà

văn tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính

cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những

mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng

và tình điệu thẩm mĩ.Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện

thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Nhân vật chính của Truyện Kiều là Thúy

Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải, Tú Bà, Hồ Tôn Hiến. Ở tác phẩm lớn

có nhiều tuyến truyện, số lượng nhân vật đông thì nhân vật chính cũng nhiều hơn.

Chẳng hạn tác phẩm Thủy Hử có tới 400 nhân vật, 108 vị anh hùng, số lượng nhân vật

chính lên đến hàng chục.

Nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phù trợ bổ sung

nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các

nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân vật khác

tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh. Nhân vật Mai, Dít trong Rừng

xà nu tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng cũng được nhà văn khắc họa ở tính cách gan góc,

kiên cường, siêng năng học hỏi. Có những nhân vật phụ hàm chứa tư tưởng của tác phẩm.

Chẳng hạn trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ là nhân vật phụ đã

góp phần đáng kể thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm, khẳng định niềm tin của nhà

văn vào khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của con người. Dù hoàn cảnh

có tuyệt vọng bi thảm đến đâu, thì con người vẫn luôn hướng về nơi có ánh sáng của

niềm tin, của hy vọng ở một tương lai sáng hơn.

Nhân vật trung tâm là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể

hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Đó là Thúy Kiều trong Truyện Kiều, là Giăng Van

Giăng trong Những người khốn khổ… Với những tác phẩm lớn có nhiều tuyến nhân

25

vật, có thể có một số tuyến nhân vật trung tâm ngang hàng nhau. Chẳng hạn, trong tiểu

thuyết Chiến tranh và hòa bình có các nhân vật trung tâm là: Natasa, Andray, Pie,

Xonia, Maria. Việc xác định được nhân vật trung tâm có ý nghĩa quan trọng, vì nhờ đó

mà ta có thể hiểu được vấn đề cơ bản, cốt lõi của tác phẩm.

Xét về phương diện tư tưởng, về quan hệ đối với tư tưởng, các nhân vật lại có thể

chia ra làm nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Theo lẽ đó nhân vật chính diện là

nhân vật thể hiện những giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả

của con người được nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một quan

điểm tư tưởng, một lý tưởng xã hội thẩm mỹ nhất định. Ví dụ: nhân vật chị Sứ và những

đồng chí của chị trong tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức. Hay trong truyện ngắn Rừng

xà nu, nhân vật chính diện ở đây là T’nu, cụ Mết, Dít, Mai…

Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái

lạc hậu, phản động, cần bị lên án, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ phủ

định, giễu nhại. Đó là đại diện Hiếm, cảnh sát Âu, Ba Sồi, Hai Mật trong Ở xã Trung

Nghĩa của Nguyễn Thi, thằng Xăm trong Hòn đất của Anh Đức…

Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật ta có: nhân vật chức năng, nhân vật loại

hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Nhân vật chức năng là loại nhân vật không có

đời sống nội tâm, các phẩm chất đặc điểm nhân vật cố định, không thay đổi từ đầu đến

cuối, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định. Hạt

nhân của loại nhân vật này là các vai trò, chức năng mà chúng thực hiện trong truyện và

trong việc phản ánh đời sống, do đặc điểm đó mà chúng dễ dàng trở thành cái tượng trưng

trong đời sống tinh thần và được hình thức hóa trong sáng tác.

Nhân vật loại hình là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo

đức của một loại người nhất định, của một thời. Đó là nhân vật nhằm khái quát cái

chung về loại của các tính cách và nhờ vậy mà nó được gọi là điển hình. Chẳng hạn

nhân vật Trương Phi trong Tam quốc diễn nghĩa thể hiện tập trung cho tính nóng nảy,

Tào Tháo lại đa nghi…Hạt nhân của loại nhân vật này bao giờ cũng là một số phẩm

chất loại biệt về mặt xã hội được nêu bật hơn hẳn các tính cách khác.

Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Trong nhân vật tính cách, cái

quan trọng không chỉ là đặc điểm, thuộc tính xã hội mà người ta có thể liệt kê ra được.

Nhân vật tính cách thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lý, những chuyển

26

hóa và chính vì vậy tính cách thường có quá trình tự phát triển và nhân vật không đồng

nhất đơn giản là chính nó. Nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao là một nhân vật

tính cách. Vốn là kẻ có tâm, có tài, Hộ say mê văn chương đến độ coi văn chương là lí

tưởng, là lẽ sống. Thế nhưng khổ thay cho Hộ, anh không thể biến ước mơ thành hiện

thực vì những lo lắng liên miên về vật chất, những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí của đời

sống cơm áo hằng ngày mà anh phải lo cho gia đình đã choán hết tâm trí, thời gian của

Hộ. Chưa hết, Hộ còn rơi vào một bi kịch thứ hai cũng không kém phần đau đớn. Đó

là bi kịch của con người coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, sẵn sàng hi sinh

tất cả cho tình thương nhưng lại phải sống tàn nhẫn, thô bạo với vợ con, chà đạp lên

nguyên tắc sống do mình đặt ra.Nhưng vốn nhân hậu, anh không thể chấp nhận sự tàn

nhẫn. Anh đã hi sinh nghệ thuật để giữ lấy tình thương. Phải từ bỏ hoài bão lớn, anh

âm thầm đau khổ, u uất, day dứt, nhất là khi gặp lại các bạn văn chương. Hộ thực sự

lâm vào bế tắc. Không một chút tươi sáng dành cho số phận anh.

Nhân vật tư tưởng là một kiểu nhân vật mà trong đó hạt nhân cấu trúc của nó là

một tư tưởng, một ý thức. Nhân vật người điên trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn

là nhân vật tư tưởng. Đó là hiện thân cho tư tưởng lên án lễ giáo “đạo đức nhân nghĩa”,

“ăn thịt người” của phong kiến Trung cổ. Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và lãng

mạn mang tính chất tượng trưng, trong chủ nghĩa hiện thực lại kết hợp mật thiết với

các yếu tố tính cách hoặc loại hình. Trong sáng tác loại nhân vật này dễ rơi vào công

thức, minh họa.

Cũng như bao nghệ sĩ khác, nhà văn Nguyễn Thi đã xây dựng trong các tác

phẩm của mình một thế giới nhân vật đa dạng phong phú.Nhân vật trong những sáng

tác của Nguyễn Thi cũng được nhà văn xây dựng như những phương tiện để phản ánh

hiện thực cuộc sống, để gửi gắm tư tưởng, quan điểm nghệ thuật. Bởi vậy việc tìm hiểu

thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi sẽ giúp người đọc có thêm những hiểu

biết về hiện thực cuộc sống và tính cách con người miền Nam trong những năm tháng

kháng chiến chống Mỹ, đồng thời hiểu biết được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn -

chiến sĩ Nguyễn Thi.

Tiểu kết

27

Như vậy thông qua việc tìm hiểu khái quát về tình hình văn học Việt Nam những

năm chống Mỹ, ta thấy được vai trò, trách nhiệm của văn học trong việc phản ánh hiện

thực lịch sử. Cả một thời kỳ đấu tranh gian khổ giành độc lập dân tộc, với biết bao

nhiêu biến cố, sự kiện có cả những mất mát, đau thương, cả những chiến công vang

dội, những tấm gương anh hùng đã đi vào văn học một cách tự nhiên như thế.Văn học

như một tấm gương phản chiếu, soi sáng cả thời kì mà khó có một ngành nghệ thuật

nào có đủ sức khái quát trên phạm vi rộng như vậy. Giá trị lịch sử, giá trị nhân văn, giá

trị giáo dục thấm đượm trong từng tác phẩm có sức lưu truyền rộng lớn, vang vọng mãi

theo năm tháng. Trong thời buổi, giai đoạn đó có một nhà văn chiến sĩ mặc dù tuổi đời

để viết và chiến đấu không nhiều, chỉ gần 40 năm nhưng đôi nét về cuộc đời và sự

nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tấn cũng đủ để chúng ta có thêm những hiểu biết

để càng thêm trân trọng, tự hào và học tập tấm gương người chiến sĩ ấy. Không chỉ

vậy, những kiến thức về khái niệm nhân vật, cũng như tiêu chí phân loại nhân vật cũng

góp phần quan trọng trong việc tiếp nhận, tìm hiểu những tác phẩm được viết trong

giai đoạn này, đặc biệt phải kể đến thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi - đại

diện tiêu biểu cho đội ngũ nhà văn những năm tháng chống Mỹ cứu nước.

28

Chương 2

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

2.1. Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi là bức tranh chân thực của chiến

tranh nhân dân thần kỳ

2.1.1. Bức chân dung của cả một tập thể anh hùng

Là một nhà văn chiến sĩ cách mạng đứng vững trên vị trí một người Việt Nam

yêu nước chân chính, Nguyễn Thi đã đem toàn bộ cuộc đời mình đặt vào cuộc chiến

đấu giải phóng, cùng vui, cùng buồn, yêu ghét với nỗi niềm chung của đồng bào, đồng

chí. Ông sống gắn liền với mồ hôi, xương máu, với nhân dân, nhất là với bộ đội và

người nông dân. Nguyễn Thi đã xây dựng thành công nhân vật chính diện của mình là

những con người cách mạng mang phẩm chất khí phách anh hùng. Anh hùng trong tác

phẩm Nguyễn Thi là những con người dung dị,bình thường trong cuộc sống. Ở đó là

cả một thế giới trẻ con, là những cán bộ chiến sĩ, là những người mẹ, người chị, những

ông bà nội ngoại, những chú, những cô nghe như rất thân thuộc với mỗi chúng ta vậy.

Viết về chiến tranh, viết về miền Nam và về người lính đã có hàng trăm, hàng

nghìn người đã viết và đang viết. Với cảm hứng hào sảng, mang đậm màu sắc sử thi

anh hùng ca lãng mạn thật không khó khi nói hình tượng người chiến sĩ là một trong

những hình tượng đẹp nhất, rực rỡ nhất, có sức lay động nhất mà văn xuôi đã xây dựng

được. Cũng trên tinh thần đó, hình tượng người lính đi vào trong văn xuôi Nguyễn Thi

trở thành hình tượng trung tâm với vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, hóm hỉnh, tinh

thần lạc quan, đậm chất lính. Họ biết tạo ra niềm vui từ những khó khăn, gian khổ;

ngang tàng trong cách nhìn những thiếu thốn, hiểm nguy.

Ở truyện ngắn Làm việc, ta gặp Cần, một tiểu đội trưởng bộ binh, đúng như cái

tên gọi của mình, anh rất chăm chỉ học làm giáo án, làm động tác, làm chỉ huy, rất có

ý thức trách nhiệm và cầu tiến. Rồi các chiến sĩ: Hân chín chắn; Đường sôi nổi; Vẽ xốc

xác. Họ là những đại diện cho những mẫu người trẻ măng chỉ với độ tuổi hăm năm,

hăm sáu, luôn hài lòng về cuộc đời nên rất dễ yêu mình và yêu tất cả chung quanh, yêu

ánh “nắng chiếu trong mắt bò óng ánh” và “khi xung phong quê hương cùng đi

theo”[40, tr.53-54]. Những người lính trẻ trung đó mang vào trong trận chiến cả cái nét

29

đáng yêu đúng như độ tuổi của mình, đó là chiến sĩ Đường mới chỉ mười chín tuổi với

niềm đam mê đá bóng thì không ai bằng “trên thế gian này, nhất quả bóng rồi tới

đường, không một cái gì có thể chen được vào giữa. Hở ra là đá, đá với Vẽ, rồi đá một

mình”. Cả khung cảnh sinh hoạt bình thường của một đơn vị bình thường giữa miền

quê dã ngoại, dưới trời thu êm đẹp đều được ngòi bút Nguyễn Thi tái hiện lại một cách

chân thực nhất. Có người tiếp thu cái mới chậm nhưng trong hành động lại nhanh nhẹn,

hăng hái. Có kẻ hẹp hòi đôi chút, người kia chừng mực hơn, nhưng tất cả đều học tập

chăm chỉ, giữ gìn kỉ luật, thương yêu nhau như anh em một nhà.

Khắc họa hình tượng của người lính, ngòi bút của Nguyễn Thi lại dịch chuyển

sang một hướng tiếp cận mới, đối tượng mới là những anh nuôi quân. Ở truyện ngắn Lao

động vinh quang là hình ảnh của một tổ anh nuôi trong phong trào pháo thủ toàn

năng.Trong câu chuyện được kể, Hàm là người lớn tuổi nhất được giao nhiệm vụ làm

anh nuôi chăm lo từng bữa cơm cho anh em trong đại đội. Anh nuôi quân rất giỏi. Giỏi

vì anh đã dồn hết sức lực, tâm trí vào việc này, bàn tay anh đã từng làm ra tương ớt, dấm

tỏi, dưa cải, dưa kiệu; óc anh từng nhiều đêm suy nghĩ biến xương cá đáng lẽ vứt đi thành

chả chiên, thành nước mắm, nuôi từng đàn bò, đàn heo để cải thiện đời sống cho đại đội.

Diễn biến của câu chuyện tiếp tục khi Hàm không muốn tập pháo, anh đưa ra những lý

lẽ chắc như đinh đóng cột. Anh nói sức người có hạn, chẳng nên bắt cá hai tay: hoặc làm

anh nuôi, hoặc làm pháo thủ, hãy để anh làm tốt một việc, còn hơn làm nhiều mà bôi

bác. Thế nhưng thực tế cách mạng lúc bấy giờ đòi hỏi còn người phải phát huy triệt để

khả năng của mình, không chỉ làm tốt một nhiệm vụ mà phải cáng đáng thêm nhiều

nhiệm vụ mới mẻ và phiền phức khác. Bởi lao động là quang vinh khi nó khai thác mọi

khả năng còn ẩn giấu chưa chịu bộc lộ ra hết ở mỗi người.

Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, chúng ta bắt gặp hình tượng

của Việt, anh lính trẻ bị thương còn rất ngây thơ, vừa thoát ly khỏi xã đi bộ đội, lần đầu

gặp “Những con đường sắt chỉ có hai cái ngoe thôi, coi thiệt ngộ, chân người bước lên

còn té, vậy mà xe chạy được” [41, tr.62]. Nhưng anh cũng từng biết thế nào là mù trời

khói đạn, trực thăng nhào tới, đã tự tay bắn phát bá đỏ góp lửa với du kích để chính

mắt nhìn thấy thằng Mỹ: “Ở trần, cái nón có tai bay mất, một lỗ đạn bằng cái khu tô

nằm giữa thớt ngực trắng lốp, hai con mắt như hai cái trứng thối vẫn còn lõ ra” [41,

30

tr.62]. Chính tên đồng bọn với lũ giặc đã lã đại bác giết mẹ anh, kéo dài tội ác lúc giặc

Pháp chặt đầu cha anh. Cho nên chẳng lấy làm lạ khi Việt lâm trận liền lao vào cuộc

đọ lê, dồn căm hờn diệt tên lính Mỹ, lăn xả quật ngã đứa khác đúng lúc nó bổ báng

súng xuống đầu mình, đã ghim đau đớn, quên tính mạng chông chênh để không chịu

buông tha chiếc xe bọc thép, nhảy bám theo, thả thủ pháo nổ gọn, đốt xe cháy bùng.

Tối sầm mặt mày, hai mặt bị thương túa máu, Việt mơ hồ thấy mình làm tròn lời hứa,

không bỏ lỡ cơ hội bấy lâu chờ đợi, sẵn sàng hy sinh cho hận thù cần trả, hạnh phúc

phải giành. Việt đi lính khi tuổi mới chỉ mười tám, nên trong sinh hoạt hằng ngày, tính

nết anh còn trẻ thơ. Nhưng lại rất người lớn trong tình cảm và ý thức giết giặc. Bằng

hành động bất ngờ, những phút giây kì lạ giáp mặt với cái chết, Việt vượt qua ranh giới

tuổi thơ, tạo nên chiến tích. Cả khi bị thương một mình còn sót lại trên trận địa thân xác

tê dại, khắp người đang rỉ máu, miệng muốn la lên nhưng đã tê cứng; xung quanh toàn

mùi tanh lạnh xác chết, các hố bom, tấm tăng cháy dở, vỏ đạn tanh máu, sắt thép ngổn

ngang và đặc biệt là sự im lặng, im lặng ngoài trời và cả trong tâm nhưng chiến sĩ Việt

không hề nao núng, không hề run sợ, trong suy nghĩ của Việt vẫn mang nét vô tư, hồn

nhiên: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gắp mấy lần bị thương. Hay chết tức là người thật

biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghĩ tới cái chết,

mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra sao, nhưng nếu chết mà không còn được ở chung với

anh Tánh, không còn được đi bộ đội nữa thì buồn lắm. Việt không sợ chết chỉ sợ cái đó

thôi” [41, tr.73]. Tuy bị thương như vậy nhưng Việt vẫn mạnh mẽ, gan lì luôn muốn đối

đầu với kẻ thù: “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này

còn có mình tao, mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày” [41, tr.73]; khắp cơ thể là

thương tích, bàn tay chỉ còn ngón tay cái là có thể cử động được nhưng cây súng của

Việt vẫn sẵn sàng nã đạn vào kẻ thù. Chính điều ấy đã chứng minh cho sức sống mãnh

liệt của người chiến sĩ.

Chân dung người lính trong thời đại chống Mỹ dường như kết tinh tập trung lại

ở hình tượng những người chiến sĩ dân quân du kích Nam Bộ mang vẻ đẹp của lí tưởng

cách mạng: gan dạ, mưu trí và kiên cường chiến đấu đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo

vệ mảnh đất quê hương. Với câu nói nổi tiếng của chị Út Tịch “còn cái lai quần cũng

đánh”[41, tr.197], hình tượng chị Út Tịch trong bút ký Người mẹ cầm súng được

31

Nguyễn Thi mô tả như một tính cách phát triển có quá trình từ khi còn nhỏ, đi ở đợ đến

lúc lớn khôn, có con, tham gia đánh Pháp, tham gia đánh Mỹ. Chị vừa là một người

mẹ, người vợ và là một người chiến sĩ cách mạng. Bị áp bức từ nhỏ nên trong chị đã

chất chứa nỗi căm thù từ ngày đó. Khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, nghe và tin

đi theo tiếng gọi của Đảng chị trở thành nữ du kích đánh Mỹ anh hùng. Với chị, công

tác cách mạng là: “Cái công việc mà nếu phải ngừng lại một lúc nào đó thì cả hai vợ

chồng sẽ cảm thấy lẻ loi, trơ trọi, buồn khổ không biết chừng nào?” [41, tr.161]. Riêng

với anh Tịch - chồng chị tuy là nhân vật phụ, được phác họa qua vài nét nhưng vẫn rõ

tính cách. Anh không chê Út dù cô gái đó có đá banh, vật lộn như con trai. Rất tin vợ,

anh để vợ tùy ý làm những điều “kỳ cục”, miễn sao hạ được bót. Anh bằng lòng cho

vợ mang thai bảy tháng đi đánh bót Đường Trâu; khi địch âm mưu phản vận, anh vẫn

kiên quyết đánh, mặc dù giặc có thể giết lũ con anh, nên bảo vợ “em đang mang thai,

còn gà mái thì còn gà giò, cứ đánh!” [41, tr.175]. Vợ nào chồng đó, tính khí anh Tịch

tuy trái với Út, anh trầm tính hơn nhưng cũng là người rất quyết liệt, ham mê đánh giặc,

lăn vào đất chết tìm lẽ sống. Chân dung người anh hùng Nguyễn Thị Út đã hòa lẫn vào

trong cái tập thể lớn của xã Tam Ngãi. Tên của chị đi liền với những tên khác như anh

Tịch - chồng chị, chú Chín Luông, cán bộ Đảng, ông Chín Đà, cán bộ mặt trận, ông Sáu

Hò… tất cả tạo nên một tập thể anh hùng toát lên vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng. Quan

hệ giữa chị Út và nhân dân xã Tam Ngãi là quan hệ giữa người anh hùng mới với tập thể

quần chúng sản sinh ra nó, là quan hệ giữa chủ nghĩa anh hùng cách mạng và cơ sở quần

chúng rộng rãi của nó. Và đâu chỉ có một nữ du kích mang tên Nguyễn Thị Út, để sau

này chúng ta có cả một tiểu đội nữ du kích mang tên Nguyễn Thị Hạnh trong Ước mơ

của đất, hay chị Chiến trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình…. Dù ở hoàn

cảnh nào thì trong họ cũng sáng ngời, mang vẻ đẹp đậm chất lính kiên trung, dũng cảm.

Đến với thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi đâu chỉ có hình ảnh

những người lính kiên cường trực tiếp cầm súng chiến đấu mà ở đó còn là hình ảnh

của những phụ nữ nơi hậu phương cũng đang ngày đêm góp sức cho công cuộc giải

phóng đất nước. Vậy nên không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh trung tâm và cũng là

hình ảnh thành công nhất trong tác phẩm Nguyễn Thi lại là hình ảnh người phụ nữ

Nam Bộ, người mẹ, và là người mẹ cầm súng. Là vì, đối với ông, người mẹ - người

32

mẹ Việt Nam luôn là chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh thần cho tất cả những đứa con,

lớn hoặc nhỏ, gần hoặc xa, trong gia đình hoặc ra ngoài xã hội. Người mẹ cũng là

nhân vật có khả năng quy tụ vào mình nhiều mối quan hệ có ý nghĩa, và cũng là

nguồn gốc sinh ra và là nguồn nuôi dưỡng những tình cảm lớn lao, đằm thắm ở con

người.

Mỗi tác phẩm của Nguyễn Thi hầu hết đều có hình ảnh người phụ nữ xuất hiện,

bằng những vai khác nhau như: người bà, người mẹ, người vợ, người chị…mỗi người

mang một dáng dấp, một tính cách riêng biệt làm nên một hệ thống nhân vật nữ phong

phú đa dạng. Mặc dù có những nét riêng khác biệt nhưng đặc điểm chung của những

người phụ nữ trong tác phẩm Nguyễn Thi: họ là những nạn nhân của chiến tranh, là

những người mẹ, người vợ mòn mỏi đợi con, chờ chồng. Đó là hình ảnh của người vợ

bên bờ Bắc luôn mong mỏi chờ chồng với niềm tin mãnh liệt, có một mụn con để nâng

niu yêu thương, để rồi phải đau xé lòng nhìn nó ra đi một cách quá dễ dàng trong câu

chuyện của hai người phụ nữ không có tên riêng mà nhân vật “tôi” nghe được một cách

tình cờ trên một chuyến xe khách từ Hà Nội vào giới tuyến Vĩnh Linh trong truyện

ngắn Quê hương. Đó còn là tình yêu thương của người mẹ già ở quê đối với cô con gái

“đi đông đi tây” có người chồng hy sinh trong chiến tranh, bà mẹ già luôn ngóng chờ

con về trong những ngày tết của quê hương trong câu chuyện Đôi bạn. Còn người vợ

trong truyện ngắn Cậu Huân thì lại tằn tiện nhịn ăn nhịn mặc để cùng chồng nuôi dấu

những người cán bộ hoạt động bí mật: “Mẹ tôi nhịn trầu, chỉ nhai tí bẹ cau cho chát

mồm. Cha tôi bỏ thuốc lào từ lâu, bù vào tiền chợ. Khéo chi ly, dưa mắm, mẹ tôi vá víu

cũng xong” [40, tr. 207-208].

Người phụ nữ thường nhẫn nhịn và im lặng nhưng sự im lặng của người vợ

trong truyện ngắn Im lặng không phải là sự sợ sệt hay hèn nhát. Người vợ chấp nhận

im lặng tha thứ cho kẻ đã làm nhục mình vì cô muốn bảo vệ cho kháng chiến một người

trinh sát giỏi, nhưng khi kẻ ấy đã phản bội hàng ngũ cách mạng, khi nghe được câu nói

của người chồng: “Em hãy bảo vệ tình yêu như bảo vệ sinh mạng của mình. Thà chết

còn hơn chịu nhục” [40, tr.376], thì ở người đàn bà ấy bỗng trỗi dậy một sức mạnh ghê

gớm để chống chọi lại với kẻ thù,dù rằng cuối cùng phải đổi bằng cả tính mạng của

mình.

33

Họ còn là những người phụ nữ có ý chí, có nghị lực, không chấp nhận cuộc sống

ngột ngạt, u ám của thực tại; không chấp nhận kiếp người nô lệ, không thể đứng nhìn kẻ

thù ung dung tàn phá đất nước, chia cắt non sông mà họ vùng dậy đấu tranh.Cũng như

bao nhiêu người phụ nữ của mỗi thời đại,họ cũng mong muốn sống bình yên bên gia

đình,nhưng trong hoàn cảnh giặc thù tàn bạo những ước mơ bình dị ấy trở thành xa xăm,

không bao giờ có được. Cũng như bao người phụ nữ Nam Bộ kiên cường, bất khuất, yêu

chồng, thương con, hết lòng vì đất nước mà hy sinh, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm

súng, đã mang trong mình bản tính gan góc, không sợ cường quyền ngay từ khi còn nhỏ.

Nhớ những ngày đi ở đợ chỉ mới mười hai tuổi, người ốm nhách bị áp bức, chị đã biết

căm thù bọn áp bức từ ngày đó. Chị đã dám đánh lại vợ địa chủ: một lần Út liệng một

cái chén vào mặt và lia một con dao vào tay mụ Hàm Giỏi, một lần nữa Út đã thủ sẵn

nắm ớt bột chực sẵn đập vào mặt con gái hội đồng Thanh. Uống thuốc gì mà gan dữ vậy?

“Có uống thuốc gì đâu! Bị đòn nhiều quá mà cứ phải ngậm ngậm ở trong lòng mới nảy

ra cái gan dữ vậy”[41, tr.153]. Năm ấy chỉ mới mười bốn tuổi mà Út đã biết rút ra một

điều có ý nghĩa phương châm cho suốt đời: “Đánh nó để nó không đánh được mình”[41,

tr.152].Thế rồi từ chỗ đánh địa chủ tiến lên đánh cả Tây, cả Mỹ, từ chỗ đánh cho mình,

cho thế hệ mình đến chuyện đánh cả cho lớp con cái về sau, đánh hoài, đánh mãi, “còn

cái lai quần cũng đánh”!.

Nguyễn Thi đã nâng hình ảnh người phụ nữ Nam Bộ lên trở thành hình tượng

con người anh hùng, những nữ anh hùng ấy là những con người có thật của miền Nam,

là những anh hùng gần gũi quen thuộc, bình dị mà phi thường.Đó là người con gái anh

hùng của vùng Tháp Mười - Nguyễn Thị Hạnh, chị xin được ở lại vùng đất nhỏ hẹp

đầy giặc để sống và chiến đấu, để phá cho bằng được ấp chiến lược. Chị như người

cầm ngọn đuốc cách mạng để nhen lên ánh lửa sâu xa nhất trong lòng bà con nơi đây.

Giặc lùng bắt chị ráo riết, chị vẫn đứng sừng sững trước mặt chúng như một lời thách

thức. Đó còn là Ba trong truyện Cô gái đất Ba Dừa thẳng thắn, gan dạ tham gia cuộc

chiến một cách tự nhiên như điều tất yếu mà cô phải làm, như người ta ai ai cũng phải

lớn lên. Cách mạng có sẵn trong họ. Họ sống chiến đấu vì cách mạng không nghĩ nhiều

về cuộc sống riêng tư của mình mà luôn hướng đến cái chung của cả dân tộc. Những

con người ấy dù họ có đi đến bất cứ nơi đâu thì họ cũng luôn một lòng hướng về quê

34

hương. Họ chiến đấu vì làng quê của mình, vì Nam - Bắc nối liền. Họ là những người

lính miền Nam tập kết ra Bắc hay những người con của mọi miền đất nước đi chiến

đấu vì những làng quê còn nằm trong thế kìm kẹp của kẻ thù.

Dường như cái bóng dáng, tư thế quen thuộc đó đã trở thành một biểu tượng.Với

tiểu thuyết Hòn Đất, Anh Đức cũng khéo kể lại huyền thoại bi hùng về người con gái

xứ dừa (nhân vật Sứ) thông qua sự gợi mở của hình tượng anh hùng chiến trận trong

truyền thuyết. Ở nhân vật chị Sứ ta không chỉ bắt gặp phẩm chất anh hùng, gan dạ mà

còn nhận ra một phương diện khác đặc biệt tương đồng với nguyên mẫu gốc nữ trong

truyền thuyết đó là sự bất khuất, kiên trung, thà chết chứ không chịu khuất phục quân

thù. Trong truyện Hòn Đất, nhà văn miêu tả cảm động và bi tráng giây phút chị Sứ hiên

ngang trước đòn tra tấn và lưỡi dao của kẻ thù. Người phụ nữ ấy chấp nhận hy sinh,

giữ trọn lòng trung thành với cách mạng, với nhân dân. Lưỡi dao của tên Xăm vung

lên chật vật rất nhiều lần mới giết được Sứ. Tư thế hy sinh bất khuất của chị sẽ mãi là

hình ảnh đẹp có sức lay động. Đó còn là má Bảy và những đứa con trong tiểu thuyết

Gia đình má Bảy. Phan Tứ đã tìm về khoảng thời gian những năm trước Đồng khởi –

thời kỳ đen tối, khó khăn nhất của phong trào cách mạng miền Nam. Để từ đó khám

phá, thể hiện những mâu thuẫn dồn nén đã được đẩy lên đến đỉnh điểm và đấu tranh là

con đường sống còn duy nhất của nhân dân miền Nam.Gia đình má Bảy cũng như bao

gia đình nông dân nơi một làng nhỏ Kỳ Bương của miền Trung Trung Bộ. Một bà mẹ

như trăm nghìn bà mẹ khác với đàn con…. Má Bảy mang trong mình những phẩm chất

tuyệt vời của một bà mẹ luôn yêu thương che chở cho đàn con nhỏ. Má lo lắng, chăm

chút, giành những gì tốt đẹp nhất cho hai con “ nồi cơm nhà má bao giờ cũng một phần

cơm, ba bốn phần khoai. Má hớt lớp khoai sém trên cùng cho bầy chó ủng oảng, xới

chén đầu toàn khoai phần mình, chén nhì cho Út Sâm, chén ba nhiều cơm hơn để cạnh

bếp cho Sỏi vừa ăn vừa sưởi". Má cũng thương, bảo vệ và nuôi bộ đội như những đứa

con đẻ của mình: khi Tùy bị thương ở vai, má đã vất vả nâng giấc một tháng mới lành.

Má trút gạo, ngô khoai vào bao lại thêm chai mắm với gói muối cho Bê mang về. Lửa

thử vàng, gian nan thử sức, thấm nhuần chân lý cách mạng, má cũng mang trong mình

những phẩm chất anh hùng kiên cường, không chịu khuất phục. Ta thấy ở má có một

sự chuyển biến rõ rệt trong tư tưởng từ trạng thái “ ngấm mệt” lo cho con, chờ cách

35

mạng đến vị trí một người mẹ xông lên hàng đầu cuộc đấu tranh, kiên gan đứng vững

trước thử thách kẻ thù tra tấn con mình.Giờ tuổi già sức yếu tóc má đã ngả màu muối

tiêu, răng đã rụng bốn cái, lưng còng xuống và mắt đã đục lờ nhưng ý chí, trái tim má

vẫn một lòng hướng về cách mạng.

Như vậy chủ nghĩa anh hùng của Nguyễn Thi không xa vời, không kiểu cách

mà nó bình dị như chính phong cách của nhà văn.Người phụ nữ Việt Nam lại một lần

nữa được Nguyễn Thi khắc họa thành công. Đó là những người phụ nữ vừa mang tính

cổ điển lại vừa mang nét hiện đại; người phụ nữ của ngày xưa đảm đang chịu khó, giàu

đức hy sinh và bây giờ họ là những người phụ nữ kiên gan, bền chí đối mặt với kẻ thù

mà không chút run sợ. Những người phụ nữ ấyđã không còn quanh quẩn với đồng

ruộng, với bếp núc nữa. Họ đã trở nên anh dũng ngoan cường trong chiến đấu xứng

đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ đã trao tặng “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm

đang”.

Đâu chỉ giành tình cảm yêu thương trọn vẹn, trân trọng cho những người phụ

nữ Nam Bộ anh hùng mà đặc biệt hơn Nguyễn Thi cũng rất yêu thích trẻ con nên ông

chọn trẻ thơ làm nhân vật chính trong tác phẩm của mình. Hơn nữa tuổi thơ Nguyễn Thi

sớm bị ám ảnh bởi một gia đình tan nát, cuộc sống tự lập đầy khó khăn, những thiếu thốn

của tình cảm gia đình… Có lẽ vì thế nên thế giới trẻ con luôn xuất hiện trong tác phẩm

của Nguyễn Thi đó vừa là thực tại, lại vừa là mơ ước của riêng nhà văn. Những đứa trẻ

trong tác phẩm Nguyễn Thi là những đứa trẻ của thời chiến luôn chịu nhiều thiệt thòi bất

hạnh trong cuộc sống: tật nguyền, nghèo khổ, vắng cha thiếu mẹ bởi chiến tranh.

Trong truyện ngắn Về Nam có một đứa trẻ tàn tật là Bụng, Bụng mù lòa từ lúc

mới sinh ra, số phận lại cay nghiệt với Bụng khi cha mẹ chú bé lần lược qua đời vì

nghèo khổ và chiến tranh. Bụng cùng chị của mình là Mận đùm bọc nhau để

sống,nhưng Bụng không để mình trở thành gánh nặng cho chị: “Ngày mùa, Mận ở nhà

làm đồng, ngày rỗi đi làm công nhân quét đường gần thị xã. Thằng Bụng ở nhà mò

mẫm đi gánh nước, vo gạo bắt niêu cơm lên để đó, chờ chị”[40, tr.139]. Sự bất hạnh

ấy do chiến tranh, do kẻ thù gây ra, như cô bé trong truyện Hai cha con người chính

ủy-chuyện kể về một cô bé có cuộc sống bình dị hồn nhiên, hằng ngày cô vẫn tung tăng

trên con đường đầy hoa phượng để mang cơm cho mẹ. Cô bé không làm hại ai cũng

36

không gây phiền toái cho ai nhưng sự hồn nhiên vô tư ấy đối với bọn giặc lại trở thành

một cái tội lớn. Trên con đường ấy, có một lô cốt và trên lô cốt có hai tên lính ngụy gác

cố định với biệt tài bắn thật chính xác. Hai tên lính ấy suýt bị mất đồ nghề (ngón tay

bóp cò súng của chúng) vì tranh nhau bắn hoa cho cô bé nhặt. Và bàn chân phải, bàn

chân hay nhảy chân sáo của cô bé bị chúng đem ra làm mục tiêu bắn để chứng tỏ tài

năng và để tên đồn trưởng thấy rằng chúng đã giác ngộ lỗi lầm của mình. Chúng bắn

cô bé. Chúng biến cô bé đáng yêu mà hằng ngày chúng thích thú ngắm nhìn thành một

người tàn tật.Chúng bắn được bàn chân của cô, nhưng chúng không thể hủy diệt được

tâm hồn trong sáng của cô. Chúng càng không thể làm hại đến cái đẹp của cô bé,cái

đẹp mà chúng suýt mất nghề vì nó: “Một sắc đẹp được giấu giếm ở nụ cười, giọng nói

nó bắt buộc những người tiếp xúc phải đối đãi bằng sự thân ái và lòng chân thực”[40,

tr.257]. Trong ghi chép Cha con cha mẹ của Nhu và Thư đều là những người hoạt động

cách mạng. Mẹ mất trong một trận càn của địch khi Thư vừa mới hai tuổi. Cha hai em

là chủ tịch của xã du kích gần sát nách Sài Gòn, lo cho an toàn của con nên ba chúng

gửi chúng tập kết ra Bắc còn mình ở lại yên tâm chiến đấu. Tuổi còn nhỏ Nhu (7 tuổi)

và Thư (5 tuổi) phải sớm mất mẹ, sống xa cha. Đã nhiều lần Thư nhầm người khác là

ba mình. Những đứa trẻ như thế chúng nào có tội tình gì?

Nguyễn Thi viết về trẻ thơ không chỉ để độc giả thông cảm thấu hiểu, để tố cáo

chiến tranh mà đến với thế giới trẻ thơ Nguyễn Thi còn đi vào khám phá những nếp

sinh hoạt, diễn biến tâm lí, quá trình hình thành ý thức của trẻ con. Những đứa trẻ trong

tác phẩm của Nguyễn Thi luôn có một bản năng tự giác, có lòng căm thù giặc. Tuy còn

nhỏ không trực tiếp tham gia chiến đấu, nhưng chúng cũng góp phần công sức nhỏ bé

của mình vào cuộc chiến bằng tất cả những gì mà chúng có thể làm được.Những đứa

trẻ ở thôn Mỹ Lý trong truyện Về Nam góp sức bằng những gánh rạ: “Đi đầu là cái

Mùi, mặt đỏ tía, gánh gánh rạ che mất người. Đằng sau, mấy chục đứa trẻ con, mỗi

đứa một gánh nặng. Con trai để hở cái bụng tròn bóng nhãy mồ hôi. Con gái tóc tai

dính bết vào cổ, vào má. Các em bảy tám tuổi gánh những con rạ bằng đon rạ”[40,

tr.136]. Còn những đứa con của chị Út Tịch thì góp phần cho cuộc chiến bằng cách là

hậu phương cho người mẹ sáu con vững vàng tay súng. Đứa con gái lớn nhất của chị

đảm đang như người mẹ thứ hai của các em mình. Bé trông coi các em cho cha mẹ đi

chiến đấu, những đứa con của chị đứa nào cũng ngoan ngoãn biết vâng lời chị và mẹ.

37

Chính điều ấy đã làm cho người mẹ anh hùng một nách sáu con ấy yên tâm ra trận tiêu

diệt kẻ thù. Trẻ con vốn vô tư hồn nhiên nhưng trong hoàn cảnh đâu đâu cũng thấy tội

ác của giặc, bọn trẻ lớn lên và chúng biết đâu là thằng giặc và vì sao phải căm thù bọn

giặc. Lòng căm thù giặc của trẻ nhỏ còn được Nguyễn Thi miêu tả qua những trò chơi

của chúng, đó không chỉ là trò chơi mà còn là chuyện làng chuyện xóm, chuyện của cả

một đất nước. Lúc mẹ bận phá bót, bao đồn thì Bé bày cho các em chơi trò chơi đi học

- đây là trò chơi ưa thích của chị em Bé. Bé lớn hơn nên được làm cô giáo, trò chơi

quen thuộc hằng ngày dưới gốc dừa trước nhà đã trở nên thân thương với bà con nơi

đây: “Con Bé treo nón lên, mặt tỉnh khô, nó bẻ một cành trâm bầu làm thước. Bảng

đen thì có sẵn tấm bảng khẩu hiệu ông Sáu và tổ thông tin đã treo sẵn gốc dừa trước

ngõ…”[41, tr.102]. Tiếng ê a đánh vần của chị em nhà Bé vang lên: “I mờ im, tờ im tim

huyền tìm, mờ y my ngã Mỹ, mờ a ma huyền mà, đờ anh đanh sắc đánh… Tìm Mỹ mà

đánh, tìm Ngụy mà diệt!”[41, tr.102] (Mẹ vắng nhà).Có lẽ những người anh hùng của

vùng đất này cũng bắt đầu bài học vỡ lòng về lòng căm thù giặc từ những trò chơi như

thế.

Qua việc miêu tả thành công nhân vật trẻ con chúng ta thấy được tình cảm của

Nguyễn Thi dành cho thế giới tuổi thơ, đó là sự yêu mến trân trọng của nhà văn như

nâng niu những mầm non mà Bác đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành”. Thế giới

trẻ con trong tác phẩm Nguyễn Thi quá vô tư trong sáng, quá ngây thơ non trẻ, nhưng

dường như tính cách của chúng lại già dặn. Chúng vụt lớn như một điều tất yếu của

hoàn cảnh buộc chúng phải lớn trước tuổi để đối mặt với cuộc đời. Tuổi thơ của Nguyễn

Thi cũng phải “vụt lớn” như thế để có thể tự mình kiếm sống, để tự lập một mình, có

lẽ chính vì thế mà Nguyễn Thi đã gửi gắm những tình cảm chân thành nhất của mình

qua hình tượng nhân vật này.

Như vậy, bằng sự hiểu đời, hiểu người, bằng trái tim chan chứa tình yêu

thương, Nguyễn Thi đã xây dựng thành công bức chân dung sống của một tập thể

anh hùng đó là những người chiến sĩ, những nữ du kích, những người mẹ, người

chị, những đứa trẻ….Họ vốn là những con người làm nông bình thường nhưng khi

đất nước có giặc ngoại xâm thì cái ý thức tự giác, lòng yêu nước, căm thù giặc trỗi

dậy và thế là họ cầm súng chiến đấu bảo vệ từng tấc đất quê hương, bảo vệ nền

độc lập còn non trẻ, ước mong non sông thu về một mối. Nguyễn Thi không bao

38

giờ mô tả họ trong tình trạng bối rối, mình tự đối lập với mình. Nhà văn đặt nhân

vật của mình trong bối cảnh cách mạng, trước những yêu cầu cấp thiết của cách

mạng. Thực tế cách mạng lúc bấy giờ đòi hỏi con người không ngừng vươn lên

làm chủ chính bản thân mình cả trong suy nghĩ và hành động trước yêu cầu cách

mạng không ngừng phát triển. Cái tài của Nguyễn Thi đó là đã đưa được cái bình

thường nâng lên tầm vóc anh hùng, và người anh hùng đã trở thành bình thường,

tự nhiên như đời sống vậy.

Trên những trang văn của Nguyễn Thi, hiện thực xã hội Nam Bộ đâu chỉ là tiền

tuyến, là mặt trận với hình ảnh của những người lính trẻ trong tư thế hiên ngang cầm

cây súng bảo vệ mảnh đất quê hương. Mà hiện thực đó nơi hậu phương còn dữ dội và

khốc liệt hơn nhiều. Và cũng chưa bao giờ cái sức nóng của một cuộc chiến mang tầm

vóc lịch sử lại có sức lan tỏa lớn đến như vậy khi mà đi bất cứ đâu hễ là người Việt

Nam đều thường trực trong mình suy nghĩ phải đánh Mỹ, diệt Mỹ. Có thể nói đến một

hiện thực được phản ánh theo phong cách Nguyễn Thi. Một phong cách luôn luôn cố

gắng đến mức tối đa để có thể thâu tóm hiện thực ở dạng đúc kết nhất. Bởi vậy, Nguyễn

Thi đã lồng ghép những vấn đề của thời đại có tính thời sự thu hẹp lại trong câu truyện

kể của một gia đình, của một xóm nhỏ hay rộng hơn là ở một xã.

2.1.1.1. Chuyện của một gia đình

Hay nói cho đúng và thu nhỏ hơn: Những đứa con trong gia đình. Chuyện về

một chiến sĩ trên chiến trường, giữa một thời điểm căng thẳng nhất và cũng là yên tĩnh

nhất của đời anh: lúc anh bị thương, lạc đơn vị, nằm trên trận địa vắng lặng, sau một

cuộc đọ lê, bây giờ chỉ còn mùi khét của khói và mùi tanh của xác Mỹ. Cái chết có thể

đến bất kì lúc nào, nhưng đó lại không phải vấn đề mà anh suy nghĩ lúc này. Giữa cơn

mê chập chờn người chiến sĩ ấy đã nhớ về mẹ, về những người trong gia đình. Và men

theo chiều dày của dòng suy tưởng ấy làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm

thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hai chữ gia đình thiêng liêng, với hình ảnh trung tâm

quần tụ mọi kỉ niệm đẫm nước mắt về một người mẹ đã khuất. Trong kí ức của Việt,

mẹ là một người phụ nữ với cá tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết

lòng yêu thương chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu

chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành.

39

Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xòe cánh che chở

đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vượt biển. Nuôi

con và cả con đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu

tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong

giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn của má là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất

kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng. Gia đình còn là

kỉ niệm rỉ máu về một người cha đã hy sinh cho đất nước. Gia đình là nỗi nhớ về chú

Năm - một người từng trải qua bao đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng,

để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng

nhân tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm

trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước. Chú hay kể sự tích cho

con cháu nghe và kết thúc bao giờ cũng hò lên mấy câu. Chú cũng là người giữ cuốn

sổ gia đình ghi chép lại tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên,

như một biên niên sử. Trong kí ức của mình Việt vẫn nhớ như in những lời gửi gắm,

nhắn nhủ của chú: “Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho

mỗi người một khúc mà ghi vào đó.Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình

ta cũng chảy về biển mà biển thì rộng lắm”[41, tr.71]. Gia đình: còn là hình ảnh của

một người chị mà trong trí nhớ của Việt hình ảnh chị Chiến hiện lên với vóc dáng của

một con người lao động "hai bắp tay tròn vo sạm màu đỏ cháy nắng"[41, tr.86]. Ở

Chiến có nét gì đó giống người mẹ của cô. Đã ba lần Việt thấy chị Chiến giống mẹ,

giống ở điệu bộ, cử chỉ, lời nói cách lo liệu công việc, chính chị cũng cảm giác hòa vào

với mẹ.Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". Cô có đức tính kiên trì,

chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới

lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan

góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân

con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !"[41, tr.82]. Ở cô,

khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội,

mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn"

khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, "nhìn hai cháu thiệt lâu" rồi nói: "Khôn!

Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước

40

non. Còn nữa, trước khi tòng quân, Chiến còn lo lắng, thu xếp việc gia đình, Chiến nói

với Việt: "năm công ruộng... mần nghen"…[41, tr.85]. Qua câu chuyện kể về một gia

đình Nam Bộ, Nguyễn Thi đã cho chúng ta thấy biết bao nhiêu là tình nghĩa sâu nặng

gói gọn trong hai chữ “Gia đình”, nó là niềm sâu thẳm tồn tại mãi trong miền kí ức của

người chiến sĩ trẻ ra trận lần đầu. Nguyễn Thi nói đến gia đình - cái đơn vị cơ bản nền

tảng đó của mỗi người con ra đi đồng thời đem lại cho nó một ý vị thiêng liêng khi mở

rộng nó ra và gắn nó với quê hương đất nước. Câu chuyện được kể đâu chỉ là riêng của

một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung

son sắt với quê hương cách mạng. Mà ở ý nghĩa rộng hơn đó còn là hình ảnh của cả

một thế hệ trẻ miền Nam, những người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong

những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Ở một ý nghĩa khác nó còn là tổng hòa của

các mối quan hệ giữa riêng với chung, nhà với nước, giữa tình cảm gia đình với tình

yêu nước, yêu cách mạng. Và chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền

thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam. Giữ vững

tinh thần đó dân tộc Việt Nam sẽ chiến đấu đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

2.1.1.2. Qua một xóm nhỏ

Rộng hơn câu chuyện một gia đình Nam Bộ, Nguyễn Thi kể cho chúng ta nghe

câu chuyện ở một xóm. Truyện ngắn Chuyện xóm tôi là hình ảnh cái xóm nhỏ miền

Nam chỉ với mươi chục nóc nhà, con mương nhỏ, rặng dừa, chiếc cầu tre. Chuyện xóm

nhỏ mà lại bắt đầu bằng hai đứa trẻ: Đực và Bỉnh. Sinh ra và lớn lên giữa chiến tranh,

là con em của người đang chiến đấu, được bú mớm, hít thở trong không khí sặc mùi

lửa đạn. Bởi vậy mà lũ trẻ như Đực, Bỉnh gắn liền tính tình với môi trường sinh hoạt,

tồn tại hết sức thoải mái tự nhiên giữa khung cảnh đấu tranh sống chết. Trò chơi của

đôi bạn trẻ lên bốn, còn nói ngọng, còn đái dầm, không chỉ là bi, đáo, mà còn ngắt trâm

bầu gài lá ngụy trang, nặn đất thành lựu đạn, cắt mo cau làm xẻng giắt hông, đẽo gỗ

làm súng.“Hai cái dáng bé nhỏ ấy cùng chạy dọc, chạy ngang, vừa bắn vừa hô, vừa

cười hí hố, vừa nhai chùm ruột, say sưa rượt đánh một thằng giặc vô hình nào đó đang

chạy ở trước mặt và ngoan cố chưa chịu khuất phục đầu hàng”[41, tr.8]. Chỉ là trò

chơi, nhưng ngay trong bản năng không tự giác của lũ trẻ, trò chơi dường như mang

sẵn ý định đạt tới mục đích nhận thức và hành động nào đó. Kẻ địch này không phải

41

tên gián điệp vô danh, thằng phá hoại giấu mặt, mà có tên, có hình rất cụ thể, nó hiện

rõ trong ý thức ấu thơ, do lời kể lại sự tích của mẹ, của chị và xóm giềng - nó là thằng

Tổng Phòng từng bắn chết hai ông bố của chúng cùng một ngày. “Hai người bị thằng

Phòng bắn nằm gác chân lên nhau, tay bị trói chung và cần cổ bị cột chung một sợi

dây buộc lớn” [41, tr.14]. Chỉ là những trò chơi đùa, bắt chước những việc làm của

người lớn, rất vô tâm và máy móc, cứ thế Đực, Bỉnh dần hiểu tại sao cha chúng bị giết,

tại sao hầm hố cần sửa gấp rút như ruột bò ăn mạ, tại sao anh Việt, chị Chỉnh đi đốt bót

Rạch Dầu… Không biết tự bao giờ mà câu chuyện vượt ra khỏi cái giới hạn chật hẹp

vốn có của nó: chuyện trẻ con mà ra người lớn, chuyện nhà thành chuyện làng, chuyện

trò chơi mà mang một ý nghĩa nghiêm chỉnh. Cái xóm nhỏ hiện ra trước mắt ta, trải

qua bao nhiêu biến cố, máu chảy, người chết, bao nhiêu náo động: tiếng súng, tiếng

mõ, tiếng reo hò… Nhưng tất cả rồi cũng qua đi, cuộc sống lại trở lại bình thường, bởi

vì “những việc như máy bay trực thăng Mỹ mới xối xả bắn vào xóm sáng hôm qua đấy

thì sáng nay nó đã trở thành dĩ vãng, thù đó không quên, những việc mới dồn dập tới,

mọi người tưởng như nó đã qua lâu lắm rồi…” [41, tr.11]. Kể câu chuyện của một xóm

nhưng lại mang tới cảm giác, nhận thức sâu đậm: cuộc chiến đấu giành quyền sống là

lẽ tự nhiên, là quy luật tất yếu cần thiết như cơm ăn, nước uống, khí trời hít thở, là bản

năng và ý thức, là kết quả lãnh đạo của Đảng nhưng trước hết là nguyện vọng sẵn có

của quần chúng. Như tình yêu, nó ẩn trong cuộc sống, náu giữa lòng người, như một

cục than hồng nằm nơi tro lạnh, khi lâm sự, lúc gặp gió chỉ cần ngọn rơm nhen nhóm

lập tức cháy bùng thành lửa đỏ. Chính sức tiềm ẩn của hình tượng tự nó toát ra nhận

định chẳng sao chối cãi, dấy lên tình cảm phải ủng hộ, phải tham gia cuộc đấu tranh

như một sứ mệnh, là nghĩa vụ không thể tránh khỏi. Truyện mở ra bằng cận cảnh rồi

nới rộng thành phục hiện ký ức để giới thiệu toàn cảnh, thu gọn vào trung cảnh rồi lại

trở về cận cảnh, cứ như thế Nguyễn Thi giúp chúng ta thấy được cả đại thể lẫn tiểu tiết,

cả bề ngang lẫn chiều dọc của một thời kỳ chiến đấu trường kỳ. Cả sự tích miền Nam

đứng lên nổ súng sau Đồng khởi được gói gọn khoảng mười trang truyện. Cả giai đoạn

chiến đấu nơi đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ vào một thôn xóm. Người lớn ra đi,

lớp này qua lớp khác, có lớp người trẻ đi tiếp con đường gai góc của cha anh, có hai ba

thế hệ song hành chiến đấu, vợ ủng hộ chồng, con kế thừa cha. Khép lại tác giả lại đưa

42

chúng ta trở về cái bình lặng gan góc của xóm nhỏ đêm hôm, trong giấc mơ của trẻ thơ,

trong câu chuyện giữa những người già, về quê hương, về thời cuộc…

2.1.1.3. Đến với một xã, và rộng ra là cả Nam Bộ

Sau câu chuyện một gia đình, rồi một xóm nhỏ Nguyễn Thi tiếp tục kể câu

chuyện ở một xã. Đó là Ở xã Trung Nghĩa với mở đầu là những dòng tả cái nhà làm

việc nay gọi là công sở, thực chất là dựng dậy một ngôi đình đổ nát từ thời Pháp. Nhưng

đâu phải chỉ ngôi nhà! Cái chính quyền mà chúng dùng trụ sở làm nơi trình diện thực

chất cũng là công cụ của bọn địa chủ, tay sai ngoại bang. Ngôn ngữ diễn tả với những

từ cổ lỗ được dùng trang trọng một cách hài hước, hài hước một cách trang trọng đã

thông báo trực tiếp bản chất của chế độ mới, với từ trát gọi, giấy ban rõ, có bản mộc

đóng…, với ngôi nhà công sở trang trí cái đầu cá sắp hóa rồng,…Không khí u ám, ngột

ngạt đầy đe dọa, rình rập, theo dõi với những ngọn đèn đêm đêm canh gác cái “nhà

bảng đen”, những tiếng nói thì thầm, tiếng súng dọa dẫm, tiếng mõ báo động, những

tiếng khóc cố nén, lời giận dữ phải nuốt vào trong, tiếng thở phù giúp nuốt nhịn vào

lòng những lời cay độc, việc làm ăn lương thiện phải làm lén lút trong đêm trong khi

hành động cướp bóc, hà hiếp, ăn chặn người dân được phơi bày hợp pháp công khai

nơi công sở. Không gian nơi thì tanh tưởi, nơi thì hôi thối, nơi thì giàu có dư thừa, nơi

không đủ miếng cơm…. Đó là thời điểm xuất hiện một lực lượng thống trị mới. Một

lô lốc bọn ngóc đầu dậy cầm quyền tạm thời liên kết với nhau, kìm kẹp hành hạ dân

chúng, kiếm chắc miếng ăn báu bở, giành đoạt ruộng đất đã được cách mạng chia cấp.

Nguyễn Thi đã không hề nhẹ tay mà phanh phui cho bằng hết mọi cái lố lăng, kệch

cỡm, tàn ác trong cách ăn ở, đi đứng, làm việc của bọn đại diện Hiếm, cảnh sát Âu,

những tên nhãi nhép ngụy quyền ở xã nhưng mang đủ tính điển hình tay sai, hệt như

Ngô Đình Diệm, hoặc Thiệu, Kỳ. Cái bản chất ngu xuẩn, ti tiện, mọt ruỗng của chúng

mà cái mác hào nhoáng bề ngoài, vẻ phồn thịnh tạm bợ kia không sao che giấu cho hết

được, cứ từng lúc, từng lúc lại thòi lòi ra cái đuôi thối nát. Chúng càng lộng hành, lộng

quyền bao nhiêu thì người ta lại càng thấy buồn cười hơn. Tiếng cười ở đây đã pha lẫn

nước mắt, không phải là khóc cho hoàn cảnh bi thảm của các nạn nhân, mà chính là

khóc cho sự sa đọa đến cùng cực, hoàn toàn mất hết nhân phẩm, lương tri của các tội

nhân, một tiếng cười, một tiếng khóc đầy khinh bỉ và căm giận về những con người

43

không còn là người. Và trong cái đám đông hỗn loạn, láo nháo ấy, nổi bật lên hình ảnh

những người nông dân đang bị chế độ mới dồn vào bước đường cùng. Cuộc đời đầy

thăng trầm của chị Hai Khê và ông Tư Trầm làm ta thấy quen thuộc như đã gặp họ lần

đầu trong văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Đó là những anh Pha trong

Bước đường cùng, là chị Dậu trong Tắt đèn. Vẫn là tình thế ngặt nghèo bị cướp ruộng,

cướp cơm ấy. Vẫn những con người hiền lành, chăm chỉ, nồng hậu tình người ấy. Và

những đứa trẻ lam lũ, khôn sớm trước tuổi, sớm biết chia sẻ gánh nặng gia đình. Và

đối lập bên kia là lũ quan lại, địa chủ, cường hào, chức sắc, lắm cấp, lắm mặt nhăm

nhăm, hốc hách, dọa nạt, trấn lột đủ kiểu. Nhưng khi cách mạng đến, anh Pha, chị Dậu

đã có những hiểu biết khác, đã có những quan hệ và cách xử sự khác. Sức sống mãnh

liệt của người nông dân Việt Nam đã truyền lửa tiếp thêm sức mạnh cho người nông

dân Nam Bộ để tiếp tục đương đầu với kẻ thù. Câu chuyện cứ thế tiếp diễn trong cái

im lặng vốn có của nó, nhưng chính cái lúc tưởng như lặng lẽ đó cũng lại là lúc trời sắp

nổi bão lên, dường như trong mỗi lời nói, thái độ, cử chỉ của ông Tư Trầm hay chị Hai

Khê đều chất chứa được cái khả năng tiềm tàng mà chỉ có cơ hội sẽ bùng lên bất cứ lúc

nào. Đó là thái độ mềm mỏng của ông khi gặp đại diện Hiếm bỗng trở nên đặc biệt kiên

quyết khi động chạm tới chuyện ruộng đất: “nồi cơm tôi chỉ có bấy nhiêu đó, ai cho thì

tôi nhớ ơn, ai cướp đi thì nói ông bỏ lỗi, thân già này chống”. Với kẻ địch, bao giờ ông

cũng đàng hoàng mà sẵn sàng quyết liệt. Khi bà Tư bị bắt vì lên thăm chị Hai Khê, một

mình ông lên tận công sở đòi công lý. Lý sự ở ông có thừa, mà sự quả quyết ông cũng

không thiếu. Chất hảo hán, hào hùng có nguồn gốc sâu xa trong truyền thống bất khuất

của dân tộc luôn giúp ông chấp nhận cuộc đụng đầu với cái chết đề giành chiến thắng.

Chỉ là câu chuyện ở một xã nhưng ta lại thấy trong đó hình ảnh của xã hội Nam Bộ lúc

bấy giờ, cũng là cái không khí căng thẳng, ngột ngạt đó, cũng là sự lộng hành của bọn

cầm quyền cùng bè lũ tay sai trong thế kìm kẹp của Mỹ - Ngụy. Đó là sự căng thẳng

trong cái thế “tức nước vỡ bờ” báo hiệu cơn giông tố lịch sử sắp diễn ra. Phải chăng

trong cái tĩnh lặng đó là một sự chuẩn bị chu đáo không chỉ về tinh thần mà còn cả về

vật chất, chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy phá vỡ thế kìm kẹp của giặc. Thế nhưng thiên

truyện lựa chọn điểm dừng lại chỉ ở cái phút im lặng ấy, vào cái thời điểm “mắt bão”

ấy, sẽ hứa hẹn những bất ngờ về sau.

44

Tóm lại: Như vậy, qua những câu chuyện được kể trong một gia đình, trong

một xóm nhỏ và trong một xã, với cái ý thức khái quát luôn thường trực, đã giúp

Nguyễn Thi vượt lên trên hiện thực bề bộn, làm chủ được mọi hoàn cảnh trên cả bề

mặt và bề sâu để khám phá được cái bề rộng của xã hội, cái bề sâu của con người.

Bởi vậy cuộc sống trong sáng tác của Nguyễn Thi không bao giờ là cuộc sống để cho

người ta xem ngắm một cách thờ ơ, mà là một cuộc sống giục giã trong căng thẳng,

hướng tới một sự bùng nổ của xã hội Nam Bộ. Bức tranh toàn cảnh xã hội Nam Bộ

đã được khắc họa trải dài theo cả bề rộng và bề sâu của nó, cũng đã được dồn nén,

được đẩy lên. Nhưng chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Thi còn cho gửi đến chúng ta thông

điệp trong cuộc chiến đấu này con người là trung tâm của thời đại. Hạnh phúc đã đến

với con người trong đấu tranh - hạnh phúc là được “cầm súng” chiến đấu và đấu tranh

là con đường duy nhất đem đến hạnh phúc cho họ - những người không chỉ là người

lính mà có tên chung là quân dân. Phải chăng, qua đó nhà văn muốn cất lên tiếng nói

với toàn thể đại chúng về sự tàn bạo của lũ giặc Mỹ Ngụy đã đến mức khiến cho cả

đến những lứa tuổi chưa phải có nhiệm vụ đánh giặc, thậm chí được miễn những

nhiệm vụ ấy cũng không chịu được phải vùng lên tiêu diệt chúng. Đó chính là điều

thần diệu của cuộc chiến tranh nhân dân chúng ta: Đoàn kết là sức mạnh của toàn dân

tham gia giết giặc.

2.1.2. Chân dung những nhân vật phản diện

Miêu tả hình ảnh của nhân vật chính diện, nhân vật anh hùng, hay những người

dân bình thường, Nguyễn Thi đã dành cho họ những trang viết thật đẹp, thật xứng đáng

với họ. Tuy nhiên, khi đi vào miêu tả nhân vật phản diện, miêu tả kẻ thù thì Nguyễn

Thi không hề nương tay với chúng, nhà văn sẵn sàng dùng ngòi bút châm biếm mỉa

mai và tỏ rõ thái độ của mình.Nhà văn không viết, không nói nhiều về nhân vật phản

diện, chỉ khắc họa được một số chân dung nhân vật tiêu biểu cho kiểu người mang bản

chất áp bức, bóc lột, ngu dốt. Trong truyện ngắn Chuyện xóm tôi Nguyễn Thi đã miêu

tả hình dáng của tên Tổng Phòng khét tiếng tàn ác:“Tổng Phòng còi cọc, lỏng ngỏng

như cây mía bị đuông”, “Nó có hai răng cửa lớn như cái bàn cào”[41, tr.10]. Hình ảnh

người anh hùng, người nông dân thân thiết bao nhiêu thì đến những tên như Tổng

45

Phòng lại xấu xa, dị hợm bấy nhiêu. Trong Người mẹ cầm súng hình ảnh của mụ vợ

Hàm Giỏi cũng dị hợm không kém: “Vợ Hàm Giỏi cao mập. Ngay thằng chồng đứng

cạnh mụ chỉ như “lóc nói mà ôm cột dừa”. Uy thế của mụ cũng ghê gớm như cái thây

của mụ. Mỗi lần ngồi ghe đi góp lúa, mụ ngã người ra sau, chỏi hai chân ra trước, hai

bên ghe chạm hai con khỉ bằng cây ngồi chầu”[41, tr.151-152]. Trong truyện Sen trong

đồng là hình ảnh bọn tay sai, bọn đầu hàng giặc:“Thằng cò hiến binh đeo rằn ri cái gì

ở trên vai. Nó không có râu nhưng cằm nó xanh um như đít con nít có chàm”[40,

tr.122]. Bằng cách so sánh không cân đồng này mà chúng ta hiểu rõ hơn thái độ của

nhà văn hay là chính của những người nông dân trong tác phẩm đối với những kẻ bán

rẻ nhân cách của mình để mưu cầu lợi danh. Sự căng thẳng giữa ta và địch càng được

đẩy lên đỉnh điểm hơn nữa với cuốn tiểu thuyết còn dang dở Ở xã Trung Nghĩa. Nhân

vật phản diện đã cụ thể, có tên gọi và có tính cách, cá tính riêng nhưng thật giống nhau

về bản chất: đại diện Hiếm, cảnh sát Âu, vợ chồng chủ ấp Ba Sồi, Hai Mật…Trong

công sở, đại diện Hiếm bé choắt trước cái bàn mặt đá to…như cái tham vọng của hắn,

đôi mắt to trũng sâu vừa lờ đờ vừa ẩn náu một khát khao vô độ, mặt luôn nhăn nhó, với

bộ bà ba trắng xác như giấy -manh khoác ngoài của con quỷ - chẳng phải đi với ma, y

phải khoác áo giấy mà! Lời ăn tiếng nói tỏ ra uy quyền, nhưng bao giờ cũng cố ôn tồn,

nhẹ nhàng. Nó là kết quả có tính toán của cách xử thế mày chủ trương. Bản chất bóc

lột, ngu dốt của y còn được thể hiện qua cung cách làm việc của hắn trong cái nhà công

sở ấy. “Đã đem thân ra gánh vác (…) thì phải biết đối nhân xử thế, vũ không dũng thì

phải có mưu, tay không tinh thì miệng phải giỏi, có gan thì lợi nhuận mới đến nhà -

không có ai chìa tay ra mà của lại đến” [42, tr.226]. Khôn ngoan, cố tránh mọi sự mất

lòng, đổ mọi tiếng ác, tội ác, thù hằn cho cảnh sát Âu thô lỗ, cục cằn và các cấp khác.

Bởi vì, dầu đang có quyền chức, y vẫn sợ tương lai bởi sự ám ảnh của áp lực quá khứ.

Nên y đã răn dạy người khác:“con người ở đời không có gì tốt bằng phải biết tùy thời

mà ăn ở” [42, tr.228]. Vừa muốn xác lập, khẳng định và thừa hành quyền thế để có thể

kiếm chác cho riêng y- mà y không giấu - cho bọn nhà giàu mà chính quyền y là công

cụ: Cướp ruộng lại cho Bảy Kiệt, cho vợ chồng chủ ấp Ba Sồi, ra lệnh bắt giải bà Tư

Trầm lên quận…Nhưng không phải chỉ một lần y có cảm giác sợ hãi, khi đang hung

hăng quát nạt bà Tư Trầm, mẹ con chị Hai Khê, bỗng rợn người nghe câu hát vu vơ chị

46

Hai ru con:“Mai kia phượng đáo về dinh…”, hay khi đối mặt với ông Tư Trầm, cảnh

sát Âu đang hung hăng bỗng cảm thấy một sự lạnh lẽo như mũi dao nhọn xuyên suốt

mọi lớp rào tre đâm thẳng vào mặt mình, khiến y hoảng hốt, lên xe máy chạy. Hai tên

tay sai đứa xảo quyệt, gian ngoan, đứa thô lỗ, hung hãn, đại diện Hiếm bé choắt thì

cảnh sát Âu đứng cũng không cao hơn ngồi bao nhiêu, đứa đi xe đạp chậm mà bao giờ

tới đích cũng nhanh, đứa đi xe máy tòng tọc nhanh mà bao giờ cũng tới chậm, đứa bàn

tay nhung đứa bàn tay sắt. Chúng liên kết lại với nhau đe nẹt, trị dọa nhân dân, kẻ tung

người hứng. Nguyễn Thi đã không ngần ngại đã phanh phui mọi cái lố lăng, kệch cỡm,

tàn ác trong cách ăn ở, đi đứng, làm việc của bọn đại diện Hiếm, cảnh sát Âu, những

tên nhãi nhép ngụy quyền ở xã nhưng lại mang đủ tính điển hình tay sai, hệt như Ngô

Đình Diệm, hoặc bọn Thiệu Kỳ. Cái vẻ hào nhoáng, phồn thịnh tạm bợ cũng không thể

nào che giấu được cái bản chất ti tiện, mọt rỗng của chúng. Càng tỏ ra lộng quyền bao

nhiêu thì cái bản chất thối nát ấy càng phơi bày ra bấy nhiều, làm trò cười cho thiên hạ.

2.2. Thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi mang đậm dấu ấn Nam Bộ

2.2.1. Một không gian đậm chất Nam Bộ

Dường như là một sự sắp đặt của số phận, ngã rẽ của đường đời đã đưa Nguyễn

Thi vốn là một người con đất Bắc đến với miền Nam, mảnh đất hào hùng của một thời

đánh Mỹ. Cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi đây đã trở thành một phần quan trọng

trong cuộc sống của ông. Mảnh đất ấy nằm ở vùng Cực Nam của Việt Nam, nổi tiếng

với hệ thống kênh rạch chằng chịt, mạng lưới sông ngòi dày đặc là nơi bắt nguồn của

văn hóa sông nước, văn hóa miệt vườn. Mảnh đất tươi đẹp và trù phú đã đi vào trang

văn của Nguyễn Thi một cách chân thực và tự nhiên nhất, mang lại cho người đọc cảm

giác gần gũi, như được sống, được tận hưởng bầu không khí trong lành, xanh mát của

cỏ cây, hoa lá, dòng nước mát chở nặng phù sa. Và chỉ có tình yêu, sự am hiểu sâu sắc

thì Nguyễn Thi mới khắc họa được bức tranh thiên nhiên với kênh rạch, bãi đước, rừng

tràm, xuồng ghe, tiếng chày giã bàng,…một cách sâu sắc, tinh tế, chân thực vốn là của

riêng Nam Bộ.

Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, người đọc như được dẫn dắt

vào một thế giới mang những dấu ấn rất riêng. Đó là không gian của những dòng sông,

ruộng đồng, bờ bãi. Xuyên suốt dòng hồi tưởng miên man, đứt nối của người chiến sĩ

47

giải phóng quân tên Việt khi anh bị thương nặng, bị lạc đồng đội, nằm lại giữa chiến

trường, ấn tượng sâu đậm trong anh không chỉ là hình bóng những người thân yêu mà

đó còn là hình ảnh một quê hương Nam Bộ đã trở thành một vùng kí ức rất đỗi thiêng

liêng trong tâm hồn người lính trẻ. Việt nhớ tới những dòng sông mà con sông nào

cũng "nhiều phù sa, lắm nước bạc. Ruộng đồng phì nhiêu cũng sinh ra từ đó. Lòng tốt

con người cũng sinh ra từ đó" gắn liền với những câu chuyện về cuộc đời chèo ghe

mướn nhiều vất vả mà cũng lắm kỉ niệm buồn vui của chú Năm, người thân yêu còn

lại của hai chị em Việt và Chiến. Tâm thức Việt còn nhớ về những cánh đồng lắm phù

sa với cánh cò bay mải miết mà trong những đêm mưa rả rích ngoài vàm sông, Việt

cùng chị Chiến đi soi ếch, cười vui từ lúc đi cho tới lúc về. Có thể nói, không gian, bối

cảnh mà hằng ngày hai chị em Việt và Chiến "hít thở" đều là khung cảnh đậm đặc sắc

màu Nam Bộ. "Bầu không khí" ấy có những dòng sông mà thuở bé, hai chị em đã từng

đi theo du kích bắn tàu Mỹ trên sông Định Thủy; có những vườn cây trái sum suê mà

Việt đã từng in dấu chân trong những lần đi bắn chim bằng chiếc ná thun của mình và

cũng là để thực hiện nhiệm vụ cảnh giới cho các cô chú cán bộ. Tất cả đều mang một

sắc màu rất riêng biệt. Những vàm sông, những cây xoài mồ côi, những buổi đi soi ếch

hay những lần đi bắn chim đã trở thành bầu trời cổ tích tuổi thơ mà Việt không bao giờ

quên. Cái dấu ấn của ruộng đồng, bờ bãi ấy còn theo Việt vào những kỉ niệm về hình

ảnh người má thân yêu. Trong dòng chảy kỉ niệm, người má hiển hiện trong tâm thức

người lính giải phóng quân trẻ tuổi không chỉ ở sự đảm đang, tần tảo; ở lòng yêu thương

chồng con; ở một cuộc đời đau thương mà rất đỗi hiên ngang, bất khuất mà đó còn là

mùi của bùn đất, của rơm rạ, của lúa gạo, của ruộng đồng, bờ bãi toát lên từ thân hình

người má. Mùi vị của mồ hôi tần tảo, mùi của ruộng đồng, rơm rạ đã trở thành một cái

gì đó rất đỗi thân quen mà thiêng liêng đến lạ lùng, chiếm một phần rất quan trọng

trong đời sống tâm hồn của Việt. Đó thực sự trở thành một nét rất riêng của những con

người được sinh ra trên mảnh đất miền Nam - thành đồng Tổ quốc. Dòng hồi tưởng đã

đưa Việt trở về không khí của buổi sáng hai chị em sửa soạn mọi việc trước lúc lên

đường ra mặt trận. Trong cái linh thiêng của hành động khiêng bàn thờ ba má sang gửi

nhà chú Năm, hai chị em Việt và Chiến vẫn lại tiếp tục đi qua dãy đất cày trước cửa,

men theo chân vườn thoang thoảng mùi hoa cam, con đường mà hồi trước má Việt vẫn

48

đi để lội hết bưng này qua bưng khác. Khu vườn, cánh đồng, mùi hoa cam thoang

thoảng thực sự là những hình ảnh thấm đẫm chất thơ, in đậm dấu ấn Nam Bộ mà nhà

văn Nguyễn Thi đã tạo dựng thật thành công và đầy ấn tượng!

Đọc những trang văn trong truyện ngắn Mẹ vắng nhà chúng ta có cảm giác thân

quen như được sống, được hít thở, được đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên. Mở đầu

truyện là nắng, là gió của dòng sông Hậu vẫn thổi vào lồng lộng. Con Bé – con chị Út

Tịch leo lên cây dừa phóng tầm mắt ra xa, nhìn về phía đó, nơi trước đây có“những

đốm vàng của các rẫy khoai, những đường viền xanh của những viền cây mà nó biết

rõ ở đó có những cây bưởi vẫn trổ bông trắng, những đám mía tây đánh lá, những

hàng dừa xiêm với tay đụng trái và những rặng mãng cầu trĩu quả”.“Xa hơn nữa là

lằn sông Cái, mây như từng tảng núi đá vỡ ra đang sà mình xuống đó.”[41, tr.94].

Trong tầm mắt của con Bé dường như không gian đã được mở ra hết cỡ bao trọn lấy

những gì đặc sắc nhất, đẹp nhất của mảnh đất Nam Bộ đó là dòng sông Hậu lịch sử ghi

dấu bao nhiêu chiến công của quân và dân ta, dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp cho

những vườn cây trái sum suê, trĩu quả…Thế nhưng bom đạn của giặc Mỹ đã tàn phá

tất cả. Trong câu chuyện được kể hình ảnh cây dừa (một loại cây quen thuộc đặc trưng

của xứ non nước Nam Bộ) xuất hiện trở đi trở lại nhiều lần, gắn bó với sinh hoạt của

bà con xóm nhỏ. Thân dừa cũng là nơi ghi dấu tội ác của chiến tranh,biết bao nhiêu

vết đạn ngang dọc của thằng Tây vẫn còn hằn sâu. Trong cuộc sống, sinh hoạt của bà

con nơi đây, cây dừa đã trở thành một phần không thể thiếu: bóng lá dừa đu đưa trên

đầu lũ trẻ, mặc cho tiếng bom đạn ngoài kia có dữ dội thế nào cũng không thể lấn át

được cái không gian vốn đẹp đẽ này. Dưới gốc dừa là nơi ông Sáu hay ngồi “đương

lọp”, rồi đọc thơ cho lũ trẻ nghe. Đây cũng là nơi các cô du kích hay dừng nghỉ chân

để kiểm điểm và ăn bánh. Nó mang bóng dáng của con người “thân dừa sứt sẹo lại

mang nguyên màu rám nắng của da người”[41, tr.104]. Mặc dù toàn thân chằng chịt

những vết thương xoáy sâu, mở toang hoác nhưng với sức sống mãnh liệt nó vẫn cứ

vươn mình trong nắng, vươn bóng che mát khoảng sân trước nhà, ve vuốt trên lưng

lũ trẻ. Gió từ sông Hậu mênh mông lại thổi về mang theo mùi cá biển hòa lẫn với mùi

bom na pan. “Những con vồng màu phù sa hiện ra với nắng nhấp nhô như những

49

lượn sóng. Trên đầu những ngọn sóng ấy, đường xóm trải dài cùng với những bóng

tre, bóng dừa và bóng trẻ con qua lại”[41, tr.108].

Có lẽ mỗi nhà văn đều có một vùng đất riêng của mình để từ đó mở rộng cánh

cửa đến với thế giới. Một không gian Nam Bộ thân quen, gần gũi, đậm chất thơ ta bắt

gặp trên những trang văn của Nguyễn Thi là hình ảnh rất đỗi thân quen của những mái

nhà san sát nhau, những rặng dừa, những vườn cây trái, từng bờ kênh, con rạch, rừng

tràm, tiếng giã gạo, cả mùi gió biển, mùi đất mặn ùa về sống động trên những trang

văn. Còn Nguyễn Trung Thành lại chọn dừng chân ở mảnh đất Tây Nguyên anh hùng.

Chính mảnh đất Tây Nguyên là nơi đã nuôi dưỡng nhà văn, vì vậy mà dường như muốn

trả cái ơn sâu nặng ấy, ông viết Đất nước đứng lên, Rừng xà nu và những tác phẩm

khác đều mang dáng dấp Tây Nguyên. Ông đã đem hơi thở từ men rượu nồng nàn của

đất rừng Tây Nguyên thổi vào tác phẩm Rừng xà nu để người đọc càng gần gũi hơn và

yêu mến hơn một khúc ruột của quê hương mình. Cả một không gian núi rừng rộng lớn

với những con người, cảnh vật, cả những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc đậm chất Tây

Nguyên dường như được thu nhỏ lại chỉ trong chục trang sách. Mở đầu tác phẩm là

hình ảnh của một rừng xà nu bạt ngàn, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài

đồi xà nu nối tiếp tới chân trời. Chất Tây Nguyên còn thể hiện trong không gian sinh

hoạt và không gian địa lí. Từ phía nhà Rông có ai đó đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng,

tất cả dân làng Xô Man kéo đến nhà cụ Mết. Nhà rông là nơi khí thiêng liêng của đất

trời hội tụ lại để bảo trợ cho dân làng, là nơi thực thi các luật tục nhà Rông, là nơi già

làng tập hợp dân làng để bàn luận việc quan trọng của buôn làng. Nguyễn Trung Thành

đã đặt những con người Xô Man này ngồi nghe kể Khan về cuộc đời của T’nu, nơi

không gian nghệ thuật là nhà Rông bên bếp lửa, đậm cái không khí Tây Nguyên. Khan

là một loại văn kể chuyện của dân tộc vùng Tây Nguyên được kể trong các dịp đầu

cúng, lễ hội dần dần trở thành một sinh hoạt văn hóa truyền thống bình thường của

buôn làng. Chất Tây Nguyên còn được thể hiện qua bữa ăn với muối. Khi T’nu trở về

sau những ngày tháng xa quê. T’nu được cụ Mết đãi những món ăn đặc biệt dành cho

những người đi xa về đó là món canh tàu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa còn có thêm

mấy con cá chua. Và muối chính là món quà quý với người dân Tây nguyên nó thể hiện

50

qua cách ăn muối của họ, không nêm muối vào canh ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu

trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần.

2.2.2.Tính cách những con người Nam Bộ

Đặt bút viết về những con người anh hùng nơi đây, nhà văn xứ Hải Hậu - Nam

Định, Nguyễn Thi đã chứng tỏ vốn hiểu biết sâu sắc về tính cách của những con người

miền Nam. Ông đã tạo dựng thành công những bức chân dung từ những người nông

dân chất phác đến những người phụ nữ, thanh niên và cho đến trẻ con cũng có nét tính

cách đặc trưng.Với những nét tính cách hết sức đặc biệt, không trộn lẫn nhưng tất cả

đều gặp gỡ nhau ở sự bộc trực, thẳng thắn, trọng nghĩa khí, sâu nặng tình cảm với quê

hương, gia đình và có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đặc biệt đặt trong mối quan hệ với

quốc gia, dân tộc, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì những tính cách ấy càng

trở nên vụt sáng trở thành những tính cách điển hình tiêu biểu của con người Nam Bộ

anh hùng.

2.2.2.1. Người nông dân

Người nông dân Nam Bộ qua ngòi bút của Nguyễn Thi là những con người có

tính cách chất phác, thật thà, mang dáng vẻ “chân quê”.Họ là những con người lớn lên

trên đồng ruộng,ước mơ của họ là làm sao cho được cơm no áo ấm, sống trong một gia

đình bình yên không có khói lửa chiến tranh.Đó là nét chân chất của chú Năm của chị

em Việt trong truyện ngắnNhững đứa con trong gia đình, cái chất phác ấy được thể

hiện qua cách chú viết cuốn sổ gia đình của Việt: “Ngày…quận Sơn dắt lính Mỏ Cày

về bao nhà, hỏi bà nội rằng chú Năm trốn đâu, bà nội nói không biết, quận Sơn bắt bà

nội cúi xuống giữa sân đánh bà nội ba roi…”[41, tr.70]. Cuốn sổ gia đình của Việt

được chú Năm viết rất cụ thể, chi tiết với một giọng điệu chân phương. Chú Năm cũng

là người hay hò nhất. Chú Năm hò không hay, bởi vì “giọng hò ấy đã đục và tức như

gà gáy”[41, tr.69], mỗi khi chú cất giọng thì chị em Chiến đều bịt miệng cười. Mỗi khi

cất giọng “đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư,

nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó... Và chú

chỉ cất giọng hò khi chú kể sự tích gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò

lên mấy câu, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất

này”[41, tr.69]. Theo tiếng hò của chú, khi thì Việt biến thành “tấm áo vá quàng hoặc

con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định.

51

ngọn đèn biển Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”[41, tr.69]. Qua những hình

ảnh như “tấm vá quàng”, “sông dài cá lội”... trong câu hò, người nghĩa quân Trương

Định, ngọn đèn biển Gò Công ấy đã nhắc nhở con cháu nhớ về ngọn nguồn, về hồn

thiêng sông núi của cha ông bốn nghìn năm nay.

Cái chất phát của chị Út Tịch khi lên diễn đàn của Đại hội ngày 2 tháng 5 năm

1965 với bộ bà ba màu đất, với giọng nói “mang những vần không cong lưỡi của quê

Trà Vinh”[41, tr.39]. Sự chất phác thật thà cộng với tấm lòng nhân ái sẵn có của họ nên

họ sẵn sàng đùm bọc, cưu mang những con người cần giúp đỡ. Đó là bà Sáu Hò hàng

xóm mà chị em con Bé vẫn kêu bằng “nội”trong truyện ngắn Mẹ vắng nhà, bà cưu

mang những đứa con của chị Út Tịch bằng những nồi khoai, bằng những bữa cơm khi

mẹ chúng vắng nhà, khi nhà con Bé không còn lon gạo. Không chỉ bà Sáu Hò mà ai

cũng thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình chị Út. Dù là bà con người Kinh

hay Khơ Me, dù là các mẹ chiến sĩ hay các cô gái trong đội văn nghệ đều làm một việc

giống nhau: “Nếu thấy chị em con Bé đi một mình thì người ta hiểu rằng cha mẹ chúng

đang đi đánh giặc. Và nếu lúc đó có pháo hoặc máy bay bắn thì bất cứ ai cũng có thể

kéo chúng nó xuống hầm. Còn gặp bữa ăn thì khỏi nói, ai cũng cảm thấy mình có bổn

phận ôm chúng vào nhà, cho chúng ngồi vào mâm… Sau khi đi đánh trận về, mấy mẹ

kêu chị vào bọc cho vài lít gạo”[41, tr.181] (Người mẹ cầm súng). Đó là mợ Tư, là

những người nông dân thân quen đã đùm bọc chở che Sáu trong những lần đi hoạt

động, khi Sáu bị bắt những con người ấy vẫn luôn dõi theo Sáu: “Ở đây có bác Mười

chạy xe đò nuôi Sáu hàng hai, ba tháng. Bác Tám Cờ chuyên môn đánh cờ tướng lấy

bà mẹ Tám xưng tràng nhạc ở cổ, nhận Sáu làm con nuôi, lúc nào Sáu ra là dấu kín ở

trong buồng…”[42, tr.118]. Nét đặc trưng trong tính cách của con người Nam bộ là

thẳng thắn, bộc trực, nhất là người nông dân Nam bộ thì nét tính cách ấy càng được thể

hiện rõ hơn. Họ là những con người thẳng thắn, bộc trực dám nghĩ dám làm. Đó là chị

Út Tịch dám thẳng thắn chửi vào mặt những tên phản bội: “Mầy ăn của tao còn dính

kẽ răng mà đã vội quẹt mỏ dắt lính bắt chồng tao!”[41, tr.158]. Trong truyện Cô gái

đất Ba Dừa là cái tính thẳng thắn của Ba khi nghĩ sao nói vậy về việc ai giới thiệu Ba

vào Đảng: “Anh Tự có dặn tôi là nếu ai có hỏi thì biểu anh ấy giới thiệu, nhưng riêng

tôi thì tôi nói anh Khương giới thiệu, vì anh Khương là người nói với tôi trước mặc

dầu anh ấy không dặn gì tôi”[42, tr25]. Cái dám nghĩ dám làm của nhân vật Sáu trong

52

truyện Sen trong đồng là cái ý nghĩ của một cô con gái vừa mới lớn, muốn tham gia

cách mạng, muốn góp vào cuộc chiến những công sức dù rằng là nhỏ bé của mình.

Nghĩ là làm Sáu lao vào cuộc chiến với cả một tấm lòng, một nghị lực phi thường.

Người nông dân trong tác phẩm của Nguyễn Thi thật thà nhưng không khờ khạo,

trong suy nghĩ nhận thức của họ luôn nhận ra được đâu là cái xấu, cái ác, đâu mới thật

sự là kẻ đã tước đi cái quyền được sống trong yên bình, hạnh phúc của mình. Người

nông dân Nam Bộ thật thà, chất phát nhưng bộc trực thẳng thắng nên đối với kẻ thù

luôn có lòng căm thù sâu sắc, khi cần thiết họ cũng mạnh mẽ, kiên gan với kẻ thù. Yêu

nước sâu sắc nên họ lao vào cuộc chiến và là lực lượng chủ công trong công cuộc đánh

đuổi giặc Mỹ. Người anh hùng cứu nước trong tác phẩm của Nguyễn Thi là những con

người bình dị, xuất thân từ quần chúng lao khổ, xuất thân từ người nông dân chân chất.

Người nông dân Nam Bộ ai có thể cầm súng thì đã cầm súng lên chiến đấu với kẻ thù,

còn những người không trực tiếp giết kẻ thù trong trận chiến thì cũng góp phần không

phải nhỏ vào cuộc chiến. Đó là những người vợ, người mẹ sẵn sàng góp vào cuộc chiến

với tất cả những gì mình có: Nếu cách mạng cần con trai, chúng tôi góp con trai. Cách

mạng cần đến con gái, chúng tôi lại góp con gái. Cách mạng cần gạo, chúng tôi góp

gạo, chỉ những gì chúng tôi không có được, chúng tôi mới không giúp cách mạng được

thôi. Lời nói ấy là của biết bao bà mẹ Việt Nam đã dắt tay con mình đến trao cho cách

mạng với tấm lòng tự nguyện, tấm lòng sáng trong như bầu trời trong xanh không có

chút gợn mây. Đó là ông bác mù, người đã bao lần ngồi canh bọn lính cho Hạnh trong

Ước mơ của đất, mắt ông không thấy được gì nhưng trái tim ông luôn có một ánh sáng

mà không bóng tối nào có thể phủ trùm được. Những con người không trực tiếp tham

gia vào cách mạng như bà Tư Trầm Ở xã Trung Nghĩa luôn có một câu cửa miệng để

trả lời cho bọn giặc: “Tôi là đàn bà, như con mắm nhận trong khạp gạo, già cả không

biết gì hết, mấy người muốn giết thì cứ giết!”[42, tr.242]. Câu nói đanh thép, quả quyết

của bà đã thể hiện được ý chí kiên cường chống lại bọn giặc tàn ác. Người nông dân

Nam Bộ chất phác, thật thà nhưng thẳng thắn, kiên cường đã được Nguyễn Thi khắc

họa một cách trọn vẹn qua từng trang viết của mình. Những con người ấy lại một lần

nữa làm nên lịch sử anh hùng của đất nước.

2.2.2.2. Người phụ nữ

53

Viết về những người phụ nữ, Nguyễn Thi khắc họa rất thành công những nét

tính cách của họ. Đó là những con người đảm đang, chịu thương, chịu khó dám hy

sinhvì người khác, nhưng khi cần thiết họ cũng cũng hết sức mạnh mẽ và kiên cường.

Người phụ nữ trong tác phẩm của Nguyễn Thi là những người phụ nữ giỏi việc nước,

đảm việc nhà, biết thu vén trong ngoài để tư cách công dân không mâu thuẫn với tư

cách của người phụ nữ trong gia đình. Như Chiến trong truyện ngắn Những đứa con

trong gia đình,ở cô gái đó khả năng vun vén, thu xếp gia đình thể hiện rất rõ. Chiến

không chỉ giỏi việc nước, là một nữ du kích có tiếng mà còn đảm đang việc nhà. Chiến

cùng một lúc đã vừa làm ba, vừa làm má để chăm lo, lấp đầy khoảng trống ấy cho các

em. Cô là hiện thân cho người má đã mất từ vóc dáng, tính cách, suy nghĩ đến nỗi Việt

phải thốt lên: “nói nghe in như má vậy”. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà

đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo từ việc “thằng Út qua ở với chú Năm”

đến cái nhà thì “cho các anhở xã mượn mở trường học”,rồi “nồi, lu, chén, đĩa, cuốc,

vá, đèn soi với nơm để gửi chú Năm”, năm công ruộng “trao lại cho chi bộ đặng chia

cho cô bác khác mần”,“hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để

dành đó làm đám giỗ ba má”…[41, tr.83-84].Ngay cả việc quyết định đem bàn thờ ba

má gửi sang nhà chú Năm với lời hứa “đến khi nào nước nhà độc lập con lại đưa má

về”[41, tr.86]. Những thu xếp tỉ mỉ, gọn gàng ấy khiến cho chú Năm cũng phải có chút

sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc

nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh

giặc này khôn hơn chú hồi trước”[41, tr.85]. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm

của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác

được những việc lớn của đất nước. Không những là những người phụ nữ đảm đang,biết

thu vén trong ngoài mà họ còn là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam chịu thương,

chịu khó. Cái chịu thương chịu khó của chị Út Tịch là vừa đánh giặc vừa làm lụng nuôi

con: “Út trồng dưa con Bé được mẹ dạy bón phân và chiết trái. Trồng dưa không đủ ăn,

Út đi vay gạo làm bánh, cho con đem ra chợ bán. Miếng ăn trên cạn, dưới sông, trong

giồng, ngoài bãi, mẹ con đều đã làm qua”[41, tr.180] (Người mẹ cầm súng). Đã biết bao

lần nhà hết gạo, chị nhắn anh Tịch về nhưng rồi lại thôi vì tấm lòng của chị đối với cách

mạng: “Có bận bịu mấy cũng không được để chồng mất công tác”[41, tr.180]. Chị một

54

mình gồng gánh để chồng được nhẹ lòng mà đi công tác. Ở người phụ nữ đó luôn có sự

hài hòa giữa tư cách của người chiến sĩ với tư cách của người vợ, người mẹ.

Dường như người phụ nữ sinh ra là để hy sinh, là để sống vì người khác bởi họ

đã mang sẵn trong mình những bản chất tốt đẹp ấy. Họ là phái yếu nhưng đến khi cần

thiếttính cách họ cũng không kém phần mạnh mẽ và táo bạo. Cái mạnh mẽ, táo bạo của

một cô gái bước qua những định kiến, những tàn dư của xã hội để đi theo người mình

yêu, dám mạnh mẽ lên tiếng để chống lại chuyện hôn nhân không tình yêu, không tự

nguyện ở câu chuyện Trong xóm nhỏ. Đó là sự mạnh mẽ của người vợ thủy chung giữ

vẹn tình yêu cùng chồng dù phải hy sinh đến cả tính mạng của mình trong truyện ngắn

Im lặng. Còn ý chí mạnh mẽ của cô gái đất thép Củ Chi là kiên gan đối đầu với kẻ thù,

khi bị chúng bắt Gần không hề run sợ, đứng trước cái chết cô vẫn ung dung vì cô nghĩ

rằng nếu cô có chết đi thì anh em sẽ chiến đấu cho cả phần của cô. Cái mạnh mẽ của

Hạnh trong Ước mơ của đấtlà khi mất liên lạc với các anh bộ đội với các chú các bác

trong giai đoạn cách mạng đang lắng lại thì Hạnh vẫn có một niềm tin mãnh liệt vào

cách mạng, vẫn quyết tâm móc nối lại với cách mạng để tiếp tục hoạt động. Khác với

mọi người, sự mạnh mẽ của Ba trong Cô gái đất Ba Dừa là sự khẳng định vị trí của

mình trong lòng nhân dân, trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Ba

đã cho những kẻ có thói ganh ghét, coi thường phụ nữ biết rằng phụ nữ không phải là

những người như họ nghĩ: “Thứ đàn bà đái khôngkhỏi ngọn cỏ mà nói lóp bốp…”[42,

tr.44], Ba đã chứng minh bằng chính khả năng lãnh đạo, bằng khả năng chiến đấu của

mình, khiến cho những người đã xem thường Ba không bao giờ dám nói những câu

như vậy với Ba mà họ phải nhìn Ba bằng ánh mắt khác. Những người phụ nữ giỏi việc

nước, đảm việc nhà ấy còn biết hòa cái riêng vào cái chung của dân tộc. Với chị Út

Tịch tình cảm vợ chồng đã được hòa vào tình đồng chí, trong chiến đấu “đồng chí

chồng” cùng “đồng chí vợ” thi đua đánh giặc: “Tôi “chia lửa” cho đồng chí chồng rút

đó nghen!”[41, tr.190]. Trong tình yêu của chị dành cho chồng có cả tình đồng chí ấm

áp thiêng liêng. Tình yêu thương của Sáu dành cho mẹ hòa vào tình yêu thương Sáu

dành cho bộ đội, dành cho cách mạng: “Sáu thương mẹ lắm, nhưng không còn là tình

thương của những người cõng em đi tìm mẹ ở sở cao su giữa tối mùa đông, mà tình

thương mẹ ấy bây giờ nó bỗng biến thành cái việc Sáu có thể nhịn đói từ chợ Cay Lậy,

55

bơi xuồng đến hoa mắt rung tay, về gấp để đem gạo cho bộ đội”[42, tr.72-73] (Sen

trong đồng). Ngay cả Sáu cũng không ngờ rằng Sáu đã thương mẹ bằng cách riêng như

vậy, nhưng trong lòng Sáu biết một điều rằng Sáu thương mẹ và Sáu cũng thương bộ

đội.

Nếu hình tượng người phụ nữ Nam Bộ trong văn xuôi Nguyễn Thi nổi bật với

đức tính đảm đang, giàu đức hy sinh và cũng vô cùng mãnh mẽ, kiên cường, thì Nguyễn

Minh Châu lại xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của mình mang những phẩm chất,

tính cách của con người nơi mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió. Ở họ là lối ứng xử

mộc mạc, chan chứa nghĩa tình, là đức tính cam chịu, khả năng nhẫn nhịn, chịu thương,

chịu khó và luôn thường trực những lo âu, lo cuộc sống, lo cho tương lai, sẵn sàng chịu

thiệt về mình. Đó là người đàn bà làng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

dù không giấu được vẻ lúng túng, sợ sệt trước thái độ kiên quyết yêu cầu chị phải li dị

với chồng của Đẩu và Phùng: “Chị chắp tay vái lia lịa: Con lạy quý tòa….”. Vì lòng

yêu thương những đứa con, chị phải nhẫn nhục chịu đựng cảnh hành hạ của chồng từ

ngày này qua ngày khác. Đối với chồng, mặc dù bị ngược đãi chị vẫn chịu đựng, bởi

xét trong sâu xa chị hiểu rằng người chồng đánh mình cũng vì những lẽ riêng, rất đời:

nghèo khổ, lạc hậu, con cái nheo nhóc, không gian sống tù đọng, hai vợ chồng không

có được một khoảng không gian riêng. Cái môi trường “sền sệt” ấy khiến một “anh con

trai cục tính nhưng hiền lành” biến thành một gã đàn ông thô bạo, dã man. Nhưng phản

ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến Phùng choáng váng: “Qúy tòa bắt

tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” [6, tr.128]. Hoá ra,

người được thông cảm lại là những quan tòa cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú

đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người

làm ăn lam lũ, khó nhọc” [6,tr.129]. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người

đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng có phải chịu những đau đớn, những trận

đòn, phải chứng kiến cảnh chồng mình và con trai đối xử với nhau như kẻ thù, phải

chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão. Lời tâm sự cuối cùng của người đàn bà

với khuôn mặt “chợt ửng sáng lên như một nụ cười” khiến cho người đọc hiểu thêm:

có những nghịch lí con người buộc phải chấp nhận. Ta hiểu nỗi niềm của chị, đau đớn

đến xé ruột xé lòng, tủi nhục đến tận độ nhưng trong suy nghĩ giản đơn của chị đâu đó

56

vẫn lóe lên một niềm vui nhỏ bé đến bất ngờ: “vui nhất là ngồi nhìn đàn con tôi chúng

được ăn no” [6, tr.133]. Thêm lần nữa chúng ta hiểu thấu được tấm lòng người mẹ,

chân chất, chịu đựng và giàu lòng hy sinh. Rõ ràng lối ứng xử giàu nghĩa nặng tình đã

phần nào hóa giải những đau khổ, bức bối của con người trong cuộc sống đời thường,

giúp con người sống đẹp hơn, nhân ái hơn.

2.2.2.3. Trẻ em

Với thế giới trẻ thơ, Nguyễn Thi cũng đi vào khắc họa rõ nét tính cách của

chúng. Bằng một giọng văn trong veo như chính cái thế giới của trẻ thơ, nhà văn đã

khắc họa nét tính cách ngây thơ, hồn nhiên của chúng. Đó là thế giới của những đứa

trẻ: “Trẻ con chơi ú tim tìm bắt sau lườn các ghe củ úp lên cát. Có những đứa trốn trên

mỏm đá nhô trên mặt nước, cười. Chúng lăn trên cát như những trẻ con đồng bằng vẫn

lăn kềnh trên đóng rạ”[40, tr.120] (Trăng sáng). Trong truyện ngắn Về Nam thế giới

trẻ con là thế giới của những tính cách hồn nhiên nhưng trong lời nói hồn nhiên ấy cũng

mang đầy ý nghĩa: “Đứa nào ngoan sau này anh Tâm sẽ cho vào Nam chơi, tha hồ

chèo xuồng đi thả câu, không nhìn thấy nhưng Bụng cũng câu được khối cá, nướng lên

ăn vã… Miền Nam là nước mình đấy! Của cả cái Mùi và Bụng nữa…”[40, tr.142].

Miền Nam không phải là của thằng Mỹ, thằng Diệm mà miền Nam là của Bụng, của

những lớp trẻ sau này sẽ lớn lên và sẽ làm chủ đất nước. Lũ trẻ con của chị Út Tịch

trong truyện Người mẹ cầm súng hồn nhiên tranh nhau để giành giống má, ngây thơ

chơi trò đi học. Nhưng ở chúng không chỉ có tính cách chung của những đứa trẻ đồng

trang lứa khác mà những đứa trẻ trong thế giới nhân vật của Nguyễn Thi dường như

trưởng thành hơn, ở chúng có những nét tính cách cũng rất người lớn: một đàn con trẻ

biết cắt đặt công việc gia đình để cho mẹ chúng yên tâm đi đánh giặc. Bé là đứa con

lớn nhất của chị Út, nó biết cách trông em, nó phải dẫn dắt cả một đàn em“loi nhoi lóc

nhóc”, mỗi lần có máy bay giặc đến Bé biết dẫn em xuống hầm tránh đạn, khi mẹ đi

vắng nhà Bé còn quấy bột cho em ăn. Bé có tính cách của một người chị lớn tuổi luôn

nhường nhịn, bao bọc đàn em của mình:“Bữa cơm, nó nhường hết thức ăn cho em. Nó

nhường riết đến nỗi bây giờ nó không biết ăn thịt cá. Muỗi nhiều quá, nó cắt lá chuối

hơ nóng, lót võng cho em ngủ…”[41, tr.182] (Người mẹ cầm súng).Bé đảm đang như

một người lớn thật sự. Hoàn cảnh chiến tranh khiến những đứa trẻ vụt lớn trước tuổi,

57

bởi chúng nhìn thấy những tội ác của kẻ thù hằng ngày vẫn diễn ra trước mắt chúng,

còn các anh các chú thì lại đi đánh kẻ thù bảo vệ cho chúng có lẽ vì thế nên nó đã gieo

vào lòng trẻ thơ những nhìn nhận đúng đắn về kẻ thù, về những trận chiến.

2.2.2.4. Người lính

Viết về những người lính trẻ Nguyễn Thi nhận ra trong tính cách của họ là tinh

thần chiến đấu quả cảm, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước sự tàn bạo.

Tiêu biểu đó là người chiến sĩ Việt trong truyện ngắnNhững đứa con trong gia đình

được khắc họa là một cậu con trai mới lớn, hồn nhiên, vô tư luôn tranh giành với chị

ngay cả trong cuộc sống bình thường lẫn khi đi đánh giặc. Đêm trước ngày đi bộ đội

trong khi Chiến bàn bạc chuyện gia đình và nói với em những lời trang nghiêm thì Việt

lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”[41, tr.82] lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp

trong lòng bàn tay” và cuối cùng “ngủ quên lúc nào không biết”[41, tr.84-85]. Đứa

con trai ngây thơ ấy còn là một người con, một người cháu, một người em, một người

đồng đội giàu tình cảm và sống rất tình nghĩa. Vốn mồ côi cha mẹ, chị Hai ở xa, đứa

em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu của Việt đối với chị thật sâu đậm. Sau khi cùng

ghi tên vào bộ đội, sắp xếp việc nhà xong Việt và Chiến cùng khiêng bàn thờ má gởi

chú Năm: “Việt khiêng trước.Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân

chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thầy lòng mình rõ như thế”[41,

tr.86]. Ngoài tình thương chị Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm đó hình

thành từ những ngày Việt còn nhỏ.“Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt.

Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu

hò đó”[41, tr.69]. Trong lúc Việt bị thương hình ảnh của cha mẹ thân yêu luôn chập

chờn ẩn hiện trong hồi ức của Việt với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào dường như

cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má, cả những hiểm nguy

gian lao của má đã trải qua một cách không hề sợ hãi, tất cả đều gom lại và dồn lại vào

trong ý nghĩa cuối cùng này: “để má ráng nuôi bây lớn coi bây có làm được gì cho cha

mày vui không?”[41, tr.77].Nhưng có lẽ đẹp đẽ hơn cả ở Việt, làm nên vẻ đẹp của chủ

nghĩa anh hùng cách mạng chính là tinh thần chiến đấu quả cảm, kiên cường. Việt

không chỉ là một con người giàu lòng yêu thương mà còn là một chiến sĩ giải phóng

quân dũng cảm, mang trong mình dòng máu gia truyền của những con người gan góc

58

không bao giờ khuất phục trước sự tàn bạo. Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh lẫn

thể chất tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông

nội, chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến. Cha bị chặt đầu, mẹ bị trúng pháo

của giặc.... những hình ảnh đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. Chính mối thù nhà là động

lực thúc đẩy hai chị em Việt anh dũng chiến đấu.Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng

mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, đói khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn

can đảm chịu đựng. Dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi

choàng dậy “Việt day họng súng về hướng đó “nếu mày đổ quân thì súng tao còn

đạn”[41, tr.72]. Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy

mỗi lúc một gần. Cuối cùng khi đồng đội đã tìm được Việt dù kiệt sức, anh vẫn giữ

được tư thế chiến đấu sinh tử với kẻ thù “một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích,

một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu dấu xe bọc thép còn nằm ngang dọc”[41,

tr.87]. Hình ảnh đó đã cho ta thấy tính cách anh hùng của Việt một chàng trai yêu

nước,sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Một dáng vóc cao cả, phi thường, đáng

khâm phục. Và nếu như Việt là một con người được sinh ra và trưởng thành trên miền

non nước Nam Bộ vì vậy ở anh có tính chất sôi nổi, bộc trực, trọng nghĩa, thì Tnú trong

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lại hiện lên với hình ảnh “vóc dáng vạm vỡ”

chứa trong đó cái mênh mang, hoang dại, trong sạch của núi rừng, ở Tnú nổi bật lên

với vẻ đẹp của một con người Tây Nguyên huyền thoại, kỳ vĩ, đậm chất sử thi.

Tiểu kết

Vốn là một nhà văn gốc Bắc, sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Nam Định hiếu học,

giàu truyền thống lịch sử nhưng cuộc sống cá nhân đầy bất hạnh, hoàn cảnh riêng rất

éo le đã tạo nên một Nguyễn Thi giàu suy tư, hiểu đời, hiểu người sâu sắc. Ông gắn bó

với nhân dân miền Nam bằng một tình cảm đặc biệt vừa thủy chung, vừa giàu ân nghĩa,

mảnh đất ấy đã trở thành quê hương thứ hai, là nơi tỏa sáng của một tài năng văn

chương. Ông là nhà văn sinh ra trước hết là để chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo

vệ quê hương đất nước và đồng bào mình. Hiện thực trên những trang văn của Nguyễn

Thi là những gì mắt thấy, tai nghe trong cuộc chiến ấy, nên nó thường nóng hổi, mang

hơi thở của cuộc sống thực trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước

59

của dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có một vốn hiểu biết sâu rộng hơn nữa về vùng đất,

lịch sử, phong tục, nếp sống và con người Nam Bộ. Đó là cả một không gian đậm dấu

ấn Nam Bộ: những con sông, kênh rạch, những con giồng, những cây trồng quen thuộc

nào dừa, cau, mít, trâm bầu, bưởi, thuốc lá…Mảnh đất Nam Bộ tươi đẹp, trù phú đi vào

trang văn Nguyễn Thi một cách tự nhiên như thế không xa lạ mà gần gũi thân thuộc

như quê ta vậy. Không chỉ miêu tả không gian, bối cảnh đậm dấu ấn Nam Bộ mà nhà

văn còn đưa cả lời ăn tiếng nói, cũng như ngôn ngữ sinh hoạt vốn là của riêng con

người mảnh đất ấy vào văn chương của mình như một minh chứng cho tình yêu bất

diệt, giành cả con tim để yêu, cả tâm hồn mình hóa thân vào để hiểu cho bằng được tất

cả những gì thuộc về nơi đây. Miêu tả hiện thực chân thực, đậm chất thơ là thế nhưng

trên hết con người trong cuộc sống, trong cuộc kháng chiến luôn là mối quan tâm hàng

đầu trong sáng tác của ông. Bởi vậy trên những trang văn của mình, Nguyễn Thi đã xây

dựng được cả tập thể anh hùng đó là những người mẹ, người chị, những người lính trẻ,

cả những cụ già mưu trí cho đến những em thơ. Họ là đại diện tiêu biểu của mảnh đất

vốn được mệnh danh là “thành đồng tổ quốc”. Những con người ấy mang trong mình

phẩm chất đôn hậu, trung thực, mưu trí,kiên cường, anh dũng,, thông minh, sáng tạo,

quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Nguyễn Thi đã tạc họ trở thành những bức tượng đài

sống bất tử của thời đại. Viết về người anh hùng bằng niềm cảm mến, trân trọng nhưng

khi viết kẻ địch Nguyễn Thi không quên tạo cho chúng cái vẻ kì quái, dị thường người

không ra người, ngợm không ra ngợm cho đúng với bản chất ngu dốt, tàn bạo. Đóng góp

sức mình góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Thi đã để lại một

kho tàng tri thức quý giá về mảnh đất Nam Bộ anh hùng với những con người kiên trung,

bộc trực. Bởi vậy rất xứng đáng khi khẳng định Nguyễn Thi là “nhà văn của người nông

dân Nam Bộ”.

60

Chương 3

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Trong tác phẩm văn học, nhân vật là đứa con tinh thần, là sản phẩm của vốn

sống trực tiếp của nhà văn. Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động có tính cách,

được bộc lộ dần trong không gian, thời gian và mang tính quá trình. Và muốn xây dựng

nhân vật thành công, nhà văn phải có một quá trình thai nghén, ấp ủ, đồng thời phải có

khả năng đồng cảm, nhập thân vào những tầng lớp xã hội khác nhau. Điều đó có nghĩa

là trong quá trình sáng tạo ra một nhân vật đòi hỏi nhà văn phải huy động toàn bộ tư

cách nghệ sĩ và năng lực tinh thần của cá nhân. Riêng với Nguyễn Thi cuộc sống chỉ

thực sự có ý nghĩa khi gắn mình với cuộc sống của nhân dân và chiến đấu. Ông đi

nhiều, viết nhiều và giành trọn tâm sức của mình để viết về cuộc sống với những con

người anh hùng có thật ngoài đời. Ông dồn tình cảm đó của mình để xây dựng nên kiểu

nhân vật anh hùng trong cuộc chiến tranh, thể hiện con đường đi đến với cách mạng

của nhân dân cũng như những khó khăn gian khổ mà cách mạng đã trải qua, đã được

nhân dân bao bọc, chở che. Nguyễn Thi đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật

của mình trong từng trang viết, người đọc vẫn luôn nhớ đến hình ảnh của Chị Út Tịch

với câu nói khẳng khái “còn cái lai quần cũng đánh”. Hình ảnh người anh hùng Nguyễn

Thị Hạnh, người phụ nữ đã vượt qua muôn vàn tình huống ngặt nghèo để móc nối, tổ

chức cuộc đấu tranh phá ấp chiến lược vào thời điểm cuối những năm 1950. Rồi Sáu

trong Sen trong đồng, cô gái đến với cách mạng một cách hồn nhiên khi nhận rõ sự

khác nhau trong bản chất giữa ta và địch nên đã vượt qua được những trận đòn ghê rợn

của kẻ thù. Đó còn là Ba trong Cô gái đất Ba Dừa đã tham gia cách mạng với một thái

độ nhiệt tình hăng hái, chủ động và tự tin trong công việc… Bằng cách nào nhân vật

của Nguyễn Thi đã bám rễ sâu trong lòng người đọc? Làm được điều ấy nhân vật của

Nguyễn Thi phải được khắc họa thành những chân dung hết sức sống động, và thật sự

chân thật, gần gũi trong tâm hồn người đọc.

Để làm được công việc ấy ngòi bút của Nguyễn Thi đã phải lao động miệt mài

không ngừng nghỉ, từ những chi tiết nhỏ nhất về ngoại hình, lời nói hành động cho đến

những nét tinh tế sâu sắc về nội tâm, tích cách của từng con người cụ thể để đem vào

61

trang văn của mình, từ đó đã tạo thành một hệ thống nhân vật thật hoàn chỉnh trong tác

phẩm. Dưới đây là những phương diện nghệ thuật đặc sắc mà Nguyễn Thi đã sử dụng

để xây dựng nhân vật cho trang viết của mình.

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật

3.1.1. Chân thực, gần gũi

Mỗi nhân vật đều có những nét đặc trưng riêng về ngoại hình, Nguyễn Thi hiểu

được điều ấy và đã vận dụng vào việc khắc họa hình tượng nhân vật trong tác phẩm.

Tuy nhiên không phải nhân vật nào cũng được nhà văn miêu tả hình dáng bên ngoài

mà luôn có sự chọn lựa sao cho việc miêu tả ấy thực hiện được ý đồ nghệthuật của

mình. Ngoài ra khi nhà văn đi vào miêu tả ngoại hình nhân vật cũng không phải là tái

hiện máy móc một chân dung nào đó, mà phải có sự chọn lựa một cách công phu một

vài nét tiêu biểu nhất để khắc hoạ ngoại hình của nhân vật. Những nét có ý nghĩa nhất

của một ngoại hình chính là những nét đạt giá trị điển hình của nhân vật. Ngoại hình

của nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Thi luôn là những gì gần gũi và chân thực nhất

vốn đã trở thành những nét điển hình tiêu biểu của người dân Nam Bộ để lại ấn tượng

khó quên trong lòng người đọc. Đôi khi khi đó chi là những ấn tượng ban đầu để độc

giả nhận diện nhân vật. Trong truyện ngắn Làm việc ấn tượng đầu tiên về anh chàng

Vẽ là một anh chàng có một tuổi trẻ tràn trề sức lực: “Vẽ mới hăm hai tuổi. Đen, ngực

nở như lườn chim cu”[40, tr.55], một chàng trai có sức vóc to lớn, mạnh mẽ với nước

da mang “màu”của những con người lao động. Ngoại hình nhân vật không chỉ là những

ấn tượng ban đầu, đôi khi đó còn là những dấu ấn riêng mà người đọc không thể nhằm

lẫn với bất kì nhân vật nào. Dấu ấn mà nhân vật Thi để lại cho người đọc là hay cười,thật

thà, nhưng rắn chắc: “Thi, một anh bạn hay cười. Lúc nào cũng cười mỉm như một cô

thích làm duyên. Anh em bảo anh thật thà như con gái. Nhưng có một điều trái ngược

là thân anh lại cao lớn. Gót chân anh bước chắc nịch như muốn ra oai cả với mặt đất.

Những lời anh nói đều có đôi mắt to và sắc đưa đẩy thêm, cảm hóa thêm người

nghe”[40, tr.80]. Trong con người Thi luôn có sự hài hòa giữa sự dịu dàng và mạnh

mẽ, người đọc sẽ nhớ mãi về anh bộ đội vui vẻ, dí dỏm nhưng khi lao động cũng có

chút máu nghệ sĩ: “Thi đã nhảy tới đầu dốc nứa. Anh ngồi xổm chân trước, chân sau,

lưỡi dao rừng cầm xuôi trong tay trái. Đầu anh hơi nghiêng nghiêng, tay phải anh giơ

62

lên như đánh nhịp một, hai, ba…rồi bỗng anh trượt người xuống như kiểu xe trượt

tuyết”[40, tr.81](Xuống núi).Viết về nhân vật cậu Huân trong tác phẩm cùng tên: “Vẫn

những nốt trứng cá dầy cộm trên hai má, đôi lông mày râm lồ lộ dưới cái trán thấp

của khuôn mặt ngắn, đôi môi không hút thuốc lào đỏ chót như con gái, mặt bên trái có

một vết ve to, trong đến gan góc”[40, tr.206] (Cậu Huân). Nét đặc trưng riêng của một

người thanh niên đã để lại ấn tượng không bao giờ quên trong lòng người phụ nữ cùng

chồng nuôi dấu cán bộ. Nguyễn Thi khắc họa được những diện mạo luôn để lại ấn

tượng sâu sắc trong lòng người đọc là vì nhà văn đã thật sự nắm bắt được những đặc

điểm nổi bật của nhân vật và đi vào miêu tả một cách có nghệ thuật.

Nhân vật của Nguyễn Thi là những con người gần gũi,thân thuộc được Nguyễn

Thi đưa vào trang viết rất chân thực vì thế nó luôn có sức sống, một sức sống tự nhiên.

Đó là hình ảnh thân thuộc, hồn nhiên của những đứa trẻ miền Nam trong Chuyện xóm

tôi: “Chiều chiều, nắng ngã ngọn, Đực phơi cái bụng chang bang, đội cái nón rộng

lểnh lảng của mẹ trông như một tai nấm…Cả hai lưng trần đỏ hỏn, quần cụt sệ

rốn…”[41, tr.7]. Hình ảnh ngộ nghĩnh, đáng yêu ấy chắc hẳn có nhiều người đã nhìn

thấy trên từng bờ đê, trên từng cánh đồng quê. Để miêu tả những nét chân thực gần gũi

như thế ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Thi phải thật sự chân chất, mang những nét

phương ngữ, dễ hiểu, dễ gần như: “nắng ngã ngọn” “cái bụng chang bang” “rộng

lểnh lảng” “quần cụt sệ rốn”. Từ ngữ chân phương, gần gũi ấy để miêu tả hình dáng

cũng chân phương, gần gũi. Chiến tranh vẫn cứ ác liệt nhưng trẻ con vẫn là trẻ con,

vẫn hồn nhiên, vẫn vui đùa cùng bè bạn. Hình ảnh trẻ con hiện lên qua ngòi bút của

Nguyễn Thi còn nhận được sự cảm thông, lòng thương cảm trong lòng đọc giả vừa hiện

thực lại vừa gợi tả, như hình ảnh của chị Út Tịch khi chị đánh lại địa chủ và bỏ trốn:

“Một buổi sáng, các anh bộ đội thấy một em bé gái ốm tong teo mặc quần cụt, áo cánh

vải xe lửa vá chằng vết roi còn hằn trên cổ, đến nằn nì xin đi theo bộ đội”[41,

tr.153](Người mẹ cầm súng). Nghèo khổ, ở đợ từ đời này qua đời khác, áo chẳng được

lành cơm chẳng được no đó là hoàn cảnh của chị Út. Cuộc sống đói nghèo, bất công đã

tạo cho Út một hình dáng như thế, cái chân thực ở đây còn cho người ta thấy hình ảnh

trẻ con hồn nhiên đáng yêu nữa mà nó gieo vào lòng người đọc một nỗi xót xa, một nỗi

đau làm lòng người ta nhoi nhói. Còn đây là hình ảnh của con Bé-đứa con lớn của chị

63

Út Tịch: “Con Bé mới mười tuổi. Nó bồng hết em này đến em khác. Hông nó lúc nào

cũng sần sượng, nổi chai.”[41, tr.182](Người mẹ cầm súng). Từng vết sần sượng, nổi

chai ấy là minh chứng cho những ngày tháng vất vả lam lũ của một cô bé phải thay mẹ

mình chăm sóc cho những đứa em còn ngây thơ hơn cả tuổi lên mười của cô bé. Đây

không chỉ là hình ảnh riêng của chị Út Tịch hay con Bé con chị mà khi đọc tác phẩm

độc giả vẫn hình dung ra được: đó là hình ảnh của những kiếp người còn trong gông

xiềng, hay những đứa bé phải lớn trước tuổi. Chúng hiểu được rằng phải tự biết lo cho

bản thân, lo cho cả những đứa em nhỏ của mình để cha mẹ chúng có thể yên tâm cầm

súng ra trận.

3.1.2. Hài hòa giữa miêu tả trực tiếp và gián tiếp

Nguyễn Thi miêu tả ngoại hình nhân vật không phải để tạc những bức tượng về

nhân vật ấy mà thông qua ngoại hình nhân vật nhà văn còn thể hiện được ý đồ nghệ

thuật của mình. Qua ngoại hình người đọc sẽ thấy được hoàn cảnh xuất thân và quan

trọng hơn là tính cách của nhân vật.

Ngoại hình nhân vật được Nguyễn Thi miêu tả trực tiếp thông qua người kể

chuyện, có khi đó là nhân vật “tôi” trong câu chuyện. Như hình ảnh cô gái miền Bắc

được nhà văn miêu tả trực tiếp: “Mận năm nay mười chín tuổi, chắc người, hai má lúc

nào cũng như trong bếp mới ra”[40, tr.139] (Về Nam). Nét hồn nhiên, đáng yêu của

tuổi mười chín của Mận thể hiện ở cái tính còn ngại ngùng, mắc cỡ khi gặp những anh

bộ đội. Cô gái ấy cũng đảm đang quán xuyến mọi việc nhà, chăm lo cho đứa em và

cũng giúp đỡ các anh bộ đội. Người ta cũng dễ hình dung ra một cô gái sắc sảo, lanh

lẹ và đáng yêu qua lời miêu tả trực tiếp của nhà văn: “Con mắt lá răm, lông mày lá

liễu, đáng trăm quan tiền, ấy là cô Tình! Lạy chúa, cô là người Công giáo, nhưng đôi

mắt cô còn sắc hơn cả những lời nào sắc sảo nhất trong Kinh thánh. Tuy nhiên, đôi

môi cô lại nhỏ, trong rất hiền từ.”[40, tr.103] (Lao động là quang vinh).Nhân vật Tình

qua ngòi bút của Nguyễn Thi là một cô gái dễ để lại ấn tượng cho người đọc. Cô có

một nét đẹp có sự pha trộn, đan xen giữa sắc sảo và dịu dàng, lanh lẹ và hiền từ.Đằng

sau vẻ đẹp đó lại là một bản lĩnh vững vàng, mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cô chỉ huy dân

quân, diễu hành, thao tác đại liên, tham gia mọi công tác xã hội, tự nâng mình lên ngang

hàng bình đẳng với nam giới.“Tiếng hô của Tình trong suốt, nghe rõ ràng. Cây đại liên

64

đặt xuống nhắc lên, răm rắp theo mệnh lệnh….Cô đang lăn mình ra ngoài khoảng

trống, nhường mô đất cho cây đại liên tiến lên, nhằm về phía trước, bóp cò”[40, tr.115].

Cũng như Tình, cô Lý trong truyện ngắn Làm việccũng được tác giả miêu tả trực

tiếp:“Cô Lý hiện ra ngoài cổng. Hiện ra như một cô tiên hiện đại dưới bóng trăng

xanh: áo trắng gài kín cổ, khăn đội hơi lệch một bên, mái tóc mai trải ngược có mùi

thơm hoa bưởi, cái thắt lưng màu mỡ gà óng ả bên hông.”[40, tr.67].Một vẻ đẹp của

sự tươi trẻ, hóm hỉnh nhưng cũng rất mực dịu dàng đan xen vào câu chuyện dường như

làm giảm đi cái không khí ngột ngạt, căng thẳng của những ngày tập luyện đem lại cảm

giác tươi vui, thư thái khi cô gái ấy cất tiếng hát ghẹo đôi câu. Nhân vật Sương trong

truyện ngắn Xuống núi:“Sương trùm khăn vuông kín mít, chỉ để hở đôi gò má hồng và

cặp mắt lồ lộ như người chơi ú tim. Trên khuôn mặt nửa kín nửa hở ấy, đôi mắt cô đã

bắt người ta có những cảm giác hơi kỳ lạ: nó như đang rình mò để nuốt lấy đằng trước,

và như sẵn sàng như một thế chịu đựng, chiến đấu nắm lấy phần thắng. Trên nét mặt

ấy còn thoảng một màu da nâu, màu da của các cô gái siêng năng vùng biển” [40,

tr.86]. Cô mang làn da nâu của những cô gái vùng biển quê hương cô. Với ánh mắt biết

nói, nét mặt, nụ cười của Sương đã cho ta thấy cô là một cô gái gan dạ, bền trí, một cô

gái mang nét dịu dàng nhưng khi cần thiết thì cũng mạnh mẽ không thua kém một ai.

Và đây là hình ảnh của một người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ và tủi nhục trong

truyện Im lặng:“Đôi mắt long lanh ươn ướt hình ảnh như vừa có ngấn nước. Trên gò

má cao cao, nó càng sâu thăm thẳm như đọng ở đấy nhiều đêm nghỉ ngợi. Tóc chị xõa

xuống lắp nửa vừng trán, tôi nhìn thấy rõ một vết sẹo dài nằm ngang thái dương. Mái

tóc chị càng làm tôi ngạc nhiên,chỉ ngắn như một người con trai để dài, chưa che hết

gáy. Chị cử động nhanh nhẹn, hơi thở mạnh từng giây đứt đoạn, mệt mỏi. Tất cả đã

nói với tôi một con người chịu đựng và đang buồn”[40, tr.367]. Đó là một phụ nữ có

nhiều tâm sự, có nhiều xúc cảm. Chị có tên Nhãn cái tên gắn liền cuộc đời chị với quê

hương thân thương bị bắt trong một lần đi liên lạc, chúng trói chị lại để làm chuyện đồi

bại để rồi chị bị chúng truyền cho cái bệnh khốn kiếp. Hòa bình lập lại, chị mới được

chữa khỏi nhưng nỗi đau không dừng lại ở đó mà chị lại phải một lần nữa đớn đau khi

người yêu cô chia tay “vì ngại đường tương lai con cái sau này” do bệnh của cô, rồi

65

anh ta đi lấy vợ. Hoàn cảnh như thế, đã tạo cho cô một tính cách “trầm lặng” nói đúng

hơn đó là “im lặng”.

Nhưng có nhiều lúc nhân vật được nhà văn khắc họa gián tiếp qua cảm nhận của

nhân vật trong câu chuyện hay của những người xung quanh. Trong truyện ngắn Những

đứa con trong gia đình ta bắt gặp hình ảnh của chị Chiến được khắc họa qua dòng hồi

tưởng của Việt. Chị Chiến mang dáng dấp quen thuộc của Má nói riêng và của những

người dân Nam Bộ nói chúng. Qua dòng hồi tưởng của Việt chị Chiến hiện lên với vóc

dáng của một con người lao động: "hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy nắng, rồi

dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng bàn thờ má lên”[41, tr.86].

Đó là vẻ đẹp của con người sinh ra để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để

chiến thắng. Tuy vậy, chị cũng rất ư là nữ tính. Đi đánh giặc còn mang theo gương,

lược, giữa mỗi trận đánh lại đem ra soi mình. Cảm nhận của nhân vật “tôi” về người

đàn bà trong truyện Quê hương mang một nét rất riêng: “một khuôn mặt trái xoan mang

màu nâu của những người vùng biển tưởng như không có nét gì đặc biệt, khi nào cười

thì hai gò má mới nhô lên đôi chút như thách thức, đôi mắt hơi thâm lại thoáng vẻ

nghiêm trang, còn khi nói chuyện thì chị nhìn thẳng rất hiền lành, sự hiền lành của một

người chân thực, câu chuyện dù buồn hay vui, giọng nói lúc nào cũng dồn giập và cởi

mở, nghe thánh thoát như buổi sáng mùa hè ở miền Trung”[40, tr.52]. Nét đặc trưng

riêng của người phụ nữ ấy là làn da nâu của vùng biển quê hương cô, là đôi gò má hơi

nhô lên như thách thức, là đôi mắt nghiêm trang nhưng lại rất hiền lành tất cả điều đó

tạo thành một nét vừa riêng của chị, vừa của tất cả những người phụ nữ vùng biển miền

Trung, hơn thế còn có nét gì đó của người phụ nữ Việt Nam nói chung. Không phải

ngẫu nhiên mà tác giả đặt những lời nhận xét của nhân vật “tôi”ở cuối câu chuyện. Nếu

đặt ở đầu câu chuyện sẽ chỉ để lại ấn tượng ban đầu về ngoại hình của một người phụ

nữ bình thường, ngoại hình được đặt ở cuối câu chuyện để kết thúc câu chuyện mà

người đọc vẫn có những ấn tượng sâu sắc nhất về nhân vật của mình, và có những nhìn

nhận đúng nhất về nhân vật thông qua cái nhìn của nhân vật “tôi”. Còn khi viết về

người nữ anh hùng Nguyễn Thị Út thì Nguyễn Thi đã để hình ảnh chị hiện lên qua cảm

nhận của bà con lối xóm: “Tại xã Tam Ngãi, huyện Cầu kè, tỉnh Trà Vinh có một người

đàn bà đã sáu con tên là Nguyễn Thị Út. Dáng người nhỏ gọn, chị có khuôn mặt tròn

66

và đôi mắt to, sáng. Cô bác lớn tuổi quen gọi chị là con Út Trầu, vì chị hay ăn trầu.

Lại có người đặt danh chị là “Bà Hồng” vì chị đánh giặc rất giỏi. Xóm giềng theo tục

địa phương ghép tên chị với chồng, cứ kêu là Út Tịch”[41, tr.149](Người mẹ cầm súng).

Qua những lời của bà con về chị đã cho người đọc biết được nét ngoại hình của chị

dáng hình nhỏ gọn, khuôn mặt tròn, đôi mắt to và sáng, nhưng không chỉ có bấy nhiêu

mà qua đó người đọc còn biết thêm được quê hương của chị, biết chị đã là mẹ của sáu

đứa con, biết được xuất xứ của những tên gọi của chị và quan trọng hơn là biết được

đôi nét về tính cách của chị như hay ăn trầu và đánh giặc rất giỏi. Ngoài ra còn thể hiện

những tình cảm của bà con dành cho chị, đó là những tình cảm vừa gần gũi thân thương

vừa nể phục người phụ nữ anh hùng Trà Vinh. Hay đi vào miêu tả nhân vật Sáu trong

Sen trong đồng, Nguyễn Thi đã đặt ra câu hỏi “Ở con người Sáu có những gì đặc biệt

mà tất cả mọi người đều thương mến?”; và tự trả lời bằng những điều thật giản đơn:

“Năm nay Sáu hăm nhăm tuổi, chưa có chồng, với dáng đi vội vã, đôi mắt hiền dịu gần

như lờ đờ, đôi môi nhỏ lúcnào cũng niềm nở và sẵn sàng nói những lời dịu ngọt, lúc

vui cũng như lúc buồn, lúc vê hai ống quần lên tận đầu gối để dẫn bộ đội luồn hàng

rào gai vào ấp chiến lược hoặc lúc ngồi tì cằm lên mép ván để cố viết tờ báo cáo gởi

về các chú Huyện ủy”[42, tr.57]. Sáu hiện lên với một dáng vẻ dịu dàng, cởi mở, chịu

thương, chịu khó, một con người đầy tình cảm và lại nhiệt tình hăng hái trong công tác,

trong cuộc sống hằng ngày; tất cả những điều đó đã kéo mọi người lại gần cô hơn,

thương mến cô hơn.

Bên cạnh những nhân vật hiền lành, lương thiện, kiên cường, dũng cảm, Nguyễn

Thi không phải không thành công trong việc khắc họa chân dung những nhân vật phản

diện xét từ góc độ ngoại hình. Thật không khó để nhận ra được cái bản chất tàn ác, xảo

quyệt, lưu manh của chúng, bởi chỉ cần nhìn vào ngoại hình cũng đủ để nói lên tất cả.

Nguyễn Thi đã không hề nương tay, tỏ rõ thái độ kiên quyết, cứng rắn cùng với thái độ

mỉa mai, châm biếm sâu cay. Đó là khi miêu tả hình thù thằng địch từ thằng xếp bốt

Bà Mi, sáu mươi tuổi, giả danh dì Phước đến thằng Mỹ vừa bị tóm “cao to gấp sáu lần

chị Út”, mặt tái mét, há miệng nhìn cái ngón tay ngoéo cò của chị ngơ ngác không hiểu

thế này là thế nào, đến những cái xác của chúng nó sau trận đánh “mùi máu bốc lẫn với

mùi dầu thơm”. Hay chuyện chúng nó mắc mưu du kích vừa đạp lên mấy cái lon con

67

nít chơi kêu roong roong là “ hoảng hồn, nhảy lung tung, rớt xuống hầm chông như

ếch tháng bảy” [41, tr.194]. Không chỉ tập trung miêu tả vẻ bề ngoài mà nhà văn còn

nói lên được cả con đường tiến thân của chúng “những kẻ cướp gặp thời” đó là thằng

đồn trưởng trong Ước mơ của đất: “cái thằng vốn là dân du côn, nhân một hôm liều

mạng đi tìm được xác chiếc máy bay có chở thằng quan Mỹ bị ta bắn rớt, nên được

làm đồn trưởng” [41, tr.355]. Nhà văn cũng đã dùng giọng điệu giễu nhại để mỉa mai

bọn tay sai, bọn đầu hàng giặc:“Thằng cò hiến binh theo rằn ri cái gì ở trên vai. Nó

không có râu nhưng cằm nó xanh um như đít con nít có chàm” [42, tr.112] (Sen trong

đồng).Cũng bằng cách so sánh không cân đồng này mà chúng ta hiểu rỏ hơn thái độ

của nhà văn hay chính là của những người nông dân trong tác phẩm đối với những kẻ

bán rẻ nhân cách của mình để mưu cầu lợi danh. Ở tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa là

cái dáng vẻ bên ngoài của tên đại diện Hiếm được Nguyễn Thi lột tả hết sức “chân

thực”: “…Người hắn trông nhỏ choắt. Trên mặt hắn chỉ có hai cái tai và sống mũi là

không động đậy, còn thì toàn bộ đều nhăn nhó, kể cả cặp kính trắng trễ xuống như

cũng đang chuẩn bị để nhảy ra ngoài. Vẻ công sở của hắn đập ngay vào mắt thiên hạ

bằng bộ bà ba trắng xác như giấy”.Vẻ bề ngoài của lão đại diện Hiếm đã trông khác

người đã vậy lúc nào cũng “ nhướn đôi lông mày, thổi tàn thuốc trên mặt bàn, tỏ vẻ

chờ sự trả lời. Hắn sinh ra để làm đại diện với mái tóc dài vuốt ngược ra đằng sau,

một đôi mắt to và trũng vừa lờ đờ vừa ẩn náu một cái gì khao khát đến vô độ. Với

tuổi bốn mươi ngoài, hắn chưa để râu”. Không chỉ miêu tả vẻ bề ngoài của lão,

Nguyễn Thi còn cho chúng ta biết được đằng sau đó là cả những âm mưu đen tối,

toan tính vụ lợi được che đậy hoàn hảo mà nếu như chỉ nhìn bề ngoài thì không thể

nào phát hiện được bởi: “Hắn tự nhận mình là không màng danh lợi, trừ phi danh lợi

do mình đi tìm mới có hoặc ra đường thình lình hắn bắt gặp….Nếu có bắt được quả

tang lũ trẻ tinh nghịch vẽ những của bậy trên tường nhà hắn, hắn cũng chỉ rầy sơ, có

khi cao hững còn cho tiền” [42, tr.223-226].

Tóm lại, dù đi vào khắc họa hình dáng nhân vật chính diện hay phản diện, người

lớn hay trẻ con thì Nguyễn Thi vẫn sử dụng một ngòi bút tinh tế, một khả năng quan

sát, khả năng chọn lọc chi tiết nhạy bén của mình để khắc họa thật sắc nét hình tượng

nhân vật. Cũng chính vì thế mà ngoại hình nhân vật hiện lên trọn ven, tạo được ấn

tượng ban đầu cho người đọc, ngoài ra còn tạo được những dấu ấn riêng cho từng nhân

68

vật. Khắc họa hình dáng bên ngoài còn thể hiện được những góc độ khác của nhân vật

như: xuất xứ, tính cách của nhân vật. Ngoài ra, thông qua đó còn thể hiện được tư

tưởng, tình cảm của nhà văn đối với nhân vật.

3.2. Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật

Thế giới nội tâm của con người là một thế giới mênh mông, đa dạng. Đi vào xây

dựng hình tượng nhân vật, Nguyễn Thi luôn đi sâu vào miêu tả nội tâm của những nhân

vật trong tác phẩm của mình: đó là những tâm trạng, những suy nghĩ, phản ứng tâm lý

trong những hoàn cảnh, tình huống nào đó. Mạch vận động của câu chuyện cũng đi

theo mạch nội tâm của nhân vật. Sự vận động nội tâm trong nhân vật của Nguyễn Thi

phong phú nhưng không quá phức tạp, bởi họ là những con người bình dị, chân quê

nên suy nghĩ, nội tâm của họ cũng bình thường, tự nhiên và chân thực. Nhân vật trong

tác phẩm Nguyễn Thi hầu hết đều có một nội tâm đa dạng. Trong nội tâm nhân vật luôn

có sự đấu tranh để nhân vật nhìn thật rõ lòng mình, để biết đâu là đúng, đâu là sai. Quá

trình đấu tranh đó đã giúp nhân vật bộc lộ đúng bản chất của con người mình.

Đó là sự đấu tranh của Na trong truyện Trong xóm nhỏ về tình yêu đầu mới

chớm nở, đối với anh bộ đội Thông, về chuyện chồng con, về mẹ già: “Ra đồng bạn bè

bàn tán, thanh niên bóng gió, về nhà thì chị em tiếng bấc, tiếng chì, nước mặt mẹ như

đè nặng hai vai. Na muốn bỏ nhà đi cho rảnh mắt nhưng nghĩ đi nghĩ lại, mình đi yên

phận mình, mẹ ở nhà chẳng lẽ để người ta chửi? Bằng ấy tuổi đầu Na chẳng chịu cho

ai làm xấu hổ mẹ mình cả. Na nhất định không thèm về với anh chồng trẻ con kia rồi

muốn ra sao thì ra”[40, tr.326]. Bao nhiêu nỗi lo toan cho cuộc đời vô định của mình

trước một cuộc hôn nhân không tình yêu, không cân xứng. Rồi sự xuất hiện của Thông,

tình yêu của Thông làm Na hy vọng biết bao nhiêu, hy vọng vào một ngày mai thống

nhất đất nước họ cùng nhau về Nam trên con tàu mơ ước. Nhưng những tàn tích phong

kiến khốn nạn còn sót lại ở thôn quê trong việc ép duyên đã làm tan vỡ biết bao cuộc

tình trong trắng giữa những cô gái nông thôn với các anh bộ đội,trong đó có Na và

Thông. Na dứt khoát thoát ra khỏi tàn tích phong kiến ấy nhưng Thông thì không được,

anh còn là bộ đội, anh là con của dân, là người phải đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc

cho nhân dân chứ không thể làm xáo trộn tất cả lên, làm niềm tin vào cách mạng của

nhân dân bị lung lay. Còn Sáu trong truyện dài Sen trong đồng, thì sự đấu tranh trong

69

nội tâm là những băn khoăn về Đảng, niềm tin đối với cách mạng. Khi bị giặc bắt dù

chúng có đánh đập chị đến đâu, chị vẫn giữ trọn lời hứa với cách mạng: “trung thành

với cách mạng đến hơi thở cuối cùng, dù có bị bắt cũng không được khai báo”. Trong

tù chúng bắt tù diễn kịch “Người mù vượt tuyến” hay “Máu rơi rừng Lý Thuận”, trong

suy nghĩ của Sáu đã có sự xáo trộn: “Trời ơi sao hồi đó đằng mình lại làm điều gì kì

vậy? Sáu hỏi mấy chị có thiệt vậy không?... Sáu kiểm lại kỹ coi mấy anh mấy chú hiền

lành có ai làm như vậy không?”. Nhưng những việc làm của chúng không làm Sáu

hiểu khác về cách mạng, Sáu vẫn giữ cho cách mạng tấm lòng trắng trong của một

người con gái dám hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng cách mạng: “Không có! Chỉ

có bọn Việt gian mới làm vậy thôi. Nghĩ vậy, Sáu yên tâm coi nó diễn kịch, một chút

nữa là Sáu tin, lo hơn cả lo cha chết…Giận cái ngu của mình hôm trước, không bao

giờ Sáu coi nữa ”[42, tr.158-159]. Từ đó về sau Sáu biết cách mạng ở trong lòng mình,

luôn tồn tại, luôn chói sáng, còn “Đảng là tất cả anh chị em mình ở đây”. Sáu tự đấu

tranh với lòng mình để chị biết được tấm lòng của chị đã dành hết cho cách mạng, dành

hết cho Đảng và cũng để biết được đâu là đúng đâu là sai. Qua đó đã bộc lộ được bản

chất của người phụ nữ cách mạng ấy, trong sáng, tinh khiết như một đó hoa sen, “Gần

bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.Miêu tả tâm trạng vợ chồng ông Tư Trầm trong tiểu

thuyết Ở xã Trung Nghĩa là nỗi lo nguy cơ bị cướp ruộng thì giọng văn của ông u uất

và đau xót: hai người già cả đơn côi, cô quạnh với tâm trạng nặng nề trong khung cảnh

một đêm sâu với một không gian có vầng trăng đỏ tứa, có tiếng chó sủa rộ, tiếng mõ

báo động...

Nội tâm nhân vật được dùng để lý giải hành động và lời nói của nhân vật. Những

con người cách mạng như Sáu, Ba, suy nghĩ đúng nên hành động đúng. Suy nghĩ của

tên trung úy đồn trưởng đồn số bốn trong truyện ngắn Tự do, cái tự do của hắn lệch lạc,

hắn nghĩ rằng cái tự do của hắn có được là do ngài Tổng thống Diệm ban cho, tự do

của hắn là: “Cứ để cho ai thích gì làm nấy, điều sang còn lại, sự hèn mất đi”[40, tr.217],

cứ thế hắn tự do chén cơm rượu nhà mụ Cầm,tự do cưỡng bức người phụ nữ mà hắn

muốn,và cuối cùng để trả giá cho sự tự do ấy là cái chết của hắn. Rồi đến những tên

ngu dốt như Đinh Như Khoa, Phan Thanh Vân hay Phạm Văn Đăng chúng nghĩ có thể

70

tìm một cuộc sống yên ấm, cao sang khi đi theo gót giầy của kẻ thù để tàn phá quê

hương, kết quả là sao? Là chúng thất bại, mất mạng, tù tội, bỏ vợ, bỏ con…

Nội tâm nhân vật còn bộc lộ rõ nét qua suy nghĩ của họ về cách mạng và Đảng.

Cách mạng trong suy nghĩ non nớt của cô bé Út trong Người mẹ cầm súng là các anh

bộ đội trả nợ cho gia đình Út, giúp gia đình Út thoát khỏi cảnh đi ở đợ từ đời này sang

đời khác. Khi trưởng thành hơn thì cách mạng trong suy nghĩ của Út là đánh Tây, là

niềm tin vào cách mạng, cách mạng có Bác nhất định sẽ thành công, và còn là câu nói

của anh Hai Tấn: “Cách mạng không ở đâu xa, ở ngay trong lòng mình”[41, tr.163].

Và Đảng chính ở trong con người như chị với câu nói: “Lớp mình có giàu hồi nào đâu

mà biết nghèo”. Còn cách mạng đối với Hạnh trong Ước mơ của đất là phải làm sao

giúp được ấp nhà, phải làm sao được cùng anh em mình đánh giặc.

Nguyễn Thi thành công trong việc khắc họa nội tâm nhân vật,từ việc đi vào khắc

họa những cảm xúc tinh tế cho đến những suy tư sâu sắc trong nội tâm của nhân vật.

Nguyễn Thi đã miêu tả hết sức sinh động thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm

của mình. Hiểu được những suy nghĩ tâm tư của người nghèo khổ, trang viết Nguyễn

Thi luôn có sức hút với độc giả, bởi Nguyễn Thi luôn lắng lòng mình để nghe tiếng

lòng người.

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong xây dựng nhân vật

3.3.1. Ngôn ngữ độc thoại

Độc thoại nội tâm là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chình mình, thể hiện

tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người

trong dòng chảy trực tiếp của nó” [11, tr.108]. Độc thoại nội tâm diễn ra trong suy

nghĩ của nhân vật và không phát ra thành lời. Trong độc thoại nội tâm, ngôn ngữ

không bị cản trở bởi bất kì yếu tố nào bên cạnh, vì nằm trong dòng ý thức của nhân

vật. Đây là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn trong việc khám phá bề sâu

tâm hồn con người. Qua đó bản chất, và tâm hồn con người được phơi bày một cách

rõ nét nhất.

Khắc họa nội tâm của nhân vật, Nguyễn Thi đưa nhân vật vào những hồi ức và

suy tư. Những suy tư trong dòng hồi ức của nhân vật Việt trong truyện Những đứa con

trong gia đình khi bị thương trên trận địa được nhà văn khắc họa rõ nét. Miêu tả tâm

71

lí, nội tâm của người tỉnh táo đã khó mà ở đây lại là tâm lí, nội tâm của con người luôn

nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó

bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh

cơn mê” đó của nhân vật. Bốn lần Việt “tỉnh dậy ” trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì,

nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch

hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của

ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ, tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn

biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt

tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ “khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào

cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình

cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc

ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày

nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của

người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy

khiến Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ với chuyện chị em giành

nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú... Nhìn

chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Nguyễn Thi đã khéo

léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với “kết cấu” của

những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc

một sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật.Đó còn là cái suy nghĩ của người phụ nữ

tin tưởng vào chồng mình nhưng lại có chút giận dỗi vì lời bông lơn của chồng: “Bây

giờ, ngồi một mình, nỗi ấm ức không chân, không cẳng bỗng lù lù kéo đến…Ơ cái

người đàn ông hay lăng nhăng! Ai người ta gửi lòng, gửi dạ cho riêng eng mà eng

hay làm rộn lên. Eng đùa với chúng bạn nhưng eng không nghĩ tới vợ Eng. Những

lúc ngồi ngẫm một mình như ri”[40, tr.129] (Trăng sáng). Đến những thắc mắc trong

lòng cô gái muốn làm cái gì đó cho cách mạng, cho các anh bộ đội khi bộ đội đóng

khắp cả xóm, nhưng không đóng ở nhà mình: “Bao nhiêu nhà khác điều ở, duy có

nhà Mận là anh em chừa ra, trơ trọi như nhà hoang. Mận nghĩ mãi. Tại thành phần

Mận có nặng nề gì chăng?... Gia đình Mận không có gì đáng ngại. Hay tại Mận có

điều tiếng ngang tắt gì chăng? Hay Mận không có chồng nên các anh ấy sợ, không

72

ở? Các anh bộ đội gì còn chẳng sợ, lại sợ người chưa có chồng, lẩn thẩn!”[40,

tr.140](Về Nam). Suy nghĩ của cô cũng chỉ là ý nghĩ đời thường, một thắc mắc của

những người dân thương yêu bộ đội, ủng hộ cách mạng muốn góp một phần nhỏ sức

lực của mình vào cuộc cách mạng của cả đất nước.

Suy nghĩ giản đơn trong thế giới nội tâm của trẻ thơ cũng hồn nhiên, đáng yêu

và trong trẻo như dòng nước mát trên con sông quê hương mà ngày ngày chúng thường

hụp lặn. Đó là ý nghĩ thằng Mỹ không có cổ vì cậu bé thì thấp mà thằng Mỹ cao nhòng

cứ cúi đầu xuống trong truyện Trên đường xóm. Cái ý nghĩ trong tâm tưởng của con

Bé rằng thấy má nó đánh bót, mà xung phong khi trèo lên ngọn dừa trước nhà: “Dường

như má đang xung phong, chụp súng, vọt qua mương rượt giặc”[41, tr.99]. Suy nghĩ

của trẻ thơ cũng trong veo như đôi mắt tròn xoe của chúng: “Nó thương má lắm vì

thằng Mỹ chưa chịu chết nên má còn phải đi đánh chúng, má vắng nhà hoài nên cứ

thương hoài”[41, tr.109](Mẹ vắng nhà). Tình thương của đứa con dành cho người mẹ

cũng được nói lên cụ thể trong suy nghĩ của Bé.Trẻ con có những suy nghĩ hồn nhiên

vô tư, nhưng trong suy nghĩ ấy trẻ con vẫn có ý thức về kẻ thù, về việc phải đánh kẻ

thù. Đây là suy nghĩ của cậu bé Cần lúc mới năm tuổi mỗi khi tưởng tượng về thằng

Tây: “Cần lại nghĩ rằng thằng Tây tựa một thằng chạy rất nhanh, có đến bốn chân, tay

dài như cây trúc, lúc nào cũng có thể nắm cẳng trẻ con xách lên được”[41, tr.227].

Dần dần thằng Tây biến đổi hình tượng trong óc Cần: Đó là những thằng còn dữ tướng

hơn cả lão thầy pháp Cỏn, chỉ có hai chân thôi, tay cỡ đòn gánh, nhưng mặt có lông,

chúng mổ bụng thím Tư hay hát đưa em như mổ gà và đánh bà già, ông lão tóc đã bạc

trắng, còn đau hơn cả người lớn đánh trẻ con. Tội ác của thằng Tây hiện lên trong suy

nghĩ Cần ngày càng cụ thể hơn bằng những việc làm tàn ác của chúng mà Cần đã thấy.

Và cuối cùng thằng Tây trong óc Cần là thằng đã bắn chết chị hai của Cần, cụ thể hơn

đã trở thành một mối thù trong lòng Cần, thành nỗi đau đớn khi mất đi người thân

(Những sự tích ở đất thép).

Nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Thi luôn có những suy nghĩ, băn khoăn về bản

thân mình, về con đường mình đã chọn. Đó là suy nghĩ của chị Út Tịch trong Người

mẹ cầm súng khi được kết nạp vào Đảng: “Chị tự giận mình sao hôm đó run quá không

nói được hết những lời thề trước Đảng, nhưng chị lại sung sướng và bớt lo vì những

73

lời thề ấy chị đã được giảng dạy và có làm rồi”[41, tr.211] và suy nghĩ của chị trước

khi lên dự đại hội: “Nghĩ mình dốt, lên đại hội không biết nói gì, khóc”[41, tr.214]. Đó

là suy nghĩ của Gần trong Những sự tích ở đất thép khi lần đầu tiên ra vành đai công

tác: “Ta sẽ là con trai, ta không sợ bom đạn, nhất định ta sẽ bắn được một thằng

Mỹ”[41, tr.271].Đó là nỗi lo lắng băn khoăn của Hạnh khi mất liên lạc với các anh bộ

đội: “Làm sao nối công tác được với các anh? Hạnh viết thư gởi cho ai, gởi đi

đâu?”[42, tr.312](Ước mơ của đất). Đó là nỗi lo lắng của Ba trong truyện Cô gái đất

Ba Dừa, khi đứng trước bà con họp xóm: “Từ hôm về tới nay chưa ra mắt đồng bào

lần nào. Họp xóm như thế nào, Ba không biết. Nghe tiếng mấy chú kêu loa, Ba rối lên,

nói cái gì đây thưa cô bác. Làm sao…”.[42, tr.41]. Cái bỡ ngỡ của lần đầu lãnh đạo

người khác. Ba suy nghĩ về công việc lãnh đạo của mình: “Lãnh đạo chắc là như vậy.

Ai làm không đúng thì mình lại mình nói cho họ biết”[42, tr.45].

Không chỉ suy nghĩ về bản thân mình, nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn

Thi còn suy nghĩ cho những người thân của mình. Như cô thanh niên được đi tân binh

sắp phải xa mẹ, cô đứng ngoài hé cửa dòm mẹ mình: “Tóc má vẫn còn đen nhưng mắt

kém lắm, phải nghiêng người, nheo mắt sát ngọn đèn thử bột”[41, tr.25], đó là cái

tinh ý của đứa con gái sắp phải xa mẹ để đi làm nghĩa vụ với đất nước trong truyện

Mùa xuân. Trong Người mẹ cầm súng lại là những suy nghĩ của chị Út khi chị phải

bông lơn trước kẻ thù để giựt bót, hạ đồn: “Mình hy sinh thân mình thì được rồi,

nhưng anh ấy là chồng…Làm sao xẻ được nỗi đau lòng ấy của anh để Út xin gánh

chịu một mình”[41, tr.167-168]. Chính những suy nghĩ ấy đã thấy được sự cảm thông,

thấy được tấm lòng của chị đối với chồng. Những lúc đánh trận, xung phong chị chỉ

nghĩ đến làm sao giết được kẻ thù nhưng khi trở về với gia đình chị mới giật mình

nhớ đến đàn con: “Nếu mình hy sinh thì nó sẽ ở với ai đây? Nó ở với nhân dân! Bây

giờ nó cũng đã ở với người dân rồi. Đời mình cực thì đời sau nó sướng. Giặc còn thì

giặc cũng giết cả đời con mình. Nghĩ đến cảnh đàn con phải đi ở đợ như mình ngày

xưa, Út không chịu nổi – “Còn cái lai quần cũng đánh!”, Út dạy con như vậy.”[41,

tr.196-197].

3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại

74

Theo Từ điển thuật ngữ văn học:“Lời đối thoại là lời trong cuộc giao tiếp song

phương mà lời này xuất hiện như là phản ứng đáp lại lời nói của người khác” [10, tr.

128]. Đối thoại trong tác phẩm văn học khác hoàn toàn so với đối thoại trong cuộc sống

đời thường vì nó sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn khắc họa tính cách nhân vật,

tạo nên "lời ăn tiếng nói riêng" của mỗi nhân vật, truyền tải ý đồ nghệ thuật mà nhà

văn gửi gắm vào trong cốt truyện. Bởi thế, đọc những trang văn của Nguyễn Thi người

đọc bị cuốn vào những đối thoại với lớp ngôn ngữ sắc sảo mang dấu ấn Nam Bộ. Lựa

chọn cho mình hình thức đối thoại chủ yếu là đưa trực tiếp những đoạn thoại không

cần sự dẫn dắt của người kể chuyện và các lời đối đáp có kèm theo lời dẫn thoại. Qua

đó hình tượng của nhân vật được bộc lộ một cách chân thực nhất từ giới tính, tuổi tác,

tính cách cho đến tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.

Truyện ngắn Chuyện xóm tôi mở ra không gian của một xóm nhỏ Nam Bộ. Chỉ với

gần mười trang sách, xen giữa những lời dẫn truyện là 70 lượt đối thoại của các nhân vật

với nhau. Không gian xóm nhỏ sôi nổi trong những ngày toàn quốc kháng chiến chống

Mỹ. Tuy còn bé nhưng những đứa trẻ như Đực và Bỉnh trong tiềm thức đã xác định được

kẻ thù. Từ đó dẫn đến những hành động, những lời nói thể hiện được cái khát khao, mong

muốn được đi đánh giặc. Đó là lời của Đực nói với mẹ:

- “ Cho con đi tân binh má à.

- Người mầy có một khúc mà đi đâu?

- Con ăn cơm ít hôm rồi nó lớn mừ…

- Ờ ráng ăn cơm nhiều nhiều rồi má cho đi”.[41, tr.9]

Cũng như Đực, Bỉnh cũng mang trong mình ước muốn được cầm một trái lựu

đạn để chọi thằng Phòng. Khi Bỉnh nói với mẹ:

- “Con lấy tái kia, con không lấy tái bằng đất. Chị Hai cho con đi mà. Con ọi

thằng Pòng…

- Ừ, ra lấy quần bận vô rồi má biểu nó cho. Chỉnh à, dắt em đi chọi thằng

Phòng với ghen!” [41, tr. 12]

Chỉ là một vài đoạn hội thoại ngắn ngủi nhưng qua đó người đọc thấy được nét

hồn nhiên, ngây thơ cùng những suy nghĩ thật thà đáng yêu. Là con em của gia đình

nông dân Nam Bộ giàu truyền thống cách mạng nên trong Đực và Bỉnh cũng sớm hình

75

thành ý chí khát khao mãnh liệt được tham gia làm cách mạng, được trả thù cho cha.

Tuy tuổi còn nhỏ nhưng suy nghĩ của chúng lại sớm trưởng thành từ ý nghĩ, lời nói cho

đến hành động đều có mục đích, định hướng rõ ràng. Nguyễn Thi cũng cất tiếng nói

phê phán, tố cáo tội ác mà chiến tranh đã gây ra cướp đoạt cả những cái nhỏ nhất, trong

trẻo nhất vốn thuộc về thế giới tuổi thơ của các em.

Ở một không gian khác trên một chuyến xe khách từ Hà Nội vào giới tuyến Vĩnh

Linh trong truyện ngắn Quê hương. Là câu chuyện của hai người phụ nữ không có tên

riêng mà nhân vật “ tôi” nghe được một cách tình cờ. Họ say sưa nói với nhau đủ thứ

chuyện trong cuộc sống kể cả những chuyện riêng cũng được mang ra để tâm sự, giãi

bày, thủ thỉ với nhau. Mạch câu chuyện dường như lắng lại khi nghe chị kể về đứa con..

Chị say sưa kể về đứa bé ở lượt thoại thứ 8: “ Tội nghiệp con bé nhà tôi, tôi cứ hẹn chờ

bố nó về rồi bồng nó đi chụp ảnh. Ảnh chưa kịp chụp thì nó đã bỏ tôi rồi. Nhưng răng

con bé lại hay ăn chóng lớn như vậy chớ?Mập múp míp đầu chạch! Tôi sổ nó giữa

đường đó. Khi vô tới nhà thương Hồ Xá cả ba cô mụ xoay xoay một lúc lâu lắm nó mới

khóc được. Tưởng nó mất thể lúc ấy rồi thì khó nuôi, nhưng ai dè con nhỏ lại bụ bẫm

lớn như người ta thổi phong vậy chớ...Muốn đi thì chỉ xuống đó nằm ngủ một giấc là

tới nơi, khỏi vất vả…” [40, tr.36].Nguyễn Thi thật tinh tế khi biết xen vào cuộc đối

thoại những lời dẫn, lời bình hay trong đối thoại biết cách dừng đúng lúc để miêu tả

tâm lý nhân vật. Đứa bé với chị nó là tất cả niềm tin và cũng là niềm an ủi duy nhất

trong những ngày tháng mòn mỏi chờ chồng. Thế nhưng niềm hạnh phúc ấy chưa được

bao lâu thì đứa trẻ lại ra đi để lại cho chị một nỗi đau xé lòng khôn nguôi. “Chị mất nó

thật dễ dàng, như người vừa tỉnh dậy không còn kịp tiếc rẻ một giấc mơ – Thôi, cũng

mong sao cho con được như con cá chuồn, bây giờ tha hồ được đi chơi tung tăng ngoài

biển!”[40, tr.42].Câu chuyện kết thúc ta thấy trên gương mặt người mẹ ấy thoáng một

chút buồn nhưng sau đó trong ánh mắt chị lại sáng lên niềm vui hy vọng về một tương

lai mới hạnh phúc đủ đầy. Qua câu chuyện kể của hai người phụ nữ nhà văn không chỉ

nói lên được nỗi lòng của những người phụ nữ có chồng đi chiến đấu. Đó là niềm

thương nhớ, mong mỏi, niềm vui, hạnh phúc và cả hy vọng khi được vào thăm, được

đoàn tụ với người chồng phương xa. Hơn nữa còn là tiếng nói lên án cuộc chiến tranh

phi nghĩa đã trực tiếp chia lìa hạnh phúc gia đình, gây bao đau thương mất mát không

kể siết.

76

Đến với một bối cảnh khác trong tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa, đó là cái không

khí ngột ngạt, đầy đe dọa, rình rập, căng thẳng như đã dồn nén từ rất lâu chỉ chực nổ

tung ra bất cứ lúc nào. Trên cái nền đen tối nhất của cách mạng miền Nam, với những

gia đình Tư Trầm, Hai Khê bị dồn tới cùng đường cực khổ, mất hết tự do thì ngoài kia

bọn địa chủ, tay sai ngoại bang đang ra sức lộng hành. Nguyễn Thi đã phanh phui mọi

trò lố lăng, bịp bợm trong cách làm việc, ăn ở của bọn đại diện Hiếm và cảnh sát Âu

cùng những tên nhãi nhép. Đặc biệt là cảnh chị Hai Khê lên công sở xin giấy đi thăm

chồng. Trong khi chờ đợi chị đã chứng kiến cuộc đối thoại tay tư lạ lùng giữa một đôi

là đại diện Hiếm với mụ vợ chủ ấp Ba Sồi và đôi kia là cảnh sát Âu với anh thanh niên

lên xin khất đi làm khu trù mật.

“ Vợ Ba Sồi vẫn nhỏ nhẹ nói với lão đại diện:

- Tôi biểu ăn chay đi, đừng có mang tiếng ác vào mình, nhưng đàn ông tôi nó

ham lắm. Nhờ ông nói với ông Bẩy Kiệt bớt bớt cho.

Đại diện Hiếm bẻ tay rốp rốp:

- Xin thề với miếu bà đây, tôi không ngó vô đó lấy một đồng xu.

Hắn lại liếc sang tên cảnh sát. Bên này ngài cảnh sát cũng không chịu lép, y nói

với anh thanh niên, khách hàng của mình:

- Nếu ráng lo được ba trăm, tôi sẽ mướn người thế cho anh.

- Xin ông cảnh sát thương, dân chúng em kiếm ăn từng đồng…

- Thì anh đi vay, vay…bà Ba Sồi chủ ấp đây nè!”. [42, tr. 263]

Từng lời đối thoại rõ ràng, rành mạch đối đáp qua lại kèm theo là những lời dẫn

thoại để miêu tả tâm lý, cử chỉ của nhân vật. Nguyễn Thi đã khái quát được cả không

khí công sở trong cái ồn ào, hỗn độn, ầm ĩ vẫn lộ tâm trạng, thái độ, tham vọng của

từng nhân vật: đám đông và cá nhân, tiếng hỏi, lời đáp trực tiếp, dòng suy nghĩ của

từng nhân vật đan vào nhau, đồng thời hiện ra phức tạp, lộn xộn về hình thức mà lại

chặt chẽ, phân minh với từng nhân vật.Từng đôi một đối thoại, lại lắng nghe, dòm ngó,

có phản ứng tâm lý với cặp bên kia tạo nên cái không khí ma mị, lập lờ. Nếu như cặp

trên đôi co bất phân thắng bại nhưng mụ Ba Sồi ra về vẫn vui vẻ thì anh thanh niên lại

thất bại trước sự kiên quyết đòi tiền của tay cảnh sát. Như vậy chỉ với 5 lượt lời đối

thoại giữa các nhân vật đã đủ làm nổi bật chân dung của những kẻ lộng quyền chúng

77

thật trơ trẽn, bộc lộ ngay cái bản chất bóc lột, tham lam tranh giành quyền lợi một cách

phi nghĩa lý ngay giữa ban ngày.

3.3.3. Ngôn ngữ Nam Bộ

Bằng tấm lòng thiết tha của mình với mảnh đất và con người miền Nam, Nguyễn

Thi không chỉ xây dựng thành công một không gian, đậm đà sắc màu Nam Bộ; những

tính cách người miền Nam không trộn lẫn mà ông còn tỏ ra am hiểu vô cùng sâu sắc

vốn ngôn ngữ của những con người nơi đây. Ngôn ngữ ấy không phải dị biệt mà đã

hòa chung, gắn với tính cách con người tạo thành một màu sắc riêng đậm chất Nam

Bộ.

Vốn là một người thích ứng rất nhanh với hoàn cảnh mới, cho nên khi đặt chân

đến với miền Nam, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Thi có sự chuyển hướng

rõ nét. Phương ngữ Nam Bộ thể hiện qua cách phát âm, cách sử dụng từ vựng và từ

ngữ khác biệt của nhân vật. Việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ đã giúp nhà văn khắc

họa được những đặc trưng của con người, của vùng quê Nam Bộ. Viết về những con

người miền Nam chân chất, thật thà, Nguyễn Thi đã đem từng lời nói bình dị hằng ngày

vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Thấp thoáng trong những lời nói ấy là bóng

con đò, bến chợ, cây cầu, ngọn dừa, dòng sông miền Nam chân quê, mộc mạc. Lời của

cô gái miền Nam tìm cớ để tặng các anh bộ đội thức ăn nhưng sợ bị từ chối: “Anh làm

tôi trông mòn nổ con mắt. Đi chợ mua một thúng đồ ăn mà gởi từ hôm qua tới nay hỏng

chịu lấy. Thiệt hết sức!”[40, tr.300] (Chưa nói). Giọng nói “thiệt thà” của miền Nam

mang đậm nét cá tính của con người Nam Bộ, thường thì người ta nói “trông mòn con

mắt” nhưng ở đây nhà văn lại có cách dùng khác nhằm nhấn mạnh thêm “trông mòn

nổ con mắt”. Đó còn là cách phát âm, cách sử dụng từ chệch chuẩn “hỏng chịu” chứ

không phải là “không chịu”, đó là cách phát âm dùng từ chỉ có ở miền Nam.

Nhân vật của Nguyễn Thi thường ra đời dựa trên cơ sở là người thật, việc thật

và vì thế nhà văn cũng đã đem ngôn ngữ của người thật, việc thật từ cuộc sống vào

trong văn chương. Chính vì sử dụng thuần thục phương ngữ Nam Bộ nên Nguyễn Thi

đã rất thành công khi vận dụng ngôn ngữ của đời sống vào tác phẩm của mình một cách

78

tự nhiên. Và cũng chính vì thế nên nhân vật của Nguyễn Thi luôn tạo cho người đọc sự

gần gũi thân thuộc.

Đó là ngôn ngữ của trẻ con Nam Bộ hồn nhiên, quen thuộc như lời Đực nằn nỉ

với mẹ trong truyện ngắn Chuyện xóm tôi:

“- Cho con đi tân binh má à.

- Người mày có một khúc mà đi đâu?

- Con ăn cơm ít hôm rồi nó lớn mừ…

- Ờ ráng ăn cơm nhiều nhiều rồi má cho đi.” [41, tr.12]

Rồi khi trong xã các anh thanh niên đi tân binh nhộn nhịp cả lên cậu bé Đực

chào hỏi như người lớn: “Anh đi mạnh…dỏi nhe anh! Chị đi mạnh…dỏi nhe chị!” [39,

tr.13]. Phương ngữ Nam Bộ thể hiện ở đây chính là cách phát âm “mừ” (mà), dùng từ

chệch chuẩn “mạnh dỏi” (mạnh giỏi). Sự hồn nhiên dí dỏm của trẻ con đáng yêu biết

bao nhiêu, đó là chị em con Bé con của chị Út Tịch trong Mẹ vắng nhà, mẹ đi đánh

giặc ở nhà ngoan ngoãn như nụ cười ngắt ngư trên ngọn dừa của con Bé khi bị bà Sáu

la: “Nội à, bò ăn dây lang của nội kìa. Hui…bò…ò! Đó con đuổi nó đi rồi. Lát má con

về nấu khoai ăn nghe nội”[41, tr.96]. Thế giới trẻ con là một thế giới trong sáng ngây

thơ, và ngôn ngữ trẻ con trong tác phẩm Nguyễn Thi cũng hồn nhiên trong sáng như

thế. Lũ trẻ con chị Út tranh nhau người mẹ là của riêng mình, chỉ của riêng mình thôi:

“- Má của em mừ…

- Má của tao chớ má của mày hồi nào?” [41, tr.105].

Kẻ thù có thể tàn phá, có thể càn quét đi tất cả nhưng không thể nào tàn phá

được sự hồn nhiên đáng yêu của trẻ thơ. Trẻ thơ vẫn hàng ngày học bi bô dưới những

căn hầm, hay chơi trò đi học như chị em con Bé, con Thanh, con Anh, thằng Hiển dù

rằng chúng chưa biết chữ vẫn có thể đánh vần từng chữ: “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy

mà diệt”. Không chỉ là những trò chơi trẻ con, mà chị em con Bé còn cổ vũ cho mẹ,

cho những trận đánh của mẹ bằng cách leo lên ngọn dừa hoan hô:

“Đúng má đánh rô ô ô ì…

…Má đốt bót rô ô ô ì…

…Xung phong rồi nghen! Tiến lên má…á…á.”[41, tr.110].

79

Hay ở truyện Người mẹ cầm súng đó là những lời nói chân chất, thật thà nhưng

đầy ý chí quyết tâm của những con người ở vùng quê như lời phân bua cô bé ở đợ phải

bỏ trốn vì bị chủ đánh và đánh lại chủ:

“- Ở đợ cực quá mà.

- Đi đánh Tây cũng cực vậy!

- Đánh Tây sướng bằng tiên chớ cực gì.

Các anh đều cười, em nói tiếp:

- Nó đánh mình, mình đánh lại nó mới sướng chớ.

Em ở đợ, chủ đánh em, em phải chạy” [41, tr.153].

Đoạn đối thoại mang phong cách của con người Nam Bộ thẳng thắn, bộc trực.

Cô bé ấy chính là chị Út Tịch khi còn nhỏ vì không chịu được cảnh ở đợ nai lưng ra

làm việc cho chủ rồi bị chủ đối xử tàn ác nên đã xin được đi bộ đội. Họ là những nông

dân “thứ thiệt” nên cái chân chất, thật thà đã thấm vào máu, vào con người họ. Như bà

Bảy Tưa người đàn bà của đất thép Củ Chi đối với du kích, với bộ đội: “Mấy thằng du

kích nó kéo đến nhà tôi, ngồi học. Thằng Cần ngồi giữa, mấy thằng kia hút thuốc ngồi

xung quanh. Nó học cái gì đây…ờ, Mỹ ngu, Mỹ dại, Mỹ khờ. Tôi hỏi tụi nó, bây giờ

cho tao tham gia đánh được không? Nó nói: Bộ tướng bà đánh được. Tôi hỏi chừng

nào bây đi kích, bây cho tao đi theo hay là sao?”[41, tr.231]. Lời nói ấy đã nói lên tấm

lòng người phụ nữ miền Nam muốn góp một phần nào đó của mình vào cuộc chiến đấu

của những con người Việt Nam anh dũng.

Lớp từ phương ngữ Nam Bộ cũng được nhà văn vận dụng tối đa trong tác phẩm.

Đó là các từ xưng hô, từ đệm, cách sử dụng các thành ngữ đậm chất Nam Bộ. Trong

cách nói của người Nam Bộ có một hiện tượng đáng lưu ý. Đó là cách xưng gọi, và

cách dùng từ xưng gọi. Người Nam Bộ có thói quen gọi tên kết hợp với thứ bậc hay

đặc điểm của nhân vật. Nhiều nhân vật trong các tác phẩm cũng được Nguyễn Thi đặt

tên, gọi tên theo cách xưng hô như vậy, như: Việt trong truyện Những đứa con trong

gia đình được anh em gọi thân mật là Cậu Tư, Chú Năm, thằng Hai con chú Năm; chị

Út Tịch, ông Sáu Hò, bà Sáu Hò, ông Chín Đà, Tám Thế... trong truyện Người mẹ cầm

súng; anh Tư Râu, anh Sáu Trớ, chị Hai Chung trong Những sự tích ở đất thép; chị Ba,

chị Tư, anh Ba Cừ, anh Năm huyện đội trưởng trong Ước mơ của đất; cô Ba, anh Mười

80

trong truyện Cô gái đất Ba Dừa; ông Tư Trầm, chị Năm Bưởi, lão Ba Sồi trong tiểu

thuyết Ở xã Trung Nghĩa... Trong văn hoá ứng xử của người Nam Bộ, kiểu xưng hô

này làm người nghe cảm thấy gần gũi, có sự kết nối với nhau, thân thiết như những

thành viên trong gia đình, cho dù đó là những người lạ với nhau. Điều này xuất phát từ

xa xưa, khi khai phá vùng đất mới, lúc ấy đất rộng người thưa, con người cảm thấy cô

đơn lạc lõng nên cần được chia sẻ, quan tâm nhau bằng tình cảm chân thật, thân thiết.

Do vậy, lối xưng hô này trở thành một nét văn hoá giao tiếp của người dân. Nguyễn

Thi cũng rất am hiểu lối xưng hô này khi ông đã có những giới thiệu, lý giải về các tên

gọi chị Út Tịch Người mẹ cầm súng: “Cô bác lớn tuổi quen gọi chị là con Út Trầu, vì

chị hay ăn trầu. Lại có người đặt danh chị là "Bà Hồng” vì chị đánh giặc rất giỏi. Xóm

giềng theo tục địa phương, ghép tên chị với tên chồng, cứ kêu là Út Tịch.” [41, tr.149].

Ngôn ngữ dẫn truyện cũng mang đậm màu sắc Nam Bộ khi tác giả thường xuyên

sử dụng những phương ngữ Nam Bộ. Nhà văn hay sử dụng các tính từ của phương ngữ

Nam Bộ như: cái bụng chang bang, nón rộng lểnh lảng, nhìn lom lom, ngồi chồm hổm,

trọng trọng, việc thỏn mỏn, mình mẩy tèm lem, không lỏi một con, thiệt ngon, nói đỏ

đẽ... Những động từ như: thẩy ra, dòm chừng, đương lọp, thọc lét, dừng lại buồng, thả

giỡn sóng, giả đò, chườn ườn, giang xuồng... Các danh từ đặc trưng như: má, sắp nhỏ,

sanh mạng, miểng... Dùng các từ đệm như: cũng lóng này, riết rồi, nửa chừng... Có khi

trong một câu văn, nhà văn sử dụng hàng loạt phương ngữ: “Bỉnh đeo súng cây, bụng

chang bang, một tay máng vào dây súng có kẹp theo trái ổi, một tay cầm mấy miểng

bom, chàng hảng chân, đứng dòm” [41, tr.140] (Trên đường xóm). Nguyễn Thi cũng

rất thành công khi đưa thành ngữ vào trong ngôn ngữ dẫn truyện một cách linh hoạt,

theo đúng phong cách Nam Bộ. Đó là những thành ngữ được đưa trực tiếp vào lời

văn trong truyện ngắn Mùa xuân: “đi tréo trả như gà mắc nhợ” [41, tr.29]; hay “Vợ

Hàm Giỏi cao, mập. Ngay thằng chồng đứng cạnh mụ cũng chỉ như “lóc nói mà ôm

cột dừa” [41, tr.151. Và đa số đều được nhà văn vận dụng một cách linh hoạt, sáng

tạo làm cho lời văn trở nên gần với cách nói hàng ngày hơn trong truyện Những đứa

con trong gia đình: “Có lúc Việt còn bỏ về nhà ăn cơm, nhưng chị Chiến cứ ngồi một

góc ván, lông mày cau lại, chéo khăn hở ngang miệng, đánh vần hoài. Chị đọc tiếng

đặng tiếng mất, chữ mẹ đẻ chữ con, từ trưa tới xế, rồi từ xế tới chiều, bỏ ăn, quên cả

81

trời chạng vạng” [41, tr.71]; “Thằng nhỏ càng gỡ, con Anh càng ôm chặt, mặt hai

đứa đỏ lơ đỏ lưởng” [41, tr.105], (Mẹ vắng nhà). Hay đó là những thành ngữ góp

phần thể hiện rõ cảm xúc, thái độ trong từng lời kể: “Anh lẹ tay thiệt! Việt rượt theo

thằng thứ hai lụi nó đến mấy cái mà lụi không tới, tức như bò đá” [41, tr.64]. Với sự

vận dụng những thành ngữ có tính chất khẩu ngữ và có sự biến đổi về hình thức phát

âm theo tiếng nói, phù hợp với tính cách của người dân Nam Bộ, Nguyễn Thi đã tạo

được một cách rõ nét sắc thái dân gian Nam Bộ trong các sáng tác của mình.

Phong cách khẩu ngữ sinh hoạt trong ngôn ngữ nhân vật được thể hiện qua lối

xưng hô, đối đáp mang đậm nét văn hoá Nam Bộ. Người Nam Bộ chuộng lối xưng hô

thân mật, dân dã, suồng sã cũng như chính lối sống của họ vậy. Đối với những người

bằng vai phải lứa, hay đối với người nhỏ tuổi hơn, người Nam Bộ thường xưng “mầy

- tao” để tỏ sự thân mật như cách xưng hô của Chỉnh đối với Bỉnh trong truyện Chuyện

xóm tôi: “Vô đi. Mầy không vô hả?(...)Tao đánh à!” [41, tr.8]; hay lời báo tin của cha

Mận trong truyện Ước mơ của đất với chị Tư: “Tư à, tao nghe súng nổ rần rần rồi nghe

họ nói chồng mầy làm sao đó!” [41, tr.408]. Nhưng đối với kẻ thù thì họ xưng “mày -

tao” để bộc lộ sự khinh bỉ, khi Bác Ngảng trong truyện Trên đường xóm chỉ vào mặt

thằng Mỹ: “Quân mặt rắn! Chúng tao tha mày không phải chúng tao dở, không biết

giết mày! Dòm à?” [41, tr.143]. Ngoài ra, người Nam Bộ còn gọi tên kết hợp thứ bậc

như: Bác Hai Ngảng, chị Út Tịch, chị Tư,... hay đơn giản là xưng “tôi”, “tui” và gọi tên

người khác khi giao tiếp. Tuỳ vào đối tượng, tình huống giao tiếp mà các nhân vật có

những xưng hô khác nhau. Lối xưng hô này có thể được xem như là sản phẩm của môi

trường sống. Mỗi người đều có thể nhấn mạnh đến cái tôi cá nhân của mình và ý thức

được vai trò xã hội của mình. Mặt khác, lối xưng hô này một phần cũng đã phản ánh

thái độ phóng khoáng, bình đẳng như chính thiên nhiên nơi đây đã có. Và quan trọng

hơn, qua cách xưng hô đó, người Nam Bộ luôn đề cao sự thẳng thắn, bộc trực trong

giao tiếp.

Việc vận dụng lớp từ khẩu ngữ đã giúp Nguyễn Thi miêu tả thật sinh động, chân

thực về cuộc sống, về nét sinh hoạt thường nhật của người dân Nam Bộ xưa. Nhà văn

đã đưa vào trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật với những từ phương ngữ đặc trưng,

như: mầy, bây, mấy ảnh, bả, méc, bịnh, đảo chánh, bi lớn, rán chừng, nhứt trí, nhứt

định, bận quần áo, đặng, mần, in như, dòm, biểu, biên thư, sớm mơi, hổm rày... Đây là

82

lớp từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung toàn dân. Sự biến

âm này được hình thành từ khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người dân Nam

Bộ. Chẳng hạn, trong một lời nói của anh Việt trong truyện Chuyện xóm tôi đối với

Bỉnh và Đực có sử dụng rất nhiều từ phương ngữ:

''- Rán chừng tổng khởi nghĩa anh cho em đi lấy chợ Mỏ Cày. Má cũng đi nữa.

Tao yểm hộ cho hai đứa vô ngả lò heo đánh dinh quận. Giao thằng Mỹ ăn mắm ruốc

cho bây đó, chịu không? Nhứt trí nghen! Nếu nhứt trí thì bận quần vô rồi đi ăn cơm,

nào..."[41, tr.18].

Một nét đặc trưng trong ngôn ngữ giao tiếp của người Nam Bộ đó là hệ thống

từ đệm trong câu nói. Các từ đệm kết hợp với ngữ điệu sẽ tạo ra sắc thái địa phương rõ

rệt của từng vùng miền. Nguyễn Thi thường dùng các từ đệm trong lời nói như: hả, à,

ha, há, heng, chịu không, nghen, mừ, riết, hoài... Sự có mặt của các từ đệm góp phần

làm tăng sắc thái biểu cảm cho cách diễn đạt. Đây cũng là một đặc điểm của phong

cách khẩu ngữ Nam Bộ. Chỉ qua một câu nói của chị Út Tịch trong truyện Người mẹ

cầm súng, ta thấy được tình cảm của chị đối với dân làng như thế nào: “Tôi đi đánh

giặc được Mặt trận thương, cô bác thương nên cứ đánh hoài. Bây giờ trên cho làm xã

đội phó tôi cũng đánh hoài” [41, tr.183]. Từ “hoài” đệm cuối câu tạo cảm giác rất gần

gũi, thân thiết đối với người nghe. Nhà phê bình Hoài Thanh cùng bàn luận về từ “hoài”

này như sau: “Chỉ một chữ “hoài” mà câu nói nghe ngọt lịm. Làm sao chỉ trong một

chữ mà có thể gói ghém được nhiều đến thế? Hình như trong đó có cả màu trời, sắc

nước, những cánh đồng, những rừng cây, những nét mặt, những tình thương, cả không

khí miền cực Nam của Tổ quốc” [tr.272].

83

Tiểu kết

Mỗi nhà văn đều chọn cho bản thân mình những biện pháp nghệ thuật riêng

trong xây dựng nhân vật để có thể khái quát chủ đề cũng như tư tưởng nghệ thuật của

tác phẩm. Văn xuôi Nguyễn Thi những năm chống Mỹ xét về phương diện nghệ thuật

xây dựng nhân vật đã có nhiều điểm mới độc đáo. Một thế giới nhân vật trong tác

phẩm hiện lên gần gũi, chân thực thông qua hàng loạt các biện pháp nghệ thuật như:

miêu tả ngoại hình, khắc họa nội tâm nhân vật, miêu tả hành động của nhân vật một

cách nhất quán. Với việc am hiểu sâu sắc vốn văn hóa, cũng như đời sống sinh hoạt,

Nguyễn Thi đã đưa cả lời ăn tiếng nói của con người nơi đây vào văn chương. Phương

ngữ Nam bộ là một trong những điểm nhấn quan trọng. Ngôn ngữ thể hiện được nét

văn hóa vùng miền, cũng như nếp sinh hoạt của đời thường, và đặc biệt từ ngữ ấy còn

gắn với tính cách của người sử dụng nó. Như vậy với việc sử dụng hàng loạt các biện

pháp nghệ thuật tiêu biểu để xây dựng nên một thế giới nhân vật mang đậm dấu ấn

Nam Bộ. Nguyễn Thi đã giúp chúng ta thấy được những nét tính cách, tâm lí hết sức

sống động. Nhà văn đã thu hẹp khoảng cách giữa nhân vật và bạn đọc, tạo được sự

đồng cảm trong quá trình tiếp nhận, lĩnh hội, điều này cũng đồng nghĩa với việc nhà

văn đã chuyển tải thành công thông điệp của mình đến với cuộc đời và con người.

84

KẾT LUẬN

1. Mục đích của luận văn là tìm hiểu thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn

Thi. Thông qua việc tìm hiểu về tác giả cũng như sự nghiệp của nhà văn, chúng ta có

thể đi tới khẳng định những đóng góp quý giá của Nguyễn Thi đối với nền văn học

cách mạng, không chỉ gặt hái được thành công ở mảng truyện ngắn mà ngay cả tiểu

thuyết và kí cũng đạt được những thành tựu nhất định mang màu sắc, phong cách riêng

của nhà văn. Với cách khai thác đề tài đi sâu vào khám phá đời sống nông thôn, sinh

hoạt và thân phận con người Nam bộ những năm kháng chiến chống Mỹ, cộng với lối

viết chân tình, giản dị mà gần gũi nhưng cũng giàu chất thơ, hơn nữa còn chứng tỏ

được khả năng điêu luyện của Nguyễn Thi trong việc vận dụng phương ngữ Nam Bộ.

Nguyễn Thi đã mang đến cho văn chương cách mạng một luồng gió mới ở cả phương

diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

2. Chỉ với bốn mươi năm cuộc đời để sống và viết nhưng nhà văn chiến sĩ

Nguyễn Thi đã kịp ghi lại dấu ấn riêng để lại trên những trang văn của mình bằng việc

xây dựng được một thế giới nhân vật phong phú và đa dạng. Ở kiểu loại nhân vật nào

cũng được Nguyễn Thi chăm chút chu đáo như những đứa con tinh thần và mang những

nét đặc sắc riêng. Một số nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của ông như là những người

lính trẻ đang cầm súng chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, ở họ nổi bật

với đức tính dũng cảm, gan dạ, trung thành với cách mạng và đảng. Và là những người

đi tiên phong trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Tiếp đến phải kể đến chân

dung những người mẹ, người chị, các cô, các bác xóm giềng - họ là những đại diện tiêu

biểu cho người nông dân Nam Bộ chân lấm tay bùn, đảm đang tháo vác mọi công việc

nhà nhưng sống trong hoàn cảnh đất nước có giặc thù với tinh thần “giặc đến nhà đàn

bà cũng phải đánh”, những người mẹ, người chị ấy tạm gác lại công việc gia đình tham

gia kháng chiến sôi nổi và gặt hái được nhiều chiến công. Người phụ nữ Nam Bộ trong

sáng tác của Nguyễn Thi rất xứng đáng với tám chữ Bác Hồ tặng “Anh hùng, Bất khuất,

Trung hậu, Đảm đang”. Thế giới trẻ thơ đi vào văn xuôi Nguyễn Thi cũng mang những

nét riêng biệt, nhà văn phát hiện ở các em những nét ngây thơ, hồn nhiên đáng yêu

nhưng dường như sống trong những ngày tháng sục sôi khí thế cách mạng ở các em

cũng có những nét tính cách, suy nghĩ già dặn, trưởng thành hơn cái độ tuổi vốn có của

85

mình. Đó cũng là một niềm cảm thương thầm kín của tác giả đối với trẻ thơ, thương

cho các em không có một tuổi thơ hồn nhiên, vô tư, mà phải lo nghĩ quá nhiều, lo cho

má, lo cho các em, lo cho cách mạng…Đâu chỉ tập trung đi sâu vào khắc họa hình

tượng con người Nam bộ anh hùng, Nguyễn Thi còn tô vẽ lại được cả bức tranh phong

cảnh đậm chất Nam bộ, giàu chất thơ nào bờ mẫu, kênh rạch, sông nước, những rặng

dừa, trâm bầu xanh tốt…. Những trang viết của Nguyễn Thi đem lại cho người đọc cảm

nhận về một văn phong nhẹ nhàng, đằm thắm, sâu lặng nhưng đôi lúc cũng quyết liệt,

dữ dội và bằng một giọng điệu hồn nhiên, ngây thơ, tinh tế mà không thiếu sắc sảo. Khép

lại những trang sách nhưng thế giới nhân vật trong văn xuôi Nguyễn Thi vẫn để lại cái

dư âm, cái ám ảnh khó quên. Qua những số phận, cuộc đời của những nhân vật trong

truyện, dường như tâm hồn người đọc được đánh thức, được thanh lọc để trở nên trong

sáng, thánh thiện hơn. Chính những điều này làm nên những nét độc đáo riêng, làm nên

một phong cách Nguyễn Thi không thể lẫn lộn với các nhà văn Nam Bộ khác, đưa tên

tuổi Nguyễn Thi lên vị trí hàng đầu trong văn xuôi kháng chiến chống Mỹ.

3. Nhắc đến Nguyễn Thi là phải kể đến một nhà văn có biệt tài trong nghệ thuật

xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật. Nhiều biện pháp nghệ thuật, từ khắc họa ngoại

hình nhân vật, khắc họa nội tâm cho đến sử dụng phương ngữ Nam Bộ, miêu tả hành

động nhân vật một cách nhất quán đều được nhà văn vận dụng một cách tự nhiên đạt

hiệu quả cao, trong đó phải kể đến nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật qua độc thoại

nội tâm đã diễn tả được những trạng thái tâm lý đa dạng, phức tạp của con người trong

thời chiến. Đó là những suy nghĩ ngây thơ của con trẻ, hay những suy nghĩ đâu chỉ

cho bản thân mình mà còn cho cả những người thân yêu, và cả những trăn trở, băn

khoăn về con đường mình đã chọn, về niềm tin vào đảng và cách mạng kể cả những

tình cảm riêng tư cá nhân….Nguyễn Thi đều tỏ ra am hiểu sâu sắc và thể hiện trọn vẹn

các sắc thái đó trên những trang văn của mình. Tất cả tạo nên nét tính cách đặc trưng

của con người Nam Bộ trong văn xuôi Nguyễn Thi.

4. Là một nhà văn trẻ, đầy tài năng, nhiệt huyết, có sức viết khỏe và có khả năng

sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ, một nhà văn luôn làm chủ ngòi bút của mình. Nguyễn Thi

đã vượt qua những buồn đau, mất mát của cuộc sống gia đình, cất giấu nỗi buồn đó

một góc để vào Nam thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút và nhiệm vụ

86

với cách mạng. Nhưng tiếc rằng khi tài năng đang ở độ chín, đang tỏa sáng thì nhà văn

ấy đã anh dũng hy sinh mà trên lưng vẫn đeo cái bòng đựng bản thảo còn dang dở mà

rất giàu giá trị. Sự hy sinh để lại niềm tiếc nuối khôn cùng cho một tài năng kiệt xuất.

Dù đã hy sinh nhưng những đóng góp của Nguyễn Thi để lại không một ca từ nào có

thể diễn tả được hết, hiện thực trên những trang văn của ông là bằng chứng sống về

một thời kỳ kháng chiến trường kỳ nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam.

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học. Nxb Văn học.

2. Nguyễn Minh Bằng (2005), Nguyễn Thi trong văn xuôi chống Mỹ, Luận văn

thạc sĩ, đại học Vinh.

3. Nhị Ca (1983), Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà

văn Việt Nam.

4. Nhị Ca (1997), Dọc đường văn học, Nxb Quân đội nhân dân.

5. Trần Cư (1978), Viết cùng đồng đội, Nxb Quân đội nhân dân.

6. Nguyễn Minh Châu (1987), Chiếc thuyền ngoài xa, Nxb Tác phẩm mới.

7. Phan Cự Đệ (1996), Tính cách điển hình trong “Người mẹ cầm súng” của

Nguyễn Thi in trên báo Văn nghệ, ngày 1 tháng 4 năm 1996.

8. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học.

9. Anh Đức (1966), Hòn đất, Nxb Văn học.

10. Lê Bá Hán (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

12. Nguyễn Chí Hòa (1999), Văn xuôi Nguyễn Thi, Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh.

13. Phong Lê (1972), Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970, Nxb Khoa học xã

hội.

14. Phong Lê, Vũ Tuấn Anh và cộng sự (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu

nước, Nxb Khoa học xã hội.

15. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa,

Nxb Khoa học xã hội.

16. Phong Lê (1990), Văn học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại/Nghĩ tiếp…, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.

18. Phong Lê, Lưu Khánh Thơ (2005), Nguyễn Thi:Viết ở chiến trường hội nghiên

cứu và giảng dạy văn học tp HCM, Nxb Trẻ.

19. Phong Lê (2013), Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX), Nxb Tri Thức.

88

20. Phương Lựu cùng cộng sự (1985), giáo trình lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

21. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Văn học Việt Nam 1945-1975 tập 2, Nxb Giáo dục.

22. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Vũ Tú Nam (1970): Nguyễn Thi, nhà văn của nhân dân,Nxb Tác phẩm mới, số 8.

24. Nhiều tác giả (1984):Chiến trường - những năm tháng ấy: sống và viết, Nxb Tác

phẩm mới.

25. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 1, Nxb Giáo dục.

26. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 2, Nxb Giáo dục.

27. Nhiều tác giả (1987), Lí Luận văn học tập 3,Nxb Giáo dục.

28. Nguyễn Trọng Oánh (1977), Những điều tôi biết về Nguyễn Thi, tạp chí Văn

nghệ quân đội, số 4.

29. Nguyễn Trọng Oánh (1998), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi, con người và sự

nghiệp, Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5.

30. Lê Phát, Nhớ Nguyễn Thi nhà văn cầm súng in trên báo Văn nghệ, số 36.

31. Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng việt (tái bản lần 2), Nxb Hồng Đức.

32. Nguyễn Thị Kim Quyên, Nguyễn Thị Thơ (2010). Hình tượng người nữ chiến

sĩ cách mạng trong văn xuôi Nguyễn Thi, Khóa luận tốt nghiệp.

33. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán và cộng sự, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

34. Nguyễn Trung Thành (1969), Rừng xà nu, Nxb Giáo dục.

35. Nguyễn Ngọc Tấn (1960), Trăng sáng (tập truyện), Nxb Văn học.

36. Nguyễn Ngọc Tấn (1962), Đôi bạn (tập truyện), Nxb Văn học.

37. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội.

38. Huỳnh Công Tín (2013), Đặc trưng văn hoá Nam Bộ qua phương ngữ, Nxb

Chính trị Quốc gia.

39. Ngô Thảo (sưu tầm, chỉnh lý, giới thiệu) (1985), Năm tháng chưa xa, Nxb Văn

nghệ tp. Hồ Chí Minh.

40. Ngô Thảo (1966), Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi toà n tập, tập 1, Nxb Văn học.

41. Ngô Thảo (1966), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập, tập 2, Nxb Văn học.

42. Ngô Thảo (1966), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập, tập 3, Nxb Văn học.

89

43. Ngô Thảo (1966), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập, tập 4, Nxb Văn học.

44. Nguyễn Trung Thành (2011), Rừng xà nu ( Ngữ văn tập 12, tập 2), Nxb Giáo

dục Việt Nam.

45. Nguyễn Thi (1965), Người mẹ cầm súng, Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình

Chiểu, Nxb Văn nghệ giải phóng.

46. Nguyễn Thi (1966), Những đứa con trong gia đình, Nxb Quân giải phóng.

47. Nguyễn Thi (1966), Người mẹ anh hùng (bản in tái bản của Người mẹ cầm súng),

Nxb Quân đội nhân dân.

48. Nguyễn Thi (1969), Truyện và kí, Nxb Giải phóng.

49. Nguyễn Thi (1970), Ước mơ của đất, Nxb Quân đội nhân dân.

50. Nguyễn Thi (1978), Truyện và kí (tái bản), Nxb Văn học.

51. Khái Vinh (1970), Tác phẩm Nguyễn Thi, bước tiến của văn học cách mạng

miền nam, Văn nghệ, số 383.

52. Hoàng Hữu Yên, Hồ Kim Thu (1979), Truyện và ký của Nguyễn Thi, Nxb Giáo dục.

90