ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ LAN
THƠ THÁI NGUYÊN DƯỚI GÓC NHÌN SINH THÁI (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ LAN
THƠ THÁI NGUYÊN DƯỚI GÓC NHÌN SINH THÁI (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái) Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn phê bình sinh
thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)” là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung
thực và chưa được công bố ở các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Trần Thị Lan
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Hoàng Điệp - Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách
nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm Khoa
Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Trần Thị Lan
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 9
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ............................................................. 10
1.1. Những vấn đề chung về sinh thái và văn học ............................................. 10
1.1.1. Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái ............................................... 10
1.1.2. Khái niệm văn học ................................................................................... 12
1.1.3. Mối quan hệ giữa sinh thái và văn học .................................................... 14
1.2. Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị sinh thái ............... 21
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên............................... 21
1.2.2. Tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên ............................................. 23
1.3. Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái và quá trình sáng tác .............. 25
1.3.1. Quá trình sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên ............................... 25
1.3.2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Võ Sa Hà ................................................ 28
1.3.3. Quá trình sáng tác của nhà thơ Phan Thái ............................................... 31
iii
Chương 2. CẢM QUAN SINH THÁI TRONG SÁNG TÁC CỦA
CÁC NHÀ THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ
Sa Hà, Phan Thái) ............................................................................................ 35
2.1. Cảm quan sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Phan Thái ............................................................................................................ 35
2.1.1. Sự tuyệt mĩ của sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên .......... 35
2.1.2. Sự kì vĩ của đại ngàn trong thơ Võ Sa Hà ............................................... 44
2.1.3. Sự bình dị, thân thuộc của cảnh quan làng quê trong thơ Phan Thái ...... 55
2.2. Những hệ lụy từ cuộc sống hiện đại ảnh hưởng tới môi trường sống ........ 61
2.2.1. Cảm nhận sự giận dữ của tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên ......... 61
2.2.2. Nỗi buồn đô thị hóa trong thơ Võ Sa Hà ................................................. 63
2.2.3. Làng hóa phố và sự chơi vơi trong thơ Phan Thái .................................. 66
Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VẤN ĐỀ SINH THÁI
TRONG THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa
Hà, Phan Thái) ................................................................................................. 73
3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái ................................................................. 73
3.1.1. Khái niệm nhan đề và đặc trưng của nhan đề thơ ................................... 73
3.1.2. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ
Sa Hà, Phan Thái ............................................................................................... 75
3.2. Ngôn ngữ mang đậm tinh thần sinh thái .................................................... 77
3.2.1. Ma Trường Nguyên - ngôn ngữ nhẹ nhàng, sâu lắng .............................. 78
3.2.2. Võ Sa Hà - Ngôn ngữ giàu hình tượng .................................................... 79
3.2.3. Phan Thái - ngôn ngữ mộc mạc, giản dị .................................................. 83
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, con người đang phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng sinh thái
nghiêm trọng, quá trình đô thị hóa và sản xuất công nghiệp vừa vắt kiệt tài nguyên, vừa
gây ô nhiễm môi trường. Thứ nữa, từ góc độ nhân văn, sự chia tách con người khỏi môi
trường đã làm méo mó nhân cách của mỗi cá nhân. Rất có thể, hội chứng vô cảm trong
xã hội hiện đại cũng bắt nguồn từ chỗ con người không còn biết rung cảm trước vẻ đẹp
của tự nhiên, khi mà ánh điện thành phố đã “vô hiệu hóa” ánh trăng, máy điều hòa không
khí đã làm thay chức năng của những làn gió mùa hạ, và sự kết nối nguyên sơ giữa con
người với con người bị cắt đứt bởi thời buổi công nghệ số đã trở thành kênh giao dịch
chủ yếu của con người và con người đô thị bị nhốt chặt trên các nhà hộp (building).
Hiện nay, thiên nhiên cũng đang càng ngày càng bị thu hẹp nhỏ dần bởi nhiều
lí do sự phá rừng, giảm diện tích rừng, dân số tăng, do di dân tự do bùng phát, … đã
làm suy giảm tài nguyên rừng, tác không nhỏ đến môi trường sống khiến đất đai bị
mất phì nhiêu, lụt lội, hoặc hạn hán xảy ra liên tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống của con
người. Chúng ta đều biết rằng, phá hủy thiên nhiên cũng chính là phá hủy luôn cuộc
sống chúng ta vì con người luôn cần không khí để thở để sống. Đặc biệt, sau những
giờ làm việc căng thẳng con người cũng cần có không khí trong lành để thư giãn,
thưởng thức những âm thanh trong trẻo của cuộc sống. Để ngẫm và để nhìn lại những
gì đã và đang trôi đi từng ngày
Con người ở thời đại công nghiệp này có tâm trí luôn luôn bị động như robot
suốt ngày, làm việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản. Con người chỉ biết làm
và làm họ không ai biết nhau, xong việc là về nhà. Tâm lý bị dồn ép. Sự tiến bộ kỹ
thuật từ nhiều thập niên gần đây với sự tăng tốc... làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ
truyền, lối sống.
Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã đem đến cho nhân loại xe hơi, nhà máy nhưng
ngày nay, chen chúc trong các đô thị lớn (Hà Nội, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh
v.v...), với xe cộ ngổn ngang chạy bằng xăng dầu, với nhà máy nhiệt điện chạy bằng
than đá, với các khu kỹ nghệ toả ra mỗi ngày trên bầu trời hàng triệu tấn khí độc. Và
đương nhiên con người đã và đang phải gánh chịu hậu quả đó.
Và đương nhiên, dân số đông dĩ nhiên sẽ kéo theo tiêu thụ về thực phẩm, về
năng lượng, về khoáng sản…, trong khi đó thì tài nguyên thiên nhiên không những
1
suy thoái về lượng (rừng ít đi, đất đưa vào xây cất, nước ngầm thấp xuống v.v.) mà
còn về phẩm (sa mạc hoá, mặn hoá, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí...) và đến một
lúc khi tiêu dùng trong kinh tế vượt quá sức sản xuất của vốn tạo hoá sẽ để lại hậu
quả rất nặng nề. Môi trường sinh thái ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng, đời sống
của con người bị ảnh hưởng rất lớn. Cũng phải nói thêm là năng lượng và vật chất bị
phế thái này không thể trở lại trạng thái ban đầu. Sản xuất công nghiệp kéo theo rất
nhiều hệ lụy như tiêu thụ điện, nguyên liệu, khí thải đổ ra sông suối, ra ngoài không
khí các phế thải làm ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái, động thực vật vì vậy
ngày càng bị thu hẹp và hủy diệt...
Là một người con sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và có hơn 10
năm gắn bó với mảnh đất Thái Nguyên, tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn về môi trường
sinh thái đã làm nên bản sắc của đất và người Thái Nguyên. Chúng tôi muốn dành
công trình nghiên cứu đầu tiên của mình để nghiên cứu về các tác giả thơ Thái
Nguyên mà bản thân đã từng gặp gỡ và quen biết, kính trọng.
Nhằm lí giải cắt nghĩa những nét đặc trưng của thơ Thái Nguyên để tìm hiểu
về sự tác động của môi trường sinh thái đã tác động đến cuộc sống, lối sống của con
người hiện đại ra sao? Nên tôi lựa chọn ba nhà thơ ở ba thế hệ để nghiên cứu. Đây là
một sự nỗ lực nhằm kiến giải sự tiếp kiến và giao thoa của môi trường sinh thái được
biểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung và ba nhà thơ nói trên. Đó sẽ là nguồn tư
liệu tham khảo cho rất nhiều người nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn học Thái
Nguyên. Vì những lí do nói trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thơ Thái Nguyên dưới góc
nhìn sinh thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên - Võ Sa Hà - Phan Thái)” làm vấn đề
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về phê bình sinh thái trong thơ Việt Nam.
Lý thuyết Phê bình sinh thái là vấn đề khá mới mẻ và chưa nhận được nhiều sự
quan tâm ở Việt Nam. Mới có một số công trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái như:
Đỗ Văn Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách tân,
Tạp chí phát triển nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn
Thị Tịnh Thi (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học hậu
2
hiện đại- lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội;
Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016) Khuynh hướng phê bình sinh thái trong
nghiên cứu văn học, Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật, Số 41, Tháng 1 và
một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác.
Đáng chú ý là cuốn Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975 nhìn từ góc nhìn phê
bình sinh thái của tác giả Lê Lưu Oanh - Trần Thị Ánh Nguyệt; Cảm quan sinh thái
trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại của PGS. TS Đào Thủy Nguyên
đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7- 2016; Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn
hóa của Nguyễn Đăng Điệp đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2 tháng 7/2014.
Với ý thức về tầm quan trọng của việc phổ biến phê bình sinh thái trong văn học
Việt Nam, Viện Văn học đã tổ chức buổi hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói
bản địa - Tiếng nói toàn cầu” vào sáng 14/12/2017 tại Hà Nội.
Tham dự Hội thảo có PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ - Uỷ viên Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê
bình VHNT Trung Ương; GS. TS. Nguyễn Quang Thuấn - Chủ tịch Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam; PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện Văn học cùng đông
đảo các học giả, nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, các cơ quan truyền thông và những đối
tượng quan tâm tìm hiểu vấn đề này tại Việt Nam.
Phát biểu tại buổi hội thảo, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn- Chủ tịch Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam nhấn mạnh: “Trên thế giới và Việt Nam trong những năm qua đang
phải đối mặt với những thảm họa lớn về môi trường. Điều này đặt ra những câu hỏi lớn
rằng, các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu KHXH&NV sẽ làm gì để đóng góp phần
bảo vệ và xây dựng môi trường sống xanh - sạch - đẹp?
Với tư cách một giảng viên, TS Đặng Lưu, Khoa Sư phạm Ngữ văn, Đại học
Vinh cho rằng trong các lý thuyết về văn học, phê bình sinh thái có vẻ “cận nhân
tình” hơn cả.
Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo
thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011). Hệ sinh thái trong thơ Mai
Văn Phấn: những linh hồn trong bầu trời Khi Mai Văn Phấn tuyên ngôn trong thơ:
3
“Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!” hay giãi bày trong đời: “(…) các nhà
thơ lần theo thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại âm sắc thuở hoàn nguyên
đã mất.“; “(…) thơ ca còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới”; “Việc
sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy
những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con
người”; “Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy,
tất cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng nói, được công bằng như nhau trong một
trật tự mới. Những hình ảnh hiện lên trong không gian ấy là cánh cửa mở ra tương lai
hoặc tìm về với quá khứ, hoặc tất cả cùng đồng hiện và đồng hành trong những thời
khắc đặc biệt” (Trả lời tạp chí Thi Bình)
2.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái trong thơ Thái Nguyên và
thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái
Trong thơ Thái Nguyên, vấn đề sinh thái ít nhiều đã được bàn đến. Trong
cuốn Hiện đại mà dân tộc Ma Trường Nguyên có viết: “Người miền núi luôn tiếp
xúc với tiếng chim gọi bày thánh thót, tiếng thác dạt dào, tiếng gió thổi vi vu, tiếng
thú gầm náo động. Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh với
thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên người miền núi có tác phong hùng
dung, dữ dội… Mặt khác do sống giữa núi non hiểm trở… có lẽ do phải đứng trước
thiên nhiên khổng lồ như muốn nuốt chửng mà con người miền núi dễ có tâm trạng
cô đơn, bất lực, tự ti? Chính vì vậy biểu tượng “quả núi”, “vực thẳm”, “khe sâu”
đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong dân ca miền núi. Trong bài “Mở núi”… cái khao
khát giải phóng những thế lực thiên nhiên cản trở. Thế nhưng con người vẫn nhỏ bé
trước thiên nhiên “Móng chân anh đào núi đá mở đường/ Móng tay em cấu núi sắc
dày họp chợ”[24,tr16]. Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết như Thái Nguyên, vùng
văn hóa đặc sắc, tác giả Ma Trường Nguyên, báo Vietnam.net; Thái Nguyên, một
vùng di tích lịch sử, cách mạng, Ma Trường Nguyên, Hiện đại mà dân tộc, Nhà xuất
bản văn hóa dân tộc; Khắc khoải “miền kí ức” trong thơ Nguyễn Hữu Bài, (Hội
VHNT Thái Nguyên 2004); Người “bạn với cỏ cây” vẫn đau đáu tình đời, (Hồ
Thủy Giang, Tạp chí văn nghệ Việt Bắc)… Phác thảo ban đầu về thơ Ma Trường
Nguyên, (Nguyễn Thúy Quỳnh, Hội thảo nhà văn Ma Trường Nguyên - tác giả, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên).
4
Đôi điều cảm nhận về thơ tình Ma Trường Nguyên qua tập “Bắc cầu vồng
thăm nhau”, (Nguyễn Đức Hạnh, Hội thảo nhà văn Ma Trường Nguyên- tác giả, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên)…
Trong bài Ma Trường Nguyên - Nhà văn, nhà thơ tình xứ mây, tác giả Lâm
Tiến (Hội thảo nhà văn Ma Trường Nguyên- tác giả, tác phẩm, HNVT Thái Nguyên)
có nhận xét: “Đã có nhiều nhà văn viết về Ma Trường Nguyên. Nguyễn Trung Đỉnh
cho đó là người “Đốt lửa bằng tái tim” với “dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền
lành”. Ngô Quân Miện sau khi đọc xong thơ Ma Trường Nguyên như: “Bắt gặp cái
mộc mạc, hồn nhiên của con người sống giữa thiên nhiên. Những câu thơ không khắc
họa không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ nguyên sơ, giữa
một bầu không khí ban mai trong trẻo” [25, tr.2].
Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ của Nguyễn Kiến Thọ đăng trên báo Văn
nghệ Thái Nguyên số 3- 2017 đã nói về đặc điểm chung, điều làm nên sự khác biệt
của thơ trẻ Thái Nguyên: “Đặc điểm chung trong thơ của họ là viết về cái-nhìn- thấy,
cái-phổ- biến. Với việc làm thơ, họ đã tạo ra một phép màu, làm cho những cái vô
tình trở nên gần gũi, những cái xa lạ trở nên quen thuộc, những cái hy hữu trở thành
phổ biến, những cái riêng trở thành cái chung, từ thơ của một người đã thành thơ của
mọi người. Thơ, vì vậy, gánh một sứ mệnh cao cả là giúp người đọc khám phá rõ hơn
về những chiều kích của sự vật hiện tượng ở góc độ nhân văn, nhân bản”. Ở đây các
tác giả đã đưa ra một số biểu tượng thiên nhiên gắn bó với con người như: thác nước,
dòng sông, hoa, ánh trăng… Tuy nhiên, vẻ đẹp tự nhiên mới chỉ được tìm hiểu rải rác
chứ chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Nội dung này chúng tôi sẽ kế thừa và
nghiên cứu kĩ trong luận văn một cách có hệ thống.
Trong số các nhà thơ Thái Nguyên đương đại, Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Phan Thái có những đóng góp lớn và giành được nhiều cảm tình của bạn đọc cũng
như các nhà nghiên cứu, phê bình. Từ thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan
Thái, dễ nhận thấy, trong nhiều vấn đề của cuộc sống hôm nay, các nhà thơ đặc biệt
quan tâm đến sinh thái tự nhiên và sinh thái tinh thần của quê hương. Những khắc
khoải, thổn thức của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái về vấn đề sinh thái
cũng nhận được sư quan tâm, đồng cảm và đánh giá xác đáng.
5
Về nhà thơ Ma Trường Nguyên, trong bài viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ
trẻ của đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên số 3- 2017, tác giả Nguyễn Kiến Thọ
nhận xét: “Ma Trường Nguyên là nhà thơ dân tộc Tày với những bài thơ có cấu tứ
độc đáo với những cái tên rất ấn tượng”. Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh qua Ba phác
thảo về Ma Trường Nguyên.
Cao Xuân Thử trong bài viết Ghé thăm cuộc rượu của Võ Sa Hà với núi đăng trên
đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên tháng 4 - 2016, cảm nhận về bài thơ “Quê núi” -
linh hồn thơ Võ Sa Hà”. Theo Cao Xuân Thử: “Linh hồn thơ Võ Sa Hà đậu trên chốn
quê núi non, núi đá của thi sĩ. Tách khỏi chốn quê này, thơ Võ Sa Hà mất sức sống.”
Tuy chưa trực tiếp bàn về vấn đề sinh thái trong thơ Võ Sa Hà, nhưng Cao
Xuân Thử khẳng định gốc rễ của vẻ đẹp thơ Võ Sa Hà là ở sự gắn kết với “bản thể tự
nhiên nguyên sơ”: “Thơ Võ Sa Hà chỉ dẫn cho chúng ta thấy rằng, chỉ không gian
núi cao, rừng sâu, không gian của quê núi mới có thể cho ta cái nguyên sơ, sự tinh
khiết của mọi sự vật, mà từ đó tâm hồn ta mới trở nên sáng trong, lành mạnh” [6,
tr.2]. Đó là gốc rễ để tạo nên vẻ đẹp của thơ. Khác biệt, tức là đối lập với quê núi này
chính là chốn thị thành, phố phường, nơi mà đời sống tự nhiên tươi đẹp của con
người đã bị biến hình, đổi dạng đi. Nói một cách khác, con người ngày nay, họ không
được sống theo bản thể tự nhiên nguyên sơ, tốt đẹp của mình. Họ đã phải gồng mình
lên trong đời sống xã hội hiện thực, chịu rất nhiều áp lực của nhịp đời.
Trong bài viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ, tác giả Nguyễn Kiến Thọ
nhận xét thơ của Võ Sa Hà “hay và ấn tượng”. Những câu thơ của Võ Sa Hà như:
“Mùa thu ấy Bằng Giang rờn sóng nước/ Mã Phục run trong gió lạnh biên thùy/
Pháo đài cổ loáng ánh trăng xanh mướt/ Núi Sa Hà u uất tiễn tôi đi (Mùa thu ấy) đã
được tác giả Nguyễn Kiến Thọ chú ý.
Còn Ma Trường Nguyên được đánh giá là: “nhà thơ dân tộc Tày với những bài
thơ có cấu tứ độc đáo với những cái tên rất ấn tượng”.
Trong bài viết Thơ lục bát Phan Thái in trên báo Văn nghệ Thái Nguyên, tác
giả Nguyễn Kiến Thọ nhận thấy “khát vọng hồi quê” trong cảm thức Phan Thái. Tác
giả nhận xét: “Ở chặng dừng chân cuối cùng, như con thuyền cần một bến bờ để neo,
con người ta hay hướng về quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn. Đó có thể là cuộc
hành hương bằng hoài niệm, một cuộc viễn du của kí ức, nhưng nó thật đẹp và thật
thánh thiện. Ở đó, ta cứ thênh thênh bộc lộ mình với những niềm vui không cần giấu
6
giếm, với những ý nghĩ không cần ngụy trang”. Chúng tôi cũng cảm nhận được, sinh
thái quê hương, cảm thức “hồi quê” chính là nguồn nuôi dưỡng thơ Phan Thái. Chính
vì thế, bài viết của tác giả Nguyễn Kiến Thọ đã gợi mở những góc nhìn khá mới mẻ
trong thơ Phan Thái, gọi mời sự đồng sáng tạo của độc giả.
Nhìn chung, những vấn đề môi trường sinh thái trong thơ Thái Nguyên nói
chung, và nhất là trong thơ của các tác giả Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái
vẫn còn khá mới mẻ. Song các công trình nghiên cứu của những người đi trước sẽ là
tiền đề khoa học quý báu, là những gợi ý bổ ích để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích:
Nhằm lí giải, cắt nghĩa sự tác động của môi trường sinh thái đã, đang và sẽ ảnh
hưởng đến cuộc sống, lối sống, suy nghĩ của con người ra sao được thể hiện qua ba
nhà thơ thuộc ba thế hệ khác nhau.
Đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vào các tập thơ tiêu biểu của ba nhà thơ
từ góc nhìn sinh thái. Đi sâu tìm hiểu về môi trường sinh thái ở Thái Nguyên qua ba
nhà thơ tiêu biểu.
Làm rõ mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và văn học. Đánh giá những
thành công và đóng góp của ba nhà thơ trong nền văn học thơ Thái Nguyên.
Đề tài cũng giúp người viết hiểu thêm về con người và phong cách sáng tác
của các nhà thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên, chúng tôi thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Vận dụng lí thuyết về sinh thái để đi sâu tìm hiểu.
Tìm hiểu khái quát về ba nhà thơ và đi sâu vào các tập thơ có giá trị của ba nhà thơ.
Tìm hiểu về môi trường sinh thái và con người Thái Nguyên đã tạo nên những
nét đặc sắc cho ba nhà thơ.
Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nhà thơ trên một số phương diện nội dung và
nghệ thuật thơ.
Xác định những đóng góp của ba nhà thơ cho thơ Thái Nguyên.
7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu thơ Thái Nguyên nhìn từ góc độ sinh thái (Qua thơ Ma
Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái).
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Đi sâu vào nghiên cứu các tập thơ của các nhà thơ và chỉ ra
được tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên nói chung và sự khác biệt trong cảm
quan sinh thái của ba thế hệ nhà thơ.
Phạm vi tư liệu: Các tập thơ của Ma Trường Nguyên: Tiếng lá rừng gọi đôi (
2007, Nxb (2007, Nxb Văn hóa dân tộc), Cây nêu (2007, Nxb Văn hóa dân tộc), Trái
tim không ngủ(1988, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Bắc Thái), Câu hát vắt qua
vai(2007, Nxb Văn hóa dân tộc); Mở núi(2007, Nxb Hội nhà văn); Bắc cầu vồng thăm
nhau (2007, Nxb Hội nhà văn); Các tập thơ của Võ Sa Hà: Sóng nhạc hồn tôi(), Ngựa
đá(2001, Nxb Quân đội Nhân Dân Hà Nội), Cánh chim về núi (2004 Nxb Hội nhà văn
Hà Nội), Lửa trắng (2009, Nxb Lao động Hà Nội); Các tập thơ của Phan Thái: Quẩy
nắng vào đêm(2012, Nxb Hội nhà văn); Về sông xưa(2014, Nxb Hội nhà văn); Giấc
mơ con quay về. (2016, Nxb Hội nhà văn).
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp đối chiếu so sánh.
Phương pháp hệ thống.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
7. Đóng góp của luận văn
Khẳng định được những thành tựu và đóng góp của Ma Trường Nguyên, _ Võ
Sa Hà, _ Phan Thái trong thơ Thái Nguyên.
Luận văn thể hiện rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác của các thế hệ
khác nhau khi viết về thơ Thái Nguyên.
Góp thêm cái nhìn mới về thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái.
Đồng thời ở mức độ nào đó, luận văn cũng đóng góp làm tài liệu tham khảo
cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy về văn học Thái Nguyên.
8
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính
gồm ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Cảm thức sinh thái trong thơ các nhà thơ Thái Nguyên (Qua thơ
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái).
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện vấn đề sinh thái trong thơ Thái Nguyên (Qua
thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái ).
9
NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Những vấn đề chung về sinh thái và văn học
1.1.1. Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái
1.1.1.1. Khái niệm sinh thái
“Sinh thái” là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa sinh vật và môi trường
[tr.47]. Trong đó sinh vật là một cơ thể sống với các đặc trưng như chuyển động, trao
đổi chất, sinh trưởng, sinh sản và phản ứng đối với các kích thích bên ngoài. Còn môi
trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng
tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước,
độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người…Nói như vậy thì mối quan hệ giữa giữa con người
và môi trường là mối quan hệ biện chứng. Trước nguy cơ sinh thái hiện nay, mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người cần có sự thay đổi thế
giới quan nhận thức. Con người không những tôn trọng và có trách nhiệm trong việc
bảo vệ môi sinh mà còn có trách nhiệm với chính bản thân, cộng đồng và xã hội.
1.1.1.2. Phê bình sinh thái
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos
(chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết). Sinh thái học, vì thế, là học thuyết nghiên
cứu về nơi sinh sống của sinh vật, và đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học này
là tất cả các mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường.Từ chỗ là một bộ
môn gắn liền với sinh học, sinh thái học dần mở rộng, ảnh hưởng đến nhiều bộ môn
khoa học khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn.
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latinh là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một
sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có
nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết,
khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật
học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông chính là người đầu tiên đặt nền móng cho
môn khoa học sinh thái, nghiên cứu về mối tương quan của động vật với các thành
phần môi trường vô sinh.
10
Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình sinh
thái (ecocrticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm chín mươi của thế kỉ
XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn nhập
quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học”. Trong các định
nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa theo bản dịch của tác giả Trần Thị Ánh
Nguyệt trong bài báo Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường
đăng trên tapchisonhuong.com.vn, khái niệm phê bình sinh thái được phát biểu như
sau: “phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự
nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ
giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần
kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là
trung tâm (earth - centered approach) để nghiên cứu văn học” [10, tr.40]
Hiện nay, Phê bình sinh thái xuất hiện như một phản ứng trước sự tàn phá môi
trường, quá trình đô thị hóa và sự mất cân bằng sinh thái đe dọa sự tồn vong của trái
đất. Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những năm 70
của thế kỉ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của văn học và
chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì các nhà nghiên
cứu mới bắt đầu quan tâm đến mối quan hệ giữa văn hóa, văn học và môi trường.
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình khác, chẳng hạn như Phê bình văn học sinh
thái. Sự tưởng tượng lãng mạn và sinh học trí tuệ của Karl Kroeber, Hợp tuyển phê
bình sinh thái học: Những điểm nhấn trong sinh thái học văn học của Cheryll
Glotfellty và Harold Fromm... Vào năm 1992, Hội Nghiên cứu văn học và môi trường
được thành lập tại Đại học Nevada, Hoa Kì.Từ đó trở đi, văn sinh thái (ecolit) và phê
sinh thái (ecocrit) xuất hiện liên tục trong nhiều bài viết khác nhau.Phê bình sinh thái
(văn hóa) từ đó nhanh chóng trở thành hiện tượng toàn cầu. Giới nghiên cứu văn học
Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến phê bình sinh thái với sự góp mặt của một số học
giả tiêu biểu như Đình Hiểu Nguyên, Lỗ Khu Nguyên...
Thực ra về bản chất, phê bình sinh thái ra đời bắt nguồn từ phản ứng lại với
truyền thống coi con người là trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên được phản
ánh trong văn học. Tuy nhiên, gần đây, khái niệm phê bình sinh thái được mở rộng
hơn, khi coi môi trường tinh thần xã hội cũng là một kiểu hệ sinh thái tác động đến
văn học nghệ thuật.
11
Tìm hiểu, nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái hầu như chưa được
chú ý nhiều ở Việt Nam nó mới được chú ý khoảng vài thập niên gần đây. Hiện nay, phê
bình sinh thái mới xuất hiện một số công trình về sinh thái học, song còn rất non yếu.
Một số bài viết và công trình của các học giả nước ngoài đã bước đầu được dịch và giới
thiệu, mà đáng chú ý hơn cả là Sinh thái học nhân văn của Georges Oliver (Huy Yên, Võ
Bình, Đỗ Ngọc Hải dịch, Nxb Thế giới, 1997, tái bản 2002). Riêng về phê bình sinh thái
văn học thì mới có những nốt dạo đầu là các công trình của Trần Đình Sử, Trịnh Bích
Liên, Đỗ Văn Hiểu, Nhã Thuyên... Từ việc giới thiệu về phê bình sinh thái ở Việt Nam
cũng còn nhiều hạn chế, thiếu tính hệ thống. Có thể thấy bài viết “Phê bình sinh thái - cội
nguồn và phát triển của Đỗ Văn Hiểu” trên Tạp chí Nhà văn (số 11/2012) là bài tổng
thuật công phu và đầy đủ nhất về phê bình sinh thái từ trước tới nay.
Như vậy, sau nhiều thập kỉ hiện diện, phê bình sinh thái vẫn đang trong tiến
trình vận động, chưa hề bị giới hạn và đóng khung trong phạm vi hay phương pháp
nào cả. Từ nhiều năm trở lại đây, phê bình sinh thái luôn được các nhà nghiên cứu,
các nhà văn học quan tâm, nghiên cứu và tìm hiểu để phần nào làm thức tỉnh ý thức
của con người trước sự tàn phá môi trường sống.
1.1.2. Khái niệm văn học
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội
và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể
hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có
nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về
mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương,
văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về
phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu
để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống.
Văn học có nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch
bản, lý luận phê bình. Văn học có lịch sử phát triển từ lâu đời từ văn học dân gian đến
văn học viết. Văn học là một bộ phận quan trọng của văn nghệ.
Xét theo nghĩa rộng thì văn học chính là thuật ngữ dùng để gọi chung cho mọi
hành vi ngôn ngữ nói- viết và các tác phẩm ngôn ngữ, bao gồm cả những tác phẩm
được xếp vào loại chính trị, triết học, tôn giáo. Như vậy theo nghĩa rộng thì văn học
chính là văn hóa.
12
Xét theo nghĩa hẹp thì văn học lại là văn hóa - nghệ thuật mà chúng ta vẫn
thường dùng hiện nay. Nó bao gồm tất cả những tác phẩm ngôn từ được sáng tác
bằng hư cấu và tưởng tượng. Như vậy nếu chúng ta hiểu văn học theo nghĩa hẹp thì
những tác phẩm về chính trị, tôn giáo, triết học lại nằm ngoài phạm trù này. Nói cách
khác văn học hiểu theo nghĩa hẹp chính là văn chương.
Văn học chính là một hình thái ý thức xã hội thẩm mỹ. Văn học được bắt
nguồn từ đời sống, phản ánh mọi khía cạnh của đời sống hay bày tỏ một quan điểm,
một lập trường đối vối đời sống, một sự việc, hiện tượng, số phận trong xã hội.
Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học: văn học là sự phản ánh đời
sống xã hội, thể hiện nhận thức và sự sáng tạo của con người. Văn học lấy con người
làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính
tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức
tạp của nó. Văn học xây dựng những hình tượng nghệ thuật có khả năng tác động vào
trí tuệ, vào liên tưởng của con người. [34, tr.2].
Vì vậy văn học có thể phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời sống
trong không gian và thời gian ở bất cứ giới hạn nào. Trong văn học có hai loại đó là
tự sự (gồm truyện, tiểu thuyết, kí…), loại trữ tình (thơ ca, hò vè…). Trong phạm vi
nghiên cứu tôi tìm hiểu về thơ Thái Nguyên.
Thơ, thơ ca hay thi ca, là một khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần
điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là
một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc
một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần giữa câu
nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài. Thơ
thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động
trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong
cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con
người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong
độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô
đọng và chiết khúc. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một con mắt
quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan
sát được với những gì vốn có trước đây.
13
1.1.3. Mối quan hệ giữa sinh thái và văn học
Giữa văn học và môi trường sinh thái có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với
nhau. Cũng như mối quan hệ giữa con người và môi trường, con người và tự nhiên đã
được đề cập đến trong văn chương từ thời cổ đại. Trong tâm thức của nhân loại nói
chung, người phương Đông và đặc biệt là giới tao nhân mặc khách nói riêng, thiên
nhiên là người bạn lớn, người mẹ vĩ đại luôn tương giao, tương thông, tương cảm với
con người, là bến bờ nương tựa và gột rửa linh hồn, là nơi lánh ẩn và di dưỡng tinh
thần của họ. Thi hào Tagore từng nói: “Nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên”. Hồ
Chí Minh cũng từng khái quát: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mĩ”. Việc thiên nhiên,
môi trường, tự nhiên tồn tại trong đời sống văn học một cách lâu dài, bền bỉ như thế,
hẳn đã tạo nên một nền văn học sinh thái? Không phải như thế. Trong văn học quá
khứ, dù nhà văn có trân trọng, có yêu thiên nhiên thiết tha đến mấy, miêu tả thiên
nhiên đẹp đẽ, thơ mộng và hùng vĩ đến mấy cũng chỉ để tỏ cái tình, cái tài, cái khí,
cái chí của người cầm bút. Và đương nhiên thiên nhiên chỉ là khách thể của văn
chương, là phương tiện nghệ thuật để nhà văn “tải đạo”, “ngôn chí”. Câu thơ “Cảm
thời hoa tiễn lệ/ Hận biệt điểu kinh tâm” (Cảm thương thời thế hoa rơi lệ/ Hận biệt li
chim cũng động lòng) của Đỗ Phủ trong bài Xuân vọng “là một biểu hiện điển hình
của kiểu văn học lấy nhân loại làm trung tâm”. Bản thân thiên nhiên cũng như hoa và
chim không quan trọng, quan trọng là chúng có thể là công cụ để biểu đạt tình cảm
của các nhà văn. Bản chất của văn học sinh thái là kiên quyết bài trừ những thái độ
công cụ hóa và phương pháp hóa đối với tự nhiên. Điều này giúp chúng ta có thể
vạch một ranh giới rõ ràng trong việc miêu tả tự nhiên giữa tác phẩm văn học sinh
thái và tác phẩm văn học phi sinh thái.
Hơn nữa, văn học sinh thái đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm và nghĩa vụ của
con người đối với tự nhiên, khẩn thiết kêu gọi con người bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và
duy trì cân bằng sinh thái, nhiệt tình ca ngợi sự hi sinh của con người vì lợi ích của môi
trường sinh thái. Nó đưa trách nhiệm của nhân loại đối với tự nhiên thành định hướng
đạo đức chủ yếu điều đó được đề cập đến trong các giai đoạn văn học.
14
Trong ca dao dân ca thì môi trường tự nhiên là hình ảnh để người dân lao động
bày tỏ nỗi niềm. Như bài ca về quê hương có bốn mùa với những hình ảnh quen
thuộc như có gió, có trăng, có chùa để thể hiện sự thanh bình của làng quê
Quê em có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi.
Những hình ảnh dân dã quen thuộc đời thường được đưa vào câu thơ lục bát
để diễn tả một tình cảm đẹp. Đó là tình thương nhớ quê nhà, nhớ những gì gần gũi
than quen dân dã như: canh rau muống, cà dầm tương … toàn là những hương vị thân
quen của cuộc sống đời thường giản dị mà thanh bình.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
(Ca dao)
Thơ dân gian, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là hòa đồng, gần gũi.
Khi nói về thân phận người phụ nữ được so sánh như chẽn lúa đòng đòng phất phơ
dưới ngọn nắng hồng ban mai
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
(Ca dao)
Hay “Thân em như củ ấu gai”, “Thân em như hạt mưa sa”…
Cũng như ca dao thơ trung đại với chủ đề thiên nhiên vẫn có vị trí quan trọng
và được nhiều nhà thơ đề cập đến.
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo
Nghe nói ở nhà, dẫu nghèo vẫn tốt
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà
(Quy hứng - Nguyễn Trung Ngạn)…
15
Hay trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nhàn)
Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của
“lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào
hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an
phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét
chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng,
đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường
nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc
sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.
Còn trong Thơ mới, thiên nhiên như một khách thể thẩm mĩ để nhà thơ soi
ngắm và hưởng thụ. Rất nhiều thi sĩ thể hiện sự tinh tế tột bậc khi miêu tả thiên nhiên.
Xuân Diệu từng có những câu thơ như thế này:
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh
(Trăng)
Và đây là những câu thơ của Hàn Mặc Tử:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí - bóng xuân sang
(Mùa xuân chín).
Như vậy trong Thơ mới, những vần thơ về đồng quê thể hiện tình yêu mà các
thi sĩ dành cho thiên nhiên là những vẻ đẹp thanh tân. Xét về mặt nào đó, đây cũng
chính là ý thức chống lại sự tàn phá môi trường trong thời buổi văn minh công
nghiệp. Nhớ rừng của Thế Lữ mang vẻ đẹp “hoài cổ” qua khối ẩn ức lớn dần vì ý
thức được sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa tự do và bị tước đoạt tự do, giữa
tự nhiên hoang sơ rộng lớn và môi trường nhân tạo nhỏ hẹp của con hổ
16
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
(Nhớ rừng)
Độc giả dễ dàng nhận thấy “khối sầu đô thị” trong thơ Xuân Diệu (Lời kĩ nữ),
Vũ Hoàng Chương (Say), Đinh Hùng (Bài ca man rợ)... Những bài thơ này, ta không
được gặp một thứ thiên nhiên trong trẻo, thanh bình của làng quê như trong thơ của
Nguyễn Bính hay những nét văn hóa tươi tắn như trong thơ Tết của Đoàn Văn Cừ...
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong Thơ mới còn được thể hiện rất chân thực qua những
“bức tranh quê” của nhóm thi sĩ đồng quê hay trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp,
Nam Trân... Những hình ảnh ấy có thể sẽ trở thành những bảo tàng nghệ thuật, nó
giúp con người thời hiện đại tìm được niềm thư thái trong những trang thơ ấy.
Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Nguyễn Bính:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
(Xuân về)
17
Huy Cận:
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đôi lứa đang bên vườn tình tự
(Đi giữa đường thơm)
... Đâu đây không phải là những bức tĩnh vật mà là những sinh thể thiên nhiên
luôn chuyển động, cựa quậy. Thiên nhiên có thể bày ra hữu hình, có thể ẩn giấu, vô hình.
Dường như các nhà thơ mới phải rất tinh tế mới có thể cảm nhận và hữu hình hóa những
thứ nhiều khi vô hình ấy. Dĩ nhiên, sức quyến rũ của thơ đó chính là sự đan dệt khéo léo
giữa cái hữu hình và cái vô hình của thiên nhiên. Đó là sự đan dệt để tạo nên những
khoảng trống mà người tiếp nhận sẽ làm đầy nó bằng trường liên tưởng và kinh nghiệm
thẩm mĩ của mình.
Thử đọc một đoản khúc của Huy Cận sẽ thấy:
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây
(Ngậm ngùi)
Thiên nhiên và thế giới tự nhiên trong thơ đã trở thành một điểm nhấn quan trọng
khi lí giải mối gắn kết giữa lịch sử của loài người và nơi sinh thành nuôi dưỡng họ.
Nhìn chung, môi trường sinh thái trong thơ ca đã được các thi sĩ mọi thời đại
khám phá, biểu đạt hết sức phong phú và đa dạng, đa chiều. Cho dù trí tưởng tượng
của họ có vượt thoát ra khỏi hiện thực thì cuối cùng, trong thẳm sâu tâm hồn họ vẫn
là nỗi mê đời, niềm khát sống, khát yêu, khát khao hòa nhập. Và trong nhãn quan
nghệ thuật của họ, thiên đường không ở đâu xa xôi mà hiện hữu ngay trong cõi thế
đầy bí ẩn này, đó là nơi trần thế.
Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là văn bản nào có thể được sử dụng làm đối
tượng nghiên cứu của Phê bình sinh thái. Dĩ nhiên, đối tượng nghiên cứu lí tưởng của
Phê bình sinh thái là những văn bản văn học sinh thái theo đúng nghĩa của nó. Văn
18
học sinh thái đúng nghĩa chỉ thực sự xuất hiện khi môi trường toàn cầu xấu đi một
cách nghiêm trọng trong thời hiện đại. Nếu phê bình sinh thái chỉ chọn tác phẩm văn
học sinh thái như vậy làm đối tượng nghiên cứu thì phạm vi vận dụng nghiên cứu của
nó rất hạn hẹp. Bởi vì trước thời kì cách mạng công nghiệp, trước thời kì môi trường
toàn cầu xấu đi một cách trầm trọng rất khó tìm được tác phẩm văn học viết một cách
tự giác về vấn đề bảo vệ môi trường họ chỉ viết có trong vô thức về vấn đề đó mà
thôi. Hơn nữa, ngay cả từ sau cách mạng công nghiệp phát triển môi trường sinh thái
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, không phải đa số tác phẩm văn học trên thế giới đều là
văn học sinh thái. Ở Việt Nam đến thời điểm hiện nay chưa có một dòng văn học
được gọi là văn học sinh thái, văn học bảo vệ môi trường. Vậy liệu có thể ứng dụng
phương pháp phê bình này ở Việt Nam không? Chúng ta sẽ ứng xử như thế nào đối
với những văn bản tác phẩm văn học trung đại và những văn bản tác phẩm hiện đại
không thực sự là văn học sinh thái theo đúng nghĩa của nó?
Để lý giải cho vấn đề đó, Phê bình sinh thái trước hết tập trung vào phân tích
văn bản văn học, tìm ra những nhân tố thể hiện ý thức sinh thái. Nếu đi theo hướng
này, thì phạm vi khảo sát của phê bình sinh thái sẽ mở rộng rất nhiều. Trên thực tế, tư
tưởng sinh thái đã manh nha từ lâu, Trung Quốc cổ đại có tư tưởng “thiên nhân hợp
nhất”, “đạo pháp tự nhiên”, châu Âu thế kỉ XVIII-XIX có trào lưu triết học trở lại với
tự nhiên. Những tư tưởng triết học đó hoặc ít hoặc nhiều đều in dấu trong sáng tác
văn học cổ kim đông tây, có điều trong nghiên cứu văn học trước kia chưa thực sự
chú ý đến hàm ý sinh thái trong đó. Vì vậy, những tác phẩm miêu tả phản ánh vẻ đẹp
tự nhiên và quan hệ giữa con người và tự nhiên, mặc dù người viết đương thời không
chủ đích viết sinh thái như hiện nay, nhưng chúng ta vẫn có thể đứng trên quan điểm
của mình để phát hiện và tìm ra ý nghĩa sinh thái trong đó. Do điều kiện lịch sử nên
phần lớn hình tượng thiên nhiên trong thơ ca trung đại đều được dùng như một ẩn dụ,
một phương tiện để kí thác tâm trạng, cái cớ để thể hiện tình cảm chủ quan của nhà
thơ, nhưng ý thức sinh thái hàm ẩn trong đó là một thực tế khách quan không thể phủ
nhận. Có nhiều tác phẩm coi thiên nhiên là đối tượng thẩm mĩ độc lập, nhà thơ chiêm
nghiệm vẻ đẹp tự nhiên của nó, họ coi thiên nhiên là trung tâm của cái đẹp bởi sự
19
khát khao hoàn thiện trong mỗi con người. Với những vần thơ của những nhà Nho
ở ẩn sống vui với cảnh điền viên như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta
dễ dàng tìm thấy tư tưởng ca ngợi quan hệ hài hòa thân thiết giữa con người và tự
nhiên. Sự giao cảm giữa con người và vũ trụ trong văn học trung đại Việt Nam đã
tạo nên cảnh giới tươi đẹp. Như vậy, trong văn học trung đại, tư tưởng sinh thái
chưa được hình thành một cách tự giác và có hệ thống, nhưng họ đã thể hiện ra
niềm tôn kính, ngưỡng mộ, tình yêu đối với tự nhiên. Ngay thời hiện đại cũng có
rất nhiều tác phẩm văn học không phải văn học sinh thái theo đúng nghĩa của nó,
nhưng lại bao hàm trong đó ý thức sinh thái rất mạnh mẽ, chẳng hạn như “Ông già
và biển cả” của Hemingway hay “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
Những tác phẩm như vậy hoặc ít hoặc nhiều đều có cống hiến nhất định cho việc
thức dậy ý thức sinh thái trong người đọc.
Khi phân tích văn bản văn học, Phê bình sinh thái chú ý đến hai loại cảm
hứng: cảm hứng ngợi ca và cảm hứng phê phán. Hiển nhiên văn học sinh thái thường
phản ánh mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, và thường là thông qua phản tư và
phê phán quan hệ mâu thuẫn này để thức tỉnh ý thức sinh thái, chỉ ra nguy cơ của việc
con người chiếm đoạt tự nhiên, khai thác vô độ tự nhiên chính là tự đào huyệt chôn
mình. Hành động đó không chỉ làm cho môi trường sinh tồn xấu đi, mà còn tác động
xấu đến đời sống tinh thần của con người, đến nhân tính. Nguyễn Huy Thiệp “cảnh
tỉnh rằng, nếu vô cảm với muôn loài sẽ có thể làm con người vô cảm trước đồng
loại” (Con thú lớn nhất), còn Nguyễn Bình Phương lại phát hiện ra “mối liên hệ giữa
việc con người thích tàn sát động vật với hành vi giết người” (Thoạt kì thủy). Bên
cạnh đó, Phê bình sinh thái cũng chú ý đến cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của tự nhiên,
ngợi ca quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Tìm ra những biểu hiện này
trong văn học cũng chính là tìm mẫu lí tưởng cho thái độ ứng xử với tự nhiên.
Thêm một vấn đề đặt ra cho Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học là khi
tiến hành nghiên cứu môi trường sinh thái vẫn phải tôn trọng nguyên tắc thẩm mĩ.
Nếu xa rời nguyên tắc thẩm mĩ thì sẽ đánh mất tính văn học và sẽ không còn là phê
bình văn học nữa. Vì thế, trong quá trình phân tích văn bản văn học, tìm ra những
nhân tố sinh thái, nhân tố thể hiện quan hệ giữa con người và tự nhiên, Phê bình sinh
thái có thể vận dụng các phương pháp của nghiên cứu nội tại. Chẳng hạn tìm kiếm
20
những biểu tượng nghệ thuật về sinh thái như biểu tượng sói, biểu tượng thảo nguyên,
cánh đồng, sa mạc, biểu tượng nước, biểu tượng thiên tai, nạn dịch… Có thể nói
những biểu tượng kiểu như vậy là linh hồn của văn học sinh thái, chúng đóng vai trò
quan trọng trong tự sự văn học sinh thái. Phê bình sinh thái cũng chú ý đến phân tích
kết cấu mang tính đối thoại giữa con người và tự nhiên trong văn bản văn học.
Tóm lại, văn học và môi trường sinh thái luôn luôn có mối tác động qua lại với
nhau. Một nhà văn đích thực cũng chính là một nhà sinh thái học, tác phẩm văn học
mà họ sáng tạo ra cũng chính là một tác phẩm đa dạng hóa mọi vấn đề trong cuộc
sống của một dân tộc nào đó và khi đến với độc giả, được độc giả tiếp nhận thì quá
trình tiếp nhận tác phẩm văn học đó cũng chính là quá trình thưởng thức, tiếp nhận
cái nhìn đa chiều về sinh thái học. Thời đại ngày nay, với nhu cầu của cuộc sống con
người ngày càng coi trọng môi trường sống của mình nên mỗi quốc gia, dân tộc ngày
càng muốn tô điểm cho vẻ đẹp quê hương đất nước thân thiện với môi trường, tìm về
với thiên nhiên để di dưỡng tâm hồn.
1.2. Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị sinh thái
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở phía đông bắc Việt Nam với diện tích hơn
3000Km2, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là tỉnh nổi tiếng với những đồi chè
bát ngát, với những nhà máy thép có sản lượng khai thác hàng năm lớn và tốt vào loại nhất
nhì trong cả nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ, đây
chính là Thủ đô gió ngàn, căn cứ địa cách mạng của cuộc kháng chiến Việt Nam. Ngày
nay Thái Nguyên đã và đang trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực đông
bắc hay nói rộng hơn là của cả vùng trung du và miền núi phía bắc Việt Nam.
Thái Nguyên cũng là một trong những mảnh đất có truyền thống văn hóa từ
lâu đời, những truyền thống văn hóa đó chính là mầm sống thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của văn học. Cũng như tiến trình phát triển của văn học cả nước, văn học nói
chung và thơ ca Thái nguyên nói riêng cũng được phát triển bắt đầu từ văn học dân
gian, thơ ca dân gian với nhiều tên tuổi và đạt được những thành tựu nhất định.
Là một tỉnh thuộc khu vực phía Bắc có nhiều dân tộc anh em sinh sống, ngoài
người Kinh ra còn có người Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao, H'Mông và người
Hoa cho nên có một nền văn hóa rất phong phú, đa dạng. Văn học Thái Nguyên chính
21
là tổng hòa của tất cả những giá trị văn học của các dân tộc anh em đang sinh sống
trên địa bàn Thái Nguyên. Nó vừa chứa đựng những nguồn sống trong mạch chảy
chung của văn hóa cộng đồng người Việt Nam nói chung vừa tích tụ những nét bản
sắc mang tính đặc trưng riêng của cộng động dân cư Thái Nguyên.
Trải qua rất nhiều những biến thiên của lịch sử và thời đại, văn học dân gian
Thái Nguyên vẫn liên tục phát triển với nhiều loại hình khác nhau như: loại hình tự
sự, loại hình trữ tình và loại hình trung gian. Ở đây, do đối tượng nghiên cứu cho nên
chúng tôi xin phép không nhắc đến loại hình tự sự. Loại hình trữ tình trong văn học
dân gian Thái Nguyên bao trùm là ca dao. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì ca dao bao
gồm tất cả các thể loại hát dân ca trong đời sống sinh hoạt dân gian các dân tộc Thái
Nguyên, đặc biệt là các bài hát Sli, Lượn. Những bài hát dân ca này đã phản ánh rõ
nét sự giao lưu văn hóa giữa người Kinh và người Tày.
Văn học Thái Nguyên nói chung và loại hình trữ tình nói riêng chính là một
kho báu về trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, thẩm mĩ của nhân dân các dân tộc anh em ở
Thái Nguyên. Nó chính là cội nguồn, là nền tảng cho sự phát triển của văn học nói
chung, thơ ca nói riêng giai đoạn sau này.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, cùng với các nhà thơ đàn anh ở mọi
miền đất nước, các tác giả là người dân tộc ít người có quê gốc ở Việt Bắc đã viết
những tác phẩm bằng tiếng Tày, Dao, Nùng góp phần làm cho văn học kháng chiến
thêm đa dạng, nhiều màu sắc.
Năm 1957, hội Văn nghệ Việt Bắc được thành lập ở thị xã Thái Nguyên đã tạo
nên một cuộc hội tụ lớn của tất cả các nhà thơ của sáu tỉnh miền núi phía bắc là Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước bùng nổ đã đưa văn học bước
sang một giai đoạn mới: toàn Đảng, toàn dân tập trung, dồn toàn bộ sức lực cho sự
nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước. Những tác phẩm sáng tác trong
thời kì này đều mang hơi thở nóng hổi của thời đại. Tuy nhiên, do yêu cầu của thời
đại mà trong giai đoạn của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống mỹ cứu nước,
văn xuôi là thể loại phát triển hơn thơ ca trong văn học Thái Nguyên.
Năm 1987 hội văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên ra đời đã tạo nên một
bước ngoặt mới của thơ ca tỉnh nhà.
22
Đến thế kỉ XXI, cùng với sự chuyển mình của đất nước, nền văn học Thái Nguyên
trong đó có thơ ca có bước tiến mới, đạt được nhiều thành tựu mới cả về số lượng,
giá trị tác phẩm cũng như đội ngũ sáng tác. Hòa vào dòng chảy văn chương của thời
đại, sự xuất hiện của hàng loạt các nhà thơ mới bên cạnh những nhà thơ cũ với
nhiều lứa tuổi, nhiều thể loại, nhiều bút pháp khác nhau đã làm cho kho tàng thơ ca
nói riêng, văn chương Thái Nguyên nói chung ngày càng thêm phong phú, tiêu biểu
là: Trần Thị Việt Trung, Nguyễn Kiến Thọ, Võ Sa Hà, Ma Trường Nguyên, Phan
Thái, Minh Thắng, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh, Hoàng Tố Nga, Cao
Hồng,... Trong thơ của mình, các nhà thơ đều ít nhiều tự tạo cho mình một hướng đi
riêng, không hòa lẫn với nhau: có nhà thơ thì nhẹ nhàng, có nhà thơ lại mạnh mẽ,
thách thức hoặc khiêm nhường, gai góc hoặc dịu êm... Tuy có những nét rất riêng
như vậy nhưng giữa các nhà thơ vẫn có sự gặp ngỡ nhau trong nỗi buồn, sự cô đơn
và đều có sự bứt phá về thi pháp thơ.
Các nhà thơ sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước thống nhất này đều
hướng ngòi bút của mình vào những biểu hiện của cuộc sống mới với những chủ đề
về tình yêu, gia đình, cuộc sống và con người. Các sáng tác của các nhà thơ thời kỳ
này đã ít nhiều khẳng định được giá trị thông qua một số giải thưởng: giải thưởng thơ
của Văn nghệ Quân đội và Báo Văn nghệ, giải thưởng của ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các Hội văn học Nghệ thuật Việt Nam, giải thưởng trong cuộc thi thơ tình...
Điều này đã chứng tỏ thơ ca Thái Nguyên ngày càng có một vị trí quan trọng trong
nền thơ ca chung của cả dân tộc.
1.2.2. Tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên
Lý thuyết Phê bình sinh thái là vấn đề khá mới mẻ và chưa nhận được nhiều sự
quan tâm. Mới có một số công trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái như: Đỗ Văn
Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách tân, Tạp chí
phát triển nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Tịnh
Thi (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học hậu hiện đại-
lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội; Lê Lưu
Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016) Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên
cứu văn học, Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật, Số 41, Tháng 1 và một số
công trình nghiên cứu của các tác giả khác.
23
Đáng chú ý là cuốn Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975 nhìn từ góc nhìn
phê bình sinh thái của tác giả Lê Lưu Oanh - Trần Thị Ánh Nguyệt; bài Cảm hứng
nhân văn trong tiểu thuyết Vi Hồng đăng trên Tạp chí nghiên cứu Văn học số 10
năm 2011 và Cảm quan sinh thái trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đương
đại của PGS. TS Đào Thủy Nguyên đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7-
2016. Đây là những bài viết đã dựa trên lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu
mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và con người trong văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại. Những bài viết này sẽ là hướng gợi mở để
tôi vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái vào tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng. Chỉ
có một số tác giả như Phạm Mạnh Hùng, Thiều Thị Phương Nga, Dương Thị
Xuân… trong công trình nghiên cứu của mình đã đề cập đến tự nhiên Việt Bắc, hiện
thực cuộc sống con người Việt Bắc.
Vẻ đẹp tự nhiên đã được một số tác giả đề cập đến. Trong Ảnh hưởng của văn
hóa dân gian trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng, tác giả Hoàng Thị Minh Phương
đã nhận xét thiên nhiên trong tiểu thuyết của Vi Hồng rất đặc trưng của vùng miền
núi. Đó là “bức tranh thiên nhiên đẹp đầy màu sắc, hoang sơ của rừng hoa, cánh
ruộng bậc thang bát ngát, trù phú với muôn vàn tiếng chim chóc, cũng có thể là thiên
nhiên hùng vĩ hoang sơ đầy hiểm” [ 1, tr. 23]. Trong Vi Hồng - Tác phẩm và dư luận có
bài viết: Biểu tượng về thiên nhiên như một diễn ngôn về văn hóa Tày trong tiểu thuyết
Vi Hồng của tác giả Trần Thị Ngọc Anh và Nguyễn Thị Vân Anh khẳng định: “Thiên
nhiên đã trở thành một bộ phận hữu cơ gắn bó mật thiết với con người” [ tr. 229]. Ở đây
các tác giả đã đưa ra một số biểu tượng thiên nhiên gắn bó với con người như: thác
nước, dòng sông, hoa, ánh trăng… Tuy nhiên, vẻ đẹp tự nhiên mới chỉ được tìm hiểu
rải rác chứ chưa được nghiên cứu một cách toàn diện
Truyện ngắn Cao Duy Sơn dưới góc nhìn phê bình sinh thái luận văn của
Trịnh Thị Thùy Dung.Trong công trình Văn học dân tộc thiểu sốViệt Nam thời
kỳ hiện đại - một số đặc điểm (2011), các tác giả Trần Thị Việt Trung - Cao Thị
Hảo có đề cập đến hình ảnh thế giới tự nhiên - đặc biệt là những con vật độc ác
xấu xí để miêu tả nhân vật phản diện. Tác giả đã chú ý đến mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên như: “Với thủ pháp vật hóa các nhân vật phản diện trở
thành những con người tầm thường, thậm chí là dung tục, bản năng như loài
cầm thú” [49, tr.144].
24
Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số
(2014) của tác giả Đào Thủy Nguyên (Chủ biên) và một số tác giả khác đã khẳng
định “Thiên nhiên Cao Bằng trong sáng tác của Cao Duy Sơn không chỉ mang vẻ đẹp
của bức tranh sơn thủy mà còn hiện lên như một sinh thể hữu hình, biết chia sẻ với
con người những vui buồn trong cuộc sống” [16, tr. 163].
Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn (2010) của Lý Thị
Thu Phương có miêu tả thiên nhiên như sau “Cao Duy Sơn đã khám phá và sáng tạo
nên thế giới thiên nhiên đầy sức sống, đa săc màu, hung vĩ và thơ mộng,đưa người
đọc đến một miền đất hoang sơ và chứa bao điều bí ẩn, diệu kì, cảm nhận phong vị
miền núi phía Bắc độc đá, khó quên” [35, tr. 55]
Một chút tình si trong thơ của Ma Trường Nguyên của tác giả Nguyễn Đức
Thiện đăng trên báo Văn nghệ Trẻ số 43 ngày 22/10/2006 đã bình về bài thơ “Câu hát
vắt qua vai” Trong bài thơ chất chứa rất nhiều chi tiết đời thường của quê hương núi
rừng. Núi chiều, mây bọc, con chim, con sóc, con gà gô …Ta thử hình dung giữa một
vùng đồi núi hoang vu, nơi bản mường người ở thưa thớt chỉ có gió rừng, suối reo,
chim kêu, vượn hú” [24, tr.2].
Đây là những bài viết đã dựa trên lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu
mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và con người trong văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại. Những bài viết này sẽ là hướng gợi mở để
tôi vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái vào văn thơ Thái Nguyên.
1.3. Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái và quá trình sáng tác
1.3.1. Quá trình sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên
1.3.1.1. Tiểu sử nhà thơ Ma Trường Nguyên
Ma Trường Nguyên là người dân tộc Tày. Ông sinh ngày 17 tháng 5 năm 1944
tại xóm Đồng Chẩn, xã Phú Định, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Ngay từ thuở
thơ ấu, Ma Trường Nguyên đã được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích,
những điệu hát Sli, hát Lượn của dân tộc mình. Điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến
việc sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ sau này.
25
Ma Trường Nguyên được coi là "người đốt lửa bừng trái tim" với "dáng
vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành". Ông được coi là một trong những tác giả
tiêu biểu của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XX, đầu
thế kỉ XXI.
Tham gia vào quân đội và hoạt động trong một đội pháo cao xạ từ năm 1963.
Ông đã được trải nghiệm qua những khó khăn, mất mát mà người lính pháo binh phải
chịu đựng. Đồng thời cũng được chứng kiện tinh thần gan dạ, quả cảm, sự lạc quan
trong mọi khó khăn gian khổ của đồng đội, của nhân dân toàn miền Bắc. Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, Ông làm phóng viên cho báo Quân khu 3, biên tập viên nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc. Tiếp đó, ông theo học trường viết văn Nguyễn Du. Sau khi
tốt nghiệp, ông về công tác tại quê hương Thái Nguyên.
Trải qua một quá trình sáng tác, nhà thơ đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan
trọng trong nhiều cơ quan khác nhau của tỉnh Thái Nguyên: Phó giám đốc Sở Văn
hóa - thông tin (1985), Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên (1998 -
2003), Bí thư Đảng đoàn Hội văn nghệ, Tổng biên tập báo Văn nghệ Thái Nguyên.
Cho dù ở cương vị nào ông cũng luôn hoàn thành xuất sắc công việc được giao.
Trong những năm tháng trải qua trong cuộc đời, Ma Trường Nguyên đã tích
lũy được một vốn tri thức phong phú, một nhân cách đáng kính trọng, một tình yêu
quê hương đất nước tha thiết. Chính điều đó đã tạo thành một mạch nguồn xuyên suốt
trong các sáng tác của ông.
1.3.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên
Theo Ma Trường Nguyên, người làm thơ lúc nào cũng phải nuôi dưỡng trong
lòng mình một "dư vọng ngân nga" của cuộc đời, khi cần chỉ khẽ động vào cũng đã
thành thơ. Thơ chỉ đến với những người biết rung cảm, nồng nhiệt với đời mà thôi.
Người làm thơ phải luôn gắn với đời, giao cảm với đời thì mới có thể có những vần
thơ chân thật, chân thành nhất.
Ma Trường Nguyên là nhà thơ sáng tác thơ ca từ rất sớm. Năm 16 tuổi, ông đã
khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình với bài thơ “Cờ hồng” được in trong tập
“Tiếng trống đồng xuân” do Ty văn hóa Thái Nguyên xuất bản. Nhuận bút mà nhà
26
thơ nhận được rất đặc biệt, đó là năm cuốn sách trong "Tủ sách lí luận - hướng dẫn
sáng tác". Đối với Ma Trường Nguyên thì những quyển sách này giống như những
người thầy đầu tiên dìu dắt ông trong những bước chập chững bước những bước đi
đầu tiên vào sự nghiệp sáng tác văn chương.
Giai đoạn từ 1960 - 1990, Ma Trường Nguyên chủ yếu sáng tác thơ in trên các
báo, tạp chí. Những tập thơ in chung có: Đường qua kỉ niệm (1975), Rừng sáng
(1980), Quê núi (1987). Và các tập thơ riêng: Mát xanh rừng cọ (1985), Trái tim
không ngủ yên (1988).
Năm 1991, tiểu thuyết đầu tiên được ông cho trình làng với tên gọi "Mũi tên ám
khói". Và liên tiếp 8 năm tiếp theo, nhà thơ đã cho ra đời tất cả 6 cuốn tiểu thuyết, một
tập truyện kí: Gió hoang (1992), Tình xứ mây (1993), Trăng yêu (1993), Bến đời (1995),
Rễ người dài (1996), Mùa hoa hải đường (1998), Cơn giông thời niên thiếu (Kí - 1997).
Đến năm 2004, sau một thời gian vắng bóng, ông trở lại với văn chương và gây ấn
tượng với một số thể loại khác như: tự truyện “Dòng suốt tuổi thơ tôi” và bốn tập thơ: Câu
hát vắt qua vai (2005), Cây nêu (2006), Bắc cầu vồng thăm nhau (2007), Mở núi (2011).
Năm 2009, ông tiếp tục trình làng tập kí Những người bạn và gần đây nhất,
năm 2012 là cuốn tiểu thuyết “Phượng Hoàng núi”.
Ma Trường Nguyên đã nhận được nhiều giải thưởng cao về văn học nghệ
thuật như:
Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt
Nam cho tiểu thuyết “Rễ người dài” (1996).
Giải C Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ
“Cây nêu” (2007).
Giải C giải thưởng văn học nghệ thuật 5 năm (1987 - 1992) của tỉnh Thái
Nguyên cho tập thơ “Trái tim không ngủ”.
Giải B giải thưởng văn học nghệ thuật 5 năm của tỉnh Thái Nguyên với tiểu
thuyết “Mũi tên ám khói”.
Giải B giải thưởng văn học nghệ thuật 5 năm (1992 - 1997) cho tiểu thuyết
“Mùi hoa hải đường”.
Giải B văn học nghệ thuật 5 năm (2002 - 2007) cho tập thơ “Câu hát vắt qua vai”.
27
Với 50 năm miệt mài, say sưa với sự nghiệp văn chương, Ma Trường Nguyên
đã để lại nhiều những trang viết chân thật, đậm đà tình cảm, mang đậm dấu ấn cá
nhân. Những giải thưởng mà ông nhận được chính là những thành quả xứng đáng cho
quá trình sáng tạo không mệt mỏi của ông.
1.3.2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Võ Sa Hà
1.3.2.1. Tiểu sử nhà thơ Võ Sa Hà
Võ Sa Hà tên thật là Ngô Gia Võ, ông sinh ngày 27/10/1959 tại thị trấn Quảng
Uyên, tỉnh Cao Bằng. Quê gốc của ông là ở Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Võ Sa Hà là người ưa giao du, quý bạn và chiều bạn, cửa nhà anh luôn rộng mở
với bạn văn chương. Quê gốc Bắc Ninh, sinh tại Cao Bằng, hiện sống và làm việc ở
thành phố Thái Nguyên: “Trông về đằng Đông chập chùng biên ải/ Ngược lên phía Bắc
đá dựng lô nhô/ Xuôi về phương Nam bắt tay Kinh Bắc”. Những “dư địa chí” ấy xuất
hiện trong thơ Võ Sa Hà như những miền văn hóa, lúc xù xì dữ dội, khi mềm mại trữ
tình. Khác với vẻ ngoài quảng giao, gặp nhau nói cười rộn ràng, thơ Võ Sa Hà dường
như luôn phảng phất một nỗi buồn giàu chiêm nghiệm của người bôn ba, tự lập từ nhỏ,
cùng lúc phải làm nhiều nghề để mưu sinh. Những bài thơ Võ Sa Hà viết về núi thường
hay. Núi với anh là bạn rượu, là người tình, là khí chất, là nơi lưu giữ cả sự cô đơn và
kiêu hãnh.
Quê hương Cao Bằng của ông nằm ở địa đầu của tổ quốc, đã được hình thành
từ rất lâu đời. Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, Cao Bằng đã có một
bề dày về truyền thống văn hóa cũng như lịch sử trong công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Là một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống cho nên
Cao Bằng là một vùng đất có sự đa dạng, phong phú về văn hóa nhờ có sự giao lưu
văn hóa của các dân tộc anh em. Quê hương chính là một trong những ngọn nguồn
cảm hứng trong các sáng tác của nhà thơ góp phần làm nên tính dân tộc và phong
cách riêng, độc đáo trong thơ Võ Sa Hà. Quê hương yêu dấu ấy đã hiện lên trong
những trang thơ của ông thông qua những hình ảnh rất đỗi thân quen mà khi đọc
chúng ta không thể nhầm sang một vùng quê khác như: ngọn đèn dầu li ti, bếp lửa đỏ
suốt ngày đêm, sương muối phủ dày...
28
Đặc biệt, những sản vật đặc trưng của quê hương Cao Bằng như: hạt dẻ Trùng
Khánh, lê Đông Khê... cũng đã được ông đưa vào trong thơ rất đỗi tự nhiên, mộc
mạc, giản dị góp phần làm nên một sức hút rất riêng cho những bài thơ của ông. Có
thể khẳng định rằng, Võ Sa Hà là một nhà thơ yêu quê hương da diết, nồng đậm.
Võ Sa Hà có một tuổi thơ thiếu thốn tình cảm của mẹ: khi ông mới được 17
ngày tuổi đã mất mẹ. Đến khi 17 tuổi, sắp trở thành sinh viên khoa văn thì lại mất
cha. Đây là một nỗi đau, sự mất mát quá lớn, không gì có thể bù đắp được. Nỗi đau,
nỗi buồn ấy luôn luôn thường trực trong tâm trí nhà thơ và sau này đã trở thành
nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tác của ông.
Thuở thiếu niên, Võ Sa Hà học phổ thông tại thị trấn Quảng Uyên. Năm 1976,
ông đạt giải Nhất học sinh giỏi văn toàn tỉnh Cao Lạng đồng thời cũng trong năm này
ông đã tốt nghiệp phổ thông loại giỏi.
Từ năm 1976 - 1980, Võ Sa Hà học tại khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm
Việt Bắc. Vì là sinh viên ưu tú cho nên sau khi tốt nghiệp ông được giữ lại trường
làm giảng viên. Tuy nhiên không bao lâu, đến tháng 12/1980, ông tình nguyện nhập
ngũ và công tác tại trường Văn hóa Quân khu I.
Đến tháng 2/1984, ông ra quân, trở về tiếp tục làm giảng viên tại trường Đại
học Sư phạm Việt Bắc - nay là trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tháng 12 năm 1999, ông chuyển sang làm giảng viên khoa Giáo dục Tiểu học của
trường Đại học Sư phạm. Hiện nay đang là trưởng khoa Giáo dục Tiểu học - Đại học
Sư phạm Thái Nguyên. Đến năm 2002, Võ Sa Hà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
chuyên ngành Văn học Việt Nam.
Võ Sa Hà là một người luôn hết lòng vì công việc, dù cho ở cương vị nào: một
người thầy giáo, một vị trưởng khoa hay một nhà thơ ông cũng luôn luôn dồn hết tâm
sức của mình để hoàn thành. Đồng thời ông cũng là một người có nghị lực sống và
vươn lên không ngừng, chính sự phấn đấu vươn lên không mệt mỏi ấy đã giúp ông
tích lũy được một vốn hiểu biết sâu rộng, làm tiền đề cho những sáng tác của mình.
1.3.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Võ Sa Hà
Thơ ca là một phần không thể thiếu trong cuộc đời Võ Sa Hà. Ông đã cho
xuất bản tất cả bốn tập thơ là: Sóng bạc hồn tôi (Nxb Văn học, 1998), Ngựa đá
(Nxb Quân đội nhân dân, 2001), Cánh chim về núi (Nxb Hội nhà văn, 2004), Lửa
trắng (Nxb Lao động, 2009).
29
Thơ Võ Sa Hà rất giàu tính nhạc chính vì vậy mà nhiều bài thơ của ông đã
được nhiều nhạc sĩ lựa chọn để phổ nhạc, đáng chú ý là trong số những bài được phổ
nhạc ấy có những bài gây được ấn tượng rất tốt và giành được nhiều giải thưởng cao
như: Quê anh - nhạc sĩ Hoàng Sòi (Đạt huy chương vàng Liên hoan ca khúc Cao
Bằng), Thổ cẩm - nhạc sĩ Vũ Lực (Đạt giải xuất sắc trong Liên hoan âm nhạc các tỉnh
khu vực phía bắc năm 2009), Chữ O đầu đời - nhạc sĩ Phạm Đình Chiến...
Trong quá trình sáng tác của mình, Võ Sa Hà đã giành được nhiều giải thưởng
cao như: Giải thơ Cao Bằng về đề tài chiến tranh biến giới (1980); đoạt giải nhì
(không có giải nhất) - giải thưởng văn học nghệ thuật 5 năm (1998 - 2002) tỉnh Thái
Nguyên cho tập "Sóng nhạc hồn tôi"; Giải A tác phẩm văn học tỉnh Thái Nguyên với
tập thơ "Cánh chim về núi" (2002 - 2006); Giải C - Giải thưởng Ủy ban toàn quốc
Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (2004) cũng với tập thơ "Cánh chim về
núi"; Giải B cuộc thi thơ tình do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức trên báo Văn nghệ trẻ
trong hai năm 2006 - 2007; Giải khuyến khích cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ
Quân đội tổ chức (2008 - 2009). Thơ là thể loại chủ yếu được ông sáng tác, tuy nhiên
ngoài sáng tác thơ thì Võ Sa Hà còn tham gia hoạt động nghiên cứu, phê bình văn
học; sáng tác truyện ngắn, tản văn và một số thể loại khác nữa.
Với việc giành được nhiều giải thưởng cao đã nâng cao, khẳng định được giá trị
của thơ Võ Sa Hà. Thơ ông còn được tuyển chọn để đưa vào trong nhiều hợp tuyển thơ
ca của cả nước: "Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số" - Nxb Giáo dục, 2001, "Thơ
Việt Nam 1975 - 2000" - Nxb Hội nhà văn Việt Nam, 2002, "Thơ viết về mẹ" - Nxb Lao
động, 2002, "Tuyển tập thơ tình Việt Nam và thế giới" (Nxb Quân đội nhân dân, 2005),
"Thơ với lời bình đài tiếng nói Việt Nam" - Nxb Hội nhà văn, 2006, "Chung bước quân
hành" - Tập thơ viết về thương binh liệt sĩ, được xuất bản do Nxb Quân đội nhân dân,
2006, "Thơ Việt Nam 1975 - 2000" - Nxb Hội nhà văn, 2006, "Thơ tình Việt Nam thế kỉ
XX" - Nxb Giáo dục, 2007, "Sống mãi với thời gian" - Nxb Lao động, 2010.
Nói tóm lại, Võ Sa Hà là nhà thơ có sự đóng góp lớn cho sự phát triển của phong
trào sáng tác thơ ở khu vực miền núi. Những bài thơ đậm đà bản sắc dân tộc, vùng miền
của ông đã làm cho vườn hoa thơ ca dân tộc thêm nhiều màu sắc, nhiều phong vị.
30
Ông gửi gắm vào trong thơ những suy tư và những khát vọng của bản thân mình.
Võ Sa Hà quan niệm con đường sáng tạo của nhà thơ được kéo dài vô tận, không có giới
hạn, không bao giờ đến đích. Thơ chính là mảnh đất để người thi sĩ gửi gắm những suy
ngẫm của mình về cuộc đời, về con người và về chân lý sáng tạo nghệ thuật, về cái bản
thể cô đơn nhiều khát vọng nhưng cũng không thiếu sự khổ đau của bản thân.
Trong bài phỏng vấn nhà thơ ngày 3/12/2011 nhà thơ đã tâm sự: "Niềm đam
mê thơ có lẽ sẽ gắn bó với tôi suốt đời". Võ Sa Hà là nhà thơ viết nhiều về người
thân, về quê hương, về những miền đất mà nhà thơ đã đi qua, về những kỉ niệm tình
yêu, tình bạn, tình đồng đội và về cả những vui buồn trong cuộc sống. Ông gửi gắm
vào trong thơ những suy tư và những khát vọng của bản thân mình.
Thơ chính là mảnh đất để người thi sĩ gửi gắm những suy ngẫm của mình về
cuộc đời, về con người và về chân lý sáng tạo nghệ thuật, về cái bản thể cô đơn nhiều
khát vọng nhưng cũng không thiếu sự khổ đau của bản thân. Một người thầy mẫu
mực, một nhà thơ tâm huyết đã góp cho đời những vần thơ hay những cái nhìn đa
dạng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
1.3.3. Quá trình sáng tác của nhà thơ Phan Thái
1.3.3.1. Tiểu sử nhà thơ Phan Thái
Quê quán: Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình. Hiện sống tại Thị trấn Chùa Hang,
huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên, Hội viên Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên.
Tác phẩm đã xuất bản: Về sông xưa (thơ, 2010); Suýt chết vì bố vợ (truyện vui,
2010); Quẩy nắng vào đêm (thơ, 2012); Gặp nhau là cười (truyện vui, 2012) Cơm áo
chợ đời (tiểu thuyết, 2014); Sóng bên ngày nắng (tiểu thuyết, 2015).
Giải thưởng Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam (tập thơ Về sông xưa, năm 2011)
Giải Nhất thơ Cuộc thi sáng tác văn học về đề tài “Nông nghiệp - nông dân -
nông thôn” trên Báo VNTN (2011 - 2013).
1.2.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Phan Thái
Hồi học lớp 7, Phan Thái đã ham thích đọc văn và ngây ngô nghĩ rằng mình
cũng viết được.Vậy là Phan Thái làm bài thơ đầu tiên gửi cho báo Thiếu niên Tiền
phong, tác phẩm được đăng đã khích lệ tinh thần Phan Thái rất nhiều. Khi học cấp 3
cuộc sống nhiều khó khăn, mặc quần áo vá, đi xe đạp cũ, ngày ngày chỉ ăn cơm độn
khoai sắn nhưng vẫn hay viết thơ gửi báo, mỗi lần lấy nhuận bút là dịp bạn bè được
31
uống nước chè, ăn kẹo lạc…, vui sướng lắm. Học xong thì Phan Thái đi bộ đội
(1978), viết thơ về quê hương đất nước, về những người lính. Sau ngày giải ngũ thi
vào đại học Mỏ - Địa chất, học xong thì lập gia đình, lúc ấy nghèo, tích cóp mãi mới
mua được chiếc xe đạp, có khi cả năm sắm sửa được mỗi cái phích nước. Thế là Phan
Thái quyết định dấn thân làm kinh tế, đi buôn và mở lò gạch.Sau này cuộc sống ổn
hơn, mặc dù không viết nhiều nhưng thỉnh thoảng vẫn viết cộng tác bài cho các báo.
Năm 2000, trong một lần Hội VHNT Thái Nguyên tổ chức cho các tác giả đi
thực tế tại Mỏ than Phấn Mễ nơi Phan Thái làm việc. Có giao lưu đọc thơ, lúc ấy “tôi
hứng khởi mang “sổ thơ” mình ra khoe, nhà văn Hồ Thủy Giang đọc rồi khen, đã
động viên tôi làm hồ sơ vào Hội”.
Năm 2004 - 2005, Phan Thái bắt đầu viết truyện ngắn, rồi bước dần đến mảng
tiểu thuyết. Đến nay đã xuất bản 6 tập sách, trong đó có 2 tập thơ, 2 tiểu thuyết, 2 tập
truyện vui. Hiện Phan Thái đang gửi in cuốn tiểu thuyết “Đèn giời”, thời gian tới sẽ
tập trung đầu tư, đi sâu hơn vào mảng văn xuôi. Chuyện văn chương có làm mình
sống đẹp và tình hơn hay không thì nên để bạn bè đồng nghiệp, hơn hết là độc giả
nhìn nhận, Phan Thái chỉ dám nói rằng khi đến với văn chương, trải lòng trên những
trang viết Phan Thái thấy đời sống mình phong phú hơn, suy nghĩ mọi sự thấu đáo, đa
chiều hơn. Với niềm đam mê, sự nhiệt huyết và tình yêu dành cho thơ ca Phan Thái
đã mang đến cho người đọc những bài thơ hay, trong sáng về cảnh người quê hương
thấm đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến nhịp điệu và lối diễn đạt, góp
thêm cho dòng thơ Thái Nguyên nói riêng và thơ Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm
có giá trị cao, được người đọc hôm nay và mãi đến sau này yêu thích và mến mộ.
Sinh ra ở Thái Bình, vùng đất của lúa, của nghệ thuật chèo, của những làng cổ
đặc trưng vùng Bắc Bộ. Từ bé đã nghe hát chèo, hát đồng dao trẻ con… Nên Phan
Thái viết nhiều thơ lục bát vì thấy ưng ý hơn các thể loại khác, nó giúp Phan Thái thể
hiện thành công hơn những gì là hoài cổ, đó là sự trân trọng quá khứ, nguồn cội. Sớm
rời quê theo cha mẹ đi lập nghiệp, nên khi viết về miền quê nhà văn như thấy mình
được trở lại. Đắm mình trong những giá trị xưa cũ, là bầu bí chung giàn, lá lành đùm
lá rách, dây trầu quấn lấy thân cau... Với Phan Thái sáng tác thơ là sự trải lòng mình,
dòng chảy của mạch thơ không cố định, cứ bật ra theo cảm xúc và cứ tuôn trào.
32
Phan Thái kể: “Đến với nghề viết vì yêu thích chứ không phải vì mưu sinh, nên
coi việc viết nhẹ nhàng”. Hồi ở đơn vị bộ đội, tôi viết vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê trong
những đêm đứng gác; trong những cuộc giao tranh, nghe tin đồng đội hi sinh, chứng
kiến bạn bè ngã xuống…, những câu thơ cứ bật ra tự nhiên dù chẳng nghĩ đến. Cuộc
sống không bao giờ toàn mỹ, tôi viết những lúc bản thân buồn ghê gớm, không hài
lòng ghê gớm. Tuy nhiên không phải dùng trang viết để lồng bực tức vào đó, mà viết
để nỗi niềm được giải tỏa, để cân bằng suy nghĩ và hành động. Làm thơ, viết văn đòi
hỏi người ta phải có tâm trạng, xây dựng được ý - tứ, cốt truyện, nhân vật, bối cảnh…,
phải đặt mình vào nhân vật đó, xem họ suy nghĩ, hành động thế nào mới có thể tạo ra
bất ngờ. Viết là cách để tôi được “sống” nhiều hơn.Phan Thái viết bằng niềm đam mê.
Mặc dù công việc ở cơ quan khá bận, ngày trước Phan Thái hay chơi thể thao như cầu
lông, tennis, sau này vì mê viết mà bỏ cả. Cuộc sống có rất nhiều vấn đề, sự việc tác
động vào nhận thức, Phan Thái muốn thông qua sáng tạo văn học để nói lên. Nhiều khi
viết vì có những điều không nói được, nhưng không ngộ nhận cá nhân mà đứng trên
góc độ của cái chung để suy xét, đánh giá sao cho đúng nhất. Cuộc sống vốn phức tạp,
cái quan trọng là người cầm bút phải chọn lọc cần nói gì, cái gì không nên nói. Cảm
hứng được tạo ra khi suy nghĩ và hiểu về vấn đề mình nung nấu. Ví như viết về làng
quê phải có sự gắn bó, vì gia đình là công nhân nên Phan Thái không gắn với ruộng
đồng, Phan Thái tìm về quê để xem người dân gặt lúa thế nào, trâu đẫm ra sao, tìm hiểu
tại sao người ta gọi là áo nâu sồng, nón mê…; viết về đề tài công nghiệp thì phải hiểu,
chưa hiểu thì nhà văn giở sách công nghiệp ra đọc. Văn học là sự sáng tạo, tuy vậy, tôi
nghĩ nền tảng của sáng tạo là phải hiểu thì mới viết được.
Phan Thái thường viết bằng những cảm xúc tự nhiên nảy sinh trong tâm
hồn, thổi hồn vào những câu thơ đem đến cho sự vật sự sống, thể hiện trạng thái,
cảm xúc tinh vi nhất của sự vật và chính bản thân tác giả. Cái tài của Phan Thái là
ở chỗ, viết về những thứ quen thuộc với mọi người như đồng ruộng, làng quê,….
nhưng vẫn tạo nên sự hấp dẫn riêng. Nhà thơ nói sự vật, sự việc này mà như đang
nói sự vật sự việc khác:
33
Tiểu kết chương 1
Khái niệm sinh thái, văn học và mối quan hệ giữa sinh thái và văn học là
những giới thuyết quan trọng, cần thiết mà chúng tôi đi tìm hiểu trước khi đi sâu vào
những ý chính của luận văn. Giữa sinh thái và văn học luôn luôn có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Môi trường sinh thái tác động, ảnh
hưởng trực tiếp đến văn học đồng thời văn học cũng góp phần làm cho những biểu
hiện tích cực hay hạn chế của môi trường sinh thái đến đời sống của con người.
Thơ Thái Nguyên là một bộ phận cấu thành nên nền thơ ca dân tộc Việt Nam.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển Thơ Thái Nguyên đạt được những thành
tựu đáng kể về số lượng và chất lượng.
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái là một trong những nhà thơ tiêu
biểu của nền thơ Thái Nguyên. Cả ba nhà thơ đều có một quá trình hoạt động sáng tác
lâu dài cho đến tận ngày nay.
34
Chương 2
CẢM QUAN SINH THÁI TRONG SÁNG TÁC
CỦA CÁC NHÀ THƠ THÁI NGUYÊN
(Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)
2.1. Cảm quan sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái
2.1.1. Sự tuyệt mĩ của sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên
2.1.1.1. Những chảng đồi bát ngát trong thơ Ma Trường Nguyên
Là một trong những nhà thơ dân tộc Tày tiêu biểu của Văn học dân tộc thiểu
số Việt Nam nói chung và Văn học dân tộc thiểu số Thái Nguyên nói riêng. Ma
Trường Nguyên lớn lên trong một không gian tràn ngập những chảng đồi bát ngát của
quê hương. Hình ảnh đó đã gắn liền với ông và nó đi vào các trang thơ một cách rất
tự nhiên. Nó như chất xúc tác để tạo linh hồn cho các bài thơ và là biểu tượng quen
thuộc về quê hương của ông. Ông viết về nó như là để kí thác để tâm sự nỗi lòng của
một nhà thơ, để gửi gắm tình yêu quê hương bao la và niềm tự hào mà theo ông đó là
đặc sản riêng của quê hương mình.
Ông có cái nhìn đầy tự hào, hãnh diện khi viết về quê hương của mình nơi
Đồng Chẩn, có dòng suối Khuổi Quỵnh, có núi Hồng xanh, có những đồi cây, đồi
chè chở che trong những năm bom đạn của kẻ thù và bao bọc làng quê trong những
ngày thanh bình.
Quê tôi xóm Đồng Chẩn
Còn gọi bản Tồng Chin
Có dòng suối Khuổi Quỵnh
Bóng núi Hồng xanh in
… Bóng núi Hồng chở che
Tôi lớn theo năm tháng
Đánh giặc và làm thơ
Quê tôi xóm Đồng Chẩn
(Quê tôi xóm Đồng Chẩn- 2008)
35
Ma Trường Nguyên muợn hình ảnh núi để kí thác, gửi gắm nỗi niềm thầm kín,
những hờn dỗi bông quơ, những e lệ thẹn thùng, những trầm lắng, đắn đo suy tính.
Giọng thơ Ma Trường Nguyên thường nghiêng về suy nghĩ, liên tưởng, có dáng vẻ
như một lời tâm sự:
Anh về đến ngõ núi mường
Quên bó củi trên vai đang vác
Đứng im như núi mọc
Mê mẩn lắng nghe…
(Câu hát vắt vai 1996)
Dường như nhà thơ không bao giờ hài lòng với tình yêu đã có mà ông luôn
khao khát đi tìm mọi nơi, mọi lúc từ đầu núi, nơi suối cạn hay trên đồi cao: đầu núi
đón, ngực vui như suối cạn, từ đồi cao bóng che, một khoảng trời râm mát. Đó là sự
kiếm tìm chủ động, không tìm được người mình yêu thì cũng tìm được một bóng
hình đầu núi, một bóng hình in bên suối… thoáng đến, thoáng đi nhẹ nhàng như câu
hát Sli, hát lượn.
Bao nhiêu năm sống nơi thành thị nhưng Ma Trường Nguyên vẫn giữ nguyên
các gốc gác của người dân tộc Tày. Thơ ông cái gì cũng như nắm được, sờ được và
nhìn thấy được. Ông vẫn còn giữ nguyên vẹ sự trẻ trung, trong sáng khi viết về một
miền quê yêu dấu với đồi cao sương biếc lung linh và huyền ảo mang đầy vẻ đẹp quyến
rũ khiến ai nhìn thấy cũng muốn đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp với
chảng đồi san sát như mái nhà xanh đang vươn mình tỏa hương sắc và làm đẹp cho đời.
Đồi cao sương biếc cuộn
Mơn man gió sớm tìm
Nhịp đất dồi lên dập xuống
Ngủ lim dim
Đồi nhú mọng muồi sim
Tiếng chim rừng vang hót
Bầu trời sà áp lên
Mù vương lơ lửng chóp
(Đồi - 1999)
36
Và “Tìm về thời hoa dại” trên đồi hoa dại tình cờ gặp em- người con gái đẹp
thẹn thùng … Họ cùng nhau ngắm hoa, cùng nhau ước hẹn:
Tôi đến với cây trên đồi
Gặp em bất ngờ khuyến luyến
Nụ cười em tươi đỏ thẹn
Thấy tôi cùng mải ngắm hoa
(Tìm về thời hoa dại - 1988)
Thế nhưng khói lửa chia cắt tôi và em. Tôi vẫn nhớ về em nụ cười đỏ thẹn với
ước hẹn chưa thành lời, với niềm khao khát cháy bỏng vẫn dấu kín trong lòng thì tình
cờ biết tin em đến tìm tôi trong bom đạn rơi còn tôi khi biết ra thì đã muộn:
Tìm về hoa dại trên đồi
Mất em rồi hoa cũng mất
(Tìm về thời hoa dại - 1988)
Nhà thơ luôn mượn những hình ảnh gần gũi, thân quen với người miền núi để
giãi bày và đồi cũng được nhắc đến như một biểu tượng kì vĩ.
Đứng trên đồi Lê nin nhìn toàn cảnh Mát- xcơ- va
Cả một ngàn cây số vuông bát ngát
Những nhà cao tầng tháp vàng chói rực
(Đứng trên đồi Lê nin 1990)
Hình ảnh đồi là biểu tượng cho mảnh đất lao động nghệ thuật. Ở đó nhà thơ
như người nông dân đang âm thầm lặng lẽ, một nắng hai sương, đứng giữa trời để rồi
sau bao vất vả gian nan thì trái ngọt là những trang thơ. Điều đó được khắc họa qua
bài thơ “Người đi cày trên cánh đồng im lặng”
Cũng là một nắng hai sương
Đội trời chân đạp gai vương dốc đồi
Mùa màng nhờ đất sinh sôi
Vần thơ nhờ trái tim người sản sinh
(Đi cày trên cánh đồng im lặng)
37
Đồi chè là kỉ niệm thời thơ ấu của nhà thơ. Nơi đó có lời cha dặn dò, có nỗi vất
vả của mẹ. Đồi chè còn khắc sâu bóng hình mẹ cha là nơi cha, mẹ lặng lẽ hướng theo
những đứa con của mình. Và cũng là nơi an nghỉ để rồi khi những đứa con trở về
không thấy cô đơn xa lạ. Cha mẹ vẫn ở đó đợi con về sau những chuyến đi công tác xa.
Cha đi công tác xa nhà
Lời cha dặn dưới tán hoa đồi chè
…Đồi chè bỗng gió tơi bời
Cha không về nữa thành lời trăm năm
Búp chè chiu chắt đất cằn
Mẹ tôi nắng xối mưa dầm bầm vai
... Đồi chè mộ mẹ trên cao
Mộ cha cải táng đất sâu phủ đày
(Đồi chè xanh mây trắng)
Đồi không chỉ là nơi dặn dò của cha, nỗi vất vả của mẹ mà còn là cõi vĩnh
hằng của những người thân.
Trên đồi cao hai ngôi mộ sóng đôi
Chị nằm sát anh cho ấm
Dưới tán chè xanh tỏa bóng
Nơi chị thường đến với anh
(Tiễn chị về)
Nói tóm lại, Ma Trường Nguyên là một nhà thơ luôn miệt mài "trên cánh đồng
chữ nghĩa", viết như "con tằm trả nghĩa dâu tươi" cho nền văn học dân tộc thiểu số
nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Các sáng tác của ông mang đậm hơi
thở của cuộc sống và con người miền núi với những nét vẻ đẹp rất đặc trưng, nhất là
cảm quan sinh thái đồi như biểu tượng để Ma Trường Nguyên kí thác những tình cảm
mến yêu của nhà thơ khi viết về người và đất của quê hương mình. Có lẽ đây là lí do
mà các tác phẩm của ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học khác nhau.
38
2.1.1.2. Thế giới động thực vật phong phú và đa dạng trong thơ Ma Trường Nguyên
a. Thế giới động vật trong thơ Ma Trường Nguyên
Đến với thơ Ma Trường Nguyên là đến với thế giới của lòng người của tình
yêu. Thơ ông là những vần thơ được chắt lọc từ những gì tinh túy của tự nhiên ban
tặng. Thế giới loài vật trong thơ Ma Trường Nguyên thật phong phú và đa dạng. Để
giãi bày nỗi lòng chung tình của người con gái nhà thơ Ma Trường Nguyên đã mượn
âm thanh của tiếng ve não nề.
Ve ơi sao hát suốt ngày
Chắc mê âm nhạc nên say mùa hè
Cây xanh liệu có lắng nghe
Hay ve chỉ hát cho se lòng hè
Những câu dân ca được ví như chùm hoa khế nhỏ xinh đang vang vọng mãi
trong lòng người lính trẻ.
Những câu hát nhỏ xinh chùm hoa khế
Nở bên ao đàn cá đớp tung tăng
(Ngõ dân ca)
Nếu như trong thơ xưa hình ảnh cánh chim thường được nhắc tới trong buồi
chiều tà gợi nỗi buồn điệp như “Chim hôm thoi thóp về rừng” hay “Chim bay về núi
tối rồi”. Với Huy Cận thì ảnh cánh chim như trở nặng bóng chiều “Chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều xa”. Thì trong thơ Ma Trường Nguyên con chim được nhắc đến
nhiều lần, nó đem đến cho đời, cho người những lời ca tiếng hát rộn rã. Tất cả đều có
lứa có đôi chứ không cô đơn lẻ loi buồn đau.
Con chim về tổ núi
Đã hót ấm trời xa
(Bên nhau như sông núi)
Con chim đánh rơi tiếng hót vào lòng
Nên tiếng hát em cứ trong veo dịu dàng.
…Háo hức tiếng đàn em
Như chim truyền hú vang khắp núi
(Tiếng hát mọc mặt trời)
39
Rừng đong đầy tiếng chim
Đón chào em rộn rã
(Rừng và em)
Hạt mưa nô díu nhau
Hoa lao xao đọng mật vào làm quả
Chim muông gọi lứa, cầm thú gọi đàn
Tình yêu ta đâu rồi
Hay em dành cho chim
(Mùa xuân đâu rồi em?)
Đom đón mang ánh sáng cho cậu học trò nghèo ngày xưa, đom đóm được các
bạn trẻ vùng quê hay bắt vào buổi tối mùa hè để làm đèn lồng mỗi dịp tết trung thu.
Còn đom đóm trong thơ Ma Trường Nguyên như ngọ đèn thắp sáng mặt đất trong
đêm để người đi tìm em.
Đom đóm bay chấp chới
Thắp tỏ mặt đất đêm
Thấy ngàn mắt em nhìn
Lần dấu chân đâu đó
(Tìm em đâu?)
Câu hát vắt qua vai làm cho vạn vật như ngừng trôi ngưng đọng. Con chim
đang ăn mồi nghe tiếng hát mà quên mất không bám chặt để rồi rơi xuống đất. Con
sóc đang chuyền bỗng dừng lại. Con gà gô quên bới đất tìm mồi …
Con chim đang ăn mồi rơi xuống đát
Con sóc đang chuyền chân bám vào cây
Con gà gô quên bới đất rừng dày
(Câu hát vắt qua vai)
Nói đến mùa xuân của đất trời, của lòng người nhà thơ không quên nhắc đến
hình ảnh quen thuộc mà ta vẫn thấy. Một cánh én nhỏ báo hiệu mùa xuân đến. Nhưng
xuân đến rồi xuân lại đi khiến lòng người đưa tiễn không khỏi ngậm ngùi lưu luyến.
Người ơi đầu xuân sớm
Đi đâu để gặp rồi
Để lòng như cánh én
Cứ chấp chới liên hồi
40
…Một thời rợp màu xuân
Chao theo trong cánh én
Để mắt người lưu luyến
Tiễn xuân về ngẩn ngơ
(Gặp tiễn xuân đi)
Hay cánh én được nhắc đến trong bài Ngõ phố xuân
Rồi xuân này đến hẹn
Như cánh én mùa hoa.
Nhớ lại những tháng năm kháng chiến. Người chiến sĩ trên trận địa cùng đồng
đội vào sinh ra tử, đi qua bao địa danh ghi dấu bao chiến tích cũng là những mất mát
đau thương. Bao người anh hung đã ngã xuống cho độc lập tự do của dân tộc. Song
hành cùng cuộc chiến là chú ngựa:
Đâu đây tiếng ngựa trận tiền hí sôi
…Cùng con ngựa chiến bay nhanh
Vào trời cao dấu công danh với đời
(Dáng núi anh hùng)
Thời gian trong thơ Xuân Diệu “Xuân đương tói nghĩa là xuân đương qua/
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất/ Lòng tôi rộng
nhưng lượng trờ cứ trật/ Không cho dài tuổi tre của nhân gian/ Nói làm chi rằng
xuân vẫn tuần hoàn”. Còn thời gian trong thơ Ma Trường Nguyên được ví như con
ngựa bất kham đang khát:
Thời gian bất kham ngựa khát
… Nỗi nhớ con tằm ăn lá
Kết trong dạ anh tơ vò
(Mùa xuân trải thảm đợi em)
b. Thế giới thực vật trong thơ Ma Trường Nguyên
Nếu như thế giới loài vật trong thơ Ma Trường Nguyên gần gũi bao nhiêu thì
thế giới thực vật lại càng gần gũi hơn. Không phải những hình ảnh tùng, cúc, trúc,
mai như trong thơ xưa mà là những gì quen thuộc trong cuộc sống hang ngày của
người dân.
41
Hình ảnh cây sưa được tác giả sử dụng như một biểu tượng - như nhà khí
tượng thông báo cho mọi người biết trời sắp mưa hay sắp nắng.
Còn sót lại một mình ta
Trong khu rừng già đã mất
Thân thể ta ngách cành cao là ổ tắc kè
… Ta- thành nhà khí tượng
Tiếng tắc kè báo điềm mưa nắng
Cuộc đời bình dị cây sưa
(Lời cây sưa)
Loài hoa học trò được nhà thơ nhắc đến như nhắc nhớ một kỉ niệm. Loài hoa
như soi tỏ vẻ đẹp của người thiếu nữ.
Cây phượng già bờ sông
… Cây phượng hoa vẫn nở
(Màu hoa soi tìm)
Nơi núi rừng hoang vu hình ảnh màu tím hoa sim xuất hiện nhiều như trong
bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan có cái gì buồn đau mất mát, biệt ly…Chiều
hành quân/Qua những đồi hoa sim/ Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong
chiều không hết/ Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt (Màu tím hoa sim)
Thế nhưng trong thơ Ma Trường Nguyên thì khác, không khí tươi vui hiện lên
làm náo động cả một vùng quê thanh bình với đồi sim mọng, tiếng chim hót vang
lừng làm cho khu vườn như bừng sáng.
Đồi nhú mọng muồi sim
Tiếng chim rừng vang hót
Bầu trời sà áp lên
Mù vương lơ lửng chóp
(Đồi)
Vốn là người đã từng vào sinh ra tử nơi chiến trường nhà thơ Ma Trường Nguyên
có những vần thơ viết về thời hoa đỏ với bao nâng niu và tự hào. Những câu dân ca được
ví như chùm hoa khế nhỏ xinh đang vang vọng mãi trong lòng người lính trẻ.
… Như xâu lại chùm dân ca từ miệng người trẻ tuổi
Những câu hát nhỏ xinh chùm hoa khế
Nở bên ao đàn cá đớp tung tăng
42
Câu hát mảnh mền như gié mạ, củ khoai
(Ngõ dân ca)
Tình cảm dành cho Bác Hồ kính yêu cũng được nhà thơ khắc họa qua những
hình ảnh quên thuộc nhưng đầy xúc động và lưu luyến
Con đường đất đỏ thân quen
Đầm hoa sen nở tre nghiêng ngọn chào
Lúa đồng xanh biếc rì rào
… Hàng rào dâm bụt nắng vàng lung linh
(Đứng nghiêm chào Bác lại lên đường)
Cây hoa đào được trồng ngay cạnh cửa sổ đã gây ấn tượng mạnh đối với người
thi sĩ. Mùa xuân là thời khắc đẹp nhất, rực rỡ nhất của hoa đào nói riêng cây cỏ muôn
hoa nói chung bởi đây là mùa đâm chồi nảy lộc, ra hoa khoe sắc. Sắc thắm của hoa
đào đã lay động tâm hồn nhà thơ khiến nhà thơ ngẩn ngơ như bị thôi miên vậy. Nhà
thơ chăm chú quan sát, ngắm nhìn và thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên ấy. Những
bông hoa đã nở, xòe to che đi những nụ hoa mới nhú. Thi sĩ cảm nhận những bông
hoa đào rực rỡ, tươi thắm đó như khuôn miệng chúm chím mỉm cười đầy mơ mộng
của người thiếu nữ mới lớn. Xin phép cho tôi được hiểu câu thơ như vậy bởi theo tôi
chỉ có những người thiếu nữ đang ở độ tuổi xuân sắc mới có khuôn miệng mà điệu
cười chúm chím, đầy mơ mộng ấy được.
Ngẩn ngơ hoa đào nở
Kề cận cửa sổ nhà
Xuân về bông giấu nụ
Chúm chím mỉm cười mơ
(Hoa đào và thi sĩ)
Nói tóm lại, Ma Trường Nguyên là một nhà thơ dân tộc thiểu số luôn miệt mài
"trên cánh đồng chữ nghĩa", viết như "con tằm trả nghĩa dâu tươi" cho nền văn học
dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Các sáng tác của ông
mang đậm hơi thở của cuộc sống và con người miền núi với những gì thân quen nhất.
43
Tất cả cảnh vật đi vào thơ ông như một lẽ tư nhiên giản dị mà chân thành. Có lẽ đây
là lí do mà các tác phẩm của ông đã nhận được sự mến mộ của người đọc.
2.1.2. Sự kì vĩ của đại ngàn trong thơ Võ Sa Hà
2.1.2.1. Vẻ đẹp huyền thoại của sông, suối, núi, đồi trong thơ Võ Sa Hà
Thiên nhiên đại ngàn sông, suối, núi đồi, trời, đất với đầy đủ hình khối và màu
sắc. Tất cả những hình ảnh này đã tạo thành nét riêng cho thơ Võ Sa Hà. Với sự cần cù,
tìm tòi, sáng tạo của mình, nhà thơ đã luôn tạo ra những hình ảnh độc đáo. Đặc biệt,
những hình ảnh đó không chỉ gắn với vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng lãng mạn mà đó
còn là nơi che chở, nương tựa của tâm hồn mỗi người con khi trở về quê hương.
Sông suối vốn là một phần của tự nhiên, nó quan trọng đối với con người cả
trong cuộc sống hiện thực cả trong tâm linh. Nói như các tác giả của cuốn "Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới" thì sông suối là nguồn nuôi dưỡng sự sống cho toàn bộ
vạn vật trong đó có cả con người, không có nó sự sống không thể tồn tại: "Trên bình
diện những hiện thực đời sống con người, chúng là biểu hiện đầu tiên của những vật
chất vũ trụ cơ bản, không có chúng thì không thể đảm bảo được sự sinh sản và
trưởng thành của muôn loài. Nguồn nước là một biểu hiện của tình mẫu tử" [34,
tr.650]. Còn trong các nền văn hóa truyền thống: "Dòng suối tượng trưng cho nguồn
gốc của sự sống và một cách tổng quát hơn, cho mọi dạng nguồn gốc" [34,tr.651].
Đối với những vùng đất mà địa hình chủ yếu là núi đồi thì sông suối lại càng có một
vị trí quan trọng trong đời sống của con. Xuất phát từ ý nghĩa thiêng liêng đó, Võ Sa
Hà cũng nhắc nhiều đến sông suối như là cội nguồn dòng chảy của tâm hồn mình.
Hình ảnh sông, suối xuất hiện ở ba mươi bảy bài trong tổng số 179 bài thơ. Với con
số tương đối ấn tượng này đã giúp cho sông, suối trở thành một trong bốn hình ảnh
nổi bật, tiêu biểu cho cảm quan sinh thái sông, suối, núi, đồi trong thơ Võ Sa Hà.
Trong thơ Võ Sa Hà hình ảnh sông suối mang vẻ đẹp trầm mặc, nhẹ nhàng,
sâu lắng. Trước hết, hình ảnh hình ảnh ấy gắn liền với vẻ đẹp của quê hương. Không
chỉ nhắc đến một con sông mà nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của nhiều con sông ở nhiều
miềm quê hương khác nhau hay cùng nói về một con sông nhưng khi chảy qua mỗi
vùng khác nhau nó lại mang một vẻ đẹp khác nhauđến kì lạ:
Mỗi dòng sông một tình yêu ấp ủ
44
Tấm áo chàm mang hồn của quê hương
(Khúc hát về quê hương)
Dòng sông Cầu gắn liền với quê hương bố (Bắc Ninh), nó hiện lên với vẻ đẹp
của những nếp nhà nhỏ nhắn xinh xinh, lợp ngói mũi, dòng sông uốn lượn tựa người
say rượu, bao quanh ngôi làng nhỏ ven sông
Quê bố tôi ven sông Cầu
Đường đánh võng như người say rượu
(Đường về quê bố)
Có lẽ dòng sông ở quê hương Cao Bằng gắn liền với những kỉ niệm thật buồn,
là tiếng khóc gọi mẹ da diết của nhà thơ, là những đêm mơ về mẹ trong dòng sông lạc
giọng gào khóc mẹ:
Cơn gió ngã xuống cánh rừng
Dòng sông khóc gào gọi mẹ
(Về quê)
Thì dòng sông Cầu ở Thái Nguyên, sông Lô, sông Miện ở Hà Giang, sông Bằng
Giang lại mang một vẻ đẹp khác. Thái Nguyên tuy không phải là nơi sinh ra ông nhưng là
nơi mà ông đã gắn bó nhiều năm. Là quê hương thứ ba của nhà thơ, ông không sinh ra ở
đây, tuổi thơ ông không gắn liền với dòng sông nơi đây nhưng đây lại là mảnh đất mà ông
lập nghiệp và sinh sống. Mảnh đất Thái Nguyên với dòng sông Cầu cũng trở thành một
phần máu thịt trong tâm hồn nhà thơ. Cũng là con sông Cầu nhưng sông Cầu ở Thái
Nguyên lại mang một vẻ đẹp khác với dòng sông Cầu trên quê hương Bắc Ninh:
Cắt Thái Nguyên thành từng gò đồi
Nuôi lớn từng búp chè mọng nhựa
Sông Cầu thở gió mát vào thành phố
(Sông Cầu của tôi)
Con sông Cầu chạy quanh, chia cắt thành phố thành từng gò đồi, ôm trọn
thành phố vào lòng như người mẹ ôm ấp, vỗ về đứa con thơ. Sông cũng là nguồn nuôi
dưỡng cho những búp chè căng mọng, tạo nên những đồi chè bát ngát mang đậm bản
sắc quê hương Thái Nguyên. Sông cũng giúp điều hòa khí hậu, tạo không khí trong
lành cho một thành phố gang thép. Không chỉ vậy, sông Cầu còn đồng hành cùng con
45
người trải qua những thăng trầm trong những cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc:
"Sông gồng mình cõng thuyền bè suốt một thời trận mạc".
Quê hương Hà Giang hiện lên với dòng sông Lô, sông Miện hối hả chảy xiết:
Hà Giang đấy có sông Lô, sông Miện
Trộn hòa nhau rồi hối hả xuôi dòng
(Hà Giang đấy)
Hay đó là dòng sông Bằng Giang mang vẻ đẹp thay đổi theo mùa, khi thì bình
lặng, êm ả: "Em mảnh dẻ sông Bằng thì im lặng" (Một cơn mơ) nhưng khi đến mùa lá
vàng, sông Bằng lại trở lên tươi vui, nhộn nhịp hơn bao giờ hết:
Mưa đệm đàn cho sông Bằng ca hát
Một bè trậm vọng về phía tìm em
(Bốn phía)
Chúng ta ai cũng có những kỷ niệm tuổi thơ bên dòng sông quê hương . Mỗi
dòng sông tuổi thơ ấy thường in dấu bao kỉ niệm cho nên con sông trong tâm chí mỗi
người đều mang một ý nghĩa cực kì quan trọng. Sông trong thơ Võ Sa Hà cũng gợi ra
miền kí ức tuổi thơ đẹp đẽ, hồn nhiên, trong sáng vui đùa cùng bạn bè cùng trang lứa:
Ơ này ta đi tắm sông
Thả trôi theo dòng nước xiết
Rồi bám cành cây mặt nước
Tung người ta đánh đu lên
(Tắm sông)
Võ Sa Hà là người không chỉ gắn bó với hình ảnh con sông mà tuổi thơ của nhà
thơ còn gắn liền với suối. Cũng dễ hiểu thôi bởi một miền rừng núi như Cao Bằng thì
những con suối không thể thiếu trong thiên nhiên núi rừng, nó cũng gắn bó mật thiết với
cuộc sống của người dân, nó như hơi thơ, như bạn …
Một khung trời nho nhỏ
Một dòng suối xanh xanh
(Giỗ mẹ)
Dòng suối cũng gắn liền với "Nhà của mẹ" với những kỉ niệm thanh bình, êm dịu,
không thể nào quên trong tâm trí của người đi xa: "Suối trong ngần gọi gió đến à ơi" và
46
dòng suối trong trẻo, tươi mát, thánh thót ấy cũng là nơi giữ gìn những kỉ niệm về em, về
tình yêu đôi lứa thuở thiếu niên: "Suối giữ giọng nói em trong ngọt lành nước chảy" (Về
cũ). Suối cứ “róc rách” mà “lay”, chim cứ “chiu chít” mà “chào”, lá cứ tha hồ “thì
thào” mà “gọi” đất trời, tạo nên sự vận hành hài hòa, nhịp nhàng trong trời đất, vũ trụ.
Dòng sông, dòng suối trong thơ Võ Sa Hà còn gắn với những chiến tích của
một thời oanh liệt của quân dân ta trong các cuộc kháng chiến của dân tộc mà nhà thơ
đã từng tham gia:
Một vùng đất phẳng như mơ
Xa xa bóng núi lững lờ dòng mây
Có thể nói chính những tình cảm, những tâm sự mà nhà thơ gửi gắm vào trong
những dòng sông, dòng suối đã biến chúng trở lên sinh động, có hồn và gắn bó với
cuộc sống của con người hơn.
Bên cạnh dòng sông, dòng suối thì hình ảnh thiên nhiên được Võ Sa Hà nhắc
đến rất nhiều trong thơ đó là hình ảnh núi đá. Có lẽ do cấu tạo của tự nhiên Cao Bằng
vốn đã là vùng có rất nhiều núi đá. Núi đá là nét đặc trưng của vùng này.
Trong số những hình ảnh gắn liền với thiên nhiên núi rừng, hình ảnh núi xuất
hiện với tần số cao nhất. Bốn tập thơ với 179 bài thì có tới 81 bài xuất hiện hình ảnh
núi. Về điểm này, Võ Sa Hà giống với Y Phương và Dương Thuấn - hai nhà thơ dân
tộc thiểu số nổi tiếng viết về đề tài miền núi.
Hình ảnh núi trong thơ Võ Sa Hà rất phong phú, đa dạng với nhiều trạng thái,
nhiều cảm xúc, muôn hình vạn trạng… chứa đầy tâm trạng như một con người với
những khát khao mãnh liệt là được giao hòa với vạn vật. Điều này đã tạo nên một nét
phong cách riêng trong thơ Võ Sa Hà. Nhưng có lẽ phải là một người sinh ra từ núi,
lớn lên cùng với núi, mang hồn của núi, yêu núi và coi núi như một phần máu thịt của
mình thì mới có sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc đến như vậy nên nhà thơ đã gửi vào
những vần thơ cháy bỏng tình yêu tha thiết ấy.
Núi là không gian chứa đựng những điều nguyên sơ, đơn giản của thuở ban
đầu, của sự tinh khôi nơi đất trời, thiên địa vừa được hòa nhập. Ở đây, mọi tồn tại và
hoạt động đều diễn ra tự nhiên như nhiên, không có sự can thiệp nào từ bên ngoài làm
ảnh hưởng đến bản thể của nó. Suối cứ “róc rách” mà “lay”, chim cứ “chiu chít” mà
47
“chào”, lá cứ tha hồ “thì thào” mà “gọi” đất trời, tạo nên sự vận hành hài hòa, nhịp
nhàng trong trời đất, vũ trụ, vạn vật tự sinh tự diệt.
Hình ảnh Núi hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, mơ hồ trong sương sớm: "Núi mơ
trong mộng sương bay". Núi luôn in dấu hình của "người cổ tích", của "Bóng nàng
lõm hằn vách núi". Ngắm nhìn vẻ đẹp thơ mộng ấy của núi, nhiều lần nhà thơ đã phải
thốt lên những vần thơ như:
Ô kìa núi xanh mướt
Ô kìa mây trắng bay
(Thi sĩ)
Và dĩ nhiên, cũng giống như vạn vật, cỏ cây, hoa lá, đến mùa xuân, núi càng
trở lên đẹp hơn, tinh tế hơn, mơ màng hơn, trong trẻo hơn và tràn đầy sức sống hơn
lung linh hơn với đủ săc màu: "Núi vươn búp nõn/ Ngân hà thủy tinh".
Núi không chỉ mang vẻ đẹp mơ hồ, nhẹ nhàng mà còn hiện lên với vẻ đẹp
mang tầm vóc vũ trụ, mang vẻ đẹp huyền thoại, kì vĩ của đại ngàn thiêng liêng.
Những quả núi cao ngửa mặt nhìn trời
Vẫn vững trãi qua ngút ngàn nắng gió
(Khúc hát quê hương)
Phượng Hoàng khoét đá thành động
Văn - Võ hóa núi nhìn nhau
(Đồng vọng Thái Nguyên)
Hình ảnh núi- Đó là vẻ đẹp kì vĩ, sừng sững của thiên nhiên hay đó chính là biểu
tượng cho tinh thần mạnh mẽ, trong sáng, thẳng thắn - một tính cách mạnh mẽ của những
con người miền núi nói riêng và của nhân dân Việt Nam nói chung.
Núi trong thơ Võ Sa Hà không chỉ là một thực thể thiên nhiên vô tri vô giác mà
nó cũng mang tâm hồn, tâm trạng như con người. Khi vui, núi gắn với tiếng đàn ngân
nga, vang vọng mãi: "Một cung đàn dìu dặt/ Sâu ngực núi ngân nga" (Hoa trăng) hay
núi hòa vào niềm vui, niềm rộn ràng của con người, ca bài ca của đất trời trong những
ngày lễ hội truyền thống của người dân tộc thiểu số:
Có bài ca mây trắng
Có bài ca núi thắm
48
Đang bay vòng bên ta
(Về quê đi hội)
Song cũng có lúc, núi mang một nỗi buồn man mác khó nói thành lời: "Núi núi
buồn/ Thả khói đến lòng ai" (Tự khúc 1000 năm Hà Nội) và rồi "Từng giọt sầu li ti giọt
giọt/ Núi cựa đầu khe khẽ uống mưa rơi" (Mưa thu). Đối với những con người miền núi,
núi chính là một người bạn gắn bó thân thiết; là người mẹ luôn chở che, nâng đỡ, chứng
kiến và gìn giữ những kỉ niệm của con người: "Núi Cấm thì thầm kể chuyện/ Em là tinh
chất của ngàn hoa" (Lộc trời). Hay nói cách khác, núi chính là biểu tượng cho tinh thần
và tình cảm của con người nơi đây. Kỉ niệm tuổi thơ, tình yêu đôi lứa của Võ Sa Hà cũng
như tất cả mọi người dân quê hương ông đều gắn liền với núi:
Anh đã từng cõng em lên núi
Núi Sa Hà mờ xanh
... Anh đã từng hát cho em nghe
Bài hát của gió rền, núi nghiêng, sông cuộn
(Anh khóc)
Hay:
Trốn em lên núi Cốc
Ngơ ngác giữa chiều sương
... Trốn em lên núi Cốc
Mong giấu niềm đơn côi
(Trốn em)
Núi là nơi để nhà thơ tìm về gửi gắm nỗi buồn sự đơn côi trong tình yêu: "Ta
xa em ta về núi thôi" hay để giãi bày kỉ niệm của một thời mặc áo lính:
Con lại đến núi rừng Đông Bắc
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
... Trận địa chúng con tiếp liền như núi
Bác vẫn ung dung chống gậy lên non
(Lên biên giới đọc thơ Bác)
Hình ảnh núi còngắn liền với tình cảm nhớ thương, buồn bã, đau đến xé lòng
của nhà thơ khi nhớ về người mẹ đã mất được nhớ lại trong miềm kí ức:
Mẹ ở đâu sợi khói lả giữa chiều
Chút yên tĩnh đi hoang vào lũng núi
Bóng núi xô nghiêng căn nhà của mẹ
49
Lưng đá gầy run rẩy giữa sương trăng
(Về quê)
Đối với Võ Sa Hà nói riêng, mọi người con của mảnh đất Cao Bằng nói chung,
quê hương miền núi Cao Bằng là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó sâu đậm với mỗi
người vì vậy mà khi phải rời nơi tràn đầy kỉ niệm ấy để xuống học tập và công tác ở
một nơi khác: "rời núi xuống đồng bằng", không còn được ngày ngày nhìn thấy
những ngọn núi, những rừng cây, những tiếng đàn, tiếng ca của núi nữa nhà thơ đã
cảm thấy vô cùng lạc lõng, cô đơn: "Tôi một mình trơ trọi với mênh mông". Trong
tâm hồn nhà thơ luôn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh: "Núi Sa Hà u uất tiễn tôi đi".
Không chỉ nhà thơ cảm thấy buồn, thấy lẻ loi, lạc lõng, thấy trống trải trong tâm hồn
mà dường như núi Sa Hà - ngọn núi gắn liền với nhà thơ ngay từ khi sinh ra cũng
mang cùng tâm trạng với nhà thơ, núi cũng buồn, cũng bịn rịn, miễn cưỡng chia tay.
Cuộc đưa tiễn, chia tay giữa nhà thơ và núi làm ta tưởng chừng như là cuộc đưa tiễn
của hai người bạn thân, tri kỉ vậy. Có lẽ đó là lí do mà nhà thơ luôn mơ về núi, thiết
tha mong muốn được trở về để hòa mình vào với núi:
Núi ơi! Núi hỡi
Tôi về đây mà
(Gió núi đêm đông)
Chúng ta thấy có sự giống nhau giữa Võ Sa Hà với Y Phương. Cả hai đều là
những cây bút tiêu biểu chuyên viết về đề tài miền núi; đều sinh ra, lớn lên, gắn bó
với mảnh đất Cao Bằng, tâm hồn luôn luôn một lòng một dạ hướng về quê hương, cội
nguồn, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cả hai nhà thơ đều do hoàn cảnh công việc
mà phải rời Cao Bằng nhưng những hình ảnh, những kỉ niệm về thiên nhiên, con
người với những phong tục tập quán, những nếp ăn, nếp ở và tính cách mạnh mẽ luôn
luôn tồn tại hơn nữa còn tồn tại mãnh liệt trong tâm hồn họ. Có lẽ do vậy mà những
câu thơ đã được cất lên một cách vô cùng tự nhiên, giản dị và rất đỗi chân thành.
Nhưng dù giống nhau như vậy nhưng mỗi nhà thơ lại có một cách cảm, một nét
phong cách riêng nên hình ảnh núi hiện lên trong thơ của họ cũng có điểm khác nhau.
Nếu như Y Phương diễn tả núi giống như những "con sóng", "ngọn sóng" đầy chất
tạo hình: "Con sóng núi duỗi ra dài dài/ Ngọn sóng núi chồm lên cao cao" (Những
người thấp bé) thì hình ảnh núi hiện lên trong thơ của Võ Sa Hà lại mạnh mẽ, sừng
50
sững như "thác núi". Điều này đã tạo nên nét riêng độc đáo cho hai nhà thơ. Bốn câu
trong khổ cuối của bài thơ, tác giả viết:
“Sao Núi sớm lơ mơ?
Ta ngả lưng chút đã!
Đá ấm thế
Núi ôm ta bay bay… ”.
(Thác núi)
Hình ảnh Núi luôn là biểu tượng kì vĩ trong mỗi con người, núi nào mà chẳng
to lớn, vĩ đại so với con người. Trước sự kì vĩ của thiên nhiên con người thở nên thật
nhỏ nhoi, bé bỏng trong không gian của núi, của rừng.
“Đá ấm” - cụm từ này xác nhận rằng chủ thể phát ngôn đã ở trong đá, được
bao bọc trong đá với cảm giác ấm áp. “Núi ôm” - ôm ấp một con người, một sinh linh
mà chúng ta gọi là nhân vật trữ tình trong văn bản thơ. Trong khuôn khổ của tư duy
luận lý đơn thuần (lý trí thuần túy), thì đá núi trong tự nhiên ở xứ ta không khi nào có
thể “ấm”. Cho nên, chúng ta hãy đi vào một miền khác, nơi không có sự ngự trị của
lý trí tỉnh táo để xem xét các biểu tượng thi ca… Trong thơ Võ Sa Hà, “Rừng” là Mẹ
rừng, “Núi” là Mẹ núi. Cho nên “Núi ôm” cũng là Mẹ ôm. Ở đây, “Đá” là Ruột núi,
là Bụng núi. Mang cảm giác “Đá ấm” tức là nhân vật trữ tình đã tồn tại, đã được bao
bọc trong “đá”, nằm trong bụng núi, trong ruột núi, như nằm trong lòng mẹ, trong bụng
mẹ. “Núi ôm ta” cũng là Mẹ ôm ấp ta. Lời lẽ trở nên đầy tự hào trong niềm hạnh phúc,
trong niềm vui khôn cùng. Thì ra, trong tâm thức, nhà thơ của chúng ta đã lạc ngay vào
thế giới mà chỉ có cảm xúc nguyên sơ ngự trị. Thi sĩ rơi vào thế giới tiền sử của đời
mình. Thi sĩ đã trở về thời hỗn mang của sinh linh mình, thuở còn trong bụng mẹ, chưa
ra đời. Trong miền vô thức, chưa có lý trí ngự trị, thì “Núi ôm ta bay …”. Nhưng khi
đã vượt lên trên để thoát ra thành lời giao tiếp xã hội, thì có thể có một thông điệp là
Mẹ ôm ta bay. Chúng ta vẫn biết Núi to lớn như thế nào so với con người. Núi đang
bay và tiếp tục bay, bay nữa. Cho nên, Núi không thể bay trong không gian của người
trần thế được. Quãng đường Núi bay thông suốt như vậy, nó phải bay trong không gian
vũ trụ, không gian của trời mây và trăng sao. Mẹ Núi tồn tại trong vũ trụ, trong không
gian ảo, chứ không phải trong cuộc sống ở trần gian này, cho nên, chúng tôi gọi người
51
mẹ trong thơ Võ Sa Hà là Người Mẹ thần thiêng. Người Mẹ thần thiêng ấy đã ôm sinh
linh nhỏ bé, mong manh mà Bay, để đưa dẫn Hòn Máu - hài nhi của Người, tuổi mới
được tính bằng ngày. Người bọc nó trong bụng, trong lòng, trong anh linh của mình.Nó
đã sống sót trong đời sống thế gian, lớn lên, trưởng thành, thành đạt trong sự bảo trợ
của anh linh Người. Nó cảm nhận được sự thần thiêng nơi Người, ánh sáng bảo trợ nơi
Người, nên dù đã được lớn lên, trưởng thành, thành đạt, và ngay đến khi tóc đã bạc, nó
vẫn thấy mình mãi còn thơ bé. Đúng là “Dù sống 100 năm chưa thành kiếp con người”
(thơ Võ Sa Hà), nó vẫn muốn được Người ôm ấp, chở che, vẫn muốn thơ bé, hàng
ngày bước chân líu ríu quanh quẩn bên Người.
Hình ảnh núi vốn là một hình ảnh rất đỗi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt
Nam nhưng với ngòi bút tài tình và tâm hồn chứa chan tình cảm gắn bó thân thương của
mình Võ Sa Hà đã làm cho nó hiện lên trong thơ vô cùng biến hóa, xuất hiện với nhiều
tầng bậc, nhiều dáng vẻ, tâm trạng khác nhau. Chính tấm lòng nặng lòng với quê hương,
gắn bó sâu nặng với quê hương đã giúp cho nhà thơ làm được điều đó.
2.1.2.2. Những bạn thú, chim quen thuộc của người miền núi trong thơ Võ Sa Hà
Trong bài Sáo ma có những vần thơ ám ảnh nói lên sự kì vĩ của đại ngàn với
hình ảnh đày ma mị: mặt trời cháy đen, mặt trăng sắc lạnh, vạn vật linh thiêng như
đang sống dậy cuồn cuộn, nức nở, hun hút …
Đại ngàn thú rừng không ngủ
Cá biển, cá sông vọt lên nức nở
Hun hút vực sâu, hun hút những cô hồn
Gắn liền với kí ức tuổi thơ của nhà thơ Võ Sa Hà cũng như nhiều nhà thơ khác
có tuổi thơ không bằng phẳng chút nào. Đó là một kí ức buồn về những năm tháng
khó khăn, nhọc nhằn, vất vả, thiếu thốn đủ mọi thứ cả vật chất lẫn tinh thần. Dòng kí
ức đấy nhà thơ không bao giờ quên, nó luôn thường trực bên trong tâm hồn ông và
được ông làm sống lại qua những câu thơ đầy sống động
Ta về suối chơi
Lội nước và mò cá
Ta chạy trên con đường đầy đá
(Mơ khóc)
52
Trong bài Khói đất hương trời nhà thơ mượn hình ảnh cánh vạc rất quen trong ca
dao để nói lên nỗi lòng, sự cô đơn như nuốt chửng con người tưởng như rất mạnh mẽ ấy.
Tiếng gió, núi vọng lại hay chính là sự vọng lại của quê hương của lòng người.
Gió gầy cánh vạc
Núi run lạnh phách sương
Có tiếng ai hờ gọi
Xa cuối những nẻo đường
Hương mật ong - đặc sản của núi rừng Hà Giang ướp ngọt búp tay người. Tôi
uống mãi để vui cùng Quản Bạ, ngồi cùng em nơi Lũng Cú để ngắm sao rơi. Hương
mật ong hay chính hương của lòng người đã biến nơi xa lạ thành thân quen.
Hương mật ong ướp ngọt búp tay người
Tôi uống mãi để vui cùng Quản Bạ
Cùng em ngồi Lũng Cú bứng sao rơi
(Hà Giang đấy)
Hình ảnh con nai lạc mẹ sợ sệt, yếu đuối được đưa ra như một lời khích lệ
động viên cho những ai đang cảm thấy cô đơn lạc lõng hãy mạnh mẽ lên đi nào. Hãy
ngẩng đầu lên tự tin và tiến về phía trước.
Đừng như con nai lạc mẹ
Ngửng đầu lên đi nào
(Đêm linh)
Mùa hè sôi động với âm thanh của tiếng ve, tiếng ve díu ta về với cõi mơ, cõi
mộng với đầy hoài bão và hy vọng. Dù mùa hè có trôi đi, tuổi thơ không còn nhưng ước
mơ thì vẫn cháy trong lồng ngực mỗi người. Và rồi mùa xuân đến đem theo đàn én dệt
thành những giấc mơ trong veo, trắng ngọc trắng ngà là lời của bài thơ Bốn phía
Một phía là mùa ve hát
Díu ta về cõi xanh
… Tuổi thơ hỡi chú ve sầu
Xác khô rồi vẫn cứ hát trong mơ
… Một phía là mùa én dệt
Ta ngẩn ngơ trước nắng ngọc nắng ngà
(Bốn phía)
53
Giữa đại ngàn sóng biển, gió rừng nhưng con người vẫn cảm thấy mình bị hút
vào vực sâu vào những cô hồn lẻ bóng. Sự cô đơn luôn chất chứa trong lòng nhà thơ
và chỉ cần có cơ hội là trào dâng mãnh liệt. Võ Sa Hà đã mượn hình ảnh quen thuộc
của tự nhiên để giãi bày.
Chúng ta từng đọc Thơ Nguyễn Du, Nguyễn Du đã lấy thiên nhiên để làm thước
đo cho vẻ đẹp của con người. Khi ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Kiều có câu thơ: “Làn thu
thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Một người vượt lên từ
những đau thương mất mát, những đớn đau của cuộc đời cũng có lúc tìm thấy niềm vui
trong tình yêu, hạnh phúc. Chỉ có tình yêu mới làm con người ta thăng hoa trong cảm
xúc. Noọng- cô gái trẻ trung có nụ cười khiến đá hoa nở, bước đi cây nghiêng tránh
nhường đường. Chỉ tiếc là không biết bay để chim én phải nhường đường …
Noọng cười đá nở hoa
Noọng đi cây nghiêng tránh
Gía mà Noọng biết bay
Chim én đành xếp cánh
(Về quê đi hội)
Hình ảnh con ngựa là biểu tượng quen thuộc của người dân miền núi. Ngựa
như một vật để chuyên chở các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho cuộc sống. Song
con ngựa cũng như người bạn quen thuộc trong mỗi gia đình. Nó là cầu nối giữa
các bản làng giữa các vùng miền xa xôi. Và hình ảnh ngựa đá "phi vào phố
phường vui" để tìm kiếm nhưng tại đây nhà thơ lại cảm thấy "Ngựa đá chìm mất
thôi". Hồn thơ Võ Sa Hà là một hồn thơ cô đơn, dung dị, mang nét chất phác của
con người miền núi cho nên khi bắt gặp sự náo nhiệt của phố phường thành thị nhà
thơ đã cảm thấy không phù hợp. Đến đây, nhà thơ lại quay sang cưỡi ngựa đá đi
tìm cảm hứng trong tình yêu đôi lứa nhưng cái nhà thơ nhận được chỉ là những
đau khổ, tổn thương do ám ảnh của chuyện tình duyên nỡ dở. Cuối cùng, sau tất
cả, nhà thơ đã nghiệm ra một điều: thơ không toát ra từ nơi nào xa lạ mà nó được
nảy mầm, toát ra từ chính tâm hồn mình:
54
Ngồi trên lưng ngựa đá
Phi vào trong hồn mình
Ngựa đá lồng lộn hất
Ngã câu thơ buồn tênh
Ngựa đá chính là hình ảnh tượng trưng cho cảm hứng, cho con đường sáng tạo
nghệ thuật của Võ Sa Hà. Con đường ấy là một quá trình tìm kiếm, chắt lọc, gạn đục
khơi trong và thể hiện đầy gian khổ với biết bao nhiêu thử thách. Nhà thơ ngồi trên
lưng ngựa đá để đi khắp nơi tìm kiếm. Đầu tiên nhà thơ đi tìm trong những gì xưa cũ
với những nét hoang sơ, nguyên thủy:
Ngồi trên lưng ngựa đá
Phi thẳng vào hoang sơ
Tóm lại, thơ Võ Sa Hà vừa đau đáu một nỗi niềm của người con xa quê. Nhà thơ
viết về quê hương với tình cảm dạt dào. Bao dấu yêu ông gửi vào vạn vật, vào cỏ cây
hoa lá …nhất là mượn những sinh linh nhỏ bé để kí thác nỗi lòng, gửi chọn niềm tin yêu.
2.1.3. Sự bình dị, thân thuộc của cảnh quan làng quê trong thơ Phan Thái
2.1.3.1. Nét đặc trưng của làng quê trong thơ Phan Thái
Theo quan niệm truyền thống, bên cạnh cây đa, giếng nước, đình chùa, cổng
làng vốn có ý nghĩa như một sự chào đón chân thành, hồ hởi của người địa phương
dành cho khách. Với những người con xa quê lâu, sau một hành trình dài trở về, chiếc
cổng làng luôn mang đến cảm giác yên bình, thân thương, tạo những giá trị hữu hình
vô giá. Cổng làng xưa - Biểu tượng văn hoá của làng quê Bắc bộ Cổng làng là một
trong những bộ phận cấu thành không thể thiếu của làng quê cổ truyền vùng Bắc Bộ.
Cổng làng thường tập trung nhiều ở vùng đồng bằng Bắc bộ như ở tỉnh Hà
Nam, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, … chủ yếu là những vùng trồng lúa và có
văn hoá làng xã. Có làng giàu, có làng khoa bảng, có làng nghề… tất cả những cái
hay cái đẹp đều được các vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Và đó là một
phần của văn hóa làng. Với người dân Bắc Bộ nói chung và với Phan Thái nói riêng,
cổng làng là nơi rất thiêng liêng
Chỉ vào trong cánh cổng làng
Chẳng cần đãi ngọc tìm vàng ở đâu!
55
Bao đời vẫn cứ áo nâu
Thương nhau lựa một miếng trầu để trao
… Ta về thưa với cổng làng
Xa quê thơ chẳng chút bàng bạc quê!
(Thưa với cổng làng)
Xa quê nhưng hình ảnh chiếc cổng làng vẫn làm cho nhà thơ khắc khoải nỗi
nhớ không nguôi.
Cổng làng ngơ ngác hàng cau
Bờ rung phím nhớ, bến đau đáu chiều
Câu ca mắc chật cánh diều
Đò ơi! Nỗi nhớ bao nhiêu thì đầy
(Ngồi hát bên trời)
Có những lúc cổng làng được nhắc đến như một sự tiếc nuối. Bởi còn đâu
cánh cổng ngày xưa mà thay vào đó là, làng giờ đã “hóng phố” rồi thì “Hương đồng
gió nội bay ra phố rồi”. Để lại sau lưng là:
“Thụt thò mái quán nghiêng siêu.
Cổng làng rêu lạnh đăm chiêu khép hờ”
(Tản mạn bên làng)
Gắn liền với hình ảnh cổng làng là một làng quê lam lũ, vất vả với hình ảnh
lúa khoai lam lũ… nhưng thanh bình, yên ả
Lúa khoai lam lũ như làng
Truân chuyên cùng nắng mưa mang nỗi người
Quanh năm thân bán cho trời
Còng lưng mua lại đầy vơi phận mình
(Làng)
Làng là nơi lưu giữ bao kỉ niệm một thời nhưng giờ đây về làng không còn em
khiến lòng người tha hương thấy ngẩn ngơ nỗi niềm.
Về làng đã chẳng còn em
Trăng như hoa cải ai đem về trời
Ngẩn ngơ câu hẹn một thời
Tiếng khuya nẫu cả đêm vời vợi đêm
56
(Gội trăng)
Xa làng tất tả vì cuộc sống mưu sinh đôi khi ngồi nhớ làng nhà thơ thấy lòng
nao nao buồn. Đó là nỗi buồn của người con xa xứ vì miếng cơm manh áo ở đời.
Xa làng, tất tả áo cơm
Đôi khi lẩn thẩn thằng Bờm quạt mo
Qua sông thì phải lụy đò
Ngày nghiêng khôn dại lụy cho nỗi đời
(Ngồi lại cùng trăng)
Không như thành thị ở làng quê vẫn còn ít nhiều lưu giữ những vẻ đẹp truyền
thống. Nhất là hội làng- dù ai đi ngược về xuôi nhưng cứ ngày hội làng lại là cơ hội
đoàn viên. Nhớ lắm những ngày hội làng chỉ ai xa quê mới hiểu hội làng có ý nghĩa
như thế nào trong lòng người xa xứ. Ngày hội làng là lúc mọi người quẳng gánh lo
toan cùng nhau vui vẻ, cùng nhau vào vai diễn …
Đêm hội xuân trăng non nhịp cầu ao
Tích chèo xưa cả làng vào vai diễn
Hay
Hội làng ai cũng đôi mươi
Đêm thu trăng chật tiếng cười trẻ em
(Một thoáng xa quê)
Cũng như nhiều người con xa quê, nhà thơ luôn khắc khoải nỗi lòng là chưa
đóng góp gì được cho làng. Bởi vì trong tâm thức của mỗi người sinh ra ở làng quê
thì làng chính là ngôi nhà lớn chở che, vỗ về … khi người con thấy mệt mỏi, cô đơn.
Nửa đời cơm gạo làng ta
Chưa mang nổi hạt phù sa cho làng
(Gặp lại lời ru)
Làng chính là một phần không thể thiếu của Đất Nước. Bao đời nhọc nhằn cấy
trồng và đánh giặc.
Đất nước những bờ tre mái rạ
Thân thương tên xóm tên làng
Mấy ngàn năm cấy trồng và đánh giặc
57
Bên nhau xóm mạc họ hàng
(Đất nước)
Tóm lại, thơ Phan Thái đem lại cho người đọc một sự bình yên đến kì lạ.
Người đọc như được sống lại những năm tháng tuổi thơ với cảm giác thích thú khi
đắm mình trong bầu không khí trong lành của làng quê. Nghe những âm thanh vọng
về từ xa xưa, cảm giác bình yên tĩnh lặng của làng quê mỗi khi chiều xuống. Với
những hình ảnh tưởng như rất bình thường nhưng khi xa sao lại nhớ đến nao lòng: là
khói bếp, là hàng cây, là lũy tre làng, là những cánh đồng bát ngát… thậm chí là mùi
ngai ngái của bùn đất. Trở về làng là lúc mọi người trút đi mọi gánh nặng của cuộc
sống xô bồ ồn ào, nghiệt ngã, lòng người thật thư thái. Được ngả mình trong những kỉ
niệm thân thương cùng với người thân yêu. Được sống lại tuổi thơ với những buổi
chiều thả diều trên triền đê hay cùng nhau tụ tập với những trò chơi như: đánh
chuyền, đánh chắt, hay ô ăn quan cùng những câu hát đồng dao mà bất cứ ai cũng
biết và thuộc …
2.1.3.2. Thế giới động, thực vật trong thơ Phan Thái
Cũng như nhiều nhà thơ khác sáng tác thơ là để trải lòng mình, là để được
sống thật hơn. Bỏ xa những bon chen đố kị để được thăng hoa cùng nghệ thuật. Phan
Thái cũng mượn những gì gần gũi nhất đời thường nhất như tiếng ếch bờ ao, tiếng
sáo sân đình để trở về sau bao nhọc nhằn vất vả giữa hư vinh ở đời.
Trở về quên chút hư vinh
Bồng bềnh tiếng sáo sân đình ca dao
Rộn ràng tiếng ếch bờ ao
Câu thơ trộn nắng lẫn vào rạ rơm!
(Câu thơ trộn nắng)
Ở bài thơ Một mình ta giữa mênh mông nhà thơ như khơi gợi trong lòng người
đọc một không gian yên bình. Ở đó có cánh diều no gió, có trăng cay khói bếp vào
những buổi chiều hè êm ả như ru. Đàn trâu thủng thỉnh bên xóm làng thanh bình.
Cảnh và người say nồng hòa quyện ấm áp vô cùng khiến cho ai cũng ao ước được
đắm mình trong những buổi chiều hoàng hôn nơi miền quê thanh bình.
Bờ xa lơ lửng cánh diều
Trăng cay khói bếp ríu liêu xiêu trời
58
Vốc tay đầy gió nghịch chơi
Trâu về thủng thỉnh, làng phơi áo mùa.
(Một mình ta giữa mênh mang)
Hình ảnh cánh cò rất quen thuộc trong thơ xưa và nay. Cánh cò hay con cò
như biểu tượng về nỗi vất vả nhọc nhằn của người dân lao động, nhất là hình ảnh ấy
thường được ví như những người bà, người mẹ, người chị … tần tảo lam lũ, chịu
thương chịu khó lo cho mọi người. Trong ca dao không ai là không biết “Con cò mà
đi ăn đêm/ Đậu phải cành mền lộn cổ xuống ao”. Trong thơ trung đại có rất nhiều
nhà thơ mượn hình ảnh con cò để nói lên nỗi vất vả của người phụ nữ như Tú Xương
trong bài thơ Thương vợ có câu: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Phan Thái cũng
mượn hình ảnh quen thuộc khi viết về nỗi vất vả nhọc nhằn của mẹ.
Cánh cò nghiêng phía đồng xa
Lặn trong mắt mẹ như là sương rơi
(Câu hát sân đình)
Đất nước những bài thơ con học
Có cánh cò nghiêng trong câu ca dao
Nước mắt tiễn người thân ra trận
Thương nhớ đầy vơi xanh dọc chiến hào
(Đất nước)
Tuổi thơ của mỗi người thường gắn với hình ảnh rất thân thương. Hình ảnh
người mẹ lam lũ một nắng hai sương trong những ngày mùa, sau những buổi “Bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời” khi trở về nhà thường đem theo những con châu chấu
ngộ nghĩnh làm đồ chơi cho con trẻ. Ở quê dân dã là thế có khi lấy châu chấu làm
ngựa, lấy con cua đồng buộc giây cho kéo làm anh thợ kéo chứ đâu như thành thị với
những món đồ chơi xa xỉ.
Lời ru đưa con về cánh đồng xưa
Lam lũ những phận người như hạt mầm tách vỏ
Rọt mồ hôi chảy vào ngực
Mặt cúi xuống bùn, tóc mây héo gió
Cặp quần giắt bầy châu chấu
Chiếc giỏ cua đồng xọc xạch ngang lưng
59
(Giọt mồ hôi hình hạt thóc)
Ngay cả trong sinh hoạt đời thường bữa ăn cũng cực kì đơn giản. Không sơn
hào hải vị mà chỉ là con cá rô đồng hay quả cà pháo thế là đã tươm tất lắm rồi. Ngày
nay bữa cơm được bày ra rất nhiều món ăn ngon nhưng cũng không thể vui được vì
cuộc sống của người hiện đại khác xưa lắm rồi. Bây giờ không còn là ăn no mặc ấm
nữa mà là ăn ngon mặc đẹp... Nhiều người xa quê thèm lắm bữa cơm quê. Do cuộc
sống nhiều đổi thây nên thứ dân dã dần mất đi trong hương vị hàng ngày. Cá rô đồng
giờ rất hiếm. Còn quả cà thì vì lợi ích người ta có thể sử dụng rất nhiều hóa chất để
cho năng xuất cao, đẹp mã … con người đưa vào trong cơ thể mình nhiều thứ độc hại
nên bài thơ Một thoáng quê hương như khơi gợi trong lòng người ký ức tươi đẹp.
Lội đồng đơm cá rô ron
Bữa cơm cà pháo kêu giòn cả môi
(Một thoáng xa quê)
Hay
Gánh ngày cong cả bờ tre
Trâu nằm nhai cạn tiếng ve ồn ào
… Đĩa rô đồng bát canh măng
Bữa cơm thơm thảo đâu bằng nhà ta
(Hạ quê)
Bát cơm con tép thìa tương
Mẹ dành dụm ngọt bùi nhường phần con
Lời ru lấm cả bùn non
Chắt chiu lo sự vuông tròn để vui
(Bên thềm trăng với mẹ)
Tìm hiểu thơ Phan Thái lòng tôi như được chìm đắm trong không gian trong trẻo
của làng quê. Kỷ niệm ùa về với bao vui buồn lẫn lộn, nhất là kí ức tuổi thơ và lời bái hát
vang vọng trong lòng “Quê hương là con diều biếc/ Tuổi thơ con thả trên đồng”. Nhưng
tiếc thay ngày nay làng quê đã nhiều đổi thay đâu còn như xưa? Có còn đâu những khu
vườn sum suê cây trái hay nhà nào nhà nấy chỉ còn mỗi khoảnh đất nhỏ để trồng rau sạch.
Có còn í ới chè xanh buổi sáng? Có còn những ngõ làng quanh co với khóm trúc, bờ tre,
với trẻ con chơi đùa thỏa thích? Có còn lời ru vang vọng tới cánh đồng với những đàn cò
sải cánh tung bay? Không. Hình như không còn những thứ đã thành hồn, thành máu ấy
60
nữa. Lác đác những nhà máy, phân xưởng mọc lên xen lấn giữa làng quê yên bình. Những
ống khói xua đuổi các đám mây. Âm thanh ầm ĩ nuốt chửng tiếng chim chóc hót ca. Chao
ôi, thấy thương quê mình! Thế đấy, quê giờ không còn dáng dấp “chân quê” như xưa.
Quê bây giờ giống như cô gái trong thơ của thi sĩ Nguyễn Bính, lên tỉnh và trở về với sự
đổi khác “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Hồn quê đang
dần bị mất đi. Tình quê cũng không còn ấm áp. Những người con xa quê bao năm trở về
hẳn khát khao được ngắm quê như buổi ấu thơ nghe lời ru ngọt ngào của mẹ năm nao.
2.2. Những hệ lụy từ cuộc sống hiện đại ảnh hưởng tới môi trường sống
2.2.1. Cảm nhận sự giận dữ của tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên
Trong bài thơ Gọi em, nhà thơ đã tìm đủ mọi cách nhưng thiên nhiên hờ hững
vô tình từ chối. Có cảm giác em đã đi về một miền xa lắc xa lơ mà gió nắng mưa đều
không muốn tới và không thể tới. Anh rơi vào khoảng không ngột ngạt không có gió,
chẳng có mưa và không có nắng. Quanh anh chỉ còn lại cô đơn và ngột ngạt
Anh muốn gọi em về bằng đường nắng
Nắng cứ quẩn quanh trong mây mờ
Anh muốn gọi em về bằng đường mưa
Mưa cứ lặng chìm trong khô nỏ
Anh muốn gọi em về bằng đường gió
Gió cứ uể oải trong thung lũng biếng lười.
Trở về nơi đã từng gắn bó bao kỷ niệm nhưng giờ đây hoàn toàn khác lạ. Vì
lợi ích kinh tế con người không ngần ngại tàn phá đi khu rừng nguyên sinh. Nơi chim
ríu rít từng ngày, nơi quả chín rụng đầy gốc ngày nào
Ngơ ngác tôi tìm gốc nhội xưa
Tan tắc mấy mùa chim ăn quả
Nền trơ bóng mát cây đai thụ
Không gian khác lạ đi rồi
(Tìm gốc cây xưa)
Giờ đây muốn tìm lại không gian xưa chỉ còn cách tưởng tượng ra mà thôi
“Không gian như cất đi chiếc ô/ Che một khoảng mát lành ấm cúng/ Tôi đứng ướm
vào cây tưởng tượng”
61
Trong hồi ức của nhà thơ cảnh đã thay đổi rất nhiều, còn đâu ánh trăng vằng
vặc bờ ao, còn đâu cá quẫy đớp mồi, còn đâu không gian lặng thầm, còn đâu quả
sung chín ngọt mền chia đôi. Giờ đây cây sung già đã bị chặt, chiếc ao nhỏ đã bị lấp.
Thay vào đó là tòa nhà mới điện sáng trưng, để cho dáng người ngơ ngác đứng trông
và tìm lại kí ức trong mơ mà thôi “Ao làng đâu? Gốc cây sung đâu rồi”.
Lời xưa em hẹn tôi về
Tìm cây sung cũ giữa khuya vắng người
Chiếc ao nhỏ lấp lâu rồi
Một tòa nhà mới điện ngời sáng trưng
… Ao làng đâu? Gốc cây sung đâu rồi
… Bờ ao nhỏ, nửa quả sung
Một ngôi nhà đã ung dung xóa nhòa
(Nửa quả sung chát)
Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, tự hào về con người hiền lành lương thiện, về vẻ
đẹp thiên nhiên núi rừng Việt Bắc là giọng điệu phê phán, giọng điệu đau xót, trăn trở
suy tư. Viết về cuộc sống đau khổ của đồng bào miền núi những con người trí thức
phản diện,những cánh rừng bị tàn phá, những hủ tục lạc hậu… nhà văn thường sử
dụng giọng điệu này. Hàng ngàn cây sưa bị con người chặt phá để phục vụ lợi ích
riêng. Thật đau đớn, xót xa khi cứ từng ngày, từng giờ những cây cổ thụ bị đốn ngục
bởi những kẻ lâm tặc, thậm chí ngay cả người dân lao động mà họ đã từng gắn bó với
thiên nhiên… Đó là sự giận dữ yếu ớt của tự nhiên, thiên nhiên đành bất lực trước sự
tàn phá của con người …
Ta- cây sưa bám đất này sinh sống
Cuộc đời của ta hòa vào non sông
Hôm nay buồn đau ngọn cúi cành cong
Ruột thắt lại bị lột da quanh gốc
Kẻ đốn củi cắt đứt máu ta chuyển lên từ đất
Đời ta héo dần lụi tàn khô
Gã tiều phu! Gã tiều phu
Rắp tâm thiêu ta thành ngọn lửa
62
(Lời cây sưa, t51)
Nhưng dưới gốc ta còn bao tên đốn mạt
Là bụi đời quẩn bám linh tinh
Như thằng đốn củi tàn phá văn minh
Muốn thiêu ta thành tro bụi
(Lời cây sưa, t54)
Khi thiên nhiên trở thành một yếu tố khắc hoạ con người thì thiên nhiên là người
bạn tâm giao, có sự gắn bó mật thiết và là một phần của con người. Những lúc ấy, thiên
nhiên không còn là một đối tượng khách quan của tự nhiên nữa mà đã trở thành một
thiên nhiên mang tâm trạng, và thậm chí đó còn là thiên nhiên dự báo trước số phận của
con người. Ma Trường Nguyên đã mượn hình ảnh giận dữ của tự nhiên như sấm chớp
chuyển rung, mưa gió rào rào, giông tố vằm tơi tả… Với hàng loạt các động từ mạnh
khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng đau đớn của “anh” trong đêm giông tố của
cuộc đời. Sự giận dữ của thiên nhiên được ví như nỗi đau của con người …
Sấm chớp chuyển rung mưa gió rào rào
… Đêm thức trắng giông tố vằm tơi tả
Lòng như đau vò xé nát từng cơn
(Đêm giông tố)
Như vậy, với các biện pháp nghệ thuật cùng với tài quan sát thật tỉ mỉ, kĩ lưỡng, Ma
Trường Nguyên đã đưa bạn đọc đến với thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc. Miêu tả thiên
nhiên, Ma Trường Nguyên vừa muốn ngợi ca vẻ đẹp tự nhiên của quê hương vừa muốn
truyền tải tới bạn đọc thông điệp: thiên nhiên đẹp như thế! gần gũi, giao hòa với con người
như thế nên mỗi chúng ta hãy có ý thức bảo vệ và giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên vốn có. Bảo vệ
thiên nhiên cũng chính là bảo vệ môi trường trường sống của loài người.
2.2.2. Nỗi buồn đô thị hóa trong thơ Võ Sa Hà
Thơ Võ Sa Hà chỉ dẫn cho chúng ta thấy rằng, chỉ không gian núi cao, rừng sâu,
không gian của quê núi mới có thể cho ta cái nguyên sơ, sự tinh khiết của mọi sự vật, mà
từ đó tâm hồn ta mới trở nên sáng trong, lành mạnh. Đó là gốc rễ để tạo nên vẻ đẹp của
thơ.Khác biệt, tức là đối lập với quê núi này chính là chốn thị thành, phố phường, nơi mà
đời sống tự nhiên tươi đẹp của con người đã bị biến hình, đổi dạng đi. Nói một cách khác,
con người ngày nay, họ không được sống theo bản thể tự nhiên nguyên sơ, tốt đẹp của
mình. Họ đã phải gồng mình lên trong đời sống xã hội hiện thực, chịu rất nhiều áp lực của
63
nhịp đời.Thử nhìn vào một ví dụ sau đây. Thi sĩ Võ Sa Hà cho phép ta nhìn rõ một màn tối
đen ở thời điểm “Giữa đêm”. Những gì đây: “giãy dụa”, “cắn”, “đau điếng”, “đuổi”,
“chạy”, “tung tóe khắp nơi”, ”bò lê”, “rũ rượi”. Ai có đủ tư cách đứng ra để xét đoán,
phán quyết những sự thể này trong đời sống nhân sinh? Ai sẽ là quan tòa? Ai sẽ là trọng tài
đây? Nhà thơ của chúng ta trông cậy vào Núi. Thi sĩ khẩn cầu, thúc giục, nhờ cậy để Núi
đưa ra nhận định và lên tiếng. Xin được trích dẫn nguyên văn bài thơ này để minh chứng:
“Những mái nhà giãy dụa
Trăng cắn từng miếng đêm đau điếng
Gió đuổi sương tung tóe khắp nơi
Hàng cây gật gù rũ rượi
Con đường bò lê theo ánh trăng tà
Núi lặng phắc ngắm ta
Núi nghĩ gì?
Nói gì đi chứ!”
(Giữa đêm - thơ Võ Sa Hà).
Linh hồn thơ Võ Sa Hà đậu trên chốn quê núi non, núi đá của thi sĩ. Tách khỏi chốn
quê này, thơ Võ Sa Hà mất sức sống. Trở về quê hương Cao Bằng sau những ngày xa
cách. Võ Sa Hà không không khỏi ngậm ngùi “lối cũ ta về”đã thay đổi. Dẫu biết rằng quê
hương đổi mới là niềm vui nhưng những ai xa quê không khỏi tiếc nối hồi ức đẹp đẽ của
mình một thời. Hồi ức ấy dù có cả những giọt nước mắt nhưng thường người ta không
muốn thay đổi vì ít nhiều là động lực giúp con người ta vững vàng và trưởng thành hơn.
Trở về núi Sa Hà nhưng bộ mặt quê đã thay đổi: Không còn con đường mòn nhấp nhô đá
nhỏ đá to mà ngày xưa cậu bé Võ đi thường hay vấp ngã toạc cả chân. Mà thay vào đó là
con đường bê tông láng mịn, những ngôi gỗ dần mất đi thay vào đó là nhà xây kiên cố. Chỉ
có những cụ già vẫn ngồi dưới mái hiên là nhận ra “thằng bé Võ ngày nào”
Đường bê tông nhựa
Nhà tầng nhà xây chen nghiêng nhà gỗ
Họ vẫn ngồi dưới mái hiên
Áo xanh khuy ngang
Ghế gỗ đen
Mái đầu mây trắng
(Những bà già phố núi)
64
Sống ở nơi phồn hoa đô thị với đủ sắc màu, tiện nghi hiện đại nhưng cũng có lúc Võ
Sa Hà thấy mình lạc lõng. Mấy chục năm sống bon chen nơi phố phường tưởng mình đã quen,
tưởng mình sung sướng nhưng ai dè lại đang lạc bước giữa biển người mênh mông.
Mấy chục năm ở phố
Cứ tưởng mình sướng đầy
Ai dè đang lạc bước
Giữa biển người hôm nay
(Lạc)
Như sương lạc phố, Võ Sa Hà tự nhắc nhở mình ở nơi phố phường mình như
kẻ xa lạ rắc nhớ thả buồn vào phố. Tự nhủ lòng mình trở về chốn xưa
Thôi nào đừng có rong chơi
Rắc nhớ thả buồn vào phố
Ta cùng với em bay nhé
Về đi, mẹ núi gọi kìa
(Sương lạc phố)
Nỗi buồn đô thị hóa trong thơ Võ Sa Hà thể hiện trong bài “Án oan” ta mới
thấy rõ nhất. Tâm trạng đau đớn khi những ngọn núi quê nhà bị phá đi thay vào đó là
con đường mới. Nhà thơ có cảm giác như ngột thở “Con đường xiết thong lọng
quanh cổ núi/ Núi nghẹt thở nhìn trời cầu cứu” nhưng vô vọng
Con đường xiết thòng lọng quanh cổ núi
Núi nghẹt thở nhìn trời cầu cứu
Trán đá đầm đìa mồ hôi.
(Án oan)
Trong bài thơ “Anh khóc” đã thể hiện tâm trạng ngậm ngùi xót xa tiếc nuối những
nơi mà nhà thơ đã từng đi qua, những nơi in dấu kỉ niệm tuổi thơ với bao khó nhọc. Gặp
lại tuổi thơ nhưng sao vẫn thấy buồn vì “ánh sao xanh trong mắt em đã tắt rồi”
Anh đã từng cõng em lên núi
Núi Sa Hà mờ xanh.
Anh đã từng ôm em trong cánh tay trần
Cánh tay săn đỏ như cây nghiến.
Anh đã từng bế em vượt thác
65
Thác Nà Pheo bụi nước mịt mờ.
… Nhưng ánh sao xanh trong mắt em đã tắt rồi.
(Anh khóc)
Vẫn là nỗi buồn khi những gì thân quen đang dần bị đô thị hóa. Ngay cả hình
ảnh quen thuộc lặp lại nhiều lần trong sáng tác của nhà thơ cũng bị “chìm mất thôi”
đó là hình ảnh ngựa đá phi vào phố phường giữa dòng người tấp nập. Ngựa đá sẽ trở
nên lạc lõng, bơ vơ, và bị chìm mất thôi …
Ngồi lên lưng ngựa đá
Phi vào phố phường vui
Dòng sông người lấp lóa
Ngựa đá chìm mất thôi.
(Ngựa đá)
Vì nỗi buồn đô thị hóa mà nhà thơ thường mơ về nơi xưa. Trong bài “Về cũ”
đó là tâm trạng da diết của người con luôn hướng về nơi có mẹ, có cha, có dòng suối
chảy, có ánh chiều tím … Về bến cũ là về với giấc mơ xưa, ngày mai chưa tới, hôm
qua quá xa rồi …Cuộc đi không có đích ta ngồi bần thần nhớ ngày xưa.
Ẩm ướt chiều
… Ta bần thần nhớ ta ngày xưa.
(Về cũ)
Tóm lại đối lập với quê núi chính là chốn thị thành, phố phường, nơi mà đời
sống tự nhiên tươi đẹp của con người đã bị biến hình, đổi dạng đi. Nói một cách khác,
con người ngày nay, họ không được sống theo bản thể tự nhiên nguyên sơ, tốt đẹp của
mình. Họ đã phải gồng mình lên trong đời sống xã hội hiện thực, chịu rất nhiều áp lực
của nhịp đời. Đứng trước không gian này nhà thơ mang tâm trạng buồn, tiếc nuối cái
ngày xưa và ao ước được trở về. Đây cũng là lời cảnh tỉnh đến tất cả mọi người đừng vì
lợi ích kinh tế mà phá hủy đi môi trường sống của chính mình. Hãy chung tay cùng
nhau bảo vệ thiên nhiên cũng là bảo vệ môi trường sống của chính mình.
2.2.3. Làng hóa phố và sự chơi vơi trong thơ Phan Thái
Một trong những hình ảnh thân thương, ăn sâu vào trí nhớ con người ở các
làng quê từ thời thơ ấu cho đến lúc về già là hình ảnh những giếng nước, gốc đa, ao
làng... Câu "còn ao rau muống, còn đầy chum tương" nói lên một cuộc sống thanh
66
đạm mà ung dung trong cảnh thanh bần. Giờ đây, quê hương ngày càng đổi mới, khởi
sắc, nhiều nhà cao tầng mọc lên... đường làng ngõ xóm được bê tông hóa, môi trường
xanh sạch đẹp, đời sống người dân ngày càng được nâng lên. Ngồi nhớ lại cái thời đó,
Phan Thái ước ao được quay ngược thời gian để về với miền ký ức ấy. Muốn tìm lại
mái nhà xiêu quẹo ngày nào, mái ngói tường vôi đơn sơ ấy... Từng ngôi nhà sẵn sàng
đổ khi một cơn gió lớn hay một cơn giông thổi ngang, từng mái nhà đêm đêm đối
diện với ánh sáng ngàn sao và từng cột nhà, từng con người co ro tìm chân giường ẩn
mình khi cơn bão tới…Bởi miền kí ức ấy gắn với tuổi thơ, sau nhiều năm trở về thăm
làng. Làng đã thay đổi khá nhiều khiến lòng người tha hương cảm thấy hụt hẫng, xa
lạ và có phần hối tiếc… Còn đâu nữa gốc đa, còn đâu nữa cá chạch trong ao, miếng
trầu cánh phượng hình như héo rồi …
Làng còn đâu nữa gốc đa
Ao không có chạch để mà tương tư
Trong câu ứ hự..ư hừ …
Miếng trầu cánh phượng hình như … héo rồi
(Cà phê một mình)
Sinh ra ở nông thôn, nhưng lớn lên đi lính, đi học, làm việc và sống xa quê cho
mãi đến giờ. Vì vậy mà cái nỗi nhớ quê luôn thường trực trong tâm trí. Tuổi tác càng
cao, với những người xa quê, hình ảnh thôn làng càng hiện hữu, rõ nét hơn bao giờ
hết. Nó giống như bay càng cao thì sức hút của trái đất càng lớn. Phan Thái có cảm
giác sức hút của làng quê ấu thơ thật mạnh mẽ vô cùng. Nếu ít có điều kiện về thăm
cố hương, thì người ta thường lựa chọn các dịp giỗ, Tết để trở về. Có về sống với
nông dân dù chỉ ít ngày cũng hiểu là họ vô cùng vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thua
thiệt so với người thị thành. Quanh năm vẫn đầu tắt mặt tối “Bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời” để làm nên hạt lúa, củ khoai, trâu bò, gà lợn… Các hình thức canh tác
luôn thay đổi để phù hợp với kinh tế thị trường thời mở cửa. Lại còn phải chống chọi
với bão lũ, lụt lội, hạn hán bất kỳ. Rồi lại phải thắt lưng buộc bụng lo cho con cái ăn
học, mong chúng thành đạt để phụng sự gia đình, xã hội… Vậy mà bộ mặt làng quê
vẫn đổi thay từng ngày. Những con đường làng được “xi măng hóa”, những trụ sở
được xây mới hai ba tầng khang trang, những mái trường, trạm xá được mở rộng. Và
điện. Điện không chỉ thắp sáng mà còn chạy máy xay máy xát, nấu nướng từ nồi cơm
67
cho đến nồi cám lợn. Cứ như là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang thành hiện thực
khắp các vùng quê tôi vậy. Nhìn quê hương thay da đổi thịt có ai lại không mừng,
không vui nhưng dù sao vẫn thấy tiếc những gì mà mình đã từng gẵn bó…
Chợt ran tiếng ếch ngày xưa
Bờ tre bàng bạc như vừa mới xanh
Nhấp nhô một nét thị thành
Lẻ loi vài nếp nhà tranh lối mòn
(Lạc ngõ nhà ta)
Đọc bài thơ “Tản mạn bên làng” ta lại nhớ tới bài thơ “Chân quê” của Nguyễn
Bính. Vào lúc bài thơ ra đời, nó là lời cảnh tỉnh cho những ai có hướng nhìn sai lệch
trong sự cách tân văn hóa và đón nhận quá mức của văn hóa Âu châu. Đến nay, bài thơ
lại là lời nhắc nhở nhẹ nhàng cho bao người “cố ý quên nguồn cội”, cho lớp trẻ đua đòi.
Theo tôi, bài thơ có tính giáo dục rất cao ở góc độ “giữ gìn bản sắc dân tộc”. Với Phan
Thái làng thay đổi khá nhiều không chỉ riêng cơ sở hạ tầng mà con người cũng thay đổi
“hương đồng gió nội bay ra phố rồi” và “gái quê thửa váy, tô môi bán hàng”, cổng làng
rêu lạnh đăm chiêu khép hờ, tối làng hóng phố còn trơ mái đình …
Làng gần câu hẹn thì xa
Hương đồng gió nội bay ra phố rồi
Ngõ xưa bước nắng trật trồi
Gái quê thửa váy, tô môi bán hàng
Ly cà phê ngái men làng
… Đồng quàng vai phố mùa qua ngập ngừng
Thụt thò mái quán nghiêng xiêu
Cổng làng rêu lạnh đăm chiêu khép hờ
… Tối làng hóng phố còn trơ mái đình
(Tản mạn bên làng)
Và cứ thế làng hẹp dần cả về diện tích lẫn diện mạo thay vào đó là những gì tiện
nghi sang trọng. Còn đâu tiếng ếch bờ ao, con đâu ánh trăng rằm… thay vào đó là ánh
đèn nhấp nháy đủ màu trong quán cà phê, tiệm gội đầu mọc lên, còn đâu hương bưởi
hương chanh mà các bà, các mẹ, các chị, các bé gái thường hay nấu nước gội đầu …
Làng hẹp dần
68
Nhà phố cao thêm
Nhấp nháy quán cà phê, tiệm gội đầu thanh nữ
Chút mùa sang lưỡng lự
Nép bên lưng phố heo vàng
(Chơi vơi)
Làng có thay đổi nhiều có nhà cao, nước máy lênh lang … song vẫn còn chút
“hương đồng gió nội” cho người xa quê trở về thấy ấm lòng hơn “cũng may còn cái
giếng làng để soi”. Hương vị, bản sắc của quê vẫn còn, vẻ đẹp hào nhoáng của cơ chế
thị trường không làm lu mơ giá trị văn hóa vốn có của làng quê… Sang sông không
còn đò mà thay vào đó là cây cầu cứng tiện lợi… chiều quê có buồn nhưng tĩnh lặng
đó là đặc trưng của làng quê. Hơn nữa ngày nay vì cuộc sống mưu sinh nên về làng
thường có cảm giác chông chênh bởi những người con thường rời quê lên phố làm
việc, chỉ có ngày trọng đại mớ có mặt đông đủ con cháu.
Sang sông đã vắng con đò
Về quê thèm bữa cá kho tương bần
Lối xưa cạn luống rau cần
Chiều hoa nắng rụng đầy sân ngỡ ngàng
Nhà cao, nước máy lênh lang
Cũng may còn cái giếng làng để soi
(Giếng làng)
Đó là những vần thơ thể hiện tâm trạng nhớ nhung về vùng đất mà ta đã từng
sinh ra và lớn lên với biết bao kỷ niệm. Cũng chỉ vì cuộc sống, vì tương lai nên mới
phải xa nơi "chôn nhau cắt rốn" này..
Bồng bềnh mặt nước nhành hoa
Nắng mưa dâu bể nhạt nhòa nổi trôi
Nỗi mình lạc gió xa xôi
Đâu hay bèo đọng mồ hôi của làng!
(Hoa bèo)
Cuộc đời đã thay đổi, cuộc sống khá giả hơn, ăn mặc sang trọng hơn, com lê, cà vạt
nhưng Phan Thái vẫn lưu luyến màu áo nâu, vẫn thèm những buổi chiều vắt vẻo lưng trâu
tận hưởng làn gió mát dịu nhẹ của thiên nhiên đem lại. Gió trời ấy ở đô thị không bao giờ
69
có mà chỉ có gió lạnh của điều hòa, máy lạnh… Có lẽ trong hoàn cảnh đấy không chỉ Phan
Thái mà mọi người đều muốn có được giây phút thanh bình tươi mát ở làng quê.
Com lê cà vạt giữa đời
Vẫn thèm rổn rảng cái thời áo nâu
Cuối chiều vắt vẻo lưng trâu
Thảnh thơi gió cả trên đầu dưới chân
(Câu thơ trộn nắng)
Có câu nói rất hay “Nhà là nơi bình yên nhất” với người xa quê nhà chính là
quê hương là nơi ta được sinh ra. Sau bao năm cơm áo ngoài đời khi thành khi bại
người ta vẫn nhớ hương vị của quê hương. Vẫn nhớ vị mía ngọt, khoai bùi thấy phố
xa lạc bước, thấy mình thui thủi giữa phố phường xa hoa lộng lẫy …
Bao năm quê kiểng trễ tràng
Trắng tay chỉ biết về làng tìm vui
Quê ta mía ngọt khoai bùi
Phố xa lạc bước, mình thui thủi mình
(Về làng)
Vẫn là tâm trạng chơi vơi, xa lạ giữa phố phường được thể hiện trong bài “Sợi
rơm trên phố”. Dòng đời tấp nập ta như sợi rơm lạc giữa phố dài …
Nhỏ nhoi mấy sợi rơm vàng
Rơi từ quang gánh cô hàng bán hoa
Phố phường muôn bước người qua
Sợi rơm vàng lặng lẽ pha nắng vàng
Nhỏ nhoi từ một góc làng
Sợi rơm lạc giữa mênh mang phố dài
(Sợi rơm trên phố)
Đò đầy còn lại mình ta
Chiều tan mỏng mảnh trăng và bến sông
Ngày xưa ơi nhớ ta không
Ta là con của nâu sồng rạ rơm
(Ngồi lại cùng trăng)
Một lần nữa nhà thơ lại nói lên tâm trạng chơi vơi lạc lõng khi đứng trên chính
quê hương của mình bởi cảnh vật thây đổi quá nhiều mon sông thưa thớt cánh cò,
trâu nằm nghếch gió co ro nhai chiều được thể hiện trong bài “Tản mạn bên làng”
70
Về làng nhang nhác người dưng
Lơ ngơ chẳng biết nên mừng hay lo
Mon sông thưa thớt cánh cò
Trâu nằm nghếch gió co ro nhai chiều
Nói tóm lại do cuộc sống nhiều đổi thay, do tác động của công nghệ số, đời sống
người dân được đầy đủ hơn, tiện nghi hơn. Dù có tiện nghi hơn nhưng có cảm giác con
người dần xa nhau hơn, cuộc sống phụ thuộc nhiều vào công nghệ nên người ta dần xa
những gì tưởng như ăn sâu vào trong tâm mỗi người. Ngày xưa thiên nhiên là bạn, là nơi
người ta nương tựa mỗi khi thấy lòng mình chơi vơi. Còn ngày nay vì lợi ích người ta sẵn
sang tàn quá hủy hoại tự nhiên dẫn đến tự nhiên giận dữ gây nên những trận lũ lụt, mưa đá,
hạn hán… mà con người đang phải trả giá. Sự lưu luyến trong thơ Phan Thái cũng chính là
lời cảnh tỉnh cho mỗi người hãy biết trân trọng, bảo vệ món quà vô giá của tự nhiên.
Tiểu kết chương 2
Là một người sống gắn bó và tự hào về dân tộc mình, Ma Trường Nguyên đã tự
lựa chọn cho mình một cách viết rất riêng. Ông tập trung khai thác vẻ đẹp, gửi gắm, giãi
bày tâm sự, để bộc lộ cảm xúc của mình qua những trang thơ rất giản dị. Không gian đồi
chính là đối tượng được nhà thơ lựa chọn, ở đó môi trường sinh thái rất đa dạng và
phong phú. Nhà thơ Ma Trường Nguyên không lựa chọn những gì cao siêu mà ông trở
về với hồn quê chân chất. Hồn thơ chìm đắm trong không gian thanh bình ấy thì thiên
nhiên hoang dã là sự lựa chọn và được gọt rũa tỉ mỉ để đem đến cho người đọc hiểu thêm
về một miền quê khi còn hoang sơ nhưng nay đã đổi thay rất nhiều.
Võ Sa Hà sống gắn bó với núi đồi ngay từ khi mới sinh ra. Đối với ông,
núi đồi chính là một phần máu thịt trong tâm hồn ông. Đây chính là lí do dùng để
giải thích cho việc thơ ông luôn tràn ngập những hình ảnh của thiên nhiên Tây
nào là núi là cỏ cây hoa lá và cả nhưng linh vật rất nhỏ bè như chim muông,
ngựa, cá…Tất cả đã được nhà thơ thu vào trong tầm mắt và gửi vào vần thơ tha
thiết cháy bỏng.
Phan Thái thì khác, nhà thơ không chọn đất viết ở vùng trung du mà ông trở về
đồng bằng với những vần thơ dạt dào cảm xúc. Và đương nhiên một người với quan
niệm viết để được sống đã đem đến cho chúng ta cái nhìn đa dạng phong phú về một
71
miền quê ở vùng Bắc Bộ. Ở đó không gian làng quê thật thanh bình, cảnh vật sống
động và quen thuộc. Song nhà thơ cũng cho ta thấy sự đổi thay của miền quê đó là
môi trường sống bị ô nhiễm, lòng người đổi thay. Không còn vẻ chân quê mà thay
vào đó miền quê đã bị đô thị hóa. Nhưng về cơ bản nét chân quê vẫn còn lưu lại trong
mỗi người và đâu đó lòng người vẫn còn giữ lại nét đẹp truyền thống của làng quê.
Trân trọng và gây dựng những gì cha ông để lại …
72
Chương 3
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VẤN ĐỀ SINH THÁI TRONG THƠ THÁI NGUYÊN
(Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)
3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái
3.1.1. Khái niệm nhan đề và đặc trưng của nhan đề thơ
Nhan đề: Còn gọi là đầu đề, là tên, là cái "tít" (title - tiếng Anh, titre - tiếng
Pháp) chung của một văn bản, một tác phẩm. Nó như gương mặt của một con người;
nó là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác.
Nhan đề, một yếu tố cận văn bản (cùng với tiêu đề các chương, các lời tựa,
bạt, lời đề từ, các lời bình luận in trên bìa sách, các ghi chú của người viết...) do tác
giả đặt (hoặc bạn hữu/ biên tập viên sành sỏi nào đó gợi ý), nhìn chung đều có dụng ý
tư tưởng, thậm chí nó còn có chức năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận của độc
giả đối với phần chính văn. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một
mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước:
văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào.
Nhiều nhà thơ sau khi hoàn thiện khâu cuối cùng của sự sáng tạo nghệ thuật mới
đặt tên cho tác phẩm của mình; tên gọi này, chính là sự tổng kết lại dự đồ sáng tác của
họ. Ernest Miller Hemingway chia sẻ về kinh nghiệm đặt nhan đề như sau: “Sau khi viết
xong một truyện… tôi kể ra cả một lô tên có thể mang đặt cho truyện đó. Đôi khi chúng
có hàng trăm cái tên. Rồi tôi bắt đầu gạch bỏ, có khi, tất cả những tên nghĩ ra đều bị gạch
hết”. Lại có trường hợp đặt nhan đề cho tác phẩm do một sự tình cờ nào đó.
Thơ trữ tình có kiểu đặt nhan đề khác với loại hình tự sự. Nhan đề của kiểu tác
giả ngôn chí trong văn học trung đại thường nêu lý tưởng, chí hướng của loại người
nào đó hay của chính tác giả. Cũng có khi nhan đề nêu hoàn cảnh cảm hứng, cách
thức thể hiện tình cảm, tâm trạng, cho biết tâm thế trữ tình của người phát ngôn:
Thuật hoài, ngôn hoài, cảm hoài, cảm tác, tự tình,tự thuật, tự trào, ngẫu tác, ngẫu
thành, cảm thành, hữu cảm, tức sự, mạn hứng, hứng, ngâm, vịnh, than, thán, mộng...
Nhan đề gợi trạng huống nhân tình, thế thái (Thầy đồ ve gái goá, Anh giả điếc -
Nguyễn Khuyến…) nêu cảnh tượng, cảnh tình nào đó (Học trò ngủ gật, Tiếng đập vải
đêm thu, Không chồng mà chửa, Thiếu nữ ngủ ngày, Lũ ngẩn ngơ...), đôi lúc thể hiện
quan niệm, thái độ, nhận xét của nhà thơ.
73
Ở thơ, kiểu nhan đề thể hiện tâm trạng chiếm số lượng lớn hơn cả. Nếu thi đề nhắc
đến nhân vật thì thường là một nhân vật được xác định về phẩm chất, khác với truyện
thường xác định về nguồn gốc hoặc vai trò và cách ứng xử... của chính nhân vật đó. Đây
đó, người đọc bắt gặp nhan đề là hình ảnh nhân hoá, là một ấn tượng, kỷ niệm….
Nhà thơ trào phúng, hoặc nội dung thơ có ý nghĩa trào phúng thường đặt nhan
đề có từ bỡn, giễu, chế, phú, chửi, mừng, đùa, khen người này người kia, sự việc này
hay khác. Người thâm trầm kín đáo hoặc thích “tế nhị” thì biến nhan đề trở thành
kiểu chơi chữ (Hỏi thăm quan tuần mất cướp - Nguyễn Khuyến…). Người bốp chát
thì nêu ngay sự bất thường để chĩa ngòi bút vào mà chọc tức, chửi rủa, lên án. Nói
chung, ngay nhan đề đã bộc lộ rõ sự mỉa mai hờn mát, chế giễu đối tượng. Khi nhà
thơ nói về những cái hỏng, cái xấu, cái dở của mình, nhan đề thường có từ tự, than,
thán; các danh từ, đại từ xưng hô bao giờ cũng gắn với các tình từ chỉ đặc tính chưa
hoàn thiện của mình. Đối với nhà thơ bất đắc chí, nhan đề thường gắn với tên gọi
như: than, buồn, ngán, cảm….
Kẻ “tài tử đa cùng” như Nguyễn Du chẳng hạn, trong nhan đề thường xuất hiện
các địa danh, con đường, cảnh, việc chiếm vị trí quan trọng trong nhan đề: Giữa đường
ngẫu hứng, Trên đường trạm Đào hoa, Sớm đi trên đường Phương Hoàng, Vượt sông
long Vĩ, Cảm xúc ở chốn Giang Đình, Từ biệt Nguyễn Đại Lang... Ở Nguyễn Công
Trứ, nhan đề thường nói tới những thú vui chơi tài hoa, hơn người khác đời, chủ yếu
vẫn là tài - tình - sắc; hoài tài, đắc ngộ, ngất ngưởng đều có. Ông vịnh cái nhàn, tự do
tự tại, vịnh phú quý bần hàn bầu rượu túi thơ, cuộc cờ chén trà... Dù vịnh về các mùa
trong năm thì cũng được soi ngắm từ cái nhìn của người tài tử đa tình phóng khoáng,
coi thường xa mã, đủng đỉnh “cười ra rả”, “xênh xang hội gió mây”... Nhan đề thơ Hồ
Xuân Hương có ý nghĩa biểu tượng, cái tục của nhan đề gợi nhớ cái thanh. Tên tác
phẩm giản dị nhưng ý tứ triển khai trong bài rất công phu tài tình. Đó là những đồ vật,
những hang động, hòn đá, cái trống, cái giếng, cái quạt. Hồ Xuân Hương có biệt tài
khám phá những nét tương đồng, mối liên hệ xa xôi giữa các sự vật hiện tượng. Thi sĩ,
nhìn đâu cũng thấy những biểu tượng. Với Xuân Hương, đọc thơ sẽ thấy những cái
ngoài thơ. Chữ nghĩa trở thành những cửa ải đối với người đọc. Vượt qua nhan đề như
là vượt qua các cửa ải chữ nghĩa để đến với các thông điệp.
74
Nhan đề còn phản ánh ý thức trách nhiệm, sự trăn trở về lẽ sống, đặc biệt là
hứng thú thẩm mỹ của người cầm bút. Còn nhớ, khoảng cuối năm 1947, Chính Hữu
bị ốm, lúc đó nhà thơ nghĩ: Chỉ có đồng đội mới giúp mình làm tròn trách nhiệm, tình
đồng đội gần như là chỗ dựa duy nhất để tồn tại, để chiến đấu. Ý thức công dân ở
Người thơ chuyển hoá thành ý thức sáng tạo nghệ thuật: “làm thơ cao xa quá là vô
trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình”. Đấy là cảm hứng
thôi thúc nhà thơ sáng tác và đặt thi đề một cách giản dị, chân thật: “Đồng chí”.
Khi bắt đầu cấu trúc văn bản, nhà thơ nghiêng về tư duy hình tượng, còn khi
đặt nhan đề, thì tư duy lôgíc, tư duy khái quát tổng hợp được sử dụng, nhà thơ lúc này
tỉnh táo hơn. Nhan đề tựa như cái khung của thế giới nghệ thuật. Có nhà thơ, lấy một
câu thơ trong bài để làm nhan đề, thậm chí một từ nào đó trong câu có khả năng gọi
được hồn cốt của thi phẩm ấy. Có nhà văn lấy sự kiện trung tâm, hoặc tình huống
nhân sinh làm nhan đề... Đặt nhan đề là một nghệ thuật, đòi hỏi sự lao động nghiêm
túc, nhiều khi tiêu tốn lượng thời gian không nhỏ. Nếu nghệ sĩ thận trọng trong từng
khâu sáng tác, thì anh ta thường sáng tạo được nhan đề độc đáo, hấp dẫn độc giả.
Nhan đề luôn gợi ra những câu chuyện thú vị, bất ngờ nếu chúng ta khảo kĩ
xuất xứ của nó. Còn nhớ dạo nọ, Hoàng Cầm đặt tên cho tác phẩm của mình là “Lá
Diêu Bông”. Thật ra trong đời làm gì có loại lá Diêu Bông nào. Đó là sản phẩm của
trí tưởng tượng đấy thôi! Sáng tạo ra chiếc lá, Hoàng Cầm muốn diễn tả suy cảm của
mình về những gì xa xôi không bao giờ trở thành hiện thực được. Nhan đề ấy đã kín
đáo bộc lộ cảm quan bi kịch về tình yêu lứa đôi.
Nhìn một cách tổng quát, cách đặt nhan đề tác phẩm chịu sự chi phối của đặc
trưng thể loại, phong cách, kiểu tác giả, tư tưởng chủ đề, chất liệu đề tài, cách thức
thể hiện và hệ thống nhân vật trung tâm, ý thức văn phong, lối viết của từng thời đại.
3.1.2. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Phan Thái
Với một bài nghiên cứu về thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái, cụ thể là
ba nhà thơ (Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái). Vấn đề được tìm hiểu ở đây
chính là môi trường sống, không gian sống (núi, đồi, làng), là thế giới xung quanh
chúng ta nhất là thế giới động thực vật bị tác động như thế nào do điều kiện kinh tế
thị trường, do hoàn cảnh sống, do nhu cầu của con người mà thế giới tự nhiên dần bị
thu hẹp và mất đi vẻ tự nhiên cần thiết để che chở cho con người.
75
Trong sáng tác của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái nhan đề mang
tinh thần sinh thái được thể hiện rất đa dạng và phong phú như sau:
Với Ma Trường Nguyên, nhan đề mang tinh thần sinh thái phản ánh ý thức,
trách nhiệm, thể hiện tâm trạng buồn vui trong cuộc đời như: ví như nhan đề bài thơ:
Đồi chè xanh mây trắng đã nói lên tâm trạng của người con khi nhớ về những kỉ niệm
đau buồn: Đó là ngày người cha ra trận đã dặn lại người vợ ở nhà chăm lo cho gia đình
nhất là cho đứa con thơ, nhưng rồi giặc đến giặc lùng, cả nhà ra trận khi đứa con trở về
cha mẹ đã không còn chỉ còn lại đồi chè xanh mát nơi có bóng mẹ bóng cha. Hay các
nhan đề như: Con suối của đất rừng,Con về quê núi, Ngủ rừng, Đêm giông tố, Hoa đào
và thi sĩ mang tâm trạng tự hào mình là người con của núi rừng. Khi trở về núi rừng
chính là lức được trở về với thiên nhiên, được hòa mình trong cảm giác lâng lâng, nhẹ
nhàng như đang ở chốn bồng lai tiên cảnh, tránh xa nơi ồn ào tấp nập bon chen nơi
thành thị để được sống thảnh thơi thanh nhà ngắm hoa đào nở, thưởng thức hương
thơm của núi rừng trong đêm thanh tĩnh. Và hơn nữa với tâm trạng vui tươi như nhớ lại
tuổi thơ nghe bà kể chuyện để biết được nguồn gốc loài ve bắt nguồn từ đâu cũng được
nhà thơ gửi vào bài thơ với nhan đề: Nguồn gốc loài ve, Chuyện quanh gốc cây sưa tạc
tượng, Mùa xuân đâu rồi em, Lòng yêu về thôi … Tất cả các nhan đề đều là tên gọi của
những đứa con tinh thần được gợi từ những kỷ niệm vui buồn trong cuộc sống đời
thường cũng như trong những tháng ngày binh lửa mà nhà thơ đã trải qua.
Với Võ Sa Hà nhan đề mang tinh thần sinh thái phản ánh ý thức, trách nhiệm, thể
hiện tâm trạng buồn vui trong cuộc đời. Biểu tượng mà Võ Sa Hà lựa chọn chính là hình
ảnh thiên nhiên kì vĩ như hình ảnh núi đúng như bút danh của nhà thơ. Bởi cuộc sống với
nhiều tổn thương nên nhà thơ quá nhạy cảm trước sự vận đông, trôi chảy của thời gian,
của tự nhiên và những đau đớn mất mát của cuộc đời đã in hằn lên những trang thơ.
Mượn hình ảnh than quen là núi để bộc lộ tâm trạng. Biểu tượng núi trở đi trở lại rất
nhiều lần trong thơ Võ Sa Hà. Hầu như bài thơ nào cũng có nhắc đến hình ảnh này. Ví
dụ như bài (Hà Giang đấy) “Áng mây chiều ngủ quên vai núi Cấm … Núi rì rầm bài hát
thuở hồng hoang”. Tâm trạng hoang mang, cô đơn trước cuộc đời, ý thức được sự nhỏ
bé của mình nhưng rồi lại tự động viên mình trong bài (Đêm linh) “Đừng như con nai
lạc mẹ. Ngửng đầu lên đi nào”. Nhan đề “Bốn phía” chính là sự bao la rộng lớn của
76
thiên nhiên, ở đó có mùa ve hát, có mùa lá vàng, có mùa sương muối và mùa én dệt. Mùa
nào mùa nấy đều mang vẻ đẹp rất riêng hay chính là tâm trạng của nhà thơ khi đang hòa
mình vào với vạn vật đất trời. Đất trời cởi mở hay chính lòng người - người thi sĩ. Những
nhan để khác cũng mang đậm ý nghĩa sinh thái như: Vũ điệu núi Voi, Tung còn, Đón tết
xứ người, Sương lạc phố, Ru biển, Sáo ma, Gặp sơn nữ giữa Hà Thành, Những bà già
phố núi, Kí ức, Hoa trăng, Quê hương, Nước mắt Khâu Vai... Có khi nhan đề mang ý
nghĩa sinh thái là ngẫu hứng như bài Lũng Cú, Lộc trời.
Với Phan Thái do môi trường làm việc có khác so với hai nhà thơ trên, hơn nữa
Phan Thái sáng tác thơ vì đam mê nên những vần thơ của Phan Thái cũng rất phong
phú. Đặc biệt là nhan đề mang ý nghĩa sinh thái cũng rất đa dạng. Lấy bối cảnh là
không gian làng quê thân quen. Phan Thái thường lựa chọn và đặt nhan đề cho những
thi phẩm của mình có lúc theo tâm trạng, có lúc lại là ngẫu hứng. Ví như nhan đề mang
ý nghĩa sinh thái như: Làng, Giếng làng, Thưa với cổng làng, Hoa gạo bên làng, Tre
làng, Viết ở làng mình, Về làng, Tản mạn bên làng… Tất cả những tác phẩm này
thường viết về làng quê nơi đã từng in dấu bao kỉ niệm thời thơ ấu của nhà thơ. Với
không gian thanh bình, con người sồng chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, vạn vật
sinh sôi nảy nở và tràn đầy sức sống. Thanh bình, yên tĩnh là nơi quê nhà mà Phan Thái
muốn trở về sau những tháng ngày mưu sinh, trở về làng ngắm cảnh hoàng hôn, nghe
tiếng chim hót, nhìn trâu nhẩn nha gặm cỏ… lòng người thấy thanh bình đến kì lạ “Bao
năm quê kiểng trễ tràng/ Trắng tay, chỉ biết về làng tìm vui/ Quê ta mía ngọt, khoai
bùi/ Phố xa lạc bước, mình thui thủi mình. Chùa làng vẫn rặng trúc xinh/ Gió xanh
chuốt nắng sân đình nâu rêu/ Rắc đầy vai tiếng ve kêu/ Vẩn vơ nhặt tuổi lêu têu thuở
nào”(Về làng). Hay những câu thơ “Xa quê qua tuổi thơ ngây…/ Về quê thèm bữa cá
kho tương bần/ Lối xưa cạn luống rau cần/ Chiều hoa nắng rụng đầy sân ngỡ ngàng”.
Có những nhan đề thể hiện rõ ý nghĩa sinh thái như khi nhà thơ viết về kỉ niệm ấu thơ
đi cùng với ong, bướm, với cánh cò trong lời ru của mẹ.
3.2. Ngôn ngữ mang đậm tinh thần sinh thái
Văn học nhận thức, phản ánh đời sống con người. Cũng như hội họa, ca nhạc,
điêu khắc… văn học là một môn nghệ thuật. Đối tượng của văn học là con người -
con người trong học tập, lao động, chiến đấu, con người trong tình yêu và những mối
quan hệ xã hội khác, con người trong không gian thời gian với thiên nhiên, vũ trụ.
77
Nhà văn nhà thơ phải sử dụng ngôn từ và trau chuốt nó, tạo thành một thứ
ngôn ngữ văn chương giàu có, sang trọng, đẹp đẽ. Ngôn ngữ văn học có những đặc
điểm sau:
Nói văn học là nhân học, đúng thế. Văn học không chỉ phản ánh đời sống con
người mà còn phải nhận thức con người và đời sống con người, nói lên những ước
mơ, khát vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn với sự
đa dạng, phong phú. Chỉ đến lúc nào đó văn học mới là văn học đích thực khi văn học
thể hiện được sự khám phá và sáng tạo, có những kiến giải hay và đẹp về con người
và đời sống con người. Ngôn từ có Tính hệ thống, Tính chính xác, Tính truyền cảm,
Tính hình tượng, Tính hàm súc, đa nghĩa, Tính cá thể hoá
3.2.1. Ma Trường Nguyên - ngôn ngữ nhẹ nhàng, sâu lắng
Lớn lên trong không gian văn hóa dân gian của dân tộc Tày, lại chịu ảnh hưởng
sâu sắc của dân ca qua những bài hát sli, câu lượn. Ma Trường Nguyên trở thành một
trong những tác giả đã kế thừa sâu săc truyền thống thơ ca dân gian của dân tộc mình.
Tác phẩm thơ đầu tiên “Mát xanh đồi cọ” tác giả viết về một người con của quê hương
miền núi, lớn lên dưới tán cọ xanh, cầm súng lên đường đánh Mỹ rồi lại trở về xây dựng
quê hương. Ở tập thơ này chúng ta thấy rõ nhà thơ đã sử dụng ngôn từ mang đậm tinh
thần sinh thái. Tác giả đã sử dụng những yếu tó của tự nhiên như: Cây cối, sông, suối,
mưa, gió, các loài động vật, thực vật … để nói lên tâm trạng của chủ thể trữ tình.
Tâm trạng bịn rịn trong giờ phút chia ly mượn hình ảnh cành đào đang hé nụ
chờ xuân hay chờ ai: “Cành mận đào đang hé nụ chờ xuân”(Anh ra đi, Ma Trường
Nguyên). Tâm trạng vui vẻ khi đón xuân trên đèo De- một địa danh đầy bí hiểm và tự
hào của người dân Việt Bắc.
Con về đường núi đèo De
Bên này Rục Rã bên kia Tân Trào
… Chim reo trong lá xôn xao núi Hồng
… Chuối ngàn thắp lửa núi rừng
(Mùa xuân trên đèo De)
78
Tâm trạng xa lạ khi trở lại nơi gốc nhội mà mình từng gắn bó để tìm lại chút
hương xưa nhưng tất cả đều trở nên xa lạ, lạc lõng giữa lòng người …
Gốc nhội xưa tôi ngơ ngác đến tìm
Gặp người đàn bà như lạ
Chẳng nói với nhau một điều gì cả
Cùng đứng im như gốc nhội xưa
(Tìm gốc nhội xưa)
“Lăn lóc như vỏ đỗ queo” (Lòng đi yêu về thôi- Ma Trường Nguyên). “Nghe
gió tạt ngoài đường/ Em ra đầu núi đón/ Ngực vui như suối “cọn”/ Xoay tít mù từ
xa” (Mặt suối)
“Câu hát vướng vào núi chiều/ Núi ngây trong mây bọc/ Con chim đang ăn
mồi rơi xuống đất/ Con sóc đang chuyền chân bám vào cây/ Con gà gô quên bới đất
rừng dày/ Quên gọi đàn con đi lạc/ Hạt sương rơi hắt ngược/ Vào bầu trời lang thang”
(Câu hát vắt vai). Với việc sử dụng các từ ngữ so sánh trên chất liệu của hình ảnh tự
nhiên như: gốc nhội xưa, cành đào, vỏ đỗ, suối, mây bọc … vừa cho thấy vẻ đa dạng
của thiên nhiên thôn dã vừa cho thấy vạn vật đang tràn đày sức sống. Con người và
thiên nhiên như chan hòa, giao cảm với nhau
3.2.2. Võ Sa Hà - Ngôn ngữ giàu hình tượng
Ngôn ngữ thơ Võ Sa Hà giản dị nhưng giàu tính hình tượng, thể hiện sự tư
duy sắc sảo của nhà thơ. Song song với việc sử dụng những ngôn ngữ đời thường,
dung dị, nhà thơ còn sử dụng những từ ngữ được chọn lọc kĩ càng, được gọt rũa đến
độ tinh tế. Những từ ngữ đó rất giàu giá trị tạo hình, đặc biệt là những bài thơ nói về
vẻ đẹp, sự hùng vĩ của thiên nhiên miền núi.
Hoàng hôn tím tụt dần vào bụng núi
Vài sợi tơ vàng ngóc vội ní vòm xanh
Núi ngửa mặt ngắm vầng trăng đi dạo
Đêm nở hoa sao, mắt long lánh cười
Sương mù đỏ vờn bình minh nhảy múa
Xa xa kìa những đỉnh núi bay lên
(Đừng nói)
79
Những từ ngữ trong những câu thơ trên đã được nhà thơ chọn lọc nhằm làm
nổi bật lên được màu sắc của núi, của mây, của dòng sông và sự trùng điệp, kéo dài,
liên tiếp tưởng chừng như không bao giờ dứt của những dãy núi.
Mầm trăng ủ rũ nguồn thơm
Trinh nguyên hương trời hương đất
Trăng uốn vành môi thiếu nữ
Hôn dài mặt núi mờ xanh
(Trăng non)
Võ Sa Hà cũng sử dụng nhiều những động từ mạnh nhằm diễn tả trọn vẹn
được những chuyển động, những hoạt động dữ dội của thiên nhiên, của con người
như: rắc, lấp, đào, mút, …
Trăng rắc hoa suối ngọc
Lũ sỏi lấp lóe cười
Triệu hồn đào thao thức
Mút từng giọt trăng rơi
(Hoa Trăng)
Võ Sa Hà còn sử dụng những động từ mạnh nhà thơ còn sử dụng điệp từ, điệp
cấu trúc câu làm ngôn ngữ càng giàu tính hình tượng. Thiên nhiên càng được khắc
họa đời đời vẫn thế, cứ tròn vành vạnh chỉ riêng đời người là méo mó mà thôi. Các
điệp từ như: đừng, tròn,…
Thôi đừng buồn, đừng mơ, đừng day dứt.
Cuộc đời khuất khúc
Bến ảo giấc hòe
Tìm làm chi
Chờ đợ nữa mà chi
Mặt trời tròn, mặt trăng tròn, quả đất tròn
Chỉ kiếp người là méo.
(Xa)
80
Trong bài Nước mắt Khâu Vai điệp câu được lặp lại tám lân trong tám khổ thơ
của bài thơ cho thấy tác giả đâng nhấn mạnh cảm xúc dâng trào. Hãy khóc đi khi nào
lòng thấy giông tố. Khóc là dâng cho đời những trái ngọt.
Em khóc đi!
Giọt nước mắt này được ủ vào lòng đất
… Em khóc đi!
Giọt nước mắt này sẽ tan vào đá
… Em khóc đi!
Giọt nước mắt này sẽ bay vào trong sương
(Nước mắt Khâu Vai)
Đến với thơ Võ Sa Hà cũng là cách so sánh dung hình ảnh tự nhiên thông qua
ngôn ngữ diễn tả tâm trạng của chủ thể trữ tình. Thể hiện niềm tự hào về Hà Giang-
nơi địa đầu của đát nước có rượu ngô vàng như nắng. Nắng là vẻ đẹp rực rỡ của thiên
nhiên “Hà Giang đấy rượu ngô vàng như nắng”(Hà Giang đấy). Hình ảnh con nai
chiều lạc mẹ được ví như tâm trạng của con người khi mất đi người thân. Như Mẹ
Trời, Nàng Trăng, hồn cây hòn núi được mời gọi trong sâu thẳm tâm hồn, như lời
thúc giục hãy trở về
“Về đi thôi
Nàng Trăng mở mắt rồi
Chúng mình cùng chào nhé
Ơi cây ba hồn
Ơi núi bảy vía
Đừng như con nai lạc mẹ
Ngửng đầu lên đi nào” (Đêm linh)
Và cuối cùng, Võ Sa Hà cũng sử dụng nhiều danh từ trong sáng tác của mình,
nhất là những danh từ liên quan đến thiên nhiên, cảnh vật, đến núi đồi như: núi, trăng,
đá, sông suối, mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, trời, đất, nước, mưa, lửa, nắng,
gió... Ngoài ra còn có danh từ chỉ người như: ông, bà, bố, mẹ, anh, chị... và những
danh từ riêng chỉ những địa danh mà nhà thơ đã từng sống và gắn bó một thời: Pác
81
Pó, Cao Bằng, Thái Nguyên, Hà Giang, núi Sa Hà, sông Cầu,... Những danh từ này
chính là chất liệu quan trọng hỗ trợ đắc lực cho nhà thơ để có thể vẽ lên khung cảnh
quê hương với núi đồi trùng điệp, với ánh trăng lung linh, huyền ảo, những lễ hội
xuân tưng bừng, rộn ràng; với nếp sống với những phong tục, tập quán phong phú,
đậm chất chất phác của con người miền núi.
Sông Lô rì rầm mách bảo
… Núi Cấm thì thầm kể chuyện
… Hà Giang đêm trong ánh ngọc
(Lộc trời)
Ở bài thơ Vũ điệu núi Voi cho ta thấy không chỉ nhưng địa danh được nhắc đến
mà còn là niềm tự hào của những người con nơi thủ đô gió ngàn- nơi diễn ra cuộc
kháng chiến oanh liệt chống Pháp của cả dân tộc Việt.
Núi Voi trôi về đâu
Chiều mơ người Thái Nguyên
Đàn chim Việt bay về
… Lửa ngút trời ATK
Pháp bại ngày chiến Khu
(Vũ điệu núi Voi)
Võ Sa Hà là người ưa giao du, quý bạn và chiều bạn, cửa nhà anh luôn rộng
mở với bạn văn chương. Quê gốc Bắc Ninh, sinh tại Cao Bằng, hiện sống và làm việc
ở thành phố Thái Nguyên: “Trông về đằng Đông chập chùng biên ải/ Ngược lên phía
Bắc đá dựng lô nhô/ Xuôi về phương Nam bắt tay Kinh Bắc”. Những “dư địa chí” ấy
xuất hiện trong thơ Võ Sa Hà như những miền văn hóa, lúc xù xì dữ dội, khi mềm
mại trữ tình. Khác với vẻ ngoài quảng giao, gặp nhau nói cười rộn ràng, thơ anh
dường như luôn phảng phất một nỗi buồn giàu chiêm nghiệm của người bôn ba, tự
lập từ nhỏ, cùng lúc phải làm nhiều nghề để mưu sinh. Những bài thơ anh viết về núi
thường hay. Núi với anh là bạn rượu, là người tình, là khí chất, là nơi lưu giữ cả sự cô
đơn và kiêu hãnh.
82
3.2.3. Phan Thái - ngôn ngữ mộc mạc, giản dị
Nếu như Ma Trương Nguyên- ngôn ngữ nhẹ nhàng, sâu lắng, Võ Sa Hà -
Ngôn ngữ giàu hình tượng. Thì Phan Thái lại có lựa chọn riêng đó là sự điêu luyện
khi dùng từ ngữ mộc mạc, giản dị khi viết về nơi làng quê thanh bình.
Thứ nhất về thể thơ, Phan Thái có 100 bài thơ được viết theo thể thơ lục bát-
một thể thơ truyền thống của dân tộc Việt. Với kết cấu lục bát, Phan Thái đã lựa chọn
hình ảnh cũng như ngôn ngữ rất “chân quê”. Đọc lục bát Phan Thái, cảm giác đầu
tiên là những khoái cảm hết sức thú vị về tâm tình quê hương, làng mạc được trải ra
bằng gan bằng ruột, đọc lên thấy gần gũi và đáng yêu lạ lùng.. Các hình ảnh lúa, ngô,
khoai, sắn, lũy tre làng, cánh đồng xanh bát ngát, dòng sông trở nặng phù sa, cây đa
bến nước, sân đình …
Bến sông ngơ ngác cánh cò
Qua cầu thèm tiếng “ơi đò” … xa xôi.
Trăm năm làng cũng ra mồi
Nắng om chín cả mồ hôi trên đồng
(Ta về nhốt gió ngày xưa)
Giếng làng cữ ấy đương xuân
Lau nhau bọn trẻ cởi trần tắm chung
Ngày xua nào biết thẹn thùng
Tiếng cười va ánh trăng rung cả làng
Mấy cô quẩy gánh trăng vàng
Tóc thơm hoa bưởi thơm sang ngõ gầy
(Giếng làng)
Phan Thái đưa vào trong thơ những hình ảnh quen thuộc từ ca dao tục ngữ như
hình ảnh cái cò, các vạc trong lời du của mẹ, của bà …
Cái cò cái vạc … ngày xưa
Tan trong bì bõm luống bừa ruộng sâu
(Bài thơ viết ở làng mình)
83
Những hình ảnh trầu cau gắn liền với sự tích trầu cau trong câu chuyện cổ tích.
Trong văn học dân gian có những câu ca nói về vị trí miếng trầu, quả cau trong đời
sống sinh hoạt đời thường của người dân như “Miếng trầu là đầu câu chuyện” hay
“Miếng trầu nên dâu nhà người”, “Gặp đây ăn một miếng trầu/ Không ăn cầm lấy
cho nhau vừa lòng …” Trong thơ Phan Thái hình ảnh cơi trầu xuất hiện
Bến rêu chiều gội con đò
Sóng cời nhay nháy tàn tro trên đầu
Mắt giêng hai ướt cơi trầu
Men làng mặn vạt áo nâu cõi thiền
(Chiếu rơm khểnh chiếc điếu cày)
Ngôn ngữ trong thơ Phan Thái còn là ngôn ngữ của hoài niệm. Nhà thơ viết về
rất nhiều những kỷ niệm đó là những kỷ niệm về tuổi thơ, về mẹ, về làng …
Nhớ quê như một ám ảnh thường trực trong tâm thức nhà thơ:
Xa quê đã bấy nhiêu ngày
Đêm đêm nỗi nhớ trong đầy giếng quê.
Đơn giản là vì, về quê đối với Phan Thái đồng nghĩa với việc hành hương tìm
lại chính mình. Ở đó, sự lam lũ trở thành bản sắc, cái nghèo làm nên truyền thống,
yêu thương là gia bảo truyền đời. Về với làng là hành trình trở về với cái ngày xưa,
mà dư âm của nó là men say, mật ngọt:
Ngày xưa nào biết thẹn thùng
Tiếng cười va ánh trăng rung cả làng.
Với Phan Thái, ngày xưa là một kho báu mà tấm bản đồ định vị kho báu ấy,
cần một độ lùi thời gian đời người, mới dần hiển lộ. Ta cảm nhận được những khoái
cảm hồn nhiên của nhà thơ, trong phút giây thư thái:
Mắc câu thơ dưới hiên đình
Anh ngồi nghe chuyện chúng mình ngày xưa.
Với Phan Thái, chạm vào đâu cũng là chạm vào kỉ niệm:
Lối xưa cạn luống rau cần
Chiều hoa nắng rụng đầy sân ngỡ ngàng.
Đến nỗi, không kìm lòng được, nhà thơ phải thốt lên, phải tự phô mình, ít nhất
là để khoe cái căn cốt chân quê của mình:
Ngày xưa ơi nhớ ta không
Ta là con của nâu sồng rạ rơm.
84
Ý thức được nguồn cội cũng chính là sự tự ý thức về trách nhiệm của bản thân
nhà thơ, là động lực để vượt qua những thăng trầm, đa đoan của kiếp người:
Buồn vui theo dọc kiếp người
Ru ta xóm mạc vẫn lời tre pheo!
Đến nỗi
Mồ hôi làng mặn vào tôi
Nén nhang giỗ họ xa rồi vẫn thơm!
Càng đi nhiều được trải đời, càng vấp ngã, Phan Thái càng khát khao được hồi
quê, khát khao một sự yên bình, vô tư lự:
Đi ngang trong đục bọt bèo
Bao đêm khát mảnh trăng treo đầu làng.
Anh nhận ra một sự gọi mời da diết và đăm đắm: Đi qua cái thuở dại kh. Mới hay
gió thổn thức bờ sông quê. Phan Thái nhận ra nỗi khát khao thôi thúc của ước vọng trở về
với cuộc sống phóng khoáng, thoát ra khỏi cái thế giới tù túng, chật hẹp nơi phố thị:
Dại khôn cá chậu chim lồng
Khát đêm ngập gió vắt đồng lên vai
Mót quên thập thững phố dài
Buồn cay mắt nắng, trăng hoai bóng gầy.
Chúng được láy lại, tạo nên cảm giác luyến láy của khổ thơ:
“Bước trâu sậm sụt luống cày
Con đò lẻ bến, chiều hay háy chiều
Mặn mòi nước vại cơm niêu
Làng đau đáu thắp bao điều tri âm”
(Mắc câu lục bát bờ ao)
Từ láy tạo nên những âm hưởng đặc biệt và có tác dụng lớn trong việc biểu
đạt nội dung câu thơ cần nói đến:
“Nhấp nhô một nét thị thành
Lẻ loi vài nếp nhà tranh lối mòn”
(Lạc ngõ nhà ta)
Trong những bài, đoạn thơ lục bát của Phan Thái có xuất hiện tín hiệu ngôn
ngữ đặc biệt. Đó là những dấu chấm lửng “…”. Việc đưa dấu chấm lửng vào trong
câu thơ là một ý đồ nghệ thuật mang lại cho câu thơ, bài thơ giá trị về nhịp điệu, tăng
85
khả năng biểu cảm. Dấu chấm lửng đó đã tạo ra chỗ ngắt nhịp khiến hơi đọc lên dài
hơn, lâu hơn, thể hiện những cảm xúc riêng sâu lắng trong mạch thơ:
“Bềnh bồng xứ Thái người xinh
Vừa nâng nhấp chén trà tình…đã say!”
(Bềnh bồng xứ Thái)
“Đói no giấy rách giữ lề
Lời xưa bầu bí…bộn bề tri âm.
Thả hồn bái vọng từ tâm
Câu kinh kệ cũng ướt đầm đa đoan”
(Làng)
Đó cũng là những cảm xúc rất riêng của nhà thơ, muốn dừng lại để lắng nghe
âm thanh của cuộc sống, tạo không gian cho sự lắng đọng của tâm hồn:
Bên sông ngơ ngác cánh cò
Qua cầu thèm tiếng “ơi đò”…xa xôi
(Ta về nhốt gió ngày xưa)
Có thể nói, ngôn ngữ trong tho Phan Thái có sự hài hòa cân đối, uyển chuyển
và mềm mại, mang lại cho người nghe cảm giác êm dịu nhẹ nhàng. Sử dụng nhuần
nhuyễn, điêu luyện thể thơ lục bát thuần Việt, cùng với lối viết luôn tìm tòi những âm
điệu, hình tượng thơ phong phú, sáng tạo, gọt giũa ngôn từ mới, Phan Thái đã mang
đến cho người đọc những bài thơ lục bát hay, trong sáng về cảnh người quê hương
thấm đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến nhịp điệu và lối diễn đạt, góp
thêm cho dòng thơ Thái Nguyên nói riêng và thơ Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm
có giá trị cao, được người đọc hôm nay và mãi đến sau này yêu thích và mến mộ.
Tiểu kết chương 3
Đối với các phương diện: Không gian sinh thái, ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ
của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà và Phan Thái có mang những nét đặc trưng riêng.
Bởi vì ba nhà thơ sống, gắn bó với nhiên nhiên và con người ở nhiều miền khác nhau
Mặt khác mỗi nhà thơ lại có một xuất phát điểm khác nhau, có cách nhìn nhận
cuộc sống cũng như con người khác nhau, sở trường và sở đoản cũng khác nhau.
Nhưng chính những khác biệt này đã tạo nên nét phong cách riêng, mang tính đặc
trưng, không lẫn với bất kì ai của mỗi nhà thơ. Đồng thời qua đó tạo nên những màu
sắc khác nhau, làm phong phú hơn cho nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và
thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
86
KẾT LUẬN
1. Kết luận về việc nghiên cứu Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái.
Nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái đẫ được đề cập trên thế giới những năm
70 của thế kỉ XX. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu theo xu hướng này đối với sáng
tác trong phong trào thơ mới, của Nguyễn Minh Châu … Xu hướng này đã khẳng định
những ưu điểm nhất định khi tìm hiểu văn học trong mối quan hệ với môi trường sinh
thái và đặc biệt chú ý đến tác động của môi trường đến đời sống của con người. Thơ
Thái Nguyên (Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái) đã được tìm hiểu ở những góc
độ khác nhau. Nhưng dưới góc nhìn phê bình sinh thái thì chưa có công trình nào nghiên
cứu, đề cập đến. Vì vậy bài nghiên cứu này sẽ có những đóng góp nhất định cho dòng
chảy của thơ ca Thái Nguyên nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
2. Sự khác nhau rõ nét giữa ba nhà thơ Thái Nguyên.
Mỗi tác giả mang nhưng phong cách riêng lại có những sáng tạo riêng khi cầm
bút tùy thuộc vào vốn văn hóa mà họ có. Nếu như Ma Trường Nguyên đề cập đến
không gian sinh thái là những hình ảnh rất riêng của quê hương mình. Đó là hình ảnh
gắn liền với đồi, với ngôi nhà sàn thân yêu.
Võ Sa Hà cũng chọn cách trở về quê hương để với bản thể vốn có của nó chính
là không gian hoang dã, ngôn ngữ tạo hình để tạo nên những tác phẩm mang hơi thơ
của cao nguyên Cao Bằng. Con người sống ở đó phần lớn phụ thuộc vào tự nhiên nên
không gian sinh thái thường huyền bí có phần hoang sơ.
Còn Phan Thái tìm về không gian thanh bình của làng quê để viết, để lưu
nhưng dấu ấn của cuộc đời và cũng để trải lòng mình. Giọng thơ nhẹ nhàng, giản dị,
mộc mạc. Ngôn ngữ trong thơ Phan Thái có sự hài hòa cân đối, uyển chuyển và
mềm mại, mang lại cho người nghe cảm giác êm dịu nhẹ nhàng. Sử dụng nhuần
nhuyễn, điêu luyện thể thơ lục bát thuần Việt, cùng với lối viết luôn tìm tòi những
âm điệu, hình tượng thơ phong phú, sáng tạo, gọt giũa ngôn từ mới, Phan Thái đã
mang đến cho người đọc những bài thơ lục bát hay, trong sáng về cảnh người quê
hương thấm đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến nhịp điệu và lối diễn
đạt, góp thêm cho dòng thơ Thái Nguyên nói riêng và thơ Việt Nam nói chung
nhiều tác phẩm có giá trị cao.
87
3. Những kết quả đạt được từ việc nghiên cứu, những đóng góp của đề tài.
Nghiên cứu khoa học không chỉ là tiếp nối, kế thừa mà còn là khám phá về
những điều mới mẻ. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái, mặc dù được
kế thừa lý luận từ những người đi trước nhưng đây là công trình đầu tiên chúng tôi áp
dụng vào nghiên cứu của ba nhà thơ Thái Nguyên. Đây là một thử thách đối với
chúng tôi bởi chưa có nhiều nghiên cứu theo xu hướng này đối với thơ Thái Nguyên
nói chung và ba nhà thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái nói riêng. Chính
vì vậy luận văn nghiên cứu này không tránh khỏi những thiếu xót. Hy vọng chúng tôi
sẽ bổ sung những khuyết điểm này trong những công trình nghiên cứu tiếp theo khi
tìm hiểu sâu rộng hơn về thơ Thái Nguyên nói chung và thơ của ba nhà thơ Thái
Nguyên nói riêng dưới góc nhìn phê bình sinh thái.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Vân Anh (2015), "Biểu tượng về thiên nhiên
như một diễn ngôn về văn hóa Tày trong tiểu thuyết Vi Hồng", Tạp chí diễn đàn
Văn nghệ Việt Nam, số tháng 10/2015
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Ma Thị Ngọc Bích (2004), Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Vi Hồng, Luận
văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học sư phạm Thái Nguyên, Thái Nguyên.
4. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
5. Võ Sa Hà (2001), Ngựa đá, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
6. Võ Sa Hà (2004), Cánh chim về núi, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Võ Sa Hà (2009), Lửa trắng, Nxb Lao động, Hà Nội.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Giáo Dục, Hà Nội.
9. Đỗ Thị Hiện, Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa con người với tự nhiên - cơ
sở quan trọng của việc giáo dục môi trường ở Việt Nam hiện nay,
Daihocxanh.hoasen.edu.vn
10. Đỗ Văn Hiểu (2008), Văn học sinh thái và Lí luận phê bình sinh thái, dịch từ
cuốn Đương đại tây phương tối tân văn luận giáo trình của Vương Nhạc Xuyên,
Nxb Đại học Phúc Đán, Thượng Hải,
11. Đỗ Văn Hiểu (2016), “Tính “Khả dụng” của phê bình sinh thái ”, Tạp chí Văn
học Nghệ thuật, tháng 9 năm 2016.
12. Đỗ Văn Hiểu, Phê bình sinh thái, Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính
cách tân, www.Tapchisonghuong.com.vn
13. Đỗ Văn Hiểu, Phê bình sinh thái, Cội nguồn và sự phát triển,
www.dovanhieu.wordprece.com.
14. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
15. Đào Thuỷ Nguyên (2013), “Bản sắc văn hoá dân tộc qua hình ảnh thiên nhiên trong
văn xuôi dân tộc thiểu số”, Tạp chí diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 5/2013.
16. Đào Thuỷ Nguyên (2014), (chủ biên), Bản sắc văn hoá dân tộc trong các sáng tác
của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
89
17. Đào Thủy Nguyên (2016), “Cảm quan sinh thái trong văn xuôi dân tộc thiểu số
Việt Nam đương đại”, Tạp chí nghiên cứu lí luận, phê bình và lịch sử văn học.
18. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn
xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học Thái Nguyên.
19. Ma Trường Nguyên (1992), Gió hoang, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
20. Ma Trường Nguyên (1993), Trăng yêu, Hội văn học nghệ thuật Bắc Thái.
21. Ma Trường Nguyên (2007), Cây nêu, Nxb Văn hóa dân tộc.
22. Ma Trường Nguyên (1987-1992), Trái tim không ngủ, Nxb Văn hóa dân tộc.
23. Ma Trường Nguyên (2007), Câu hát vắt qua vai, Nxb Văn hóa dân tộc.
24. Ma Trường Nguyên (2010), Hiện đại mà dân tộc, Tập tiểu luận, NXB Văn hóa
dân tộc.
25. Ma Trường Nguyên (2011), Trên cánh đồng chữ nghĩa, Tập tiểu luận, NXB Đại
học Thái Nguyên.
26. Ma Trường Nguyên (2012), Phượng hoàng núi, Nxb Đại học Thái Nguyên.
27. Trần Thị Ánh Nguyệt (2015), "Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam
sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái”, Tạp chí nghiên cứu Văn học số 10
(tháng 10/ 2015) tr.53
28. Trần Thị Ánh Nguyệt (dịch) Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi
trường tapchisonhuong.com.vn.
29. Nhiều tác giả (1994), Bốn mươi truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
30. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày Nùng, Nxb Văn hóa
dân tộc Hà Nội
31. Nhiều tác giả (2006), “Kỉ yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng”, Hội VHNT Thái
Nguyên - Khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên.
32. Nhiều tác giả (2010), Văn mới 5 năm 2006 - 2010, Hồ Anh Thái tuyển, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
33. Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), "Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau
1975 nhìn từ góc nhìn phê bình sinh thái". Tạp chí nghiên cứu Văn học số 10
(tháng 10/ 2016)
34. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
90
35. Hoàng Thị Minh Phương (2011), Ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong một số
tiểu thuyết của Vi Hồng, Văn học Thái Nguyên, NXb Đại học Thái Nguyên.
36. Sở Giáo Dục và Đào Tạo Thái Nguyên (2008), Văn học Thái Nguyên, NXb Đại
học Thái Nguyên.
37. Cao Duy Sơn (2006), Đàn trời, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
38. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
39. Tạ Văn Sỹ (2008), Võ Sa Hà nặng lòng quê núi, Báo điện tử 360 plus ngày
13/07/2008.
40. Thanh Tâm (2011), Nguồn:http://www.moitruong.com.vn/ (12/6/2011)
41. Tuyển tập thơ văn Thái Nguyên (1990-2000)(2000), Hội VHNT Thái Nguyên.
42. Tuyển tập thơ Thái Nguyên (2001-2006) (2007), Hội VHNT Thái Nguyên.
43. Phan Thái (2012), Quẩy nắng vào đêm (Tập thơ), Nxb Hội Nhà văn
44. Phan Thái (2014), Về sông xưa (Tập thơ), Nxb Hội Nhà văn
45. Phan Thái (2016), Giấc mơ con quay về (Tập thơ), Nxb Hội Nhà văn
46. Nguyễn Thị Tịnh Thi (2013), "Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc,
Văn học hậu hiện đại- lí thuyết và thực tiễn". Tạp chí Triết học, số 6 - 2013.
47. Phạm Thị Ngọc Trâm (2004), “Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện
trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và
giải pháp”, Tạp chí Triết học, số 6 - 2004.
48. Trần Thị Việt Trung - Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), "Lời văn nghệ thuật - một
số phương diện đặc sắc trong tiểu thuyết của Vi Hồng", Tạp chí Văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
49. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - truyền thống
và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
50. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2002), Tổng tập văn học dân
gian Việt (tập 15), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.
51. Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo
thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011.
52. Khí quyển thơ- sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn:
Báo điện tử 360 plus ngày 23/10/2013
53. Viện Văn học đã tổ chức buổi hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản
địa - Tiếng nói toàn cầu” vào sáng 14/12/2017 tại Hà Nội.