ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH MAI THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ TIÊU BIỂU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH MAI THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ TIÊU BIỂU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS CAO THỊ HẢO
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Mai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em nhận được sự giúp đỡ lớn nhất từ giáo viên
hướng dẫn là PGS.TS. Cao Thị Hảo. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc. Cảm ơn cô đã cho em những chỉ dẫn khoa học quý báu trong việc triển khai luận
văn. Cảm ơn cô đã đồng hành, động viên và giúp đỡ em!
Đồng thời, trong quá trình thực hiện luận văn em đã nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô trong khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo trường ĐHSP Thái Nguyên. Cảm ơn
các thầy cô đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các nhà thơ Dương Thuấn, Bùi Thị Tuyết Mai,
Inrasara... đã nhiệt tình giúp đỡ em trong việc tiếp cận với tư liệu nghiên cứu. Em xin
cảm ơn gia đình và bạn bè - những người đã động viên, giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập và làm luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Mai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 8
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 9
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ THIẾU NHI VÀ THƠ THIẾU NHI
DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI .................................. 10
1.1. Khái quát về thơ thiếu nhi Việt Nam ................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 10
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của thơ thiếu nhi .................................................... 13
1.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại ................................... 20
1.2.1. Diện mạo chung của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ
hiện đại ........................................................................................................................ 20
1.2.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi
Việt Nam ..................................................................................................................... 25
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 27
Chương 2: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ........... 28
2.1. Khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ ........ 28
2.1.1. Thiên nhiên miền núi đặc trưng qua bốn mùa .............................................. 28
2.1.2. Thế giới cây cỏ ............................................................................................. 37
2.1.3. Thế giới loài vật ............................................................................................ 41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
2.2. Những nếp sống và sinh hoạt gắn bó với trẻ em dân tộc thiểu số ....................... 46
2.2.1. Cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả và niềm vui trẻ thơ trước những
đổi thay trên quê hương .............................................................................................. 46
2.2.2. Những sinh hoạt phong phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa của trẻ em
dân tộc thiểu số ........................................................................................................... 51
2.3. Trẻ thơ dân tộc thiểu số với những ước mơ, trăn trở và khát vọng ..................... 59
2.3.1. Ước mơ được học tập, hiểu biết về thế giới muôn màu ............................... 59
2.3.2. Những trăn trở và khát vọng của trẻ thơ dân tộc thiểu số ............................ 63
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 67
Chương 3: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN
TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGHỆ THUẬT ......................................................................................................... 68
3.1. Ngôn ngữ mang sắc thái riêng ............................................................................. 68
3.1.1. Ngôn ngữ thơ ngắn gọn, giản dị ................................................................... 68
3.1.2. Ngôn ngữ thơ giàu âm thanh, hình ảnh ........................................................ 72
3.1.3. Ngôn ngữ thơ mang đậm bản sắc dân tộc .................................................... 75
3.2. Giọng điệu nghệ thuật .......................................................................................... 80
3.2.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên ................................................................ 80
3.2.2. Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh ................................................................ 83
3.2.3. Giọng điệu trữ tình, tha thiết ........................................................................ 86
3.2.4. Giọng điệu suy tư, triết lý ............................................................................. 89
3.3. Kết cấu độc đáo .................................................................................................... 92
3.3.1. Kết cấu tự sự ................................................................................................. 93
3.3.2. Kết cấu hỏi - đáp .......................................................................................... 96
3.3.3. Kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) ...................................................................... 97
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 100
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nằm trong dòng chảy của văn học Việt Nam, văn học dân tộc thiểu số là
một “tấm thổ cẩm” rực rỡ phản ánh tâm hồn, cuộc sống của 53 dân tộc thiểu số anh
em trên đất nước ta. Với vẻ độc đáo riêng biệt, văn học dân tộc thiểu số đã góp phần
tạo nên sự đa sắc, đa thanh cho nền văn học Việt Nam hiện đại và trở thành một bộ
phận có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống văn học. Diện mạo văn học
Việt Nam hiện đại chỉ được nhìn nhận một cách trọn vẹn, đầy đủ khi bao hàm trong
đó bộ phận văn học dân tộc thiểu số. Hay nói như nhà thơ Mai Liễu “Đời sống văn
học - nghệ thuật nước nhà không thể thiếu mảng văn học - nghệ thuật các dân tộc
thiểu số” [26, tr. 19]. Và điều này một lần nữa lại được khẳng định tại Nghị quyết
Trung ương V (khóa VIII): “Văn học các dân tộc thiểu số đã có bước tiến đáng kể.
Đội ngũ những nhà văn hóa người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng lẫn chất
lượng đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học nghệ
thuật”. Mặc dù có vai trò và vị trí quan trọng như vậy nhưng trên thực tế, những
nghiên cứu về bộ phận văn học này còn chưa nhiều, chưa rộng rãi. Văn học dân tộc
thiểu số chưa được quan tâm xứng đáng với vị trí của mình, “ảnh hưởng của văn học
nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt trong nhận thức và đánh giá của xã
hội nói chung và của cả giới văn học nghệ thuật nói riêng” [22, tr. 10]. Có lẽ chúng
ta cần phải có sự nhìn nhận lại để có thể giới thiệu được cho đông đảo độc giả những
đóng góp và thành tựu của bộ phận văn học này.
1.2. Trong những thập kỷ gần đây văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
đã có nhiều khởi sắc. Điều đó thể hiện rõ ở việc các tác giả dân tộc thiểu số đã mở rộng
đề tài và nội dung phản ánh để mang lại cho bộ phận văn học này “một sức hấp dẫn
riêng, vừa độc đáo trong nội dung phản ánh, vừa đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện”
[46, tr .14]. Một trong những phạm vi được nhiều tác giả dân tộc thiểu số quan tâm chú
ý chính là mảng văn học viết cho thiếu nhi và đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Những
thành tựu rực rỡ của nền văn học thiếu nhi Việt Nam phải kể đến mảng thơ viết cho
thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiếu số. Chúng ta có thể kể đến một số tên tuổi như:
Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Lò Ngân Sủn, Inrasara, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông
Thị Ngọc Hòa…Các tác giả này đã dành một phần không nhỏ sự nghiệp sáng tác, thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1
gian của mình để viết cho thiếu nhi. Đồng thời qua những trang thơ đó, họ đã phần nào
khẳng định được vị trí, tên tuổi của mình trong nền văn học các dân tộc thiểu số nói
riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Lựa chọn đề tài “Thơ viết cho
thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu”, chúng tôi hy vọng sẽ chỉ ra
được những nét đặc sắc trong cách nhìn, cách cảm nhận, cách thể hiện rất riêng của các
nhà thơ dân tộc thiểu số khi viết cho thiếu nhi, đồng thời thấy được sự đóng góp to lớn
của họ đối với nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam hiện đại.
1.3. Trong các giáo trình giảng dạy về văn học thiếu nhi, văn học trẻ em ở các
trường đại học, cao đẳng có đào tạo giáo viên tiểu học hay giáo viên mầm non thì vấn
đề văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa được quan tâm, chưa có chỗ đứng. Xuất phát
từ thực tế đó, chúng tôi hy vọng sau khi luận văn “Thơ viết cho thiếu nhi của một số
tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu” hoàn thiện bước đầu sẽ giới thiệu diện mạo của văn
học thiếu nhi dân tộc thiểu số để từ đó có những nhìn nhận khách quan về mảng văn
học đầy sinh động, hấp dẫn này. Đồng thời chúng tôi cũng mong rằng, luận văn có thể
trở thành một tư liệu tham khảo hữu ích của sinh viên chuyên ngành Ngữ văn khi tìm
hiểu về mảng văn học dân tộc thiểu số cũng như văn học thiếu nhi Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận quan trọng của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Bộ phận văn học này đang có những bước tiến đáng kể để khẳng
định vị trí, vai trò của mình trong suối nguồn văn học dân tộc. Các tác giả dân tộc thiểu
số bằng tài năng và tâm huyết của mình đã đưa nền văn học dân tộc trở về với quỹ đạo
vốn có của nó trong đời sống văn học, góp phần quan trọng vào mục tiêu cao cả của
Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong các công trình nghiên cứu chung về thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại trên đáng chú ý là hai công trình: Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca các
DTTS Việt Nam hiện đại (PGS.TS Trần Thị Việt Trung chủ biên) và Văn học dân
tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS Trần Thị Việt
Trung - TS Cao Thị Hảo). Hai công trình nghiên cứu trên đã dựng lên tương đối hoàn
chỉnh diện mạo của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại qua các giai đoạn phát
triển cùng với những thành tựu và hạn chế nhất định. Đồng thời, các tác giả cũng đã
đưa ra cái nhìn tổng thể, khái quát về những đặc điểm cơ bản của nền văn học dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2
thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung trong đó có mảng thơ dân tộc. Riêng ở mảng
thơ, người viết đã có cái nhìn khái quát và sự phân tích kỹ lưỡng về những nội dung
chính được các tác giả dân tộc thiểu số đề cập đến trong thơ. Trong đó, nổi bật lên là
hai đề tài chính: đề tài thiên nhiên và đề tài con người miền núi. “Thơ của các tác giả
dân tộc miền núi luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, con người miền núi” [46, tr.
173]. Còn ở đề tài thiếu nhi, do diện khảo sát tương đối rộng nên hai công trình trên
mới chỉ nhắc đến một số tác giả có thơ viết cho thiếu nhi như Lò Ngân Sủn, Dương
Thuấn, Dương Khâu Luông mà chưa đi sâu, nghiên cứu cụ thể về vấn đề này….Như
vậy, có thể thấy rằng đề tài thiếu nhi miền núi trong thơ dân tộc thiểu số vẫn chưa
nhận được sự quan tâm, chú ý thích đáng của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng vẫn ở góc độ hạn
chế, chủ yếu chỉ tập chung nhiều ở sáng tác của hai nhà thơ dân tộc Tày Dương
Thuấn và Dương Khâu Luông mà chưa có cái nhìn hệ thống, khái quát về đề tài này.
Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình văn học trẻ em đã có nhận xét khái quát về văn
học thiếu nhi miền núi “ngày càng phát triển và ghi nhiều thành tựu với các tác phẩm
tiêu biểu” [18, tr 18]. Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh đóng góp quan trọng, nổi bật của
nhà thơ Tày Dương Thuấn đối với mảng thơ thiếu nhi: “Dương Thuấn với hàng loạt
bài thơ viết về con người và mảnh đất vùng cao đã làm cho người đọc càng hiểu và yêu
mến hơn sự hồn nhiên mộc mạc và đời sống tâm hồn chất phác mà biết bao nghĩa tình
gắn bó với cách mạng của đồng bào, nhất là của các em dân tộc thiểu số phía Bắc.
Năm 2010, Tuyển tập thơ Dương Thuấn viết cho thiếu nhi được xuất bản song ngữ
(tiếng Kinh và tiếng Tày) đã làm phong phú cho mảng văn học viết về đề tài miền núi
của văn học thiếu nhi Việt Nam” [18, tr 18]. Khẳng định, đề cao vai trò của thơ thiếu
nhi Dương Thuấn đối với nền văn học thiếu nhi Việt Nam, trong bài viết Cảm nhận về
văn học thiếu nhi thế kỷ XXI, tác giả cũng đưa ra nhận xét tinh tế về nội dung cũng
như cảm hứng thơ thiếu nhi của Dương Thuấn: “đó là một thế giới trẻ thơ cùng thiên
nhiên vùng cao hết sức sống động. Đó là cỏ cây hoa trái muôn sắc màu, là tiếng suối
reo, là hòn sỏi thần kì, là tiếng hò săn bắn, là một làn khói sớm với mùi thịt nướng, là
những phong tục tập quán huyền thoại làm mê đắm lòng người…Cảm hứng bao trùm
trong những vần thơ anh viết cho trẻ con là tình yêu tha thiết với bản Hon, với núi rừng
Bắc Kạn. Dương Thuấn đã làm sống dậy cả một nền văn hóa Tày” [43].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3
Trong “Lời giới thiệu Tuyển tập thơ thiếu nhi” (2010) của Dương Thuấn, nhà
nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn đã đưa ra nhận xét, khái quát chung về thế
giới nghệ thuật trong thơ thiếu nhi của Dương Thuấn. Tác giả gọi đó là một “khu
vườn thiếu nhi” mà ở đó nhà thơ “đã mở mang, đã khai phá bao nhiêu năm, nâng niu
từng tấc đất, tỉ mẩn với từng lối đi, từng con suối, từng mỏm đá, từng góc núi, gieo
trồng ở đây đủ những loại cây cỏ của quê hương, chăm nuôi đủ những loại chim thú
của đồng rừng mình, dựng lên đủ những khu vui chơi, lễ hội của dân tộc mình…Vào
đây các cháu có thể ngắm bao nhiêu là hoa, nếm bao nhiêu là quả, nghe thổi khèn,
nghe hát ru, nghe cổ tích, rồi chơi ném còn, ném thia lia, đánh quay, đánh yến, chơi
bập bênh, chơi đu, cưỡi ngựa, bắn nỏ, đi săn trong núi, bơi thuyền trên sông Năng, đi
câu cá và ngắm cảnh hồ Ba Bể…”[33].
Tác giả Vân Thanh - một nhà nghiên cứu luôn tâm huyết, trăn trở với vấn đề
văn học thiếu nhi cũng đưa ra nhận định về thơ thiếu nhi Việt Nam. Mặc dù không đề
cập cụ thể đến thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc song tác giả cũng chỉ ra thành
công đạt được của thơ thiếu nhi nói chung có sự góp sức của các nhà thơ thiếu nhi
dân tộc như Dương Thuấn: “Từ những năm 90 trở lại đây thơ viết cho các em thật sôi
nổi. Trong đó nổi lên những tác giả sớm có phong cách riêng như Nguyễn Hoàng
Sơn với Dắt mùa thu vào phố, Bờ ve ran của Mai Văn Hai, Cưỡi ngựa đi săn của
Dương Thuấn…Các nhà thơ trên đã làm sống hẳn vùng thơ cho các em”[43, tr 214].
Vấn đề thơ thiếu nhi của nhà thơ Dương Thuấn cũng được đề cập khá kĩ trong
khóa luận tốt nghiệp Thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn của Mai Việt Hồng.
Trong khóa luận này, thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn được khảo sát qua các
khía cạnh: thế giới thiên nhiên miền núi, thế giới tuổi thơ miền núi, những bài học
đầu tiên về cuộc sống trong thơ. Trong đó, tác giả khóa luận đã đặc biệt đi sâu tìm
hiểu thiên nhiên trong thơ Dương Thuấn dưới con mắt trẻ thơ, “thiên nhiên miền núi
trong thơ Dương Thuấn thật đẹp và thơ mộng, luôn gắn bó hài hoà với cuộc sống con
người”[3, tr.68]. Từ sự khẳng định đó, Mai Việt Hồng đã khám phá thiên nhiên trong
thơ thiếu nhi của Dương Thuấn trên ba phương diện chính: Bức tranh bốn mùa, Thế
giới cây quả, hoa lá và Thế giới loài vật. Bên cạnh đó, thế giới tuổi thơ miền núi
trong thơ Dương Thuấn với “cuộc sống lao động, học tập khó khăn, vất vả” cùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4
“không khí sinh hoạt, phong tục, tập quán vui tươi, lành mạnh của người dân tộc
thiểu số” [3, tr 39] cũng được người viết đề cập đến. Về phương diện nghệ thuật,
người viết đã đi sâu vào nghệ thuật thơ thiếu nhi Dương Thuấn trên các vấn đề ngôn
ngữ thơ, hình ảnh thơ và giọng điệu nghệ thuật. Có thể nói công trình nghiên cứu này
đã mang lại một cái nhìn toàn diện, khái quát về toàn bộ thơ thiếu nhi của Dương
Thuấn trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Trong luận văn thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Dương Thuấn”, tác giả
Phùng Trọng Vĩnh đã đi sâu tìm hiểu không gian nghệ thuật - “khu vườn thiếu nhi”
trong thơ Dương Thuấn. Khu vườn thiếu nhi ấy “được Dương Thuấn dày công xây
đắp, tỉ mẩn tạo dựng từ những chất liệu gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng
ngày của người Tày ở vùng núi Bắc Kạn” [49, tr13]. Và cùng với không gian đó,
người viết cũng khám phá thế giới nhân vật trong thơ Dương Thuấn. Đó “chủ yếu là
những con vật quen thuộc, gần gũi với tâm hồn trẻ thơ miền núi…là sự xuất hiện của
những sự vật, hiện tượng và những vật dụng quen thuộc trong gia đình. Tất cả tạo
thành một thế giới sống động dành riêng cho trẻ thơ” [49, tr 14]. Bên cạnh đó, nhân
vật trữ tình trong thơ Dương Thuấn gắn với hình ảnh “chú bé bản Hon hóm hỉnh, có
tâm hồn trong sáng, tinh khôi” [49, tr 56] cũng được tác giả đi sâu tìm hiểu. Có thể
nói luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng quan, khái quát nhất về toàn bộ thế giới nghệ
thuật thơ trong đó có thơ thiếu nhi của Dương Thuấn.
Cùng với thơ thiếu nhi của Dương Thuấn thì thơ thiếu nhi của Dương Khâu
Luông cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Tác giả Nguyễn Đức Thiện trong bài viết “Hồn nhiên như cây lá” đã đưa ra cảm nhận
của mình khi đọc tập thơ thiếu nhi song ngữ Co Nghịu Hưa Cần (Cây gạo giúp
người) của Dương Khâu Luông. Trong đó tác giả nhấn mạnh đặc điểm “hồn nhiên,
chân chất” của tập thơ. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra con đường đi vào tâm hồn trẻ thơ
của Dương Khâu Luông: “Dương Khâu Luông mượn khá nhiều những con vật, những
rừng cây và cảnh sắc thiên nhiên để nói những điều muốn nói với trẻ em” [44].
Tác giả Đỗ Thị Thu Huyền trong bài viết “Dương Khâu Luông: Người hát
trên đất mẹ” cũng đưa ra nhận xét về thơ thiếu nhi của Dương Khâu Luông: “Dương
Khâu Luông đã thể hiện được chất hóm hỉnh, dễ thương trong từng lời thơ, câu chữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5
Để tâm tình, chia sẻ với các em thiếu nhi, Dương Khâu Luông viết bằng những hình
ảnh giản dị mà độc đáo. Đọc bất cứ bài thơ viết cho thiếu nhi nào của anh, ta cũng
thấy thú vị, bất ngờ vì một điều gì đó rất trong sáng, đáng yêu, tươi vui, ngộ nghĩnh.
Cách diễn tả của anh dễ hiểu, sinh động, hồn nhiên đến không ngờ”[8]. Qua nhận xét
đó, người viết đã khái quát những đặc điểm chung nhất trong sáng tác thơ cho thiếu
nhi của nhà thơ Dương Khâu Luông. Đó là giọng điệu hóm hỉnh, hồn nhiên, trong
sáng, tươi vui đi cùng với những hình ảnh giản dị mà độc đáo, gần gũi - những yếu tố
cơ bản làm nên những nét đặc trưng riêng của thơ thiếu nhi.
Khi nghiên cứu về Thơ Dương Khâu Luông, Lý Thị Vương cũng phát hiện ra
nhân vật trữ tình trong thơ Dương Khâu Luông thường là “em nhỏ miền núi chăm
học, chăm làm và rất giàu tình cảm; yêu quê hương, bản làng; yêu cây rừng và các
con vật gần gũi như: mèo, vịt, ong, bò...” [50, tr.19].
Bên cạnh đó, còn một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác cũng có thơ viết về
thiếu nhi song các sáng tác của họ chưa được chú ý nhiều mà chỉ được đưa vào các
tuyển thơ thiếu nhi như trường hợp thơ của nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa, Bùi Thị
Tuyết Mai. Một số nhà thơ khác như Inrasara, Lò Ngân Sủn, Triệu Kim Văn… đã có
những tập thơ thể hiện sự tâm huyết với trẻ thơ dân tộc song những tác phẩm này
cũng chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của bạn đọc cũng như các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học.
Từ những khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy nghiên cứu về thơ viết cho thiếu
nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số không phải là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ
song đây vẫn lĩnh vực còn khá nhiều khoảng trống cần phải quan tâm. Các công trình
nghiên cứu khi tìm hiểu vấn đề này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sáng tác của
một số nhà thơ dân tộc thiểu số quen thuộc viết cho thiếu nhi. Vẫn còn thiếu cái nhìn
hệ thống, khái quát về mảng đề tài thiếu nhi trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại. Tiếp thu những thành quả đã đạt được của những công trình nghiên cứu
về thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số, thực hiện đề tài “Thơ viết cho thiếu nhi của một số
tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu”, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhỏ bé công sức
của mình vào việc xóa đi khoảng trống trong nghiên cứu về thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số, góp phần đưa ra một cái nhìn mới toàn vẹn, toàn diện hơn về thơ thiếu nhi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6
dân tộc thiểu số nói riêng cũng như thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không tham vọng
khảo sát được tất cả các sáng tác thơ thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số mà sẽ
tập trung chủ yếu nghiên cứu các sáng tác của ba nhà thơ tiêu biểu thuộc ba dân tộc,
ba khu vực khác nhau đã có nhiều đóng góp và thành công ở mảng đề tài thiếu nhi
cũng như nhận được sự yêu mến của đông đảo bạn đọc là Dương Thuấn, Lò Ngân
Sủn và Inrasara.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thơ viết cho thiếu nhi của một số tác
giả dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại tiêu biểu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát thơ viết cho thiếu nhi của một số nhà thơ dân tộc thiểu số
nhưng trong đó đi sâu vào thơ viết cho thiếu nhi của ba cây bút thiểu số tiêu biểu:
Dương Thuấn, Inrasara và Lò Ngân Sủn. Cụ thể là:
Tác giả Dương Thuấn với Tuyển tập Dương Thuấn (tập 3, 2010), Nxb Hội
nhà văn.
Tác giả Inrasara với tập thơ Thơ cho tuổi thơ (2003), Nxb Kim Đồng.
Tác giả Lò Ngân Sủn với hai tập thơ: Cái bật lửa trời (1995), Suối Pí Lè
(1996), Nxb Kim Đồng.
Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý đến những sáng tác thơ viết cho thiếu nhi của các
tác giả khác để so sánh đối chiếu khi cần thiết nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu, làm rõ khái niệm thơ thiếu nhi và những đặc trưng
cơ bản của thơ thiếu nhi trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua việc tìm hiểu
những thành tựu về đội ngũ tác giả và tác phẩm cũng như việc so sánh, đối chiếu
những nét chung và nét riêng của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy
chung của thơ thiếu nhi Việt Nam, luận văn sẽ có cái nhìn toàn diện và khái quát về
diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những nét độc đáo, đặc sắc của thơ thiếu
nhi dân tộc thiểu số trên các phương diện nội dung như: Khung cảnh thiên nhiên miền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7
núi, cuộc sống của thiếu nhi miền núi cùng những ước mơ, trăn trở, hoài bão, khát
vọng qua sự khúc xạ của chính tâm hồn trẻ thơ. Qua đó thấy được những nét phẩm
chất đáng yêu, đáng quý của trẻ thơ miền núi đồng thời khẳng định sự đóng góp mới
mẻ của các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nội dung.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khẳng định những
nét độc đáo, đặc sắc của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nghệ thuật
qua một số yếu tố như: ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ và kết cấu thơ.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong một
cái nhìn hệ thống, khái quát để ghi nhận những đóng góp cũng như khẳng định vị trí của
các nhà thơ dân tộc thiểu số trong dòng chảy văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung.
Ở nước ta hiện nay, những công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi chưa
nhiều, các công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số trong đó có thơ
thiếu nhi dân tộc thiểu số lại càng hạn chế. Có thể coi đây là một “vùng đất”, một
“lãnh địa” còn nhiều khoảng trống cần được khám phá. Vì vậy, luận văn hoàn thành
sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng bổ khuyết thêm cho những nghiên cứu về thơ
thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng cũng như văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói
chung, góp phần đem lại cái nhìn toàn diện hơn về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
cũng như nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
Luận văn khi hoàn thiện cũng góp một tiếng nói ghi nhận những thành tựu
đáng khẳng định của các cây bút dân tộc thiểu số đối với mảng đề tài thiếu nhi, là
nguồn động lực, cổ vũ để các nhà thơ dân tộc thiểu số tích cực, hăng hái hơn nữa với
nguồn cảm hứng về thiếu nhi của mình. Bởi không ai khác mà chính họ với cái nhìn
từ “bên trong” cùng với sự trải nghiệm từ tuổi thơ của chính bản thân mình mới có
thể phản ánh được chân thực nhất, sinh động nhất cuộc sống, tâm hồn, tình cảm cũng
như ước mơ, hoài bão của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Hơn nữa, luận văn cũng đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8
một tiếng nói cấp thiết về việc cần có sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước, của
những người làm văn hóa cũng như toàn xã hội thông qua những chính sách, chủ
trương phù hợp về vấn đề văn học dân tộc thiểu số để khẳng định đúng giá trị của bộ
phận văn học này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm các chương sau:
Chương 1: Khái quát về thơ thiếu nhi và thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại
Chương 2: Thơ viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Thơ viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại nhìn từ phương diện nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THƠ THIẾU NHI VÀ THƠ THIẾU NHI
DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
1.1. Khái quát về thơ thiếu nhi Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Từ xưa tới nay dân tộc ta được coi là một dân tộc coi trọng văn hóa, yêu mến
thơ ca. Thơ ca đã trở thành một món ăn tinh thần, một dòng sữa ngọt ngào nuôi
dưỡng tâm hồn bao thế hệ người Việt. Trong bộn bề cuộc sống hiện đại với những vất
vả, lo toan, bận rộn thì một lúc nào đó bất chợt trong tâm khảm mỗi người vẫn vọng
về những vần thơ tự thủa ấu thơ như những mạch nước ngầm không bao giờ vơi cạn:
Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghe vọng sông xa
Êm êm nghe tiếng của bà năm xưa
Nghe trăng thở động tàu dừa
Ào ào nghe chuyển cơn mưa giữa trời
Thêm yêu tiếng hát nụ cười
Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn.
(Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)
Thơ ca có vai trò to lớn đối với cuộc sống con người hay nói như R.Gamzatop:
“Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc tạo dựng thế giới này thì thế giới
không trở nên tươi đẹp như thế này…Thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính
nó”. Thơ ca là người dẫn đường, là sứ giả đưa chúng ta đến xứ sở cái đẹp để từ đó
chúng ta có thể tự ý thức, nhận ra chính mình, chính xã hội mà mình đang sống. Và
đặc biệt phải kể đến tầm quan trọng của mảng thơ thiếu nhi đối với cuộc sống con
người. Đây được coi như vườn ươm tâm hồn cho lứa tuổi thơ, giúp các em phát triển
và hoàn thiện nhân cách của mình. Vậy thơ thiếu nhi là gì? Để làm rõ được khái niệm
này trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu về văn học thiếu nhi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, văn học thiếu nhi được hiểu như sau:
“Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa
học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao
gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi
vào phạm vi đọc của thiếu nhi, như Đôn Ki - hô - tê của M. Xéc - van - tex, Rô - bin -
xơn Cơ - ru - xô của Đ. Đi - phô, Gu - li - vơ du kí của Gi. Xuýt - tơ, Túp lều bác Tôm
của H. Bi - sơ - Xtâu” [4, tr. 412]. Như vậy ở đây, khái niệm văn học thiếu nhi được
các tác giả gắn liền với đối tượng tiếp nhận là độc giả thiếu nhi. Đó có thể là những tác
phẩm được viết ra với mục đích “dành riêng cho thiếu nhi” hoặc chỉ là những “tác
phẩm văn học thông thường” song lại phù hợp và đi vào phạm vi đọc của trẻ thơ.
Đồng thuận với quan niệm trên, Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình văn học trẻ
em đã dùng định nghĩa văn học thiếu nhi của Từ điển thuật ngữ văn học (NXB giáo
dục 1992) để chỉ khái niệm văn học trẻ em. Điều khác biệt là ở đây tác giả đã thay thế
cụm từ văn học thiếu nhi thành cụm từ đồng nghĩa thuần Việt văn học trẻ em để nhấn
mạnh về đối tượng, phạm vi tiếp nhận là lứa tuổi trẻ thơ.
Tác giả Hà Xuân Trường trong bài phát biểu Bàn về vai trò văn học thiếu nhi
cũng đưa ra cách hiểu của mình về văn học thiếu nhi: “Nếu hiểu một cách đầy đủ,
theo tôi nghĩ, văn học thiếu nhi gồm ba bộ phận: văn học về thiếu nhi, văn học cho
thiếu nhi và văn học của thiếu nhi; hai bộ phận sau có những đặc điểm riêng biệt, mà
văn học cho thiếu nhi là bao trùm” [43]. Có thể nhận thấy trong cách hiểu của mình
tác giả đã có sự phân chia rõ ràng các bộ phận hợp thành của văn học thiếu nhi. Văn
học thiếu nhi là một khái niệm rộng trong đó bao gồm các sáng tác về thiếu nhi, cho
thiếu nhi và của thiếu nhi. Tác giả cũng nhấn mạnh bộ phận “văn học cho thiếu nhi”
là bao trùm, đóng vai trò chủ đạo cho nền văn học thiếu nhi.
Như vậy, qua các định nghĩa trên, hiểu một cách chung nhất văn học thiếu nhi
là những sáng tác viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi hoặc là những sáng tác của
chính các em thiếu nhi viết về lứa tuổi mình. Và để đi vào đời sống đọc của trẻ thơ,
những tác phẩm viết cho thiếu nhi nhất thiết phải có nội dung phong phú, hấp dẫn
xoay quanh các vấn đề đời sống, học tập, sinh hoạt, tình cảm của các em, phù hợp với
nhận thức tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của trẻ thơ. Có như vậy, văn học thiếu nhi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11
mới thực sự thực hiện được chức năng “xây dựng con người mới” [43 ,tr. 481] toàn
đức, toàn tài ngay từ lứa tuổi măng non theo như sự ủy thác của Đại hội Đảng lần thứ
IV “phải xây dựng con người mới từ lúc lọt lòng…” và chỉ thị số 18CP của Hội đồng
Chính Phủ: “Văn hóa nghệ thuật giữ một vai trò trọng yếu, là một trong những vũ khí
sắc bén nhất để giáo dục chính trị, tư tưởng, tình cảm, nâng cao đạo đức, mở rộng
kiến thức cho thiếu niên nhi đồng” [43].
Thơ thiếu nhi là một bộ phận quan trọng của nền văn học thiếu nhi Việt Nam.
Với cách hiểu như trên về văn học thiếu nhi thì thơ thiếu nhi cũng có thể được hiểu là
thơ viết cho thiếu nhi, thơ viết về thiếu nhi hay thơ do thiếu nhi viết trong đó thơ viết
cho thiếu nhi đóng vai trò chủ đạo và mang các đặc điểm chung nhất của thơ thiếu
nhi Việt Nam. Với vai trò và sự tác động to lớn của thơ thiếu nhi đối với đời sống tâm
hồn, tình cảm của trẻ thơ, đã có rất nhiều những bài viết cũng như các cuộc hội thảo
thu hút các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề thơ thiếu nhi. Chúng ta có thể điểm
qua một số quan niệm, cách hiểu về thơ thiếu nhi của một số tác giả như sau:
Trong bài tham luận tại Hội thảo văn học thiếu nhi nhìn từ miền Đông Nam
Bộ ngày 10.5.2012 ở Đồng Nai, tác giả Phạm Quốc Ca đã đưa ra quan niệm của mình
về thơ thiếu nhi, đó là những tác phẩm “khơi gợi khả năng cảm nhận cuộc sống bằng
mỹ cảm, đem đến cho các em cái hay, cái đẹp giàu nhân tính”[1]. Trong quan niệm
này, tác giả đã nhấn mạnh vai trò, khả năng tác động đặc biệt của thơ thiếu nhi với
lứa tuổi thơ. Đồng thời tác giả cũng khẳng định đây không đơn thuần là vai trò mà
còn là yêu cầu bắt buộc cần đạt được đối với thơ thiếu nhi.
Quan tâm đến cách viết thơ cho thiếu nhi, tác giả Trần Quang Sáng trong bài
viết Đà Nẵng và thơ viết cho thiếu nhi cũng đưa ra ý kiến, cách hiểu của mình về thơ
thiếu nhi “Thơ thiếu nhi tựa như những câu chuyện cực ngắn, gần gũi, song phải
mang nhiều nhạc tính, mang phong vị cổ tích và đồng thoại, lung linh hình ảnh sắc
màu không gian thiên nhiên”[32]. Trong nhận xét đó tác giả đã đưa ra những đặc
điểm nổi bật của thơ thiếu nhi đồng thời đây cũng là một gợi ý quý báu cho những
cây bút trẻ đang say mê, thử sức với mảng đề tài này.
Đồng hướng tiếp cận thơ thiếu nhi của Trần Quang Sáng, tác giả Quang Huy
cũng đưa ra cảm nhận của mình về thế giới nghệ thuật thơ thiếu nhi gắn liền với tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12
chất vui tươi, hồn nhiên, trong sáng: “Thơ cho thiếu nhi bao giờ cũng vui tươi, ngộ
nghĩnh. Các em không phải những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô
khan, nghiêm nghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là một bài giáo huấn sống sượng
và lột bỏ mọi sự hồn nhiên, say đắm, dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ” [23].
Trong bài viết Vài suy nghĩ về việc sáng tác văn học cho thiếu nhi, tác giả
Huyền Minh cũng đưa ra cách hiểu của mình về thơ thiếu nhi. Trong cách hiểu đó, thơ
thiếu nhi là thơ của sự “dung dị, chân chất, hồn nhiên, thật thà một cách tự nhiên” [19].
Tóm lại, mặc dù có nhiều khái niệm, nhiều cách hiểu về thơ thiếu nhi song
điểm chung nhất là các tác giả đã gắn liền thơ thiếu nhi với đối tượng tiếp nhận - đối
tượng trẻ em để từ đó có thể nêu ra một cách khái quát nhất, chính xác nhất về bản
chất của thơ thiếu nhi. Đó là sự trong sáng, giản dị, gần gũi, vui tươi, ngộ nghĩnh về
nội dung và hấp dẫn, lôi cuốn về nghệ thuật thể hiện. Bên cạnh đó, thơ thiếu nhi cũng
gắn liền với chức năng giáo dục - chức năng quan trọng nhất, làm nên chiều sâu cho
mảng thơ ca này.
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của thơ thiếu nhi
1.1.2.1. Thơ thiếu nhi phản ánh hiện thực qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ
Do khác nhau về vốn sống, sự trải nghiệm và khả năng tư duy nên trẻ em và
người lớn có cả một khoảng cách về sự nhận thức đời sống. Bởi vậy khác với bộ phận
thơ ca dành cho người lớn, thơ thiếu nhi muốn đi vào đời sống tâm hồn của các em,
các nhà thơ phải hóa thân, nhập vai thành những “nghệ sĩ tí hon”, nhìn cuộc sống
bằng cặp mắt trẻ thơ để có thể đồng điệu với tâm hồn, chạm tới trái tim của các em.
Đó có thể là một nội dung, một đề tài, chủ đề không mới, không xa lạ nhưng cách
phản ánh phải mang đậm dấu ấn trẻ thơ như Võ Quảng - một cây bút tâm huyết với
lứa tuổi măng non đã từng chia sẻ kinh nghiệm viết cho thiếu nhi của mình: “Nội
dung của văn học thiếu nhi cũng là các vấn đề về chủ đề, đề tài, về phương pháp thể
hiện, cũng là các vấn đề thể loại, về phong cách, về ngôn ngữ… Nhưng ở đây, tất cả
những cái đó phải được thể hiện thế nào cho phù hợp với “đôi mắt” và “con tim”
của mỗi lứa tuổi” [43].
Thơ thiếu nhi phản ánh hiện thực qua con mắt và tâm hồn trẻ thơ. Các nhà thơ
thiếu nhi khi sáng tác phải quên bản thân mình đi để “sống lại” tuổi thơ của các em và
hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ. Qua những trang thơ đó, người đọc nhận ra ánh mắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13
đầy trong trẻo của trẻ thơ khi nhìn nhận, khám phá cuộc sống muôn màu thú vị xung
quanh mình, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng hay đầy hấp dẫn dù chỉ là một cái bắp cải
nhỏ trong thơ Phạm Hổ:
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vòng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa
(Bắp cải xanh - Phạm Hổ)
Chỉ có thể là ánh mắt trẻ thơ mới có thể nhìn thấy mọi vật trong sự tinh khôi,
trong sáng, đáng yêu như vậy. Từ hình ảnh cái bắp cải - một loại rau giản dị hàng
ngày ai cũng từng nhìn thấy song với cách nói, cách miêu tả từ hình dáng, màu sắc
đến việc thể hiện cảm xúc hồn nhiên như vậy thì chỉ có lăng kính của trẻ thơ mới phát
hiện ra. Và có thể nói, nhà thơ Phạm Hổ đã rất thành công khi nói lên tiếng nói của
lứa tuổi thơ. Và cũng chính nhờ sự hóa thân đầy tài tình này mà thơ thiếu nhi Phạm
Hổ đã, đang và sẽ mãi là những hành trang tuổi thơ của thiếu nhi Việt Nam.
Cũng với việc nhìn cuộc sống bằng cặp mắt hồn nhiên, trong sáng, qua lăng
kính trẻ thơ, thơ thiếu nhi Việt Nam còn in đậm dấu ấn tư duy của lứa tuổi thơ. Đó là
sự lý giải, nhìn nhận các sự vật, hiện tượng của đời sống diễn ra xung quanh các em.
Đó không phải là sự lý giải của khoa học, của trải nghiệm thực tế, thậm chí là phi lý đối
với thế giới người lớn song lại rất logic trong trường liên tưởng, tư duy của các em. Nữ
sĩ Xuân Quỳnh bên cạnh là một nhà thơ tình tài ba còn là một trong những nhà thơ
thiếu nhi xuất sắc của nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam. Với phương châm viết cho thiếu
nhi của mình: “Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông với các em chứ
không phải là sự áp đặt. Đừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình. Nếu muốn
giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận xét đánh giá mọi việc.
Cách giải quyết bắt đầu từ đấy” [23], Xuân Quỳnh đã đem đến cho thiếu nhi Việt Nam
những trang thơ hay hấp dẫn, đầy mới lạ về cách tư duy, cách suy nghĩ của trẻ thơ.
Chúng ta hãy lấy bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” của nhà thơ làm ví dụ. Bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14
tư duy của trẻ thơ, Xuân Quỳnh đã viết nên một câu chuyện cổ tích bằng thơ với sự lý
giải về nguồn gốc cũng như sự ra đời của thế giới loài người và vạn vật. Trong sự lý
giải đó: Trời sinh ra trước nhất / Chỉ toàn là trẻ con. Trẻ con là chủ nhân đầu tiên của
trái đất và bắt nguồn từ nhu cầu của trẻ con là cần được “bế bồng chăm sóc”, được
nghe hát ru, nghe kể chuyện, được nhìn thấy vạn vật xung quanh mình…nên mới dẫn
đến sự xuất hiện của mẹ, của bà, của mặt trời và muôn thú. Sự phi lý trong thế giới
người lớn nhưng lại rất đỗi hợp lý trong thế giới trẻ con bởi trẻ con luôn có suy nghĩ
mặc định mình là người quan trọng nhất, trung tâm nhất trong gia đình cũng như trong
xã hội. Sống hết mình với trẻ thơ, am hiểu trẻ thơ, Xuân Quỳnh đã làm nên sức hấp
dẫn, sức hút rất riêng cho những trang thơ thiếu nhi của mình.
Và cùng với việc nhìn nhận khám phá thế giới khách quan qua ánh mắt, tâm
hồn trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi đã thể hiện được một cách chân thực nhất những
tình cảm, cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, đáng yêu của trẻ thơ như những gì vốn có
của nó. Đó có thể là tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình, tình cảm anh em ruột thịt,
tình cảm mẹ con giản dị mà thiêng liêng, sâu sắc, ấm áp thông qua cách diễn đạt “rất
trẻ thơ”. Ví dụ như bài thơ “U ốm” của Phạm Hổ đã để lại ngậm ngùi cho người đọc
về những cảm xúc trong sáng, đáng yêu của trẻ thơ dành cho người mẹ của mình:U
ốm nằm nhà/ Không ra đồng được/ U đắp kín chăn/ Mặt quay vào vách/ Em vẫn đi
học/ Đường xa càng xa/ Người em ở lớp/ Bụng em ở nhà…
Nhìn và cảm nhận cuộc sống bằng cặp mắt và tâm hồn trẻ thơ là vậy đó, không
đao to búa lớn, không diễn đạt cầu kì, kiểu cách, các nhà thơ thiếu nhi đã thể hiện tình
cảm, cảm xúc của trẻ thơ một cách giản dị nhất nhưng cũng không kém phần sâu sắc,
sinh động.
Bằng việc phản ánh cuộc sống qua con mắt và tâm hồn thiếu nhi nên một trong
những đề tài được các nhà thơ thiếu nhi đặc biệt yêu thích đó là đề tài thiên nhiên.
Bản thân nhà thơ Phạm Hổ trong hội thảo Bàn về sáng tác thơ cho thiếu nhi tại Hà
Nội năm 1982 đã từng khẳng định: “thơ cho nhi đồng nhất thiết phải có hình tượng
thiên nhiên. Thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp, bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy
cho ta yêu cái đẹp, bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống
phong phú về vật chất và tinh thần” [43]. Bởi vậy trong những trang thơ thiếu nhi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15
hình ảnh thiên nhiên gắn với những biểu hiện cụ thể như thế giới cỏ cây và thế giới
loài vật được các nhà thơ thể hiện hết sức sinh động, hấp dẫn, phong phú, muôn màu,
muôn vẻ trong cái nhìn của trẻ thơ mang lại sự thích thú, mới lạ cho người đọc. Có
thể kể đến những cây bút thiếu nhi thành danh với mảng đề tài này như: Trần Đăng
Khoa, Phạm Hổ, Võ Quảng, Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Lò Ngân Sủn,
Inrasara…Qua những trang viết của họ, không chỉ trẻ thơ mà còn cả người lớn cũng
hết sức bất ngờ với thế giới thiên nhiên đầy mê hoặc, lôi cuốn dưới lăng kính trẻ thơ.
1.1.2.2. Thơ thiếu nhi thường ngắn gọn, hài hước và dí dỏm
Ngắn gọn, hài hước và dí dỏm là một trong những đặc trưng quan trọng nhất
về mặt nghệ thuật của thơ thiếu nhi. Nếu như thơ viết cho người lớn thường hướng
tới cái cao xa, trừu tượng. Sức nặng của thơ người lớn là nằm ở phần chìm, ẩn sâu
đằng sau lớp vỏ ngôn từ thì trái lại thơ viết cho thiếu nhi phải đảm bảo tính ngắn gọn,
súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm
mà còn thể hiện ở từng câu thơ. Điều này xuất phát từ đặc điểm tâm lý tiếp nhận của
trẻ thơ. Với những bài thơ ngắn gọn, súc tích sẽ khiến trẻ dễ tiếp cận, dễ thuộc, dễ
nhớ từ đó tác động sâu sắc, lâu bền đến đời sống tâm hồn, tình cảm của trẻ. Bài thơ
kết thúc cũng là lúc các em vỡ òa trong niềm vui, trong nhận thức khi khám phá ra
những tri thức, những bài học, những thông điệp giản dị mà sâu sắc được các nhà thơ
gửi gắm trong từng trang thơ. Nắm rõ điều này nên trong thơ thiếu nhi, các nhà thơ
thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ ngắn gọn rất gần gũi với đồng dao, với
những trò chơi, những bài vè vui nhộn gắn bó với lứa tuổi thơ như bài thơ Đi trốn đi
tìm của Xuân Quỳnh:
Nấp ở trước gương
Bạn nhìn thấy bóng
Nấp bên cánh cổng
Sợ cổng kêu ran
Nấp dưới gầm bàn
Gầm bàn trống quá
Nấp sau vòm lá
Sợ lá rung rinh...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16
Bài thơ ngắn gọn với thể thơ 4 chữ đã miêu tả lại một cách sinh động, dễ hiểu
trò chơi trốn tìm - một trò chơi dân gian gần gũi, gắn bó với tuổi thơ Việt Nam. Với
chất liệu thơ là một trò chơi dân gian quen thuộc kết hợp với ngôn ngữ thơ ngắn gọn,
dễ hiểu, bài thơ trở nên dễ thuộc với âm hưởng vui tươi, rộn rã đã mang lại sự thích
thú cho lứa tuổi thơ khi tiếp nhận.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính ngắn gọn, dễ hiểu, thơ thiếu nhi thường mang
hình thức là những câu chuyện bằng thơ in đậm dấu ấn tự sự. Có lẽ không gì dễ hiểu
hơn đối với lứa tuổi thơ bằng những câu chuyện kể bởi vậy yếu tố tự sự cũng được
các nhà thơ sử dụng triệt đề trong thơ thiếu nhi. Ghi nhận điều này Ths. Hoàng Thị
Lan trong giáo trình Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đối với sinh viên Cao
đẳng sư phạm mầm non đã viết: “Mỗi bài thơ viết cho thiếu nhi gần như một câu
chuyện hoặc chứa đầy yếu tố truyện. Điều đó khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm nhận
và dễ thuộc lòng những vần thơ” [13, tr 40]. Ví dụ ở bài thơ “Chú bò tìm bạn” của
nhà thơ Phạm Hổ:
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn”
Lại gặp anh ở đây
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười toét miệng
Qua những vần thơ, những ngôn ngữ hết sức đời thường, nhà thơ Phạm Hổ đã
kể cho các em nghe về một câu chuyện đầy thú vị, xúc động và tinh tế về việc chú bò
ngộ nghĩnh, dễ thương tưởng lầm bóng mình là một người bạn mới quen để rồi vất
vả, kiếm tìm hoài mà không thấy. Và chính những câu chuyện giản dị, mộc mạc đó
đã đi theo suốt hành trình tuổi thơ của các em.
Cùng với sự ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu thì sự hài hước và dí dỏm được thể
hiện thông qua giọng điệu thơ cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của thơ
thiếu nhi. Thơ thiếu nhi có rất nhiều giọng điệu song hài hước và dí dỏm là giọng
điệu thơ đóng vai trò chủ đạo không chỉ đối với thơ thiếu nhi mà còn đối với cả nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17
văn học thiếu nhi nói chung như tác giả Lã Thị Bắc Lý đã từng khẳng định trong
Giáo trình văn học trẻ em: “giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh mang tính đặc thù của
văn học thiếu nhi. Chất hóm hỉnh, nghịch gây cho người đọc những tiếng cười sảng
khoái được vận dụng như một phương tiện giúp các em tiếp cận tác phẩm một cách
vui vẻ, thoải mái” [18, tr.20]. Điều này rất phù hợp với đối tượng tiếp nhận là đối
tượng trẻ thơ. Trẻ thơ thường gắn với những tiếng cười, những trò chơi vui nhộn
thậm chí là những nghịch ngợm rất đáng yêu. Tất cả những điều đó đã tạo thành
“chất” riêng của trẻ thơ. Bởi vậy có thể nhận thấy rằng mỗi bài thơ viết cho thiếu nhi
đều ẩn chứa trong đó những tiếng cười hóm hỉnh mà tinh nghịch, hồn nhiên mà trong
sáng thông qua những chi tiết, hình ảnh thơ…Chúng ta có thể lấy bài thơ “Ngủ rồi”
của Phạm Hổ để xem xét về vấn đề này:
Gà mẹ hỏi gà con
Đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao
Ngủ cả rồi đấy ạ!
Tiếng cười, hài hước không chỉ bật ra qua sự nhân hóa đầy ngộ nghĩnh của nhà
thơ mà còn thông qua câu hỏi và lời đáp giữa gà mẹ và đàn gà con, nếu như đàn gà
con ngủ cả rồi thì làm sao mà nhao nhao trả lời mẹ được? Sự ngộ nghĩnh của bài thơ
cũng chính là sự ngộ nghĩnh, đáng yêu của lứa tuổi trẻ thơ. Và từ đó có thể khẳng
định không chỉ là một trong những đặc trưng cơ bản của thơ thiếu nhi mà giọng điệu
dí dỏm, hài hước còn là một thanh nam châm thu hút, hấp dẫn thiếu nhi với đầy sự
thích thú, bất ngờ khi khám phá mảng thơ đặc biệt thú vị này. Thơ thiếu nhi vì thế
thực sự đã trở thành những món quà quí giá của tuổi thơ, giúp các em giải trí, vui tươi
sau những giờ học tập căng thẳng hay giờ lao động vất vả giúp đỡ gia đình.
1.1.2.3. Thơ thiếu nhi thường gắn với những bài học lý thú cho trẻ em
Tính giáo dục là một trong những đặc trưng cơ bản nhất có tính chất sống còn
của thơ thiếu nhi nói riêng cũng như nền văn học thiếu nhi nói chung. Thơ thiếu nhi
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách
con người ngay từ lúc ấu thơ, là hành trang cho mỗi người trên suốt đường đời. Thơ
thiếu nhi không chỉ góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp
mà còn giúp trẻ thơ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới một lối sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18
giàu lòng nhân ái. Và cũng từ đó, thơ thiếu nhi Việt Nam hiện đại ngày càng khẳng
định được vị trí, vai trò trong sứ mệnh giáo dục thiếu nhi của mình xứng đáng là “con
đường” dẫn dắt thiếu nhi đến với “xứ sở của cái đẹp”.
Cùng với chức năng giáo dục của thơ thiếu nhi thì nhà thơ đồng thời cũng ở
trong tâm thế “kép”. Nhà thơ thiếu nhi không chỉ đơn thuần chỉ là nhà thơ mà còn là
một nhà giáo dục, một nhà sư phạm. Điều này cũng được nhà thơ Võ Quảng nhắc đến
trong bài viết Mấy suy nghĩ về đặc trưng và chức năng giáo dục của văn học thiếu
nhi: “Chức năng giáo dục là chức năng hàng đầu của văn học thiếu nhi. Đó là điều
khẳng định, không cần bàn cãi. Người viết cho thiếu nhi phải có hai tư cách, tư cách
người viết văn và tư cách người làm cha mẹ muốn cho con mình nên. Câu chuyện phải
rõ ràng, tư tưởng chủ đề phải trong sáng. Khi diễn tả tránh mọi hình tượng có thể đưa
lại những ý nghĩ không tốt cho các em. Quan điểm sư phạm và văn học thiếu nhi là hai
anh em sinh đôi. Văn học thiếu nhi không có lí do đứng được, nếu không phát huy được
chức năng giáo dục” [43, tr.302]. Nhà thơ thiếu nhi không đơn thuần chỉ là người viết
thơ, sáng tạo văn chương nghệ thuật mà còn là một nhà “nghệ sĩ tâm hồn".
Tuy nhiên, khác với những bài học giáo dục đạo đức, khô khan thường thấy
buộc các em phải làm cái này hay không được làm cái kia thì chức năng giáo dục của
thơ thiếu nhi lại mang tính chất linh hoạt thông qua những bài học, những câu chuyện
lí thú để từ đó các em tự giáo dục, tự nhận thức, tự hình thành nên thái độ, tình cảm,
cảm xúc của mình. Đó có thể là kiến thức phong phú về thế giới muôn màu mà các
nhà thơ muốn Kể cho bé nghe (Trần Đăng Khoa):
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện
Hay chăng dây điện
Là con nhện con...
Hay là sự lý giải, cắt nghĩa ngộ nghĩnh dễ thương của nhà thơ về nguồn gốc,
sự tích, đặc điểm của muôn loài để đáp ứng nhu cầu hiểu biết của trẻ thơ: Ban ngày
làm bằng nắng/ Màu xanh làm bằng cây/ Qủa ớt làm bằng cay/ Tiếng ồn sinh tàu
điện... (Căt nghĩa - Xuân Quỳnh).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19
Tuy nhiên, để thực hiện được tốt chức năng giáo dục, để mỗi bài thơ thiếu
nhi thực sự là một bài học lý thú, bổ ích đối với trẻ thơ thì thơ thiếu nhi cần phải
xây dựng được những hình tượng thơ hấp dẫn, giàu giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ thơ
trong sáng, giản dị, giàu nhạc điệu để có thể tạo nên những ấn tượng sâu sắc trong
tâm hồn trẻ thơ đồng thời tác động đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức ở lứa tuổi
măng non. Một bài thơ hay với những hình ảnh đẹp, thơ mộng về thiên nhiên giúp
các em hình thành nên những rung cảm đầu đời về tình yêu thiên nhiên, quê hương,
đất nước. Hay một bài thơ nhỏ xinh về loài vật giúp các em hình thành nên khả
năng quan sát về đặc điểm của từng loài, biết yêu mến, quý trọng các loài vật
nuôi…Từ đó hình thành nên trong các em tình yêu với những cái đẹp, cái thiện, biết
yêu thương, lắng nghe, chia sẻ, biết hướng thiện bênh vực cái tốt, phê phán, lên án
cái xấu xa. Tất cả điều đó tuy không phải ngày một ngày hai hình thành được nhưng
những bài thơ thiếu nhi như những nét chì phác họa ra trên tờ giấy trắng, len lỏi như
mạch nước ngầm không bao vơi cạn để góp phần bồi đắp, hoàn thiện nhân cách,
tâm hồn trong sáng, tốt đẹp của thiếu nhi.
1.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại
1.2.1. Diện mạo chung của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại
Cùng với nền văn học thiếu nhi Việt Nam, thơ thiếu nhi Việt Nam đã có cả
một quá trình hình thành, phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ đáng ghi
nhận. Đề tài thơ có sự mở rộng, phong phú trong hướng tiếp cận đời sống cũng như
khám phá con người. Nghệ thuật biểu hiện của thơ thiếu nhi ngày càng hấp dẫn và trở
thành một phương tiện hữu hiệu để các nhà thơ đi sâu vào đời sống, tâm hồn, tình
cảm của các em. Trong nền văn học thiếu nhi đã xuất hiện những nhà thơ xuất sắc,
những thi sĩ chuyên tâm viết về thiếu nhi như: Võ Quảng, Trần Đăng Khoa, Phạm
Hổ, Nguyễn Duy…Và góp phần đáng kể tạo nên sự thành công, hoàn thiện diện mạo
cho thơ thiếu nhi Việt Nam phải kể đến mảng thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc
thiểu số. Chính mảng thơ đặc biệt này đã tạo nên sự phong phú, đa sắc, đa thanh cho
nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam. Tuy nhiên, khi đề cập đến thơ thiếu nhi Việt Nam, các
nhà nghiên cứu mới chỉ đi sâu, khai thác, tìm hiểu các tác phẩm, tác giả là những nhà
thơ thiếu nhi người Kinh nổi tiếng quen thuộc đã được giới thiệu nhiều trong các
sách, báo như: Trần Đăng Khoa, Phạm Hổ, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh...Bên cạnh đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20
mảng thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số lại chưa nhận được sự quan tâm
thích đáng. Đề tài thiếu nhi đã trở thành một trong những đề tài chính, tiêu biểu đã và
đang hấp dẫn nhiều tác giả dân tộc thử sức và khám phá. Có nhiều nhà thơ dân tộc đã
thành công, khẳng định được vị trí của mình với đề tài này. Và để có cái nhìn toàn
cảnh hơn, toàn diện hơn, chúng ta cùng xem xét diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc thiểu
số dưới góc độ khu vực thông qua những thành tựu về đội ngũ tác giả và tác phẩm:
Khu vực miền núi phía Bắc: Có thể khẳng định văn học dân tộc thiểu số có sự
nở rộ và đạt được nhiều thành tựu nhất ở khu vực miền núi phía Bắc. Lý giải điều này
tác giả Văn Công Hùng cho rằng “có hai yếu tố khiến văn học dân tộc thiểu số miền
Bắc vượt trội đó là số lượng và bản sắc” [9]. Sự lý giải này là có căn cứ vì khu vực
miền núi phía Bắc là địa bàn miền núi rộng lớn bao gồm hai miền Đông Bắc và Tây
Bắc, là nơi sinh sống, định cư lâu đời của đông đảo đồng bào dân tộc như: Mường,
Thái, Tày, Dao, Mông, Giáy, Pa Dí…Với thời gian định cư lâu đời và sự phong phú
trong bản sắc văn hóa của các dân tộc, khu vực miền núi Phía Bắc chiếm ưu thế hơn
hẳn các vùng khác trong cả nước về sự phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số.
Có thể kể đến những cây bút dân tộc tiêu biểu, ưu tú như: Vi Hồng, Nông Quốc
Chấn, Nông Viết Toại, Cao Duy Sơn, Lò Cao Nhum, Triều Ân…Và cùng với sự phát
triển của nền văn học dân tộc thiểu số nói chung thì mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu
số khu vực miền núi phía Bắc cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận đánh dấu
sự phát triển của đề tài thơ thiếu nhi miền núi. Về thành tựu đội ngũ tác giả và tác
phẩm, ở khu vực miền núi Tây Bắc tiêu biểu nhất phải kể đến nhà thơ Lò Ngân Sủn
(dân tộc Giáy) với hai tập thơ dành cho thiếu nhi được đánh giá cao là Suối Pí Lè và
Cái bật lửa trời. Đặc biệt tập thơ Cái bật lửa trời đã mang lại giải B báo Thiếu nhi
dân tộc cho nhà thơ. Với một lối viết mộc mạc, giản dị nhưng đầy sức lôi cuốn, hai
tập thơ này đã nhận được sự đón nhận của đông đảo thiếu nhi trong cả nước. Lò Ngân
Sủn xứng đáng là nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số tiêu biểu của miền núi Tây Băc.
Ngoài ra các nhà thơ khác như Lò Cao Nhum (dân tộc Thái), Bùi Thị Tuyết Mai,
Vương Anh, Đinh Năng Lượng (Dân tộc Mường), Chu Thùy Liên (dân tộc Hà Nhì),
Tòng Văn Hân (dân tộc Thái)… cũng có thơ viết về thiếu nhi, thuộc phạm vi đọc của
thiếu nhi. Qua những vần thơ dành cho thiếu nhi của mình, các tác giả trên đã mang
đến cho thơ thiếu nhi Việt Nam những bức tranh khi thì hùng vĩ về thiên nhiên Tây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21
Bắc lúc lại nhộn nhịp sắc màu văn hóa đặc trưng, lúc lại chân thành trong tình cảm rất
thật của con người vùng cao… Tất cả tạo nên một âm sắc riêng cho mảng thơ thiếu
nhi miền núi Tây Bắc:
Cha tôi
Suốt ngày làm lụng
Cánh tay như cánh nỏ
Rắn rỏi thân người
Tựa quả ớt cay
Mẹ tôi
Bàn tay ngày ngày
Vun vén chồng con
Đệm ấm chăn êm
Rau mềm cơm dẻo
Mặn mà như muối
(Thuổi chéo – Tòng Văn Hân)
Cùng với khu vực Tây Bắc thì khu vực miền núi Đông Bắc gắn liền với chiến
khu Việt Bắc cũng ghi dấu ấn với với nhiều tên tuổi nhà thơ dân tộc viết nhiều cho
thiếu nhi. Chúng ta có thể điểm qua một số tác giả, tác phẩm xuất sắc như: Chu du
cùng ông nội của Vi Thùy Linh (Dân tộc Tày), Cưỡi ngựa đi săn, Chia trứng công
của Dương Thuấn (Dân tộc Tày), Gọi bò về chuồng, Bản em mùa cốm của Dương
Khâu Luông (dân tộc Tày), Hoa nắng của Triệu Kim Văn (Dân tộc Dao). Ngoài ra
một số nhà thơ có những bài thơ dành cho thiếu nhi hay được giới thiệu trong tuyển
tập Thơ hay cho Thiếu nhi dân tộc và Miền núi (NXB Giáo dục, 2001) như Nông
Thị Ngọc Hòa, Nông Quốc Chấn, Y Phương, Hà Lâm Kỳ, Vi Hồng Nhân… Trong đó
đặc biệt là nhà thơ thiếu nhi Tày Dương Thuấn, ông được coi là nhà thơ thiếu nhi
thành công của hai thế kỷ. Với hàng loạt bài thơ thiếu nhi viết về con người và cuộc
sống vùng cao, Dương Thuấn đã thể hiện thành công sự hồn nhiên, mộc mạc và đời
sống tâm hồn chất phác của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cũng như trẻ thơ dân
tộc thiểu số nói riêng. Đó là hình ảnh người dân miền núi hiện lên rất chân thật song
cũng đầy phi thường trong cuộc sống lao động hàng ngày qua công việc “đi săn”:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22
Người đi săn/ Biết mùi hổ/ Biết gọi nai/ Huýt sáo môi/ Chim rừng đến/ Đi như biến/
Giữa rừng cây/ Chạy như bay/ Khi đuổi thú (Đi săn – Dương Thuấn). Hay phẩm chất
con người miền núi giản dị mà đầy sâu sắc trong cách sống, lối sống thể hiện qua việc
cưỡi ngựa:
Buông dây lỏng
Ngựa lì
Cầm cương ghì
Ngựa chạy
Muốn ngựa nhảy
Quất roi
(Cưỡi ngựa – Dương Thuấn)
Đồng thời thơ thiếu nhi Dương Thuấn còn là những bức tranh lộng lẫy về thiên
nhiên tươi đẹp vùng cao với “Hoa đậu đỏ ngọn vông”, “ Bướm trắng bay đầy thung”
khi tháng ba tới (Tháng ba – Dương Thuấn), hay hình ảnh “Măng vầu cởi áo / Mở lá
cành ve” khi hè sang (Vào hè – Dương Thuấn)…Qua những trang thơ thiếu nhi đó,
nhà thơ Tày Dương Thuấn đã thực sự trở thành một chiếc cầu nối linh diệu giúp
người đọc thêm hiểu và thêm yêu hơn cuộc sống lao động, sinh hoạt cũng như phẩm
chất, tâm hồn của đồng bào dân tộc thiểu số.
Khu vực duyên hải miền Trung: Khu vực duyên hải miền Trung trải dài từ
Bắc Trung Bộ đến Nam Trung Bộ. Với một địa hình nhỏ hẹp bị chia cắt nhiều, khí
hậu vô cùng khắc nghiệt nên cuộc sống đồng bào dân tộc nơi đây vô cùng vất vả,
khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh sự khó khăn của cuộc sống sinh hoạt vật chất thì
đời sống văn hóa văn nghệ của đồng bào dân tộc nơi đây cũng có những thành tựu
nhất định trên lĩnh vực văn học nói chung cũng như ở mảng thơ thiếu nhi nói
riêng. Mặc dù thành tựu chưa nhiều chỉ mới tập chung ở một số tác giả nhất định
song các nhà thơ khu vực duyên hải miền Trung đã góp phần đáng kể vào việc tạo
nên sự phong phú, đa dạng cho mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại. Thơ thiếu nhi của Hồ Chư (dân tộc Vân Kiều) với thế giới loài vật, cỏ
cây rất phong phú đa dạng và thông qua đó là bài học mà nhà thơ muốn gửi gắm
đến thế giới con người:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23
Vẫn ghét lối vòng vo
Nên cây thường mọc thẳng
Dù thân có bạc trắng
Lá vẫn xanh với đời
(Bài học về cây bạch đàn - Hồ Chư)
Rồi nhà thơ Trà Ma Hani với tập thơ Em, hoa xương rồng và nắng đã mang
đến cho thơ thiếu nhi một âm hưởng thơ mới đó là âm hưởng của sự trải nghiệm tuổi
thơ, chắt chiu từ ký ức của nhà thơ về mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió qua biểu
tượng thơ đặc trưng “em”, “hoa xương rồng”, và “nắng”.
Và có lẽ tiêu biểu nhất cho mảng thơ ca thiếu nhi khu vực duyên hải miền
Trung phải kể đến nhà thơ Inrasara (dân tộc Chăm) với tập thơ thiếu nhi Thơ với tuổi
thơ. Tình yêu tha thiết với lứa tuổi măng non, sự tâm huyết với những giá trị văn hóa
của dân tộc đã được kết tinh một cách xuất sắc, tạo nên một sức hấp dẫn riêng cho
những trang thơ thiếu nhi của Inrasara.
Ngoài các nhà thơ trên thì một số nhà thơ dân tộc khác như Tuệ Nguyên,
Thạch Đờ Ni, Trà Vigia, Jalau Anuwk …cũng có những sáng tác thơ thuộc phạm vi
đọc của thiếu nhi tuy nhiên số lượng tác phẩm còn ít, nội dung và nghệ thuật chưa
thực sự tiêu biểu cho thơ thiếu nhi.
Khu vực Tây Nguyên: So với hai khu vực trên thì mảng thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số khu vực Tây Nguyên có tốc độ phát triển chậm nhất. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng này như nhà thơ Tạ Văn Sỹ đã từng nhận định trong bài trả lời
phóng vấn Đến bao giờ đại biểu Tây Nguyên xứng đáng là người Tây Nguyên:
“Nói đến khu vực Tây Nguyên đương nhiên ai cũng nghĩ đến đồng bào thiểu số và
các nhà văn, nhà thơ là người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên ở đây những cây bút là
người bản địa quá ít ỏi đến không tưởng tượng nổi” [36]. Và đây cũng là nguyên
nhân chính dẫn đến việc thơ thiếu nhi ở khu vực này chưa có điều kiện phát triển.
Tuy nhiên số lượng ít không có nghĩa là không có, một số nhà thơ Tây Nguyên tâm
huyết với văn chương nghệ thuật vẫn có những bài thơ hay, vần thơ hay thuộc phạm
vi tiếp nhận của cả trẻ em và người lớn như Bài thơ của con khi nhớ mẹ của H’Trem
Knul đã để lại tình cảm sâu đậm trong lòng người đọc về hình ảnh người mẹ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24
Con nhớ quá mái tóc dài của mẹ
Không thẳng mượt mà cháy xù lên vì nắng
Hay bài thơ Mẹ, thành phố và con của Lê Vi Thủy mang lại nhiều dư âm cho
những độc giả thanh thiếu niên khi tiếp cận bài thơ này:
Mẹ quê mùa trong khúc nhạc teen
Trong tiếng gầm rú thác loạn của Suzuki phân khối lớn
Vai mẹ oằn đi khi tuổi con dần lớn…
Như vậy qua những nét phác họa sơ lược về diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số qua các vùng miền có thể thấy thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ
hiện đại đã đạt được những thành tựu nhất định về đội ngũ tác giả và tác phẩm. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy rằng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa có sự phát
triển đồng đều giữa các vùng miền, dân tộc. Thành tựu nổi bật chỉ mới tập chung ở một
số cây bút nhất định và chưa có tác phẩm đỉnh cao. Tuy nhiên với thời gian hình thành
chưa lâu thì đây được coi như dấu hiệu mở đầu tốt đẹp cho mảng đề tài này.
1.2.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi Việt Nam
Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số hiện đại nằm trong dòng chảy chung của thơ
thiếu nhi Việt Nam. Điều này thể hiện rõ thông qua những đặc điểm chung mang tính
chất quy định về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của thơ thiếu nhi. Cùng
thuộc đề tài thơ thiếu nhi, thơ thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số miền núi cũng
mang những đặc điểm của thơ thiếu nhi nói chung. Với nội dung phản ánh đa dạng,
phong phú, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang đến cho người đọc cái nhìn đa
dạng nhiều chiều về thiên nhiên miền núi, cuộc sống, tâm hồn trẻ em miền núi hay
những vấn đề của cuộc sống xã hội đang được quan tâm…Và tất cả những nội dung
đó lại được truyền tải, nhìn nhận, miêu tả qua con mắt và tâm hồn trẻ thơ với những
cảm xúc, tình cảm hồn nhiên, trong trẻo cùng lối tư duy đầy ngộ nghĩnh của lứa tuổi
thiếu nhi nói chung cũng như thiếu nhi miền núi nói riêng.
Cùng với phương diện nội dung về phương diện nghệ thuật để phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý cũng như tiếp nhận của lứa tuổi thơ, thơ thiếu nhi dân tộc miền núi
cũng được các nhà thơ lựa chọn những hình thức thơ, thể thơ ngắn gọn, hấp dẫn gần
gũi với đồng thoại, đồng dao, ngôn ngữ thơ giản dị, dễ hiểu cùng với một giọng diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25
dí dỏm, hồn nhiên, hài hước thu hút các em… Tất cả đều hướng đến mục đích cao cả
là giải trí và giáo dục cho đối tượng trẻ thơ. Sau những tiếng cười, những ngạc nhiên,
khoái chí khi bước vào từng trang thơ đó lại là những bài học nhận thức sâu sắc về
cuộc sống con người mà các thi sĩ dành cho các em. Đồng thời thông qua quá trình tự
nhận thức đó, các em sẽ dần phát triển và hoàn thiện hoàn thiện nhân cách của mình.
Tuy nhiên, cùng nằm trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi Việt Nam song
thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số vẫn mang những dấu ấn riêng không thể trộn lẫn. Đó là
sự khác biệt trên cái nền chung của nội dung và nghệ thuật thơ thiếu nhi. Khác với
thơ thiếu nhi miền xuôi, bắt nguồn từ điều kiện sống, sinh hoạt của đồng bào dân tộc,
thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã gắn bó chặt chẽ với sắc thái văn hóa vùng cao thể
hiện qua bản sắc văn hóa đặc trưng, những phong, tập quán riêng của từng dân tộc.
Tắm mình trong suối nguồn văn hóa từ những yếu tố truyền thống của dân tộc và quê
hương, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tấu lên khúc ca độc đáo về điệu tâm hồn dân
tộc mình qua sự khúc xạ tâm hồn trẻ thơ. Chính điều đó đã tạo nên sự khác biệt,
mang lại một hương vị riêng, mới lạ cho những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ
dân tộc thiểu số so với thơ thiếu nhi của các tác giả người Kinh. Vẫn là nội dung viết
về thiên nhiên hay cuộc sống con người nhưng trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số,
đó là khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi gắn với màu sắc, âm thanh,
hương vị riêng, gắn bó, thân thuộc dưới góc nhìn trẻ thơ; là cuộc sống miền núi còn
nhiều khó khăn, vất vả cùng với nếp sinh hoạt phong phú độc đáo gắn liền với những
trò chơi đặc sắc, sinh động, giàu ý nghĩa văn hóa; là đời sống nội tâm phong phú với
những ước mơ, hoài bão và khát khao của trẻ thơ…Tất cả điều đó đã tạo thành một
hơi thơ, một chất thơ rất riêng mang đậm nhãn quan của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Và
điều đó đã góp phần hình thành nên những nét đặc sắc, độc đáo khi xem xét từ
phương diện nội dung của thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt
Nam thời kỳ hiện đại.
Cùng với sự khác biệt về phương diện nội dung thì xét ở phương diện nghệ
thuật, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng mang những đặc điểm
riêng biệt. Đó là nghệ thuật thơ mang đậm đặc điểm tư duy và phong cách ngôn ngữ
của đồng bào dân tộc. Các nhà thơ đã vận dụng một cách linh hoạt, triệt để lối tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26
duy cùng cách sử dụng ngôn ngữ gắn liền với lối nói, ví von, so sánh của dân tộc
mình. Có thể nói với việc vận dụng ngôn ngữ đặc trưng của từng dân tộc, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã đem đến cho thơ thiếu nhi Việt Nam một sức sống mới, hơi
thở mới và diện mạo mới, góp phần quan trọng cho sự thành công, phát triển của
thơ thiếu nhi Việt Nam.
Nói tóm lại, ra đời sau, kế thừa những giá trị đã được khẳng định của nền thơ
thiếu nhi Việt Nam đồng thời phát huy những những thế mạnh được kết tinh từ bản
sắc văn hóa các dân tộc, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại đã và đang có
những thành tựu bước đầu và hứa hẹn một vụ mùa bội thu trong tương lai.
Tiểu kết chương 1
Tóm lại, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thơ thiếu nhi Việt Nam thì thơ
thiếu nhi dân tộc thiểu số cũng đạt được những bước tiến nhất định trong tiến trình
văn học thiếu nhi. Sự xuất hiện của mảng thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân
tộc thiểu số có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng. Một mặt đây là món quà tinh
thần to lớn của các nhà thơ dành cho những trẻ thơ dân tộc mà cuộc sống vốn chịu
nhiều thiệt thòi, vất vả thì mặt khác sự ra đời, phát triển của mảng thơ thiếu nhi dân
tộc thiểu số đã tạo nên sự phong phú muôn màu, muôn vẻ cho nền thơ ca thiếu nhi
Việt Nam. Đồng thời thành tựu của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ
hiện đại đã đánh dấu sự rút ngắn dần khoảng cách, ranh giới giữa các vùng miền, dân
tộc. Và để làm được điều này đó là nhờ công lớn của các nhà thơ dân tộc tâm huyết
với lứa tuổi măng non như: Dương Thuấn, Inrasara, Lò Ngân Sủn… Có thể khẳng
định thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã thực sự bắt kịp và hòa nhịp được với nền văn
học thiếu nhi, góp phần hoàn thiện diện mạo của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27
Chương 2
THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hiện đại ngày càng phát triển mạnh mẽ và
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong đó có sự đóng góp đáng kể, không thể phủ
nhận của mảng thơ thiếu nhi dân tộc miền núi. Khung cảnh thiên nhiên cùng nếp sống
và sinh hoạt của đồng bào dân tộc dưới góc nhìn của trẻ thơ đã tạo thành một nội
dung phong phú, mới lạ, hấp dẫn cho những trang thơ của các thi sĩ dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại.
2.1. Khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ
Thiên nhiên là một trong những đề tài lớn, là nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào
của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Và đặc biệt dưới những trang thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số, khung cảnh thiên nhiên hiện lên vừa chân thực, vừa sinh động, vừa lãng mạn
tạo thành một không gian nghệ thuật thẩm mĩ rất riêng mang đậm dấu ấn miền núi
dưới góc nhìn trẻ thơ. Và thiên nhiên ấy đã được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu
số khắc họa sinh động, cụ thể, sắc nét qua khung cảnh thiên nhiên đặc trưng bốn mùa,
thế giới cây cỏ và thế giới loài vật.
2.1.1. Thiên nhiên miền núi đặc trưng qua bốn mùa
Trước hết nói đến thiên nhiên miền núi là nói đến một thiên nhiên hùng vĩ, rộng
lớn. Đó là thiên nhiên của rừng núi, sông suối, biển cả, thiên nhiên hoang vu của thác
cao, vực sâu… Và thiên nhiên ấy đã trở thành một nguồn cảm hứng mạnh mẽ đối với các
nhà thơ khi viết về đề tài miền núi. Hưởng ứng phong trào sáng tác cho thanh thiếu nhi
miền núi, các nhà thơ người Kinh đã có nhiều những vần thơ hay, đầy cảm xúc về thiên
nhiên vùng cao như hình ảnh con suối đầy thơ mộng, trữ tình “chở bóng đêm/ Chở mây
xanh ngắt/ Chở cả trăng vàng/ Đêm đêm dạo hát” trong thơ Phạm Đông Hưng, hình ảnh
con suối đáng yêu, gần gũi trong thơ Nguyễn Lãm Thắng:
Tôi là con suối nhỏ
Nằm dưới tầng cây xanh
Bạn của nai, của thỏ
Của hoa thơm trái lành
(Con suối nhỏ - Nguyễn Lãm Thắng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28
Hay hình ảnh con đường đến trường của trẻ thơ dân tộc thiểu số gắn liền với
những hình ảnh, cảnh vật quen thuộc của thiên nhiên vùng cao như: “Hương rừng thơm
đồi vắng/ Nước suối trong thầm thì/ Cọ xòe ô che nắng/ ...Có chim reo trong lá/ Có
nước chảy dưới khe” (Hương rừng – Minh Chính). Tuy nhiên, bằng cái nhìn của người
ngoài cuộc, các tác giả người Kinh khi viết về thiên nhiên miền núi chủ yếu thiên về
miêu tả và thể hiện, tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên. Còn trong thơ viết cho thiếu nhi
của các nhà thơ dân tộc thiểu như Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn, Dương Khâu Luông, Bùi
Thị Tuyết Mai, Niê Thanh Mai… bằng cái nhìn của người trong cuộc, sống gắn bó máu
thịt với thiên nhiên, thiên nhiên miền núi không chỉ được miêu tả ở cảnh sắc mà còn in
đậm dấu ấn tâm hồn của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cũng như tâm hồn trẻ thơ
dân tộc thiểu số nói riêng. Qua những trang thơ đó, khung cảnh thiên nhiên miền núi đã
được khắc họa, ghi nhận lại một cách rõ nét ở từng thời điểm, thời khắc đặc trưng qua
bức tranh bốn mùa để thông qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tấu lên khúc ca vui
nhộn của trẻ thơ miền núi về bốn mùa yêu thương của quê hương vùng cao.
Mùa xuân vốn được quan niệm là mùa của sự khởi đầu, mùa của lễ hội của
những trò chơi dân gian mang đậm màu sắc văn hóa, mùa của tuổi mới, áo mới…Bởi
vậy trẻ thơ thường đặc biệt yêu thích mùa xuân. Đồng điệu với tâm hồn trẻ thơ nên
trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số, mùa xuân nhận được sự ưu ái đặc biệt với tần số
xuất hiện nhiều nhất trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Và với mỗi lần xuất hiện,
bức tranh thiên nhiên mùa xuân lại mang một dấu ấn riêng dưới cái nhìn, sự cảm
nhận đầy trong trẻo của trẻ thơ miền núi. Mùa xuân đó là mùa mà vạn vật đang tưng
bừng, căng tràn nhựa sống:
Gọi nắng
Gọi mưa
Gọi hoa
Nở ra
Mùa xuân
(Trời - Lò Ngân Sủn)
Dưới con mắt ngây thơ, trong sáng đầy ngộ nghĩnh của trẻ thơ, mùa xuân hiện
lên sinh động, hấp dẫn có hình hài, có bước đi cụ thể thông qua quá trình nảy mầm
của chồi xinh: “Suốt mùa đông lạnh giá/ Chồi nú trong nách cây/…Sớm nay mùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29
xuân đến/ Nghe mưa bay nhè nhẹ/ Chồi non bừng mở mắt/ Nạy vỏ ra, xinh thay”
(Chồi - Dương Thuấn).
Mùa xuân như một nàng tiên đẹp kiều diễm với đầy tài phép có thể làm được
những điều kì diệu, thổi bừng lên sức sống của cỏ cây, hoa lá:
Mùa xuân gọi dậy chồi non
Gọi bông hoa nở xòe tròn trên cây
Gọi cơn nắng ấm tràn đầy
Gọi con sáo vỗ cánh bay tìm đàn
(Mùa xuân - Dương Khâu Luông)
Vạn vật như khoác lên mình một chiếc áo mới, một khuôn mặt mới lộng lẫy
với đầy sự hân hoan, háo hức để tham dự vào buổi dạ hội mùa xuân: “Mặt trời / Hé
nở/ Nàng xuân/ Hiện dần/ Mây/ Mặc áo trắng/ Nắng/ Mặc áo vàng/ Rừng / Mặc áo
xanh/ Núi/ Trùm sương mây” (Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn).
Bằng những hình ảnh thiên nhiên gần gũi với cuộc sống vùng cao như: mặt
trời, mây, nắng, núi, hoa đào, hoa lê, hoa mận… khung cảnh thiên nhiên mùa xuân
vùng cao hiện đẹp rực rỡ, tươi sáng với đầy sự hấp dẫn, cuốn hút, mời gọi. Đặc biệt
đối với lứa thiếu nhi vốn là lứa tuổi ưa sự tìm tòi, khám phá, mùa xuân như một
người bạn đồng hành tuổi thơ của các em. Các em háo hức đón xuân về từ những dấu
hiệu đầu tiên:
Hoa đào nở thắm rồi
Rừng hoa ban nở trắng
Dậy ra núi cùng chơi
Mùa xuân đã đến rồi
(Bài ca mùa xuân - Dương Thuấn)
Hoa đào, hoa ban, hoa mơ, hoa mận… là những loài hoa biểu tượng cho
mùa xuân vùng cao bởi vậy hễ thấy màu hồng thắm của hoa đào, màu trắng tinh
khôi của hoa ban là trẻ thơ biết mùa xuân đã về với bản làng. Chính vẻ giản dị của
những loài hoa này đã tạo nên một vẻ đẹp, một hương vị, một dấu ấn rất riêng cho
mùa xuân vùng cao. Bằng tâm hồn nhảy cảm của tuổi thơ, trẻ thơ miền núi đã có
những liên tưởng bất ngờ, đầy thú vị về những loài hoa này cũng như mùa xuân
của miền núi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30
Theo mùa xuân lên núi
Bạn sẽ gặp hoa mơ
Bông nở thành chiếc khuy
Cài áo mây trắng xóa
(Theo mùa xuân đi - Dương Thuấn)
Trong sự liên tưởng ngộ nghĩnh đó, những bông hoa nhỏ như những chiếc cúc
không thể thiếu để góp phần hoàn thiện bộ xiêm y lộng lẫy, hấp dẫn của mùa xuân.
Có thể nói cùng với những loài hoa này, khung cảnh thiên nhiên mùa xuân miền núi
qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số đã để lại ấn tượng sâu
sắc đối với người đọc bằng vẻ đẹp tươi sáng, duyên dáng, tràn đầy sức sống trong cái
nhìn đầy háo hức của trẻ thơ vùng cao.
Bên cạnh khung cảnh thiên nhiên mùa xuân thì khung cảnh thiên nhiên mùa hạ
cũng được các nhà thơ dân tộc nhắc đến nhiều qua những trang thơ thiếu nhi của
mình. Qua những trang thơ đó, mùa hè miền núi hiện lên chân thực, sinh động với
nhiều cảm xúc khác nhau của trẻ thơ.
Nhớ về mùa hè vùng cao đó là nhớ về sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên
miền núi. Với sự ảnh hưởng của sự kiến tạo địa lý, địa hình miền núi chủ yếu là đồi
núi cao dễ xảy ra lũ quét. Bởi vậy, mùa hè đọng lại trong tâm trí trẻ thơ vùng cao đó
là sự bất ngờ, xối xả, dữ dội của những cơn mưa, cơn lũ đầu mùa và những ảnh
hưởng nghiêm trọng của nó đối với đời sống đồng bào vùng cao:
Tháng sáu mưa ngàn
Bất ngờ cơn suối lũ
(Tháng sáu - Dương Thuấn)
Đi kèm với những cơn mưa, cơn lũ bất chợt đến, bất chợt đi thì những âm
thanh của tiếng sấm nổ ì ầm, tiếng sét xé tai… là những gia vị không thể thiếu được
của mùa hè vùng cao:
Ông trời thở phè
Bay từng phoi lửa
Ông sấm ra cửa
Tập súng trên cao
(Vào hè - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên mùa hè trong cảm nhận của trẻ thơ vùng cao
còn gắn liền với sự oi nồng, nóng bức. Cái nóng của mùa hè được cảm nhận rất ngộ
nghĩnh thông qua sự so sánh đầy bất ngờ, thú vị của các em:
Mùa hạ
Trời là cái bếp lò nung
(Trời - Lò Ngân Sủn)
Có lẽ do ảnh hưởng từ địa hình miền núi nước ta đa phần là núi đá vôi với sự
hấp thụ nhiệt lớn bởi vậy thời tiết miền núi nhiều nơi thường nóng nực hơn miền
đồng bằng. Mặt trời với cường độ chiếu sáng lớn trong một thời gian dài được các em
so sánh như một “cái bếp lò nung” - đồ vật gắn bó với đời sống sinh hoạt vùng cao.
Và có thể nói, cái nóng như lửa đốt của mặt trời mùa hè đã đã in sâu vào sự cảm nhận
non nớt, thơ ngây của các em. Bởi vậy, miêu tả khung cảnh mùa hè miền núi, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã có những trang thơ rất sinh động về hình ảnh mặt trời mùa hạ.
Trong đó, hình ảnh mặt trời mùa hạ hiện lên như một cậu bé tinh nghịch, nóng tính
hay giận dỗi nên mới trút xuống mặt đất những cái nhìn “hừng hực lửa cháy”:
Tròn như cái nong
Suốt ngày chơi rông
Nghiêng nghiêng ngó ngó
Chơi trò bịt mắt
Rồi bỗng tức giận
Ném xuống mặt đất
Cái nhìn lửa cháy
…Trút lại sau lưng
Hơi lửa hừng hực
(Mặt trời - Lò Ngân Sủn)
Tuy nhiên đối với lứa tuổi thơ dễ yêu, dễ ghét, chóng nhớ rồi cũng vội quên
bởi vậy qua những trang thơ thiếu nhi dân tộc, mùa hè không đơn thuần chỉ có nóng
bức, ngột ngạt, dữ dội, khắc nghiệt cùng với mưa nguồn suối lũ mà mùa hè còn là
mùa vui của trẻ thơ. Nếu như trẻ thơ ở thành phố hay ở miền đồng bằng mùa hè
thường gắn liền với những chuyến du lịch, những chuyến đi xa thì đối với trẻ em
miền núi với điều kiện sống còn nhiều khó khăn, hạn chế. Nghỉ hè đối với các em là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32
tạm rời sách vở, mái trường để phụ giúp gia đình những công việc vừa với sức của
mình như hái măng, kiếm củi…Và trong chính quá trình lao động đó, các em đã tìm
thấy niềm vui cho mình từ thiên nhiên. Cùng với những cơn mưa xối xả của mùa hè
thì mùa hè vùng cao còn đi vào tuổi thơ của các em còn là mùa của măng, của trúc
vươn mình đội đất đứng lên báo hiệu một mùa no ấm cho đồng bào miền núi:
Măng vầu cởi áo
Mở lá cánh ve
Nhú ra mùa hè
(Vào hè - Dương Thuấn)
Và trong chính quá trình lao động như vậy các em được sống hòa vào thiên
nhiên để khám phá được từng vẻ đẹp ẩn sau từng dòng sông, con suối, tiếng ve ngân,
tiếng chim hót... Mùa hè đối với các em còn là cả một khúc nhạc tươi vui của thiên
nhiên miền núi rộng lớn và kỳ vĩ:
Suối gõ trống xuống vực
Thác gõ chiêng xuống núi
Tiếng ve ran mượt mà trong gió
Chim hót vang bài ca lộn xộn.
(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)
Cùng những khúc nhạc rộn ràng của tiếng ve kêu trong những tán rừng
xanh thẳm:
Sân khấu ở trên không
Giữa vòm trời lá biếc
Trên cành những nhạc công
Cũng thổi kèn náo nhiệt
(Dàn hợp xướng mùa hè - Hồ Chư)
Mùa hè còn mang lại cho các em những sự cảm nhận rất tinh tế về thiên
nhiên. Cùng một dòng chảy của suối Pí Lè mùa hạ nhưng ở mỗi khúc sông các em
lại có sự cảm nhận rất riêng không giống nhau có đoạn nghe “ầm ào như sấm như
bão”, song ở khúc chảy khác lại “nghe lao xao như tiếng lá cây rừng” (Suối Pí Lè -
Lò Ngân Sủn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33
Như vậy không miêu tả nhiều nhưng chỉ qua một vài nét phác họa, khung cảnh
thiên nhiên mùa hè miền núi đã hiện lên với tất cả những gì đặc trưng nhất dưới
những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số.
Rời hạ sang thu, nếu như mùa thu trong thi ca nói chung gắn với hình ảnh
thiên nhiên tàn lụi, héo úa thì mùa thu trong thơ thiếu nhi miền núi lại gắn liền với
khung cảnh thiên nhiên vùng cao đẹp, đầy thơ mộng, trữ tình. Mùa thu miền núi gắn
liền với những cơn mưa vàng của lá rừng:
Mùa thu
Trời thổi lá vàng rơi lả tả
(Trời - Lò Ngân Sủn)
Không phải chỉ một góc vườn, một con đường mà cả núi rừng ngập tràn trong
sắc vàng kiêu hãnh của mùa thu. Khung cảnh thiên nhiên mùa thu miền núi vì vậy đã
để lại ấn tượng mạnh, khơi nguồn cảm xúc cho trẻ thơ miền núi.
Mùa thu - mùa trăng tròn - mùa của Tết trung thu, bởi vậy, cũng như trẻ thơ
trên cả nước, trẻ thơ miền núi háo hức đợi thu về. Mùa thu đối với các em đó còn là
hình ảnh của ánh trăng lung linh, huyền ảo, tỏa sáng núi đồi trong ngày tết trẻ thơ:
Lửa đuốc cháy bập bùng
Mặt trăng tròn lấp ló
Theo chân bầy trẻ nhỏ
Trăng dải ánh hoa vàng
(Trung thu - Niê Thanh Mai)
Đặc biệt hơn, mùa thu còn là mùa tựu trường của các em thiếu nhi sau một
thời gian nghỉ hè. Trong niềm vui được gặp lại bạn, gặp lại cô, khung cảnh thiên
nhiên mùa thu miền núi dường như cũng đẹp hơn, tươi vui, trong sáng hơn theo từng
bước chân đến trường của các em:
Đêm qua trời hiu hiu gió
Sớm ra lành lạnh vai người
Suối thu sắc xanh như lá
Một năm học mới đến rồi
(Cô giáo bản - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34
Yêu và gắn bó với quê hương mình, khung cảnh thiên nhiên mùa thu hiện lên
trong cảm nhận của trẻ thơ miền núi mang một vẻ đẹp rất riêng và để đến lúc cuối
mùa, mùa thu ra đi trong sự tiếc nuối và mong chờ của các em: “Riêng mùa thu đẹp
thế / Lại ngắn ngủi làm sao” (Mùa thu ngắn - Niê Thanh Mai).
Bên cạnh các mùa xuân, hạ, thu thì mùa đông gắn liền với những nét đặc trưng
của khung cảnh thiên nhiên miền núi cũng tạo được dấu ấn riêng trong thơ thiếu nhi
của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Trẻ em miền núi nhận ra mùa đông về thông qua sự
biến đổi của thiên nhiên xung quanh mình. Đó là khi:
Mai già bổ giát không còn hạt
Cá võng trốn đông lạnh xuống sâu
Hang sâu suốt tháng gấu say ngủ
(Mùa đông - Dương Thuấn)
Và như một đối cực của mùa hạ, mùa đông để lại trong cảm xúc của trẻ thơ
miền núi đó là cái rét rất đặc trưng của vùng cao. Cả bầu trời như một cái tủ lạnh
khổng lồ trong cái nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ:
Mùa đông
Trời là cái tủ lạnh
(Trời - Lò Ngân Sủn)
Cùng với cái rét như cắt da, cắt thịt thì ấn tượng về mùa đông miền cao còn là
sự hiện diện của “Gió bấc cựa mình làm rơi quả khế” (Ấm - Bùi Thị Tuyết Mai), của
sương mù lẫn nắng nhạt “Sớm nay mùa đông còn cẩu thả/ Sương mù lẫn lộn với nắng
suông”(Chợt xuân - Lò Cao Nhum). Tất cả đã góp phần làm hoàn thiện diện mạo của
mùa đông vùng cao.
Tuy nhiên, gió rét là thế, sương mù là thế nhưng không vì vậy mà mùa đông trở
nên ảm đạm, bằng sự vui tươi, nhí nhảnh của tuổi thơ, trẻ thơ miền núi đã nhìn thấy ở
mùa đông đó là sự tươi vui rộn ràng như ngày hội của thiên nhiên, của đất trời và vạn
vật. Mùa đông thực sự là một mùa được mong đợi trong cách nhìn của trẻ thơ vùng cao:
Mùa đông ra đi từ năm ngoái
Đến hẹn năm nay lại trở về
Cầy hương vui hội trên ngọn móc
Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe
(Mùa đông - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35
Và cùng với những những trang thơ thiếu nhi về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu
thì với những trang thơ thiếu nhi về mùa đông, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã góp
phần hoàn thiện diện mạo khung cảnh thiên nhiên miền núi đặc trưng bốn mùa mang
đậm dấu ấn, phong vị vùng cao dưới góc nhìn của trẻ thơ.
Cùng viết về thiên nhiên quê hương qua các mùa song qua những trang thơ
thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số miền Trung, khung cảnh thiên nhiên lại
mang những nét đặc thù riêng. Do ảnh hưởng của địa hình, mảnh đất miền Trung chỉ
có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Theo đó, thiên nhiên miền Trung vô cùng khắc
nghiệt đặc biệt là vào mùa khô và điều này đã được các nhà thơ dân tộc Chăm như
Inrasara, Trà Ma Hani… thể hiện một cách chân thực qua những trang thơ thiếu nhi
của mình. Khung cảnh thiên nhiên miền Trung vào mùa khô gắn liền với hình ảnh
của gió Lào, cát trắng. Những làn gió hanh hao ở miền Trung như có sức mạnh vô
biên đã đi sâu vào tâm trí, vào ký ức “Vờn bay cùng giấc mơ tuổi nhỏ” (Gió - Trà
Ma Hani) của trẻ thơ miền Trung.
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung không chỉ có gió mà còn ở cái
nắng, cái nóng như thiêu như đốt. Quê hương miền Trung đồng thời cũng là xứ sở
của “nắng và bao la nắng”, của “đồi cát nóng”, của “làn gió hanh” (Nắng Phan
Rang - Inrasara), của “cồn cát trắng nối tay cồn cát” (Tuy Phong làng Chăm-
Inrasara). Trước sự tác động của mưa ít, nắng nhiều, nỗi trăn trở lớn nhất của người
dân miền Trung là thiếu nước ngọt bởi hình ảnh những con suối cạn khô, những cái
ao trơ đáy, những thửa ruộng cạn, những rừng cây “khát nước” cũng là một phần
không thiếu của bức tranh thiên nhiên miền Trung.
Bên cạnh sự khắc nghiệt thì qua những trang thơ của nhà thơ miền Trung,
thiên nhiên miền Trung còn hiện lên rất đẹp, rất nên thơ dưới con mắt của các em
thiếu nhi. Thiên nhiên đó là sự hòa quện của những đường nét khỏe khoắn, rộng lớn
của trời, của sóng, của biển của những bãi cát dài trải xa típ, của “xương rồng xanh”,
“chùm nho mọng” (Nắng Phan Rang - Inrasara) được kết tinh từ nắng gió miền
Trung…Tất cả đã tạo nên một bức tranh nghệ thuật tuyệt bích của tự nhiên:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36
Gió nồm lên sóng vỗ biển hè
Trời rất xanh và mây rất trắng
…Ở đây tha hồ nghe nhạc cát
Gió bè cao và biển bè trầm
(Tuy Phong làng Chăm - Inrasara)
Và từ đó, các nhà thơ miền Trung đã thể hiện được sự gắn bó tha thiết của thiếu
nhi miền Trung nói riêng cũng như con người miền Trung nói chung đối với mảnh đất
còn nhiều nắng lửa, mưa giông này: Tiếng trẻ như tiếng chim ríu rít/ Đất khô tự thuở nào
vẫn khát/ Hồn người như lá cứ tươi xanh (Tuy Phong làng Chăm - Inrasara).
Như vậy nói tóm lại, qua những bức tranh thiên nhiên đặc trưng của từng mùa,
từng vùng các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang lại cho người đọc những
phát hiện mới mẻ về sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên tổ quốc. Và đằng sau
khung cảnh thiên nhiên miền núi rộng lớn, đẹp, phong phú, đa dạng đầy sức sống đó
là tấm lòng, là sự gắn bó tha thiết của trẻ thơ dân tộc cũng như của chính các nhà thơ
đối với quê hương mình.
2.1.2. Thế giới cây cỏ
Cùng với bức tranh thiên nhiên đặc trưng cho bốn mùa, các nhà thơ dân tộc
thiểu số đã tạo dựng nên một thế giới các loại cây cỏ, hoa lá tiêu biểu cho thiên nhiên
miền núi trong “khu vườn thiếu nhi” của mình. Có thể coi đây là một khu vườn bách
thảo rộng lớn, một cuốn từ điển tri thức bằng thơ với nhiều loại cây cối, hoa cỏ khác
nhau hứa hẹn sẽ mang lại rất nhiều điều bổ ích, bất ngờ cho lứa tuổi thơ.
Qua thơ của các nhà thơ thiếu nhi như Trần Đăng Khoa, Xuân Quỳnh, Phạm
Hổ, Nguyễn Lãm Thắng…trẻ thơ đã từng bắt gặp rất nhiều loài cây, loài quả, loài hoa
quen thuộc, thường thấy trong cuộc sống của các em như: cây mít, cây hồng, cây na,
cây bưởi, hoa đào, cây lúa, hay cây dừa…
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Rung rinh đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
(Cây dừa - Trần Đăng Khoa)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37
Các nhà thơ bằng tấm lòng yêu trẻ của mình đã mang đến cho các em sự hiểu
biết lí thú về đặc điểm của từng loài cây, loài quả gần gũi với tuổi thơ. Trong cách
nói, cách miêu tả đó, loại quả nào hiện lên cũng ngon lành, hấp dẫn như những món
quà đầy ý nghĩa đối với lứa tuổi thơ:
Quả me có vị chua
Làm ô mai ngon tuyệt
Nắng ở trong quả mít
Mùi thơm trong quả mơ
Xù xì cái quả na
Mà ngọt ơi là ngọt!
(Kể chuyện quả - Xuân Quỳnh)
Tuy nhiên khi đến với thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số,
trẻ thơ sẽ choáng ngợp trước một thế giới thảo mộc vô cùng phong phú, đa dạng,
đông đúc. Trong thế giới đó, ngoài những loài cây, loài hoa mà trẻ thơ biết đến nhiều,
các nhà thơ dân tộc còn mở rộng phạm vi đến những loài cây, loài hoa lạ mà chỉ miền
núi mới có như cây mỡ, cây măng, cây trúc, cây thông, cây chuối rừng, cây bạch đàn,
cây trám….Tất cả tạo đã nên một thế giới thảo mộc vô cùng sinh động, hấp dẫn, mới
lạ, muôn hình, vạn trạng dưới con mắt trẻ thơ:
Măng
vót chông
vót đũa
Thông
đứng giữa trời
Lá
thổi như mưa
Nứa
ôm nhau gáy
Trúc
cài cúc
đầy ngực…
(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38
Để mang lại sự hiểu biết cho trẻ thơ về thế giới thực vật vô cùng mới lạ này,
qua những trang thơ thiếu nhi của mình, các nhà thơ dân tộc đã hào hứng giới thiệu
với những người bạn nhỏ tuổi khắp mọi miền về đặc điểm riêng biệt của những loại
cây. Đó là hình ảnh cây mỡ “như đuôi trâu mọc ngược / Lá non tơ mềm mại như nõn
chuối” (Rừng ơi - Lò Ngân Sủn) hình ảnh hoa phong lan “Sống lưng treo cành mục/
Đan rễ vào nắng mưa/ Bốn mùa mê mải việc/ Làm đẹp đời - lạ chưa” (Hoa phong
lan - Mai Ngoc Uyển), cây bạch đàn thường “mọc thẳng”, thân “bạc trắng” nhưng lá
“vẫn xanh” (Cây bạch đàn - Hồ Chư), hình ảnh hoa phù dung “nở trắng” những hễ
“Nắng lên chuyển màu hồng” (Hoa phù dung - Dương Khâu Luông) hay hình ảnh
cây chuối rừng gắn liền với mùi thơm đầy sức hấp dẫn, mời gọi của quả chín:
Chuối rừng chín thơm thật thơm
Mùi hương thoảng bay trên triền dốc
Chú sóc đang ngủ say liền tỉnh giấc
Nửa đêm lao trên ngọn cây cao đi tìm
(Chuối rừng - Dương Thuấn)
Thông qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang đến cho trẻ thơ những sự
hiểu biết vô cùng lí thú về đời sống phong phú của thế giới cây cỏ.
Cuộc sống của người dân miền núi không thể thiếu được thiên nhiên trong đó
có thế giới cây cỏ. Bởi vậy, trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, thế
giới cỏ cây hiện lên còn gắn bó mật thiết đối với cuộc sống con người. Cây cỏ không
chỉ là môi trường sống, nguồn sống mà còn là một thành viên, một người bạn thân
thiết đối với buôn làng. Đó là hình ảnh cây bùi già hiện lên như một người bạn tuổi
thơ đầy tinh nghịch:
Thập thò kẽ lá
Ấy là quả bùi
Tưởng con mắt vui
Ú tim tìm bạn
Trong rừng, ngoài bản
Những cây bùi già
Sừng sững xòe tán
Mãi còn ra hoa
(Cây bùi già - Mai Ngọc Uyển)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39
Hay hình ảnh cây xổ cổ thụ được nhân cách hóa như một bà cụ “lụ khụ” song
vẫn lặng thầm theo sát cháu con, buôn làng:
Lụ khà lụ khụ
Giống như bà cụ
Đứng ở bên khe
Ra nhiều quả ghê
(Xổ - Dương Thuấn)
Rồi hình ảnh cây sau sau già - loại cây chỉ có ở miền núi gắn bó sâu sắc với
cuộc sống của con người vùng cao cùng những buổi làm nương, trèo núi, kiếm củi,
hái măng. Cây sau sau hiện lên dưới những trang thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số với
đầy sự yêu mến, quý trọng, được coi như một một nhân chứng lịch sử đã cùng sống,
cùng trải qua và chứng kiến bao buồn vui của bản làng: “Đứng ở bên sườn núi/ Trăm
năm chẳng nói cùng ai/ Đi xa bản ai ai cũng nhớ/ Trẻ con nhớ mùa chim làm tổ/
Người lớn nhớ mùa lá non (Cây sau sau - Dương Thuấn).
Không những vậy qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu
số, thế giới cỏ cây còn hiện lên sinh động gắn liền với những phẩm chất tốt đẹp như
phẩm chất của con người miền núi. Đó là hình ảnh cây núc nác kiên cường, cứng cỏi,
hiên ngang mặc cho bão táp, mưa sa:
Treo tít trên ngọn
Mặc cho nắng táp
Mặc cho gió xoay
To bằng bàn tay
Dài như lưỡi mác
(Núc nác - Dương Thuấn)
Hình ảnh cây xương rồng vươn lên trong nắng, trong gió, trong cát miền Trung
với những bông hoa rực rỡ chắt chiu từ những đồi đất bạc màu đã trở thành một biểu
tượng cho ý chí, nghị lực của những người con dân tộc Chăm: Trần mình trong nắng /
Cây đứng xếp hàng /Giữa đồi cát trắng/ Vẫn giữ màu xanh/ Trên đồi đất bạc/ Dù nắng
dù mưa/ Cây vẫn cho hoa/Vắt mình mà rực (Hoa xương rồng - Inrasara).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40
Như vậy, qua những trang thơ thiếu nhi miền núi, thế giới cỏ cây hiện lên vô
cùng mới lạ, sinh động hấp dẫn, gắn liền với cuộc sống của đồng bào dân tộc. Dưới
con mắt trẻ thơ, loài cây nào cũng đẹp, loài hoa nào cũng xinh và quan trọng hơn, qua
từng đặc điểm riêng biệt của mỗi loài cây, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã ngầm gửi
đến trẻ thơ những thông điệp đầy yêu thương về lẽ sống, cách sống. Đồng thời từ đó
tình yêu quê hương, đất nước của các em cũng được hình thành một cách tự nhiên và
sâu sắc bởi yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương, gắn bó với từng gốc cây,
ngọn cỏ của quê hương mình.
2.1.3. Thế giới loài vật
Lứa tuổi thiếu nhi dù ở vùng miền nào thì cũng đều có đặc điểm chung đó là
tình yêu thương đối với những con vật. Trong tâm hồn, trí tưởng tượng non nớt, trong
sáng của lứa tuổi thơ, thế giới loài vật cũng có một đời sống riêng với những lời ăn,
tiếng nói, suy nghĩ, hành động và những mối quan hệ riêng. Có thể điều này đã được
bắt nguồn một cách tự nhiên qua những khúc hát ru, những câu chuyện cổ tích của
bà, của mẹ từ thuở trong nôi với hình ảnh của cánh cò bay, cái tôm, cái tép, cái bống
bang, chú mèo đi hia, chim vàng anh, con trâu, con bò…Thấu hiểu tâm lý trẻ thơ, các
nhà thơ thiếu nhi đã dành tặng thiếu nhi một khu vườn bách thú phong phú đa dạng
trong thơ của mình. Đó là hình ảnh chú bê con ngộ nghĩnh, đáng yêu đã đi vào tuổi
thơ của các em trong thơ Nguyễn Lãm Thắng:
Bê mặc áo vàng
Chạy theo gót mẹ
Đôi chân lanh lẹ
Vừa nhảy vừa đi
(Bê con - Nguyễn Lãm Thắng)
Hay thế giới côn trùng nhỏ bé mà đầy nghĩa tình hiện lên sinh động, hấp dẫn
trong thơ Trần Đăng Khoa:
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến Đất bạc màu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
(Đám ma bác Giun - Trần Đăng Khoa)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41
Có thể thấy những trang thơ về viết về loài vật đã tạo nên một sức hút, một sức
hấp dẫn, thích thú đặc biệt với lứa tuổi thơ. Bởi vậy cũng như các nhà thơ thiếu nhi
nói chung, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã dành một phần lớn những trang
thơ của mình để viết về thế giới loài vật. Qua những trang thơ đó, thế giới loài vật
hiện lên cũng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, ồn ào, náo nhiệt không kém gì
thế giới con người. Trong ngày hội mùa xuân, mỗi loài một vẻ song đều cố gắng khoe
ra những điểm tốt nhất, mạnh nhất của mình để tham dự vào bữa tiệc mùa xuân:
Họa mi
thi hót
trên cây
Én
ném còn
trên không
Tung yến
giữa đồng
Hổ
rung chiêng
Chó
gõ trống
(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn).
Thế giới loài vật muôn hình, muôn vẻ với nhiều giống nhiều loài. Qua
những bài thơ thiếu nhi ngắn gọn, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã giúp các em có
thêm những nhận thức mới mẻ về thế giới xung. Mỗi loài vật lại có một đặc điểm
riêng. Cùng là đi ngủ song ở mỗi loài lại có kiểu ngủ khác nhau: “Cá dưới vực
sâu/ Vừa bơi vừa ngủ/ Con ngựa ở tàu/ Suốt đời đứng ngủ/ Con chim đậu vững/
Ngủ trên ngọn cây/ Con dơi ngủ ngày/ Chân cheo vòm đá” (Đi ngủ - Dương
Thuấn). Hay trong tiếng kêu của từng loài cũng ẩn chứa những bí mật, những
thông điệp khác nhau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42
Quê ta
Tiếng hoãng kêu mưa
Tiếng bắt cô trói cột
Tiếng tắc kè… thảng thốt
Tiếng khảm khắc gọi mùa
(Quê ta – Ma Đình Thu)
Bên cạnh đó, từ những trang thơ về loài vật, các nhà thơ đã mang đến cho các
em những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống. Đó là câu chuyện về chú ngựa non mới
lớn cậy to, cậy khỏe bắt nạt được đàn gà con nhưng khi bắt nạt chú chó vện liền bị
cắn lại (Không còn là ngựa non - Dương Thuấn) hay câu chuyện về hai anh em nhà
chuột. Chuột anh giả làm mèo oai phong nhưng khi gặp mèo thực liền sợ hãi núp sau
chuột em:
Hai anh em chuột
Bàn tán lao xao
Mèo vằn nghe thấy
Kêu lên ngoao ngoao
Chuột em cầu khẩn
Chúa ơi, nhanh nào
Ra mà dẹp giặc
Chuột anh hốt hoảng
Ôm chặt chuột em
(Anh em chuột - Dương Thuấn)
Bằng những vần thơ mộc mạc, các nhà thơ đã đem đến cho thiếu nhi những
bài học thú vị về những mối quan hệ giữa người với người, phê phán những thói hư
tật xấu thường thấy như cậy khỏe nạt yếu, thói ba hoa, tự cao, tự đại, hống hách
không có thực lực…
Lứa tuổi măng non là lứa tuổi ưa sự khám phá, tìm tòi, giải thích những hiện
tượng diễn ra xung quanh mình. Am hiểu tâm lý trẻ thơ nên qua những câu chuyện về
loài vật của mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số còn giúp các em tìm hiểu gốc tích, lý
giải được nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên như hiện tượng khi
có tiếng ếch kêu là báo hiệu trời sắp đổ mưa hay hiện tượng mặt ao thường có sủi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43
tăm. Bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, để lý giải hiện tượng trên nhà thơ
Dương Thuấn đã hình dung ra cuộc đối đáp trò chuyện thú vị của chú ếch và chú cá
rô. Nội dung cốt truyên xoay quanh việc chú cá rô thắc mắc khi thấy chú ếch “Ngồi ở
bờ ao/ Mồm luôn đớp đớp” và câu trả lời của chú ếch muốn “Ăn hết trăng sao/Cho
trời tối lại/Thành cơn mưa rào” đã mang lại sự ngạc nhiên, đầy thích thú cho chú cá
rô “Cá rô thấy vậy / Cười sủi cả ao” (Chú ếch ăn trăng - Dương Thuấn). Bài thơ kết
thúc cũng chính là lúc tiếng cười ròn rã, bất ngờ đầy sảng khoái của các em bật ra.
Hay chuyển thể từ câu chuyện cổ tích “Trí khôn của ta đây”, nhà thơ Inrasara đã có
sự lý giải rất ngắn gọn, dễ hiểu bằng thơ của mình để trả lời thiếu nhi câu hỏi “tại sao
trâu không có hàm dưới?”. Tất cả bắt nguồn từ việc có một chú cọp từ trong rừng đi
ra, thấy bác trâu to lớn mà phải phục vụ bác thợ cày nhỏ bé đã thắc mắc:
Này bác khờ kia
Dại gì dại thế
Thằng người bé tí
Xỏ mũi bác chơi
Và khi nghe câu trả lời của bác trâu “Thân người tuy nhỏ/ Trí người rất to”, đã
khơi dậy trí tò mò của chú cọp. Và bằng trí thông minh của mình, con người nhỏ bé
đã lừa trói được chú cọp và quất cho chú ta một trận. Chứng kiến tất cả cảnh đó:
Trên bờ cao gặm cỏ
Bác Trâu nghếch mõm cười
Rủi thay! Một hòn đá
Đâu rớt xuống, mẹ ơi!
Xin bác nguyên hàm dưới
(Tại sao trâu không có hàm dưới - Inrasara)
Đó chính là lí do vì sao trâu không có hàm dưới. Với lối kể chuyện rất duyên,
thông minh, hóm hỉnh mỗi bài thơ về loài vật luôn là một món quà đầy bất ngờ mà
các nhà thơ dân tộc thiểu số dành tặng lứa tuổi thiếu nhi.
Bên cạnh đó, dưới ngòi bút của các nhà thơ dân tộc thiểu số, thế giới loài vật
hiện lên mang đậm tâm trạng, cảm xúc như con người để từ đó các em không chỉ
nghe, đọc giải trí đơn thuần mà còn có sự suy nghĩ về cuộc sống xung quanh. Đó là
tình cảm mẹ con - tình mẫu tử thiêng liêng cao cả qua hình ảnh khỉ mẹ chăm chút,
tắm cho những chú khỉ con của mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44
Một bầy khỉ rất đông
Rủ nhau ra sông tắm
Khỉ con ngồi yên lặng
Cho khỉ mẹ kì lưng
(Bầy khỉ tắm - Dương Thuấn)
Hay tâm sự của chú én bé nhỏ khi bay trên khoảng trời lộng gió nhưng dưới
chân những cánh rừng xanh đã bị cháy rụi chỉ còn những khoảng đất trống màu lửa
nung cũng tạo cho các em một sự thương cảm, xót xa: “Khoảng trời lộng gió/ Én hay
bay liệng/ Trên cánh rừng xanh/ Đã cháy mất rồi/ Én bay bịn rịn/ Đậu xuống cành mít/
Rung đôi cánh nhỏ/ Trước một khoảng vắng/ Đất màu lửa nung” (Khoảng trời én bay
- Lò Ngân Sủn). Và chính từ sự nhận thức đó các em thiếu nhi sẽ dần trưởng thành
hơn, hoàn thiện hơn trong suy nghĩ để hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Một điểm nữa đáng chú ý trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số
đó là thế giới loài vật không chỉ được đề cập đến những con vật nuôi gần gũi với con
người như: chó, gà, mèo, trâu, bò…mà còn được mở rộng phạm vi đến cả những loài
vật hoang dã to lớn của rừng thẳm như: hổ, báo, hươu, nai… tạo thành một điểm nhìn
mới, thu hút, hấp dẫn trẻ thơ tìm hiểu khám phá. Trong thế giới rộng lớn đó, rừng là
một cái ô lớn, là chỗ trú ngụ, ẩn nấp của muôn loài. Các loài vật từ hiền lành đến
mãnh thú đều sống hòa thuận với nhau trong một gia đình chung của rừng:
Tiếng ve ran mượt mà trong gió
Chim hót vang bài ca lộn xộn
Trăn cuộn tròn ngẫm nghĩ
Khỉ đánh đu dây rừng
Hươu, nai múa bên cây cổ thụ
Hổ, báo ngồi chồm chỗm ngó xem.
(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)
Tất cả điều đó đã góp phần tạo nên một thế giới nhân vật ngộ nghĩnh đáng yêu,
một không gian nghệ thuật rất riêng cho những trang thơ viết cho thiếu nhi của các
nhà thơ dân tộc thiểu số.
Nhìn chung, thiên nhiên trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ. Dưới cái nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45
đó, từ khung cảnh thiên nhiên đặc trưng qua các mùa đến thế giới cỏ cây, hoa lá rồi
thế giới loài vật đều hiện lên với một màu sắc, âm thanh và hương vị riêng, gần gũi,
thân thuộc và gắn bó với thiếu nhi dân tộc. Qua mỗi bài thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu
số Việt Nam đã đem đến cho lứa tuổi thơ một lượng tri thức lớn về chủ đề thiên
nhiên. Đồng thời mỗi bài thơ là một bài học lớn không khuôn phép giáo điều nhưng
lại có sự lay động sâu xa. Đó là lời kêu gọi, lời nhắn nhủ hãy biết yêu thương, nâng
niu, quý trọng và bảo vệ thiên nhiên. Lời kêu gọi dành cho mọi người và đặc biệt là
đối với lứa tuổi thơ - những chủ nhân tương lai của đất nước
2.2. Những nếp sống và sinh hoạt gắn bó với trẻ em dân tộc thiểu số
2.2.1. Cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả và niềm vui trẻ thơ trước những đổi
thay trên quê hương
Qua những trang thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, cuộc
sống của đồng bào dân tộc nói chung cũng như cuộc sống của thiếu nhi nói riêng hiện
lên còn nhiều khó khăn, vất vả. Hình ảnh những trẻ em dân tộc đã sớm phải mang
trên mình gánh nặng cực nhọc của cuộc sống mưu sinh đã được các nhà thơ miền
xuôi ghi lại làm ngậm ngùi bao người đọc:
Giữa trưa trời như nín thở
Xe lên dốc đứng bần thần
Giật mình thấy em vượt dốc
Chiếc gùi che hết nửa thân
Em gùi những gì trong đó
Ơi em bé gái lên mười
Chân trần đạp trên sỏi đá
(Em gái Ê Đê - Huỳnh Quang Nam)
Đó là hình ảnh vất vả, lam lũ, cực nhọc của một em bé gái dân tộc trên đường
gùi củi về được một nhà thơ chứng kiến trên đường đi công tác. Và đây cũng không
phải là trường hợp đặc biệt, duy nhất ở đồng bào dân tộc khi mà “Mùa nương lúa
cháy khói bay/ Mẹ cha suốt ngày lên rẫy/ Ông mặt trời như đứng im/ Lặng nhìn bao
mồ hôi chảy/ Con đói cha đi tìm cơm/ Em khát mẹ đi tìm suối” (Hai anh em – Du
An). Với cuộc sống còn nhiều thiếu thốn ở miền sơn cước, trẻ thơ dân tộc không phải
chỉ biết ăn, biết ngủ, biết học hành mà ngoài giờ học ra các em đã sớm phải tham gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46
lao động phụ giúp gia đình những công việc được coi như nặng nhọc với trẻ thơ thành
phố như: kiếm củi, hái măng, lên nương, lên rẫy, hái ngô, bắt cá, đi săn…Và bằng
con mắt bên trong của một người nhìn về dân tộc mình cũng như sự hồi tưởng từ ký
ức tuổi thơ, hơn ai hết, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện được một cách chân
thực nhất, sinh động nhất, thấm thía nhất về cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả
của trẻ thơ miền núi.
Tuổi thơ nơi rẻo cao không đơn thuần được ru ngủ trong những cánh diều lộng
gió, những viên bi xanh đỏ hay những câu chuyện cổ tích nhiệm màu mà trong thế
giới đó còn có những sự lo toan, những giọt mồ hôi mặn chát của cuộc sống lao động
vất vả đầy cực nhọc cùng những bữa đói, bữa no để đến lúc lớn khôn, những người
con của bản đó vẫn không quên được sự vất vả từ thưở thơ ấu của quê hương mình:
Trưa nay ở quê tôi
Thóc gạo trong nhà cạn vơi
Trẻ em mót sắn trên đồi
Người lớn vác thuổng vào rừng đào củ mài
Các chị, các mẹ mặc vải rách
Các em đi chân đất..
(Y Phương)
Cuộc sống của các em gắn liền với những buổi đi rừng hái củi, kiếm măng, bởi
vậy đối với các em, rừng thân thiết lắm. Rừng là chiếc ô, rừng là mái nhà, rừng là cả một
khoảng trời thơ bé. Các em có thể nghe được tiếng rì rào của gió, tiếng rì rầm thủ thỉ của
cây. Rừng đã trở thành bạn và hơn nữa là nguồn sống gắn bó, thân thiết của người miền
núi. Chính vì thế mỗi lần lên rừng kiếm củi các em vẫn nhớ tới việc bảo vệ rừng:
Tiếng dao lách cách giục sau lưng
Lấy củi
Lấy củi
Tiếng thôi thúc từ nơi bếp lửa hồng
Con người không thể sống thiếu lửa
Nhưng con người cũng không thể sống thiếu rừng
Rừng ơi!
(Rừng ơi - Lò Ngân Sủn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47
Cùng với những buổi đi rừng, hình ảnh chiếc gùi trên vai đã trở thành một biểu
tượng tiêu biểu cho cuộc sống lao động vất vả của con người miền núi. Chiếc gùi từ lâu trở
thành vật dụng gắn bó, thân thuộc không thể thiếu được với con người vùng cao:
Ở vùng cao con người vất vả
Chiếc gùi luôn đè nặng trên lưng
Cõng hết cả cửa nhà ngô lúa
Cõng trâu leo lên núi trập trùng
(Cõng trâu - Dương Thuấn)
Chiếc gùi đã đi theo họ cả cuộc đời, đã chứng kiến, chia sẻ bao buồn vui, vất
vả, khó nhọc với đồng bào miền núi bởi vậy trong hồi ức của một em bé Raglai về
“ngày xưa” của buôn làng cũng không thể thiếu hình ảnh chiếc gùi:
Em thấy bà mẹ Raglai
Áo rách lội qua con suối
Gùi cũng lội qua con suối
Đi về bóng plây xa xôi
(Người Raglai xưa - nay - Inrasara)
Cùng với đó, bức tranh toàn cảnh cuộc sống vùng cao hiện lên nghèo đói cơ
cực, thiếu thốn đến cả nguồn nước sạch: “Bấy lâu uống nước suối/ Hết suối rồi đến
ao/ Plây em tự thuở nào/ Ông rằng luôn thiếu nước” (Nước sạch về làng - Inrasara).
Cuộc sống khó khăn vất vả của quê nghèo không những buộc các em sớm phải
lao động cực nhọc, sớm phải đổ mồ hôi để đổi lấy miếng cơm manh áo mà còn lấy đi
cả những quyền lợi cơ bản nhất của trẻ thơ đó là những tiếng cười, là sự vô tư, hồn
nhiên trong sáng. Cuốc sống mưu sinh khiến các em phải “già dặn” hơn trong suy
nghĩ mà không được sống với sự vô tư trẻ thơ của mình:
Chiều về nơi đồi vắng
Bó củi trên lưng gầy
Bước chân em sải ngắn
Lòng chẳng vương bóng mây
(Buôn em - Niê Thanh Mai)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48
Rồi gánh nặng cuộc sống còn tước đi cả niềm vui được đến trường, được học
tập của các em. Vì cuộc sống gia đình khó khăn, không có điều kiện, một số em thiếu
nhi đã buộc phải dở dang việc học giữa chừng để gánh vác công việc cùng gia đình.
Đó là hình ảnh đáng thương của hai chị em mồ côi, chị phải nghỉ học để lo cho em,
động viên em cố gắng học tiếp làm yên lòng cha mẹ nơi chín suối:
Chị tạm ngưng cấp một
Em cố gắng học cao
Cha mẹ chắc thế nào
Cũng vui nơi chín suối
(Chị - em - Inrasara)
Đó thực sự là những trang thơ đầy xúc động về hiện thực cuộc sống còn nhiều
khó khăn, vất vả của đồng bào dân tộc thiểu số. Qua những trang thơ đó, các nhà thơ
đã giúp người đọc thêm hiểu, thêm đồng cảm với cuộc sống lam lũ của các em.
Tuy nhiên, bên cạnh những gam màu trầm này lại là những khoảng màu rực rỡ
về cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên con đường phát triển và đổi mới
trong cái nhìn đầy tươi sáng, lạc quan của trẻ thơ. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đồng bào dân tộc đã biết sử dụng
máy móc làm việc để giảm bớt sức lao động của con người, tiết kiệm thời gian và
tăng năng suất lao động. Hình ảnh chiếc máy cày qua cái nhìn của các em hiện lên
thật ngộ nghĩnh, đáng yêu như một cỗ máy có phép thuật kì diệu:
Chiếc máy cày
Không tay mà khéo léo
Thêu luống cho đất
Dệt cây xanh đồng
Lúa nên bông.
(Chiếc máy cày - Lò ngân Sủn)
Và đằng sau hình ảnh chiếc máy cày đó là cuộc sống no đủ, yên vui của bản,
của mường dần hiện ra, một cuộc sống mới dần khởi sắc trên quê hương vùng cao:
“Chiếc máy cày/…Nối tua còn cho đất/ Nối tua mắt cho mường” (Chiếc máy cày - Lò
Ngân Sủn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49
Cùng với hình ảnh chiếc máy cày thì chiếc máy ủi cũng được các em đón nhận
bằng ánh mắt đầy thân thương, trìu mến. Bằng trí tưởng tượng phong phú của mình,
hình ảnh chiếc máy ủi qua góc nhìn trẻ thơ hiện lên sinh động, hấp dẫn như những
con bọ hung của núi rừng với một sức mạnh vô biên có thể làm thay đổi cả bộ mặt
của quê hương vùng cao:
Những con bọ hung
…Lấp sông, ủi đất
Gạt phăng tảng đá
Khơi dòng ánh sáng
San sân làm nhà
Mở đường ta đi.
(Những con bọ hung - Lò Ngân Sủn)
Cuốc sống mới tươi sáng đang dần hình thành trên những bản làng vùng cao,
cùng với sự hỗ trợ của máy móc trong sản xuất nông nghiệp thì sự xuất hiện của điện
lưới cũng góp sức quan trọng vào sự phát triển của vùng cao, xóa dần đi ranh giới,
khảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Trẻ thơ dân tộc đón điện và nước về trong
sự mừng reo, náo nức, như đón tiếp một người khách quý từ xa đến chơi và sẽ gắn bó
mãi mãi cùng các em: “Điện về như mắt sáng/ Thắp đời làng tối tăm/ Mương như tay
mẹ hiền/ Xoa dịu đồng khô hạn/ Mỗi sáng em đến trường/ Như lần đầu, sướng quá/
Mỗi bước qua con mương/ Nước như là khách lạ”(Nước sạch về làng - Inrasara).
Điện về, nước về, nhiều ngôi trường mới được xây lên gần nhà hơn, không còn
qua sông, vượt núi, trèo đèo, không còn hiện tượng thầy vắng trò hay trò đến lớp trễ hoặc
nghỉ học vì đường đến trường quá xa, các em hân hoan, phấn khởi trong niềm vui trường
mới. Cả một khoảng trời tri thức, một tương lai tươi sáng mở ra trước mắt các em:
Ngôi trường mới xây lên rồi
Bạn thôi trễ lớp, thầy thôi vắng trò
Đi rừng cha mẹ hết lo
Gió nam hết nạt những bờ môi xinh
(Trường mới ở Plây - Trà Ma Hani)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50
Diện mạo quê hương đổi mới từng ngày hiện lên trong niềm vui sướng, xúc
động, phấn chấn đầy tự hào của trẻ thơ dân tộc: “Năm ngoái con đường nhỏ/ Đi chợ
còn khó sao/ Năm nay đường to mở/ Về đến tận bản rồi/ Sớm nay đường xuống chợ/
Ngựa xe đi như suối/ Người người mặc áo mới/ Đẹp xinh như hoa rừng” (Con đường
mới - Dương Khâu Luông.)
Bằng những nét vẽ tươi sáng, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã phác
họa lên bức tranh cuộc sống đang dần đổi mới, thoát nghèo, thoát khổ của đồng bào
dân tộc với “Lúa vàng sân / Thóc đầy bồ” (Tiếng kẻng - Lò Ngân Sủn). Cuộc sống
của các em tuy còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng đang dần thay da đổi thịt ở phía
trước trong sự hân hoan, vui sướng, niềm lạc quan, tin tưởng của trẻ thơ dân tộc.
2.2.2. Những sinh hoạt phong phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa của trẻ em dân
tộc thiểu số
Thế giới của trẻ thơ là thế giới của sự trong sáng, tinh khôi của những tiếng
cười đùa rộn rã. Dù cuộc sống miền núi còn nhiều vất vả song trẻ thơ dân tộc không
thể thiếu vắng những tiếng cười, những niềm vui thể hiện qua những sinh hoạt phong
phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa in đậm dấu ấn vùng, miền. Và qua những trang thơ
viết về đời sống sinh hoạt phong phú của trẻ thơ dân tộc, các nhà thơ dân tộc thiểu số
đã thực hiện thành công một chuyến du ngoạn tìm về quá khứ để sống lại với một
miền cổ tích tuổi thơ đã xa của mình.
Trước hết những sinh hoạt phong phú, đặc sắc trong đời sống của trẻ thơ dân
tộc thiểu số ghi dấu rõ qua những trò chơi gắn liền với tuổi thơ của các em. Trẻ thơ
mỗi vùng, mỗi miền lại có những trò chơi khác nhau, những trò chơi đó thường gắn
liền, bắt nguồn từ chính cuộc sống xung quanh các em. Nếu như trẻ thơ đồng bằng
thường gắn liền với những trò chơi như cá ngựa, đánh tam cúc hay đánh chuyền,
đánh chắt: “Không chạm đến đất/ Quả bóng trên tay/ Que chuyền biết bay/ Que
chuyền biết hát” (Que chuyền - Xuân Quỳnh) thì trẻ thơ dân tộc thiểu số cũng có một
sân chơi riêng với những trò chơi vô cùng hấp dẫn, mới lạ. Đó là trò chơi nghe đã rất
lạ từ cái tên - trò chơi “ bắt sương”. Sống hòa vào thiên nhiên, lứa tuổi măng non
miền núi đã tìm thấy niềm vui từ chính thiên nhiên. Sương khói vùng cao vì vậy
không phải là tác nhân gây cản trở cho cuộc sống con người mà còn đi vào trò chơi
của các em nhỏ với đầy sự háo hức, thích thú:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51
Bay bay
Đâu đâu cũng thấy
Sớm xuân tha hồ chơi bắt sương
(Sớm xuân - Dương Thuấn)
Rồi trò chơi đuổi theo trăng. Nếu như ở thành phố, nhiều nhà cao tầng, đèn
điện thay thế bóng trăng, trăng đối với thiếu nhi thành phố dường như xa lạ thì ở
miền núi cao, trăng rất thân thuộc với trẻ thơ. Đối với các em trăng gần gũi như chiếc
liềm của mẹ, chiếc võng của bà, trái bưởi chín vàng thơm trong vườn hay con thuyền
nhỏ trôi trên sông và trăng thì có bao giờ đứng yên. Bởi vậy, các em đã nghĩ ra trò
đuổi trăng. Trăng như một người bạn thân thiết cũng ham vui nhận lời mời rủ chơi
của các em và chỉ đến khi mải chơi trăng không còn đường chạy buộc phải chạy
xuống nước khiến các em cười vang thích thú:
Những em bé xứ Mây
Tóc nâu
Da thơm mùi cỏ
Chạy đuổi theo trăng
Trăng chạy xuống nước
Cả lũ đứng cười ha hả
(Em bé xứ Mây - Dương Thuấn)
Tuổi thơ miền núi còn gắn liền với những con suối, con sông cùng những buổi
chiều tắm sông chơi trò “rái cá bắt cá” đã in sâu vào kí ức không thể quên:
Trên sông khi bóng chiều òa đến
Một lũ gái trai cùng cởi phăng quần áo
Ra giữa dòng sâu chơi “Rái cá bắt cá”
Rái cá đuổi theo túm bắt lấy bàn chân
Kẻ làm cá bị bắt sẽ quay đầu lại đuổi
Thắng và thua cũng trong vực vùng quanh
Nước vỡ ì ùm chẳng có ai thấm mệt
Tối lên bờ vội và mặc lẫn áo của nhau
(Ngày còn bé - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52
Trò chơi thả diều cũng được trẻ thơ miền núi đặc biệt yêu thích. Khi đàn trâu,
đàn bò đã ăn no cỏ, những cô bé, cậu bé mục đồng lại thi nhau thả diều rồi hòa mình
theo tiếng sáo diều vi vu như những khúc hát thần tiên:
Giữa đàn bò chú bé thả diều lên
Chiếc diều bay căng dây no gió
Chiều biếc xanh chưa bao giờ xanh thế
Sáo diều ngân khúc hát thần tiên
(Chú bé và đàn bò - Dương Khâu Luông)
Rồi trò chơi đánh quay - trò chơi được nhiều thanh thiếu niên miền núi yêu
thích đặc biệt là con trai. Trò chơi này thường được tổ chức vào những ngày lễ, ngày
hội mùa xuân. Trên một bãi đất rộng và bằng phẳng, những thanh niên của bản sẽ
chuẩn bị trước mỗi người một con quay làm bằng gỗ được chạm trổ công phu theo
kinh nghiệm của mỗi người. Và khi cuộc thi đến, trai bản nào điều khiển được con
quay của mình quay được tít nhất, lâu nhất có thể hạ gục các con quay của người
cùng chơi thì con quay đó thắng. Người chiến thắng sẽ chứng tỏ được tài năng, sự
khéo léo trong việc làm quay cũng như điều khiển con quay của mình và được người
xem ngưỡng mộ. Bởi vậy, những trận đánh quay bao giờ cũng diễn ra hết sức náo
nhiệt, sôi động, căng thẳng có cả sự cãi vã, tức tối trong đó:
Những con quay bằng lõi ké, lõi chẩn
Quay ngâm bùn vừa đen vừa nặng
Vung dây rồi quay tít trên sân.
Trận đánh bao, đánh chẵn, đánh lẻ
Đánh quay nắm, quay treo, quay dây
Những con quay đập vào nhau đốp chát…
Chỉ một chút nhầm lẫn hay gian lận
Là có thể gây ra cãi vã ầm ầm
Trận đánh đang vui bỗng hầm hầm tức tối…
(Đánh quay - Lò Ngân Sủn)
Nhưng khi trò chơi kết thúc, sau những phút ganh đua quyết liệt mọi người lại
bắt tay nhau thân thiện. Trận đấu có thắng có thua nhưng quan trọng là ai cũng được
chơi, được vui và thể hiện mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53
Tan cuộc rồi - khi cơn hăng dịu lại
Những con quay lại nằm im trong túi áo, túi quần
Ai nấy lại nhìn nhau bằng con mắt thường ngày.
(Đánh quay - Lò Ngân Sủn)
Ngoài ra ở miền núi cao này còn rất nhiều những trò chơi dân gian truyền
thống trong ngày tết đến xuân về, được đông đảo đồng bào dân tộc và trẻ thơ rất yêu
thích như trò chơi đánh yến, đánh pao, tung còn, bắn nỏ, đua thuyền, bắn tên, bắt
vịt…Và cùng với những trò chơi này, mùa xuân rẻo cao hiện lên vui tươi, rộn rã hơn
bao giờ hết:
Tết đến rồi! Mùa xuân!
Nhiều trò chơi vui quá
Đám chơi bịt mắt bắt dê
Đám thì chơi đánh yến
Đám cùng thi bắn nỏ
Đám ngồi chơi lày cỏ
Đám thì chơi đánh quay
... niềm vui tràn đầy
Tiếng cười vang bên suối
(Trò chơi - Dương Thuấn)
Có thể thấy trong khung cảnh thanh bình của thiên nhiên vùng núi, tuổi thơ
các em đã được sống hồn nhiên, trong sáng cùng những trò chơi gần gũi, quen thuộc
bên những bạn bè cùng trang lứa. Không mất tiền để mua được những đồ chơi đắt
tiền như trẻ thơ thành phố, những trò chơi của các em thường rất đơn giản, gắn liền
với thiên nhiên song vô cùng hấp dẫn, phong phú, đa dạng và sinh động. Những trò
chơi ấy thực sự đã mang lại những tràng cười rộn rã, thích thú sau những giờ học
căng thẳng, những lúc lao động vất vả giúp gia đình của các em.
Bên cạnh những trò chơi vui tươi, đặc sắc thì cuộc sống sinh hoạt phong phú
của trẻ thơ dân tộc thiểu số còn gắn liền với những lễ hội cùng những phong tục tập
quán đặc trưng của đồng bào các dân tộc. Chính những lễ hội cùng những phong tục
tập quán này đã trở thành một phần kí ức sâu đậm, không thể phai mờ trong tâm hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54
trẻ thơ vùng cao. Các em đã quan sát, đã sống trong các lễ hội, phong tục tập quán
của quê hương mình, của dân tộc mình để từ đó cất lên tiếng nói rất riêng về tâm hồn
dân tộc. Mùa xuân với người vùng cao không đơn giản chỉ là một kì nghỉ dài mà cùng
với tết đến xuân về, người vùng cao lại bắt đầu một vụ mùa mới để kịp với mưa xuân.
Bởi vậy, ngày tết bên cạnh sự rộn rã, tươi vui, náo nức của thiên nhiên, vạn vật đón
xuân về lại là cảnh đồng bào dân tộc nhộn nhịp rủ nhau lên nương, ra đồng để “trồng
xuân”, “cấy xuân”:
Mừng xuân
Mừng tết
Người người
Giục ngựa lên nương
Giục trâu xuống ruộng
Trồng cây trên núi
Cấy xuân trên đồng.
(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)
Cùng với đó là cách đón tết, cũng giống như người Kinh, các dân tộc thiểu số
cũng đón tết Nguyên Đán song mỗi dân tộc lại có bản sắc riêng vô cùng phong phú,
độc đáo. Đối với dân tộc Tày, để đón tết đến nhà nào cũng phải trang trí nhà cửa.
Cách trang trí nhà cửa của Người Tày rất độc đáo, họ trang trí nhà cửa bằng các tấm
giấy đỏ. Trong quan niệm của họ, màu đỏ là màu của sự may mắn, tốt lành nên tết
đến đối với người Tày là cả một không gian sáng rực màu giấy “ hồng đào” từ trong
nhà ra đến ngõ, từ trong thôn đến ngoài bản:
Tết đến
Trước bàn thờ
Trước cửa ra vào
Trên cây vườn trước ngõ
Sáng rực những tấm giấy hồng đào
(Tết đến - Dương Thuấn)
Lứa tuổi trẻ thơ là lứa tuổi của những câu chuyện cổ tích và những chiếc bánh
ngọt bởi vậy ngày tết đọng lại trong tâm trí các em là dư vị của nhưng món ăn truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55
thống như: bánh trôi, bánh trưng, thịt gà, xôi đen đỏ: “Tết đến/ Nào bánh trôi/ Nào
bánh trưng/ Nào gà, xôi đen đỏ” (Tết đến - Dương Thuấn).
Trong tâm trạng hân hoan đón tết, mọi người lại háo hức, gấp rút sắm sửa cho
mình những món quà nhỏ để tham dự hội xuân:
Chị tìm lông gà làm yến
Mẹ nhuộm chỉ khâu còn
Em bện dây đánh quay
Ai cũng vui đón ngày tết đến
(Đón tết - Dương Khâu Luông)
Bên cạnh đó, qua những trang thơ thiếu nhi miền núi, ngoài ngày tết Nguyên
Đán thì các nhà thơ dân tộc thiểu số còn mang đến cho người đọc biết thêm nhiều lễ
hội gắn với những phong tục đặc trưng của đồng bào các dân tộc như: hội Lồng Tồng
của dân tộc Tày, hội kèn Pí Lè của dân tộc Giáy, hội khai hạ, khuộng mùa của dân tộc
Mường, hội diều, hội Katê của dân tộc Chăm hay hội trống Ginang của đồng bào Tây
Nguyên nói chung…. Bằng sự gắn bó tha thiết với quê hương mình, dân tộc mình,
các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tái hiện lại không khí của những ngày lễ hội hết sức
sinh động qua cái nhìn của trẻ thơ.
Lễ hội Lồng Tồng hay còn gọi là lễ hội xuống đồng là lễ hội lớn của người Tày
thường tổ chức vào đầu năm để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Trong ngày lễ này thường diễn ra nhiều trò chơi vui nhộn và không thể thiếu những
điệu then, điệu lượn, điệu sli. Bởi vậy, ngoài những trò chơi hấp dẫn thì những điệu
hát ngọt ngào của dân tộc này đã trở thành một ấn tượng đẹp, một niềm nhớ trong
tâm trí của trẻ thơ về lễ hội:
Câu dân ca gọi em về với bản
Điệu then nào cũng muốn nói lời vui
(Đến Bắc Kạn - Dương Khâu Luông)
Đó còn là lễ hội Khuộng mùa của người Mường trong thơ Lò Cao Nhum. Lễ
hội này diễn ra trong trong không khí vui tươi, rộn rã giữa tiếng khấn của thầy mo,
tiếng khèn, tiếng chiêng ngân vang với hy vọng xua đuổi tà ma để đón một vụ mùa
bội thu của bà con dân tộc Mường:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56
Lễ Khuộng mùa
Gọi Mường dưới hãy lên
Gọi Mường trên cùng xuống
Xua thần trùng trôi suối
Xua bóng tối lên mây
…Sinh ra lời đẹp, tiếng lành
Sinh ra văn hóa
Trường tồn dân gian
(Đêm mường Bui - Lò Cao Nhum)
Rồi lễ hội Katê - một lễ hội dân gian thiêng liêng, đặc sắc và rất quan trọng trong
đời sống tinh thần, tín ngưỡng của dân tộc Chăm. Trong lễ hội này, người còn sống
tưởng nhớ đến những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc đã được
tôn vinh thành thần. Khi lễ hội diễn ra, người dân thường tập trung tại các đền tháp cổ
kính - biểu tượng của dân tộc Chăm và thưởng thức các điệu múa dân gian trong kho
tàng âm nhạc dân tộc. Mọi người nghỉ ngơi, đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Bởi
vậy, dưới con mắt trẻ thơ, lễ hội Katê diễn ra vô cùng tưng bừng, rộn rã, náo nhiệt:
Katê ngày mở hội
Hội mở khắp làng Chăm.
…Bỏ nhọc nhằn năm cũ
Người đi tay trong tay
Bờ môi nối tiếng cười
Mắt tìm nhau thắp ấm..
(Hội làng Chăm - Inrasara)
Cùng với hội Katê, tiếng trống Ginang cũng trở thành một di sản văn hóa quý
báu của người Chăm nói riêng cũng như dân tộc Tây Nguyên nói chung. Âm thanh
của tiếng trống đã trải qua một thời gian dài “trăm năm và ngàn năm” của lịch sử,
vượt qua bao gian nan, gập ghềnh để thức dậy “hồn dân tộc” bao thế hệ. Trong những
ngày hội lớn, âm thanh của tiếng trống Ginang lại vang lên cùng với những điệu
trống phong phú của người Chăm để xua đuổi những tăm tối mời gọi những điều may
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57
mắn, tốt lành đến với buôn làng. Tiếng trống đã đồng điệu với điệu tâm hồn của
người Chăm, đã đi theo họ suốt cuộc đời từ lúc bé thơ:
Êm dịu điệu Biyen Tiong
Hùng tráng nhịp Tang Hok
Sôi nổi điệu Chei Tathun
Buồn buồn khúc Atapah
Trăm năm rồi ngàn năm
Tổ tiên mình nhảy múa
Theo nhịp trống ginang
(Trống Ginang - Inrasara)
Ngày hội thả diều cũng là một ngày hội lớn của nhiều đồng bào dân tộc trên
đất nước ta. Từ một trò chơi truyền thống gắn liền với những mục đồng chăn trâu,
thổi sáo thì trò chơi thả diều đã trở thành một ngày hội lớn ẩn chứa những giá trị văn
hóa tinh thần to lớn của dân tộc. Bởi vậy, ngày hội thả diều cũng được các nhà thơ
dân tộc thiểu số ghi lại qua những trang thơ thiếu nhi của mình hết sức dung dị, tự
nhiên nhưng vẫn chứa đầy sự reo vui, náo nức của trẻ thơ:
Một cánh diều - trăm cánh diều
Bay là bay lên - bay cao hơn nữa
Ăn gió cho no - sức dài cứ mở
Một cánh diều - ba cánh diều
Bay là bay cao - tung mình gió lớn
(Hội diều - Inrasara)
Và đi kèm với những trang thơ rực rỡ sắc màu của không khí lễ hội, các nhà thơ
thiếu nhi dân tộc thiểu số cũng thể hiện một cách chân thực mà thiêng liêng những nét
đẹp trong phong tục tập quán của dân tộc mình. Đó là phong tục thờ cúng, nhớ ơn ông bà
tổ tiên đầu năm mới, phong tục chúc tết, phong tục khâu quần áo cho ông bà đầu năm để
“Trời rét ông bà có diện kịp/ Quên già bởi tuổi lại sang xuân” (Khâu áo cho ông bà -
Bàn Tài Đoàn) hay phong tục thể hiện qua việc dựng cửa, làm nhà rất riêng của từng dân
tộc… Có thể thấy tất cả những phong tục, tập quán đó đều được các nhà thơ thiếu nhi
miền núi thể hiện bằng tình yêu tha thiết, niềm tự hào to lớn về dân tộc mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm nên phong tục
(Nói với con - Y Phương)
Theo thời gian cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, đời sống của đồng
bào các dân tộc cũng có sự đổi thay nhưng những lễ hội cùng những phong tục tập
quán tốt đẹp ẩn chứa những giá trị văn hóa tinh thần to lớn thì còn mãi. Tất cả điều đó
đã góp phần hình thành nên nếp sống và sinh hoạt đầy màu sắc của đồng bào các dân
tộc Việt Nam. Qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, bên
cạnh việc hiểu thêm về các phong tục tập quán của từng dân tộc, vùng miền, người
đọc còn cảm nhận được niềm tự hào, ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc
không chỉ của các nhà thơ mà còn của cả thế hệ thiếu nhi dân tộc khi được nuôi
dưỡng, được tắm mình, được lớn lên trong suối nguồn văn hóa đó.
2.3. Trẻ thơ dân tộc thiểu số với những ước mơ, trăn trở và khát vọng
2.3.1. Ước mơ được học tập, hiểu biết về thế giới muôn màu
Mặc dù hoàn cảnh sống còn nhiều khó khăn, vất vả song cũng giống như tất cả
trẻ thơ trên thế giới, trẻ thơ dân tộc luôn mang theo bên mình những ước mơ, những
khát vọng được học tập cũng như được tìm hiểu, hiểu biết về thế giới muôn màu xung
quanh các em. Đây cũng là một điều rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi thơ - lứa tuổi
nhìn cuộc sống với đầy sự háo hức, mới mẻ, thích thú, tò mò của ánh mắt lúc nào
cũng là lần đầu tiên: lần đầu tiên được nhìn thấy, lần đầu tiên nhận thấy, nghe thấy...
Bởi vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng gì cũng khiến các em thắc mắc, đặt ra muôn ngàn
câu hỏi vì sao. Việc tìm hiểu để đi đến giải thích, trả lời được các câu hỏi đó sẽ làm
cho các em thêm hiểu biết, lớn dần và trưởng thành hơn. Và những ước mơ, mong
muốn được hiểu biết, được khám phá đó của trẻ thơ đã được các nhà thơ dân tộc thiểu
số thể hiện rất chân thực, sinh động qua những trang thơ - những món quà đầy ý
nghĩa dành tặng thiếu nhi của mình.
Qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, trẻ thơ miền núi
hiện lên là những em nhỏ hiếu học. Mỗi ngày đến trường đối với các em là một niềm vui
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59
lớn. Kho kiến thức bất tận ẩn chứa bao điều diệu kỳ luôn luôn có sức hút lớn mời gọi các
em tham gia tìm hiểu. Mỗi trang sách mở ra là bao ước mơ, hy vọng của các em:
Khi trang sách mở ra
Biết bao điều hấp dẫn
Những con số thần kỳ
Dòng chữ đen bí ẩn
…Khi trang sách mở ra
Mở ra chân trời mới
(Khi trang sách mở - Bùi Thị Tuyết Mai)
Mỗi ngày đến trường đối với các em là một ngày vui, ngày hội. Niềm vui hiện
lên trên từng khuôn mặt ngây thơ, từng nụ cười, ánh mắt “Đầy ắp khoảng trời riêng”
của các em. Tuổi học trò của các em là lứa tuổi đẹp nhất, hồn nhiên nhất, trong sáng
nhất trong cuộc đời mỗi con người. Bằng cái nhìn trải nghiệm của đời người, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã có những vần thơ đầy rung động về niềm vui của lứa tuổi học
trò với những cảm xúc rất riêng:
Tuổi học trò
Như hoa mới nở
Vừa rạo rực như lửa
Vừa rụt rè ngây thơ
Ước mơ chắp cánh bay đi khắp phương trời
(Tuổi học trò - Lò Ngân Sủn)
Hiện thực cuộc sống của đồng bào dân tộc dù còn nhiều thiếu thốn, để đến
được với cái chữ các em phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách nhưng với tinh thần
hiếu học các trẻ thơ dân tộc thiểu số sẵn sàng vượt qua tất cả thực hiện ước mơ được
hiểu biết, được khám phá thế giới tri thức của mình. Có thể hình ảnh “đèn đom đóm”
đối với trẻ thơ thành phố chỉ là một câu chuyện kể để đề cao tinh thần vượt khó học
tập của người xưa thì điều này lại là chuyện rất bình thường đối với trẻ thơ ở miền núi
khi mà thực tế ở nhiều vùng sâu, xa chưa có điện. Ở đó, nguồn sáng chủ yếu để các
em học bài, đọc sách là ánh sáng của ngọn đèn dầu leo lét. Bởi vậy, hình ảnh cái bật
lửa cùng ngọn đèn đã trở thành người bạn đồng hành quen thuộc trên con đường
khám phá tri thức của trẻ thơ vùng cao:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60
Em bật cái: cạch
Thắp lên
Ngọn đèn.
Đêm ngồi
Đọc sách
Ngọn lửa
Nhìn em!
(Cái bật lửa - Lò Ngân Sủn)
Nếu như ở thành phố hiện đại, trẻ thơ đến trường thuận lợi bằng các phương
tiện xe cộ thì ở miền núi cao các em chủ yếu phải đi bộ đến trường. Tuy nhiên quãng
đường đến trường của các em không phải là đơn giản, bằng phẳng mà đó là cả một sự
gian nan, vất vả thậm chí còn là hiểm nguy luôn rình rập đối với những em ở bản sâu
xa. Và quãng đường đó luôn là cả một chặng hành trình dài đầy sự thử thách, đe dọa
dưới con mắt trẻ thơ: “Đêm gà gáy lần đầu / Dậy gọi nhau đi học/ Bó đuốc to sáng
rực/ Í ới gọi lên đường/ Cây lá còn rơi sương/ Áo quần khô thành ướt/ Hôm mưa trơn
bước trượt/ Ngã áo bẩn quay về/ Hôm hổ đói gầm ghè/ Gõ um rừng tiếng mõ/ Hôm
bỗng rừng đổ gió/ Cành rơi ngập lối đi/ Hôm nước suối lên to/ Cầu trôi, vin hàng
sậy” (Bản xa đi học - Dương Thuấn).
Song dù vất vả, khó khăn là thế nhưng các em vẫn quyết tâm bám lớp, bám
trường. Hình ảnh trẻ thơ miền núi mang trên mình chiếc cặp, chân bước thấp bước
cao trên dốc núi cheo leo như chạy đua cùng mặt trời đã trở thành một biểu tượng
đẹp, đáng ngưỡng mộ cho ý chí, nghị lực, tinh thần hiếu học quyết tâm đến với ánh
sáng tri thức của trẻ thơ miền núi:
Sáng nào cũng như vậy
Mỗi người một chiếc gậy
Vượt rắn dữ, hùm beo
Bên dốc núi cheo leo
Bên mặt trời chân bước
(Bản xa đi học - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61
Dường như cuộc sống càng khó khăn, vất vả, các em càng thêm nghị lực để
quyết tâm học tập. Học để trau dồi tri thức, học để đổi đời, để thoát nghèo, để xây
dựng, phát triển quê hương. Bởi vậy trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều những tấm
gương sáng là các em thiếu nhi dân tộc vượt khó học tập. Xã hội cũng như các đoàn
thể cần khích lệ hơn nữa tinh thần của các em bằng những hành động cụ thể để các
em có điều kiện thực hiện được ước mơ của mình.
Cùng với ước mơ được đến trường, được học tập thì tâm hồn trong sáng của trẻ
thơ dân tộc thiểu số còn luôn khát khao muốn tìm hiểu, hiểu biết về thế giới xung
quanh mình. Điều đó được thể hiện thông qua muôn vàn những câu hỏi, những thắc
mắc rất ngây thơ của các em: “Em hỏi chim chim bay về đâu”, “Em hỏi mây mây trôi
về đâu”, “Em hỏi gió”, “Em hỏi sông” (Câu hỏi - Inrasara), tại sao gà lại chọi nhau,
tại sao trâu lại húc nhau…(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn). Và bằng tấm lòng
yêu mến trẻ thơ của mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã có những sự lý giải rất hóm
hỉnh, dễ thương song lại hoàn toàn logic, hợp lý trong trường suy luận của trẻ thơ: hoa
lục bình màu tím vì hiếu học không thể quên được những trang sách mực tím “ghi bài
học ban đầu” (Hoa lục bình - Thái Vĩnh Linh), cây lúa trèo thang vì “Bờ khe ít đất/
Núi chen nhau hóa chật/ Cây lúa phải trèo thang” (Cây lúa trèo thang - Bùi Thị Tuyết
Mai), gà chọi nhau vì có cải mỏ nhọn, trâu húc nhau vì có cái sừng trên đầu, ngựa đá
nhau vì có hai chân sau rất khỏe, chó cắn nhau vì tranh phần gậm xương (Những điều
con hỏi - Lò Ngân Sủn), sự hình thành của núi và sóng biển qua cái nhìn của các nhà
thơ cũng rất đặc biệt bắt nguồn từ tình bạn thân thiết giữa biển và núi:
Biển vươn mình ôm núi
Hóa thành sóng nhấp nhô
Núi hiểu lòng của biển
Núi duỗi dài lô xô…
(Núi và biển - Dương Thuấn)
Hay phát hiện thú vị về những con đường của sương, của gió rồi qua đó các
nhà thơ dân tộc đã có sự liên tưởng bất ngờ đến con đường của mẹ và của bé để qua
đó giúp các em nhận ra thế giới là muôn hình, muôn vẻ nhưng ai, sự việc gì cũng có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62
những công việc riêng trong thế giới của nó: “Đường của sương /Đi trên cỏ / Đường
của gió / Chui trong cây/ Đường lên nương/ Đường của mẹ / Đường của bé/ Đi tới
trường” (Những con đường - Dương Thuấn).
Có thể nói thế giới muôn màu đối với các em là cả một kho tàng ẩn chứa biết
bao điều kì diệu, bí ẩn mà các em luôn khao khát được tìm hiểu, khám phá. Đồng
điệu với tâm hồn trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi nói chung cũng như các nhà thơ thiếu
nhi dân tộc thiểu số nói riêng đã nói và nhìn cuộc sống theo cách riêng của các em để
tìm giải đáp cho những bí ẩn, thắc mắc đó. Cách giải đáp hết sức bất ngờ, mọi điều
tưởng chừng như vô lý thì lại trở nên rất hợp lý, hợp logic trong sự nhận thức của trẻ
thơ. Đồng thời quan trọng hơn qua đó, các nhà nhà thơ dân tộc đã phác họa thành
công bức tranh tâm hồn ngây thơ, trong sáng, cùng phẩm chất ham học hỏi, ham hiểu
biết của trẻ thơ dân tộc và qua những phẩm chất tốt đẹp này chúng ta hoàn toàn có thể
tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của quê hương vùng cao.
2.3.2. Những trăn trở và khát vọng của trẻ thơ dân tộc thiểu số
Thế giới tuổi thơ là thế giới của sự hồn nhiên, trong sáng tuy nhiên cuộc sống
vốn không phải lúc nào cũng bằng phẳng mà ẩn chứa trong đó đầy sự phức tạp, biến
cố. Trẻ thơ vốn lại rất nhạy cảm với những gì diễn ra xung quanh mình bởi vậy với
mỗi sự việc được chứng kiến hay được nghe, được kể lại của cuộc sống đã in đậm
dấu ấn trong tâm hồn trẻ thơ có cả vui lẫn buồn, cả sự háo hức lẫn sự trăn trở, suy tư
đồng thời qua đó các em cũng thể hiện những suy nghĩ, những khát vọng của chính
bản thân mình trước những vấn đề đặt ra của cuộc sống.
Cuộc sống của đồng bào dân tộc không chỉ diễn ra thanh bình, yên ả sau
những quả đồi, ngọn núi, rừng cây mà ở đó còn tồn tại nhiều vấn đề, hiện tượng khiến
cho người dân miền núi trong đó có thế hệ măng non phải suy nghĩ, phải bận lòng. Từ
những câu hỏi vô tư về thế giới loài vật “sao gà lại chọi nhau”, “sao trâu lại húc
nhau”…các em đã liên hệ đến thế giới của con người. Qua một câu hỏi ngây thơ của
em nhỏ song người đọc lại chợt giật mình nhận ra một sự trăn trở không hề nhỏ trong
đầu óc còn non nớt của các em. Đó là vấn đề bạo lực - một vấn đề lớn trong xã hội
hiện nay. Chẳng phải con gà sinh ra đã có mỏ để mổ nhau, chẳng phải con trâu sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63
ra đã có sừng để húc nhau vậy mà lại có hiện tượng con người đánh nhau. Có thể giải
thích được thế giới loài vật nhưng lại bất lực khi giải thích về thế giới con người. Bởi
vậy, câu hỏi “Thế sao người lại đánh nhau ?” (Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)
đã tạo nên một khoảng trống lớn với chiều sâu trong suy nghĩ không chỉ đối với trẻ
thơ mà còn đối với mỗi người lớn khi đối diện với vấn đề này.
Vấn đề tiếng nói dân tộc cũng được các em quan tâm đến. Qua câu chuyện các
em chứng kiến được của một bạn người Mông là học sinh Anh ngữ trong dịp hè được
trở về quê gặp lại bà. Nhưng buồn thay khi bà và cháu gặp nhau thì:
Cháu nói bằng tiếng Việt
Bà nói bằng tiếng Mông
Không hiểu được tiếng nhau
(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)
Để bà và cháu hiểu được nhau thì người bố phải đứng ra làm phiên dịch.
Thông qua câu chuyện đó, chính các em chứ không ai khác đã ý thức được việc đang
mai một dần của ngôn ngữ dân tộc - thứ tiếng riêng của quê hương, của nơi chôn
nhau cắt rốn, thứ tiếng mà bà, mẹ đã ru ta từ lức ấu thơ nhưng trong cuộc sống hiện
đại đang dần bị lãng quên, bị thay thế bởi những ngôn ngữ khác:
Ôi tiếng nói tiếng nói
Ở trên trái đất này
Có rất nhiều thứ tiếng
Và có một thứ tiếng
Gọi là tiếng quê hương!
(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)
Bằng một cái nhìn, một sự cảm nhận khách quan của trẻ thơ, các tác giả dân
tộc thiểu số đã đánh lên một hồi chuông cảnh báo về sự mất mát dần của các giá trị
văn hóa dân tộc trong đó có ngôn ngữ. Ngôn ngữ dân tộc bao gồm tiếng nói và chữ
viết được dùng làm phương tiện giao tiếp riêng của từng dân tộc. Ngôn ngữ dân tộc là
một phương diện quan trọng của bản sắc văn hóa. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay,
cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, ngôn ngữ dân tộc đang bị mai một và lãng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64
quên. Có những dân tộc không còn đủ cả tiếng nói và chữ viết. Có những người con
dân tộc thậm chí còn không biết đến ngôn ngữ của dân tộc mình. Ngôn ngữ là nguồn
cội bởi vậy vấn đề nhắc nhở thế hệ trẻ ý thức được việc gìn giữ ngôn ngữ dân tộc là
một việc làm cấp thiết trong tình hình xã hội đang hướng tới hội nhập, toàn cầu hóa
hiện nay.
Bên cạnh đó còn là sự băn khoăn của các em trước việc con người khai thác
rừng kiếm củi. Vẫn biết con người sống không thể thiếu ánh lửa hồng, thiếu củi
nhưng rừng khai thác mãi rồi sẽ hết và các em cũng bàng hoàng nhận ra con người
không thể sống thiếu rừng:
Tiếng thôi thúc từ nơi bếp lửa hồng
Con người không thể sống thiếu lửa
Nhưng con người cũng không thể sống thiếu rừng
Rừng ơi!
(Rừng ơi - Lò Ngân Sủn)
Đó là những suy nghĩ, những băn khoăn rất chính đáng của các em trước
những vấn đề, những bức xúc đang ngày ngày diễn ra trên quê hương mình. Và cũng
chính từ những những suy nghĩ, ưu tư đó, những khát vọng hồn nhiên, tươi sáng về
cuộc sống mới vùng cao được nảy mầm trong tâm hồn trong sáng của các em. Nhận
thức được tầm quan trọng của rừng với cuộc sống con người, các em nuôi khát vọng
sẽ trả lại màu xanh cho đồi, hồi sinh cho rừng để rừng mãi là ngôi nhà chung, là
nguồn sống của con người cũng như muôn loài động vật, cỏ cây:
Thì ta làm màu xanh
Thì ta nuôi màu xanh
Trả màu xanh cho đời
(Khúc ca màu xanh - Inrasara)
Cùng với đó là mong ước về một cuộc sống mà con người không đánh lộn, thù
hằn nhau, không có sự phân biệt dân tộc, vùng miền mà chỉ có tình yêu thương, lòng
nhân ái tỏa sáng dù là người Ba Na hay người Chăm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65
Tôi hỏi bạn từ đâu về đây
…Tôi hỏi bạn tại sao về đây
Bạn lặng lẽ nhìn tôi - đôi mắt bạn tròn đen ngấn nước
Tôi biết bạn đang ở đây, nơi này - trong bàn tay mẹ Chăm
-đã năm năm - sẽ nhiều năm nữa - trong vòng tay dịu hiền Plây mới
Bạn lặng lẽ nhìn tôi - Trong mắt bạn long lanh nắng ấm
(Bạn BaNa ở làng Chăm - Trà Ma Hani)
Còn nhiều lắm muôn vàn những điều ước nhỏ nhoi của trẻ thơ dân tộc. Mỗi em
một điều ước không ai giống ai song ước mơ nào cũng đẹp, ước mơ nào cũng xinh
tươi, trong sáng vô ngần như chính tâm hồn của các em. Chính những ước mơ nhỏ bé
đó đã thắp sáng những khoảng màu còn tối của cuộc sống đồng bào các dân tộc và hứa
hẹn một cuộc sống mới tốt đẹp hơn trong tương lai: không có chiến tranh, không có đói
nghèo, trẻ thơ có cơm ăn, áo mặc, được đến trường học tập bao điều vui: Em: đất nước
thanh bình / Em mong ba sống lại/ Em ước chiếc áo lành/ Em: làng có nước sạch/ Em:
đừng ai đói nghèo/ Em mơ mái trường đẹp (Điều ước - Inrasara).
Và cũng không thể không đề cập đến khát vọng được bay cao, bay xa hòa
nhập với sự phát triển của cuộc hiện đại của thiếu nhi trong thơ của các nhà thơ dân
tộc thiểu số. Yêu quê hương tha thiết, gắn bó với từng bản làng, từng thửa ruộng bậc
thang, từng dòng sông con suối… song trẻ thơ dân tộc cũng luôn có khát vọng được
vươn mình đứng dậy “bước chân qua đèo núi / đến với mọi người” (Con thi đỗ đại
học - Dương Khâu Luông) để có thể nhìn ra xung quanh, học hỏi, hòa nhập được với
cuộc sống hiện đại. Cuộc sống bên ngoài như một bầu trời mới lạ, rộng mở luôn có sự
thu hút đối với các em để đến lúc lớn khôn, “sức rộng vai dài” các em sẽ thực hiện
khát vọng bay cao, bay xa của mình. Lời của người cha đất nắng bên cạnh việc động
viên con thực hiện giấc mơ, hoài bão của mình, tung hoành chí lớn ở bốn phương
song cũng nhắc nhở con đừng quên nguồn cội biết bao thấm thía, ý nghĩa:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66
Rồi mai con vươn thân mọc cánh
Bay khắp trời Mỹ trời Âu
Có hề chi đâu
Nếu lòng con còn nhớ về đất tổ.
…Rồi mai con mở trí rộng hồn
Tiếng Tây, tiếng Tàu biết đủ
Ngoan lắm con ơi
Nếu tha phương con chưa quên tiếng mẹ.
(Lời người cha đất nắng - Inrasara)
Và lời dạy đó cũng chính là hành trang vững chãi giúp các em thêm tự tin
bước vào đời, tự tin hòa nhập với cuộc sống mới phía trước song cũng không đánh
mất chính mình trước cuộc sống hiện đại với những mặt trái của nó.
Tiểu kết chương 2
Giáo sư Hà Minh Đức đã từng nói “thơ là tấm lòng nhưng thơ cũng chính là
cuộc sống” [50]. Qua những trang viết mộc mạc, dễ thương dành cho tuổi thơ, các tác
giả dân tộc thiểu số đã phản ánh một cách sinh động những khung cảnh thiên nhiên,
những nếp sống, sinh hoạt đặc trưng cùng những ước mơ, trăn trở và khát vọng của
các em. Đó là khung cảnh thiên nhiên miền núi hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ
tình, nên thơ với bức tranh thiên nhiên bốn mùa đặc trưng cùng một thế giới động vật,
cỏ cây phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó là hiện thực cuộc sống miền núi đang trên
đường đổi mới gắn liền với những sinh hoạt phong phú, độc đáo thể hiện qua những
trò chơi vui nhộn, những lễ hội dân gian đặc sắc cùng những phong tục, tập quán tốt
đẹp giàu ý nghĩa văn hóa của đồng bào dân tộc. Chính những yếu tố đó đã góp phần
quan trọng vào việc nuôi dưỡng, hun đúc nên phẩm chất, tâm hồn cũng như khát
vọng, hoài bão của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Tất cả điều này đã tạo nên sức hấp dẫn,
mới lạ, một tiếng nói riêng cho mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ
hiện đại trong suối nguồn văn học dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67
Chương 3
THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Ngôn ngữ mang sắc thái riêng
Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn học
nói chung và thơ ca nói riêng, “là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go - rơ- ki). Nó
là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà nghệ sĩ xây dựng lên tác phẩm, là “chìa khóa”
để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Có thể nói văn
chương là nghệ thuật của việc sắp đặt ngôn ngữ bởi vậy việc tìm hiểu ngôn ngữ nghệ
thuật để khám phá ra thế giới hình tượng trong tác phẩm cũng như tư tưởng của nhà
văn là việc làm hết sức quan trọng đối với nghiên cứu văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật là “một hệ thống các
phương thức, phương tiện tạo hình, biểu hiện; hệ thống các quy tắc thông báo bằng
tín hiệu thẩm mỹ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật” [4] như ngôn ngữ ba lê,
ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh .
Như vậy có thể thấy rằng bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang
tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ cao trong tác phẩm văn học đồng
thời thể hiện tài năng, cá tính, cách nhìn, cách cảm của nhà văn, nhà thơ đối với cuộc
sống con người. Và trên phương diện này có thể khẳng định các nhà thơ thiếu nhi dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã khá thành công trong lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ
nghệ thuật để khắc họa bức tranh cuộc sống, tâm hồn trẻ thơ dân tộc.
3.1.1. Ngôn ngữ thơ ngắn gọn, giản dị
Ngôn ngữ ngắn gọn, giản dị là một yêu cầu, một đặc trưng có bản của thơ
thiếu nhi. Bởi đối với lứa tuổi thiếu nhi, một bài thơ hay và có thể tác động trực tiếp
đến tâm tư, tình cảm của các em phải là một bài thơ ngắn gọn để các em dễ tiếp cận,
dễ nhớ đồng thời dễ hiểu. Làm thơ cho thiếu nhi không phải là một sự đánh đố các
em đằng sau câu chữ mà phải biến câu chữ đó trở nên dễ hiểu, có sức hấp dẫn, sức
hút đối với các em. Và để làm được điều đó thì trước tiên ngôn ngữ trong thơ thiếu
nhi phải ngắn gọn, trong sáng, giản dị thể hiện thông qua việc nhà thơ lựa chọn thể
thơ, cách ngắt nhịp cũng như cách diễn đạt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68
Về thể thơ và cách ngắt nhịp, qua việc tìm hiểu thơ viết cho thiếu nhi của một số
nhà thơ dân tộc thiểu số có thể thấy rằng các nhà thơ thường ưu tiên sử dụng nhiều
những thể thơ ngắn gọn như thể thơ 2 chữ, 3 chữ , 4 chữ, 5 chữ cùng với cách ngắt nhịp
ngắn. Việc sử dụng thể thơ và cách ngắt nhịp này gần với những bài hát đồng dao, bài
vè quen thuộc của trẻ thơ tạo nên một tâm thế nhẹ nhàng, hứng khởi cho trẻ khi tiếp
cận tác phẩm. Bài thơ về hòn cuội hấp dẫn trẻ thơ với thể thơ 3 chữ ngắn gọn, mỗi câu
thơ tạo thành một nhịp thơ chắc nịch, khỏe khoắn như những bước chân của trẻ:
Những hòn cuội
Béo béo tròn
Như lợn con
(Cuội hát - Dương Thuấn)
Hay với thể thơ 4 chữ thường được các nhà thơ ngắt nhịp chẵn 2/2 tạo nên sự
đăng đối hài hòa cho trẻ thơ khi đọc cũng như khi lấy hơi ngừng, nghỉ như:
- Làng Kinh / làng Tày
Chung nhau/ con suối
Mặn cùng/ hạt muối
Giống ngày/ giống đêm
(Ngôi nhà quê em - Nông Thị Ngọc Hòa)
Tích tắc/ tích tắc
Nhắc em/ rửa chân
Nhắc em/ rửa tay
Nhắc em/ rửa mặt
Nhắc em/ quét sân
Dọn mâm/ rửa bát
Học bài/ học hát
(Tích tắc tích tắc - Lò Ngân Sủn)
Ngoài ra thể thơ lục bát truyền thống cùng với lối ngắt nhịp chẵn cũng được
các nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng nhiều để mang lại một âm hưởng nhẹ nhàng, du
dương cho những trang thơ thiếu nhi của mình tạo nên sự lắng đọng trong cảm nhận
của thiếu nhi về bài thơ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69
Núi thiêng năm ấy, bây giờ
Rừng hoang đã hóa rừng thưa mất rồi
Rẫy Cò không bóng cò trôi
Mình ngồi nướng bắp kể thời xửa xưa
(Rẫy Cò nhà em - Trà Ma Hani)
Bên cạnh việc lựa chọn thể thơ, cách ngắt nhịp thơ ngắn gọn, ngôn ngữ thơ
thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số còn giản dị, dễ hiểu. Đó là thứ ngôn ngữ
được chắt lọc từ chính cuộc sống của đồng bào dân tộc được các nhà thơ đưa vào
trong thơ tự nhiên như những gì vốn có của nó, không cầu kỳ, chau chuốt:
Cả lớp yên lặng nào
Cô sẽ cho một phút
Em ghi lên điều ước
Chỉ một điều ước thôi
(Điều ước - Inrasara)
Sự giản dị của ngôn ngữ trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số còn thể hiện
thông qua cách diễn đạt. Các nhà thơ dân tộc thường sử dụng lối diễn đạt thẳng, trực
tiếp những gì mình nhìn thấy, cảm nhận thấy: “Bé Mi tuổi lên ba/ Bắt chước chị “ ê
a”/ Tay cầm bút, tay vẽ/ Vạch mãi thành chữ cha/ Tô nắn nót chữ mẹ/ Khoái chí reo
“ý a”!”(Theo tay chị - Mã Thế Vinh)
Đó là cách cắt nghĩa, định nghĩa trực tiếp rất ngắn gọn, mạch lạc, trong sáng
về thiên nhiên gắn với những hình ảnh đặc trưng của quê hương miền núi trong con
mắt trẻ thơ như: quả núi, ánh trăng, hạt lúa:
Thiên nhiên là quả núi
Ngồi cho em vẽ tranh
Thiên nhiên là ánh trăng
Soi cho em tập múa
Thiên nhiên là hạt lúa
Mẹ gánh về trên vai
(Thiên nhiên - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70
Và thông qua cách nói, cách định nghĩa đó, mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc
sống hàng ngày hiện lên dễ hiểu, gần gũi và gắn bó với trẻ thơ dân tộc hơn bao giờ
hết. Đó chính là cuộc sống của các em, là cái mà các em nhìn thấy, cảm thấy, tiếp xúc
hàng ngày.
Với một lối viết dung dị, tự nhiên, ngắn gọn cùng những hình ảnh thường thấy
trong cuộc sống lao động và sinh hoạt ở vùng cao, cách sử dụng ngôn ngữ ngắn gọn,
giản dị của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại thể hiện thông qua cách
lựa chọn thể thơ, cách ngắt nhịp cũng như cách diễn đạt rất phù hợp với tâm lý của trẻ
thơ dân tộc. Đó là lối tư duy thẳng, miêu tả trực tiếp những gì mình nhìn thấy, cảm
thấy không vòng vo nhiều ẩn ý - một trong những nét thuộc về bản chất của người
dân tộc nói chung cũng như trẻ thơ dân tộc nói riêng. Đồng thời thông qua cách sử
dụng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn các nhà thơ đã thể hiện được cái nhìn ngây thơ,
trong sáng của trẻ thơ dân tộc thiểu số trước các hiện tượng, sự việc diễn ra xung
quanh mình.
Tuy nhiên, vấn đề cũng cần bàn thêm là với lối diễn đạt thẳng, trực tiếp này
nhiều khi ngôn ngữ trong thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số còn
thiếu sự chau chuốt, xơ cứng trong cách diễn đạt dẫn đến thiếu sự uyển chuyển, mềm
mại của ngôn ngữ thơ. Vẫn còn cách diễn đạt mang đậm tính chất khẩu ngữ của ngôn
ngữ hàng ngày như:
Những lúc ngồi chụm đầu học hát
Nốt nhạc chưa quen
Giọng lạc nhiều bè
Nhưng sự hồn nhiên thì nghe chả lẫn vào đâu.
(Tuổi học trò - Lò Ngân Sủn)
Và chính điều đó đã trở thành một trong những hạn chế cần được khắc phục
trong cách dùng ngôn ngữ của các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số để mảng thơ này
trở nên thực sự hay và đặc sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71
3.1.2. Ngôn ngữ thơ giàu âm thanh, hình ảnh
Theo tâm lý lứa tuổi, điều để lại ấn tượng sắc, lâu bền nhất với tuổi thơ là
những gì các em được nhìn thấy, được nghe thấy. Bởi vậy, bằng tình yêu tha thiết với
trẻ thơ, ngôn ngữ được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số lựa chọn và sử dụng
nhiều đó là ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh. Điều này được thể hiện rõ thông qua
việc các nhà thơ dân tộc thường sử dụng nhiều những từ ngữ gợi âm thanh, màu sắc
để tạo nên tính nhạc cũng như tính họa cho những trang thơ thiếu nhi của mình đồng
thời tạo nên sự tác động trực tiếp, lâu bền trong cảm nhận của trẻ thơ dân tộc. Đó là
âm thanh rộn ràng, tươi vui, dồn dập của tiếng trống trung thu cùng tiếng hò reo của
trẻ thơ đã trở thành một miền kí ức không thể phai mờ trong tuổi thơ của mỗi người:
Tung tung cắc tung tung
Trống lân inh đầu ngõ
…Đèn ông sao chớp đỏ
Tiếng reo hò vang vang
(Trung Thu - Niê Thanh Mai)
Hay đó là âm thanh vội vã, háo hức theo từng bước chân của chú ngựa xuống
chợ phiên. Miêu tả âm thanh của con ngựa nhưng qua âm thanh đó nhà thơ Lò Ngân
Sủn đã lột tả cả sự háo hức, xốn xang được xuống chợ của cậu bé Mông:
Rung reng, rung reng
Em đi chợ phiên
Rạp mình trên ngựa
… Gió ào kéo ngược
Rung reng, rung reng
(Cưỡi ngựa - Lò Ngân Sủn)
Cuộc sống phong phú muôn màu, muôn vẻ cũng được các nhà thơ dân tộc
thiểu số ghi nhận lại thông qua sự mô phỏng những tiếng kêu rất riêng của muôn loài:
Chó con thì sủa “ách ách”, “âu âu”, gà rừng thì gáy “té… te… tè… te…”, cái cọn
nước kêu “cót két”, đuôi nhím lắc nghe “re re”, tù và đu đủ kêu “tu tu”, vượn gọi
bạn “ốc ốc”, chồn kêu “choa choa”, gấu chuyển động nghe kêu “rùng rình” , vịt kêu
“ạp ạp”, ngỗng gọi “oang oang”, tiếng con quay “đốp chát”, tiếng đồng hồ “tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72
tắc”, tiếng máy cày “ầm ầm”, tiếng máy xúc “phạch phạch”, “ xộc xộc” hay cùng là
tiếng mõ song tiếng mõ của trâu mẹ và nghé con nghe cũng có sự khác nhau:
Lốc cốc
Lốc cốc…
Tiếng tròn vo
Mõ to của trâu mẹ
Lách cách
Lách cách…
Tiếng nhè nhẹ
Mõ bé của nghé con
(Tiếng mõ - Dương Thuấn)
Tất cả những âm thanh đó là những âm thanh có thật của cuộc sống nhưng
cũng là những âm thanh vang vọng trong tâm hồn tuổi thơ. Những âm thanh đó đã
được các nhà thơ dân tộc khéo léo đưa vào từng trang thơ thiếu nhi của mình để tạo
nên một khu vườn âm nhạc tuổi thơ rộn ràng với những khúc nhạc tuổi thơ hấp dẫn
đối với các em thiếu nhi.
Cùng với cách sử dụng từ ngữ tràn ngập âm thanh thì để làm tăng tính họa, tính
tạo hình, trong thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng thường sử
dụng rất nhiều từ ngữ chỉ màu sắc. Cách sử dụng từ ngữ này đã tạo nên những ấn tượng
trực tiếp cho trẻ thơ về đối tượng được các nhà thơ đề cập đến. Và ở phương diện này
có thể thấy thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số là những bức tranh sinh động, tươi sáng tràn
ngập sắc màu ngôn ngữ. Đó là màu xanh của rừng, màu trắng của mây, màu vàng của
nắng, màu biếc của lá, màu lửa nung của đất, màu thắm của hoa đào, màu đen trũi của
con nòng nọc, hay màu mắt nổi vằn xanh, vằn đỏ của con sâu cơi:
Những con sâu cơi bằng ngón trỏ
Cặp mắt nổi vằn xanh, vằn đỏ
(Những con sâu cơi - Dương Thuấn)
Tất cả những màu sắc đó đã tạo thành một bức tranh thiên nhiên đặc sắc, tươi
vui, đầy sức sống, cuốn hút dưới con mắt trẻ thơ dân tộc thiểu số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73
Bên cạnh việc sử dụng hệ thống từ ngữ gợi âm thanh, màu sắc thì việc các
nhà thơ dân tộc sử dụng nhiều các biện pháp tu từ trong đó chủ yếu là biện pháp so
sánh và nhân hóa cũng làm tăng tính họa, tính nhạc, tạo nên sự hàm súc và biểu cảm
cao cho những trang thơ thiếu nhi của mình. Với biện pháp so sánh các sự vật, hiện
tượng tượng được nhà thơ đề cập đến trở nên sinh động, cụ thể và dễ hiểu hơn đối với
trẻ thơ. Đồng thời qua đó các nhà thơ đã thể hiện được trường liên tưởng đầy bất ngờ,
mới lạ trong tư duy của trẻ thơ dân tộc. Đó là hình ảnh mặt trời đầy sức gợi hình
“tròn như cái nong” (Mặt trời - Lò Ngân Sủn), chiếc máy cày có “ hai mắt sáng như
hai ông trăng tròn” (Chiếc máy cày - Dương Thuấn), rồi chiếc máy ủi giống như
“Những con bọ hung/ Làm bằng sắt/ Nung bằng lửa (Những con bọ hung - Lò Ngân
Sủn) hay âm thanh của suối Pí Lè có sự thay đổi khác nhau qua mỗi đoạn chảy đã
được các em so sánh với âm thanh của sấm, bão, của lá cây rừng trong sự cảm nhận
rất tinh tế của mình:
Đoạn nghe ầm ào như sấm như bão
Khúc nghe lao xao như tiếng lá cây rừng
(Suối Pí Lè - Lò Ngân Sủn)
Thông qua biện pháp so sánh, những đối tượng, sự vật trừu tượng đã được các
nhà thơ cụ thể hóa bằng những âm thanh, hình ảnh, sự vật gần gũi với các em để các
em có thể dễ hình dung và cảm nhận. Trong đó có rất nhiều những sự so sánh, liên
tưởng đầy bất ngờ, mới lạ như hình ảnh hoa Bjooc mạ được so sánh giống “chiếc váy
sờn”, hình ảnh dòng sông “xanh như lá nghệ”, nắng “vàng như mật”, những hòn cuội
“ béo béo tròn/ như con lợn”, những ngọn núi đi “như trâu kìn kịt”, ruộng bậc thang
như “Chiếc quạt trời xòe nan”… (Dương Thuấn). Thậm chí có những sự vật trừu
tượng song bằng biện pháp so sánh, các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng đem đến cho
các em sự cảm nhận giản dị, gần gũi nhất như: “Đời vui như cờ mở/ Hồn tươi như lá
xanh”, “Điện về như mắt sáng/ Mương như tay mẹ hiền” (Inrasara), “Lời then như
muôn hạt mưa xuân”, “Tình anh em không đi lại/ Như con đường hoang/ Như ngôi
nhà hoang/ Như mảnh vườn hoang/ Rậm cỏ” (Dương Khâu Luông). Qua đó có thể
thấy biện pháp tu từ so sánh đã phát huy cao độ tác dụng của nó trong thơ thiếu nhi
của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74
Cùng với biện pháp so sánh thì biện pháp nhân hóa đã được sử sụng triệt để
trong những trang thơ thiếu nhi miền núi. Dưới lăng kính trẻ thơ vạn vật kể cả cây cỏ,
muôn thú hay sự vật đều có một đời sống riêng vô cùng phong phú và hấp dẫn. Trong
thế giới riêng đó, chúng có thể nói chuyện, vui đùa hoặc có những suy nghĩ, trăn trở
giống như con người. Trong thế giới thần tiên lộng lẫy đó thiên nhiên như: mây,
nắng, rừng cũng biết điệu đà, làm dáng: “Mây/ Mặc áo trắng/ Nắng / Mặc áo vàng/
Rừng / Mặc áo xanh”(Lò Ngân Sủn).
Rồi đó là cuộc sống đông đúc, vui vẻ, thuận hòa của đại gia đình muông thú ẩn
sau sự âm u, tĩnh mịch của đại ngàn:
Trăn cuộn tròn ngẫm nghĩ
Khỉ đánh đu dây rừng
Hươu nai múa bên cây cổ thụ
Hổ báo ngồi chồm chỗm ngó xem
(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)
Hay câu chuyện đầy ngộ nghĩnh và thú vị giữa chú ếch và cá rô (Chú ếch ăn
trăng - Dương Thuấn), giữa chuột anh và chuột em về cách đối phó với kẻ thù mèo
vằn (Anh em chuột - Dương Thuấn) hay câu chuyện giữa bác trâu hiền lành cam
phận và con cọp nghênh ngang, tự đắc (Tại sao trâu không có hàm dưới - Inrasara).
Như vậy, bằng việc sử dụng ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh thông qua việc
dùng nhiều từ ngữ chỉ âm thanh, màu sắc cùng các biện pháp so sánh, nhân hóa, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã tạo dựng nên cho thiếu nhi dân tộc một thế giới hoàn toàn mới lạ,
sinh động đầy hấp dẫn - một thế giới thần tiên, cổ tích trong từng trang thơ của mình.
Đồng thời qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã giúp trẻ thơ phát triển tư duy liên
tưởng, tưởng tượng, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn và tình cảm của các em.
3.1.3. Ngôn ngữ thơ mang đậm bản sắc dân tộc
Các nhà thơ dân tộc thiểu số đại diện cho dân tộc mình luôn ý thức được việc
giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc và điều
này được thể hiện rõ trong từng trang thơ của họ thông qua cách sử dụng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại
mang đậm bản sắc riêng của từng dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75
Bản sắc dân tộc thể hiện trước hết qua cách dùng từ ngữ của các nhà thơ dân
tộc thiểu số. Họ đã sử dụng chính kho từ vựng của dân tộc mình để sáng tác nên tác
phẩm. Đó là bản sắc dân tộc Tày gắn liền với việc sử dụng từ ngữ quen thuộc của
người Tày trong thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Nông Quốc Chấn, Nông Thị
Ngọc Hòa… Thông thường, chúng ta hay dùng từ “đào măng” hay “bẻ măng” vì
măng là thân non của cây thuộc họ tre, trúc mọc dưới đất song trong ngôn ngữ cũng
như lối tư duy và diễn đạt của người Tày họ lại dùng là “hái măng” trong khi vốn dĩ
động từ “hái” thường được dùng với ý nghĩa dùng tay ngắt rời hoa, quả hay lá khỏi
cây với một khoảng cách ở xa với mặt đất. Gắn bó sâu sắc với dân tộc mình, “tỉ mẩn,
kiên nhẫn nhặt nhạnh những hạt ngọc trong cách ăn, lời nói, trong lối tư duy và đặc
điểm tâm lí của đồng bào mình” [26, tr.18], hơn một lần trong thơ thiếu nhi của các
nhà thơ Tày, chúng ta bắt gặp cách sử dụng từ “hái măng” - một cách diễn đạt rất
riêng của dân tộc:
Em lên rừng hái măng
Nghe vi vu gió hát
(Hái măng - Dương Thuấn)
Động từ “cõng” cũng được cũng được các nhà thơ dân tộc thiểu sổ sử dụng
nhiều trong thơ của mình với nhiều ý nghĩa khác nhau ngoài với nghĩa gốc được ghi
trong từ điển. Đó có thể là người cõng gùi, bà cõng cháu, sông cõng phà hay đường
cõng xe, ngựa cõng người, ngựa cõng hàng hóa:
Đường
Cõng xe
Cõng ngựa
Xe
ngựa
cõng người
cõng hàng
lên núi
lên bản
(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76
Ngoài ra, bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc
thiểu số còn thể hiện ở chỗ các nhà thơ thường sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ
địa danh của quê hương mình như: hồ Ba Bể, Bắc Kạn, sông Năng, bản Hon,
Phjabjooc (thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông), sông Bằng Giang (thơ Y
Phương), suối Pí Lè, bản Mường, Mương Bui, Mường Động (thơ Lò Ngân Sủn, Lò
Cao Nhum), làng Chăm, buôn, plây, Tuy Phong, tháp Chàm, Cà Ná, Ma Nới, Từ
Tâm, Phan Rang, Ban Mê, Raglai, làng Chakleng (thơ Inrasara, Trà Ma Hani)…
Cùng với việc dùng từ ngữ để gọi tên địa danh quê hương, các nhà thơ dân tộc
thiểu số còn sử dụng nhiều từ ngữ gợi người đọc liên tưởng đến không khí và cuộc
sống lao động, sinh hoạt đặc trưng của từng dân tộc như nương, ruộng, quả núi, đồi,
ngô, lúa, rừng cây bồ đề, rừng mỡ, rừng vầu, sàn trăng, cầu thang, nhà gác, thầy
mùn, hát then, lượn cọi…
Mây trắng treo đầu nguồn
Núi, đồi thi nhau chạy ngược
Địu đầy ngô, lúa, sắn, khoai…
(Núi đồi - Lò Ngân Sủn)
Lễ hội là một trong những nét văn hóa đặc sắc nhất của từng dân tộc. Mang
đậm dấu ấn dân tộc, ngôn ngữ trong thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại đó còn là ngôn ngữ của lễ hội. Những lễ hội đặc trưng của từng dân
tộc đã được thể hiện một cách trọn vẹn thông qua cách dùng những danh từ riêng gọi
tên từng lễ hội như: hội Lồng Tồng (dân tộc Tày), hội kèn Pí Lè (dân tộc Mông,
Giáy), hội Kate (dân tộc Chăm), hội diều (Dân tộc Chăm), hội trống Ginang (đồng
bào Tây Nguyên)… Tất cả đã tạo thành một mã ngôn ngữ rất riêng của từng dân tộc
như mã ngôn ngữ của dân tộc Chăm thể hiện qua các từ ngữ chỉ vũ điệu trống Biyen
Tiong, Tang hok, Chei Tathun, Atapah trong thơ Inrasara:
Êm dịu điệu Biyen Tiong
Hùng tráng nhịp Tang hok
Sôi nổi điệu Chei Tathun
Buồn buồn khúc Atapah
(Hồn trống Ginang - Inrasara)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77
Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số
còn có sự ảnh hưởng lớn từ các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là ảnh
hưởng của điệu lượn trong thơ Y Phương; hát mo trong thơ Lò Cao Nhum; điệu then,
điệu sli, điệu khèn, điệ lượn trong thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông:
Tiếng lượn xinh trắng ngần
Ngọt hơn ngàn tiếng chim
Không bắt được bỏ túi
Không cầm được để xem
Người nào yêu tiếng lượn
Tiếng lượn sẽ đến tìm
(Tiếng lượn - Dương Thuấn)
Rồi đó còn là cách diễn đạt rất riêng của dân tộc cũng được các nhà thơ dân
tộc thiểu số khéo léo thể hiện trong những trang thơ thiếu nhi của mình. Chẳng hạn
như trong khuôn âm của người Tày vốn không có thanh ngã, bởi vậy trong sáng tác
của mình, các nhà thơ Tày rất hạn chế sử dụng thanh này. Thậm chí có những đoạn
thơ dài hay bài thơ họ không dùng thanh “ngã”:
Cái áo của bà
Hai vai bạc phếch
Một bên nắng táp
Một bên mưa sa
Vai áo của bà
Gánh gió gánh mưa
Nhọc nhằn vất vả
(Cái áo của bà - Dương Khâu Luông)
Bên cạnh đó, những cách diễn đạt mang tính chất khẩu ngữ, dân dã hàng ngày
của từng dân tộc cũng trở thành ngôn ngữ thơ ca dưới ngòi bút của các nhà thơ. Nói
về cả cuộc đời đầy vất vả, cay đắng của mình, Lò Cao Nhum có một cách nói rất
riêng gắn liền với những món ăn, những gia vị gắn bó, không thể thiếu được trong đời
sống của dân tộc mình:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78
Con gái út dứt đi
Nỗi củ gừng và niềm lá đu đủ
Mưu sinh phập phù
Gai rừng núi đá
(Tóc trắng - Lò Cao Nhum)
Đó là lời dặn dò, nhắc nhở riêng của người cha Lũng Núi đối với đứa con của
mình về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đi rừng:
Con ơi con!
Làm con trai Lũng Núi
Khi đi rừng
Nhớ mang theo dao
Lối trong rừng không ai mở sẵn
Bằng con dao sắc của mình
Con tự mở lối đi
(Lời cha Lũng Núi – Trương Định)
Hay cách nói đầy tình cảm tha thiết của người cha đối với con qua cách gọi rất
riêng của dân tộc: người đồng mình
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm nên phong tục
(Nói với con - Y Phương)
Hay cách gọi thân thiết, gần gũi về dân tộc mình như: chú bé bản Hon, người
mẹ xứ Mây, em bé xứ Mây (thơ Dương Thuấn)…để thông qua cách gọi đó, các nhà
thơ thiếu nhi dân tộc đã thể hiện được hình ảnh, tầm vóc, vị thế, nét riêng không trộn
lẫn của dân tộc mình.
Như vậy có thể thấy rằng với việc sử dụng ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân tộc
thể hiện qua cách dùng từ ngữ, khẩu ngữ, cách gọi tên, miêu tả các lễ hội đặc trưng
của từng dân tộc, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số không những phản ánh được
điệu tâm hồn mình mà còn góp một tiếng nói quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy
những tinh hoa của dân tộc trong đó có vấn đề ngôn ngữ dân tộc. Và cùng với ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79
ngữ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh, âm thanh, thì với ngôn ngữ mang đậm dấu ấn
dân tộc, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tạo nên một diện mạo riêng, sức hút riêng cho
những trang thơ viết về thiếu nhi của mình.
3.2. Giọng điệu nghệ thuật
Giọng điệu nghệ thuật có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình sáng tạo của
nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu nghệ thuật vừa là yếu tố quyết định để nhà văn, nhà thơ
tạo nên đứa con tinh thần của mình, thể hiện cái nhìn, bày tỏ thái độ, tình cảm trước
hiện thực cuộc sống vừa là phương tiện đặc sắc giúp người đọc thâm nhập vào thế
giới tinh thần của tác giả. Theo Nguyễn Đăng Điệp “giọng điệu là một thước đo
không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách đọc đáo của người nghệ sĩ” [3].
Như vậy có thể thấy giọng điệu nghệ thuật có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong
quá trình sáng tác của nhà văn, nhà thơ. Vậy bản chất của khái niệm giọng điệu là gì?
Theo Trần Đình Sử, giọng điệu chính là “một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ
bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ”. Giọng điệu nghệ thuật
tồn tại trong thế giới nghệ thuật và là một trong những phạm trù cơ bản của thi pháp
học. Cùng với quan điểm đó, các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học cũng đưa ra
định nghĩa về giọng điệu. Theo đó, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường, tư
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân, sơ, kính trọng hay suồng sã, ngơi ca hay châm biếm” [4, tr.92].
Thơ ca thiếu nhi miền núi đã khẳng định được vị trí, chỗ đứng của mình trên
thi đàn thơ ca nói chung cũng như thơ thiếu nhi Việt Nam nói riêng bằng một giọng
điệu thơ hết sức riêng biệt mà thông qua đó, người đọc đã cảm nhận, đã đồng điệu
được với tâm hồn trẻ thơ miền núi. Đó là giọng điệu trong sáng, hồn nhiên, tinh
nghịch, hóm hỉnh song cũng có lúc thâm trầm, tha thiết, triết lý, chiêm nghiệm…Tất
cả đã góp phần làm nên nét đặc sắc riêng không thể trộn lẫn cho giọng điệu của mảng
thơ thiếu nhi miền núi.
3.2.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên
Có thể thấy giọng điệu trong sáng, hồn nhiên là một giọng điệu thường thấy
trong thơ viết cho thiếu nhi như thơ của Trần Đăng Khoa, Phạm Hổ, Võ Quảng…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80
song từ trong giọng điệu chung đó, các nhà thơ dân tộc miền núi đã thổi vào đó chất
sống của con người xứ núi để tạo nên một giọng điệu riêng cho thơ của mình. Giọng
điệu trong sáng hồn nhiên trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số thể hiện rõ thông qua
cách nói, cách so sánh, liên tưởng gần gũi nhưng đầy bất ngờ của các em về các hiện
tượng, sự vật của tự nhiên. Với nhãn quan của trẻ thơ vùng cao, thiên nhiên hiện lên
gần gũi, gắn bó với những vật dụng, đồ dùng sinh hoạt không thể thiếu được đối với
cuộc sống con người:
Cột quân là đồi
Cột cái là núi
Mái lợp bằng rừng cây xanh
(Ngôi nhà - Lò Ngân Sủn)
Từ màu sắc vốn có của các loài chim trong môi trường tự nhiên, các em có sự
liên tưởng đầy sáng tạo: “Màu lông của cô Sáo/ Đen nhẻm y nhọ nồi/ Chị Cò dáng lả
lướt/Cánh mịn tựa hạt xôi/ Em Vàng Anh ríu rít/ Áo giống màu nghệ tươi”(Sắc màu -
Hoàng Hữu Sang). Chính nhờ cuộc sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên cùng với
một tâm hồn trong sáng của trẻ thơ đã giúp các em có được những liên tưởng kì diệu
như vậy về thiên nhiên.
Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên trong thơ thiếu nhi miền núi còn được các
nhà thơ thể hiện rõ thông qua những trang thơ viết về chính các em gắn với những
đặc điểm, tính cách, cách tư duy trẻ thơ. Đó là tính cách trẻ con gắn liền với những
niềm vui, những hờn dỗi tưởng chừng như vô tận thường thấy trong thế giới trẻ thơ
cùng muôn vàn lí do ngộ nghĩnh:
Buổi sáng mặt trời mọc
Con bảo: mặt trăng lên
Buổi tối mặt trăng lên
Con bảo: mặt trời mọc
Bố lắc đầu - con khóc
Bố gật đầu - con cười
(Bố con - Lò Ngân Sủn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81
Là cách các nhà thơ hóa thân thành những cô bé, cậu bé vùng cao để thông qua
đó giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hồn nhiên, dễ thương trong tâm hồn của các
em dù cuộc sống miền núi còn nhiều vất vả thiếu thốn:
Nắng sớm bừng rộn rã
Bước chân em rộn ràng
Hòa theo tiếng chim vang
Gùi ơi - lên nương nhé!
(Buôn em - Niê Thanh Mai)
Với một giọng thơ tươi vui, trong sáng đầy da diết, cuộc sống của trẻ thơ miền
núi hiện lên trong lao động, vất vả song không vì vậy mà làm mất đi sự hồn nhiên,
trong sáng của trẻ thơ.
Giọng điệu trong sáng hồn nhiên còn được thể hiện thông qua cách tư duy rất
tự nhiên, thật thà của em bé vùng cao khi so sánh hai miền: miền xuôi và miền ngược
bằng sự hiểu biết của chính mình từ những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của các
em: “Bạn là người Kinh/ Quê ở dưới xuôi/ Mình là người Tày/ Quê ở miền ngược/
Quê bạn nhiều lúa/ Có lắm cá tôm/ Quê mình nhiều gỗ/ Có lắm chim muông/ Quê
bạn mặt trời/ Mọc bên bờ ruộng/ Quê mình mặt trời/ Lên từ đỉnh núi” (Quê bạn quê
mình - Dương Thuấn)
Bằng một lối nói, cách tư duy mộc mạc thông qua những hình ảnh so sánh, cậu
bé bản Hon đã đưa ra một cái nhìn đầy tươi mới của trẻ thơ miền núi về sự khác biệt
của hai miền xuôi - ngược. Điều đặc biệt là sự so sánh đó bắt nguồn từ những hình
ảnh, sự việc mà các em nhìn thấy, cảm thấy hàng ngày mà không phải dựa vào kiến
thức khoa học hay địa lý về vùng, miền.
Đặc biệt, giọng điệu trong sáng, hồn nhiên còn được các tác giả dân tộc thiểu
số đặc biệt yêu thích, sử dụng nhiều khi thể hiện tình cảm của trẻ thơ. Trẻ thơ thường
không giấu được cảm xúc, cười khi vui, khóc khi buồn, yêu thương thì rất thật. Bằng
một giọng thơ trong trẻo, hồn nhiên, các nhà thơ đã thể hiện một cách chân thực
những cung bậc tình cảm đó của trẻ thơ. Đó là tình cảm mẹ con thiêng liêng đầy xúc
động thể hiện qua những hành động, những việc làm, những lo lắng, quan tâm của trẻ
thơ khi mẹ ốm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82
Trưa nay mẹ ốm
Thằng em ngồi viết bài
Suốt buổi chẳng cười đùa
Chị đi tìm rau ngải
Mang về hơ lửa xông cho mẹ
Trưa nay mẹ ốm
Chị gắp thịt cho mẹ
Em gắp thịt cho mẹ
Chị rủ em ăn toàn rau
(Mẹ ốm - Y Phương)
Đó còn là tình cảm yêu thương, trìu mến song không kém phần da diết của
đứa cháu thơ dành cho bà ngoại lâu ngày mới xuống thăm của mình thể hiện thông
qua những câu thơ, những từ ngữ chứa chan cảm xúc: “Thương là thương ơi/ Này bà
ngoại nhé/ Tay nhăn nheo thôi/ Mà bồng cứ khoẻ/ Nhai trầu nhóp nhép/ Mà cười cứ
tươi/ Chẳng ở cái môi/ Mà nơi khóe mắt…” (Ngoại về thăm - Inrasara). Từng vần
thơ chứa đầy cảm xúc trong sáng của trẻ thơ như chợt thức dậy trong lòng mỗi người
đọc về hình ảnh người mẹ, người bà hiền dịu, tần tảo, vất vả cả đời hi sinh cho những
đứa con, đứa cháu thơ củả mình.
Như vậy có thể thấy rằng giọng điệu trong sáng, hồn nhiên được sử dụng khá
nhiều trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Với giọng điệu này, các
nhà thơ đã thể hiện được chân thực những tình cảm hồn nhiên, trong sáng của thiếu
nhi dân tộc trong cách cảm nhận thiên nhiên, cảm nhận cuộc sống quanh mình cũng
như cách tư duy, cách bộc lộ thái độ, tình cảm, cảm xúc mang đậm chất “trẻ thơ”.
3.2.2. Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh
Bên cạnh giọng điệu trong sáng, hồn nhiên thì giọng điệu tinh nghịch, hóm
hỉnh cũng là một trong những giọng thơ chủ đạo của mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu
số. Tinh nghịch, hóm hỉnh cũng là một phẩm chất đặc thù của lứa tuổi thơ - lứa tuổi
hiếu động luôn nhìn cuộc sống với lăng kính màu hồng vui nhộn. Bởi vậy thơ ca viết
cho thiếu nhi cũng không thể thiếu chất tinh nghịch, hóm hỉnh. Hơn nữa chất tinh
nghịch, hóm hỉnh của thơ thiếu nhi cũng giúp các em tiếp cận tác phẩm một cách vui
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83
vẻ, thoải mái hơn, để mỗi bài thơ thực sự là một món quà thú vị sau mỗi giờ học căng
thẳng hay công việc lao động vất vả của trẻ thơ miền núi. Giọng điệu tinh nghịch,
hóm hỉnh được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số sử dụng nhiều khi đi tìm hiểu,
lý giải cho các em những hiện tượng tự nhiên diễn ra trong cuộc sống thường ngày
hoặc chính các em tự đi tìm hiểu, cắt nghĩa những hiện tượng đó. Đó là cuộc hỏi đáp
đầy thú vị, dí dỏm giữa bố và con:
Bố ơi bố, sao gà lại chọi nhau?
À, vì gà có cái mỏ nhọn.
Thế sao trâu lại húc nhau?
À, vì trâu có cái sừng ở đầu
Thế vì sao ngựa lại đá nhau?
À, vì ngựa có hai cái chân sau rất khỏe
Thế sao chó lại cắn nhau?
À, vì chó hay tranh phần gậm xương
(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)
Bằng sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã sống mình với
tâm hồn trẻ thơ để giải đáp những thắc mắc của các em. Cách giải đáp đó không chỉ
giải tỏa những câu hỏi của các em mà còn mang lại sự bất ngờ, ngạc nhiên và cả
những tiếng cười sảng khoái. Gà chọi nhau đơn giản vì có cái mỏ nhọn, trâu húc nhau
đơn giản vì có chiếc sừng, chó cắn nhau vì tranh gậm xương…Cách giải thích đơn
giản nhưng lại rất phù hợp với logic trẻ thơ. Sau mỗi câu trả lời người đọc như nhận
thấy sự reo vui, đầy bất ngờ của các em khi nhận thức ra những điều mới lạ, gản dị
mà mình không ngờ tới.
Còn đây là lời giải thích dí dỏm cho tên thằng Cuội. Thằng Cuội thì cả người
lớn và trẻ con ai cũng biết “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa/ Để trâu ăn lúa gọi cha ồi
ồi” (đồng dao) nhưng để thắc mắc tại sao lại gọi là thằng Cuội thì thực sự chỉ có trẻ
thơ mới nghĩ ra. Hóa mình thành những nghệ sĩ nhí, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã
giải đáp thắc mắc này của các em một cách rất hóm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84
Cuội ngồi trong trăng
Có hàng ngàn tuổi
Mà ai cũng gọi
Là thằng Cuội thôi
Nếu như gọi khác
Không có trăng rồi
(Hỏi Cuội - Dương Thuấn)
Gọi là thằng Cuội đơn giản vì Cuội ngồi trong trăng mà thôi. Trăng là chị
Hằng thì Cuội cũng mãi mãi chỉ là thằng Cuội dù có hàng ngàn tuổi đi nữa vì nếu gọi
khác thì sẽ không còn trăng, không còn chị Hằng nữa. Cách giải thích của tác giả rất
tự nhiên, hóm hỉnh không những đã giải đáp được một cách rất có lý những thắc mắc
ngây ngô vô cùng trẻ con của các em mà còn mang lại cho các em những tiếng cười
hồn nhiên đầy sảng khoái.
Giọng điệu đầy hóm hỉnh, tinh nghịch còn thể hiện thông qua lời đối đáp giữa
các nhân vật mà các nhà thơ dân tộc thiểu số đã xây dựng nên trong tác phẩm của
mình. Đó là cuộc đối đáp giữa cọp và trâu trong Tại sao trâu không có hàm dưới của
Inrasara. Bằng ngôn ngữ của trẻ thơ, nhà thơ đã thể hiện rất thành công những đặc
điểm tính cách của hai nhân vật ngộ nghĩnh này. Chú cọp gắn liền với sự cao ngạo,
hống hách, nghênh ngang còn bác trâu gắn liền với sự chăm chỉ, cần cù, hiền lành:
- Này bác khờ kia
Dại gì dại thế
Thằng người bé tí
Xỏ mũi bác chơi
- Không, bác Cọp ơi
Thân người tuy nhỏ
Trí thời rất to
- À thì ra thế
Để ta thử cho
(Tại sao trâu không có hàm dưới? - Inrasara)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85
Cuộc đối thoại tuy ngắn gọn song đã làm thỏa mãn được sự hiếu kì của trẻ thơ
về cuộc gặp gỡ của hai nhân vật đặc biệt. Cách nhà thơ sử dụng ngôn ngữ đối thoại
để khắc họa đặc điểm của từng nhân vật, ngôn ngữ nói đi kèm với ngôn ngữ cử chỉ,
điệu bộ đã làm toát tiếng cười thích thú của trẻ thơ. Và càng thích thú hơn nữa khi các
em được tự hóa thân vào những nhân vật này để thể hiện những giọng điệu rất riêng
của nhân vật.
Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh còn được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu
số thể hiện thành công khi tái hiện lại những trò chơi vui nhộn gắn liền với tuổi thơ
của các em. Qua giọng thơ đó, người đọc phần nào cảm nhận được không khí vui
nhộn, rộn rã đầy ắp tiếng cười cũng như sự hào hứng của các em khi hết mình cùng
những trò chơi đó: “Dung dăng dung dẻ/ Một bầy trẻ nhỏ/ Chạy nhảy ngoài sân/
Thấy con thằn lằn/ Thò tay chộp bắt/ Thấy con chuột nhắt/ Hò nhau định vồ”
(Thương cá rô gầy - Hồ Chư)
Có thể thấy với chất giọng tinh nghịch, hóm hỉnh thì ở mảng thơ thiếu nhi dân
tộc thiểu số, bài thơ nào cũng vui tươi, khỏe khoắn mang âm hưởng của cuộc sống
vùng cao. Mỗi bài thơ thực sự trở thành một người bạn đường tuổi thơ vui nhộn của
thiếu nhi miền núi. Và ẩn đằng sau những nụ cười ròn rã, sảng khoái đó người đọc
nhận ra một tấm lòng tha thiết với tâm huyết muốn mang lại nhiều hơn niềm vui,
tiếng cười cho trẻ thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số.
3.2.3. Giọng điệu trữ tình, tha thiết
Thơ viết cho thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số bên cạnh những bài thơ
mang âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh cũng có không ít những bài thơ lại mang giọng
điệu trữ tình, tha thiết. Đó là những bài thơ thiếu nhi dành để ca ngợi cảnh sắc của
quê hương vùng cao cùng một vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ. Bằng một lời thơ tha
thiết, các nhà thơ đã khắc họa thành công bức tranh quê hương mình. Đó là quê
hương đẹp giàu, hùng vĩ với những cây cầu treo nối liền những đỉnh đèo xa cách, với
những tiếng khèn gọi bạn mùa xuân hòa lẫn trong tiếng gió, tiếng vó ngựa vọng về
cùng những bước chân người đi xa…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86
Cầu treo vắt qua đèo
Nhịp khèn lượn theo gió
Vó ngựa vọng cheo leo…
(Cầu treo - Lò Ngân Sủn):
Không miêu tả nhiều nhưng bức tranh quê hương hiện lên như một tứ thơ đầy
thơ mộng, trữ tình, một bản nhạc đầy duyên dáng qua những trang thơ viết về thiếu
nhi dân tộc thiểu số. Bằng một giọng thơ trữ tình, tha thiết cùng những nét chấm phá
nhẹ nhàng, các nhà thơ miền núi đã thể hiện được tình cảm của mình đối với mùa
xuân của đất nước, của quê hương:
Như một đàn bướm trắng
Đến đậu ở quanh nhà
Sáng dậy ra nhìn thấy
Ôi! Một trời tuyết sa
(Hoa lê - Dương Thuấn)
Quê hương miền núi vào xuân đẹp ngỡ ngàng và đầy ảo diệu với màu trắng
đặc trưng của hoa lê, hoa mận. Bằng một giọng thơ trữ tình đầy sức lôi cuốn, người
đọc như đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân vùng cao cùng tác giả qua
từng câu thơ.
Bên cạnh đó, hình ảnh quê hương hiện lên đầy sức hút dưới con mắt trẻ thơ
qua lời mời bạn đến thăm quê mình:
Bạn lại được đi dưới hàng dương
Lá như tạt mát xuống con đường
Ở đây tha hồ nghe nhạc cát
Gió bè cao và biển bè trầm
(Tuy Phong làng Chăm - Inrasara)
Lời mời bạn thủ thỉ như một lời tâm tình đầy tình cảm mà qua đó cô bé, cậu bé
Chăm đã giới thiệu về quê hương mình. Đó là miền quê vô cùng đẹp, vô cùng thú vị
của xứ nắng, xứ gió. Đến với quê hương miền Trung, bạn sẽ được đi bộ dưới những
hàng dương dài chắn cát, chắn sóng mùa nước lên. Rồi bạn sẽ được tha hồ nghe nhạc
cát mà chỉ duy nhất ở nơi đây mới được thiên nhiên ưu đãi. Và họa cùng nhạc cát sẽ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87
cả một dàn nhạc đặc biệt của tạo hóa với “gió bè cao” và “biển bè trầm”. Từng câu thơ
du dương như có tiếng sóng trùng dương, tiếng gió lao xao, ì ào…khiến chúng ta thêm
tự hào và yêu xiết bao quê hương nắng lửa miền Trung. Như vậy có thể thấy rằng bằng
một giọng điệu thơ tha thiết, trữ tình các thi sĩ dân tộc thiểu số đã thể hiện một cách sâu
sắc tình cảm, niềm tự hào về quê hương mình đồng thời đã khơi dậy tình yêu quê
hương, gắn bó với quê hương của tầng lớp thanh thiếu niên dân tộc thiểu số.
Ngoài ra giọng điệu trữ tình, tha thiết cũng im đậm trong thơ thiếu nhi của các
nhà thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện đại qua những trang thơ đề cập đến những vấn
đề, hoàn cảnh, cảnh ngộ đau thương, xúc động trong cuộc sống. Đó là tâm sự nghẹn
ngào của con chim én trước một khoảng vắng lặng đầy nhức nhối màu “lửa nung”
khi mà cả cánh rừng đã cháy. Hình ảnh chú én nhỏ tội nghiệp như đang cô đơn, bất
lực trước cuộc sống:
Én bay bịn rịn
Đậu xuống cành mít
Rung đôi cánh nhỏ
Trước một khoảng vắng
Đất màu lửa nung!
(Khoảng trời én bay - Lò Ngân Sủn)
Giọng thơ đầy nghẹn ngào, xúc động khi các nhà thơ viết về cuộc sống còn nghèo
đói, thiếu nước của đồng bào dân tộc “Lũ trâu cày ruộng cạn/ Mục đồng: nước đái trâu”
(Inrasara). Ở nơi đó, con người vẫn phải vật lộn, vất vả với cuộc sống mưu sinh:
Chiều về nơi đồi vắng
Bó củi trên lưng gầy
Bước chân em sải ngắn
Lòng chẳng vương bóng mây
(Buôn em - Niê Thanh Mai)
Hay câu chuyện thấm đẫm nỗi xót xa và thương cảm về những số phận kém
may mắn trong xã hội nhưng họ vẫn nỗ lực sống tốt, sống ý nghĩa và để lại cho đời
nhiều thông điệp quý báu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88
Elkosi…! Elkosi…!
Cả thế giới đã nghe nói về em
Dáng nhỏ xíu trên các diễn đàn
Ước mơ một thế giới không có AIDS
Elkosi…! Elkosi…!
Mười hai tuổi em đi vào cõi chết
Ánh mắt ngây thơ buồn bất tuyệt
Khẩn cầu toàn nhân loại ra tay…
(Elkosi - Dương Thuấn)
Không giống như những bài giảng đạo đức, bằng một giọng thơ trữ tình, tha
thiết, sâu lắng, thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện
đại đã đi vào lòng người đọc đặc biệt là lứa tuổi thơ một cách nhẹ nhàng, sâu sắc
như một nốt trầm xao xuyến nhưng lại có sức âm vang. Mỗi trang thơ là một bài
học lớn giúp các em biết yêu thương, đồng cảm, sẻ chia trước mỗi mảnh đời - mỗi
số phận của cuộc đời.
3.2.4. Giọng điệu suy tư, triết lý
Cùng với giọng trữ tình, tha thiết thì giọng điệu suy tư, triết lí cũng được sử dụng
nhiều trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số khi nhà thơ muốn đề cập đến các vấn đề thế sự
hoặc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em thiếu nhi. Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời
mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã gửi đến thế hệ măng non miền núi những lời nhắc
nhở giản dị mà vô cùng sâu sắc trong đó có việc giữ gìn tiếng nói dân tộc:
Ôi tiếng nói, tiếng nói
Ở trên trái đất này
Có rất nhiều thứ tiếng
Và có một thứ tiếng
Gọi là: tiếng quê hương!
(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)
Vấn đề nguồn cội cũng được nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số đề cập đến bằng
một giọng thơ mang tính thể nghiệm sâu sắc. Qua đó người đọc có thể dễ dàng nhận
thấy đó là sự day dứt của các nhà thơ đối với thế hệ trẻ trước tình trạng muốn thoát ly
khỏi quê hương vùng cao để tìm đến lập nghiệp nơi phố phường phồn hoa đô hội:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89
Ngày mai con xuống núi
Cùng tay nải hành trang đầu tiên
Đi như suối chảy về với biển
Chớ quên mạch đá cội nguồn
(Rồi ngày mai con đi - Lò Cao Nhum)
Từ đó các nhà thơ dân tộc thiểu số đã có những triết lý sâu sắc về mối quan hệ
giữa con người và quê hương như triết lý về hình ảnh cánh diều trong thơ Inrasara:
Một cánh diều - ba cánh diều
Bay là bay cao - tung mình gió lớn
Vẫn cứ cần dây- vẫn không quên đất
Gió là chí cả - dây là cuống nhau
Đất là quê hương - diều là sức trẻ
Cứ thế mà bay - sánh vai bốn bể
Ngày mai mỏi gió - đất lại thu về
Diều nghỉ trong quê - diều nằm với đất
(Hội diều” - Inrasara)
Cánh diều tượng trưng cho tuổi trẻ, sức trẻ, “gió là chí lớn, “dây” diều là
cuống nhau bám vào đất mẹ. Để có thể bay cao bay xa, con người không chỉ cần có
sức trẻ, chí lớn mà còn cần đến sợi dây vô hình bám chặt vào quê hương, nguồn cội.
Con người sống không thể thiếu quê hương giống như cánh diều không thể thiếu sợi
dây nối đất. Quê hương, nguồn cội bao giờ cũng là nơi bắt đầu, là nơi chắp cánh,
nâng đỡ ước mơ đồng thời cũng là chốn đi về bình yên nhất khi con người đã mỏi
gối, chồn chân trên cuộc đời. Bằng giọng thơ đầy sự trải nghiệm sâu sắc, các nhà thơ
thiếu nhi dân tộc đã mang đến cho trẻ thơ bài học sâu sắc về tình yêu quê hương và
lòng tự hào dân tộc qua hình ảnh giản dị “cánh diều”.
Bên cạnh đó, giọng thơ chiêm nghiệm, triết lý cũng được các nhà thơ dân tộc
thiểu số sử dụng để đưa ra những bài học ứng xử, bài học về mối quan hệ giữa con
người với con người trong xã hội. Đó là niềm tin vào phẩm chất của con người miền
núi: “Quê em/ Đường đèo dốc cong queo/ Chỉ có lòng người luôn thẳng/ Trời có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90
ngày mù sương/ Chỉ có lòng người luôn sáng!” (Quê em – Vi Hồng Nhân). Hay lời
khuyên nhẹ nhàng mà đầy thấm thía của người cha với con về cuộc đời, con người,
lối sống và cách sống:
Chỉ có người nói dối
Cái chữ không nói dối bao giờ
Đừng uống rượu một mình sẽ say
Đừng đi đường một mình sẽ buồn
(Lời khuyên của cha – Ma Phương Tân)
Đó còn là cái lý làm người mà ai cũng phải nhớ được rút ra thông qua hàng
loạt lập luận theo cách suy nghĩ, lý giải của người dân tộc:
Suối chảy ra mây
Cây thổi ra gió
Lúa mọc ra nắng
Nước mọc ra trăng sao
Đất mọc ra quê hương, tổ quốc
Tình yêu mọc ra hạnh phúc
Hận thù mọc ra chết chóc, khổ đau
Cái đầu mọc ra cái lý làm người
(Cái lý làm người - Lò Ngân Sủn)
Với một giọng thơ triết lý song không hề cao ngạo mà thủ thỉ, nhẹ nhàng,
những bài học làm người của các nhà thơ dân tộc thiểu số đã đi sâu và có sức lay
động lớn đến suy nghĩ, tình cảm của trẻ thơ. Đó là lời nhắc nhở sâu sắc cho trẻ thơ
trong thái độ, cách ứng xử đối với những số phận kém may mắn hơn mình:
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
…Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này
(Dặn con - Trà Ma Hani)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91
Hay bài học về mối quan hệ tình cảm gia đình, anh em ruột thịt:
Con ơi, con hãy nhớ
Anh em trong nhà là cùng xương thịt
Đói ăn đói mặc sẽ đến lúc no
Đói tình đói nghĩa thì chẳng ai cho
(Nhà của cha - Dương Thuấn)
Cuộc sống thiếu thốn mãi rồi sẽ có lúc no ấm làm ra bằng sức lao động của
bản thân mình nhưng nếu thiếu thốn, nghèo nàn về tình cảm thì không ai có thể làm
giàu cho mình được. Bởi vậy anh em phải trọng nhau ở cái tình, cái nghĩa. Từ sự đúc
kết kinh nghiệm của cuộc đời từng trải, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang lại cho
lứa tuổi măng non những bài học quý báu về cách làm người.
Như vậy, có thể thấy thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại rất phong phú, đa dạng về giọng điệu: từ giọng hồn nhiên, trong sáng,
dí dỏm, hài hước đến giọng trừ tình tha thiết hay suy tư, triết lý…Mỗi một giọng điệu
lại đem đến cho người đọc những cung bậc xúc cảm khác nhau về vấn đề mà nhà thơ
đề cập đến. Và quan trọng hơn, thông qua giọng điệu thơ đó, các thi sĩ miền núi đã
thể hiện được sự am hiểu sâu sắc cũng như niềm tin yêu, trân trọng của mình dành
cho tuổi thơ dân tộc thiểu số.
3.3. Kết cấu độc đáo
Một tác phẩm văn học dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể
nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố bộ phận như: nhân vật, cốt truyện, các biện pháp
nghệ thuật biểu hiện… Tất cả những yếu tố bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức
theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định
gọi là kết cấu. Nói cách khác, “kết cấu là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố trong tác
phẩm để tạo dựng được thế giới hình tượng giàu ý nghĩa thẩm mĩ, có khả năng khái
quát đời sống, thể hiện tư tưởng của nhà văn” [4, tr. 134].
Tìm hiểu thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại có thể thấy rằng ở
mảng thơ này, các nhà thơ đã có dụng công trong việc xây dựng những kết cấu thơ
linh hoạt, độc đáo, sáng tạo để phù hợp với đối tượng tiếp nhận là trẻ thơ miền núi.
Tìm hiểu thơ thiếu nhi miền núi của một số tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92
tôi nhận thấy có một số kiểu kết cấu thơ được sử dụng nhiều như: kết cấu tự sự, kết
cấu hỏi - đáp và kết cấu chuỗi sự việc (sự kiện) .
3.3.1. Kết cấu tự sự
Tự sự nghĩa là kể chuyện. Kết cấu tự sự là một kiểu kết cấu đặc thù của những
thể loại tự sự hay kịch tuy nhiên kiểu kết cấu này lại được các nhà thơ dân tộc thiểu
số vận dụng một cách linh hoạt trong thơ thiếu nhi của mình. Biểu hiện của kiểu kết
cấu tự sự này là các nhà thơ đã tạo dựng nên trong khu vườn tuổi thơ của mình những
câu chuyện vô cùng lí thú sinh động, có cốt chuyện, có nhân vật gắn liền với những
đặc điểm tính cách riêng và tất cả được xây dựng nên bằng ngôn ngữ thơ. Với kiểu
kết cấu này, những điều nhà thơ muốn nhắn nhủ sẽ được biểu hiện thông qua những
sự kiện cụ thể bởi vậy các em sẽ dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tiếp cận tác phẩm hơn. Và
qua việc sắp xếp tác phẩm như vậy có thể nhận thấy các nhà thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại vừa là nhà thơ song đồng thời cũng là những nhà
nghệ sĩ kể chuyện tài ba, duyên dáng với biệt tài dẫn dắt, lôi cuốn, thu hút trẻ thơ
bằng những câu chuyện độc đáo dưới hình thức thơ của mình. Đó là câu chuyện đầy
hấp dẫn, câu chuyện từ “ngày xửa ngày xưa” gọi về một giấc mơ cổ tích. Trong câu
chuyện đó các nhân vật hiện lên vô cùng sinh động, hấp dẫn:
Chuyện xưa kể rằng
Ở làng Chakleng
Cậu nhỏ tên Khó
Theo bà tên Khổ
Mót lúa ngoài đồng
(Chuyện xưa - Inrasara)
Bằng lối dẫn dắt mộc mạc, giản dị phảng phất âm hưởng của cổ tích, câu
chuyện của nhà thơ Chăm đã lôi cuốn các em ngay từ cách vào đề. Thêm vào đó là
cách tác giả gọi tên cụ thể địa danh và nhân vật đã củng có lòng tin của các em về độ
chân thực của câu chuyện nhà thơ kể. Và từ đó câu chuyện về cậu bé Khó bằng trí
thông minh của mình đã được lên làm vua xây dựng đất nước, giúp đỡ người dân đã
đi vào tâm hồn ngây thơ của các em một cách thích thú, nhẹ nhàng mà sâu sắc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93
Cậu nhỏ lớn lên
Làm vua đất nước
Khai mương đắp đập
Tưới nước xanh đồng
(Chuyện xưa - Inrasara)
Hay những câu chuyện ngộ nghĩnh, đáng yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số
nhằm mục đích giải thích cho các em các hiện tượng trong tự nhiên cũng như cuộc
sống như câu chuyện về sự tích các ngọn núi nhuốm màu huyền thoại trong thơ
Dương Thuấn, câu chuyện về chú mèo con “Xinh xinh tựa nắm len mềm biết đi”
nhưng vì mải chơi, xao nhãng học hành: “Hết đánh đáo rồi đánh bi/ Lại phơi nắng để
có khi nhức đầu…/ Suốt ngày chỉ biết rong chơi/ Không nghe cha mẹ nhãng lời thầy
cô” nên dẫn đến việc “Bỗng đâu râu tự mọc ra” để giải thích Vì sao mèo có râu của
nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa đã mang lại sự thích thú đầy ngạc nhiên cho thiếu nhi.
Rồi đó là câu chuyện đơn sơ, giản dị về hai bạn nhỏ lên núi gặp ổ trứng công có ba
quả. Hai bạn bàn tính nhau chuyện chia “chiến lợi phẩm” thu được nhưng:
Chia mãi chẳng đều
Chia đi, chia lại
Nếu người được một
Người lại được hai
(Chia trứng công - Dương Thuấn)
Không ai muốn mình bị thiệt, bị nhận phần ít hơn. Và cứ như vậy hai bạn nhỏ
ngồi chia từ sáng đến trưa mà vẫn không chia được. Và để giải quyết vấn đề, nhà thơ đã
để cho nhân vật thứ ba xuất hiện, là người cởi nút thắt của câu chuyện. Đó là một khách
qua đường đã bày cách chia trứng cho hai bạn nhỏ để ai cũng được đều nhau: “Mỗi
người một quả/ Còn lại quả kia/ Thì cho tôi nhé” (Chia trứng công - Dương Thuấn). Và
câu chuyện chia trứng kết thúc trong niềm vui sướng của hai bạn nhỏ khi nhận được
phần bằng nhau và đồng thời nhận ra cách chia rất đơn giản để đảm bảo sự công bằng:
Muốn chia đều nhau
Nào khó gì đâu
Chia người khác nữa
(Chia trứng công - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94
Từ câu chuyện giản dị, gần gũi ngoài việc để kể vui cho trẻ con nghe, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã mang lại cho các em bài học nhân sinh sâu sắc về cuộc sống
đó là bài học sự sẻ chia và đoàn kết.
Rồi đó là bài học về sự quan tâm, giúp đỡ người khác gặp hoàn cảnh khó khăn
thông qua câu chuyện các bạn nhỏ giúp chú cá rô gầy “ngược dòng mắc cạn” tìm về
với nguồn nước của mình:
Bầy trẻ bàn tán
Biết làm sao đây
Thương cá rô gầy
Cả lũ bấu xấu
Khênh chú cá con
Chân bước lon ton
Ra ao cùng thả
(Thương cá rô gầy - Hồ Chư)
Có thể nói với kiểu kết cấu tự sự thông qua những câu chuyện được kể dưới
hình thức thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã khéo léo đưa vào những vấn đề của
cuộc sống, qua đó trẻ thơ tự soi mình vào câu chuyện để rút ra những bài học nhận
thức cho mình. Thông qua câu chuyện người bạn là học sinh Anh ngữ trở về quê
hương đoàn tụ với người thân nhưng khi gặp nhau thì: “Cháu nói bằng tiếng Việt/ Bà
nói bằng tiếng Mông/ Không hiểu được tiếng nhau” (Tiếng quê hương - Lò Ngân
Sủn), nhà thơ đã đưa ra vấn đề gìn giữ tiếng quê hương, tiếng dân tộc một cách rất tự
nhiên buộc các em phải suy ngẫm. Có thể nói ở phương diện này những bài thơ thông
qua những câu chuyện ngắn, gọn, lý thú về các vấn đề đời sống có tác động sâu sắc
đến tâm hồn trẻ thơ hơn cả những khẩu hiệu hô hào thường thấy. Và đây cũng là một
trong những hiệu quả lớn của kiểu kết cấu tự sự trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số
Việt Nam thời kì hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95
3.3.2. Kết cấu hỏi - đáp
Thế giới của trẻ thơ là thế giới của những khát khao, giãy bày, tìm tòi và khám
phá những điều mới lạ. Trẻ thơ lớn lên từ những thắc mắc, những câu hỏi và hành
trình đi kiếm tìm giải đáp. Kiểu kết cấu hỏi - đáp hình thành xuất phát từ chính những
câu hỏi hồn nhiên, trong trẻo đó. Và vì viết cho thiếu nhi cũng chính là viết cho tuổi
thơ của mình bởi vậy kiểu kết cấu hỏi - đáp được nhiều nhà thơ thiếu nhi nói chung
cũng như nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng lựa chọn sử dụng để xây dựng
nên tác phẩm của mình như một phương thức, một gợi dẫn để đi vào thế giới tâm hồn
của trẻ thơ. Tuy nhiên, cùng một kiểu kết cấu hỏi - đáp song các nhà thơ dân tộc đã
có sự vận dụng khác nhau trong từng trang thơ thiếu nhi của mình. Đó có thể là kiểu
kết cấu hỏi - đáp đối thoại diễn ra giữa hai nhân vật. Trong trường hợp này trẻ thơ
thường là người hỏi, người nêu lên những thắc mắc còn người lớn là người đáp, đưa
ra câu trả lời. Đó thường là các cặp ông (bà) - cháu, bố (mẹ) - con, anh (chị) - em. Nội
dung cuộc hỏi đáp xoay quanh những câu hỏi, những thắc mắc ngộ nghĩnh, ngây thơ
của trẻ thơ trước những sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh các em:
Bố ơi bố sao gà lại chọi nhau?
À vì gà có cái mỏ nhọn
Bố ơi bố sao trâu lại húc nhau?
À vì trâu có cái sừng ở trên đầu
(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)
Hoặc cũng có thể là kết cấu hỏi - đáp độc thoại. Ở kiểu kết cấu này, trẻ thơ vừa
là người đưa ra câu hỏi song lại vừa là người trả lời. Qua đó, bằng sự đồng cảm với
tâm hồn trẻ thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện cách nhìn nhận, cảm nhận
của chính các em đối với những vấn đề được đề cập tới cũng như cuộc sống xung
quanh mình. Đó là thắc mắc ngây thơ của các em về hình dáng thay đổi của trăng rồi
cũng chính các em lại đưa ra lý giải cho thắc mắc đó dựa vào sự suy luận rất ngây thơ
của mình:
Phải trăng qua ruộng lúa
Nên trăng làm lưỡi liềm?
Phải trăng ghé mái hiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 96
Nên có trăng mắc võng?
Trăng đi qua vườn rộng
Hóa trải bưởi vàng thơm?
Phải trăng qua dòng sông
Trăng thành con thuyền nhỏ?
(Hỏi trăng - Dương Thuấn)
Rồi đó là thắc mắc của các em về các hiện tượng tự nhiên như mây, như gió:
Em hỏi mây mây trôi về đâu
- Mây chở bóng mát về che mẹ già
Em hỏi gió
- Cho nắng còn biết mình hanh
(Câu hỏi - Inrasara)
Hay thắc mắc về sự lung linh, huyền ảo của mảnh đất Sa Pa:
Màu Sa Pa màu gì?
Có phải màu của gió
Có phải màu của mây
Có phải màu của cây
(Màu Sa Pa - Dương Thuấn)
Điều đặc biệt của kết cấu hỏi - đáp là đã liên kết được nhiều những chi tiết,
hình ảnh thơ, những sự việc vốn không liên quan đến nhau nhưng lại cùng nhau xuất
hiện (gà chọi nhau, chó cắn nhau, trâu húc nhau, người đánh nhau…). Đơn giản vì
chúng cùng tồn tại trong trường thắc mắc rất lôgic của thế giới trẻ thơ mà thắc mắc
của trẻ thơ bao giờ cũng là vô hạn, vô cùng. Qua đó một mặt các nhà thơ dân tộc
thiểu số đã mang đến cho các em những kiến thức mới lạ, tăng khả năng hiểu biết của
các em về cuộc sống mặt khác đã thỏa mãn trí tò mò đáng yêu của lứa tuổi thơ.
3.3.3. Kết cấu chuỗi sự vật (sự việc)
Kiểu kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) là kiểu kết cấu thường gặp trong những bài
đồng dao, bài vè quen thuộc của thiếu nhi gắn liền với việc người viết dẫn ra những
chuỗi sự việc, hiện tượng có liên quan hoặc không liên quan đến nhau để thông qua
đó miêu tả hoặc giới thiệu các đặc điểm, đặc tính của sự vật, hiện tượng như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 97
Đầu trọc lông lốc
Là cái bình vôi
Mồm rộng loe môi
Là cái thìa ốc
Đôi chân xám mốc
Là con diệc trời
Ngủ đứng ngủ ngồi
Là con cò trắng
Hay bay hay tắm
Là con le le
(Đồng dao)
Ảnh hưởng từ thi pháp đồng dao, và đặc biệt là những bài đồng dao quen
thuộc của trẻ thơ dân tộc thiểu số, cách tổ chức bài thơ theo kết cấu chuỗi sự vật (sự
việc) đã được các nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng khá nhiều và thành công đối với
mảng thơ thiếu nhi miền núi. Với việc liệt kê ra các sự vật, hiện tượng có cùng chủ đề
hay không cùng chủ đề, kiểu kết cấu này có ưu thế lớn trong việc thể hiện sự phong
phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống dưới con mắt trẻ thơ đồng thời tạo
nên sự thích thú cho trẻ thơ khi tiếp cận tác phẩm. Cùng là đi ngủ song mỗi loài vật
hay cây cỏ lại có một cách thức ngủ, không gian ngủ khác nhau:
Cỏ cây đi ngủ
Lá khép vào nhau
Cá dưới vực sâu
Vừa bơi vừa ngủ
Con ngựa ở tàu
Suốt đời ngủ đứng
Con chim đậu vững
Ngủ trên ngọn cây
Con dơi ngủ ngày
Chân cheo vòm đá
(Đi ngủ - Dương Thuấn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 98
Hay cảm nhận rất riêng về màu sắc mỗi loại chim trong sự so sánh, liên tưởng
đầy bất ngờ của trẻ thơ: “Màu lông của cô Sáo/ Đen nhẻm y nhọ nồi/ Chị Cò dáng lả
lướt/ Cánh mịn tựa hạt xôi/ Em Vàng Anh ríu rít/ Áo giống màu nghệ tươi (Sắc màu -
Bùi Văn Loa).
Từ những đặc điểm thường thấy của sự vật, sự việc nhưng qua cách kể, cách
liệt kê, sắp xếp của các nhà thơ sự vật, sự việc ấy hiện lên vô cùng sinh động, hấp
dẫn, thu hút sự theo dõi của trẻ thơ. Ví dụ như câu chuyện thú vị về cuộc họp của các
loài chim, trong đó mỗi loài một vẻ, một đặc điểm, tính cách, không loài nào giống
loài nào:
Cây đào trước cửa nhà em
Trưa nay họ mạc nhà chim họp đàn
Chích chòe nhiều chữ nhất làng
Đứng lên cất tiếng rảnh rang mời chào
Nhanh chân có chú chào mào
Lề mề cú vọ, ồn ào quạ đen…
(Họp nhà chim - Hoàng Thanh Hương)
Rồi đó là là vẻ đẹp nguyên sơ, đầy sức sống, vui tươi, tấp nập của muôn loài
nơi miền núi cao được diễn đạt trọn vẹn với kiểu kết cấu chuỗi sự việc (Sự vật): “Trời
ơi/ Hửng mau/ Cho cóc vào hang/ Hổ vằn lang thang/ Ra mà phơi nắng/ Cho đàn cò
trắng/ Liệng bay ngoài đồng/ Cho dòng suối trong/ Cho đàn cá lội/ Nai con lạc
lối…(Hát gọi trời hửng).
Như vậy với kiểu kết cấu này, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang
lại một cái nhìn đầy tươi mới cho thiếu nhi miền núi đối với những sự vật, hiện tượng
tưởng như đã quá quen thuộc đối với các em, giúp các em mở rộng tầm nhìn về cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ thông qua cái nhìn đối chiếu giữa các sự vật, sự việc. Và từ
đó có thể khẳng định cùng với kiểu kết cấu tự sự, kết cấu hỏi - đáp, kết cấu dồn nén
thì kiểu kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) là một thành công đáng ghi nhận của các nhà
thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nghệ thuật xây dựng kết cấu thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 99
Tiểu kết chương 3
Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại đã khẳng định được vị
trí của mình trong nền thơ ca thiếu nhi nói riêng cũng như nền văn học thiếu nhi nói
chung bằng một nghệ thuật thể hiện độc đáo. Đó là sự vận dụng hài hòa ngôn ngữ
nghệ thuật, đa dạng về giọng điệu và linh hoạt về kết cấu. Nếu như sự vận dụng hài
hòa ngôn ngữ nghệ thuật giữa các yếu tố chung của ngôn ngữ thơ thiếu nhi và yếu tố
riêng của ngôn ngữ dân tộc giúp các nhà thơ dân tộc thiểu số nói lên tiếng nói riêng
của trẻ thơ dân tộc thiểu số thì giọng điệu thơ đa dạng và kết cấu linh hoạt lại giúp
các em cảm thấy dễ dàng, thoải mái, thích thú khi tiếp cận tác phẩm cũng như những
bài học, thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm trong đó. Và cùng với sự thành công
trên phương diện nghệ thuật thì thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện
đại đã trở thành một điểm đến đầy hấp dẫn, hứa hẹn nhiều điều lí thú, bổ ích đối với
trẻ thơ cũng như đông đảo bạn đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 100
KẾT LUẬN
1. Cùng với sự vận động của đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số, văn học
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã có sự lớn mạnh và phát triển không ngừng.
Điều đó được thể hiện rõ qua những thành tựu, đóng góp của các tác giả dân tộc thiểu
số trong việc mở rộng đề tài, nội dung phản ánh và sự độc đáo trong cách thức thể
hiện. Các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện, khắc họa rất thành công tiếng nói, tâm
tư, tình cảm của dân tộc mình, nhất là trong mảng thơ viết cho thiếu nhi.
Hòa chung vào dòng chảy của thơ thiếu nhi Việt Nam, thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số ngày càng đạt được nhiều thành tựu phong phú với sự trưởng thành của đội
ngũ tác giả và tác phẩm. Những nhà thơ dân tộc viết nhiều cho thiếu nhi như Dương
Thuấn, Dương Khâu Luông, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông Thị Ngọc Hòa, Lò Ngân Sủn,
Inrasara… đã trở thành những người bạn đồng hành tin cậy của trẻ thơ miền núi trong
suốt cung đường tuổi thơ của các em. Tuy nhiên thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc
thiểu số vẫn còn khá mới mẻ, xa lạ đối với đời sống chung của văn học. Sở dĩ có điều
này vì so với thơ thiếu nhi Việt Nam thì thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số ra đời tương
đối muộn. Hơn nữa có rất nhiều nhà thơ dân tộc viết về thiếu nhi song chưa có những
cây bút chuyên biệt viết cho thiếu nhi. Ngoài một số lượng hạn chế những tác giả có
những tập thơ được xuất bản dành riêng cho thiếu nhi thì đa phần còn lại là những tác
phẩm nhỏ, lẻ được in chung trong các tập thơ của các tác giả nói riêng hoặc các tuyển
tập thơ thiếu nhi nói chung. Thêm vào đó độ phủ của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu
số còn rất hạn chế chủ yếu tập trung ở vùng núi, miền sâu, miền xa mà chưa có sự
thâm nhập sâu, rộng vào đời sống tiếp nhận văn học bởi vậy việc tiếp cận những tác
phẩm này cũng gặp nhiều khó khăn.
2. Bằng sự tâm huyết với lứa tuổi măng non miền núi vốn phải chịu nhiều thiệt
thòi, các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại đã góp một phần không
nhỏ công sức của mình vào việc thể hiện bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên cũng như
cuộc sống, sinh hoạt của thiếu nhi miền núi bằng cái nhìn mang đậm sắc thái vùng
miền. Đó là khung cảnh thiên nhiên miền núi gắn bó với trẻ thơ: hùng vĩ, rộng lớn,
đẹp, trữ tình, nên thơ với đời sống động, thực vật phong phú nhưng cũng có lúc vô
cùng khắc nghiệt, nguy hiểm đối với cuộc sống và tâm hồn trẻ thơ. Cùng là thiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 101
nhiên miền núi song với mỗi nhà thơ, thiên nhiên lại mang dấu ấn vùng miền riêng.
Từ đó các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang đến cho người đọc cái nhìn nhiều chiều,
nhiều vẻ về bức tranh thiên nhiên của tổ quốc.
Bên cạnh những trang thơ viết về thiên nhiên, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại đã rất thành công khi tái hiện lại hiện thực cuộc sống, sinh
hoạt cũng như những ước mơ, khát khao, hoài bão của trẻ thơ miền núi. Đó là hiện
thực cuộc sống vùng cao đang trên đường đổi mới song vẫn còn tồn tại nhiều khó
khăn, vất vả; là những sinh hoạt văn hóa, những trò chơi truyền thống, lễ hội, phong
tục tập quán mang đậm bản sắc dân tộc; là những khát vọng được học tập, được bay
cao, bay xa, được hòa nhập vào cuộc sống hiện đại của các em. Thông qua những
trang thơ đầy xúc động đó các tác giả đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hồn
nhiên, ngây thơ, trong sáng của trẻ em miền núi, cảm thông, đồng cảm, sẻ chia với
cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả của các em. Và có thể nói thơ thiếu nhi dân tộc
thiểu số đã thực sự trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với trẻ
thơ miền núi, là hành trang tuổi thơ theo các em suốt cuộc đời.
3. Nhìn từ phương diện nghệ thuật, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại mang những đặc điểm của thơ thiếu nhi nói chung như: nhìn và miêu tả thế
giới qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ; thể hiện những cảm xúc, hồn nhiên, trong trẻo và
cách tư duy ngộ nghĩnh của lứa tuổi thơ với một giọng thơ vui tươi, dí dỏm. Tuy nhiên
cũng ở phương diện này, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã để lại những dấu ấn riêng của
mình như: cách sử dụng ngôn ngữ biểu cảm, giản dị, gần gũi, gắn bó với đời sống, với
lời ăn tiếng nói, mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc của người dân miền núi; sự đa
dạng trong giọng điệu thơ và cách sử dụng những kiểu kết cấu thơ đặc biệt để đem lại
hiệu quả nghệ thuật cao. Có thể nói sắc thái văn hóa vùng miền đã chi phối mạnh mẽ
không chỉ về nội dung mà cả về nghệ thuật của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Chính điều đó đã góp phần làm nên nét độc đáo, đặc sắc cho thơ thiếu
nhi dân tộc thiểu số, là sự khác biệt về hương, sắc của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số
trong “vườn hoa rực rỡ” của nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam hiện đại nói chung.
4. Bên cạnh những thành công đã đạt được thì thơ viết cho thiếu nhi của một
số tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại còn tồn tại một số hạn chế nhất
định. Đó là hạn chế của các nhà thơ trong việc diễn đạt và lựa chọn ngôn ngữ. Do ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 102
hưởng lối diễn đạt, cách nói của đồng bào dân tộc thiếu số nên đôi khi ngôn ngữ thơ
chưa được trau chuốt, còn thô mộc. Cách diễn đạt nhiều ẩn ý trong thơ có lúc gây khó
hiểu đối với lứa tuổi tiếp nhận là trẻ thơ. Bên cạnh đó việc sử dụng những từ ngữ dân
tộc cũng gây nên hiện tượng khó đọc, khó cảm thụ đối với lứa tuổi thơ nếu như không
có sự phiên âm và giải thích. Tuy nhiên, những thành công bước đầu đã đạt được của
thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số là hết sức đáng tự hào và trân
trọng bởi hơn ai hết các nhà thơ đã thể hiện được sự nỗ lực của bản thân và sự quan
tâm, nhiệt huyết của mình dành cho lứa tuổi măng non của dân tộc.
5. Trong quá trình thực hiện luận văn tìm hiểu thơ thiếu nhi của các nhà thơ
dân tộc thiểu số chúng tôi nhận thấy có những vấn đề đáng lưu tâm như sau:
Thứ nhất, thơ thiếu nhi nói riêng cũng như văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói
chung chưa có được một chỗ đứng thực sự trong nền văn học Việt Nam. Điều này thể
hiện thông qua việc tìm hiểu, sưu tầm các tác phẩm văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số hết
sức khó khăn. Các tác phẩm này vô tình được coi là những “sách hiếm” bởi các tác phẩm
đã xuất bản lâu hầu như không có sự tái bản và lưu hành trên thị trường sách.
Thứ hai, trong khi chúng ta đang chủ trương đưa nền văn học dân tộc thiểu số
thoát khỏi phạm vi vùng, miền để hòa nhịp cùng nền văn học dân tộc thì một điều dễ
dàng nhận thấy là sách thiếu nhi dân tộc chủ yếu được cấp phát miễn phí cho các
trường mẫu giáo hay tiểu học, THCS ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chủ trương này
một mặt thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền đến trẻ thơ
vùng cao song mặt khác vô tình đã làm giới hạn phạm vi tiếp nhận, đối tượng tiếp
nhận của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số.
Từ thực trạng trên dẫn tới việc văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa thực sự
có được một đời sống đích thực, chưa được nhiều người đọc biết đến. Thị trường sách
thiếu nhi dân tộc vì vậy chưa có điều kiện phát triển và từ đó cũng chưa tạo thành
động lực, thu hút các nhà văn, nhà thơ dân tộc thử sức với mảng đề tài đầy hấp dẫn
này. Có lẽ để tháo gỡ vướng mắc trên, chúng ta cần nhiều hơn những chương trình,
hành động, chính sách thiết thực để một mặt động viên lực lượng sáng tác là người
dân tộc thiểu số mặt khác có thể quảng bá, giới thiệu với đông đảo bạn đọc về một
mảng văn học độc đáo, thú vị và mới lạ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Quốc Ca, Không ít bài thơ chưa hay, http://vanvn.net, ngày 5 tháng 11 năm 2008.
2. Nông Quốc Chấn (1960), Tiếng ca người Việt Bắc, Nxb Văn học, H.
3. Mai Việt Hồng (2011), Thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn, Khóa luận tốt
nghiệp, khoa Ngữ Văn, trường ĐHSP Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên.
4. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục.
5. Phạm Hổ (1999), Tuyển tập Phạm Hổ, Nxb Văn học.
6. Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam (2004), Nhà văn dân tộc thiểu số
Việt Nam Đời và Văn, NXB Văn hóa Dân tộc.
7. Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam (2007), Văn học nghệ thuật các
DTTS thời kỳ đổi mới, NXB Văn hóa Dân tộc.
8. Đỗ Thị Thu Huyền, Dương Khâu Luông: Người hát trên đất mẹ, Văn nghệ Ba Bể
ngày 5 tháng 6 năm 2013
9. Văn Công Hùng, Văn học miền Trung Tây Nguyên từ góc nhìn trẻ,
http://www.vanconghung.com, ngày 29 tháng 9 năm 2011.
10. Inrasara (2003) ,Thơ cho tuổi thơ, NXB Kim Đồng.
11. Hoài Khánh, Kiên định với thơ thiếu nhi, http://dantri.com.vm, ngày 6 tháng 2
năm 2012.
12. Trần Đăng Khoa (1995), Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa, NXB Văn học.
13. Hoàng Thị Lan, Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đối với sinh viên cao đẳng
sư phạm mần non, Tạp chí Giáo dục, số 262, tháng 5 năm 2011
14. Dương Khâu Luông (2003), Gọi bò về chuồng, Nxb Hội nhà văn.
15. Dương Khâu Luông (2005), Bản mùa cốm, Nxb Hội nhà văn.
16. Dương Khâu Luông (2008), Co nghịu hưa cần, Nxb Văn hóa Dân tộc.
17. Phương Lựu (chủ biên, 1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, H, 1997.
18. Lã Thị Bắc Lý, Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm.
19. Huyền Minh, Vài suy nghĩ về việc sáng tác văn học cho thiếu nhi,
http://vannghe.hagiang.gov.vn, ngày 8 tháng 10 năm 2012.
20. Lê Thị Hoài Nam (2002), Bài giảng Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 104
21. Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương (1994), Giáo trình văn học thiếu nhi Việt
Nam, Nxb Đại học Sư phạm
22. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám 1945, Nxb Văn hóa.
23. Nhiều tác giả (1960), Kinh nghiệm viết cho các em, Nxb Văn học.
24. Nhiều tác giả (1982), Văn học và trẻ em, Nxb Kim Đồng.
25. Nhiều tác giả (1996), Chuyện chú sóc, Nxb Kim Đồng
26. Nhiều tác giả (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xb Văn hóa Dân tộc.
27. Nhiều tác giả (1998), Văn học, Tập 1, (Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu học hệ
CĐSP và Sư phạm 12 + 2), Nxb Giáo dục.
28. Nhiều tác giả (2001), Những bài thơ hay viết về thiếu nhi dân tộc và miền núi,
Nxb giáo dục.
29. Nhiều tác giả (2004), Văn nghệ sĩ Cao Bằng, chân dung và tác phẩm, Nxb Văn
hóa Dân tộc.
30. Lê Lưu Oanh - Phạm Đăng Dư (2008), Lí luận văn học, Nxb trường đại học Sư
phạm Hà Nội.
31. Xuân Quỳnh (2003), Bầu trời trong quả trứng, Nxb Kim Đồng.
32. Trần Quang Sáng, Đà Nẵng và thơ viết cho thiếu nhi, http://www.baodanang.vn,
ngày 25 tháng 5 năm 2014.
33. Chu Văn Sơn (2010), Khu vườn thiếu nhi của chú Dương Thuấn, Lời giới thiệu
Tuyển tập Dương Thuấn (tập 3), Nxb Hội nhà văn.
34. Lò Ngân Sủn (1995), Cái bật lửa trời, NXB Kim Đồng.
35. Lò Ngân Sủn (1996), Suối Pí Lè, NXB Kim Đồng.
36. Tạ Văn Sỹ, Đến bao giờ đại biểu Tây Nguyên xứng đáng là người Tây Nguyên,
http://vanhocquenha.vn.
37. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc.
38. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc.
39. Lâm Tiến (2010), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc.
40. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.
41. Vân Thanh (2000), Văn học thiếu nhi như tôi đã được biết, Nxb Kim Đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 105
42. Vân Thanh (Biên soạn, 2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb
Từ điển bách khoa.
43. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Kim Đồng.
44. Nguyễn Đức Thiện, Hồn nhiên như cây lá, http://www.pqtrung.com
45. Dương Thuấn (2010) Tuyển tập Dương Thuấn (2010), Nxb Hội nhà văn.
46. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2012), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
47. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên, 2013), Nghiên cứu lí luận phê bình văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
48. Trần Thị Việt Trung (chủ biên), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
49. Phùng Trọng Vĩnh (2013), Thế giới nghệ thuật thơ Dương Thuấn, Luận văn thạc
sĩ khoa Ngữ Văn - trường ĐHSP Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên.
50. Lý Thị Vương (2013), Thơ Dương Khâu Luông, Luận văn thạc sĩ khoa Ngữ Văn
- trường ĐHSP Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 106
PHỤ LỤC
MỘT SỐ TRANH ẢNH VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG
CỦA TRẺ THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Thiên nhiên miền núi hùng vĩ, nên thơ, trữ tình
Niềm vui xuống chợ
Trẻ thơ vui xuân
Trẻ thơ dân tộc lao động giúp đỡ gia đình
Niềm vui đến trường
Học sinh dân tộc vùng cao