ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH MAI THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ TIÊU BIỂU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH MAI THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ TIÊU BIỂU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS CAO THỊ HẢO

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Mai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em nhận được sự giúp đỡ lớn nhất từ giáo viên

hướng dẫn là PGS.TS. Cao Thị Hảo. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu

sắc. Cảm ơn cô đã cho em những chỉ dẫn khoa học quý báu trong việc triển khai luận

văn. Cảm ơn cô đã đồng hành, động viên và giúp đỡ em!

Đồng thời, trong quá trình thực hiện luận văn em đã nhận được sự giúp đỡ của

các thầy cô trong khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo trường ĐHSP Thái Nguyên. Cảm ơn

các thầy cô đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình học tập

và nghiên cứu.

Em xin gửi lời cảm ơn tới các nhà thơ Dương Thuấn, Bùi Thị Tuyết Mai,

Inrasara... đã nhiệt tình giúp đỡ em trong việc tiếp cận với tư liệu nghiên cứu. Em xin

cảm ơn gia đình và bạn bè - những người đã động viên, giúp đỡ em trong suốt quá

trình học tập và làm luận văn.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Mai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 7

5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 8

6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 8

7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 9

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ THIẾU NHI VÀ THƠ THIẾU NHI

DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI .................................. 10

1.1. Khái quát về thơ thiếu nhi Việt Nam ................................................................... 10

1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 10

1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của thơ thiếu nhi .................................................... 13

1.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại ................................... 20

1.2.1. Diện mạo chung của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ

hiện đại ........................................................................................................................ 20

1.2.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi

Việt Nam ..................................................................................................................... 25

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 27

Chương 2: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC

THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ........... 28

2.1. Khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ ........ 28

2.1.1. Thiên nhiên miền núi đặc trưng qua bốn mùa .............................................. 28

2.1.2. Thế giới cây cỏ ............................................................................................. 37

2.1.3. Thế giới loài vật ............................................................................................ 41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

2.2. Những nếp sống và sinh hoạt gắn bó với trẻ em dân tộc thiểu số ....................... 46

2.2.1. Cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả và niềm vui trẻ thơ trước những

đổi thay trên quê hương .............................................................................................. 46

2.2.2. Những sinh hoạt phong phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa của trẻ em

dân tộc thiểu số ........................................................................................................... 51

2.3. Trẻ thơ dân tộc thiểu số với những ước mơ, trăn trở và khát vọng ..................... 59

2.3.1. Ước mơ được học tập, hiểu biết về thế giới muôn màu ............................... 59

2.3.2. Những trăn trở và khát vọng của trẻ thơ dân tộc thiểu số ............................ 63

Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 67

Chương 3: THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN

TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN

NGHỆ THUẬT ......................................................................................................... 68

3.1. Ngôn ngữ mang sắc thái riêng ............................................................................. 68

3.1.1. Ngôn ngữ thơ ngắn gọn, giản dị ................................................................... 68

3.1.2. Ngôn ngữ thơ giàu âm thanh, hình ảnh ........................................................ 72

3.1.3. Ngôn ngữ thơ mang đậm bản sắc dân tộc .................................................... 75

3.2. Giọng điệu nghệ thuật .......................................................................................... 80

3.2.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên ................................................................ 80

3.2.2. Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh ................................................................ 83

3.2.3. Giọng điệu trữ tình, tha thiết ........................................................................ 86

3.2.4. Giọng điệu suy tư, triết lý ............................................................................. 89

3.3. Kết cấu độc đáo .................................................................................................... 92

3.3.1. Kết cấu tự sự ................................................................................................. 93

3.3.2. Kết cấu hỏi - đáp .......................................................................................... 96

3.3.3. Kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) ...................................................................... 97

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 100

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 101

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nằm trong dòng chảy của văn học Việt Nam, văn học dân tộc thiểu số là

một “tấm thổ cẩm” rực rỡ phản ánh tâm hồn, cuộc sống của 53 dân tộc thiểu số anh

em trên đất nước ta. Với vẻ độc đáo riêng biệt, văn học dân tộc thiểu số đã góp phần

tạo nên sự đa sắc, đa thanh cho nền văn học Việt Nam hiện đại và trở thành một bộ

phận có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống văn học. Diện mạo văn học

Việt Nam hiện đại chỉ được nhìn nhận một cách trọn vẹn, đầy đủ khi bao hàm trong

đó bộ phận văn học dân tộc thiểu số. Hay nói như nhà thơ Mai Liễu “Đời sống văn

học - nghệ thuật nước nhà không thể thiếu mảng văn học - nghệ thuật các dân tộc

thiểu số” [26, tr. 19]. Và điều này một lần nữa lại được khẳng định tại Nghị quyết

Trung ương V (khóa VIII): “Văn học các dân tộc thiểu số đã có bước tiến đáng kể.

Đội ngũ những nhà văn hóa người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng lẫn chất

lượng đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học nghệ

thuật”. Mặc dù có vai trò và vị trí quan trọng như vậy nhưng trên thực tế, những

nghiên cứu về bộ phận văn học này còn chưa nhiều, chưa rộng rãi. Văn học dân tộc

thiểu số chưa được quan tâm xứng đáng với vị trí của mình, “ảnh hưởng của văn học

nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt trong nhận thức và đánh giá của xã

hội nói chung và của cả giới văn học nghệ thuật nói riêng” [22, tr. 10]. Có lẽ chúng

ta cần phải có sự nhìn nhận lại để có thể giới thiệu được cho đông đảo độc giả những

đóng góp và thành tựu của bộ phận văn học này.

1.2. Trong những thập kỷ gần đây văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại

đã có nhiều khởi sắc. Điều đó thể hiện rõ ở việc các tác giả dân tộc thiểu số đã mở rộng

đề tài và nội dung phản ánh để mang lại cho bộ phận văn học này “một sức hấp dẫn

riêng, vừa độc đáo trong nội dung phản ánh, vừa đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện”

[46, tr .14]. Một trong những phạm vi được nhiều tác giả dân tộc thiểu số quan tâm chú

ý chính là mảng văn học viết cho thiếu nhi và đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. Những

thành tựu rực rỡ của nền văn học thiếu nhi Việt Nam phải kể đến mảng thơ viết cho

thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiếu số. Chúng ta có thể kể đến một số tên tuổi như:

Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Lò Ngân Sủn, Inrasara, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông

Thị Ngọc Hòa…Các tác giả này đã dành một phần không nhỏ sự nghiệp sáng tác, thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1

gian của mình để viết cho thiếu nhi. Đồng thời qua những trang thơ đó, họ đã phần nào

khẳng định được vị trí, tên tuổi của mình trong nền văn học các dân tộc thiểu số nói

riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Lựa chọn đề tài “Thơ viết cho

thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu”, chúng tôi hy vọng sẽ chỉ ra

được những nét đặc sắc trong cách nhìn, cách cảm nhận, cách thể hiện rất riêng của các

nhà thơ dân tộc thiểu số khi viết cho thiếu nhi, đồng thời thấy được sự đóng góp to lớn

của họ đối với nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam hiện đại.

1.3. Trong các giáo trình giảng dạy về văn học thiếu nhi, văn học trẻ em ở các

trường đại học, cao đẳng có đào tạo giáo viên tiểu học hay giáo viên mầm non thì vấn

đề văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa được quan tâm, chưa có chỗ đứng. Xuất phát

từ thực tế đó, chúng tôi hy vọng sau khi luận văn “Thơ viết cho thiếu nhi của một số

tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu” hoàn thiện bước đầu sẽ giới thiệu diện mạo của văn

học thiếu nhi dân tộc thiểu số để từ đó có những nhìn nhận khách quan về mảng văn

học đầy sinh động, hấp dẫn này. Đồng thời chúng tôi cũng mong rằng, luận văn có thể

trở thành một tư liệu tham khảo hữu ích của sinh viên chuyên ngành Ngữ văn khi tìm

hiểu về mảng văn học dân tộc thiểu số cũng như văn học thiếu nhi Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận quan trọng của nền văn học

Việt Nam hiện đại. Bộ phận văn học này đang có những bước tiến đáng kể để khẳng

định vị trí, vai trò của mình trong suối nguồn văn học dân tộc. Các tác giả dân tộc thiểu

số bằng tài năng và tâm huyết của mình đã đưa nền văn học dân tộc trở về với quỹ đạo

vốn có của nó trong đời sống văn học, góp phần quan trọng vào mục tiêu cao cả của

Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong các công trình nghiên cứu chung về thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại trên đáng chú ý là hai công trình: Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca các

DTTS Việt Nam hiện đại (PGS.TS Trần Thị Việt Trung chủ biên) và Văn học dân

tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm (PGS.TS Trần Thị Việt

Trung - TS Cao Thị Hảo). Hai công trình nghiên cứu trên đã dựng lên tương đối hoàn

chỉnh diện mạo của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại qua các giai đoạn phát

triển cùng với những thành tựu và hạn chế nhất định. Đồng thời, các tác giả cũng đã

đưa ra cái nhìn tổng thể, khái quát về những đặc điểm cơ bản của nền văn học dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2

thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung trong đó có mảng thơ dân tộc. Riêng ở mảng

thơ, người viết đã có cái nhìn khái quát và sự phân tích kỹ lưỡng về những nội dung

chính được các tác giả dân tộc thiểu số đề cập đến trong thơ. Trong đó, nổi bật lên là

hai đề tài chính: đề tài thiên nhiên và đề tài con người miền núi. “Thơ của các tác giả

dân tộc miền núi luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, con người miền núi” [46, tr.

173]. Còn ở đề tài thiếu nhi, do diện khảo sát tương đối rộng nên hai công trình trên

mới chỉ nhắc đến một số tác giả có thơ viết cho thiếu nhi như Lò Ngân Sủn, Dương

Thuấn, Dương Khâu Luông mà chưa đi sâu, nghiên cứu cụ thể về vấn đề này….Như

vậy, có thể thấy rằng đề tài thiếu nhi miền núi trong thơ dân tộc thiểu số vẫn chưa

nhận được sự quan tâm, chú ý thích đáng của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

Đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng vẫn ở góc độ hạn

chế, chủ yếu chỉ tập chung nhiều ở sáng tác của hai nhà thơ dân tộc Tày Dương

Thuấn và Dương Khâu Luông mà chưa có cái nhìn hệ thống, khái quát về đề tài này.

Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình văn học trẻ em đã có nhận xét khái quát về văn

học thiếu nhi miền núi “ngày càng phát triển và ghi nhiều thành tựu với các tác phẩm

tiêu biểu” [18, tr 18]. Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh đóng góp quan trọng, nổi bật của

nhà thơ Tày Dương Thuấn đối với mảng thơ thiếu nhi: “Dương Thuấn với hàng loạt

bài thơ viết về con người và mảnh đất vùng cao đã làm cho người đọc càng hiểu và yêu

mến hơn sự hồn nhiên mộc mạc và đời sống tâm hồn chất phác mà biết bao nghĩa tình

gắn bó với cách mạng của đồng bào, nhất là của các em dân tộc thiểu số phía Bắc.

Năm 2010, Tuyển tập thơ Dương Thuấn viết cho thiếu nhi được xuất bản song ngữ

(tiếng Kinh và tiếng Tày) đã làm phong phú cho mảng văn học viết về đề tài miền núi

của văn học thiếu nhi Việt Nam” [18, tr 18]. Khẳng định, đề cao vai trò của thơ thiếu

nhi Dương Thuấn đối với nền văn học thiếu nhi Việt Nam, trong bài viết Cảm nhận về

văn học thiếu nhi thế kỷ XXI, tác giả cũng đưa ra nhận xét tinh tế về nội dung cũng

như cảm hứng thơ thiếu nhi của Dương Thuấn: “đó là một thế giới trẻ thơ cùng thiên

nhiên vùng cao hết sức sống động. Đó là cỏ cây hoa trái muôn sắc màu, là tiếng suối

reo, là hòn sỏi thần kì, là tiếng hò săn bắn, là một làn khói sớm với mùi thịt nướng, là

những phong tục tập quán huyền thoại làm mê đắm lòng người…Cảm hứng bao trùm

trong những vần thơ anh viết cho trẻ con là tình yêu tha thiết với bản Hon, với núi rừng

Bắc Kạn. Dương Thuấn đã làm sống dậy cả một nền văn hóa Tày” [43].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3

Trong “Lời giới thiệu Tuyển tập thơ thiếu nhi” (2010) của Dương Thuấn, nhà

nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn đã đưa ra nhận xét, khái quát chung về thế

giới nghệ thuật trong thơ thiếu nhi của Dương Thuấn. Tác giả gọi đó là một “khu

vườn thiếu nhi” mà ở đó nhà thơ “đã mở mang, đã khai phá bao nhiêu năm, nâng niu

từng tấc đất, tỉ mẩn với từng lối đi, từng con suối, từng mỏm đá, từng góc núi, gieo

trồng ở đây đủ những loại cây cỏ của quê hương, chăm nuôi đủ những loại chim thú

của đồng rừng mình, dựng lên đủ những khu vui chơi, lễ hội của dân tộc mình…Vào

đây các cháu có thể ngắm bao nhiêu là hoa, nếm bao nhiêu là quả, nghe thổi khèn,

nghe hát ru, nghe cổ tích, rồi chơi ném còn, ném thia lia, đánh quay, đánh yến, chơi

bập bênh, chơi đu, cưỡi ngựa, bắn nỏ, đi săn trong núi, bơi thuyền trên sông Năng, đi

câu cá và ngắm cảnh hồ Ba Bể…”[33].

Tác giả Vân Thanh - một nhà nghiên cứu luôn tâm huyết, trăn trở với vấn đề

văn học thiếu nhi cũng đưa ra nhận định về thơ thiếu nhi Việt Nam. Mặc dù không đề

cập cụ thể đến thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc song tác giả cũng chỉ ra thành

công đạt được của thơ thiếu nhi nói chung có sự góp sức của các nhà thơ thiếu nhi

dân tộc như Dương Thuấn: “Từ những năm 90 trở lại đây thơ viết cho các em thật sôi

nổi. Trong đó nổi lên những tác giả sớm có phong cách riêng như Nguyễn Hoàng

Sơn với Dắt mùa thu vào phố, Bờ ve ran của Mai Văn Hai, Cưỡi ngựa đi săn của

Dương Thuấn…Các nhà thơ trên đã làm sống hẳn vùng thơ cho các em”[43, tr 214].

Vấn đề thơ thiếu nhi của nhà thơ Dương Thuấn cũng được đề cập khá kĩ trong

khóa luận tốt nghiệp Thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn của Mai Việt Hồng.

Trong khóa luận này, thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn được khảo sát qua các

khía cạnh: thế giới thiên nhiên miền núi, thế giới tuổi thơ miền núi, những bài học

đầu tiên về cuộc sống trong thơ. Trong đó, tác giả khóa luận đã đặc biệt đi sâu tìm

hiểu thiên nhiên trong thơ Dương Thuấn dưới con mắt trẻ thơ, “thiên nhiên miền núi

trong thơ Dương Thuấn thật đẹp và thơ mộng, luôn gắn bó hài hoà với cuộc sống con

người”[3, tr.68]. Từ sự khẳng định đó, Mai Việt Hồng đã khám phá thiên nhiên trong

thơ thiếu nhi của Dương Thuấn trên ba phương diện chính: Bức tranh bốn mùa, Thế

giới cây quả, hoa lá và Thế giới loài vật. Bên cạnh đó, thế giới tuổi thơ miền núi

trong thơ Dương Thuấn với “cuộc sống lao động, học tập khó khăn, vất vả” cùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4

“không khí sinh hoạt, phong tục, tập quán vui tươi, lành mạnh của người dân tộc

thiểu số” [3, tr 39] cũng được người viết đề cập đến. Về phương diện nghệ thuật,

người viết đã đi sâu vào nghệ thuật thơ thiếu nhi Dương Thuấn trên các vấn đề ngôn

ngữ thơ, hình ảnh thơ và giọng điệu nghệ thuật. Có thể nói công trình nghiên cứu này

đã mang lại một cái nhìn toàn diện, khái quát về toàn bộ thơ thiếu nhi của Dương

Thuấn trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

Trong luận văn thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Dương Thuấn”, tác giả

Phùng Trọng Vĩnh đã đi sâu tìm hiểu không gian nghệ thuật - “khu vườn thiếu nhi”

trong thơ Dương Thuấn. Khu vườn thiếu nhi ấy “được Dương Thuấn dày công xây

đắp, tỉ mẩn tạo dựng từ những chất liệu gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng

ngày của người Tày ở vùng núi Bắc Kạn” [49, tr13]. Và cùng với không gian đó,

người viết cũng khám phá thế giới nhân vật trong thơ Dương Thuấn. Đó “chủ yếu là

những con vật quen thuộc, gần gũi với tâm hồn trẻ thơ miền núi…là sự xuất hiện của

những sự vật, hiện tượng và những vật dụng quen thuộc trong gia đình. Tất cả tạo

thành một thế giới sống động dành riêng cho trẻ thơ” [49, tr 14]. Bên cạnh đó, nhân

vật trữ tình trong thơ Dương Thuấn gắn với hình ảnh “chú bé bản Hon hóm hỉnh, có

tâm hồn trong sáng, tinh khôi” [49, tr 56] cũng được tác giả đi sâu tìm hiểu. Có thể

nói luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng quan, khái quát nhất về toàn bộ thế giới nghệ

thuật thơ trong đó có thơ thiếu nhi của Dương Thuấn.

Cùng với thơ thiếu nhi của Dương Thuấn thì thơ thiếu nhi của Dương Khâu

Luông cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

Tác giả Nguyễn Đức Thiện trong bài viết “Hồn nhiên như cây lá” đã đưa ra cảm nhận

của mình khi đọc tập thơ thiếu nhi song ngữ Co Nghịu Hưa Cần (Cây gạo giúp

người) của Dương Khâu Luông. Trong đó tác giả nhấn mạnh đặc điểm “hồn nhiên,

chân chất” của tập thơ. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra con đường đi vào tâm hồn trẻ thơ

của Dương Khâu Luông: “Dương Khâu Luông mượn khá nhiều những con vật, những

rừng cây và cảnh sắc thiên nhiên để nói những điều muốn nói với trẻ em” [44].

Tác giả Đỗ Thị Thu Huyền trong bài viết “Dương Khâu Luông: Người hát

trên đất mẹ” cũng đưa ra nhận xét về thơ thiếu nhi của Dương Khâu Luông: “Dương

Khâu Luông đã thể hiện được chất hóm hỉnh, dễ thương trong từng lời thơ, câu chữ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5

Để tâm tình, chia sẻ với các em thiếu nhi, Dương Khâu Luông viết bằng những hình

ảnh giản dị mà độc đáo. Đọc bất cứ bài thơ viết cho thiếu nhi nào của anh, ta cũng

thấy thú vị, bất ngờ vì một điều gì đó rất trong sáng, đáng yêu, tươi vui, ngộ nghĩnh.

Cách diễn tả của anh dễ hiểu, sinh động, hồn nhiên đến không ngờ”[8]. Qua nhận xét

đó, người viết đã khái quát những đặc điểm chung nhất trong sáng tác thơ cho thiếu

nhi của nhà thơ Dương Khâu Luông. Đó là giọng điệu hóm hỉnh, hồn nhiên, trong

sáng, tươi vui đi cùng với những hình ảnh giản dị mà độc đáo, gần gũi - những yếu tố

cơ bản làm nên những nét đặc trưng riêng của thơ thiếu nhi.

Khi nghiên cứu về Thơ Dương Khâu Luông, Lý Thị Vương cũng phát hiện ra

nhân vật trữ tình trong thơ Dương Khâu Luông thường là “em nhỏ miền núi chăm

học, chăm làm và rất giàu tình cảm; yêu quê hương, bản làng; yêu cây rừng và các

con vật gần gũi như: mèo, vịt, ong, bò...” [50, tr.19].

Bên cạnh đó, còn một số nhà thơ dân tộc thiểu số khác cũng có thơ viết về

thiếu nhi song các sáng tác của họ chưa được chú ý nhiều mà chỉ được đưa vào các

tuyển thơ thiếu nhi như trường hợp thơ của nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa, Bùi Thị

Tuyết Mai. Một số nhà thơ khác như Inrasara, Lò Ngân Sủn, Triệu Kim Văn… đã có

những tập thơ thể hiện sự tâm huyết với trẻ thơ dân tộc song những tác phẩm này

cũng chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của bạn đọc cũng như các nhà nghiên

cứu, phê bình văn học.

Từ những khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy nghiên cứu về thơ viết cho thiếu

nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số không phải là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ

song đây vẫn lĩnh vực còn khá nhiều khoảng trống cần phải quan tâm. Các công trình

nghiên cứu khi tìm hiểu vấn đề này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sáng tác của

một số nhà thơ dân tộc thiểu số quen thuộc viết cho thiếu nhi. Vẫn còn thiếu cái nhìn

hệ thống, khái quát về mảng đề tài thiếu nhi trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời

kỳ hiện đại. Tiếp thu những thành quả đã đạt được của những công trình nghiên cứu

về thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số, thực hiện đề tài “Thơ viết cho thiếu nhi của một số

tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu”, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhỏ bé công sức

của mình vào việc xóa đi khoảng trống trong nghiên cứu về thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số, góp phần đưa ra một cái nhìn mới toàn vẹn, toàn diện hơn về thơ thiếu nhi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6

dân tộc thiểu số nói riêng cũng như thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không tham vọng

khảo sát được tất cả các sáng tác thơ thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số mà sẽ

tập trung chủ yếu nghiên cứu các sáng tác của ba nhà thơ tiêu biểu thuộc ba dân tộc,

ba khu vực khác nhau đã có nhiều đóng góp và thành công ở mảng đề tài thiếu nhi

cũng như nhận được sự yêu mến của đông đảo bạn đọc là Dương Thuấn, Lò Ngân

Sủn và Inrasara.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thơ viết cho thiếu nhi của một số tác

giả dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại tiêu biểu.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài khảo sát thơ viết cho thiếu nhi của một số nhà thơ dân tộc thiểu số

nhưng trong đó đi sâu vào thơ viết cho thiếu nhi của ba cây bút thiểu số tiêu biểu:

Dương Thuấn, Inrasara và Lò Ngân Sủn. Cụ thể là:

Tác giả Dương Thuấn với Tuyển tập Dương Thuấn (tập 3, 2010), Nxb Hội

nhà văn.

Tác giả Inrasara với tập thơ Thơ cho tuổi thơ (2003), Nxb Kim Đồng.

Tác giả Lò Ngân Sủn với hai tập thơ: Cái bật lửa trời (1995), Suối Pí Lè

(1996), Nxb Kim Đồng.

Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý đến những sáng tác thơ viết cho thiếu nhi của các

tác giả khác để so sánh đối chiếu khi cần thiết nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn đi sâu tìm hiểu, làm rõ khái niệm thơ thiếu nhi và những đặc trưng

cơ bản của thơ thiếu nhi trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua việc tìm hiểu

những thành tựu về đội ngũ tác giả và tác phẩm cũng như việc so sánh, đối chiếu

những nét chung và nét riêng của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy

chung của thơ thiếu nhi Việt Nam, luận văn sẽ có cái nhìn toàn diện và khái quát về

diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những nét độc đáo, đặc sắc của thơ thiếu

nhi dân tộc thiểu số trên các phương diện nội dung như: Khung cảnh thiên nhiên miền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7

núi, cuộc sống của thiếu nhi miền núi cùng những ước mơ, trăn trở, hoài bão, khát

vọng qua sự khúc xạ của chính tâm hồn trẻ thơ. Qua đó thấy được những nét phẩm

chất đáng yêu, đáng quý của trẻ thơ miền núi đồng thời khẳng định sự đóng góp mới

mẻ của các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nội dung.

Bên cạnh đó chúng tôi cũng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khẳng định những

nét độc đáo, đặc sắc của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nghệ thuật

qua một số yếu tố như: ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ và kết cấu thơ.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp so sánh đối chiếu

- Phương pháp khảo sát, thống kê

- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại

6. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong một

cái nhìn hệ thống, khái quát để ghi nhận những đóng góp cũng như khẳng định vị trí của

các nhà thơ dân tộc thiểu số trong dòng chảy văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung.

Ở nước ta hiện nay, những công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi chưa

nhiều, các công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số trong đó có thơ

thiếu nhi dân tộc thiểu số lại càng hạn chế. Có thể coi đây là một “vùng đất”, một

“lãnh địa” còn nhiều khoảng trống cần được khám phá. Vì vậy, luận văn hoàn thành

sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng bổ khuyết thêm cho những nghiên cứu về thơ

thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng cũng như văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói

chung, góp phần đem lại cái nhìn toàn diện hơn về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam

cũng như nền văn học thiếu nhi Việt Nam.

Luận văn khi hoàn thiện cũng góp một tiếng nói ghi nhận những thành tựu

đáng khẳng định của các cây bút dân tộc thiểu số đối với mảng đề tài thiếu nhi, là

nguồn động lực, cổ vũ để các nhà thơ dân tộc thiểu số tích cực, hăng hái hơn nữa với

nguồn cảm hứng về thiếu nhi của mình. Bởi không ai khác mà chính họ với cái nhìn

từ “bên trong” cùng với sự trải nghiệm từ tuổi thơ của chính bản thân mình mới có

thể phản ánh được chân thực nhất, sinh động nhất cuộc sống, tâm hồn, tình cảm cũng

như ước mơ, hoài bão của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Hơn nữa, luận văn cũng đưa ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8

một tiếng nói cấp thiết về việc cần có sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước, của

những người làm văn hóa cũng như toàn xã hội thông qua những chính sách, chủ

trương phù hợp về vấn đề văn học dân tộc thiểu số để khẳng định đúng giá trị của bộ

phận văn học này.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

văn gồm các chương sau:

Chương 1: Khái quát về thơ thiếu nhi và thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại

Chương 2: Thơ viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại nhìn từ phương diện nội dung

Chương 3: Thơ viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại nhìn từ phương diện nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ THƠ THIẾU NHI VÀ THƠ THIẾU NHI

DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI

1.1. Khái quát về thơ thiếu nhi Việt Nam

1.1.1. Khái niệm

Từ xưa tới nay dân tộc ta được coi là một dân tộc coi trọng văn hóa, yêu mến

thơ ca. Thơ ca đã trở thành một món ăn tinh thần, một dòng sữa ngọt ngào nuôi

dưỡng tâm hồn bao thế hệ người Việt. Trong bộn bề cuộc sống hiện đại với những vất

vả, lo toan, bận rộn thì một lúc nào đó bất chợt trong tâm khảm mỗi người vẫn vọng

về những vần thơ tự thủa ấu thơ như những mạch nước ngầm không bao giờ vơi cạn:

Em nghe thầy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà

Mái chèo nghe vọng sông xa

Êm êm nghe tiếng của bà năm xưa

Nghe trăng thở động tàu dừa

Ào ào nghe chuyển cơn mưa giữa trời

Thêm yêu tiếng hát nụ cười

Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn.

(Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)

Thơ ca có vai trò to lớn đối với cuộc sống con người hay nói như R.Gamzatop:

“Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc tạo dựng thế giới này thì thế giới

không trở nên tươi đẹp như thế này…Thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính

nó”. Thơ ca là người dẫn đường, là sứ giả đưa chúng ta đến xứ sở cái đẹp để từ đó

chúng ta có thể tự ý thức, nhận ra chính mình, chính xã hội mà mình đang sống. Và

đặc biệt phải kể đến tầm quan trọng của mảng thơ thiếu nhi đối với cuộc sống con

người. Đây được coi như vườn ươm tâm hồn cho lứa tuổi thơ, giúp các em phát triển

và hoàn thiện nhân cách của mình. Vậy thơ thiếu nhi là gì? Để làm rõ được khái niệm

này trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu về văn học thiếu nhi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, văn học thiếu nhi được hiểu như sau:

“Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa

học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao

gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi

vào phạm vi đọc của thiếu nhi, như Đôn Ki - hô - tê của M. Xéc - van - tex, Rô - bin -

xơn Cơ - ru - xô của Đ. Đi - phô, Gu - li - vơ du kí của Gi. Xuýt - tơ, Túp lều bác Tôm

của H. Bi - sơ - Xtâu” [4, tr. 412]. Như vậy ở đây, khái niệm văn học thiếu nhi được

các tác giả gắn liền với đối tượng tiếp nhận là độc giả thiếu nhi. Đó có thể là những tác

phẩm được viết ra với mục đích “dành riêng cho thiếu nhi” hoặc chỉ là những “tác

phẩm văn học thông thường” song lại phù hợp và đi vào phạm vi đọc của trẻ thơ.

Đồng thuận với quan niệm trên, Lã Thị Bắc Lý trong Giáo trình văn học trẻ

em đã dùng định nghĩa văn học thiếu nhi của Từ điển thuật ngữ văn học (NXB giáo

dục 1992) để chỉ khái niệm văn học trẻ em. Điều khác biệt là ở đây tác giả đã thay thế

cụm từ văn học thiếu nhi thành cụm từ đồng nghĩa thuần Việt văn học trẻ em để nhấn

mạnh về đối tượng, phạm vi tiếp nhận là lứa tuổi trẻ thơ.

Tác giả Hà Xuân Trường trong bài phát biểu Bàn về vai trò văn học thiếu nhi

cũng đưa ra cách hiểu của mình về văn học thiếu nhi: “Nếu hiểu một cách đầy đủ,

theo tôi nghĩ, văn học thiếu nhi gồm ba bộ phận: văn học về thiếu nhi, văn học cho

thiếu nhi và văn học của thiếu nhi; hai bộ phận sau có những đặc điểm riêng biệt, mà

văn học cho thiếu nhi là bao trùm” [43]. Có thể nhận thấy trong cách hiểu của mình

tác giả đã có sự phân chia rõ ràng các bộ phận hợp thành của văn học thiếu nhi. Văn

học thiếu nhi là một khái niệm rộng trong đó bao gồm các sáng tác về thiếu nhi, cho

thiếu nhi và của thiếu nhi. Tác giả cũng nhấn mạnh bộ phận “văn học cho thiếu nhi”

là bao trùm, đóng vai trò chủ đạo cho nền văn học thiếu nhi.

Như vậy, qua các định nghĩa trên, hiểu một cách chung nhất văn học thiếu nhi

là những sáng tác viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi hoặc là những sáng tác của

chính các em thiếu nhi viết về lứa tuổi mình. Và để đi vào đời sống đọc của trẻ thơ,

những tác phẩm viết cho thiếu nhi nhất thiết phải có nội dung phong phú, hấp dẫn

xoay quanh các vấn đề đời sống, học tập, sinh hoạt, tình cảm của các em, phù hợp với

nhận thức tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của trẻ thơ. Có như vậy, văn học thiếu nhi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11

mới thực sự thực hiện được chức năng “xây dựng con người mới” [43 ,tr. 481] toàn

đức, toàn tài ngay từ lứa tuổi măng non theo như sự ủy thác của Đại hội Đảng lần thứ

IV “phải xây dựng con người mới từ lúc lọt lòng…” và chỉ thị số 18CP của Hội đồng

Chính Phủ: “Văn hóa nghệ thuật giữ một vai trò trọng yếu, là một trong những vũ khí

sắc bén nhất để giáo dục chính trị, tư tưởng, tình cảm, nâng cao đạo đức, mở rộng

kiến thức cho thiếu niên nhi đồng” [43].

Thơ thiếu nhi là một bộ phận quan trọng của nền văn học thiếu nhi Việt Nam.

Với cách hiểu như trên về văn học thiếu nhi thì thơ thiếu nhi cũng có thể được hiểu là

thơ viết cho thiếu nhi, thơ viết về thiếu nhi hay thơ do thiếu nhi viết trong đó thơ viết

cho thiếu nhi đóng vai trò chủ đạo và mang các đặc điểm chung nhất của thơ thiếu

nhi Việt Nam. Với vai trò và sự tác động to lớn của thơ thiếu nhi đối với đời sống tâm

hồn, tình cảm của trẻ thơ, đã có rất nhiều những bài viết cũng như các cuộc hội thảo

thu hút các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề thơ thiếu nhi. Chúng ta có thể điểm

qua một số quan niệm, cách hiểu về thơ thiếu nhi của một số tác giả như sau:

Trong bài tham luận tại Hội thảo văn học thiếu nhi nhìn từ miền Đông Nam

Bộ ngày 10.5.2012 ở Đồng Nai, tác giả Phạm Quốc Ca đã đưa ra quan niệm của mình

về thơ thiếu nhi, đó là những tác phẩm “khơi gợi khả năng cảm nhận cuộc sống bằng

mỹ cảm, đem đến cho các em cái hay, cái đẹp giàu nhân tính”[1]. Trong quan niệm

này, tác giả đã nhấn mạnh vai trò, khả năng tác động đặc biệt của thơ thiếu nhi với

lứa tuổi thơ. Đồng thời tác giả cũng khẳng định đây không đơn thuần là vai trò mà

còn là yêu cầu bắt buộc cần đạt được đối với thơ thiếu nhi.

Quan tâm đến cách viết thơ cho thiếu nhi, tác giả Trần Quang Sáng trong bài

viết Đà Nẵng và thơ viết cho thiếu nhi cũng đưa ra ý kiến, cách hiểu của mình về thơ

thiếu nhi “Thơ thiếu nhi tựa như những câu chuyện cực ngắn, gần gũi, song phải

mang nhiều nhạc tính, mang phong vị cổ tích và đồng thoại, lung linh hình ảnh sắc

màu không gian thiên nhiên”[32]. Trong nhận xét đó tác giả đã đưa ra những đặc

điểm nổi bật của thơ thiếu nhi đồng thời đây cũng là một gợi ý quý báu cho những

cây bút trẻ đang say mê, thử sức với mảng đề tài này.

Đồng hướng tiếp cận thơ thiếu nhi của Trần Quang Sáng, tác giả Quang Huy

cũng đưa ra cảm nhận của mình về thế giới nghệ thuật thơ thiếu nhi gắn liền với tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12

chất vui tươi, hồn nhiên, trong sáng: “Thơ cho thiếu nhi bao giờ cũng vui tươi, ngộ

nghĩnh. Các em không phải những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô

khan, nghiêm nghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là một bài giáo huấn sống sượng

và lột bỏ mọi sự hồn nhiên, say đắm, dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ” [23].

Trong bài viết Vài suy nghĩ về việc sáng tác văn học cho thiếu nhi, tác giả

Huyền Minh cũng đưa ra cách hiểu của mình về thơ thiếu nhi. Trong cách hiểu đó, thơ

thiếu nhi là thơ của sự “dung dị, chân chất, hồn nhiên, thật thà một cách tự nhiên” [19].

Tóm lại, mặc dù có nhiều khái niệm, nhiều cách hiểu về thơ thiếu nhi song

điểm chung nhất là các tác giả đã gắn liền thơ thiếu nhi với đối tượng tiếp nhận - đối

tượng trẻ em để từ đó có thể nêu ra một cách khái quát nhất, chính xác nhất về bản

chất của thơ thiếu nhi. Đó là sự trong sáng, giản dị, gần gũi, vui tươi, ngộ nghĩnh về

nội dung và hấp dẫn, lôi cuốn về nghệ thuật thể hiện. Bên cạnh đó, thơ thiếu nhi cũng

gắn liền với chức năng giáo dục - chức năng quan trọng nhất, làm nên chiều sâu cho

mảng thơ ca này.

1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của thơ thiếu nhi

1.1.2.1. Thơ thiếu nhi phản ánh hiện thực qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ

Do khác nhau về vốn sống, sự trải nghiệm và khả năng tư duy nên trẻ em và

người lớn có cả một khoảng cách về sự nhận thức đời sống. Bởi vậy khác với bộ phận

thơ ca dành cho người lớn, thơ thiếu nhi muốn đi vào đời sống tâm hồn của các em,

các nhà thơ phải hóa thân, nhập vai thành những “nghệ sĩ tí hon”, nhìn cuộc sống

bằng cặp mắt trẻ thơ để có thể đồng điệu với tâm hồn, chạm tới trái tim của các em.

Đó có thể là một nội dung, một đề tài, chủ đề không mới, không xa lạ nhưng cách

phản ánh phải mang đậm dấu ấn trẻ thơ như Võ Quảng - một cây bút tâm huyết với

lứa tuổi măng non đã từng chia sẻ kinh nghiệm viết cho thiếu nhi của mình: “Nội

dung của văn học thiếu nhi cũng là các vấn đề về chủ đề, đề tài, về phương pháp thể

hiện, cũng là các vấn đề thể loại, về phong cách, về ngôn ngữ… Nhưng ở đây, tất cả

những cái đó phải được thể hiện thế nào cho phù hợp với “đôi mắt” và “con tim”

của mỗi lứa tuổi” [43].

Thơ thiếu nhi phản ánh hiện thực qua con mắt và tâm hồn trẻ thơ. Các nhà thơ

thiếu nhi khi sáng tác phải quên bản thân mình đi để “sống lại” tuổi thơ của các em và

hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ. Qua những trang thơ đó, người đọc nhận ra ánh mắt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13

đầy trong trẻo của trẻ thơ khi nhìn nhận, khám phá cuộc sống muôn màu thú vị xung

quanh mình, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng hay đầy hấp dẫn dù chỉ là một cái bắp cải

nhỏ trong thơ Phạm Hổ:

Bắp cải xanh

Xanh mát mắt

Lá cải sắp

Sắp vòng tròn

Búp cải non

Nằm ngủ giữa

(Bắp cải xanh - Phạm Hổ)

Chỉ có thể là ánh mắt trẻ thơ mới có thể nhìn thấy mọi vật trong sự tinh khôi,

trong sáng, đáng yêu như vậy. Từ hình ảnh cái bắp cải - một loại rau giản dị hàng

ngày ai cũng từng nhìn thấy song với cách nói, cách miêu tả từ hình dáng, màu sắc

đến việc thể hiện cảm xúc hồn nhiên như vậy thì chỉ có lăng kính của trẻ thơ mới phát

hiện ra. Và có thể nói, nhà thơ Phạm Hổ đã rất thành công khi nói lên tiếng nói của

lứa tuổi thơ. Và cũng chính nhờ sự hóa thân đầy tài tình này mà thơ thiếu nhi Phạm

Hổ đã, đang và sẽ mãi là những hành trang tuổi thơ của thiếu nhi Việt Nam.

Cũng với việc nhìn cuộc sống bằng cặp mắt hồn nhiên, trong sáng, qua lăng

kính trẻ thơ, thơ thiếu nhi Việt Nam còn in đậm dấu ấn tư duy của lứa tuổi thơ. Đó là

sự lý giải, nhìn nhận các sự vật, hiện tượng của đời sống diễn ra xung quanh các em.

Đó không phải là sự lý giải của khoa học, của trải nghiệm thực tế, thậm chí là phi lý đối

với thế giới người lớn song lại rất logic trong trường liên tưởng, tư duy của các em. Nữ

sĩ Xuân Quỳnh bên cạnh là một nhà thơ tình tài ba còn là một trong những nhà thơ

thiếu nhi xuất sắc của nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam. Với phương châm viết cho thiếu

nhi của mình: “Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông với các em chứ

không phải là sự áp đặt. Đừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình. Nếu muốn

giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận xét đánh giá mọi việc.

Cách giải quyết bắt đầu từ đấy” [23], Xuân Quỳnh đã đem đến cho thiếu nhi Việt Nam

những trang thơ hay hấp dẫn, đầy mới lạ về cách tư duy, cách suy nghĩ của trẻ thơ.

Chúng ta hãy lấy bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” của nhà thơ làm ví dụ. Bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14

tư duy của trẻ thơ, Xuân Quỳnh đã viết nên một câu chuyện cổ tích bằng thơ với sự lý

giải về nguồn gốc cũng như sự ra đời của thế giới loài người và vạn vật. Trong sự lý

giải đó: Trời sinh ra trước nhất / Chỉ toàn là trẻ con. Trẻ con là chủ nhân đầu tiên của

trái đất và bắt nguồn từ nhu cầu của trẻ con là cần được “bế bồng chăm sóc”, được

nghe hát ru, nghe kể chuyện, được nhìn thấy vạn vật xung quanh mình…nên mới dẫn

đến sự xuất hiện của mẹ, của bà, của mặt trời và muôn thú. Sự phi lý trong thế giới

người lớn nhưng lại rất đỗi hợp lý trong thế giới trẻ con bởi trẻ con luôn có suy nghĩ

mặc định mình là người quan trọng nhất, trung tâm nhất trong gia đình cũng như trong

xã hội. Sống hết mình với trẻ thơ, am hiểu trẻ thơ, Xuân Quỳnh đã làm nên sức hấp

dẫn, sức hút rất riêng cho những trang thơ thiếu nhi của mình.

Và cùng với việc nhìn nhận khám phá thế giới khách quan qua ánh mắt, tâm

hồn trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi đã thể hiện được một cách chân thực nhất những

tình cảm, cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, đáng yêu của trẻ thơ như những gì vốn có

của nó. Đó có thể là tình cảm bạn bè, tình cảm gia đình, tình cảm anh em ruột thịt,

tình cảm mẹ con giản dị mà thiêng liêng, sâu sắc, ấm áp thông qua cách diễn đạt “rất

trẻ thơ”. Ví dụ như bài thơ “U ốm” của Phạm Hổ đã để lại ngậm ngùi cho người đọc

về những cảm xúc trong sáng, đáng yêu của trẻ thơ dành cho người mẹ của mình:U

ốm nằm nhà/ Không ra đồng được/ U đắp kín chăn/ Mặt quay vào vách/ Em vẫn đi

học/ Đường xa càng xa/ Người em ở lớp/ Bụng em ở nhà…

Nhìn và cảm nhận cuộc sống bằng cặp mắt và tâm hồn trẻ thơ là vậy đó, không

đao to búa lớn, không diễn đạt cầu kì, kiểu cách, các nhà thơ thiếu nhi đã thể hiện tình

cảm, cảm xúc của trẻ thơ một cách giản dị nhất nhưng cũng không kém phần sâu sắc,

sinh động.

Bằng việc phản ánh cuộc sống qua con mắt và tâm hồn thiếu nhi nên một trong

những đề tài được các nhà thơ thiếu nhi đặc biệt yêu thích đó là đề tài thiên nhiên.

Bản thân nhà thơ Phạm Hổ trong hội thảo Bàn về sáng tác thơ cho thiếu nhi tại Hà

Nội năm 1982 đã từng khẳng định: “thơ cho nhi đồng nhất thiết phải có hình tượng

thiên nhiên. Thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp, bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy

cho ta yêu cái đẹp, bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống

phong phú về vật chất và tinh thần” [43]. Bởi vậy trong những trang thơ thiếu nhi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15

hình ảnh thiên nhiên gắn với những biểu hiện cụ thể như thế giới cỏ cây và thế giới

loài vật được các nhà thơ thể hiện hết sức sinh động, hấp dẫn, phong phú, muôn màu,

muôn vẻ trong cái nhìn của trẻ thơ mang lại sự thích thú, mới lạ cho người đọc. Có

thể kể đến những cây bút thiếu nhi thành danh với mảng đề tài này như: Trần Đăng

Khoa, Phạm Hổ, Võ Quảng, Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Lò Ngân Sủn,

Inrasara…Qua những trang viết của họ, không chỉ trẻ thơ mà còn cả người lớn cũng

hết sức bất ngờ với thế giới thiên nhiên đầy mê hoặc, lôi cuốn dưới lăng kính trẻ thơ.

1.1.2.2. Thơ thiếu nhi thường ngắn gọn, hài hước và dí dỏm

Ngắn gọn, hài hước và dí dỏm là một trong những đặc trưng quan trọng nhất

về mặt nghệ thuật của thơ thiếu nhi. Nếu như thơ viết cho người lớn thường hướng

tới cái cao xa, trừu tượng. Sức nặng của thơ người lớn là nằm ở phần chìm, ẩn sâu

đằng sau lớp vỏ ngôn từ thì trái lại thơ viết cho thiếu nhi phải đảm bảo tính ngắn gọn,

súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm

mà còn thể hiện ở từng câu thơ. Điều này xuất phát từ đặc điểm tâm lý tiếp nhận của

trẻ thơ. Với những bài thơ ngắn gọn, súc tích sẽ khiến trẻ dễ tiếp cận, dễ thuộc, dễ

nhớ từ đó tác động sâu sắc, lâu bền đến đời sống tâm hồn, tình cảm của trẻ. Bài thơ

kết thúc cũng là lúc các em vỡ òa trong niềm vui, trong nhận thức khi khám phá ra

những tri thức, những bài học, những thông điệp giản dị mà sâu sắc được các nhà thơ

gửi gắm trong từng trang thơ. Nắm rõ điều này nên trong thơ thiếu nhi, các nhà thơ

thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ ngắn gọn rất gần gũi với đồng dao, với

những trò chơi, những bài vè vui nhộn gắn bó với lứa tuổi thơ như bài thơ Đi trốn đi

tìm của Xuân Quỳnh:

Nấp ở trước gương

Bạn nhìn thấy bóng

Nấp bên cánh cổng

Sợ cổng kêu ran

Nấp dưới gầm bàn

Gầm bàn trống quá

Nấp sau vòm lá

Sợ lá rung rinh...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16

Bài thơ ngắn gọn với thể thơ 4 chữ đã miêu tả lại một cách sinh động, dễ hiểu

trò chơi trốn tìm - một trò chơi dân gian gần gũi, gắn bó với tuổi thơ Việt Nam. Với

chất liệu thơ là một trò chơi dân gian quen thuộc kết hợp với ngôn ngữ thơ ngắn gọn,

dễ hiểu, bài thơ trở nên dễ thuộc với âm hưởng vui tươi, rộn rã đã mang lại sự thích

thú cho lứa tuổi thơ khi tiếp nhận.

Bên cạnh đó, để đảm bảo tính ngắn gọn, dễ hiểu, thơ thiếu nhi thường mang

hình thức là những câu chuyện bằng thơ in đậm dấu ấn tự sự. Có lẽ không gì dễ hiểu

hơn đối với lứa tuổi thơ bằng những câu chuyện kể bởi vậy yếu tố tự sự cũng được

các nhà thơ sử dụng triệt đề trong thơ thiếu nhi. Ghi nhận điều này Ths. Hoàng Thị

Lan trong giáo trình Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đối với sinh viên Cao

đẳng sư phạm mầm non đã viết: “Mỗi bài thơ viết cho thiếu nhi gần như một câu

chuyện hoặc chứa đầy yếu tố truyện. Điều đó khiến cho các em dễ hiểu, dễ cảm nhận

và dễ thuộc lòng những vần thơ” [13, tr 40]. Ví dụ ở bài thơ “Chú bò tìm bạn” của

nhà thơ Phạm Hổ:

Mặt trời rúc bụi tre

Buổi chiều về nghe mát

Bò ra sông uống nước

Thấy bóng mình ngỡ ai

Bò chào: “Kìa anh bạn”

Lại gặp anh ở đây

Nước đang nằm nhìn mây

Nghe bò cười toét miệng

Qua những vần thơ, những ngôn ngữ hết sức đời thường, nhà thơ Phạm Hổ đã

kể cho các em nghe về một câu chuyện đầy thú vị, xúc động và tinh tế về việc chú bò

ngộ nghĩnh, dễ thương tưởng lầm bóng mình là một người bạn mới quen để rồi vất

vả, kiếm tìm hoài mà không thấy. Và chính những câu chuyện giản dị, mộc mạc đó

đã đi theo suốt hành trình tuổi thơ của các em.

Cùng với sự ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu thì sự hài hước và dí dỏm được thể

hiện thông qua giọng điệu thơ cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của thơ

thiếu nhi. Thơ thiếu nhi có rất nhiều giọng điệu song hài hước và dí dỏm là giọng

điệu thơ đóng vai trò chủ đạo không chỉ đối với thơ thiếu nhi mà còn đối với cả nền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17

văn học thiếu nhi nói chung như tác giả Lã Thị Bắc Lý đã từng khẳng định trong

Giáo trình văn học trẻ em: “giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh mang tính đặc thù của

văn học thiếu nhi. Chất hóm hỉnh, nghịch gây cho người đọc những tiếng cười sảng

khoái được vận dụng như một phương tiện giúp các em tiếp cận tác phẩm một cách

vui vẻ, thoải mái” [18, tr.20]. Điều này rất phù hợp với đối tượng tiếp nhận là đối

tượng trẻ thơ. Trẻ thơ thường gắn với những tiếng cười, những trò chơi vui nhộn

thậm chí là những nghịch ngợm rất đáng yêu. Tất cả những điều đó đã tạo thành

“chất” riêng của trẻ thơ. Bởi vậy có thể nhận thấy rằng mỗi bài thơ viết cho thiếu nhi

đều ẩn chứa trong đó những tiếng cười hóm hỉnh mà tinh nghịch, hồn nhiên mà trong

sáng thông qua những chi tiết, hình ảnh thơ…Chúng ta có thể lấy bài thơ “Ngủ rồi”

của Phạm Hổ để xem xét về vấn đề này:

Gà mẹ hỏi gà con

Đã ngủ chưa đấy hả?

Cả đàn gà nhao nhao

Ngủ cả rồi đấy ạ!

Tiếng cười, hài hước không chỉ bật ra qua sự nhân hóa đầy ngộ nghĩnh của nhà

thơ mà còn thông qua câu hỏi và lời đáp giữa gà mẹ và đàn gà con, nếu như đàn gà

con ngủ cả rồi thì làm sao mà nhao nhao trả lời mẹ được? Sự ngộ nghĩnh của bài thơ

cũng chính là sự ngộ nghĩnh, đáng yêu của lứa tuổi trẻ thơ. Và từ đó có thể khẳng

định không chỉ là một trong những đặc trưng cơ bản của thơ thiếu nhi mà giọng điệu

dí dỏm, hài hước còn là một thanh nam châm thu hút, hấp dẫn thiếu nhi với đầy sự

thích thú, bất ngờ khi khám phá mảng thơ đặc biệt thú vị này. Thơ thiếu nhi vì thế

thực sự đã trở thành những món quà quí giá của tuổi thơ, giúp các em giải trí, vui tươi

sau những giờ học tập căng thẳng hay giờ lao động vất vả giúp đỡ gia đình.

1.1.2.3. Thơ thiếu nhi thường gắn với những bài học lý thú cho trẻ em

Tính giáo dục là một trong những đặc trưng cơ bản nhất có tính chất sống còn

của thơ thiếu nhi nói riêng cũng như nền văn học thiếu nhi nói chung. Thơ thiếu nhi

có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách

con người ngay từ lúc ấu thơ, là hành trang cho mỗi người trên suốt đường đời. Thơ

thiếu nhi không chỉ góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nâng cao năng lực cảm thụ cái đẹp

mà còn giúp trẻ thơ phát triển trí tuệ, mở rộng sự hiểu biết và hướng tới một lối sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18

giàu lòng nhân ái. Và cũng từ đó, thơ thiếu nhi Việt Nam hiện đại ngày càng khẳng

định được vị trí, vai trò trong sứ mệnh giáo dục thiếu nhi của mình xứng đáng là “con

đường” dẫn dắt thiếu nhi đến với “xứ sở của cái đẹp”.

Cùng với chức năng giáo dục của thơ thiếu nhi thì nhà thơ đồng thời cũng ở

trong tâm thế “kép”. Nhà thơ thiếu nhi không chỉ đơn thuần chỉ là nhà thơ mà còn là

một nhà giáo dục, một nhà sư phạm. Điều này cũng được nhà thơ Võ Quảng nhắc đến

trong bài viết Mấy suy nghĩ về đặc trưng và chức năng giáo dục của văn học thiếu

nhi: “Chức năng giáo dục là chức năng hàng đầu của văn học thiếu nhi. Đó là điều

khẳng định, không cần bàn cãi. Người viết cho thiếu nhi phải có hai tư cách, tư cách

người viết văn và tư cách người làm cha mẹ muốn cho con mình nên. Câu chuyện phải

rõ ràng, tư tưởng chủ đề phải trong sáng. Khi diễn tả tránh mọi hình tượng có thể đưa

lại những ý nghĩ không tốt cho các em. Quan điểm sư phạm và văn học thiếu nhi là hai

anh em sinh đôi. Văn học thiếu nhi không có lí do đứng được, nếu không phát huy được

chức năng giáo dục” [43, tr.302]. Nhà thơ thiếu nhi không đơn thuần chỉ là người viết

thơ, sáng tạo văn chương nghệ thuật mà còn là một nhà “nghệ sĩ tâm hồn".

Tuy nhiên, khác với những bài học giáo dục đạo đức, khô khan thường thấy

buộc các em phải làm cái này hay không được làm cái kia thì chức năng giáo dục của

thơ thiếu nhi lại mang tính chất linh hoạt thông qua những bài học, những câu chuyện

lí thú để từ đó các em tự giáo dục, tự nhận thức, tự hình thành nên thái độ, tình cảm,

cảm xúc của mình. Đó có thể là kiến thức phong phú về thế giới muôn màu mà các

nhà thơ muốn Kể cho bé nghe (Trần Đăng Khoa):

Hay nói ầm ĩ

Là con vịt bầu

Hay hỏi đâu đâu

Là con chó vện

Hay chăng dây điện

Là con nhện con...

Hay là sự lý giải, cắt nghĩa ngộ nghĩnh dễ thương của nhà thơ về nguồn gốc,

sự tích, đặc điểm của muôn loài để đáp ứng nhu cầu hiểu biết của trẻ thơ: Ban ngày

làm bằng nắng/ Màu xanh làm bằng cây/ Qủa ớt làm bằng cay/ Tiếng ồn sinh tàu

điện... (Căt nghĩa - Xuân Quỳnh).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19

Tuy nhiên, để thực hiện được tốt chức năng giáo dục, để mỗi bài thơ thiếu

nhi thực sự là một bài học lý thú, bổ ích đối với trẻ thơ thì thơ thiếu nhi cần phải

xây dựng được những hình tượng thơ hấp dẫn, giàu giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ thơ

trong sáng, giản dị, giàu nhạc điệu để có thể tạo nên những ấn tượng sâu sắc trong

tâm hồn trẻ thơ đồng thời tác động đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức ở lứa tuổi

măng non. Một bài thơ hay với những hình ảnh đẹp, thơ mộng về thiên nhiên giúp

các em hình thành nên những rung cảm đầu đời về tình yêu thiên nhiên, quê hương,

đất nước. Hay một bài thơ nhỏ xinh về loài vật giúp các em hình thành nên khả

năng quan sát về đặc điểm của từng loài, biết yêu mến, quý trọng các loài vật

nuôi…Từ đó hình thành nên trong các em tình yêu với những cái đẹp, cái thiện, biết

yêu thương, lắng nghe, chia sẻ, biết hướng thiện bênh vực cái tốt, phê phán, lên án

cái xấu xa. Tất cả điều đó tuy không phải ngày một ngày hai hình thành được nhưng

những bài thơ thiếu nhi như những nét chì phác họa ra trên tờ giấy trắng, len lỏi như

mạch nước ngầm không bao vơi cạn để góp phần bồi đắp, hoàn thiện nhân cách,

tâm hồn trong sáng, tốt đẹp của thiếu nhi.

1.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại

1.2.1. Diện mạo chung của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại

Cùng với nền văn học thiếu nhi Việt Nam, thơ thiếu nhi Việt Nam đã có cả

một quá trình hình thành, phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ đáng ghi

nhận. Đề tài thơ có sự mở rộng, phong phú trong hướng tiếp cận đời sống cũng như

khám phá con người. Nghệ thuật biểu hiện của thơ thiếu nhi ngày càng hấp dẫn và trở

thành một phương tiện hữu hiệu để các nhà thơ đi sâu vào đời sống, tâm hồn, tình

cảm của các em. Trong nền văn học thiếu nhi đã xuất hiện những nhà thơ xuất sắc,

những thi sĩ chuyên tâm viết về thiếu nhi như: Võ Quảng, Trần Đăng Khoa, Phạm

Hổ, Nguyễn Duy…Và góp phần đáng kể tạo nên sự thành công, hoàn thiện diện mạo

cho thơ thiếu nhi Việt Nam phải kể đến mảng thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc

thiểu số. Chính mảng thơ đặc biệt này đã tạo nên sự phong phú, đa sắc, đa thanh cho

nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam. Tuy nhiên, khi đề cập đến thơ thiếu nhi Việt Nam, các

nhà nghiên cứu mới chỉ đi sâu, khai thác, tìm hiểu các tác phẩm, tác giả là những nhà

thơ thiếu nhi người Kinh nổi tiếng quen thuộc đã được giới thiệu nhiều trong các

sách, báo như: Trần Đăng Khoa, Phạm Hổ, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh...Bên cạnh đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20

mảng thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số lại chưa nhận được sự quan tâm

thích đáng. Đề tài thiếu nhi đã trở thành một trong những đề tài chính, tiêu biểu đã và

đang hấp dẫn nhiều tác giả dân tộc thử sức và khám phá. Có nhiều nhà thơ dân tộc đã

thành công, khẳng định được vị trí của mình với đề tài này. Và để có cái nhìn toàn

cảnh hơn, toàn diện hơn, chúng ta cùng xem xét diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc thiểu

số dưới góc độ khu vực thông qua những thành tựu về đội ngũ tác giả và tác phẩm:

Khu vực miền núi phía Bắc: Có thể khẳng định văn học dân tộc thiểu số có sự

nở rộ và đạt được nhiều thành tựu nhất ở khu vực miền núi phía Bắc. Lý giải điều này

tác giả Văn Công Hùng cho rằng “có hai yếu tố khiến văn học dân tộc thiểu số miền

Bắc vượt trội đó là số lượng và bản sắc” [9]. Sự lý giải này là có căn cứ vì khu vực

miền núi phía Bắc là địa bàn miền núi rộng lớn bao gồm hai miền Đông Bắc và Tây

Bắc, là nơi sinh sống, định cư lâu đời của đông đảo đồng bào dân tộc như: Mường,

Thái, Tày, Dao, Mông, Giáy, Pa Dí…Với thời gian định cư lâu đời và sự phong phú

trong bản sắc văn hóa của các dân tộc, khu vực miền núi Phía Bắc chiếm ưu thế hơn

hẳn các vùng khác trong cả nước về sự phát triển của nền văn học dân tộc thiểu số.

Có thể kể đến những cây bút dân tộc tiêu biểu, ưu tú như: Vi Hồng, Nông Quốc

Chấn, Nông Viết Toại, Cao Duy Sơn, Lò Cao Nhum, Triều Ân…Và cùng với sự phát

triển của nền văn học dân tộc thiểu số nói chung thì mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu

số khu vực miền núi phía Bắc cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận đánh dấu

sự phát triển của đề tài thơ thiếu nhi miền núi. Về thành tựu đội ngũ tác giả và tác

phẩm, ở khu vực miền núi Tây Bắc tiêu biểu nhất phải kể đến nhà thơ Lò Ngân Sủn

(dân tộc Giáy) với hai tập thơ dành cho thiếu nhi được đánh giá cao là Suối Pí Lè và

Cái bật lửa trời. Đặc biệt tập thơ Cái bật lửa trời đã mang lại giải B báo Thiếu nhi

dân tộc cho nhà thơ. Với một lối viết mộc mạc, giản dị nhưng đầy sức lôi cuốn, hai

tập thơ này đã nhận được sự đón nhận của đông đảo thiếu nhi trong cả nước. Lò Ngân

Sủn xứng đáng là nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số tiêu biểu của miền núi Tây Băc.

Ngoài ra các nhà thơ khác như Lò Cao Nhum (dân tộc Thái), Bùi Thị Tuyết Mai,

Vương Anh, Đinh Năng Lượng (Dân tộc Mường), Chu Thùy Liên (dân tộc Hà Nhì),

Tòng Văn Hân (dân tộc Thái)… cũng có thơ viết về thiếu nhi, thuộc phạm vi đọc của

thiếu nhi. Qua những vần thơ dành cho thiếu nhi của mình, các tác giả trên đã mang

đến cho thơ thiếu nhi Việt Nam những bức tranh khi thì hùng vĩ về thiên nhiên Tây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21

Bắc lúc lại nhộn nhịp sắc màu văn hóa đặc trưng, lúc lại chân thành trong tình cảm rất

thật của con người vùng cao… Tất cả tạo nên một âm sắc riêng cho mảng thơ thiếu

nhi miền núi Tây Bắc:

Cha tôi

Suốt ngày làm lụng

Cánh tay như cánh nỏ

Rắn rỏi thân người

Tựa quả ớt cay

Mẹ tôi

Bàn tay ngày ngày

Vun vén chồng con

Đệm ấm chăn êm

Rau mềm cơm dẻo

Mặn mà như muối

(Thuổi chéo – Tòng Văn Hân)

Cùng với khu vực Tây Bắc thì khu vực miền núi Đông Bắc gắn liền với chiến

khu Việt Bắc cũng ghi dấu ấn với với nhiều tên tuổi nhà thơ dân tộc viết nhiều cho

thiếu nhi. Chúng ta có thể điểm qua một số tác giả, tác phẩm xuất sắc như: Chu du

cùng ông nội của Vi Thùy Linh (Dân tộc Tày), Cưỡi ngựa đi săn, Chia trứng công

của Dương Thuấn (Dân tộc Tày), Gọi bò về chuồng, Bản em mùa cốm của Dương

Khâu Luông (dân tộc Tày), Hoa nắng của Triệu Kim Văn (Dân tộc Dao). Ngoài ra

một số nhà thơ có những bài thơ dành cho thiếu nhi hay được giới thiệu trong tuyển

tập Thơ hay cho Thiếu nhi dân tộc và Miền núi (NXB Giáo dục, 2001) như Nông

Thị Ngọc Hòa, Nông Quốc Chấn, Y Phương, Hà Lâm Kỳ, Vi Hồng Nhân… Trong đó

đặc biệt là nhà thơ thiếu nhi Tày Dương Thuấn, ông được coi là nhà thơ thiếu nhi

thành công của hai thế kỷ. Với hàng loạt bài thơ thiếu nhi viết về con người và cuộc

sống vùng cao, Dương Thuấn đã thể hiện thành công sự hồn nhiên, mộc mạc và đời

sống tâm hồn chất phác của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cũng như trẻ thơ dân

tộc thiểu số nói riêng. Đó là hình ảnh người dân miền núi hiện lên rất chân thật song

cũng đầy phi thường trong cuộc sống lao động hàng ngày qua công việc “đi săn”:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22

Người đi săn/ Biết mùi hổ/ Biết gọi nai/ Huýt sáo môi/ Chim rừng đến/ Đi như biến/

Giữa rừng cây/ Chạy như bay/ Khi đuổi thú (Đi săn – Dương Thuấn). Hay phẩm chất

con người miền núi giản dị mà đầy sâu sắc trong cách sống, lối sống thể hiện qua việc

cưỡi ngựa:

Buông dây lỏng

Ngựa lì

Cầm cương ghì

Ngựa chạy

Muốn ngựa nhảy

Quất roi

(Cưỡi ngựa – Dương Thuấn)

Đồng thời thơ thiếu nhi Dương Thuấn còn là những bức tranh lộng lẫy về thiên

nhiên tươi đẹp vùng cao với “Hoa đậu đỏ ngọn vông”, “ Bướm trắng bay đầy thung”

khi tháng ba tới (Tháng ba – Dương Thuấn), hay hình ảnh “Măng vầu cởi áo / Mở lá

cành ve” khi hè sang (Vào hè – Dương Thuấn)…Qua những trang thơ thiếu nhi đó,

nhà thơ Tày Dương Thuấn đã thực sự trở thành một chiếc cầu nối linh diệu giúp

người đọc thêm hiểu và thêm yêu hơn cuộc sống lao động, sinh hoạt cũng như phẩm

chất, tâm hồn của đồng bào dân tộc thiểu số.

Khu vực duyên hải miền Trung: Khu vực duyên hải miền Trung trải dài từ

Bắc Trung Bộ đến Nam Trung Bộ. Với một địa hình nhỏ hẹp bị chia cắt nhiều, khí

hậu vô cùng khắc nghiệt nên cuộc sống đồng bào dân tộc nơi đây vô cùng vất vả,

khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh sự khó khăn của cuộc sống sinh hoạt vật chất thì

đời sống văn hóa văn nghệ của đồng bào dân tộc nơi đây cũng có những thành tựu

nhất định trên lĩnh vực văn học nói chung cũng như ở mảng thơ thiếu nhi nói

riêng. Mặc dù thành tựu chưa nhiều chỉ mới tập chung ở một số tác giả nhất định

song các nhà thơ khu vực duyên hải miền Trung đã góp phần đáng kể vào việc tạo

nên sự phong phú, đa dạng cho mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời

kỳ hiện đại. Thơ thiếu nhi của Hồ Chư (dân tộc Vân Kiều) với thế giới loài vật, cỏ

cây rất phong phú đa dạng và thông qua đó là bài học mà nhà thơ muốn gửi gắm

đến thế giới con người:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23

Vẫn ghét lối vòng vo

Nên cây thường mọc thẳng

Dù thân có bạc trắng

Lá vẫn xanh với đời

(Bài học về cây bạch đàn - Hồ Chư)

Rồi nhà thơ Trà Ma Hani với tập thơ Em, hoa xương rồng và nắng đã mang

đến cho thơ thiếu nhi một âm hưởng thơ mới đó là âm hưởng của sự trải nghiệm tuổi

thơ, chắt chiu từ ký ức của nhà thơ về mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió qua biểu

tượng thơ đặc trưng “em”, “hoa xương rồng”, và “nắng”.

Và có lẽ tiêu biểu nhất cho mảng thơ ca thiếu nhi khu vực duyên hải miền

Trung phải kể đến nhà thơ Inrasara (dân tộc Chăm) với tập thơ thiếu nhi Thơ với tuổi

thơ. Tình yêu tha thiết với lứa tuổi măng non, sự tâm huyết với những giá trị văn hóa

của dân tộc đã được kết tinh một cách xuất sắc, tạo nên một sức hấp dẫn riêng cho

những trang thơ thiếu nhi của Inrasara.

Ngoài các nhà thơ trên thì một số nhà thơ dân tộc khác như Tuệ Nguyên,

Thạch Đờ Ni, Trà Vigia, Jalau Anuwk …cũng có những sáng tác thơ thuộc phạm vi

đọc của thiếu nhi tuy nhiên số lượng tác phẩm còn ít, nội dung và nghệ thuật chưa

thực sự tiêu biểu cho thơ thiếu nhi.

Khu vực Tây Nguyên: So với hai khu vực trên thì mảng thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số khu vực Tây Nguyên có tốc độ phát triển chậm nhất. Có nhiều nguyên nhân

dẫn đến hiện tượng này như nhà thơ Tạ Văn Sỹ đã từng nhận định trong bài trả lời

phóng vấn Đến bao giờ đại biểu Tây Nguyên xứng đáng là người Tây Nguyên:

“Nói đến khu vực Tây Nguyên đương nhiên ai cũng nghĩ đến đồng bào thiểu số và

các nhà văn, nhà thơ là người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên ở đây những cây bút là

người bản địa quá ít ỏi đến không tưởng tượng nổi” [36]. Và đây cũng là nguyên

nhân chính dẫn đến việc thơ thiếu nhi ở khu vực này chưa có điều kiện phát triển.

Tuy nhiên số lượng ít không có nghĩa là không có, một số nhà thơ Tây Nguyên tâm

huyết với văn chương nghệ thuật vẫn có những bài thơ hay, vần thơ hay thuộc phạm

vi tiếp nhận của cả trẻ em và người lớn như Bài thơ của con khi nhớ mẹ của H’Trem

Knul đã để lại tình cảm sâu đậm trong lòng người đọc về hình ảnh người mẹ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24

Con nhớ quá mái tóc dài của mẹ

Không thẳng mượt mà cháy xù lên vì nắng

Hay bài thơ Mẹ, thành phố và con của Lê Vi Thủy mang lại nhiều dư âm cho

những độc giả thanh thiếu niên khi tiếp cận bài thơ này:

Mẹ quê mùa trong khúc nhạc teen

Trong tiếng gầm rú thác loạn của Suzuki phân khối lớn

Vai mẹ oằn đi khi tuổi con dần lớn…

Như vậy qua những nét phác họa sơ lược về diện mạo thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số qua các vùng miền có thể thấy thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ

hiện đại đã đạt được những thành tựu nhất định về đội ngũ tác giả và tác phẩm. Bên

cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy rằng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa có sự phát

triển đồng đều giữa các vùng miền, dân tộc. Thành tựu nổi bật chỉ mới tập chung ở một

số cây bút nhất định và chưa có tác phẩm đỉnh cao. Tuy nhiên với thời gian hình thành

chưa lâu thì đây được coi như dấu hiệu mở đầu tốt đẹp cho mảng đề tài này.

1.2.2. Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi Việt Nam

Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số hiện đại nằm trong dòng chảy chung của thơ

thiếu nhi Việt Nam. Điều này thể hiện rõ thông qua những đặc điểm chung mang tính

chất quy định về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của thơ thiếu nhi. Cùng

thuộc đề tài thơ thiếu nhi, thơ thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số miền núi cũng

mang những đặc điểm của thơ thiếu nhi nói chung. Với nội dung phản ánh đa dạng,

phong phú, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang đến cho người đọc cái nhìn đa

dạng nhiều chiều về thiên nhiên miền núi, cuộc sống, tâm hồn trẻ em miền núi hay

những vấn đề của cuộc sống xã hội đang được quan tâm…Và tất cả những nội dung

đó lại được truyền tải, nhìn nhận, miêu tả qua con mắt và tâm hồn trẻ thơ với những

cảm xúc, tình cảm hồn nhiên, trong trẻo cùng lối tư duy đầy ngộ nghĩnh của lứa tuổi

thiếu nhi nói chung cũng như thiếu nhi miền núi nói riêng.

Cùng với phương diện nội dung về phương diện nghệ thuật để phù hợp với đặc

điểm tâm sinh lý cũng như tiếp nhận của lứa tuổi thơ, thơ thiếu nhi dân tộc miền núi

cũng được các nhà thơ lựa chọn những hình thức thơ, thể thơ ngắn gọn, hấp dẫn gần

gũi với đồng thoại, đồng dao, ngôn ngữ thơ giản dị, dễ hiểu cùng với một giọng diệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25

dí dỏm, hồn nhiên, hài hước thu hút các em… Tất cả đều hướng đến mục đích cao cả

là giải trí và giáo dục cho đối tượng trẻ thơ. Sau những tiếng cười, những ngạc nhiên,

khoái chí khi bước vào từng trang thơ đó lại là những bài học nhận thức sâu sắc về

cuộc sống con người mà các thi sĩ dành cho các em. Đồng thời thông qua quá trình tự

nhận thức đó, các em sẽ dần phát triển và hoàn thiện hoàn thiện nhân cách của mình.

Tuy nhiên, cùng nằm trong dòng chảy chung của thơ thiếu nhi Việt Nam song

thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số vẫn mang những dấu ấn riêng không thể trộn lẫn. Đó là

sự khác biệt trên cái nền chung của nội dung và nghệ thuật thơ thiếu nhi. Khác với

thơ thiếu nhi miền xuôi, bắt nguồn từ điều kiện sống, sinh hoạt của đồng bào dân tộc,

thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã gắn bó chặt chẽ với sắc thái văn hóa vùng cao thể

hiện qua bản sắc văn hóa đặc trưng, những phong, tập quán riêng của từng dân tộc.

Tắm mình trong suối nguồn văn hóa từ những yếu tố truyền thống của dân tộc và quê

hương, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tấu lên khúc ca độc đáo về điệu tâm hồn dân

tộc mình qua sự khúc xạ tâm hồn trẻ thơ. Chính điều đó đã tạo nên sự khác biệt,

mang lại một hương vị riêng, mới lạ cho những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ

dân tộc thiểu số so với thơ thiếu nhi của các tác giả người Kinh. Vẫn là nội dung viết

về thiên nhiên hay cuộc sống con người nhưng trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số,

đó là khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi gắn với màu sắc, âm thanh,

hương vị riêng, gắn bó, thân thuộc dưới góc nhìn trẻ thơ; là cuộc sống miền núi còn

nhiều khó khăn, vất vả cùng với nếp sinh hoạt phong phú độc đáo gắn liền với những

trò chơi đặc sắc, sinh động, giàu ý nghĩa văn hóa; là đời sống nội tâm phong phú với

những ước mơ, hoài bão và khát khao của trẻ thơ…Tất cả điều đó đã tạo thành một

hơi thơ, một chất thơ rất riêng mang đậm nhãn quan của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Và

điều đó đã góp phần hình thành nên những nét đặc sắc, độc đáo khi xem xét từ

phương diện nội dung của thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt

Nam thời kỳ hiện đại.

Cùng với sự khác biệt về phương diện nội dung thì xét ở phương diện nghệ

thuật, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cũng mang những đặc điểm

riêng biệt. Đó là nghệ thuật thơ mang đậm đặc điểm tư duy và phong cách ngôn ngữ

của đồng bào dân tộc. Các nhà thơ đã vận dụng một cách linh hoạt, triệt để lối tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26

duy cùng cách sử dụng ngôn ngữ gắn liền với lối nói, ví von, so sánh của dân tộc

mình. Có thể nói với việc vận dụng ngôn ngữ đặc trưng của từng dân tộc, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã đem đến cho thơ thiếu nhi Việt Nam một sức sống mới, hơi

thở mới và diện mạo mới, góp phần quan trọng cho sự thành công, phát triển của

thơ thiếu nhi Việt Nam.

Nói tóm lại, ra đời sau, kế thừa những giá trị đã được khẳng định của nền thơ

thiếu nhi Việt Nam đồng thời phát huy những những thế mạnh được kết tinh từ bản

sắc văn hóa các dân tộc, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại đã và đang có

những thành tựu bước đầu và hứa hẹn một vụ mùa bội thu trong tương lai.

Tiểu kết chương 1

Tóm lại, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thơ thiếu nhi Việt Nam thì thơ

thiếu nhi dân tộc thiểu số cũng đạt được những bước tiến nhất định trong tiến trình

văn học thiếu nhi. Sự xuất hiện của mảng thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân

tộc thiểu số có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng. Một mặt đây là món quà tinh

thần to lớn của các nhà thơ dành cho những trẻ thơ dân tộc mà cuộc sống vốn chịu

nhiều thiệt thòi, vất vả thì mặt khác sự ra đời, phát triển của mảng thơ thiếu nhi dân

tộc thiểu số đã tạo nên sự phong phú muôn màu, muôn vẻ cho nền thơ ca thiếu nhi

Việt Nam. Đồng thời thành tựu của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ

hiện đại đã đánh dấu sự rút ngắn dần khoảng cách, ranh giới giữa các vùng miền, dân

tộc. Và để làm được điều này đó là nhờ công lớn của các nhà thơ dân tộc tâm huyết

với lứa tuổi măng non như: Dương Thuấn, Inrasara, Lò Ngân Sủn… Có thể khẳng

định thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã thực sự bắt kịp và hòa nhịp được với nền văn

học thiếu nhi, góp phần hoàn thiện diện mạo của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27

Chương 2

THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hiện đại ngày càng phát triển mạnh mẽ và

đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong đó có sự đóng góp đáng kể, không thể phủ

nhận của mảng thơ thiếu nhi dân tộc miền núi. Khung cảnh thiên nhiên cùng nếp sống

và sinh hoạt của đồng bào dân tộc dưới góc nhìn của trẻ thơ đã tạo thành một nội

dung phong phú, mới lạ, hấp dẫn cho những trang thơ của các thi sĩ dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại.

2.1. Khung cảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ

Thiên nhiên là một trong những đề tài lớn, là nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào

của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Và đặc biệt dưới những trang thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số, khung cảnh thiên nhiên hiện lên vừa chân thực, vừa sinh động, vừa lãng mạn

tạo thành một không gian nghệ thuật thẩm mĩ rất riêng mang đậm dấu ấn miền núi

dưới góc nhìn trẻ thơ. Và thiên nhiên ấy đã được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu

số khắc họa sinh động, cụ thể, sắc nét qua khung cảnh thiên nhiên đặc trưng bốn mùa,

thế giới cây cỏ và thế giới loài vật.

2.1.1. Thiên nhiên miền núi đặc trưng qua bốn mùa

Trước hết nói đến thiên nhiên miền núi là nói đến một thiên nhiên hùng vĩ, rộng

lớn. Đó là thiên nhiên của rừng núi, sông suối, biển cả, thiên nhiên hoang vu của thác

cao, vực sâu… Và thiên nhiên ấy đã trở thành một nguồn cảm hứng mạnh mẽ đối với các

nhà thơ khi viết về đề tài miền núi. Hưởng ứng phong trào sáng tác cho thanh thiếu nhi

miền núi, các nhà thơ người Kinh đã có nhiều những vần thơ hay, đầy cảm xúc về thiên

nhiên vùng cao như hình ảnh con suối đầy thơ mộng, trữ tình “chở bóng đêm/ Chở mây

xanh ngắt/ Chở cả trăng vàng/ Đêm đêm dạo hát” trong thơ Phạm Đông Hưng, hình ảnh

con suối đáng yêu, gần gũi trong thơ Nguyễn Lãm Thắng:

Tôi là con suối nhỏ

Nằm dưới tầng cây xanh

Bạn của nai, của thỏ

Của hoa thơm trái lành

(Con suối nhỏ - Nguyễn Lãm Thắng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28

Hay hình ảnh con đường đến trường của trẻ thơ dân tộc thiểu số gắn liền với

những hình ảnh, cảnh vật quen thuộc của thiên nhiên vùng cao như: “Hương rừng thơm

đồi vắng/ Nước suối trong thầm thì/ Cọ xòe ô che nắng/ ...Có chim reo trong lá/ Có

nước chảy dưới khe” (Hương rừng – Minh Chính). Tuy nhiên, bằng cái nhìn của người

ngoài cuộc, các tác giả người Kinh khi viết về thiên nhiên miền núi chủ yếu thiên về

miêu tả và thể hiện, tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên. Còn trong thơ viết cho thiếu nhi

của các nhà thơ dân tộc thiểu như Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn, Dương Khâu Luông, Bùi

Thị Tuyết Mai, Niê Thanh Mai… bằng cái nhìn của người trong cuộc, sống gắn bó máu

thịt với thiên nhiên, thiên nhiên miền núi không chỉ được miêu tả ở cảnh sắc mà còn in

đậm dấu ấn tâm hồn của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cũng như tâm hồn trẻ thơ

dân tộc thiểu số nói riêng. Qua những trang thơ đó, khung cảnh thiên nhiên miền núi đã

được khắc họa, ghi nhận lại một cách rõ nét ở từng thời điểm, thời khắc đặc trưng qua

bức tranh bốn mùa để thông qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tấu lên khúc ca vui

nhộn của trẻ thơ miền núi về bốn mùa yêu thương của quê hương vùng cao.

Mùa xuân vốn được quan niệm là mùa của sự khởi đầu, mùa của lễ hội của

những trò chơi dân gian mang đậm màu sắc văn hóa, mùa của tuổi mới, áo mới…Bởi

vậy trẻ thơ thường đặc biệt yêu thích mùa xuân. Đồng điệu với tâm hồn trẻ thơ nên

trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số, mùa xuân nhận được sự ưu ái đặc biệt với tần số

xuất hiện nhiều nhất trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Và với mỗi lần xuất hiện,

bức tranh thiên nhiên mùa xuân lại mang một dấu ấn riêng dưới cái nhìn, sự cảm

nhận đầy trong trẻo của trẻ thơ miền núi. Mùa xuân đó là mùa mà vạn vật đang tưng

bừng, căng tràn nhựa sống:

Gọi nắng

Gọi mưa

Gọi hoa

Nở ra

Mùa xuân

(Trời - Lò Ngân Sủn)

Dưới con mắt ngây thơ, trong sáng đầy ngộ nghĩnh của trẻ thơ, mùa xuân hiện

lên sinh động, hấp dẫn có hình hài, có bước đi cụ thể thông qua quá trình nảy mầm

của chồi xinh: “Suốt mùa đông lạnh giá/ Chồi nú trong nách cây/…Sớm nay mùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29

xuân đến/ Nghe mưa bay nhè nhẹ/ Chồi non bừng mở mắt/ Nạy vỏ ra, xinh thay”

(Chồi - Dương Thuấn).

Mùa xuân như một nàng tiên đẹp kiều diễm với đầy tài phép có thể làm được

những điều kì diệu, thổi bừng lên sức sống của cỏ cây, hoa lá:

Mùa xuân gọi dậy chồi non

Gọi bông hoa nở xòe tròn trên cây

Gọi cơn nắng ấm tràn đầy

Gọi con sáo vỗ cánh bay tìm đàn

(Mùa xuân - Dương Khâu Luông)

Vạn vật như khoác lên mình một chiếc áo mới, một khuôn mặt mới lộng lẫy

với đầy sự hân hoan, háo hức để tham dự vào buổi dạ hội mùa xuân: “Mặt trời / Hé

nở/ Nàng xuân/ Hiện dần/ Mây/ Mặc áo trắng/ Nắng/ Mặc áo vàng/ Rừng / Mặc áo

xanh/ Núi/ Trùm sương mây” (Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn).

Bằng những hình ảnh thiên nhiên gần gũi với cuộc sống vùng cao như: mặt

trời, mây, nắng, núi, hoa đào, hoa lê, hoa mận… khung cảnh thiên nhiên mùa xuân

vùng cao hiện đẹp rực rỡ, tươi sáng với đầy sự hấp dẫn, cuốn hút, mời gọi. Đặc biệt

đối với lứa thiếu nhi vốn là lứa tuổi ưa sự tìm tòi, khám phá, mùa xuân như một

người bạn đồng hành tuổi thơ của các em. Các em háo hức đón xuân về từ những dấu

hiệu đầu tiên:

Hoa đào nở thắm rồi

Rừng hoa ban nở trắng

Dậy ra núi cùng chơi

Mùa xuân đã đến rồi

(Bài ca mùa xuân - Dương Thuấn)

Hoa đào, hoa ban, hoa mơ, hoa mận… là những loài hoa biểu tượng cho

mùa xuân vùng cao bởi vậy hễ thấy màu hồng thắm của hoa đào, màu trắng tinh

khôi của hoa ban là trẻ thơ biết mùa xuân đã về với bản làng. Chính vẻ giản dị của

những loài hoa này đã tạo nên một vẻ đẹp, một hương vị, một dấu ấn rất riêng cho

mùa xuân vùng cao. Bằng tâm hồn nhảy cảm của tuổi thơ, trẻ thơ miền núi đã có

những liên tưởng bất ngờ, đầy thú vị về những loài hoa này cũng như mùa xuân

của miền núi:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30

Theo mùa xuân lên núi

Bạn sẽ gặp hoa mơ

Bông nở thành chiếc khuy

Cài áo mây trắng xóa

(Theo mùa xuân đi - Dương Thuấn)

Trong sự liên tưởng ngộ nghĩnh đó, những bông hoa nhỏ như những chiếc cúc

không thể thiếu để góp phần hoàn thiện bộ xiêm y lộng lẫy, hấp dẫn của mùa xuân.

Có thể nói cùng với những loài hoa này, khung cảnh thiên nhiên mùa xuân miền núi

qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số đã để lại ấn tượng sâu

sắc đối với người đọc bằng vẻ đẹp tươi sáng, duyên dáng, tràn đầy sức sống trong cái

nhìn đầy háo hức của trẻ thơ vùng cao.

Bên cạnh khung cảnh thiên nhiên mùa xuân thì khung cảnh thiên nhiên mùa hạ

cũng được các nhà thơ dân tộc nhắc đến nhiều qua những trang thơ thiếu nhi của

mình. Qua những trang thơ đó, mùa hè miền núi hiện lên chân thực, sinh động với

nhiều cảm xúc khác nhau của trẻ thơ.

Nhớ về mùa hè vùng cao đó là nhớ về sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên

miền núi. Với sự ảnh hưởng của sự kiến tạo địa lý, địa hình miền núi chủ yếu là đồi

núi cao dễ xảy ra lũ quét. Bởi vậy, mùa hè đọng lại trong tâm trí trẻ thơ vùng cao đó

là sự bất ngờ, xối xả, dữ dội của những cơn mưa, cơn lũ đầu mùa và những ảnh

hưởng nghiêm trọng của nó đối với đời sống đồng bào vùng cao:

Tháng sáu mưa ngàn

Bất ngờ cơn suối lũ

(Tháng sáu - Dương Thuấn)

Đi kèm với những cơn mưa, cơn lũ bất chợt đến, bất chợt đi thì những âm

thanh của tiếng sấm nổ ì ầm, tiếng sét xé tai… là những gia vị không thể thiếu được

của mùa hè vùng cao:

Ông trời thở phè

Bay từng phoi lửa

Ông sấm ra cửa

Tập súng trên cao

(Vào hè - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31

Sự khắc nghiệt của thiên nhiên mùa hè trong cảm nhận của trẻ thơ vùng cao

còn gắn liền với sự oi nồng, nóng bức. Cái nóng của mùa hè được cảm nhận rất ngộ

nghĩnh thông qua sự so sánh đầy bất ngờ, thú vị của các em:

Mùa hạ

Trời là cái bếp lò nung

(Trời - Lò Ngân Sủn)

Có lẽ do ảnh hưởng từ địa hình miền núi nước ta đa phần là núi đá vôi với sự

hấp thụ nhiệt lớn bởi vậy thời tiết miền núi nhiều nơi thường nóng nực hơn miền

đồng bằng. Mặt trời với cường độ chiếu sáng lớn trong một thời gian dài được các em

so sánh như một “cái bếp lò nung” - đồ vật gắn bó với đời sống sinh hoạt vùng cao.

Và có thể nói, cái nóng như lửa đốt của mặt trời mùa hè đã đã in sâu vào sự cảm nhận

non nớt, thơ ngây của các em. Bởi vậy, miêu tả khung cảnh mùa hè miền núi, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã có những trang thơ rất sinh động về hình ảnh mặt trời mùa hạ.

Trong đó, hình ảnh mặt trời mùa hạ hiện lên như một cậu bé tinh nghịch, nóng tính

hay giận dỗi nên mới trút xuống mặt đất những cái nhìn “hừng hực lửa cháy”:

Tròn như cái nong

Suốt ngày chơi rông

Nghiêng nghiêng ngó ngó

Chơi trò bịt mắt

Rồi bỗng tức giận

Ném xuống mặt đất

Cái nhìn lửa cháy

…Trút lại sau lưng

Hơi lửa hừng hực

(Mặt trời - Lò Ngân Sủn)

Tuy nhiên đối với lứa tuổi thơ dễ yêu, dễ ghét, chóng nhớ rồi cũng vội quên

bởi vậy qua những trang thơ thiếu nhi dân tộc, mùa hè không đơn thuần chỉ có nóng

bức, ngột ngạt, dữ dội, khắc nghiệt cùng với mưa nguồn suối lũ mà mùa hè còn là

mùa vui của trẻ thơ. Nếu như trẻ thơ ở thành phố hay ở miền đồng bằng mùa hè

thường gắn liền với những chuyến du lịch, những chuyến đi xa thì đối với trẻ em

miền núi với điều kiện sống còn nhiều khó khăn, hạn chế. Nghỉ hè đối với các em là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32

tạm rời sách vở, mái trường để phụ giúp gia đình những công việc vừa với sức của

mình như hái măng, kiếm củi…Và trong chính quá trình lao động đó, các em đã tìm

thấy niềm vui cho mình từ thiên nhiên. Cùng với những cơn mưa xối xả của mùa hè

thì mùa hè vùng cao còn đi vào tuổi thơ của các em còn là mùa của măng, của trúc

vươn mình đội đất đứng lên báo hiệu một mùa no ấm cho đồng bào miền núi:

Măng vầu cởi áo

Mở lá cánh ve

Nhú ra mùa hè

(Vào hè - Dương Thuấn)

Và trong chính quá trình lao động như vậy các em được sống hòa vào thiên

nhiên để khám phá được từng vẻ đẹp ẩn sau từng dòng sông, con suối, tiếng ve ngân,

tiếng chim hót... Mùa hè đối với các em còn là cả một khúc nhạc tươi vui của thiên

nhiên miền núi rộng lớn và kỳ vĩ:

Suối gõ trống xuống vực

Thác gõ chiêng xuống núi

Tiếng ve ran mượt mà trong gió

Chim hót vang bài ca lộn xộn.

(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)

Cùng những khúc nhạc rộn ràng của tiếng ve kêu trong những tán rừng

xanh thẳm:

Sân khấu ở trên không

Giữa vòm trời lá biếc

Trên cành những nhạc công

Cũng thổi kèn náo nhiệt

(Dàn hợp xướng mùa hè - Hồ Chư)

Mùa hè còn mang lại cho các em những sự cảm nhận rất tinh tế về thiên

nhiên. Cùng một dòng chảy của suối Pí Lè mùa hạ nhưng ở mỗi khúc sông các em

lại có sự cảm nhận rất riêng không giống nhau có đoạn nghe “ầm ào như sấm như

bão”, song ở khúc chảy khác lại “nghe lao xao như tiếng lá cây rừng” (Suối Pí Lè -

Lò Ngân Sủn).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33

Như vậy không miêu tả nhiều nhưng chỉ qua một vài nét phác họa, khung cảnh

thiên nhiên mùa hè miền núi đã hiện lên với tất cả những gì đặc trưng nhất dưới

những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số.

Rời hạ sang thu, nếu như mùa thu trong thi ca nói chung gắn với hình ảnh

thiên nhiên tàn lụi, héo úa thì mùa thu trong thơ thiếu nhi miền núi lại gắn liền với

khung cảnh thiên nhiên vùng cao đẹp, đầy thơ mộng, trữ tình. Mùa thu miền núi gắn

liền với những cơn mưa vàng của lá rừng:

Mùa thu

Trời thổi lá vàng rơi lả tả

(Trời - Lò Ngân Sủn)

Không phải chỉ một góc vườn, một con đường mà cả núi rừng ngập tràn trong

sắc vàng kiêu hãnh của mùa thu. Khung cảnh thiên nhiên mùa thu miền núi vì vậy đã

để lại ấn tượng mạnh, khơi nguồn cảm xúc cho trẻ thơ miền núi.

Mùa thu - mùa trăng tròn - mùa của Tết trung thu, bởi vậy, cũng như trẻ thơ

trên cả nước, trẻ thơ miền núi háo hức đợi thu về. Mùa thu đối với các em đó còn là

hình ảnh của ánh trăng lung linh, huyền ảo, tỏa sáng núi đồi trong ngày tết trẻ thơ:

Lửa đuốc cháy bập bùng

Mặt trăng tròn lấp ló

Theo chân bầy trẻ nhỏ

Trăng dải ánh hoa vàng

(Trung thu - Niê Thanh Mai)

Đặc biệt hơn, mùa thu còn là mùa tựu trường của các em thiếu nhi sau một

thời gian nghỉ hè. Trong niềm vui được gặp lại bạn, gặp lại cô, khung cảnh thiên

nhiên mùa thu miền núi dường như cũng đẹp hơn, tươi vui, trong sáng hơn theo từng

bước chân đến trường của các em:

Đêm qua trời hiu hiu gió

Sớm ra lành lạnh vai người

Suối thu sắc xanh như lá

Một năm học mới đến rồi

(Cô giáo bản - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34

Yêu và gắn bó với quê hương mình, khung cảnh thiên nhiên mùa thu hiện lên

trong cảm nhận của trẻ thơ miền núi mang một vẻ đẹp rất riêng và để đến lúc cuối

mùa, mùa thu ra đi trong sự tiếc nuối và mong chờ của các em: “Riêng mùa thu đẹp

thế / Lại ngắn ngủi làm sao” (Mùa thu ngắn - Niê Thanh Mai).

Bên cạnh các mùa xuân, hạ, thu thì mùa đông gắn liền với những nét đặc trưng

của khung cảnh thiên nhiên miền núi cũng tạo được dấu ấn riêng trong thơ thiếu nhi

của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Trẻ em miền núi nhận ra mùa đông về thông qua sự

biến đổi của thiên nhiên xung quanh mình. Đó là khi:

Mai già bổ giát không còn hạt

Cá võng trốn đông lạnh xuống sâu

Hang sâu suốt tháng gấu say ngủ

(Mùa đông - Dương Thuấn)

Và như một đối cực của mùa hạ, mùa đông để lại trong cảm xúc của trẻ thơ

miền núi đó là cái rét rất đặc trưng của vùng cao. Cả bầu trời như một cái tủ lạnh

khổng lồ trong cái nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ:

Mùa đông

Trời là cái tủ lạnh

(Trời - Lò Ngân Sủn)

Cùng với cái rét như cắt da, cắt thịt thì ấn tượng về mùa đông miền cao còn là

sự hiện diện của “Gió bấc cựa mình làm rơi quả khế” (Ấm - Bùi Thị Tuyết Mai), của

sương mù lẫn nắng nhạt “Sớm nay mùa đông còn cẩu thả/ Sương mù lẫn lộn với nắng

suông”(Chợt xuân - Lò Cao Nhum). Tất cả đã góp phần làm hoàn thiện diện mạo của

mùa đông vùng cao.

Tuy nhiên, gió rét là thế, sương mù là thế nhưng không vì vậy mà mùa đông trở

nên ảm đạm, bằng sự vui tươi, nhí nhảnh của tuổi thơ, trẻ thơ miền núi đã nhìn thấy ở

mùa đông đó là sự tươi vui rộn ràng như ngày hội của thiên nhiên, của đất trời và vạn

vật. Mùa đông thực sự là một mùa được mong đợi trong cách nhìn của trẻ thơ vùng cao:

Mùa đông ra đi từ năm ngoái

Đến hẹn năm nay lại trở về

Cầy hương vui hội trên ngọn móc

Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe

(Mùa đông - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35

Và cùng với những những trang thơ thiếu nhi về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu

thì với những trang thơ thiếu nhi về mùa đông, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã góp

phần hoàn thiện diện mạo khung cảnh thiên nhiên miền núi đặc trưng bốn mùa mang

đậm dấu ấn, phong vị vùng cao dưới góc nhìn của trẻ thơ.

Cùng viết về thiên nhiên quê hương qua các mùa song qua những trang thơ

thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số miền Trung, khung cảnh thiên nhiên lại

mang những nét đặc thù riêng. Do ảnh hưởng của địa hình, mảnh đất miền Trung chỉ

có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Theo đó, thiên nhiên miền Trung vô cùng khắc

nghiệt đặc biệt là vào mùa khô và điều này đã được các nhà thơ dân tộc Chăm như

Inrasara, Trà Ma Hani… thể hiện một cách chân thực qua những trang thơ thiếu nhi

của mình. Khung cảnh thiên nhiên miền Trung vào mùa khô gắn liền với hình ảnh

của gió Lào, cát trắng. Những làn gió hanh hao ở miền Trung như có sức mạnh vô

biên đã đi sâu vào tâm trí, vào ký ức “Vờn bay cùng giấc mơ tuổi nhỏ” (Gió - Trà

Ma Hani) của trẻ thơ miền Trung.

Sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung không chỉ có gió mà còn ở cái

nắng, cái nóng như thiêu như đốt. Quê hương miền Trung đồng thời cũng là xứ sở

của “nắng và bao la nắng”, của “đồi cát nóng”, của “làn gió hanh” (Nắng Phan

Rang - Inrasara), của “cồn cát trắng nối tay cồn cát” (Tuy Phong làng Chăm-

Inrasara). Trước sự tác động của mưa ít, nắng nhiều, nỗi trăn trở lớn nhất của người

dân miền Trung là thiếu nước ngọt bởi hình ảnh những con suối cạn khô, những cái

ao trơ đáy, những thửa ruộng cạn, những rừng cây “khát nước” cũng là một phần

không thiếu của bức tranh thiên nhiên miền Trung.

Bên cạnh sự khắc nghiệt thì qua những trang thơ của nhà thơ miền Trung,

thiên nhiên miền Trung còn hiện lên rất đẹp, rất nên thơ dưới con mắt của các em

thiếu nhi. Thiên nhiên đó là sự hòa quện của những đường nét khỏe khoắn, rộng lớn

của trời, của sóng, của biển của những bãi cát dài trải xa típ, của “xương rồng xanh”,

“chùm nho mọng” (Nắng Phan Rang - Inrasara) được kết tinh từ nắng gió miền

Trung…Tất cả đã tạo nên một bức tranh nghệ thuật tuyệt bích của tự nhiên:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36

Gió nồm lên sóng vỗ biển hè

Trời rất xanh và mây rất trắng

…Ở đây tha hồ nghe nhạc cát

Gió bè cao và biển bè trầm

(Tuy Phong làng Chăm - Inrasara)

Và từ đó, các nhà thơ miền Trung đã thể hiện được sự gắn bó tha thiết của thiếu

nhi miền Trung nói riêng cũng như con người miền Trung nói chung đối với mảnh đất

còn nhiều nắng lửa, mưa giông này: Tiếng trẻ như tiếng chim ríu rít/ Đất khô tự thuở nào

vẫn khát/ Hồn người như lá cứ tươi xanh (Tuy Phong làng Chăm - Inrasara).

Như vậy nói tóm lại, qua những bức tranh thiên nhiên đặc trưng của từng mùa,

từng vùng các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang lại cho người đọc những

phát hiện mới mẻ về sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên tổ quốc. Và đằng sau

khung cảnh thiên nhiên miền núi rộng lớn, đẹp, phong phú, đa dạng đầy sức sống đó

là tấm lòng, là sự gắn bó tha thiết của trẻ thơ dân tộc cũng như của chính các nhà thơ

đối với quê hương mình.

2.1.2. Thế giới cây cỏ

Cùng với bức tranh thiên nhiên đặc trưng cho bốn mùa, các nhà thơ dân tộc

thiểu số đã tạo dựng nên một thế giới các loại cây cỏ, hoa lá tiêu biểu cho thiên nhiên

miền núi trong “khu vườn thiếu nhi” của mình. Có thể coi đây là một khu vườn bách

thảo rộng lớn, một cuốn từ điển tri thức bằng thơ với nhiều loại cây cối, hoa cỏ khác

nhau hứa hẹn sẽ mang lại rất nhiều điều bổ ích, bất ngờ cho lứa tuổi thơ.

Qua thơ của các nhà thơ thiếu nhi như Trần Đăng Khoa, Xuân Quỳnh, Phạm

Hổ, Nguyễn Lãm Thắng…trẻ thơ đã từng bắt gặp rất nhiều loài cây, loài quả, loài hoa

quen thuộc, thường thấy trong cuộc sống của các em như: cây mít, cây hồng, cây na,

cây bưởi, hoa đào, cây lúa, hay cây dừa…

Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu

Rung rinh đón gió, gật đầu gọi trăng

Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao

(Cây dừa - Trần Đăng Khoa)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37

Các nhà thơ bằng tấm lòng yêu trẻ của mình đã mang đến cho các em sự hiểu

biết lí thú về đặc điểm của từng loài cây, loài quả gần gũi với tuổi thơ. Trong cách

nói, cách miêu tả đó, loại quả nào hiện lên cũng ngon lành, hấp dẫn như những món

quà đầy ý nghĩa đối với lứa tuổi thơ:

Quả me có vị chua

Làm ô mai ngon tuyệt

Nắng ở trong quả mít

Mùi thơm trong quả mơ

Xù xì cái quả na

Mà ngọt ơi là ngọt!

(Kể chuyện quả - Xuân Quỳnh)

Tuy nhiên khi đến với thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số,

trẻ thơ sẽ choáng ngợp trước một thế giới thảo mộc vô cùng phong phú, đa dạng,

đông đúc. Trong thế giới đó, ngoài những loài cây, loài hoa mà trẻ thơ biết đến nhiều,

các nhà thơ dân tộc còn mở rộng phạm vi đến những loài cây, loài hoa lạ mà chỉ miền

núi mới có như cây mỡ, cây măng, cây trúc, cây thông, cây chuối rừng, cây bạch đàn,

cây trám….Tất cả tạo đã nên một thế giới thảo mộc vô cùng sinh động, hấp dẫn, mới

lạ, muôn hình, vạn trạng dưới con mắt trẻ thơ:

Măng

vót chông

vót đũa

Thông

đứng giữa trời

thổi như mưa

Nứa

ôm nhau gáy

Trúc

cài cúc

đầy ngực…

(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38

Để mang lại sự hiểu biết cho trẻ thơ về thế giới thực vật vô cùng mới lạ này,

qua những trang thơ thiếu nhi của mình, các nhà thơ dân tộc đã hào hứng giới thiệu

với những người bạn nhỏ tuổi khắp mọi miền về đặc điểm riêng biệt của những loại

cây. Đó là hình ảnh cây mỡ “như đuôi trâu mọc ngược / Lá non tơ mềm mại như nõn

chuối” (Rừng ơi - Lò Ngân Sủn) hình ảnh hoa phong lan “Sống lưng treo cành mục/

Đan rễ vào nắng mưa/ Bốn mùa mê mải việc/ Làm đẹp đời - lạ chưa” (Hoa phong

lan - Mai Ngoc Uyển), cây bạch đàn thường “mọc thẳng”, thân “bạc trắng” nhưng lá

“vẫn xanh” (Cây bạch đàn - Hồ Chư), hình ảnh hoa phù dung “nở trắng” những hễ

“Nắng lên chuyển màu hồng” (Hoa phù dung - Dương Khâu Luông) hay hình ảnh

cây chuối rừng gắn liền với mùi thơm đầy sức hấp dẫn, mời gọi của quả chín:

Chuối rừng chín thơm thật thơm

Mùi hương thoảng bay trên triền dốc

Chú sóc đang ngủ say liền tỉnh giấc

Nửa đêm lao trên ngọn cây cao đi tìm

(Chuối rừng - Dương Thuấn)

Thông qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang đến cho trẻ thơ những sự

hiểu biết vô cùng lí thú về đời sống phong phú của thế giới cây cỏ.

Cuộc sống của người dân miền núi không thể thiếu được thiên nhiên trong đó

có thế giới cây cỏ. Bởi vậy, trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, thế

giới cỏ cây hiện lên còn gắn bó mật thiết đối với cuộc sống con người. Cây cỏ không

chỉ là môi trường sống, nguồn sống mà còn là một thành viên, một người bạn thân

thiết đối với buôn làng. Đó là hình ảnh cây bùi già hiện lên như một người bạn tuổi

thơ đầy tinh nghịch:

Thập thò kẽ lá

Ấy là quả bùi

Tưởng con mắt vui

Ú tim tìm bạn

Trong rừng, ngoài bản

Những cây bùi già

Sừng sững xòe tán

Mãi còn ra hoa

(Cây bùi già - Mai Ngọc Uyển)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39

Hay hình ảnh cây xổ cổ thụ được nhân cách hóa như một bà cụ “lụ khụ” song

vẫn lặng thầm theo sát cháu con, buôn làng:

Lụ khà lụ khụ

Giống như bà cụ

Đứng ở bên khe

Ra nhiều quả ghê

(Xổ - Dương Thuấn)

Rồi hình ảnh cây sau sau già - loại cây chỉ có ở miền núi gắn bó sâu sắc với

cuộc sống của con người vùng cao cùng những buổi làm nương, trèo núi, kiếm củi,

hái măng. Cây sau sau hiện lên dưới những trang thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số với

đầy sự yêu mến, quý trọng, được coi như một một nhân chứng lịch sử đã cùng sống,

cùng trải qua và chứng kiến bao buồn vui của bản làng: “Đứng ở bên sườn núi/ Trăm

năm chẳng nói cùng ai/ Đi xa bản ai ai cũng nhớ/ Trẻ con nhớ mùa chim làm tổ/

Người lớn nhớ mùa lá non (Cây sau sau - Dương Thuấn).

Không những vậy qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu

số, thế giới cỏ cây còn hiện lên sinh động gắn liền với những phẩm chất tốt đẹp như

phẩm chất của con người miền núi. Đó là hình ảnh cây núc nác kiên cường, cứng cỏi,

hiên ngang mặc cho bão táp, mưa sa:

Treo tít trên ngọn

Mặc cho nắng táp

Mặc cho gió xoay

To bằng bàn tay

Dài như lưỡi mác

(Núc nác - Dương Thuấn)

Hình ảnh cây xương rồng vươn lên trong nắng, trong gió, trong cát miền Trung

với những bông hoa rực rỡ chắt chiu từ những đồi đất bạc màu đã trở thành một biểu

tượng cho ý chí, nghị lực của những người con dân tộc Chăm: Trần mình trong nắng /

Cây đứng xếp hàng /Giữa đồi cát trắng/ Vẫn giữ màu xanh/ Trên đồi đất bạc/ Dù nắng

dù mưa/ Cây vẫn cho hoa/Vắt mình mà rực (Hoa xương rồng - Inrasara).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40

Như vậy, qua những trang thơ thiếu nhi miền núi, thế giới cỏ cây hiện lên vô

cùng mới lạ, sinh động hấp dẫn, gắn liền với cuộc sống của đồng bào dân tộc. Dưới

con mắt trẻ thơ, loài cây nào cũng đẹp, loài hoa nào cũng xinh và quan trọng hơn, qua

từng đặc điểm riêng biệt của mỗi loài cây, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã ngầm gửi

đến trẻ thơ những thông điệp đầy yêu thương về lẽ sống, cách sống. Đồng thời từ đó

tình yêu quê hương, đất nước của các em cũng được hình thành một cách tự nhiên và

sâu sắc bởi yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương, gắn bó với từng gốc cây,

ngọn cỏ của quê hương mình.

2.1.3. Thế giới loài vật

Lứa tuổi thiếu nhi dù ở vùng miền nào thì cũng đều có đặc điểm chung đó là

tình yêu thương đối với những con vật. Trong tâm hồn, trí tưởng tượng non nớt, trong

sáng của lứa tuổi thơ, thế giới loài vật cũng có một đời sống riêng với những lời ăn,

tiếng nói, suy nghĩ, hành động và những mối quan hệ riêng. Có thể điều này đã được

bắt nguồn một cách tự nhiên qua những khúc hát ru, những câu chuyện cổ tích của

bà, của mẹ từ thuở trong nôi với hình ảnh của cánh cò bay, cái tôm, cái tép, cái bống

bang, chú mèo đi hia, chim vàng anh, con trâu, con bò…Thấu hiểu tâm lý trẻ thơ, các

nhà thơ thiếu nhi đã dành tặng thiếu nhi một khu vườn bách thú phong phú đa dạng

trong thơ của mình. Đó là hình ảnh chú bê con ngộ nghĩnh, đáng yêu đã đi vào tuổi

thơ của các em trong thơ Nguyễn Lãm Thắng:

Bê mặc áo vàng

Chạy theo gót mẹ

Đôi chân lanh lẹ

Vừa nhảy vừa đi

(Bê con - Nguyễn Lãm Thắng)

Hay thế giới côn trùng nhỏ bé mà đầy nghĩa tình hiện lên sinh động, hấp dẫn

trong thơ Trần Đăng Khoa:

Bác Giun đào đất suốt ngày

Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà

Họ hàng nhà kiến kéo ra

Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương kiến Đất bạc màu

Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang

(Đám ma bác Giun - Trần Đăng Khoa)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41

Có thể thấy những trang thơ về viết về loài vật đã tạo nên một sức hút, một sức

hấp dẫn, thích thú đặc biệt với lứa tuổi thơ. Bởi vậy cũng như các nhà thơ thiếu nhi

nói chung, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã dành một phần lớn những trang

thơ của mình để viết về thế giới loài vật. Qua những trang thơ đó, thế giới loài vật

hiện lên cũng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, ồn ào, náo nhiệt không kém gì

thế giới con người. Trong ngày hội mùa xuân, mỗi loài một vẻ song đều cố gắng khoe

ra những điểm tốt nhất, mạnh nhất của mình để tham dự vào bữa tiệc mùa xuân:

Họa mi

thi hót

trên cây

Én

ném còn

trên không

Tung yến

giữa đồng

Hổ

rung chiêng

Chó

gõ trống

(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn).

Thế giới loài vật muôn hình, muôn vẻ với nhiều giống nhiều loài. Qua

những bài thơ thiếu nhi ngắn gọn, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã giúp các em có

thêm những nhận thức mới mẻ về thế giới xung. Mỗi loài vật lại có một đặc điểm

riêng. Cùng là đi ngủ song ở mỗi loài lại có kiểu ngủ khác nhau: “Cá dưới vực

sâu/ Vừa bơi vừa ngủ/ Con ngựa ở tàu/ Suốt đời đứng ngủ/ Con chim đậu vững/

Ngủ trên ngọn cây/ Con dơi ngủ ngày/ Chân cheo vòm đá” (Đi ngủ - Dương

Thuấn). Hay trong tiếng kêu của từng loài cũng ẩn chứa những bí mật, những

thông điệp khác nhau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42

Quê ta

Tiếng hoãng kêu mưa

Tiếng bắt cô trói cột

Tiếng tắc kè… thảng thốt

Tiếng khảm khắc gọi mùa

(Quê ta – Ma Đình Thu)

Bên cạnh đó, từ những trang thơ về loài vật, các nhà thơ đã mang đến cho các

em những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống. Đó là câu chuyện về chú ngựa non mới

lớn cậy to, cậy khỏe bắt nạt được đàn gà con nhưng khi bắt nạt chú chó vện liền bị

cắn lại (Không còn là ngựa non - Dương Thuấn) hay câu chuyện về hai anh em nhà

chuột. Chuột anh giả làm mèo oai phong nhưng khi gặp mèo thực liền sợ hãi núp sau

chuột em:

Hai anh em chuột

Bàn tán lao xao

Mèo vằn nghe thấy

Kêu lên ngoao ngoao

Chuột em cầu khẩn

Chúa ơi, nhanh nào

Ra mà dẹp giặc

Chuột anh hốt hoảng

Ôm chặt chuột em

(Anh em chuột - Dương Thuấn)

Bằng những vần thơ mộc mạc, các nhà thơ đã đem đến cho thiếu nhi những

bài học thú vị về những mối quan hệ giữa người với người, phê phán những thói hư

tật xấu thường thấy như cậy khỏe nạt yếu, thói ba hoa, tự cao, tự đại, hống hách

không có thực lực…

Lứa tuổi măng non là lứa tuổi ưa sự khám phá, tìm tòi, giải thích những hiện

tượng diễn ra xung quanh mình. Am hiểu tâm lý trẻ thơ nên qua những câu chuyện về

loài vật của mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số còn giúp các em tìm hiểu gốc tích, lý

giải được nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên như hiện tượng khi

có tiếng ếch kêu là báo hiệu trời sắp đổ mưa hay hiện tượng mặt ao thường có sủi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43

tăm. Bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, để lý giải hiện tượng trên nhà thơ

Dương Thuấn đã hình dung ra cuộc đối đáp trò chuyện thú vị của chú ếch và chú cá

rô. Nội dung cốt truyên xoay quanh việc chú cá rô thắc mắc khi thấy chú ếch “Ngồi ở

bờ ao/ Mồm luôn đớp đớp” và câu trả lời của chú ếch muốn “Ăn hết trăng sao/Cho

trời tối lại/Thành cơn mưa rào” đã mang lại sự ngạc nhiên, đầy thích thú cho chú cá

rô “Cá rô thấy vậy / Cười sủi cả ao” (Chú ếch ăn trăng - Dương Thuấn). Bài thơ kết

thúc cũng chính là lúc tiếng cười ròn rã, bất ngờ đầy sảng khoái của các em bật ra.

Hay chuyển thể từ câu chuyện cổ tích “Trí khôn của ta đây”, nhà thơ Inrasara đã có

sự lý giải rất ngắn gọn, dễ hiểu bằng thơ của mình để trả lời thiếu nhi câu hỏi “tại sao

trâu không có hàm dưới?”. Tất cả bắt nguồn từ việc có một chú cọp từ trong rừng đi

ra, thấy bác trâu to lớn mà phải phục vụ bác thợ cày nhỏ bé đã thắc mắc:

Này bác khờ kia

Dại gì dại thế

Thằng người bé tí

Xỏ mũi bác chơi

Và khi nghe câu trả lời của bác trâu “Thân người tuy nhỏ/ Trí người rất to”, đã

khơi dậy trí tò mò của chú cọp. Và bằng trí thông minh của mình, con người nhỏ bé

đã lừa trói được chú cọp và quất cho chú ta một trận. Chứng kiến tất cả cảnh đó:

Trên bờ cao gặm cỏ

Bác Trâu nghếch mõm cười

Rủi thay! Một hòn đá

Đâu rớt xuống, mẹ ơi!

Xin bác nguyên hàm dưới

(Tại sao trâu không có hàm dưới - Inrasara)

Đó chính là lí do vì sao trâu không có hàm dưới. Với lối kể chuyện rất duyên,

thông minh, hóm hỉnh mỗi bài thơ về loài vật luôn là một món quà đầy bất ngờ mà

các nhà thơ dân tộc thiểu số dành tặng lứa tuổi thiếu nhi.

Bên cạnh đó, dưới ngòi bút của các nhà thơ dân tộc thiểu số, thế giới loài vật

hiện lên mang đậm tâm trạng, cảm xúc như con người để từ đó các em không chỉ

nghe, đọc giải trí đơn thuần mà còn có sự suy nghĩ về cuộc sống xung quanh. Đó là

tình cảm mẹ con - tình mẫu tử thiêng liêng cao cả qua hình ảnh khỉ mẹ chăm chút,

tắm cho những chú khỉ con của mình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44

Một bầy khỉ rất đông

Rủ nhau ra sông tắm

Khỉ con ngồi yên lặng

Cho khỉ mẹ kì lưng

(Bầy khỉ tắm - Dương Thuấn)

Hay tâm sự của chú én bé nhỏ khi bay trên khoảng trời lộng gió nhưng dưới

chân những cánh rừng xanh đã bị cháy rụi chỉ còn những khoảng đất trống màu lửa

nung cũng tạo cho các em một sự thương cảm, xót xa: “Khoảng trời lộng gió/ Én hay

bay liệng/ Trên cánh rừng xanh/ Đã cháy mất rồi/ Én bay bịn rịn/ Đậu xuống cành mít/

Rung đôi cánh nhỏ/ Trước một khoảng vắng/ Đất màu lửa nung” (Khoảng trời én bay

- Lò Ngân Sủn). Và chính từ sự nhận thức đó các em thiếu nhi sẽ dần trưởng thành

hơn, hoàn thiện hơn trong suy nghĩ để hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Một điểm nữa đáng chú ý trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số

đó là thế giới loài vật không chỉ được đề cập đến những con vật nuôi gần gũi với con

người như: chó, gà, mèo, trâu, bò…mà còn được mở rộng phạm vi đến cả những loài

vật hoang dã to lớn của rừng thẳm như: hổ, báo, hươu, nai… tạo thành một điểm nhìn

mới, thu hút, hấp dẫn trẻ thơ tìm hiểu khám phá. Trong thế giới rộng lớn đó, rừng là

một cái ô lớn, là chỗ trú ngụ, ẩn nấp của muôn loài. Các loài vật từ hiền lành đến

mãnh thú đều sống hòa thuận với nhau trong một gia đình chung của rừng:

Tiếng ve ran mượt mà trong gió

Chim hót vang bài ca lộn xộn

Trăn cuộn tròn ngẫm nghĩ

Khỉ đánh đu dây rừng

Hươu, nai múa bên cây cổ thụ

Hổ, báo ngồi chồm chỗm ngó xem.

(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)

Tất cả điều đó đã góp phần tạo nên một thế giới nhân vật ngộ nghĩnh đáng yêu,

một không gian nghệ thuật rất riêng cho những trang thơ viết cho thiếu nhi của các

nhà thơ dân tộc thiểu số.

Nhìn chung, thiên nhiên trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại mang đậm dấu ấn miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ. Dưới cái nhìn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45

đó, từ khung cảnh thiên nhiên đặc trưng qua các mùa đến thế giới cỏ cây, hoa lá rồi

thế giới loài vật đều hiện lên với một màu sắc, âm thanh và hương vị riêng, gần gũi,

thân thuộc và gắn bó với thiếu nhi dân tộc. Qua mỗi bài thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu

số Việt Nam đã đem đến cho lứa tuổi thơ một lượng tri thức lớn về chủ đề thiên

nhiên. Đồng thời mỗi bài thơ là một bài học lớn không khuôn phép giáo điều nhưng

lại có sự lay động sâu xa. Đó là lời kêu gọi, lời nhắn nhủ hãy biết yêu thương, nâng

niu, quý trọng và bảo vệ thiên nhiên. Lời kêu gọi dành cho mọi người và đặc biệt là

đối với lứa tuổi thơ - những chủ nhân tương lai của đất nước

2.2. Những nếp sống và sinh hoạt gắn bó với trẻ em dân tộc thiểu số

2.2.1. Cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả và niềm vui trẻ thơ trước những đổi

thay trên quê hương

Qua những trang thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, cuộc

sống của đồng bào dân tộc nói chung cũng như cuộc sống của thiếu nhi nói riêng hiện

lên còn nhiều khó khăn, vất vả. Hình ảnh những trẻ em dân tộc đã sớm phải mang

trên mình gánh nặng cực nhọc của cuộc sống mưu sinh đã được các nhà thơ miền

xuôi ghi lại làm ngậm ngùi bao người đọc:

Giữa trưa trời như nín thở

Xe lên dốc đứng bần thần

Giật mình thấy em vượt dốc

Chiếc gùi che hết nửa thân

Em gùi những gì trong đó

Ơi em bé gái lên mười

Chân trần đạp trên sỏi đá

(Em gái Ê Đê - Huỳnh Quang Nam)

Đó là hình ảnh vất vả, lam lũ, cực nhọc của một em bé gái dân tộc trên đường

gùi củi về được một nhà thơ chứng kiến trên đường đi công tác. Và đây cũng không

phải là trường hợp đặc biệt, duy nhất ở đồng bào dân tộc khi mà “Mùa nương lúa

cháy khói bay/ Mẹ cha suốt ngày lên rẫy/ Ông mặt trời như đứng im/ Lặng nhìn bao

mồ hôi chảy/ Con đói cha đi tìm cơm/ Em khát mẹ đi tìm suối” (Hai anh em – Du

An). Với cuộc sống còn nhiều thiếu thốn ở miền sơn cước, trẻ thơ dân tộc không phải

chỉ biết ăn, biết ngủ, biết học hành mà ngoài giờ học ra các em đã sớm phải tham gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46

lao động phụ giúp gia đình những công việc được coi như nặng nhọc với trẻ thơ thành

phố như: kiếm củi, hái măng, lên nương, lên rẫy, hái ngô, bắt cá, đi săn…Và bằng

con mắt bên trong của một người nhìn về dân tộc mình cũng như sự hồi tưởng từ ký

ức tuổi thơ, hơn ai hết, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện được một cách chân

thực nhất, sinh động nhất, thấm thía nhất về cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả

của trẻ thơ miền núi.

Tuổi thơ nơi rẻo cao không đơn thuần được ru ngủ trong những cánh diều lộng

gió, những viên bi xanh đỏ hay những câu chuyện cổ tích nhiệm màu mà trong thế

giới đó còn có những sự lo toan, những giọt mồ hôi mặn chát của cuộc sống lao động

vất vả đầy cực nhọc cùng những bữa đói, bữa no để đến lúc lớn khôn, những người

con của bản đó vẫn không quên được sự vất vả từ thưở thơ ấu của quê hương mình:

Trưa nay ở quê tôi

Thóc gạo trong nhà cạn vơi

Trẻ em mót sắn trên đồi

Người lớn vác thuổng vào rừng đào củ mài

Các chị, các mẹ mặc vải rách

Các em đi chân đất..

(Y Phương)

Cuộc sống của các em gắn liền với những buổi đi rừng hái củi, kiếm măng, bởi

vậy đối với các em, rừng thân thiết lắm. Rừng là chiếc ô, rừng là mái nhà, rừng là cả một

khoảng trời thơ bé. Các em có thể nghe được tiếng rì rào của gió, tiếng rì rầm thủ thỉ của

cây. Rừng đã trở thành bạn và hơn nữa là nguồn sống gắn bó, thân thiết của người miền

núi. Chính vì thế mỗi lần lên rừng kiếm củi các em vẫn nhớ tới việc bảo vệ rừng:

Tiếng dao lách cách giục sau lưng

Lấy củi

Lấy củi

Tiếng thôi thúc từ nơi bếp lửa hồng

Con người không thể sống thiếu lửa

Nhưng con người cũng không thể sống thiếu rừng

Rừng ơi!

(Rừng ơi - Lò Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47

Cùng với những buổi đi rừng, hình ảnh chiếc gùi trên vai đã trở thành một biểu

tượng tiêu biểu cho cuộc sống lao động vất vả của con người miền núi. Chiếc gùi từ lâu trở

thành vật dụng gắn bó, thân thuộc không thể thiếu được với con người vùng cao:

Ở vùng cao con người vất vả

Chiếc gùi luôn đè nặng trên lưng

Cõng hết cả cửa nhà ngô lúa

Cõng trâu leo lên núi trập trùng

(Cõng trâu - Dương Thuấn)

Chiếc gùi đã đi theo họ cả cuộc đời, đã chứng kiến, chia sẻ bao buồn vui, vất

vả, khó nhọc với đồng bào miền núi bởi vậy trong hồi ức của một em bé Raglai về

“ngày xưa” của buôn làng cũng không thể thiếu hình ảnh chiếc gùi:

Em thấy bà mẹ Raglai

Áo rách lội qua con suối

Gùi cũng lội qua con suối

Đi về bóng plây xa xôi

(Người Raglai xưa - nay - Inrasara)

Cùng với đó, bức tranh toàn cảnh cuộc sống vùng cao hiện lên nghèo đói cơ

cực, thiếu thốn đến cả nguồn nước sạch: “Bấy lâu uống nước suối/ Hết suối rồi đến

ao/ Plây em tự thuở nào/ Ông rằng luôn thiếu nước” (Nước sạch về làng - Inrasara).

Cuộc sống khó khăn vất vả của quê nghèo không những buộc các em sớm phải

lao động cực nhọc, sớm phải đổ mồ hôi để đổi lấy miếng cơm manh áo mà còn lấy đi

cả những quyền lợi cơ bản nhất của trẻ thơ đó là những tiếng cười, là sự vô tư, hồn

nhiên trong sáng. Cuốc sống mưu sinh khiến các em phải “già dặn” hơn trong suy

nghĩ mà không được sống với sự vô tư trẻ thơ của mình:

Chiều về nơi đồi vắng

Bó củi trên lưng gầy

Bước chân em sải ngắn

Lòng chẳng vương bóng mây

(Buôn em - Niê Thanh Mai)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48

Rồi gánh nặng cuộc sống còn tước đi cả niềm vui được đến trường, được học

tập của các em. Vì cuộc sống gia đình khó khăn, không có điều kiện, một số em thiếu

nhi đã buộc phải dở dang việc học giữa chừng để gánh vác công việc cùng gia đình.

Đó là hình ảnh đáng thương của hai chị em mồ côi, chị phải nghỉ học để lo cho em,

động viên em cố gắng học tiếp làm yên lòng cha mẹ nơi chín suối:

Chị tạm ngưng cấp một

Em cố gắng học cao

Cha mẹ chắc thế nào

Cũng vui nơi chín suối

(Chị - em - Inrasara)

Đó thực sự là những trang thơ đầy xúc động về hiện thực cuộc sống còn nhiều

khó khăn, vất vả của đồng bào dân tộc thiểu số. Qua những trang thơ đó, các nhà thơ

đã giúp người đọc thêm hiểu, thêm đồng cảm với cuộc sống lam lũ của các em.

Tuy nhiên, bên cạnh những gam màu trầm này lại là những khoảng màu rực rỡ

về cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên con đường phát triển và đổi mới

trong cái nhìn đầy tươi sáng, lạc quan của trẻ thơ. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đồng bào dân tộc đã biết sử dụng

máy móc làm việc để giảm bớt sức lao động của con người, tiết kiệm thời gian và

tăng năng suất lao động. Hình ảnh chiếc máy cày qua cái nhìn của các em hiện lên

thật ngộ nghĩnh, đáng yêu như một cỗ máy có phép thuật kì diệu:

Chiếc máy cày

Không tay mà khéo léo

Thêu luống cho đất

Dệt cây xanh đồng

Lúa nên bông.

(Chiếc máy cày - Lò ngân Sủn)

Và đằng sau hình ảnh chiếc máy cày đó là cuộc sống no đủ, yên vui của bản,

của mường dần hiện ra, một cuộc sống mới dần khởi sắc trên quê hương vùng cao:

“Chiếc máy cày/…Nối tua còn cho đất/ Nối tua mắt cho mường” (Chiếc máy cày - Lò

Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49

Cùng với hình ảnh chiếc máy cày thì chiếc máy ủi cũng được các em đón nhận

bằng ánh mắt đầy thân thương, trìu mến. Bằng trí tưởng tượng phong phú của mình,

hình ảnh chiếc máy ủi qua góc nhìn trẻ thơ hiện lên sinh động, hấp dẫn như những

con bọ hung của núi rừng với một sức mạnh vô biên có thể làm thay đổi cả bộ mặt

của quê hương vùng cao:

Những con bọ hung

…Lấp sông, ủi đất

Gạt phăng tảng đá

Khơi dòng ánh sáng

San sân làm nhà

Mở đường ta đi.

(Những con bọ hung - Lò Ngân Sủn)

Cuốc sống mới tươi sáng đang dần hình thành trên những bản làng vùng cao,

cùng với sự hỗ trợ của máy móc trong sản xuất nông nghiệp thì sự xuất hiện của điện

lưới cũng góp sức quan trọng vào sự phát triển của vùng cao, xóa dần đi ranh giới,

khảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Trẻ thơ dân tộc đón điện và nước về trong

sự mừng reo, náo nức, như đón tiếp một người khách quý từ xa đến chơi và sẽ gắn bó

mãi mãi cùng các em: “Điện về như mắt sáng/ Thắp đời làng tối tăm/ Mương như tay

mẹ hiền/ Xoa dịu đồng khô hạn/ Mỗi sáng em đến trường/ Như lần đầu, sướng quá/

Mỗi bước qua con mương/ Nước như là khách lạ”(Nước sạch về làng - Inrasara).

Điện về, nước về, nhiều ngôi trường mới được xây lên gần nhà hơn, không còn

qua sông, vượt núi, trèo đèo, không còn hiện tượng thầy vắng trò hay trò đến lớp trễ hoặc

nghỉ học vì đường đến trường quá xa, các em hân hoan, phấn khởi trong niềm vui trường

mới. Cả một khoảng trời tri thức, một tương lai tươi sáng mở ra trước mắt các em:

Ngôi trường mới xây lên rồi

Bạn thôi trễ lớp, thầy thôi vắng trò

Đi rừng cha mẹ hết lo

Gió nam hết nạt những bờ môi xinh

(Trường mới ở Plây - Trà Ma Hani)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50

Diện mạo quê hương đổi mới từng ngày hiện lên trong niềm vui sướng, xúc

động, phấn chấn đầy tự hào của trẻ thơ dân tộc: “Năm ngoái con đường nhỏ/ Đi chợ

còn khó sao/ Năm nay đường to mở/ Về đến tận bản rồi/ Sớm nay đường xuống chợ/

Ngựa xe đi như suối/ Người người mặc áo mới/ Đẹp xinh như hoa rừng” (Con đường

mới - Dương Khâu Luông.)

Bằng những nét vẽ tươi sáng, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã phác

họa lên bức tranh cuộc sống đang dần đổi mới, thoát nghèo, thoát khổ của đồng bào

dân tộc với “Lúa vàng sân / Thóc đầy bồ” (Tiếng kẻng - Lò Ngân Sủn). Cuộc sống

của các em tuy còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng đang dần thay da đổi thịt ở phía

trước trong sự hân hoan, vui sướng, niềm lạc quan, tin tưởng của trẻ thơ dân tộc.

2.2.2. Những sinh hoạt phong phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa của trẻ em dân

tộc thiểu số

Thế giới của trẻ thơ là thế giới của sự trong sáng, tinh khôi của những tiếng

cười đùa rộn rã. Dù cuộc sống miền núi còn nhiều vất vả song trẻ thơ dân tộc không

thể thiếu vắng những tiếng cười, những niềm vui thể hiện qua những sinh hoạt phong

phú, đặc sắc, giàu ý nghĩa văn hóa in đậm dấu ấn vùng, miền. Và qua những trang thơ

viết về đời sống sinh hoạt phong phú của trẻ thơ dân tộc, các nhà thơ dân tộc thiểu số

đã thực hiện thành công một chuyến du ngoạn tìm về quá khứ để sống lại với một

miền cổ tích tuổi thơ đã xa của mình.

Trước hết những sinh hoạt phong phú, đặc sắc trong đời sống của trẻ thơ dân

tộc thiểu số ghi dấu rõ qua những trò chơi gắn liền với tuổi thơ của các em. Trẻ thơ

mỗi vùng, mỗi miền lại có những trò chơi khác nhau, những trò chơi đó thường gắn

liền, bắt nguồn từ chính cuộc sống xung quanh các em. Nếu như trẻ thơ đồng bằng

thường gắn liền với những trò chơi như cá ngựa, đánh tam cúc hay đánh chuyền,

đánh chắt: “Không chạm đến đất/ Quả bóng trên tay/ Que chuyền biết bay/ Que

chuyền biết hát” (Que chuyền - Xuân Quỳnh) thì trẻ thơ dân tộc thiểu số cũng có một

sân chơi riêng với những trò chơi vô cùng hấp dẫn, mới lạ. Đó là trò chơi nghe đã rất

lạ từ cái tên - trò chơi “ bắt sương”. Sống hòa vào thiên nhiên, lứa tuổi măng non

miền núi đã tìm thấy niềm vui từ chính thiên nhiên. Sương khói vùng cao vì vậy

không phải là tác nhân gây cản trở cho cuộc sống con người mà còn đi vào trò chơi

của các em nhỏ với đầy sự háo hức, thích thú:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51

Bay bay

Đâu đâu cũng thấy

Sớm xuân tha hồ chơi bắt sương

(Sớm xuân - Dương Thuấn)

Rồi trò chơi đuổi theo trăng. Nếu như ở thành phố, nhiều nhà cao tầng, đèn

điện thay thế bóng trăng, trăng đối với thiếu nhi thành phố dường như xa lạ thì ở

miền núi cao, trăng rất thân thuộc với trẻ thơ. Đối với các em trăng gần gũi như chiếc

liềm của mẹ, chiếc võng của bà, trái bưởi chín vàng thơm trong vườn hay con thuyền

nhỏ trôi trên sông và trăng thì có bao giờ đứng yên. Bởi vậy, các em đã nghĩ ra trò

đuổi trăng. Trăng như một người bạn thân thiết cũng ham vui nhận lời mời rủ chơi

của các em và chỉ đến khi mải chơi trăng không còn đường chạy buộc phải chạy

xuống nước khiến các em cười vang thích thú:

Những em bé xứ Mây

Tóc nâu

Da thơm mùi cỏ

Chạy đuổi theo trăng

Trăng chạy xuống nước

Cả lũ đứng cười ha hả

(Em bé xứ Mây - Dương Thuấn)

Tuổi thơ miền núi còn gắn liền với những con suối, con sông cùng những buổi

chiều tắm sông chơi trò “rái cá bắt cá” đã in sâu vào kí ức không thể quên:

Trên sông khi bóng chiều òa đến

Một lũ gái trai cùng cởi phăng quần áo

Ra giữa dòng sâu chơi “Rái cá bắt cá”

Rái cá đuổi theo túm bắt lấy bàn chân

Kẻ làm cá bị bắt sẽ quay đầu lại đuổi

Thắng và thua cũng trong vực vùng quanh

Nước vỡ ì ùm chẳng có ai thấm mệt

Tối lên bờ vội và mặc lẫn áo của nhau

(Ngày còn bé - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52

Trò chơi thả diều cũng được trẻ thơ miền núi đặc biệt yêu thích. Khi đàn trâu,

đàn bò đã ăn no cỏ, những cô bé, cậu bé mục đồng lại thi nhau thả diều rồi hòa mình

theo tiếng sáo diều vi vu như những khúc hát thần tiên:

Giữa đàn bò chú bé thả diều lên

Chiếc diều bay căng dây no gió

Chiều biếc xanh chưa bao giờ xanh thế

Sáo diều ngân khúc hát thần tiên

(Chú bé và đàn bò - Dương Khâu Luông)

Rồi trò chơi đánh quay - trò chơi được nhiều thanh thiếu niên miền núi yêu

thích đặc biệt là con trai. Trò chơi này thường được tổ chức vào những ngày lễ, ngày

hội mùa xuân. Trên một bãi đất rộng và bằng phẳng, những thanh niên của bản sẽ

chuẩn bị trước mỗi người một con quay làm bằng gỗ được chạm trổ công phu theo

kinh nghiệm của mỗi người. Và khi cuộc thi đến, trai bản nào điều khiển được con

quay của mình quay được tít nhất, lâu nhất có thể hạ gục các con quay của người

cùng chơi thì con quay đó thắng. Người chiến thắng sẽ chứng tỏ được tài năng, sự

khéo léo trong việc làm quay cũng như điều khiển con quay của mình và được người

xem ngưỡng mộ. Bởi vậy, những trận đánh quay bao giờ cũng diễn ra hết sức náo

nhiệt, sôi động, căng thẳng có cả sự cãi vã, tức tối trong đó:

Những con quay bằng lõi ké, lõi chẩn

Quay ngâm bùn vừa đen vừa nặng

Vung dây rồi quay tít trên sân.

Trận đánh bao, đánh chẵn, đánh lẻ

Đánh quay nắm, quay treo, quay dây

Những con quay đập vào nhau đốp chát…

Chỉ một chút nhầm lẫn hay gian lận

Là có thể gây ra cãi vã ầm ầm

Trận đánh đang vui bỗng hầm hầm tức tối…

(Đánh quay - Lò Ngân Sủn)

Nhưng khi trò chơi kết thúc, sau những phút ganh đua quyết liệt mọi người lại

bắt tay nhau thân thiện. Trận đấu có thắng có thua nhưng quan trọng là ai cũng được

chơi, được vui và thể hiện mình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53

Tan cuộc rồi - khi cơn hăng dịu lại

Những con quay lại nằm im trong túi áo, túi quần

Ai nấy lại nhìn nhau bằng con mắt thường ngày.

(Đánh quay - Lò Ngân Sủn)

Ngoài ra ở miền núi cao này còn rất nhiều những trò chơi dân gian truyền

thống trong ngày tết đến xuân về, được đông đảo đồng bào dân tộc và trẻ thơ rất yêu

thích như trò chơi đánh yến, đánh pao, tung còn, bắn nỏ, đua thuyền, bắn tên, bắt

vịt…Và cùng với những trò chơi này, mùa xuân rẻo cao hiện lên vui tươi, rộn rã hơn

bao giờ hết:

Tết đến rồi! Mùa xuân!

Nhiều trò chơi vui quá

Đám chơi bịt mắt bắt dê

Đám thì chơi đánh yến

Đám cùng thi bắn nỏ

Đám ngồi chơi lày cỏ

Đám thì chơi đánh quay

... niềm vui tràn đầy

Tiếng cười vang bên suối

(Trò chơi - Dương Thuấn)

Có thể thấy trong khung cảnh thanh bình của thiên nhiên vùng núi, tuổi thơ

các em đã được sống hồn nhiên, trong sáng cùng những trò chơi gần gũi, quen thuộc

bên những bạn bè cùng trang lứa. Không mất tiền để mua được những đồ chơi đắt

tiền như trẻ thơ thành phố, những trò chơi của các em thường rất đơn giản, gắn liền

với thiên nhiên song vô cùng hấp dẫn, phong phú, đa dạng và sinh động. Những trò

chơi ấy thực sự đã mang lại những tràng cười rộn rã, thích thú sau những giờ học

căng thẳng, những lúc lao động vất vả giúp gia đình của các em.

Bên cạnh những trò chơi vui tươi, đặc sắc thì cuộc sống sinh hoạt phong phú

của trẻ thơ dân tộc thiểu số còn gắn liền với những lễ hội cùng những phong tục tập

quán đặc trưng của đồng bào các dân tộc. Chính những lễ hội cùng những phong tục

tập quán này đã trở thành một phần kí ức sâu đậm, không thể phai mờ trong tâm hồn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54

trẻ thơ vùng cao. Các em đã quan sát, đã sống trong các lễ hội, phong tục tập quán

của quê hương mình, của dân tộc mình để từ đó cất lên tiếng nói rất riêng về tâm hồn

dân tộc. Mùa xuân với người vùng cao không đơn giản chỉ là một kì nghỉ dài mà cùng

với tết đến xuân về, người vùng cao lại bắt đầu một vụ mùa mới để kịp với mưa xuân.

Bởi vậy, ngày tết bên cạnh sự rộn rã, tươi vui, náo nức của thiên nhiên, vạn vật đón

xuân về lại là cảnh đồng bào dân tộc nhộn nhịp rủ nhau lên nương, ra đồng để “trồng

xuân”, “cấy xuân”:

Mừng xuân

Mừng tết

Người người

Giục ngựa lên nương

Giục trâu xuống ruộng

Trồng cây trên núi

Cấy xuân trên đồng.

(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)

Cùng với đó là cách đón tết, cũng giống như người Kinh, các dân tộc thiểu số

cũng đón tết Nguyên Đán song mỗi dân tộc lại có bản sắc riêng vô cùng phong phú,

độc đáo. Đối với dân tộc Tày, để đón tết đến nhà nào cũng phải trang trí nhà cửa.

Cách trang trí nhà cửa của Người Tày rất độc đáo, họ trang trí nhà cửa bằng các tấm

giấy đỏ. Trong quan niệm của họ, màu đỏ là màu của sự may mắn, tốt lành nên tết

đến đối với người Tày là cả một không gian sáng rực màu giấy “ hồng đào” từ trong

nhà ra đến ngõ, từ trong thôn đến ngoài bản:

Tết đến

Trước bàn thờ

Trước cửa ra vào

Trên cây vườn trước ngõ

Sáng rực những tấm giấy hồng đào

(Tết đến - Dương Thuấn)

Lứa tuổi trẻ thơ là lứa tuổi của những câu chuyện cổ tích và những chiếc bánh

ngọt bởi vậy ngày tết đọng lại trong tâm trí các em là dư vị của nhưng món ăn truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55

thống như: bánh trôi, bánh trưng, thịt gà, xôi đen đỏ: “Tết đến/ Nào bánh trôi/ Nào

bánh trưng/ Nào gà, xôi đen đỏ” (Tết đến - Dương Thuấn).

Trong tâm trạng hân hoan đón tết, mọi người lại háo hức, gấp rút sắm sửa cho

mình những món quà nhỏ để tham dự hội xuân:

Chị tìm lông gà làm yến

Mẹ nhuộm chỉ khâu còn

Em bện dây đánh quay

Ai cũng vui đón ngày tết đến

(Đón tết - Dương Khâu Luông)

Bên cạnh đó, qua những trang thơ thiếu nhi miền núi, ngoài ngày tết Nguyên

Đán thì các nhà thơ dân tộc thiểu số còn mang đến cho người đọc biết thêm nhiều lễ

hội gắn với những phong tục đặc trưng của đồng bào các dân tộc như: hội Lồng Tồng

của dân tộc Tày, hội kèn Pí Lè của dân tộc Giáy, hội khai hạ, khuộng mùa của dân tộc

Mường, hội diều, hội Katê của dân tộc Chăm hay hội trống Ginang của đồng bào Tây

Nguyên nói chung…. Bằng sự gắn bó tha thiết với quê hương mình, dân tộc mình,

các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tái hiện lại không khí của những ngày lễ hội hết sức

sinh động qua cái nhìn của trẻ thơ.

Lễ hội Lồng Tồng hay còn gọi là lễ hội xuống đồng là lễ hội lớn của người Tày

thường tổ chức vào đầu năm để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Trong ngày lễ này thường diễn ra nhiều trò chơi vui nhộn và không thể thiếu những

điệu then, điệu lượn, điệu sli. Bởi vậy, ngoài những trò chơi hấp dẫn thì những điệu

hát ngọt ngào của dân tộc này đã trở thành một ấn tượng đẹp, một niềm nhớ trong

tâm trí của trẻ thơ về lễ hội:

Câu dân ca gọi em về với bản

Điệu then nào cũng muốn nói lời vui

(Đến Bắc Kạn - Dương Khâu Luông)

Đó còn là lễ hội Khuộng mùa của người Mường trong thơ Lò Cao Nhum. Lễ

hội này diễn ra trong trong không khí vui tươi, rộn rã giữa tiếng khấn của thầy mo,

tiếng khèn, tiếng chiêng ngân vang với hy vọng xua đuổi tà ma để đón một vụ mùa

bội thu của bà con dân tộc Mường:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56

Lễ Khuộng mùa

Gọi Mường dưới hãy lên

Gọi Mường trên cùng xuống

Xua thần trùng trôi suối

Xua bóng tối lên mây

…Sinh ra lời đẹp, tiếng lành

Sinh ra văn hóa

Trường tồn dân gian

(Đêm mường Bui - Lò Cao Nhum)

Rồi lễ hội Katê - một lễ hội dân gian thiêng liêng, đặc sắc và rất quan trọng trong

đời sống tinh thần, tín ngưỡng của dân tộc Chăm. Trong lễ hội này, người còn sống

tưởng nhớ đến những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc đã được

tôn vinh thành thần. Khi lễ hội diễn ra, người dân thường tập trung tại các đền tháp cổ

kính - biểu tượng của dân tộc Chăm và thưởng thức các điệu múa dân gian trong kho

tàng âm nhạc dân tộc. Mọi người nghỉ ngơi, đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Bởi

vậy, dưới con mắt trẻ thơ, lễ hội Katê diễn ra vô cùng tưng bừng, rộn rã, náo nhiệt:

Katê ngày mở hội

Hội mở khắp làng Chăm.

…Bỏ nhọc nhằn năm cũ

Người đi tay trong tay

Bờ môi nối tiếng cười

Mắt tìm nhau thắp ấm..

(Hội làng Chăm - Inrasara)

Cùng với hội Katê, tiếng trống Ginang cũng trở thành một di sản văn hóa quý

báu của người Chăm nói riêng cũng như dân tộc Tây Nguyên nói chung. Âm thanh

của tiếng trống đã trải qua một thời gian dài “trăm năm và ngàn năm” của lịch sử,

vượt qua bao gian nan, gập ghềnh để thức dậy “hồn dân tộc” bao thế hệ. Trong những

ngày hội lớn, âm thanh của tiếng trống Ginang lại vang lên cùng với những điệu

trống phong phú của người Chăm để xua đuổi những tăm tối mời gọi những điều may

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57

mắn, tốt lành đến với buôn làng. Tiếng trống đã đồng điệu với điệu tâm hồn của

người Chăm, đã đi theo họ suốt cuộc đời từ lúc bé thơ:

Êm dịu điệu Biyen Tiong

Hùng tráng nhịp Tang Hok

Sôi nổi điệu Chei Tathun

Buồn buồn khúc Atapah

Trăm năm rồi ngàn năm

Tổ tiên mình nhảy múa

Theo nhịp trống ginang

(Trống Ginang - Inrasara)

Ngày hội thả diều cũng là một ngày hội lớn của nhiều đồng bào dân tộc trên

đất nước ta. Từ một trò chơi truyền thống gắn liền với những mục đồng chăn trâu,

thổi sáo thì trò chơi thả diều đã trở thành một ngày hội lớn ẩn chứa những giá trị văn

hóa tinh thần to lớn của dân tộc. Bởi vậy, ngày hội thả diều cũng được các nhà thơ

dân tộc thiểu số ghi lại qua những trang thơ thiếu nhi của mình hết sức dung dị, tự

nhiên nhưng vẫn chứa đầy sự reo vui, náo nức của trẻ thơ:

Một cánh diều - trăm cánh diều

Bay là bay lên - bay cao hơn nữa

Ăn gió cho no - sức dài cứ mở

Một cánh diều - ba cánh diều

Bay là bay cao - tung mình gió lớn

(Hội diều - Inrasara)

Và đi kèm với những trang thơ rực rỡ sắc màu của không khí lễ hội, các nhà thơ

thiếu nhi dân tộc thiểu số cũng thể hiện một cách chân thực mà thiêng liêng những nét

đẹp trong phong tục tập quán của dân tộc mình. Đó là phong tục thờ cúng, nhớ ơn ông bà

tổ tiên đầu năm mới, phong tục chúc tết, phong tục khâu quần áo cho ông bà đầu năm để

“Trời rét ông bà có diện kịp/ Quên già bởi tuổi lại sang xuân” (Khâu áo cho ông bà -

Bàn Tài Đoàn) hay phong tục thể hiện qua việc dựng cửa, làm nhà rất riêng của từng dân

tộc… Có thể thấy tất cả những phong tục, tập quán đó đều được các nhà thơ thiếu nhi

miền núi thể hiện bằng tình yêu tha thiết, niềm tự hào to lớn về dân tộc mình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm nên phong tục

(Nói với con - Y Phương)

Theo thời gian cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, đời sống của đồng

bào các dân tộc cũng có sự đổi thay nhưng những lễ hội cùng những phong tục tập

quán tốt đẹp ẩn chứa những giá trị văn hóa tinh thần to lớn thì còn mãi. Tất cả điều đó

đã góp phần hình thành nên nếp sống và sinh hoạt đầy màu sắc của đồng bào các dân

tộc Việt Nam. Qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, bên

cạnh việc hiểu thêm về các phong tục tập quán của từng dân tộc, vùng miền, người

đọc còn cảm nhận được niềm tự hào, ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc

không chỉ của các nhà thơ mà còn của cả thế hệ thiếu nhi dân tộc khi được nuôi

dưỡng, được tắm mình, được lớn lên trong suối nguồn văn hóa đó.

2.3. Trẻ thơ dân tộc thiểu số với những ước mơ, trăn trở và khát vọng

2.3.1. Ước mơ được học tập, hiểu biết về thế giới muôn màu

Mặc dù hoàn cảnh sống còn nhiều khó khăn, vất vả song cũng giống như tất cả

trẻ thơ trên thế giới, trẻ thơ dân tộc luôn mang theo bên mình những ước mơ, những

khát vọng được học tập cũng như được tìm hiểu, hiểu biết về thế giới muôn màu xung

quanh các em. Đây cũng là một điều rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi thơ - lứa tuổi

nhìn cuộc sống với đầy sự háo hức, mới mẻ, thích thú, tò mò của ánh mắt lúc nào

cũng là lần đầu tiên: lần đầu tiên được nhìn thấy, lần đầu tiên nhận thấy, nghe thấy...

Bởi vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng gì cũng khiến các em thắc mắc, đặt ra muôn ngàn

câu hỏi vì sao. Việc tìm hiểu để đi đến giải thích, trả lời được các câu hỏi đó sẽ làm

cho các em thêm hiểu biết, lớn dần và trưởng thành hơn. Và những ước mơ, mong

muốn được hiểu biết, được khám phá đó của trẻ thơ đã được các nhà thơ dân tộc thiểu

số thể hiện rất chân thực, sinh động qua những trang thơ - những món quà đầy ý

nghĩa dành tặng thiếu nhi của mình.

Qua những trang thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số, trẻ thơ miền núi

hiện lên là những em nhỏ hiếu học. Mỗi ngày đến trường đối với các em là một niềm vui

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59

lớn. Kho kiến thức bất tận ẩn chứa bao điều diệu kỳ luôn luôn có sức hút lớn mời gọi các

em tham gia tìm hiểu. Mỗi trang sách mở ra là bao ước mơ, hy vọng của các em:

Khi trang sách mở ra

Biết bao điều hấp dẫn

Những con số thần kỳ

Dòng chữ đen bí ẩn

…Khi trang sách mở ra

Mở ra chân trời mới

(Khi trang sách mở - Bùi Thị Tuyết Mai)

Mỗi ngày đến trường đối với các em là một ngày vui, ngày hội. Niềm vui hiện

lên trên từng khuôn mặt ngây thơ, từng nụ cười, ánh mắt “Đầy ắp khoảng trời riêng”

của các em. Tuổi học trò của các em là lứa tuổi đẹp nhất, hồn nhiên nhất, trong sáng

nhất trong cuộc đời mỗi con người. Bằng cái nhìn trải nghiệm của đời người, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã có những vần thơ đầy rung động về niềm vui của lứa tuổi học

trò với những cảm xúc rất riêng:

Tuổi học trò

Như hoa mới nở

Vừa rạo rực như lửa

Vừa rụt rè ngây thơ

Ước mơ chắp cánh bay đi khắp phương trời

(Tuổi học trò - Lò Ngân Sủn)

Hiện thực cuộc sống của đồng bào dân tộc dù còn nhiều thiếu thốn, để đến

được với cái chữ các em phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách nhưng với tinh thần

hiếu học các trẻ thơ dân tộc thiểu số sẵn sàng vượt qua tất cả thực hiện ước mơ được

hiểu biết, được khám phá thế giới tri thức của mình. Có thể hình ảnh “đèn đom đóm”

đối với trẻ thơ thành phố chỉ là một câu chuyện kể để đề cao tinh thần vượt khó học

tập của người xưa thì điều này lại là chuyện rất bình thường đối với trẻ thơ ở miền núi

khi mà thực tế ở nhiều vùng sâu, xa chưa có điện. Ở đó, nguồn sáng chủ yếu để các

em học bài, đọc sách là ánh sáng của ngọn đèn dầu leo lét. Bởi vậy, hình ảnh cái bật

lửa cùng ngọn đèn đã trở thành người bạn đồng hành quen thuộc trên con đường

khám phá tri thức của trẻ thơ vùng cao:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60

Em bật cái: cạch

Thắp lên

Ngọn đèn.

Đêm ngồi

Đọc sách

Ngọn lửa

Nhìn em!

(Cái bật lửa - Lò Ngân Sủn)

Nếu như ở thành phố hiện đại, trẻ thơ đến trường thuận lợi bằng các phương

tiện xe cộ thì ở miền núi cao các em chủ yếu phải đi bộ đến trường. Tuy nhiên quãng

đường đến trường của các em không phải là đơn giản, bằng phẳng mà đó là cả một sự

gian nan, vất vả thậm chí còn là hiểm nguy luôn rình rập đối với những em ở bản sâu

xa. Và quãng đường đó luôn là cả một chặng hành trình dài đầy sự thử thách, đe dọa

dưới con mắt trẻ thơ: “Đêm gà gáy lần đầu / Dậy gọi nhau đi học/ Bó đuốc to sáng

rực/ Í ới gọi lên đường/ Cây lá còn rơi sương/ Áo quần khô thành ướt/ Hôm mưa trơn

bước trượt/ Ngã áo bẩn quay về/ Hôm hổ đói gầm ghè/ Gõ um rừng tiếng mõ/ Hôm

bỗng rừng đổ gió/ Cành rơi ngập lối đi/ Hôm nước suối lên to/ Cầu trôi, vin hàng

sậy” (Bản xa đi học - Dương Thuấn).

Song dù vất vả, khó khăn là thế nhưng các em vẫn quyết tâm bám lớp, bám

trường. Hình ảnh trẻ thơ miền núi mang trên mình chiếc cặp, chân bước thấp bước

cao trên dốc núi cheo leo như chạy đua cùng mặt trời đã trở thành một biểu tượng

đẹp, đáng ngưỡng mộ cho ý chí, nghị lực, tinh thần hiếu học quyết tâm đến với ánh

sáng tri thức của trẻ thơ miền núi:

Sáng nào cũng như vậy

Mỗi người một chiếc gậy

Vượt rắn dữ, hùm beo

Bên dốc núi cheo leo

Bên mặt trời chân bước

(Bản xa đi học - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61

Dường như cuộc sống càng khó khăn, vất vả, các em càng thêm nghị lực để

quyết tâm học tập. Học để trau dồi tri thức, học để đổi đời, để thoát nghèo, để xây

dựng, phát triển quê hương. Bởi vậy trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều những tấm

gương sáng là các em thiếu nhi dân tộc vượt khó học tập. Xã hội cũng như các đoàn

thể cần khích lệ hơn nữa tinh thần của các em bằng những hành động cụ thể để các

em có điều kiện thực hiện được ước mơ của mình.

Cùng với ước mơ được đến trường, được học tập thì tâm hồn trong sáng của trẻ

thơ dân tộc thiểu số còn luôn khát khao muốn tìm hiểu, hiểu biết về thế giới xung

quanh mình. Điều đó được thể hiện thông qua muôn vàn những câu hỏi, những thắc

mắc rất ngây thơ của các em: “Em hỏi chim chim bay về đâu”, “Em hỏi mây mây trôi

về đâu”, “Em hỏi gió”, “Em hỏi sông” (Câu hỏi - Inrasara), tại sao gà lại chọi nhau,

tại sao trâu lại húc nhau…(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn). Và bằng tấm lòng

yêu mến trẻ thơ của mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã có những sự lý giải rất hóm

hỉnh, dễ thương song lại hoàn toàn logic, hợp lý trong trường suy luận của trẻ thơ: hoa

lục bình màu tím vì hiếu học không thể quên được những trang sách mực tím “ghi bài

học ban đầu” (Hoa lục bình - Thái Vĩnh Linh), cây lúa trèo thang vì “Bờ khe ít đất/

Núi chen nhau hóa chật/ Cây lúa phải trèo thang” (Cây lúa trèo thang - Bùi Thị Tuyết

Mai), gà chọi nhau vì có cải mỏ nhọn, trâu húc nhau vì có cái sừng trên đầu, ngựa đá

nhau vì có hai chân sau rất khỏe, chó cắn nhau vì tranh phần gậm xương (Những điều

con hỏi - Lò Ngân Sủn), sự hình thành của núi và sóng biển qua cái nhìn của các nhà

thơ cũng rất đặc biệt bắt nguồn từ tình bạn thân thiết giữa biển và núi:

Biển vươn mình ôm núi

Hóa thành sóng nhấp nhô

Núi hiểu lòng của biển

Núi duỗi dài lô xô…

(Núi và biển - Dương Thuấn)

Hay phát hiện thú vị về những con đường của sương, của gió rồi qua đó các

nhà thơ dân tộc đã có sự liên tưởng bất ngờ đến con đường của mẹ và của bé để qua

đó giúp các em nhận ra thế giới là muôn hình, muôn vẻ nhưng ai, sự việc gì cũng có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62

những công việc riêng trong thế giới của nó: “Đường của sương /Đi trên cỏ / Đường

của gió / Chui trong cây/ Đường lên nương/ Đường của mẹ / Đường của bé/ Đi tới

trường” (Những con đường - Dương Thuấn).

Có thể nói thế giới muôn màu đối với các em là cả một kho tàng ẩn chứa biết

bao điều kì diệu, bí ẩn mà các em luôn khao khát được tìm hiểu, khám phá. Đồng

điệu với tâm hồn trẻ thơ, các nhà thơ thiếu nhi nói chung cũng như các nhà thơ thiếu

nhi dân tộc thiểu số nói riêng đã nói và nhìn cuộc sống theo cách riêng của các em để

tìm giải đáp cho những bí ẩn, thắc mắc đó. Cách giải đáp hết sức bất ngờ, mọi điều

tưởng chừng như vô lý thì lại trở nên rất hợp lý, hợp logic trong sự nhận thức của trẻ

thơ. Đồng thời quan trọng hơn qua đó, các nhà nhà thơ dân tộc đã phác họa thành

công bức tranh tâm hồn ngây thơ, trong sáng, cùng phẩm chất ham học hỏi, ham hiểu

biết của trẻ thơ dân tộc và qua những phẩm chất tốt đẹp này chúng ta hoàn toàn có thể

tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của quê hương vùng cao.

2.3.2. Những trăn trở và khát vọng của trẻ thơ dân tộc thiểu số

Thế giới tuổi thơ là thế giới của sự hồn nhiên, trong sáng tuy nhiên cuộc sống

vốn không phải lúc nào cũng bằng phẳng mà ẩn chứa trong đó đầy sự phức tạp, biến

cố. Trẻ thơ vốn lại rất nhạy cảm với những gì diễn ra xung quanh mình bởi vậy với

mỗi sự việc được chứng kiến hay được nghe, được kể lại của cuộc sống đã in đậm

dấu ấn trong tâm hồn trẻ thơ có cả vui lẫn buồn, cả sự háo hức lẫn sự trăn trở, suy tư

đồng thời qua đó các em cũng thể hiện những suy nghĩ, những khát vọng của chính

bản thân mình trước những vấn đề đặt ra của cuộc sống.

Cuộc sống của đồng bào dân tộc không chỉ diễn ra thanh bình, yên ả sau

những quả đồi, ngọn núi, rừng cây mà ở đó còn tồn tại nhiều vấn đề, hiện tượng khiến

cho người dân miền núi trong đó có thế hệ măng non phải suy nghĩ, phải bận lòng. Từ

những câu hỏi vô tư về thế giới loài vật “sao gà lại chọi nhau”, “sao trâu lại húc

nhau”…các em đã liên hệ đến thế giới của con người. Qua một câu hỏi ngây thơ của

em nhỏ song người đọc lại chợt giật mình nhận ra một sự trăn trở không hề nhỏ trong

đầu óc còn non nớt của các em. Đó là vấn đề bạo lực - một vấn đề lớn trong xã hội

hiện nay. Chẳng phải con gà sinh ra đã có mỏ để mổ nhau, chẳng phải con trâu sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63

ra đã có sừng để húc nhau vậy mà lại có hiện tượng con người đánh nhau. Có thể giải

thích được thế giới loài vật nhưng lại bất lực khi giải thích về thế giới con người. Bởi

vậy, câu hỏi “Thế sao người lại đánh nhau ?” (Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)

đã tạo nên một khoảng trống lớn với chiều sâu trong suy nghĩ không chỉ đối với trẻ

thơ mà còn đối với mỗi người lớn khi đối diện với vấn đề này.

Vấn đề tiếng nói dân tộc cũng được các em quan tâm đến. Qua câu chuyện các

em chứng kiến được của một bạn người Mông là học sinh Anh ngữ trong dịp hè được

trở về quê gặp lại bà. Nhưng buồn thay khi bà và cháu gặp nhau thì:

Cháu nói bằng tiếng Việt

Bà nói bằng tiếng Mông

Không hiểu được tiếng nhau

(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)

Để bà và cháu hiểu được nhau thì người bố phải đứng ra làm phiên dịch.

Thông qua câu chuyện đó, chính các em chứ không ai khác đã ý thức được việc đang

mai một dần của ngôn ngữ dân tộc - thứ tiếng riêng của quê hương, của nơi chôn

nhau cắt rốn, thứ tiếng mà bà, mẹ đã ru ta từ lức ấu thơ nhưng trong cuộc sống hiện

đại đang dần bị lãng quên, bị thay thế bởi những ngôn ngữ khác:

Ôi tiếng nói tiếng nói

Ở trên trái đất này

Có rất nhiều thứ tiếng

Và có một thứ tiếng

Gọi là tiếng quê hương!

(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)

Bằng một cái nhìn, một sự cảm nhận khách quan của trẻ thơ, các tác giả dân

tộc thiểu số đã đánh lên một hồi chuông cảnh báo về sự mất mát dần của các giá trị

văn hóa dân tộc trong đó có ngôn ngữ. Ngôn ngữ dân tộc bao gồm tiếng nói và chữ

viết được dùng làm phương tiện giao tiếp riêng của từng dân tộc. Ngôn ngữ dân tộc là

một phương diện quan trọng của bản sắc văn hóa. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay,

cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, ngôn ngữ dân tộc đang bị mai một và lãng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64

quên. Có những dân tộc không còn đủ cả tiếng nói và chữ viết. Có những người con

dân tộc thậm chí còn không biết đến ngôn ngữ của dân tộc mình. Ngôn ngữ là nguồn

cội bởi vậy vấn đề nhắc nhở thế hệ trẻ ý thức được việc gìn giữ ngôn ngữ dân tộc là

một việc làm cấp thiết trong tình hình xã hội đang hướng tới hội nhập, toàn cầu hóa

hiện nay.

Bên cạnh đó còn là sự băn khoăn của các em trước việc con người khai thác

rừng kiếm củi. Vẫn biết con người sống không thể thiếu ánh lửa hồng, thiếu củi

nhưng rừng khai thác mãi rồi sẽ hết và các em cũng bàng hoàng nhận ra con người

không thể sống thiếu rừng:

Tiếng thôi thúc từ nơi bếp lửa hồng

Con người không thể sống thiếu lửa

Nhưng con người cũng không thể sống thiếu rừng

Rừng ơi!

(Rừng ơi - Lò Ngân Sủn)

Đó là những suy nghĩ, những băn khoăn rất chính đáng của các em trước

những vấn đề, những bức xúc đang ngày ngày diễn ra trên quê hương mình. Và cũng

chính từ những những suy nghĩ, ưu tư đó, những khát vọng hồn nhiên, tươi sáng về

cuộc sống mới vùng cao được nảy mầm trong tâm hồn trong sáng của các em. Nhận

thức được tầm quan trọng của rừng với cuộc sống con người, các em nuôi khát vọng

sẽ trả lại màu xanh cho đồi, hồi sinh cho rừng để rừng mãi là ngôi nhà chung, là

nguồn sống của con người cũng như muôn loài động vật, cỏ cây:

Thì ta làm màu xanh

Thì ta nuôi màu xanh

Trả màu xanh cho đời

(Khúc ca màu xanh - Inrasara)

Cùng với đó là mong ước về một cuộc sống mà con người không đánh lộn, thù

hằn nhau, không có sự phân biệt dân tộc, vùng miền mà chỉ có tình yêu thương, lòng

nhân ái tỏa sáng dù là người Ba Na hay người Chăm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65

Tôi hỏi bạn từ đâu về đây

…Tôi hỏi bạn tại sao về đây

Bạn lặng lẽ nhìn tôi - đôi mắt bạn tròn đen ngấn nước

Tôi biết bạn đang ở đây, nơi này - trong bàn tay mẹ Chăm

-đã năm năm - sẽ nhiều năm nữa - trong vòng tay dịu hiền Plây mới

Bạn lặng lẽ nhìn tôi - Trong mắt bạn long lanh nắng ấm

(Bạn BaNa ở làng Chăm - Trà Ma Hani)

Còn nhiều lắm muôn vàn những điều ước nhỏ nhoi của trẻ thơ dân tộc. Mỗi em

một điều ước không ai giống ai song ước mơ nào cũng đẹp, ước mơ nào cũng xinh

tươi, trong sáng vô ngần như chính tâm hồn của các em. Chính những ước mơ nhỏ bé

đó đã thắp sáng những khoảng màu còn tối của cuộc sống đồng bào các dân tộc và hứa

hẹn một cuộc sống mới tốt đẹp hơn trong tương lai: không có chiến tranh, không có đói

nghèo, trẻ thơ có cơm ăn, áo mặc, được đến trường học tập bao điều vui: Em: đất nước

thanh bình / Em mong ba sống lại/ Em ước chiếc áo lành/ Em: làng có nước sạch/ Em:

đừng ai đói nghèo/ Em mơ mái trường đẹp (Điều ước - Inrasara).

Và cũng không thể không đề cập đến khát vọng được bay cao, bay xa hòa

nhập với sự phát triển của cuộc hiện đại của thiếu nhi trong thơ của các nhà thơ dân

tộc thiểu số. Yêu quê hương tha thiết, gắn bó với từng bản làng, từng thửa ruộng bậc

thang, từng dòng sông con suối… song trẻ thơ dân tộc cũng luôn có khát vọng được

vươn mình đứng dậy “bước chân qua đèo núi / đến với mọi người” (Con thi đỗ đại

học - Dương Khâu Luông) để có thể nhìn ra xung quanh, học hỏi, hòa nhập được với

cuộc sống hiện đại. Cuộc sống bên ngoài như một bầu trời mới lạ, rộng mở luôn có sự

thu hút đối với các em để đến lúc lớn khôn, “sức rộng vai dài” các em sẽ thực hiện

khát vọng bay cao, bay xa của mình. Lời của người cha đất nắng bên cạnh việc động

viên con thực hiện giấc mơ, hoài bão của mình, tung hoành chí lớn ở bốn phương

song cũng nhắc nhở con đừng quên nguồn cội biết bao thấm thía, ý nghĩa:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66

Rồi mai con vươn thân mọc cánh

Bay khắp trời Mỹ trời Âu

Có hề chi đâu

Nếu lòng con còn nhớ về đất tổ.

…Rồi mai con mở trí rộng hồn

Tiếng Tây, tiếng Tàu biết đủ

Ngoan lắm con ơi

Nếu tha phương con chưa quên tiếng mẹ.

(Lời người cha đất nắng - Inrasara)

Và lời dạy đó cũng chính là hành trang vững chãi giúp các em thêm tự tin

bước vào đời, tự tin hòa nhập với cuộc sống mới phía trước song cũng không đánh

mất chính mình trước cuộc sống hiện đại với những mặt trái của nó.

Tiểu kết chương 2

Giáo sư Hà Minh Đức đã từng nói “thơ là tấm lòng nhưng thơ cũng chính là

cuộc sống” [50]. Qua những trang viết mộc mạc, dễ thương dành cho tuổi thơ, các tác

giả dân tộc thiểu số đã phản ánh một cách sinh động những khung cảnh thiên nhiên,

những nếp sống, sinh hoạt đặc trưng cùng những ước mơ, trăn trở và khát vọng của

các em. Đó là khung cảnh thiên nhiên miền núi hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ

tình, nên thơ với bức tranh thiên nhiên bốn mùa đặc trưng cùng một thế giới động vật,

cỏ cây phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó là hiện thực cuộc sống miền núi đang trên

đường đổi mới gắn liền với những sinh hoạt phong phú, độc đáo thể hiện qua những

trò chơi vui nhộn, những lễ hội dân gian đặc sắc cùng những phong tục, tập quán tốt

đẹp giàu ý nghĩa văn hóa của đồng bào dân tộc. Chính những yếu tố đó đã góp phần

quan trọng vào việc nuôi dưỡng, hun đúc nên phẩm chất, tâm hồn cũng như khát

vọng, hoài bão của trẻ thơ dân tộc thiểu số. Tất cả điều này đã tạo nên sức hấp dẫn,

mới lạ, một tiếng nói riêng cho mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ

hiện đại trong suối nguồn văn học dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67

Chương 3

THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC THIỂU SỐ

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

3.1. Ngôn ngữ mang sắc thái riêng

Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn học

nói chung và thơ ca nói riêng, “là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Go - rơ- ki). Nó

là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà nghệ sĩ xây dựng lên tác phẩm, là “chìa khóa”

để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Có thể nói văn

chương là nghệ thuật của việc sắp đặt ngôn ngữ bởi vậy việc tìm hiểu ngôn ngữ nghệ

thuật để khám phá ra thế giới hình tượng trong tác phẩm cũng như tư tưởng của nhà

văn là việc làm hết sức quan trọng đối với nghiên cứu văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật là “một hệ thống các

phương thức, phương tiện tạo hình, biểu hiện; hệ thống các quy tắc thông báo bằng

tín hiệu thẩm mỹ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật” [4] như ngôn ngữ ba lê,

ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh .

Như vậy có thể thấy rằng bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang

tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có tính thẩm mĩ cao trong tác phẩm văn học đồng

thời thể hiện tài năng, cá tính, cách nhìn, cách cảm của nhà văn, nhà thơ đối với cuộc

sống con người. Và trên phương diện này có thể khẳng định các nhà thơ thiếu nhi dân

tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã khá thành công trong lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ

nghệ thuật để khắc họa bức tranh cuộc sống, tâm hồn trẻ thơ dân tộc.

3.1.1. Ngôn ngữ thơ ngắn gọn, giản dị

Ngôn ngữ ngắn gọn, giản dị là một yêu cầu, một đặc trưng có bản của thơ

thiếu nhi. Bởi đối với lứa tuổi thiếu nhi, một bài thơ hay và có thể tác động trực tiếp

đến tâm tư, tình cảm của các em phải là một bài thơ ngắn gọn để các em dễ tiếp cận,

dễ nhớ đồng thời dễ hiểu. Làm thơ cho thiếu nhi không phải là một sự đánh đố các

em đằng sau câu chữ mà phải biến câu chữ đó trở nên dễ hiểu, có sức hấp dẫn, sức

hút đối với các em. Và để làm được điều đó thì trước tiên ngôn ngữ trong thơ thiếu

nhi phải ngắn gọn, trong sáng, giản dị thể hiện thông qua việc nhà thơ lựa chọn thể

thơ, cách ngắt nhịp cũng như cách diễn đạt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68

Về thể thơ và cách ngắt nhịp, qua việc tìm hiểu thơ viết cho thiếu nhi của một số

nhà thơ dân tộc thiểu số có thể thấy rằng các nhà thơ thường ưu tiên sử dụng nhiều

những thể thơ ngắn gọn như thể thơ 2 chữ, 3 chữ , 4 chữ, 5 chữ cùng với cách ngắt nhịp

ngắn. Việc sử dụng thể thơ và cách ngắt nhịp này gần với những bài hát đồng dao, bài

vè quen thuộc của trẻ thơ tạo nên một tâm thế nhẹ nhàng, hứng khởi cho trẻ khi tiếp

cận tác phẩm. Bài thơ về hòn cuội hấp dẫn trẻ thơ với thể thơ 3 chữ ngắn gọn, mỗi câu

thơ tạo thành một nhịp thơ chắc nịch, khỏe khoắn như những bước chân của trẻ:

Những hòn cuội

Béo béo tròn

Như lợn con

(Cuội hát - Dương Thuấn)

Hay với thể thơ 4 chữ thường được các nhà thơ ngắt nhịp chẵn 2/2 tạo nên sự

đăng đối hài hòa cho trẻ thơ khi đọc cũng như khi lấy hơi ngừng, nghỉ như:

- Làng Kinh / làng Tày

Chung nhau/ con suối

Mặn cùng/ hạt muối

Giống ngày/ giống đêm

(Ngôi nhà quê em - Nông Thị Ngọc Hòa)

Tích tắc/ tích tắc

Nhắc em/ rửa chân

Nhắc em/ rửa tay

Nhắc em/ rửa mặt

Nhắc em/ quét sân

Dọn mâm/ rửa bát

Học bài/ học hát

(Tích tắc tích tắc - Lò Ngân Sủn)

Ngoài ra thể thơ lục bát truyền thống cùng với lối ngắt nhịp chẵn cũng được

các nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng nhiều để mang lại một âm hưởng nhẹ nhàng, du

dương cho những trang thơ thiếu nhi của mình tạo nên sự lắng đọng trong cảm nhận

của thiếu nhi về bài thơ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69

Núi thiêng năm ấy, bây giờ

Rừng hoang đã hóa rừng thưa mất rồi

Rẫy Cò không bóng cò trôi

Mình ngồi nướng bắp kể thời xửa xưa

(Rẫy Cò nhà em - Trà Ma Hani)

Bên cạnh việc lựa chọn thể thơ, cách ngắt nhịp thơ ngắn gọn, ngôn ngữ thơ

thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số còn giản dị, dễ hiểu. Đó là thứ ngôn ngữ

được chắt lọc từ chính cuộc sống của đồng bào dân tộc được các nhà thơ đưa vào

trong thơ tự nhiên như những gì vốn có của nó, không cầu kỳ, chau chuốt:

Cả lớp yên lặng nào

Cô sẽ cho một phút

Em ghi lên điều ước

Chỉ một điều ước thôi

(Điều ước - Inrasara)

Sự giản dị của ngôn ngữ trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số còn thể hiện

thông qua cách diễn đạt. Các nhà thơ dân tộc thường sử dụng lối diễn đạt thẳng, trực

tiếp những gì mình nhìn thấy, cảm nhận thấy: “Bé Mi tuổi lên ba/ Bắt chước chị “ ê

a”/ Tay cầm bút, tay vẽ/ Vạch mãi thành chữ cha/ Tô nắn nót chữ mẹ/ Khoái chí reo

“ý a”!”(Theo tay chị - Mã Thế Vinh)

Đó là cách cắt nghĩa, định nghĩa trực tiếp rất ngắn gọn, mạch lạc, trong sáng

về thiên nhiên gắn với những hình ảnh đặc trưng của quê hương miền núi trong con

mắt trẻ thơ như: quả núi, ánh trăng, hạt lúa:

Thiên nhiên là quả núi

Ngồi cho em vẽ tranh

Thiên nhiên là ánh trăng

Soi cho em tập múa

Thiên nhiên là hạt lúa

Mẹ gánh về trên vai

(Thiên nhiên - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70

Và thông qua cách nói, cách định nghĩa đó, mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc

sống hàng ngày hiện lên dễ hiểu, gần gũi và gắn bó với trẻ thơ dân tộc hơn bao giờ

hết. Đó chính là cuộc sống của các em, là cái mà các em nhìn thấy, cảm thấy, tiếp xúc

hàng ngày.

Với một lối viết dung dị, tự nhiên, ngắn gọn cùng những hình ảnh thường thấy

trong cuộc sống lao động và sinh hoạt ở vùng cao, cách sử dụng ngôn ngữ ngắn gọn,

giản dị của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại thể hiện thông qua cách

lựa chọn thể thơ, cách ngắt nhịp cũng như cách diễn đạt rất phù hợp với tâm lý của trẻ

thơ dân tộc. Đó là lối tư duy thẳng, miêu tả trực tiếp những gì mình nhìn thấy, cảm

thấy không vòng vo nhiều ẩn ý - một trong những nét thuộc về bản chất của người

dân tộc nói chung cũng như trẻ thơ dân tộc nói riêng. Đồng thời thông qua cách sử

dụng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn các nhà thơ đã thể hiện được cái nhìn ngây thơ,

trong sáng của trẻ thơ dân tộc thiểu số trước các hiện tượng, sự việc diễn ra xung

quanh mình.

Tuy nhiên, vấn đề cũng cần bàn thêm là với lối diễn đạt thẳng, trực tiếp này

nhiều khi ngôn ngữ trong thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số còn

thiếu sự chau chuốt, xơ cứng trong cách diễn đạt dẫn đến thiếu sự uyển chuyển, mềm

mại của ngôn ngữ thơ. Vẫn còn cách diễn đạt mang đậm tính chất khẩu ngữ của ngôn

ngữ hàng ngày như:

Những lúc ngồi chụm đầu học hát

Nốt nhạc chưa quen

Giọng lạc nhiều bè

Nhưng sự hồn nhiên thì nghe chả lẫn vào đâu.

(Tuổi học trò - Lò Ngân Sủn)

Và chính điều đó đã trở thành một trong những hạn chế cần được khắc phục

trong cách dùng ngôn ngữ của các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số để mảng thơ này

trở nên thực sự hay và đặc sắc hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71

3.1.2. Ngôn ngữ thơ giàu âm thanh, hình ảnh

Theo tâm lý lứa tuổi, điều để lại ấn tượng sắc, lâu bền nhất với tuổi thơ là

những gì các em được nhìn thấy, được nghe thấy. Bởi vậy, bằng tình yêu tha thiết với

trẻ thơ, ngôn ngữ được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số lựa chọn và sử dụng

nhiều đó là ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh. Điều này được thể hiện rõ thông qua

việc các nhà thơ dân tộc thường sử dụng nhiều những từ ngữ gợi âm thanh, màu sắc

để tạo nên tính nhạc cũng như tính họa cho những trang thơ thiếu nhi của mình đồng

thời tạo nên sự tác động trực tiếp, lâu bền trong cảm nhận của trẻ thơ dân tộc. Đó là

âm thanh rộn ràng, tươi vui, dồn dập của tiếng trống trung thu cùng tiếng hò reo của

trẻ thơ đã trở thành một miền kí ức không thể phai mờ trong tuổi thơ của mỗi người:

Tung tung cắc tung tung

Trống lân inh đầu ngõ

…Đèn ông sao chớp đỏ

Tiếng reo hò vang vang

(Trung Thu - Niê Thanh Mai)

Hay đó là âm thanh vội vã, háo hức theo từng bước chân của chú ngựa xuống

chợ phiên. Miêu tả âm thanh của con ngựa nhưng qua âm thanh đó nhà thơ Lò Ngân

Sủn đã lột tả cả sự háo hức, xốn xang được xuống chợ của cậu bé Mông:

Rung reng, rung reng

Em đi chợ phiên

Rạp mình trên ngựa

… Gió ào kéo ngược

Rung reng, rung reng

(Cưỡi ngựa - Lò Ngân Sủn)

Cuộc sống phong phú muôn màu, muôn vẻ cũng được các nhà thơ dân tộc

thiểu số ghi nhận lại thông qua sự mô phỏng những tiếng kêu rất riêng của muôn loài:

Chó con thì sủa “ách ách”, “âu âu”, gà rừng thì gáy “té… te… tè… te…”, cái cọn

nước kêu “cót két”, đuôi nhím lắc nghe “re re”, tù và đu đủ kêu “tu tu”, vượn gọi

bạn “ốc ốc”, chồn kêu “choa choa”, gấu chuyển động nghe kêu “rùng rình” , vịt kêu

“ạp ạp”, ngỗng gọi “oang oang”, tiếng con quay “đốp chát”, tiếng đồng hồ “tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72

tắc”, tiếng máy cày “ầm ầm”, tiếng máy xúc “phạch phạch”, “ xộc xộc” hay cùng là

tiếng mõ song tiếng mõ của trâu mẹ và nghé con nghe cũng có sự khác nhau:

Lốc cốc

Lốc cốc…

Tiếng tròn vo

Mõ to của trâu mẹ

Lách cách

Lách cách…

Tiếng nhè nhẹ

Mõ bé của nghé con

(Tiếng mõ - Dương Thuấn)

Tất cả những âm thanh đó là những âm thanh có thật của cuộc sống nhưng

cũng là những âm thanh vang vọng trong tâm hồn tuổi thơ. Những âm thanh đó đã

được các nhà thơ dân tộc khéo léo đưa vào từng trang thơ thiếu nhi của mình để tạo

nên một khu vườn âm nhạc tuổi thơ rộn ràng với những khúc nhạc tuổi thơ hấp dẫn

đối với các em thiếu nhi.

Cùng với cách sử dụng từ ngữ tràn ngập âm thanh thì để làm tăng tính họa, tính

tạo hình, trong thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng thường sử

dụng rất nhiều từ ngữ chỉ màu sắc. Cách sử dụng từ ngữ này đã tạo nên những ấn tượng

trực tiếp cho trẻ thơ về đối tượng được các nhà thơ đề cập đến. Và ở phương diện này

có thể thấy thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số là những bức tranh sinh động, tươi sáng tràn

ngập sắc màu ngôn ngữ. Đó là màu xanh của rừng, màu trắng của mây, màu vàng của

nắng, màu biếc của lá, màu lửa nung của đất, màu thắm của hoa đào, màu đen trũi của

con nòng nọc, hay màu mắt nổi vằn xanh, vằn đỏ của con sâu cơi:

Những con sâu cơi bằng ngón trỏ

Cặp mắt nổi vằn xanh, vằn đỏ

(Những con sâu cơi - Dương Thuấn)

Tất cả những màu sắc đó đã tạo thành một bức tranh thiên nhiên đặc sắc, tươi

vui, đầy sức sống, cuốn hút dưới con mắt trẻ thơ dân tộc thiểu số.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73

Bên cạnh việc sử dụng hệ thống từ ngữ gợi âm thanh, màu sắc thì việc các

nhà thơ dân tộc sử dụng nhiều các biện pháp tu từ trong đó chủ yếu là biện pháp so

sánh và nhân hóa cũng làm tăng tính họa, tính nhạc, tạo nên sự hàm súc và biểu cảm

cao cho những trang thơ thiếu nhi của mình. Với biện pháp so sánh các sự vật, hiện

tượng tượng được nhà thơ đề cập đến trở nên sinh động, cụ thể và dễ hiểu hơn đối với

trẻ thơ. Đồng thời qua đó các nhà thơ đã thể hiện được trường liên tưởng đầy bất ngờ,

mới lạ trong tư duy của trẻ thơ dân tộc. Đó là hình ảnh mặt trời đầy sức gợi hình

“tròn như cái nong” (Mặt trời - Lò Ngân Sủn), chiếc máy cày có “ hai mắt sáng như

hai ông trăng tròn” (Chiếc máy cày - Dương Thuấn), rồi chiếc máy ủi giống như

“Những con bọ hung/ Làm bằng sắt/ Nung bằng lửa (Những con bọ hung - Lò Ngân

Sủn) hay âm thanh của suối Pí Lè có sự thay đổi khác nhau qua mỗi đoạn chảy đã

được các em so sánh với âm thanh của sấm, bão, của lá cây rừng trong sự cảm nhận

rất tinh tế của mình:

Đoạn nghe ầm ào như sấm như bão

Khúc nghe lao xao như tiếng lá cây rừng

(Suối Pí Lè - Lò Ngân Sủn)

Thông qua biện pháp so sánh, những đối tượng, sự vật trừu tượng đã được các

nhà thơ cụ thể hóa bằng những âm thanh, hình ảnh, sự vật gần gũi với các em để các

em có thể dễ hình dung và cảm nhận. Trong đó có rất nhiều những sự so sánh, liên

tưởng đầy bất ngờ, mới lạ như hình ảnh hoa Bjooc mạ được so sánh giống “chiếc váy

sờn”, hình ảnh dòng sông “xanh như lá nghệ”, nắng “vàng như mật”, những hòn cuội

“ béo béo tròn/ như con lợn”, những ngọn núi đi “như trâu kìn kịt”, ruộng bậc thang

như “Chiếc quạt trời xòe nan”… (Dương Thuấn). Thậm chí có những sự vật trừu

tượng song bằng biện pháp so sánh, các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng đem đến cho

các em sự cảm nhận giản dị, gần gũi nhất như: “Đời vui như cờ mở/ Hồn tươi như lá

xanh”, “Điện về như mắt sáng/ Mương như tay mẹ hiền” (Inrasara), “Lời then như

muôn hạt mưa xuân”, “Tình anh em không đi lại/ Như con đường hoang/ Như ngôi

nhà hoang/ Như mảnh vườn hoang/ Rậm cỏ” (Dương Khâu Luông). Qua đó có thể

thấy biện pháp tu từ so sánh đã phát huy cao độ tác dụng của nó trong thơ thiếu nhi

của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74

Cùng với biện pháp so sánh thì biện pháp nhân hóa đã được sử sụng triệt để

trong những trang thơ thiếu nhi miền núi. Dưới lăng kính trẻ thơ vạn vật kể cả cây cỏ,

muôn thú hay sự vật đều có một đời sống riêng vô cùng phong phú và hấp dẫn. Trong

thế giới riêng đó, chúng có thể nói chuyện, vui đùa hoặc có những suy nghĩ, trăn trở

giống như con người. Trong thế giới thần tiên lộng lẫy đó thiên nhiên như: mây,

nắng, rừng cũng biết điệu đà, làm dáng: “Mây/ Mặc áo trắng/ Nắng / Mặc áo vàng/

Rừng / Mặc áo xanh”(Lò Ngân Sủn).

Rồi đó là cuộc sống đông đúc, vui vẻ, thuận hòa của đại gia đình muông thú ẩn

sau sự âm u, tĩnh mịch của đại ngàn:

Trăn cuộn tròn ngẫm nghĩ

Khỉ đánh đu dây rừng

Hươu nai múa bên cây cổ thụ

Hổ báo ngồi chồm chỗm ngó xem

(Ô rừng - Lò Ngân Sủn)

Hay câu chuyện đầy ngộ nghĩnh và thú vị giữa chú ếch và cá rô (Chú ếch ăn

trăng - Dương Thuấn), giữa chuột anh và chuột em về cách đối phó với kẻ thù mèo

vằn (Anh em chuột - Dương Thuấn) hay câu chuyện giữa bác trâu hiền lành cam

phận và con cọp nghênh ngang, tự đắc (Tại sao trâu không có hàm dưới - Inrasara).

Như vậy, bằng việc sử dụng ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh thông qua việc

dùng nhiều từ ngữ chỉ âm thanh, màu sắc cùng các biện pháp so sánh, nhân hóa, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã tạo dựng nên cho thiếu nhi dân tộc một thế giới hoàn toàn mới lạ,

sinh động đầy hấp dẫn - một thế giới thần tiên, cổ tích trong từng trang thơ của mình.

Đồng thời qua đó, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã giúp trẻ thơ phát triển tư duy liên

tưởng, tưởng tượng, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn và tình cảm của các em.

3.1.3. Ngôn ngữ thơ mang đậm bản sắc dân tộc

Các nhà thơ dân tộc thiểu số đại diện cho dân tộc mình luôn ý thức được việc

giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc và điều

này được thể hiện rõ trong từng trang thơ của họ thông qua cách sử dụng ngôn ngữ.

Ngôn ngữ thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại

mang đậm bản sắc riêng của từng dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75

Bản sắc dân tộc thể hiện trước hết qua cách dùng từ ngữ của các nhà thơ dân

tộc thiểu số. Họ đã sử dụng chính kho từ vựng của dân tộc mình để sáng tác nên tác

phẩm. Đó là bản sắc dân tộc Tày gắn liền với việc sử dụng từ ngữ quen thuộc của

người Tày trong thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông, Nông Quốc Chấn, Nông Thị

Ngọc Hòa… Thông thường, chúng ta hay dùng từ “đào măng” hay “bẻ măng” vì

măng là thân non của cây thuộc họ tre, trúc mọc dưới đất song trong ngôn ngữ cũng

như lối tư duy và diễn đạt của người Tày họ lại dùng là “hái măng” trong khi vốn dĩ

động từ “hái” thường được dùng với ý nghĩa dùng tay ngắt rời hoa, quả hay lá khỏi

cây với một khoảng cách ở xa với mặt đất. Gắn bó sâu sắc với dân tộc mình, “tỉ mẩn,

kiên nhẫn nhặt nhạnh những hạt ngọc trong cách ăn, lời nói, trong lối tư duy và đặc

điểm tâm lí của đồng bào mình” [26, tr.18], hơn một lần trong thơ thiếu nhi của các

nhà thơ Tày, chúng ta bắt gặp cách sử dụng từ “hái măng” - một cách diễn đạt rất

riêng của dân tộc:

Em lên rừng hái măng

Nghe vi vu gió hát

(Hái măng - Dương Thuấn)

Động từ “cõng” cũng được cũng được các nhà thơ dân tộc thiểu sổ sử dụng

nhiều trong thơ của mình với nhiều ý nghĩa khác nhau ngoài với nghĩa gốc được ghi

trong từ điển. Đó có thể là người cõng gùi, bà cõng cháu, sông cõng phà hay đường

cõng xe, ngựa cõng người, ngựa cõng hàng hóa:

Đường

Cõng xe

Cõng ngựa

Xe

ngựa

cõng người

cõng hàng

lên núi

lên bản

(Mừng xuân, mừng tết - Lò Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76

Ngoài ra, bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc

thiểu số còn thể hiện ở chỗ các nhà thơ thường sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ

địa danh của quê hương mình như: hồ Ba Bể, Bắc Kạn, sông Năng, bản Hon,

Phjabjooc (thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông), sông Bằng Giang (thơ Y

Phương), suối Pí Lè, bản Mường, Mương Bui, Mường Động (thơ Lò Ngân Sủn, Lò

Cao Nhum), làng Chăm, buôn, plây, Tuy Phong, tháp Chàm, Cà Ná, Ma Nới, Từ

Tâm, Phan Rang, Ban Mê, Raglai, làng Chakleng (thơ Inrasara, Trà Ma Hani)…

Cùng với việc dùng từ ngữ để gọi tên địa danh quê hương, các nhà thơ dân tộc

thiểu số còn sử dụng nhiều từ ngữ gợi người đọc liên tưởng đến không khí và cuộc

sống lao động, sinh hoạt đặc trưng của từng dân tộc như nương, ruộng, quả núi, đồi,

ngô, lúa, rừng cây bồ đề, rừng mỡ, rừng vầu, sàn trăng, cầu thang, nhà gác, thầy

mùn, hát then, lượn cọi…

Mây trắng treo đầu nguồn

Núi, đồi thi nhau chạy ngược

Địu đầy ngô, lúa, sắn, khoai…

(Núi đồi - Lò Ngân Sủn)

Lễ hội là một trong những nét văn hóa đặc sắc nhất của từng dân tộc. Mang

đậm dấu ấn dân tộc, ngôn ngữ trong thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kì hiện đại đó còn là ngôn ngữ của lễ hội. Những lễ hội đặc trưng của từng dân

tộc đã được thể hiện một cách trọn vẹn thông qua cách dùng những danh từ riêng gọi

tên từng lễ hội như: hội Lồng Tồng (dân tộc Tày), hội kèn Pí Lè (dân tộc Mông,

Giáy), hội Kate (dân tộc Chăm), hội diều (Dân tộc Chăm), hội trống Ginang (đồng

bào Tây Nguyên)… Tất cả đã tạo thành một mã ngôn ngữ rất riêng của từng dân tộc

như mã ngôn ngữ của dân tộc Chăm thể hiện qua các từ ngữ chỉ vũ điệu trống Biyen

Tiong, Tang hok, Chei Tathun, Atapah trong thơ Inrasara:

Êm dịu điệu Biyen Tiong

Hùng tráng nhịp Tang hok

Sôi nổi điệu Chei Tathun

Buồn buồn khúc Atapah

(Hồn trống Ginang - Inrasara)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77

Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số

còn có sự ảnh hưởng lớn từ các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là ảnh

hưởng của điệu lượn trong thơ Y Phương; hát mo trong thơ Lò Cao Nhum; điệu then,

điệu sli, điệu khèn, điệ lượn trong thơ Dương Thuấn, Dương Khâu Luông:

Tiếng lượn xinh trắng ngần

Ngọt hơn ngàn tiếng chim

Không bắt được bỏ túi

Không cầm được để xem

Người nào yêu tiếng lượn

Tiếng lượn sẽ đến tìm

(Tiếng lượn - Dương Thuấn)

Rồi đó còn là cách diễn đạt rất riêng của dân tộc cũng được các nhà thơ dân

tộc thiểu số khéo léo thể hiện trong những trang thơ thiếu nhi của mình. Chẳng hạn

như trong khuôn âm của người Tày vốn không có thanh ngã, bởi vậy trong sáng tác

của mình, các nhà thơ Tày rất hạn chế sử dụng thanh này. Thậm chí có những đoạn

thơ dài hay bài thơ họ không dùng thanh “ngã”:

Cái áo của bà

Hai vai bạc phếch

Một bên nắng táp

Một bên mưa sa

Vai áo của bà

Gánh gió gánh mưa

Nhọc nhằn vất vả

(Cái áo của bà - Dương Khâu Luông)

Bên cạnh đó, những cách diễn đạt mang tính chất khẩu ngữ, dân dã hàng ngày

của từng dân tộc cũng trở thành ngôn ngữ thơ ca dưới ngòi bút của các nhà thơ. Nói

về cả cuộc đời đầy vất vả, cay đắng của mình, Lò Cao Nhum có một cách nói rất

riêng gắn liền với những món ăn, những gia vị gắn bó, không thể thiếu được trong đời

sống của dân tộc mình:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78

Con gái út dứt đi

Nỗi củ gừng và niềm lá đu đủ

Mưu sinh phập phù

Gai rừng núi đá

(Tóc trắng - Lò Cao Nhum)

Đó là lời dặn dò, nhắc nhở riêng của người cha Lũng Núi đối với đứa con của

mình về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đi rừng:

Con ơi con!

Làm con trai Lũng Núi

Khi đi rừng

Nhớ mang theo dao

Lối trong rừng không ai mở sẵn

Bằng con dao sắc của mình

Con tự mở lối đi

(Lời cha Lũng Núi – Trương Định)

Hay cách nói đầy tình cảm tha thiết của người cha đối với con qua cách gọi rất

riêng của dân tộc: người đồng mình

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm nên phong tục

(Nói với con - Y Phương)

Hay cách gọi thân thiết, gần gũi về dân tộc mình như: chú bé bản Hon, người

mẹ xứ Mây, em bé xứ Mây (thơ Dương Thuấn)…để thông qua cách gọi đó, các nhà

thơ thiếu nhi dân tộc đã thể hiện được hình ảnh, tầm vóc, vị thế, nét riêng không trộn

lẫn của dân tộc mình.

Như vậy có thể thấy rằng với việc sử dụng ngôn ngữ mang đậm dấu ấn dân tộc

thể hiện qua cách dùng từ ngữ, khẩu ngữ, cách gọi tên, miêu tả các lễ hội đặc trưng

của từng dân tộc, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số không những phản ánh được

điệu tâm hồn mình mà còn góp một tiếng nói quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy

những tinh hoa của dân tộc trong đó có vấn đề ngôn ngữ dân tộc. Và cùng với ngôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79

ngữ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh, âm thanh, thì với ngôn ngữ mang đậm dấu ấn

dân tộc, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tạo nên một diện mạo riêng, sức hút riêng cho

những trang thơ viết về thiếu nhi của mình.

3.2. Giọng điệu nghệ thuật

Giọng điệu nghệ thuật có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình sáng tạo của

nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu nghệ thuật vừa là yếu tố quyết định để nhà văn, nhà thơ

tạo nên đứa con tinh thần của mình, thể hiện cái nhìn, bày tỏ thái độ, tình cảm trước

hiện thực cuộc sống vừa là phương tiện đặc sắc giúp người đọc thâm nhập vào thế

giới tinh thần của tác giả. Theo Nguyễn Đăng Điệp “giọng điệu là một thước đo

không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách đọc đáo của người nghệ sĩ” [3].

Như vậy có thể thấy giọng điệu nghệ thuật có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong

quá trình sáng tác của nhà văn, nhà thơ. Vậy bản chất của khái niệm giọng điệu là gì?

Theo Trần Đình Sử, giọng điệu chính là “một hiện tượng nghệ thuật toát ra từ

bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ”. Giọng điệu nghệ thuật

tồn tại trong thế giới nghệ thuật và là một trong những phạm trù cơ bản của thi pháp

học. Cùng với quan điểm đó, các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học cũng đưa ra

định nghĩa về giọng điệu. Theo đó, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường, tư

tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn

quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,

thân, sơ, kính trọng hay suồng sã, ngơi ca hay châm biếm” [4, tr.92].

Thơ ca thiếu nhi miền núi đã khẳng định được vị trí, chỗ đứng của mình trên

thi đàn thơ ca nói chung cũng như thơ thiếu nhi Việt Nam nói riêng bằng một giọng

điệu thơ hết sức riêng biệt mà thông qua đó, người đọc đã cảm nhận, đã đồng điệu

được với tâm hồn trẻ thơ miền núi. Đó là giọng điệu trong sáng, hồn nhiên, tinh

nghịch, hóm hỉnh song cũng có lúc thâm trầm, tha thiết, triết lý, chiêm nghiệm…Tất

cả đã góp phần làm nên nét đặc sắc riêng không thể trộn lẫn cho giọng điệu của mảng

thơ thiếu nhi miền núi.

3.2.1. Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên

Có thể thấy giọng điệu trong sáng, hồn nhiên là một giọng điệu thường thấy

trong thơ viết cho thiếu nhi như thơ của Trần Đăng Khoa, Phạm Hổ, Võ Quảng…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80

song từ trong giọng điệu chung đó, các nhà thơ dân tộc miền núi đã thổi vào đó chất

sống của con người xứ núi để tạo nên một giọng điệu riêng cho thơ của mình. Giọng

điệu trong sáng hồn nhiên trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số thể hiện rõ thông qua

cách nói, cách so sánh, liên tưởng gần gũi nhưng đầy bất ngờ của các em về các hiện

tượng, sự vật của tự nhiên. Với nhãn quan của trẻ thơ vùng cao, thiên nhiên hiện lên

gần gũi, gắn bó với những vật dụng, đồ dùng sinh hoạt không thể thiếu được đối với

cuộc sống con người:

Cột quân là đồi

Cột cái là núi

Mái lợp bằng rừng cây xanh

(Ngôi nhà - Lò Ngân Sủn)

Từ màu sắc vốn có của các loài chim trong môi trường tự nhiên, các em có sự

liên tưởng đầy sáng tạo: “Màu lông của cô Sáo/ Đen nhẻm y nhọ nồi/ Chị Cò dáng lả

lướt/Cánh mịn tựa hạt xôi/ Em Vàng Anh ríu rít/ Áo giống màu nghệ tươi”(Sắc màu -

Hoàng Hữu Sang). Chính nhờ cuộc sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên cùng với

một tâm hồn trong sáng của trẻ thơ đã giúp các em có được những liên tưởng kì diệu

như vậy về thiên nhiên.

Giọng điệu trong sáng, hồn nhiên trong thơ thiếu nhi miền núi còn được các

nhà thơ thể hiện rõ thông qua những trang thơ viết về chính các em gắn với những

đặc điểm, tính cách, cách tư duy trẻ thơ. Đó là tính cách trẻ con gắn liền với những

niềm vui, những hờn dỗi tưởng chừng như vô tận thường thấy trong thế giới trẻ thơ

cùng muôn vàn lí do ngộ nghĩnh:

Buổi sáng mặt trời mọc

Con bảo: mặt trăng lên

Buổi tối mặt trăng lên

Con bảo: mặt trời mọc

Bố lắc đầu - con khóc

Bố gật đầu - con cười

(Bố con - Lò Ngân Sủn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81

Là cách các nhà thơ hóa thân thành những cô bé, cậu bé vùng cao để thông qua

đó giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hồn nhiên, dễ thương trong tâm hồn của các

em dù cuộc sống miền núi còn nhiều vất vả thiếu thốn:

Nắng sớm bừng rộn rã

Bước chân em rộn ràng

Hòa theo tiếng chim vang

Gùi ơi - lên nương nhé!

(Buôn em - Niê Thanh Mai)

Với một giọng thơ tươi vui, trong sáng đầy da diết, cuộc sống của trẻ thơ miền

núi hiện lên trong lao động, vất vả song không vì vậy mà làm mất đi sự hồn nhiên,

trong sáng của trẻ thơ.

Giọng điệu trong sáng hồn nhiên còn được thể hiện thông qua cách tư duy rất

tự nhiên, thật thà của em bé vùng cao khi so sánh hai miền: miền xuôi và miền ngược

bằng sự hiểu biết của chính mình từ những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của các

em: “Bạn là người Kinh/ Quê ở dưới xuôi/ Mình là người Tày/ Quê ở miền ngược/

Quê bạn nhiều lúa/ Có lắm cá tôm/ Quê mình nhiều gỗ/ Có lắm chim muông/ Quê

bạn mặt trời/ Mọc bên bờ ruộng/ Quê mình mặt trời/ Lên từ đỉnh núi” (Quê bạn quê

mình - Dương Thuấn)

Bằng một lối nói, cách tư duy mộc mạc thông qua những hình ảnh so sánh, cậu

bé bản Hon đã đưa ra một cái nhìn đầy tươi mới của trẻ thơ miền núi về sự khác biệt

của hai miền xuôi - ngược. Điều đặc biệt là sự so sánh đó bắt nguồn từ những hình

ảnh, sự việc mà các em nhìn thấy, cảm thấy hàng ngày mà không phải dựa vào kiến

thức khoa học hay địa lý về vùng, miền.

Đặc biệt, giọng điệu trong sáng, hồn nhiên còn được các tác giả dân tộc thiểu

số đặc biệt yêu thích, sử dụng nhiều khi thể hiện tình cảm của trẻ thơ. Trẻ thơ thường

không giấu được cảm xúc, cười khi vui, khóc khi buồn, yêu thương thì rất thật. Bằng

một giọng thơ trong trẻo, hồn nhiên, các nhà thơ đã thể hiện một cách chân thực

những cung bậc tình cảm đó của trẻ thơ. Đó là tình cảm mẹ con thiêng liêng đầy xúc

động thể hiện qua những hành động, những việc làm, những lo lắng, quan tâm của trẻ

thơ khi mẹ ốm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82

Trưa nay mẹ ốm

Thằng em ngồi viết bài

Suốt buổi chẳng cười đùa

Chị đi tìm rau ngải

Mang về hơ lửa xông cho mẹ

Trưa nay mẹ ốm

Chị gắp thịt cho mẹ

Em gắp thịt cho mẹ

Chị rủ em ăn toàn rau

(Mẹ ốm - Y Phương)

Đó còn là tình cảm yêu thương, trìu mến song không kém phần da diết của

đứa cháu thơ dành cho bà ngoại lâu ngày mới xuống thăm của mình thể hiện thông

qua những câu thơ, những từ ngữ chứa chan cảm xúc: “Thương là thương ơi/ Này bà

ngoại nhé/ Tay nhăn nheo thôi/ Mà bồng cứ khoẻ/ Nhai trầu nhóp nhép/ Mà cười cứ

tươi/ Chẳng ở cái môi/ Mà nơi khóe mắt…” (Ngoại về thăm - Inrasara). Từng vần

thơ chứa đầy cảm xúc trong sáng của trẻ thơ như chợt thức dậy trong lòng mỗi người

đọc về hình ảnh người mẹ, người bà hiền dịu, tần tảo, vất vả cả đời hi sinh cho những

đứa con, đứa cháu thơ củả mình.

Như vậy có thể thấy rằng giọng điệu trong sáng, hồn nhiên được sử dụng khá

nhiều trong thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số. Với giọng điệu này, các

nhà thơ đã thể hiện được chân thực những tình cảm hồn nhiên, trong sáng của thiếu

nhi dân tộc trong cách cảm nhận thiên nhiên, cảm nhận cuộc sống quanh mình cũng

như cách tư duy, cách bộc lộ thái độ, tình cảm, cảm xúc mang đậm chất “trẻ thơ”.

3.2.2. Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh

Bên cạnh giọng điệu trong sáng, hồn nhiên thì giọng điệu tinh nghịch, hóm

hỉnh cũng là một trong những giọng thơ chủ đạo của mảng thơ thiếu nhi dân tộc thiểu

số. Tinh nghịch, hóm hỉnh cũng là một phẩm chất đặc thù của lứa tuổi thơ - lứa tuổi

hiếu động luôn nhìn cuộc sống với lăng kính màu hồng vui nhộn. Bởi vậy thơ ca viết

cho thiếu nhi cũng không thể thiếu chất tinh nghịch, hóm hỉnh. Hơn nữa chất tinh

nghịch, hóm hỉnh của thơ thiếu nhi cũng giúp các em tiếp cận tác phẩm một cách vui

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83

vẻ, thoải mái hơn, để mỗi bài thơ thực sự là một món quà thú vị sau mỗi giờ học căng

thẳng hay công việc lao động vất vả của trẻ thơ miền núi. Giọng điệu tinh nghịch,

hóm hỉnh được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số sử dụng nhiều khi đi tìm hiểu,

lý giải cho các em những hiện tượng tự nhiên diễn ra trong cuộc sống thường ngày

hoặc chính các em tự đi tìm hiểu, cắt nghĩa những hiện tượng đó. Đó là cuộc hỏi đáp

đầy thú vị, dí dỏm giữa bố và con:

Bố ơi bố, sao gà lại chọi nhau?

À, vì gà có cái mỏ nhọn.

Thế sao trâu lại húc nhau?

À, vì trâu có cái sừng ở đầu

Thế vì sao ngựa lại đá nhau?

À, vì ngựa có hai cái chân sau rất khỏe

Thế sao chó lại cắn nhau?

À, vì chó hay tranh phần gậm xương

(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)

Bằng sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã sống mình với

tâm hồn trẻ thơ để giải đáp những thắc mắc của các em. Cách giải đáp đó không chỉ

giải tỏa những câu hỏi của các em mà còn mang lại sự bất ngờ, ngạc nhiên và cả

những tiếng cười sảng khoái. Gà chọi nhau đơn giản vì có cái mỏ nhọn, trâu húc nhau

đơn giản vì có chiếc sừng, chó cắn nhau vì tranh gậm xương…Cách giải thích đơn

giản nhưng lại rất phù hợp với logic trẻ thơ. Sau mỗi câu trả lời người đọc như nhận

thấy sự reo vui, đầy bất ngờ của các em khi nhận thức ra những điều mới lạ, gản dị

mà mình không ngờ tới.

Còn đây là lời giải thích dí dỏm cho tên thằng Cuội. Thằng Cuội thì cả người

lớn và trẻ con ai cũng biết “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa/ Để trâu ăn lúa gọi cha ồi

ồi” (đồng dao) nhưng để thắc mắc tại sao lại gọi là thằng Cuội thì thực sự chỉ có trẻ

thơ mới nghĩ ra. Hóa mình thành những nghệ sĩ nhí, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã

giải đáp thắc mắc này của các em một cách rất hóm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84

Cuội ngồi trong trăng

Có hàng ngàn tuổi

Mà ai cũng gọi

Là thằng Cuội thôi

Nếu như gọi khác

Không có trăng rồi

(Hỏi Cuội - Dương Thuấn)

Gọi là thằng Cuội đơn giản vì Cuội ngồi trong trăng mà thôi. Trăng là chị

Hằng thì Cuội cũng mãi mãi chỉ là thằng Cuội dù có hàng ngàn tuổi đi nữa vì nếu gọi

khác thì sẽ không còn trăng, không còn chị Hằng nữa. Cách giải thích của tác giả rất

tự nhiên, hóm hỉnh không những đã giải đáp được một cách rất có lý những thắc mắc

ngây ngô vô cùng trẻ con của các em mà còn mang lại cho các em những tiếng cười

hồn nhiên đầy sảng khoái.

Giọng điệu đầy hóm hỉnh, tinh nghịch còn thể hiện thông qua lời đối đáp giữa

các nhân vật mà các nhà thơ dân tộc thiểu số đã xây dựng nên trong tác phẩm của

mình. Đó là cuộc đối đáp giữa cọp và trâu trong Tại sao trâu không có hàm dưới của

Inrasara. Bằng ngôn ngữ của trẻ thơ, nhà thơ đã thể hiện rất thành công những đặc

điểm tính cách của hai nhân vật ngộ nghĩnh này. Chú cọp gắn liền với sự cao ngạo,

hống hách, nghênh ngang còn bác trâu gắn liền với sự chăm chỉ, cần cù, hiền lành:

- Này bác khờ kia

Dại gì dại thế

Thằng người bé tí

Xỏ mũi bác chơi

- Không, bác Cọp ơi

Thân người tuy nhỏ

Trí thời rất to

- À thì ra thế

Để ta thử cho

(Tại sao trâu không có hàm dưới? - Inrasara)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85

Cuộc đối thoại tuy ngắn gọn song đã làm thỏa mãn được sự hiếu kì của trẻ thơ

về cuộc gặp gỡ của hai nhân vật đặc biệt. Cách nhà thơ sử dụng ngôn ngữ đối thoại

để khắc họa đặc điểm của từng nhân vật, ngôn ngữ nói đi kèm với ngôn ngữ cử chỉ,

điệu bộ đã làm toát tiếng cười thích thú của trẻ thơ. Và càng thích thú hơn nữa khi các

em được tự hóa thân vào những nhân vật này để thể hiện những giọng điệu rất riêng

của nhân vật.

Giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh còn được các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu

số thể hiện thành công khi tái hiện lại những trò chơi vui nhộn gắn liền với tuổi thơ

của các em. Qua giọng thơ đó, người đọc phần nào cảm nhận được không khí vui

nhộn, rộn rã đầy ắp tiếng cười cũng như sự hào hứng của các em khi hết mình cùng

những trò chơi đó: “Dung dăng dung dẻ/ Một bầy trẻ nhỏ/ Chạy nhảy ngoài sân/

Thấy con thằn lằn/ Thò tay chộp bắt/ Thấy con chuột nhắt/ Hò nhau định vồ”

(Thương cá rô gầy - Hồ Chư)

Có thể thấy với chất giọng tinh nghịch, hóm hỉnh thì ở mảng thơ thiếu nhi dân

tộc thiểu số, bài thơ nào cũng vui tươi, khỏe khoắn mang âm hưởng của cuộc sống

vùng cao. Mỗi bài thơ thực sự trở thành một người bạn đường tuổi thơ vui nhộn của

thiếu nhi miền núi. Và ẩn đằng sau những nụ cười ròn rã, sảng khoái đó người đọc

nhận ra một tấm lòng tha thiết với tâm huyết muốn mang lại nhiều hơn niềm vui,

tiếng cười cho trẻ thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số.

3.2.3. Giọng điệu trữ tình, tha thiết

Thơ viết cho thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số bên cạnh những bài thơ

mang âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh cũng có không ít những bài thơ lại mang giọng

điệu trữ tình, tha thiết. Đó là những bài thơ thiếu nhi dành để ca ngợi cảnh sắc của

quê hương vùng cao cùng một vẻ đẹp rất riêng, rất nên thơ. Bằng một lời thơ tha

thiết, các nhà thơ đã khắc họa thành công bức tranh quê hương mình. Đó là quê

hương đẹp giàu, hùng vĩ với những cây cầu treo nối liền những đỉnh đèo xa cách, với

những tiếng khèn gọi bạn mùa xuân hòa lẫn trong tiếng gió, tiếng vó ngựa vọng về

cùng những bước chân người đi xa…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86

Cầu treo vắt qua đèo

Nhịp khèn lượn theo gió

Vó ngựa vọng cheo leo…

(Cầu treo - Lò Ngân Sủn):

Không miêu tả nhiều nhưng bức tranh quê hương hiện lên như một tứ thơ đầy

thơ mộng, trữ tình, một bản nhạc đầy duyên dáng qua những trang thơ viết về thiếu

nhi dân tộc thiểu số. Bằng một giọng thơ trữ tình, tha thiết cùng những nét chấm phá

nhẹ nhàng, các nhà thơ miền núi đã thể hiện được tình cảm của mình đối với mùa

xuân của đất nước, của quê hương:

Như một đàn bướm trắng

Đến đậu ở quanh nhà

Sáng dậy ra nhìn thấy

Ôi! Một trời tuyết sa

(Hoa lê - Dương Thuấn)

Quê hương miền núi vào xuân đẹp ngỡ ngàng và đầy ảo diệu với màu trắng

đặc trưng của hoa lê, hoa mận. Bằng một giọng thơ trữ tình đầy sức lôi cuốn, người

đọc như đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân vùng cao cùng tác giả qua

từng câu thơ.

Bên cạnh đó, hình ảnh quê hương hiện lên đầy sức hút dưới con mắt trẻ thơ

qua lời mời bạn đến thăm quê mình:

Bạn lại được đi dưới hàng dương

Lá như tạt mát xuống con đường

Ở đây tha hồ nghe nhạc cát

Gió bè cao và biển bè trầm

(Tuy Phong làng Chăm - Inrasara)

Lời mời bạn thủ thỉ như một lời tâm tình đầy tình cảm mà qua đó cô bé, cậu bé

Chăm đã giới thiệu về quê hương mình. Đó là miền quê vô cùng đẹp, vô cùng thú vị

của xứ nắng, xứ gió. Đến với quê hương miền Trung, bạn sẽ được đi bộ dưới những

hàng dương dài chắn cát, chắn sóng mùa nước lên. Rồi bạn sẽ được tha hồ nghe nhạc

cát mà chỉ duy nhất ở nơi đây mới được thiên nhiên ưu đãi. Và họa cùng nhạc cát sẽ là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87

cả một dàn nhạc đặc biệt của tạo hóa với “gió bè cao” và “biển bè trầm”. Từng câu thơ

du dương như có tiếng sóng trùng dương, tiếng gió lao xao, ì ào…khiến chúng ta thêm

tự hào và yêu xiết bao quê hương nắng lửa miền Trung. Như vậy có thể thấy rằng bằng

một giọng điệu thơ tha thiết, trữ tình các thi sĩ dân tộc thiểu số đã thể hiện một cách sâu

sắc tình cảm, niềm tự hào về quê hương mình đồng thời đã khơi dậy tình yêu quê

hương, gắn bó với quê hương của tầng lớp thanh thiếu niên dân tộc thiểu số.

Ngoài ra giọng điệu trữ tình, tha thiết cũng im đậm trong thơ thiếu nhi của các

nhà thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện đại qua những trang thơ đề cập đến những vấn

đề, hoàn cảnh, cảnh ngộ đau thương, xúc động trong cuộc sống. Đó là tâm sự nghẹn

ngào của con chim én trước một khoảng vắng lặng đầy nhức nhối màu “lửa nung”

khi mà cả cánh rừng đã cháy. Hình ảnh chú én nhỏ tội nghiệp như đang cô đơn, bất

lực trước cuộc sống:

Én bay bịn rịn

Đậu xuống cành mít

Rung đôi cánh nhỏ

Trước một khoảng vắng

Đất màu lửa nung!

(Khoảng trời én bay - Lò Ngân Sủn)

Giọng thơ đầy nghẹn ngào, xúc động khi các nhà thơ viết về cuộc sống còn nghèo

đói, thiếu nước của đồng bào dân tộc “Lũ trâu cày ruộng cạn/ Mục đồng: nước đái trâu”

(Inrasara). Ở nơi đó, con người vẫn phải vật lộn, vất vả với cuộc sống mưu sinh:

Chiều về nơi đồi vắng

Bó củi trên lưng gầy

Bước chân em sải ngắn

Lòng chẳng vương bóng mây

(Buôn em - Niê Thanh Mai)

Hay câu chuyện thấm đẫm nỗi xót xa và thương cảm về những số phận kém

may mắn trong xã hội nhưng họ vẫn nỗ lực sống tốt, sống ý nghĩa và để lại cho đời

nhiều thông điệp quý báu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88

Elkosi…! Elkosi…!

Cả thế giới đã nghe nói về em

Dáng nhỏ xíu trên các diễn đàn

Ước mơ một thế giới không có AIDS

Elkosi…! Elkosi…!

Mười hai tuổi em đi vào cõi chết

Ánh mắt ngây thơ buồn bất tuyệt

Khẩn cầu toàn nhân loại ra tay…

(Elkosi - Dương Thuấn)

Không giống như những bài giảng đạo đức, bằng một giọng thơ trữ tình, tha

thiết, sâu lắng, thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện

đại đã đi vào lòng người đọc đặc biệt là lứa tuổi thơ một cách nhẹ nhàng, sâu sắc

như một nốt trầm xao xuyến nhưng lại có sức âm vang. Mỗi trang thơ là một bài

học lớn giúp các em biết yêu thương, đồng cảm, sẻ chia trước mỗi mảnh đời - mỗi

số phận của cuộc đời.

3.2.4. Giọng điệu suy tư, triết lý

Cùng với giọng trữ tình, tha thiết thì giọng điệu suy tư, triết lí cũng được sử dụng

nhiều trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số khi nhà thơ muốn đề cập đến các vấn đề thế sự

hoặc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em thiếu nhi. Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời

mình, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã gửi đến thế hệ măng non miền núi những lời nhắc

nhở giản dị mà vô cùng sâu sắc trong đó có việc giữ gìn tiếng nói dân tộc:

Ôi tiếng nói, tiếng nói

Ở trên trái đất này

Có rất nhiều thứ tiếng

Và có một thứ tiếng

Gọi là: tiếng quê hương!

(Tiếng quê hương - Lò Ngân Sủn)

Vấn đề nguồn cội cũng được nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số đề cập đến bằng

một giọng thơ mang tính thể nghiệm sâu sắc. Qua đó người đọc có thể dễ dàng nhận

thấy đó là sự day dứt của các nhà thơ đối với thế hệ trẻ trước tình trạng muốn thoát ly

khỏi quê hương vùng cao để tìm đến lập nghiệp nơi phố phường phồn hoa đô hội:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89

Ngày mai con xuống núi

Cùng tay nải hành trang đầu tiên

Đi như suối chảy về với biển

Chớ quên mạch đá cội nguồn

(Rồi ngày mai con đi - Lò Cao Nhum)

Từ đó các nhà thơ dân tộc thiểu số đã có những triết lý sâu sắc về mối quan hệ

giữa con người và quê hương như triết lý về hình ảnh cánh diều trong thơ Inrasara:

Một cánh diều - ba cánh diều

Bay là bay cao - tung mình gió lớn

Vẫn cứ cần dây- vẫn không quên đất

Gió là chí cả - dây là cuống nhau

Đất là quê hương - diều là sức trẻ

Cứ thế mà bay - sánh vai bốn bể

Ngày mai mỏi gió - đất lại thu về

Diều nghỉ trong quê - diều nằm với đất

(Hội diều” - Inrasara)

Cánh diều tượng trưng cho tuổi trẻ, sức trẻ, “gió là chí lớn, “dây” diều là

cuống nhau bám vào đất mẹ. Để có thể bay cao bay xa, con người không chỉ cần có

sức trẻ, chí lớn mà còn cần đến sợi dây vô hình bám chặt vào quê hương, nguồn cội.

Con người sống không thể thiếu quê hương giống như cánh diều không thể thiếu sợi

dây nối đất. Quê hương, nguồn cội bao giờ cũng là nơi bắt đầu, là nơi chắp cánh,

nâng đỡ ước mơ đồng thời cũng là chốn đi về bình yên nhất khi con người đã mỏi

gối, chồn chân trên cuộc đời. Bằng giọng thơ đầy sự trải nghiệm sâu sắc, các nhà thơ

thiếu nhi dân tộc đã mang đến cho trẻ thơ bài học sâu sắc về tình yêu quê hương và

lòng tự hào dân tộc qua hình ảnh giản dị “cánh diều”.

Bên cạnh đó, giọng thơ chiêm nghiệm, triết lý cũng được các nhà thơ dân tộc

thiểu số sử dụng để đưa ra những bài học ứng xử, bài học về mối quan hệ giữa con

người với con người trong xã hội. Đó là niềm tin vào phẩm chất của con người miền

núi: “Quê em/ Đường đèo dốc cong queo/ Chỉ có lòng người luôn thẳng/ Trời có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90

ngày mù sương/ Chỉ có lòng người luôn sáng!” (Quê em – Vi Hồng Nhân). Hay lời

khuyên nhẹ nhàng mà đầy thấm thía của người cha với con về cuộc đời, con người,

lối sống và cách sống:

Chỉ có người nói dối

Cái chữ không nói dối bao giờ

Đừng uống rượu một mình sẽ say

Đừng đi đường một mình sẽ buồn

(Lời khuyên của cha – Ma Phương Tân)

Đó còn là cái lý làm người mà ai cũng phải nhớ được rút ra thông qua hàng

loạt lập luận theo cách suy nghĩ, lý giải của người dân tộc:

Suối chảy ra mây

Cây thổi ra gió

Lúa mọc ra nắng

Nước mọc ra trăng sao

Đất mọc ra quê hương, tổ quốc

Tình yêu mọc ra hạnh phúc

Hận thù mọc ra chết chóc, khổ đau

Cái đầu mọc ra cái lý làm người

(Cái lý làm người - Lò Ngân Sủn)

Với một giọng thơ triết lý song không hề cao ngạo mà thủ thỉ, nhẹ nhàng,

những bài học làm người của các nhà thơ dân tộc thiểu số đã đi sâu và có sức lay

động lớn đến suy nghĩ, tình cảm của trẻ thơ. Đó là lời nhắc nhở sâu sắc cho trẻ thơ

trong thái độ, cách ứng xử đối với những số phận kém may mắn hơn mình:

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

…Mình tạm gọi là no ấm

Ai biết cơ trời vần xoay

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này

(Dặn con - Trà Ma Hani)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91

Hay bài học về mối quan hệ tình cảm gia đình, anh em ruột thịt:

Con ơi, con hãy nhớ

Anh em trong nhà là cùng xương thịt

Đói ăn đói mặc sẽ đến lúc no

Đói tình đói nghĩa thì chẳng ai cho

(Nhà của cha - Dương Thuấn)

Cuộc sống thiếu thốn mãi rồi sẽ có lúc no ấm làm ra bằng sức lao động của

bản thân mình nhưng nếu thiếu thốn, nghèo nàn về tình cảm thì không ai có thể làm

giàu cho mình được. Bởi vậy anh em phải trọng nhau ở cái tình, cái nghĩa. Từ sự đúc

kết kinh nghiệm của cuộc đời từng trải, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang lại cho

lứa tuổi măng non những bài học quý báu về cách làm người.

Như vậy, có thể thấy thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kì hiện đại rất phong phú, đa dạng về giọng điệu: từ giọng hồn nhiên, trong sáng,

dí dỏm, hài hước đến giọng trừ tình tha thiết hay suy tư, triết lý…Mỗi một giọng điệu

lại đem đến cho người đọc những cung bậc xúc cảm khác nhau về vấn đề mà nhà thơ

đề cập đến. Và quan trọng hơn, thông qua giọng điệu thơ đó, các thi sĩ miền núi đã

thể hiện được sự am hiểu sâu sắc cũng như niềm tin yêu, trân trọng của mình dành

cho tuổi thơ dân tộc thiểu số.

3.3. Kết cấu độc đáo

Một tác phẩm văn học dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể

nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố bộ phận như: nhân vật, cốt truyện, các biện pháp

nghệ thuật biểu hiện… Tất cả những yếu tố bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức

theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định

gọi là kết cấu. Nói cách khác, “kết cấu là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố trong tác

phẩm để tạo dựng được thế giới hình tượng giàu ý nghĩa thẩm mĩ, có khả năng khái

quát đời sống, thể hiện tư tưởng của nhà văn” [4, tr. 134].

Tìm hiểu thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại có thể thấy rằng ở

mảng thơ này, các nhà thơ đã có dụng công trong việc xây dựng những kết cấu thơ

linh hoạt, độc đáo, sáng tạo để phù hợp với đối tượng tiếp nhận là trẻ thơ miền núi.

Tìm hiểu thơ thiếu nhi miền núi của một số tác giả dân tộc thiểu số tiêu biểu chúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92

tôi nhận thấy có một số kiểu kết cấu thơ được sử dụng nhiều như: kết cấu tự sự, kết

cấu hỏi - đáp và kết cấu chuỗi sự việc (sự kiện) .

3.3.1. Kết cấu tự sự

Tự sự nghĩa là kể chuyện. Kết cấu tự sự là một kiểu kết cấu đặc thù của những

thể loại tự sự hay kịch tuy nhiên kiểu kết cấu này lại được các nhà thơ dân tộc thiểu

số vận dụng một cách linh hoạt trong thơ thiếu nhi của mình. Biểu hiện của kiểu kết

cấu tự sự này là các nhà thơ đã tạo dựng nên trong khu vườn tuổi thơ của mình những

câu chuyện vô cùng lí thú sinh động, có cốt chuyện, có nhân vật gắn liền với những

đặc điểm tính cách riêng và tất cả được xây dựng nên bằng ngôn ngữ thơ. Với kiểu

kết cấu này, những điều nhà thơ muốn nhắn nhủ sẽ được biểu hiện thông qua những

sự kiện cụ thể bởi vậy các em sẽ dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tiếp cận tác phẩm hơn. Và

qua việc sắp xếp tác phẩm như vậy có thể nhận thấy các nhà thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại vừa là nhà thơ song đồng thời cũng là những nhà

nghệ sĩ kể chuyện tài ba, duyên dáng với biệt tài dẫn dắt, lôi cuốn, thu hút trẻ thơ

bằng những câu chuyện độc đáo dưới hình thức thơ của mình. Đó là câu chuyện đầy

hấp dẫn, câu chuyện từ “ngày xửa ngày xưa” gọi về một giấc mơ cổ tích. Trong câu

chuyện đó các nhân vật hiện lên vô cùng sinh động, hấp dẫn:

Chuyện xưa kể rằng

Ở làng Chakleng

Cậu nhỏ tên Khó

Theo bà tên Khổ

Mót lúa ngoài đồng

(Chuyện xưa - Inrasara)

Bằng lối dẫn dắt mộc mạc, giản dị phảng phất âm hưởng của cổ tích, câu

chuyện của nhà thơ Chăm đã lôi cuốn các em ngay từ cách vào đề. Thêm vào đó là

cách tác giả gọi tên cụ thể địa danh và nhân vật đã củng có lòng tin của các em về độ

chân thực của câu chuyện nhà thơ kể. Và từ đó câu chuyện về cậu bé Khó bằng trí

thông minh của mình đã được lên làm vua xây dựng đất nước, giúp đỡ người dân đã

đi vào tâm hồn ngây thơ của các em một cách thích thú, nhẹ nhàng mà sâu sắc:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93

Cậu nhỏ lớn lên

Làm vua đất nước

Khai mương đắp đập

Tưới nước xanh đồng

(Chuyện xưa - Inrasara)

Hay những câu chuyện ngộ nghĩnh, đáng yêu của các nhà thơ dân tộc thiểu số

nhằm mục đích giải thích cho các em các hiện tượng trong tự nhiên cũng như cuộc

sống như câu chuyện về sự tích các ngọn núi nhuốm màu huyền thoại trong thơ

Dương Thuấn, câu chuyện về chú mèo con “Xinh xinh tựa nắm len mềm biết đi”

nhưng vì mải chơi, xao nhãng học hành: “Hết đánh đáo rồi đánh bi/ Lại phơi nắng để

có khi nhức đầu…/ Suốt ngày chỉ biết rong chơi/ Không nghe cha mẹ nhãng lời thầy

cô” nên dẫn đến việc “Bỗng đâu râu tự mọc ra” để giải thích Vì sao mèo có râu của

nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa đã mang lại sự thích thú đầy ngạc nhiên cho thiếu nhi.

Rồi đó là câu chuyện đơn sơ, giản dị về hai bạn nhỏ lên núi gặp ổ trứng công có ba

quả. Hai bạn bàn tính nhau chuyện chia “chiến lợi phẩm” thu được nhưng:

Chia mãi chẳng đều

Chia đi, chia lại

Nếu người được một

Người lại được hai

(Chia trứng công - Dương Thuấn)

Không ai muốn mình bị thiệt, bị nhận phần ít hơn. Và cứ như vậy hai bạn nhỏ

ngồi chia từ sáng đến trưa mà vẫn không chia được. Và để giải quyết vấn đề, nhà thơ đã

để cho nhân vật thứ ba xuất hiện, là người cởi nút thắt của câu chuyện. Đó là một khách

qua đường đã bày cách chia trứng cho hai bạn nhỏ để ai cũng được đều nhau: “Mỗi

người một quả/ Còn lại quả kia/ Thì cho tôi nhé” (Chia trứng công - Dương Thuấn). Và

câu chuyện chia trứng kết thúc trong niềm vui sướng của hai bạn nhỏ khi nhận được

phần bằng nhau và đồng thời nhận ra cách chia rất đơn giản để đảm bảo sự công bằng:

Muốn chia đều nhau

Nào khó gì đâu

Chia người khác nữa

(Chia trứng công - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94

Từ câu chuyện giản dị, gần gũi ngoài việc để kể vui cho trẻ con nghe, các nhà

thơ dân tộc thiểu số đã mang lại cho các em bài học nhân sinh sâu sắc về cuộc sống

đó là bài học sự sẻ chia và đoàn kết.

Rồi đó là bài học về sự quan tâm, giúp đỡ người khác gặp hoàn cảnh khó khăn

thông qua câu chuyện các bạn nhỏ giúp chú cá rô gầy “ngược dòng mắc cạn” tìm về

với nguồn nước của mình:

Bầy trẻ bàn tán

Biết làm sao đây

Thương cá rô gầy

Cả lũ bấu xấu

Khênh chú cá con

Chân bước lon ton

Ra ao cùng thả

(Thương cá rô gầy - Hồ Chư)

Có thể nói với kiểu kết cấu tự sự thông qua những câu chuyện được kể dưới

hình thức thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã khéo léo đưa vào những vấn đề của

cuộc sống, qua đó trẻ thơ tự soi mình vào câu chuyện để rút ra những bài học nhận

thức cho mình. Thông qua câu chuyện người bạn là học sinh Anh ngữ trở về quê

hương đoàn tụ với người thân nhưng khi gặp nhau thì: “Cháu nói bằng tiếng Việt/ Bà

nói bằng tiếng Mông/ Không hiểu được tiếng nhau” (Tiếng quê hương - Lò Ngân

Sủn), nhà thơ đã đưa ra vấn đề gìn giữ tiếng quê hương, tiếng dân tộc một cách rất tự

nhiên buộc các em phải suy ngẫm. Có thể nói ở phương diện này những bài thơ thông

qua những câu chuyện ngắn, gọn, lý thú về các vấn đề đời sống có tác động sâu sắc

đến tâm hồn trẻ thơ hơn cả những khẩu hiệu hô hào thường thấy. Và đây cũng là một

trong những hiệu quả lớn của kiểu kết cấu tự sự trong thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số

Việt Nam thời kì hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95

3.3.2. Kết cấu hỏi - đáp

Thế giới của trẻ thơ là thế giới của những khát khao, giãy bày, tìm tòi và khám

phá những điều mới lạ. Trẻ thơ lớn lên từ những thắc mắc, những câu hỏi và hành

trình đi kiếm tìm giải đáp. Kiểu kết cấu hỏi - đáp hình thành xuất phát từ chính những

câu hỏi hồn nhiên, trong trẻo đó. Và vì viết cho thiếu nhi cũng chính là viết cho tuổi

thơ của mình bởi vậy kiểu kết cấu hỏi - đáp được nhiều nhà thơ thiếu nhi nói chung

cũng như nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng lựa chọn sử dụng để xây dựng

nên tác phẩm của mình như một phương thức, một gợi dẫn để đi vào thế giới tâm hồn

của trẻ thơ. Tuy nhiên, cùng một kiểu kết cấu hỏi - đáp song các nhà thơ dân tộc đã

có sự vận dụng khác nhau trong từng trang thơ thiếu nhi của mình. Đó có thể là kiểu

kết cấu hỏi - đáp đối thoại diễn ra giữa hai nhân vật. Trong trường hợp này trẻ thơ

thường là người hỏi, người nêu lên những thắc mắc còn người lớn là người đáp, đưa

ra câu trả lời. Đó thường là các cặp ông (bà) - cháu, bố (mẹ) - con, anh (chị) - em. Nội

dung cuộc hỏi đáp xoay quanh những câu hỏi, những thắc mắc ngộ nghĩnh, ngây thơ

của trẻ thơ trước những sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh các em:

Bố ơi bố sao gà lại chọi nhau?

À vì gà có cái mỏ nhọn

Bố ơi bố sao trâu lại húc nhau?

À vì trâu có cái sừng ở trên đầu

(Những điều con hỏi - Lò Ngân Sủn)

Hoặc cũng có thể là kết cấu hỏi - đáp độc thoại. Ở kiểu kết cấu này, trẻ thơ vừa

là người đưa ra câu hỏi song lại vừa là người trả lời. Qua đó, bằng sự đồng cảm với

tâm hồn trẻ thơ, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện cách nhìn nhận, cảm nhận

của chính các em đối với những vấn đề được đề cập tới cũng như cuộc sống xung

quanh mình. Đó là thắc mắc ngây thơ của các em về hình dáng thay đổi của trăng rồi

cũng chính các em lại đưa ra lý giải cho thắc mắc đó dựa vào sự suy luận rất ngây thơ

của mình:

Phải trăng qua ruộng lúa

Nên trăng làm lưỡi liềm?

Phải trăng ghé mái hiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 96

Nên có trăng mắc võng?

Trăng đi qua vườn rộng

Hóa trải bưởi vàng thơm?

Phải trăng qua dòng sông

Trăng thành con thuyền nhỏ?

(Hỏi trăng - Dương Thuấn)

Rồi đó là thắc mắc của các em về các hiện tượng tự nhiên như mây, như gió:

Em hỏi mây mây trôi về đâu

- Mây chở bóng mát về che mẹ già

Em hỏi gió

- Cho nắng còn biết mình hanh

(Câu hỏi - Inrasara)

Hay thắc mắc về sự lung linh, huyền ảo của mảnh đất Sa Pa:

Màu Sa Pa màu gì?

Có phải màu của gió

Có phải màu của mây

Có phải màu của cây

(Màu Sa Pa - Dương Thuấn)

Điều đặc biệt của kết cấu hỏi - đáp là đã liên kết được nhiều những chi tiết,

hình ảnh thơ, những sự việc vốn không liên quan đến nhau nhưng lại cùng nhau xuất

hiện (gà chọi nhau, chó cắn nhau, trâu húc nhau, người đánh nhau…). Đơn giản vì

chúng cùng tồn tại trong trường thắc mắc rất lôgic của thế giới trẻ thơ mà thắc mắc

của trẻ thơ bao giờ cũng là vô hạn, vô cùng. Qua đó một mặt các nhà thơ dân tộc

thiểu số đã mang đến cho các em những kiến thức mới lạ, tăng khả năng hiểu biết của

các em về cuộc sống mặt khác đã thỏa mãn trí tò mò đáng yêu của lứa tuổi thơ.

3.3.3. Kết cấu chuỗi sự vật (sự việc)

Kiểu kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) là kiểu kết cấu thường gặp trong những bài

đồng dao, bài vè quen thuộc của thiếu nhi gắn liền với việc người viết dẫn ra những

chuỗi sự việc, hiện tượng có liên quan hoặc không liên quan đến nhau để thông qua

đó miêu tả hoặc giới thiệu các đặc điểm, đặc tính của sự vật, hiện tượng như:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 97

Đầu trọc lông lốc

Là cái bình vôi

Mồm rộng loe môi

Là cái thìa ốc

Đôi chân xám mốc

Là con diệc trời

Ngủ đứng ngủ ngồi

Là con cò trắng

Hay bay hay tắm

Là con le le

(Đồng dao)

Ảnh hưởng từ thi pháp đồng dao, và đặc biệt là những bài đồng dao quen

thuộc của trẻ thơ dân tộc thiểu số, cách tổ chức bài thơ theo kết cấu chuỗi sự vật (sự

việc) đã được các nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng khá nhiều và thành công đối với

mảng thơ thiếu nhi miền núi. Với việc liệt kê ra các sự vật, hiện tượng có cùng chủ đề

hay không cùng chủ đề, kiểu kết cấu này có ưu thế lớn trong việc thể hiện sự phong

phú, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống dưới con mắt trẻ thơ đồng thời tạo

nên sự thích thú cho trẻ thơ khi tiếp cận tác phẩm. Cùng là đi ngủ song mỗi loài vật

hay cây cỏ lại có một cách thức ngủ, không gian ngủ khác nhau:

Cỏ cây đi ngủ

Lá khép vào nhau

Cá dưới vực sâu

Vừa bơi vừa ngủ

Con ngựa ở tàu

Suốt đời ngủ đứng

Con chim đậu vững

Ngủ trên ngọn cây

Con dơi ngủ ngày

Chân cheo vòm đá

(Đi ngủ - Dương Thuấn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 98

Hay cảm nhận rất riêng về màu sắc mỗi loại chim trong sự so sánh, liên tưởng

đầy bất ngờ của trẻ thơ: “Màu lông của cô Sáo/ Đen nhẻm y nhọ nồi/ Chị Cò dáng lả

lướt/ Cánh mịn tựa hạt xôi/ Em Vàng Anh ríu rít/ Áo giống màu nghệ tươi (Sắc màu -

Bùi Văn Loa).

Từ những đặc điểm thường thấy của sự vật, sự việc nhưng qua cách kể, cách

liệt kê, sắp xếp của các nhà thơ sự vật, sự việc ấy hiện lên vô cùng sinh động, hấp

dẫn, thu hút sự theo dõi của trẻ thơ. Ví dụ như câu chuyện thú vị về cuộc họp của các

loài chim, trong đó mỗi loài một vẻ, một đặc điểm, tính cách, không loài nào giống

loài nào:

Cây đào trước cửa nhà em

Trưa nay họ mạc nhà chim họp đàn

Chích chòe nhiều chữ nhất làng

Đứng lên cất tiếng rảnh rang mời chào

Nhanh chân có chú chào mào

Lề mề cú vọ, ồn ào quạ đen…

(Họp nhà chim - Hoàng Thanh Hương)

Rồi đó là là vẻ đẹp nguyên sơ, đầy sức sống, vui tươi, tấp nập của muôn loài

nơi miền núi cao được diễn đạt trọn vẹn với kiểu kết cấu chuỗi sự việc (Sự vật): “Trời

ơi/ Hửng mau/ Cho cóc vào hang/ Hổ vằn lang thang/ Ra mà phơi nắng/ Cho đàn cò

trắng/ Liệng bay ngoài đồng/ Cho dòng suối trong/ Cho đàn cá lội/ Nai con lạc

lối…(Hát gọi trời hửng).

Như vậy với kiểu kết cấu này, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã mang

lại một cái nhìn đầy tươi mới cho thiếu nhi miền núi đối với những sự vật, hiện tượng

tưởng như đã quá quen thuộc đối với các em, giúp các em mở rộng tầm nhìn về cuộc

sống muôn màu, muôn vẻ thông qua cái nhìn đối chiếu giữa các sự vật, sự việc. Và từ

đó có thể khẳng định cùng với kiểu kết cấu tự sự, kết cấu hỏi - đáp, kết cấu dồn nén

thì kiểu kết cấu chuỗi sự vật (sự việc) là một thành công đáng ghi nhận của các nhà

thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số trên phương diện nghệ thuật xây dựng kết cấu thơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 99

Tiểu kết chương 3

Thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại đã khẳng định được vị

trí của mình trong nền thơ ca thiếu nhi nói riêng cũng như nền văn học thiếu nhi nói

chung bằng một nghệ thuật thể hiện độc đáo. Đó là sự vận dụng hài hòa ngôn ngữ

nghệ thuật, đa dạng về giọng điệu và linh hoạt về kết cấu. Nếu như sự vận dụng hài

hòa ngôn ngữ nghệ thuật giữa các yếu tố chung của ngôn ngữ thơ thiếu nhi và yếu tố

riêng của ngôn ngữ dân tộc giúp các nhà thơ dân tộc thiểu số nói lên tiếng nói riêng

của trẻ thơ dân tộc thiểu số thì giọng điệu thơ đa dạng và kết cấu linh hoạt lại giúp

các em cảm thấy dễ dàng, thoải mái, thích thú khi tiếp cận tác phẩm cũng như những

bài học, thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm trong đó. Và cùng với sự thành công

trên phương diện nghệ thuật thì thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện

đại đã trở thành một điểm đến đầy hấp dẫn, hứa hẹn nhiều điều lí thú, bổ ích đối với

trẻ thơ cũng như đông đảo bạn đọc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 100

KẾT LUẬN

1. Cùng với sự vận động của đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số, văn học

dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã có sự lớn mạnh và phát triển không ngừng.

Điều đó được thể hiện rõ qua những thành tựu, đóng góp của các tác giả dân tộc thiểu

số trong việc mở rộng đề tài, nội dung phản ánh và sự độc đáo trong cách thức thể

hiện. Các nhà thơ dân tộc thiểu số đã thể hiện, khắc họa rất thành công tiếng nói, tâm

tư, tình cảm của dân tộc mình, nhất là trong mảng thơ viết cho thiếu nhi.

Hòa chung vào dòng chảy của thơ thiếu nhi Việt Nam, thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số ngày càng đạt được nhiều thành tựu phong phú với sự trưởng thành của đội

ngũ tác giả và tác phẩm. Những nhà thơ dân tộc viết nhiều cho thiếu nhi như Dương

Thuấn, Dương Khâu Luông, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông Thị Ngọc Hòa, Lò Ngân Sủn,

Inrasara… đã trở thành những người bạn đồng hành tin cậy của trẻ thơ miền núi trong

suốt cung đường tuổi thơ của các em. Tuy nhiên thơ thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc

thiểu số vẫn còn khá mới mẻ, xa lạ đối với đời sống chung của văn học. Sở dĩ có điều

này vì so với thơ thiếu nhi Việt Nam thì thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số ra đời tương

đối muộn. Hơn nữa có rất nhiều nhà thơ dân tộc viết về thiếu nhi song chưa có những

cây bút chuyên biệt viết cho thiếu nhi. Ngoài một số lượng hạn chế những tác giả có

những tập thơ được xuất bản dành riêng cho thiếu nhi thì đa phần còn lại là những tác

phẩm nhỏ, lẻ được in chung trong các tập thơ của các tác giả nói riêng hoặc các tuyển

tập thơ thiếu nhi nói chung. Thêm vào đó độ phủ của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu

số còn rất hạn chế chủ yếu tập trung ở vùng núi, miền sâu, miền xa mà chưa có sự

thâm nhập sâu, rộng vào đời sống tiếp nhận văn học bởi vậy việc tiếp cận những tác

phẩm này cũng gặp nhiều khó khăn.

2. Bằng sự tâm huyết với lứa tuổi măng non miền núi vốn phải chịu nhiều thiệt

thòi, các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại đã góp một phần không

nhỏ công sức của mình vào việc thể hiện bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên cũng như

cuộc sống, sinh hoạt của thiếu nhi miền núi bằng cái nhìn mang đậm sắc thái vùng

miền. Đó là khung cảnh thiên nhiên miền núi gắn bó với trẻ thơ: hùng vĩ, rộng lớn,

đẹp, trữ tình, nên thơ với đời sống động, thực vật phong phú nhưng cũng có lúc vô

cùng khắc nghiệt, nguy hiểm đối với cuộc sống và tâm hồn trẻ thơ. Cùng là thiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 101

nhiên miền núi song với mỗi nhà thơ, thiên nhiên lại mang dấu ấn vùng miền riêng.

Từ đó các nhà thơ dân tộc thiểu số đã mang đến cho người đọc cái nhìn nhiều chiều,

nhiều vẻ về bức tranh thiên nhiên của tổ quốc.

Bên cạnh những trang thơ viết về thiên nhiên, các nhà thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại đã rất thành công khi tái hiện lại hiện thực cuộc sống, sinh

hoạt cũng như những ước mơ, khát khao, hoài bão của trẻ thơ miền núi. Đó là hiện

thực cuộc sống vùng cao đang trên đường đổi mới song vẫn còn tồn tại nhiều khó

khăn, vất vả; là những sinh hoạt văn hóa, những trò chơi truyền thống, lễ hội, phong

tục tập quán mang đậm bản sắc dân tộc; là những khát vọng được học tập, được bay

cao, bay xa, được hòa nhập vào cuộc sống hiện đại của các em. Thông qua những

trang thơ đầy xúc động đó các tác giả đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hồn

nhiên, ngây thơ, trong sáng của trẻ em miền núi, cảm thông, đồng cảm, sẻ chia với

cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả của các em. Và có thể nói thơ thiếu nhi dân tộc

thiểu số đã thực sự trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với trẻ

thơ miền núi, là hành trang tuổi thơ theo các em suốt cuộc đời.

3. Nhìn từ phương diện nghệ thuật, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam thời

kỳ hiện đại mang những đặc điểm của thơ thiếu nhi nói chung như: nhìn và miêu tả thế

giới qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ; thể hiện những cảm xúc, hồn nhiên, trong trẻo và

cách tư duy ngộ nghĩnh của lứa tuổi thơ với một giọng thơ vui tươi, dí dỏm. Tuy nhiên

cũng ở phương diện này, thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số đã để lại những dấu ấn riêng của

mình như: cách sử dụng ngôn ngữ biểu cảm, giản dị, gần gũi, gắn bó với đời sống, với

lời ăn tiếng nói, mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc của người dân miền núi; sự đa

dạng trong giọng điệu thơ và cách sử dụng những kiểu kết cấu thơ đặc biệt để đem lại

hiệu quả nghệ thuật cao. Có thể nói sắc thái văn hóa vùng miền đã chi phối mạnh mẽ

không chỉ về nội dung mà cả về nghệ thuật của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kỳ hiện đại. Chính điều đó đã góp phần làm nên nét độc đáo, đặc sắc cho thơ thiếu

nhi dân tộc thiểu số, là sự khác biệt về hương, sắc của thơ thiếu nhi dân tộc thiểu số

trong “vườn hoa rực rỡ” của nền thơ ca thiếu nhi Việt Nam hiện đại nói chung.

4. Bên cạnh những thành công đã đạt được thì thơ viết cho thiếu nhi của một

số tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại còn tồn tại một số hạn chế nhất

định. Đó là hạn chế của các nhà thơ trong việc diễn đạt và lựa chọn ngôn ngữ. Do ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 102

hưởng lối diễn đạt, cách nói của đồng bào dân tộc thiếu số nên đôi khi ngôn ngữ thơ

chưa được trau chuốt, còn thô mộc. Cách diễn đạt nhiều ẩn ý trong thơ có lúc gây khó

hiểu đối với lứa tuổi tiếp nhận là trẻ thơ. Bên cạnh đó việc sử dụng những từ ngữ dân

tộc cũng gây nên hiện tượng khó đọc, khó cảm thụ đối với lứa tuổi thơ nếu như không

có sự phiên âm và giải thích. Tuy nhiên, những thành công bước đầu đã đạt được của

thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ dân tộc thiểu số là hết sức đáng tự hào và trân

trọng bởi hơn ai hết các nhà thơ đã thể hiện được sự nỗ lực của bản thân và sự quan

tâm, nhiệt huyết của mình dành cho lứa tuổi măng non của dân tộc.

5. Trong quá trình thực hiện luận văn tìm hiểu thơ thiếu nhi của các nhà thơ

dân tộc thiểu số chúng tôi nhận thấy có những vấn đề đáng lưu tâm như sau:

Thứ nhất, thơ thiếu nhi nói riêng cũng như văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói

chung chưa có được một chỗ đứng thực sự trong nền văn học Việt Nam. Điều này thể

hiện thông qua việc tìm hiểu, sưu tầm các tác phẩm văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số hết

sức khó khăn. Các tác phẩm này vô tình được coi là những “sách hiếm” bởi các tác phẩm

đã xuất bản lâu hầu như không có sự tái bản và lưu hành trên thị trường sách.

Thứ hai, trong khi chúng ta đang chủ trương đưa nền văn học dân tộc thiểu số

thoát khỏi phạm vi vùng, miền để hòa nhịp cùng nền văn học dân tộc thì một điều dễ

dàng nhận thấy là sách thiếu nhi dân tộc chủ yếu được cấp phát miễn phí cho các

trường mẫu giáo hay tiểu học, THCS ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chủ trương này

một mặt thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền đến trẻ thơ

vùng cao song mặt khác vô tình đã làm giới hạn phạm vi tiếp nhận, đối tượng tiếp

nhận của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số.

Từ thực trạng trên dẫn tới việc văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số chưa thực sự

có được một đời sống đích thực, chưa được nhiều người đọc biết đến. Thị trường sách

thiếu nhi dân tộc vì vậy chưa có điều kiện phát triển và từ đó cũng chưa tạo thành

động lực, thu hút các nhà văn, nhà thơ dân tộc thử sức với mảng đề tài đầy hấp dẫn

này. Có lẽ để tháo gỡ vướng mắc trên, chúng ta cần nhiều hơn những chương trình,

hành động, chính sách thiết thực để một mặt động viên lực lượng sáng tác là người

dân tộc thiểu số mặt khác có thể quảng bá, giới thiệu với đông đảo bạn đọc về một

mảng văn học độc đáo, thú vị và mới lạ này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Quốc Ca, Không ít bài thơ chưa hay, http://vanvn.net, ngày 5 tháng 11 năm 2008.

2. Nông Quốc Chấn (1960), Tiếng ca người Việt Bắc, Nxb Văn học, H.

3. Mai Việt Hồng (2011), Thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn, Khóa luận tốt

nghiệp, khoa Ngữ Văn, trường ĐHSP Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên.

4. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục.

5. Phạm Hổ (1999), Tuyển tập Phạm Hổ, Nxb Văn học.

6. Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam (2004), Nhà văn dân tộc thiểu số

Việt Nam Đời và Văn, NXB Văn hóa Dân tộc.

7. Hội văn học nghệ thuật các DTTS Việt Nam (2007), Văn học nghệ thuật các

DTTS thời kỳ đổi mới, NXB Văn hóa Dân tộc.

8. Đỗ Thị Thu Huyền, Dương Khâu Luông: Người hát trên đất mẹ, Văn nghệ Ba Bể

ngày 5 tháng 6 năm 2013

9. Văn Công Hùng, Văn học miền Trung Tây Nguyên từ góc nhìn trẻ,

http://www.vanconghung.com, ngày 29 tháng 9 năm 2011.

10. Inrasara (2003) ,Thơ cho tuổi thơ, NXB Kim Đồng.

11. Hoài Khánh, Kiên định với thơ thiếu nhi, http://dantri.com.vm, ngày 6 tháng 2

năm 2012.

12. Trần Đăng Khoa (1995), Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa, NXB Văn học.

13. Hoàng Thị Lan, Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đối với sinh viên cao đẳng

sư phạm mần non, Tạp chí Giáo dục, số 262, tháng 5 năm 2011

14. Dương Khâu Luông (2003), Gọi bò về chuồng, Nxb Hội nhà văn.

15. Dương Khâu Luông (2005), Bản mùa cốm, Nxb Hội nhà văn.

16. Dương Khâu Luông (2008), Co nghịu hưa cần, Nxb Văn hóa Dân tộc.

17. Phương Lựu (chủ biên, 1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, H, 1997.

18. Lã Thị Bắc Lý, Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm.

19. Huyền Minh, Vài suy nghĩ về việc sáng tác văn học cho thiếu nhi,

http://vannghe.hagiang.gov.vn, ngày 8 tháng 10 năm 2012.

20. Lê Thị Hoài Nam (2002), Bài giảng Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Giáo dục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 104

21. Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương (1994), Giáo trình văn học thiếu nhi Việt

Nam, Nxb Đại học Sư phạm

22. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam trước cách mạng

tháng Tám 1945, Nxb Văn hóa.

23. Nhiều tác giả (1960), Kinh nghiệm viết cho các em, Nxb Văn học.

24. Nhiều tác giả (1982), Văn học và trẻ em, Nxb Kim Đồng.

25. Nhiều tác giả (1996), Chuyện chú sóc, Nxb Kim Đồng

26. Nhiều tác giả (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, xb Văn hóa Dân tộc.

27. Nhiều tác giả (1998), Văn học, Tập 1, (Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu học hệ

CĐSP và Sư phạm 12 + 2), Nxb Giáo dục.

28. Nhiều tác giả (2001), Những bài thơ hay viết về thiếu nhi dân tộc và miền núi,

Nxb giáo dục.

29. Nhiều tác giả (2004), Văn nghệ sĩ Cao Bằng, chân dung và tác phẩm, Nxb Văn

hóa Dân tộc.

30. Lê Lưu Oanh - Phạm Đăng Dư (2008), Lí luận văn học, Nxb trường đại học Sư

phạm Hà Nội.

31. Xuân Quỳnh (2003), Bầu trời trong quả trứng, Nxb Kim Đồng.

32. Trần Quang Sáng, Đà Nẵng và thơ viết cho thiếu nhi, http://www.baodanang.vn,

ngày 25 tháng 5 năm 2014.

33. Chu Văn Sơn (2010), Khu vườn thiếu nhi của chú Dương Thuấn, Lời giới thiệu

Tuyển tập Dương Thuấn (tập 3), Nxb Hội nhà văn.

34. Lò Ngân Sủn (1995), Cái bật lửa trời, NXB Kim Đồng.

35. Lò Ngân Sủn (1996), Suối Pí Lè, NXB Kim Đồng.

36. Tạ Văn Sỹ, Đến bao giờ đại biểu Tây Nguyên xứng đáng là người Tây Nguyên,

http://vanhocquenha.vn.

37. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc.

38. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc.

39. Lâm Tiến (2010), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc.

40. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.

41. Vân Thanh (2000), Văn học thiếu nhi như tôi đã được biết, Nxb Kim Đồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 105

42. Vân Thanh (Biên soạn, 2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb

Từ điển bách khoa.

43. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Kim Đồng.

44. Nguyễn Đức Thiện, Hồn nhiên như cây lá, http://www.pqtrung.com

45. Dương Thuấn (2010) Tuyển tập Dương Thuấn (2010), Nxb Hội nhà văn.

46. Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo (2012), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kì hiện đại - một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

47. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên, 2013), Nghiên cứu lí luận phê bình văn học dân tộc

thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

48. Trần Thị Việt Trung (chủ biên), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.

49. Phùng Trọng Vĩnh (2013), Thế giới nghệ thuật thơ Dương Thuấn, Luận văn thạc

sĩ khoa Ngữ Văn - trường ĐHSP Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên.

50. Lý Thị Vương (2013), Thơ Dương Khâu Luông, Luận văn thạc sĩ khoa Ngữ Văn

- trường ĐHSP Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 106

PHỤ LỤC

MỘT SỐ TRANH ẢNH VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG

CỦA TRẺ THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ

Thiên nhiên miền núi hùng vĩ, nên thơ, trữ tình

Niềm vui xuống chợ

Trẻ thơ vui xuân

Trẻ thơ dân tộc lao động giúp đỡ gia đình

Niềm vui đến trường

Học sinh dân tộc vùng cao