ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

-----------o0o----------

NGUYỄN THỊ THANH NGA

THƠ TUYẾT NGA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái nguyên, năm 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

-----------o0o----------

NGUYỄN THỊ THANH NGA

THƠ TUYẾT NGA

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số : 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyên Đăng Điệp

Thái nguyên, năm 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, kết qủa nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công

bố trong các công trình nghiên cứu khác.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Thanh Nga

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đăng

Điệp- người đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn

thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của nhà thơ Tuyết Nga

trong quá trình tôi thực hiện đề tài này.

Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Ban chủ

nhiệm và các thày cô giáo khoa Ngữ văn- Trường Đại học sư phạm Thái

Nguyên, các thày cô giáo Viện văn học- Hà Nội, Trung tâm GDTX huyện Võ

Nhai- Thái Nguyên cùng bạn bè gần xa và những người thân trong gia đình đã

động viên và giúp đỡ em trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015

TÁC GIẢ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ii

Nguyễn Thị Thanh Nga

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................................. iii 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................................. 5

4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................................ 6

6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................................... 6 7. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO THƠ VIỆT NAM SAU 1975 ....................................................... 7 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA THƠ TUYẾT NGA ................................................................... 7

1.1.Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 .................................................................................. 7 1.1.1. Những mối quan tâm mới và những nguồn cảm hứng mới .................................. 7

1.1.2. Các chặng đường phát triển .................................................................................. 15 1.1.3. Lực lượng sáng tác ................................................................................................ 16

1.2. Sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga ................................................................................. 20 1.2.1. Vài nét về con người Tuyết Nga ........................................................................... 20

1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà thơ Tuyết Nga ........................................................ 21 CHƯƠNG 2: HIỆN THỰC VÀ ẢO GIÁC TRONG THƠ TUYẾT NGA ........................ 25 2.1. Quan niệm nghệ thuật ................................................................................................. 25

2.1.1. Quan niệm về nghề nghiệp ( thơ) ......................................................................... 25 2.1.2. Quan niệm về con người ....................................................................................... 35

2.2. Những miền mong chờ ẩn giấu ................................................................................... 44 2.2.1. Ảo giác hay tiếng gọi của ký ức ............................................................................ 44

2.2.2. Thơ như là một tự thú, tự bạch về con người ...................................................... 54 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT THƠ TUYẾT NGA ......................... 60

3.1. Cấu tứ ........................................................................................................................... 60 3.2. Thi ảnh .......................................................................................................................... 65 3.3. Các biện pháp tu từ ..................................................................................................... 72 3.3.1. Biện pháp so sánh .................................................................................................. 72

3.3.2. Biện pháp nhân hóa .............................................................................................. 76 3.3.3. Biện pháp ẩn dụ ..................................................................................................... 78

3.4. Giọng điệu .................................................................................................................... 79 3.4.1. Giọng thơ nồng nàn, sâu lắng, thiết tha ............................................................... 81

3.4.2. Giọng thơ nhân hậu, chan chứa yêu thương ....................................................... 85 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

iii

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1.Từ sau 1975, thi ca Việt Nam chứng kiến sự góp mặt của rất nhiều các nhà

thơ nữ như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Ý Nhi, Nguyễn Thị

Hồng Ngát, Phạm Thị Ngọc Liên, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Trân Sa,

Lê Thị Huệ, Tuyết Nga, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,…. Nhìn chung, thơ

của giới nữ là tiếng nói chân thành của cái tôi cá nhân đầy nữ tính về thân phận,

về tình yêu, hạnh phúc, về những chiêm nghiệm trong cuộc sống, cuộc đời. Và

để nói lên tiếng lòng tha thiết ấy của mình, mỗi thế hệ nhà thơ nữ lại có những

cách thể hiện khác nhau. Với các nhà thơ nữ trưởng thành trong chiến tranh như

Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ thì đó là sự tiếp nối nguồn mạch thơ nữ truyền

thống có từ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan: thiết tha, sâu lắng, cháy

bỏng và nhân hậu. Với các nhà thơ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh hoặc muộn

hơn một chút như Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Phan Huyền Thư, Vi

Thùy Linh thì họ theo đuổi một lối thơ mà ngôn ngữ nghiêng về tả thực, trong

đó có cả những ngôn ngữ “thân thể”. Ngược lại, Tuyết Nga không tạo nên sự

phá cách hoặc những rung chấn cho làng thơ, chị cũng không đi theo đường thơ

êm mượt của đàn chị lớp trước mà Tuyết Nga sáng tác lặng lẽ, một mình ở góc

khuất nói lên tiếng nói từ con tim, từ tâm hồn đôn hậu của người phụ nữ đã trải

qua nhiều biến cố với những buồn vui của cuộc đời. Mặt khác thơ Tuyết Nga là

tiếng nói vọng về từ ảo giác. Bởi vậy, người đọc khi đến với thơ chị phải đến

bằng cả trái tim, cả những buồn vui từ sâu thẳm tâm hồn và nhiệt huyết sống của

mình. Có lẽ điều đặc biệt ấy đã khiến thơ Tuyết Nga có một chỗ đứng riêng giữa

dòng chảy xô bồ của thơ đương đại.

1.2. Tuy nhiên việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công phu và toàn

diện về thơ Tuyết Nga cho đến nay vẫn còn khiêm tốn. Theo ghi nhận của chúng

tôi thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện của

thơ chị cùng một số bài nghiên cứu về từng tập hoặc từng bài thơ Tuyết Nga của

một số nhà nghiên cứu như Vũ Nho, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đăng Điệp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

1

Đỗ Quyên, Chu Thị Thơm, Vương Cường, Lê Thanh Nghị, Thạch Quỳ, Hà

Linh...Chính vì vậy chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Tuyết Nga làm luận văn

thạc sĩ văn học của mình. Qua luận văn, chúng tôi hi vọng có thể đem đến cho

khoa học một cái nhìn tương đối đầy đủ, công bằng về thơ Tuyết Nga ở cả hai

phương diện nội dung và nghệ thuật cùng những đóng góp của chị cho sự vận

động và phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam.

1.3 Việc lựa chọn đề tài Thơ Tuyết Nga cũng có một ý nghĩa rất quan trọng

là thơ Tuyết Nga cũng là một trong những đại diện tiêu biểu của thơ đương đại-

một nền thơ ca đang có những cách tân sâu sắc cả về nội dung lẫn hình thức. Bởi

vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công thì tác giả của đề tài hi vọng đây sẽ là

một tài liệu tham khảo quan trọng giúp những người yêu thơ nói chung có thêm

tài liệu khi tiếp cận, khám phá về thơ đương đại. Đồng thời đây cũng là một tài

liệu để những người phụ nữ nói riêng hiểu hơn về thơ Tuyết Nga cũng như về

chính tâm hồn mình.

2. Lịch sử vấn đề

Trong những năm qua thơ Tuyết Nga đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu

của một số nhà nghiên cứu có uy tín, có quy trình nghiên cứu khoa học và được

đăng trên các tạp chí văn hóa, văn nghệ. Sau đây, chúng tôi xin điểm lại tình

hình nghiên cứu thơ chị qua một số bài tiêu biểu:

Đọc tập thơ “Ảo giác”, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Điệp viết bài

“Tuyết Nga: Những giọt nắng chắt từ miền rong rêu”. Trong bài viết này, ông

nghiêng về khai thác nội dung chính của tập thơ và chỉ ra rằng cái điểm tựa mà

Tuyết Nga xác lập để triển khai cảm xúc và thi tứ trong ảo giác chính là tiếng

gọi của thời gian. Ảo giác là bức chân dung tinh thần con người Tuyết Nga, ở đó

có cả hạnh phúc và khổ đau. Đặc biệt ông đi sâu phân tích nỗi buồn trong thơ

Tuyết Nga. Về mặt nghệ thuật ông khẳng định “Tuyết Nga đã làm được điều mà

Viên Mai nói “thơ phải đạm nhưng nó là cái đạm sau khi đã nồng” [16, tr.328].

Chất “đạm” mà ông nói tới ở đây là độ đằm sâu của tình cảm, là cách nói ngắn

gọn, kiệm lời, là sức ám ảnh, lay gợi bền chặt của những hình ảnh thơ. Đây là sự

ghi nhận, khẳng định giá trị đích thực của thơ Tuyết Nga cả về nội dung và hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2

thức nghệ thuật.

Cũng viết về tập thơ “Ảo giác” tác giả Chu Thị Thơm có bài “ Có một thế

giới thực trong cõi ảo”. Theo tác giả này thì Tuyết Nga đã tạo cho thơ mình một

thế giới hình tượng thơ độc đáo, sâu sắc và tinh tế. Đó là sự đan xen, hòa nhập

giữa hiện thực và ảo giác, giữa cái hiện hữu và cái vô hình, cái hữu hạn và cái vô

hạn “Thế giới thi ca của Tuyết Nga là thế giới của một thế giới không phân định

giữa ngày và đêm, giữa hư và thực, giữa hữu hạn và vô hạn…Tất cả đan chen

vào nhau bởi lăng kính đa chiều, sâu sắc qua ngôn ngữ và hình tượng thơ”[59,

tr.1]. Giá trị nhân bản trong thơ Tuyết Nga là ở chỗ trong khi không ít người

trong chúng ta đang sống thiếu niềm tin, vô tình hoặc thơ ơ, lãnh đạm với thế

giới xung quanh và với chính mình thì Tuyết Nga đã đem đến cho người đọc

niềm tin, lòng nhân ái, bao dung, vị tha “Đi qua thế giới của yêu thương, hờn

giận, vui buồn, lo âu, trăn trở trong thơ Tuyết Nga, ta sẽ gặp một thế giới của

đức tin nếu con người thực sự sùng đạo- đạo của lòng vị tha, tin cậy và bao

dung, nhân ái. Điều đó rất cần không chỉ riêng cho người cầm bút mà cho tất cả

mọi người” [59, tr.3].

Tác giả Đỗ Quyên khi đọc Hạt dẻ thứ tư đã nhận thấy “Tuyết Nga có thơ

thuộc vào sắc tộc thơ-vì-sao-hay giữa “đại gia đình các dân tộc” thi ca Việt

Nam đương đại. [50, tr.50]. Trong bài viết này Đỗ Quyên cũng chia thơ ra làm 3

loại: loại thơ dành cho người đọc nói chung; loại thơ không chỉ dành cho người

đọc mà cả người viết; và loại thơ sáng tác dành cho người viết nói chung, cho

những người phê bình nói riêng. Trong đó loại thứ ba nên gọi là “Thơ-cho-các-

nhà-thơ, và thơ-cho-các-nhà-phê-bình”.Trong 3 loại trên thì thơ Tuyết Nga

thuộc loại thứ ba. “Đó là thơ của tất cả, vì tất cả. Không chỉ ở khía cạnh đọc để

thưởng thức mà cả ở hành động đọc tạo tương tác” [50, tr.49]. Thơ Tuyết Nga

là thơ của “thế hệ thi sĩ- tiến sĩ”.

Bình Nguyên Trang trong bài “Tuyết Nga một mình góc khuất” khẳng định

“Thơ của chị giống như hương của một loài hoa, rất khiêm nhường ẩn sâu trong

đám lá, cần tri âm của những người đủ bình tĩnh trong cuộc kiếm tìm” [64, tr.1].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3

Nhận định này cho chúng ta một định hướng khi tiếp cận thơ Tuyết Nga. Quả

thực đó không phải là thứ thơ đọc một lần có thể chiếm lĩnh được ngay. Có

nhiều bài thơ, câu thơ ta phải đọc đi, đọc lại.

Bùi Văn Kha trong “ Nữ thi sĩ “ Ảo giác” Tuyết Nga và thơ nguyên nghĩa”

đã đánh giá khá cao về phong cách nghệ thuật thơ Tuyết Nga “ Có thể nói, mọi

tìm tòi của Tuyết Nga là muốn khẳng định thơ đương đại Việt Nam: trước hết là

ngôn từ, sau là tinh hoa đa phong cách, quyết liệt chứ không dĩ hòa, mà không

thái quá, vẫn “ nữ quyền” mà không “ nữ tính”- tươi trẻ dịu mát những gồ ghề”

[25, tr.2].

Nguyễn Trọng Tạo trong “Thơ Tuyết Nga- Ảo giác vết thương chìm” lại

tìm thấy ở thơ Tuyết Nga tiếng nói của tâm hồn đa cảm “ Thơ Tuyết Nga thường

buốt nhói những cái rùng mình của một tâm hồn đa cảm: từng trải mà ngây thơ,

khát khao và tuyệt vọng, thông minh và dại khờ, khắt khe mà vị tha, trong trẻo

mà cuộn xiết”[52, tr.42]. Đồng thời ông cũng cho rằng với Tuyết Nga thơ cũng

chính là đời chị “Đấy là thơ của người biết hóa thân vào con chữ để hiện ra

hình ảnh của chính mình, hay nói cách khác, người thi sĩ biết đứng lặng lẽ ở

ngoài, thơ để ngắm nhìn và nghĩ ngợi về bản thân mình hiện diện trong thơ.

Phải chăng, thơ, đấy là cuộc đối thoại xuất thần của tâm tưởng” [52, tr.43].

Nhận định về vai trò của đề tài trong sáng tác của Tuyết Nga, nhà nghiên

cứu Vũ Nho cho rằng “Ngòi bút thơ của Tuyết Nga dường như muốn thoát ra

khỏi các đề tài để hướng thẳng vào tình yêu và thân phận” [41, tr.15]. Như vậy,

theo ông vấn đề chính trong thơ Tuyết Nga không phải là viết về cái gì mà quan

trọng là đề tài cũng chỉ là cái cớ để Tuyết Nga bộc bạch chính mình mà thôi.

Đặc biệt, Inrasara khi đọc “Hạt dẻ thứ Tư” đã viết bài “Tuyết Nga và hạt dẻ

thứ tư tìm thấy” khẳng định “Thơ Tuyết Nga cứ chới với, hụt hẫng. Hụt hẫng mà

đẹp. Hụt hẫng và đẹp. Cái đẹp giữa bộn bề cuộc thơ hôm nay, vẫn khả năng cứu

chữa vết thương tâm hồn chúng ta, khi trái tim chúng ta tưởng hóa đá, chai

cứng, trơ lì” [24, tr.15].

Ngoài ra còn một số các tác giả nghiên cứu về thơ Tuyết Nga như Lê Thanh

Nghị với bài “Bản lĩnh nữ trác ẩn và suy tưởng”; Thạch Quỳ với “Bên ngọn lửa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

4

mỏng manh vừa cháy sáng”; Đình Nam Khương với “Đắm say với Ảo giác”;

Nguyễn Thụy Kha với “Một rỗng lặng đến độc điệu” hay Vũ Nho với “ Người

đàn bà không nhìn đời bằng ảo giác”; Hà Linh với “Mùa nồng nàn” và “ Tháng

mười- tình yêu gửi lại”; Nguyễn Cường với “Nỗi buồn khuê các” và “Tuyết Nga

treo đèn lồng vào ngọn gió”; Trúc Thông với “Về bài thơ “Nói với con về bà

ngoại””;…

Như vậy, có thể nói thơ Tuyết Nga đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của

khá nhiều người yêu thơ và các nhà nghiên cứu. Qua các bài viết chúng tôi nhận

thấy hầu hết các tác giả đều tập trung vào nghiên cứu, chỉ ra nội dung cơ bản và

một số đặc điểm nổi bật về thi pháp của thơ Tuyết Nga ở hai tập thơ Ảo giác và

Hạt dẻ thứ tư. Cùng với đó, các tác giả cũng khá thống nhất quan điểm rằng thơ

Tuyết Nga là thơ của sự tinh khiết, của sự nghiêm túc và đầy trách nhiệm với

cuộc đời, với nghệ thuật đích thực. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một

công trình nào nghiên cứu một cách có quy mô và toàn diện về toàn bộ ba tập

thơ đã xuất bản của chị.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập chung nghiên cứu, làm rõ một số đặc điểm về nội dung và nghệ

thuật thơ Tuyết Nga, vì vậy đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là cả 3 tập thơ

của nhà thơ Tuyết Nga, gồm:

- Viết trước tuổi mình (1992)

- Ảo giác (2002)

- Hạt dẻ thứ Tư (2008)

Ngoài ra chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm của một số nhà

thơ nữ khác trước và cùng thời với chị để so sánh, đối chiếu, đồng thời chúng tôi

cũng tham khảo một số sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở cho đề tài

nghiên cứu của mình.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp

nghiên cứu sau:

4.1. Phương pháp hệ thống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

5

4.2. Phương pháp thống kê, phân loại

4.3. Phương pháp phân tích (tác phẩm)

4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu

4.5. Ngoài ra chúng tôi còn vận dụng hướng tiếp cận thi pháp học.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn cần phải giải quyết được hai nhiệm vụ cơ bản sau:

- Chỉ ra được diện mạo cơ bản của nội dung thơ Tuyết Nga

- Chỉ ra một số đặc sắc về nghệ thuật của thơ Tuyết Nga, từ đó đánh giá được

những đóng góp của thơ Tuyết Nga cho nền thơ Việt đương đại.

6. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu thơ Tuyết Nga luận văn nhằm mục đích:

- Chỉ ra một số điểm chính về nội dung trong thơ Tuyết Nga, qua đó khẳng

định những phát hiện, những sáng tạo độc đáo mang dấu ấn phong cách của nhà

thơ trong dòng chảy thơ Việt đương đại.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 và sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga

Chương 2: Hiện thực và ảo giác trong thơ Tuyết Nga

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3: Một số đặc sắc nghệ thuật thơ Tuyết Nga

6

CHƯƠNG 1:

DIỆN MẠO THƠ VIỆT NAM SAU 1975

VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA THƠ TUYẾT NGA

1.1.Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975

1.1.1. Những mối quan tâm mới và những nguồn cảm hứng mới

Từ 1975 trở lại đây do hiện thực cuộc sống thời hậu chiến và thời kinh tế

thị trường phong phú, đa dạng; sự nở rộ về số lượng các cây bút cũng như sự

bùng nổ của hệ thống truyền thông và nhu cầu thưởng thức thơ ca của quần

chúng, nhu cầu được khám phá phần bản thể hồn mình của chính người cầm bút

cũng như nhu cầu đổi mới của chính văn học mà thơ ca có sự chuyển hướng rõ

nét trên nhiều phương diện trong đó phải đặc biệt chú ý đến là sự thay đổi trong

tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo. Qua các bài viết của các nhà nghiên

cứu văn học như Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Long, Lê Lưu Oanh hay các

bài viết của Đặng Thu Thủy chúng tôi xin được khái quát lại sự vận động trong

tư duy nghệ thuật của các nhà thơ sau 1975 bằng bốn xu hướng nổi bật là: Xu

hướng nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh với cái nhìn phi sử thi; xu hướng trở

về với cái tôi cá nhân với những lo âu của đời sống thường nhật; xu hướng đi

sâu vào những vùng mờ tâm linh, vô thức của con người; xu hướng hiện đại và

hậu hiện đại.

* Xu hướng nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh với cái nhìn phi sử thi

Trong bối cảnh chiến tranh, cũng như văn xuôi thơ mang đậm tính sử thi và

cảm hứng lãng mạn. Khuynh hướng sử thi biểu hiện ở cả ba phương diện là đề

tài- chủ đề, khắc họa hình tượng và giọng điệu. Về đề tài- chủ đề thơ ca ba mươi

năm này là thơ ca của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng, thơ ca của

những niềm vui lớn trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa với những đỉnh cao như

Việt Bắc, Ra trận, Máu và Hoa của Tố Hữu, Riêng chung, Tôi giàu đôi mắt,

Cầm tay của Xuân Diệu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Trời mỗi ngày

lại sáng của Huy Cận,…

Về khắc họa hình tượng, hình tượng thơ được khắc họa là hình ảnh những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

7

con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân

tộc. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc và

thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc như

hình ảnh cô thanh niên xung phong, cô du kích, anh chiến sĩ giải phóng

quân, hình ảnh người mẹ, vị lãnh tụ Hồ Chí Minh,…

Về giọng điệu, đó là giọng điệu mang tính sử thi, giọng anh hùng ca, ngợi ca:

Anh là chiến sỹ giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước

Ôi Anh giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

(Dáng đứng Việt Nam- Lê Anh Xuân)

Đứng trên tư thế của người chiến thắng, cả dân tộc hân hoan ca khúc ca khải

hoàn. Nhưng khi chiến tranh đi qua, có thời gian để chiêm nghiệm, chúng ta

nhận ra rằng để có ngày chiến thắng chúng ta đã phải hy sinh biết bao máu

xương, bao nước mắt. Và bao nỗi đau vẫn còn đó, bao vết thương cũng chưa thể

chữa lành. Từ cảm hứng sử thi, văn học chuyển mình sang cảm hứng phi sử thi.

Sự chuyển mình ấy cũng thể hiện ở ca ba phương diện là chủ đề- đề tài; khắc

họa hình tượng và giọng điệu.

Ở chủ đề- đề tài, trở về với lịch sử, tổ quốc vốn thiêng liêng, uy nghiêm và

trang trọng “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, gắn liền với đỉnh cao muôn

trượng nhưng giờ đây, với cái nhìn phi sử thi nhiều nhà thơ lớp trước (như Chế

Lan Viên, Nguyễn Duy, Thanh Thảo) và nhiều nhà thơ trẻ (như Dư Thị Hoàn,

Vi Thùy Linh, Nguyễn Huy Hoàng,…) thấy trong những trang sử hào hùng ấy

bao điều mới mẻ.

Chế Lan Viên- người đã từng ngợi ca về đất nước “Hỡi sông Hồng tiếng

hát bốn nghìn năm! Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Chưa đâu! Và ngay cả

trong những ngày đẹp nhất. Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Khi Nguyễn

Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn” nay trong Sử cũng ngậm ngùi:

Ở đất nước ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt

Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc

Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong đời thường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

8

Chế Lan Viên dường như nhìn thấy từ lịch sử ngàn năm của dân tộc ít

nhiều những đau thương, mất mát ngay trong những ngày đầu dựng nước.

Hay trong Trước tượng đài Ki-ép, Nguyễn Duy viết:

Lịch sử dấu tro tàn trong cẩm thạch

dấu cơn mưa nước mắt thấm trên đồng

người chết trận chết oan và chết đói

hồn hiện về làm hoa dại bên sông.

Và rồi trong những trang trường ca của Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn

Đức Mậu, Hoàng Trần Cương,Phùng Khắc Bắc tự do, hạnh phúc của dân tộc

gắn liền với số phận, sự hi sinh của từng cá nhân:

Cha đi vắng

Những người đàn ông miền Trung thường đi vắng

Vài năm tạt qua nhà một lần

Để lại đứa con

Để lại mùi rạ thơm trên mái nhà vừa dọi

Để lại những nỗi buồn không biết nói

Rồi biệt tăm.

(Trầm tích- Đặng Trần Cương)

Nhìn về dáng hình chữ S của đất nước Vi Thùy Linh- nhà thơ của tình yêu

thấy hình đất nước giống như dáng người đàn bà hơi khuỵu chân, ngửa mặt, còn

Đặng Trần Cương thì thấy:

Đất nước

Tượng hình xương cá

Đêm úp

Ngày đơm

Nhảy vật lên bờ

Thân gầy đét.

Cong mình chống nắng

Lưng phồng rộp

Thâm cả trời đông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

9

(Trầm tích- Đặng Trần Cương)

Viết về chiến tranh cũng là một đề tài lớn của thơ Việt Nam giai đoạn

này. Trong chiến tranh, với cái nhìn lãng mạn, đậm chất sử thi anh hùng ca, các

nhà thơ nhìn thấy muôn người Việt Nam như một, dồn tất cả cho tiền tuyến,cho

miền Nam với tinh thần kiên cường, bất khuất:

Tuốt gươm không chịu sống quỳ

Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu.

(Tiếng hát sang xuân - Tố Hữu)

Chiến tranh vốn được coi là thước đo phẩm giá của mỗi người Việt Nam

chân chính. Khi chiến tranh đi qua, thời gian không dừng lại và thời gian chính

là khoảng lặng thẩm mỹ để mỗi người Việt Nam nhìn lại những cuộc chiến và

nhìn lại chính mình, đặc biệt là những người lính. Tuổi trẻ của họ hi sinh cho

độc lập, tự do của tổ quốc, nay trở về họ phải đối mặt với biết bao khó khăn của

thời hậu chiến như sự mất mát về thể xác, nguy cơ nghèo đói hay sự đụng độ với

muôn mặt của đời sống. Thơ viết về chiến tranh, viết về người lính cụ Hồ giai

đoạn này đã tập chung đi sâu vào những khó khăn ấy. Các tác phẩm tiêu biểu

như Ngày hòa bình đầu tiên, Bài thơ riêng cho những người đã chết, Ra đi của

Phùng Khắc Bắc, Nhìn từ xa…Tổ quốc của Nguyễn Duy, Ai? Tôi! của Chế Lan

Viên hay Thím Hai Vui của Trần Nhuận Minh.

Nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh như một vết thương chìm là một

khuynh hướng thể hiện cái nhìn phi sử thi của thơ giai đoạn này. Điều này cũng

làm nên sự khác biệt của thơ giai đoạn này so với giai đoạn trước.

* Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân với những lo âu đời thường

Theo tác giả Nguyễn Đăng Điệp đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ

sau 1975. Nếu như trước đây các nhà thơ ngại nói về cái tôi cá nhân thì đến giai

đoạn này nhiều nhà thơ đã công khai bày tỏ nỗi buồn nhân sinh, chỉ có điều đó

không phải là nỗi buồn thoát li thực tại như đã từng xuất hiện trong thơ mới (Ta

là con nai bị chiều giăng lưới, Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối) mà đó là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

10

nỗi buồn gắn liền với thực tại. Ở đó có nỗi buồn từ ý thức tự đánh mất mình:

- Người diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi

Chỉ một vai không đóng nổi.

- Vai mình.

…Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất mình.

(Thơ về thơ- Chế Lan Viên)

- Tôi chưa từng đi lạc

Nên chẳng ai tìm thấy tôi

Có phải trong bóng tối

Tôi đã hóa đêm rồi?

(Chìm- Nguyễn Thế Hoàng Linh)

Đến nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý đến

chuyện tồn tại mà “ xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những trắc

ẩn về riêng tư, về đôi lứa “ Em chết trong nỗi buồn- Chết như từng giọt sương-

Rơi không thành tiếng” (Lâm Thị Mỹ Dạ), hay nỗi buồn của tình yêu không kết

dính, thiếu mặn mà, thắm thiết kiểu hiện đại:

Chúng ta là cá và nước

Cá bơi và nước trôi

Chúng ta là bánh mì và chả lụa

Bán riêng và ăn chung.

(Gửi VB- Phan Thị Vàng Anh)

Song song với nỗi buồn là sự cô đơn. Sự cô đơn ấy xuất hiện dày đặc trong

sáng tác của các nhà thơ nữ như : Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Đỗ Bạch

Mai, Đoàn Thị Lam Luyến, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Phạm Thị Ngọc Liên,...

Nhiều khi nỗi buồn của tôi như sợi len dài

Quấn xiết vào trái tim hỗn loạn

...Nhiều khi nỗi buồn của tôi xanh biếc như rêu

Cứ nảy nở lan tràn dưới vực sâu tâm thức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

11

(Nỗi buồn của chiếc bóng- Phạm Thị Ngọc Liên)

Trong giai đoạn này cái tôi cũng xuất hiện rất nhiều trên trang thơ, xong

điều đáng buồn là cái tôi thường xuất hiện trong tư thế một mình, buồn, cô đơn,

trống trải:

Vẽ tôi mực rượu giấy trời

Nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau

Vẽ tôi thơ viết nửa câu

Nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về…

(Tự họa- Nguyễn Trọng Tạo)

Vẽ tôi một nét môi cười

Một dòng nước mắt một đời phù du

(Vẽ tôi- Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Trong các nhà thơ có lẽ người cảm thấy hẫng hụt nhất, thấm thía nhất về

nỗi buồn chính là Tố Hữu- nhà thơ với những trang thơ đã từng đi cùng lịch sử

Việt Nam trong thế kỉ XX. Từ giọng thơ trữ tình ngọt ngào mang đậm tính sử thi

và tính dân tộc với Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa nay Tố Hữu phải trở

về với Một tiếng đờn, Ta với ta và với những nỗi đau như xát muối“ Có khổ đau

nào đau khổ hơn, Trái tim tự xát muối cô đơn” hoặc “ Mới bình minh đó đã

hoàng hôn, Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn.”

Sự trở về với cái tôi cá nhân với những lo âu đời thường của thơ sau 1975

là hệ quả tất yếu của xu hướng đào sâu vào nội tâm vì vậy cái tôi trong thơ hiện

đại là cái tôi đa dạng, phong phú và phức tạp như chính bản thân đời sống và thế

giới nội tâm của con người thời hiện đại.

* Xu hướng đi sâu khai thác những vùng mờ tâm linh, vô thức của con người

Tâm linh là gì? Có lẽ ai cũng đã từng một lần trong đời nhắc đến hai chữ

này nhưng hiểu về nó một cách chính xác và đầy đủ thì có lẽ không nhiều bởi

đây là một vấn đề đang gây nhiều tranh cãi và là một thách thức lớn với người

nghiên cứu văn hóa hiện đại. Với nhiều người tâm linh là đời sống tinh thần đầy

bí ẩn của con người, nó bao gồm cả cái tiềm thức, vô thức,bản năng thiên phú

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

12

hay những khả năng bí ẩn của con người.

Do những đặc trưng riêng của thơ ca cùng sự nhạy cảm của người thi si,

thơ ca sau 1975 đã thực sự có những đột phá trong việc khám phá thế giới bí ẩn

này. Các tác giả tiêu biểu có thể kể đến là Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt,

Dương Tường, Đặng Đình Hưng.

Đến với Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định

“Thơ Hoàng Cầm thuộc phạm trù siêu thơ…Một thứ thơ hướng nội ở độ sâu

thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ

mông lung vô thức”[35, tr.158]. Hoàng Cầm viết nhiều về những người đã

khuất, những mối tình đã trở thành kỉ niệm, những người tình đã trở thành thiên

cổ. Tập thơ 99 tình khúc chính là cuộc trò chuyện giữa thi nhân với 13 người

con gái đã đi qua cuộc đời ông mà mỗi thi phẩm đều như một giá đồng. Trong

tập Về Kinh Bắc ta cũng bắt gặp giọng nguyện khấn- một kiểu giọng đặc trưng

trong thơ Hoàng Cầm, có lẽ đây là cách để ông gọi những người thân yêu của

ông trở về:

Khấn thầm như gặp Chị

Mắt nứa cứa tay Em

vẫn đón đầu làng

Khấn thầm như Mẹ lỡ đò ngang

Miệng hé hạt na nhòa bến vắng

cổ tay tròn đẫn mía gie.

(Đợi mùa)

Còn Lê Đạt lại chủ trương “ Những con chữ trong câu thơ dẫn dắt trên

con đường tâm thức ra khỏi lối đi ngữ nghĩa “ tiêu dùng””.

Với Hoàng Hưng, ta sẽ bắt gặp sự cô đơn tuyệt đối, nhiều khi là tuyệt vọng:

Sống chỉ còn như một thói quen;

Ước nằm mơ mưa rơi rồi chết.

(Mùi mưa hay bài thơ của M.)

Ta đói mặt người ta khát mặt ta...

Đi tạc mặt vào đêm.

Đêm hút .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

13

(Người đi tìm mặt)

Với Nguyễn Quang Thiều đi sâu vào những vùng mờ tâm linh còn là sự

hòa hợp giữa đời sống tâm linh và tôn giáo. Chính vì vậy hình tượng trẻ em

trong thơ ông là một biểu tượng của cái thuần khiết, thánh thiện, thường gắn với

sự phục sinh của một thế giới mới tốt đẹp hơn :

Trong hoang tàn của những lăng tẩm một bầy trẻ ùa vào

Với gương mặt không dấu vết gì của thời đại suy tàn

Chúng đuổi nhau, nô đùa, cười vang và hát

Dưới bầu trời lớn lao ngập ánh sáng vĩnh hằng.

(Bài ca những con chim đêm)

Qua các vần thơ đi sâu khám phá những vùng mờ tâm linh của con người

của các nhà thơ chúng ta cũng nhận thấy một điều: các nhà thơ không đến với

thế giới tâm linh mờ ảo để tránh xa cõi đời mà ngược lại, đó cũng là một cách để

các thi sĩ gắn bó với đời, với cõi người và với chính mình.

* Xu hướng hiện đại và hậu hiện đại

Những đại diện tiêu biểu của xu hướng này là các nhà thơ sinh ra trong

chiến tranh nhưng trưởng thành trong những năm đầu của thời hậu chiến, họ là

Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Huyền Thư và một số các

nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 8X như Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan

Thị Vàng Anh,...Với cái nhìn hiện đại, họ đã đưa vào thơ màu sắc hiện đại và

hậu hiện đại. Một mặt họ muốn được phơi trần những khao khát, đam mê “ Em

yêu anh điên cuồng/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung kí ức” ( Vi Thùy Linh), mặt

khác cũng có khi họ muốn đưa vào thơ những dung tục, những sex trần trụi,

thẳng thừng (Lê Minh Quốc- Chiếc giường ngủ của tôi tự bạch, Kí ức, Gọi mãi

tên em; Phan Huyễn Thư-Thị Mầu 1997) và những cách tân nghệ thuật kiểu như

những câu thơ lên dòng, xuống dòng, vắt dòng, những cách dùng từ đậm chất

phương Tây. Không thể phủ nhận khả năng làm mới, lạ hóa và gây tranh cãi khi

xu hướng này xuất hiện nhưng trong khi mải mê chạy theo những cái mới, cái lạ,

cái gây sốc trong thơ thì không ít người đã rơi vào trạng thái quá đà, trở thành tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

14

nhiên chủ nghĩa.

1.1.2. Các chặng đường phát triển

* Mười năm sau chiến tranh (1975-1985)

Bước sang thời hậu chiến xã hội đã có những thay đổi lớn mà nổi bật là sự

đa diện, đa chiều của đời sống, sự trở về với cái tôi cá nhân vì vậy cái nhìn sử thi

và cảm hứng lãng mạn cũng dần trở nên mờ nhạt. Có thể khái quát sự vận động

của tư duy thơ giai đoạn này theo hai mạch chính. Thứ nhất là sự tiếp nối của

cảm hứng sử thi. Biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một loạt các trường ca và

các bài thơ lớn tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Tuy vẫn mang âm

hưởng hào hùng, sâu lắng nhưng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý hơn đến những

suy tư của con người như «Một mình một mân cơm, Ngồi bên nào cũng lệch,

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền »(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh).

Và đặc biệt là những khó khăn của những người lính thời hậu chiến (Ngày hòa

bình đầu tiên, Ra đi- Phùng Khắc Bắc ; Ai ? Tôi- Chế Lan Viên). Điều này phần

nào đã bộc lộ cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn của thơ giai đoạn này. Bên cạnh

mạch thơ tiếp nối cảm hứng sử thi là mạch « thơ đời thường » xuất hiện trong

những năm cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chưa bao giờ trong

thơ người ta lại chứng kiến nhiều bi kịch về con người đến thế. Tiêu biểu như bi

kịch về sự nghèo đói, bất hạnh (Nhìn từ xa...Tổ quốc- Nguyễn Duy ; những khó

khăn của những người lính trở về sau chiến tranh cùng những bế tắc của họ

trong cuộc sống (Tản mạn thời tôi sống- Nguyễn Trọng Tạo, Thím Hai Vui-

Trần Nhuận Minh), bi kịch đánh mất mình của con người (Thơ về thơ - Chế Lan

Viên, Chìm- Nguyễn Thế Hoàng Linh). Bằng cái nhìn tỉnh táo, suy tư và chiêm

nghiệm sâu sắc nhiều nhà thơ đã chỉ ra những mặt trái của đời sống, những suy

thoái, lệch lạc trong đạo đức, lối sống của con người. Đây cũng là điểm mới nổi

bật của thơ ca mười năm đầu sau chiến tranh so với 30 năm của giai đoạn trước

(1945- 1975).

* Giai đoạn từ đổi mới (1986) đến nay

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra vào tháng 12 năm 1986

đời sống xã hội nước ta đã có những thay đổi căn bản, toàn diện và sâu sắc. Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

15

tình trạng khủng hoảng, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, quan liêu và chủ quan duy ý trí

của thời kinh tế bao cấp trước đây xã hội đã chuyển mình mạnh mẽ sang cơ chế

kinh tế thị trường. Cơ chế kinh tế mới khiến đời sống xã hội và mối quan hệ giữa

con người với con người cũng chuyển từ tập thể sang cá thể. Một sự rạn nứt lớn

trong lối sống duy tình xuất hiện. Tất cả những chuyển biến này đã tác động

mạnh mẽ đến tư duy nghệ thuật của các nhà thơ. Một mặt, các nhà thơ phản ánh

cuộc sống bằng cái nhìn tỉnh táo và không ngừng tra vấn. Bởi vậy, thơ ca như

những cuộc đối thoại lớn với giọng điệu gần gũi như ngôn ngữ đời thường. Mặt

khác các nhà thơ cũng nỗ lực khám phá cái tôi cá thể nhiều góc khuất của con

người. Ngôn từ nghệ thuật thơ ca cũng do đó mà trở nên đa nghĩa và sắc sảo hơn.

Thậm chí, không ít nhà thơ đã đến với những vùng mờ tâm thức tạo ra tính nhòe

mờ trong ngôn ngữ thơ. Ngoài ra, để tạo ra những giới hạn mới, những danh giới

mới của ngôn ngữ thơ ca một bộ phận nhà thơ đã theo đuổi quan niệm coi thơ như

một ngôn ngữ. Tính chất mạch ngầm trong văn bản gia tăng và nhiều khi được

đẩy lên mức đậm chất « tây » (Sự mất ngủ của lửa- Đặng Đình Hưng).

Qua đây, có thể khái quát hai chặng đường vận động của thơ ca sau 1975

bằng cụm từ «hiện đại hóa mạnh mẽ ». Dù rằng không phải sự hiện đại hóa nào

cũng mang tính tích cực song những chuyển mình căn bản trên của thơ chính là

một bước đệm quan trọng và cần thiết cho sự kết tinh nghệ thuật của thơ ca

trong những chặng đường tiếp theo.

1.1.3. Lực lượng sáng tác

Thơ sau 1975 có sự hiện diện và tiếp nối của nhiều thế hệ nhà thơ với

những đóng góp và cả những hạn chế của mỗi thế hệ. Nhìn chung, chúng ta có

thể chia làm ba lực lượng sáng tác gồm: thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong

kháng chiến chống Pháp- Mỹ; thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện sau 1975 và thế

hệ các nhà thơ 8X- 9X.

* Thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp- Mỹ

Họ gồm những gương mặt tiêu biểu như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế

Lan Viên, Hoàng Cầm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

16

Điềm…Trong khoảng 10-15 năm đầu sau chiến tranh về cơ bản họ đều tiếp tục

mạch thơ của giai đoạn trước, tuy có thay đổi về đề tài, cảm xúc; đồng thời họ

hướng nhiều hơn đến đời sống thực tại hoặc đi sâu vào những triết lí nhân sinh.

Đầu tiên phải nhắc tới Hữu Thỉnh với trường ca Đường tới thành phố.

Cũng nhìn về chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ song

Hữu Thỉnh đã quan tâm nhiều hơn đến thân phận, không ngừng suy tư về nhân

thế với những câu thơ đầy tính biểu tượng:

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền.

(Đường tới thành phố)

Hữu Thỉnh lại trăn trở về lối sống của con người:

Tôi hỏi đất, đất sống với nhau như thế nào?

-Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước, nước sống với nhau như thế nào?

-Chúng tôi làm đầy nhau.

Tôi hỏi cỏ, cỏ sống với nhau như thế nào?

- Chúng tôi đan vào nhau để làm nên những chân trời.

Tôi hỏi người, người sống với nhau như thế nào?

Tôi hỏi người, người sống với nhau như thế nào?

Tôi hỏi người, người sống với nhau như thế nào?

Nguyễn Duy trở về với tình bà cháu thiết tha, thấm buồn nhưng cũng

không kém phần bùi ngùi, xúc động ở Đò Lèn. Khi người bà đã vĩnh viễn đi về

cõi Phật, cõi Tiên thì người cháu mới nhận ra rằng:

Khi tôi biết thương bà thì đã muộn

Bà chỉ còn là nấm cỏ thôi.

Và dấu ấn của một thời bon đạn dường như vẫn còn nguyên vẹn trong trí nhớ

của trẻ thơ:

Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất

Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn. 17

Hay Thanh Thảo trong Thử phác lại mấy chân dung cũng vẫn tái hiện lại những

âm thanh của chiến tranh:

Còn ông Chín

Tới bây giờ như chưa phút rảnh rang

Dấu gậy chống hằn trong đêm bươn bả

Tai vẫn quen nghe pháo giặc “đề-pa”

* Thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện sau 1975

Với cách nhìn mới, cảm xúc mới lại ít bị ràng buộc về truyền thống họ đã

đem đến cho thơ nhiều tiếng nói mới với những tìm tòi và trải nghiệm mới. Tiêu

biểu như các nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa, Những

người đàn bà gánh nước sông, Cây ánh sáng, Châu thổ; Trần Quang Quý với

Giấc mơ hình chiếc thớt; Hoàng Trần Cương với Trầm tích; Tuyết Nga với Viết

trước tuổi mình,Ảo giác, Hạt dẻ thư tư hay các nhà thơ dân tộc như Y Phương

với Lời chúc, Đàn then, Lò Ngân Sủn với Những người con của núi, Dòng sông

mây, Chợ tình,…

Đối với Nguyễn Quang Thiều, từ khi xuất hiện cho đến nay người đọc

vẫn thấy thơ ông là những vần thơ đầy ma lực nhưng lại quá phức tạp, vì vậy

không ít người đã dè bỉu cho rằng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ hoặc

làm thơ như dịch thơ. Tuy vậy, Nguyễn Quang Thiều vẫn kiên trì tạo dựng cho

mình một khuynh hướng với Sự mất ngủ của lửa. Cũng từ Sự mất ngủ của lửa,

nhà thơ đã đẩy nhịp điệu đổi mới thơ lên một tầm mức mới, nhất là sự đổi mới

trong thi pháp như hình ảnh thơ, cấu trúc cú pháp của câu thơ hay các liên tưởng

về đối tượng:

Bầu vú của họ mệt mỏi nằm ngoẹo đầu và trở nên nghễnh ngãng,

Không còn nghe được tiếng gọi đàn ông.

Đó là những liên tưởng độc đáo, ngược đời về người phụ nữ Việt Nam,

những con người được coi là biểu tượng của công-dung-ngôn-hạnh.

Với trường ca Trầm tích, Hoàng Trần Cương đã biết tạo nên những biến

tấu từ các sự kiện của đời sống khiến cho các hình tượng nghệ thuật trong thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

18

ông trở nên nhiều màu sắc, các liên tưởng thi ca cũng trở nên phong phú và đa

dạng và do vậy, Hoàng Trần Cương đã đem được những câu thơ xuất thần đến

với thi ca, ví dụ như:

- Chỉ có bão là tốt tươi như cỏ

Không ai gieo mọc trắng mặt người.

- Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa

Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam.

* Thế hệ các nhà thơ 8X- 9X

Gồm các nhà thơ tiêu biểu như Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Hoàng,

Nguyễn Hữu Hồng Minh, Minh Quân, Hải Anh, Phan Trung Thành, Ngô Liêm

Khoan, Ngô Thị Hạnh, …

Đến với Vi Thùy Linh với các tập thơ như Khát (1999 ), Linh (2000),

Đồng tử (2005) người đọc đã phần nào nhận thấy con người Linh hiện diện qua

thơ. Đó là người phụ nữ luôn khao khát được yêu một tình yêu mãnh liệt, nồng

cháy. Chị đã phần nào tiếp nối được nguồn nhựa sống phong phú và mãnh liệt

của bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhưng trong xu thế hội nhập và toàn cầu

hóa Vi Thùy Linh đã dám nói to những suy nghĩ cá nhân, những khao khát thầm

kín nhất:

Khỏa thân trong chăn

Thèm chồng. Thèm chồng ở bên. Chỉ cần Anh gối lên đùi

Mình ôm lấy Anh ôm mình

Biết sự bình yên của mặt đất.

(Chân dung)

Cũng bởi vậy vấn đề tính dục cũng được Linh đề cập đến như một đối tượng

thẩm mĩ, một nguồn cảm hứng không vơi cạn:

Liên tục từ em

Những kí hiệu, màu sắc âm thanh

Khuếch tiềm năng mọi con đường thơm của thế gian

Dành cho anh một hành tinh non tơ

Tình yêu- như uyên ương khỏa thân mưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

19

Thân cuốn thân tranh lụa trắng.

Một gương mặt tiêu biểu nữa là Ly Hoàng Ly. Chị vừa là nhà thơ vừa là

họa sĩ lại vừa là nghệ sĩ sắp đặt. Với hai tập thơ đã xuất bản là Cỏ trắng (1999),

Lô lô (2005), Ly đã khắc họa được chân dung của mình vào thơ đương đại Việt

Nam với những đường nét, tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Ly hiện diện qua thơ

là con người cô độc trong tình yêu, trong những khát vọng lửa cháy nguội lạnh

bất lực : “ Tôi trong phòng trắng/ Tại sao đi ngang qua tôi mà không thèm nhìn/

Tại sao làm cho tôi thương tổn” (Phòng trắng).

Đóng góp vào đội ngũ các nhà thơ 8X- 9X còn phải kể đến Lê Thiếu

Nhơn với Bài ca phía mặt trời, Dốc gió, Phố tình riêng, Trong bóng người xưa,

Bản tường trình giấc mơ đi vắng, Phan Trung Thành với Vọng sông quê, Mang,

Đồng hồ một kim, Những ngày vắng em, Trần Lê Sơn Ý với Cơn ngạt thở tình

cờ, Trương Gia Hòa với Sóng sánh mẹ và anh, Ngô Thị Hạnh với Vang vọng,

Hòn bi vỡ, Rơi ngược, Nắng từ những ngón chân, Đồng Chuông Tử với Thèm

ăn, Mùi thơm của im lặng, …

Có thể nhận thấy lực lượng 8X- 9X là lực lượng trẻ và tương đối đông

đảo, sức sáng tạo cũng khá dồi dào. Những đóng góp của họ cho thơ vẫn đang

được nối dài và khát vọng đưa thơ vượt thoát ra khỏi những giới hạn thông

thường ở họ cũng là điều đáng để chúng ta quna tâm, xem xét kỹ hơn.

Như vậy về diện mạo thơ Việt Nam từ sau 1975 là sự xóa dần khoảng

cách sử thi trong sáng tác đồng thời gắn liền với hiện thực đời sống “trần trụi”.

Mặt khác, sự tiếp nối giữa các thế hệ trong lực lượng sáng tác, nhất là sự xuất

hiện của các gương mặt trẻ trong làng thơ đã đưa thơ lên một vị trí mới: thơ là

tiếng lòng, là tâm hồn con người Việt Nam trong thời hội nhập.

1.2. Sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga

1.2.1. Vài nét về con người Tuyết Nga

Nhà thơ Tuyết Nga tên khai sinh là Nguyễn Thị Tuyết Nga. Chị sinh ngày

01 tháng 01 năm 1959 tại thành phố Vinh, Nghệ An trong một gia đình viên

chức, quê cha ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh (bên này sông Lam), còn quê mẹ ở Bến

Thủy, Nghệ An (bên kia sông Lam). Năm 1977 chị vào học khoa Ngữ văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

20

trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn- Đại học quốc gia Hà Nội). Tốt nghiệp Đại học năm 1982, chị về công

tác tại Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1994 chị chuyển ra công

tác tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Năm 2002, chị bảo vệ xuất sắc

luận án Tiến sĩ văn học với đề tài Tìm hiểu phong cách văn xuôi Nguyễn Khải,

trở thành một trong những gương mặt nữ tiêu biểu nhất của năm 2002.

Tuyết Nga là người phụ nữ có nụ cười trong trẻo và cách nói chuyện dí

dỏm, thông minh, nhanh nhẹn nhưng ẩn sâu trong tâm hồn lại là một người đa

cảm, đa sầu. Chị từng khẳng định “ nổi loạn và phá phách không phải là tính

cách của tôi. Tôi không thể vay mượn những thứ ở ngoài mình. Tôi sẽ chỉ cố

gắng thay đổi cùng đời sống”.

Một điều ít ai biết được là Tuyết Nga đã chịu nhiều thiệt thòi và mất mát

trong cuộc sống. Sinh ra trong hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt đôi

miền, tuổi thơ chị lúc theo bà, lúc lại theo mẹ đến vùng sơ tán. Năm chị 15 tuổi

thì mẹ mất , sau đó lại bị tai nạn trong một lần đi học về khiến đôi chân chị chịu

thương tật từ tuổi thanh xuân. Sau này khi lập gia đình được 15 năm thì chồng

mất, mình chị lại lặng lẽ nuôi con nhỏ. Có lẽ chính những vất vả ấy đã khiến

Tuyết Nga trở thành một người phụ nữ can đảm, giàu bản lĩnh và nghị lực . Hiện

tại chị vừa là cán bộ biên tập tạp chí Giáo dục, lý luận Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh vừa là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Ngoài làm thơ chị còn tham gia nghiên cứu văn học với những bút danh

như Nga Linh Nga, Nga Li,..

Nhìn lại những nấc thang trong cuộc đời và nghệ thuật của chị người đọc

sẽ phần nào lý giải được chiều sâu tư tưởng và tính triết lí trong thơ chị.

1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà thơ Tuyết Nga

* Các sáng tác chính

Tuyết Nga đến với con đường sáng tác thơ ca từ khi bắt đầu vào đại học và

gần như ngay lập tức chị đã có một chùm thơ in trên báo Văn nghệ quân đội.

Khi về công tác tại Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tĩnh, bên cạnh các cây bút

đã nổi danh như Đức Ban, Phạm Việt Thư không ít người cho rằng Tuyết Nga

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

21

chỉ đóng vai nhà thơ, vì khi đó ít ai nghe nói chị đang viết gì. Bất ngờ năm 1992,

chị cho ra đời đứa con tinh thần đầu lòng của mình- tập thơ Viết trước tuổi mình.

Tập thơ gồm 19 bài thơ nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng đã phản ánh được thế giới

tâm hồn của người con gái mới lớn như những rung động đầu đời, những yêu,

ghét, giận hờn trong tình yêu. 19 bài thơ của Viết trước tuổi mình được lấy cảm

hứng từ chính đời sống thường nhật (Đổi mùa, Bão, Noen 1987, Hoa cỏ, Đối

thoại mùa thu, Hoa mùa thu trước) và từ chính những chiêm nghiệm, triết lí của

chị về cuộc đời ( Ru mình, Viết trước tuổi mình, Tĩnh vật, Đường số phận, Nhật

kí,…). Ngay lập tức, tập thơ đã thu hút sự chú ý của độc giả. Có những độc giả

Tây học cũng mê thơ chị như mê bóng đá, trước khi đi về cõi thiên thu vẫn ao ước

được mang theo trong hành trang của mình một tập thơ do Tuyết Nga sáng tác.

Kiên trì theo đuổi quan niệm “ thơ là một phần không thể thiếu trong cuộc

sống của tôi” cùng với những cảm nhận hàng ngày nhiều khi không giống với

những người xung quanh “ đôi khi nhìn một nụ cười tôi lại thấy thấp thoáng một

nỗi buồn, nhìn một ánh mắt đầy kiêu bạc lại thấy một nỗi bất lực khủng khiếp”

[26, tr.41]. 10 năm sau Tuyết Nga lại gây xôn xao thi đàn với Ảo giác (2002).

Ảo giác cũng gồm 19 bài. Với 19 bài này, Tuyết Nga đã khắc họa thành công

bức chân dung tinh thần người thiếu phụ gắn bó chặt chẽ với ký ức, với những

buồn vui của cuộc đời. Bên cạnh đó Tuyết Nga cũng có những bài thơ viết rất

hay về tình mẫu tử ( Hoa tầm xuân, chùm thơ Viết cho Chíp), về tình yêu, hạnh

phúc ( Ảo giác 1, Ảo giác 2,…). Tất cả đều được nhìn qua lăng kính ảo giác. Về

mặt nghệ thuật “người đọc cũng nhận thấy trong tập thơ mới này đặc điểm đa

phong cách. Bên cạnh những bài thơ thể hiện cái nhìn duy lý sắc sảo, quyết liệt

hướng về hiện thực đời sống như Rơi, Trên con đường mùa đông, Như đá, Nhật

ký trên máy bay…là những bài thơ như những bước chân của linh giác tận một

miền ảo ảnh khói sương như Tháng mười, Trong mưa,Tự khúc, Và em đi qua

mùa đông, Sắp đặt,..”[63, tr.39].

Thời gian thai nghén cho mỗi đứa con tinh thần dường như mỗi ngày một

ngắn lại, nó tỉ lệ nghịch với tuổi đời và tuổi nghề của Tuyết Nga. Bước sang tuổi

50, cái tuổi có thể đạt đến những viên mãn của cuộc sống Tuyết Nga đã chiêm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

22

nghiệm ra rằng “ để được hạnh phúc như mình mong ước hình như con người ở

nhân gian này còn thiếu một điều gì đó nữa, một điều mà ngay cả trong thần

thoại cũng không có” [63, tr.38] .Và như thế, Hạt dẻ thứ tư ra đời. Tập thơ gồm

21 bài đã cho thấy những suy tư, chiêm nghiệm của Tuyết Nga về cuộc đời, nhất

là về tình yêu, hạnh phúc. Cũng trong tập thơ này, người đọc nhận thấy chị đã

quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề của đời sống hiện đại như tình trạng chặt

phá rừng ( U-minh cháy), nhịp sống thời @ (Rock, Rơi, Búp bê Baby). Đánh giá

về Hạt dẻ thứ tư, Inrasara viết “ Thơ Tuyết Nga cứ chới với, hụt hẫng. Hụt hẫng

mà đẹp. Hụt hẫng và đẹp. Cái đẹp giữa bộn bề thơ hôm nay, vẫn khả năng cứu

chữa vết thương tâm hồn chúng ta, khi trái tim chúng ta tưởng hóa đá, chai

cứng, trơ lì. Trước dọa nạt của thời gian và, giữa phi lí của cõi người, nó như là

hạt dẻ thứ tư- hạt dẻ tìm thấy” [23, tr.15].

Từ một cô sinh viên văn khoa về công tác tại một tỉnh lẻ trên dải đất miền

Trung, đến nay Tuyết Nga đã bước sang tuổi ngũ tuần sau nhiều biến cố của

cuộc đời. Từ những khổ đau và mất mát của cuộc đời mình, chị chắt chiu, gom

nhặt và thổ lộ cùng thơ.

Ngoài làm thơ, chị còn viết khá nhiều các công trình nghiên cứu về chân

dung văn học trên các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Văn nghệ công an,

Tiền phong, Phụ nữ,...

* Đóng góp của thơ Tuyết Nga

Với hành trình hơn 30 năm lặng lẽ và cẩn trọng làm thơ, đến nay Tuyết Nga

đã được dư luận và công chúng yêu thơ ghi nhận qua các giải thưởng: Giải

thưởng tác phẩm xuất sắc của Ủy ban toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam

1993(cho tập thơ đầu tay Viết trước tuổi mình), Giải thưởng cuộc thi thơ báo

Văn nghệ 1995, Giải thưởng văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương (Nghệ An) 15

năm. Và gần đây nhất là Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2003 (cho tập

thơ Ảo giác). Các giải thưởng là sự ghi nhận, sự vinh danh đáng trân trọng và

cần thiết của dư luận trước những đóng góp của Tuyết Nga cho nền thơ Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

23

Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập.

Đồng thời thơ Tuyết Nga cũng đã nhận được những đánh giá cao của các

nhà nghiên cứu có uy tín cũng như các bạn bè đồng nghiệp. Dưới đây, chúng tôi

xin trích một số nhận định:

Đọc Ảo giác, Vũ Nho trong bài viết “ Người đàn bà không nhìn đời bằng

ảo giác” đã khẳng định phong cách riêng của Tuyết Nga rằng “ Thơ Tuyết Nga

cuốn hút người đọc bằng sự giản dị chân thành, “ thành thực” của tâm hồn

người viết…Thơ Tuyết Nga không thể hiện tình cảm của mình một cách ồn ào,

vồ vập.”[41, tr.15]

Đánh giá những đóng góp của Tuyết Nga cho thơ đương đại Nguyễn

Đăng Điệp cũng nhận định: “chị đã góp vào thơ hôm nay những câu thơ giàu

sức gợi, những câu thơ có khả năng thanh lọc tâm hồn người đọc bằng sự cao

khiết của thơ ca.” [16, tr.329]

Lưu Khánh Thơ khẳng định “ Thơ Tuyết Nga gợi nhiều hơn thơ tả…Nó

như những nét chạm khắc lạnh và sâu.”[58, tr.33]

Inrasara nhân đọc Hạt dẻ thứ tư khẳng định “ Thơ Tuyết Nga cứ chới với,

hụt hẫng mà đẹp, hụt hẫng và đẹp. Cái đẹp giữa bề bộn cuộc sống hôm nay vẫn

có khả năng cứu chữa vết thương tâm hồn chúng ta, khi trái tim chúng ta tưởng

như hóa đá, chai cứng, trơ lì.” [24, tr.15]

* Tiểu kết chương 1: Như vậy, về đại thể có thể thấy thơ Việt Nam sau

1975 là sự vận động theo sát cuộc sống con người Việt Nam thời hậu chiến và

thời hội nhập. Thơ đang từng bước có những cách tân cả trong nội dung và hình

thức biểu hiện, do vậy nó đã và đang tiến sâu hơn trong việc phản ánh thế giới

tâm hồn muôn điệu của con người. Xuất hiện trong dòng chảy này, thơ Tuyết

Nga đã đi sâu khám phá thế giới tâm hồn của người phụ nữ hiện đại bằng những

vần thơ trong trẻo, mang vẻ đẹp thánh thiện. Đồng thời một điểm đặc biệt nữa

làm nên thương hiệu thơ Tuyết Nga còn là ở chỗ hình ảnh thơ của chị nghiêng

về gợi hơn là tả, siêu thực hơn là hiện thực. Trong khi thơ đương đại đang vận

động theo nhiều xu hướng, có cái tích cực, có cái hạn chế song sự đóng góp,

những miệt mài và luôn trăn trở, thao thức cùng thơ của Tuyết Nga chính là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

24

sự nối tiếp cho dòng chảy thuần Việt của thơ Việt .

CHƯƠNG 2:

HIỆN THỰC VÀ ẢO GIÁC TRONG THƠ TUYẾT NGA

2.1. Quan niệm nghệ thuật

Tuyết Nga đến với thơ không phải là để tìm kiếm những giải thưởng cũng

không phải để được nổi tiếng. Chị đến với thơ đơn giản là vì với chị thơ là một

phần không thể thiếu của cuộc sống (cho dù cuộc sống có đi đến đâu). Chị làm

thơ để san sẻ cái phần mà nếu không có thơ sẽ ít ai biết được đồng thời làm thơ

để ghi nhận chứ không phải để chứng tỏ. Tuy vậy, chị cũng rất quan tâm đến

quan niệm nghệ thuật bởi theo chị quan niệm nghệ thuật là “sự thể hiện tập

trung nhất đặc điểm của một tác giả. Cuộc sống đa diện và nhiều biến hóa, khi

tôi tìm đọc một tác giả nào đó là tôi đang muốn có thêm một cái nhìn khác, càng

độc đáo, khác lạ càng tốt về đời sống và thế giới con người”[66, tr.13].

Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi xin trình bày quan điểm nghệ thuật

của nhà thơ Tuyết Nga trên hai phương diện: quan niệm nghệ thuật về nghề

nghiệp và quan niệm nghệ thuật về con người.

2.1.1. Quan niệm về nghề nghiệp (thơ)

Tuyết Nga có quan niệm rất rõ ràng, cụ thể về thơ: thứ nhất thơ là tiếng nói

tâm tư, tình cảm, tiếng nói tâm hồn của chính người sáng tạo và nó chịu sự chi

phối mạnh mẽ của cảm xúc, thứ hai thơ phải mang dấu ấn riêng của người sáng

tạo. Hai vấn đề này được chị phát biểu trực tiếp trong các bài trả lời phỏng vấn

và tự bạch gián tiếp qua các trang thơ.

* Thơ là tiếng nói của cảm xúc dạt dào

Theo Từ điển thuật ngữ văn học “ Thơ là hình thức sáng tác văn học phản

ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm

súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [45, tr.528]. Định nghĩa này cung

cấp cho chúng ta một cái nhìn tương đối hoàn chỉnh về thơ cả ở nội dung và

" Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng định nghĩa và nêu chức năng, ý nghĩa

hình thức nghệ thuật.

của thơ như sau “ Thơ là tiếng nói của một tâm hồn, của niềm ao ước, thơ bộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

25

lộ khát vọng vươn tới một lý tưởng đẹp đẽ và cao thượng”[14, tr.92].

Trên thực tế thơ ca và con người dường như đồng thời xuất hiện và tồn tại,

bởi vậy thật khó có thể thống kê được trên thế giới có bao nhiêu định nghĩa về

thơ. Riêng ở Việt Nam chúng ta ngay từ thế kỷ XVIII Lê Quý Đôn đã phát biểu

quan niệm của mình về thơ rằng “ làm thơ có 3 điều chính: một là tình, hai là

cảnh, ba là việc”. Tức là để tạo thành thơ phải có sự thống nhất giữa tiếng nói

tình cảm, tâm tư của người nghệ sĩ với vạn vật và cuộc sống xung quanh. Hay

đại thi hào Nguyễn Du cũng nói “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Thơ là sự

hội tụ của cái tâm và cái tài của người nghệ sĩ trong đó cái tâm đóng vai trò chủ

đạo, không có tâm tức là trái tim, tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ thì không

thể có thơ.

Bước sang thế kỷ XX, khi làm thơ, viết văn trở thành một nghề nghiệp để

kiếm sống thì một đại diện tiêu biểu của phong trào Thơ mới- nhà thơ mới nhất

trong các nhà Thơ mới- Xuân Diệu cũng nói nhiều về quan điểm nghệ thuật,

quan điểm của mình về nghề văn, về thơ một cách trực tiếp qua các bài tiểu

luận, và qua thơ. Người thi sĩ lãng mạn ấy định nghĩa “Là thi sĩ, nghĩa là ru với

gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây/ Để linh hồn ràng buộc với muôn giây/

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến”. Với Xuân Diệu là thi sĩ trước hết phải là

người yêu cuộc sống và gắn bó thiết tha với cuộc sống, với vạn vật xung quanh

bằng một tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm. Đây cũng là một quan niệm nghề nghiệp

tích cực, đáng trân trọng, nhất là trong bối cảnh xã hội ta những năm đầu thế kỷ

XX khi đất nước mất chủ quyền, cuộc sống ngột ngạt trong bầu không khí thực

dân xâm lược, các nhà tư tưởng, các nhà yêu nước thì băn khoăn, bế tắc trên con

đường tìm kiếm tự do, độc lập cho toàn dân tộc.

Một đại diện nữ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại- nữ sĩ Xuân Quỳnh, dù

không trực tiếp định nghĩa thi sĩ là gì nhưng qua bài thơ Nếu ngày mai em không

làm thơ nữa ta cũng đọc được quan niệm của chị về nghề văn, về thơ và về vai

trò của thơ ca đối với cuộc đời. Lấy giả định rằng ngày mai mình không làm thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

26

nữa, Xuân Quỳnh tự thấy:

Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo

Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu

Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau

Không xôn xao khi nắng hè đến sớm

Chuyện hôm qua sẽ trở thành kỷ niệm

Màu phượng hồng chẳng còn nồng trên lối ta đi.

Cái mưa xuân một thời đã làm cho cô gái thôn Đoài ngày nào phải khóc

thầm lẻ loi, tê tái trên con đường về vì người yêu hẹn đến mà không đến “Để cả

mùa xuân cũng nhỡ nhàng” nay cũng trở thành vô nghĩa, thành không cảm xúc

với em nếu em không làm thơ nữa. Cả nỗi nhớ người yêu da diết, nhớ như một

quy luật của tự nhiên “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” nay cũng thành

hư vô. Mọi ký ức về nhau cũng sẽ thành kỷ niệm, không còn vương vấn gì với

hôm nay. Mọi cảm xúc buồn vui, những dòng ký ức cũng sẽ trở nên vô nghĩa.

Em sẽ trở thành con người vô cảm trước cuộc sống nếu em không làm thơ nữa .

Tức là với Xuân Quỳnh thơ là tất cả, là mọi buồn vui, âu lo trong cuộc sống.

Thơ hiện hữu trong chị tất cả những gì thuộc về khối óc, trái tim của con người

nói chung và người con gái nói riêng.

Trong Bài thơ không năm tháng, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng cho rằng

thơ là tâm hồn, là sự giao cảm, giao thoa, sự đồng điệu giữa người với người .

Thơ là biểu tượng, là tiếng nói bất tử trước thời gian “Cái chết là khoảng trống/

Nhưng thơ là tâm hồn/ Lòng tôi luôn mãi nghĩ/ Anh vẫn còn, vẫn còn” và thơ ca

đích thực, thơ ca được viết bằng trái tim của con người là thứ thơ ca sẽ còn mãi

với thời gian “ Tôi không tin có ngày thơ tận thế/ Dẫu có người máy làm thơ

thoáng chốc nghìn bài/ Thơ không trái tim vứt vào sọt rác/ Thơ thi nhân chẳng

dễ đâu nào” (Tôi không tin có ngày thơ tận thế).

Đến với lớp các nhà thơ nữ của giai đoạn 1975- 1995 như Phạm Thị Ngọc

Liên, Ý Nhi, Đoàn Thị Lam Luyến, Lê Thị Mây hay Nguyễn Thị Hồng Ngát ta

đều bắt gặp ở các chị những quan niệm về nhà thơ, về vai trò, sứ mệnh của thi ca

và về trách nhiệm của người làm thơ. Với Phạm Thị Ngọc Liên thì “Viết, đối với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

27

tôi, trước nhất là một nhu cầu để phơi trải, để bộc bạch... Bằng ngôn ngữ văn

học, tôi có thể nói lên những cảm xúc tinh tế của niềm vui và nỗi buồn, điều u

uẩn lẫn phút thăng hoa” [28, tr.43]. Thơ chị là tiếng nói tâm hồn chị, thơ với chị

là một người bạn để chị bày tỏ, chị phơi trải lòng mình, để chị không còn cảm

giác cô đơn hay yếu lòng. Còn Ý Nhi lại nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít,

bền chặt giữa thơ và đời, thơ là tinh chất được trưng cất “từ bùn bẩn, từ đau

thương, cùng quẫn” của cuộc đời và làm thơ là hành động tìm kiếm và kiến tạo

cái đẹp và nghệ thuật đích thực là thứ nghệ thuật hội tụ trong mình những cao

khiết, tinh túy và những dữ dội, dư ba lớn của cuộc đời “Rồi một ngày kia, có

một câu thơ/ lan tỏa như sóng/ quẫy cựa như sóng/ trắng xóa/ và xanh biếc”

(Tặng một người làm thơ trẻ). Đoàn Thị Lam Luyến thì cho rằng để có được

những câu thơ “ có nhan sắc” , những vần thơ đồng điệu với muôn tâm hồn thì

người nghệ sĩ phải dấn thân, phải hy sinh. Chị luôn tâm niệm “ nghệ thuật bao

giờ cũng hơn cuộc đời, vì vậy, con đường nghệ thuật với tôi dài và đầy gian

khổ” [33, tr.179].

Không chỉ tin tưởng về sự tồn tại vĩnh cửu của thơ, nhà thơ Lê Thị Mây

còn thấy thơ gần gũi như chính cuộc đời chị vậy “ Thơ là nỗi buồn thầm kín của

tôi, đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”.

Như vậy, có thể nhận thấy mỗi người đến với thơ ca trong một hoàn cảnh

khác nhau, với những lý do khác nhau song với ý thức chân chính về nghề

nghiệp, các nhà thơ hiện đại đều thống nhất quan điểm thơ ca có mối quan hệ

gắn bó, mật thiết với cuộc đời và thơ ca chính là tiếng nói tâm hồn chân thành

của người thi sĩ, nó mang màu sắc chủ quan và mang dấu ấn riêng của người

sáng tạo. Thơ gắn liền với ý niệm về cái tôi thi nhân.

Đối với Tuyết Nga, chị không khoa trương, không ồn ào chị cho rằng thơ chính

là tiếng nói tâm hồn mình. Bởi vậy, khi sáng tác, cảm xúc cũng chi phối Tuyết

Nga một cách mạnh mẽ. Và vì vậy, với chị“ Những bài thơ được cảm xúc dẫn

dắt là những bài thơ thành công nhất”[63, tr.39]. Cũng chính vì thế mà đa phần

các bài thơ của chị đều không có tính chuyện và không có cốt truyện, người đọc

khó có thể kể lại. Và cũng bởi bị cảm xúc chi phối mạnh mẽ nên các câu thơ của

chị thường mang dáng điệu của lối thơ nói,các câu thơ tự nhiên với độ dài, ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

28

khác nhau tùy theo mạch cảm xúc. Ở điểm này có thể lấy những bài thơ viết về

tình mẫu tử của Tuyết Nga như Hoa tầm xuân, Nói với con về bà ngoại hay

những bài như Đồng Lucky, Búp bê Baby làm những ví dụ điển hình.

Với Hoa tầm xuân, Tuyết Nga đã đưa người đọc đến với những ký ức

ngọt ngào và cả không ít nỗi đau khi chị tìm về với bóng hình, cuộc đời thân

thương của người mẹ. Ẩn sau hình ảnh những bông hoa tầm xuân là câu chuyện

xúc động về cuộc đời người mẹ, về thân phận của người phụ nữ. Dòng cảm xúc

dẫn dắt chị ở đây chính là nỗi nhớ mẹ cuộn xiết, là niềm khao khát có mẹ ở bên

trong cuộc đời. Vì vậy, các câu thơ dài ngắn khác nhau cứ theo nhau tuôn trào

như dòng cảm xúc, vượt qua những công thức thông thường khi người ta làm

thơ. Bài thơ gây xúc động mạnh mẽ ở người đọc và trở thành một trong những

bài thơ hay nhất của Tuyết Nga. Ở Nói với con về bà ngoại, cảm xúc chủ đạo

của bài thơ là tình mẫu tử. Chị đã chỉ ra cho con gái của mình thấy được rằng có

một dòng chảy ngầm được truyền lưu qua các thế hệ từ bà sang mẹ và từ mẹ

sang con, đó là tình yêu thương. Cảm xúc về tình mẫu tử thiêng liêng cũng đem

lại cho bài thơ của chị những hình ảnh đẹp, trong trẻo, hồn nhiên khác lạ, và

những câu thơ cứ tự nhiên như “Con sẽ như giọt nắng/ trước hiên bà mùa đông./

Giọt nắng tìm kim/ giọt nắng quét nhà/ giọt nắng sún răng lò cò quanh cửa/ giọt

nắng ỷ eo theo bà đi chợ/ lễ mễ khiêng cả đồng bánh đa tròn.”

Đưa con trở về quê chồng khi người chồng đã không còn nữa, nỗi nhớ

chồng bất chợt duềnh lên, tạo thành những tiếng thơ thổn thức:

Đưa em về mà anh đi đâu?

ngơ ngác từng lối cỏ

dắt con lần về ngõ nhỏ

sà vào tiếng của mẹ già.

(Quê chồng)

Câu hỏi “Đưa em về mà anh đi đâu?” chất chứa biết bao nỗi đắng cay,

bao sự kiếm tìm ngấn lệ. Dường như người thiếu phụ đang sống trong cơn mộng

du. Bóng dáng người chồng như vẫn còn lẩn khuất đâu đó, như vẫn theo bước

chân “em”. Nhịp đập trong trái tim người thiếu phụ chính là chất kết dính, là

điểm tựa tạo nên thành công cho bài thơ này của chị, một bài thơ đầy nữ tính,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

29

chan chứa tình yêu.

Trong một lần đến thăm các em nhỏ trong một trường khiếm thị, chứng

kiến cuộc sống thiệt thòi, bất hạnh của các em khi không được tạo hóa cho đôi

mắt nhìn để thấy được ánh sáng, màu sắc của cuộc đời Tuyết Nga đã viết tặng

các em bài thơ Mắt. Bài thơ là tiếng nói ru vỗ, động viên, an ủi tràn đầy yêu

thương của chị dành cho các em nhỏ:

Thử nhìn bằng đôi mắt em

chợt thấy bầu trời ngay trên ý nghĩ

thấy ước mơ như những chiếc đèn lồng treo vào ngọn gió

thấy những bông hoa không màu.

Dường như Tuyết Nga đang ở rất gần nhịp đập trái tim của các em, nhìn

thấy những điều mà các em khao khát, nhìn thấy cả những điều các em không

nói ra. Đến đây, đề tài cũng không phải là điều quan trọng với Tuyết Nga khi

làm thơ, mà với chị cảm xúc mới là điều tạo nên tiếng thơ.

Một điều đáng nói nữa khi tìm hiểu những vần thơ được viết ra từ cảm

xúc cuộn xiết của Tuyết Nga là các nhân vật trong các bài thơ của chị thường là

các “ ảo nhân”. Họ không có hành động mạnh, tiếng nói lớn, dù rằng ta vẫn thấy

họ thân thiết, gần gũi ngay cạnh ta như mẹ, con, anh, em,….Xin lấy một đoạn

trong bài Và em đi qua mùa đông làm dẫn chứng “Trong thế giới được dành

riêng/ trái tim thêm một lần sơ sinh/ em thiêm thiếp bên giấc mơ nghiêng những

chiếc lá nõn/ bên tiếng reo con mèo không tìm được lối về sau cơn mộng du”.

Bởi thơ là tiếng nói dạt dào cảm xúc của cái tôi nên Tuyết Nga cho rằng

thơ đang là một đối trọng với đời sống hiện đại. Nói về chức năng của thơ chị

khẳng định thơ bảo tồn khả năng rung cảm, lưu giữ sự tinh tế và độ sâu lắng của

tâm hồn con người… chừng nào những cung bậc tình cảm của con người còn

ngân rung trong mỗi trái tim, chưa bị lập trình, chưa bị biến thành công nghệ, thì

thơ còn có ích.

Quan niệm thơ là tiếng nói của cảm xúc dạt dào cũng được Tuyết Nga

khẳng định qua thơ:

Cảm xúc một ngày bỗng có khuôn phép

ý nghĩ tự dưng bất mãn

ngay đơ, lễnh loãng mặt trời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

30

(Dưới bóng ca dao)

Nếu một ngày cảm xúc tuân theo một khuôn khổ nào đó thì mọi sự sáng tạo

sẽ không còn nữa và thơ sẽ trở thành một khối chữ nghĩa “ngay đơ”, vô nghĩa.

Về điểm này có thể xem Tuyết Nga là một đại diện của thơ lãng mạn, là nhà thơ

của cảm xúc.

* Thơ mang dấu ấn riêng của người sáng tạo

Trong bài trả lời phỏng vấn trên báo chí Tuyết Nga khẳng định rằng đem

đến một cái tôi cá thể đậm nét là điều đầu tiên mà chị coi trọng khi cầm bút viết.

“Thơ của bạn phải có dấu vân tay của bạn”[66, tr.12]. Bởi vậy, khi viết một bài

thơ cũng là khi chị đắm mình sâu nhất vào trong đời sống, trong số phận của

riêng mình để cảm nhận hết và thể hiện hết được chính mình. Chị luôn khẳng

định “ Thơ tôi là một phần con người tôi, một phần cuộc đời tôi, cái phần mà

chính vì nó, tôi đã trở thành một nhà thơ” [66, tr.13].

Trả lời phỏng vấn trên báo Giáo dục và thời đại năm 2008, Tuyết Nga cũng

cho rằng điều giúp ta nhận biết chân dung đích thực của một nhà thơ và giúp ta

phân biệt nhà thơ này với nhà thơ khác không gì khác chính là thơ “Thực ra

những câu thơ giống như chuỗi AND, chứa đầy đủ những thông tin cơ bản về tác

giả. Không chỉ có tư tưởng, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, quan niệm sống mà

cả tư chất, phẩm cách…cũng đựơc bộc lộ tinh vi, mờ ảo nơi tác phẩm”[63, tr.40].

Lang thang qua những trang thơ của thơ chị chúng ta sẽ minh chứng được

điều mà chị tâm niệm này khi làm thơ. Tập thơ đầu tay Viết trước tuổi mình

(1992) được chị viết khi còn là một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi, bởi vậy suốt

tập thơ dù Tuyết Nga có trăn trở, đề cập đến rất nhiều vấn đề, từ thiên nhiên đổi

mùa đến chuyện cơn bão qua thành phố hay chuyện tình yêu hoặc triết lí về cuộc

sống thì ẩn sau mỗi bài thơ và cả tập thơ vẫn là hình ảnh một thiếu nữ đa cảm,

nhạy cảm, mơ mộng và đằm thắm, đa sầu:

- Em đã nghe

những âm thanh vang lên từ màu sắc

em đã thấy

ánh lên từ màu sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

31

long lanh từ những âm thanh

hệt như em đang nghe trong màu đen mắt anh

nỗi cô đơn rên rỉ

hệt như em đang thấy sau tiếng cười và những lời

đùa tếu của anh

một nỗi buồn ẩm mốc.

(Lập thể)

Cách Tuyết Nga cảm nhận cuộc sống thật khác thường. Trong màu sắc có

âm thanh và trong âm thanh có màu sắc. Đó là sự giao thoa của những giác quan

chăng? Hay đó là kết quả của một tâm hồn nhạy cảm, luôn nhìn thấy vạn vật ở

chiều sâu, bề sau của nó? Có lẽ là cả hai. Và cũng từ cái nhìn “ liếc dao sắc/ tiện

ý nghĩ thành từng khúc” này của chị mà chị đã thấy trong đôi mắt, sau tiếng

cười, tiếng nói của người yêu cả những điều không mong chờ, không êm ả “ hệt

như em đang nghe trong màu đen mắt anh/ nỗi cô đơn rên rỉ/ hệt như em đang

thấy sau tiếng cười và những lời/ đùa tếu của anh/ một nỗi buồn ẩm mốc”. Đó

cũng là những dự báo cho một tình yêu buồn phía trước.

Mười năm sau, Tuyết Nga xuất hiện với tập thơ Ảo giác (2002). Và lúc

này người con gái đa cảm, đa sầu, mơ mộng của Viết trước tuổi mình ngày nào

nay đã là một người thiếu phụ đi qua bao khúc quanh, bao buồn vui, mất mát

của cuộc đời. Tất cả những ngày tháng của quá khứ được chị chắt chiu, nâng niu

và chôn dấu trong miền ký ức. Khi cầm bút viết là miền ký ức ấy lại ùa về, hiển

hiển trên trang thơ của chị:

- Nụ tầm xuân…

“ Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”

Mẹ từng hát ru ta lời ngoại hát thuở nào

ta làm mẹ

và một chiều mây trắng

chợt thấy tầm xuân xanh biếc trước hiên.

(Hoa tầm xuân)

Đó là những câu thơ mãi xanh, bởi cái tình mà chị gửi vào những câu

thơ thật ngọt ngào và hương vị của tình mẫu tử cũng được chị nói khá hay,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

32

khá độc đáo.

Hay trong một bài thơ khác, chị viết:

- Một hoàng hôn

Rong chơi khoác chiếc áo Cô đơn phong phanh gió

lạnh

lang thang trước ngõ nhà em.

Một chiều mưa

Tham lam sụp chiếc mũ Khổ đau

Co ro nép vào cánh cửa nhà em.

(Ảo giác 1)

Ở đây, Tuyết Nga đã khẳng định nỗi buồn, sự cô đơn luôn hiện hữu trong

thế giới của chúng ta bằng một câu chuyện giàu màu sắc hư ảo nhưng rất thuyết

phục người đọc. Nó khác xa với cách nói của Phan Huyền Thư trong Bi ca “ Ở

trong khô và nhẹ thịt da/ cơ thể muốn bay lên vàng óng/ gió/ da diết vòm xanh/

nuốt vào những thì thầm/ ghìm nén yếu đuối/ nhếch môi”.

Và khi đã bước sang tuổi 40, chị đi qua những những ngày buồn đau nhất,

món quà mà chị nhận được từ cuộc sống, từ những bất hạnh là sự nghị lực, sự

góc cạnh, sự đằm sâu của tâm hồn. Đến Hạt dẻ thứ tư (2008), Tuyết Nga xuất

hiện với nhiều triết lí hơn, với một cách viết già dặn và bản lĩnh hơn nhiều so

với hai tập thơ trước, với một “ sự cách tân ám ảnh, sâu sắc và tinh tế” [31,

tr.38]. Tuy nhiên đó không phải là sự phá cách về ý tưởng kiểu như Nguyễn

Hữu Hồng Minh, cũng không phải là sự phá cách kiểu đòi bung vượt từ trong

thơ ra toàn xã hội như Vi Thùy Linh hay Đỗ Lê Anh Đào. Sự cách tân của Tuyết

Nga là sự cách tân theo kiểu “phá ngay và xây ngay tại chỗ” [50, tr.46]. Ví dụ

như trong bài Dưới bóng ca dao, chị viết: “Cái nhìn/ liếc dao cắt/ tiện ý nghĩ

thành từng khúc/ đứt đoạn ngổn ngang một ngày…/ Đổ bóng/ mát xanh/ đổ

bóng/ tối tăm/ ngàn xôn xao ngàn khuất lấp ngàn rơi rụng/ vòm anh”. Ở đây

Tuyết Nga đã dùng thủ pháp ngắt dòng, ngắt câu thơ bảy chữ, tám chữ thành

những câu thơ ngắn, tạo ra nhịp điệu gấp gáp cho thơ và tạo ra những khoảng

trống để người đọc liên tưởng, suy ngẫm. Thơ vì vậy, có sức ám ảnh và lay gợi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

33

sâu hơn.

Xuyên suốt ba tập thơ là giọng điệu êm nhẹ, buồn dịu dàng của người đàn

bà đầy nữ tính, dịu dàng, thâm trầm và từng trải. Cũng có lúc ta thấy thơ Tuyết

Nga có cái gì đó gần gũi, “họ hàng” với thơ Xuân Quỳnh nhưng may mắn thay

là chị vẫn có những lối rẽ riêng, vượt thoát khỏi cái bóng của nhà thơ “Tự hát”.

Và nếu đem thơ Tuyết Nga ra để so sánh với thơ của các nhà thơ nữ của những

năm 80,90 và những năm đầu thế kỉ XXI thì ngay lập tức chúng ta sẽ thấy thơ

Tuyết Nga chảy theo một hướng khác. Không mãnh liệt, không vồ vập, không to

tát và cũng không trần trụi như thơ Dư Thị Hoàn hay Vi Thùy Linh. Tuyết Nga

một mình góc khuất lặng lẽ chăm chút cho cây đời của mình tỏa bóng mát

xuống vườn thơ “ đạm nhưng đó là cái đạm sau khi đã nồng” [16, tr.329].

Một điều Tuyết Nga cũng tâm niệm khi làm thơ là “một mình tự cũ đó

mới là nỗi sợ của tôi” [26, tr.20] . Và dọc theo hành trình thơ của chị chúng ta sẽ

thấy được điều mà chị đã nói. Ở Viết trước tuổi mình người đọc thấy ở đó là một

Tuyết Nga với những câu thơ có phần dễ dãi và còn mang hơi thở truyền thống

(Đổi mùa, Hương cỏ, Tháng chín) nhưng đến Ảo giác thì những câu thơ, hình

ảnh thơ đã đằm hơn, giàu đạm hơn rất nhiều. Đọc Ảo giác rất nhiều người bị ám

ảnh bởi những câu thơ như:

- Ánh mắt của đại ngàn vạn tuổi vách đá thâm u ánh lửa

cháy rừng

Vòm ngực của cánh đồng vô tận tiếng hú dài hoang

lạnh hoàng hôn

Cánh tay những vòng ôm của sóng đáy vực sâu nhòa

lẫn những chân trời

anh

bản nháp của tình yêu một sớm.

(Bản nháp)

Đó là những câu thơ tình yêu mang vẻ đẹp lạ lùng, thể hiện khát vọng

muốn được hòa nhập với thiên nhiên của con người nhưng lại mang dấu ấn của

một miền ảo giác. Những câu thơ ấy có khả năng dẫn nhập thẳng vào cảm xúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

34

của con người.

Đặc biệt, khi đến với Hạt dẻ thứ tư, nhiều người đọc đã thấy đó là một tập

thơ hay, nhưng hay ở chỗ nào thì khó ai có thể vạch ra được và càng khó hơn khi

phải chỉ ra chỗ dở của tập thơ. Những câu thơ “ dấp dính, lòng thòng, chẳng ra

thơ cũng chẳng ra văn xuôi” [50, tr.46] như “ Đêm không trăng mộng du nào rớt

lại một trái tim trên nóc phố không mùa” (Hơi ấm) hay “ trên phố khuya cây lặng

lẽ sang mùa anh về lại góc hồn quên lãng” (Tháng Mười) có thể xem là thơ

những cũng có thể xem là văn xuôi và ở đây, ta chỉ có thể lý giải cách mà Tuyết

Nga tạo ra những câu thơ ấy chính là chị đã nhập hai ba câu thơ vào một rồi bỏ đi

các giới từ, liên từ để tạo độ co giãn linh hoạt, tạo ra những trường nghĩa mới cho

ngôn từ. Và hàm lượng của trí tuệ thơ do vậy cũng tăng lên đáng kể.

Như vậy, qua tìm hiểu quan niệm về thơ của Tuyết Nga chúng ta nhận

thấy với nghề nghiệp Tuyết Nga là một con người nghiêm túc, trân trọng nghề

nghiệp và không ngừng sáng tạo, lao động để tạo ra những câu thơ, vần thơ hay,

trong trẻo, tinh khiết, đưa con người đến với một thế giới nghệ thuật lung linh,

huyền ảo và thoát tục trước cuộc sống của thời @.

2.1.2. Quan niệm về con người

Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn,

nhà thơ phản ánh. Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm

thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người

của người nghệ sĩ nói riêng và thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử

cho rằng quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm

hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của của nhà văn về con

người được thể hiện trong tác phẩm của mình. Nghĩa là, quan niệm nghệ thuật

về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người được được thể hiện

thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp trong tác phẩm văn học, từ đó,

thấy được giá trị và chiều sâu triết lí của tác phẩm. Từ điển Thuật ngữ văn học

định nghĩa quan niệm nghệ thuật về con người “là hình thức bên trong của sự

chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn

với các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật.”[45, tr.354] .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

35

Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói

lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Chúng ta có

thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người một cách khái quát là: quan niệm

nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt

nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện

trong tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu

hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay

không giống so với đối tượng. Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng

vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng

nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học nói riêng và thành tựu

của người nghệ sĩ nói chung.

Với Tuyết Nga chúng ta nhận thấy nếu như quan niệm về nghề nghiệp của

Tuyết Nga được chị thổ lộ chủ yếu qua các bài phỏng vấn, các bài nói chuyện

với báo giới thì quan niệm về con người của chị lại ẩn sâu trong thơ- đứa con

tinh thần của chị. Hành trình theo các tập thơ Tuyết Nga ta có thể nhận ra những

khám phá của Tuyết Nga về con người ở bề sâu nhận thức, theo tiếng gọi có tên

là thời gian. Ở Viết trước tuổi mình đó là con người luôn nhạy cảm trước cuộc

sống thực tại. Ở Ảo giác và Hạt dẻ thứ tư đó là con người gắn chặt quá khứ, đa

cảm và mãnh liệt trong tình yêu. Và bao trùm lên tất cả những trang thơ Tuyết

Nga là con người nữ tính.

* Con người nhạy cảm trong cuộc sống

Nhạy cảm trong cuộc sống với Tuyết Nga trước hết là sự nhạy cảm trước

những chuyển mình, những bước đi của thời gian. Tuyết Nga không giấu giếm

những rung động, những nỗi buồn dịu nhẹ của mình trong khoảng khắc giao mùa:

Mây cuối trời chợt tím

lá cây lặng lẽ vàng

con tàu vừa chuyển bánh

mùa hè đang ở đâu?

(Đổi mùa)

Ở đây Tuyết Nga không xô bồ, vồ vập, reo vui để rồi thất vọng, ủ ê như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

36

Xuân Diệu khi xưa (Đây mùa thu tới ), chị chỉ khẽ chạm khắc vào không gian

sắc màu, động thái của những nỗi buồn dịu nhẹ, đủ để mỗi người nhận ra sự ra

đi của mùa hè và sự trở về của mùa thu. Tuyết Nga quả là tinh tế và đa cảm quá!

Đối diện với sự ra đi của thời gian trong Hoa mùa thu trước, Tuyết Nga

không khỏi đột ngột khi thấy mình dường như bị quăng ném vào những khoảng

không rỗng lặng. Và để rồi chị hối hả khước từ bước đi của thời gian vô hạn:

Chậm rồi, xin đừng đến bên em

anh của hôm qua

hoa mùa thu trước

vẫn là anh, hạnh phúc từng mong ước

nhưng em giữa thời gian như nước dưới chân cầu.

Cảm thấy mình nhỏ bé, mong manh và thấp thỏm lo âu khi ngày tháng đi

qua, đã có lúc Tuyết Nga thở dài “Tháng ngày dài như dòng sông không thuyền

trôi” và rồi chị lại tự an ủi, động viên mình bằng những lời ru vỗ “nào thôi…đã

có cánh ong”, “ nào thôi…đã có tiếng chim”, “ nào thôi…sắp hết mùa đông”

hay “ lòng một thoáng trở thành tĩnh vật trước thời gian”. Có lẽ ai đó đã đúng

khi nói thời gian là kẻ thù của phụ nữ nếu ta đọc thơ Tuyết Nga. Suốt hành trình

thơ chị, khó có thể thống kê ra được chị đã viết bao nhiêu bài thơ, câu thơ có sự

hiện diện của thời gian, và cũng không khó khi ta thấy ở Tuyết Nga, thời gian

đồng hiện ở cả ba chiều của nó. Có những thời gian của hiện tại trong Viết trước

tuổi mình, có thời gian của quá khứ và tương lai trong Ảo giác và Hạt dẻ thứ tư.

Quả thực, trong tập thơ Viết trước tuổi mình có 19 bài thì dường như cả 19 bài

Tuyết Nga đều nhắc đến thời gian. Không đơn giản vì quan điểm triết học vạn

vật đều tồn tại trong không gian và thời gian mà có lẽ vì điều cơ bản là bởi trái

tim Tuyết Nga luôn thao thức cùng thời gian. Và vì vậy, thời gian hiện hữu

trong cả cái cách mà Tuyết Nga dùng để chỉ trạng thái tồn tại của vạn vật. Đặc

biệt thơ chị xuất hiện khá nhiều các câu thơ thể hiện khát vọng níu giữ thời

gian, tiếc nuối khi thời gian trôi đi, khi thì “ ơi mặt trời mùa đông, gió lành ngày

nắng/ chậm về xin đợi đến mùa sau” khi là “ bức thư chờ đến chậm/ nói gì cùng

xa xôi” . Tuyết Nga vừa muốn chạy thoát khỏi thực tại lại vừa muốn níu giữ bên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

37

mình những khoảnh khắc của thực tại. Vì sao vậy? Có lẽ bởi với Tuyết Nga, thời

gian không chỉ mang những nỗi buồn dịu dàng mà thời gian còn mang cả những

điều mới mẻ. Vì vậy, một trạng thái cảm xúc mới mẻ, độc đáo và hấp dẫn đã

xuất hiện trong thơ Tuyết Nga khi đối diện với thời gian, đó là sự biết ơn thời

gian, là tiếng nói cảm ơn thời gian:

- Thời gian đi rành mạch

thiên nhiên không dối lừa

trái tim xin nhận tội

nếu mai rồi nguôi, quen.

(Đổi mùa)

- dẫu qua đi mọi nắng chiều, gió sớm

năm tháng vẫn làm thành tuổi cuộc đời ta.

(Thành thực)

Quả là một cái nhìn thấm đẫm chất triết lí mà vẫn rất trữ tình.

Không chỉ tinh tế, nhạy cảm, đa sầu, đa mang trước những cú trở mình

của thời gian, Tuyết Nga còn rất tinh tế trước những chuyển biến, những âm

thanh, những màu sắc của thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Lấy câu nói của

Anatoli Kim “ Con người là những mảnh vỡ của một ngôi sao buồn” làm lời đề

từ cho tập thơ đầu tay Viết trước tuổi mình, cả tập thơ của chị ẩn chứa một nỗi

buồn phảng phất, dịu nhẹ và dịu ngọt đầy nữ tính.

Gắn bó với thiên nhiên, Tuyết Nga thường hay lắng nghe. Chị lắng nghe

những âm thanh, những màu sắc quen thuộc, gần gũi, của cuộc sống thực tại và

lắng nghe cả những âm thanh xa xôi vọng về từ qua khứ, từ một miền Trung nơi

chị sinh ra và lớn lên. Vì chị đa cảm, nhạy cảm hay vì chị tinh tế, lắng sâu,

thường cảm nhận về cuộc sống hàng ngày khác hơn so với những người xung

quanh? Có lẽ là cả hai, bởi Tuyết Nga thường đắm mình trong thế giới của thiên

nhiên để cảm nhận những hơi thở nhỏ bé, mong manh của thiên nhiên:

Đâu tiếng chim giòn tan

Trên mặt đường bỏng dẫy

Bông hoa nở chói chang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

38

Dưới mặt trời nóng nảy

Không gian màu lửa cháy

Không gian mùi rượu nồng.

…………………………….

Cò gì trong tiếng hát

Lan trong từng lá rơi

Sông trong như đứng im

Nỗi cồn cào lắng lại.

(Đổi mùa)

Cái nhìn sâu hút vào tận phía sau của sự hiện hữu đã đưa thiên nhiên

trong thơ Tuyết Nga trở thành một thiên nhiên vừa đẹp lại vừa sinh động.

Con người trong thơ Tuyết Nga còn là con người luôn gắn bó với quê

hương, nguồn cội. Sinh ra và lớn lên trên dải đất miền Trung đầy nắng cháy và

bão táp, hình ảnh quê hương miền Trung đi vào thơ chị với bao gắn bó. Đó là

một miền trung với những cơn bão đến và đi khi mùa thu về, để lại sau lưng

thành phố xộc xệch với “đèn đường nghiêng/ xao xác tán cây”, với “nhà cửa

nghiêng, cây xiêu và trái rụng/ chim bóng nhỏ vật vờ/xộc xệch không gian” và

“phía bờ sông cầu ao đang bắc/nhà bên đường đang lợp lại mái hiên”.

Đó cũng là một miền trung với những bãi cát vàng đầy nắng và gió rất riêng:

Ngoài kia bãi cát vàng

giăng quanh triền sóng vỗ

ngoài kia ngọn gió nào

rông dài mùa lá đổ.

Đó còn là một miền trung với bao kỉ niệm thuở ấu thơ nghèo khó, lam lũ

và bụi bặm, đượm màu cổ tích:

Cứ như tôi không vừa từ chỗ phố trước nhà ga

Nơi mẹ bán bánh bào em đi rao nón

Những con tàu ngang qua

Những con tàu dừng đỗ

Hàng chở về bụi bặm lối ngoại ô.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

39

Hay một miền trung gian khó với “sỏi đá bạc dọc triền đồi đất đỏ”.

Đó chính là tiếng nói của một tình yêu quê hương đằm sâu, kín đáo mà

day dứt, được tự bạch qua những lời thơ giản dị, chân thành, thì thầm như những

lời trò chuyện đầy nữ tính.

* Con người gắn bó chặt chẽ với quá khứ, đa cảm và mãnh liệt trong tình yêu

Khi đến với Ảo giác và Hạt dẻ thứ tư ta sẽ gặp Tuyết Nga với những ám

ảnh thời gian của quá khứ. Một điều đặc biệt là với Tuyết Nga quá khứ không

chỉ là những phút giây hạnh phúc, những ngày tháng đẹp mà quá khứ còn gói

trong mình cả những khổ đau, mất mát. Quá khứ là những câu chuyện về cuộc

đời chị, ở đó có những câu chuyện về tình mẫu tử xúc động đến nghẹn lòng:

Nụ tầm xuân xanh biếc

xin hãy kể cho ta về những tháng năm dài

bếp lửa Mẹ nhen hồng sau cánh cửa

nơi Cha về sau mỗi chuyến đi xa

nơi cơn bão tháng 3 ngọn gió Lào tháng 7

cuốn tơi bời lòng Mẹ những hoàng hôn.

(Hoa tầm xuân)

Lang thang khi tìm về quá khứ, Tuyết Nga trở về với những miền thương

nhớ đằm sâu nơi có bóng dáng mẹ cha với bao vất vả, lo toan, bao đắng cay, hi

sinh để nuôi con khôn lớn. Nhưng chính trong thời khắc ấy, Tuyết Nga đã cay

đắng nhận ra rằng “Ấu thơ tung tăng đi về phía mẹ để lại ta ngơ ngác/một

ngày”. Khi đọc những câu thơ này tôi cứ băn khoăn, day dứt tự hỏi thời gian là

gì mà sao sắc như dao mỗi khi ta chạm vào quá khứ? Phải chi không có sự hiện

diện của cái gọi là quá khứ thì có lẽ cuộc đời này sẽ bớt nước mắt khóc thầm.

Ở miền không gian xa xôi của quá khứ, ta cũng bắt gặp những câu chuyện

tình yêu ngọt dịu của một thời đã qua:

Một hoàng hôn

Rong chơi khoác chiếc áo Cô đơn phong phanh gió

lạnh

lang thang qua ngõ nhà em

…………………………….

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

40

Và Rong chơi đã khoác mình lên giá

Để nỗi Cô đơn đến sưởi dịu dàng

Bên ngọn lửa mỏng manh vừa cháy sáng.

(Ảo giác)

Quá khứ thẳm sâu day dứt không ngờ những khát khao bạc trắng

Những nếm trải đắng cay đẫm mềm hạ vắng

Nỗi cô đơn dằn dữ vô hồi.

(Rồi một ngày)

Và cũng có những câu chuyện buồn (Mắt, Ký ức, Tặng thơ họa sĩ vẽ chân

dung, Quê chồng, Như đá,...)

Con người trong thơ Tuyết Nga là thế: luôn gắn bó máu thịt với quá khứ

và trân trọng những gì đã qua.

Không chỉ gắn bó máu thịt với quá khứ, con người trong thơ Tuyết Nga

còn rất đa cảm và mãnh liệt trong tình yêu. Trước hết ta thấy tình yêu hiện hữu

trong thơ chị với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Trong Viết trước tuổi mình là tình

yêu của một thời thiếu nữ với những buồn vui lãng mạn của người con gái mới

lớn thành thực với tình yêu và bao giờ cũng dịu dàng, nữ tính:

Không thể nói là em không hờn dỗi

Khi anh qua ngõ nhà em như mọi khách qua đường

Không thể nói là em không hạnh phúc

Khi giữa bạn bè em có thêm anh.

(Thành thực)

Tuyết Nga không giấu giếm cũng không tô vẽ màu mè những cảm xúc

chân thành của mình khi bước đến với tình yêu. Dù giận hờn hay hạnh phúc chị

cũng đều thành thực. Và thề giới tâm hồn người con gái của Tuyết Nga lúc nào

cũng mênh mang như sóng biển. Ở đó có những thổn thức lo âu, những dự cảm

xa xôi:

Có thể rồi chỉ còn là ảo giác mà thôi

Cái màu trăng đêm ấy

Cả nụ cười

Cả những lời đã nói

Có thể chỉ còn là kí ức xa xôi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

41

(Thành thực)

Và ở đó có những khát vọng muốn níu giữ những ngày tháng đẹp của tình yêu:

Anh hiện ra như lối rẽ đường đi

Đột ngột chia chân trời thành hai ngả

Khóm trúc đổi màu giữa ba bề gió thổi

Giá đặt được lòng tay ngày tháng sắp qua đi.

(Viết trước tuổi mình)

Ở đó có những nông nổi, vụng về của tuổi hai mươi:

Như cơn mưa rào nông nổi tháng tư

Như bông xi xanh vụng về tháng tám

Không dấu nổi yêu thương qua lặng thầm ý tứ

Giọt nước mắt buồn lăn qua hai bàn tay.

(Con gái của mẹ)

Và ở đó cũng có những tin tưởng về một tình yêu hồi sinh, một tình yêu

cứu rỗi trái tim:

Tình yêu lại về như trời của mùa xuân

bắt đầu màu hoa

bắt đầu ngọn gió

tim lặng lẽ như trái vàng trong cỏ

rụng xuống rồi một sớm lại hồi sinh.

(Độc thoại mùa thu)

Người con gái trong thơ Tuyết Nga vẫn mang theo những nét đẹp truyền

thống của người con gái Việt Nam từ trong ca dao thuở nào. Đọc thơ Tuyết Nga

ta bắt gặp những đồng điệu tâm hồn với người con gái trong trang thơ Xuân

Quỳnh: gắn bó với tình yêu, dịu dàng, đa cảm, đa sầu, khoáng đạt nhưng vẫn rất

nữ tính:

Em hiểu rằng những lúc đi xa

Tình anh đối với em là xứ sở

Là bóng rợp trên con đường nắng lửa

Trái cây thơm trên miền đất khô cằn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

42

(Nói với anh)

Nó dường như đối lập với người con gái mạnh mẽ và quyết liệt, khát vọng

yêu vồ vập, yêu điên cuồng như trong thơ Vi Thùy Linh:

Em yêu anh điên cuồng

Yêu đến tan cả em

Ào tung kí ức

(Người dệt tầm gai)

Hay trong thơ tình yêu của Dư Thị Hoàn:

Sau giây phút

Êm đềm trên ghế đá

Anh không cài lại khuy áo ngực cho em

(Tan vỡ)

Vào những năm 90 của thế kỉ XX, thơ ca Việt Nam vận động theo nhiều

xu hướng, trong đó có cả xu hướng viết về tình yêu với những cảm xúc, những

miêu tả giật gân, gây hấn với truyền thống. Thậm chí tình yêu gắn liền với tình

dục, với sex thì những dòng thơ tình dịu dàng, chan chứa nữ tính như những câu

thơ của Tuyết Nga chính là những hạt giống hiếm hoi lưu giữ những tinh túy,

những vẻ đẹp còn mãi với thời gian của tâm hồn người con gái Việt Nam.

Gắn bó với tình yêu, con người trong thơ Tuyết Nga còn là con người của

tình mẫu tử thiết tha, sâu lắng. Hình ảnh người mẹ trong thơ chị bao giờ cũng là

người nâng niu từng giọt thời gian, từng dòng cảm xúc ngọt ngào bên con và

luôn muốn dành cho con những gì tốt đẹp nhất, kì vĩ nhất. Tuyết Nga đã có cả

một chùm thơ với những câu thơ, bài thơ dịu ngọt như cây trái đầu mùa , lay

động lòng người khi viết cho con gái, đó là chùm thơ Viết cho Chíp. Khác với

những người mẹ khác, Tuyết Nga đi tìm lời ru cho con. Vì sao vậy? Tuyết Nga

lí giải:

Lẽ nào lại hát ru con

bằng những lời cũ kỹ

Chỉ thế thôi cũng đủ để chúng ta hiểu Tuyết Nga yêu con đến nhường

nào. Dường như chị muốn mang vào lời ru của mình cả một thế giới mới, huyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

43

ảo và linh diệu để những giấc mơ của con được tươi mới, tròn đầy:

Dòng sông triệu tuổi

ừ thì…

vẫn còn bến bãi

vẫn còn phù sa

nhưng mà đã biết nông sâu, đã ra tới biển từ lâu

cánh buồn.

Và quan trọng hơn con chính là thiên thần của mẹ, là giấc mơ về một thế

giới kỳ diệu của mẹ:

Hát lời gì để ru con?

mây đã xưa

gió cũng xưa mất rồi

chỉ mình con mới sinh thôi.

Cũng chính trong tiếng nói về tình mẫu tử, đứng ở vị thế là một người con

Tuyết Nga đã cảm nhận được những lo toan, buồn vui, vất vả và sự hy sinh thầm

lặng của mẹ để nuôi mình khôn lớn:

Mẹ đã dấu giọt nước mắt ở đâu để nuôi ta khôn lớn?

ta, vị hoàng đế lên 3 trong Vương quốc riêng Cuộc-

Đời- Của – Mẹ

(Hoa tầm xuân)

Qua các hình tượng nghệ thuật, ta nhận thấy con người trong thơ Tuyết

Nga là con người của những buồn vui trong cuộc sống, con người đa cảm, nhạy

cảm và bao trùm tất cả là con người nữ tính, dịu dàng, tinh tế, sâu sắc và rất đỗi

nhân hậu, bao dung, không ồn áo, không than trách, biết cầm lòng như những

giọt nước mùa thu. Chính điều này đã tạo nên bản sắc riêng, phong điệu riêng

cho thơ Tuyết Nga

2.2. Những miền mong chờ ẩn giấu

2.2.1. Ảo giác hay tiếng gọi của ký ức

Như đã nói ở phần trên, thơ ca Việt Nam sau 1975 có sự vận động theo

nhiều xu hướng trong đó có xu hướng đi sâu khai thác những vùng mờ tâm linh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

44

đậm chất tượng trưng siêu thực. So với văn xuôi thì thơ có sự khởi động sớm

hơn ở xu hướng này, có lẽ là do những đặc trưng về thể loại và do sự nhạy cảm

đặc biệt của thi sĩ. Xu hướng này đưa thơ đào sâu vào bản ngã, muốn đến tận

cùng thế giới tâm linh vô thức của con người. Xét cho cùng xu hướng này là kết

quả của sự ý thức về cái tôi cá thể, cái tôi chưa biết, cái tôi ngoài mình của con

người đồng thời xuất phát từ nhu cầu muốn khám phá chiều sâu bí ẩn của tâm

hồn con người. Đưa thơ đi theo hướng này có thể kể đến các đại diện tiêu biểu là

Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng và Tuyết Nga.

Với các nhà thơ như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình

Hưng thì họ có tham vọng khám phá tâm lí học theo chiều sâu, những miền còn

hoang dã của con người. Xuất phát từ quan niệm thơ chủ yếu là sự biểu hiện của

cái tôi ở phần tiềm thức, vô thức, họ đã đưa thơ vào sâu trong địa hạt này, khai

thác những giác mơ, mộng mị, hư ảo. Hoàng Cầm đã âm thầm đi vào những cơn

mơ, đường mê và ngẩn ngơ trong những ảo giác. Thế giới thơ Hoàng Cầm do

vậy cứ hư hư thực thực, mông lung lạ thường. Quê hương Kinh Bắc đã được

ông hư ảo hóa trở thành một vùng đất đẹp lung linh và gắn với đó là những mối

tình hư ảo, như sương, như khói. Ông từng tâm sự rằng những bài thơ thành

công nhất của ông chính là những bài thơ “vâng theo những gì tâm linh bật ra”.

Thơ thường bất chọt vang lên trong ông như tiếng nói của thần linh. Thơ ông

cũng phản ánh hiện thức nhưng là hiện thực ở một phía khác, hiện thực ở chiều

sâu. Trong thơ ông cũng thường xuất hiện những cuộc đối thoại với những

người đã chết, những sự việc đã trở thành kỉ niệm, kí ức. Ví như trong tập 99

tình khúc của ông có tới 13 cuộc trò chuyện với những người con gái một thời

để nhớ để thương của ông, còn tập Về Kinh Bắc là cuộc tuần du để gọi những

người thân của ông trở về:

Người thơ kể

Thiên vương chẳng nói

Chân Mẹ còn đê mê cát mịn

Hội Gióng dong chiêng

Bé em về nằm khoanh lòng mẹ

Nghe nghìn năm sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

45

Xoa nắn đôi bầu vú lửa

Sông dài

Cát bỏng

Nắng hồng hoang

(Nắng phù sa)

Đến với Hoàng Hưng, Đặng Đình Hương khi đi vào đào sâu thế giới vô

thức rộng lớn của mình họ đều cảm thấy sự cô đơn, sự tuyệt vọng ghê gớm:

Cơn thể niệm đầy triển vọng hoàn thành, thì một hôm( có lẽ tại thời tiết,

jở jời) bỗng phát sinh một số biến chứng, biến chứng từ trong ra. Hôm ấy trời se

se – mùa chuyển, anh thấy người gai gai khó nói- như man mác- như mây trôi-

lại như trống trải cô li- như tiếng gọi mùa:

Xuân hạ thu đông

đi jiữa mùa em jó lộng

thu cùng

đi jiữa mùa xuân

jó lạnh mùa xuân

thay áo

mùa sương em

sương ngượng

ngỡ ngàng

ngấp nghé

(Ô mai- Đặng Đình Hưng)

Nguyễn Quang Thiều lại thường mơ thấy linh hồn của những người đã

chết và ông có nhiều bài thơ viết trong đêm vì theo anh đêm cũng là lúc những

người chết trở về với thế giới của những người sống:

Khi những ngọn đèn lần lượt tắt và chúng ta đi

Tất cả những người chết trở về thành phố

Một cánh cửa khẽ rít lên, một cái cây chợt rung xào xạc

Một con chó bị xích bỗng sủa thảng thốt

Những đám mây chầm chậm vắt ngang ánh sáng vầng trăng

Gió thổi những tấm rèm tung lên rồi tung xuống bất động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

46

(Đoản ca về buổi tối)

Họ trở về để mượn nhà cửa, mượn đồ đạc của những người đã sống và để

sống tiếp cuộc đời mình:

Những người chết trở về đông hơn những người đang sống

trong thành phố của chúng ta

Họ trở về và sống đời sống của chúng ta

Những người chết đi lại và lũ lượt ngó nhìn mọi nơi

Họ cũng ăn uống, tắm rửa, trò chuyện, cười khóc…

Họ tiếp tục sống một đời sống đột ngột bị cắt đứt.

(Bài ca những con chim đêm)

Tuyết Nga cũng viết về ảo giác nhưng khác với những nhà thơ trên, thế

giới ảo giác của chị được bắt nguồn từ những ký ức của một thời đã qua ngay ở

thế giới này, ngay trong những miền mong nhớ của chị. Đặc biệt ký ức trong thơ

Tuyết Nga được tỏa ra theo hai nhánh, một nhánh với những ký ức buồn và một

nhánh với những niềm hạnh phúc nhỏ bé.

Đến với những ký ức buồn thì những ám ảnh về nỗi đau xuất hiện trong

rất nhiều bài thơ của chị, có khi ở những hình ảnh thơ, có khi ở giọng điệu, ở

ngôn từ và nhiều khi là ở tất cả. Ngay trong bài thơ đầu tiên của tập thơ Ảo giác,

bài thơ Hoa tầm xuân ta đã bắt gặp những dòng ký ức đẹp nhưng đượm buồn về

tình mẫu tử. Ký ức ấy được gợi lên từ hình ảnh của những nụ tầm xuân với màu

xanh biếc:

Nụ tầm xuân lặng lẽ tự bao giờ

xanh đơn giản và cũ càng

như đất

ta chợt nhận ra hoa hay hoa đã nhặt ta về trong một

chiều xanh ngắt

hay ta già nua?

Người phụ nữ đã qua cái tuổi trăng tròn và nay đã là một người mẹ, thời

gian vẫn lặng lẽ trôi bên đời như những bông hoa tầm xuân vẫn lặng lẽ xanh từ

thời ca dao, từ thuở nằm nôi, ấy vậy mà hôm nay Tuyết Nga mới bất chợt nhận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ra sự hiện hữu của chúng giữa cõi đời này. Nhưng điều làm ta ngạc nhiên hơn cả

là Tuyết Nga không giật mình thảng thốt, cũng không loay hoay trèo lên, bước 47

xuống như người con gái trong ca dao xưa. Từ cõi thực, hoa tầm xuân đưa chị

về với cõi nhớ, với ký ức, tiềm thức. Đó là ký ức về người mẹ yêu thương của

nhà thơ. Tại sao lại có sự liên tưởng độc đáo giữa mẹ và nụ tầm xuân? Đó là một

câu hỏi không dễ trả lời chút nào. Ta có thể tạm lý giải rằng có lẽ trong miền

nhớ của Tuyết Nga nụ tầm xuân luôn gắn liền với hình ảnh người mẹ của chị, vì

vậy chỉ cần một tín hiệu ngoại cảnh là những bông hoa tầm xuân xanh biếc tác

động đến tiềm thức của chị là những gì liên quan đến bông hoa tầm xuân sẽ ùa

về trong chị. Và bởi vậy, hoa tầm xuân đã làm hiện diện trong chị hình ảnh

người mẹ thuở nào. Và như một dòng chảy, những câu chuyện về cuộc đời của

mẹ với bao lam lũ, vất vả, tảo tần, sẵn sàng hy sinh vì con cứ ùa về trong chị,

làm sống dậy trong chị những ký ức xa xôi và thấm đẫm nỗi đau:

Hãy nói với ta hương bưởi thơm ra sao ngày Mẹ

18 tuổi

18 tuổi tóc dài vai nhỏ mắt huyền trong…

chân trời đã ra sao những sáng xuân mưa bụi

Mẹ từng đứng nơi nào để dõi cánh buồn trôi?

Và mẹ đã dấu hoa cùng những giọt nước mắt ở đâu

để nuôi ta khôn lớn?

Ta, vị hoàng đế lên 3 trong vương quốc riêng Cuộc-

Đời- Của- Mẹ

Nhưng mẹ đã vĩnh biệt ta vào một sáng trong đời

Ta thành kẻ hành khất không nước mắt.

Hoa tầm xuân là nén tâm nhang, là lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ dành

cho mẹ. Và tưởng như hoa tầm xuân là một câu chuyện hư ảo nhưng ở đó lại

chứa đựng một sự thật về cuộc đời. Điều cuốn hút người đọc khi đến với Hoa

tầm xuân không chỉ là ở tình mẫu tử thiêng liêng mà trong những câu thơ cuối ta

cũng thấy Tuyết Nga nói khá hay về sự hóa thân của tình mẫu tử :

Nụ tầm xuân…

«Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc »

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

48

Mẹ từng hát ru ta lời ngoại hát thuở nào

ta làm mẹ

và một chiều mây trắng

chợt thấy tầm xuân xanh biếc trước hiên.

Hình ảnh người mẹ có một sức ám ảnh mãnh liệt trong tâm trí Tuyết Nga,

vì vậy đây cũng là một hình ảnh trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của chị. Ngay

trong tập thơ đầu tay hình ảnh người mẹ ấy đã hơn một lần hiện diện :

- Cứ như tôi không vừa từ chỗ phố trước nhà ga

Nơi mẹ bán bánh bèo, em đi rao nón

(Huế)

- Lối ta về mạn hảo đã kín sân

đã khuất mất đâu con chuồn cánh đỏ

tiếng mẹ chỉ còn trong thương nhớ

na rụng vào măm tháng đã thành cây.

(Viết trước tuổi mình)

- Con gái mẹ bây giờ

không giống mẹ

chẳng biết têm trầu, không thạo thêu đan

(Con gái của mẹ)

Và trong chùm thơ Viết cho Chíp hình ảnh người mẹ như một bóng mát

đổ bóng xuống tuổi thơ của chị và giờ đây vẫn tiếp tục vun đắp cho mầm xanh

hy vọng, cho khoảng trời yêu thương của chị- cô con gái bé bỏng của nhà thơ :

Dù con sinh ra bà không còn nữa

nhưng bà yêu con từ xửa từ xưa

bà gửi cho con hoa trái mùa thu

đàn ong tháng 3

ông trăng tháng 6

bà gửi cho con

mẹ

và câu hát..

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

49

mai con lớn rồi vẫn đủ yêu thương.

(Nói với con về bà ngoại)

Tại sao hình ảnh người mẹ lại có một sức ám ảnh mãnh liệt như thế đối

với Tuyết Nga ? Như chúng ta đã biết, Tuyết Nga mất mẹ từ khi 15 tuổi. Nỗi

đau tuổi thơ ấy Tuyết Nga không lúc nào nguôi « Mẹ đã vĩnh biệt ta vào một

sáng trong đời/ ta thành kẻ hành khất không nước mắt ». Bao u uẩn, bao khát

khao về vòng tay ấm êm của mẹ đã dồn tụ lại thành một khối nước mắt đọng

quánh và niềm ao ước có mẹ ở bên đã trở thành một niềm khát khao theo chị

suốt đời. Trái tim bị tổn thương đến cùng cực ấy đã tìm đến thơ để giải tỏa, để

thổ lộ. Và có lẽ vì vậy mà Tuyết Nga viết rất thành công ở tình mẫu tử.

Dường như Tuyết Nga không mấy quan tâm đến đề tài bởi chị tâm sự chị

thường viết thơ khi bị tiếng gọi của ký ức hối thúc. Những khi ấy chị thường

ngồi lặng lẽ một mình, một mình độc thoại với chính mình. Có lẽ vì thế mà đến

với thơ Tuyết Nga dù viết về tình yêu hay viết về nỗi buồn thì ta cũng thấy chị

như sống cùng ký ức của một vết thương chìm :

Trong đám cưới của người bạn bị bạc tình

hạnh phúc

như tờ lịch được đóng đinh

em là một thứ cây không lá

Và em thấy mọi người như loài chim cụt cánh

trong bữa tiệc của người bạn chán đời

nơi niềm vui

như đồng tiền giật tạm

(Ảo giác 2)

Trước đám cưới không tình yêu của người bạn chị đã thấy số phận của

hạnh phúc, của niềm vui, đó là những rạn nứt, những nỗi đau của một hạnh phúc

mỏng manh ở thời điểm tưởng như hạnh phúc hiện hữu rõ ràng nhất. Còn thân

phận con người trong đám cưới không tình yêu ấy thì sao ? « em là một thứ cây

không lá », « mọi người như loài chim cụt cánh ». Quả thực Tuyết Nga đã tạo ra

cho mình một thế giới những hình ảnh đầy ám ảnh, đầy nhức nhối và rất Tuyết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

50

Nga. Khi Tuyết Nga so sánh và liên tưởng ta thấy như nỗi buồn, sự cô đơn,

trống chọi dâng lên tận đáy mắt nhưng chị không ồn ào. Nỗi đau trong thơ chị là

nỗi đau âm thầm, chị không gồng mình lên khi nói về nó như một số nhà thơ nữ

khác. Nhưng không vì thế mà thơ chị kém phần hấp dẫn bởi trong câu chuyện về

hạnh phúc, về cuộc đời thơ chị vẫn chứa đầy trắc ẩn :

Lời ta là những mảnh thủy tinh rơi mãi

trái tim co ro nhón gót hãi hùng

máu rỏ xuống âm thầm kỷ niệm

những giọt màu rong rêu.

Trải qua bao mất mát, bao dang dở trong cuộc sống nhưng Tuyết Nga vẫn

vững vàng và bản lĩnh. Sức mạnh nào đã đưa chị đi qua “những ngày giông

bão”?. Đó có thể là những câu thơ được dệt bằng ký ức:

Có một cơn mưa mười lăm năm chưa tạnh

mòn cả vai gầy

có một mùa đông mười lăm năm còn lạnh

úa cả tóc ai xanh.

(Ký ức)

Cả cơn mưa và cả mùa đông đều được đo bằng một đời phiêu dạt của

Kiều. Nó làm “mòn cả vai gầy”, “úa cả tóc ai xanh”. Những câu thơ mang một

nỗi buồn dịu dàng, ẩn dấu nhưng lại lay gợi tâm thức nơi người đọc, gợi ra trong

tâm tưởng chúng ta biết bao nhiêu tháng ngày buồn lặng lẽ.

Ở một bài thơ khác, đó là bài Rồi một ngày…nhớ về tình yêu ngọt ngào

nhưng nay đã vụt bay, Tuyết Nga đã chạm sâu vào những cô đơn:

Quá khứ thẳm sâu day dứt không ngờ

những khát khao bạc trắng

những nếm trải đắng cay đẫm mềm hạ vắng

nỗi cô đơn dằn dữ vô hồi.

Thực ra ở bài thơ này, ta bắt gặp một lối đi khác thường trong thơ chị, nỗi

đau, nỗi cô đơn trở nên dằn dữ, day dứt và hơn thế nữa:

Rồi một ngày bạc nắng ngoái tìm nhau

Cả trời thu mục nát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

51

Cả biển sóng đã khô thành cát

Miên man năm tháng vô thường.

Những tiếng gọi của ký ức buồn cứ thổn thức mãi, giăng mắc suốt cả Ảo

giác. Bởi vậy đến với Không đề 1, mọi sự sống chị gợi lại đều đi vào trạng thái

tàn héo, vô nghĩa với chim bay hút, hoa rụng tàn, tổ ong tràn hương nhụy và

Tuyết Nga đã phủ lên cả không gian bao la một màu đen nhức nhối, một giấc

ngủ mênh mang:

Giấc ngủ choàng chiếc khăn san đen

lên tất cả bầu trời

tất cả

tưởng có thể vùi sâu vào giấc ngủ

trái tim buồn như một trái cây rơi.

Nếu nỗi buồn trong Không đề 1 là nỗi buồn của sự tàn lụi, héo úa thì ở

Không đề 2 nỗi buồn không dừng lại nơi úa vàng mà còn ngưng đọng ngay

trong những non nớt, con người thì trở nên nhỏ bé, mong manh:“chút thân thuộc

giữa ngàn xa lạ/ đốm vàng u ẩn một triền sông”.

Không chỉ nhìn ra nỗi buồn trong những gì đã qua, Tuyết Nga còn nhìn

thấy nỗi buồn trong cả những gì của hiện tại với những dự báo đầy lý tính:

Rồi một mai ngôi nhà đang xây kia sẽ lại là di tích

ta cũng thành một quá khứ xa xăm

(Viết ở phố Hiến)

Cũng bởi vậy, đi dọc hành trình thơ chị ta không khó để nhặt ra những

câu thơ đầy ảo giác, đầy ám ảnh của quá khứ buồn, ngỡ như nỗi buồn đang được

bóc vào tận lõi:

- Rồi một ngày bạc nắng ngoái tìm nhau

- Trái tim buồn như một trái cây rơi

- Đốm vàng u ẩn một triền sông

- Màu thời gian bạc con đường cỏ mọc

Hạnh phúc với tay chạm vào nước mắt

gom về từng mảnh dung nhan

- Có lúc niềm vui mang hình mảnh vỡ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

52

rơi lang thang xuống ngày tháng khê nồng.

Tuyết Nga quá tỉnh hay quá nhạy cảm, quá đa sầu, đa đoan? Có lẽ là tất

cả. Tuy nhiên thơ Tuyết Nga không phải là thương hiệu của những mất mát,

những cô đơn, những nỗi buồn vì đâu đó trong Ảo giác chúng ta vẫn gặp những

bài thơ, những hình ảnh, những gam màu, những đường nét của hạnh phúc. Đó

là khi « Một hoàng hôn/Rong chơi khoác chiếc áo Cô đơn phong phanh

gió/lạnh/lang thang qua ngõ nhà em./Một chiều mưa/Tham lam sụp chiếc mũ

Khổ đau/co ro nép vào cánh cửa nhà em./ Em mở cửa ngôi nhà nghèo

khó/nhóm lên từ đống thời gian mệt mỏi lụi tàn/một ngọn lửa kham khổ./Và

Rong chơi đã khoác mình lên giá/để nỗi Cô đơn đến sưởi dịu dàng/bên ngọn

lửa mỏng manh vừa cháy sáng./Và Tham lam tựu treo mình lên chiếc đinh lạnh

buốt/để nỗi Khổ đau đến sưởi dịu dàng/bên ngọn lửa niềm tin vừa cháy sáng »

.Câu chuyện tình yêu của anh và em đã có một kết quả có hậu, niềm tin và sự

dịu dàng đã chiến thắng.

Hay khi viết về cô con gái bé bỏng đáng yêu của mình chị đã tìm thấy nơi

con gái những hình ảnh đẹp, hồn nhiên, trong sáng chiến thắng mùa đông và

đêm tối:

Con sẽ như giọt nắng

Trước hiên bà mùa đông

Giọt nắng tìm kim

Giọt nắng quét nhà

Giọt nắng sún răng lò co quanh cửa

.........................................................

Con sẽ như chú mèo nhỏ cuối vườn

đánh đổ ông trăng xuống nơi đáy nước

trán sưng u và áo quần lấm láp

rón rén leo lên ôm gối ngủ vờ

(Nói với con về bà ngoại)

Người thiếu nữ của ngày nào « tuổi 17 hôm nay em mặc váy hồng/đường

cao tốc em bay như ngọn lửa » nay đã thành một thiếu phụ ẩn trong mắt mình

những « giọt cà phê sau chót », « nụ cười trăng lạnh » và ao ước « Đóng gói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

được một trời sao rụng trong mắt anh phút/khuất nẻo chân trời/đóng gói được

nỗi nhớ em run rẩy/ngưng long lanh trên mí mắt âm thầm ». Đọc Ảo giác ta 53

thấy dù là khổ đau hay hạnh phúc thì với Tuyết Nga tất cả đã gom thành chân

dung tâm hồn chị. Chị nâng niu tất cả, gói ghém tất cả, coi đó là thứ quý giá nhất

trong hành trang mà chị mang theo khi đi dọc đời thơ tưởng như hư ảo nhưng lại

rất thực này. Và cái giọng điệu không rên rỉ và cũng không ngạo ngược, không

lạnh lùng và cũng không ướt át, đầy ngọt dịu chứ không chát chúa ấy đã tạo

được một thương hiệu riêng, một điệu hồn không lẫn được với ai của Tuyết Nga

giữa những dòng chảy lao xao của thơ hiện đại.

2.2.2. Thơ như là một tự thú, tự bạch về con người

Thơ không miêu tả sự vật bên ngoài, không kể các sự việc sảy ra mà chỉ

biểu hiện các xúc động nội tâm,những tình cảm, những cảm nhận của con người

trước sự việc. Nếu thiếu đi những xúc cảm, những rung động thì không thể có

thơ. Hegel cho rằng đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núi non, phong

cảnh, cũng không phải là hình dáng và các biểu hiện bên ngoài của con người,

máu thịt, thần kinh…Đối tượng của thơ là hứng thú tinh thần. Nhiệm vụ chính

của thơ là gợi lên cho ý thức nhận thức thấy sức mạnh của cuộc sống tinh thần

và tất cả những gì lay động ta, làm ta xúc cảm trong các dục vọng và các tình

cảm nhân tính. Nói như nhà thơ Anh Wordsworth “Thơ là sự biểu lộ tình cảm

mãnh liệt” hay nhà thơ Chi lê Pablo Neruda “làm thơ phải có tình cảm mãnh

liệt”. Tình cảm mãnh liệt ấy không phải là những vui buồn biểu hiện ra bề ngoài

như những hú gào, cười khóc ồn ào mà nó là những rung động mãnh liệt trong

tâm khảm người cầm bút khi đứng trước các sự kiện, sự việc gây chấn động tâm

hồn.Và Tuyết Nga cũng hơn một lần khẳng định thơ chị là tiếng nói của tâm hồn

chị “Thơ tôi là một phần cuộc đời tôi, cái phần mà nếu không có thơ sẽ ít ai biết

được… tôi làm thơ không phải là để chứng tỏ mà đơn giản chỉ là để bày

tỏ”[63,tr.19]. Nói một cách khác với Tuyết Nga, thơ là một lời tự thú, tự bạch

về con người. Chỉ riêng đến với Hạt dẻ thứ tư ta cũng sẽ tìm thấy một Tuyết

Nga tự thú, tự bạch qua 29 bài thơ. Tập thơ bắt đầu với lời đề từ cũng là lời một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

54

bài thơ trong tập thơ này của chị:

9 mô-đun kiểu Điềm Phùng Thị

em

phía ngoài không gian

Lời đề từ được gợi cảm xúc khi Tuyết Nga xem tranh của họa sĩ Điềm

Phùng Thị. Ở đó chị thấy mỗi mô-đun mà Điềm Phùng Thị sáng tạo là một tư

thế bộc lộ đời sống nội tâm của con người và Tuyết Nga đã thấy ở đó bóng dáng

của mình: một sự cô độc dường như tuyệt đối, một cá tính rất riêng, không thể

nhòa lẫn. Lời đề từ cũng chính là tuyên ngôn, là mạch cảm xúc chính của Tuyết

Nga được triển khai trong Hạt dẻ thứ tư.

Tiếng nói tự bạch, tự thú về chính mình cũng được Tuyết Nga thổ lộ qua

nhiều các bài thơ khác như bài Di chỉ, Như đá. Ở bài Di chỉ, không gian được

lấy làm nền cho những dòng cảm xúc, những suy tư của chị về chính mình bật

tuôn là một không gian đầy gai góc, gồ ghề với những đường nét khúc khuỷu,

thiếu êm đềm, phẳng lặng “Con đường gan gà ngọn đồi mòn vẹt cỗ xe long cong

về từ ruộng bạc”, “Độc mộc tận nguồn bốn mùa vượt thác hoa gạo cuối trời bỏ

rừng đỏ mắt”, “Dốc tận đáy lòng mà ngày tới biển sông Lam lửng lơ khép buồn

thiêm thiếp” .

Đứng trước không gian ấy Tuyết Nga tự thú “di chỉ vào ta Niềm Tin tựa

Đá”, “di chỉ vào ta Trái Tim/ tựa Lửa”, “di chỉ vào ta Nỗi Buồn/tựa Nước”.

Không chỉ vậy, Tuyết Nga cũng nhận thấy ở mình là nỗi cô đơn, trống trải

đến tột cùng, tưởng như con người đã không còn trọng lượng trong cuộc viễn du

“ta lạc tận miền vầng trăng nguyệt thực/lang thang lang thang lang thang”.

Trong nỗi cô đơn, trong cuộc viễn du vào tận sâu thắm tâm hồn ấy Tuyết Nga

nhận thấy tâm hồn mình gắn chặt với di chỉ của quê hương “mang trong mình di

chỉ của quê hương”. Đó là tình yêu quê hương sâu lắng, thầm kín của chị dành

cho dải đất miền trung luôn luôn phải đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt như

cơn bão tháng ba ngọn gió Lào tháng bảy.

Ở bài Như đá, điệp khúc trong đoạn đầu bài thơ “Em đã khóc như đá từng

giọt buông thạch nhũ dưới vòm đêm”, “Em đã cười như đá bốn mặt vô tri bốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

55

mặt im lìm” cũng cho thấy một Tuyết Nga tự thú: thì ra cái bề ngoài cứng

cỏi,can trường mà ta vẫn thấy ở chị trong những biểu hiện bề ngoài lại chính là

nơi ẩn dấu cho một đời sống nội tâm mãnh liệt, cho những buồn vui, cười khóc

chưa bao giờ nguôi của chị. Điệp khúc này được nhắc lại gần như nguyên vẹn

trong phần cuối “Em như đá/ từng giọt buông thạch nhũ dưới vòm đêm”, “em

như đá/ bốn mặt vô tri bốn mặt im lìm” nhưng thay vì những so sánh “em đã

khóc như đá”, “em đã cười như đá” là một sự khẳng định ngắn gọn: em và đá là

một. Đá vạn tuổi vẫn đứng khóc cười cho những trò đời thì em cũng đã sống với

nỗi buồn vạn tuổi, kiêu hãnh và không dối lòng mình, (im lặng tức là tự thú).

Trong câu chuyện cổ tích của ngày xưa, để được hạnh phúc cô bé lọ lem

phải cần có 3 hạt dẻ. Và để được cứu rỗi, để được hạnh phúc như mình mong

muốn thì con người trên thế gian này cũng cần có một hạt dẻ- đó là hạt dẻ thứ

tư. Đây cũng chính là lí do Tuyết Nga đem đến cho người đọc Hạt dẻ thứ tư.

Người thiếu phụ có Niềm tin tựa đá, Trái tim tựa lửa và Nỗi buồn tựa nước ao

ước có hạt dẻ thứ tư không phải để cứu rỗi mình khỏi sự nghèo khó về vật chất

hay để được đổi đời mà cứu rỗi với Tuyết Nga là sự vịn níu vào quá khứ, vì với

chị quá khứ vẫn là thứ quả ngon nhất dù rằng nó đã lấy đi của chị không ít nước

mắt. Và vì quá khứ là nơi có hình ảnh của người chồng bao yêu thương của chị.

Vì vậy, để được sống có ý nghĩa hơn trong thực tại chị đã trở về đối thoại với

chồng trong tâm tưởng. Đặc biệt khi nhớ về người chồng đã qua đời, con tim

Tuyết Nga vẫn như đang rỉ máu, nỗi nhớ miên man về chồng trở thành nguồn

cảm xúc mạnh mẽ, duềnh lên trong thơ chị. Tiếng gọi, tiếng hối thúc của ký ức

gói ghém trong lòng bật tung, chị chập chờn như sống giữa thực và ảo. Chính

điều đó đã cho Tuyết Nga cảm hứng để đến với một loạt các bài thơ như Và em

đi qua mùa đông, Quê chồng, Mùa nồng nàn hay Hạt dẻ thứ tư. Ở bài Và em đi

qua mùa đông, cảm xúc tình yêu được đẩy lên cao độ. Người phụ nữ đã sang cái

tuổi năm mươi vẫn cho thấy niềm khao khát, sự tin tưởng mãnh liệt đối với tình

yêu. Tình yêu của anh được ví với “chiếc kén bọc em qua mùa đông” để rồi

những rét buốt, héo úa cũng trở nên vô nghĩa trước sức mạnh của tình yêu.

Chính sức mạnh ấy đã đưa em qua mùa đông “Tình yêu của em/ chiếc kén bọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

56

em qua mùa đông”. Quả là một liên tưởng độc đáo.

Trở về với Quê chồng, khi người chồng đã không còn nữa, trước vạn vật

hiện hữu, giữa trôi chảy của thời gian Tuyết Nga thấy tất cả đều đã mang màu

nâu, màu sậm, chỉ nỗi nhớ chồng là vẫn còn nguyên vẹn:

Đưa em về mà anh đi đâu?

ngơ ngác từng lối cỏ

dắt con lần về ngõ nhỏ

sà vào tiếng của mẹ già.

Tuyết Nga không dấu những nhớ mong khắc khoải về người chồng quá cố, chị

như lạc vào giữa cõi mê:

Tóc chị giờ búi lại sau lưng

tóc mẹ giờ rụng giữa tay cầm

cánh đồng của anh thời thơ dại

đom đóm còn ngủ mê

Ở Mùa nồng nàn, Tuyết Nga liên tục hỏi “anh” những câu hỏi đau đáu

mong chờ “Nếu cánh rừng ấy vẫn còn hoang vu nếu sườn nắng ấy cỏ vẫn thẫn

thờ/ anh có về như gió?/ Nếu con đường ấy gió chưa qua đời nếu ngôi chùa ấy

chuông vẫn buông lời/ anh có về như nắng?”. Những câu hỏi như lật tục miền

ký ức, lật tung những nhớ mong lâu nay chị vẫn ấp ủ, dấu kín trong lòng. Đọc

những câu thơ này của chị ta không khỏi bùi ngùi. Vượt qua những ngày tháng

đau buồn, nay chị nhận ra rằng niềm khát khao, mong nhớ chồng của chị chưa

lúc nào nguôi, nó sưởi ấm trong chị suốt những tháng ngày dài.

Đến Hạt dẻ thứ tư- bài thơ được chị lấy làm nhan đề cho cả tập thơ, chị đã

khẳng định:

Không Người

dù là căn nhà ấm

nước và lửa và mèo con nghịch đất.

Tất cả đều trở nên nhỏ bé, mong manh, vô nghĩa. Và chị đã sải những bước dài

để tìm kiếm bóng dáng, hơi thở của người chồng:

Nhưng trái tim đang đập ở đâu sau lửa, nước và sau tiếng nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

57

sau vầng trán bộn bề sau cái nhìn giông bão

sau chập chờn giấc mơ…

Quả là Tuyết Nga đã gửi vào thơ những điều thầm kín nhất, những điều mà bình

thường có lẽ chị sẽ khó mở lời để nói cùng ai.

Không chỉ tự thú, tự bạch những điều thầm kín nhất trong tâm hồn mình

Tuyết Nga còn trải lòng mình trước những vấn đề của hiện thực đời sống hiện

đại hôm nay qua các bài thơ như Rock, Rơi, Đồng Lucky, Ấn tượng Van Gogh,

U-minh cháy, Về một ngày Thánh Valentine, Búp bê Baby, Nếu những dòng

sông chết, Nhật ký trên máy bay,…

Ở U- minh cháy, Tuyết Nga thấy cái chết của rừng già như hiện hữu trong

từng cành cây, ngọn lá, tiếng chim: « Tro của tiếng chim/ của lá/ của hoa/ rơi lả

tả trong chiều cùng xác nắng/ U- minh cháy/ U- minh đang biến thành cổ tích/

đại ngàn nghẹn ngào thành khói bay đi. »

Và chị đi tìm căn nguyên của cái chết ấy bằng những lời kết tội, những lời

tố cáo gai góc đối với những kẻ phá rừng:

Một bữa ăn của cơn đói

của cái nghèo

hay giác mơ phú quý

hay khô khỏng những tâm hồn hóa đá

đã thiêu nghìn năm thành những tro tàn?

Đồng thời chị không khỏi xót xa cho sự ra đi của U- minh đại ngàn bằng

những tiếng thơ nghẹn ngào:

Ôi U- minh

U-minh

U- minh

rừng đang cháy mà hồn đã bạc.

Nếu không có những dòng cảm xúc mãnh liệt thì có lẽ sẽ khó có được

những câu thơ gai góc và xúc động đến vậy.

Ở Búp bê Baby, đối thoại với cô búp bê xinh đẹp hoàn mỹ nhưng không

biết khóc, không biết cười, không có tâm hồn, tất cả những hành động của búp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

58

bê đều được lập trình sẵn Tuyết Nga không trầm trồ thán phục như người khác.

Ngược lại, chị đã nhận ra sự bất hạnh của búp bê và khẳng định giá trị, hạnh

phúc sống đích thực của cuộc sống con người “không em/ ta làm sao hiểu hết/

hạnh phúc ta da thịt đời thường”.

Một câu hỏi đặt ra là đối diện với cuộc sống muôn màu, muôn vẻ chúng ta

cần phải làm gì? Tuyết Nga đã chỉ ra cho chúng ta một hướng đi, đó là phải trân

trọng hiện tại, nâng niu những gì mình đang có. Chỉ có như vậy chúng ta mới có

thể vượt qua những bão táp, những sang trấn của nhịp sống hiện đại.

* Tiểu kết chương 2: Có thể thấy thơ Tuyết Nga đã thể hiện khá rõ đời

sống nội tâm của người phụ nữ cũng những suy tư, trăn trở của người thi sĩ.

Điểm khác biệt của thơ Tuyết Nga là ở chỗ chị không ồn ào, không phô trương

ngôn từ, không gồng mình lên khi viết về những nỗi đau hay những hạnh phúc.

Lúc nào thơ Tuyết Nga cũng là những vần thơ đẹp, trong sáng, đằm sâu. Thơ chị

gợi lên những thức tỉnh sâu sắc cho người đọc về chính bản thân mình. Tại sao

Tuyết Nga làm được điều đó? Đây là một câu hỏi mà để trả lời đầy đủ, gặn kẽ

còn cần rất nhiều thời gian xong theo tôi một trong những lý do cơ bản nhất là

bởi Tuyết Nga đã cất lên được tiếng nói của những dòng cảm xúc mạnh mẽ nhất,

nhạy cảm nhất và day dứt nhất của chính mình- người thiếu phụ đoan trang và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

59

đức hạnh.

CHƯƠNG 3:

MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT THƠ TUYẾT NGA

3.1. Cấu tứ

Cấu tứ (còn gọi là tứ thơ) là cách khám phá và thể hiện cuộc sống một cách

độc đáo nhất của từng nhà thơ trong từng bài thơ. Đó cũng là cách thức tổ chức

của một tác phẩm nghệ thuật, là phạm trù thẩm mỹ quan trọng của nghệ thuật.

Cấu tứ là thước đo của chất lượng thi ca, khi nó đem lại cho độc giả những hứng

thú và hưởng thụ thẩm mĩ vô hạn, cũng là khát vọng của thực tiễn sáng tạo nghệ

thuật ở mỗi nhà thơ. Cấu tứ là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng tình cảm chủ

quan của tác giả với môi trường cảnh vật khách quan tạo thành hình tượng mang

hàm nghĩa phong phú, khêu gợi trí tưởng tượng của độc giả. Theo nhà nghiên

cứu Phan Ngọc thì về cơ bản có ba cách xây dựng cấu tứ trong thơ. Một là đồng

nhất giữa các mặt đối lập, hai là dùng mặt này nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối

lập, ba là tạo ra các tình huống nghệ thuật chứa đầy mâu thuẫn. Đọc thơ Tuyết

Nga ta sẽ gặp cả ba cách thức xây dựng cấu tứ trên.

Ở hình thức cấu tứ thứ nhất, tức là đồng nhất giữa các mặt đối lập có thể

nhận thấy trong một số bài thơ như Thành thực, Huế, Tĩnh vật. Thành thực là lời

tự thú của cô gái mới lớn trong tình yêu. Một mặt trong cô là những hờn dỗi,

khao khát hạnh phúc nhưng mặt khác trong cô cũng chứa đầy những nỗi lo âu,

những dự cảm không lành về tình yêu. Sự đối lập giữa hai dòng tâm tư ấy tạo

nên tiếng nói tự thú chân thành và rất nữ tính, rất nhân bản của cô gái. Ở bài thơ

Huế thì cấu tứ của nó là sự đối lập giữa hiện tại và quá khứ. Trở về thăm Huế

trong hiện tại nhưng “tôi” lại như sống trong những ký ức của mình về Huế của

quá khứ. Trong miền quá khứ với tiếng gọi của ký ức Huế hiện ra với những kỷ

niệm của một thời thơ ấu nghèo khó và trong trẻo. Còn hiện tại là một Huế thanh

bình, trầm tư và cổ kính. Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại khiến “ tôi” cảm

thấy Huế vừa thân quen lại vừa xa xôi. Đến đây người đọc đã cảm nhận được

tình yêu, sự gắn bó thiết tha của “tôi” đối với Huế đồng thời đó còn là nỗi niềm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

60

hoài cổ đáng quý, đáng trọng.

Hay ở bài Tĩnh vật, Tuyết Nga xây dựng hai không gian đối lập. Một bên là

không gian rộng lớn ở bên ngoài. Ở đó có âm thanh rộn ràng của tiếng chim, có

cuộc sống ồn ào, bề bộn, tấp nập, ngược xuôi:

Cuối con đường lá bay

chíu chít tiếng chim nơi chùm trái cây còn sót

lại dưới khoảng trời bề bộn

tầng thượng đang xây, tháp nước, mái nhà cao

Còn một bên là không gian căn phòng yên tĩnh, vạn vật dường như ngủ

im trong mùa thu:

Khép cánh cửa vào khi sao hôm lên

chỉ còn lại ngọn đèn thân thuộc

……………………………

ý nghĩ lụi dần như ngọn lửa vùi tro

nỗi nhớ thiếp đi mệt mỏi

con nhện trắng ngủ vùi trong góc

bức tĩnh vật mùa thu như một tiếng thở dài.

Cấu tứ đối lập ấy càng tô đậm bức tranh tâm trạng tĩnh lặng, trầm buồn của

nhân vật trữ tình.

Tuy nhiên, phổ biến hơn cả trong thơ Tuyết Nga vẫn là cách xây dựng cấu

tứ theo hướng thứ hai, tức là dùng mặt này để nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối

lập. Tiêu biểu cho dạng cấu tứ này là các bài Đổi mùa, Bão, Hương cỏ, Sao

Thần Nông, Con gái của mẹ, No-en 1987, Sự sống, Hoa tầm xuân, Ảo giác 1,

Nhật ký, Ký ức, Bản nháp, Về một ngày Thánh Valentine, Di chỉ, Như đá, Và em

đi qua mùa đông, U-minh cháy.

Trong bài thơ Đổi mùa, quan sát những bước đi của thời gian qua sắc tím

của những đám mây, sắc vàng của lá cây, âm thanh của tiếng chim, không gian

trầm lắng vắng bóng cái oi nồng của mùa hạ và qua cái lặng im lững lờ của dòng

sông Tuyết Nga chợt nhận ra sự vô tâm của mình bấy lâu và đến đây tâm hồn thi

sĩ như được đánh thức, biết nhận lỗi trước thời gian“ trái tim xin nhận tội/ nếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

61

mai này nguôi, quen”. Như vậy, bài thơ được cấu tứ theo kiểu dùng mặt này để

nói mặt kia. Thiên nhiên, vạn vật tưởng như vô tri, vô giác nhưng thực tế lại gắn

bó rất mật thiết với cuộc sống. Còn con người, con người vốn được xem là chủ

thể của thiên nhiên, của sự sống thì lại hững hờ, vô tâm trước thời gian và sự

sống. Khi được thiên nhiên lay thức thì con người mới ý thức được sự tồn tại, sự

hiện diện và trách nhiệm của mình đối với cuộc sống. Cấu tứ của bài thơ đã hàm

chứa một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Một điều thú vị dễ nhận thấy trong trang thơ Tuyết Nga là rất nhiều bài thơ

được chị xây dựng theo cấu tứ đối lập giữa hiện tại và quá khứ, nói cách khác là

hiện tại và ảo giác. Quá khứ, ảo giác thường gắn liền với những vết xước còn

tươi mới, với nỗi buồn còn hiện tại thì thường mang màu héo úa. Và Ký ức là

trường hợp tiêu biểu đầu tiên trong số đó. Ở đây Tuyết Nga đã nhắc tới ký ức

với “một cơn mưa mười lăm năm chưa tạnh” và “một mùa đông mười lăm năm

còn lạnh” và cả “Cẩm chướng 5 màu tuổi 17 thơ ngây/ và con dế ngủ quên

trong nhà gương dị dạng/ bạn cùng ta lang thang trong gió lạnh/ khóc cho trò

chơi cuối cùng”. Nó đối lập với hiện tại “trên môi bạ đã nụ cười thiếu phụ”. Sự

đối lập giữa quá khứ và hiện tại đã khẳng định một điều rằng với Tuyết Nga quá

khứ, ký ức là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chị. Chị nâng niu,

trân trọng quá khứ, buồn vui cùng quá khứ và trên hết quá khứ là nơi vin tựa để

chị trở về sau biết bao thăng trầm của hiện tại. Trong Viết ở Phố Hiến, đứng

trước Phố Hiến của hiện tại tươi đẹp, trù phú “Phố Hiến giờ mướt mát những

vườn cây/ tằm đẫy trên nong/ ong trong vòm nhãn/ sen nở trên đầm, người cấy

cày trên đất/ gió thì thầm nơi những rặng vải xanh” Tuyết Nga không khỏi hồi

tưởng và nhớ lại một Phố Hiến huy hoàng xưa kia “bến cảng phập phồng hơi

biển/ cánh buồn viễn du mệt mỏi ngủ vùi”. Sự đối lập giữa cái cũ và cái mới tạo

cho Tuyết Nga nhận ra một sự thật, một chân lý “rồi một mai ngôi nhà đang xây

kia sẽ lại là di tích/ ta cũng thành một quá khứ xa xăm…”. Sự đối lập giữa cái

mất và cái còn cũng đem đến cho người đọc cảm nhận về chân dung một con

người bình thản trước cuộc sống, biết chấp nhận các quy luật nghiệt ngã của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

62

cuộc sống. Chân dung con người ấy chính là Tuyết Nga.

Cũng nằm trong cấu tứ đối lập giữa hiện tại và ảo giác là trường hợp của

Con gái của mẹ. Ở bài Con gái của mẹ bao trùm lên toàn bài thơ là nỗi nhớ mẹ,

là tình yêu thương, sự kính trọng của cô gái dành cho mẹ. Là tiếng nói của tình

mẫu tử thiêng liêng. Thi tứ ấy được triển khai qua hai hình ảnh đối lập là mẹ của

quá khứ và con gái mẹ bây giờ. Con gái của mẹ bây giờ là con người sôi nổi,

vụng về, nông nổi, vô tư, yêu đời và đa cảm “ như cơn mưa rào nông nổi tháng

tư/ như bông xi xanh vụng về tháng tám/ không dấu nổi yêu thương qua lặng

thầm ý tứ/ giọt nước mắt buồn lăn qua hai bàn tay”. Còn người mẹ thì tần tảo,

khéo léo. Sự đối lập này càng làm tăng nỗi nhớ mẹ da diết cũng như sự kính

trọng, cảm phục của con gái dành cho mẹ. Cũng trong chùm thơ viết về mẹ theo

tiếng gọi của ký ức, theo cấu tứ đối lập giữa quá khứ, ảo giác và hiện tại là bài

Hoa tầm xuân. Trong hiện tại, hình ảnh của nụ tầm xuân xanh lặng lẽ trong

chiều, nó dẫn dắt “ta” trở về với một miền ký ức xa xôi mà như mới qua. Ký ức

ấy gắn liền với hình ảnh người mẹ và câu chuyện về cuộc đời, thân phận của

mẹ- một cuộc đời lam lũ, vất vả, thầm lặng hy sinh vì chồng, vì con “Và Mẹ đã

dấu hoa cùng với giọt nước mắt ở đâu để nuôi ta khôn lớn?”. Chính sự đối lập

ấy đã góp phần nói lên nỗi nhớ mẹ da diết của nhà thơ. Tiếng nói của tình mẫu

tử thiêng liêng lại một lần nữa được cất lên thiết tha, sâu lắng. Có thể vì vậy mà

rất nhiều người yêu thơ đã thuộc và thích bài thơ này của chị.

Không chỉ đối lập giữa quá khứ và hiện tại, cấu tứ trong thơ Tuyết Nga còn

được triển khai theo hướng đối lập giữa tình yêu và những cô đơn, tham lam,

khổ đau. Đó là trường hợp của Ảo giác 1. Ảo giác 1 là câu chuyện tình yêu lãng

mạn và giàu ý nghĩa nhân sinh với một cốt truyện đơn giản: “Rong chơi khoác

chiếc áo Cô đơn phong phanh gió lạnh/ lang thang trước ngõ nhà em”, “Tham

lam sụp chiếc mũ Khổ đau/ co ro nép vào cánh cửa nhà em”. Nhưng rồi trước

“ngọn lửa niềm tin vừa cháy sáng” thì cả Rong chơi và Cô đơn đều thất bại.

“Rong chơi đã khoác mình lên giá”, “Tham lam tự treo mình lên chiếc đinh

lạnh buốt”. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở chỗ tác giả đã xây dựng thành

công cấu tứ theo kiểu dùng mặt này để nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối lập. Đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

63

là sự đối lập giữa một mặt là tình yêu và một mặt là cô đơn, tham lam, rong

chơi, từ đó khẳng định sức mạnh chiến thắng của tình yêu trước tất cả. Tiếng nói

ngợi ca tình yêu được cất lên gián tiếp nhưng sâu sắc và ý vị.

Cũng trong thơ Tuyết Nga, có khi ta bắt gặp lối cấu tứ theo kiểu tạo ra các

tình huống nghệ thuật chứa đầy mâu thuẫn. Đáng chú ý nhất của lối cấu tứ này

là bài Ảo giác 2. Tình huống được giả định, được đặt ra là một cảnh đám cưới.

Theo nếp nghĩ, nếp sống của người Việt thì đám cưới thường là một cái kết có

hậu, là kết quả của tình yêu đã đến độ chín. Ở đó, hạnh phúc luôn tràn ngập và

người trong cuộc là những người hạnh phúc nhất, còn những người đến dự sẽ là

những vị khách đặc biệt đến để chung vui, để chúc phúc. Thế nhưng ở đây, ta lại

bắt gặp những điều ngược lại: hạnh phúc, niềm vui mong manh, nhỏ bé và chứa

đầy bất trắc, người trong cuộc là người chán đời, bất lực và tuyệt vọng trước

cuộc sống. Những người đến dự đám cưới lại là những người kỳ lạ:

Trong đám cưới của người bạn bị bạc tình

hạnh phúc

như tờ lịch được đóng đinh

em là một thứ cây không lá

Và em thấy mọi người là loài chim cụt cánh

trong bữa tiệc của người bạn chán đời

nơi niềm vui

như đồng tiền giật tạm.

Đó là một tình huống nghệ thuật chứa đầy mâu thuẫn. Qua tình huống này

ta nhận ra một điều rằng cuộc sống muôn màu và nhiều khi nó chỉ như một giấc

mơ mang màu ảo giác. Cũng qua tình huống này ta thấy được nỗi buồn sâu sắc,

sự hoài nghi của nhà thơ về cuộc sống.

Hay tình huống người thiếu phụ dắt con nhỏ về quê chồng trong bài Quê

chồng cũng là một tình huống nghệ thuật chứa đầy mâu thuẫn. Lần theo con

đường làng quê nghèo, qua cánh đồng, cầu ao trong chiều sậm bóng, người thiếu

phụ cùng đứa con nhỏ trở về ngôi nhà thân thương nơi có mẹ già trông ngóng.

Thê nhưng đau đớn thay, vạn vật như vẫn in bóng dáng người chồng nhưng người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

64

chồng thi đã vĩnh viễn đi xa “Đưa em về mà anh đi đâu? Ngơ ngác từng lối cỏ/

dắt con lần về ngõ/ sà vào tiếng của mẹ già”. Người thiếu phụ như sống trong

cơn mộng du đầy ảo não. Tình huống nghẹn ngào xúc động này càng tô đậm nỗi

đau cũng như nỗi nhớ chồng da diết, khôn nguôi trong lòng người thiếu phụ.

Qua đây chúng ta có thể thấy rằng cấu tứ trong thơ Tuyết Nga khá phong

phú và đa dạng. Qua cấu tứ nghệ thuật ta thấy được bức chân dung tinh thần con

người chị với cả hai chiều hạnh phúc và khổ đau. Đồng thời với Tuyết Nga quá

khứ, ký ức và tình yêu cũng chính là những dòng chảy xuyên suốt trong thơ.

3.2. Thi ảnh

Trong thi ca thi ảnh có vai trò rất quan trọng. Dù chỉ là những hình ảnh ảo,

hình ảnh trừu tượng của sự vật do ngôn ngữ văn chương tạo nên song chúng cho

phép người đọc mường tượng được những hình ảnh mà thi sĩ tạo nên. Còn đối

với thi sĩ, thi ảnh là nơi chứa đựng tư tưởng, tình cảm cũng như quan niệm của

anh ta về cuộc sống. Một tác phẩm thi ca thành công ít nhất cũng phải là một tác

phẩm có chứa trong mình những thi ảnh có giá trị. Người xưa thường nói “ thi

trung hữu họa” (trong thơ có họa), tức là xem tính họa là một tiêu chí để định

giá giá trị của một tác phẩm thi ca.

Trở lại với văn học Việt Nam hiện đại, theo nhà nghiên cứu Đặng Thu

Thủy thì thi ảnh trong thi ca đang đi theo hai xu hướng cơ bản là xây dựng thi

ảnh theo lối cực thực và siêu thực, ẩn dụ và biểu tượng. Việc xây dựng thi ảnh

theo hướng nào là do quan niệm của nhà thơ về mối quan hệ giữa thơ ca và hiện

thực đời sống. Ví như hình ảnh cực thực xuất phát từ quan niệm hiện thực như

thế nào thì đi vào thơ sẽ như thế, hình ảnh siêu thực xuất phát từ quan niệm đưa

thơ đi về phía ảo, chạm tới chiều sâu của tâm thức. Các tác giả tiêu biểu cho xu

hướng đưa vào thơ những hình ảnh siêu thực là Chế Lan Viên, Hoàng Cầm. Và

đọc thơ Tuyết Nga ta cũng thấy thơ chị đang đi theo xu hướng đi sâu vào cõi ảo,

vào thế giới ảo giác, bởi vậy thi ảnh trong thơ chị cũng đi theo xu hướng siêu

thực. Xu hướng ấy đã tạo cho thi ca Tuyết Nga hệ thống thi ảnh có khả năng gây

ám ảnh và có sức ám gợi bề sâu. Đồng thời hệ thống thi ảnh trong thơ chị cũng

rất phong phú và đa dạng, gồm cả những thi ảnh thuộc về thế giới tự nhiên và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

65

những thi ảnh thuộc về đời sống con người.

* Hình ảnh thiên nhiên

Tuyết Nga không làm thơ để tả thiên nhiên mà thiên nhiên là cái cớ, là

khôn gian nghệ thuật để chị tự bạch, tự thú. Tuy vậy, qua những trang thơ tự

bạch, tự thú ta đã bắt gặp hình ảnh thiên nhiên với mây, gió, nằng, trăng, hoa,

núi non, bãi cát, sông nước, biển cả, cánh đồng, bình minh, hoàng hôn. Và tất

thảy thiên nhiên ấy đều gần gũi, đẹp và mang tâm trạng, mang đường nét, màu

sắc siêu thực.

Đầu tiên ta có thể kể đến hình ảnh của đại ngàn, cánh đồng, đáy vực sâu

trong Bản nháp:

Ánh mắt của đại ngàn vạn tuổi vách đá thâm u ánh lửa cháy rừng

vòm ngực của cánh đồng vô tận tiếng hú dài hoang lạnh hoàng hôn

cánh tay những vòng ôm của sóng đáy vực sâu nhòa lẫn những chân trời.

Đại ngàn, cánh đồng, đáy vực được nhìn theo không gian đa chiều, là hình

ảnh đa chiều với những hình khối, với những âm thanh gợi sự hoang vu, gợi sự

sâu thẳm, mênh mông. Và dường như Tuyết Nga đang ném vào không gian ấy

cái nhìn hun hút, cái nhìn bằng sâu thẳm trái tim của con người từng trải, con

người đã qua những thăng trầm, biến động dữ dội của cuộc đời vẫn khao khát

yêu thương. Bởi vậy những đường nét gồ ghề, góc cạnh, cường tráng, vạm vỡ

của đại ngàn, của vách đá hay vực sâu ở đây còn gợi cho chúng ta liên tưởng

đến thân thể cường tráng, vạm vỡ của một người đàn ông.

Đặc biệt, đến với thơ Tuyết Nga quê hương cũng là một hình ảnh luôn hiện

lên với sức ám ảnh rất lớn. Có khi là quê hương miền Trung đầy nắng, gió, bão

lũ và nghèo khó nơi chị đã sinh ra và lớn lên:

- Ơi miền Trung miền Trung

mùa thu về bão lũ

trời chẳng kịp heo may

lá xanh nào rụng xuống.

(Tháng chín)

Đó cũng có khi là hình ảnh của những con đường, ngọn đồi nhọc nhằn, khô cằn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

66

đầy sỏi đá trong Di chỉ : “Con đường gan gà ngọn đồi mòn vẹt cỗ xe long cong

về từ ruộng bạc”. “Con đường gan gà” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh của

những con đường nhỏ bé, nâu sạm, heo hút. “Ngọn đồi mòn vẹt” gợi sự hao

mòn, “cỗ xe long cong” cũng gợi sự nhỏ bé, khô khỏng. Tất cả lại được đặt bên

ruộng bạc. Các sự vật được chị đặt cạnh nhau trong một chuỗi hồi tưởng khiến

hình ảnh thơ như đi từ cõi thự đến cõi ảo, đi từ cái hiện tồn đến cái hư vô. Ngay

cả ở hình ảnh “Độc mộc tận nguồn bốn mùa vượt thác hoa gạo cuối trời bỏ rừng

đỏ mắt” hay “Dốc tận đáy lòng mà ngày tới biển sông Lam lửng lơ khép buồn

thiêm thiếp” thì thiên nhiên, quê hương như đã thoát thai từ cõi thực đi vào cõi

mơ. Trong tiếng lòng Tuyết Nga, chị cũng thường trở về với quê hương của

người chồng đã khuất:

Vệt bùn

vết nhăn ký ức

tấm lưng trần làng quê

(Quê chồng)

Các liên tưởng gợi hình ảnh về một quê chồng nghèo khó của ngày nào nay hiện

về qua dòng ký ức, qua tấm gương tâm hồn nhà thơ.

Nhìn chung, Tuyết Nga đã tái hiện những vùng đất thân thương trong trái

tim mình bằng những nhớ thương đong đầy thổn thức, bằng những ám ảnh ray

rứt khôn nguôi và bằng cả những ký ức của quá khứ nhưng vẫn còn nguyên vẹn

và tươi mới. Vì vậy trong lời nhắn nhủ với những ngày sắp tới, Tuyết Nga vẫn

không thôi khát khao:

Thèm đóng gói được mùi đất ải cánh đồng hoàng hôn chim ngói bời bời

đóng gói được dáng con đò uể oải

cả lối mòn phơ phất bóng cau.

(Nhật ký cuối thế kỷ)

Xưa nay người ta chỉ đóng gói được dáng hình của sự vật, ấy là cánh đồng,

là dòng sông, là con đò, còn đóng gói “ mùi đất ải”, “ dáng con đò uể oải”, “

lối mòn phơ phất bóng cau” thì quả là một ước vọng táo bạo. Và với Tuyết Nga

quan trọng là đóng gói chính là cách riêng để chị níu giữ hình ảnh quê hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

67

mãi bên mình. Đóng gói cũng là cách để chị lưu giữ và khẳng định rằng tất thảy

vẫn thuộc về mình. Con người Tuyết Nga táo bạo và tham lam quá chăng? Hoàn

toàn không phải thế. Đến đây, chúng tôi vẫn xin được nhắc lại một nhận định

quen thuộc khi đọc thơ Tuyết Nga, đó là Tuyết Nga luôn gắn bó máu thịt, mật

thiết với quá khứ. Chị làm thơ theo tiếng gọi của ký ức. Và trong những gì thuộc

về ký ức của người đàn bà đa đoan này thì quê hương là một trong những phần

rõ nét nhất, chưa bao giờ phai nhạt. Bởi vậy gắn bó với quê hương Tuyết Nga đã

gắn bó theo thời gian ba chiều: quá khứ- hiện tại- tương lai.

* Hình ảnh trái tim

Trở đi trở lại trong rất nhiều những trang thơ của Tuyết Nga là hành ảnh

trái tim.Theo khảo sát của chúng tôi, trong tổng số 67 bài thơ của 3 tập thơ Viết

trước tuổi mình, Ảo giác và Hạt dẻ thứ tư thì Tuyết Nga đã có tới 20 bài thơ với

tổng số 25 lần nhắc tới hình ảnh trái tim. Một điểm dễ nhận thấy là ở đây Tuyết

Nga đã tái hiện hình ảnh trái tim không bao giờ đơn giản là trái tim sinh học

thông thường mà lúc nào nó cũng là một sinh thể có hồn, đại diện cho tâm hồn,

cho thế giới tinh thần của nhân vật trữ tình.

Trong tập thơ đầu tay Viết trước tuổi mình, Tuyết Nga đã có những câu thơ

rất hay, rất sôi nổi, khắc họa sinh động hình ảnh trái tim của người con gái khi

yêu. Đó là trái tim thổn thức,thiết tha, rạo rực, miệt mài, sống hết mình với tình

yêu trong Hương cỏ “Trong tận cùng năm tháng/ trong tận cùng xa cách/ tim

vẫn bồi hồi đập/ nhịp tình yêu miệt mài”. Có thể thấy đây là một lời khẳng định

dứt khoát. Trái tim vừa được nhân hóa, vừa được hoán dụ tượng trưng cho chính

tâm hồn cô gái mới lớn. Cô dám sống hết mình với tình yêu, sự thủy chung,

mạnh mẽ trong tình yêu của cô dường như đang muốn vượt ra khỏi những giới

hạn thông thường của thời gian và không gian. Đọc những câu thơ này của

Tuyết Nga chúng tôi lại liên tưởng, nghĩ đến những câu thơ trong Sóng của nữ sĩ

Xuân Quỳnh:

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

68

Hướng về anh một phương

Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa Tuyết Nga và Xuân Quỳnh là ở chỗ Tuyết

Nga đã xây dựng hình ảnh trái tim không ồn ào mà rất trầm tư. Đây cũng là

điểm tương đối thống nhất trong việc xây dựng thi ảnh của thơ Tuyết Nga.

Và cũng trong thơ Tuyết Nga chúng tôi còn bắt gặp hình ảnh của trái tim

tràn đầy hy vọng, tin yêu vào cuộc sống và tình yêu “Tim lặng lẽ như trái vàng

trong cỏ/ rụng xuống rồi, một sớm lại hồi sinh” (Sự sống).

Tuy nhiên, đa phần trái tim trong thơ chị thường gắn liền với những nỗi

buồn, những mất mát, cô đơn hoặc những nỗi đau âm thầm. Ở Không đề 1- một bài

thơ được viết theo dòng cảm xúc buồn và cảm hứng về sự cô đơn tác giả viết:

Tưởng có thể vùi sâu vào giấc ngủ

trái tim buồn như một trái cây rơi

Tuyết Nga đã vận dụng thành công nghệ thuật nhân hóa cùng phép so sánh lấy

cái trừu tượng để so sánh với cái trừu tượng, tức là lấy nỗi buồn của trái tim để

so sánh với nỗi buồn của trái cây rơi, do đó mà người đọc hình dung ra được nỗi

buồn của trái tim: trong khoảnh khắc cuối ngày của mùa xuân trái tim đang

mang trong mình nỗi buồn của sự chia xa, mất mát, của sự héo úa, tàn lụi và rất

nhỏ bé, cô đơn.

Trở lại với Ảo giác 2- bài thơ được gợi hứng từ một đám cưới không tình yêu,

Tuyết Nga đã có những câu thơ kết gây ám ảnh sâu sắc cho người đọc như sau:

Lời ta là những mảnh thủy tinh rơi mãi

trái tim co ro nhón gót hãi hùng

máu rỏ xuống âm thầm kỷ niệm

những giọt màu rong rêu.

Theo dõi toàn bộ hệ thống thi ảnh thơ Tuyết Nga chúng tôi thấy một điều:

có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi chị xây dựng thi ảnh có hành động

tương đối cụ thể và rõ ràng. Qua sự miêu tả với động từ “co ro” trái tim đã hiện

hữu cùng sự nhỏ bé, cùng nỗi sợ hãi như muốn trốn chạy trước thực tại. Tuy

vậy, lời thơ vẫn âm thầm, ngôn từ của Tuyết Nga đã không gồng mình lên để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

69

miêu tả nỗi đau một cách quá khổ như thông thường.

Và đi suốt các tập thơ của Tuyết Nga chúng tôi còn bắt gặp rất nhiều hình

ảnh trái tim với nỗi buồn ám gợi như thế. Có thể kể đến ở đây như:

- Trái tim cháy phía ngút ngàn lặng im niềm tin đã đứng đến mòn sóng

xanh. (Di chỉ)

- tim đã mất trí nhớ

ẩn ức có cầm tay dắt lần về ngày cũ

sẽ không còn dấu nữa.

(Tự khúc)

- Nhưng trái tim đang đập ở đâu sau lửa, nước và sau tiếng nói

sau vầng trán bộn bề sau cái nhìn giông bão

sau chập chờn giấc mơ.

(Hạt dẻ thứ tư)

Đâu là nguồn cội để Tuyết Nga dệt nên những trái tim ấy? Hẳn là chị đã

thao thức cùng nhịp đập con tim, đã đau đớn, buồn vui và trên hết là chị đã sống

cùng những gì sâu thẳm, khuất lấp nhất của trái tim, của tâm hồn. Qua hình ảnh

những trái tim đầy ám ảnh ta cũng đọc được nỗi buồn dịu dàng, ngọt ngào mà

đằm sâu của trái tim người thi sĩ Tuyết Nga.

* Hình ảnh Anh

Hầu hết các bài thơ viết về tình yêu của Tuyết Nga đều xuất hiện hình ảnh

anh. Tuyết Nga không miêu tả anh với những hình hài cụ thể, với tiếng nói và

những bước đi cụ thể mà anh thường xuất hiện qua lăng kính của tình yêu, mang

màu sắc lý tưởng hóa và mang dấu hiệu của những “ ảo nhân”:

Anh hiện ra như lối rẽ đường đi

đột ngột chia chân trời thành hai ngả

(Viết trước tuổi mình)

Như phần trên chúng tôi đã nói, để diễn tả cảm xúc của mình khi anh xuất

hiện, Tuyết Nga không dùng một tính từ nào để chỉ cảm xúc mà chị diễn tả cảm

xúc ấy qua sự so sánh. Anh được so sánh với lối rẽ đường đi hay một con đường

mới, qua đó thể hiện tâm trạng phấn khởi, hồi hộp nhưng cũng không khỏi ngập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

70

ngừng, lo âu của người con gái. Đó là những nét tâm lý chung dễ thấy ở bất kỳ

người con gái nào khi yêu nhưng điểm đáng nói là ở Tuyết Nga, chị có một

niềm tin mạnh mẽ vào anh. Bởi vậy, sau những đấu tranh tâm lý, người con gái

ấy vẫn quyết định “thôi em tin cùng anh, niềm tin can đảm ấy”. Cái cách nói của

Tuyết Nga rõ ràng là khá kín đáo và tế nhị. Và cách nói ấy ta còn gặp ở bài Và

em đi qua mùa đông- một bài thơ mà dòng cảm xúc bất chợt được đẩy lên cao

độ. Dù vậy, trong lời thơ chị vẫn cẩn trọng, thì thầm “Tình yêu của anh chiếc

kén bọc em qua mùa đông/ chới với bên ngoài/ niềm khắc khoải của chiếc lá úa/

nỗi âu lo những mầm cây lỡ cược với mùa màng” hoặc như ở bài Không đề 2 “

Anh bước vào ngày thu em bỏ ngỏ tự tin gom lại những úa vàng/ tự tin gieo một

miền xao động/ kiên nhẫn chờ mùa lãng đãng qua”. Liên tục những lời khẳng

định, những niềm tin tưởng lớn của em dành cho anh. Anh hiện lên thân thuộc,

gần gũi, giản dị nhưng lại rất đẹp. Anh cũng mang lại cho em những niềm tin,

những sức mạnh để chiến thắng trong cuộc sống. Khẳng định sức mạnh tình yêu

của anh cũng chính là tiếng nói tin tưởng vào anh. Đến đây, ta gặp ở Tuyết Nga

cách nói êm mượt, đồng điệu với Xuân Quỳnh ở Nói cùng anh “Em hiểu rằng

mỗi lúc đi xa/ tình anh đối với em là xứ sở/ Là bóng rợp trên con đường nắng

lửa/ Trái cây thơm trên miền đất khô cằn” xong cả Xuân Quỳnh và Tuyết Nga

đều không xô bồ, ào ạt, không thi vị hóa và tuyệt đối hóa anh theo màu sắc dục

tính mà Vi Thùy Linh nói “Và Anh đến, người đàn ông duy nhất yêu em như

hằng muốn/ Bởi vì Anh, em được trở thành em” (23 tháng 3, nơi ánh sáng).

Mặt khác, anh đôi khi cũng xuất hiện trong sự khao khát kiếm tìm, nhớ

mong đong đầy của người con gái“Nếu cánh rừng ấy vẫn còn hoang vu nếu

sườn nắng ấy vẫn còn thẫn thờ/ anh có về như gió?/ Nếu con đường ấy gió chưa

qua đời nếu ngôi chùa ấy chuông vẫn buông lời/ anh có về như nắng?”(Mùa

nồng nàn).

Cũng có khi anh trong thơ Tuyết Nga xuất hiện với những nỗi buồn, những

cô đơn và cả những do dự, những bất trắc “hệt như em đang nghe trong màu

đen mắt anh/ nỗi cô đơn rên rỉ/hệt như em đang thấy sau tiếng cười và những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

71

lời đùa tếu của anh/ một nỗi buồn ẩm mốc” (Lập thể). Tuy nhiên, đó chỉ là

những hình ảnh hiếm hoi. Và nó cho thấy cái nhìn đa chiều của em khi nghĩ về

anh, đưa anh trở lại với cuộc đời gần gũi, thường nhật.

Tóm lại, thế giới thi ảnh của Tuyết Nga là những hình ảnh gần gũi trong

cuộc sống đời thường, đó là thiên nhiên, là trái tim và đó còn là anh. Qua thế

giới thi ảnh ấy ta cảm nhận được tâm hồn rộng mở và trái tim nhiệt huyết của

Tuyết Nga hướng về cuộc đời. Và thế giới thi ảnh ấy cũng góp phần khẳng định

một điều : với Tuyết Nga thơ chính là cuộc đời và chị làm thơ là để bày tỏ chứ

không phải để chứng tỏ.

3.3. Các biện pháp tu từ

Để tạo ra thế giới nghệ thuật của riêng mình các nhà thơ thường sử dụng

các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ,...Tùy theo sở trường

của mình mà mức độ vận dụng các biện pháp ấy của mỗi nhà thơ thường không

giống nhau. Và Tuyết Nga cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Chị đã

vận dụng một cách linh hoạt các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để

làm phong phú, sinh động cho thế giới hình tượng trong thơ mình.

3.3.1. Biện pháp so sánh

Là biện pháp nghệ thuật được Tuyết Nga sử dụng nhiều nhất. Theo khảo sát

của chúng tôi, trong số 67 bài thơ của ba tập có tới 34 bài với trên 70 lần Tuyết

Nga sử dụng nghệ thuật so sánh, chủ yếu là dùng với từ để so sánh « như ».Các

so sánh, liên tưởng độc đáo trong thơ chị có thể chia làm các tiểu loại nhỏ sau :

* Lấy cái cụ thể để so sánh với cái cụ thể để tạo cho hình ảnh thơ sự gần gũi,

quen thuộc và tạo nên trường liên tưởng rộng hơn, phong phú hơn :

- Anh hiện ra như lối rẽ đường đi

đột ngột chia chân trời thành hai ngả

(Viết trước tuổi mình)

Sự xuất hiện đột ngột của anh trong thế giới của em ngay lập tức đã làm thay

đổi tất cả. Sự xuất hiện ấy được tác giả so sánh với sự xuất hiện của một con

đường mới. Sự so sánh này đã nói lên biết bao điều trong tâm trạng, tâm hồn của

người con gái mới lớn. Vừa bất ngờ, vui mừng, vừa như có cái gì đó còn e ngại.

Câu thơ vì vậy cũng trở nên đẹp hơn, mang đậm màu sắc nữ tính hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

72

Hoặc như hình ảnh so sánh trong Hoa tầm xuân :

- Rặng tầm xuân lặng lẽ tự bao giờ

xanh đơn giản và cũ càng

như đất.

Ở đây sự hiện hữu âm thầm và sắc xanh bền bỉ của những bông hoa tầm xuân

được Tuyết Nga so sánh với hình ảnh của đất. Kiểu so sánh liên tưởng này có

cái gì đó gần gũi với những so sánh liên tưởng xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên

(Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét). Sự so sánh ấy đã kéo hình ảnh của

những bông hoa tầm xuân vốn ít nhiều đã từng xuất hiện trong ca dao trở nên cũ

kỹ hơn, đượm màu cổ tích hơn, từ đó tạo cho nhà thơ một không gian mở hồ và

vì vậy cái thế giới ảo trong thơ chị được hiện về một cách tự nhiên và duyên

dáng. Sự so sánh độc đáo này còn cho người đọc thấy được sự thông minh, nhạy

cảm và rất đa cảm của chủ thể trữ tình hay của chính nhà thơ.

Và đọc thơ Tuyết Nga chúng ta còn gặp rất nhiều các so sánh, liên tưởng có

cùng mô típ so sánh này :

- Chùm sao xanh như những trái nho non

Như chuỗi tiếng chim hoàng hôn vương vãi.

(Sao Thần Nông)

- Em đã khóc như đá từng giọt buông thạch nhũ dưới vòm đêm

(Như đá)

- Nghi lễ miền tháp cổ dóng chuông trên đỉnh ngày

râm ran như tiếng dế lời tạ từ ban mai

(Rơi từ thơ Exênhin)

..........................

* So sánh cái trừu tượng với cái cụ thể từ đó làm rõ đặc điểm hình dáng, đường

nét, màu sắc của cái trừu tượng, khiến cái trừu tượng được nói đến trở nên gần

gũi hơn, dễ nắm bắt hơn :

- lời ta là những mảnh thủy tinh rơi mãi

trái tim co ro nhón gót hãi hùng

máu rỏ xuống âm thầm kỷ niệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

73

những giọt màu rong rêu.

( Ảo giác 2)

Những mảnh thủy tinh rơi mãi gợi cho ta cảm giác về sự lạnh lùng và về cả

những tan vỡ, mất mát. Vì vậy khi Tuyết Nga so sánh “lời ta là những mảnh

thủy tinh rơi mãi” thì ta như cảm nhận rõ hơn nỗi đau, những mất mát hiện hữu

trong lời nói vô hình của những người trong cuộc khi có mặt trong một đám

cưới không tình yêu, đám cưới bạc bẽo của tình người, tình đời.

Kiểu so sánh này đã được Tuyết Nga vận dụng khá thành công trong nhiều

bài thơ khác như “ Rồi một ngày như đá/ phong rêu trơ trọi lối mòn” (Rồi một

ngày...), “ Trái tim buồn như một trái cây rơi” (Không đề 1), “ Trong đám cưới

của một người bạn bị bạc tình/ hạnh phúc như tờ lịch được đóng đinh” (Ảo giác

2), ...

* So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng để mờ hóa cảm xúc của chủ thể trữ

tình về thế giới.

Trong Ký họa, để khắc họa bức chân dung người thiếu phụ lặng lẽ và âm

thầm Tuyết Nga đã sử dụng cái nhìn ngược sáng của điện ảnh. Và ở những câu

thơ cuối nhằm mờ hóa hình ảnh người thiếu phụ chị đã viết “Thiếu phụ đi/ như

một ánh sao ngày/ màu thời gian bạc con đường cỏ mọc”. Quả thực hình ảnh

người thiếu phụ ở đây giống như một ảo nhân. Đồng thời phép so sánh độc đáo

trên đã góp phần tạo cho hình ảnh người thiếu phụ vẻ đẹp bí ẩn và lộng lẫy, tạo

những trường liên tưởng rộng hơn, sâu hơn cho người đọc. Cái hay, cái độc đáo

của thơ Tuyết Nga chính là ở điểm này. Chị thường gợi nhiều hơn tả, bởi vậy

thơ chị nghiêng về siêu thực hơn là hiện thực.

Ở Ấn tượng Van Gogh khi miêu tả ngôi nhà của người đàn ông Tuyết Nga

cũng có những so sánh, liên tưởng độc đáo:

Cánh đồng hoa vàng

ngôi nhà người đàn ông như hốc mắt tăm tối

trú ngụ

những ước muốn héo úa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

74

những giấc mơ qua thì.

Ngôi nhà vốn là một vật thể cụ thể tồn tại trong không gian với những chiều

kích, hình dáng cụ thể của nó. Vậy mà ở đây, Tuyết Nga đã táo bạo so sánh hình

ảnh của ngôi nhà với hốc mắt tối tăm. Và ẩn chứa trong đó biết bao là bí ẩn, bí

mật. Người đọc dường như bị lôi kéo vào một thế giới của những ảo giác, những

suy tưởng day dứt mãi không thôi. Có lẽ chính những điều này đã khiến thơ

Tuyết Nga có một chỗ đứng riêng trong lòng độc giả.

* So sánh cái trừu tượng với cái trừu tượng để tạo ra những trường liên

tưởng mới cho cảm xúc. Phương thức so sánh này cũng là một yếu tố làm nên

đặc sắc trong thơ Tuyết Nga. Trong bài thơ Trên con đường mùa đông Tuyết

Nga đã sử dụng nghệ thuật so sánh này:

- Dẫu vậy

em tin

tình yêu đang thở bình yên

Dối gian tan như dịch cúm không cần tới thuốc

đừng đập vỡ ký ức.

Ở đây, quả thực Tuyết Nga có trường liên tưởng khá độc đáo: “Dối gian tan

như dịch cúm không cần tới thuốc/ đừng đập vỡ ký ức.” Từ sự so sánh, liên

tường này người đọc đã cảm nhận được một điều, đó là sức mạnh của tình yêu.

Tình yêu như một cơ thể sống cường tráng ,có một sức mạnh nội tại, một sức

mạnh kháng thể làm tê liệt, làm tan những dối gian trong cuộc sống. Ngắn gọn

nhưng sâu sắc, những câu thơ này đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin

mãnh liệt vào cuộc sống. Và bởi vậy, thơ Tuyết Nga còn là thơ của niềm tin, thơ

của lòng nhân hậu, thơ của sự thanh khiết.

Ở bài thơ Xem vở kịch “Người đi ngược chiều gió”, tác giả viết:

Nỗi đau không qua như xúi quẩy của một ngày

nỗi khổ không qua như rủi ro phút chốc

So sánh nỗi đau với những xúi quẩy của một ngày khiến ta cảm nhận được sự

tồn tại dai dẳng, ám ảnh của nỗi đau. Hơn thể nữa qua phép so sánh này phải

chăng Tuyết Nga còn muốn khẳng định rằng dường như nỗi đau đang gieo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

75

những sợ hãi, mệt mỏi cho con người nhưng con người thì không thể vứt bỏ nó

được. Còn nỗi khổ cũng tồn tại dai dẳng, cũng gây ám ảnh sâu sắc cho con

người mà con người thì bất lực, không thể sua đuổi được nó. Có thể thấy những

so sánh Tuyết Nga đang sử dụng có một hàm lượng trí tuệ rất cao và nó tạo ra

những hiệu quả thẩm mỹ lớn cho thơ chị.

Nhờ có những so sánh, liên tưởng độc đáo ấy mà Tuyết Nga đã mang đến

cho thơ mình những vẻ đẹp vừa dung dị, vừa đằm sâu, vừa giàu chất nữ tính mà

vẫn rất hiện đại. Mặt khác, các so sánh cho ta thấy tâm hồn tinh tế, nhạy cảm,

thế giới quan phong phú, đa dạng của Tuyết Nga. Khi làm thơ chị từng tâm sự

rằng chị thường có cái nhìn cuộc sống khác với mọi người. Có lẽ bởi vì thế mà

để cắt nghĩa hiện thực cuộc sống theo cách riêng của mình chị đã tìm đến với

những so sánh. Những so sánh dẫn dắt ta vào với thế giới riêng của chị, đồng

cảm, sẻ chia và buồn vui cùng chị. Và rồi, chính chúng ta lại tìm thấy mình

trong đó. Đó là sức mạnh mà Tuyết Nga đã làm được từ thơ ca.

3.3.2. Biện pháp nhân hóa

Bằng những liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Tuyết Nga đã khoác lên

thế giới vạn vật vô tri, vô giác của thơ mình màu sắc của sự sống sinh động,

phong phú, đầy biến ảo thông qua nghệ thuật nhân hóa. Đây là thế giới trong

những ngày cuối xuân:

Giấc ngủ choàng chiếc khăn san đen

lên tất cả đất trời

(Không đề 1)

Ngày cuối xuân với không khí tối tăm, u ám được nhân hóa như một giấc

ngủ choàng lên mình chiếc khăn san đen, vạn vật và bầu trời trong phút chốc

bỗng chìm trong cô đơn, trong buồn tủi. Nó rất phù hợp với hình ảnh “ trái tim

buồn như một trái cây rơi”.

Và thế giới tình yêu qua lăng kính, qua cặp mắt yêu đương của thi sĩ cũng

mang trong mình một câu chuyện sinh động với Ảo giác 1:

Một hoàng hôn

Rong chơi khoác chiếc áo Cô đơn phong phanh gió lạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

76

lang thang trước ngõ nhà em.

Một chiều mưa

Tham lam sụp chiếc mũ Khổ đau

co ro nép vào cánh cửa nhà em.

Rong chơi, Cô đơn, Tham lam, Khổ đau vốn là các trạng thái sống, trạng

thái tâm lý của con người đã được nhà thơ nhân hóa khoác cho chúng những

hành động, suy nghĩ như con người do vậy ta thấy được sự vận động của chúng

trongthế giới này. Tất cả chúng như luôn hiện hữu quanh cuộc sống của chúng

ta, chỉ cần một phút bất giác là chúng sẽ ùa vào ngôi nhà nhỏ bé của chúng ta,

lẩn khuất và tồn tại trong đó. Vậy nhưng, khi con người đủ tỉnh táo, đủ bản lĩnh

“ nhóm lên từ đống thời gian mệt mỏi, lụi tàn/ một ngọn lửa kham khổ” thì

chúng sẽ phải thất bại “Và Rong chơi đã khoác mình lên giá... Và Tham lam tự

treo mình lên chiếc đinh lạnh buốt”. Cuộc chạy đua để đánh bại khổ đau, tham

lam, cô đơn của con người được tái hiện thật sinh động qua thế giới nhân vật

thật khác thường. Chính bởi vậy, đọc bài thơ ta như bị lạc vào một thế giới huyền

ảo và khi đi qua thế giới huyền ảo ấy ta đã tìm được một món quà quý giá của cuộc

sống này. Đó là niềm tin, là tình yêu đối với cuộc sống.

Trong thế giới thơ Tuyết Nga ta còn bắt gặp vô vàn những hình ảnh thiên

nhiên, vạn vật được thi vị hóa, nhân hóa như “lá cây lặng lẽ vàng”, “sông trong

như đứng yên/ nỗi cồn cào lắng lại”, “niềm khắc khoải của chiếc lá úa”, “sự

quẫy cựa của những đốm nắng”, “Huế hiện ra thanh thoát đến ngỡ ngàng”,... .

Mượn tâm trạng, hành động của con người để xây dựng đời sống sinh động của

thiên nhiên, vạn vật vốn không phải là mọt phương thức viết mới trong thơ ca.

Tuy nhiên điểm đặc sắc ở Tuyết Nga là chị đã làm cho thế giới ấy đẹp hơn, cụ

thể hơn nhờ những chuyển biến tinh tế, lắng sâu. Tuyết Nga dường như đã làm

sống dậy mọi giác quan của thế giới tự nhiên, đã truyền được cho thế giới ấy

những cái nhìn, những cái lắng nghe nhạy cảm đến nao lòng của người phụ nữ

và người thi sĩ.

Cùng với thiên nhiên thì trái tim cũng được chị nhân cách hóa để thổi vào

nó sinh khí của sự sống. Cụ thể như trái tim nhỏ bé, bị bủa vây bởi những lo âu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

77

sợ hãi trong Ảo giác 2“ trái tim co ro nhón gót hãi hùng” hay trái tim với nhịp

đập thất thường mang theo những thấp thỏm, chờ mong, hy vọng của người

thiếu nữ trong Mẹ chẳng thể nào “nhịp tim đập thất thường lồng ngực” hoặc

“trái tim buồn như một trái cây rơi” trong Không đề 1, và còn rất nhiều những

nhân hóa về trái tim mà trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi xin được không

chỉ ra.

Chính những phép nhân hóa trên đã cho phép Tuyết Nga khám phá sâu hơn

thế giới vạn vật xung quanh mình, đồng thời kéo gần thế giới ấy về phía con

người. Hơn thế nữa, nghệ thuật nhân hóa còn cho ta thấy thế giới nội tâm sống

động và thế giới tâm hồn, nhạy cảm, tinh tế và gắn bó thiết tha với cuộc đời của

Tuyết Nga.

3.3.3. Biện pháp ẩn dụ

Nghệ thuật ẩn dụ được Tuyết Nga vận dụng linh hoạt, sáng tạo để tạo ra

những hình ảnh thơ gây ám ảnh, có sức gợi lớn lao.

Ở bài thơ Rồi một ngày..., Tuyết Nga có đoạn thơ kết như sau:

Em nói những lời chợt đến trên môi

và anh quay đi

lưng chừng ký ức...

rồi một ngày bạc trắng ngoái tìm nhau

cả trời thu mục nát

cả biển sóng đã tan thành cát

miên man năm tháng vô thường.

Cái hay của đoạn kết này là đã tạo ra được một không gian tình yêu huyền

hoặc thực hư không phân biệt. Cái đẹp của đoạn thơ là đã tạo ra được một cảm

giác chới với, hẫng hụt và không ít những niềm đau. Niềm đau ấy được ẩn chứa

trong chính các hình ảnh ẩn dụ như “ bạc trắng ngoái tìm nhau”, “ trời thu mục

nát”, “ biển sóng đã tan thành cát”. Nó biểu trưng cho nỗi niềm day dứt, đau

đớn, khát khao kiếm tìm của người con gái, của em khi giấc mơ và những ký ức

về anh vụt tắt. Tuyết Nga không trực tiếp bộc lộ tâm trạng của em mà tâm trạng

của em cứ được giãi bày trên trang sách.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

78

Hoặc như ở bài Ảo giác 2, Tuyết Nga cũng có một đoạn kết đầy dư vị:

Lời ta là những mảnh thủy tinh rơi mãi

trái tim co ro nhón gót hãi hùng

máu rỏ xuống âm thầm kỷ niệm

những giọt màu rong rêu.

Hình ảnh trái tim co ro hay máu rỏ xuống âm thầm thực chất là những ẩn

dụ cho chính tâm trạng con người. Con người ấy cũng đang trải qua những giây

phút đớn đau, khổ ải, đang bất lực trước thực tại cuộc sống. Nỗi buồn, sự tuyệt

vọng của Ảo giác 2 vì thế mà trở nên sâu thẳm hơn, buốt nhói hơn.

Nói về nghệ thuật ẩn dụ trong thơ Tuyết Nga, chúng tôi không thể không

nhắc tới bài thơ Ký ức. Ký ức là câu chuyện về thân phận người con gái đầy ám

ảnh và nhà thơ đã mở đầu bài thơ với những hình ảnh thơ đầy ẩn ý:

Có một cơn mưa mười lăm năm chưa tạnh

mòn cả vai gầy.

Cái cơn mưa 15 năm chưa tạnh ấy thực chất là một ẩn dụ. Nó dẫn ta đến với

cuộc đời phiêu bạt chìm nổi, bơ vơ đầy nước mắt của nàng Kiều- người con gái

đức hạnh mà bạc phận. Bởi vậy, ngay từ đầu bài thơ Tuyết Nga đã khéo léo dẫn

dắt người đọc vào câu chuyện về thân phận đầy ám ảnh của mình và rồi kết thúc

bài thơ chị tự bạch:

Mười lăm năm

một thoáng quay đầu

trên môi bạn đã nụ cười thiếu phụ

thôi ta đi cùng nhau thêm một lần cuối nữa

rồi mỗi đứa về một nẻo chợ trưa.

Như vậy, ẩn dụ là một biện pháp nghệ thuật được Tuyết Nga sử dụng thành

công để chuyển tải những câu chuyện về cuộc đời, đặc biệt là những câu chuyện

về thân phận con người. Màu sắc nữ tính trong thơ chị vì vậy được nâng lên

thêm một tầm mới.

3.4. Giọng điệu

Theo từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

79

Khắc Phi thì “giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của

nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách

xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ gần xa, thân, sơ,

thành kính, suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Ngoài ra giọng điệu còn phản ánh

lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò

rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho

người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác

phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật”[45, tr.48].

Theo Nguyễn Đăng Điệp thì giọng điệu trong thơ trữ tình chủ yếu mang

tính chất đơn thanh và thấm đẫm chất chủ quan vì đối tượng của thơ ca chính là

thế giới nội tâm của người thi sĩ. Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan

trọng của chủ thể tác giả. Trong văn học giọng điệu được biểu hiện qua các

phương thức. Trước hết giọng điệu gắn với thể chất, đặc điểm tâm hồn nghệ sĩ

và đối tượng được miêu tả. Giọng điệu trong thơ được biểu hiện ở nhiều cấp độ

khác nhau, bao gồm giọng điệu trong tác phẩm, giọng điệu nhà thơ, giọng điệu

thời đại.

Điểm qua một số gương mặt nữ tiêu biểu trong thơ hiện đại Việt Nam,

chúng ta thấy mỗi người đều có một giọng điệu riêng. Với Xuân Quỳnh thì đó là

giọng điệu muôn màu, muôn vẻ, khi dịu dàng hát ru, khi ngọt ngào thủ thỉ, khi

ráo tiết tìm kiếm,… nhưng chủ đạo nhất vẫn là giọng giãi bày, bọc bạch lo âu,

luôn day dứt, khắc khoải:

- Tuổi thơ tôi lạc giữa dòng đời

Như cánh chim bơ vơ mất tổ

Tuổi thơ tôi trong vạt áo của bà

Chuyện cổ tích chẳng xua tan nỗi khổ.

(Tiếng mẹ)

- Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

Hôm nay yêu mai có thể xa rồi

Niềm đau đớn tưởng như vô tận

Bỗng có ngày thay thế một niềm vui.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

80

(Nói cùng anh)

Với Đoàn Thị Lam Luyến đó là giọng giãi bày, tâm sự:

“Lần đầu người yêu tôi/ Dẫn tôi về thành phố/ Đôi dép mất trên tàu/ Chân

không đi đường nhựa,/ Bát cháo quán gốc đa/ Vị ớt cay cháy cổ.../ Đã mười mấy

năm rồi/ Tôi được làm dâu mẹ/ Từ trưa kho cháy cá/ Tôi bỏ chạy lên đồi/ Dòng

sông ngăn tôi lại/ Để thương mẹ một đời!/ Ai biết một mai rồi/ Sẽ chia lìa đôi

ngả?/ Mẹ ta cũng qua đời/ Giữa một ngày buốt giá.../ Tôi trở về thành phố/ Nào

khác với xưa đâu: / Tóc đã bạc trên đầu/ Trán lằn ngang vất vả/ Chẳng vợi đi

nỗi đau/ Chỉ dày thêm nỗi nhớ!/ Tôi ngược về thành phố/ Quá khứ của riêng tôi/

Nỗi đau cả đời người/ Đâu chóng lành da thịt/ Thành phố chẳng bao giờ/ Tôi

nói lời từ biệt!” (Thành phố không bao giờ từ biệt)

và ngậm ngùi, suy ngẫm:

- Phù sa chỉ đắp bên bồi

Trái tim phiêu lãng biển trời nhớ thương

Em như cơn gió lạc đường

Theo anh lỡ cả mười phương lấy chồng!

(Đa mang)

Trở lại với Tuyết Nga, qua ba tập thơ chị đã xuất bản, ta có thể nhận thấy

Tuyết Nga đã mang đến cho thơ đương đại Việt Nam một giọng thơ nồng nàn,

sâu lắng, thiết tha và nhân hậu, chan chứa yêu thương.

3.4.1. Giọng thơ nồng nàn, sâu lắng, thiết tha

Dù viết về tình yêu, tình quê hương, viết về chính mình hay viết về những

vấn đề đang diễn ra trong đời sống xã hội thì ta cũng thấy Tuyết Nga vận dụng

khá thành công giọng điệu này. Trước hết là ở việc chị tạo ra những đối thoại

theo cấu trúc lời gọi, lời xin thiết tha, sâu lắng, khẩn khoản:

- Ơi mặt trời mùa đông, gió lành ngày nắng hạ

chậm về xin đợi đến mùa sau.

- Chậm rồi xin đừng đến bên em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

81

anh của hôm qua hoa mùa thu trước.

(Hoa mùa thu trước)

Thiên nhiên mùa hạ, mùa đông được nhân hóa trở thành người bạn tâm tình để

em giãi bày, thổ lộ niềm khao khát, mong mỏi thiết tha của mình. Đó là khát

khao được níu giữ dòng thời gian đang trôi, níu giữ những gì đẹp nhất bên cạnh

mình. Những câu thơ của Tuyết Nga gợi ta nhớ tới niềm khát khao trong Vội

vàng của Xuân Diệu thuở nào “ Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đùng nhạt mất/

Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi”. Thế nhưng khác với Xuân

Diệu, Tuyết Nga không ồn ào, không xô bồ, chị nói về khát vọng của mình một

cách nhẹ nhàng mà đằm thắm, sâu lắng qua cặp từ “ ơi...xin...” đầy nữ tính.

Và trong nhiều bài thơ khác ta cũng bắt gặp lối tổ chức lời thơ như thế:

- Lang thang đi đâu nữa

ơi nỗi buồn của em.

(Tháng chín)

- Ơi ông lão Thần Nông và con Vịt Trắng

xin cho em được hình dung.

(Sao Thần Nông)

- Ơi cánh đồng bốn mùa khuya sớm cuộc đời ta

xin chấp nhận

chẳng cần đánh đổi

(Đường số phận)

- Nụ tầm xuân xanh biếc

xin hãy kể cho ta về những tháng năm dài

(Hoa tầm xuân)

Đối thoại với thiên nhiên, với con người và cuộc sống, coi vạn vật quanh

mình là những người bạn tri âm, tri kỷ Tuyết Nga đã thổi vào những câu thơ của

mình một lối nói nhẹ nhàng như lời tâm sự tự nhiên, thủ thỉ, tâm tình nhưng

chính cách nói ấy đã đưa những câu thơ của chị đến với độ đằm sâu, thiết tha mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

82

sâu lắng.

Giọng điệu thiết tha, sâu lắng còn được thể hiện qua cách dùng câu hỏi để

tạo dư âm, chất vấn đầy hoài nghi: “Rặng tầm xuân lặng lẽ tự bao giờ / xanh

đơn giản và cũ càng/ như đất/ ta chợt nhận ra hoa hay hoa đã nhặt ta về trong

một chiều xanh ngắt?/ hay ta già nua?” (Hoa tầm xuân). Có thể nhận thấy đây

là một trong những đoạn thơ Tuyết Nga đã sử dụng thành công nhiều biện pháp

nghệ thuật như so sánh, nhân hóa và đặc biệt là các câu hỏi tu từ. Liên tục hai

câu hỏi để ngỏ. Tuyết Nga hỏi vào hư vô và cũng là tự hỏi mình. Các câu hỏi

dồn nén bao cảm xúc và các câu hỏi cũng dẫn ta vào một miền hư ảo. Miền quá

khứ xa xăm đưa chị trở về với tình mẫu tử “Hãy nói với ta hương bưởi thơm ra

sao ngày Mẹ 18 tuổi/ 18 tuổi tóc dài vai nhỏ mắt huyền trong”.

Hoặc trong bài Mùa nồng nàn, Tuyết nga viết: “Nếu cánh rừng ấy vẫn

còn hoang vu nếu sườn nắng ấy cỏ vẫn thẫn thờ/ anh có về như gió?/ Nếu con

đường ấy gió chưa qua đời nếu ngôi chùa ấy / chuông vẫn buông lời/ anh có về

như nắng?”. Ở đây chị đã đặt ra các tình huống giả định “nếu...” cùng với các

câu hỏi thể hiện niềm mong mỏi, sự kiếm tìm, niềm khát khao có anh ở bên một

cách kín đáo nhưng không kém phần mãnh liệt. Quả thực, Tuyết Nga không xô

bồ, không lên giọng, không gồng mình lên trước những cảm xúc trào dâng trong

lòng mình như Vi Thùy Linh trong Người dệt tầm gai: “Anh yêu của em/ Em

yêu Anh cuồng điên/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung ký ức” hay Phan Huyền Thư

trong Điệp khúc sáng mùa đông: “Vết xước đang lên da non/ vảy huyết tim đen/

em cào ngực/ không có anh trong da thịt”. Bởi vậy, trong dòng chảy của thơ

đương đại ta vẫn tìm thấy ở thơ Tuyết Nga vẻ đẹp riêng, thùy mị và kín đáo của

người con gái Việt Nam.

Và còn rất nhiều các câu hỏi như thế được chị sử dụng trong các đối thoại và

độc thoại. Cụ thể như:“ngày mai...ngày mai như bờ dòng sông lạ/ biết cát trắng,

đồng xanh hay vách đá?” (Thành thực), “Sương xuống, nắng lên cây lớn nhọc

nhằn / ngọn gió trở vườn khuya, trái thơm rơi xuống đất/ lời ru làm sao còn dỗ

được?/ Tiếng sấm ra sao thì cái đói đến nhà? ngọn cỏ ra sao thì chân đê ngập

lũ?” (Viết trước tuổi mình), “ Đâu chiếc cần cong?/ đâu hình con vịt?/ đâu dáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

83

người lầm lụi trước dòng sông?” (Sao Thần Nông), “Bức thư chờ đến chậm/ nói

gì cùng xa xôi?” (Tháng chín), “chim gì kêu xa?/ bóng gì mặt nước?/ nhánh lúa

gầy giữa gió đứng xanh.” (Đường số phận), “Lẽ nào lại hát ru con / bằng những

lời cũ kỹ/ về vầng trăng triệu tuổi vẫn còn non/ còn như chưa biết vuông,

tròn?”(Đi tìm lời ru), “ bóng tối xô ngang, vòm trời xô lệch/ anh hay dáng hình

khát vọng trước thời gian?”(Xem vở kịch câm “ Người đi ngược chiều gió”),...

Có những câu hỏi Tuyết Nga hướng vào không gian, có những câu hỏi chị

hướng vào thời gian và cũng có câu hỏi chị hướng vào lòng người. Những câu

hỏi ấy không phải để cần một câu trả lời mà hỏi là cách để Tuyết Nga giãi bày

lòng mình. Dạng thức câu hỏi khiến những câu thơ của chị không êm đềm xuôi

đi theo từng con chữ mà lắng lại nơi người đọc những băn khoăn, những trăn trở

day dứt khôn nguôi.

Một điểm cũng mang đậm màu sắc Tuyết Nga, đó là chị rất hay sử dụng từ

“thôi”:

- Nào thôi...sắp hết mùa đông

quanh ta sẽ lại một vùng lộc non.

(Ru mình)

Quả là Tuyết Nga rất biết ru mình và rất biết an ủi người, “ nào thôi” chứ không

phải “ thôi nào” như ta thường thấy. “ Nào thôi” là chấp nhận mà vẫn không

khỏi dùng dằng, luyến tiếc. Và từ “ thôi” còn được hiện hữu với vô vàn sắc thái

ý nghĩa khác nhau nữa trong thơ chị, kiểu như:

- Không thể nào chối bỏ phút ra đi

thôi em tin cùng anh niềm tin can đảm ấy.

(Viết trước tuổi mình)

- biết nhờ ai nhóm dùm lên ngọn lửa

thôi em sẽ về vào lúc chiều buông.

(Tự khúc)

- thôi ta đi cùng nhau thêm một lần cuối nữa

rồi mỗi đứa về một nẻo chợ trưa.

(Ký ức)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

84

- thôi anh hãy xem nụ cười bình thản

với ngọn gió buồn đâu đó nữa là tôi.

(Thơ tặng họa sĩ về chân dung)

- thôi em...thôi em...

dòng sông đã chảy

(Dòng sông đã chảy)

Đã có rất nhiều lời bình về những từ “ thôi” trong thơ Tuyết Nga. Nguyễn

Đăng Điệp rất tinh ý và nhạy cảm khi cho rằng “ thôi là khép đấy nhưng cũng là

mở đấy...trong cái chữ thôi bình dị kia vì thế chứa bao nỗi niềm của một thời

con gái, của cả cái ngày ta ngoái về thuở xưa với ánh nhìn nuối tiếc Vẻ gì một

mớ trầu cay”. Còn Nguyễn Trọng Tạo cũng bình như sau:“ Khá nhiều bài thơ

của Tuyết Nga mà đoạn kết thường xuất hiện một chữ “ thôi” như một thái độ

không cố chấp, vị tha, ôn hòa hay thủ phận. Cũng có khi chữ “ thôi” mang ý

nghĩa kiêu bạc và buồn”. Quả là một từ “ thôi” trong thơ Tuyết Nga cũng đáng

để ta day dứt, suy ngẫm, tưởng tượng, đắm chìm vào thế giới nghệ thuật của chị.

Nó tạo cho các câu thơ một dư âm, một giọng điệu sâu lắng, thiết tha không hòa

lẫn giữa dòng chảy xô bồ của chữ nghĩa thời hiện đại.

Như vậy, giọng điệu thơ nồng nàn, sâu lắng, thiết tha của Tuyết Nga đã tạo

cho chị một chỗ đứng riêng, tạo cho thơ chị một dư vị riêng. Và từ giọng điệu ấy

thơ Tuyết Nga trở thành một loài hoa tỏa ra thứ hương thơm đằm thắm, thanh

quý mà ấm áp tình người.

3.4.2. Giọng thơ nhân hậu, chan chứa yêu thương

Không chỉ nồng nàn, thiết tha, sâu lắng, thơ Tuyết Nga còn là thơ của một

gam giọng nhân hậu hướng về tình yêu, cuộc sống và cõi người. Đặc biệt là

những bài thơ Tuyết Nga viết về tình yêu, viết cho con gái, viết cho những đứa

trẻ bất hạnh.

Viết về tình yêu, Tuyết Nga không xây dựng những mối tình đẹp, lãng mạn

với những kết thúc có hậu. Chị cũng không viết về tình yêu như một dòng chảy

mãnh liệt, cuộn xiết hoặc gắn với thân xác, dục tính như nhiều bạn thơ cùng

thời. Tình yêu trong thơ chị là những mối tình chợt dềnh lên như ngọn lửa nhỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

85

giữa sa mạc hoang lạnh. Và ẩn sâu trong những bài thơ ấy là tấm lòng nhân hậu,

bao dung, vị tha của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện qua những câu thơ

với giọng điệu nhân hậu, bao dung.

Viết trước tuổi mình có thể coi là một bài thơ có tính tuyên ngôn cho trái

tim người con gái mới lớn. Người con gái ngây thơ ấy chợt nhận ra tình yêu đến

khi anh đột ngột xuất hiện:

Anh hiện ra như lối rẽ đường đi

đột ngột chia chân trời thành hai ngả

khóm trúc đổi màu giữa ba bề gió thổi

giá đặt được lòng tay vào ngày tháng sắp đi qua.

Và cũng như những người con gái khác, cô gái cũng mong ước, nguyện

cầu cho tình yêu được mãi bên mình, mong ước cho những ngày tháng đẹp đẽ

của tình yêu đừng trôi chảy. Thế nhưng, với những dự cảm của trái tim nhạy

cảm người con gái hiểu rằng sẽ có ngày tình yêu ấy sẽ ra đi, sẽ tan biến “ không

thể nào chối bỏ phút ra đi”. Đứng trước thời khắc ấy, con tim lí trí không phải

mù lòa cũng không phải không thắng được lý trí song Tuyết Nga vẫn quyết định

“ thôi em tin cùng anh, niềm tin can đảm ấy”. Dù vẫn còn phân vân, vẫn còn

dùng dằng song trái tim yêu vốn nhân hậu, bao dung của người phụ nữ đã gạt đi

tất cả để tin và yêu.

Trong chùm thơ Độc thoại mùa thu, Tuyết Nga đã viết về sự sống, viết về

tình yêu, viết về tháng chín và viết cho chính mình. Trong số đó những câu thơ

trong Sự sống đã thể hiện rõ cái nhìn lạc quan, tin tưởng và nhân hậu của thi

nhân “Sự sống chẳng thể nào tàn lụi”. Và từ những chiêm nghiệm về sự sống,

Tuyết Nga khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng tình yêu:

Tình yêu lại về như trời của mùa xuân

bắt đầu màu hoa

bắt đầu ngọn gió

tim lặng lẽ như trái vàng trong cỏ

rụng xuống rồi, một sớm lại hồi sinh.

Cái nhìn đậm màu nhân bản, nhân văn ấy đã gieo vào lòng người đọc niềm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

86

tin yêu, lạc quan trong cuộc sống. Đặt bài thơ trong bối cảnh ra đời của nó là

những năm 80, 90 của thế kỷ XX- giai đoạn mà chúng ta đang khủng hoảng

niềm tin thì những một sự lạc quan, tin tưởng là cần thiết và có ý nghĩa biết bao

đối với thế hệ trẻ. Thổi vào lòng người những tin yêu chính là một phương diện

bộc lộ quan trọng của tư tưởng nhân ái, bao dung. Và những nhân ái, bao dung

ấy ta gọi là nhân hậu.

Ở một bài thơ khác viết về tình yêu, bài Và em đi qua mùa đông Tuyết Nga

khẳng định sức mạnh tình yêu của anh bằng những lời thơ nồng nàn, say đắm “

Tình yêu của anh chiếc kén bọc em qua mùa đông”. Câu thơ so sánh ngắn gọn

nhưng ẩn sau đó là niềm tin sâu sắc, là sự trân trọng, nâng niu tình yêu của anh-

một người tình lý tưởng đã theo chị trong suốt các trang thơ tình. Tình yêu ấy đã

bao bọc, bảo vệ chị qua những ngày mùa đông băng giá “ vần vũ bên ngoài/ ngọn

gió căm căm thổi qua hàng trăm cánh đồng sau mùa vụ/ rơi rớt bên ngoài/ giọt

sương hóa lỏng triệu triệu những bốc hơi”. Tình yêu ấy cũng giúp chị vượt thoát

khỏi những héo úa, những rơi rụng, tàn phai “Tình yêu của anh chiếc kén bọc em

qua mùa đông/ chới với bên ngoài/ niềm khắc khoải của chiếc lá úa/ nỗi lo âu

những mầm cây lỡ cược với mùa màng”. Và tình yêu ấy đã làm trái tim người

phụ nữ thêm một lần sơ sinh “Trong thế giới được dành riêng/ trái tim thêm một

lần sơ sinh”. Yêu và tin tưởng ở tình yêu, người yêu là một điều cần thiết.

Không chỉ viết nhiều về tình yêu, Tuyết Nga còn viết nhiều thơ cho con gái

và cho trẻ thơ. Trong đó, đặc biệt chú ý là chùm thơ Viết cho Chíp. Đây là chùm

thơ mà chị viết để dành tặng riêng cô con gái yêu của mình. Chùm thơ gây xúc

động đặc biệt với người đọc không chỉ bởi tình yêu con nông nàn, hình ảnh thơ

trong trẻo mà còn bởi Viết cho Chíp có giọng điệu như lời tâm tình, trò chuyện

ngọt ngào, tha thiết. Khi Tuyết Nga Nói với con về bà ngoại, mở đầu bài thơ chị

viết “Con sẽ như giọt nắng/ trước hiên bà mùa đông/ giọt nắng tìm kim/ giọt

nắng quét nhà/ giọt nắng sún răng lò cò quanh cửa/ giọt nắng ỷ eo theo bà đi

chợ/ lễ mễ khiêng cả chiếc bánh đa vừng”. Dù là viết cho con nhưng đọc lên

mỗi người lại như thấy lại những ký ức tuổi thơ ngày nào của mình khi lớn lên

trong vòng tay nâng niu, che chở của bà, của mẹ. Ví con với giọt nắng mùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

87

đông- giọt nắng ấm áp, hiếm hoi và xua tan đi những lạnh lẽo, xám xịt của bầu

trời lạnh giá, giọt nắng đem đến cho con người những luồng sinh khí mới,

dường như trong cái nhìn của người mẹ trẻ đứa con chính là tia nắng ấm áp nhất,

tươi vui nhất của cuộc đời. Không những vậy, Tuyết Nga còn viết “Con sẽ như

chú mèo nhỏ cuối vườn”, “ con sẽ như.../ như chú còn còi”. Những câu thơ tự

nhiên, không bị bó buộc bởi những quy tắc, niêm luật vần vèo tạo nên sự thân

thuộc, tự nhiên mà lấp lánh ánh sáng của tình yêu thương, của niềm hạnh phúc

vô bờ. Đặc biệt ở những câu kết chị đã nói được sự hóa thân của tình cảm gia

đình thiêng liêng truyền nối qua các thế hệ:

Dù con sinh ra bà không còn nữa

nhưng bà yêu con từ xửa từ xưa

bà gửi cho con hoa trái mùa thu

đàn ong tháng 3

ông trăng tháng 6

bà gửi cho con

mẹ

và câu hát...

mai con lớn rồi vẫn đủ để yêu thương.

Những câu thơ thấm đẫm chất nữ tính của chị có sức mạnh nhập thẳng vào

nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, khẳng định một chân lý rằng mỗi đứa

trẻ thơ đều là một thiên thần bé nhỏ nối kết yêu thương. Bài thơ thiết tha mà

nhân ái, nhân hậu biết bao.

Càng nhân hậu, bao dung hơn khi Tuyết Nga trải lòng mình trong Mẹ

chẳng thể nào.... Người mẹ khi sinh con ra là đã cho con một hình hài, một sự

sống và hơn thế nữa mẹ còn cho con tất cả tình yêu, sự hy sinh. Cả cuộc đời dài

những lo toan, vất vả của mẹ cũng là vì con. Thế nhưng một ngày nào đó, khi

con khôn lớn, biết yêu thương, biết giận hờn vu vơ thì người mẹ hiểu ra rằng

con đã trưởng thành. Bên cạnh niềm vui thì Tuyết Nga cũng như những người

mẹ khác không khỏi có đôi phút chạnh lòng. Đó là tâm lý tự nhiên. Và ở đây,

Tuyết Nga dường như nói hộ mình thì ít mà nói hộ con thì nhiều tiếng lòng an ủi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

88

“ nhưng mẹ biết mọi buồn vui con có/ sẽ bắt đầu từ đâu đó giữa mênh mông.”

Viết về trẻ thơ Tuyết Nga cũng có những câu thơ rất hay cho những đứa trẻ

khiếm thị. Đó là trường hợp Mắt:

Nếu không thử một ngày nhìn bằng đôi mắt em

tôi đâu hay trong cơn mưa mầm cây lại hồng hào đến thế

ước nguyện của đất đai cỗi cằn dâng lên náo nức

những âm thanh tỏa hương.

Chúng ta vẫn biết rằng, để có thể nhìn ngắm vạn vật xung quanh chúng ta

cần có đôi mắt “ giàu đôi con mắt”. Thế nhưng đâu đó quanh chúng ta lại có

những người phải chịu thiệt thòi khi không may bị tạo hóa không ban cho họ đôi

mắt nhìn. Cuộc sống của họ đến đây có vẻ như tăm tối, vô nghĩa nhưng không

phải thế. Với tâm hồn đôn hậu của người phụ nữ Tuyết Nga đã nhìn ra đôi mắt

thứ hai của các em nhỏ khiếm thị, đó là đôi mắt của trái tim, tâm hồn và cái nhìn

bằng trái tim, tâm hồn mới là đáng quý. Con người ta chỉ thực sự không nhìn

thấy khi vô cảm “ lòng vô cảm nghĩa là ngày cũng hết”. Chị đã động viên, an ủi

những đứa trẻ ấy bằng những lời tâm tình:

Nếu trái tim không mù lòa

quờ tay là thấy được hồn nhau

thấy được cả giấc mơ côn trùng dấu dưới nhành cỏ biếc...

Rõ ràng rằng cái nhìn cuộc sống của Tuyết Nga luôn rất góc cạnh và rất

nhạy cảm. Tâm hồn đôn hậu, gắn bó thiết tha với cuộc sống đã mang đến cho

thơ chị giọng điệu nhân hậu, nhân ái, bao dung đến vô cùng. Đó phải chăng

cũng chính là tiếng nói của lòng nhân hậu, nhân ái bao la mà Tuyết Nga muốn

đem đến cho đời.

Như vậy, qua khảo sát và phân tích chúng ta thấy Tuyết Nga là nhà thơ của

lòng nhân hậu, bao dung, là nhà thơ của giọng điệu thiết tha, sâu lắng, nồng nàn

mà nhân hậu. Tính chất đa giọng điệu này đã tạo cho thơ chị một chỗ đứng riêng

trong dòng chảy của thơ Việt hiện đại hôm nay. Đồng thời khẳng định phong

cách nghệ thuật riêng của Tuyết Nga, đó là tiếng thơ nữ tính dịu dàng, dịu ngọt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

89

và đằm thắm.

KẾT LUẬN

1. Thơ Việt Nam sau 1975 có thể chia làm hai giai đoạn nhỏ là giai đoạn từ

1975 đến 1986 và giai đoạn từ 1986 trở lại đây. Trong bối cảnh đất nước hòa

bình và hội nhập thơ đang phát triển theo các xu hướng: nhìn lại lịch sử và viết

về chiến tranh với cái nhìn phi sử thi, viết về cái tôi với những trăn trở, lo âu của

cuộc sống đời thường, đi vào những vùng mờ tâm linh, vô thức của con người,

xu hướng hiện đại và hậu hiện đại. Tham gia sáng tác thơ giai đoạn này không

chỉ là lự lượng các nhà thơ xuất hiện trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ mà

còn bao gồm cả lực lượng các nhà thơ xuất hiện sau 1975 và lớp các nhà thơ

8X- 9X.

2. Được xếp vào lớp các nhà thơ xuất hiện sau 1975 đến nay Tuyết Nga đã

đóng góp cho thơ đương đại ba tập thơ gồm Viết trước tuổi mình (1995), Ảo giác

(2002) và Hạt dẻ thứ tư (2008). Với quan niệm nghệ thuật thơ là tiếng nói dạt

dào cảm xúc của cái tôi cá nhân và thơ mang đậm dấu ấn của người sáng tạo,

Tuyết Nga đã mang đến cho thơ những tiếng nói trữ tình qua lăng kính của cảm

xúc dạt dào và qua thơ chị ta cũng nhận thấy những bài thơ viết theo dòng cảm

xúc trào dâng cũng chính là những bài thơ thành công nhất. Cũng qua thơ ta đọc

được quan niệm về con người của chị. Với Tuyết Nga con người trước hết phải

là người gắn bó mật thiết với mọi bước chuyển mình của thời gian, đồng thời

cũng gắn bó thiết tha với thiên nhiên, quê hương đất nước, cuộc sống muôn

màu. Đó còn là con người không bao giờ tách mình khỏi tình yêu. Tuy nhiên,

trong khi nhiều các nhà thơ nữ cùng thời viết về tình yêu với cái nhìn đậm màu

xác thịt, dục tính thì Tuyết Nga vẫn theo đuổi một tình yêu tinh khiết, trong

ngần. Ở đó tình yêu là một trái quả có ngọt bùi, có đắng cay, có mất mát, có khổ

đau, có buồn, có vui, có bi quan, có thất vọng và cũng có khi đầy hy vọng. Qua

những cung bậc khác nhau của tình yêu Tuyết Nga muốn khẳng định rằng dù

cuộc đời có đi về đâu thì tình yêu và thơ vẫn luôn là những điều không thể thiếu.

Một đặc trưng nổi bật nữa mà chúng tôi nhận thấy khi đến với thơ Tuyết Nga là

thơ chị chứa đựng cả những miền mong chờ ẩn dấu. Ở đó có một thế giới ảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

90

nhưng đó không phải là những ảo giác của thề giới tâm linh, của một miền địa

đàng nào đó mà thế giới ảo trong thơ Tuyết Nga được nuôi dưỡng, được dệt nên

từ những ký ức. Ký ức trong thơ Tuyết Nga đa phần là những ký ức buồn nhưng

le lói đâu đó ta vẫn thấy những giọt nắng chắt từ miền rong rêu . Ảo giác cũng là

lời tự thú, tự bạch về con người Tuyết Nga ở cả hai chiều hạnh phúc và khổ đau.

3. Về mặt nghệ thuật, đặc sắc trong thơ Tuyết Nga không chỉ ở những cách

tân mang dấu ấn hậu hiện đại hay những cách tân về thể loại mà còn là ở việc

chị đã xác lập cho thơ mình một hệ thống cấu tứ độc đáo, tiêu biểu là chị thường

đối lập giữa hiện thực và quá khứ, giữa hạnh phúc và khổ đau, tình yêu và bất

hạnh từ đó triển khai thi tứ, cảm xúc thơ một cách tự nhiên và rất lô gic. Đồng

thời hệ thống thi ảnh trong thơ Tuyết Nga cũng có khả năng gây ám gợi bề sâu

với những thi ảnh được dệt nên từ tâm hồn, trái tim người phụ nữ đôn hậu mà đa

đoan đã đi qua biết bao buồn vui, được mất của cuộc đời. Về mặt giọng điệu, thơ

chị vừa là tiếng thơ của những nồng nàn, say đắm, thiết tha lại vừa là tiếng thơ

nhân hậu, chan chứa yêu thương. Đi qua thế giới nghệ thuật thơ Tuyết Nga

chúng tôi nhận thấy thơ chị chính là tiếng nói của tâm hồn người phụ nữ nhạy

cảm, quyết liệt trong cuộc sống, là tiếng nói của trái tim người nghệ sĩ lãng mạn,

nhiệt huyết yêu đời và của khối óc người trí thức thông minh, sắc sảo. Hành

trình thơ mà Tuyết Nga đã và đang theo đuổi là hành trình của một tiếng thơ tinh

tế, đằm thắm, chan chứa yêu thương, tiếp nối mạch nguồn của thơ nữ truyền

thống nhưng mạnh mẽ, quyết liệt và táo bạo hơn, hiện đại hơn đồng thời cũng

không thể nhòa lẫn giữa dòng chảy xô bồ của thơ Việt đương đại. Qua đây,

chúng tôi có thể khẳng định Tuyết Nga là một trong những gương mặt tiêu biểu

của thơ Việt Nam hiện đại, thơ chị đã có những đóng góp nhất định cho thơ Việt

hiện đại cả về nội dung và hình thức thể hiện. Dù còn nhiều thiếu sót, nhất là về

mặt phương pháp nghiên cứu nhưng với đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ cung

cấp cho đọc giả yêu thơ một cái nhìn tương đối bao quát về thơ Tuyết Nga. Tất

nhiên, việc nghiên cứu thơ Tuyết Nga vẫn còn là một đề tài mở, hứa hẹn những

công trình có tầm vóc lớn hơn cho những người yêu quý, trân trọng tài năng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

91

nhà thơ Tuyết Nga.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thị Vàng Anh (2006), Gửi VB, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945- 1985, NXB KHXH, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội.

4. Nguyễn Bính (1986), Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội.

5. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội.

6. Hoàng Cầm (1994), Về Kinh Bắc, NXB Văn học, Hà Nội .

7. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam-tìm tòi và cách tân, 1975-1995,

NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

8. Hòang Trần Cương (1999), Trầm tích, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

9. Lâm Thị Mỹ Dạ (1998), Đề tặng một giấc mơ, NXB Thanh niên, Hà Nội .

10. Xuân Diệu (1971), Thơ thơ, NXB Sống mới, Sài Gòn.

11. Nguyễn Du (2013), Truyện Kiều, NXB Thời đại, Hà Nội .

12. Nguyễn Duy (1984), Ánh trăng, NXB tác phẩm mới, Hà Nội.

13. Tản Đà (2002), Tản Đà toàn tập, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội.

14. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.

16. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng,

NXB Văn học, Hà Nội.

17. Hegel, Mỹ học, tập 2, Phan Ngọc dịch.

18. Dư Thị Hoàn (1988), Lối nhỏ, NXB Hội văn nghệ Hải Phòng.

19. Bùi Công Hùng (1984), “Vài nét về thơ trong thời gian gần đây”, Tạp chí

Văn học, số 4.

20. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, NXB Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

21. Hoàng Hưng (1993), Người đi tìm mặt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội .

22. Đặng Đình Hưng (1994), Ô mai, NXB Hội nhà văn, Hà Nội .

23. Nguyễn Văn Hưng (2011), Thơ Trần Nhuận Minh, Luận văn thạc sỹ Ngữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

92

văn, ĐHSP Thái Nguyên.

24. Inrasara (2010), “Hạt dẻ thứ tư”, Báo Văn nghệ, số 27.

25. Bùi Văn Kha (2013), “Nữ thi sĩ “ Ảo giác” Tuyết Nga và thơ nguyên nghĩa”,

http://ngominhblog.wordpress.com.

26. Trần Hoàng Thiên Kim (2004), “Thơ mang lại cho tôi sự tự tin và ấm áp”,

Báo Văn hóa và Thể thao, số 24.

27. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

28. Phạm Thị Ngọc Liên (1992), Em muốn giang tay giữa trời mà hét, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội .

29. Vi Thùy Linh (1999), Khát, NXB Hội nhà văn, Hà Nội .

30. Nguyễn Thế Hoàng Linh (2002), Hoài nghi, NXB Hội nhà văn, Hà Nội .

31. Diệu Linh (2008), Báo Giáo dục và thời đại, số 23.

32. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975

những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội .

33. Đoàn Thị Lam Luyến (2003), Thơ Đoàn Thị Lam Luyến, NXB Hội nhà văn.

34. Ly Hoàng Ly (2006), Lô lô, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

35. Nguyễn Đăng Mạnh (2010), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB ĐHQG,

Hà Nội.

36. Lê Thị Mây (2006), Thương nhớ một người, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

37. Tuyết Nga (1992), Viết trước tuổi mình, NXB Nghệ An, Nghệ An.

38. Tuyết Nga (2002), Ảo giác, NXB Hội nhà văn Hà Nội, Hà Nội.

39. Tuyết Nga (2008), Hạt dẻ thứ tư, NXB Văn học, Hà Nội.

40. Ý Nhi (2000), Thơ Ý Nhi, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

41. Vũ Nho(2009), “Người đàn bà không nhìn đời bằng ảo giác”, Báo Văn nghệ, số 7.

42. Lê Thiếu Nhơn ( 2008), “Giải mã ảo giác thơ trẻ”, vannghesongcuulong.org.

43. Nhiều tác giả (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng .

44. Nhiều tác giả (2014), Lí luận văn học, tập 2, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

45. Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

46. Nhiều tác giả(1997), Văn học 1975-1985, Tác phẩm và dư luận, NXB Hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

93

nhà văn, Hà Nội .

47. Nhiều tác giả (2003), Thơ tình các nhà thơ nữ Việt Nam, NXB Hội nhà văn,

Hà Nội.

48. Lê Lưu Oanh(1992), Thơ trữ tình Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

49. Trần Quang Quý (2010), Báo Văn nghệ số 32.

50. Đỗ Quyên (2009), “Về một dòng thơ cần giải thích giá trị: trường hợp thơ

Tuyết Nga”, Tạp chí Nhà văn, số 2.

51. Xuân Quỳnh(1984), Tự hát, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

52. Nguyễn Trọng Tạo (2007), “Thơ Tuyết Nga, Ảo giác vết thương chìm”, Tạp

chí Văn hiến Việt Nam.

53. Hoài Thanh (1998), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

54. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB

Văn học, Hà Nội.

55. Thanh Thảo (2014), Những người đi tới biển, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

56. Nguyễn Quang Thiều (1992), Sự mất ngủ của lửa, NXB Lao động, Hà Nội.

57. Hữu Thỉnh (1979), Đường tới thành phố, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội .

58. Lưu Khánh Thơ (2003), Báo Phụ nữ chủ nhật, số 33.

59. Chu Thị Thơm (2011), “Có một thế giới thực trong cõi ảo”,

http://nguyentrongtao.info.

60. Chu Thị Thơm (2004), Từ cõi ảo, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

61. Phan Huyền Thư (2005), Rỗng ngực, NXB Văn học, Hà Nội .

62. Đặng Thu Thủy (2011), Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay

những đổi mới căn bản, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội .

63. Thủy Tiên (2009), “Thơ cần được cảm xúc dẫn dắt”, Báo Giáo dục và thời

đại Chủ nhật, số 8.

64. Bình Nguyên Trang(2012), “Tuyết Nga một mình góc khuất”,

http://lethieunhoncom.blogspot. com.

65. Hoàng Thị Xuyên (2010), Ý thức cá nhân trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn

1975-1995, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐH Sư phạm Vinh.

66. Lê Mỹ Ý (2004), “Trò chuyện với các “ Eva thơ” hôm nay”, Tạp chí Thơ, số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

94

7+8.